TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------***---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM

: A13 : 45

Sinh viên thực hiện : Đinh Thị Ngọc Mai Lớp Khóa Giáo viên hướng dẫn : Cô Lê Minh Trâm

Hà Nội, tháng 5 năm 2010

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP ............ 4

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẨN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP ................................................................ 4

II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI ............................................................................................ 8

III. CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP PHỔ BIẾN .................. 10

1. Bảo hiểm cây trồng .................................................................................... 10

1.1. Đối tƣợng và phạm vi bảo hiểm ......................................................... 10

1.2. Giá trị bảo hiểm ................................................................................. 12

1.3. Các chế độ bảo hiểm cây trồng .......................................................... 13

1.4. Phƣơng pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng ................................... 14

1.5. Giám định và bồi thƣờng tổn thất ...................................................... 17

2. Bảo hiểm chăn nuôi ................................................................................... 18

2.1. Đối tƣợng và phạm vi bảo hiểm ......................................................... 18

2.2. Giá trị bảo hiểm và chế độ bảo hiểm .................................................. 19

2.3. Phƣơng pháp xác định phí bảo hiểm chăn nuôi .................................. 20

2.4. Giám định và bồi thƣờng tổn thất ...................................................... 22

IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BÊN KHI THAM GIA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM ............................................................................................................ 23

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ .......... 25

I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ ............... 25

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ ................................................................................................................ 26

1. Bảo hiểm cây trồng ................................................................................... 26

1.1. Lịch sử phát triển của bảo hiểm cây trồng tại Mỹ .............................. 26

1.2. Các loại hình bảo hiểm cây trồng tại Mỹ............................................ 30

i

1.3. Hình thức công ty tham gia thị trƣờng bảo hiểm cây trồng Mỹ .......... 36

1.4. Hoạt động tái bảo hiểm cây trồng liên bang ....................................... 39

1.5. NCIS – Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ ........................................... 42

2. Bảo hiểm chăn nuôi ................................................................................... 42

2.1. Bảo hiểm “Phòng ngừa rủi ro chăn nuôi” (Livestock Risk Protection) ..................................................................................................................... 43

2.2. Bảo hiểm “Tỷ lệ lợi nhuận gộp cho gia súc” (Livestock Gross Margin) ..................................................................................................................... 45

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ ........................................................................................................ 48

1. Thành tựu đạt đƣợc .................................................................................... 48

1.1. Thành tựu của bảo hiểm cây trồng ..................................................... 48

1.2. Thành tựu của bảo hiểm chăn nuôi .................................................... 53

2. Hạn chế trong quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ ............... 55

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM ......................................... 58

I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ............................................................................................................. 58

1. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam ................................ 58

2. Tình hình triển khai bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam .......................... 59

3. Những kết quả đã đạt đƣợc ........................................................................ 63

4. Những vấn đề còn tồn tại ........................................................................... 64

II. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................................ 66

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM.................................................... 69

1. Tăng cƣờng vai trò của chính phủ .............................................................. 71

2. Tăng cƣờng vai trò của các công ty bảo hiểm ............................................ 73

3. Tăng cƣờng nhận thức của ngƣời nông dân ............................................... 75

ii

4. Xây dựng khung chính sách cho phát triển thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam ....................................................................................................... 76

4.1. Giai đoạn 1: Phát triển thị trƣờng bảo hiểm chỉ số ............................. 76

4.2. Giai đoạn 2: Mở rộng thị trƣờng bảo hiểm ......................................... 82

4.3. Giai đoạn 3: Chuyên môn hóa thị trƣờng bảo hiểm ............................ 84

KẾT LUẬN .................................................................................................. 87

iii

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 89

DANH MỤC VIẾT TẮT

Tiếng Anh Tiếng Việt Ký hiệu viết

tắt

ARPA Luật bảo vệ rủi ro nông nghiệp Agriculture Risk

Protection Act

Bảo hiểm nông nghiệp BHNN

Sàn giao dịch Chicago CBOT The Chicago Board of

Trade

GAO Government Cơ quan giải trình Chính phủ

Accountability Office Mỹ

Giá trị bảo hiểm GTBH

FCIC Federal Crop Insurance Hội đồng bảo hiểm cây trồng

Corporation liên bang

Farm Service Agency Cơ quan dịch vụ nông nghiệp FSA

Bảo hiểm cây trồng đa thảm họa MPIC Multi-peril crop

insurance

NCIS Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ National Crop Insurance

Services

RMA Risk Management Cơ quan quản lý rủi ro (thuộc Bộ

Agency Nông nghiệp Mỹ)

USDA Bộ Nông nghiệp Mỹ U.S.Department of

iv

Agriculture agency

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng) trên thế giới ................................ 9

Bảng 2: Trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cho khoản lỗ ròng .............. 41

cuối cùng ...................................................................................................... 41

Bảng 3: Tổng hợp tình hình phát triển bảo hiểm cây trồng cho thảm họa định

danh tại Mỹ, 1999-2008 ............................................................................... 50

Bảng 4: Tổng hợp tình hình phát triển bảo hiểm cây trồng đa thảm họa tại

Mỹ, 1999-2008 ............................................................................................. 52

Bảng 5: Tổng kết tình hình kinh doanh bảo hiểm chăn nuôi tại Mỹ .............. 54

(từ năm 2007- 25/2/2010) ............................................................................. 54

Bảng 6: Tình hình triển khai bảo hiểm cây lúa của Bảo Việt ........................ 61

Bảng 7: Tình hình kinh doanh của Groupama .............................................. 62

Biểu đồ: Quản lý rủi ro tƣơng quan của danh mục bảo hiểm bằng cách phân

phối tổn thất ................................................................................................. 82

Sơ đồ: Đặc trƣng của nông hộ và kỳ vọng lâu dài cho thị trƣờng bảo hiểm

nông nghiệp ở Việt Nam: Bảo hiểm chỉ số dễ tiếp cận nhất cho số đông các

v

nông dân ....................................................................................................... 86

LỜI MỞ ĐẦU

Sản xuất nông nghiệp luôn phải chịu rất nhiều rủi ro nhƣ thiên tai, dịch

bệnh. Thiên nhiên khắc nghiệt có thể khiến hàng ngàn hecta cây trồng bị mất

trắng, đi kèm sau đó là những tổn thất tài chính nặng nề đối với ngƣời nông

dân. Đây chính là tiền đề cho việc phát triển thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp.

Năm 1988 đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm nông nghiệp tại nƣớc Phổ.

Từ đó đến nay, bảo hiểm nông nghiệp đã và đang đƣợc áp dụng rộng khắp

trên toàn thế giới với đa dạng các hình thức và tổng phí bảo hiểm ngày một

tăng cao. Đặc biệt, tại Mỹ bảo hiểm nông nghiệp đã trở thành công cụ bảo vệ

đắc lực nhất đối với ngƣời nông dân. Theo báo cáo tháng 2/2010 của Bộ

Nông nghiệp Mỹ, tính đến cuối năm 2009, 80% diện tích đất nông nghiệp đã

đƣợc bảo hiểm, tƣơng đƣơng với 265 triệu mẫu Anh, tổng số phí bảo hiểm chỉ

tính riêng cho bảo hiểm cây trồng đa thảm họa đã đạt 8.94 tỷ USD, gấp 1.3

lần so với tổng phí bảo hiểm nông nghiệp toàn thế giới năm 2001. Tuy nhiên,

những thành tựu nổi bật trong triển khai bảo hiểm nông nghiệp lại chỉ đạt

đƣợc tại các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ Mỹ với thị phần thị trƣờng bảo

hiểm nông nghiệp toàn cầu đạt 55% (bao gồm Mỹ và Canada), trong khi đó,

con số này của các quốc gia Châu Á chỉ đạt 4% năm 2007 [Schuetz, FAO,

2007].

Đặc biệt, tại Việt Nam, một quốc gia có tới 60-70% dân số làm trong

nông nghiệp, nhƣng khái niệm bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn khá xa lạ với

ngƣời nông dân. Sau gần 20 năm thực hiện thí điểm, thị trƣờng bảo hiểm

nông nghiệp vẫn còn là một mảnh đất trống. Không tham gia bảo hiểm, ngƣời

nông dân phải gánh chịu những hậu quả nặng nề khi rủi ro xảy ra, nhà nƣớc

phải chi ngân sách hỗ trợ cho nông dân bị thất bát, trong khi các công ty bảo

1

hiểm lại bỏ sót một thị trƣờng đầy tiềm năng.

Điểm trái ngƣợc giữa thành công của bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ và

sự yếu kém của thị trƣờng này tại Việt Nam là động lực để ngƣời viết chọn đề

tài “Bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ và một số kiến nghị đối với chính sách

phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam” để viết khóa luận tốt nghiệp

của mình.

Trong bài khóa luận này, ngƣời viết tập trung nghiên cứu thực trạng

phát triển của thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Mỹ trong khoảng thời gian từ

khi bảo hiểm nông nghiệp ra đời cho đến năm 2009.Thông qua các phân tích

về thực trạng hoạt động bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ, từ đó thấy đƣợc những

yếu tố dẫn đến thành công của loại hình bảo hiểm này tại Mỹ, ngƣời viết cũng

mạnh dạn đƣa ra những kiến nghị đối với chính sách phát triển bảo hiểm nông

nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới.

Xuyên suốt bài khóa luận, ngƣời viết đã sử dụng kết hợp những

phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

- Phƣơng pháp tổng hợp thống kê: tổng hợp từ các nguồn tài liệu hiện

có nhƣ các trang web trên internet (trang web của FAO, Bộ Nông nghiệp

Mỹ…), sách, báo, tạp chí kinh tế và nông nghiệp.

- Phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu: lập bảng so sánh đối chiếu

quá trình phát triển của các hình thức bảo hiểm nông nghiệp qua các năm,

phân tích mô hình quản lý của Chính phủ Mỹ để rút ra những kiến nghị đối

với chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam.

Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc chia

thành ba chƣơng:

Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nông nghiệp

Chương II: Hoạt động bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ

Chương III: Một số kiến nghị đối với chính sách phát triển bảo hiểm

2

nông nghiệp tại Việt Nam

Do những hạn chế về kiến thức chuyên môn và khó khăn trong việc tìm

kiếm thông tin, khóa luận này còn nhiều thiết sót, em mong nhận đƣợc sự góp

ý của thầy cô để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Lê Minh Trâm, ngƣời đã

3

nhiệt tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp.

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM

NÔNG NGHIỆP

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẨN THIẾT

CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP

Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất của xã hội, cung

cấp lƣơng thực và thực phẩm cho con ngƣời, nguyên liệu cho công nghiệp

nhẹ, công nghiệp thực phẩm và hàng hóa để xuất khẩu. Nông nghiệp cũng là

ngành thu hút nhiều lao động xã hội, góp phần tạo công an việc làm và chiếm

một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sản xuất nông

nghiệp lại có xu hƣớng không ổn định do những đặc điểm riêng biệt của

ngành này, đó là:

- Sản xuất nông nghiệp đƣợc tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp,

phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Dù ngày nay, khoa học kỹ thuật đã hết sức

phát triển nhƣng con ngƣời vẫn không thể chế ngự đƣợc thiên nhiên, đặc biệt

là những thảm họa lớn mang tính chất hủy diệt. Bởi vậy, sản xuất nông

nghiệp vẫn luôn bị đe dọa bởi điều kiện tự nhiên, thậm chí những tổn thất lớn

luôn rình rập đối với ngƣời nông dân.

- Đối tƣợng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống – cây trồng và vật

nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất

định. Đó là các quy luật sinh trƣởng, phát triển, diệt vong, đồng hóa, dị hóa,

biến dị, di truyền... Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay

đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của

cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Do vậy, xác

suất rủi ro trong nông nghiệp lớn hơn nhiều so với các ngành khác.

- Chu kì sản xuất trong nông nghiệp thƣờng kéo dài, chẳng hạn nhƣ cây

lúa khoảng 4 tháng, cây cà phê khoảng 20 đến 30 năm; cây cao su trên 50

4

năm; thêm vào đó, thời gian lao động và thời gian sản xuất lại không trùng

nhau, do đó việc đánh giá, kiểm soát; việc phòng ngừa và quản lý rủi ro rất

khó thực hiện.

- Trong sản xuất nông nghiệp, có hàng trăm, hàng nghìn loại cây trồng

và vật nuôi khác nhau, mỗi loại lại có nguy cơ gặp những rủi ro khác nhau,

trong đó, có những rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng, mang tính chất thảm

họa. Điều đó đã ảnh hƣởng rất lớn đến tâm lý của ngƣời chăn nuôi và trồng

trọt, đặc biệt khi muốn mở rộng quy mô sản xuất. Họ không dám mạnh dạn

vay vốn để đầu tƣ bởi tài sản thế chấp vốn vay không có mà rủi ro lại luôn

rình rập. Các rủi ro thƣờng gặp trong nông nghiệp bao gồm rất nhiều loại và

có thể gây ra tổn thất lớn, cụ thể bao gồm các loại rủi ro cơ bản sau đây:

 Hạn hán: Hạn hán có tác động xấu kéo dài, thậm chí sang những mùa

vụ tiếp theo. Hơn nữa, loại rủi ro này thƣờng xảy ra trên diện rộng cộng với

việc các cây trồng có thể bị dịch bệnh tấn công do thiếu nƣớc tƣới nên những

tổn thất đối với ngƣời nông dân khi gặp phải hạn hạn kéo dài là rất lớn.

 Gió bão: Gió mạnh, bão lớn, áp thấp nhiệt đới thƣờng xuất hiện ở các

nƣớc có khí hậu nhiệt đới. Hậu quả trực tiếp của gió bão là làm đổ và gãy các

loại cây trồng và vật nuôi bị cuốn trôi..

 Lƣợng mƣa quá lớn: Cây trồng cần nƣớc tƣới và phần lớn sản xuất

nông nghiệp trên thế giới đang phát triển dựa vào nƣớc mƣa. Tuy nhiên,

lƣợng mƣa quá lớn có thể phá hủy vụ mùa và gây tác hại nghiêm trọng, đặc

biệt với cây mới đƣợc gieo trồng. Rủi ro này xảy ra trong hoặc trƣớc khi thu

hoạch cũng có thể khiến cả vụ mùa bị mất trắng, ví dụ nhƣ nho có thể bị nứt

quả và không thể bán đƣợc ra thị trƣờng.

 Lũ lụt: rủi ro này có thể xảy ra do mƣa quá nhiều hoặc dài ngày khiến

nƣớc sông hồ tăng đột biến, khiến đê điều bị sạt lở, các công trình thủy lợi bị

hƣ hại, cây trồng và vật nuôi bị cuốn trôi…Đôi khi lũ lụt là một trong những

5

kết quả của các cơn bão cấp độ lớn.

 Sƣơng muối: mặc dù đây không phải là rủi ro phổ biến ở hầu hết các

nƣớc nhƣng tại một số khu vực nhƣ Đông Âu và Trung Đông, nơi có địa hình

thung lũng phổ biến thì sƣơng muối có nguy cơ xảy ra thƣờng xuyên, có tác

hại đặc biệt tới rau và cây ăn quả. Sƣơng muối gây ra thiệt hại do việc làm

lạnh thành phần nƣớc của các tế bào thực vật, khiến cây, quả bị hƣ hại sau đó.

Sƣơng muối là rủi ro có thể tác động đến một khu vực rộng lớn, gây tổn thất

nghiêm trọng đối với ngƣời trồng trọt. [Grant Thornton, 2009]

 Mƣa đá: mƣa đá rất phổ biến tại các nƣớc Âu, Mỹ, có thể khiến mùa

màng bị mất trắng dù loại thiên tai này lại dễ dự đoán hơn cả và thƣờng rất

hạn chế về vùng thiệt hại, chỉ từ một vài mét vuông, đến vài trăm và hiếm khi

lên đến một vài km. Khi mƣa đá xảy ra, ngƣời nông dân hầu nhƣ không có

cách nào phòng vệ, thậm chí cơ quan nghiên cứu đã chứng minh việc dùng

công nghệ hiện đại để phá vỡ các đám mây cũng không mấy hiệu quả.

 Tuyết: tuyết phủ dày có thể phá hủy tất cả các loại cây trồng, bao

gồm cây ăn quả. Các khu vực dễ bị tổn thƣơng bởi loại thiên rai này bao gồm

Trung Á, Đông Âu và các vùng Trung Đông. [Grant Thornton, 2009]

 Hỏa hoạn: cháy là một trong những rủi ro phổ biến và dễ xảy ra trong

nông nghiệp, có tính chất lan tỏa mạnh. Cháy có thể do sự bất cẩn của con

ngƣời hoặc do sét đánh. Dù do nguyên nhân gì thì hỏa hoạn cũng là loại rủi ro

hiếm hoi trong sản xuất nông nghiệp có thể đƣợc kiểm soát để giảm thiểu

thiệt hại.

 Sâu bệnh và dịch bệnh: Đây là loại rủi ro diễn ra phổ biến nhất trong

nông nghiệp và hậu quả của chúng đôi khi mang tính thảm họa. Đối với cây

trồng thƣờng bị các loại sâu bệnh phá hoại nhƣ: sâu đục thân, sâu cuốn lá, rầy

nâu, châu chấu…; còn đối với gia súc thƣờng mắc các dịch bệnh nhƣ: bệnh kí

sinh trùng, bệnh truyền nhiễm, bệnh suy dinh dƣỡng…Sâu bệnh và dịch bệnh

6

làm cho cây trồng, vật nuôi bị chết hàng loạt, năng suất thu hoạch giảm sút.

Những đặc điểm trên cho thấy tính chất ổn định trong sản xuất nông

nghiệp là rất thấp. Thiên tai đã gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp ở hầu

khắp các nƣớc trên thế giới, đặc biệt là những nƣớc đang phát triển vốn có

nền kinh tế dựa phần lớn vào nông nghiệp. Những biện pháp truyền thống

nhƣ trợ cấp của nhà nƣớc để cứu trợ nông dân gặp thiên tai, giảm thuế nông

nghiệp cho những nơi bị mất mùa vốn thƣờng xuyên đƣợc sử dụng bởi tính

nhanh chóng của nó nhƣng các biện pháp đó lại tỏ ra bị động và kém hiệu quả

và là một gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nƣớc.Vì vậy, để phát huy tính chủ

động của nông dân, giảm đƣợc chi phí bao cấp từ ngân sách biện pháp tốt

nhất và hữu hiệu nhất là phải tiến hành bảo hiểm nông nghiệp. Không chỉ có

vậy, bảo hiểm nông nghiệp ra đời còn có tác dụng rất lớn đến việc bảo vệ an

toàn của các loại tài sản và quá trình sản xuất nông nghiệp, góp phần ổn định

cuộc sống cho hàng triệu ngƣời dân cùng một lúc, ổn định giá cả trên thị

trƣờng tự do, đặc biệt là giá cả của các mặt hàng thiết yếu nhất nhƣ: lƣơng

thực, thực phẩm. Bên cạnh đó, bảo hiểm nông nghiệp cũng giúp ổn định ngân

sách nhà nƣớc, ổn định đời sống xã hội và giữ vững anh ninh lƣơng thực quốc

gia.

Nhƣ đã nói ở trên, bảo hiểm nông nghiệp ra đời có tác dụng rất lớn cho

ngƣời nông dân và chính phủ các nƣớc nhƣng xét từ góc nhìn của một công ty

bảo hiểm thì đây cũng là một thị trƣờng đầy tiềm năng. Mặc dù triển khai bảo

hiểm nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, song với đối tƣợng là hàng trăm loại

cây trồng và vật nuôi khác nhau sẽ giúp các công ty bảo hiểm dễ dàng khai

thác, hạn chế đƣợc sức ép của cạnh tranh. Đồng thời, nó còn phát huy tối đa

quy luật “số đông bù số ít” trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nhƣ vậy, sự

cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với sản xuất nông nghiệp là điều

không thể phủ nhận, và suốt hàng trăm năm qua, bảo hiểm nông nghiệp đã

hình thành và phát triển trên khắp thế giới nhƣ một công cụ bảo vệ đắc lực

7

cho ngƣời nông dân.

II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP

TRÊN THẾ GIỚI

Trong hơn một thế kỉ qua, bảo hiểm cây trồng khi gặp rủi ro do mƣa đá

và hỏa hoạn thƣờng đƣợc thực hiện cho các trang trại ở một số nƣớc phƣơng

Tây. Thông thƣờng những ngƣời đứng ra bảo hiểm đƣợc tổ chức trên cơ sở

các hội hỗ trợ tại địa phƣơng do chính những ngƣời nông dân tổ chức. Sau

này khái niệm bảo hiểm đƣợc truyền đến Bắc Mỹ và nhiều khu vực khác trên

thế giới, thoạt đầu xuất phát từ hiểm họa mƣa đá và một số hiểm họa khác và

gần đây (trƣớc năm 1945) là bảo hiểm cây trồng mọi rủi ro (MPCI).

Năm 1898 đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm nông nghiệp. Nƣớc Phổ đã

tiến hành bảo hiểm mọi rủi ro cho cây trồng thông qua hoạt động của các

công ty bảo hiểm tƣơng hỗ nhỏ. Nhƣng các công ty này không tồn tại và phát

triển đƣợc trƣớc các thảm họa lớn.

Ở Mỹ, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số công ty

bảo hiểm tƣ nhân tiến hành bảo hiểm mọi rủi ro cây trồng nhƣng đều thất bại

vì thiếu thông tin, phí bảo hiểm quá thấp, địa bàn hẹp nên việc phân tán rủi ro

bị hạn chế…Năm 1933, cả Nhật Bản và Mỹ đều thực hiện chƣơng trình bảo

hiểm mọi rủi ro cho cây trồng. Chƣơng trình này có hai đặc trƣng cơ bản:

Chính phủ tài trợ và do các công ty nhà nƣớc đảm trách. Nhờ đó, hoạt động

bảo hiểm có thuận lợi. Song, chiến tranh Thế giới thứ II đã ảnh hƣởng đến

chƣơng trình này. Từ năm 1949 đến nay, nhiều nƣớc trên thế giới tiến hành

bảo hiểm cây trồng theo hƣớng bảo hiểm mọi rủi ro hoặc một số loại rủi ro;

có nƣớc bảo hiểm mọi rủi ro; có nƣớc bảo hiểm một loại cây trồng; có nƣớc

bảo hiểm một loại cây trồng, có nƣớc bảo hiểm nhiều loại cây khác nhau.

Hình thức bảo hiểm bao gồm: tự nguyện hoặc bắt buộc do công ty tƣ nhân

hoặc công ty nhà nƣớc tiến hành. Tình hình bảo hiểm nông nghiệp ở một số

8

nƣớc trên thế giới đƣợc thể hiện qua bảng tổng hợp sau:

TT

Tên nƣớc

Năm

Rủi ro bảo

Loại cây

Cơ quan

Nguồn hình

Hình thức

triển

hiểm

đƣợc bảo

tiến hành

thành quỹ

khai

hiểm

BH

(6)

(3)

(4)

(5)

(7)

(1)

(2)

(8)

1946

Bão

Cây chuối Chính phủ

Jamaica

1

Bắt buộc

1917

Mƣa đá

Tất cả cây

Canada

2

trồng

3

Tây Ban

1954

Cháy, mƣa

Mọi cây

Chính phủ

Từ phí BH

Tự nguyện

đá và những

trồng

nông dân và

Nha

-Công ty

rủi ro thảm

sự hỗ trợ

nhà nƣớc

họa không

của chính

đƣợc BH

phủ

-Công ty tƣ

1972

Cháy, mƣa

Lúa mạch,

Công ty tƣ

Phí BH

Tự nguyện

nhân

đá

lúa mỳ

nhân

nông dân

đóng góp

4

Nhật Bản

Mọi rủi ro

Cây ngũ

Hội BH

Phí nông

Bắt buộc với

1938

1947

cốc, cây ăn

tƣơng hỗ có

dân đóng

chủ nông lớn,

quả, dâu tằm

sự giúp đỡ

góp và sự hỗ

tự nguyện,

của chính

trợ của

với chủ nông

quyền

chính phủ

nhỏ

5

Srilanca

1958

Mọi rủi ro

Cây lúa

Chính phủ

Phí nông

Bắt buộc với

dân đóng và

cây lúa, tự

tài trợ của

nguyện với

chính phủ

cây khác

6

Philippin

1978

Mọi rủi ro

Ngô, lúa,

Công ty bảo

Phí nông

Bắt buộc với

lạc, đậu

hiểm nhà

dân đóng

ngƣời vay

tƣơng, bông,

nƣớc

góp

tiền

hƣớng 1dƣơng

(Nguồn: PGS – TS Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Bảo Hiểm, NXB Thống Kê)

9

Bảng 1: Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng) trên thế giới

III. CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP PHỔ BIẾN

1. Bảo hiểm cây trồng

Cây trồng rất đa dạng và phong phú về chủng loại. Tùy theo quá trình

sinh trƣởng, mục đích sử dụng và biện pháp canh tác, có thể phân loại cây

trồng theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi

cho ngƣời tham gia bảo hiểm khi ký kết hợp đồng, giúp công tác tính phí bảo

hiểm, đánh giá và quản lý rủi ro đƣợc dễ dàng thuận lợi, căn cứ vào đặc điểm

sinh trƣởng, cây trồng đƣợc chia ra:

- Cây hàng năm: Là những loại cây trồng có chu kỳ sinh trƣởng và cho

sản phẩm trong vòng dƣới 1 năm, gieo trồng mang tính thời vụ, mỗi loại cây

thích ứng với một thời kỳ nhất định. Trong mùa vụ, chi phí đầu tƣ gieo trồng

không lớn, nhƣng việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó.

-Cây lâu năm: Là loại cây có chu kỳ sinh trƣởng và cho sản phẩm từ 1

năm trở lên. Cây lâu năm là một trong những loại tài sản cố định có giá trị

ban đầu thƣờng rất lớn so với các loại tài sản cố định khác trong nông nghiệp

-Vƣờn ƣơm (cây giống): Là loại cây trồng có chu kỳ sinh trƣởng rất

ngắn, sản phẩm của chúng đƣợc coi là chi phí sản xuất cho những quá trình

sản xuất tiếp theo, giá trị thƣờng rất thấp, nhƣng kỹ thuật đòi hỏi rất cao và rất

nhạy cảm với thời tiết, khí hậu.

Cách phân loại trên đƣợc sử dụng khi tiến hành lập phƣơng án triển

khai bảo hiểm cây trồng với các vấn đề cơ bản nhƣ đối tƣợng và phạm vi bảo

hiểm; giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm; các chế độ bảo hiểm cây trồng;

phƣơng pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng. [Vũ Đình Thắng, 2006]

1.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm

- Đối tượng bảo hiểm cây trồng có thể là bản thân cây trồng trong suốt

quá trình sinh trƣờng và phát triển hoặc cũng có thể là sản phẩm cuối cùng do

10

cây trồng đem lại tùy theo mục đích trồng trọt. Vì thế có thể chia ra:

+ Đối với cây hàng năm, đối tƣợng bảo hiểm là sản lƣợng thu hoạch.

+ Đối với cây lâu năm, đối tƣợng bảo hiểm là giá trị của các loại cây đó

hoặc sản lƣợng từng năm của mỗi loại cây.

+ Đối với vƣờn ƣơm, đối tƣợng bảo hiểm là giá trị cây giống trong suốt

thời gian ƣơm giống đến khi nhổ đi trồng nơi khác.

Nhƣng do thời gian sinh trƣởng khác nhau, cho nên mỗi loại đối tƣợng

nêu trên có thời gian bảo hiểm khác nhau. Thời gian bảo hiểm cây hàng năm

thƣờng tính từ lúc gieo trồng đến khi thu hoạch xong sản phẩm. Còn cây lâu

năm, thời gian bảo hiểm có thể kéo dài một năm, sau đó đƣợc tái tục qua các

năm. Thời gian bảo hiểm vƣờn ƣơm bắt đầu từ lúc gieo trồng đến khi cây đủ

tuổi nhổ đi trồng nơi khác. Đối với tất cả các loại cây trồng, đơn vị bảo hiểm

thƣờng là đơn vị diện tích tự nhiên để tính năng suất cây trồng nhƣ: ha, mẫu,

sào… Tuy nhiên, đối với cây lâu năm, do giá trị lớn và chu kỳ sinh trƣởng

kéo dài cho nên còn có thể bảo hiểm đến từng cây hoặc lô cây.

