ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƢƠNG HỌC ----------&&&----------
AN THU TRÀ
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM VÀ GIỚI THIỆU TẾT
TRUNG THU CỦA HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGÀNH: CHÂU Á HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Khoa học : QH- 2009 - 2012
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Châm
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƢƠNG HỌC ----------&&&----------
AN THU TRÀ
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM VÀ GIỚI THIỆU TẾT
TRUNG THU CỦA HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGÀNH: CHÂU Á HỌC
Mã số : 60 31 50
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Châm
Hà Nội -2012
MỤC LỤC
Trang
Mục lục 1
MỞ ĐẦU 3
Chương 1: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và hoạt động giới thiệu 11
văn hóa dân gian trong và nước ngoài
1.1. Khái quát về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 11
1.2. Quan điểm trong việc giới thiệu trưng bày và các hoạt động 16
1.3. Các hướng hoạt động của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 20
Tiểu kết 24
Chương 2: Giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản và 25
Việt Nam tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
2.1. Một số quan điểm về việc khai thác các yếu tố văn hóa dân gian 25
trong hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại BTDTHVN
2.1.1. Khai thác cái hiện dạng một cách đa dạng và sống động 25
2.1.2. Đề cao và tôn vinh vai trò của chủ thể văn hóa 31
2.1.3. Văn hóa dân gian sống được trong cộng đồng và ngược lại 33
2.2. Các tiêu chí lựa chọn giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại 35
BTDTHVN
2.2.1. Đặc điểm các quốc gia 35
2.2.2. Các đối tác phối hợp tổ chức 46
2.2.3. Nội dung giới thiệu 49
2.3. Cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong hoạt động 62
giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại BTDTHVN
2.3.1. Qua trưng bày 62
65 2.3.2. Qua thiết kế các hoạt động
86 2.3.3.Qua người giới thiệu văn hóa dân gian
1
Tiểu kết 71
Chương 3: Những vấn đề đặt ra từ việc giới thiệu tết Trung thu của 72
Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam tại Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam
3.1. Giao lưu và quảng bá văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 72
76 3.2. Một số hạn chế trong việc giới thiệu văn hóa của các nước
3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện 81
nay
Tiểu kết 88
Kết luận 89
Tài liệu tham khảo 92
Phụ lục 1. Số lượng khách tham quan của BTDTHVN (1998 – 2012) 101
Phụ lục 2. Một số suy nghĩ về tết Trung thu của 3 quốc gia 103
Phụ lục 3. Một số hình ảnh về tết Trung thu của Việt Nam 117
Phụ lục 4. Một số hình ảnh về tết Trung thu của Hàn Quốc 120
2
Phụ lục 5. Một số hình ảnh về tết Trung thu của Nhật Bản 123
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một “làng toàn cầu” nhưng có thể nói mỗi dân
tộc trên thế giới vẫn là những bí ẩn khích thích sự khám phá. Ngay ở Châu Á
thôi, chúng ta cũng vẫn còn hạn chế sự hiểu biết lẫn nhau vì vậy việc tăng
cường nhu cầu hiểu biết văn hoá giữa các quốc gia trong khu vực là một điều
vô cùng thiết thực và ngày càng tăng. Trên thực tế các cư dân ở Châu Á ít hiểu
biết về quá khứ và cuộc sống đương đại của các nước láng giềng. Hơn nữa, với
điều kiện kinh tế còn hạn chế, số lượng những người có cơ hội tham quan, tìm
hiểu văn hoá của các nước láng giềng là không nhiều. Đồng thời, hiện nay
nhiều quốc gia đang hướng tới xu hướng giao lưu, hội nhập quốc tế và khu
vực. Chính vì vậy, chúng ta- những người Châu Á- cần có những hiểu biết về
nhau nhiều hơn, đặc biệt sự chia sẻ, hiểu biết văn hoá.
Vấn đề nghiên cứu về các lễ tết nói chung hay tết Trung thu nói riêng là
một đề tài được khá nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế ít có người
nghiên cứu về việc giới thiệu tết Trung thu của các quốc gia Hàn Quốc, Nhật
Bản và Việt Nam trong không gian mở của một Bảo tàng. Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam (BTDTHVN) với chính sách mở rộng và vươn ra các nước
trong khu vực cũng như thế giới đã có những định hướng giới thiệu về văn hoá
dân gian của các nước, trong đó có tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản.
Điều này chính là cơ sở tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu, nghệ nhân dân
gian, người dân được tìm hiểu và tổ chức giới thiệu tết Trung thu của các nước
trên tại BTDTHVN. Thông qua các hoạt động phối hợp với các nước tổ chức
tết Trung thu tại BTDTHVN đã đặt ra vấn đề phát triển giao lưu văn hoá của
các nước trong khu vực; quảng bá văn hoá dân gian của các nước trong khu
vực; vai trò của bảo tàng nói chung và BTDTHVN nói riêng trong việc giới
thiệu văn hoá của nước ngoài tại Việt Nam... từ đó giúp công chúng thật sự
hiểu biết cũng như khám phá những nét tương đồng và khác biệt của văn hoá
các nước trong khu vực Đông Á. Đồng thời đặt ra vấn đề làm thế nào để cùng
3
nhau giữ gìn và phát huy những yếu tố văn hoá dân gian trong xã hội hiện nay.
Bức tranh Trung thu của ba nước trong bối cảnh hội nhập và giao lưu
văn hoá quốc tế có những nét tương đồng và khác biệt. Có nước vẫn duy trì
được các nghi lễ, trò chơi, đồ chơi giống nhau; có nước còn giữ được nhiều
yếu tố truyền thống trong tết Trung thu, có nước gần như không còn giữ được
những yếu tố truyền thống trong tết Trung thu nữa...Vậy, sẽ lựa chọn các yếu
tố văn hóa dân gian nào để giới thiệu và cách thức khai thác ra sao để đạt được
mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đó trong bối cảnh hiện nay.
Đây chính là một mảng nội dung rất thú vị, đòi hỏi nhiều thảo luận trong quá
trình tìm hiểu và nghiên cứu để lựa chọn các nội dung giới thiệu về tết Trung
thu của từng quốc gia.
