TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP Ở CÁC NƯỚC MỸ LA TINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên
: Ph¹m ThÞ Th¶o Linh
Lớp
:
Khoá
: 44
Giáo viên hướng dẫn
: Ph¹m Thanh Hµ
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STBH Số tiền bảo hiểm
TGBH Trị giá bảo hiểm
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
BHNN Bảo hiểm nông nghiệp
Na Không có thông tin
GDP Tổng thu nhập quốc nội
HTX Hợp tác xã
1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng số liệu:
Bảng 1: Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng) trên thế giới
Bảng 2: Thị phần thị trường bảo hiểm nông nghiệp trên thế giới
Bảng 3: Diện tích đất nông nghiệp ở một số nước Mỹ Latinh
Bảng 4: Cơ cấu lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp các nước khu
vực Mỹ Latinh
Bảng 5: Hậu quả do thiên tai ở khu vực Mỹ Latinh
Bảng 6: Thiệt hại do thiên tai ở Mexico trong giai đoạn 1990-2005
Bảng 7: Phí tái bảo hiểm trung bình của các công ty tái bảo hiểm
nông nghiệp
Bảng 8: Phí bảo hiểm trung bình cho một số loại cây trồng
Bảng 9: Tổng số phí bảo hiểm nông nghiệp năm 2006-2007
Bảng 10: Tổng số tiền bồi thường trong năm 2006-2007
Bảng 11: Tình hình kinh doanh bảo hiểm chỉ số ở khu vực Mỹ Latinh
Bảng 12: Chính sách trợ cấp bảo hiểm nông nghiệp của chính phủ Mỹ Latinh
Bảng 13: Cơ cấu thị trường bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh
Bảng 14: Tổng quan thị trường bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh vụ mùa
2006 – 2007
Bảng 15: Diện tích đất nông nghiệp được bảo hiểm
Bảng 16: Đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP
Bảng 17: Giá trị nông sản xuất khẩu
Bảng 18: Số lượng gia súc, gia cầm ở Việt Nam
Bảng 19: Doanh thu bảo hiểm nông nghiệp chín tháng đầu năm 2008
Bảng 20: Tỷ trọng tham gia bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam năm 2007
2
Danh mục biểu đồ:
Biểu đồ 1: Giá trị nông nghiệp đóng góp vào GDP của các khu vực
Biểu đồ 2: Tỷ trọng sản lượng nông nghiệp ở các thị trường cung cấp chính
Biểu đồ 3: Số lượng trạm dự báo thời tiết ở Mexico
Biểu đồ 4: Tỷ lệ phí bảo hiểm nông nghiệp đóng góp trên tổng GDP
Biểu đồ 5: Thiệt hại bình quân do thiên tai gây ra theo phân vùng (Giai đoạn
2003-2007)
Biểu đồ 6: Thiệt hại về người do thiên tai giai đoạn 1995-2007
3
MỤC LỤC
Lời nói đầu………………………………………………………………………1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………….1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu………………..……………..1
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………..2
4. Phương pháp nghiên cứu……………..………………………………………..2
5. Bố cục khóa luận………………………………………………………………3
Chơng I: Lý luận chung về bảo hiểm nông nghiệp…………………………...4
I. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết của bảo hiểm nông
nghiệp…………………………………………………………………………….4
II. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nông nghiệp…………………….7
III. Vai trò của bảo hiểm nông nghiệp………………………………………….10
IV. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp phổ biến……………………………...11
1. Bảo hiểm cây trồng………………………………………………………...11
1.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm....................................................................11
1.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.............................................................13
1.3. Các chế độ bảo hiểm cây trồng.....................................................................13
1.4. Phương pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng.............................................14
1.5. Giám định và bồi thường tổn thất.................................................................16
2. Bảo hiểm trong chăn nuôi……………………………………………………18
2.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm....................................................................18
2.2. Giá trị bảo hiểm và chế độ bảo hiểm.............................................................19
2.3. Phương pháp xác định phí bảo hiểm chăn nuôi............................................20
4
2.4. Giám định và bồi thường tổn thất………………………………………….21
V. Trách nhiệm của các bên khi tham gia hợp đồng bảo hiểm nông
nghiệp…………………………………………………………………………...22
Chơng II: Bảo hiểm nông nghiệp ở các nƣớc Mỹ Latinh…………………24
I. Khái quát về nền ông nghiệp các nước Mỹ Latinh………...………………..24
1. Nền nông nghiệp Mỹ Latinh…………………………………………………24
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với nền nông nghiệp Mỹ
Latinh…………………………………………………………………………...29
II. Thực trạng phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp ở các nước Mỹ
Latinh…………………………………………………………………………...30
1. Những rủi ro được bảo hiểm thường gặp trong nông nghiệp các nước Mỹ
Latinh…………………………………………………………………………...30
2. Nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp tại các nước Mỹ Latinh…………………..31
2.1. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp phổ biến……………………………..31
2.2. Các loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ
Latinh…………………………………………………………………………...33
2.3. Vai trò của các công ty tái bảo hiểm đối với thị trường bảo hiểm nông
nghiệp ở Mỹ Latinh…………………………………………………………….36
2.4. Các kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp……………………..37
2.5. Phí bảo hiểm………………………………………………………………..39
2.6. Trị giá bảo hiểm, số tiền bảo hiểm…………………………………………40
2.7. Giám định tổn thất…………………………………………………………41
2.8. Bồi thường………………………………………………………………….42
2.9. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất……………………………………….43
3. Khả năng tiếp cận với các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp của người
dân………………………………………………………………………………45
5
4. Chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp từ phía chính phủ……………..47
III. Những thành tựu các nước Mỹ Latinh đã đạt được trong quá trình triển khai
dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp………………………………………………….50
IV. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở
các nước Mỹ Latinh…………………………………………………………..54
Chơng III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam……………………………...59
I. Khái quát về nền nông nghiệp Việt Nam……………………………………..59
1. Tổng quan về nông nghiệp Việt Nam………………………………………..59
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với nông nghiệp Việt Nam……..62
II. Thực trạng phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam…………..65
1. Tình hình triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam…………………..65
2. Những kết quả đã đạt được………………………………………………...68
3. Những vấn đề còn tồn tại…………………………………………………..69
III. Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam trong thời
gian tới………………………………………………………....……………..71
IV. Bài học Việt Nam cần rút ra qua quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở
các nước Mỹ Latinh…………………………………………………………..73
1. Những biện pháp cần khuyến khích………………………………………….75
2. Những biện pháp cần hạn chế…………………………………………...…...79
Kết luận…………………………………………………………………………84
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………...…………………86
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp vốn là một ngành có nhiều rủi ro. Nó phải chịu rất nhiều biến
động của giá cả, thời tiết, sự thay đổi đột ngột của các vấn đề sinh học, địa lý…
Điều đó đòi hỏi cần phải có những hành động, chiến lược quản trị tài chính để
đối phó với vấn đề này. Những chiến lược quản trị rủi ro truyền thống và các
chính sách hỗ trợ của chính phủ thường có hiệu quả thấp và không ngăn chặn
được triệt để những tổn thất nghiêm trọng hoặc không thể đưa ra những hành
động nhằm tái thiết sản xuất một cách nhanh chóng.
Ở hầu hết các nước đang phát triển, những người nông dân phụ thuộc khá
nhiều vào sự thay đổi bất thường của thời tiết và có rất ít cơ hội được tiếp cận
với các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp chính thống, những sản phẩm giúp họ
chia sẻ, di chuyển một phần rủi ro sang cho đối tượng khác là các nhà bảo hiểm.
Bảo hiểm nông nghiệp hiện nay đang trở thành vấn đề nóng hổi, được
nhiều quốc gia và tổ chức quan tâm, đặc biệt là trước yêu cầu nâng cao năng lực
cạnh tranh cho ngành nông nghiệp trên thị trường tự do.
2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển của một
thị trường bảo hiểm nông nghiệp cụ thể, phạm vi nghiên cứu nằm trong khu vực
Mỹ Latinh. Sở dĩ thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở các nước Mỹ Latinh được
chọn làm đối tượng nghiên cứu là do:
- Việt Nam và các nước Mỹ Latinh có khá nhiều điểm tương đồng. Cũng
giống như nước ta, những quốc gia này hầu hết là các nước đang phát triển, tỷ lệ
7
dân số tham gia vào ngành sản xuất nông nghiệp tương đối lớn. Hàng năm giá trị
xuất khẩu hàng nông sản chiếm một phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn khu vực.
- Mỹ Latinh là một trong những khu vực đi đầu trong việc áp dụng bảo
hiểm nông nghiệp cho các hộ sản xuất. Tuy nhiên, do chính sách về bảo hiểm
nông nghiệp ở các quốc gia còn nhiều bất cập nên chương trình triển khai dịch
vụ bảo hiểm này đã có thời gian bị gián đoạn. Trong những năm gần đây, bảo
hiểm nông nghiệp lại một lần nữa trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu
của chính phủ ở các quốc gia này. Mỹ Latinh hiện nay đã và đang trở thành thị
trường bảo hiểm nông nghiệp hấp dẫn cho các công ty bảo hiểm quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua các phân tích về thực trạng bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ
Latinh, đề tài nhằm mục đích rút ra những bài học kinh nghiệm về các chính
sách, điều kiện áp dụng bảo hiểm nông nghiệp. Thông qua đó, đề tài đặt ra
những kiến nghị về mặt vi mô và vĩ mô cho sự phát triển bảo hiểm nông nghiệp
ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận được sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau để
hoàn thiện bài viết:
- Phương pháp tổng hợp thống kê: tổng hợp từ các nguồn tài liệu hiện có
như: Internet (trang web của UNDP, FAO, World Bank, viện nghiên cứu thống
kê khu vực Trung và Nam Mỹ…), sách, báo, tạp chí kinh tế và nông nghiệp.
8
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: lập bảng so sánh đối chiếu các hình
thức bảo hiểm nông nghiệp khác nhau, chỉ ra điểm chung và khác biệt, so sánh
điểm tương đồng và khác nhau giữa thị trường bảo hiểm Việt Nam và bảo hiểm
Mỹ Latinh để rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta.
5. Bố cục khóa luận
Khoá luận được chia thành ba chương lớn:
- Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nông nghiệp
- Chương II: Bảo hiểm nông nghiệp ở các nước Mỹ Latinh
- Chương III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Do còn tầm hiểu biết còn hạn chế và khó khăn trong tìm kiếm thông tin,
khoá luận này còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
9
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP
I. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết của bảo hiểm nông
nghiệp
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, cung cấp lương
thực và thực phẩm cho con người, là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
nhẹ, công nghiệp thực phẩm và hàng hoá để xuất khẩu. Nông nghiệp cũng là
ngành thu hút nhiều lao động trong xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm,
đồng thời còn là ngành đóng góp một phần không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Nhưng sản xuất nông nghiệp thường không ổn định, bởi lẽ ngành này
có nhiều đặc điểm khác biệt so với nhiều ngành sản xuất khác trong nền kinh tế
quốc dân. Những đặc điểm cơ bản đó là:
- Sản xuất nông nghiệp thường trải trên phạm vi rộng lớn và hầu hết lại
được tiến hành ở ngoài trời, vì thế nó chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự
nhiên. Mặc dù trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến và hiện đại, con
người ngày càng chế ngự được những ảnh hưởng xấu của hiện tượng tự nhiên
nhưng mâu thuẫn giữa con người và lực lượng tự nhiên vẫn tồn tại trong sản xuất
nông nghiệp. Hàng năm, điều kiện tự nhiên luôn đe doạ và gây tổn thất lớn cho
quá trình sản xuất nông nghiệp.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cá thể sống như: cây trồng,
vật nuôi. Chúng không chỉ chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên mà còn chịu
sự tác động của các quy luật sinh học. Đó là các quy luật: đồng hóa, dị hoá, biến
dị, di truyền; quy luật về thời gian sinh trưởng và cho sản phẩm v.v…Vì vậy, xác
suất rủi ro trong nông nghiệp đã lớn lại càng lớn hơn so với nhiều ngành sản xuất
khác.
10
- Chu kỳ sản xuất trong nông nghiệp thường kéo dài, chẳng hạn như cây
lúa khoảng 4 tháng, cây cà phê khoảng 20 đến 30 năm; cây cao su trên 50 năm;
thêm vào đó, thời gian lao động và thời gian sản xuất lại không trùng nhau, do
đó việc đánh giá, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro là rất khó khăn.
- Trong nông nghiệp có hàng trăm cây trồng vật nuôi khác nhau. Thậm
chí, có những loại rủi ro, mà hậu quả của chúng mang tính chất thảm hoạ. Từ đó
đã có ảnh hưởng tâm lý cho người chăn nuôi và trồng trọt. Mặc dù có lao động,
có đất đai nhưng muốn mở rộng sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, họ cũng
không dám mạnh dạn vay vốn để đầu tư. Bởi vì tài sản thế chấp không có mà rủi
ro thì luôn rình rập.
- Rủi ro thường gặp trong nông nghiệp bao gồm rất nhiều loại và hậu quả
của chúng thật khó lường. Các loại rủi ro thường gặp trong nông nghiệp được
chia thành các nhóm sau đây:
+ Nhóm gió bão: gió mạnh, bão lớn và áp thấp nhiệt đới thường xuất hiện
ở nước tiếp giáp với biển. Trung tâm hoạt động của loại rủi ro này rất rộng và
phạm vi ảnh hưởng lớn. Hậu quả trực tiếp của gió bão làm đổ và gãy các loại cây
trồng, làm cho hoa quả bị rụng, chuồng trại chăn nuôi bị đổ hoặc bị tốc mái…
+ Nhóm úng, lũ lụt: úng, lũ lụt là một trong những rủi ro thường gặp nhất
trong sản xuất nông nghiệp, xảy ra tuỳ thuộc vào khí hậu và địa hình mỗi vùng.
Hậu quả trực tiếp của loại rủi ro này thường rất nghiêm trọng. Úng, lũ lụt thường
gây sạt lở đê điều, hư hại các công trình thuỷ lợi, cây trồng và vật nuôi bị cuốn
trôi, những loại cây không chịu được nước sẽ thối rễ, chết, để lại thiệt hại rất lớn
cho người nông dân.
+ Nhóm hạn hán: đây là loại rủi ro thường diễn ra cục bộ, song đôi khi
phạm vi cũng rất rộng lớn. Tuỳ theo thời gian kéo dài hay ngắn làm cho cây
trồng bị chết hoặc bị khô héo dẫn đến năng suất thu hoạch giảm.
11
+ Nhóm sâu bệnh và dịch bệnh: đây là loại rủi ro diễn ra phổ biến trong
nông nghiệp và hậu quả của chúng đôi khi mang tính thảm hoạ. Đối với cây
trồng thường bị các loại sâu như: sâu đục thân, sâu cuốn lá, rầy nâu…Còn gia
súc thường mắc các bệnh dịch như bệnh ký sinh trùng, bệnh truyền nhiễm, bệnh
suy dinh dưỡng. Sâu bệnh và dịch bệnh làm cho cây trồng, vật nuôi chết hàng
loạt, năng suất thu hoạch giảm sút.
Ngoài những rủi ro phổ biến kể trên, trong nông nghiệp còn gặp một số
loại rủi ro khác như: sương muối, trộm cắp, đốt phá, chiến tranh…
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, mô hình tổ chức và quản lý nông
nghiệp rất đa dạng và phong phú, trong lúc đó mô hình trang trại diễn ra khá phổ
biến và mang tính quy luật. Tổ chức quản lý kiểu trang trại đã làm cho lao động,
đất đai và tiền vốn được tích tụ và tập trung. Vì vậy, nhu cầu ổn định sản xuất,
bảo toàn và tăng trưởng đồng vốn luôn là vấn đề bức xúc, được các chủ trang trại
quan tâm hàng đầu.
Những đặc điểm trên cho thấy, tính ổn định trong sản xuất nông nghiệp là
rất thấp. Vì vậy, để chủ động đối phó và có quỹ dự trữ, dự phòng nhằm bồi
thường kịp thời những tổn thất do thiên tai gây ra, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu
nhất là phải tiến hành bảo hiểm cho nông nghiệp.
Do đó, bảo hiểm nông nghiệp là cần thiết, nhưng trong quá trình triển
khai, các công ty bảo hiểm phải tính đến tất cả những đặc điểm của ngành này.
Có như vậy mới giúp cho công ty triển khai bảo hiểm được đúng định hướng,
tính phí bảo hiểm chính xác, dễ dàng đánh giá, kiểm soát và quản lý được rủi ro.
Đồng thời đòi hỏi công ty bảo hiểm phải luôn chú ý và quản lý tốt nguồn dự trữ
dự phòng, bên cạnh đó phải luôn đặt ra vấn đề tái bảo hiểm để tránh phá sản.
12
II. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nông nghiệp
Từ thời xa xưa, khi khái niệm bảo hiểm còn chưa xuất hiện thì con người
đã phải chống chọi với những rủi ro trong cuộc sống. Đối với người nông dân,
họ luôn có ý thức tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi gặp thiên tai, địch hoạ,
mất mùa… Hình thức “Hội tương hỗ” ra đời được coi là hình thức bảo hiểm đầu
tiên ở nông thôn.
Năm 1898 đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm nông nghiệp. Nước Phổ đã
tiến hành bảo hiểm mọi rủi ro cho cây trồng thông qua hoạt động của các công ty
tương hỗ nhỏ. Nhưng các công ty này không tồn tại và phát triển được trước các
thảm hoạ lớn.
Ở Mỹ, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số công ty
bảo hiểm tư nhân đã tiến hành bảo hiểm mọi rủi ro cho cây trồng nhưng đều thất
bại vì thiếu thông tin, phí bảo hiểm quá thấp, địa bàn hẹp nên việc phân tán rủi ro
bị hạn chế…
Năm 1933, cả Nhật Bản và Mỹ đều thực hiện chương trình bảo hiểm mọi
rủi ro cho cây trồng. Chương trình này có hai đặc trưng cơ bản: Chính phủ tài trợ
và do các công ty nhà nước đảm trách. Nhờ đó, hoạt động bảo hiểm nông nghiệp
có thuận lợi. Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ II đã ảnh hưởng đến chương
trình này.
Từ năm 1949 đến nay, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành bảo hiểm cây
trồng theo hướng bảo hiểm mọi rủi ro hoặc một số loại rủi ro; có nước bảo hiểm
một loại cây trồng, có nước bảo hiểm cho nhiều loại cây khác nhau. Hình thức
bảo hiểm bao gồm: Tự nguyện hoặc bắt buộc do công ty tư nhân hoặc công ty
nhà nước tiến hành.
Tình hình bảo hiểm nông nghiệp ở một số nước trên thế giới được thể hiện
qua bảng tổng hợp sau:
13
Năm
Rủi ro
Loại cây
Cơ quan
Nguồn hình
Hình
TT Tên nước
triển
bảo
được bảo
tiến
thành quỹ BH
thức
khai
hiểm
hiểm
hành
1
Jamaica
1946 Bão
Cây chuối Chính
Từ phí BH
Bắt buộc
phủ
nông dân đóng
góp và sự hỗ
trợ của chính
phủ
2
Canada
1917 Mưa đá Tất cả các
Chính
Từ phí BH
cây trồng
phủ,
nông dân đóng
công
ty
góp và sự hỗ
tư nhân
trợ của chính
phủ
3
Tây Ban
Nha
-Công
ty
1954
-Cháy,
-Mọi cây
-Chính
-Từ phí BH
-Tự
nhà nước
mưa đá
trồng
phủ
nông dân đóng
nguyện
và
góp và sự hỗ
những
trợ của chính
rủi ro
phủ
thảm
hoạ
không
được
-Công ty tư
1972
BH
-Lúa
-Công ty
-Phí BH nông
-Tự
nhân
-Cháy,
mạch, lúa
tư nhân
dân đóng góp
nguyện
mưa đá
mỳ
4
Nhật Bản
1938 Mọi rủi Cây
ngũ Hội BH Từ phí BH Bắt buộc
Bảng 1: Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng) trên thế giới
15
1947
ro
cốc,
cây
tương hỗ
nông dân đóng
với chủ
ăn
quả,
có
sự
góp và sự hỗ
nông
dâu tằm
giúp đỡ
trợ của chính
lớn,
tự
của
phủ
nguyện
chính
với chủ
quyền
nông
nhỏ
5
Srilanca
1958 Mọi rủi
Cây lúa
Chính
Từ phí BH
Bắt buộc
ro
phủ
nông dân đóng
cây
lúa,
góp và sự hỗ
tự
trợ của chính
nguyện
phủ
cây khác
6
Philippin
1978 Mọi rủi
Ngô,
lúa,
Công ty
Phí nông dân
Bắt buộc
ro
lạc,
đậu
bảo
đóng góp
với
người
tương,
hiểm
vay tiền
bông,
nhà
hướng
nước
dương
(Nguồn: PGS - TS Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Bảo Hiểm, nhà xuất
bản Thống Kê)
Hiện nay Nhật Bản là quốc gia có thị trường bảo hiểm nông nghiệp phát
triển nhất thế giới, với 79% diện tích đất canh tác được mua bảo hiểm, tiếp theo
là Mỹ với 72%, Canada là 55 % và Tây Ban Nha 43%.