- Phạm vi bảo hiểm: trong quá trình sinh trƣởng và phát triển, cây

trồng thƣờng gặp rất nhiều rủi ro khác nhau (cùng một lúc có thể gặp một

hoặc một số loại rủi ro gây thiệt hại)

Các hiện tƣợng gió bão, thƣờng làm cho cây trồng bị đổ, bị gãy, khả

năng thụ phấn của hoa kém, làm mất toàn bộ giá trị hoặc sản lƣợng, năng suất

thu hoạch giảm. Còn hiện tƣợng úng lụt, lũ thƣờng làm cho cây bị chết hoặc

chậm phát triển, đất đai bị rửa trôi, độ màu mỡ giảm, gieo trồng không kịp

thời vụ, những hiện tƣợng này cũng gây hậu quả lớn và rất khó lƣờng. Hạn

hán, gió lào thƣờng làm cho cây bị khô héo, chậm phát triển, thậm chí bị chết.

Các rủi ro sâu bệnh lại làm cho cây bị nhiễm khuẩn, vàng lá, nấm mốc, từ đó

dẫn đến chất lƣợng sản phẩm kém, năng suất thấp… Khi triển khai bảo hiểm,

các công ty thƣờng tiến hành bảo hiểm một hay một số loại rủi ro nhất định,

11

những rủi ro còn lại đặc biệt là những rủi ro mang tính chất kinh tế, xã hội sẽ

đƣợc giải quyết bằng các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nƣớc. Thế nhƣng,

về nguyên tắc những rủi ro đƣợc bảo hiểm phải đảm bảo các điều kiện sau:

+ Là hiện tƣợng bất ngờ mà con ngƣời chƣa lƣờng trƣớc đƣợc hoặc

hoàn toàn chƣa khống chế và loại trừ đƣợc.

+ Dù đã áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất những

không có kết quả hoặc không thể tránh khỏi tốn thất.

+ Là hiện tƣợng bất ngờ đối với nơi xảy ra, có cƣờng độ phá hoại, hủy

hoại lớn hơn hoặc xảy ra sớm hay muộn hơn bình thƣờng hàng năm. [Nguyễn

Văn Định, 2005]

1.2. Giá trị bảo hiểm

Bảo hiểm cây trồng là loại hình bảo hiểm tài sản, vì thế để xác định

đƣợc phí bảo hiểm và số tiền bồi thƣờng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì phải

xác định chính xác giá trị bảo hiểm (GTBH). GTBH cây trồng là giá trị của

bản thân cây trồng hoặc giá trị sản lƣợng cây trồng trên một đơn vị bảo hiểm.

Cụ thế:

- Giá trị bảo hiểm vƣờn ƣơm cây đƣợc xác định bằng cách lấy giá cả

của một cây nhân với số cây trên một đơn vị bảo hiểm, hoặc giá trị của 1 mét

vuông cây giống nhân với số mét vuông trên một đơn vị bảo hiểm. Giá cả cây

giống hoặc 1 mét vuông cây giống đƣợc xác định căn cứ vào giá bán bình

quân một số năm trƣớc đó.

- Giá trị bảo hiểm đối với cây hàng năm đƣợc xác định căn cứ vào sản

lƣợng thu hoạch thực tế của từng loại cây trong một số năm trƣớc đó và giá cả

một đơn vị sản phẩm trong những năm đó. Sở dĩ phải căn cứ vào một số năm

để xác định là vì sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hƣởng rất lớn của điều kiện

tự nhiên, có năm đƣợc mùa, có năm mất mùa, cho nên sản lƣợng thu hoạch

thực tế luôn luôn biến động. Căn cứ vào một số năm để xác định nhằm loại

12

trừ những nhân tố chủ quan nhƣ: tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật,

vốn và lao động…, đồng thời còn làm cho xác suất mà thiên tai xuất hiện vừa

đủ rõ để xác định phí bảo hiểm. Thông thƣờng, số năm lựa chọn để xác định

GTBH khoảng từ 3 đến 5 năm là tƣơng đối phù hợp với thực tế.

- Giá trị bảo hiểm cây lâu năm là giá trị của từng cây, từng lô cây hoặc

từng đơn vị bảo hiểm. Nhƣng cây lâu năm là tài sản cố định, giá trị ban đầu

của loại tài sản này đƣợc xác định tại thời điểm vƣờn cây đƣa vào kinh doanh.

Vì thế, GTBH chính là giá trị ban đầu của cây (hay vƣờn cây) đó trừ đi khấu

hao cơ bản nếu có.

1.3. Các chế độ bảo hiểm cây trồng

Trong sản xuất nông nghiệp, năng suất, chất lƣợng sản phẩm và ngay

cả giá trị của bản thân cây trồng phụ thuộc rất lớn vào sự cố gắng chủ quan

của ngƣời trồng trọt. Vì thế, các công ty bảo hiểm thƣờng áp dụng một số chế

độ bảo hiểm sau đây:

- Chế độ bảo hiểm bồi thƣờng theo tỷ lệ: Có nghĩa là khi tổn thất xảy

ra, ngƣời bảo hiểm chỉ bồi thƣờng cho ngƣời trồng trọt theo một tỷ lệ nhất

định so với toàn bộ giá trị tổn thất. Mục đích áp dụng chế độ này là nhằm

nâng cao tinh thần trách nhiệm của ngƣời tham gia bảo hiểm. Tỷ lệ đƣợc bồi

thƣờng do các bên thỏa thuận, nhƣng tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào:

+ Trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp

+ Trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng

+ Khả năng tổ chức và quản lý của công ty bảo hiểm

+ Trình độ dân trí và sự tiến bộ của xã hội

Thông thƣờng ở nhiều nƣớc, tỷ lệ đƣợc bồi thƣờng trong khoảng từ

60% đến 80% so với giá trị tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. [Nguyễn Văn

Định, 2005]

Chế độ bảo hiểm trên mức miễn thƣờng: Có nghĩa là khi ký kết hợp

13

đồng bảo hiểm, các bên tham gia thỏa thuận với nhau về mức miễn thƣờng

(mức không đƣợc bồi thƣờng). Nếu tổn thất xảy ra dƣới mức miễn thƣờng,

ngƣời bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thƣờng, mà ngƣời trồng trọt sẽ

phải tự gánh chịu phần tổn thất đó. Nếu tổn thất xảy ra lớn hơn mức miễn

thƣờng, ngƣời bảo hiểm sẽ bồi thƣờng phần vƣợt quá hoặc bồi thƣờng toàn bộ

tổn thất, tùy thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Chế độ này thƣờng áp dụng

cho cây hàng năm và mức miễn thƣờng có thể bằng 10% đến 15% giá trị bảo

hiểm. [Nguyễn Văn Định, 2005] Mục đích áp dụng chế độ này là nhằm:

+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm của ngƣời trồng trọt.

+ Làm phí bảo hiểm giảm đi để phù hợp với khả năng tài chính của

ngƣời trồng trọt.

+ Đáp ứng đƣợc yêu cầu tổ chức và quản lý của các công ty bảo hiểm

Mức miễn thƣờng cao hay thấp cũng do các bên tham gia thỏa thuận để

đáp ứng đƣợc những mục đích đặt ra ở trên. [Nguyễn Văn Định, 2005]

1.4. Phương pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng

Phí bảo hiểm cây trồng bao gồm: Phí bồi thƣờng tổn thất (Phí thuần) và

phần phụ phí. Công thức tính phí:

P = f + d

Trong đó:

P – Phí bảo hiểm cây trồng.

f – Phí thuần.

d – Phụ phí.

Phần phụ phí (d) đƣợc quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so

với tổng mức mức phí (P). Do rủi ro trong hoạt động sản xuất nông nhiệp khi

xảy ra gây hậu quả tổn thất lớn, nên phụ phí (d) gồm 3 bộ phận: phí đề phòng

14

và hạn chế tổn thất, phí dự trữ dự phòng, phí quản lý.

Để xác định đƣợc tổng mức phí, điều quan trọng là phải xác định đƣợc

mức phí thuần (f). Đối với vƣờn ƣơm và cây lâu năm, muốn xác định đƣợc

mức phí thuần (f), trƣớc hết phải căn cứ vào giá trị thực tế thu đƣợc hoặc giá

trị ban đầu còn lại của vƣờn cây và trá trị tổn thất bình quân. Sau đó, lấy số

tiền bảo hiểm năm nghiệp vụ nhân với tỷ lệ phí bồi thƣờng bình quân đã tính

đƣợc.

Nhƣng đối với cây hàng năm, việc xác định phí bồi thƣờng bình quân

khá phức tạp, do tính chất mùa vụ và do tính bất ổn định của loại cây này cao

hơn. Chính vì vậy, để xác định đƣợc tỷ lệ phí bồi thƣờng bình quân phải tính

toán qua các bƣớc:

Bước 1: Xác định sản lƣợng thu hoạch thực tế bình quân trên 1 dơn vị

diện tích bảo hiểm (thƣờng căn cứ vào tài liệu thống kê 5 năm trƣớc đó).

𝒏 𝑸𝒊 𝒊=𝟏 𝒏 𝑺𝒊 𝒊=𝟏

𝑾 =

Trong đó:

𝑊 – Sản lƣợng thu hoạch thực tế bình quân trên 1 đơn vị bảo hiểm

(thực chất là năng suất bình quân).

Qi – Sản lƣợng thu hoạch thực tế năm thứ i.

Si – Diện tích gieo trồng năm thứ i.

i – Thứ tự các năm lấy số liệu tính toán.

𝒏 𝒕=𝟏

Bước 2: Xác định sản lƣợng tổn thất bình quân trên 1 đơn vị bảo hiểm.

𝑸𝒕 = (𝑾 − 𝑾𝒕)𝑺𝒕 𝒏 𝑺𝒊 𝒊=𝟏

15

(với điều kiện Wt <𝑊 )

Trong đó:

t – năm có tổn thất.

𝑄𝑡 – Sản lƣợng tổn thất bình quân tính trên 1 đơn vị sản phẩm.

St – Diện tích gieo trồng năm t.

Wt – Sản lƣợng thu hoạch thực tế năm t tính trên 1 đơn vị diện tích bảo

hiểm.

Bước 3: Xác định tỷ lệ phí bồi thƣờng bình quân (tỷ lệ phí thuần) (𝑇 )

𝐓 = × 𝟏𝟎𝟎 𝐐𝐭 𝐖

 Nếu bảo hiểm theo sản lƣợng thu hoạch thực tế bình quân (tức năng

suất bình quân) thì mức phí thuần trên 1 đơn vị bảo hiểm sẽ là:

𝐟 = 𝑻 × 𝑾 = 𝑸𝒕

+Nếu bảo hiểm theo giá trị sản lƣợng thu hoạch thực tế bình quân tính

trên 1 đơn vị bảo hiểm, thì mức phí thuần đƣợc tính:

𝐟 = 𝐐𝐭 × 𝐏

Trong đó: 𝑃 là giá cả bình quân trên 1 đơn vị sản phẩm và có thể đƣợc

tính theo một trong hai công thức sau; tùy theo nguồn tài liệu thu thập đƣợc:

𝐧 𝐏𝐢 𝐢=𝟏 𝐧

𝐏 =

Ở đây, Pi là giá cả thực tế 1 đơn vị sản phẩm năm thứ i.

Nhƣ vậy, áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau, mức phí tính ra sẽ

khác nhau. Nhƣng xét về khả năng tài chính và tâm lý của ngƣời trồng trọt thì

áp dụng chế độ bảo hiểm nào đơn giản, dễ hiểu và có mức phí thấp nhất, họ

16

dễ dàng tham gia bảo hiểm nhất. [Nguyễn Văn Định, 2005]

1.5. Giám định và bồi thường tổn thất

Sau khi nhận đƣợc thông báo rủi ro tổn thất của ngƣời tham gia bảo

hiểm, công ty bảo hiểm phải cử ngay cán bộ hoặc nhân viên giám định đến

hiện trƣờng để giám định tổn thất. Trƣớc khi xuống hiện trƣờng, cần tính toán

và dự kiến trƣớc một số vấn đề nhƣ: Số lƣợng ngƣời giám định, các cơ quan

cần mời tham gia giám định nhƣ: chính quyền địa phƣơng, cơ quan bảo vệ

thực vật... Yêu cầu của công tác giám định là kiểm tra hiện trƣờng nơi xảy ra

tổn thất, nguyên nhân tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, tính

toán và xác định quy mô, mức độ tổn thất phải theo những phƣơng pháp khoa

học phù hợp với đối tƣợng bảo hiểm và tình hình thực tế. Lập biên bản giám

định tổn thất phải có đầy đủ các bên hữu quan tham gia và phải ký kết vào

biên bản để xác nhận.

Phƣơng pháp xác định giá trị tổn thất đƣợc bồi thƣờng phụ thuộc từng

loại cây trồng. Cụ thể nhƣ sau:

- Đối với cây hàng năm:

Giá trị sản

Giá

trị

Giá trị tổn thất

Giá trị tổn thất

=

lƣợng

tổn

tận

thu

không đƣợc bồi

đƣợc bồi thƣờng

thất thực tế

(nếu có)

thƣờng (nếu có)

Năm hoặc vụ có tổn thất là năm hoặc vụ có giá trị sản lƣợng thu hoạch

thực tế thấp hơn GTBH. Giá trị sản lƣợng tổn thất thực tế đƣợc xác định căn

cứ vào năng suất bình quân đƣợc bảo hiểm; năng suất thực tế thu hoạch, giá

cả 1 đơn vị sản phẩm tính bình quân và diện tích bị tổn thất của từng loại cây.

Giá trị tận thu bao gồm: Thân, lá, quả... Giá trị tổn thất không đƣợc bồi

thƣờng, thƣờng gặp phải khi áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau hoặc

17

những tổn thất không thuộc phạm vi bảo hiểm.

Trong nông nghiệp, tổn thất xảy ra trƣớc khi thu hoạch là phổ biến. Lúc

này, chƣa thể xác định đƣợc giá trị tổn thất thực tế, mà chỉ là tổn thất ƣớc

tính. Để xác định đƣợc số tiền bồi thƣờng phải chia ra các trƣờng hợp:

 Đối với những diện tích mất trắng trƣớc khi cây trồng cho thu hoạch,

giá trị tổn thất là toàn bộ chi phí thực tế chi ra từ thời điểm gieo trồng đến thời

điểm xảy ra tổn thất. Các khoản chi phí này thƣờng bao gồm: Chi phí cây

giống, phân bón, vật tƣ, lao động...

 Đối với những diện tích chƣa bị hủy hoại toàn bộ, có thể chăm sóc

tiếp vẫn cho thu hoạch sản phẩm, giá trị tổn thất tính theo tỷ lệ phần trăm tổn

thất so với toàn bộ chi phí đến thời điểm xảy ra tổn thất.

- Đối với cây lâu năm:

Giá

trị

tổn

Giá

trị

Tỷ

lệ

Số tháng đã

Giá trị tổn

thất đƣợc bồi

=

_

tổn

thất

x

khấu

x

bảo hiểm /

thất thực tế

thƣờng

thực tế

hao

12 tháng

Giá trị tổn thất thực tế đƣợc tính đến từng cây lâu năm hoặc diện tích

gieo trồng cây đó. Chỉ có những cây, những diện tích bị chết hoặc gãy hẳn

mới đƣợc coi là tổn thất. Tổn thất xảy ra vào tháng nào, tính khấu hao cả

tháng đó. [Nguyễn Văn Định, 2005]

Khi tiến hành bồi thƣờng, ngƣời bảo hiểm phải chú ý một số vấn đề

nhƣ: Tỷ lệ bồi thƣờng, mức miễn thƣờng, giá trị tận thu, chi phí đề phòng tổn

thất...

2. Bảo hiểm chăn nuôi

2.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm

- Đối tƣợng bảo hiểm trong chăn nuôi là các sản phẩm chăn nuôi và

18

các loại vật nuôi. Đối với vật nuôi là tài sản cố định thƣờng đƣợc bảo hiểm

đến từng con, còn đối với vật nuôi là tài sản lƣu động có thể bảo hiểm đến cả

đàn. Vật nuôi là tài sản lƣu động là những vật nuôi đƣợc nuôi dƣỡng trong

thời gian ngắn, quá trình thu sản phẩm gắn liền với quá trình giết mổ hoặc

chuyển chúng sang làm chức năng tài sản cố định. Thời hạn bảo hiểm của loại

này bắt đầu từ khi con giống tách mẹ nuôi độc lập đến khi vật nuôi đƣợc xuất

chuồng. Vật nuôi là tài sản cố định thƣờng có thời gian nuôi dƣỡng lâu hơn,

giá trị lớn và đƣợc chuyển dịch dần vào sản phẩm thu đƣợc qua các năm.

Thời hạn bảo hiểm loại này thƣờng là 1 năm hoặc toàn bộ chu kỳ sản xuất.

Nếu thời hạn bảo hiểm là toàn bộ chu kỳ sản xuất thì nó sẽ đƣợc bắt đầu khi

vật nuôi đƣợc chuyển thành chức năng tài sản cố định đến khi kết thúc chu kỳ

sản xuất (khi đã khấu hao xong).

- Phạm vi bảo hiểm: Trong chăn nuôi cũng thƣờng gặp nhiều rủi ro

khác nhau gây tổn thất, có cả những rủi ro khách quan có cả nhũng rủi ro chủ

quan nhƣ chế độ chăm sóc, nuôi dƣỡng, thí nghiệm v.v... Tuy nhiên các rủi ro

sau đây thƣờng đƣợc bảo hiểm:

 Thiên tai, bão, lũ, mƣa đá, nóng, lạnh bất thƣờng, khô cạn nguồn

nƣớc.

 Bệnh dịch, bao gồm cả bệnh truyền nhiễm, bệnh không truyền nhiễm.

 Buộc phải giết mổ để phòng trừ dịch bệnh lây lan. Hoặc khi vật nuôi

bị ốm, bị tai nạn, bị thƣơng tật không còn tiếp tục nuôi dƣỡng và sử dụng

đƣợc.

 Các rủi ro khác nhƣ: Động vật ăn thịt, hoặc phá hoại; đánh cắn lẫn

nhau, tai nạn giao thông, hỏa hoạn... [Ugo Pica et al.2010]

2.2. Giá trị bảo hiểm và chế độ bảo hiểm

- Đối với súc vật vỗ béo và lấy thịt, GTBH thƣờng là giá trị trọng

lƣợng xuất chuồng bình quân một số năm trƣớc đó (thông thƣờng là 3 đến 5

19

năm) nhằm loại trừ những nhân tố ngẫu nhiên ảnh hƣởng. Đối với vật nuôi là

tài sản cố định, GTBH chính là giá trị ban đầu của tài sản cố định trừ đi khấu

hao cơ bản (nếu có). Còn GTBH sản phẩm chăn nuôi nhƣ: Trứng, sữa v.v...

đƣợc xác định căn cứ vào giá trị sản lƣợng thực tế thu đƣợc bình quân một số

năm trƣớc đó (thƣờng là 3 đến 5 năm).

- Cũng nhƣ trong trồng trọt, trong chăn nuôi khi tiến hành bảo hiểm

cũng có thể áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau nhằm nâng cao tinh thần

trách nhiệm của ngƣời tham gia bảo hiểm, làm giảm phí bảo hiểm và phù hợp

với tình hình tổ chức và quản lý của công ty bảo hiểm. Chế độ bảo hiểm bồi

thƣờng theo tỷ lệ thƣờng đƣợc áp dụng khi bảo hiểm cho súc vật vỗ béo và

lấy thịt. Chế độ bảo hiểm miễn thƣờng có khấu trừ thƣờng hay áp dụng khi

bảo hiểm các sản phẩm chăn nuôi. Còn chế độ bảo hiểm miễn thƣờng không

khấu trừ lại đƣợc áp dụng khi bảo hiểm cho từng đầu con trong một đàn gia

súc tham gia bảo hiểm. Những tổn thất làm chết ít, một vài con trong đàn lớn,

giá trị thiệt hại nhỏ áp dụng chế độ bảo hiểm này sẽ giảm đƣợc thủ tục đòi bồi

thƣờng, giảm đƣợc phiền hà giữa các bên tham gia bảo hiểm. [Nguyễn Văn

Định, 2005]

2.3. Phương pháp xác định phí bảo hiểm chăn nuôi

Khi tiến hành bảo hiểm các sản phẩm chăn nuôi (sản phẩm tách rời bản

thân con súc vật) nhƣ: trứng, sữa... việc xác định phí bảo hiểm cũng tƣơng tự

nhƣ việc xác định phí bảo hiểm cây trồng hàng năm. Ở đây, chỉ giới hạn trong

phạm vi xác định phí bảo hiểm theo đầu con gia súc, gia cầm. Phí bảo hiểm

theo đầu con đối với từng loại súc vật đƣợc tính theo công thức:

P = f + d

Trong đó:

P – Phí bảo hiểm theo đầu con súc vật.

f – Phí bồi thƣờng thiệt hại (phí thuần).

20

d – Phụ phí.

Phụ phí đƣợc xác định thông qua kinh nghiệm và tình hình thực tế phát

sinh một số năm trƣớc đó. Loại phí này cũng đƣợc quy định bằng một tỷ lệ

phần trăm nhất định so với tổng mức phí thu và còn đƣợc chia ra các loại phí

sau đây để quản lý: Phí đề phòng hạn chế tổn thất (chi phí tiêm phòng, phòng

dịch, chi phí chống sét, chống nóng v.v...); Phí dự trữ dự phòng; Phí quản lý.

Vấn đề cốt lõi ở đây là phải xác định đƣợc phí bồi thƣờng thiệt hại (phí

thuần). Phí bồi thƣờng thiệt hại tính cho 1 đầu con gia súc, gia cầm đƣợc xác

định theo công thức:

𝐧 𝐪𝐢 𝐢=𝟏 𝐧 𝐐𝐢 𝐢=𝟏

𝐟 = × (𝐆𝐜 − 𝐆𝐭 )

Trong đó:

Qi - Số vật nuôi năm i (bao gồm cả những vật nuôi đạt tiêu chuẩn xuất

chuồng và những vật nuôi bị thải loại, tai nạn v.v...).

qi - Số vật nuôi bị chết, thải loại, tai nạn năm i (chỉ tính số con bị chết

thải loại, tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm).

𝐺𝑐 - Giá trị bình quân 1 con vật nuôi trƣớc khi bị thải loại, chết, tai nạn

thuộc phạm vi bảo hiểm.

𝐺𝑡 - Giá trị tận thu bình quân 1 con vật nuôi sau khi bị thải loại, chết,

tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm.

Giá trị bình quân 1 con vật nuôi trƣớc khi bị thải loại, chết, tai nạn

𝐧 𝐢=𝟏

đƣợc xác định theo công thức:

𝐆𝐜 = 𝐪𝐢 𝐓𝐢 𝐏𝐢 𝐧 𝐐𝐢 𝐢=𝟏

Trong đó:

Ti - Trọng lƣợng bình quân 1 con vật nuôi trƣớc khi bị chết, thải loại,

21

tai nạn năm i thuộc phạm vi bảo hiểm.

Pi - Giá cả bình quân 1 đơn vị sản phẩm vật nuôi trƣớc khi bị thải loại,

chết, tai nạn năm i thuộc phạm vi bảo hiểm.

Trƣờng hợp áp dụng các chế độ bảo hiểm khác nhau, khi xác định phí

bảo hiểm cần lƣu ý:

 Nếu áp dụng chế độ bảo hiểm bồi thƣờng tỷ lệ mức phí thuần xác

định nhƣ sau:

Mức

phí

Mức phí thuần khi chƣa

Tỷ

lệ đƣợc

=

x

thuần

áp dụng chế độ bảo hiểm

bồi thƣờng

Nếu áp dụng chế độ bảo hiểm miễn thƣờng có khấu trừ và không khấu

trừ, khi xác định mức phí thuần phải căn cứ vào mức miễn thƣờng để xác

định số vật nuôi nào bị chết, thải loại thuộc trách nhiệm bồi thƣờng. Sau đó áp

dụng công thức (1) để tính toán. [Nguyễn Văn Định, 2005]

2.4. Giám định và bồi thường tổn thất

Ngay sau khi đƣợc thông báo về tình hình tổn thất của ngƣời tham gia

bảo hiểm, công ty bảo hiểm phải cử nhân viên hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền đi

giám định tổn thất. Khi giám định phải kiểm tra kỹ hiện trƣờng nơi xảy ra tổn

thất, xác định nguyên nhân tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không.

Sau đó tính toán, xác định mức độ tổn thất, giá trị tổn thất, giá trị tận thu và

lập biên bản giám định với sự chứng kiến của các bên liên quan. Căn cứ vào

biên bản giám định tổn thất, công ty bảo hiểm phải trả lời là chấp nhận hay từ

chối bồi thƣờng một phần hay toàn bộ tổn thất cho ngƣời tham gia bảo hiểm

trong thời gian quy định theo nhƣ hợp đồng bảo hiểm đã ký.

Giá

trị

Giá trị tổn

Giá

trị

Giá

trị

Giá trị tổn thất

khấu

=

_

_

_

thất đƣợc

tổn thất

tận thu

không đƣợc bồi

hao (nếu

bồi thƣờng

thực tế

(nếu có)

thƣờng (nếu có)

có)

22

Về nguyên tắc, bảo hiểm chỉ bồi thƣờng tổn thất thuộc phạm vi bảo

hiểm và trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực. Mọi chi phí đề phòng hạn chế

tổn thất, chi phí giám định và xử lý vật nuôi sau khi chết không đƣợc trừ vào

số tiền bồi thƣờng. Nếu tổn thất do ngƣời thứ ba gây ra, bảo hiểm sẽ bồi

thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm, nhƣng đƣợc thế quyền ngƣời đƣợc bảo

hiểm đòi ngƣời thứ ba bồi thƣờng tổn thất thuộc trách nhiểm của họ. Nếu có

sự chậm trễ trong việc trả tiển bồi thƣờng thì công ty bảo hiểm phải chịu cả

tiền lãi đối với số tiển trả chậm theo mức lãi suất “nợ quá hạn” do ngân hàng

quy định.

Những trƣờng hợp cụ thể sau đây, công ty bảo hiểm không chịu trách

nhiệm bồi thƣờng:

 Không gủi thông báo kịp thời về tình hình tổn thất cho công ty theo

nhƣ hơp đồng đã ký.

 Ngƣời chăn nuôi không làm hết trách nhiệm trong việc đề phòng và

hạn chế tổn thất,

Vật nuôi bị chết do lỗi của ngƣời chăn nuôi. [Nguyễn Văn Định, 2005]

IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BÊN KHI THAM GIA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Trong mỗi hợp đồng bảo hiểm cây trồng cũng nhƣ vật nuôi, đều phải

quy định về trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm. Cũng

nhƣ các loại hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm trong nông nghiệp

thông thƣờng có hai bên tham gia, đó là ngƣời tham gia bảo hiểm và công ty

bảo hiểm.

Ngƣời tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm gieo trồng, nuôi dƣỡng

và chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi. Xây dựng

nội quy, kế hoạch phòng trừ xâu bệnh, dịch bệnh, phòng chống thiên tai....

23

Khi thiên tai, tai nạn rủi ro xảy ra phải kịp thời phòng chống để hạn chế tổn

thất và phải thông báo ngay cho ngƣời bảo hiểm biết. Ngoài ra, ngƣời tham

gia bảo hiểm còn phải thực hiện đầy đủ những thủ tục giấy tờ có tính chất

pháp lý nhƣ: ký vào biên bản giám định và xác nhận lỗi do bên thứ ba... Đồng

thời, phải phối hợp với ngƣời bảo hiểm và những đơn vị liên quan để có

phƣơng án tối ƣu đề phòng và hạn chế tổn thất và phải nộp phí bảo hiểm đầy

đủ, đúng hạn.