Chính từ những nét tương đồng và khác biệt đó đã đặt ra nhu cầu cần
thiết giới thiệu các nét văn hoá đặc sắc của tết Trung thu- một cái tết chung của
các nước Đông Á- để nâng cao sự hiểu biết của các nước trong khu vực, đẩy
mạnh giao lưu góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Đồng thời, tổ
chức hoạt động tết Trung thu của Bảo tàng là hướng đến việc quảng bá văn
hóa Việt Nam ra nước ngoài cũng như nâng cao hiểu biết của người Việt Nam
về văn hoá các nước, đặc biệt là các quốc gia láng giềng trong khu vực.
Từ nhận thức như thế, tôi lựa chọn chủ đề này cho luận văn của mình
với mong muốn có thể góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn và phát triển văn
hoá dân gian trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của các nước trong khu vực
và quốc tế.
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Trước hết, đây là một nghiên cứu ứng dụng, kết quả nghiên cứu sẽ sử
dụng trong việc tiếp tục tổ chức các hoạt động giới thiệu văn hoá của Việt
Nam cũng như các nước trong khu vực đến đông đảo công chúng tại Việt
Nam, đồng thời mở ra hướng giới thiệu văn hoá Việt Nam tại các nước trong
khu vực Châu Á và thế giới.
Qua kết quả nghiên cứu và phân tích, luận văn sẽ dựng lên một bức
tranh tương đối toàn cảnh về tết Trung thu hiện nay ở các nước Việt Nam,
4
Nhật Bản, Hàn Quốc như thế nào có đặc điểm giống và khác nhau ra sao.
Thông qua việc mô tả và phân tích các quan điểm, tiêu chí, cách thức
khai thác các yếu tố văn hoá dân gian, luận văn còn khái quát các quan điểm
thái độ của các nhân vật khác nhau khi tham gia vào việc phối hợp tổ chức nội
dung chương trình cũng như những người tham gia trực tiếp vào các hoạt động
trong tết Trung thu. Từ đó thấy được xu hướng bảo lưu và những biến đổi
trong tết Trung thu ở các nước.
Luận văn cũng bước đầu đưa ra các vấn đề xoay quanh vai trò của bảo
tàng trong việc phát triển giao lưu văn hoá ở khu vực; vấn đề quảng bá và giới
thiệu văn hoá dân gian của các quốc gia trong khu vực; vấn đề làm thế nào để
bảo tồn và phát huy được các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện nay.
Mục đích cao nhất là thông qua nội dung đề tài hướng đến vấn đề
truyền thống và biến đổi, tƣơng đồng và khác biệt, giao lƣu và hội nhập,
những nét đặc trƣng văn hoá địa phƣơng/ quốc gia trong quá trình toàn
cầu hoá, giao lƣu và hội nhập quốc tế được thể hiện như thế nào thông qua
trường hợp nghiên cứu Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và việc khai thác các
yếu tố văn hóa dân gian của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam trong việc tổ
chức giới thiệu tết Trung thu.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài thể hiện ở việc qua các hoạt
động trưng bày về tết Trung thu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam ở Bảo
tàng Dân tộc học, mọi người hiểu biết thêm về hoạt động của Bảo tàng nói
riêng, hoạt động giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực
nói chung. Ngoài ra, điều đó còn giúp tăng cường giao lưu văn hóa, củng cố
tình đoàn kết dân tộc và liên dân tộc; Giáo dục thế hệ trẻ nâng cao nhận thức,
có ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống; Tạo không gian
cho các hoạt động văn hoá dân gian phát triển, điều rất cần thiết trong bối cảnh
công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa hiện nay; Góp phần bảo vệ và
phát huy các giá trị văn hóa dân gian; Nâng cao năng lực nghiên cứu, năng lực
làm việc nhóm của các thành viên tham gia tổ chức hoạt động; Nâng cao trình
độ thưởng thức văn hóa cho công chúng khi tham gia các hoạt động này; Làm
5
cơ sở tiền đề mở rộng giao lưu văn hóa và quan hệ quốc tế.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính của chúng tôi ở luận văn này là tết Trung thu
của Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam đã được giới thiệu ở Bảo tàng như thế
nào và điều đó đã góp phần bảo tồn và phát huy văn hoá dân gian trong xã hội
hiện nay ra sao?
Để trả lời được câu hỏi chính đó, trong nội dung đề tài chúng tôi sẽ lần lượt trả
lời các câu hỏi nhỏ như sau:
+ Tại sao BTDTHVN lại lựa chọn giới thiệu hoạt động tết Trung thu của
các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam?
+ BTDTHVN đã làm gì để gắn kết, tổ chức giới thiệu các yếu tố văn hóa
dân gian qua việc tổ chức tết Trung thu của ba quốc gia?
+ Hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 nước ở BTDTHVN đã góp phần
bảo tồn giá trị tết Trung thu nói riêng, văn hoá dân gian nói chung của ba
quốc gia như thế nào?
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tôi chưa tìm thấy một cuốn sách
hoặc luận văn nào nghiên cứu đầy đủ về tết Trung thu của cả ba quốc gia hay
cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân gian qua việc giới thiệu tết Trung
thu của các nước Đông Á và Đông Nam Á mà chỉ tìm thấy những cuốn sách
mỏng, bài báo, tạp chí hoặc một phần trong những cuốn sách về lễ tết giới
thiệu về tết Trung thu nói chung hoặc một mảng nào đó liên quan đến tết
Trung thu như trò chơi dân gian, đồ chơi dân gian, các sự tích liên quan, bánh
trung thu, nghi lễ cúng tổ tiên, lễ cúng trăng...