Bảng 2: Thị phần thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp trên thế giới
Thị phần phí bảo hiểm Khu vực (Đơn vị: %)
Bắc Mỹ ( Hoa kỳ và Canada) 55
Tây Âu 29
16
3 Australia và New Zealand
4 Mỹ Latinh và các nước Caribê
4 Châu á
3 Đông Âu
2 Châu Phi
(Nguồn: Schuetz, 2007 (FAO))
Qua bảng trên có thể thấy ngoài các khu vực như Bắc Mỹ và Tây Âu thì
các khu vực còn lại đều có tỷ lệ tham gia vào thị trường bảo hiểm nông nghiệp
rất thấp, trong đó khu vực Mỹ Latinh cũng tương đương với khu vực châu Á, chỉ
chiếm 4% thị phần bảo hiểm nông nghiệp trên toàn thế giới.
III.Vai trò của bảo hiểm nông nghiệp
Trên góc độ kinh tế - xã hội, việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp có tác
dụng rất lớn.
Thứ nhất : Góp phần bảo vệ an toàn các loại tài sản trong qúa trình sản
xuất nông nghiệp, góp phần ổn định cuộc sống cho hàng triệu người dân cùng
một lúc, ổn định giá cả trên thị trường tự do, đặc biệt là giá cả những mặt hàng
thiết yếu nhất như lương thực và thực phẩm. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với
các nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, có trên 30% dân số sống dựa
vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai: Góp phần giảm nhẹ và ổn định ngân sách, ổn định đời sống xã
hội và giữ vững an ninh lương thực cho quốc gia. Ở các nước, ngân sách nhà
nước và quỹ lương thực dự trữ quốc gia luôn dành một phần để hỗ trợ cho nhân
dân những vùng bị lũ lụt, mất mùa. Nhưng thiên tai thường xảy ra bất ngờ không
ai lường trước được. Vì vậy, việc trợ cấp ngân sách thường bị động, hơn nữa
17
những khoản trợ cấp này còn có thể làm cho ngân sách nhà nước bội chi. Để
khắc phục hậu quả này phải tính đến vai trò của quỹ bảo hiểm.
Thứ ba: Nông nghiệp còn là thị trường rộng lớn cho các công ty bảo hiểm.
Mặc dù triển khai bảo hiểm trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, song với
đối tượng là hàng trăm loại cây trồng và gia súc khác nhau sẽ giúp các công ty
bảo hiểm dễ dàng khai thác, hạn chế được sức ép của cạnh tranh. Đồng thời nó
còn phát huy tối đa quy luật số lớn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Mặt
khác, quỹ này dùng để bồi thường và dự trữ là chủ yếu, nhưng khi chưa sử dụng
đến sẽ góp phần đầu tư phát triển sản xuất. Hơn nữa, nếu triển khai bảo hiểm
đồng loạt các loại cây trồng và vật nuôi trong cả nước các công ty bảo hiểm sẽ
thu hút được một lực lượng lao động đáng kể vào làm việc, góp phần tạo thêm
công ăn việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp trong xã hội
v.v…
Với những tác dụng trên, bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở rất
nhiều nước trên thế giới. Và trong tương lai, nó hứa hẹn là một trong những sản
phẩm bảo hiểm phi nhân thọ tiềm năng trong ngành bảo hiểm thế giới.
IV. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp phổ biến
Bảo hiểm nông nghiệp thường được chia ra làm hai nghiệp vụ:
1. Bảo hiểm cây trồng
1.1. Đối tƣợng và phạm vi bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm cây trồng: có thể là bản thân cây trồng trong suốt quá
trình sinh trưởng và phát triển hoặc cũng có thể là sản phẩm cuối cùng do cây
trồng đem lại tuỳ theo mục đích trồng. Vì thế có thể chia ra như sau:
18
+ Đối với cây trồng hàng năm, đối tượng bảo hiểm là sản lượng thu hoạch
hàng năm.
+ Đối với cây lâu năm, đối tượng bảo hiểm là giá trị của các loại cây đó
hoặc sản lượng từng năm của mỗi loại cây.
+ Đối với vườn ươm, đối tượng bảo hiểm là giá trị cây trồng trong suốt
thời gian ươm giống đến khi nhổ đi trồng nơi khác.
Thời hạn bảo hiểm:
+ Thời gian bảo hiểm cây hàng năm thường tính từ lúc gieo trồng đến khi
thu hoạch xong sản phẩm.
+ Đối với cây lâu năm, thời gian bảo hiểm có thể kéo dài một năm nhưng
sau đó được tiếp tục qua các năm.
+ Đối với vườn ươm thì thời gian bảo hiểm bắt đầu từ lúc gieo trồng đến
khi đủ tuổi nhổ đi trồng nơi khác.
Phạm vi bảo hiểm:
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây trồng thường gặp nhiều rủi
ro khác nhau, nhưng khi triển khai bảo hiểm, các công ty thường tiến hành bảo
hiểm một hay một số loại rủi ro nhất định. Những rủi ro còn lại, đặc biệt là
những rủi ro mang tính kinh tế xã hội sẽ được giải quyết bằng các chính sách
kinh tế xã hội của nhà nước. Tóm lại, những rủi ro được bảo hiểm phải đảm bảo
các điều kiện sau:
+ Phải là hiện tượng bất ngờ mà con người chưa lường được hoặc hoàn
toàn chưa khống chế hoặc loại trừ được.
+ Dù đã áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhưng không
có kết quả hoặc không thể tránh khỏi tổn thất.
+ Là hiện tượng bất ngờ đối với nơi xảy ra, có cường độ phá hoại lớn hơn
hoặc xảy ra sớm hơn hay muộn hơn so với bình thường hàng năm.
19
1.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Bảo hiểm cây trồng cũng là loại hình bảo hiểm tài sản, vì thế, để xác định
được phí bảo hiểm và số tiền bồi thường nếu gặp rủi ro được chính xác, phải xác
định chính xác được số tiền bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm của cây trồng là giá trị
của bản thân cây trồng hoặc giá trị sản lượng của cây trồng trên một đơn vị bảo
hiểm.
+ Giá trị bảo hiểm cây hàng năm được xác định căn cứ vào sản lượng thu
hoạch thực tế của từng loại cây trong một số năm trước đó và giá trị một đơn vị
sản phẩm trong những năm đó.
+ Giá trị bảo hiểm cây lâu năm là giá trị của từng cây, từng lô cây hoặc
từng đơn vị bảo hiểm. Nhưng cây lâu năm là tài sản cố định, giá trị ban đầu của
loại tài sản này được xác định tại thời điểm vườn cây đưa vào kinh doanh. Vì
thế, giá trị bảo hiểm chính là giá trị ban đầu của cây trừ đi khấu hao cơ bản.
1.3. Các chế độ bảo hiểm cây trồng
Trong sản xuất nông nghiệp, năng suất, chất lượng sản phẩm và ngay cả
giá trị của bản thân cây trồng phụ thuộc rất lớn vào sự cố gắng chủ quan của
người trồng trọt. Sự cố gắng chủ quan này bao gồm cả việc đầu tư thâm canh,
trình độ áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác và cả ý thức bảo vệ cây khi gặp
rủi ro... Vì thế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng một số chế độ bảo hiểm
sau:
- Chế độ bảo hiểm bồi thường theo tỷ lệ: Khi tổn thất xảy ra, người bảo
hiểm chỉ bồi thường cho người trồng trọt theo một tỷ lệ nhất định so với toàn bộ
giá trị tổn thất. Mục đích áp dụng chế độ này là nhằm nâng cao tinh thần trách
nhiệm của người tham gia bảo hiểm. Tỷ lệ được bồi thường là do các bên thoả
thuận, cao hay thấp phụ thuộc vào:
+ Trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp
21
+ Trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng
+ Khả năng tổ chức và quản lý của công ty bảo hiểm
+ Khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm
+ Trình độ dân trí và sự tiến bộ của xã hội
Thông thường ở nhiều nước, tỷ lệ được bồi thường trong khoảng từ 60%
đến 80% so với giá trị tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm.
- Chế độ bảo hiểm trên mức miễn thường: Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm,
các bên tham gia thoả thuận với nhau về mức miễn thường (mức không được bồi
thường). Nếu tổn thất xảy ra bằng mức miễn thường trở xuống, người bảo hiểm
không chịu trách nhiệm bồi thường, mà người được bảo hiểm sẽ phải tự gánh
chịu phần tổn thất đó. Nếu tổn thất xảy ra lớn hơn mức miễn thường, người bảo
hiểm sẽ bồi thường phần vượt quá hoặc bồi thường toàn bộ tổn thất. Chế độ này
thường áp dụng cho cây hàng năm và mức miễn thường có thể bằng 10% đến
15% giá trị bảo hiểm. Áp dụng chế độ này nhằm:
+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người trồng trọt
+ Làm phí bảo hiểm giảm đi để phù hợp với khả năng tài chính của người
nông dân
+ Đáp ứng được yêu cầu tổ chức và quản lý của các công ty bảo hiểm...
Mức miễn thường cao hay thấp do các bên tham gia thoả thuận để đáp ứng
những mục đích đặt ra ở trên.
1.4. Phƣơng pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng
Phí bảo hiểm cây trồng bao gồm: phí bồi thường tổn thất, phí đề phòng
hạn chế tổn thất, phí dự phòng, phí quản lý.
P = f + f + f +f
Trong đó:
22
P : Phí bảo hiểm cây trồng
f : Phí bồi thường tổn thất
f : Phí đề phòng hạn chế tổn thất
f : Phí dự phòng
f : Phí quản lý và lãi dự kiến của công ty bảo hiểm
Tuy nhiên đối với cây hàng năm việc xác định tỷ lệ phí bồi thường khá
phức tạp do tính chất mùa vụ và tính bất ổn định của loại cây này cao hơn. Chính
vì vậy để xác định được tỷ lệ phí bồi thường bình quân ta phải tính toán qua các
bước sau.
- Bước 1: xác định sản lượng thu hoạch thực tế bình quân trên một đơn vị
diện tích bảo hiểm.
: sản lượng thu hoạch thực tế bình quân tính trên 1 đơn vị bảo hiểm
: sản lượng thu hoạch thực tế năm thứ i
: diện tích gieo trồng năm thứ i
i: thứ tự các năm lấy số liệu tính toán
- Bước 2: Xác định sản lượng tổn thất bình quân trên một đơn vị bảo hiểm.
(điều kiện )
23
t: năm có tổn thất
: sản lượng tổn thất bình quân tính trên 1 đơn vị diện tích bảo hiểm
: diện tích gieo trồng năm t
: sản lượng thu hoạch thực tế năm t tính trên một đơn vị diện tích bảo
hiểm.
- Bước 3: xác định tỷ lệ phí bồi thường bình quân
+ Nếu bảo hiểm theo sản lượng thu hoạch thực tế bình quân thì mức phí
thuần tính trên 1 đơn vị bảo hiểm sẽ là:
+ Nếu bảo hiểm theo giá trị sản lượng thu hoạch thực tế bình quân tính
trên 1 đơn vị bảo hiểm thì mức phí thuần đươc tính:
s
1.5. Giám định và bồi thƣờng tổn thất
Sau khi nhận được thông báo tổn thất của người tham gia bảo hiểm, công
ty bảo hiểm phải cử ngay cán bộ hoặc nhân viên giám định đến hiện trường để
giám định tổn thất. Trước khi xuống hiện trường để giám định, cần tính toán và
dự kiến trước một số vấn đề như: Số lượng người giám định, các cơ quan cần
mời đến để tham gia giám định như chính quyền địa phương, cơ quan bảo vệ
thực vật... Yêu cầu của công tác giám định là kiểm tra hiện trường nơi xảy ra tổn
24
thất, nguyên nhân tổn thất có thuộc phạm vi được bảo hiểm hay không, tính toán
và xác định quy mô, mức độ tổn thất phải theo những phương pháp khoa học
phù hợp với đối tượng bảo hiểm và tình hình thực tế. Lập biên bản giám định tổn
thất phải có đầy đủ các bên hữu quan tham gia và phải ký vào biên bản để xác
nhận.
Phương pháp xác định tổn thất được chia ra như sau:
- Đối với cây hàng năm:
Giá trị tổn Giá trị sản Giá trị Giá trị tổn thất
thất được = lượng tổn – tận thu – không được bồi thường
bồi thường thất thực tế (nếu có) (nếu có)
Năm hoặc vụ có tổn thất là năm hoặc vụ có giá trị sản lượng thu hoạch
thực tế thấp hơn GTBH. Giá trị sản lượng tổn thất thực tế được xác định căn cứ
vào năng suất bình quân được bảo hiểm, năng suất thực tế thu hoạch, giá cả một
đơn vị sản phẩm tính bình quân và diện tích bị tổn thất của từng loại cây. Giá trị
tận thu bao gồm: Thân, lá, quả... Giá trị tổn thất không được bồi thường thường
gặp phải khi áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau hoặc những tổn thất không
thuộc diện phạm vi bảo hiểm.
Trong nông nghiệp, tổn thất xảy ra trước khi thu hoạch là phổ biến. Lúc
này, chưa thể xác định được giá trị tổn thất thực tế, mà chỉ là tổn thất ước tính.
Để xác định được số tiền bồi thường phải chia ra các trường hợp:
+ Đối với những diện tích mất trắng trước khi cây trồng cho thu hoạch, giá
trị tổn thất là toàn bộ chi phí thực tế chi ra từ thời điểm gieo trồng đến thời điểm
xảy ra tổn thất. Các khoản chi phí này thường bao gồm: Chi phí cây giống, phân
bón, vật tư, lao động...
25
+ Đối với những diện tích chưa bị huỷ hoại toàn bộ, có thể chăm sóc tiếp
vẫn cho thu hoạch sản phẩm, giá trị tổn thất tính theo tỷ lệ phần trăm tổn thất so
với toàn bộ chi phí tính đến thời điểm xảy ra tổn thất.
26
- Đối với cây lâu năm:
Giá trị tổn Giá trị Giá trị Tỷ lệ Số tháng
thất được = tổn thất – tổn thất x khấu x đã bảo hiểm
bồi thường thực tế thực tế hao 12 tháng
Giá trị tổn thất thực tế được tính trên từng cây lâu năm hoặc diện tích gieo
trồng cây đó. Chỉ có những cây, những diện tích bị chết hoặc gẫy hẳn mới được
coi là tổn thất. Tổn thất xảy ra vào tháng nào tính khấu hao vào cả tháng đó.
Khi tiến hành bồi thường, người bảo hiểm phải chú ý một số vấn đề như:
Tỷ lệ bồi thường, mức miễn thường, giá trị tận thu, chi phí đề phòng hạn chế tổn
thất... Mọi chi phí đề phòng hạn chế tổn thất không được trừ vào số tiền bồi
thường và cũng không được cộng thêm vào số tiền bồi thường thực tế.
2. Bảo hiểm chăn nuôi
2.1. Đối tƣợng và phạm vi bảo hiểm
- Đối tượng bảo hiểm trong chăn nuôi là các sản phẩm chăn nuôi và các
loại vật nuôi. Đối với vật nuôi là tài sản cố định thường bảo hiểm từng con, còn
đối với vật nuôi thường bảo hiểm cả đàn. Vật nuôi là tài sản lưu động là những
vật nuôi được nuôi dưỡng trong thời gian ngắn, quá trình thu sản phẩm gắn liền
với quá trình giết mổ hoặc chuyển chúng sang làm chức năng tài sản cố định.
Thời hạn bảo hiểm của loại này bắt đầu từ khi con giống tách mẹ nuôi độc lập
đến khi vật nuôi được xuất chuồng. Vật nuôi là tài sản cố định thường có thời
gian nuôi dưỡng lâu, giá trị lớn và được chuyển dịch dần vào sản phẩm thu được
qua các năm. Thời hạn bảo hiểm loại này thường là một năm hoặc là toàn bộ chu
kỳ sản xuất. Nếu thời hạn là toàn bộ chu kỳ sản xuất thì nó sẽ được bắt đầu từ
27
khi vật nuôi được chuyển thành chức năng tài sản cố định đến khi kết thúc chu
kỳ sản xuất (khi đã khấu hao xong).
- Phạm vi bảo hiểm : Trong chăn nuôi thường gặp rất nhiều rủi ro, có cả
rủi ro khách quan có cả rủi ro chủ quan… Tuy nhiên chỉ có những rủi ro thông
thường sau đây mới được bảo hiểm:
+ Thiệt hại do thiên tai, lũ lụt gây ra
+ Bệnh dịch bao gồm cả bệnh truyền nhiễm và cả bệnh không truyền
nhiễm
+ Buộc phải giết mổ để đề phòng lây lan, hoặc là khi vật bị đau ốm không
thể tiếp tục nuôi dưỡng và sử dụng được
+ Một số rủi ro khác như: các động vật ăn thịt phá hoại, đánh cắn lẫn
nhau, hoặc bị tai nạn giao thông, hoả hoạn…
2.2. Giá trị bảo hiểm và chế độ bảo hiểm
- Đối với súc vật vỗ béo và lấy thịt, giá trị bảo hiểm thường là giá trị trọng
lượng xuất chuồng bình quân một số năm trước đó (thường là ba đến năm năm)
nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên ảnh hưởng. Đối với vật nuôi là tài sản cố
định, GTBH chính là giá trị ban đầu của tài sản cố định trừ đi khấu hao cơ bản
nếu có. Còn GTBH sản phẩm chăn nuôi như trứng, sữa... được xác định căn cứ
vào giá trị sản lượng thực tế thu được bình quân một số năm trước đó (thường là
ba đến năm năm).
- Cũng như trong trồng trọt, trong chăn nuôi khi tiến hành bảo hiểm cũng
có thể áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau nhằm nâng cao tinh thần trách
nhiệm của người tham gia bảo hiểm, làm giảm phí và phù hợp với tình hình tổ
chức và quản lý của công ty bảo hiểm. Chế độ bảo hiểm bồi thường theo tỷ lệ
thường được áp dụng khi bảo hiểm cho súc vật vỗ béo và lấy thịt. Chế độ bảo
hiểm miễn thường có khấu trừ thường hay áp dụng khi bảo hiểm các sản phẩm
28
chăn nuôi. Còn chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ lại được áp dụng
khi bảo hiểm cho từng đầu con trong một đàn gia súc tham gia bảo hiểm. Những
tổn thất làm chết ít, một vài con trong một đàn lớn, giá trị thiệt hại nhỏ áp dụng
chế độ bảo hiểm này sẽ giảm được thủ tục đòi bồi thường, giảm được phiền hà
giữa các bên tham gia bảo hiểm.
2.3. Phƣơng pháp xác định phí bảo hiểm chăn nuôi
- Khi tiến hành bảo hiểm các sản phẩm chăn nuôi, thì công tác tính phí
giống như xác định phí bảo hiểm cho cây trồng hàng năm. Tuy nhiên ở đây, chỉ
giới hạn trong phạm vi xác định phí bảo hiểm theo đầu con gia súc, gia cầm.