Công ty bảo hiểm có trách nhiệm bồi thƣờng kịp thời, đầy đủ cho

ngƣời tham gia bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Phải

chi phí kịp thời, thỏa đáng cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, khắc

phục thiên tai, sâu bệnh và dịch bệnh. Khi nhận đƣợc thông báo tổn thất phải

cử ngay nhân viên giám định hoặc ngƣời có thẩm quyền đến hiện trƣờng làm

thủ tục giám định. Nếu chấp nhận hay từ chối bồi thƣờng cũng phải thông báo

và giải thích ngay để ngƣời tham gia bảo hiểm biết. Nếu quá hạn, không

thông báo thì coi nhƣ họ đã chấp nhận bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại. Còn

quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm cũng giống nhƣ những hợp đồng

bảo hiểm tài sản thông thƣờng khác. [Nguyễn Văn Định, 2005]

Tóm lại chƣơng 1 đã nêu lên những những lý thuyết cơ bản về bảo

hiểm nông nghiệp. Đó là sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp đối với tất cả

các nƣớc có sản xuất nông nghiệp trên thế giới, điều này xuất phát từ tính bất

ổn và tiềm ẩn rủi ro của sản xuất nông nghiệp. Lịch sử ra đời, phát triển của

bảo hiểm nông nghiệp cùng các loại hình bảo hiểm nông nghiệp phổ biến

cũng đƣợc giới thiệu súc tích trong chƣơng này. Chƣơng 2 sẽ trình bày thực

trạng hoạt động bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ - một nƣớc có ngành bảo hiểm

24

nông nghiệp phát triển mạnh trên thế giới.

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP

TẠI MỸ

I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI MỸ

Có thể nói, bảo hiểm nông nghiệp giúp ngƣời nông dân Mỹ giành vị trí

đứng đầu thế giới về sản xuất nông nghiệp, luôn giữ đƣợc sức cạnh tranh

mạnh mẽ và khả năng cải tiến không ngừng. Họ có thể yên tâm khi biết rằng

những khoản đền bù tài chính luôn túc trực khi có sự cố không may xảy ra và

vòng quay sản xuất vẫn sẽ đƣợc duy trì đều đặn.

Nền kinh tế năng động hiện nay yêu cầu ngƣời nông dân phải sản xuất

nhiều sản phẩm hơn và đạt đƣợc năng suất cao hơn trƣớc kia. Nhu cầu về

lƣơng thực, thực phẩm chất dinh dƣỡng ngày càng tăng không chỉ tại Mỹ mà

còn trên khắp thế giới. Bên cạnh yếu tố công nghệ đƣợc đổi mới không

ngừng, khả năng tiếp cận với nguồn vốn dễ dàng thì một chƣơng trình bảo

hiểm nông nghiệp liên bang năng động chính là chiếc chìa khóa mở ra những

thành công to lớn của ngành nông nghiệp Mỹ.

Bảo hiểm nông nghiệp đƣợc coi là trụ cột của mạng lƣới an toàn liên

bang cho nông dân và chủ trang trại Mỹ. Ngoài việc giảm rủi ro và bảo vệ

khoản đầu tƣ của ngƣời nông dân, bảo hiểm nông nghiệp cho phép nông dân

vay tiền để mở rộng và cải thiện công việc kinh doanh bằng cách cung cấp sự

đảm bảo cho ngƣời cho vay về khả năng trả nợ của ngƣời nông dân. Bảo hiểm

cũng hỗ trợ ngƣời nông dân tiếp thị sản phẩm của mình ra thị trƣờng để tận

dụng cơ hội thị trƣờng.

Hiện nay, mạng lƣới bảo vệ liên bang cho ngƣời nông dân Mỹ có rất

nhiều chƣơng trình nhƣ thanh toán trực tiếp, hỗ trợ thiên tai và các chƣơng

trình đƣợc thiết kế để hỗ trợ các loại cây trồng đặc biệt cùng các sáng kiến ƣu

việt. Tuy nhiên, không một chƣơng trình nào có đƣợc tác động to lớn nhƣ bảo

25

hiểm nông nghiệp. Đại đa số nông dân hiện nay đều tin cậy vào bảo hiểm

nông nghiệp trong quá trình sản xuất bởi họ nhận ra những giá trị nó mang

lại.

Bảo hiểm nông nghiệp đã trở thành một công cụ kinh doanh thiết yếu

cho sản xuất nông nghiệp của Mỹ. Làm việc trong ngành mà chỉ một thảm

họa có thể quét sạch lợi nhuận của nhiều năm hoạt động, hầu hết nông dân sẽ

không nghĩ về việc sản xuất, nuôi trồng mà không có một số hình thức bảo

hiểm nông nghiệp.

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI

MỸ

1. Bảo hiểm cây trồng

1.1. Lịch sử phát triển của bảo hiểm cây trồng tại Mỹ

Bảo hiểm cây trồng cho rủi ro mƣa đá hay còn gọi là bảo hiểm cây

trồng cho thảm họa định danh là hình thức đầu tiên của bảo hiểm cây trồng tại

Mỹ, xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 và đã trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ

trong ngành bảo hiểm kể từ những năm 1920. Các hãng bảo hiểm cũng đã cố

gắng để phát triển một loại hình bảo hiểm cây trồng khác là bảo hiểm cây

trồng đa thảm họa. Tuy nhiên, nỗ lực đó đã thất bại do hãng bảo hiểm không

có đủ dữ liệu để thiết lập một mức phí đủ để đền bù cho các loại thiệt hại

nghiêm trọng,thƣờng xảy ra trên diện rộng và trong thời gian kéo dài ví dụ

nhƣ hạn hán.

Năm 1933, thời điểm Đại khủng hoảng kinh tế Mỹ lên đến đỉnh cao,

Quốc hội đã thông qua điều luật mới nhằm bảo vệ các trang trại gia đình.

Điều luật này hạn chế sản xuất nông nghiệp trong nƣớc với kỳ vọng mức giá

cho sản phẩm nông nghiệp sẽ tăng, song song, nhà nƣớc cũng cung cấp các

khoản trợ cấp cho ngƣời nông dân để bù đắp cho thu nhập bị mất từ những

diện tích đất để trống. Những thay đổi trên đều nhằm khôi phục lại mức sống

26

cho ngƣời nông dân bằng với thời kỷ trƣớc Thế chiến thứ nhất. Năm năm sau

đó, vào năm 1938 sau khi Tòa án tối cao Hoa Kỳ thừa nhận những điều luật

bảo vệ nông dân trƣớc đó là trái với Hiến pháp, một điều luật khác lại đƣợc

ban hành với mục đích tƣơng tự. Trong đó cho phép Bộ trƣởng Nông nghiệp

thiết lập hạn ngạch cho các cây lƣơng thực và sản phẩm xuất khẩu, đồng thời

chi trả trợ cấp bằng tiền mặt cho đất trồng để bảo tồn các loại cây trồng. Mặc

dù những sửa đổi đƣợc thực thi chậm nhƣng không phải là đến tận những năm

1990, quốc hội mới bắt đầu đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về tính đúng đắn

của đạo luật bảo vệ ngƣời nông dân khỏi sức mạnh thị trƣờng, đặc biệt các

nông trại gia đình đƣợc hƣởng lợi ích trực tiếp từ chƣơng trình bảo vệ này lại

chỉ sản xuất một phần nhỏ trong tổng sản lƣợng nông nghiệp của Mỹ.

Trong cùng năm 1938, điều luật về hỗ trợ giá đƣợc thông qua, Quốc

hội đã phê chuẩn Đạo Luật Bảo hiểm Cây trồng Liên bang, từ đó tạo ra các

chƣơng trình bảo hiểm cây trồng liên bang đầu tiên. Đƣợc sự hậu thuẫn của

Bộ Tài chính Hoa Kỳ với các nguồn lực dồi dào, các nhà hoạch định chính

sách kỳ vọng chƣơng trình bảo hiểm liên bang sẽ tránh đƣợc những vấn đề

mà trƣớc đó đã cản trở sự hình thành của ngành bảo hiểm cây trồng đa thảm

họa. Tuy nhiên, thành công đã đến không dễ dàng khi chi phí bỏ ra cho

chƣơng trình bảo hiểm rất cao nhƣng sự tham gia của nông dân thì quá ít ỏi

khiến khả năng tích lũy để chi trả cho những thiệt hại lớn là rất thấp. Bên

cạnh đó, ngân sách Chính phủ hỗ trợ cho nông dân dƣới nhiều dạng chƣơng

trình ngày một tăng khiến nông dân không mấy nhiệt tình để mua bảo hiểm

cây trồng. Những nguyên nhân trên đã giải thích cho sự trì trệ của chƣơng

trình bảo hiểm cây trồng liên bang trong nhiều thập kỷ.

Năm 1980, thất vọng trƣớc những thất bại liên tiếp của chƣơng trình

bảo hiểm cây trồng liên bang lúc đó, Quốc hội đã thông qua đạo luật về bảo

hiểm với những chƣơng trình đƣợc thiết kế để trở thành công cụ ƣu việt giúp

27

nông dân chống chọi với thiên tai thảm khốc. Mục tiêu của luật mới là để thu

hút sự tham gia của ngƣời nông dân với chƣơng trình đủ nhiều để các chƣơng

trình hỗ trợ thiên tai của Chính phủ có thể đƣợc bãi bỏ. Các nhà hoạch định

chính sách muốn nâng cao mức độ hiệu quả của chƣơng trình bằng cách hợp

tác với khu vực tƣ nhân để bán bảo hiểm, đƣa ra các dịch vụ và chịu một số

rủi ro cung cấp bảo hiểm (trƣớc đó bảo hiểm cây trồng chỉ đƣợc cung cấp bởi

Bộ Nông nghiệp Mỹ); và tạo ra một chƣơng trình thống kê, quản lý hiệu quả

nhằm giảm bớt gánh nặng chi trả của liên bang trong khi vẫn giữ phí bảo

hiểm ở mức phải chăng thông qua các khoản trợ cấp. [Rob Goeres, 2003]

Khu vực tƣ nhân sẽ đƣợc tham gia vào thị trƣờng bảo hiểm cây trồng

theo hai cách: bán bảo hiểm trực tiếp hoặc tái bảo hiểm. Đƣợc sự cung cấp tài

chính từ Chính phủ liên bang, các công ty bán hợp đồng bảo hiểm cây trồng

nhƣng không phải chịu bất kì trách nhiệm pháp lý nào (điều này sau đó đã

đƣợc loại bỏ vào năm 1994). Dù có những nỗ lực cải cách rất lớn nhƣng một

thập kỷ sau đó, chƣơng trình bảo hiểm cây trồng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề.

Cải cách theo định hướng thị trường: Luật cải cách bảo hiểm cây trồng

liên bang năm 1994 đƣợc thông qua tại thời điểm chi phí của tất cả các

chƣơng trình nông nghiệp đang đƣợc giám sát chặt chẽ hơn nhằm cân đối

ngân sách liên bang. Hiểu đƣợc rằng vấn đề ngân sách sẽ không thể đƣợc giải

quyết hiệu quả nếu không có những thay đổi mang tính đột phá, Quốc hội đã

quyết định kết hợp bảo hiểm cây trồng và hỗ trợ thiên tai vào một chƣơng

trình, triệt để cơ cấu lại hệ thống bảo vệ cho ngành nông nghiệp.

Các nhà lập pháp đã có cách tiếp cận theo nhiều hƣớng. Đầu tiên, nếu

các khoản hỗ trợ giải quyết thiên tai đã đƣợc giảm bớt đáng kể hoặc bãi bỏ,

nông dân sẽ cần một số biện pháp bảo đảm kinh tế. Một điều khoản quan

trọng của đạo luật đã đƣợc đƣa ra, đó là điều khoản về bảo hiểm “CAT” - bảo

hiểm thảm họa. Tất cả nông dân khi có các loại cây trồng trong danh sách

28

đƣợc bảo hiểm sẽ có thể mua bảo hiểm CAT với khoản phí rất nhỏ trên danh

nghĩa, về cơ bản là miễn phí. Đối với cây trồng không thuộc chƣơng trình bảo

hiểm có thể đƣợc chuyển sang một chƣơng trình hỗ trợ thiên tai đặc biệt, mức

độ đền bù xấp xỉ với bảo hiểm CAT nhƣng áp dụng với những tổn thất trên

diện rộng.

Thứ hai, để tăng cƣờng động lực cho ngƣời trồng trọt đầu tƣ vào một

chƣơng trình bảo hiểm cây trồng đa thảm họa toàn diện, Chính phủ liên bang

sẽ trợ cấp phí bảo hiểm cho các loại bảo hiểm bổ sung khác.

Thứ ba, tình trạng "khẩn cấp" đƣợc quy định trong pháp luật trƣớc đó

về cho phép vay mƣợn ngân sách bất thƣờng để trả tiền cứu trợ thiên tai, sẽ bị

bãi bỏ. Bất kỳ sự hỗ trợ thiên tai nào sẽ đƣợc coi là một phần của ngân sách

và do đó không thể đƣợc chấp nhận nếu không có một sự bù đắp lại bằng việc

giảm chi tiêu cho các chƣơng trình khác.

Thứ tƣ, tất cả các chƣơng trình nông nghiệp, bao gồm cả bảo hiểm cây

trồng, sẽ đƣợc xử lý bởi một cơ quan duy nhất để cải thiện dịch vụ và nâng

cấp hoạt động điều phối. Hội đồng bảo hiểm Cây trồng Liên bang (FCIC) sẽ

quản lý các chƣơng trình bảo hiểm cây trồng, thiết lập các điều khoản bảo

hiểm và điều kiện, thiết lập mức giá và tạo việc thanh toán bồi thƣờng thông

qua Cơ quan Quản lý rủi ro (RMA). Đối với chƣơng trình hỗ trợ thiên tai cho

những cây trồng không thuộc điện đƣợc bảo hiểm vẫn thuộc quản lý của Bộ

nông nghiệp, mức giá và chính sách dịch vụ sẽ đƣợc chuyển cho khu vực tƣ

nhân phụ trách. Chƣơng trình hỗ trợ giá mới đã cho phép nông dân bán hoa

màu cho Chính phủ liên bang với một mức giá cố định khi giá thị trƣờng giảm

xuống dƣới mức giá mục tiêu của chính phủ. Đến thời điểm đó, các chƣơng

trình trợ cấp đã sắp chấm dứt.

Năm 1996, Đạo luật chuyển giao thị trƣờng nông nghiệp đã nhấn mạnh

sự cần thiết của việc bảo vệ doanh thu của ngƣời nông dân – sản lƣợng và giá

29

cả. Quy định trong dự luật thiết lập chƣơng trình thí điểm khác nhau nhằm đối

phó mức giá dao động cũng nhƣ sự biến thiên của sản lƣợng bằng cách sử

dụng hệ thống giá cả hàng hóa của Sàn giao dịch Chicago (CBOT). Ngoài ra,

chính CBOT đã phát triển một sản phẩm bảo hiểm cây trồng sản lƣợng mới

cho phép ngƣời nông dân ký kết hợp đồng bảo hiểm thu nhập đƣợc dễ dàng,

tự do hơn với những điều khoản ƣu đãi. Các sản phẩm bảo hiểm đƣợc thiết kế

dựa trên năng suất lịch sử của từng nông hộ riêng lẻ, hoặc trong một số

trƣờng hợp là theo sản lƣợng của các địa hạt khác nhau, năng suất trung bình

của tiểu bang…

Năm 2000, Quốc hội phê chuẩn Luật bảo vệ rủi ro nông nghiệp

(ARPA). Đạo luật này đã giúp ngƣời nông dân có thể dễ dàng hơn trong việc

mua các loại bảo hiểm cây trồng đa thảm họa, bao gồm bảo hiểm thu nhập,

bằng cách tăng hỗ trợ của chính phủ.

Các biện pháp này cũng đề cập vấn đề của những ngƣời nông dân có

sản lƣợng thấp hơn sản lƣợng trung bình trong lịch sử sản xuất của mình sau

nhiều năm thiên tai. Khi những vụ mùa thất bát liên tiếp xảy ra thì khoản

thanh toán bảo hiểm mà ngƣời nông dân phải chi trả sẽ đƣợc giảm do công tác

bồi thƣờng cho sản lƣợng thấp dựa trên ghi chép sản lƣợng thực tế. Ngoài ra,

luật còn tập trung vào việc loại bỏ hiện tƣợng lừa đảo và lạm dụng chƣơng

trình; chƣơng trình thí điểm mở rộng sang bảo hiểm cho vật nuôi và các hoạt

động quản lý rủi ro ở nhiều lĩnh vực khác. Nông dân với một hồ sơ tốt có thể

nhận đƣợc khoản chiết khấu dựa trên tiền đóng bảo hiểm. [Steven C. Harms,

1999].

1.2. Các loại hình bảo hiểm cây trồng tại Mỹ

1.2.1. Bảo hiểm thiệt hại do mưa đá (Bảo hiểm cây trồng cho thảm họa

định danh)

Bảo hiểm thiệt hại do mƣa đá đƣợc cung cấp bởi cả khu vực tƣ nhân và

30

theo các chính sách liên bang trợ cấp bảo hiểm đa thảm họa. Nông dân có thể

chọn để mua bảo hiểm thiệt hại do mƣa đá theo hợp đồng đa thảm họa, để

đƣợc giảm phí bảo hiểm, hoặc phòng ngừa cho những rủi ro khác.

Tên gọi bảo hiểm cây trồng do thiệt hại mƣa đá đƣợc dùng phổ biến bởi

mƣa đá là rủi ro đầu tiên đƣợc bảo hiểm bởi chƣơng trình bảo hiểm này. Sau

nhiều năm, chính sách bảo hiểm đã mở rộng tới một số loại rủi ro khác nhƣ

cháy, sét… bởi tính chất ngẫu nhiên giống nhƣ mƣa đá, thậm chí còn có bảo

hiểm cho chi phí tái gieo trồng khi mƣa đá phá hủy mùa màng vào đầu vụ. Do

đó, một tên gọi khác cũng đƣợc dùng cho loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm

cây trồng cho thảm họa định danh. Khi vụ mùa bị phá hủy đƣợc tái gieo

trồng, nông dân cũng nhận đƣợc bồi thƣờng cho sản lƣợng dự kiến bị sụt

giảm do ngày canh tác bị chậm lại. Hầu hết các hãng bảo hiểm cung cấp chính

sách bảo hiểm cho các loại hạt chủ yếu và cây lƣơng thực nhƣng đối với loại

cây đặc sản và cây trồng rau có sự hạn chế hơn.

Ngƣời nông dân có thể ký hợp đồng bảo hiểm ở bất kì giai đoạn nào

trong suốt mùa gieo trồng kể từ khi 50% của mùa vụ lên cây tốt cho đến ngày

thu hoạch dự kiến, miễn là cây trồng chƣa bị hƣ hại do mƣa đá. [H. Douglas

Jose, 2001] Để tránh việc ngƣời trồng trọt theo dõi chặt chẽ diễn biến thời

tiết và chờ cho đến khi một cơn bão với nguy cơ mƣa đá lớn xảy ra mới mua

bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ chỉ có hiệu lực kể từ một phút sau nửa đêm

ngày thứ hai sau ngày ký hợp đồng. Nông dân có thể mua bảo hiểm cho tất cả

các loại cây trồng, trong đó họ có lợi ích tài chính và thuộc danh sách đƣợc

bảo hiểm, hoặc chỉ một phần diện tích trồng trọt.

Số tiền bảo hiểm (đƣợc áp dụng trên cơ sở diện tích mẫu) đƣợc giới

hạn tới giá trị dự kiến của mùa vụ, bao gồm cả lợi nhuận dự đoán. Số tiền bảo

hiểm là giá thu hoạch mỗi giạ (hoặc pound) dự báo cho cây trồng tại thời

điểm hợp đồng bảo hiểm đƣợc bán. Phí bảo hiểm khác nhau tùy theo tính

31

nhạy cảm của mùa vụ đối với thiệt hại mƣa đá và địa điểm của mùa vụ. Kể từ

khi mƣa đá thiệt hại đã đƣợc theo dõi trong hơn 40 năm, nhiều vùng đã đƣợc

thống kê có nguy cơ xảy ra mƣa đá cao hơn những nơi khác.

Sau khi thiệt hại đƣợc báo cáo, chuyên viên giám định sẽ ƣớc tính tỷ lệ

phần trăm sản lƣợng bị giảm do mƣa đá gây nên bằng cách lấy mẫu và đôi khi

đếm con số thực các cây trồng bị hƣ hại trong một khu vực đại diện. Việc tính

toán thiệt hại phải cân nhắc đến thực tế là giá trị kỳ vọng của cây trồng tại

thời điểm xảy ra thiệt hại có thể cao hơn mức giá dự báo tại thời điểm hợp

đồng đƣợc ký. Tuy nhiên, tiền bồi thƣờng hoặc “giá trị tiền mặt” không thể

vƣợt quá giới hạn bảo hiểm gốc hoặc lợi ích tài chính của bên mua bảo hiểm

cho vụ mùa đó. Trong trƣờng hợp có khả năng cho một vụ mùa bội thu, ngƣời

nông dân có thể tăng bảo hiểm giữa mùa. [Rober Dismukes & Keith H.Coble,

2007]

1.2.2. Bảo hiểm cây trồng đa thảm họa

Bảo hiểm cây trồng đa thảm họa đƣợc sử dụng bảo vệ nông dân khỏi

năng suất thấp và chất lƣợng cây trồng giảm do thời tiết xấu (bao gồm cả mƣa

đá) và thiệt hại không thể tránh khỏi do côn trùng và dịch bệnh. Mặc dù bảo

hiểm đa thảm họa có mặt tại hầu khắp nƣớc Mỹ với danh sách hơn 100 loại

cây trồng nhƣng vẫn có những loại cây trồng không đƣợc bảo hiểm tại một số

tiểu bang hay một vài quận trong một bang. Cây trồng thuộc trƣờng hợp này

sẽ đƣợc áp dụng bảo vệ có hạn chế với chƣơng trình hỗ trợ thiên tai cho cây

trồng không thuộc diện đƣợc bảo hiểm.

Một nông dân mua bảo hiểm cây trồng đa thảm họa có một số lựa chọn.

Đầu tiên phải kể đến bảo hiểm CAT với mức bảo hiểm thấp nhất, trả cho 55%

giá của một vụ mùa bị tổn thất trên 50%. Để khuyến khích việc bảo toàn tốt

tài sản, giảm thanh toán vƣợt mức và ngăn chặn gian lận, các khoản thanh

toán có thể đƣợc giảm đến 50% ở những nơi nông dân thiếu ghi chép chứng

32

nhận năng suất lịch sử, thay vào đó phải sử dụng ghi chép năng suất thực tế

(APH). [R.A.J.Roberts, 2005] Chính quyền liên bang hỗ trợ cho toàn bộ chi

phí của bảo hiểm CAT. Nông dân chỉ phải trả lệ phí hành chính. [Website

Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ] Ngoài ra, nông dân có thể mua bảo hiểm bổ

sung, theo một chƣơng trình “mua thêm” đƣợc thiết kế để khuyến khích mua

các mức bảo hiểm đầy đủ hơn với số tiền bảo hiểm lớn hơn.

Theo chƣơng trình “mua thêm”, Chính phủ liên bang trợ cấp một phần

phí bảo hiểm. Hiện nay, phần trợ cấp này giảm khi số tiền bảo hiểm tăng lên.

Tuy nhiên, dù sự chia sẻ phí bảo hiểm của Chính phủ giảm dần khi phạm vi

bảo hiểm mở rộng thì tổng số tiền trợ cấp mà ngƣời nông dân nhận đƣợc vẫn

tăng lên. Ngoài ra, chƣơng trình cũng cung cấp những chính sách bảo hiểm bổ

sung phức tạp hơn để bảo vệ những ngƣời nông dân trong một vài trƣờng hợp

đặc biệt nhƣ khi họ ký hợp đồng cung cấp toàn bộ sản lƣợng cho các nhà máy

chế biến thực phẩm trƣớc thu hoạch hoặc dùng sản phẩm cây trồng để nuôi

gia súc và do đó ngƣời nông dân buộc phải đảm bảo khả năng thay thế các

loại cây trồng bị mất (nếu thiên tai xảy ra) với giá thị trƣờng. Bên cạnh đó,

còn có các chƣơng trình bổ sung để tăng số tiền thanh toán thiệt hại và gia

tăng các khoản thanh toán trong các tình huống có tính chất thảm họa.

Ngƣời nông dân sản xuất một số loại cây trồng đặc biệt cũng đƣợc ƣu

tiên lựa chọn loại bảo hiểm đa thảm họa khác có chi phí thấp hơn mang tên

bảo hiểm cây trồng “nhóm nguy cơ”. Điểm khác biệt cơ bản của loại bảo

hiểm này là việc tính toán số tiền bảo hiểm dựa trên năng suất trung bình của

cả khu vực thay vì theo từng nông hộ và đƣợc thiết kế thích hợp cho hộ nông

dân có sản lƣợng theo xu hƣớng năng suất trung bình của cả vùng. Bên mua

bảo hiểm sẽ tự động nhận đƣợc một khoản thanh toán bảo hiểm trong bất kỳ

năm nào có sản lƣợng trung bình của vùng giảm xuống dƣới mức năng suất

đảm bảo (đƣợc tính toán và quy định theo từng vùng). [Trung tâm cơ sở dữ

33

liệu về bảo hiểm cây trồng Mỹ]

1.2.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm thảm họa định danh và bảo hiểm đa

thảm họa

Có một vài sự khác biệt chính giữa hai chƣơng trình bảo thiểm cây

trồng đa thảm họa và bảo hiểm cây trồng đơn rủi ro. Trƣớc hết, ngƣời nông

dân mua bảo hiểm đa thảm họa có nhiều lựa chọn mức độ bảo hiểm với nhiều

"đơn vị" khác thay vì chỉ tính bằng mẫu Anh, ví dụ nhƣ một dặm vuông (tƣơng đƣơng 2,589 988 11 km2). Sự khác biệt này biểu hiện rõ nhất khi tổn

thất xảy ra, bởi trong chƣơng trình bảo hiểm đa thảm họa số tiền đền bù thiệt

hại (sản lƣợng giảm) đƣợc tính bình quân theo một đơn vị trên cả diện tích

trồng trọt thay vì chỉ tính cho diện tích mẫu đất có tổn thất đƣợc bảo hiểm.

Thứ hai, một nông dân không thể đột nhiên quyết định mua bảo hiểm

đa thảm họa. Không giống nhƣ bảo hiểm cây trồng cho thảm họa định danh,

bảo hiểm đa thảm họa phải đƣợc mua trƣớc một ngày nhất định do Chính phủ

liên bang đặt ra, ngày này thay đổi theo từng bang và vụ mùa. Thời hạn đăng

ký này thƣờng đƣợc ấn định vào đầu mùa trồng trọt trƣớc khi dự báo thời tiết

dài hạn có thể ảnh hƣờng đến quyết định mua bảo hiểm của ngƣời nông dân.

Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực ngay khi vụ mùa đƣợc gieo trồng. Phạm vi

bảo hiểm không thể đƣợc bổ sung trong suốt vụ mùa.