Trong Đông Dương tạp chí Phan Kế Bính có mô tả tết Trung thu nói
chung qua lễ cúng tổ tiên ban ngày, lễ cúng trăng vào buổi tối, mâm cỗ trung
thu với hoa quả, bánh trái, một số đồ chơi dân gian làm bằng giấy bồi, các trò
chơi: Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bầy cỗ thưởng nguyệt. Đầu cỗ là
bánh mặt giăng, và dùng những thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các sắc, sặc sỡ
xanh đỏ trắng vàng. Con gái hàng phố, thi nhau tài khéo, gọt đu dủ trổ các thứ
6
hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá,coi cũng đẹp [ 5, tr. 24]. Bài viết
này, tác giả miêu tả khá đầy đủ về tết Trung thu cổ truyền từ các đồ chơi dân
gian chủ yếu từ giấy bồi làm ra các con vật như voi, hươu, ngựa, tôm, cá, kỳ
lân, đèn cù, ông ghè đất..., đồ chơi bằng sắt tây; các đồ chơi là trò chơi dân
gian như nhảy vô, kéo co, rước đèn, rước sư tử...Các tích chuyện liên quan
đến tết Trung thu cũng được đề cập như tích chuyện vua Đường Minh Hoàng
lên chơi cung Quảng Hàm rồi chế ra khúc Nghê Thường và dân bắt chước làm
ra đèn cù, đèn máy bằng giấy theo tích bát tiên... hay tích chuyện con cá chép
vàng thành tinh rồi từ đó có tục treo cá chép giấy trước cửa nhà...
Cuốn Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua Lễ- Tết- Hội hè của Toán Ánh
đã miêu tả khá đầy đủ về tết Trung thu từ trang 133 đến 148 qua các phần
nguồn gốc của tết Trung thu gắn với cậu chuyện vua Đường Minh Hoàng lên
cung trăng...: theo sách cổ thì tết Trung thu bắt đầu từ đời nhà Đường, thời vua
Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh [4, tr.134]. Ngoài những phần mô tả chung từ
nguồn gốc, đến quan niệm của người Phương Đông về trăng, cho đến các sự
tích, truyền thuyết liên quan đến các nhân vật trong sự tích tết Trung thu như
con Thiềm thừ và con thỏ ngọc ở cung Quảng Hàm thuộc quyền cai quản của
Thái Âm thần nữ, cây Đa thần (cây Đan quế theo người Tàu) gắn với hình ảnh
thằng Cuội (Ngô Cương theo người Tàu), múa lân, múa sư tử; những tục lệ
trong ngày tết Trung thu như thi cỗ, thi đèn, hát trống quân...tác giả con đề cập
đến trăng theo quan niệm của Đông Phương , trăng được hiểu theo nhiều cách
khác nhau, có thể trăng là cung Quảng Hàm của chư tiên, nơi Đường Minh
Hoàng lên du ngoạn hay trăng thuộc quyền của vị nữ thần Thái Âm vợ của
thần Thái Dương ...[4,tr.136]
Trong Văn hoá lễ hội truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam do
Ths. Nguyễn Hải Yến, CN Hoàng Trà My, CN Hoàng Lan Anh sưu tầm và
biên soạn, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006 giới thiệu tết trung thu (tr
28) rất đơn giản với nguồn gốc qua giấc mơ của vua Đường Minh Hoàng lên
cung Quảng Hàm xem các nàng tiên múa điệu Nghê Thường. Tết Trung thu có
mâm cỗ cúng gia tiên, mâm cỗ trông trăng với các sản vật mùa thu và bánh
7
nướng, bánh dẻo, rồi múa lân và rước đèn ông sao
Trong cuốn sách song ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh về tết Trung thu
của nhà văn Hữu Ngọc và Lady Bone, đã miêu tả tết Trung thu qua các chủ đề:
chuyện sự tích, đồ chơi dân gian (đèn kéo quân, đèn ông sao...), trò chơi dân
gian (múa lân sư), đồ ăn mang đậm nét trung thu (cốm Vòng, chuối, bánh
nướng, bánh dẻo...). Đặc biệt cuốn sách mỏng song ngữ này còn phản ánh các
cách nhìn khác nhau về tết Trung thu qua trích những phỏng vấn hồi ký của
một số người nổi tiếng...
Trong cuốn Di sản văn hoá phi vật thể của Hàn Quốc (Korean
Intangible Cultural Properties- Folk Dramas, Games, and Rites) do Bộ Văn
hóa, Thể thao Hàn Quốc xuất bản dành số trang miêu tả tết Trung thu ở Hàn
Quốc khá khiêm tốn. Cuốn sách đã đề cập đến nguồn gốc, ý nghĩa tết Trung
thu, điệu múa Ganggangsule và một số trò chơi dân gian theo các mùa khác
nhau ở Hàn Quốc.
Cuốn Nhật Bản - Hơi thở của chúng ta như thế nào & Trái tim của
chúng ta đập ra sao (Linh hồn của các nghi lễ truyền thống- những sắc màu
trong đời sống của người Nhật) (Japan- How we breathe & How our Hearts
beat. The Soul of Traditional events & Ceremonies that color Japanese life)
của Kudo Tadatsugu & Goto Tamiko giới thiệu tết Trung thu qua nguồn gốc,
mối liên hệ giữa con người và ánh trăng, câu chuyện giải thích về bánh trung
thu dango và con thỏ trên cung trăng.
Nhìn chung, có khá nhiều tác giả đã quan tâm và đề cập đến chủ đề tết
Trung thu nhưng chưa có những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu,
hệ thống về tết Trung thu cũng như trình bày cách thức khai thác các yếu tố
văn hóa dân gian nhằm góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá của
các quốc gia trong khu vực Đông Á. Chính vì vậy ở luận văn này chúng tôi sẽ
tập trung bàn luận về việc khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong tết
Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam thể hiện qua các quan điểm,
tiêu chí lựa chọn, cách thức khai thác giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia
với hy vọng bổ sung được phần nào khoảng trống trong nghiên cứu về chủ đề
8
này hiện nay.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi ở luận văn này là tết Trung thu của
Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam được giới thiệu ở BTDTHVN. Do đặc thù
của nghiên cứu mang tính tổng hợp nên chúng tôi chia mảng nội dung theo
hướng phân tích về cách thức giới thiệu tết Trung thu bao gồm các quan điểm
khai thác yếu tố văn hóa dân gian; các tiêu chí lựa chọn tết Trung thu của 3
nước; cách thức giới thiệu qua trưng bày, qua trình diễn, qua giọng nói của chủ
thể văn hóa; những quan điểm, suy nghĩ về tết Trung thu qua giọng nói của
người dân, người trình diễn, người tổ chức, người tham gia lễ hội, báo chí...