- Phí bảo hiểm theo đầu con đối với từng loại súc vật thường được tính
theo công thức sau:
: phí bồi thường thiệt hại
: phí đề phòng hạn chế tổn thất
: phí dự trữ dự phòng
: phí quản lý và lãi dự kiến
Trong đó cách tính phí bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
: số vật nuôi năm i
: số vật nuôi bị chết, bị thải loại năm i
29
: gía trị bình quân 1 con vật nuôi bị thải loại, chết, thuộc phạm vi bảo
hiểm
: giá trị tận thu 1 con vật nuôi sau khi bị thải loại, chết thuộc phạm vi
bảo hiểm
: trọng lượng bình quân 1 con vật nuôi trước khi bị chết, bị thải loại, tai
nạn năm i thuộc phạm vi bảo hiểm
: giá bình quân 1 đơn vị sản phẩm vật nuôi trước khi bị thải loại, tai nạn,
chết năm i
2.4. Giám định và bồi thƣờng tổn thất
Ngay sau khi được thông báo về tình hình tổn thất của người tham gia bảo
hiểm, công ty bảo hiểm phải cử nhân viên hoặc người được uỷ quyền đi giám
định tổn thất. Khi giám định phải kiểm tra kỹ hiện trường nơi xảy ra tổn thất, xác
định nguyên nhân tổn thất có thuộc phạm vi được bảo hiểm hay không. Sau đó
tiến hành tính toán, xác định mức độ tổn thất, giá trị tổn thất, giá trị tận thu và
lập biên bản giám định với sự chứng kiến của các bên liên quan. Căn cứ vào biên
bản giám định tổn thất, công ty bảo hiểm phải trả lời là chấp nhận hay từ chối
bồi thường một phần hay toàn bộ tổn thất cho người tham gia bảo hiểm trong
thời gian quy định theo như hợp đồng bảo hiểm đã ký.
Giá trị tổn Giá trị Giá trị Giá trị Giá trị tổn thất
thất được = tổn thất – tận thu – khấu hao – không được bồi
30
bồi thường thực tế (nếu có) (nếu có) thường (nếu có)
Về nguyên tắc, bảo hiểm chỉ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm
và trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực. Mọi chi phí đề phòng hạn chế tổn thất,
chi phí giám định và xử lý vật nuôi sau khi chết không được trừ vào số tiền bồi
thường. Nếu tổn thất do người thứ ba gây ra, bảo hiểm vẫn bồi thường, nhưng
giành quyền đòi người thứ ba trả lại. Nếu quá hạn thanh toán, công ty bảo hiểm
cũng phải chịu phạt “nợ quá hạn” như ngân hàng quy định.
Những trường hợp cụ thể sau đây, công ty bảo hiểm không chịu trách
nhiệm bồi thường:
+ Không gửi thông báo kịp thời về tình hình tổn thất cho công ty theo hợp
đồng đã ký
+ Người chăn nuôi không làm hết trách nhiệm khi đề phòng và hạn chế
tổn thất
+ Vật nuôi bị chết do lỗi của người chăn nuôi
V. Trách nhiệm của các bên khi tham gia hợp đồng bảo hiểm trong nông
nghiệp
Trong mỗi hợp đồng bảo hiểm cây trồng cũng như vật nuôi, đều phải quy
định về trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm. Cũng như các
loại hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm trong nông nghiệp thường có
hai bên tham gia, đó là người mua bảo hiểm và công ty bảo hiểm.
Người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm gieo trồng, nuôi dưỡng và
chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật chăn nuôi cũng như trồng trọt, xây dựng
nội quy, kế hoạch phòng trừ sâu bệnh, dịch bệnh, phòng chống thiên tai… Khi
thiên tai, tai nạn, rủi ro xảy ra phải kịp thời phòng chống để hạn chế tổn thất và
phải thông báo ngay cho người bảo hiểm biết.
31
Ngoài ra, người tham gia bảo hiểm còn phải thực hiện đầy đủ những thủ
tục giấy tờ có tính pháp lý như: ký vào biên bản giám định và xác nhận lỗi do
bên thứ ba… Đồng thời phải phối hợp với người bảo hiểm và những đơn vị liên
quan để có phương án tối ưu đề phòng và hạn chế tổn thất và phải nộp phí bảo
hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường kịp thời, đầy đủ cho
người tham gia bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Phải chi
phí kịp thời, thoả đáng cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, khắc phục
thiên tai, sâu bệnh và dịch bệnh. Khi nhận được thông báo tổn thất phải cử ngay
nhân viên giám định hoặc người có thẩm quyền đến hiện trường làm thủ tục
giám định. Nếu chấp nhận hay từ chối bồi thường phải thông báo và giải thích
ngay cho người tham gia bảo hiểm biết. Nếu quá hạn, không thông báo thì coi
như họ đã chấp nhận bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Về cơ bản, trách nhiệm và quyền hạn của người tham gia bảo hiểm nông
nghiệp và công ty cung cấp bảo hiểm nông nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản trong bảo hiểm như nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nguyên tắc quyền lợi
có thể được bảo hiểm… tuy nhiên trong mỗi hợp đồng bảo hiểm có thể có thêm
một số nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại hình bảo hiểm.
32
CHƢƠNG II: BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP Ở CÁC NƢỚC MỸ LATINH
I. Khái quát về nền nông nghiệp các nƣớc Mỹ Latinh
1. Nền nông nghiệp Mỹ Latinh
Mỹ Latinh là một khu vực rộng lớn, bao gồm 18 quốc gia, trong đó hầu
hết là các nước nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp ở các nước này qua
nhiều năm đều ổn định, không có biến động lớn, một số quốc gia như Agrentina
hay Bolivia và Colombia còn có xu hướng gia tăng diện tích đất sử dụng trong
nông nghiệp do chính sách của chính phủ nhằm khuyến khích khai hoang, cải tạo
những vùng đất khô cằn, bị sa mạc hoá trước đây trở thành những vùng chuyên
canh và vùng chăn nuôi đại gia súc.
Bảng 3: Diện tích đất nông nghiệp ở một số nƣớc Mỹ Latinh
(Đơn vị: Nghìn hecta)
Tên nƣớc 2003 2004 2005
Argentina 129.055 129.355 129.355
Bolivia 37.087 37.087 37.768
Brazil 263.580 263.600 263.600
Chilê 15.276 15.275 15.245
Colombia 42.051 42.391 42.557
Costa Rica 2.875 2.885 2.895
Cuba 6.638 6.528 6.597
Mexico 107.600 107.600 107.500
Paraguay 23.558 23.858 24.258
Peru 21.210 21.210 21.310
Cộng hoà Dominica 3.420 3.420 3.420
33
Trinidad and Tobago 133 133 133
Uruguay 14.955 14.955 14.955
Venezuela 21.640 21.690 21.690
(Nguồn: ECLAC, 2007)
Do xuất phát điểm là nước nông nghiệp, nên các quốc gia Mỹ Latinh có tỷ
lệ dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cao, trung bình chiếm khoảng
hơn 20% tổng lực lượng lao động, trong đó cao nhất là Peru với 37,5% và
Guatemala với 36,2%, số liệu này được tổng hợp vào năm 2006 qua bảng sau:
Bảng 4: Cơ cấu lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp các nƣớc
khu vực Mỹ Latinh
(Đơn vị: %)
STT Tên nƣớc 1990 1995 2000 2006
1 Argentina Na Na Na Na
2 Bolivia Na 36,8 32,3 Na
3 Brazil 24,4 22,8 18,6 19,8
4 Chilê 14,9 13 12,5 17
5 Colombia 22,1 16,9 13,8 25,9
6 Costa Rica 21 16,9 13,8 25,4
7 Ecuador Na 28,5 29,6 Na
8 El Salvador 25,6 20,7 18,4 Na
9 Guatemala 37,6 36,5 36,2 48
10 Honduras 38,2 34 35,1 42
11 Mexico 20,3 17,5 13,4 25,3
12 Nicaragua 33,7 32,4 29 30,6
13 Panama 20,8 17 19,5 26,6
34
14 Paraguay Na 37,3 30,8 31,1
15 Peru Na 31,4 32 37,5
16 Cộng hoà Dominica 20,2 15,9 15,9 14,8
17 Uruguay 32,4 31,1 31 29,2
18 Venezuela 13,1 13,4 10,6 9,1
(Nguồn: ECLAC, 2007)
Điểm đặc biệt được thể hiện qua bảng số liệu trên là, ngoài các quốc gia
như Venezuela, Mexico, Chilê… đi theo xu hướng thông thường là ngày càng
giảm tỷ lệ dân số hoạt động trong ngành nông nghiệp, thì một số các quốc gia
khác trong khu vực như Peru, Panama, Ecuador… lại có số người tham gia vào
lĩnh vực nông nghiệp tăng lên. Đây là một hiện tượng khá đặc biệt, ít xảy ra trên
thế giới, đi ngược lại với xu hướng phát triển chung là giảm dần tỷ lệ dân số hoạt
động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Tuy nhiên đây lại là một tín hiệu tích cực cho nền kinh tế các quốc gia
này, khi số người thất nghiệp ở thành thị trước đây rất cao, nay có xu hướng
quay trở về các vùng nông thôn, cải tạo đất, chăn nuôi canh tác, ổn định đời
sống. Điều đó cũng cho thấy tầm quan trọng của nền nông nghiệp của các nước
này đang dần dần được nâng cao.
Hàng năm, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp ở các quốc gia Mỹ Latinh
đóng góp khoảng 6% vào GDP của toàn khu vực, cao hơn Tây Âu 1,2%.
35
Biểu đồ 1: Giá trị nông nghiệp đóng góp vào GDP của các khu vực
(Nguồn: IICA, 2007)
Địa hình bằng phẳng, nhiều đồi núi thấp và có hệ thống sông ngòi phong
phú cùng khí hậu nhiệt đới ẩm, các quốc gia Mỹ Latinh có lợi thế đặc biệt trong
trồng cây lương thực, cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc trên quy mô lớn.
Với những thuận lợi về mặt tự nhiên này, năm 2005, Mỹ Latinh đã trở thành nhà
cung cấp nông sản lớn thứ hai trên thế giới, đóng góp 13% trên tổng giá trị sản
phẩm nông sản được cung cấp bởi năm khu vực nông nghiệp lớn, chỉ đứng sau
châu Á.
Hiện nay, nền nông nghiệp các nước Mỹ Latinh không ngừng gia tăng về
cả giá trị và sản lượng. Thêm vào đó, diện tích đất nông nghiệp ở khu vực này
cũng được giữ ở mức ổn định do chính phủ các nước luôn chú trọng vào chính
sách phát triển đất, cải tạo đất ở các vùng đã bị sa mạc hoá trước đây trở thành
các vùng trồng trọt, chăn nuôi lớn.
36
Biểu đồ 2: Tỷ trọng sản lƣợng nông nghiệp ở các thị trƣờng cung cấp chính
(Đơn vị: %)
(Nguồn: ECLAT 2007)
Sản phẩm nông nghiệp ở các quốc gia Mỹ Latinh đa dạng, phong phú về
chủng loại, từ rau quả, các sản phẩm từ thịt, cá, sữa, chăn nuôi đại gia súc lấy thịt
hay các loại cây công nghiệp có giá trị cao như cà phê, cacao, bông vải, ngô, đậu
tương, mía đường…
Các quốc gia có ngành nông nghiệp phát triển nhất trong khu vực là
Argentina, Brazil, Mexico, Chile và Venezuela. Argentina đứng thứ nhì thế giới
về xuất khẩu ngô, thứ ba thế giới về xuất khẩu đậu nành. Trong khi đó, Brazil
xếp thứ nhất, nhì thế giới về xuất khẩu thịt bò, đậu tương, nước cam vắt, thịt gà,
đường và cà phê.
Nhìn chung, nông nghiệp đang là ngành được quan tâm đầu tư và cũng là
ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế các nước khu vực Mỹ Latinh. Chính
phủ ở các quốc gia này luôn đưa ra những chính sách nhằm nâng cao giá trị sản
phẩm nông nghiệp đồng thời cải thiện đời sống của người nông dân.
37
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với nền nông nghiệp các nƣớc
Mỹ Latinh
Trong 20 năm trở lại đây, Mỹ Latinh là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất của tình trạng thay đổi khí hậu. Thiên tai xảy ra liên tiếp, để lại hậu quả rất
lớn cho nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp các nước nói riêng. Ước tính
trong giai đoạn từ 1975 đến 2005, tổn thất do thiên tai gây ra ở khu vực này lên
tới 250 tỷ USD. Và dự tính trong những năm từ 2005 đến 2010, thiệt hại sẽ vào
khoảng 50 tỷ USD. Theo thống kê năm 2007, hậu quả do các loại thiên tai như
bão lốc, vòi rồng, lũ lụt, hạn hán… đã để lại thiệt hại nặng nề cho khu vực này:
Bảng 5: Hậu quả do thiên tai ở khu vực Mỹ Latinh
Loại thiên tai Hậu quả 2004 2005 2006
Số vụ xảy ra 16 21 14
Lũ lụt Số người bị ảnh hưởng 587.016 703.735 6.443.555
Số người thiệt mạng 249 434 244
Số vụ xảy ra 2 2 2
Sạt, lở đất Số người bị ảnh hưởng 5.751 2.500 0
Số người thiệt mạng 40 70 21
Số vụ xảy ra 4 2 1
Hạn hán Số người bị ảnh hưởng 192.500 52.990 12.350
Số người thiệt mạng 0 0 0
Số vụ xảy ra 4 19 3 Bão, lốc, vòi Số người bị ảnh hưởng 151.845 3.332.649 270.700 rồng Số người thiệt mạng 29 1.755 15
(Nguồn: ECLAC, 2007)
38
Một ví dụ điển hình là Mexico, quốc gia phải hứng chịu hậu quả của các
cuộc thiên tai nặng nề nhất trong khu vực. Trong năm 2005, bão đã tàn phá 70%
diện tích đất canh tác, gây thiệt hại gần như toàn bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến an ninh lương thực và đời sống của nông dân mà hầu hết là những người
nghèo, dễ bị tổn thương nhất.
Bảng 6: Thiệt hại do thiên tai ở Mexico trong giai đoạn 1990-2005
(Đơn vị: triệu USD)
Loại thiên tai Thiệt hại trực tiếp Thiệt hại gián tiếp Tổng thiệt hại
Do thời tiết 21.887 145 22.032
Do địa lý 4.044 517 4.561
Tổng thiệt hại 25.931 662 26.593
(Nguồn: Guy Carpenter 2006)
Những số liệu trên cho thấy, sản xuất nông nghiệp ở Mỹ Latinh là một
ngành đầy rủi ro. Do đó, sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp ở các quốc gia
này là vấn đề không thể bàn cãi. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ chia sẻ rủi ro với
người nông dân, san sẻ gánh nặng với chính phủ, đồng thời nâng cao năng lực
cạnh tranh của nông sản khu vực này trên thị trường thế giới.
II. Thực trạng phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp ở các nƣớc Mỹ
Latinh
1. Những rủi ro đƣợc bảo hiểm thƣờng gặp trong nông nghiệp ở các nƣớc
Mỹ Latinh
39
Những rủi ro phổ biến thường gặp và được bảo hiểm trong nông nghiệp
Mỹ Latinh được chia thành ba nhóm: nhóm khí tượng thuỷ văn, nhóm địa chất
và nhóm sinh học.
- Nhóm khí tượng thuỷ văn: Nhóm thiên tai này bao gồm các hiện tượng
như: mưa, lũ lụt, hạn hán, gió lốc, bão, mưa đá, băng giá, thay đổi nhiệt độ bất
thường…
- Nhóm rủi ro về mặt địa chất: bao gồm động đất, núi lửa, sóng thần.
- Nhóm rủi ro về mặt sinh học: bao gồm những dịch bệnh, sâu phá hại
Ngoài ra, ở một số nước như Chilê, Argentina, Mexico… người ta còn
phân chia rủi ro thành các nhóm như rủi ro mang tính thảm hoạ và rủi ro không
mang tính thảm hoạ.
- Rủi ro mang tính thảm hoạ đề cập đến những thiên tai như núi lửa, động
đất, sóng thần, bão lốc… Chúng có sức phá huỷ mạnh, trên diện rộng nhưng
không thường xuyên, khó dự báo.
- Rủi ro không mang tính thảm hoạ là nhóm rủi ro về thời tiết và rủi ro về
sâu bệnh, dịch bệnh. Những rủi ro mang tính thời tiết như lũ lụt, hạn hán, mưa
đá, băng giá… chỉ ảnh hưởng đến từng vùng, có thể chỉ là một đến hai địa
phương hay một số nông trại nhỏ. Chúng xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài hơn
nhưng thiệt hại kinh tế mà chúng để lại thường nhỏ hơn. Rủi ro về sinh học như
sâu bệnh phá hoại hay dịch bệnh lây lan có thể chỉ mang tính cục bộ, có thể được
cảnh báo, khoanh vùng dịch nhằm hạn chế tổn thất.
2. Nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp ở các nƣớc Mỹ Latinh
2.1. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp phổ biến ở Mỹ Latinh
Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh khá phong phú, được
phân chia thành nhiều nhóm.
40
- Phân chia theo nhóm rủi ro:
+ Bảo hiểm mọi rủi ro: Loại bảo hiểm này đúng như tên gọi của nó, công
ty bảo hiểm sẽ đền bù cho tổn thất gây ra bởi mọi rủi ro được bảo hiểm. Ban đầu
bảo hiểm mọi rủi ro được áp dụng rộng rãi ở các nước Mỹ Latinh, tuy nhiên sau
một thời gian triển khai, loại hình này không được các công ty cũng như người
mua bảo hiểm ưa chuộng bởi nó thiếu tính kinh tế và thực tiễn.
+ Bảo hiểm đơn rủi ro: Bảo hiểm cho từng loại rủi ro nhất định. Người
mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho một hay nhiều loại rủi ro đối với một đối
tượng trồng trọt hay chăn nuôi. Loại hình này hiện nay đang rất phổ biến, chiếm
tỷ lệ lớn trong các hợp đồng bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh.
- Phân chia theo các chỉ số kỹ thuật: Loại hình bảo hiểm này khá phức tạp,
mang tính kỹ thuật thị trường cao như bảo hiểm giá nông sản, sản phẩm chăn
nuôi cho người dân, bảo hiểm chi phí, vật tư nông nghiệp, bảo hiểm lợi nhuận
ước tính… Tuy nhiên, các loại hình bảo hiểm này cũng đang được các công ty
bảo hiểm phát triển bởi nó có tính kinh tế, tính chính xác cao đối với cả người
bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Phân chia theo đối tượng bảo hiểm:
+ Bảo hiểm chăn nuôi: Trong bảo hiểm chăn nuôi cũng được chia thành
nhiều gói bảo hiểm khác nhau như: Bảo hiểm cho đại gia súc, bảo hiểm cho gia
cầm, bảo hiểm cho thuỷ, hải sản… tuỳ thuộc vào từng đặc tính của đối tượng bảo
hiểm để công ty bảo hiểm đưa ra các gói bảo hiểm phù hợp.
+ Bảo hiểm trồng trọt: Gồm các loại như bảo hiểm cho cây trồng ngắn
ngày, cây lâu năm, cây công nghiệp, cây lương thực…
Ngoài các loại hình kể trên, bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh còn có
một số loại hình khác, trong đó nổi bật hiện nay là phương pháp bảo hiểm theo
chỉ số, đặc biệt là theo chỉ số thời tiết. Đây là loại bảo hiểm lấy chỉ số khách
41
quan của từng đối tượng bảo hiểm (ví dụ đối với cây trồng lấy chỉ số bảo hiểm là
thời tiết) làm căn cứ bồi thường. Bảo hiểm theo chỉ số khắc phục được các
nhược điểm của bảo hiểm truyền thống, quy định mức bồi thường tương ứng với
các chỉ số, mà không cần tiến hành giám định để xác định mức độ thiệt hại của
từng cá nhân. Mức độ bồi thường được tính trên cơ sở năng suất bình quân
chung nhiều năm của cả vùng hay tiểu vùng sinh thái.
Ưu điểm của bảo hiểm chỉ số là tính đơn giản, rõ ràng nên được người
nông dân rất ủng hộ. Ở Mexico đã áp dụng các gói bảo hiểm chỉ số căn cứ vào
lượng mưa, sức gió, nhiệt độ và động đất, ở Brazil áp dụng bảo hiểm chỉ số thời
tiết trong trồng trọt mà còn trong chăn nuôi như bảo hiểm chỉ số nhiệt độ cho
đàn đại gia súc.