Ngoài ra, bảo hiểm cây trồng đơn thảm họa thƣờng có hiệu lực từ đồng

tiền đầu tiên của tổn thất (dù chiết khấu cũng đƣợc tính đến). Trong khi đó,

bảo hiểm đa thảm họa bao gồm giá trị một khoản chiết khấu, bảo hiểm lên

đến 100% giá dự kiến của thị trƣờng nhƣng không bao giờ đến 100% sản

lƣợng. [Trung tâm cơ sở dữ liệu về bảo hiểm cây trồng Mỹ]

1.2.4. Bảo hiểm doanh thu cho cây trồng

Nông dân đối mặt với ba rủi ro chính: giá cây trồng thấp, chất lƣợng

kém và năng suất thấp. Theo chƣơng trình bảo hiểm cây trồng đa thảm họa,

34

nông dân đƣợc đền bù cho thiệt hại về sản lƣợng cây trồng. Giá thị trƣờng

đƣợc trả cho mỗi giạ (đơn vị đo lƣờng thể tích khoảng 36 lít) là cố định ở mức

do Chính phủ đặt ra trƣớc mùa vụ, bất kể giá thực tế tại thời gian thu hoạch có

thể thấp hơn hoặc cao hơn so với dự báo của Chính phủ. Chính sách này đƣợc

kích hoạt khi sản lƣợng thấp hơn mức bảo hiểm đƣợc chọn. Phạm vi bảo hiểm

có thể đƣợc từ 50 đến 75% giá trị sản xuất điển hình và từ 60% đến 100% giá

thị trƣờng dự kiến. Tỷ lệ sản lƣợng không đƣợc bảo hiểm hay dƣới mức giá

thị trƣờng đều là một khoản khấu trừ. [Rober Dismukes & Keith H.Coble,

2007]

Bảo hiểm doanh thu lần đầu tiên đƣợc giới thiệu vào giữa thập niên

1990 đã có một bƣớc tiến vƣợt lên bảo hiểm cây trồng đa thảm họa. Nó đảm

bảo nông dân có thu nhập ổn định, cho phép họ quản lý cả năng suất và rủi ro

giá. Bảo hiểm này đƣợc ra đời từ sự thừa nhận rằng thu nhập của nông dân là

sản phẩm của giá bán họ nhận đƣợc cho những gì họ gieo trồng. Với một hợp

đồng bảo hiểm doanh thu trong tay, nông dân có thể vay và bán sản phẩm của

họ ra thị trƣờng trƣớc, lƣu ý rằng trƣớc đó họ sẽ phải đặt ra doanh thu mục

tiêu bất kể mọi diễn biến của thị trƣờng tại thời điểm thu hoạch.

Một vài chƣơng trình mở rộng của bảo hiểm thu nhập đã đƣợc phát

triển, bao gồm bảo hiểm lợi tức (Income Protection), theo đó nông dân nhận

đƣợc một khoản thanh toán khi có sự xảy ra đồng thời của giá cả thấp và năng

suất thu hoạch thấp khiến tổng lợi tức xuống dƣới mức lợi tức đƣợc bảo hiểm.

Ngoài ra, có một loại bảo hiểm tƣơng tự nhƣ Bảo hiểm lợi tức là Bảo hiểm

đảm bảo thu nhập, chỉ khác rằng giá cả hàng hóa đƣợc điều chỉnh để phản ánh

giá thị trƣờng trung bình trong từng địa hạt, giúp cho mức giá tăng tính đại

diện cho tình hình thị trƣờng địa phƣơng. Bên cạnh đó còn có Bảo hiểm thu

nhập cây trồng (Crop Revenue Coverage) cung cấp biện pháp bảo vệ toàn

diện hơn so với hai chƣơng trình trên. Có đặc điểm chung là đảm bảo thu

35

nhập cho ngƣời nông dân nhƣng Bảo hiểm thu nhập cây trồng dựa trên hai

mức giá tiến bộ hơn: giá thị trƣờng đầu vụ và giá thị trƣờng lúc thu hoạch,

bao gồm biến động về giá cả thị trƣờng lên và xuống. Bảo hiểm doanh thu nói

chung dựa trên doanh thu trung bình của các nông hộ tại địa phƣơng hơn là

doanh thu trung bình qua các năm của hộ nông dân riêng lẻ. Một lựa chọn

khác, đặc biệt là cho các trang trại nhỏ, là việc đƣợc điều chỉnh tổng phạm vi

bảo hiểm doanh thu để đảm bảo doanh thu của toàn bộ trang trại, bao gồm cả

vật nuôi. [Rober Dismukes & Keith H.Coble, 2007]

1.3. Hình thức công ty tham gia thị trường bảo hiểm cây trồng Mỹ

1.3.1. Sự hình thành của mô hình liên kết tư nhân - chính phủ

Vào giữa những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách đã có quan

tâm mới trong việc giúp bảo hiểm cây trồng trở nên gần gũi hơn với ngƣời

nông dân. Mặc dù có trợ cấp phí đáng kể nhƣng tỷ lệ nông dân tham gia tự

nguyện thấp và họ cũng không mấy ủng hộ chƣơng trình. Cuộc điều tra của

Chính phủ đã chỉ ra những nguyên nhân chính của tỷ lệ tham gia này thấp là

do: phạm vi bảo hiểm không đủ rộng, chính sách bảo hiểm không phù hợp với

nông trại, dịch vụ bảo hiểm chậm, mức bồi thƣờng không đủ, phí bảo hiểm

quá cao so với giá trị nhận thức về bảo hiểm và Chính phủ thƣờng xuyên

cung cấp khoản hỗ trợ thảm họa đặc biệt khi thiên tai nghiêm trọng xảy ra

khiến ngƣời dân mất đi động lực để mua bảo hiểm.

Những ngƣời tham gia vào việc cải cách các chƣơng trình tin rằng một

chƣơng trình bảo hiểm cây trồng hiệu quả phải bao gồm đa dạng các lựa chọn

bảo hiểm để giúp ngƣời nông dân có thể mua bảo hiểm phù hợp với mức độ

rủi ro và khả năng tài chính cá nhân. Cách tiếp cận này tƣơng phản rõ nét với

chƣơng trình hỗ trợ thiên tai bất thƣờng đã từng đƣợc phát triển trƣớc đây tại

Washington.

Trƣớc thực trạng trên, đã có những đề xuất trong việc thiết kế một

36

chƣơng trình có thể kết hợp khả năng tài chính của Chính phủ và thế mạnh

của khu vực tƣ nhân về tƣ vấn quản lý rủi ro. Năm 2000, Quốc hội ban hành

Luật bảo vệ rủi ro nông nghiệp (ARPA) trong đó mở rộng vai trò của khu vực

tƣ nhân, cho phép các công ty tham gia vào tiến hành nghiên cứu và phát triển

các sản phẩm bảo hiểm mới và cải tiến hơn. Với việc mở rộng thẩm quyền ký

kết hợp đồng và hợp tác, Cơ quan quản lý rủi ro (RMA) có thể can thiệp vào

hợp đồng hoặc tạo ra các quan hệ đối tác cho việc nghiên cứu và phát triển

các sản phẩm bảo hiểm. Tổ chức tƣ nhân cũng có thể gửi đề xuất tự nguyện

về các sản phẩm bảo hiểm cho RMA phê duyệt. Nếu đƣợc thông qua bởi

RMA, các sản phẩm bảo hiểm này có thể nhận đƣợc khoản tiền hoàn trả cho

chi phí nghiên cứu, phát triển và vận hành. Sau ba năm, các tổ chức này có

thể chọn giữ lại quyền sở hữu các sản phẩm bảo hiểm đó và thu phí các nhà

cung cấp bảo hiểm khác khi sử dụng sản phẩm hoặc chuyển giao quyền sở

hữu cho RMA. Ngoài ra, RMA còn có chức năng hỗ trợ phí bảo hiểm cây

trồng và nhận tái bảo hiểm thông qua cơ quan của mình là FCIC. [Rober

Dismukes & Keith H.Coble, 2007]

1.3.2. Lợi ích của mô hình liên kết tư nhân - chính phủ

Mô hình liên kết tƣ nhân – Chính phủ trong bảo hiểm cây trồng Mỹ đã

và đang mang lại những lợi ích thiết thực cho cả ngƣời nông dân, Chính phủ

và các công ty bảo hiểm. Những lợi ích đó có thể đƣợc tổng quát lại nhƣ sau:

 Sản phẩm bảo hiểm được cải tiến và đa dạng hơn: Sản phẩm bảo

hiểm có thể đƣợc nâng cấp theo một số cách nhƣng có hai yếu tố chính thu

hút sự quan tâm của ngƣời nông dân là giá và phạm vi bảo hiểm. Việc tìm

kiếm lợi nhuận và sự cạnh tranh trên thị trƣờng bảo hiểm đã tạo ra động lực

mạnh mẽ cho các công ty bảo hiểm khai thác thị trƣờng thích hợp. Bên cạnh

đó, họ có lợi thế chuyên môn cao và khả năng nghiên cứu thị trƣờng tốt để

không ngừng nâng cấp sản phẩm bảo hiểm và tạo ra những sản phẩm mới linh

37

hoạt hơn với nhu cầu của ngƣời nông dân.

 Mở rộng phạm vi bảo hiểm: Sản phẩm phân phối qua môi giới bảo

hiểm đƣợc đào tạo chuyên nghiệp sẽ tạo ra doanh thu bảo hiểm lớn hơn do

mạng lƣới bảo hiểm đƣợc mở rộng. Các nhà môi giới còn có thể bán nhiều

sản phẩm bảo hiểm cho cùng một ngƣời nông dân bằng cách giúp họ lập ra

chiến lƣợc quản lý rủi ro. Ngoài ra, họ cũng cung cấp các thông tin phản hồi

từ khách hàng tới công ty một cách nhanh chóng. Sự linh hoạt này không thể

có đƣợc ở hệ thống trƣớc kia của chính quyền liên bang.

 Giảm phí bảo hiểm: Sự cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận trong khu

vực tƣ nhân đã mang lại những kết quả đáng mong đợi: kinh nghiệm giải

quyết bồi thƣờng đƣợc nâng cao và chi phí quản lý giảm. Điều đó đã đƣợc

phản ánh trong phí bảo hiểm thấp hơn. Công ty có điều kiện tốt để giữ cho phí

bảo hiểm thấp nhằm thu hút khách hàng và đánh bại các đối thủ cạnh tranh.

Tuy nhiên, sự cạnh tranh quá mạnh này cũng khiến Chính phủ phải can thiệp

bằng cách đƣa ra quy định yêu cầu các công ty phải duy trì trữ lƣợng phí bảo

hiểm đầy đủ để duy trì khả năng thanh toán.

 Dịch vụ khách hàng và khâu tiếp thị được củng cố: Dịch vụ khách

hàng và sự hài lòng cao của khách hàng là dấu hiệu của các công ty thành

công trong cạnh tranh kinh doanh. Các công ty bảo hiểm luôn nắm đƣợc bí

quyết thành công này và buộc phải nỗ lực để cung cấp các dịch vụ tốt nhất

cũng nhƣ quảng bá rộng rãi các sản phẩm của mình để thu hút khách hàng và

tăng doanh số cho công ty. Những ƣu điểm này đã bổ sung rất tốt cho hệ

thống bán bảo hiểm trƣớc kia của Chính phủ.

 Doanh số bán bảo hiểm tăng (Tiện ích và sản phẩm mới): Doanh số

tăng dựa trên các sản phẩm đang đƣợc cầu cao hơn với nỗ lực không ngừng

của các công ty bảo hiểm. Khu vực tƣ nhân chỉ dựa vào việc bán sản phẩm để

tạo ra thu nhập trong khi Chính phủ liên bang có thể bổ sung lƣợng tiền từ

38

khoản thu thuế khi các chƣơng trình bảo hiểm thất bại. Chính động lực phải

tồn tại đã tạo nên hiệu quả làm việc cao cho các công ty bảo hiểm. [Rob

Goeres, 2003]

1.4. Hoạt động tái bảo hiểm cây trồng liên bang

Bộ nông nghiệp Mỹ cho phép các công ty bảo hiểm tƣ nhân tham gia

vào chƣơng trình bảo hiểm cây trồng liên bang để chuyển giao một phần rủi

ro bảo hiểm cho chính phủ. “Hiệp định chuẩn tái bảo hiểm” (SRA) quy định

các điều khoản và điều kiện mà Chính phủ liên bang sẽ cung cấp khoản hỗ trợ

và tái bảo hiểm trên hợp đồng bảo hiểm cây trồng đã đƣợc ký kết hoặc đƣợc

tái bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm có tên trên hợp đồng. Hiệp định này đƣợc

điều chỉnh bởi Luật bảo hiểm cây trồng liên bang và thuộc quản lý của Hội

đồng cây trồng liên bang Mỹ (FCIC).

Theo hiệp định, chỉ những hợp đồng bảo hiểm đạt đủ điều kiện mới

đƣợc tái bảo hiểm và hỗ trợ tài chính. Điều này có nghĩa là các hợp đồng này

đƣợc bán và thực hiện phù hợp với Luật Bảo hiểm Cây trồng Liên bang và

các quy định khác có liên quan cũng nhƣ các thủ tục đƣợc phê duyệt bởi

FCIC. Ví dụ, để có đủ điều kiện cho tái bảo hiểm và trợ cấp, công ty phải có

tất cả các kế hoạch bảo hiểm đƣợc phê duyệt cho tất cả các loại cây trồng

đƣợc chấp thuận trong bất kỳ bang nào, mà tại đó nó công ty bán hợp đồng

bảo hiểm cây trồng đủ điều kiện và phải chấp nhận, phê duyệt tất cả các đơn

bảo hiểm từ tất cả các nông dân đủ điều kiện mua bảo hiểm.

Tại mỗi bang, các công ty bảo hiểm có thể thiết kế những hợp đồng bảo

hiểm thích hợp với một trong ba quỹ tái bảo hiểm sau:

 Quỹ rủi ro được chỉ định: công ty bảo hiểm chỉ định những hợp

đồng có khả năng duy trì ổn định một mức tổn thất đƣợc bảo hiểm nhất. Tỷ lệ

phần trăm tối đa của tổng phí bảo hiểm có thể đƣợc tái bảo hiểm theo quỹ này

ở mỗi tiểu bang đƣợc nêu rõ trong hiệp định. Tỷ lệ phần trăm này khác nhau

39

giữa các tiểu bang từ 10% (Hawaii) đến 75% (7 tiểu bang, ví dụ: Alaska,

Georgia, Texas). Công ty phải giữ lại 20 phần trăm của phí bảo hiểm ghi sổ

ròng và trách nhiệm liên quan cho các khoản lỗ ròng cuối cùng trên hợp đồng

bảo hiểm cây trồng (đã đủ điều kiện đƣợc áp dụng vào quỹ này). Trách nhiệm

pháp lý cho khoản lỗ ròng cuối cùng không đƣợc giải quyết bởi công ty bảo

hiểm sẽ đƣợc chuyển cho FCIC, đổi lại, công ty sẽ trao đổi một tỷ lệ phần

trăm tƣơng ứng phí bảo hiểm nhận đƣợc. [Dennis A. Shields, 2009]

 Quỹ phát triển: Các công ty bảo hiểm chỉ định các hợp đồng bảo

hiểm cây trồng có khả năng duy trì một mức tổn thất đƣợc bảo hiểm ở mức

trung bình (không quá cao và cũng không quá thấp nên rất khó để tái bảo

hiểm đầy đủ trên cơ sở thƣơng mại). Trong thực tế có ba loại quỹ phát triển

khác nhau. Quỹ C là cho kế hoạch bảo hiểm thảm họa, Quỹ R là cho kế hoạch

bảo hiểm doanh thu và Quỹ B là cho tất cả các kế hoạch bảo hiểm khác. Công

ty phải giữ lại ít nhất 35% phí bảo hiểm ròng và trách nhiệm pháp lý liên quan

cho các khoản lỗ ròng cuối cùng của những hợp đồng bảo hiểm cây trồng (đã

đủ điều kiện vào một trong ba loại của Quỹ phát triển trong mỗi tiểu bang).

Công ty có thể giữ lại một tỷ lệ phần trăm phí bảo hiểm và trách nhiệm pháp

lý lớn hơn trong phạm vi mỗi tiểu bang nếu họ muốn. Về trách nhiệm pháp lý

cho khoản lỗ ròng cuối cùng không đƣợc giải quyết bởi công ty bảo hiểm sẽ

đƣợc chuyển cho FCIC, đổi lại, công ty sẽ trao đổi một tỷ lệ phần trăm tƣơng

ứng phí bảo hiểm nhận đƣợc. [Dennis A. Shields, 2009]

 Quỹ thương mại: Các công ty bảo hiểm chỉ định các hợp đồng bảo

hiểm cây trồng ít có khả năng duy trì một mức tổn thất đƣợc bảo hiểm nhất.

Có ba Quỹ thƣơng mại khác nhau và các hợp đồng bảo hiểm cũng đƣợc xếp

vào một trong 3 loại này nhƣ trƣờng hợp của Quỹ phát triển. Công ty phải giữ

lại ít nhất 50% phí bảo hiểm ròng và trách nhiệm pháp lý liên quan cho các

khoản lỗ ròng cuối cùng của những hợp đồng bảo hiểm cây trồng đủ điều kiện

vào Quỹ thƣơng mại. Công ty có thể giữ lại một tỷ lệ phần trăm phí bảo hiểm

40

và trách nhiệm pháp lý lớn hơn trong phạm vi mỗi tiểu bang nếu họ muốn. Về

trách nhiệm pháp lý cho khoản lỗ ròng cuối cùng không đƣợc giải quyết bởi

công ty bảo hiểm sẽ đƣợc chuyển cho FCIC, đổi lại, công ty sẽ trao đổi một tỷ

lệ phần trăm tƣơng ứng phí bảo hiểm nhận đƣợc. [Dennis A. Shields, 2009]

 Phân định trách nhiệm khi tổn thất xảy ra: Thiết kế những hợp

đồng bảo hiểm đủ điều kiện vào các quỹ tái bảo hiểm khác nhau đã tạo thành

một phần tỷ lệ trong những quy định của hiệp định tái bảo hiểm. Phần quy

định còn lại xác định trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cho khoản lỗ ròng

cuối cùng. Tùy thuộc vào loại quỹ và giá trị của khoản lỗ ròng đó, hiệp định

sẽ quyết định phạm vi trách nhiệm của các công ty (chi tiết đƣợc đƣa ra bởi

bảng số liệu dƣới đây). Trách nhiệm của công ty bảo hiểm là lớn nhất trong

các hợp đồng thuộc Quỹ Thƣơng mại, thấp nhất cho tổn thất của hợp đồng

thuộc Quỹ rủi ro đƣợc chỉ định. [Dennis A. Shields, 2009]

Bảng 2: Trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cho khoản lỗ ròng cuối cùng

Trách nhiệm của công ty BH cho khoản lỗ ròng

Tỷ lệ tổn thất

Quỹ tái bảo

cuối cùng

(X)

hiểm

CAT

Các loại BH

Bảo hiểm

khác

doanh thu

Thƣơng mại

50

50

57

100 < X ≤160

Phát triển

25

25

30

Rủi ro đƣợc chỉ định

_

5

_

Thƣơng mại

40

40

43

160 < X ≤ 220

Phát triển

20

20

22,5

Rủi ro đƣợc chỉ định

_

4

_

Thƣơng mại

17

17

17

220 < X ≤ 500

Phát triển

11

11

11

Rủi ro đƣợc chỉ định

_

2

_

X>500

Tất cả các quỹ

FCIC chịu trách nhiệm tất cả tổn thất

(Nguồn: Cơ quan quản lý rủi ro RMA, Bộ Nông nghiệp Mỹ)

41

Đơn vị: %

1.5. NCIS – Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ

Hiệp hội bảo hiểm cây trồng (NCIS) là một tổ chức phi lợi nhuận đại

diện cho lợi ích của hơn 20 công ty bảo hiểm cây trồng tại Mỹ, thành lập năm

1989. Các công ty thành viên của NCIS kinh doanh các loại hình bảo hiểm

cây trồng đơn thảm họa, đa thảm họa, chƣơng trình quản lý rủi ro đƣợc hỗ trợ

bởi chính quyền liên bang và phát triển sản phẩm bảo hiểm cây trồng tổng số

xấp xỉ 9 tỷ USD phí bảo hiểm, với tổng trách nhiệm bảo hiểm khoảng 80 tỷ

USD (tính đến tháng 11/2009). [Website Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ]

NCIS có lịch sử nghiên cứu và cung cấp cho Chính phủ và ngành bảo

hiểm cây trồng thông tin quản lý rủi ro có tính kỹ thuật nhằm mục đích: 1)

phát triển và thử nghiệm quy trình thẩm định thiệt hại chính xác ở bất kỳ giai

đoạn tăng trƣởng nào của cây trồng; 2) phát triển phù hợp và đầy đủ số liệu

thống kê thiệt hại, các điều khoản bảo hiểm; 3) phát triển đào tạo chuyên

nghiệp và các chƣơng trình giáo dục cho các đại lý, chuyên viên giám định,

nông dân; 4) phát triển các chƣơng trình nghiên cứu tại hơn ba mƣơi trƣờng

đại học, và các quy trình đổi so với các chƣơng trình nông nghiệp truyền

thống để cung cấp các giải pháp quản lý rủi ro, đáp ứng các môi trƣờng nông

nghiệp trong tƣơng lai. NCIS cung cấp các loại thông tin và dịch vụ cho

ngành bảo hiểm cây trồng thông qua các nỗ lực chung giữa NCIS, các công ty

thành viên, RMA, và các trƣờng đại học nông nghiệp lớn. [Website Hiệp hội

bảo hiểm cây trồng Mỹ]

2. Bảo hiểm chăn nuôi

So với bảo hiểm cây trồng liên bang, bảo hiểm chăn nuôi tại Mỹ có lịch

sử phát triển ngắn hơn rất nhiều, có thể đƣợc coi là một chƣơng trình mới mẻ.

Chƣơng trình bắt đầu từ bảo hiểm “Phòng ngừa rủi ro chăn nuôi” (LRP) vào

năm 2002 và sau đó phát triển thêm bảo hiểm “Tỷ lệ lợi nhuận gộp cho gia

42

súc” (LGM) vào năm 2006. [Ugo Pica et al. 2010]

2.1. Bảo hiểm “Phòng ngừa rủi ro chăn nuôi” (Livestock Risk Protection)

2.1.1. Giới thiệu chung

Trƣớc tình hình giá vật nuôi giảm do dịch bệnh và những rủi ro có thể

đe dọa đến thu nhập của ngƣời làm chăn nuôi, Chính phủ Mỹ đã nhận thấy

vấn đề cấp thiết phải bảo vệ ngƣời nông dân trƣớc nguy cơ giá vật nuôi giảm,

phải có một biện pháp sáng tạo hơn khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của các

phƣơng pháp phòng ngừa rủi ro truyền thống nhƣ hợp đồng quyền chọn, hợp

đồng tƣơng lai. Do đó, năm 2002, Cơ quan quản lý rủi ro của Bộ Nông nghiệp

Mỹ RMA đã giới thiệu sản phẩm bảo hiểm chăn nuôi mới với tên gọi “Phòng

ngửa rủi ro chăn nuôi”, viết tắt là LPR – một biện pháp bảo vệ mức giá tƣơng

lai của gia súc.

LRP cho phép bảo vệ giá đơn rủi ro bằng cách thanh toán bồi thƣờng

cho ngƣời chăn nuôi nếu chỉ số giá quốc gia giảm dƣới mức đƣợc bảo hiểm,

khoản bồi thƣờng bằng với chênh lệnh giữa hai mức giá này. Đặc biệt ở

chƣơng trình này, mức giá bảo hiểm đƣợc chọn bởi ngƣời đƣợc bảo hiểm.

Chƣơng trình vận hành tƣơng tự nhƣ hợp đồng quyền chọn bán, nó cho phép

nhà sản xuất thiết lập mức giá sàn để bảo hiểm với khả năng tham gia vào

biểu giá, đổi lại, ngƣời sản xuất phải trả một khoản phí bảo hiểm.

Có thể lấy ví dụ, trong suốt năm 1998 khi giá trên thị trƣờng thịt heo

giảm mạnh, chƣơng trình bảo vệ giá có thể giúp ngƣời nông dân tránh đƣợc

những thiệt hại nặng nề của thời kỳ đó. Giả định rằng một ngƣời nông dân đã

mua bảo hiểm LRP gần với mức giá hòa vốn là 42 USD/tạ, với mức phí bảo

hiểm xấp xỉ 2 USD/tạ. Khi giá thịt lợn trên thị trƣờng xuống gần mức 20

USD/tạ thì bảo hiểm LRP sẽ phải trả một khoản bồi thƣờng xấp xỉ 22 USD/tạ

(số chênh lệch giữa mức giá bảo hiểm và giá thực tế). [Website hƣớng dẫn về

bảo hiểm chăn nuôi của trƣờng đại học Nebraska – Lincoln]

Mức giá bảo hiểm và phí đóng bảo hiểm đƣợc xác định trên cơ sở thị

43

trƣờng và hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tƣơng lai. LRP chỉ bảo hiểm cho

giá, không bảo hiểm cho những rủi ro khác nhƣ tổn thất do vật nuôi chết hay

giảm năng suất. Chƣơng trình không bảo đảm cho số tiền mặt nhận đƣợc mà

bảo vệ cho quyền đƣợc nhận bồi thƣờng dựa trên mức giá trung bình của thị

trƣờng.

Để có thể mua đƣợc bảo hiểm LRP, ngƣời nông dân phải đảm bảo chất

lƣợng, cân nặng của vật nuôi vào thời điểm sản phẩm đƣợc bán ra thị trƣờng

(và hợp đồng bảo hiểm hết hạn) theo nhƣ quy định trong hợp đồng. Nếu

không đạt đƣợc tiêu chuẩn này thì bảo hiểm LRP sẽ không có hiệu lực. Đặc

điểm này để đảm bảo tính công bằng. Ngoài ra, ngƣời nông dân cũng phải

chứng minh đƣợc bản thân có lợi ích tài chính hay ít nhất 10% quyền sở hữu

trong đàn vật nuôi đƣợc bảo hiểm. Điều kiện này đƣợc đƣa ra bởi chƣơng

trình giới hạn số gia súc mà mỗi ngƣời sản xuất đƣợc mua bảo hiểm. Nếu đàn

gia súc đƣợc sở hữu bởi nhiều ngƣời hoặc một tập thể thì mỗi ngƣời sở hữu

có thể mua bảo hiểm LRP cho số vật nuôi thuộc giá trị sở hữu của họ một

cách độc lập, tùy vào quyết định của mỗi cá nhân.

Chƣơng trình LRP thử nghiệm năm 2005 đƣợc áp dụng trên 19 bang

của nƣớc Mỹ. Bộ Nông nghiệp Mỹ hỗ trợ 13% tổng phí bảo hiểm LRP. Có

một điểm đáng chú ý rằng ngƣời chủ của số gia súc đƣợc mua bảo hiểm

không nhất thiết phải sống ở những tiểu bang này, chỉ số đàn gia súc bắt buộc

phải chăn nuôi tại đó. [Website hƣớng dẫn về bảo hiểm chăn nuôi của trƣờng

đại học Nebraska – Lincoln]

2.1.2. Lợi ích của bảo hiểm LRP đối với người nông dân

LRP là một công cụ quản lý rủi ro. Chƣơng trình bảo hiểm này không

đƣợc thiết kế để làm tăng lợi nhuận hay kiểm soát giá. Chƣơng trình hữu ích

trong việc ngăn ngừa những tổn thất lớn, và những thảm họa tiềm ẩn đối với

ngƣời chăn nuôi khi mức giá gia súc giảm mạnh. Một chiến lƣợc tốt có thể

đồng nghĩa với trả một khoản phí bảo hiểm LRP, cũng giống nhƣ phí bảo

44

hiểm cây trồng trong chƣơng trình bảo hiểm cây trồng liên bang. Trong việc

tính toán chi phí hòa vốn của sản phẩm cây trồng, ngƣời nông dân thƣờng coi

phí bảo hiểm nhƣ một chi phí khác của quá trình sản xuất. Tƣơng tự nhƣ vậy,

phí bảo hiểm LRP có thể đƣợc kết hợp nhƣ một phần của mức giá hòa vốn

cho gia súc đƣợc bán ra thị trƣờng. Các nhà sản xuất sau đó có thể lựa chọn

một mức bảo hiểm gần với chi phí sản xuất hòa vốn. Với chiến lƣợc này, nhà

sản xuất vẫn có khả năng cạnh tranh về giá trong khi đó, phòng ngừa rủi ro

giá xuống dƣới điểm hòa vốn sẽ dẫn đến trƣờng hợp bị lỗ.