Như vậy, chúng tôi không chỉ nghiên cứu việc khai thác các yếu tố văn
hóa truyền thống của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc trong hoạt động đón tết
Trung thu hiện nay mà còn nghiên cứu về cách thức khai thác và truyền tải các
loại hình văn hoá dân gian cũng như phân tích các ý kiến khác nhau trong hoạt
động tổ chức giới thiệu tết Trung thu ở BTDTHVN. Từ đó, gợi ý, đề xuất cách
thức khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong các hoạt động giới thiệu văn
hóa của Việt Nam nói riêng và của các nước trong khu vực nói chung. Qua đó
góp phần hình thành phương pháp duy trì, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa dân gian trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong công trình này chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp điền dã
với việc thu thập các tư liệu văn bản, cụ thể là:
- Quan sát tham dự: tôi đã tham dự, phỏng vấn, chụp ảnh, ghi hình một số
gia đình đón tết Trung thu của Hàn Quốc, Việt Nam cũng như du khách đến
tham dự hoạt động giới thiệu tết Trung thu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt
Nam tại BTDTHVN
- Phỏng vấn sâu: phỏng vấn những người tham gia vào lễ hội Trung thu của 3
nước tại BTDTHVN (cả khách VN và nước ngoài)
- Phiếu đánh giá khách: sử dụng phiếu đánh giá dành cho những người tham
gia vào lễ hội Trung thu của các nước tại BTDTHVN (cả khách VN và nước
9
ngoài)
- Quay phim Nhân học : quay các thước phim về tết Trung thu của một gia
đình ở Hàn Quốc hay các câu chuyện về tết Trung thu của Nhật Bản, Việt Nam
hiện nay qua giọng nói của người dân.
- Thống kê so sánh: thống kế các mảng hoạt động trong tết Trung thu của các
nước và so sánh với nhau để tìm những nét tương đồng và khác biệt
- Phân tích tổng hợp: nguồn tư liệu đã công bố; nguồn tài liệu liên quan đến
đề tài được tìm hiểu và phân tích trước và trong qúa trình nghiên cứu
7/ Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn được chia thành ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và hoạt động giới thiệu văn hóa
dân gian trong và ngoài nước
Chương 2: Giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam tại
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Chương 3: Những vấn đề đặt ra từ việc giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc,
10
Nhật Bản và Việt Nam tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
CHƢƠNG 1
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM VÀ HOẠT ĐỘNG GIỚI
THIỆU VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
1.1. Khái quát về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Theo quyết định số 1595/QĐ-KHXH, ngày 26/11/2010 của Chủ tịch
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam như sau: Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam là đơn vị sự nghiệp của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, có
chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế hiện
vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày, trình diễn và hình thức hoạt
động khác, nhằm giới thiệu, phổ biến và giáo dục về giá trị lịch sử, văn hóa
của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân
tộc cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học
và bảo tàng học.
BTDTHVN là một thiết chế văn hóa thực sự cần được quan tâm đúng
với vai trò của nó trong sự nghiệp giữ gìn và bảo vệ các di sản văn hoá trong
bối cảnh Việt Nam có sự đa dạng văn hoá. Loại hình bảo tàng này rất quan
trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên quy mô quốc gia cũng
như ở từng địa phương, bởi vì nước ta có tới 54 dân tộc. Cho nên, ngay từ năm
1981, Nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ
đô Hà Nội.
Bảo tàng lấy tên giao dịch quốc tế là Vietnam Museum of Ethnology
(viết tắt là VME). Toà nhà trung tâm của Bảo tàng được gọi là toà nhà Trống
đồng do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người dân tộc Tày thiết kế mô phỏng theo
hình trống đồng - một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam (phần nội
thất của công trình do kiến trúc sư Véronique Dollfus người Pháp thiết kế). Lối
vào toà nhà là một chiếc cầu đá granit, bắc qua một hồ nước nhân tạo, tạo cảm
giác như bước lên căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng. Sảnh lớn của nhà trưng
bày thể hiện không gian bao quát của mảnh đất chữ S với nền lát đá theo biểu
11
trưng hình thể của đất nước Việt Nam và bên trên có một không gian hình tròn
tượng trưng cho bầu trời. Bên trong nhà trưng bày Trống đồng có trên dưới
650 đơn vị hiện vật và 280 ảnh, chủ yếu được phô bày trong 97 tủ kính có kích
thước và kiểu dáng khác nhau [12, tr. 32]. Cùng với các hiện vật gốc, Bảo tàng
còn sử dụng manơcanh, khu tái tạo, bản đồ, sách cứng… giúp người xem dễ
dàng tiếp cận với nội dung trưng bày, tự nhận thức được giá trị, ý nghĩa của
hiện vật trong đời sống đời thường. Nội dung trưng bày thường xuyên có chín
phần: Giới thiệu chung; Dân tộc Việt (Kinh); Các dân tộc Mường, Thổ, Chứt;
Các dân tộc ngôn ngữ Tày – Thái và Kađai; Các dân tộc nhóm ngôn ngữ
Hmông – Dao, Tạng - Miến và người Sán Dìu, người Ngái; Các dân tộc nhóm
ngôn ngữ Môn – Khơme ở miền núi phía Bắc và vùng Trường Sơn – Tây
Nguyên; Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo ở miền núi; Các dân tộc