2.2. Các loại hình doanh nghiệp tham gia thị trƣờng bảo hiểm nông
nghiệp ở Mỹ Latinh
Doanh nghiệp nhà nước
Hầu hết các thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh đều bắt đầu từ
các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước. Loại hình này có các ưu điểm như:
- Có nhiều mối quan hệ với các ngân hàng trong nước
- Có thị trường rộng do được sự bảo lãnh của chính phủ
- Được hưởng nhiều lợi ích từ phía chính phủ như: chính sách ưu đãi về
thuế, tín dụng…
Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này cũng bộc lộ những nhược điểm
như:
- Bộ máy quản lý cồng kềnh
- Trì trệ, chậm chễ trong việc cải tiến, cung cấp các sản phẩm bảo hiểm
mới phù hợp với thị trường
42
Mặt khác, bảo hiểm nông nghiệp ở các quốc gia này chỉ đang trong giai
đoạn phát triển, rất cần thử nghiệm nhiều loại hình sản phẩm, nhiều cơ chế bảo
hiểm sao cho thật linh hoạt, phù hợp với thị trường trong nước đồng thời đạt đến
tiêu chuẩn quốc tế. Những nhược điểm này đã hạn chế sự phát triển của doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nước.
Một vấn đề lớn mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước gặp phải là họ
luôn bị đặt lên vai trách nhiệm quá nặng so với quy mô, nặng lực của chính
doanh nghiệp. Điển hình như các công ty bảo hiểm nhà nước của Mexico và
Argentina những năm 80 của thế kỷ 20. Họ buộc phải cung cấp các sản phẩm
bảo hiểm nông nghiệp cho mọi rủi ro trong khi thị trường tái bảo hiểm hầu như
chưa phát triển. Thực trạng này khiến họ phải đối mặt với một tỷ lệ rủi ro trong
kinh doanh quá lớn và đứng trước nguy cơ phá sản khi thiên tai xảy ra trên diện
rộng. Kết quả là các công ty này đã tạm ngừng hoạt động và sụp đổ, nhường chỗ
cho các công ty tư nhân khác.
Hiện nay, chỉ ở những nước có thị trường bảo hiểm nông nghiệp kém phát
triển hơn như Costa Rica, Panama hay cộng hoà Dominica là còn duy trì hệ
thống độc quyền công ty bảo hiểm nhà nước.
Doanh nghiệp cổ phần:
Đây là loại hình doanh nghiệp kết hợp giữa nhà nước và tư nhân, với tỷ lệ
51% cổ phần thuộc sở hữu nhà nước, 49% còn lại thuộc về các công ty bảo hiểm
tư nhân. Hình thức này có một số ưu điểm như:
- Độc lập trong việc đưa ra những chính sách bảo hiểm, loại hình bảo
hiểm…
- Linh hoạt hơn trong các quyết sách của chính doanh nghiệp
- Thoát khỏi cơ chế mệnh lệnh hành chính trì trệ
Những nhược điểm của công ty cổ phần là:
43
- Mất đi quyền sử dụng quỹ công cộng
- Không được ưu đãi về thuế như các công ty nhà nước
Tuy nhiên, những nhược điểm này chỉ mang tính trung hạn. Trong dài
hạn, loại hình doanh nghiệp này đã vượt qua được khó khăn ban đầu và đang thể
hiện tính ưu việt của mình. Ở các nước như Mexico, Chilê… đang áp dụng rất
thành công mô hình này.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Các nước như Mexico và Argentina, sau khi mô hình doanh nghiệp bảo
hiểm nhà nước thất bại, chính phủ đã có chính sách mở cửa cho các công ty bảo
hiểm 100% vốn nước ngoài vào hoạt động. Các công ty này có rất nhiều ưu điểm
như:
- Có trình độ chuyên môn cao
- Có kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trong ngành bảo hiểm nông nghiệp
- Quy mô lớn, có thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm trên diện rộng, nguy cơ
rủi ro ít
Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này cũng có những nhược điểm nhất
định như luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu, lợi ích xã hội đôi khi không được coi
trọng. Các doanh nghiệp này được toàn quyền quyết định nên họ có thể chỉ bảo
hiểm cho những hợp đồng có ít rủi ro mà không bảo hiểm cho những hợp đồng
có tỷ lệ rủi ro cao để bảo toàn lợi nhuận. Thực trạng này khiến người nông dân
không được hưởng hết những lợi ích từ bảo hiểm nông nghiệp. Vì vậy, cần có sự
quản lý đặc biệt đối với loại hình doanh nghiệp này, để đảm bảo quyền lợi chính
đáng của người nông dân khi tham gia bảo hiểm hiểm nông nghiệp.
Hiện nay có tới 90% các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động
trong ngành bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh là các doanh nghiệp bảo hiểm
44
Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp này đang không ngừng mở rộng thị trường, đưa ra
các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú.
45
2.3. Vai trò của các công ty tái bảo hiểm đối với thị trƣờng bảo hiểm
nông nghiệp ở Mỹ Latinh
Bảo hiểm nông nghiệp ở khu vực Mỹ Latinh là một ngành mang tính rủi
ro cao vì khu vực này là một trong những nơi xảy ra nhiều thiên tai nhất trên thế
giới. Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ trước, chính phủ các quốc gia Mỹ
Latinh đã bỏ ngỏ thị trường tái bảo hiểm. Hậu quả là, các công ty nhà nước
không có một hệ thống bên dưới chia sẻ rủi ro. Khi thiên tai xảy ra trên một diện
rộng, mức bồi thường thiệt hại lên quá cao, các công ty bảo hiểm không đủ khả
năng chi trả, dẫn đến sụp đổ hệ thống bảo hiểm nông nghiệp vào những năm 90.
Hiện nay, chính sách về bảo hiểm nông nghiệp ở các nước trong khu vực
đã có rất nhiều thay đổi, mở cửa cho các doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân vào
hoạt động trong lĩnh vực tái bảo hiểm. Thị trường tái bảo hiểm bảo hiểm nông
nghiệp ở Mỹ Latinh đã phát triển rất nhanh, là chỗ dựa vững chắc cho ngành bảo
hiểm nông nghiệp phát triển.
Phí tái bảo hiểm tại khu vực Mỹ Latinh nhìn chung thấp hơn so với mức
trung bình ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Tây Âu…, dao động từ 1% đến
25% tuỳ thuộc vào từng loại đối tượng bảo hiểm.
Bảng 7: Phí tái bảo hiểm trung bình của các công ty tái bảo hiểm
nông nghiệp
Đối tƣợng bảo hiểm Phí tái bảo hiểm (trên % phí bảo hiểm)
Mùa vụ 1 - 25%
Rừng 0,2 - 2%
Gia súc, gia cầm 1 - 10%
Thuỷ sản 3 - 8%
(Nguồn: Swiss Re, 2007)
46
Ở một số nước có các doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước như Mexico, Chilê, Comobia… thì phần lớn các hợp đồng bảo hiểm sẽ
được ký chính thức với công ty bảo hiểm nhà nước, sau đó công ty bảo hiểm nhà
nước sẽ thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài. Cách thức này đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên công ty bảo hiểm nhà
nước sẽ đảm bảo được quyền lợi cho người nông dân, đảm bảo được lợi ích xã
hội. Trong khi đó, các công ty nước ngoài tận dụng được thị trường lớn mà các
công ty nhà nước đã thiết lập, có thêm nhiều khách hàng mới. Một lợi ích to lớn
cho cả thị trường là thị trường bảo hiểm nông nghiệp ổn định, phát triển vững
chắc vì rủi ro được chia sẻ cho nhiều bên.
2.4. Các kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp
Bảo hiểm nông nghiệp ở các nước Mỹ Latinh được phân phối theo nhiều
cách, từ các kênh phân phối truyền thống như môi giới, đại lý đến các kênh phân
phối mới như phân phối qua chi nhánh ngân hàng.
Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp qua môi giới, đại lý
chiếm khoảng 40% số hợp đồng bảo hiểm trên toàn thị trường. Tuy nhiên, kênh
phân phối này cũng bộc lộ những nhược điểm nhất định. Tỷ lệ hoa hồng dành
cho họ thường khá thấp chỉ vào khoảng từ 8-10% phí bảo hiểm nên để đảm bảo
lợi nhuận, họ thường chỉ ký kết hợp đồng bảo hiểm đối với những đối tượng bảo
hiểm ít rủi ro, mà không ký với các đối tượng chịu nhiều rủi ro, điều đó dẫn đến
tính kém hiệu quả cho xã hội. Hơn nữa, do sự giám sát không chặt chẽ từ hãng
bảo hiểm, nhiều đại lý phân phối hay môi giới bảo hiểm còn thông đồng với
người được bảo hiểm, khai khống mức thiệt hại, nhằm rút tiền từ công ty mẹ.
Tình trạng này là cực kỳ nguy hiểm bởi khoảng cách về địa lý cũng như về thông
tin giữa các công ty mẹ và đại lý bảo hiểm nông nghiệp ở địa phương là rất lớn,
47
công ty mẹ khó có thể kiểm soát được các hoạt động kinh doanh của hệ thống
đại lý một cách chặt chẽ, hoặc có thể nhưng chi phí quản lý lại rất lớn.
Kênh phân phối bảo hiểm nông nghiệp phổ biến nhất hiện nay ở Mỹ
Latinh là kênh phân phối qua ngân hàng. Loại hình phân phối này tuy mới phát
triển nhưng đã chiếm tới 50% tổng số hợp đồng bảo hiểm ở các quốc gia này.
Bảo hiểm qua ngân hàng như là một nguyên tắc mà nguyên tắc này đem lại lợi
ích cho tất cả các bên liên quan.
Lợi ích kênh phân phối qua ngân hàng đem lại cho khách hàng:
- Tiếp cận dễ dàng hơn
- Sản phẩm đơn giản
- Sản phẩm giá thấp
- Thanh toán đơn giản
- Mua tại một nơi
Lợi ích của kênh phân phối qua ngân hàng đem lại cho chính các ngân
hàng:
- Hưởng hoa hồng cao
- Mở rộng sản phẩm
- Có khách hàng mới
- Tăng uy tín của chính ngân hàng
- Tăng hiệu quả của chi nhánh
Đối với các nhà bảo hiểm, lợi ích kênh phân phối qua ngân hàng đem lại
là:
- Tiếp cận thêm nhiều nhóm khách hàng mới
- Chi phí phân phối thấp
- Tiếp cận dữ liệu khách hàng thuận lợi hơn
- Tiếp cận việc mở rộng hệ thống bán hàng
48
- Thu phí đơn giản
Ngoài ra còn các kênh phân phối khác như qua đại diện thương mại, điện
thoại, thư tín, Internet…
Trong tương lai, các đại lý và môi giới sẽ chỉ chuyên về những loại hình
bảo hiểm nông nghiệp có phí cao hơn, cung cấp dịch vụ tư vấn khách hàng. Còn
những loại hình bảo hiểm đơn giản sẽ được bán qua các kênh phân phối có lựa
chọn như ngân hàng.
2.5. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm ở Mỹ Latinh thường tính theo
tỷ lệ phần trăm số tiền bảo hiểm của mỗi hợp đồng, dao động ở mức từ 3% đến
6% tuỳ từng đối tượng bảo hiểm, cá biệt có những trường hợp có thể thấp hơn
hoặc cao hơn nhưng không quá 8% số tiền bảo hiểm.
Bảng 8: Phí bảo hiểm trung bình cho một số loại cây trồng
(Đơn vị: %)
Phí bảo hiểm ƣớc tính Cây trồng (theo % STBH)
Khoai tây 4,31
Lúa 2,74
Lúa mạch 3,8
Lúa mỳ 3,1
Kiều mạch 3,16
Đậu tương 3,79
Ngô 4,87
Nho nguyên liệu làm rượu 4,24
Táo 7,35
49
Lê 6,26
Cam 4,81
Rau màu 3,66
Trung bình 4,34
(Nguồn: ENESA, 2007)
Với tốc độ phát triển trung bình trên toàn khu vực là từ 10-12%, tổng số
phí bảo hiểm trong năm 2007 ở một số quốc gia Mỹ Latinh có thị trường bảo
hiểm nông nghiệp phát triển được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 9: Tổng số phí bảo hiểm nông nghiệp năm 2006-2007
(Đơn vị: triệu USD)
Tổng phí bảo hiểm 2006 2007 Tên nƣớc
Argentina 85 92
Brazil 99 111
Chilê 2,8 3
Mexico 26,5 30
(Nguồn: ENESA, 2007)
Ví dụ điển hình như Argentina, một trong các nước ở khu vực có bảo hiểm
chăn nuôi phát triển, tính riêng trong năm 2007, công ty bảo hiểm nông nghiệp
hàng đầu ở nước này là Sanco Cooperativa de Seguros Limitada đã thu về
19.700 USD phí bảo hiểm cho gia súc, gia cầm.
2.6. Trị giá bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm ở khu vực Mỹ Latinh là hợp đồng bảo
hiểm dưới giá trị vì với hợp đồng bảo hiểm ngang giá trị, phí bảo hiểm khá cao
nên người nông dân không có khả năng chi trả. Mặt khác, khu vực này là khu
50
vực có rất nhiều rủi ro, thiên tai nên bảo hiểm nông nghiệp thực chất chỉ mang
tính chất chia sẻ rủi ro, chứ các công ty bảo hiểm không thể gánh toàn bộ rủi ro
từ người nông dân chuyển sang.
Một vấn đề mang tính đặc thù trong bảo hiểm nông nghiệp là rủi ro
thường xảy ra trước khi đến kỳ thu hoạch, do đó, sản lượng, giá cả, lợi nhuận…
chỉ mang tính ước tính chứ không có con số chính xác cho từng năm. Thông
thường sản lượng hay giá cả, lợi nhuận của một đơn vị canh tác được tính bằng
trung bình sản lượng hay giá cả, lợi nhuận của ba vụ mùa gần nhất được canh tác
trên điều kiện thổ nhưỡng tương đương, khí hậu bình thường.
Đơn cử như trong bảo hiểm chăn nuôi – bảo hiểm cho gia súc lấy sữa, thì
giá trị bồi thường không chỉ là giá trị thành tiền của bản thân gia súc, mà còn bao
gồm cả tổn thất do mất đi sản lượng sữa người chăn nuôi thu từ gia súc trong
tương lai. Giá trị tổn thất của sản lượng sữa được tính dựa trên số lít sữa trung
bình thu được trên một ngày của mỗi con gia súc, trong vòng 60 ngày gần nhất.
Số tiền bồi thường tính theo cách này không có giới hạn, phụ thuộc vào thoả
thuận khi ký hợp đồng của hai bên.
Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm nông nghiệp cũng được tính theo nhiều
phương pháp, tuỳ thuộc vào từng loại hợp đồng như: GTBH tính theo sản lượng,
GTBH tính theo chi phí sản xuất, GTBH tính theo giá cả sản phẩm…
Số tiền bảo hiểm các công ty bảo hiểm chi trả trong bảo hiểm nông nghiệp
ở các quốc gia trong khu vực này thường vào khoảng 60% đến 90% GTBH, tuỳ
thuộc vào giá trị hợp đồng.
2.7. Giám định tổn thất
Công việc giám định tổn thất trong bảo hiểm nông nghiệp phần lớn cũng
giống với quy trình giám định tổn thất của các loại hình bảo hiểm khác. Ngay khi
tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải có trách nhiệm báo cho công ty bảo
51
hiểm biết về sự việc. Nhưng do tính chất của ngành sản xuất nông nghiệp, nên
việc giám định phải tiến hành gần như ngay lập tức sau khi tổn thất xảy ra. Biên
bản giám định phải có chữ ký của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm, bên
giám định hoạt động độc lập với cả hai bên và có thể có chữ ký của cán bộ địa
phương nơi xảy ra tổn thất xác nhận.
Khi biên bản đề nghị bồi thường tổn thất của người được bảo hiểm gửi
đến cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm phải có nhiệm vụ trả lời trong thời
gian sớm nhất. Nếu trong vòng 15 ngày các công ty không có thư phúc đáp thì
coi như họ đã đồng ý bồi thường mọi tổn thất như trong thư đề nghị đã đưa ra.
Ở các công ty bảo hiểm lớn hoạt động trong khu vực Mỹ Latinh, đặc biệt
là các công ty 100% vốn nước ngoài, đều có những chuyên gia về nông nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực xác định, bồi thường tổn thất nên công việc giám định
tổn thất thường rất chính xác, nhanh chóng và được người dân tin tưởng.
2.8. Bồi thƣờng
Do đặc thù trong nông nghiệp là tính chất mùa vụ nên công tác bồi thường
cho bảo hiểm nông nghiệp phải được tiến hành nhanh chóng và khẩn trương để
người dân khôi phục sản xuất, đúng với nông vụ. Trong những năm vừa qua, các
công ty bảo hiểm trong khu vực đã bồi thường một số tiền lớn, chia sẻ một phần
rủi ro cho người nông dân.
Bảng 10: Tổng số tiền bồi thƣờng trong năm 2006-2007
(Đơn vị: triệu USD)
Tên nƣớc Argentina Chilê Uruguay STBT
2006 71 0,74 1,09
52
2007 77 0,82 1,2
(Nguồn: IICA 2007)
Với loại hình bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số, một loại hình bảo hiểm
phổ biến hiện nay ở các nước Mỹ Latinh thì trong những năm gần đây, tỷ lệ bồi
thường trên tổng phí bảo hiểm được coi là đã mang lại hiệu quả kinh doanh cho
các công ty bảo hiểm.
Bảng 11: Tình hình kinh doanh bảo hiểm chỉ số ở khu vực Mỹ Latinh
(Đơn vị: triệu USD)
Năm TGBH Phí bảo hiểm STBT
2003 3,6 0,3 Na
2004 16,9 2,1 Na
2005 59,6 9,1 10,5
2006 84,7 9,3 2,1
2007 90 9,7 6,2
(Nguồn: Agroasemex Re, 2008)
Số tiền bồi thường qua các năm có sự chênh lệch khá lớn do những yếu tố
khách quan là rủi ro về thời tiết, dịch bệnh… Tuy nhiên, có thể thấy xu hướng số
tiền bồi thường đã nhỏ hơn tổng số phí bảo hiểm thu được, mang lại lợi nhuận
cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các công ty bảo hiểm nông nghiệp
trong khu vực không chỉ bồi thường bằng tiền cho người nông dân mà còn áp
dụng những hình thức bồi thường khác như: hỗ trợ về giống, phân bón, vật tư
nông nghiệp, giúp họ tái sản xuất. Phương thức bồi thường này có lợi cho cả hai
bên, vừa đáp ứng nhu cầu của người dân có tư liệu sản xuất, vừa vì lợi ích của
53
chính nhà bảo hiểm, hạn chế rủi ro cho họ trong hợp đồng bảo hiểm cho vụ mùa
ngay sau đó đối với chính đối tượng bảo hiểm này.
2.9. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
Song song với việc phát triển các dịch vụ bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
nông nghiệp ở Mỹ Latinh luôn chú trọng đến công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
cho đối tượng được bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm nông nghiệp trong khu vực thường xuyên tổ chức
các lớp tập huấn về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi cho những người mua bảo
hiểm. Một số công ty còn cung cấp những tài liệu tham khảo về quy trình kỹ
thuật nuôi trồng cho người nông dân khi họ ký kết hợp đồng bảo hiểm với công
ty. Biện pháp này đã bổ sung kiến thức cho người nông dân, nhằm đáp ứng yêu
cầu kỹ thuật của các hợp đồng bảo hiểm, đồng thời có tác dụng lớn trong việc
hạn chế những tổn thất không đáng có cho người dân cũng như phía công ty bảo
hiểm.
Một biện pháp hạn chế, đề phòng tổn thất được cho là rất hiệu quả của các
công ty bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ Latinh là việc phối hợp với chính phủ các
nước xây dựng các trạm dự báo thời tiết ở các khu vực nhỏ, nhằm dự báo thời
tiết một cách nhanh chóng và chính xác nhất, giúp người dân có thể hạn chế thấp
nhất tổn thất do thiên tai gây ra. Một quốc gia có hoạt động xây dựng các trạm
dự báo thời tiết phát triển nhất là Mexico, số lượng các trạm dự báo thời tiết tăng
nhanh trong các năm trở lại đây, được đặt ở các địa phương.