Một yếu tố quan trọng khi xem xét mua bảo hiểm LRP là thời gian để

mua bảo hiểm. Phí đóng bảo hiểm cho một mức độ bảo vệ giá thƣờng rẻ hơn

khi mức giá thị trƣờng đang cao hoặc có xu hƣớng tăng, bởi trong tình hình

đó, bên bán hợp đồng sẽ ít có khả năng phải thanh toán tổn thất hơn. Trƣờng

hợp này mở ra cơ hội có thể chốt mức giá sản gần hơn với mức giá hòa vốn

với mức phí bảo hiểm tƣơng đối rẻ hơn. Ngƣợc lại, nếu giá thị trƣờng đang

mở mức thấp hoặc có xu hƣớng giảm, phí bảo hiểm có thể đắt hơn cho cùng

một phạm vi bảo hiểm bởi khi giá giảm thỉ khả năng phải thanh toán bồi

thƣờng là rất cao. Do vậy, đợi cho đến khi giá thị trƣờng giảm mới mua bảo

hiểm không phải là sự lựa chọn khôn ngoan. Thay vào đó, thời kỳ giá thị

trƣờng cao có lẽ sẽ là cơ hội tốt nhất để bảo đảm một chi phí sản xuất hòa vốn

hoặc lợi nhuận với một khoản phí bảo hiểm thấp hơn bình thƣờng. [Paul

Mitchell et al.2004]

2.2. Bảo hiểm “Tỷ lệ lợi nhuận gộp cho gia súc” (Livestock Gross Margin)

2.2.1. Giới thiệu chung

Bảo hiểm “Tỷ lệ lợi nhuận gộp cho gia súc”- viết tắt LGM là chƣơng

trình bảo hiểm cho gia súc và heo thông qua Cơ quan quản lý rủi ro RMA của

Bộ Nông nghiệp Mỹ. Bảo hiểm LMG cho gia súc lần đầu tiên đƣợc đƣa ra

vào tháng 1/2006. Bảo hiểm LMG cho heo đƣợc giới thiệu sau đó (tháng

45

7/2007) tại 20 tiểu bang đã phát triển LMG dành cho gia súc. Trƣớc khi bảo

hiểm LGM ra đời, bảo hiểm LRP đã đến với ngƣời chăn nuôi (bắt đầu vào

năm 2001) nhƣ một sản phẩm bảo hiểm chăn nuôi chính thức. Bảo hiểm

LGM bảo vệ ngƣời nông dân khỏi bị giảm tỷ lệ lợi nhuận gộp bằng cách

phòng ngừa rủi ro đồng thời chi phí thức ăn đầu vào cho gia súc, giá bán gia

súc hoặc chi phí cho ăn gồm ngô nhƣ một sự bảo vệ toàn diện. Mặc dù LGM

dựa vào giá thị trƣờng tƣơng lai và có cơ chế bảo vệ gần giống với bợp đồng

tƣơng lai, nhƣng các nhà sản xuất khi sử dụng bảo hiểm LGM lại thu đƣợc lợi

ích từ việc không phải trả khoản phí môi giới nhƣ khi mua bán trên sở giao

dịch. Tuy nhiên, họ phải mua hợp đồng thông qua đại lý bảo hiểm đƣợc cấp

phép kinh doanh loại hình này.

Bảo hiểm LGM trả cho những ngƣời sản xuất một khoản bồi thƣờng

khi khoảng cách giữa giá bán gia súc và giá đầu vào ngô hoặc giá bán heo và

giá đầu vào đậu tƣơng và giá đầu vào ngô thu hẹp quá mức phạm vi đƣợc bảo

hiểm do những thay đổi điều kiện thị trƣờng. Khi khoảng cách này càng thu

hẹp thì tiền thanh toán bồi thƣờng tƣơng ứng càng lớn hơn để bù đắp lại

khoản thu nhập bị giảm và/hoặc chi phí tăng. Khoản thanh toán dựa trên

GMG (Gross Margin Guatantee) và AMG (Actual Gross Margin). GMG là tỷ

lệ biên khẩu phần ăn cho gia súc mà ngƣời chăn nuôi đảm bảo khi họ ký kết

hợp đồng. Đối với LGM cho gia súc, GMG dựa trên số gia súc, lƣợng thức ăn

dự kiến, giá ngô. Đối với LGM cho heo, GMG dựa trên giá bán heo dự kiến,

giá đậu tƣơng và giá ngô. AMG là tỷ lệ biên khẩu phần ăn thực thế với mức

giá thực sự đƣợc ghi nhận trên thị trƣờng sau 11 tháng hợp đồng có hiệu lực

đối với gia súc và 6 tháng hợp đồng đối với heo. Vào thời kỳ cuối của hợp

đồng, một khoản bồi thƣờng sẽ đƣợc trả cho ngƣời sản xuất nếu GMG trong

thời gian bảo hiểm vƣợt quá AGM. [Website hƣớng dẫn về bảo hiểm chăn

nuôi của trƣờng đại học Nebraska – Lincoln]

Vật nuôi đƣợc bảo hiểm bởi LGM phải đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn về cân

46

nặng nhất định và đảm bảo đƣợc yêu cầu về thời gian, chế độ cho ăn trƣớc khi

bán ra thị trƣờng. Nếu vật nuôi không đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn này thì bảo

hiểm LGM sẽ không có hiệu lực cũng nhƣ không có khoản bồi thƣờng nào

đƣợc chi trả.

Năm 2008, bảo hiểm LGM đƣợc bán tại 20 tiểu bang. Có một điểm

đáng chú ý rằng ngƣời chủ của số gia súc đƣợc mua bảo hiểm không nhất

thiết phải sống ở những tiểu bang này, chỉ số đàn gia súc bắt buộc phải chăn

nuôi tại đó. Về điều kiện chứng minh đƣợc bản thân có lợi ích tài chính hay ít

nhất 10% quyền sở hữu trong đàn vật nuôi đƣợc bảo hiểm tƣơng tự nhƣ bảo

hiểm LRP. [Website hƣớng dẫn về bảo hiểm chăn nuôi của trƣờng đại học

Nebraska – Lincoln]

2.2.2. Lợi ích của bảo hiểm LGM đối với người nông dân

LRP là một công cụ quản lý rủi ro. Chƣơng trình bảo hiểm này không

đƣợc thiết kế để làm tăng lợi nhuận hay kiểm soát giá. Mặc dù bảo hiểm

LGM không tạo ra cơ hội tiếp thị hoặc mức lợi nhuận biên, nhƣng chƣơng

trình này cung cấp sự bảo vệ thông qua bảo đảm tỷ lệ lãi gộp chăn nuôi.

Chƣơng trình trở nên hữu ích hơn trong việc ngăn ngừa những tổn thất lớn,

tiềm ẩn do sự giảm khẩu phần ăn cho gia súc hay lãi biên bị giảm do thu nhập

giảm hoặc chi phí đầu vào tăng (chi phí thức ăn cho gia súc).

Mặc dù rủi ro về giá đƣợc giảm thiểu với bảo hiểm LGM nhƣng nó vẫn

có điểm hạn chế khi không bảo vệ hiệu quả với những rủi ro cơ bản hoặc

năng suất giảm, bao gồm cả vật nuôi bị chết.

Một yếu tố quan trọng khi cân nhắc mua bảo hiểm LGM là thời gian

mua. Phí bảo hiểm LGM thƣờng rẻ hơn khi tỷ lệ lãi gộp cao hoặc có xu

hƣớng tăng (giá súc vật sống tăng hoặc giá thức ăn giảm) bởi trong trƣờng

hợp đó, các công ty bảo hiểm ít có khả năng phải chi trả tiền bồi thƣờng hơn.

Tình huống đó có thể là một cơ hội tốt để chốt lợi nhuận gộp gần với lợi

nhuận gộp ở điểm hòa vốn với một khoản phí bảo hiểm rẻ hơn tƣơng đối.

47

Ngƣợc lại, nếu tỷ lệ lợi nhuận gộp tiếp tục giảm, phí bảo hiểm có xu hƣớng

cao hơn cho một mức bảo hiểm tƣơng tự bởi khi đó nhà bảo hiểm có khả năng

phải thanh toán tổn thất cao. Bởi vậy, sẽ là sự lựa chọn sáng suốt khi mua bảo

hiểm LGM vào thời kỳ giá súc vật sống cao, giá thức ăn chăn nuôi giảm,

ngƣời chăn nuôi sẽ bảo vệ đƣợc tỷ lệ lợi nhuận gộp ở điểm hòa vốn với mức

phí bảo hiểm rẻ hơn tƣơng đối. [Jake Rinehart, 2008]

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP

TẠI MỸ

1. Thành tựu đạt đƣợc

1.1. Thành tựu của bảo hiểm cây trồng

 Nhƣ hi vọng ban đầu của các nhà tạo lập chính sách, bảo hiểm cây

trồng đã trở thành công cụ bảo vệ tài chính lớn nhất cho ngƣời nông dân. Từ

182,2 triệu mẫu đất đƣợc bảo hiểm năm 1997, chƣơng trình đã bao phủ đến

hơn 264,6 mẫu đất (tính đến tháng 1/2010), mặc dù có giảm nhẹ so với 272,7

mẫu năm 2008. Theo Hiệp hội bảo hiểm cây trồng quốc gia, chƣơng trình đã

đạt đƣợc mục tiêu Quốc hội đề ra: bảo hiểm 80% diện tích đất nông nghiệp

 Phí bảo hiểm và tổn thất: Tổng phí bảo hiểm cây trồng đa thảm họa

(năm 1985, con số này chỉ là 18%) [Website của Bộ Nông nghiệp Mỹ]

(MPCI) năm 2009 đã giảm nhẹ so với năm trƣớc đó, đạt 8.94 tỷ USD. Trong

năm 2008, tổng phí bảo hiểm thu đƣợc tăng một phần do giá cả hàng hóa tăng

cao. Cụ thể phí bảo hiểm MPCI theo công bố của FCIC đã đạt 9,86 tỷ USD,

tăng gần 50% trong 12 tháng. [Website của Bộ Nông nghiệp Mỹ]

 Theo dữ liệu do Cơ quan quản lý rủi ro nông nghiệp RMA cung cấp

về bảng xếp hạng phí bảo hiểm MPIC năm 2008, phí bảo hiểm tại North

Dakota đã dẫn đầu và đạt đƣợc tăng trƣởng cao nhất, gấp đôi so với năm

2007, tại các bang khác (trừ Flodia), tổng phí bảo hiểm nông nghiệp đều tăng

đáng kể, tại Tennessee, tăng gần 80%. Tuy nhiên, theo Hiệp hội bảo hiểm cây

48

trồng quốc gia, năm 2008 cũng ghi nhận mức thiệt hại của bảo hiểm cây trồng

đơn thảm họa rất cao, tỷ lệ tổn thất ƣớc tính khoảng 80%, đi ngƣợc lại hoàn

toàn so với xu hƣớng của 5 năm trƣớc đó. [Website Hiệp hội bảo hiểm cây

trồng Mỹ]

 Chính sách bảo hiểm “Combo”: FCIC hiện đang đề xuất một chính

sách bảo hiểm tổng hợp mới cho các loại cây trồng ngũ cốc chính, trong đó

cho phép ngƣời nông dân có thể lựa chọn bảo vệ năng suất hay doanh thu.

Chính sách bảo hiểm “Combo” này sẽ thay thế bảo hiểm doanh thu cây trồng,

bảo hiểm thu nhập và một số loại bảo hiểm khác, mục đích là để giảm trùng

lặp, đơn giản hóa thủ tục giấy tờ và các quyết định quản lý rủi ro. FCIC sẽ

ban hành một bộ tài liệu chính sách và các dữ liệu thực tế, thiết lập tỷ lệ và

phƣơng pháp định giá, chi phí ƣớc tính, đây đƣợc coi cơ sở dữ liệu để giúp

công ty bảo hiểm và ngƣời nông dân tiếp cận với loại hình bảo hiểm mới

nhanh chóng hơn. Ban đầu loại hình bảo hiểm này đã đƣợc chấp nhận cho vụ

mùa năm 2009, nhƣng việc triển khai thực hiện đã bị trì hoãn đến năm 2010

bởi nhu cầu nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin. [Website của Bộ Nông

nghiệp Mỹ]

 Vấn đề của các trang trại nhỏ với chƣơng trình bảo hiểm cây trồng

đã đƣợc giải quyết khá thành công trong chƣơng trình bảo hiểm tổng doanh

thu đƣợc điều chỉnh, trong đó cả nông trại sẽ đƣợc bảo hiểm dƣới một chính

sách. Chính sách này cung cấp mức bảo vệ tối đa là 100.000 USD, bao gồm

tất cả các loại cây trồng và sản xuất vật nuôi, kể cả sữa bò. Đƣợc phê duyệt

nhƣ một chƣơng trình thí điểm tại một số khu vực của bang Pennsylvania vào

năm 2003, chƣơng trình bảo hiểm này đã đƣợc mở rộng đến năm tiểu bang

vào vụ mùa năm 2005, hiện nay đã có mặt trong hơn một nửa các tiểu bang.

[Frank Schnapp et al ,2009]

 Số liệu cụ thể về tình hình phát triển hai chƣơng trình bảo hiểm cây

trồng đơn thảm họa và đa thảm họa tại Mỹ từ năm 1999 đến năm 2008 đƣợc

49

tổng hợp tại bảng sau:

Bảng 3: Tổng hợp tình hình phát triển bảo hiểm cây trồng cho thảm

họa định danh tại Mỹ, 1999-2008

Đơn vị: nghìn USD

Thay đổi tỷ lệ tổn thất

Tổng phí

Tỷ lệ tăng trƣởng năm

Tỷ lệ tổn

năm sau so với năm

bảo hiểm

sau so với năm trƣớc

thất (%)

Năm

trƣớc

(1)

(%)

(2)

(đơn vị)

1999

508.108

-11,9%

76

-7

2000

468.405

68

-8

-7,8

2001

433.743

69

1

-7,4

2002

405.003

70

1

-6,6

2003

422.137

56

-14

4,2

2004

427.567

58

2

1,3

2005

434.711

44

-14

1,7

2006

405.254

50

4

-6,8

2007

489.649

48

-2

20,8

2008

669.436

83

35

36,7

(Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ - NCIS)

(1) Tổng phí bảo hiểm đƣợc ký kết trực tiếp, trƣớc khi có chuyển giao

tái bảo hiểm

(2) Tỷ lệ mỗi đồng phí bảo hiểm sử dụng cho việc yêu cầu giải quyết

quyền lợi bảo hiểm và các chi phí khác liên quan. Tỷ lệ này giảm là

50

dấu hiệu tích cực và ngƣợc lại nếu tỷ lệ tăng.

Nhìn vào bảng trên, có thể thấy tổng phí bảo hiểm cây trồng cho thảm

họa định danh không có thay đối lớn trong vòng 10 năm, dao động từ khoảng

400 triệu USD lên trên 600 triệu USD, đáng lƣu ý là từ năm 2000 đến năm

2007 số phí bảo hiểm thu đƣợc luôn ổn định ở khoảng hơn 400 triệu USD.

Điều này không có nghĩa là chƣơng trình bảo hiểm không có sự phát triển mà

ngƣợc lại, đây chính là thành công mà chƣơng trình đạt đƣợc. Bởi lẽ, ngày

càng có nhiều những chƣơng trình bảo hiểm thích hợp với đa dạng các loại

tổn thất, ngƣời nông dân có nhiều lựa chọn ký kết hợp đồng bảo hiểm hơn, ví

dụ khi lo lắng cho thu nhập của mình bị giảm sút vì bất cứ rủi ro nào, ngƣời

nông dẫn sẽ chọn bảo hiểm doanh thu thay vì bảo hiểm cây trồng thảm họa

định danh. Do đó, giữ đƣợc một tốc độ phát triển khiêm tốn nhƣng vững chắc

đã đƣợc coi là thành quả đáng khi nhận của chƣơng trình.

Xét về mức độ tăng trƣởng, 2008 là một năm thành công của chƣơng

trình bảo hiểm thảm họa định danh. Tổng phí bảo hiểm tăng gần 37% từ

khoảng 489 triệu USD năm 2007 lên mức 669 triệu USD. Sự tăng trƣởng

mạnh mẽ này diễn ra tại hẩu hết các tiểu bang với tổng phí bảo hiểm thu đƣợc

tại mỗi bang là trên 1 triệu USD, ngoại trừ một số bang nhƣ Arizona (-9%),

California (-14%), North Carolia (-7%) và Virginia (-3%). [Frank Schnapp et

al. 2009] Tuy nhiên, xét về góc độ lợi nhuận, 2008 lại là một năm khó khăn

cho ngành kinh doanh bảo hiểm này bởi tỷ lệ tổn thất là cao nhất kể từ năm

1999. Tỷ lệ này trên toàn quốc là 83%, tƣơng ứng với tổng giá trị thiệt hại vào

khoảng 554 triệu USD (theo số liệu từ báo cáo của Hiệp hội bảo hiểm cây

trồng Mỹ - NCIS). Nguyên nhân của hiện tƣợng này là những cơn bão lớn

liên tiếp xảy ra trong năm, trong đó sức tàn phá lớn nhất phải kể đến cơn bão

ngày 4/6 tại Nebraska với hơn 12 triệu USD giá trị hoa màu bị mất trắng.

51

[Frank Schnapp et al. 2009]

Bảng 4: Tổng hợp tình hình phát triển bảo hiểm cây trồng đa thảm

họa tại Mỹ, 1999-2008

Đơn vị: nghìn USD

Tỷ lệ tăng trƣởng

Thay đổi tỷ lệ tổn thất

Tỷ lệ tổn

Phí bảo

năm sau so với năm

năm sau so với năm

thất (%)

hiểm ròng

Năm

trƣớc

trƣớc

(*)

(%)

(đơn vị)

1999

725.821

1,8%

98,2

NA

2000

938.840

29,3

90,4

-7,8

2001

1.321.820

40,8

96,0

5,6

2002

2.003.443

51,6

124,4

28,4

2003

1.702.862

-15,0

109,8

-14,6

2004

2.203.143

29,4

76,1

-33,8

2005

2.234.630

1,4

91,3

15,2

2006

2.828.084

26,6

77,8

-13,5

2007

3.648.996

29,0

74,7

-3,0

2008

5.077.625

39,2

90,1

15,3

(Nguồn: Tổ chức Ủy viên hội đồng bảo hiểm quốc gia (NAIC), Cơ sở dữ liệu báo

cáo hàng năm)

(*) Sau giao dịch tái bảo hiểm, không bao gồm quỹ liên bang.

NA=không có dữ liệu.

Dựa vào bảng số liệu trên, có thể thấy rằng bảo hiểm cây trồng đa thảm

họa đã có bƣớc phát triển đáng kể trong vòng 10 năm với tổng phí bảo hiểm

52

ròng tăng từ 725.821 nghìn USD năm 1999 lên hơn 5 triệu USD năm 2008.

Tuy nhiên, trong quá trình này, số phí bảo hiểm ròng và tỷ lệ tổn thất có

những biến động thất thƣờng do nhiều nguyên nhân chủ quan và tác động

khách quan. Ví dụ, tỷ lệ tổn thất đƣợc ghi nhận là 90,1% năm 2008 nhƣng con

số này năm 2007 là 74,7%; năm 2002 tăng lên rất cao 124,4% do khu vực

miền Tây phải trải qua một thời kỳ hạn hán kéo dài gây ra tổn thất lớn, trên

diện rộng với hoa màu của ngƣời nông dân. Xét về tỷ lệ tăng trƣởng phí bảo

hiểm ròng qua các năm, dễ thấy 40,8% là tỷ lệ cao nhất đƣợc ghi nhận vào

năm 2001, tƣơng ứng với tổng phí bảo hiểm ròng tăng từ 938.840 USD (năm

2000) lên 1.321.820 USD (năm 2001). Việc Quốc hội phê chuẩn Luật bảo vệ

rủi ro nông nghiệp (ARPS) vào năm 2000 là một động lực quan trọng cho

mức tăng đáng ngạc nhiên này. Đạo luật đã giúp ngƣời nông dân có thể dễ

dàng hơn trong việc mua các loại bảo hiểm cây trồng đa thảm họa, bao gồm

bảo hiểm thu nhập, bằng cách tăng hỗ trợ của chính phủ. Từ đó, số nông dân

tham gia mua bảo hiểm đã tăng đáng kể và tạo đà cho hoạt động bảo hiểm cây

trồng đa thảm họa có những bƣớc tiến mới. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng trƣởng

thấp nhất trong 10 năm là -15% (năm 2003) tƣơng ứng với phí bảo hiểm ròng

giảm mạnh từ năm 2002 sang năm 2003 đƣợc lý giải bởi biến cố thời tiết của

năm 2002 (hạn hán kéo dài ở miền Tây) gây nên tỷ lệ tổn thất cao. Mặc dù

đƣợc các công ty bảo hiểm bồi thƣờng nhƣng tình hình tài chính của ngƣời

nông dân vẫn hết sức tồi tệ, dẫn đến khả năng chi trả phí bảo hiểm bị giảm

sút. Tuy nhiên, năm 2004 đã đánh dấu sự hồi phục rất khả quan của thị trƣờng

bảo hiểm cây trồng đa thảm họa, đến năm 2008, tổng phí bảo hiểm ròng vẫn

giữ đƣợc mức tăng trƣởng vững chắc dù tỷ lệ tổn thất vẫn ở mức cao.

1.2. Thành tựu của bảo hiểm chăn nuôi

Bảo hiểm vật nuôi, chỉ là một vài năm trƣớc đây ra đời nhƣ một dự án

thí điểm, hiện đã có mặt tại tất cả các bang có gia súc đƣợc chăn nuôi và đã có

53

những bƣớc phát triển rất khả quan.

Bảng 5: Tổng kết tình hình kinh doanh bảo hiểm chăn nuôi tại Mỹ

2010 (*)

2007

2008

2009

3.972

4.907

5.903

6.516

Số hợp đồng đƣợc ký kết

812

516

1.283

835

Số gia súc đƣợc bảo hiểm

(nghìn con)

75.786

109.51

244.498

107.861

Giá trị bảo hiểm

(nghìn USD)

2.726

3.205

7.619

4.157

Tổng phí bảo hiểm

(nghìn USD)

243

165

642

367

Trợ cấp (nghìn USD)

0,39

0,73

1,28

1,97

Tỷ lệ bồi thƣờng

(Nguồn:“Tóm tắt báo cáo kinh doanh”- Hội đồng bảo hiểm cây trồng liên bang năm 2010)

(từ năm 2007- 25/2/2010)

(*) Hợp đồng bảo hiểm đƣợc ký trƣớc tháng 2/2010 cho vụ mùa năm 2010

Nhìn vào bảng trên, có thể thấy dù đi vào hoạt động đƣợc chƣa lâu

nhƣng chƣơng trình bảo hiểm chăn nuôi đã có đƣợc những bƣớc phát triển

khả quan về số lƣợng chủ trang trại tham gia bảo hiểm bởi số hợp đồng đƣợc

ký kết tăng đều đặn qua các năm, từ con số gần 5000 năm 2007 lên 6.500 năm

2009 và mới chỉ đến tháng 2/2010, số hợp đồng đƣợc ký đã hơn gấp đôi năm

trƣớc. Điều này chứng tỏ bảo hiểm chăn nuôi ngày càng trở nên phổ biến.

Tuy nhiên, số gia súc đƣợc bảo hiểm lại có hƣớng sụt giảm vào năm 2009, giá

trị bảo hiểm, tổng phí bảo hiểm thu đƣợc và trợ cấp của chính phủ đều giảm.

Đây đƣợc coi là hậu quả của suy thoái kinh tế năm 2008 đã tác động xấu đến

tình hình tài chính của các chủ trang trại, khiến họ khó có thể mở rộng hoạt

động sản xuất, bên cạnh đó, việc vay tiền từ ngân hàng trở nên khó khăn hơn.

Chính phủ Mỹ thu hẹp chính sách tài khóa bằng việc cắt giảm trợ cấp, trong

54

đó có trợ cấp cho các chƣơng trình bảo hiểm. Một điểm đáng lƣu ý trong năm

2009 là tỷ lệ bồi thƣờng tăng rất cao, lên mức 1,97 do các dịch bệnh lây lan

rộng và diễn biến khó lƣờng nhƣ bệnh lao bò, sốt gia súc, lở mồm long móng,

bệnh bò điên. [Website của Bộ Nông nghiệp Mỹ] Ngoài những khó khăn về

tình hình kinh tế nói chung thì hiện tƣợng này cũng tác động tiêu cực đến hoạt

động kinh doanh cũng nhƣ lợi nhuận của các công ty bảo hiểm. Mặc dù vậy,

thị trƣờng bảo hiểm chăn nuôi tại Mỹ đƣợc kỳ vọng sẽ hồi phục nhanh.

2. Hạn chế trong quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ

Năm 2005, cơ quan Giải trình Chính phủ Mỹ (GAO) đã công bố một

bản báo cáo về tình trạng lãng phí, lừa đảo và lạm dụng trong chƣơng trình

bảo hiểm cây trồng, mặc dù tại thời điểm đó Cơ quan Quản lý rủi ro (RMA)

đã sử dụng một loạt các quy trình để giúp ngăn ngừa, phát hiện tình trạng này,

đồng thời công bố tiết kiệm cho Chính phủ 300 triệu USD trong 4 năm. Tuy

nhiên, năm 2007, GAO vẫn tiếp tục phát hiện ra rằng RMA không sử dụng tất

cả các công cụ có sẵn và một số nông dân lạm dụng chƣơng trình. Cụ thể:

• Công tác giám định đã không đƣợc thực hiện một cách hiệu quả. Giữa

năm 2004 và năm 2006, cơ quan phụ trách giám định FSA (Farm Service

Agency) chỉ thực hiện 64% số trƣờng hợp mà RMA yêu cầu. Điều này có thể

dẫn đến yêu cầu đền bù tổn thất của nông dân bị sai lệch. [Government

Accountability Office, 2007]

• Phân tích dữ liệu của RMA về các hoạt động nông nghiệp lớn không

đầy đủ. Theo phân tích của GAO, trong năm 2005, khoảng 21.000 hoạt động

của các nông trại lớn nhất trong chƣơng trình không đƣợc báo cáo tới các cá

nhân hoặc tổ chức có quyền lợi và cần theo dõi đến các hoạt động này. Nếu

đƣợc thực hiện đầy đủ thì USDA đã có thể tiết kiệm đƣợc đến 74 triệu USD

cho các khoản thanh toán bồi thƣờng. [Government Accountability Office,

55

2007]

• RMA làm việc không có hiệu quả trong việc giám sát chất lƣợng các

chƣơng trình bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. GAO đã xem xét lại 120

trƣờng hợp và cho thấy các công ty chỉ hoàn thành 75% khối lƣợng đánh giá

cần thiết, phần lớn trong số đó đƣợc thực hiện một cách hình thức.

[Government Accountability Office, 2007]

• RMA đã không nghiêm túc sử dụng thẩm quyền xử phạt của mình tới

các chƣơng trình vi phạm. Họ không ban hành quy định để thực hiện thẩm

quyền xử phạt mới theo ARPA. RMA chỉ áp đặt xử lý 114 trƣờng hợp từ năm

2003 đến năm 2006, trong khi con số nghi vấn hàng năm là khoảng 3.000 vụ.

[Government Accountability Office, 2007]

 Theo điều tra của USDA, trong 8 vụ mùa từ tháng 6/2005 đến tháng

4/2007, đã có tổng số 3 triệu USD tiền bồi thƣờng bảo hiểm bị gian lận, chủ

yếu là do thông đồng giữa ngƣời sản xuất và các đại lý bảo hiểm khai báo tổn

thất sai lệch. Một số trƣờng hợp đã chứng tỏ tầm quan trọng của sự hợp tác

giữa FSA và RMA trong việc xác định và san sẻ thông tin. [Bruce A.