Chăm, Hoa, Khơme; Sự giao lưu giữa các dân tộc. Bên cạnh việc duy trì hệ
thống trưng bày thường xuyên, BTDTHVN đã dành hai khu vực ở tầng 1 và
tầng 2 để tổ chức các trưng bày chuyên đề. Mỗi trưng bày này khoảng 150m2
và thường duy trì từ 6 tháng đến 1 năm. Các chủ đề trong trưng bày chuyên đề
hay tập trung vào những nội dung mang tính chất chuyên sâu mà trưng bày
thường xuyên chưa có. Một số trưng bày chuyên đề của BTDTHVN đã để lại
dấu ấn trong lòng công chúng như “Tết trẻ em” (1999), “Gia phả Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại” (2001), “Hanbok – Y phục truyền thống Hàn Quốc”
(2004), “Cuộc sống cư dân làng chài Cửa Vạn” (2004), “Đồ vải của người
Thái ở tiểu vùng sông Mê Công: tiếp nối và biến đổi” (2004), “Từ Chi – nhà
dân tộc học” (2005), “100 năm đám cưới Việt Nam” (2005), “Cuộc sống Hà
Nội thời bao cấp” (2006), “Chúng tôi ăn rừng: George Condominas ở làng
Saluk” (2007), Tết Trung thu ở Hàn Quốc (2007), “Sống trong bí tích: Văn
hoá Công giáo đương đại Việt Nam” (2008), “Đường 9: Cơ hội và thách thức”
(2009), “Câu chuyện Mê Công: Thách thức và ước mơ” (2009), “Tết Trung
thu và ngày trẻ em ở Nhật” (2009), “HIV: 20 năm thách thức và ước mơ”
(2010), “Ánh nhìn chéo: truyền thống lễ hội Val – de- Mare & Yên Bái”
(2012)…
Cùng với việc duy trì và phát triển khu trưng bày trong nhà, ngay từ
cuối năm 1997, BTDTHVN bắt đầu tiến hành xây dựng khu trưng bày ngoài 12
trời với diện tích 2,1 ha. Khu trưng bày được hình thành với mục đích bổ sung
cho phần trưng bày trong toà nhà Trống đồng, tạo cho bảo tàng một hệ thống
trưng bày hoàn chỉnh, tạo lập một không gian văn hoá sinh động, hấp dẫn. Mặc
dù cả nước có 54 dân tộc với rất nhiều nhóm địa phương khác nhau, nhưng
BTDTHVN chỉ có thể lựa chọn giới thiệu một số công trình kiến trúc dân gian
tiêu biểu tại khu trưng bày ngoài trời. Các công trình này phản ánh sự đa dạng
phong phú về kiến trúc từ loại hình, chất liệu đến kỹ thuật và tri thức bản địa
của những chủ nhân văn hoá. Đó là nhà rông của người Bana, nhà mồ của
người Giarai, nhà sàn dài của người Êđê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn
nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của
người Việt, nhà sàn thấp của người Chăm, nhà trình tường của người Hà nhì.
Trưng bày được bố trí theo 3 “đai” kế tiếp, “ứng với 3 vùng địa lý – tự nhiên
khác nhau về độ cao ở nước ta: một vành đai dành cho văn hoá ở vùng núi cao,
một đai – vùng cao nguyên và vùng thung lũng, còn đai thấp nhất – vùng đồng
bằng” [11, tr.33]. Như vậy, từ năm 1997 đến năm 2005, BTDTHVN đã hoàn
thành cơ bản việc xây dựng các trưng bày tại khu ngoài trời. Các công trình
kiến trúc dân gian bao gồm: nhà mồ của người Giarai (1998); nhà của người
Hmông (1999); nhà của người Tày (1999); nhà của người Dao (1999); nhà của
người Việt (2000); nhà của người Chăm (2001, 2004); nhà dài của người Êđê
(2001); nhà rông của người Bana (2001 - 2003); nhà của người Hà Nhì (2004);
nhà mồ của người Cơtu (2005). Ngoài các công trình chính là các kiến trúc dân
gian truyền thống nêu trên, tại khu trưng bày ngoài trời của BTDTHVN còn có
các hạng mục khác như: thuỷ đình, xưởng gốm, vườn thuốc nam củ người
Việt, cối giã gạo bằng sức nước của người Dao, nhà trưng bày thuyền, lò đúc
của người Hmông, lò rèn của người Nùng… Gắn với các công trình và hạng
mục phụ trợ, BTDTHVN còn chú ý tới các loại cây, đặc biệt là những loại cây
bản địa để hình thành không gian sinh thái gắn với các công trình kiến trúc dân
gian của các dân tộc, các vùng miền khác nhau ví dụ như quanh nhà Dao có
trồng những bụi lau, nhà Hà Nhì thì có vườn rau, ruộng ngô... Một vườn thực
vật gắn với các ngôi nhà đang dần dần được hình thành và phát triển ở khu
13
trưng bày ngoài trời này. Thêm vào đó, các lối đi ngoằn nghèo được lát chủ
yếu bằng gạch làng Lai Xá (Hà Nội) cùng với con suối uốn khúc, nước chảy
róc rách càng làm cho khung cảnh của khu trưng bày ngoài trời thêm sinh
động và hấp dẫn. Hơn nữa, tại khu trưng bày này BTDTHVN đã sử dụng
phương pháp trưng bày theo đời sống thực, rất phù hợp và đạt hiệu quả cao đối
với loại hình bảo tàng Dân tộc học. Mỗi ngôi nhà chính là một hiện vật, đồng
thời cũng có vai trò như một bảo tàng thu nhỏ, giới thiệu cách bài trí, trưng bày
các đồ dùng của người dân. Các ngôi nhà không chỉ là cái vỏ kiến trúc mà còn
chứa đựng thông tin về tập tục sinh hoạt và cư trú của các cộng đồng cư dân đã
sản sinh ra chúng: nơi thờ cúng tổ tiên, chỗ tiếp khách, nơi ngủ của gia đình…
Như vậy, với sự đa dạng và sự tái hiện nhiều không gian văn hoá khác nhau,
khu trưng bày ngoài trời của BTDTHVN là địa điểm thích hợp, lý tưởng để tổ
chức các hoạt động sinh hoạt văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước
cũng như hứa hẹn một điểm thu hút đông khách tham quan Việt Nam và quốc
tế.
Khi đã đưa hai khu trưng bày trong nhà và ngoài trời vào hoạt động ổn
định cũng như khẳng định được thương hiệu trong giới bảo tàng, năm 2003
BTDTHVN bắt đầu tiến hành thực hiện kế hoạch xây dựng Bảo tàng Đông
Nam Á - khu trưng bày văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tòa
nhà Đông Nam Á làm mô phỏng theo hình cánh diều- một biểu tượng văn hóa
của khu vực Đông Nam Á. Tòa nhà thiết kế hiện đại và bao gồm bốn tầng.