Biểu đồ 3: Số lƣợng trạm dự báo thời tiết ở Mexico
54
(Nguồn: Agroasemex Re, 2008)
Qua biểu đồ trên có thể thấy, khi bắt đầu triển khai vào năm 2004, trên
toàn Mexico chỉ có 6 trạm dự báo thời tiết thì đến năm 2007, số lượng trạm dự
báo đã lên tới 227 trạm. Những trạm dự báo này đã chứng tỏ hiệu quả rất cao
trong công tác đề phòng, hạn chế tổn thất cho người nông dân.
3. Khả năng tiếp cận với các dịch vụ bảo hiểm của ngƣời dân
Tuy bảo hiểm nông nghiệp đã được đưa vào cung cấp trong một thời gian
dài nhưng chỉ có một bộ phận rất nhỏ người nông dân được tiếp cận và hưởng lợi
từ dịch vụ này. Thực trạng này diễn ra đã lâu và chưa được cải thiện vì rất nhiều
lý do.
Các công ty bảo hiểm nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận thị trường. Do đặc tính của sản phẩm và đối tượng cung cấp, hầu hết khách
hàng của những nhà cung cấp bảo hiểm đều nằm ở vùng xa xôi hẻo lánh, cách xa
trung tâm tài chính lớn. Chi phí để tìm hiểu thị trường, mở rộng thị trường bảo
hiểm nông nghiệp cao hơn hẳn các loại bảo hiểm khác như bảo hiểm nhân thọ
55
hay bảo hiểm xe cơ giới… Đôi khi chi phí này chiếm phần lớn tổng phí bảo hiểm
thu được. Lý do này dẫn đến thực trạng nhiều công ty bảo hiểm “ngại” thâm
nhập thị trường mới, chỉ dựa vào những thị trường sẵn có.
Bên cạnh đó, các hợp đồng bảo hiểm nông nghiệp ở khu vực Mỹ Latinh
hầu hết chỉ được cung cấp cho những hộ sản xuất quy mô lớn, mà bỏ quên
những hộ sản xuất nhỏ. Các hộ sản xuất lớn thường phải vay tiền ở các tổ chức
tín dụng để mở rộng sản xuất. Khi họ ký hợp đồng vay vốn, các tổ chức tín dụng
thường kèm theo điều kiện buộc họ phải mua bảo hiểm nông nghiệp để giảm
thiểu rủi ro cho cả hai bên, đảm bảo an toàn tín dụng. Ngược lại, những hộ nông
dân sản xuất nhỏ khi không sử dụng nguồn tín dụng bên ngoài cũng sẽ không
được giới thiệu hay bắt buộc mua bảo hiểm.
Một nguyên nhân khác là do người nông dân thiếu thông tin về nguồn hỗ
trợ chính thống từ các công ty bảo hiểm và chính phủ. Phần lớn lao động hoạt
động trong ngành nông nghiệp ở Mỹ Latinh nằm trong nhóm dân số sống trong
mức nghèo khổ. Họ hiếm có cơ hội được tiếp xúc với Internet, sách, báo, truyền
hình… nên khả năng tiếp cận với các nguồn thông tin về sản phẩm bảo hiểm
nông nghiệp là không nhiều.
Một nguyên nhân nữa khiến bảo hiểm nông nghiệp khó đến được với các
hộ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ là do khi tiến hành bảo hiểm cho một đối tượng
nông nghiệp, công ty bảo hiểm phải chắc chắn rằng đối tượng bảo hiểm đó sẽ
được chăm sóc trên một quy trình kỹ thuật đạt tiêu chuẩn để giảm thiểu mọi rủi
ro không đáng có. Tuy nhiên, có rất ít các hộ sản xuất nông nghiệp nhỏ đáp ứng
được quy trình chăn nuôi, canh tác như các công ty bảo hiểm yêu cầu. Hậu quả
là, dù họ có muốn mua bảo hiểm nhưng các công ty bảo hiểm cũng không thể
cung cấp vì lý do kỹ thuật.
56
Ngay cả khi người nông dân được tiếp cận với dịch vụ bảo hiểm, họ cũng
gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn và quyết định nên sử dụng loại hình bảo
hiểm nào có lợi nhất. Các từ ngữ trong hợp đồng cũng không phải lúc nào cũng
dễ hiểu đối với người nông dân. Những rào cản này tưởng như không lớn nhưng
lại là một trong những nguyên nhân chính yếu khiến người nông dân không mặn
mà với các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp. Khi họ chưa hiểu rõ về dịch vụ họ
sẽ dùng và những ích lợi họ nhận được từ dịch vụ đó thì họ sẽ không có nhu cầu
mua dịch vụ.
57
4. Chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp từ phía chính phủ
Hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh đều quan tâm tới chiến lược phát triển
dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp và đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhằm phát
triển thị trường bảo hiểm trong nước. Tuy nhiên những chính sách này vẫn còn
nhiều yếu điểm, thiếu sót và đang trong quá trình cải cách.
Các quốc gia ở Mỹ Latinh như Mexico, Brazil, Argentina… đều có luật
bảo hiểm từ những năm 70 của thế kỷ trước và vẫn liên tục được điều chỉnh để
phù hợp với những tiêu chuẩn của bảo hiểm quốc tế.
Trong chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp, các nước đều trích lập
quỹ dự phòng rủi ro, do chính phủ quản lý và đầu tư. Quỹ này một phần lớn
được dùng để trợ cấp phí bảo hiểm cho người nông dân đồng thời cũng để cấp
tín dụng ưu đãi cho các công ty bảo hiểm khi cần chi trả bảo hiểm. Sở dĩ hình
thức trợ cấp trong bảo hiểm nông nghiệp rất phát triển là do:
+ Người nông dân có nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp nhưng
không có khả năng chi trả phí bảo hiểm. Phần lớn nông dân là người nghèo, phải
mất thêm khoảng từ 3-6% chi phí sản xuất cho hợp đồng bảo hiểm nông nghiệp
là điều khiến họ do dự khi mua bảo hiểm.
+ Bảo hiểm nông nghiệp có tỷ lệ rủi ro cao hơn rất nhiều so với các loại
hình bảo hiểm khác. Với các hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro thường chi phí bồi
thường cho mỗi hợp đồng là rất lớn. Khi thiên tai xảy ra trên diện rộng với mức
thiệt hại cao, các doanh nghiệp bảo hiểm thường gặp khó khăn trong việc chi trả.
Do đó, việc hỗ trợ tín dụng từ phía chính phủ trong những trường hợp này là rất
cần thiết, giúp các công ty tránh được nguy cơ phá sản.
Nước có mức hỗ trợ lớn nhất trong khu vực là Chilê. Chính sách trợ cấp
của quốc gia này bao gồm: 80% phí bảo hiểm cho các hộ nuôi trồng nhỏ lẻ, 50%
phí bảo hiểm cho hộ trung bình và dưới 50% cho các hộ sản xuất nông nghiệp có
58
quy mô lớn. Một quốc gia khác là Mexico cũng có mức trợ cấp lên tới 40% phí
bảo hiểm vào những năm 80, tuy nhiên đang giảm dần và hiện nay là 10% trên
mỗi hợp đồng.
Tuy nhiên, do quản lý kém nên ở nhiều quốc gia như Argentina và Brazil,
chính sách trợ cấp đã bị phá sản vì quỹ bị thâm hụt quá nặng nề, không có khả
năng bù đắp.
Bảng 12: Chính sách trợ cấp bảo hiểm nông nghiệp của chính phủ
Mỹ Latinh
Tên nƣớc Trợ cấp chính phủ
Không (dừng từ năm 2003) Argentina
Không (dừng từ năm 2000) Brazil
Chilê Có
Colombia Có (chính phủ chi trả từ 10%-45% phí bảo hiểm
tuỳ thuộc vào loại cây trồng, vật nuôi)
Costarica Có
Cộng hoà Dominica Có
Ecuador Không
Mexico Có
Panama Có (trợ cấp chi phí quản lý hành chính cho các
công ty bảo hiểm nhà nước)
Venezuela Có
(Nguồn: ENESA, 2007)
Điểm đáng chú ý ở bảng trên là, những quốc gia có thị trường bảo hiểm
nông nghiệp phát triển nhất trong khu vực như Argentina và Brazil thì chính phủ
đã ngừng trợ cấp cho bảo hiểm nông nghiệp. Điều đó cho thấy, khi bắt đầu xây
59
dựng thị trường bảo hiểm, việc trợ cấp từ phía chính phủ là tối quan trọng, tuy
nhiên, khi thị trường đã đứng vững, tỷ lệ đất đai và vật nuôi trong nông nghiệp
được bảo hiểm cao, thì thị trường có thể tự hoạt động tốt mà ít cần đến trợ cấp
trực tiếp từ chính phủ.
Khi bảo hiểm nông nghiệp mới được triển khai, đa số các quốc gia chưa
chú trọng đến chính sách khuyến khích tái bảo hiểm. Tuy nhiên, việc thiếu đi thị
trường tái bảo hiểm trong nông nghiệp khiến nguy cơ rủi ro của các công ty bảo
hiểm là rất cao, nhiều công ty đã không có khả năng chi trả cho khách hàng. Do
đó, những năm gần đây, các nước đã điều chỉnh chính sách theo hướng khuyến
khích hoạt động tái bảo hiểm nhằm chia sẻ rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với
nhau. Điển hình như cộng hoà Dominica cho phép hai công ty tái bảo hiểm cùng
một lúc chia sẻ rủi ro cho một đối tượng bảo hiểm.
Một chính sách quan trọng khác được các nước Mỹ Latinh áp dụng là việc
cởi mở hơn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp tư nhân muốn gia
nhập ngành. Nhiều rào cản pháp lý đã được dỡ bỏ, tạo điều kiện cho các công ty
bảo hiểm quốc tế, đặc biệt là các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ vào khai thác thị
trường.
Bảng 13: Cơ cấu thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh
Tên nước Loại hình doanh nghiệp
T nh©n Argentina
Brazil T nh©n
Chilª T nh©n – Nhµ n íc
Colombia T nh©n – Nhµ n íc
Costa Rica §éc quyÒn nhµ n íc
Céng hoµ Dominica §éc quyÒn nhµ n íc
60
Ecuador T nh©n
Mexico T nh©n – Nhµ n íc
Panama Nhµ n íc
Paraguay T nh©n
Venezuela T nh©n
(Nguån: ENESA, 2007)
C¸c quèc gia cã thÞ tr êng b¶o hiÓm n«ng nghiÖp ph¸t triÓn trong khu vùc nh
Mexico, Brazil, Venezuela ®Òu më cöa thÞ tr êng cho c¸c c«ng ty b¶o hiÓm t
nh©n, trong khi mét sè n íc cã thÞ tr êng kÐm ph¸t triÓn h¬n th× th êng kÕt hîp
c¶ hai lo¹i h×nh nhµ n íc, t nh©n.
III. Nh÷ng thµnh tùu c¸c n íc Mü Latinh ®¹t ® îc trong qu¸ tr×nh ph¸t
triÓn b¶o hiÓm n«ng nghiÖp
Tr¶i qua h¬n 30 n¨m ph¸t triÓn dÞch vô b¶o hiÓm n«ng nghiÖp, cã lóc thÞ
tr êng b¶o hiÓm n«ng nghiÖp ë Mü Latinh ®· gÆp khñng ho¶ng, ph¶i dõng l¹i do
sai lÇm trong chÝnh s¸ch triÓn khai còng nh do thiÕu nguån nh©n lùc vµ vËt lùc.
Nh ng do nhËn thøc ® îc tÇm quan träng cña b¶o hiÓm n«ng nghiÖp ®èi
víi ngµnh s¶n xuÊt n«ng nghiÖp, mét ngµnh quan träng trong ph¸t triÓn kinh tÕ,
chÝnh phñ c¸c n íc Mü Latinh ®· kh«i phôc l¹i thÞ tr êng b¶o hiÓm, c¶i c¸ch luËt
b¶o hiÓm n«ng nghiÖp còng nh chÝnh s¸ch u ®·i cho c¸c doanh nghiÖp tham
gia b¶o hiÓm n«ng nghiÖp. Trong nh÷ng n¨m gÇn ®©y, nh÷ng c¶i c¸ch nµy ®·
®em l¹i cho thÞ tr êng b¶o hiÓm n«ng nghiÖp Mü Latinh nh÷ng thay ®æi ®¸ng kÓ,
vµ ®ang ph¸t triÓn theo h íng tÝch cùc, mang l¹i lîi Ých to lín cho ng êi ® îc
b¶o hiÓm.
HiÖn nay, thÞ tr êng b¶o hiÓm n«ng nghiÖp Mü Latinh ®· cã chç ®øng, lµ
mét trong nh÷ng lo¹i b¶o hiÓm phi nh©n thä tiÒm n¨ng nhÊt, tû lÖ ®ãng gãp tõ phÝ
61
b¶o hiÓm n«ng nghiÖp vµo tæng GDP cña c¸c n íc liªn tôc ® îc c¶i thiÖn. Trong
n¨m 2007, tæng phÝ b¶o hiÓm n«ng nghiÖp ®ãng gãp 0,011% tæng GDP toµn khu
vùc, cao h¬n møc trung b×nh ë T©y ¢u lµ 0,01% vµ ch©u Á là 0,008%.
62
Biểu đồ 4: Tỷ lệ phí bảo hiểm nông nghiệp đóng góp trên tổng GDP
(Nguồn: Swiss Re, Sigma No 1/2007)
Điểm đáng chú ý ở thị trường bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh là hiện
nay có rất nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động và đã trở thành thị
trường bảo hiểm nông nghiệp quốc tế. Các công ty này hầu hết là những công ty
lớn, có tên tuổi, uy tín ở Hoa Kỳ, một trong những nước có thị trường bảo hiểm
nông nghiệp phát triển nhất trên thế giới. Các công ty này có kinh nghiệm, có
tiềm lực kinh tế lớn, đã ảnh hưởng rất tích cực đến thị trường bảo hiểm nông
nghiệp ở Mỹ Latinh.
Bảng 14: Tổng quan thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh vụ
mùa 2006 – 2007
Chỉ tiêu Argentina Brazil Chilê Uruguay
Số công ty bảo hiểm đang hoạt 30 7 3 3
động
Tổng giá trị hợp đồng bảo hiểm 100 11 3 5,5
(Đơn vị: triệu USD)
Số lượng hợp đồng 102.204 66.043 10.515 2.755
63
Diện tích đất được bảo hiểm 11 triệu 998.486 73.570 437.500
(Đơn vị: hecta)
Tổng số tiền bồi thường 77 Na 0,82 1,2
(Đơn vị: triệu USD)
(Nguồn: IICA 2007)
Theo ước tính, tỷ lệ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở
khu vực Mỹ Latinh là 12%/năm trong suốt 10 năm qua. Trong tương lai, thị
trường này hứa hẹn sẽ có tốc độ tăng trưởng lên tới từ 14% đến 16%.
Nhìn chung, chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp của các quốc gia
Mỹ Latinh đã đạt được những thành tựu nhất định được đánh giá trên ba khía
cạnh: từ phía người dân, từ phía chính phủ và từ phía các công ty bảo hiểm.
Từ phía người dân
Qua nhiều năm triển khai dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp, về cơ bản, người
dân ở các nước Mỹ Latinh đã nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm nông
nghiệp đối với hoạt động trồng trọt, chăn nuôi. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong
thực tế bởi chỉ khi người dân tự nhận thức được lợi ích và sự cần thiết của bảo
hiểm nông nghiệp thì họ mới có ý thức sử dụng sản phẩm này.
Mặt khác, khi tham gia bảo hiểm nông nghiệp, người dân không chỉ được
chia sẻ rủi ro mà thông qua những ràng buộc về điều kiện bảo hiểm, người dân
còn được nâng cao ý thức phòng tránh rủi ro, nâng cao trình độ kỹ thuật canh
tác, chăn nuôi. Từ đó sẽ có những phương pháp chủ động hơn để đối phó với rủi
ro.
Từ phía các công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm ban đầu chỉ cung cấp những sản phẩm bảo hiểm đơn
giản như: bảo hiểm cho một loại rủi ro như gió, bão, hạn hán, sâu bệnh… và bảo
hiểm cho mọi rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, do yêu cầu thực tế thị trường, người nông
64
dân không chỉ cần bảo hiểm cho những rủi ro về thiên tai mà họ còn cần bảo
hiểm cho rủi ro về giá cả, lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp họ sản xuất ra.
Đặc biệt khi nền sản xuất nông nghiệp đang từ tự cung tự cấp chuyển sang nền
nông nghiệp sản xuất hàng hoá, thì việc bảo đảm giá cả cho sản phẩm đầu ra là
vô cùng quan trọng. Hiện nay, có rất nhiều các gói dịch vụ bảo hiểm khác nhau,
người nông dân có thể chọn mua một hoặc nhiều loại bảo hiểm cho cùng một đối
tượng bảo hiểm với chi phí hợp lý, đồng thời cũng sẽ có lợi nhất nếu không may
những rủi ro xảy ra. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp mới áp dụng nhưng khá
phổ biến hiện nay là: bảo hiểm giá cả, bảo hiểm cho lợi nhuận ước tính, bảo
hiểm cho chi phí sản xuất đã bỏ ra…
Từ phía chính phủ
Các quốc gia khu vực Mỹ Latinh có mối quan tâm đặc biệt tới việc phát
triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong nước, nên ngay từ khi mới triển
khai, hàng loạt các chính sách ưu đãi, các nghị định, luật bảo hiểm đã được ban
hành để hướng dẫn thực hiện hoạt động bảo hiểm trong nông nghiệp.
Tuy các chính sách này ban đầu không tránh khỏi có những sai lầm,
nhưng chính phủ các nước đã nỗ lực học hỏi các thị trường phát triển khác như
Mỹ, Canada, Nhật Bản… và áp dụng cho nước mình. Hiện nay, các nước Mỹ
Latinh như Mexico, Brazil, Argentina… đã cơ bản có một bộ luật bảo hiểm nông
nghiệp khá hoàn chỉnh, và đưa ra những chính sách ưu đãi hợp lý. Vì thế, trong
những năm gần đây, thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở các quốc gia này đã tăng
trưởng đều và mang tính bền vững.
65
IV. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển bảo hiểm nông
nghiệp ở các nƣớc Mỹ Latinh
Người dân thiếu thông tin
Không thể phủ nhận rằng thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở khu vực Mỹ
Latinh đã có những bước phát triển đáng kể, tuy nhiên, do diện tích đất sản xuất
nông nghiệp ở các nước này quá lớn, phân bố dàn trải nên trên thực tế, bảo hiểm
nông nghiệp mới chỉ được cung cấp ở các trung tâm, còn các vùng sâu vùng xa
thì còn bỏ ngỏ.
Bảng 15: Diện tích đất nông nghiệp đƣợc bảo hiểm
(Đơn vị: %)
Tên nƣớc Tỷ lệ đất nông nghiệp đƣợc bảo hiểm
Argentina 30
Mexico 15
Venezuela 4
Brazil 22
Chilê 2
Cộng hòa Dominica <1
Costa Rica 2
Colombia <1
Paraguay <1
Ecuador <1
(Nguồn: Wemer, 2007)
Qua bảng trên cho thấy, trừ các nước có thị trường bảo hiểm nông nghiệp
phát triển như Argentina, Mexico và Brazil thì các nước còn lại trong khu vực
66
đều có tỷ lệ đất được bảo hiểm rất thấp. Đa số người nông dân chưa được tiếp
cận với bảo hiểm nông nghiệp.
Đối với bảo hiểm chăn nuôi, tỷ lệ trung bình trong khu vực vào khoảng
10% số đàn gia súc, gia cầm được mua bảo hiểm. Tuy nhiên loại hình này chỉ tập
trung ở một số nước có thị trường bảo hiểm nông nghiệp khá phát triển như
Argentina, Mexico, Brazil, Venezuela… còn các quốc gia khác thì tỷ lệ này chỉ
đạt dưới 3%.
Lý do chính dẫn đến tình trạng này là sự thiếu thông tin của cả nhà cung
cấp và người dân. Các công ty bảo hiểm không có nhiều thông tin về nhóm
khách hàng, về đặc tính của đối tượng mà họ sẽ cung cấp sản phẩm bảo hiểm.