Babcock, 2009]

 Các quy định của RMA về thiết kế chƣơng trình bảo hiểm đôi khi lại

gây ra những vấn đề cản trở chính nỗ lực của RMA trong việc giảm lạm dụng,

trục lợi bảo hiểm. Ví dụ, quy định cho phép các nhà sản xuất mua bảo hiểm

năng suất riêng lẻ thay vì năng suất gộp. Lựa chọn này tạo cơ hội cho ngƣời

sản xuất hoán đổi báo cáo về sản lƣợng giữa các cánh đồng để thực hiện các

yêu cầu bồi thƣờng giả hoặc nâng mức năng suất lịch sử trên một cánh đồng

để có đủ điều kiện mua bảo hiểm cao hơn. Trợ cấp phí bảo hiểm cao của

Chính phủcũng có thể hạn chế khả năng kiểm soát lạm dụng chƣơng trình của

RMA bởi trợ cấp giúp ngƣời sản xuất trả phí bảo hiểm cao hơn, đồng thời

cũng mong có mức bồi thƣờng cao hơn. [Dennis A. Shields, 2009]

Một vài biện pháp giảm thiểu những tình trạng này đã đƣợc báo cáo

56

đƣa ra nhƣ việc giảm trợ cấp phí bảo hiểm cho các trƣờng hợp bị nghi ngờ có

gian dối trong yêu cầu bồi thƣờng tổn thất nhiều, tăng cƣờng kiểm tra giám

sát. Các điều tra viên của Chính phủ đang ngày càng sử dụng hình ảnh vệ tinh

nhiều hơn để kiểm tra thực tế sản xuất của các trƣờng hợp bị nghi ngờ với

những thông tin đƣợc gửi trong yêu cầu bồi thƣờng tổn thất. [Dennis A.

Shields, 2009]

Qua phân tích trên, có thể kết luận nƣớc Mỹ đã có một lịch sử lâu dài

phát triển bảo hiểm nông nghiệp, trong đó vai trò định hƣớng, quyết sách của

Chính phủ đƣợc phát huy tối đa. Tuy nhiên, những bƣớc đi của Chính phủ Mỹ

không phải thẳng tiến đến thành công. Quá trình đó cũng chứng kiến rất

nhiều thất bại, quan trọng hơn cả là sự quyết tâm và nỗ lực của Chính

phủtrong việc sửa đổi, rút kinh nghiệm và khám ra những hƣớng đi mới, trong

57

đó việc hợp tác rất hiệu quả với khu vực tƣ nhân là hƣớng đi đúng đắn nhất.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH

SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA

VIỆT NAM

I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT

NAM

1. Sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam

Việt Nam là quốc gia sản xuất nông nghiệp, 60-70% dân số sống ở

nông thôn, sản lƣợng nông sản chiếm khoảng 30% GDP. Tuy nhiên, đây lại là

ngành chịu nhiều thiên tai, mất mùa, rất cần tới bảo hiểm để giảm thiểu thiệt

hại cho nhà nông. Theo thống kê của Hội Nông dân Việt Nam, tổng giá trị

thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp hàng năm ở nƣớc ta rất lớn, chỉ tính trong

năm 2008, 10 cơn bão, 6 trận áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam đã gây

thiệt hại trên 13.000 tỷ đồng, chƣa kể những đợt dịch bệnh trên cây trồng vật

nuôi...; đợt rét kỷ lục trong năm đã làm 146.150 ha lúa, 9.500 ha mạ ở các địa

phƣơng bị chết, còn số lƣợng gia súc chết rét đã lên tới gần 52.000 con. Vì

tính chất công việc đầy rủi ro nhƣ vậy nên đời sống của ngƣời làm nghề nông

luôn rất bấp bênh. Nhƣng ngoài những hỗ trợ hạn chế từ ngân sách nhà nƣớc,

những nguồn vốn tín dụng nhỏ thì ngƣời nông dân không còn biện pháp bảo

vệ nào khác.

Sản xuất của ngƣời nông dân Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ và dễ

bị tổn thƣơng đối với các biến cố thời tiết, dịch bệnh... Số lƣợng gia súc, gia

cầm lớn, trong khi công tác chăm sóc, nuôi thả, phòng, chữa bệnh chƣa đƣợc

chuẩn hoá, khiến cho ngành chăn nuôi không những chịu tác động bởi thiên

tai, mà còn bị tác động bởi dịch bệnh nên nhiều khi bị thiệt hại lớn... Do đó,

bảo hiểm nông nghiệp là một biện pháp có hiệu quả để ổn định thu nhập cho

nông dân, đặc biệt đối với ngƣời nghèo. Bảo hiểm nông nghiệp cũng là một

58

kênh hỗ trợ của Chính phủ có hiệu quả và công bằng cho nông dân.

Điều quan trọng là nâng cao hiệu quả của ngành nông nghiệp để tăng

thu nhập cho hộ gia đình nông thôn. Để làm đƣợc điều này nên lựa chọn giải

pháp đa dạng hóa nông nghiệp. Đây mới chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ đó

là toàn bộ cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam cần phải đƣợc chuyển đổi hoàn

toàn. Việc hộ nông dân – đơn vị kinh tế tự chủ - có thể chuyển các tập quán

sản xuất, cây trồng, vật nuôi mang tính truyền thống thuận tiện của họ sang

các phƣơng thức sản xuất, các cây trồng vật nuôi có giá trị thƣơng mại và có

tính cạnh tranh cao hay không phụ thuộc nhiều vào cách nhìn nhận của họ đối

với các rủi ro. Để giúp nông dân thực hiện các dự án mang tính rủi ro này, các

rủi ro của việc chuyển đổi nên đƣợc đảm bảo một cách có hiệu quả thông qua

hệ thống bảo hiểm nông nghiệp. Bằng cách làm nhƣ vậy có thể giúp ngành

nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển trong tƣơng lai.

Hiện nay, các tổ chức tài chính chính thức của Việt Nam đang phải đối

mặt với những khó khăn trong việc mở rộng các khoản cho vay đến hộ gia

đình nông thôn bởi các khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng tiềm năng.

Nhu cầu về tín dụng của các hộ gia đình nông thông vẫn là rất lớn. Nếu sản

xuất nông nghiệp đƣợc bảo hiểm, chắc chắn sẽ giúp các tổ chức tài chính có

một vai trò tốt hơn. Trên thực tế, tài chính và bảo hiểm là hai mặt của một vấn

đề để làm giảm các hạn chế về khả năng thanh toán bằng tiền mặt đối với hộ

gia đình.

Nhƣ vậy, có thể thấy việc đƣa bảo hiểm nông nghiệp đến với ngƣời

nông dân là một nhiệm vụ cấp thiết của ngành nông nghiệp Việt Nam hiện

nay.

2. Tình hình triển khai bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam

Theo thống kê của Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính, tỷ trọng tham gia bảo

hiểm của nông dân rất thấp, năm 2007, chƣa tới 1% tổng diện tích cây trồng,

59

0,24% số trâu - bò, 0,1% đàn lợn và 0,04% số gia cầm đƣợc bảo hiểm. Hiện

nay, hẩu hết các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam đều có giấy phép kinh

doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, tuy nhiên chỉ có ba doanh nghiệp

thực sự triển khai là Bảo Việt, Groupama và Bảo Minh, các doanh nghiệp còn

lại đều chƣa gia nhập thị trƣờng. Bảo hiểm nông nghiệp đã đƣợc Bảo Việt thí

điểm lần đầu tiên từ năm 1981 và sau đó đƣợc triển khai ở Công ty TNHH

Bảo hiểm tổng hợp Groupama (vốn 100% của Pháp). Dù trải qua một thời

gian khá dài nhƣng sản phẩm bảo hiểm tiêu thụ đƣợc còn quá ít. Quá trình

hoạt động của hai công ty này cũng gắn liền với sự biến chuyển của thị trƣờng

bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam

 Bảo Việt tiến hành thí điểm lần thứ nhất bảo hiểm cây lúa tại 2

huyện là Vụ Bán và Nam Ninh của tỉnh Hà Nam Ninh vào năm 1981. Sau vụ

chiêm 1982, do có chuyển đổi cơ chế từ kinh tế hợp tác xã sang kinh tế hộ

nông dân nên việc thí điểm bảo hiểm cây lúa đƣợc tạm dừng để tiếp tục

nghiên cứu, đúc rủi kinh nghiệm. Năm 1986, Bảo Việt thí điểm lần thứ hai và

năm 1993, lần thứ ba với sự hỗ trợ của chính quyền và Ngân hàng Nông

nghiệp Việt Nam, Bảo Việt tiến hành bảo hiểm cây lúa trên 16 tỉnh của cả

nƣớc, điển hình là tỉnh Hà Tĩnh – nơi chịu ảnh hƣởng của rủi ro thiên tai

nhiều nhất. Tuy nhiên, đến đầu năm 1999, Bảo Việt phải ngừng triển khai bảo

hiểm trên cây lúa với lý do thua lỗ. [Đinh Xuân Hạ, 2005]

Nguyên nhân khiến bảo hiểm cây lúa không thành công là: sản xuất

lúa chịu yếu tố rủi ro bởi thiên tai; doanh nghiệp bảo hiểm gặp nhiều khó

khăn trong đánh giá rủi ro, cũng nhƣ chọn đối tƣợng tham gia bảo hiểm; đứng

sau bảo hiểm nông nghiệp phải có ngành tái bảo hiểm, nhƣng thị trƣờng nhận

tái bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam gần nhƣ chƣa có. [Nam Kinh, 2006; Ian

60

Macandrew et al.1999]

Bảng 6: Tình hình triển khai bảo hiểm cây lúa của Bảo Việt

Chi phí

Năm triển

Diện tích

Tỷ lệ diện tích

Doanh thu phí

khai

trồng lúa đƣợc

trồng lúa đƣợc bảo

bảo hiểm

bảo hiểm (ha)

hiểm/Tổng diện tích

trồng lúa (%)

3,5

56.000

0,9

3,3

1994

3,6

80.000

1,2

3,96

1995

3,5

34.000

0,6

2,6

1996

4,3

13.000

0,2

2,5

1997

(Nguồn: Vụ Bảo hiểm – Bộ Tài chính)

Đơn vị: tỷ đồng

Qua bảng số liệu trên, có thể dễ dàng nhận thấy thời gian đầu (năm

1994 – 1995), bảo hiểm cây lúa có bƣớc phát triển nhƣng không bền vững bởi

hai năm sau đó, các chỉ tiêu về tình hình triển khai bao gồm doanh thu phí bảo

hiểm, diện tích lúa đƣợc bảo hiểm đều đi xuống trong khi chi phí thì lại tăng.

Thực trạng đó cùng các nguyên nhân đƣợc nêu ra ở trên đã lý giải rõ cho việc

Bảo Việt phải dừng chƣơng trình bảo hiểm này vào năm 1999. Mặc dù thất

bại trong hoạt động kinh doanh trên cây lúa nhƣng Bảo Việt vẫn tiếp tục thí

điểm bảo hiểm nông nghiệp trên một số cây trồng vật nuôi ít rủi ro hơn nhƣ

cây cao su, bò sữa, tôm, cá tra. Đến năm 2004 đã có 1.700 ha cao su của Công

ty cao su Sông Bé và 1500 ha cao su tiêu điền ký hợp đồng bảo hiểm với Bảo

Việt. [Hải Phƣơng, 2006]

Bảo Việt Khánh Hòa thì thí điểm bán bảo hiểm cho con tôm sú nƣớc lợ

một thời gian vào đầu những năm 2000 nhƣng sau đó lặng lẽ rút lui. Nhìn

chung, bên cạnh bảo hiểm cây lúa, các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác

(vật nuôi, cây trồng...) của Bảo Việt cũng trong tình trạng tƣơng tự và nay đã

61

thu hẹp hoạt động, chỉ nhận bảo hiểm cho một số cây nhƣ cao su.

 Không chỉ có Bảo Việt, tháng 7/ 2001, Công ty TNHH bảo hiểm

tổng hợp Groupama có trụ sở tại thành phố Cần Thơ chính thức đi vào hoạt

động khai thác bảo hiểm nông nghiệp. Công ty này đã triển khai nhiều loại

hình bảo hiểm nông nghiệp, nhiều nhất là ngành chăn nuôi. Từ tháng 1 đến

tháng 7/2003, Groupama Việt Nam đã ký đƣợc hơn 300 hợp đồng bảo hiểm

cho tôm, từ tháng 9/2002 đến tháng 6/2003 có 867 hợp đồng bảo hiểm lợn

nuôi trong chuồng với tổng phí bảo hiểm hơn 263 triệu đồng. Sau hai năm

chuẩn bị với kinh nghiệm của một công ty bảo hiểm nông nghiệp hàng đầu

của Pháp, đến năm 2003, công ty này đã triển khai đƣợc 5 sản phẩm bảo hiểm

cho vật nuôi là bò (bò thịt, bò sữa), heo, gà, tôm sú, tôm càng xanh ở Nam bộ.

Sau đại dịch cúm gà tháng 2/2004, Groupama đã ký hợp đồng bảo hiểm con

gà với một công ty chăn nuôi tại tình Long An, mức phí của hợp đồng này lên

tới hàng trăm triệu đồng. [Tuong Vu, 2003]

Bảng 7: Tình hình kinh doanh của Groupama

Năm 2003

Chỉ tiêu

Năm 2001

Năm 2002

2,1

0,145

1.Phí bảo hiểm gốc

0

0.8

0

0.058

2.Phí giữ lại

3,5

0,729

3.Tổng bồi thƣờng

0

-2,5

-3,333

-2,200

4.Lãi trƣớc thuế

(Nguồn: Vụ Bảo hiểm – Bộ Tài chính)

Đơn vị: tỷ đồng

Tuy nhiên, qua bảng số liệu trên có thể thấy những con số phí bảo hiểm

ấn tƣợng và những hợp đồng bảo hiểm đƣợc ký kết của Groupama lại không

đi kèm với lợi nhuận kính doanh, thậm chí công ty này phải chịu lỗ không ít

khi tổng số tiền bồi thƣờng luôn cao gấp nhiều lần so với tổng phí bảo hiểm

62

thu đƣợc. Năm 2003, công ty đặt yêu cầu bảo hiểm rất thấp, ngay khi khách

hàng chỉ bảo hiểm một con bò cũng đƣợc chấp thuận. Tuy nhiên, sau hàng

loạt sự kiện gia súc chết và đƣợc chuyên gia kiểm tra xác minh, công ty mới

biết nông dân chăn nuôi không đúng cách, chuồng trại không đủ tiêu chuẩn và

thức ăn không đảm bảo chất lƣợng, song vẫn phải bồi thƣờng cho nông dân

theo đúng hợp đồng. Nhận thấy rủi ro và nguy hiểm trong hoạt động kinh

doanh, Groupama nâng mật độ đàn đƣợc bảo hiểm tối thiểu phải là 3 con. Tuy

nhiên, việc kinh doanh vẫn hoàn toàn thất bại bởi mức phí bảo hiểm thấp,

khách hàng ít nhƣng rủi ro lại thƣờng xuyên xảy ra, đồng thời bồi thƣờng lại

cao gấp hàng chục, thậm chí hàng trăm lần so với mức phí. Ví dụ, một con

lợn nái Groupama chỉ yêu cầu đóng phí 60.000 đồng /năm, nhƣng khi bồi

thƣờng vì lợn chết có thể lên tới hàng triệu đồng. [Đình Nam, 2008] Sau

nhiều năm hoạt động tại Việt Nam, Groupama chƣa hề có đƣợc lợi nhuận và

phạm vi khai thác cũng chỉ bó hẹp ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và

vùng Đông Nam Bộ. Trƣớc tình hình đó, vào năm 2005, Groupama đã trình

đơn yêu cầu đƣợc mở rộng lĩnh vực hoạt động sang các loại hình bảo hiểm

khác không còn đƣợc coi là mũi nhọn của công ty này tại Việt Nam nhƣ bảo

hiểm tài sản, sức khỏe, tai nạn để giảm thiểu mức độ rủi ro và duy trì kinh

doanh. Còn đối với bảo hiểm nông nghiệp, họ không còn xuất hiện trong các

hội nghị, hội thảo ngành nông nghiệp để giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm

nông nghiệp. Sự thua lỗ trong nhiều năm cùng một bài toán thị trƣờng bảo

hiểm nông nghiệp Việt Nam chƣa tìm đƣợc lời giải có lẽ đã lý giải cho sự im

lặng của Groupama từ năm 2006 đến nay. [Bảo Trang, 2009]

3. Những kết quả đã đạt đƣợc

Những bƣớc thử nghiệm và triển khai bảo hiểm nông nghiệp nhƣ trên

dù có kết quả rất khiêm tốn về mặt kinh tế nhƣng ở chừng mực nào đó nó đã

63

có những tác dụng xã hội sau:

- Giúp cho ngƣời nông dân hiểu về bảo hiểm nông nghiệp và lợi ích

khi tham gia loại hình bảo hiểm này, từ đó họ mạnh dạn, yên tâm đầu tƣ vốn

vào những loại cây con có lợi thế trong sản xuất.

- Tiền bồi thƣờng đã nâng cao năng lực tài chính cho các chủ thể kinh

tế trong đầu tƣ phát triển sản xuất, giảm chi từ ngân sách nhà nƣớc cho rủi ro

nông nghiệp. Bảo hiểm nông nghiệp là công cụ bảo vệ đắc lực cho ngƣời sản

xuất, đây là một yếu tố để ngành trồng trọt, chăn nuôi phát triển bền vững.

- Góp phần ổn định đời sống của ngƣời nông dân tham gia bảo hiểm,

tạo điều kiện cho họ giải quyết những khó khăn bất ngờ, từ đó tạo tâm lý phấn

khởi đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh.

4. Những vấn đề còn tồn tại

 Khách hàng tham gia bảo hiểm và doanh số bảo hiểm nông nghiệp

còn rất thấp. Từ năm 1994, Bảo Việt triển khai trên diện rộng bảo hiểm cây

lúa, song tỷ lệ diện tích trồng lúa đƣợc bảo hiểm trên tổn diện tích trồng lúa

qua các năm chỉ là: 0,9% (năm 1994); 1,2% (năm 1995); 0,6% (năm 1996);

0,2% (năm 1997). [Ian Macandrew, John Nash & the Vietnam Insurance

Corporation, 1999] Bảo hiểm cây cao su ở tỉnh Bình Phƣớc đạt khoảng 44%

(3200/7200 ha) tổng diện tích cây cao su còn các tỉnh khác có trồng cây cao

su gần nhƣ chƣa thể triển khai đƣợc. Trong dịch cúm gà tháng 2/2004 đã có

khoảng 38 triệu con gà bị nhiễm bệnh và bị tiêu hủy, chiếm 13% tổng gia cầm

của cả nƣớc, tuy nhiên trong số đó chỉ có 500 con tham gia bảo hiểm và đã

đƣợc Groupama bồi thƣờng. [Nam Kinh, 2006]

Nguyên nhân của tình hình trên là do các chủ thể kinh tế và nông dân

kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp chƣa hiểu biết hết về những lợi ích khi

tham gia bảo hiểm và không có thói quen mua bảo hiểm. Hơn nữa, rủi ro xảy

ra trong sản xuất nông nghiệp là thất thƣờng, nếu tham gia bảo hiểm lại phải

64

đóng một khoản phí khá cao so với thu nhập của họ…

 Doanh nghiệp bảo hiểm bị thua lỗ trong hoạt động bảo hiểm nông

nghiệp. Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp hạch toán kinh doanh, nếu

một hoạt động nào đó bị thua lỗ sẽ ảnh hƣởng đến tình hình kinh doanh

chung. Khi hoạt động bảo hiểm nông nghiệp bị thua lỗ mà chƣa có sự hỗ trợ

từ phía Nhà nƣớc thì không có một doanh nghiệp nào có thể mạnh dạn đầu tƣ

mở rộng lĩnh vực này.

Bên cạnh đó, muốn bảo hiểm đƣợc một sản phẩm thì nhà bảo hiểm phải

quản lý đƣợc rủi ro. Đối với vật nuôi, cây trồng, ngoài việc bị tác động của

thời tiết thì còn phụ thuộc rất nhiều vào ngƣời chăn nuôi, trồng trọt. Cụ thể,

nuôi trâu bò phải có quy mô và phải theo các quy trình khoa học, phải đƣợc

tiêm phòng. Trong khi đó, nông dân Việt Nam chăn nuôi không theo một quy

trình, thả rông trâu bò trên núi, không có chuồng trại, không có chế độ cho ăn

uống theo định lƣợng, chăn muôi theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ... nên doanh

nghiệp không thể quản lý đƣợc. Đó chính là lý do doanh nghiệp không mặn

mà với bảo hiểm nông nghiệp

Thêm vào đó, sự gian lận của ngƣời nông dân mua bảo hiểm cũng là

một nguyên nhân khiến doanh nghiệp bị thua lỗ. Có thể lấy ví dụ khi

Groupama bảo hiểm cho trâu bò và gia cầm bằng cách đeo khuyên, nhƣng

gần ngay sau đó, ngƣời ta làm nhái những chiếc vòng bảo hiểm giống đến

mức mắt thƣờng không thể phân biệt nổi để đeo vào những con vật không

mua bảo hiểm cộng với sự quản lý thiếu chặt chẽ của công ty bảo hiểm nên cả

đàn bò coi nhƣ đƣợc đóng bảo hiểm. Rủi ro này khiến nhân viên bảo hiểm

không thể lƣờng trƣớc, chỉ có thể xử lý bằng kinh nghiệm nghể nghiệp.

 Xuất hiện những vụ tranh chấp bảo hiểm gây cản trở đến bảo hiểm

nông nghiệp. Những vụ tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách

hàng đã gây ra sự lo ngại, hoài nghi của ngƣời dân. Đó là việc khách hàng của

65

Groupama Việt Nam ở Bạc Liêu, Sóc Trăng rất bức xúc khi diện tích nuôi

tôm đã đƣợc bảo hiểm bị thiệt hại mà không đƣợc Groupama bồi thƣờng theo

cam kết của hợp đồng. [Đinh Xuân Hạ, 2005]

Các vụ tranh chấp dù là lỗi của công ty bảo hiểm hay khách hàng đều

gây nên tâm lý không tốt đến việc tham gia bảo hiểm. Những vụ kiện tụng, tin

đồn thất thiệt, sự hoài nghi của ngƣời dân sẽ là lực cản to lớn trong việc phát

triển bảo hiểm, nhất là khách hàng của các công ty bảo hiểm hầu hết là nông

dân có nhận thức và hiều biết về pháp lý, kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm rất hạn

chế.

 Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước cho bảo hiểm nông nghiệp chưa đúng

mức. Nhà nƣớc chƣa có những hỗ trợ cho công ty bảo hiểm về thuế, phí, vốn,

lãi vay, giám định tổn thất, bồi thƣờng, tuyên truyền, đào tạo làm cho hiệu

quả kinh tế của doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực này chƣa cao và chƣa

lôi cuốn họ triển khai mở rộng nghiệp vụ.

Đối với ngƣời nông dân, Nhà nƣớc chƣa có chính sách hỗ trợ về phí

bảo hiểm, thuế, trong khi mức thu nhập của họ còn thấp. Đây là một lý do

quan trọng khiến bảo hiểm nông nghiệp chƣa thực sự đi vào đời sống của

ngƣời dân. [Phạm Bảo Dƣơng, 2007]

II. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong những năm qua, Nhà nƣớc đã ban hành những quy định về bảo

hiểm nông nghiệp:

 “Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003

đến năm 2010” số 175/2003/QĐ-TTg đã đặt ra mục tiêu phát triển cho toàn

thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong đó có bảo hiểm nông nghiệp nhƣ sau:

“Phát triển thị trƣờng bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp

ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cƣ; bảo đảm cho các tổ

66

chức, cá nhân đƣợc thụ hƣởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc

tế; thu hút các nguồn lực trong nƣớc và nƣớc ngoài cho đầu tƣ phát triển kinh

tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp

hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc

tế. Nhà nƣớc quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật

Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế”.

 Điều 4, Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 quy định: "Nhà

nƣớc có chính sách ƣu đãi đối với các nghiệp vụ bảo hiểm phục vụ mục tiêu

phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là chƣơng trình phát triển nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngƣ nghiệp".

 Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nêu:

“…Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cƣ dân

nông thôn”.

 Kế hoạch thực hiện chiến lƣợc quốc gia phòng chống và giảm nhẹ

thiên tai đến năm 2020 của Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ƣơng có

nêu rõ công tác xây dựng bảo hiểm rủi ro thiên tai nhƣ sau:

- Mục tiêu: Huy động tối đa nguồn lực sẵn có cho công tác phòng,

chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai; đồng thời nhằm đảm bảo khôi phục sản

xuất, các hoạt động dân sinh, kinh tế và xã hội một cách nhanh chóng sau

thiên tai.

- Nội dung thực hiện:

+ Nghiên cứu mô hình bảo hiểm rủi ro thiên tai

+ Thí điểm thực hiện mô hình bảo hiểm rui ro thiên tai

+ Triển khai mô hình bảo hiểm rủi ro thiên tai

- Kế hoạch thực hiện: Từ 2009 – 2015 với lịch trình cụ thể nhƣ sau:

+ Nghiên cứu mô hình bảo hiểm rủi ro thiên tai: 2009 – 2011

+ Thí điểm thực hiện mô hình bảo hiểm rủi ro thiên tai: 2011 – 2014

67

+ Triển khai mô hình bảo hiểm rủi ro thiên tai: 2015 trở đi

- Cơ quan chủ trì thực hiện: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội,

các Bộ, ngành liên quan khác và các địa phƣơng để tổ chức thực hiện.

 Nghị quyết số 22-NQ/CP, ngày 23 tháng 9 năm 2008 của Chính

phủđề ra “Ban hành chính sách bảo hiểm nông nghiệp trong nền kinh tế thị

trƣờng”;

 Nghị quyết số 24-NQ/CP, ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính

phủ“Đề án thí điểm bảo hiểm nông nghiệp”. Đề án này hiện đang đƣợc Bộ

Tài chính cùng các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu xây dựng trình Chính

phủ.

Qua các nghị quyết, chiến lƣợc văn bản pháp quy đã đƣợc ban hành có

thể thấy rõ quyết tâm của Đảng và Chính phủtrong việc thực hiện bảo hiểm

nông nghiệp trong thời gian tới. Với phƣơng hƣớng chính đã đƣợc nêu trên

đây, định hƣớng phát triển bảo hiểm nông nghiệp đƣợc cụ thể hóa nhƣ sau:

- Nhiệm vụ cấp thiết của ngành nông nghiệp là bằng mọi cách nhanh

chóng giới thiệu hệ thống bảo hiểm nông nghiệp tới những ngƣời nông dân.

- Việc thành lập hệ thống bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam có thể

nói là một nhiệm vụ cấp bách. Tuy nhiên, hệ thống này không nên đƣa ra quá

nhanh mà phải xây dựng một nền móng vững chắc vì thất bại có thể xảy ra và

gây ra những hậu quả lan truyền. Bằng việc tiếp cận một cách dần dần, hệ

thống này nên đƣợc thiết kế từng bƣớc một. Một số chƣơng trình thử nghiệm

sẽ đƣợc thực hiện trƣớc, sau đó tổng kết và mở rộng hơn.

- Hệ thống bảo hiểm nông nghiệp phải đƣợc thiết kế một cách hợp lý

và sửa đổi hệ thống này phù hợp với các điều kiện đang thay đổi, phù hợp với

các đặc điểm riêng của nông nghiệp Việt Nam, chú ý tinh thần hợp tác tƣơng

trợ lẫn nhau ở các địa phƣơng để cung cấp thông tin kịp thời.

- Nƣớc ta có nhiều loại sản phẩm nông nghiệp, trong đó nhiều loại cần

68

đƣợc bảo hiểm trên phạm vi cả nƣớc và một số sản phẩm cần đƣợc bảo hiểm

theo các chƣơng trình bảo hiểm mang tính vùng, phải xác định nơi nào sản

xuất sản phẩm gì để thiết kế các chƣơng trình bảo hiểm có hiệu quả.

- Chú trọng đến quản lý và hoạt động của hệ thống bảo hiểm, đặc biệt

là ở các cấp dƣới. Các nhân viên bảo hiểm cần phải đƣợc đào tạo về các kĩ

năng quản lý trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm và đánh giá thiệt hại để

đảm bảo thực hiện có hiệu quả chức năng của hệ thống.