Tầng 1 sẽ trưng bày giới thiệu văn hóa của các nước trong khu vực Đông Nam
Á với 280 hiện vật, 15 video, 27 bài text và ảnh theo 5 chủ đề: Đồ vải và trang
phục; Đời sống hằng ngày; Đời sống xã hội; Nghệ thuật trình diễn; Tôn giáo
tín ngưỡng. Không gian ở tầng hai dành cho việc giới thiệu các bộ sưu tập của
các cá nhân hiến tặng như bộ sưu tập của nhà sưu tập Kaneko Kazushige (Nhật
Bản), Rosalia Sciortino (Italy), Lê Thành Khôi (Việt kiều Pháp)... Tầng 3 dành
cho trưng bày chuyên đề, các phòng làm việc, phòng đa phương tiện, hội
trường, chiếu phim… Tầng 4 dành cho kho bảo quản. Tính đến nay,
BTDTHVN đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng tòa nhà, chuẩn bị cơ sở vật
chất cũng như tiến hành nghiên cứu, sưu tầm hiện vật cho trưng bày trong Bảo
tàng Đông Nam Á (Bảo tàng ĐNA). Các bộ sưu tập đã cơ bản được lên kế 14
hoạch trưng bày, catalogue giới thiệu nội dung trưng bày đã xuất bản bằng 3
ngữ Việt - Anh - Pháp. Trong một thời gian ngắn đã có hàng chục đợt nghiên
cứu, sưu tầm ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. BTDTHVN đã sưu tầm
được khoảng 2.467 hiện vật, 8400 ảnh, 20 băng hình của các nước trong khu
vực Đông Nam Á. Đây sẽ là cơ sở mở ra cơ hội giới thiệu các bộ sựu tập về
văn hoá các nước trên thế giới cũng như các chương trình giao lưu văn hoá
giữa các nước góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Hiện nay (2013),
BTDTHVN đang trong giai đoạn hoàn thiện những khâu cuối cùng. Dự kiến
cuối năm 2013 sẽ khai trương trưng bày này với sự tham gia của nhiều quốc
gia trong khu vực và thế giới. Sự kiện quan trọng, thiêng liêng này sẽ đánh dấu
bước ngoặt quan trọng và là cơ hội để văn hóa Việt Nam và nước ngoài có
nhiều cơ hội giao lưu và thăng hoa. Đây là điều cực kỳ quan trọng đối với sự
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá trong giai đoạn hội nhập và toàn cầu
hoá hiện nay.
Như vậy, với kiến trúc tổng thể hợp lý, liên hoàn; nội dung trưng bày
chặt chẽ, có sự kết nối với văn hoá của các nước trong khu vực; kết hợp kiến
trúc dân gian với hiện đại và công viên cây xanh, BTDTHVN đã tạo ra nhiều
không gian văn hoá cho khách tham quan trong và ngoài nước. Trong bối cảnh
hội nhập và giao lưu văn hóa điều này càng khẳng định vai trò của BTDTHVN
không chỉ dừng ở tầm cỡ quốc gia, mà còn mang tầm vóc của khu vực và quốc
tế. Trong tương lai không xa, BTDTHVN sẽ là một điểm đến quan trọng của
nhiều công chúng Việt Nam và quốc tế; cũng như là một trung tâm nghiên
cứu, tìm hiểu, thướng thức, giao lưu văn hóa trực tiếp cho các nước Đông Nam
Á và khu vực qua các cuộc trình diễn, biểu diễn, trưng bày, hội thảo...
Với qui mô phát triển như vậy, lượng khách tham quan trong và ngoài
nước đến với BTDTHVN tăng lên qua từng năm. Theo số liệu thống kê của
phòng Truyền thông và công chúng, tính đến ngày 31/12/2012 BTDTHVN đã
đón tổng số lượt khách tham quan hơn 3,3 triệu người (xem phụ lục 1, tr.106).
Những năm gần đây, mỗi năm có tới trên 400 nghìn lượt khách đến tham quan.
15
So với các bảo tàng quốc gia khác trên địa bàn thủ đô Hà Nội, BTDTHVN có
số lượng khách tham quan khá đông, đa phần khách tham quan không chỉ đến
bảo tàng một lần, mà có sự trở lại vì sức hấp dẫn từ chất lượng trưng bày
thường xuyên cho đến trưng bày chuyên đề và các hoạt động phong phú, đa
dạng của bảo tàng.
Như vậy, trải qua một quá trình hình thành và phát triển, quy hoạch tổng
thể của BTDTHVN hiện nay gồm 4 khu vực chính: toà nhà trưng bày Trống
đồng (trưng bày giới thiệu văn hóa của 54 dân tộc); bảo tàng Ngoài trời (giới
thiệu 10 kiến trúc dân gian); bảo tàng Đông Nam Á (giới thiệu văn hóa khu
vực Đông Nam Á và thế giới) và khu vực hành chính (văn phòng làm việc);
tổng diện tích gần 4,5 ha. Với số lượng khách tham quan ngày càng tăng; sự
quan tâm và ủng hộ của công chúng ngày càng cao; qui mô của bảo tàng ngày
càng phát triển cả về số lượng và chất lượng... BTDTHVN đã dần dần khẳng
định được hình ảnh, thương hiệu trong nước và khu vực, đồng thời thể hiện
được vai trò trong việc giới thiệu văn hóa của Việt Nam và các nước ở khu vực
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nói tóm lại, với điều kiện của một quốc gia đa dạng về thành phần dân
tộc, sự tăng cường hiểu biết, đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc
cũng như giúp cộng đồng trong khu vực và thế giới hiểu được những đặc điểm
riêng về văn hoá, dân tộc ở Việt Nam, đồng thời thấy được những nét tương
đồng và khác biệt giữa các nền văn hóa là một vấn đề vô cùng quan trọng, đáp
ứng nhu cầu thực tế và mang tính thiết thực cao. Chính vì vậy sự ra đời và phát
triển của BTDTHVN đã, đang và sẽ góp phần hoàn thiện, đem lại sắc thái mới
cho hệ thống bảo tàng của Việt Nam, của khu vực; đáp ứng những nhu cầu cấp
thiết của xã hội đặt ra khi vấn đề văn hoá truyền thống của Việt Nam cũng như
các nước trên thế giới đang gặp những thách thức từ quá trình hội nhập toàn
cầu và giao lưu văn hóa.