Việc đi thu thập, điều tra, đánh giá và xử lý thông tin trong lĩnh vực bảo hiểm
nông nghiệp là rất khó khăn và tốn kém, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh, nơi có
diện tích đất nông nghiệp nằm rải rác, không tập trung, địa hình hiểm trở, hệ
thống thông tin liên lạc còn chưa phát triển ở những vùng sâu vùng xa. Hơn nữa,
chính phủ cũng chưa có biện pháp cụ thể nào để hỗ trợ, cung cấp đầy đủ thông
tin cho các công ty bảo hiểm hoạt động ở khu vực này.
Về phía người dân, họ luôn thiếu thông tin về sản phẩm, về những lợi ích
mà họ sẽ nhận được khi mua bảo hiểm nông nghiệp. Đồng thời, có một số người
vẫn có thói quen thụ động, chưa chủ động trong phòng tránh rủi ro, coi thiên tai
là một điều không thể tránh khỏi, thiệt hại là tất yếu. Việc di chuyển rủi ro trong
bảo hiểm đối với họ còn rất xa vời.
Phí bảo hiểm chưa hợp lý
Một vấn đề lớn còn tồn tại ở thị trường bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh
là sự khác biệt giữa nhu cầu và khả năng chi trả của người dân. Trừ một số các
quốc gia có trợ cấp phí bảo hiểm nông nghiệp cho nhà sản xuất, ở những nước
67
còn lại, nếu chính phủ không trợ cấp, thì khoản tiền để trích ra mua bảo hiểm lên
tới 3% đến 6% chi phí sản xuất là điều họ không hề muốn.
Vấn đề này cũng dẫn đến câu hỏi, liệu phí bảo hiểm nông nghiệp mà các
công ty bảo hiểm trong khu vực đặt ra đã hợp lý hay chưa? Trên thực tế, việc
phân biệt giữa các đối tượng chịu rủi ro cao và rủi ro thấp trong nông nghiệp khó
khăn hơn rất nhiều so với các loại hình bảo hiểm khác. Do đó các công ty bảo
hiểm ở đây thường áp dụng một mức phí bảo hiểm chung cho tất cả các đối
tượng. Đánh giá như vậy là không hề chính xác. Kết quả là, các công ty bảo
hiểm đã bán bảo hiểm với giá quá cao cho những khách hàng có mức rủi ro thấp,
và giá quá thấp cho nhóm khách hàng có rủi ro cao. Trong dài hạn, nhóm khách
hàng chịu rủi ro thấp sẽ rút ra khỏi thị trường, thị trường còn lại toàn các khách
hàng trong nhóm rủi ro cao. Điều này gây bất lợi đối với bản thân các công ty
bảo hiểm, đồng thời cũng là một rào cản cho các hộ sản xuất nhỏ lẻ sử dụng sản
phẩm bảo hiểm nông nghiệp vì khi đó phí bảo hiểm sẽ cao tương đối so với giá
trị bảo hiểm thực.
Chi phí quản lý cao
Bên cạnh đó, chi phí quản lý ở khu vực này cũng cao hơn so với chi phí
quản lý trung bình ở các thị trường khác. Lý do chính là vì bộ máy hành chính
cồng kềnh, làm việc không hiệu quả, dẫn đến việc đẩy giá thành sản phẩm bảo
hiểm nông nghiệp lên cao hơn mức trung bình trên thế giới. Điều này cũng làm
giảm mức hấp dẫn của sản phẩm đối với người dân.
Chính sách không thực tế
Khi xây dựng chính sách khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm
nông nghiệp, chính phủ các nước Mỹ Latinh đều mong muốn các công ty bảo
hiểm phải bán ra gói bảo hiểm mọi rủi ro, nhằm chia sẻ phần lớn thiệt hại cho
người dân. Đây là một chính sách quá tham vọng và không thực tế trong hiện tại,
68
bởi hiện nay thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở khu vực này còn nhỏ bé, số
lượng khách hàng còn ít ỏi, hơn nữa, khu vực này lại luôn xảy ra thiên tai, tổn
thất phải đền bù hàng năm rất lớn. Nếu các công ty bảo hiểm buộc phải bán gói
bảo hiểm mọi rủi ro, điều đó đồng nghĩa với việc họ không thể đảm bảo lợi
nhuận cho chính họ. Bảo hiểm trước hết là một ngành kinh doanh, khi lợi nhuận
không được đảm bảo, một cách tự nhiên, các công ty bảo hiểm sẽ ngần ngại
không muốn mở rộng thị trường.
Thiếu hụt nguồn nhân lực
Một vấn đề mà chính phủ các nước Mỹ Latinh cần giải quyết là sự thiếu
hụt nguồn nhân lực hoạt động trong ngành bảo hiểm nông nghiệp. Tuy thị trường
bảo hiểm nông nghiệp ở các nước này phát triển đã lâu, nhưng chưa có một
chiến lược cụ thể nào nhằm đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về lĩnh vực này.
Trong khi đó, bảo hiểm nông nghiệp là ngành đặc thù, vừa liên quan đến tài
chính, vừa liên quan tới nông nghiệp nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có sự hiểu
biết sâu rộng, có như vậy mới đảm bảo cho một thị trường phát triển bền vững.
Chính sách trợ cấp chưa hợp lý
Bảo hiểm nông nghiệp là một hàng hoá đặc thù, để thị trường bảo hiểm
nông nghiệp phát triển nhanh, rất cần đến sự hỗ trợ từ phía chính phủ. Chính phủ
các nước Mỹ Latinh đã rất chú trọng đến chính sách trợ cấp, tuy nhiên, mới chỉ
quan tâm đến việc trợ cấp trực tiếp phí bảo hiểm cho người dân. Chính sách trợ
cấp này trong ngắn hạn thì có hiệu quả rất cao, nhưng trong dài hạn, nó không
đảm bảo cho một thị trường phát triển bền vững, bởi diện tích đất nông nghiệp ở
khu vực này lớn gấp nhiều lần các nước khác, một khi thị trường bảo hiểm nông
nghiệp phát triển rộng rãi hơn, chính phủ sẽ không đủ ngân sách để trợ cấp cho
tất cả diện tích đất nông nghiệp. Trong khi đó, chính phủ ở các nước này lại chưa
quan tâm xem xét đến những phương thức trợ cấp khác, mang tính hiệu quả lâu
69
dài hơn như trợ cấp chi phí quản lý cho các công ty bảo hiểm nhằm phát triển thị
trường, trợ cấp phí đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trợ cấp cho các
công ty bảo hiểm khi thâm nhập thị trường mới ở các vùng sâu vùng xa, vùng
hẻo lánh, tạo điều kiện cho các công ty tái bảo hiểm thâm nhập thị trường…
70
Công ty bảo hiểm không được tự chủ khi ra các quyết định kinh doanh
Thông thường, ở khu vực Mỹ Latinh, các công ty bảo hiểm nông nghiệp
không được toàn quyền xác định phí bảo hiểm. Khi một công ty muốn thay đổi
chính sách giá, cần được chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, chính phủ các nước
Mỹ Latinh trong thời gian qua lại tỏ ra chậm chễ và không muốn thay đổi biểu
phí bảo hiểm nông nghiệp. Trong khi đó, bảo hiểm nông nghiệp là một ngành
đặc biệt, phí bảo hiểm nông nghiệp cũng cần thay đổi linh hoạt, tuỳ theo tình
hình mùa vụ và tình hình thiên tai hàng năm. Do đó dẫn đến tình trạng, khi thì
phí bảo hiểm nông nghiệp quá cao, khiến người dân không gặp khó khăn trong
chi trả, khi thì phí bảo hiểm nông nghiệp quá thấp, không đảm bảo lợi nhuận
tương đối cho các hãng bảo hiểm. Thực trạng này gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị
trường bảo hiểm nông nghiệp trong những năm qua.
Nhìn chung, vì nhiều lý do chủ quan cũng như khách quan, thị trường bảo
hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần giải quyết, trong
đó nổi bật là vấn đề về chính sách hỗ trợ của chính phủ trong việc phát triển thị
trường một cách bền vững.
71
CHƢƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
I. Khái quát về nền nông nghiệp Việt Nam
1. Tổng quan về nông nghiệp Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 50% dân số hoạt động trong
ngành sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành có vị trí đặc biệt quan trọng
trong cơ cấu kinh tế của nước ta, là ngành sản xuất vật chất cung cấp lương thực,
thực phẩm và nguyên liệu cho ngành công nghiệp nhẹ, ngoài ra đây còn là nguồn
xuất khẩu mạnh mẽ. Hàng năm mức đóng góp của nông nghiệp vào GDP ngày
một giảm song vẫn ở mức cao hơn so với các nước trên thế giới.
Bảng 16: Đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP
Đơn vị: %
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 chỉ tiêu
Nông nghiệp 17,34 16,65 15,85 15,36 15,22
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007)
Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật
và tiếp tục phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, hướng tới đảm bảo
an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu.
Nông nghiệp nước ta là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và vượt xa
mục tiêu, lương thực bình quân đầu người tăng đều qua các năm.
Lương thực hàng hoá tăng nhanh, đảm bảo thoả mãn mọi nhu cầu tiêu
dùng của dân cư, bổ sung thức ăn cho phát triển chăn nuôi và đáp ứng đầy đủ
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến với số lượng ngày càng tăng, sản phẩm
ngày càng đa dạng.
72
Không chỉ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà lương thực sản
xuất còn dư thừa để xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay, Việt Nam
là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Bảng 17: Giá trị nông sản xuất khẩu
Đơn vị :triệu USD
Năm 2003 2004 2005 2006 2007
Giá trị xuất khẩu 2672 3383,6 4467,4 5352,4 6723
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007)
Các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu không chỉ tăng nhanh về mặt giá trị,
mà thị trường tiêu thụ luôn được mở rộng, trong đó các thị trường chính là Hoa
Kỳ, Châu Phi, Nhật Bản…
Trong chiến lược phát triển nông nghiệp, nước ta luôn chú trọng đa dạng
hoá cây trồng, xoá dần thế độc canh. Nếu như năm 1996 diện tích gieo trồng cây
lương thực chiếm 75,2% tổng diện tích gieo trồng và 87,2% diện tích gieo trồng
cây hàng năm thì đến năm 2007, tỷ lệ tương ứng là 67,2%, 75,4% thay vào đó tỷ
trọng diện tích cây lâu năm tăng từ 11,6% lên 18,3%. Các loại cây lâu năm được
trồng phổ biến ở nước ta là cà phê, chè, cao su, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho
nhân dân các vùng như Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và miền nuí phía Bắc.
Ngoài ra, nước ta còn chú trọng phát triển chiến lược xuất khẩu các loại
cây công nghiệp có giá trị cao như cà phê, cao su, hồ tiêu, chè… Sản lượng cà
phê, cao su tăng nhanh qua các năm, đóng góp một phần lớn vào kim ngạch xuất
khẩu của cả nước.
Hiện nay, Việt Nam là nước có sản lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ hai
trên thế giới sau Brazil. Về cao su, Việt Nam xuất khẩu sang hơn 30 nước và
vùng lãnh thổ, thu về lượng ngoại tệ có giá trị đứng thứ ba sau gạo và cà phê.
73
Các loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, ngô, đậu tương… ngày càng
tăng trên cả diện tích và sản lượng, đem lại thu nhập ổn định cho người dân và
bước đầu đã được xuất đi các thị trường nước ngoài với giá trị khá cao.
Cây ăn quả là một thế mạnh của nước ta, đặc biệt là vùng đồng bằng sông
Cửu Long, Đông Nam Bộ, miền núi trung du phía Bắc, có được thế mạnh này là
nhờ tác động của cơ chế và các chính sách mới như kinh tế trang trại, tín dụng
nông thôn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến.
Diện tích cây ăn quả tăng nhanh từ 375.000 ha năm 1996 lên 581.000 ha
năm 2007, đã dẫn đến hình thành các vùng cây ăn quả với quy mô lớn mang tính
sản xuất hàng hoá như ĐBSCL 215.000 ha, Đông Nam Bộ 102.000 ha và Bắc
Bộ 98.000 ha.
Về lĩnh vực chăn nuôi, đến nay bên cạnh sự phát triển nhanh chóng của
các hộ chăn nuôi lợn, bò thịt thì nhiều ngành chăn nuôi mới tiếp tục phát triển
theo hướng sản xuất hàng hoá như nuôi cừu, nuôi ong, nuôi gà công nghiệp, vịt
siêu trứng… Đặc biết chăn nuôi theo mô hình trang trại phát triển mạnh.
Bảng 18: Số lƣợng gia súc, gia cầm ở Việt Nam
Trâu Bò Lợn Ngựa Dê, cừu Gia cầm Năm (Nghìn con) (Triệu con)
2922,2 5540,7 27435 110,5 1314,1 219,9 2005
2921,1 6510,8 26855,3 87,3 1525,3 216,6 2006
2996,4 6724,7 26560,7 103,5 1777,6 226,0 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007)
Qua bảng trên cho thấy, mặc dù trong năm 2006, số lượng gia súc gia cầm
có giảm do dịch cúm gà ở gia cầm, dịch heo tai xanh, lở mồm long móng ở lợn
74
và gia súc, nhưng số lượng đàn gia súc gia cầm đã nhanh chóng được gây lại và
tăng cao trong năm 2007.
Nhìn chung, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn,
đang chuyển dần từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá với
xu hướng sản xuất nông nghiệp theo mô hình trang trại quy mô lớn, kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với ngành nông nghiệp Việt
Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu nhiều thiên tai nhất trong khu
vực. Một số loại thiên tai phổ biến ở nước ta là mưa bão, lũ lụt, hạn hán, lốc
xoáy, giá rét, sương muối... Những loại thiên tai này xảy ra liên miên, rải rác trên
khắp cả nước, gây ra thiệt hại lớn về người và của.
Biểu đồ 5: Thiệt hại bình quân do thiên tai gây ra theo phân vùng
(Giai đoạn 2003-2007)
(Đơn vị: triệu VNĐ)
75
(Nguồn: Báo cáo UNDP về biến đổi khí hậu, 2008)
Có thể thấy qua biểu đồ trên, lũ lụt là loại thiên tai gây hậu quả nghiêm
trọng nhất cho nước ta, trong đó vùng Đồng bằng sông Mê Kông là vùng chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất. Trong giai đoạn 2003-2007, thiệt hại do lũ lụt gây ra
cho khu vực này lên tới 1000 tỷ VNĐ. Trong khi đó, khu vực miền núi phía Bắc
là khu vực chịu ảnh hưởng của cả ba loại thiên tai chính là lũ lụt, lốc xoáy và
bão. Cũng trong giai đoạn trên, thiệt hại do cả ba loại thiên tai này đã lên tới 980
tỷ VNĐ.
Không chỉ gây ra hậu quả lớn về kinh tế, thiên tai còn mang đến những
thiệt hại nghiêm trọng về con người. Ở nước ta, hàng năm, số người bị chết, mất
tích hoặc bị thương do thiên tai đều lên tới con số trăm, trong một vài năm lên
tới vài nghìn người.
Biểu đồ 6: Thiệt hại về ngƣời do thiên tai giai đoạn 1995-2007
76
(Nguồn: Báo cáo UNDP về biến đổi khí hậu, 2008)
Qua biểu đồ trên có thể thấy, hàng năm lượng người chết, mất tích hoặc bị
thương ở Việt Nam đều rất cao. Đỉnh điểm là năm 1997, khi trận lũ lịch sử xảy
ra ở miền Trung, đã khiến 3083 người chết hoặc mất tích và 1600 người bị
thương.
Thiên tai đã và đang gây ra những tổn hại to lớn cho nền kinh tế cũng như
xã hội Việt Nam. Đối với ngành nông nghiệp nói riêng, thiệt hại do thiên tai
cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân cũng như các nhà quản lý.
Những thành tựu mà nông nghịêp Việt Nam đạt được trong những năm
qua rất to lớn. Nhưng tổn thất trong nông nghiệp mà chúng ta phải gánh chịu
cũng không phải nhỏ. Trước hết phải kể đến những tổn thất do điều kiện tự nhiên
gây ra.
Các năm trở lại đây, dịch cúm gia cầm, dịch heo tai xanh, lở mồm long
móng ở gia súc đã làm thiệt hại cho ngành chăn nuôi hàng nghìn tỷ đồng. Nhiều
hộ nông dân đã lâm vào cảnh tay trắng, khi gia súc, gia cầm thì bị tiêu huỷ hết
77
mà nợ ngân hàng đã đến hạn phải trả. Họ cũng không thể khôi phục sản xuất do
không thể vay vốn thêm khi vẫn còn nợ từ kỳ trước.
Trong năm 2007, đợt rét đậm rét hại lịch sử diễn ra, làm chết hàng nghìn
đại gia súc, gây tổn thất to lớn cho người chăn nuôi, đặc biệt là các hộ người dân
tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc.
Chỉ riêng trong năm 2008, đã có 10 cơn bão, 6 trận áp thấp nhiệt đới đổ bộ
vào nước ta, gây thiệt hại trên 13.000 tỷ đồng, chưa kể những đợt dịch bệnh trên
vật nuôi, cây trồng...
Như vậy thực tế cho thấy rằng sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường
xuyên gặp rủi ro và tổn thất của mỗi lần rủi ro không phải nhỏ. Điều này gây ảnh
hưởng lớn tới tâm lý của người sản xuất nông nghiệp. Như vậy để khuyến khích
họ tăng cường sản xuất nông nghiệp và cũng để đảm bảo một nền nông nghiệp
phát triển bền vững, ta phải có biện pháp phòng tránh rủi ro, đảm bảo an toàn
trong sản xuất. Theo thực tế cho thấy thì bảo hiểm nông nghiệp là câu trả lời tối
ưu cho vấn đề này.
78
II. Thực trạng phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
1. Tình hình triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
Ở nước ta dịch vụ bảo hiểm trong nông nghiệp cũng đã được triển khai
nhưng chưa rộng rãi, và hầu như chưa phát triển.
Việt Nam triển khai bảo hiểm nông nghịêp chậm hơn so với các nước trên
thế giới. Tới năm 1981, tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới tiến hành thí điểm
bảo hiểm mùa màng ở hai huyện: Vụ Bản và Nam Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh (cũ).
Ở đây số hợp tác xã tham gia bảo hiểm khá đông (71 HTX) song đến năm 1982
số lượng HTX đã giảm đi còn 37 HTX và sau đó thì dự án thí điểm phải dừng
lại.
Trong những năm gần đây, tổng công ty bảo hiểm Việt Nam bắt đầu triển
khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp ở một số địa phương với một số đối tượng
cây trồng, vật nuôi.
Bảo hiểm cây lúa
Bảo hiểm cây lúa được thí điểm ở một số tỉnh như Sóc Trăng, Hà Tĩnh.
Ở Sóc Trăng, mô hình thí điểm bảo hiểm cây lúa chỉ tập trung vào những
hộ có vay vốn ngân hàng để sản xúât. Mỗi hộ nông dân khi tham gia bảo hiểm
phải kê khai diện tích gieo trồng của mình. Số tiền bảo hiểm cũng là số tiền bồi
thường tối đa khi mùa màng mất trắng.
Khi mùa màng bị thiệt hại do thiên tai gây ra thì người tham gia bảo hiểm
được bồi thường theo mức thiệt hại thực tế.
Ở Hà Tĩnh, do đây là vùng gặp rủi ro thường xuyên trong nông nghiệp nên
bảo hiểm cây lúa đã được triển khai trên phạm vi toàn tỉnh.
Phí bảo hiểm cho một sào là 3kg thóc, trong đó tỉnh hỗ trợ 20%, nông dân
nộp 80%.
79
Sau 3 vụ lúa, toàn tỉnh đã triển khai thực hiện bảo hiểm cho trên 30% diện
tích cấy lúa, riêng huyện Kỳ Anh là nơi khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt, gió
bão xảy ra liên tục nên có đến 60 - 70% hộ nông dân tham gia bảo hiểm nông
nghiệp.