- Bên cạnh hoạt động theo hƣớng thị trƣờng của các công ty bảo hiểm

thì Chính phủcũng tham gia vào hệ thống bảo hiểm nông nghiệp bằng cách hỗ

trợ tài chính thƣờng xuyên cho tiền đóng bảo hiểm cũng nhƣ cho các chi phí

quản lý hành chính của hệ thống. Tuy nhiên, sự hỗ trợ quá nhiều và thƣờng

xuyên của Chính phủlà không cần thiết bởi bản thân hệ thống phải tự ổn định

và đảm bảo về tài chính. Các hỗ trợ chỉ thực sự có hiệu quả nhất vào giai đoạn

đầu phát triển, để làm giảm nhẹ các khó khăn hệ thống bảo hiểm nông nghiệp

phải đối mặt. Sự hỗ trợ của Chính phủcó thể dƣới nhiều hình thức nhƣ nghiên

cứu, phát triển…

- Hệ thống bảo hiểm sẽ đƣợc tổ chức chặt chẽ cùng với hệ thống tài

chính nông thôn cũng nhƣ hệ thống khuyến nông. Hoạt động tốt của hệ thống

này sẽ góp phần quan trọng làm tăng hiệu quả của hệ thống kia.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO

HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM

Qua những phân tích ở trên, có thể thấy việc phát triển bảo hiêm nông

nghiệp tại Việt Nam là một nhu cầu cấp thiết không chỉ đối với bản thân

ngƣời nông dân mà còn đối với Chính phủ và các công ty bảo hiểm, nhƣng để

tìm ra chiếc khòa chía mở ra lối đi cho bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam thật

không phải là dễ dàng, nếu không muốn nói là rất khó khăn. Trở lại với quá

trình phát triển của bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ nhƣ đã phân tích tại chƣơng

69

2, dù không thể so sánh ở hiện tại nhƣng chúng ta có thể nhận thấy những

điểm tƣơng đồng giữa thực trạng của Việt Nam hiện nay và bảo hiểm nông

nghiệp Mỹ những ngày mới khai sinh. Đƣợc triển khai từ năm 1938 nhƣng

phải đến năm 1980 khi Luật bảo hiểm cây trồng liên bang có hiệu lực và mở

ra mối quan hệ hợp tác giữa khu vực tƣ nhân và Chính phủ thì chƣơng trình

bảo hiểm cây trồng của Mỹ mới có đón nhận những thành công vững chắc

đầu tiên, trƣớc đó chƣơng trình cũng đã có thời gian gián đoạn do Chính phủ

Mỹ không thể giải quyết đƣợc những vấn đề mà chính Việt Nam hiện đang

gặp phải nhƣ: tỷ lệ nông dân tham gia bảo hiểm quá thấp khiến tổng phí đóng

bảo hiểm không đủ để bồi thƣờng tổn thất lớn trong khi thiên tai, thảm họa

diễn ra phổ biến.

Tuy nhiên, không phải những nỗ lực của Chính phủMỹ chỉ dừng lại ở

Luật bảo hiểm cây trồng liên bang 1980 bởi mục tiêu của họ là xây dựng một

hệ thống bảo hiểm nông nghiệp phát triển lâu dài và bền vững. Từ đó, Luật

cải cách bảo hiểm cây trồng năm 1994 đƣợc Quốc hội thông qua với quyết

tâm loại bỏ hoàn toàn các hỗ trợ thiên tai bất thƣờng vốn rất phổ biến trƣớc đó

và là một gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nƣớc, để ngƣời nông dân chủ

động bảo vệ mình bằng việc mua bảo hiểm thay vì trông chờ vào các khoản

cứu trợ của nhà nƣớc. Tình trạng này cũng giống với vấn đề ngân sách Việt

Nam hiện nay, thậm chí còn trầm trọng hơn bởi ngƣời nông dân nƣớc ta

không có cách nào tự bảo vệ mình ngoài việc trông chờ hoàn toàn vào sự giúp

đỡ của nhà nƣớc khi thiên tai xảy ra gây thiệt hại.

Nhƣ vậy, yếu tố nào đã đặt nền móng cho sự thành công của bảo hiểm

nông nghiệp tại Mỹ? Câu trả lời có lẽ là rất đa dạng nhƣng điểm mấu chốt

nằm ở sự hợp tác đặc biệt giữa Chính phủ và khu vực tƣ nhân trong chƣơng

trình bảo hiểm cây trồng liên bang. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa nguồn tài

chính dồi dào của Chính phủ với sự vận hành hiệu quả của các công ty bảo

hiểm tƣ nhân, giữa bên tái bảo hiểm và hàng nghìn đại lý bảo hiểm trên khắp

70

đất nƣớc. Chƣơng trình đạt đƣợc sự cân bằng giữa những yếu tố quan trọng

bao gồm sự hỗ trợ hữu hiệu về tài chính và các quy định, luật lệ của Chính

phủ tạo ra một khung pháp lý tốt; sự tham gia của khu vực tƣ nhân đƣợc

khuyến khích từ Chính phủ đã tạo ra sức sống mới cho thị trƣờng bảo hiểm

với yếu tố cạnh tranh, năng động và linh hoạt, góp công lớn cho sự phủ sóng

mạnh mẽ của bảo hiểm nông nghiệp ngày nay. Bên cạnh đó, quá trình phát

triển của bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ cũng ghi nhận một điểm nổi bật: đó là

những nỗ lực cải cách không ngừng của Chính phủMỹ, họ cũng phải đặt mục

tiêu từng bƣớc và dần dần tìm ra hƣớng đi đến thành công.

Từ phân tích sơ lƣợc trên đây, ngƣời viết xin đƣa ra một vài gợi ý đối

với chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp của Việt Nam.

1. Tăng cƣờng vai trò của chính phủ

Trƣớc hết, sự thành bại của chƣơng trình bảo hiểm nông nghiệp phải kể

đến vai trò của chúng phủ với khả năng thúc đẩy thị trƣờng bảo hiểm nông

nghiệp phát triển. Vì mục tiêu phát triển bền vững của thị trƣờng bảo hiểm,

Chính phủ nên đóng vai trò điều phối và không trực tiếp tham gia cung cấp

sản phẩm bảo hiểm. Tại Mỹ, từ Luật bảo hiểm cây trồng liên bang 1980 đến

Luật cải cách bảo hiểm cây trồng 1994, Chính phủ đã từng bƣớc trao quyền

bán sản phẩm bảo hiểm cho các công ty tƣ nhân để chuyên sâu hơn về khu

vực pháp lý và các công tác hỗ trợ cho thị trƣờng. Thay đổi linh hoạt theo

hoàn cảnh của Việt Nam, Chính phủ cũng có thể học hỏi kinh nghiệm đó qua

những việc làm cụ thể sau:

 Ban hành đổi mới chính sách bảo hiểm nông nghiệp: Nhà nƣớc cần

sớm ban hành những văn bàn pháp luật cụ thể, chi tiết về bảo hiểm nông

nghiệp, đƣa ra hành lang pháp lý rõ ràng để xử lý doanh nghiệp hoặc nông

dân khi vi phạm hợp đồng. Đồng thời cần có các chƣơng trình đi kèm để luật

pháp về bảo hiểm sớm đƣợc triển khai. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc cần nghiên

71

cứu và xem xét một số đối tƣợng bảo hiểm có mức độ rủi ro cao nhƣng mang

lại ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn có thể đƣa vào loại bảo hiểm bắt buộc. Đặc

biệt đối với hộ gia đình thiếu vốn phải vay ngân hàng để đầu tƣ vào sản xuất

nông nghiệp thì việc áp dụng bảo hiểm bắt buộc lại càng cần thiết. Chính sách

tín dụng ƣu đãi của Chính phủ cần phải đi đôi với yêu cầu phải tham gia bảo

hiểm, bởi nhƣ vậy sẽ bảo toàn đƣợc vốn đầu tƣ và khoản bù cho thất thu từ tín

dụng ƣu đãi có thể chuyển sang hỗ trợ hoạt động bảo hiểm.

 Đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nông nghiệp,

Chính phủ có thể miễn thuế doanh thu và miễn thuế giá trị gia tăng trong

thời gian nhất định: Việc ƣu đãi về thuế vừa mang tính chất hỗ trợ cho doanh

nghiệp bảo hiểm, vừa khuyến khích họ trong việc đƣa ra mức phí bảo hiểm

phù hợp cho ngƣời nông dân. Bên cạnh đó, Chính phủ có thể xây dựng và

triển khai một số chƣơng trình bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nƣớc. Trong

đó, các doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bán bảo hiểm, khi xảy ra tổn thất

thuộc trách nhiểm bảo hiểm, Chính phủ sẽ đóng góp một phần chi phí bồi

thƣờng vƣợt trách nhiệm của doanh nghiệp. Cho tới khi các công ty bảo hiểm

đã khá đứng vững trên thị trƣờng kinh doanh và có đủ tiềm lực tài chính lớn,

Chính phủ nên đóng vai trò là ngƣời bảo hiểm cuối cùng cho một số rủi ro

đặc biệt hoặc những tổn thất mang tính thảm họa nhƣ dịch bệnh gia súc, gia

cầm, bão lụt…

 Hỗ trợ phát triển sản phầm cho các công ty bảo hiểm: Chính phủ có

thể hỗ trợ phát triến sản phẩm thông qua việc đầu tƣ vào nghiên cứu khả thi

và việc phát triển thử nghiệm sản phẩm mới, có sự tham gia của đối tác tƣ

nhân trong nƣớc.

 Ban hành chính sách hỗ trợ cho nông dân: Chính phủ có thể giảm

lãi suất cho vay đối với nông dân có tham gia bảo hiểm nông nghiệp. Mức

giảm nên tƣơng ứng với mức phí bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm.

Việc hỗ trợ một phần phí bảo hiểm cho nông dân là cần thiết, nhất là những

72

vùng chịu nhiều thiên tai hoặc dịch bệnh. Đồng thời cần tăng cƣờng sự phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan trong việc xác định những đối tƣợng

đƣợc hỗ trợ và quản lý việc hỗ trợ để tránh thất thoát, lãng phí. Tuy nhiên, để

những hỗ trợ mang tính bền vững, có định hƣớng, tăng tính chủ động từ

ngƣời nông dân thì Chính phủcũng nên đầu tƣ vào khoa học kỹ thuật cho

ngƣời nông dân để tăng cƣờng khả năng quản lý rủi ro của họ.

 Khuyến khích các hội tương hỗ bảo hiểm nông nghiệp: Trƣớc khi

bảo hiểm nông nghiệp phủ sóng đƣợc đến mọi vùng quê thì việc thành lập các

hội tƣơng hỗ bảo hiểm nông nghiệp là có khả quan hơn, mặt khác nó phát huy

đƣợc tính chủ động của ngƣời nông dân khi ngƣời tham gia bảo hiểm cũng là

ngƣời bảo hiểm. Hình thức này rất phù hợp với điều kiện nông nghiệp nƣớc ta

hiện nay, trong xu hƣớng phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, hình thành

nhiều trang trại, các hiệp hội nghề nghiệp. Nguyên tắc tổ chức của Hội tƣơng

hỗ bảo hiểm là:

- Ngƣời tham gia bảo hiểm cũng là ngƣời bảo hiểm, giúp cho việc

quản lý rủi ro, giảm định tổn thất chính xác, hiệu quả hơn.

- Hội tƣơng hỗ bảo hiểm có thể cung cấp sản phẩm bảo hiểm với giá

thành thấp hơn các sản phẩm cùng loại của các công ty bảo hiểm, điều đó sẽ

phù hợp với khả năng tài chính của nông dân.

- Nghiên cứu sâu hơn những rủi ro đặc thù trong nông nghiệp mà

doanh nghiệp bảo hiểm thƣơng mại thƣờng bỏ qua.

- Số tiền trả cho ngƣời bị tổn thất trong mức độ đƣợc phân chia thành

một tỷ lệ cho tất cả các thành viên.

[Phƣớc Hà & Hà Yên, 2008; Duy Thiên, 2008; Bảo Trang, 2009]

2. Tăng cƣờng vai trò của các công ty bảo hiểm

Có thể thấy, tình trạng phổ biến hiện nay của các doanh nghiệp bảo

hiểm Việt Nam là ngại tham gia vào thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp. Bảo

73

Việt, một tập đoàn bảo hiểm lớn của Việt Nam cũng chỉ dành một tỷ lệ nhỏ

hoạt động kinh doanh của mình cho mảng nông nghiệp với một số sản phẩm

rất hạn chế. Không những thế, số dịch vụ này lại chủ yếu nhắm vào những đối

tƣợng khách hàng lớn, có tiềm lực kinh tế và tính an toàn cao nhƣ chủ đồn

điền cao su, cà phê, hay một số trang trại có quy mô và hiệu quả kinh tế cao.

Đại đa số những hộ nông dân nhỏ lẻ khác, những ngƣời dễ dàng bị trắng tay

khi gặp phải rủi ro thì lại không đƣợc tiếp cận với các dịch vụ bảo hiểm thích

hợp. Lý do không phải là các công ty không thể triển khai mà không dám

triển khai vì số đông ngƣời nông dân nuôi trồng tự phát, ít có đủ khả năng tài

chính để tham gia và điểm mấu chối là doanh nghiệp không thể quản lý đƣợc

rủi ro.

Nhƣ đã nói ở trên, sự hỗ trợ và các chính sách của Nhà nƣớc là tối quan

trọng để chuyển biến cục diện thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam

hiện nay. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp kinh doanh

bảo hiểm luôn bị động chờ đợi sự hỗ trợ và thúc đẩy từ phía chính phủ, nhất

là khi các công ty bảo hiểm nƣớc ngoài hoàn toàn có thể giành lấy thị trƣờng

tiềm năng này sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.

Sự trì trệ của bảo hiểm nông nghiệp không hoàn toàn chỉ thuộc về trách

nhiệm của Nhà nƣớc, các doanh nghiệp phải tự nhận thức đƣợc mình cần có

trách nhiệm gánh vác một phần vai trò đặc biệt này. Việc Groupama suy yếu

trên lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp nên đƣợc các công ty rút ra bài học kinh

nghiệm để từ đó phát triển và mở rộng thị phần chứ không nên xem đó là một

vết xe đổ để không bao giờ bƣớc tiếp.

Trƣớc mắt, các doanh nghiệp bảo hiểm nên đa dạng hóa, hoàn thiện sản

phẩm bảo hiểm nông nghiệp và nâng chi phí đề phòng tổn thất. Việc đa dạng

hóa sản phẩm bảo hiểm nên đƣợc bắt đầu từ việc nghiên cứu nhu cầu bảo

hiểm và khả năng chi trả phí bảo hiểm của ngƣời nông dân đề từ đó có thể

thiết kế những sản phẩm bảo hiểm theo hƣớng dễ hiểu, đơn giản, hợp lý, phù

74

hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của các khách hàng ký kết hợp đồng

bảo hiểm. Hiện tại, một số cây trồng vật nuôi chủ chốt nên đƣợc bảo hiểm

quan tâm bởi chúng có ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn, đem lại năng suất cao, có

giá trị trong tiêu dùng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của bảo

hiểm nông nghiệp là rủi ro dễ xảy ra trên diện rộng và có tính thảm họa, các

doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu nâng chi phí đề phòng tổn thất cao hơn

các sản phẩm bảo hiểm khác. [Duy Thiên, 2008; Đình Nam, 2008]

3. Tăng cƣờng nhận thức của ngƣời nông dân

Phần lớn nông dân Việt Nam hiểu biết về bảo hiểm rất thấp. Thậm chí,

nhiều hộ chăn nuôi theo hình thức công nghiệp với đàn gia cầm lên đến hàng

chục nghìn con vẫn không hề hay biêt về bảo hiểm nông nghiệp. Chính vì

vậy, các nhân viên bảo hiểm tiếp cận với ngƣời nông dân rất khó khăn, cũng

có nhiều nông dân sau năm đầu mua bảo hiểm không gặp phải sự cố gì, sang

năm tiếp theo vì tiếc tiền và không nhìn thấy lợi ích dài hạn nên họ chấm dứt

hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ. Tƣ duy cố hữu của ngƣời nông dân với

truyền thống hàng nghìn năm sản xuất mà không có sự hỗ trợ của bảo hiểm

nông nghiệp cần đƣợc thay đổi. Bởi vậy, rất cần sự quảng bá, tuyên truyền

sâu rộng làm thay đổi nhận thức của ngƣời dân về bảo hiểm nông nghiệp từ

cả phía nhà nƣớc lẫn các công ty bảo hiểm, phải làm cho họ hiểu đƣợc lợi ích

của bảo hiểm nông nghiệp trong bối cảnh một xã hội mới với nền kinh tế thị

trƣờng phát triển. Bảo hiểm nông nghiệp là quyền lợi (một mặt nào đó là

nghĩa vụ) của nông dân. Nhà nƣớc có thể thực hiện việc này thông qua các

chƣơng trình tuyên truyền xã hội, phƣơng tiện thông tin đại chúng, các công

ty bảo hiểm có thể coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong

chiến lƣợc marketing của mình. Cán bộ, nhân viên trong ngành bảo hiểm phải

năng động, sâu sát thực tế trong khai thác bảo hiểm, biết tƣ vấn hợp lý cho

75

mỗi đối tƣợng khách hàng mua những sản phẩm thiết thực nhất, đem đến

quyền lợi lớn nhất cho khách hàng, có nhƣ vậy mới lấy đƣợc niềm tin của

ngƣời nông dân và thay đổi đƣợc nhận thức của họ.

4. Xây dựng khung chính sách cho phát triển thị trƣờng bảo hiểm nông

nghiệp Việt Nam

Thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam có thể phát triển qua ba

giai đoạn. Ở giai đoạn thứ nhất, bảo hiểm chỉ số nên đƣợc phát triển. Đến giai

đoạn thứ hai, bảo hiểm chỉ số nên đƣợc mở rộng ra nhiều khu vực khác. Bên

cạnh đó, loại hình bảo hiểm cây trồng cho thảm họa định danh và những

chƣơng trình bảo hiểm khác nên đƣợc đƣa vào thử nghiệm trong phạm vi nhỏ.

Ở giai đoạn thứ ba, khi bảo hiểm nông nghiệp đã có chỗ đứng vững chắc trên

thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam cũng nhƣ đƣợc phủ sóng rộng rãi trên mọi

vùng miền, tỷ lệ ngƣời tham gia cao, tiềm lực tài chính của các công ty bảo

hiểm vững mạnh thì những sản phẩm bảo hiểm cao cấp và chuyên biệt hơn (ví

dụ nhƣ bảo hiểm cây trồng đa thảm họa), hƣớng đến những thị trƣờng cụ thể,

nên đƣợc phát triển, đặc biệt sau khi bảo hiểm chỉ số và bảo hiểm thảm họa

định danh đƣợc thử nghiệm thành công. Phát triển các chƣơng trình bảo hiểm

nông nghiệp rất phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian cũng nhƣ nỗ lực của

nhiều bên, quá trình ba giai đoạn này chỉ nhƣ một gợi ý dựa trên các yếu tố

nông nghiệp điển hình của nƣớc ta hiện nay.

4.1. Giai đoạn 1: Phát triển thị trường bảo hiểm chỉ số

Từ trƣớc tới nay, bảo hiểm nông nghiệp ở nƣớc ta luôn đƣợc áp dụng

theo lối truyền thống. Đó là bảo hiểm mà tổn thất của từng hộ nông dân có thể

đo lƣờng đƣợc và mức chi trả bồi thƣờng tùy theo mức tổn thất của từng

trƣờng hợp. Tuy nhiên, hình thức bảo hiểm này có nhiều điểm hạn chế: phải

đánh giá đƣợc năng suất cây trồng của hộ nông dân trong nhiều năm, nguồn

số liệu và thông tin không đầy đủ, chỉ những nông dân hay xảy ra rủi ro mới

76

mua bảo hiểm, chi phí quản lý cao. Để khắc phục những hạn chế đó, trong

những năm gần đây, phƣơng pháp bảo hiểm theo chỉ số đƣợc một số chuyên

gia kinh tế nghiên cứu và áp dụng tại một số nƣớc trên thế giới nhƣ Ấn Độ,

Mông Cổ… Tại Việt Nam, Bộ Tài chính và Ngân hàng Châu Á ADB đang

nghiên cứu đề án phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số ở Việt

Nam.

 Thuật ngữ “chỉ số” ở đây đƣợc hiểu là một đại lƣợng nào đó gắn chặt

với sự thiệt hại nhƣng không bị ngƣời đƣợc bảo hiểm gây ảnh hƣởng lên nó,

ví dụ nhƣ chỉ số về lƣợng mƣa, nhiệt độ, sản lƣợng của vùng, mực nƣớc…

Hợp đồng bảo hiểm theo chỉ số chỉ bồi thƣờng thiệt hại dựa trên giá trị của

một chỉ số nào đó chứ không phải dựa trên những thiệt hại đƣợc xác định trên

đồng ruộng. Ví dụ, thay vì phải tính toán sản lƣợng thiệt hại cây trồng để định

ra mức đền bù, ngƣời ta xây dựng mức đền bù dựa vào sự thay đổi của thời

tiết, vì thời tiết có ảnh hƣởng đến năng suất cây trồng và việc xác định thay

đổi của thời tiết khách quan dễ dàng và đỡ tốn kém chi phí hơn. [Dũng

Trƣờng, 2008]

 Những ƣu điểm của bảo hiểm theo chỉ số so với bảo hiểm truyền

thống là:

- Ít rủi ro lựa chọn đối nghịch hơn. Điều này có đƣợc bởi vì tất cả

những ngƣời mua bảo hiểm trong khu vực đều phải trả mức phí bảo hiểm nhƣ

nhau và đều nhận đƣợc mức thanh toán bảo hiểm nhƣ nhau nên tránh đƣợc

những vấn đề lựa chọn đối nghịch.

- Quản lý ít tốn kém hơn. Điều này có đƣợc do khi sử dụng hình thức

bảo hiểm chỉ số sẽ không phải ký kết từng hợp đồng riêng lẻ, các nhân viên

bảo hiểm không phải đi khảo sát thực tế từng trang trại và không phải đánh

giá tổn thất một cách riêng lẻ. Bảo hiểm theo chỉ số chỉ sử dụng số liệu về

một chỉ số nào đó của vùng và những số liệu này thƣờng có sẵn, đáng tin cậy.

- Bảo hiểm chỉ số có thể đƣợc bán cho nhiều đối tƣợng khác nhau.

77

Ngƣời mua không nhất thiết phải là ngƣời làm nông nghiệp, thậm chí không

nhất thiết phải sống hay làm việc trong vùng đƣợc bảo hiểm. Ngƣời mua có

thể là bất cứ ai có thu nhập liên quan đến rủi ro đƣợc bảo hiểm bao gồm

những thƣơng gia buôn bán nông sản, những ngƣời chế biến nông sản, những

nhà cung cấp đầu vào cho nông nghiệp, các ngân hàng, chủ cửa hàng và cả

ngƣời lao động.

- Đối với ngƣời nông dân, lợi ích của bảo hiểm chỉ số là chi phí mua

bảo hiểm thấp, không mất thời gian xác nhận thiệt hại và đƣợc bồi thƣờng

nhanh chóng, thủ tục không phức tạp. Bảo hiểm này cũng rất phù hợp với

những ngƣời tham gia quy mô nhỏ mà cấu trúc nông nghiệp Việt Nam là các

nông hộ nhỏ chiếm phần lớn.

- Phù hợp với rủi ro tƣơng quan. Rủi ro tƣơng quan là rủi ro có phạm

vi ảnh hƣởng rộng và do đó gây ra những tổn thất nghiêm trọng mà Việt Nam

có xu hƣớng chịu khá nhiều loại thiên tai, rủi ro thời tiết tác động đến cả một

vùng.

Tuy nhiên, chƣơng trình bảo hiểm nông nghiệp theo phƣơng pháp chỉ

số cũng có những hạn chế từ các đặc điểm riêng của nó. [Dũng Trƣờng, 2008]

 Thách thức đối với hợp đồng bảo hiểm theo chỉ số

- Các phƣơng pháp đo lƣờng chỉ số phải thống nhất và khách quan.

Bảo hiểm theo chỉ số phụ thuộc vào những phƣơng pháp độc lập, khách quan

trong việc thu thập những thông tin đáng tin cậy về các hiện tƣợng thời tiết,

chẳng hạn nhƣ việc thu thập thông tin của các trạm khí tƣợng thủy văn.

- Ngƣời cung cấp bảo hiểm phải đối mặt với rủi ro cao do tính chất

tƣơng quan của rủi ro đƣợc bảo hiểm, nghĩa là khi rủi ro xảy ra, bên cung cấp

bảo hiểm (các công ty bảo hiểm) phải thanh toán cho tất cả những ngƣời mua

bảo hiểm theo cùng trạm thời tiết cho dù chƣa chắc ngƣời đo đã bị thiệt hại do

ảnh hƣởng của nhân tố này. Trƣờng hợp này rất khác với rủi ro độc lập ví dụ

78

nhƣ tai nạn ô tô, đắm tàu, rủi ro của một ngƣời đƣợc bảo hiểm không tƣơng

quan với rủi ro của ngƣời khác, vì thế tổn thất của số ít đƣợc chi trả bởi số

đông ngƣời đóng bảo hiểm.

- Một số thảm họa thời tiết xảy ra quá thƣờng xuyên đến mức khiến

cho phí bảo hiểm quá cao và ngƣời nông dân không thể mua đƣợc bảo hiểm.

Điều này thƣờng xảy ra đối với nhiều vùng nghèo khó nhất, nơi mà bảo hiểm

thực sự cần thiết nhất nhƣng lại khó tiếp cận nhất bởi họ không có đủ tiền để

đóng phí bảo hiểm. [Đào Văn Dũng, 2006]

 Chƣơng trình bảo hiểm theo chỉ số đã đƣợc triển khai tại một số

nƣớc:

- Ấn Độ: Hợp đồng bảo hiểm chỉ số theo lƣợng mƣa đƣợc bán cho

nông dân từ năm 2003.

- Mexico: Chính phủ nƣớc này mua hợp đồng bảo hiểm chỉ số căn cứ

trên lƣợng mƣa, nhiệt độ, sức gió và động đất.

- Ethiopia: Quỹ Chƣơng trình Lƣơng thực Thế giới đã mua bảo hiểm

chỉ số để tài trợ bất thƣờng trong trƣờng hợp thiếu thực phẩm liên quan đến

hạn hán. [Phƣớc Hà & Hà Yên, 2008]

Tại Việt Nam, bảo hiểm chỉ số đã đƣợc áp dụng thí điểm tại Đồng bằng

sông Cửu Long, cụ thể là Đồng Tháp, 3 năm qua. Chỉ số bảo hiểm ở đây dựa

trên mực nƣớc lũ sớm, chẳng hạn nhƣ nếu vƣợt quá 270cm ở đập Tân Châu,

bà con ở huyện Hồng Ngự và Tam Nông lúa bị ngập do không kịp thu hoạch

thì có thể đến công ty bảo hiểm yêu cầu tiền bồi thƣờng. Một chƣơng trình

tƣơng tự cũng đã đƣợc triển khai ở Tây Nguyên, chỉ số thời tiết là độ khô hạn

ảnh hƣởng đến năng suất cà phê. Nếu các chƣơng trình này thành công, dự án

sẽ nghiên cứu triển khai ở Đồng bằng sông Hồng. [Đào Văn Dũng, 2006] Tuy

nhiên, trải qua một thời gian dài, loại hình bảo hiểm theo chỉ số này vẫn chỉ

dừng ở việc thí điểm, chỉ một vài vùng đƣợc thí điểm mới biết đến. Vậy làm

79

thế nào để phát triển bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số tại Việt Nam?

 Để phát triển bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số ở Việt Nam cần thực

hiện một số vấn đề sau:

- Trƣớc hết và quan trọng nhất, Chính phủ cần tạo một hành lang pháp

lý thuận lợi cho việc thực hiện bảo hiểm chỉ số bởi bất kì một hoạt động kinh

tế nào cũng cần một môi trƣờng pháp lý ổn định và minh bạch để phát triển.