1.2. Quan điểm về việc giới thiệu trƣng bày và các hoạt động
BTDTHVN là một bảo tàng non trẻ, ra đời muộn hơn so với nhiều bảo
tàng ở Việt Nam. Ngay từ những bước đi đầu tiên, BTDTHVN đã xác định
16
cho mình một hướng đi dựa trên các quan điểm tiếp cận với các nước tiên tiến
và lựa chọn để ứng dụng phù hợp với điệu kiện của Việt Nam. Các quan điểm
này đã gặp không ít các khó khăn khi triển khai, thậm chí còn bị coi là trái
chiều với ý kiến của một số nhà khoa học. Song với định hướng và cách làm
đúng đắn của bảo tàng, các quan điểm này đã dần dần được khẳng định trên
thực tiễn bằng những hiệu quả được nhiều bảo tàng áp dụng theo.
Bảo tàng luôn trăn trở với câu hỏi làm thế nào để bảo tàng sống động,
thu hút được nhiều khách tham quan quay lại và hạn chế hay xoá đi con số
những người đến tham quan bảo tàng một lần trong cuộc đời. Điều này phụ
thuộc vào nội dung của trưng bày, nhất là nội dung của các trưng bày chuyên
đề. Bởi vậy, BTDTHVN chủ trương phát triển những trưng bày chuyên đề tạo
sức sống và hấp dẫn công chúng quay lại bảo tàng nhiều lần. và BTDTHVN
đã có những trưng bày chuyên đề hấp dẫn (chúng tôi đã kể tên ở mục trên) và
thực sự tạo sức sống cho bảo tàng cũng như qua đó nhận được sự ủng hộ của
đông đảo công chúng.
Trong nghiên cứu và trưng bày, Bảo tàng lấy hiện vật là trung tâm.
Hiện vật được nhìn nhận trong tổng thể, có bối cảnh, có câu chuyện, gắn chặt
với đời sống hàng ngày, với môi trường sinh thái của chủ thể. Cách khai thác
và giới thiệu hiện vật ở đây trong mối quan hệ đa chiều giữa con người - đời
sống - môi trường. Với cách tiếp cận này hiện vật chính là văn hóa. Vì thế mà
các hiện vật của bảo tàng mới có được sức sống, mới giúp công chúng hiểu
nền văn hóa của chủ thể tạo ra chúng một cách sâu sắc. Một quan điểm nữa
của BTDTHVN là trưng bày qua lăng kính của chủ thể văn hóa, cộng đồng để
tăng cường, nâng cao, phát huy vai trò của họ. Đối với nhiều bảo tàng, trưng
bày chú trọng đến hiện vật và trưng bày thiên theo hướng chủ quan của người
nghiên cứu. Nhưng BTDTHVN rất quan tâm, chú ý đến chủ thể văn hóa, cộng
đồng. Con người- chủ thể tham gia trưng bày với nhiều hình thức khác nhau
như trực tiếp đến xem hiện vật và cho ý kiến về mong muốn trưng bày như thế
nào (trường hợp hiện vật bày trong phần giới thiệu đạo Mẫu của người Kinh),
phát biểu trong video, ghi âm những thể hiện quan điểm, suy nghĩ về hiện
vật…Hoặc cộng đồng được mời về bảo tàng để dựng các ngôi nhà của dân tộc 17
mình và cũng chính họ quay lại để sửa chữa cũng như tham gia các trình diễn
giới thiệu văn hóa tại đây. Hay cộng đồng tham gia xây dựng ý tưởng các nội
dung trong trưng bày, tham gia trực tiếp trưng bày. Chẳng hạn trưng bày về
câu chuyện của cộng đồng Gia sư, Đồng nát, Hiphop trong dự án truyền thông
dựa vào cộng đồng,… Và trong quan hệ giữa hiện vật với chủ thể văn hóa và
ngược lại, BTDTHVN còn thể hiện một quan điểm về cách tiếp cận hiện vật/
văn hóa là “tiếp cận cái hôm nay, lý giải những vấn đề văn hóa, thẩm mỹ, tâm
lý các dân tộc cho đến thời điểm sưu tầm, trưng bày” [12, tr.37]. Bảo tàng xác
định rõ ràng, cách tiếp cận nghiên cứu, sưu tầm hiện vật cũng như trưng bày
là bắt đầu từ cái hôm nay, từ hiện tại, rồi đi ngược dần về quá khứ, tìm về quá
khứ một phần cũng chính là để minh giải cho những vấn đề cập nhật nhất hôm
nay. Bởi vậy, các hiện vật trưng bày tại BTDTHVN là những hiện vật phản
ánh cuộc sống đời thường, thể hiện những sinh hoạt văn hóa của các dân tộc
như mâm cơm, đôi đũa, con dao, bộ trang phục, đôi guốc, cái đó… chứ không
phải là các hiện vật tiêu biểu, đắt tiền. Chính từ những hiện vật đời thường này
đã giúp người xem cảm nhận, mường tượng được đời sống vật chất và tinh
thần hiện nay của các dân tộc hiện nay cũng như trong quá khứ như thế nào.
Ví dụ: thông qua hiện vật mâm cơm của người Mường có thể hiểu nét sinh
hoạt hằng ngày, quan niệm thẩm mỹ của họ, cách sử dụng, chất liệu làm ra
nó…
Đối với hiện vật trưng bày, BTDTHVN còn có “quan điểm chủ đạo là
không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm
giác thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung” [11, tr. 32]. Nội dung
chính của khu trưng bày trong nhà là khái quát những đặc trưng văn hoá của
các dân tộc ở Việt Nam, bao gồm phần trưng bày thường xuyên và phần trưng
bày chuyên đề. Với mục tiêu cần chuyển tải khá nhiều nội dung để phản ánh
văn hóa của 54 dân tộc trong phần trưng bày thường xuyên, BTDTHVN đã sử
dụng gần 700 đơn vị hiện vật nhưng đều được lựa chọn kỹ càng và trưng bày
rõ ràng, phô bày được những nét đẹp của từng hiện vật. Có 97 tủ kính với kích
18
thước và kiểu dáng khác nhau, mỗi tủ chỉ chứa vài ba hiện vật; 50 tủ có bài
viết đi kèm; mỗi hiện vật đều có chú thích rõ ràng; 33 panô có hình ảnh và bài
giới thiệu. Cùng với các hiện vật, panô, bài biết, chú thích, Bảo tàng còn sử
dụng các hình thức phụ trợ trong trưng bày như bản đồ, sách cứng, ảnh minh
hoạ, các tái tạo thể hiện một tập tục hay một nét văn hoá cụ thể nào đó …
nhằm giúp người xem dễ dàng nắm bắt nội dung của từng phần trưng bày,
nhận thức được giá trị, ý nghĩa của hiện vật trong đời thường.