Tỉnh Minh Hải từ năm 1995 công ty bảo hiểm tỉnh cũng bắt đầu triển khai
bảo hiểm cho cây lúa với nhiều mức độ khác nhau để nông dân có thể lựa chọn
như:
- Bảo hiểm toàn bộ, phí bảo hiểm là 10 kg thóc
- Bảo hiểm bồi thường 50% trên tổng thiệt hại, phí bảo hiểm là 6 kg thóc
Bảo hiểm chăn nuôi
Trong bảo hiểm chăn nuôi thì Bảo Việt mới chỉ triển khai bảo hiểm cho
hai con vật: lợn và bò sữa.
Đối với bảo hiểm cho lợn nuôi, người chăn nuôi khi tham gia bảo hiểm
nộp phí bảo hiểm từ 1-3% số tiền bảo hiểm (đối với loại bảo hiểm ngắn ngày
như bảo hiểm tiêm phòng từ 7-21 ngày) hoặc phí bảo hiểm 3-8% (đối với bảo hiểm dài hạn 5-8 tháng là thời gian nuôi một lứa lợn thịt).
Khi lợn chết do dịch bệnh người chăn nuôi có bảo hiểm được bồi thường
60% số tiền bảo hiểm, còn gia súc chết do tai nạn bồi thường 40% số tiền bảo
hiểm.
Loại hình bảo hiểm cho bò sữa được thí điểm ở nông trường giống bò sữa
Lâm Đồng từ 1989 đến nay. Trong tổng số 1000 con bò sữa thì 200 con được
bảo hiểm, phí bảo hiểm mỗi con là 7% giá trị con bò. Khi bò chết vì dịch bệnh
người nuôi được bồi thường 60% số tiền bảo hiểm.
Ngoài Bảo Việt, trên thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam còn có sự
tham gia của một công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là Groupama Việt
Nam. Groupama là tập đoàn chuyên về bảo hiểm nông nghiệp lớn nhất tại Pháp.
80
Bắt đầu hoạt động ở Việt Nam vào năm 2001, Groupama hy vọng đây là một thị
trường tiềm năng và doanh nghiệp sẽ gặt hái được nhiều thành công do Việt
Nam có tới 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế
lại rất trái ngược. Trong sáu tháng đầu tiên hoạt động, doanh thu từ bảo hiểm
nông nghiệp của Groupama đạt vỏn vẹn 5 triệu đồng. Thị trường hoạt động của
Groupama cũng chỉ gói gọn trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đông
Nam Bộ. Sau gần 10 năm hoạt động, Groupama chưa hề thu được lợi nhuận từ
việc bán bảo hiểm nông nghiệp. Vì vậy, để duy trì hoạt động của mình ở Việt
Nam, năm 2005, Groupama đã trình đơn yêu cầu được mở rộng lĩnh vực hoạt
động sang các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con
người, tài sản và thiệt hại, vận chuyển hàng hoá, xe cơ giới, cháy nổ, thân tàu và
trách nhiệm dân sự chủ tàu... và đã được phía Việt Nam chấp thuận. Gói dịch vụ
bảo hiểm của Groupama cũng giống như Bảo Việt, chưa đa dạng về chủng loại.
Hiện nay Groupama mới chỉ cung cấp bảo hiểm nông nghiệp cho các đối tượng
là gia súc như trâu, bò, lợn, thuỷ sản như tôm, cá tra, cá basa, các cây công
nghiệp như cà phê, cao su... chứ chưa cung cấp bảo hiểm nông nghiệp cho đàn
gia cầm, thuỷ cầm. Lý do được đưa ra là do quy trình để triển khai và quản lý
bảo hiểm đối với những đối tượng này ở Việt Nam là cực kỳ phức tạp, trong tình
hình hiện nay, doanh nghiệp chưa thể mở rộng khi doanh thu quá thấp mà chi phí
lại quá cao.
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam đều có giấy phép
kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, tuy nhiên chỉ có ba doanh
nghiệp thực sự triển khai là Bảo Việt, Groupama và Bảo Minh, các doanh nghiệp
còn lại đều chưa gia nhập thị trường.
81
2. Những kết quả đã đạt đƣợc
Với thực trạng triển khai bảo hiểm nông nghiệp như trên, kết quả bảo
hiểm nông nghiệp Việt Nam đã đạt được là rất hạn chế.
Trong thời gian triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa ở tỉnh Sóc Trăng vào
vụ hè 1994 có 10.816 hộ nông dân ở hai huyện Mỹ Xuyên và Mỹ Tú tham gia
bảo hiểm cho 7.571 ha. Đến ngày 25/10/1994 công ty bảo hiểm đã bồi thường
thiệt hại cho 662 hộ nông dân trên diện tích 630 ha bị ngập úng, sâu bệnh và
chuột phá. Đến vụ mùa 1994 và vụ đông xuân 1994-1995 có 2.454 hộ nông dân
đăng ký bảo hiểm trên 1.738 ha.
Ở Hà Tĩnh, riêng vụ chiêm xuân 1994-1995 nông dân huyện Kỳ Anh đã
nộp trên 300 triệu đồng phí bảo hiểm và được công ty bảo hiểm bồi thường 450
triệu đồng.
Trong bảo hiểm bò sữa thì tính đến năm 1994 công ty bảo hiểm thu được
130 triệu phí bảo hiểm, số tiền bồi thường là 170 triệu đồng.
Như vậy nếu nói đến hiệu quả mang tính xã hội thì công ty đã đạt được
nhưng tất cả các công ty bảo hiểm khi triển khai một nghiệp vụ thì không chỉ để
ý đến hiệu quả xã hội mà còn phải chú ý đến tính hiệu quả kinh doanh, nhưng ở
đây không đạt được hiệu quả kinh doanh.
Theo báo cáo tài chính 9 tháng đầu năm 2008, doanh thu từ bảo hiểm nông
nghiệp ở ba doanh nghiệp chính là Bảo Việt, Groupama và Bảo Minh như sau:
Bảng 19: Doanh thu bảo hiểm nông nghiệp chín tháng đầu năm 2008
(Đơn vị: triệu đồng)
Doanh nghiệp Doanh thu
Bảo Việt 897
Groupama 12
82
Bảo Minh 4
Tổng doanh thu 913
(Nguồn: Báo cáo tài chính chín tháng đầu năm 2008, Bảo Minh)
Con số trên là rất ít ỏi nếu so với thực tế quy mô nền nông nghiệp nước ta,
tuy nhiên, nếu xét về mức độ tăng trưởng, thì bảo hiểm nông nghiệp trong chín
tháng đầu năm 2008 đã tăng 129% so với cùng kỳ năm 2007. Điều đó cho thấy,
tuy thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam còn đang ở bước sơ khai, nhưng
hứa hẹn sẽ là một thị trường tiềm năng trong tương lai.
3. Những vấn đề còn tồn tại
Tuy bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở nước ta trong một thời
gian tương đối dài, nhưng thị trường hầu như chưa phát triển và trong nhiều giai
đoạn còn có nguy cơ bị thu hẹp. Theo vụ bảo hiểm, tỷ trọng tham gia bảo hiểm
nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay rất thấp, được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 20: Tỷ trọng tham gia bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam năm 2007
(Đơn vị: %)
Đối tƣợng Tỷ trọng
Diện tích cây trồng 1
Trâu, bò 0,24
Đàn lợn 0,1
Gia cầm 0,04
(Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, 2008)
Đối với các doanh nghiệp tham gia vào thị trường bảo hiểm nông nghiệp
thì doanh thu từ loại hình này cũng rất khiêm tốn, đơn cử như Bảo Việt, tập đoàn
bảo hiểm lớn nhất Việt Nam và cũng là doanh nghiệp có thị phần lớn nhất trong
83
thị trường bảo hiểm nông nghiệp, thì doanh thu từ gói dịch vụ này hàng năm
cũng chỉ chiếm xấp xỉ 1% doanh thu của toàn tập đoàn.
Một vấn đề nữa được coi là trở ngại lớn cho sự phát triển của bảo hiểm
nông nghiệp Việt Nam là sự thiếu vắng của các công ty tái bảo hiểm. Bởi tính
chất đặc thù của bảo hiểm nông nghiệp nước ta là tỷ lệ rủi ro rất cao, thì bên
cạnh các doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm, các công ty tái bảo hiểm cũng phải
được chú trọng phát triển. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, chỉ có công ty tái bảo
hiểm Vinare nhưng công ty này cũng từ chối cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm cho
Groupama hay Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm nông nghiệp. Đối với vấn đề
này, hiện nay nhà nước cũng chưa có biện pháp gì để cải thiện tình hình.
Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta chưa đạt được hiệu quả
kinh doanh là vì một số lí do chính sau:
- Bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam chưa có sự tham gia của nhà nước.
Đây là điều kiện tiên quyết, khiến cho thị trường bảo hiểm nông nghiệp đã hình
thành mà không thể phát triển được. Bảo hiểm nông nghiệp là một dịch vụ đặc
biệt, rất cần đến sự hỗ trợ của nhà nước cho cả hai phía là doanh nghiệp và người
nông dân.
- Bảo hiểm phải được tiến hành trên một phạm vi rộng để đảm bảo quy
luật số đông bù số ít, nhưng thí điểm chỉ được thực hiện trên phạm vi hẹp như
vậy điều kiện bảo hiểm chưa được bảo đảm.
- Do áp dụng hình thức tự nguyện nên xảy ra tình trạng lựa chọn bất lợi
cho bảo hiểm, chỉ những hợp tác xã nào dễ bị tổn thất mới tham gia bảo hiểm
còn hợp tác xã nào ít bị tổn thất thì không chịu tham gia bảo hiểm hoặc tham gia
ít.
- Nhận bảo hiểm hầu hết tất cả rủi ro chỉ loại trừ rủi ro do không thực hiện
đúng quy trình canh tác. Trong quá trình thực hiện, công ty bảo hiểm không
84
kiểm soát được mọi rủi ro, không xác định được đúng mức độ thiệt hại, cũng như
không phân biệt rõ các nhân tố ảnh hưởng khách quan, chủ quan dẫn đến rủi ro.
- Áp dụng phí bảo hiểm bình quân giữa các hợp tác xã của huyện trong
tỉnh. Sản lượng lương thực được tiến hành ngoài trời và trên địa bàn rộng với các
điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết khác nhau nên mức phí bảo hiểm không thể
giống nhau giữa các vùng.
- Ngoài ra còn một số tồn tại khác như giám định tổn thất, đại lý bảo hiểm
không được tốt.
Mặc dù vẫn còn những tồn tại chưa giải quyết được nhưng việc triển khai
bảo hiểm nông nghiệp là vô cùng cần thiết, đặc biệt khi nông sản nước ta đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ nông sản các quốc gia khác.
III. Định hƣớng phát triển bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam trong thời gian
tới
Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg về phê duyệt ”Chiến lược phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010” và gần đây nhất là quyết
định số 4056/QĐ-BTC về ”Ban hành kế hoạch phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam 2006-2010” đã đưa ra những mục tiêu và một số chỉ tiêu phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010, theo đó phương hướng phát triển bảo
hiểm nông nghiệp từ nay đến 2010 là:
- Phát triển bảo hiểm nông nghiệp theo hướng toàn diện, an toàn; phát
triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp về mọi phương diện từ cơ cấu đến quy
mô, tốc độ tăng trưởng của thị trường, từ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi và sản
phẩm nông nghiệp, nhà xưởng, máy móc... hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
đến bảo hiểm người nông dân và trách nhiệm của họ; không chỉ triển khai bảo
85
hiểm nông nghiệp ở vùng đồng bằng mà phải chú trọng mở rộng hoạt động ở
miền núi, trung du, vùng sâu vùng xa.
- Phát triển bảo hiểm nông nghiệp phải đảm bảo cho nông dân, ngư dân,
diêm dân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp đúng với nhu
cầu để bảo hiểm nông nghiệp thực hiện đúng chức năng là tấm lá chắn vững
chắc và an toàn cho nền nông nghiệp.
- Phát triển bảo hiểm nông nghiệp vừa đảm bảo khả năng cung cấp đầy đủ,
thường xuyên các loại sản phẩm bảo hiểm phục vụ nhu cầu vừa đảm bảo thu hút
được nhiều người nông dân tham gia.
- Phát triển các mô hình bảo hiểm nông nghiệp hiện đại, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam, sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc
kiểm tra, giám sát, đánh giá... nhằm nâng cao hiệu quả phát triển của bảo hiểm
nông nghiệp.
Với định hướng phát triển bảo hiểm nông nghiệp của nhà nước, các công
ty bảo hiểm trong thời gian tới sẽ phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp theo
các hướng chính như:
- Triển khai bảo hiểm nông nghiệp bắt đầu từ các trang trại lớn, vùng
chuyên canh. Đặc điểm của nền nông nghiệp nước ta là sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún. Vì vậy, bảo hiểm nông nghiệp chỉ có thể bắt đầu từ các trang trại lớn, vùng
chuyên canh bởi ở những nơi đó, người nông dân mới hạch toán được chính xác
thu nhập của mình, đồng thời cũng có mức thu nhập ổn định, từ đó họ mới dễ
dàng chấp nhận bảo hiểm nông nghiệp. Hơn nữa, những đối tượng này có đầu tư
lớn, trình độ nhất định, quy mô sản xuất tương đối lớn, sẵn sàng áp dụng kỹ
thuật. Họ cũng tuân theo quy trình kỹ thuật, quản lý tốt hơn, công ty bảo hiểm dễ
kiểm soát. Khi có chỗ đứng trong thị phần các trang trại, vùng chuyên canh, các
công ty bảo hiểm sẽ dần từng bước mở rộng thị phần sang các đối tượng khác.
86
- Phát triển loại hình bảo hiểm vi mô: Việc phát triển loại hình bảo hiểm vi
mô giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, giám sát, cùng với sự linh hoạt trong thu
phí, bồi thường thiệt hại ở mức độ nhỏ cho các hộ nông dân.
- Triển khai mô hình bảo hiểm chỉ số: Là việc lấy chỉ số khách quan của
từng đối tượng bảo hiểm (ví dụ đối với cây trồng, chỉ số bảo hiểm là thời tiết)
làm căn cứ xét bồi thường. Bảo hiểm chỉ số khắc phụ được những nhựơc điểm
của bảo hiểm truyền thống, quy định mức bồi thường tương ứng với các chỉ số,
mà không cần tiến hành giám định để xác định mức độ thiệt hại của từng cá
nhân. Mức độ bồi thường tính trên năng suất bình quân chung nhiều năm của cả
vùng hay tiểu vùng sinh thái. Ưu điểm của phương pháp này là chỉ số khách
quan, không phụ thuộc vào ý muốn và hành vi chủ quan của con người. Đồng
thời, phương pháp này cũng giảm được chi phí quản lý, tránh được tình trạng
trục lợi bảo hiểm, nông dân cũng dễ dàng nhận bồi thường nếu chẳng may rủi ro
xảy ra. Tuy nhiên, bảo hiểm chỉ số cũng có những nhược điểm như: đặc trưng
của loại hình bảo hiểm này là tính rủi ro đồng nhất, có tính tích tụ và hàng loạt,
doanh nghiệp bảo hiểm cần lường trước được khả năng chi trả rất lớn, trên diện
rộng nếu có thiệt hại do yếu tố thiên nhiên. Ngoài ra, phạm vi bảo hiểm cũng bị
hạn chế, việc lập bản đồ chi tiết vùng rủi ro đồng nhất cũng là điều khó khăn.
IV. Bài học Việt Nam cần rút ra qua quá trình phát triển bảo hiểm nông
nghiệp ở Mỹ Latinh
Qua phân tích thực trạng hai nền nông nghiệp cũng như hai thị trường bảo
hiểm nông nghiệp của Việt Nam và Mỹ Latinh, có thể thấy khá nhiều điểm
tương đồng giữa hai thị trường như:
- Việt Nam và Mỹ Latinh đều là những quốc gia trong đó nền nông nghiệp
đóng vai trò quan trọng đối với an ninh kinh tế, xã hội, lực lượng lao động tham
87
gia vào sản xuất nông nghiệp khá lớn, trình độ canh tác, chăn nuôi chưa cao,
phần lớn còn ở mức hộ gia đình, nhỏ lẻ, manh mún.
- Thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam có quy mô tương đương
với một số thị trường bảo hiểm nông nghiệp kém phát triển ở Mỹ Latinh như
Cộng hoà Dominica, Costa Rica, Colombia, Paraguay và Ecuado, với diện tích
đất được bảo hiểm chỉ xấp xỉ 1% tổng diện tích đất nông nghiệp. Người nông
dân ở những quốc gia này cũng như ở Việt Nam hầu hết đều chưa tiếp cận được
với bảo hiểm nông nghiệp và chưa hiểu về những lợi ích bảo hiểm mang lại.
Tuy nhiên, xét về tổng thể, so với toàn khu vực Mỹ Latinh, thị trường bảo
hiểm nông nghiệp ở Việt Nam còn có những điểm chưa đạt được như:
- Việt Nam cho đến nay chưa có một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh nhằm
điều chỉnh hoạt động bảo hiểm nông nghiệp, đối với cả công ty cồ phần nhà
nước và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam chưa có sự tham gia của nhà
nước vào điều tiết, hỗ trợ thị trường. Ở hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh, chính
phủ các nước đều có chính sách hỗ trợ tín dụng cho cả người dân và các nhà bảo
hiểm cũng như các biện pháp hỗ trợ gián tiếp khác nhằm khuyến khích, tuyên
truyền người dân cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào thị trường
bảo hiểm nông nghiệp.
- Thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam chưa có sự tham gia của
các công ty tái bảo hiểm. Đối với các quốc gia Mỹ Latinh thì thị trường tái bảo
hiểm trong bảo hiểm nông nghiệp cũng quan trọng không kém thị trường chính
bởi nó đảm bảo cho các công ty bảo hiểm nông nghiệp có thể chia sẻ rủi ro một
cách hiệu quả, lâu dài.
- Kênh phân phối bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta chỉ gồm có kênh phân
phối truyền thống là qua các đại lý của hãng bảo hiểm, do đó cũng hạn chế việc
88
mở rộng thị trường. Trong khi đó, ở khu vực Mỹ Latinh, mô hình phân phối qua
chi nhánh ngân hàng được triển khai rộng rãi, đem lại nhiều lợi ích cho cả công
ty bảo hiểm, những người sử dụng dịch vụ và đối với chính bản thân chi nhánh
ngân hàng đó.
- Các gói dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế, chưa
phong phú, trong khi đó, ở các nước Mỹ Latinh, các công ty bảo hiểm cung cấp
hàng loạt các loại hình bảo hiểm nông nghiệp, với mọi đối tượng cây trồng, vật
nuôi, đáp ứng được nhu cầu của người mua bảo hiểm.
- Các công ty bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam cũng chưa xây dựng được
một quy chuẩn về giám sát, bồi thường cho người mua bảo hiểm một cách hiệu
quả nhất, dẫn đến tình trạng tranh chấp trong bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta
trong những năm qua vẫn còn tồn tại, tiêu biểu như vụ tranh chấp giữa nông dân
nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long và Groupama năm 2003. Đối với khu vực
Mỹ Latinh, các công ty bảo hiểm luôn có những chuyên gia trong lĩnh vực bảo
hiểm cũng như nông nghiệp cùng hợp tác làm việc, nhằm đưa ra một quy trình
giám sát chặt chẽ, cơ chế bồi thường khoa học, nhưng đơn giản, dễ hiểu để người
dân có thể tự xác định được và giảm thiểu những bất đồng ý kiến giữa công ty
bảo hiểm và người mua bảo hiểm.
Từ những đặc điểm tương quan trên, có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, nhằm
đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao, bền vững.
1. Những biện pháp cần khuyến khích
Về phía nhà nước
Trong thực tiễn quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở các nước, có
thể thấy rằng thị trường bảo hiểm nông nghiệp không thể phát triển nếu như
89
thiếu vắng vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ, ưu đãi cho cả công ty bảo hiểm
và người mua bảo hiểm. Trong các chính sách hỗ trợ này, nổi bật lên là chính
sách trợ cấp của nhà nước.