Vấn đề trở ngại lớn nhất đối với các công ty phát triển bảo hiểm theo chỉ số là

rủi ro có tính tƣơng quan nên Chính phủcũng cần hỗ trợ cho việc xây dựng

một chƣơng trình quản lý rủi ro nông nghiệp có khả năng giảm thiểu các rủi

ro có tính thảm họa gây ra mất mùa, hƣớng dẫn ngƣời nông dân cách nuôi

trồng khoa học, đặc biệt đối với gia súc – đối tƣợng dễ bị ảnh hƣởng bởi dịch

bệnh thì việc ngƣời nông quản lý đƣợc rủi ro là hoàn toàn khả thi.

- Các bên liên quan cần phải thúc đẩy việc tuyên truyền, tiếp thị về

loại hình bảo hiểm mới mẻ này, khi nhu cầu gia tăng thì các công ty bảo hiểm

sẽ hào hứng hơn với thị trƣờng tiềm năng này. Việc tuyên truyền còn giúp

những khách hàng tiềm năng đánh giá đƣợc liệu các công ty bảo hiểm có giúp

họ quản lý rủi ro một cách hiệu quả không. Các hợp đồng bảo hiểm chỉ số tuy

đơn giản hơn rất nhiều so với các hợp đồng bảo hiểm theo kiểu truyền thống

nhƣng giữa chúng vẫn có sự khác biệt đáng kể. Muốn tránh đƣợc những tranh

chấp, hiểu lầm khi rủi ro xảy ra thì công tác tiếp thị cần đƣợc lập thành kế

hoạch cụ thể. Bên cạnh đó, xây dựng chiến lƣợc tiếp thị cũng đồng nghĩa với

các công ty bảo hiểm sẽ xác định đƣợc thị trƣờng mục tiêu, bán bảo hiểm theo

chỉ số ở đâu, khi nào và nhƣ thế nào.

- Trên thế giới, hầu nhƣ không có chƣơng trình bảo hiểm nông nghiệp

nào mà không có sự tài trợ đáng kể từ phía chính phủ, do vậy bên cạnh việc

tập trung phát triển khâu chính sách và tạo lập một môi trƣờng bảo hiểm bền

vững thì Chính phủ cũng cần tài trợ trong giai đoạn đầu của quá trình thử

80

nghiệm. [Đào Văn Dũng, 2006; Phạm Bảo Dƣơng, 2007]

- Đặc trƣng của loại hình bảo hiểm này là tính rủi ro đồng nhất, có tính

tích tụ và hàng loạt, tức là doanh nghiệp bảo hiểm phải lƣờng trƣớc khả năng

chi trả rất lớn, trên diện rộng nếu có thiệt hại do yếu tố thiên nhiên. Việc này

có lẽ là quá sức đối với các công ty bảo hiểm Việt Nam, tiềm lực về tài chính

chƣa đủ mạnh và còn yếu về công tác nghiệp vụ, đặc biệt là đối với một loại

hình bảo hiểm còn quá mới mẻ nhƣ vậy. Để khắc phục tình trạng này, công ty

Bảo Minh đã đề xuất một kiến nghị: áp dụng cách tiếp cận chia tầng rủi ro đối

với quản lý danh mục. Đó là tài trợ về thiên tai bằng việc thành lập các quỹ

chung thông qua các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trong nƣớc và phân

lớp rủi ro để bù đắp thiệt hại. Đây cũng tƣơng tự nhƣ phƣơng pháp Chính

phủMỹ tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm tƣ nhân trong chƣơng trình bảo

hiểm cây trồng liên bang. Ví dụ, một công ty bảo hiểm có 100% phí bảo hiểm

thu đƣợc, trong đó công ty dành 30% doanh thu để dùng cho quản lý hành

chính và vận hành, 70% doanh thu còn lại sẽ đƣợc dùng để thanh toán các

khoản bồi thƣờng khi có yêu cầu bồi thƣờng. Khi khoản bồi thƣờng đó nhỏ T T

Tần suất

hơn 70% phí bảo hiểm thu đƣợc thì công ty lấy tiền chi trả từ phí bảo hiểm - S vùng “A” đại diện cho trƣờng hợp này. Vùng “B” thiệt hại khoảng giữa 70% - S 110% phí bảo hiểm thì công ty có thể bồi thƣờng bằng nguồn dự phòng,

nguồn dự phòng này hình thành từ doanh thu đƣợc giữ lại một phần khi khoản

bồi thƣờng ít hơn 70% phí. Vùng “C” thiệt hại vƣợt quá 110% phí bảo hiểm

thì buộc phải tài trợ bằng các nguồn vốn bên ngoài (tái bảo hiểm), trƣờng hợp

này thƣờng là kết quả của những sự kiện thiên tai có tính thảm họa, ảnh

hƣởng rộng lớn mà nguồn tài chính của công ty bảo hiểm tƣ nhân không đủ

gánh vác, các sự kiện này có tần suất thấp, độ nghiêm trọng cao. [Viện Chính

sách và Chiến lƣợc PTNNNT, Bộ NN&PTNT, 2009; Dũng Trƣờng, 2008]

81

Phƣơng pháp này đƣợc miêu tả ở biểu đồ sau:

S

Biểu đồ: Quản lý rủi ro tương quan của danh mục bảo hiểm bằng

Diện tích “A” tổn thất thấp hơn mức 70% phí bảo hiểm có thể đƣợc trả từ phí bảo hiểm

cách phân phối tổn thất

T

A

S

Diện tích “B” tổn thất 70%-110% phí bảo hiểm có thể đƣợc trả từ phí bảo hiểm, có thể đƣợc trả với quỹ dự trữ

Tần suất

A

Diện tích “C” tổn thất lớn hơn110% phí bảo hiểm, phải đƣợc tài trợ với vốn bên ngoài (tái bảo hiểm)

B

B

C

2 3 1 0

Hệ số tổn thất (Bồi thƣờng/Phí bảo hiểm)

(Nguồn: Tầm nhìn chính sách bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam- Viện Chính sách và

Chiến lược PTNNNT – Bộ Nông nghiệp và Phát triển)

4.2. Giai đoạn 2: Mở rộng thị trường bảo hiểm

Ở giai đoạn này, khi bảo hiểm theo phƣơng pháp chỉ số đã đƣợc thí

điểm thành công thì các ƣu tiên tiếp théo sau đó sẽ là mở rộng thị trƣờng bảo

hiểm chỉ số và phát triển một số loại hình bảo hiểm phù hợp khác, đặc biệt là

bảo hiểm cho thảm họa định danh. Trƣớc hết, thị trƣờng bảo hiểm chỉ số có

thể đƣợc mở rộng, phát triển theo một số khía cạnh sau:

 Về mặt địa lý: các sản phẩm thành công của loại hình bảo hiểm này

sẽ đƣợc thử nghiệm ở các thị trƣờng mới.

 Về phạm vi rủi ro đƣợc bảo hiểm: sẽ có nhiều rủi ro mới, nghiêm

trọng hơn đƣợc bảo hiểm với những sản phẩm đƣợc thiết kế phù hợp trên cơ

sở phát triển bảo hiểm chỉ số đã đạt đƣợc. Ví dụ, các sản phẩm bảo hiểm chỉ

82

số đối với nhiệt độ quá cao có thể đƣợc áp dụng đối với vùng bị hạn hán.

 Về đối tƣợng đƣợc bảo hiểm: Đối tƣợng bảo hiểm sẽ từng bƣớc đƣợc

mở rộng dựa trên những nghiên cứu về khách hàng mục tiêu của các công ty

bảo hiểm nhằm đáp ứng đa dạng nhu cầu của ngƣời mua bảo hiểm. Ví dụ,

ngoài việc bán bảo hiểm này cho các hộ nông dân, có thể ký kết hợp đồng với

những trang trại, đồn điền lớn hoặc bán cho các công ty chế biến sản phẩm

nông nghiệp. Nhƣ đã nói ở trên, đối tƣợng khách hàng của loại bảo hiểm này

rất linh hoạt và đa dạng, không nhất thiết phải là ngƣời làm nông nghiệp,

thậm chí không nhất thiết phải sống hay làm việc trong vùng đƣợc bảo hiểm.

Bởi vậy, mở rộng thị trƣờng bảo hiểm chỉ số theo đối tƣợng đƣợc bảo hiểm

rất khả thi đối với các công ty kinh doanh loại bảo hiểm này.

Để có thể tiếp cận thị trƣờng một cách hiệu quả và giúp giảm chi phí

quản lý, các hệ thống phân phối tiên tiến phải đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng trong

quá trình mở rộng thị trƣờng. Một phƣơng pháp khả thi là liên kết bán bảo

hiểm qua các dịch vụ của những đơn vị tập trung rủi ro nhƣ quỹ tiết kiệm, tín

dụng, công ty mua bán giống và các đầu vào nông nghiệp khác. Trong đó,

việc kết nối với các tổ chức tài chính để đƣa bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ

số phát triển rộng rãi là một hƣớng đi rất thích hợp với thực trạng Việt Nam.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, có 57 tổ chức phi Chính phủ quốc

tế đang trợ giúp cung cấp các dịch vụ về tài chính vi mô ở Việt Nam, chiếm

5% tổng số tín dụng vi mô ở Việt Nam [Jerry Skees, 2006, Báo cáo triển khai

Dự án hỗ trợ kỹ thuật: Phát triển Nông nghiệp ở Việt Nam do Ngân hàng Phát

triển Châu Á tài trợ]. Một số tổ chức tài chính vi mô trong những năm gần

đây cũng thực hiện đa dạng hóa các hoạt động của họ, thông qua việc tham

gia cung cấp các dịch vụ bảo hiểm. Nếu hợp tác thành công cùng với các tổ

chức tín dụng thì không những công ty bảo hiểm có đƣợc khách hàng lớn mà

còn mở rộng đƣợc một kênh phân phối quan trọng tới khắp các vùng nông

83

thôn ở Việt nam.

Khi thị trƣờng phát triển thì cạnh tranh giữa các công ty cũng bắt đầu

sôi động và một yêu cầu bức thiết đối với công ty lúc đó là phải nâng cao

đƣợc hiệu quả quản lý hành chính. Khi chi phí quản lý đƣợc giảm thiểu thì

việc bán bảo hiểm với mức phí thấp hơn sẽ thu hút đƣợc khách hàng và tăng

khả năng cạnh tranh trên các thị trƣờng mục tiêu.

Tiếp sau, ở giai đoạn này, bảo hiểm thảm họa định danh có khả năng

phát huy hiệu quả đối với những rủi ro dẫn tới tổn thất độc lập. Bảo hiểm

thảm họa định danh là bảo hiểm một loại rủi ro cụ thể ví dụ nhƣ mƣa đá,

cháy, hạn hán…Đây là chƣơng trình bảo hiểm cây trồng đầu tiên đƣợc phát

triển tại Mỹ và đã có lịch sử khá lâu đời, phổ biến nhất là bảo hiểm cho rủi ro

mƣa đá. Loại bảo hiểm này đòi hỏi các công ty phải tính toán tổn thất đối với

từng nông hộ. Do vậy, nếu cung cấp sản phẩm bảo hiểm thảm họa định danh

tới các đối tƣợng quy mô nhỏ thì một khó khăn đặt ra với công ty bảo hiểm là

chi phí đánh giá tổn thất rất cao so với giá trị hợp đồng bảo hiểm, chi phí này

gia tăng khi diện tích đất canh tác đƣợc bảo hiểm giảm đi. [Đinh Xuân Hạ,

2005; Viện Chính sách và Chiến lƣợc PTNNNT, Bộ NN&PTNT, 2009]

4.3. Giai đoạn 3: Chuyên môn hóa thị trường bảo hiểm

Sau khi trải qua hai giai đoạn đầu của khung phát triển, các nhà hoạch

định chính sách cũng nhƣ các bên liên quan chắc chắn sẽ thu đƣợc nhiều kinh

nghiệm có thể là từ những thất bại sẽ giúp họ trƣởng thành hơn trong một môi

trƣờng kinh doanh mới đầy khó khăn và thử thách. Những kinh nghiệm này

cũng sẽ giúp họ khám phá ra những cơ hội mới cho thị trƣờng bảo hiểm mà

chỉ có thực tiễn phát triển mới có thể mang đến.

Quá trình xây dựng năng lực và chuyển giao rủi ro ra thị trƣờng quốc

tế (tái bảo hiểm) sẽ tạo điều kiện cho các sản phẩm bảo hiểm chuyên môn hóa

đƣợc phát triển. Nếu bảo hiểm cho thảm họa định danh đã thâm nhập thị

84

trƣờng thành công thì đây sẽ là tiền đề cho bảo hiểm đa thảm họa phát triển

bởi rủi ro trong nông nghiệp rất đa dạng, khi ngƣời nông dân đã có ý thức

mua bảo hiểm thì nhu cầu của họ về những sản phẩm bảo hiểm dành cho các

thiên tai đơn lẻ và phức hợp khác sẽ bắt đầu xuất hiện.

Bảo hiểm cây trồng đa thảm họa là bảo hiểm tổng hợp giúp bảo vệ vụ

mùa khỏi tổn thất từ nhiều loại rủi ro, trong đó có những rủi ro dẫn tới tổn thất

tƣơng quan (vùng bị thiệt hại rộng lớn và ảnh hƣởng tới nhiều khách hàng

một lúc). Loại hình bảo hiểm này đƣợc ra đời tại Mỹ sau bảo hiểm cho thảm

họa định danh. Thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp phải đạt đến một trình độ

phát triển nhất định thì chƣơng trình bảo hiểm đa thảm họa mới có nền móng

vững chắc để xây dựng bởi chi phí quản lý, phân phối rất cao, một phần do

bảo hiểm này làm giảm động lực quản lý rủi ro của ngƣời nông dân khi đã

mua bảo hiểm. Tại Mỹ, khoản chi phí tốn kém này đƣợc Chính phủ với tiềm

lực tài chính hùng mạnh tài trợ. Do vậy, tại Việt Nam, chƣơng trình bảo hiểm

này chỉ nên giới hạn ở các hộ nông dân lớn. Đối với các hộ gia đình có khả

năng tài chính mạnh và có nhiều đất đai, các lựa chọn sản phẩm bảo hiểm sẽ

đa dạng hơn nhƣng ngƣợc lại, đối với các hộ gia đình nhỏ thì phạm vi lựa

chọn có giới hạn hơn và thậm chí là không thể hoặc không nên áp dụng cho

các hộ nghèo kinh niên. [Viện Chính sách và Chiến lƣợc PTNNNT, Bộ

NN&PTNT, 2009]

Dƣới đây là sơ đồ tóm tắt về thị trƣờng mục tiêu cho các chƣơng trình

85

bảo hiểm qua ba giai đoạn:

Sơ đồ: Đặc trưng của nông hộ và kỳ vọng lâu dài cho thị trường bảo

hiểm nông nghiệp ở Việt Nam: Bảo hiểm chỉ số dễ tiếp cận nhất cho số

B

Nông dân giàu có

đông các nông dân

MPIC ( 2)

Tầng lớp

Diện tích đất rộng hơn Thiết bị cơ khí hóa Đƣợc cấp tín dụng Diện tích đất nhỏ Một số tài sản và đƣợc cấp tín dụng một cách hạn chế

lao động nghèo

B Định danh (1)

Nghèo kinh niên

Rất bé/không có đất Rất ít tài sản

(Nguồn: Tầm nhìn chính sách bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam- Viện Chính sách và

Chiến lược PTNNNT – Bộ Nông nghiệp và Phát triển)

Bảo hiểm chỉ số

(1): Bảo hiểm cho thảm họa định danh

(2): Bảo hiểm đa thảm họa

Có thể thấy, thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam có nhiều tiềm

năng phát triển với gần 80% dân số làm nghề nông. Tuy nhiên, thị trƣờng vẫn

đang trì trệ do sự bế tắc trong việc tìm ra một mô hình thích hợp cho bảo hiểm

nông nghiệp Việt Nam. Định hƣớng cùng những con số đƣợc đặt ra rất cụ thể,

nhƣng việc có đạt đƣợc mục tiêu đó hay không phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực

của các nhà hoạch định chính sách để loại bỏ những vấn đề còn tồn tại và tìm

ra chiếc chìa khóa thành công. Những giải pháp đƣợc đề ra rất đa dạng, trong

đó không thể thiếu việc tăng cƣờng vai trò của các bên liên quan và xây dựng

một khung chính sách cho phát triển thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt

86

Nam.

KẾT LUẬN

Sau một quá trình nghiên cứu sâu về đề tài “Bảo hiểm nông nghiệp tại

Mỹ và một số kiến nghị đối với chính sách phát triển bảo hiểm nông nghiệp

tại Việt Nam” trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, khóa luận đã đúc rút ra đƣợc

những điểm nổi bật sau.

1. Bảo hiểm nông nghiệp đã sớm xuất hiện tại Mỹ từ những năm 1930

của thế kỷ trƣớc và đã phải đi qua một chặng đƣờng rất dài để phát triển đƣợc

nhƣ ngày nay. Trong đó vai trò của Chính phủ Mỹ là không thể không nhắc

tới. Chƣơng trình bảo hiểm cây trồng liên bang có lẽ sẽ mãi rơi vào trạng thái

trì trệ nếu không có sự xuất hiện của Luật cải cách bảo hiểm liên bang 1994

với quyết tâm lớn của chính phủ: xóa bỏ hoàn toàn các chƣơng trình hỗ trợ

bất thƣờng vốn là nguyên nhân làm giảm động lực tham gia bảo hiểm của

ngƣời nông dân và cũng là gánh nặng lớn cho ngân sách chính phủ. Đây cũng

là một mốc đáng chú ý cho sự hợp tác đƣợc đẩy mạnh giữa Chính phủ và tƣ

nhân trong chƣơng trình bảo hiểm cây trồng. Chính phủ đã chủ động mở cánh

cửa cho các công ty bảo hiểm tƣ nhân tham gia vào thị trƣờng. Kết hợp giữa

kỹ năng quản lý vĩ mô, chính sách, sự hỗ trợ cần thiết của Chính phủ và sự

linh hoạt, tính cạnh tranh, kinh nghiệm chuyên môn của khu vực tƣ nhân, phát

huy đƣợc tinh thần chủ động của ngƣời nông dân, đây chính là nền móng

vững chắc cho sự thành công của bảo hiểm nông nghiệp tại Mỹ.

2. Trong quá trình phát triển bảo hiểm nông nghiệp, Chính phủ Mỹ đã

gặp không ít khó khăn, thậm chí rơi vào bế tắc và cũng phải mất 40 năm,

chiếc chìa khóa thành công mới đƣợc tìm ra. Điểm lại quá trình đó, có không

ít những trở ngại mà Việt Nam cũng đang gặp phải khi xây dựng chính sách

phát triển bảo hiểm nông nghiệp. Dù tiềm lực tài chính là không thể so sánh,

87

nhƣng với lợi thế là nƣớc đi sau, các nhà hoạch định chính sách của nƣớc ta

có thể rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu và khám phá ra những hƣớng đi mới

cho thị trƣờng.

3. Dựa trên thực tiễn bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam trong thời

gian qua cùng những nghiên cứu về thực trạng bảo hiểm nông nghiệp Mỹ,

khóa luận đã đóng góp một số kiến nghị đối với chính sách phát triển thị

trƣờng này tại Việt Nam. Trƣớc hết, việc tăng cƣờng vai trò của các bên liên

quan bao gồm: Chính phủ, các công ty bảo hiểm, ngƣời nông dân là hết sức

cần thiết bởi một thị trƣờng chỉ có thể phát triển ổn định, vững mạnh dựa trên

định hƣớng của chính chủ, sự năng động của các công ty bảo hiểm, sự tham

gia đông đảo của ngƣời nông dân cùng mối liên kết chặt chẽ giữa các bên.

Bên cạnh đó, một giải pháp thiết thực và phù hợp với đặc điểm nông thôn

nƣớc ta hiện nay cũng rất đáng lƣu ý, đó là phát triển bảo hiểm chỉ số. Đây

không phải là chƣơng trình hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam bởi nó đã đƣợc thí

điểm trên một số vùng trong vài năm trở lại đây và cũng nằm trong dự án

nghiên cứu giữa Bộ tài chính và Ngân hàng phát triển Châu Á. Nếu thành

công thì đó có thể là bƣớc khởi đầu tốt đẹp cho khung chính sách phát triển

thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam gồm ba giai đoạn: phát triển thị trƣờng bảo

hiểm chỉ số, mở rộng thị trƣờng bảo hiểm, và chuyên môn hóa thị trƣờng bảo

hiểm.

Thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam đƣợc dự đoán sẽ phát triển

với rất nhiều định hƣớng, quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố quyết định

nằm ở sự quyết tâm và hƣớng đi đúng đắn của những ngƣời làm chính sách.

Bài khóa luận hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ vào tài liệu tham khảo

88

để xây dựng thị trƣờng bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách

1. Nguyễn Văn Định, 2005, “Bảo hiểm trong nông nghiệp”, trong Giáo trình bảo hiểm, 1st edn, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, p. 331- 360.

2. Vũ Đình Thắng, 2006, “Nhập môn kinh tế nông nghiệp”, trong Giáo trình kinh tế nông nghiệp”, 1st edn, nhà xuất bản Trƣờng ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà

Nội, p. 21-30.

3. Steven C. Harms, 1999, “History of crop insurance in the United States”,

Rain and Hail L.L.C, vol.10, no.2, p. 35-51.

Báo, tạp chí, tài liệu chuyên ngành

4. “Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm

2010” số 175/2003/QĐ-TTg

5. Đào Văn Dũng, 2006, “Phát triển bảo hiểm nông nghiệp dựa trên phƣơng

pháp chỉ số ở Việt Nam thông qua kết nối với các tổ chức tài chính”, Tạp chí

kinh tế và phát triển, số 11, tháng 10, p.35 – 37.

6. Phạm Bảo Dƣơng, 2007, “Bảo hiểm nông nghiêp ở Nhật Bản và một vài

gợi ý chính sách đối với Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế - Dự báo, số 31, tháng 3,

p.58 – 62.

7. Đinh Xuân Hạ, 2005, “Bảo hiểm nông nghiệp – sản phẩm khó xài”, Tạp

chí Tài chính, số 10, tháng 3, p.40 – 43.

8. Nam Kinh, 2006, “Bảo hiểm nông nghiệp: Khai phá mảnh đất cằn”, Tạp

chí Tài chính và Ngân hàng, số 12, tháng 3, p.32.

9. Hải Phƣơng, 2006, “Cần có biện pháp cho bảo hiểm nông nghiệp”, Tạp chí

Thương mại, số 9, tháng 5, p.21.

10. Viện Chính sách và Chiến lƣợc PTNNNT, Bộ NN&PTNT, tháng

11/2009, “Tầm nhìn chính sách bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam”, Tài liệu

89

tham khảo chính sách, số 7.

11. Bruce A. Babcock, Fall 2009, “Examining the Health of the U.S Crop

Insurance Industry”, Iowa Ag Review, vol.15, no.4.

12. Dennis A. Shields, April 2009, “Federal Crop Insurance: Background and

Issues”, Congressional Research Service Report for Congress (R40532).

13. European Commission Agricultural Directorate – General , 01/2001,

“Working document Risk Management Tools for EU Agricultural with a

special focus on insurance”.

14. Federal Crop Insurance Corp, 2010, “Summary of Bussiness Report As of

01-25-2010”.

15. Frank Schnapp, Keith Collins, Mike Sieben & Thomas P. Zachrias,

August 2009, “2008 – A year in review”, National Crop Insurance Services, p.

8-10.

16. Government Accountability Office, September 2007, “Crop Insurance –

Action needed to reduce program’s vulanerability to Fraud, Waste, and

Abuse”, GAO’s report to the Chairman, Committee on Homeland Security

and Governmental Affairs, U.S Senate.

17. Grant Thornton, October 2009, “Federal Crop Insurance Program -

Profitability and effectiveness analysis”, National Crop Insurance Services,

p.13.

18. H. Douglas Jose, 2001, “The impact of the Agricultural Risk Protection

Act of 2000 on Crop Insurance Programs”, Cornhusker Economics.

19. Ian Macandrew, John Nash & the Vietnam Insurance Corporation, August

1999, “Design Assistance and Operational Advice for an Agricultural

Insurance Programme in the Socialist Republic of Vietnam”, Consultant’s

Report for project number TCP/VIE/7822 (A).

20. Jake Rinehart, 4/2008, “Proposed changes to Federal Crop Insurance

Program and The Chanllenge of Servicing Crop Insurance Policies”,

90

American Agri-Bussiness Insurance Company ARMtech Insurance Services.

21. Paul Mitchell, Bill Half & Brenda Boetel, November 2004, “Livestock

Risk Protection Insurance: Information Bulletin”.

22. R.A.J.Roberts, 2005, “Insurance of crops in developing countries”, FAO

Agricultural Services Bulletin, no.159, p.43-87.

23. Rob Goeres, 2003, “Everyone benefits from a Public\Private crop

insurance partnership”, Rain and Hail Insurance Service.

24. Rober Dismukes & Keith H.Coble, May 2007, “Manage risk with

Revenue insurance”, Perspectives on food and farm policy, special issue, vol.

5, p.1-5.

25. Tuong Vu, 12/2003, “The political economy of pro-poor livestock

policymaking in Vietnam”, PPLPI Working Paper, No.5.

26. Thomas Dufhues, Ute Lemke & Isabel Fischer, October 2004, “ New

ways for rural finance? Livestock insurance shemes in Vietnam”, Conference

on International Agricultural Research for Development.

27. United States Department of Agriculture, October 2009, “About the Risk

Management Agency”, A Risk Managament Agency Fact Sheet.

28. Ugo Pica, Joachim Otte & Chiara Martini, 2010, “Livestock Sector

Policies and Programmes in Developing Countries – A Menu for

Practitioners”, Food and Agriculture Organization of the United Nations,

p.22-24.

Các Website:

29. Tiêu Anh, 2009, “Bảo hiểm nông nghiệp - tại sao không?”, Bình Định,

truy cập ngày 20/3/2010,

phattrien/2009/9/81256/ >

30. Phƣớc Hà & Hà Yên, 2008, “Bảo hiểm nông nghiệp: Khó vì chƣa thấy vai

trò Nhà nƣớc”, Vietnamnet, truy cập ngày 20/03/2010,

91

31. Phùng Đắc Lộc, 2010, “Bảo hiêm Nông nghiệp sẽ đƣợc triển khai trong

thời gian tới”, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, truy cập ngày 04/03/2010,

32. Đình Nam, 2008, “Bảo hiểm nông nghiệp: Chủ trƣơng đúng, nhƣng làm

thế nào?”, VnEconomy, truy cập ngày 21/03/2010,

http://vneconomy.vn/2008112109562874P0C6/bao-hiem-nong-nghiep-chu-

truong-dung-nhung-lam-the-nao.htm

33. Duy Thiên, 2008, “Bảo hiểm nông nghiệp: Cần thay đổi nhận thức – Giải

pháp từ 3 phía”, Báo Kinh tế nông thôn, truy cập ngày 05/03/2010,

http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/VandeSukien/2008/4/10018.html

34. Bảo Trang, 2009, “Bảo hiểm nông nghiệp: Vì sao còn bỏ ngỏ?”, Bộ tài

chính, truy cập ngày 20/03/2010,

35. Dũng Trƣờng, 2008, “Bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số: Sản phẩm

mới!”, Doanh nghiệp và hội nhập, truy cập ngày 06/03/2010,

36. Trung tâm dữ liệu thông tin chuyên ngành bảo hiểm IIC,

< http://baohiem.pro.vn/>

37. Trung tâm cơ sở dữ liệu về bảo hiểm cây trồng Mỹ (Insurance

Information Institute - Crop Insurance)

< http://www.iii.org/media/hottopics/insurance/crop/>

38. Website của công ty “American Crop Insurance”,

39. Website Hiệp hội bảo hiểm cây trồng Mỹ (National Crop Insurance

Services), < http://www.ag-risk.org/aboutus.htm#What%20is%20NCIS>

40. Website hƣớng dẫn về bảo hiểm chăn nuôi của trƣờng đại học Nebraska -

Lincoln (University of Nebraska – Lincoln, Livestock Insurance)

92

< http://livestockinsurance.unl.edu/>

41. Website của Bộ Nông nghiệp Mỹ (United States Department of

Agriculture, Risk Management Agency, Crop Policies and Pilots)

93