Trợ cấp cho người nông dân mua bảo hiểm nông nghiệp, trợ cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là một chính sách tích cực, tuy
nhiên, làm thế nào để trợ cấp giúp thị trường tăng trưởng đồng thời phải phát
triển bền vững là một yêu cầu đặt ra cho chính phủ các nước. Những hình thức
trợ cấp nên khuyến khích là:
- Trợ cấp cho các hoạt động nhằm phát triển thị trường bảo hiểm nông
nghiệp:
+ Thành lập một trung tâm lưu trữ thông tin các vấn đề liên quan đến bảo
hiểm nông nghiệp như: Bản đồ phân bố rủi ro, số liệu về hợp đồng bảo hiểm, giá
trị bảo hiểm, tổng phí bảo hiểm… phân theo vùng, loại cây trồng vật nuôi, loại
rủi ro… nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm khi xâm nhập thị
trường và phát triển dịch vụ.
+ Hỗ trợ cho các doanh nghiệp bảo hiểm khi thử nghiệm những gói dịch
vụ bảo hiểm mới, thông qua đó kích thích doanh nghiệp đa dạng hoá dịch vụ bảo
hiểm nông nghiệp.
+ Hỗ trợ việc đào tạo đội ngũ chuyên viên, cán bộ hoạt động trong các
công ty bảo hiểm nông nghiệp nhằm giúp họ nâng cao trình độ chuyên môn.
+ Hỗ trợ đào tạo cho người nông dân về sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp
cũng như những vấn đề cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm.
+ Hỗ trợ đào tạo đội ngũ các nhà hoạch định chính sách, làm thế nào để
đưa ra những gói bảo hiểm nông nghiệp có lợi nhất cho thị trường.
+ Hỗ trợ kinh phí lắp đặt, vận hành, bảo trì bảo dưỡng hệ thống dự báo
thời tiết.
90
- Trợ cấp để cải cách hệ thống luật pháp và quy định:
+ Chi kinh phí để mời những nhà tư vấn luật và tư vấn kinh tế cùng những
nhà hoạch định chính sách trong nước và ngoài nước, tìm cách làm thế nào để
xây dựng một hệ thống quản lý thị trường bảo hiểm nông nghiệp hiệu quả nhất
mà không tách rời ra khỏi ngành bảo hiểm nói chung.
+ Hỗ trợ kinh phí đào tạo những nhà quản lý trong ngành bảo hiểm nông
nghiệp, làm nhiệm vụ giám sát thị trường bảo hiểm, sao cho thị trường đi đúng
hướng, tối đa hoá lợi ích xã hội.
+ Hỗ trợ nhằm nâng cao những biện pháp bảo vệ khách hàng.
- Trợ cấp cho thị trường tái bảo hiểm:
+ Trợ cấp tín dụng cho các công ty bảo hiểm tư nhân khi thâm nhập thị
trường bảo hiểm nông nghiệp ở những vùng xa xôi hẻo lánh.
+ Đóng vai trò như một nhà đồng tái bảo hiểm với các công ty bảo hiểm tư
nhân khác.
- Trợ cấp cho quỹ phòng chống thiên tai:
+ Xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai sớm nhằm giúp người dân có thể
đối phó, có những biện pháp ngăn ngừa tổn thất xảy ra khi có thiên tai.
- Ngoài ra còn có những cách hỗ trợ khác như:
+ Hỗ trợ về kỹ thuật, nâng cao trình độ canh tác, chăn nuôi của người
nông dân, nhằm giảm thiểu những rủi ro không đáng có xảy ra.
+ Sử dụng các công cụ tài chính để di chuyển một phần rủi ro sang thị
trường bảo hiểm quốc tế.
Trong những kiến nghị để phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp, vấn đề cốt
lõi nhất là chính sách từ phía chính phủ. Trong đó chính sách quan trọng nhất,
mang tính quyết định đối với thị trường bảo hiểm nông nghiệp là vấn đề trợ cấp.
Việc chính phủ trợ cấp cho bảo hiểm nông nghiệp là rất cần thiết, tuy nhiên
91
không nên chỉ trợ cấp trực tiếp phí bảo hiểm cho người dân, vì như vậy chỉ giải
quyết được mục tiêu tăng trưởng trước mắt. Để thị trường bảo hiểm nông nghiệp
phát triển bền vững, chính phủ cần quan tâm hỗ trợ về nhiều mặt như: thay đổi
chính sách, hỗ trợ về kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ nhà nước, cho đội ngũ nhân
viên công ty bảo hiểm, củng cố thị trường tài chính…
Về phía các công ty bảo hiểm
- Coi công tác nghiên cứu thị trường, phân loại khách hàng, khoanh vùng
rủi ro là một công tác trọng tâm cần đầu tư thời gian, công sức và tiền của. Bởi
đây là một trong những điều kiện cơ bản để từ đó đưa ra những kế hoạch kinh
doanh, phát triển sản phẩm của công ty.
- Chú ý mở rộng thị trường, đa dạng hoá gói dịch vụ bảo hiểm với mức
phí bảo hiểm linh hoạt, mức bồi thường hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều
hộ gia đình sản xuất, chăn nuôi. Ở mỗi địa phương đều có những đặc điểm về
khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau, những rủi ro do thiên tai xảy ra cũng rất khác
nhau, do đó, các công ty bảo hiểm cần linh hoạt áp dụng nhiều loại hình bảo
hiểm, làm sao để vừa đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp đồng thời chia sẻ rủi ro
cho người nông dân.
- Cải cách phương pháp quản lý, chú trọng việc đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ bảo hiểm, không ngừng học tập các mô
hình công ty bảo hiểm nông nghiệp đã thành công ở các thị trường bảo hiểm
nông nghiệp lớn trên thế giới, áp dụng các kinh nghiệm một cách linh hoạt vào
thị trường trong nước.
- Xây dựng hệ thống đại lý, môi giới bán hàng rộng rãi, có thể kết hợp với
các chi nhánh ngân hàng địa phương để thiết lập mô hình ngân hàng – bảo hiểm,
nhằm tận dụng được thị trường và nhóm khách hàng sẵn có của các chi nhánh
92
ngân hàng địa phương, đặc biệt là những ngân hàng như: Ngân hàng chính sách
xã hội, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn…
- Tích cực tìm kiếm các đối tác nhằm thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm,
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
- Cải tiến quy trình giám định, bồi thường tổn thất sao cho nhanh chóng, chính
xác, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia bảo hiểm có được
điều kiện tái sản xuất tốt nhất nếu như không may rủi ro xảy ra.
Về phía người nông dân
- Tăng cường tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho người nông dân về tầm
quan trọng của bảo hiểm nông nghiệp, về những lợi ích họ nhận được từ bảo
hiểm nông nghiệp.
- Hướng dẫn họ lựa chọn gói bảo hiểm nông nghiệp phù hợp nhất với
mình, sao cho họ có thể phòng tránh được rủi ro nhưng phí để họ chi trả cho gói
bảo hiểm đó là hợp lý. Với những từ ngữ chuyên môn trong các hợp đồng bảo
hiểm, các công ty bảo hiểm cần giải thích cặn kẽ cho họ hiểu, có như vậy người
dân mới tin tưởng sử dụng dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp.
- Hỗ trợ người nông dân về mặt kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, nhằm đáp
ứng được những điều kiện mà hợp đồng bảo hiểm nông nghiệp đặt ra, giúp họ dễ
dàng tiếp cận với các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp hơn.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để người nông dân có ý thức chủ
động phòng tránh rủi ro ngay cả khi các công ty bảo hiểm chưa can thiệp, nhằm
bảo vệ tài sản của chính mình và giảm thiểu tổn thất không đáng có khi rủi ro
xảy ra.
2. Những biện pháp cần hạn chế
Về phía chính phủ
93
Mặc dù bảo hiểm nông nghiệp là một ngành đặc thù, không thể thiếu sự hỗ
trợ từ phía nhà nước, nhưng điều đó không có nghĩa là chính phủ sẽ đóng vai trò
là nhà cung cấp độc quyền cho dịch vụ này. Kinh nghiệm ở một số nước Mỹ
Latinh cho thấy, nếu công ty bảo hiểm nhà nước là doanh nghiệp bảo hiểm độc
quyền, sẽ dẫn đến những vấn đề sau:
- Các công ty này chịu sự chi phối từ phía chính phủ, là nơi áp dụng các
chính sách của chính phủ. Nhưng chính phủ lại luôn muốn đảm bảo lợi ích xã
hội, nên buộc các công ty bảo hiểm phải cung cấp gói bảo hiểm nông nghiệp cho
mọi rủi ro. Hậu quả là, các công ty phải gánh trên vai gánh nặng quá lớn, vượt
quá khả năng của họ. Điều này dẫn đến sự sụp đổ của mô hình các công ty bảo
hiểm nhà nước ở Mexico những năm 90 của thế kỷ trước.
- Các công ty không có quyền tự quyết cho các chính sách, chiến lược
kinh doanh của mình, tất cả phải thông qua một quy trình ra quyết định có sự
tham gia của nhiều ban ngành trong chính phủ. Điều đó gây ra một độ trễ rất lớn
trong chính sách hoạt động. Mặt khác, nông nghiệp lại là một ngành có nhiều
thay đổi, nên các chính sách này không đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường.
Vì những nhược điểm trên, nhà nước ta không nên giữ thế độc quyền
trong thị trường bảo hiểm nông nghiệp, cần mở cửa để các công ty nước ngoài
và công ty tư nhân vào đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước sẽ giữ vai trò
đầu tàu, định hướng thị trường.
Tuy nhiên, không phải vì những nhược điểm của công ty bảo hiểm nhà
nước mà chính phủ nên thả nổi thị trường cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài và tư nhân. Những công ty bảo hiểm nước ngoài và tư nhân, mục tiêu hàng
đầu của họ là lợi nhuận. Do đó, khi tiến hành bảo hiểm nông nghiệp, họ có thể
loại đi những trường hợp rủi ro cao, chỉ nhận bảo hiểm cho những đối tượng có
rủi ro thấp, hay chỉ bảo hiểm cho những người sản xuất với quy mô lớn, vì đây là
94
những đối tượng dễ đánh giá và dễ quản lý. Hiện tượng này khiến thị trường bảo
hiểm nông nghiệp phát triển lệch lạc, chỉ có lợi cho một số ít những người nông
dân, lợi ích của toàn xã hội bị thu hẹp, mục tiêu ban đầu của chính phủ không
thực hiện được.
Do đó, việc mở cửa toàn bộ, phó thác thị trường bảo hiểm nông nghiệp
cho các nhà đầu tư nước ngoài như một số nước Mỹ Latinh đang làm về lâu dài
là không có lợi cho thị trường trong nước.
Với vấn đề trợ cấp trong nông nghiệp, chính phủ không nên chỉ quan tâm
đến trợ cấp trực tiếp phí bảo hiểm cho những người nông dân mua bảo hiểm bởi
các lý do sau:
- Khi chính phủ chỉ trợ cấp cho những hộ nông dân mua bảo hiểm nông
nghiệp, thì vô tình, chính phủ đang cung cấp một loại hàng hoá tư nhân, không
phải hàng hoá công cộng. Không phải tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ
trợ cấp này. Bởi trên thực tế nước ta và nhiều nước đang phát triển khác, bảo
hiểm nông nghiệp mới chỉ được bán cho những hộ sản xuất quy mô lớn, còn
những người cần trợ cấp nhất là những hộ nông dân nghèo, sản xuất nhỏ thì lại
chưa có đủ điều kiện để mua bảo hiểm nông nghiệp, do đó cũng không được
hưởng trợ cấp. Như vậy, lợi ích mà trợ cấp đem lại cho xã hội sẽ không cao.
- Trợ cấp trực tiếp phí bảo hiểm nông nghiệp trong thực tế chỉ là một biện
pháp tạm thời để phát triển thị trường. Khi thị trường phát triển đến một quy mô
nhất định, chính phủ không có đủ tiềm lực để trợ cấp tiếp cho tất cả đối tượng
tham gia bảo hiểm nữa thì đối tượng nghèo sẽ không thể tiếp tục tham gia. Hơn
nữa, việc trợ cấp trực tiếp trên % phí bảo hiểm cũng khiến người mua bảo hiểm
ỷ lại vào khoản trợ cấp, không có thói quen chi trả toàn bộ cho dịch vụ mình tiêu
dùng. Những vấn đề này làm cản trở sự phát triển của một thị trường bảo hiểm
nông nghiệp bền vững.
95
Những phân tích trên cho thấy, thị trường bảo hiểm nông nghiệp cần có sự
kết hợp giữa các công ty bảo hiểm nhà nước và công ty bảo hiểm nước ngoài để
đạt được cả hai mục đích là lợi nhuận và lợi ích xã hội. Bên cạnh đó, vấn đề trợ
cấp cho bảo hiểm nông nghiệp cũng không nên chỉ gói gọn trong biện pháp trợ
cấp trực tiếp trên % phí bảo hiểm cho người mua bảo hiểm, mà phải mở rộng
hình thức trợ cấp gián tiếp, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm nông
nghiệp, một kênh tài chính quan trọng giúp nền nông nghiệp phát triển trong
những năm tới.
Về phía công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm không nên chỉ tập trung ở một địa bàn nhỏ, mà phải
luôn mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Có như vậy, quy luật
số đông bù số ít trong bảo hiểm mới được phát huy tối đa tác dụng, mang lại lợi
nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Về mặt nghiệp vụ, các nhà cung cấp bảo hiểm không nên quá chú trọng
vào các sản phẩm truyền thống, mà phải luôn tìm hiểu, khai thác thị trường, đưa
ra những gói sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp mới, phù hợp với tình hình từng
địa phương, trong từng thời điểm.
Tuy các công ty bảo hiểm trong ngành bảo hiểm nông nghiệp sẽ được trợ
cấp tín dụng từ phía chính phủ nhưng cũng không nên ỷ lại vào nguồn vốn này,
mà phải tiến hành các nghiệp vụ tái bảo hiểm, tìm các nguồn tín dụng từ các tổ
chức khác, quan hệ mật thiết với các ngân hàng, để giảm rủi ro trong kinh doanh
xuống mức thấp nhất.
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm nông nghiệp không nên chỉ quan tâm đến
việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm mà cần chú trọng đến việc cung cấp các dịch vụ
giá trị gia tăng khác như: hỗ trợ người nông dân về kỹ thuật canh tác, chăn nuôi,
cung cấp giống cây trồng, vật tư nông nghiệp, vừa để tạo lòng tin với người dân,
96
vừa để giảm thiểu những rủi ro không đáng có cho chính mình và cho người mua
bảo hiểm.
Về phía người nông dân
Đối với người nông dân, không nên đưa ra những dự báo mang tính chung
chung, ví dụ như: Năm nay sẽ xảy ra nhiều thiên tai, hay ít thiên tai… vì như vậy
sẽ ảnh hưởng đến quyết định mua bảo hiểm của người dân. Trước khi đưa ra dự
báo, các chuyên gia cần quan tâm đến thái độ của người nông dân trước các dự
báo, có thể quá chủ quan mà không sử dụng các biện pháp phòng tránh rủi ro,
hoặc quá lo sợ dẫn đến những lãng phí không cần thiết.
97
KẾT LUẬN
Sản xuất nông nghiệp là một ngành chịu nhiều rủi ro do phụ thuộc phần
lớn vào điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng, khí hậu… Mỗi năm, thiệt hại do không
quản lý được rủi ro trong nông nghiệp gây ảnh hưởng nặng nề cho nền kinh tế
các nước đang phát triển và là một trong những nguyên nhân gia tăng nghèo đói,
bất bình đẳng trong thu nhập.
Trong khi các rủi ro không thể loại trừ được hoàn toàn, người ta có thể
giảm nhẹ và kiềm chế được những tổn thất do các rủi ro này gây ra. Khoá luận
này đã tập trung đi sâu phân tích về bảo hiểm nông nghiệp, một công cụ di
chuyển rủi ro hiệu quả của người nông dân. Xuyên suốt đề tài, khoá luận tập
trung đi sâu nghiên cứu mô hình phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở
khu vực Mỹ Latinh, một khu vực có nhiều yếu tố tương đồng với nước ta về kinh
tế, xã hội, địa lý, và khí hậu. Thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở các nước Mỹ
Latinh tuy đã phát triển từ rất sớm, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và chưa có quy
mô tương xứng với tiềm năng của khu vực, diện tích đất nông nghiệp được bảo
hiểm còn rất thấp, mới chỉ tập trung ở các khu vực trung tâm, những vùng
chuyên canh hay những trang trại có quy mô sản xuất lớn. Bảo hiểm nông
nghiệp còn chưa đến được với những người nông dân nghèo, sản xuất trên quy
mô nhỏ lẻ, manh mún, ở những vùng xa xôi hẻo lánh.
Ở nước ta, bảo hiểm nông nghiệp đã được thực hiện thí điểm ở một số địa
phương, bước đầu đã đạt được những kết quả tốt về mặt xã hội, tuy nhiên hiệu
quả về mặt kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm gần như chưa đạt được. Bên
cạnh đó, bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta chưa được áp dụng trên quy mô lớn,
thị trường bảo hiểm nông nghiệp gần như chưa hình thành. Lý do chính là nhà
nước ta không có một chính sách cụ thể để hỗ trợ thị trường bảo hiểm nông
98
nghiệp, đồng thời, người dân cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của bảo
hiểm nông nghiệp trong sản xuất chăn nuôi.
Qua quá trình phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp Mỹ Latinh, Việt
Nam có thể rút ra rất nhiều bài học để áp dụng vào thị trường trong nước. Một
trong những bài học quan trọng nhất để phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp
cho người dân là một chính sách hỗ trợ thiết thực, rõ ràng từ phía chính phủ cho
người nông dân, cho các công ty bảo hiểm… Chính sách của chính phủ là nhân
tố quyết định sự phát triển của thị trường bảo hiểm nông nghiệp, sẽ đi theo
hướng nào, sẽ phát triển nhanh hay chậm bởi trên thực tế, việc cung cấp bảo
hiểm nông nghiệp không thể thành công nếu như không có sự hỗ trợ từ phía
chính phủ.
Trong thời gian tới, với nỗ lực của nhà nước cũng như người dân và các
công ty bảo hiểm, hy vọng rằng thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam sẽ
phát triển tích cực, là một công cụ hữu hiệu chia sẻ rủi ro với người nông dân,
giảm thiểu tổn thất trong nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông
nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân và gia tăng phúc lợi xã hội.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Anh
1. Bente Corneliu, Agricultural Insurance in the Emerging Markets, University
of Oradea, the United State of America
2. Carlos Enrique Guanziroli, Managing agricultural insurance in Brazil
3. Cecilia Conde, Sergio Saldana, Victor Magana, Human Development Report
2007/2008 – Themantic Regional Paper: Latin America
4. David C. Hatch (2008), Agricultural Insurance in Latin America:
Observations and Critical Success Factors, IICA
5. Drought Monitoring Approaches for Parametric Agro-reinsurance in Mexico,
AGROASEMEX, S.A.
6. Mark Wenner and Diego Arias, Agricultural Insurance in Latin America:
Where Are We?, Inter American Development Bank
7. Mark Wenner (2007), New developments in Agricultural Insurance: A Latin
American and Caribbean Perspective, Inter American Development Bank
8. Các trang web:
-http://website.eclac.cl/anuario_estadistico/anuario_2007/eng/index.asp
-http://www.iica.int/Esp/dg/Documentos%20Institucionales/2008%20Annual%
20 Report%20PARA%20OEA%20version%20ingl%C3%A9s.pdf
II. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg về phê duyệt ”Chiến lược phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”
2. Quyết định số 4056/QĐ-BTC về ”Ban hành kế hoạch phát triển thị trường bảo
hiểm Việt Nam 2006-2010”
100
3. PGS - TS Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Bảo Hiểm, nhà xuất bản
Thống Kê
4. PGS - TS Nguyễn Văn Định (2003), Giáo trình Quản Trị Kinh Doanh Bảo
Hiểm, nhà xuất bản Thống Kê
5. Các trang web:
- http://www.agro.gov.vn/news/newsDetail.asp?targetID=2751
- http://www.vnn.vn/kinhte/2004/07/176660/
-http://www.webbaohiem.net/index.php/Tin-tuc-lien-quan/Bao-hiem-nong-
nghiep-loay-hoay-tim-duong.html
- http://tintuc.timnhanh.com/xa_hoi/20081121/35A89D7F/
- http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=430&idmid=3
101