Ngoài ra, BTDTHVN có thiết kế và trưng bày theo quan niệm mới phù
hợp với sự tiến bộ của khoa học Bảo tàng dành cho tất cả mọi người, đặc biệt
chú trọng đối tượng công chúng là trẻ em và người khuyết tật. Ngay từ thiết kế
ban đầu bảo tàng đã chủ trương dành lối đi riêng thích hợp cho những người
khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên tầng hai. Các
bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu, trẻ em tiện đi lại. Trong trưng
bày, các bài viết giải thích được lựa chọn loại chữ in dễ đọc. Các panô, hiện
vật đều tính toán treo, bày ở độ cao vừa phải để đối tượng trẻ em cũng có thể
đọc, xem được. Một số trưng bày chuyên đề còn sử dụng thêm chữ nổi cũng
như tạo hoạt động cầm sờ hiện vật để những người khiếm thị có thể tiếp cận
với các nội dung trong trưng bày. Bên cạnh trưng bày chính, còn có phòng
khám phá dành riêng cho trẻ em. Bảo tàng đã chọn lọc và kết nối một số nội
dung trong trưng bày đưa vào giới thiệu tại phòng khám phá.
Song song với việc giới thiệu trưng bày BTDTHVN đã tạo ra nhiều
tầng không gian văn hoá để nâng cao vai trò của chủ thể văn hoá thông qua
các cơ hội tự trình bày và diễn đạt văn hóa của mình trước công chúng. Chủ
thể văn hoá có cơ hội tham gia trong các cuộc hội thảo, trình diễn nghề thủ
công, văn nghệ dân gian...Đây là cách hữu ích trong việc khơi dậy, khuyến
khích lòng tự hào về văn hóa của dân tộc mình và tôn trọng văn hóa của dân
tộc khác. Công chúng từ trẻ con đến người lớn, từ Việt Nam đến nước ngoài
có thể tham gia các hoạt động và giao lưu với chính chủ thể văn hóa như nặn
gốm, làm đồ chơi dân gian, in tranh Đông Hồ, thổi kèn ống nứa của người
Dao, nghe hát dân ca của người Hà Nhì, thưởng thức múa rối nước của những
19
người nông dân, xem múa dân gian của Hàn Quốc, thử cắm hoa với nghệ nhân
Nhật Bản, chơi nhạc cụ bằng tre với thổ dân Úc… Bằng những quan điểm
mang tính đột phá, có tính chất tiên phong thể hiện trong việc giới thiệu trưng
bày và các hoạt động bảo tàng đã đạt được những hiệu quả đáng kể. Sự quay
trở lại bảo tàng của công chúng ngày càng đông, sự tăng dần số lượng khách
tham quan Việt Nam và quốc tế (tính đến năm 2012 đạt hơn 3,3 triệu lượt
khách), sự công nhận của báo chí, đánh giá cao từ công chúng qua chứng chỉ
Xuất sắc năm 2012 của Tripadvisor, sự nhìn nhận của các đồng nghiệp qua
việc áp dụng mô hình của BTDTHVN… đó chính là minh chứng cho hướng
làm đúng đắn của BTDTHVN. Đồng thời khẳng định rõ hiệu quả của cách làm
mới góp phần vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
bối cảnh giao lưu văn hóa, toàn cầu hóa hiện nay.
1.3. Các hƣớng hoạt động của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Những năm gần đây, sự phát triển kinh tế, xã hội, giao lưu giữa các dân
tộc trong và ngoài nước diễn ra với tốc độ rất nhanh chóng. Quá trình quốc tế
hoá, toàn cầu hóa mạnh mẽ, nhiều di sản văn hoá truyền thống bị mai một theo
thời gian và tộc độ của sự phát triển. Bởi vậy, ngay từ khi mới đi vào hoạt
động, BTDTHVN đã xác định nghiên cứu, giới thiệu các hoạt động văn hoá
dân gian sống động là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Đồng thời bảo
tàng phải làm thế nào thu hút được nhiều công chúng cũng như đóng vai trò
làm cầu nối đưa công chúng đến với văn hoá của Việt Nam và nước ngoài. Từ
quan niệm trên bảo tàng đã định hướng cho các hoạt động của mình.
Trước tiên, BTDTHVN đi đầu trong việc tiếp cận các quan điểm mới và
phát triển đa dạng các hoạt động bảo tàng. Bảo tàng luôn ý thức cao về việc
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay cần tiếp cận các quan niệm, phương pháp
từ các bảo tàng tiên tiến trên thế giới để đổi mới và hội nhập quốc tế. Đây là
một nhận thức mới, có tính then chốt, nổi trội, đặc sắc đã giúp bảo tàng đến
được với công chúng và được công chúng, xã hội cũng như giới bảo tàng đánh
giá cao. Bảo tàng đã coi trọng việc tiếp cận những quan điểm mới trong nhân
học văn hóa- xã hội đương đại như vấn đề liên kết với cộng đồng, vai trò của
20
chủ thể văn hóa trong việc bảo tồn, giới thiệu văn hóa đương đại…Trong
những năm qua, sự mạnh dạn áp dụng những đổi mới trong các hoạt động của
bảo tàng luôn được quan tâm và không ngừng trau dồi, học hỏi, ứng dụng vào
thực tiễn. Tại bảo tàng đã thường xuyên tổ chức các hoạt động trình diễn văn
nghệ dân gian, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực dân gian, trò chơi dân
gian. Từ cuộc trình diễn đầu tiên Hát chèo Tàu của người dân đến từ Đan
Phượng năm 2000 đến nay bảo tàng đã tổ chức được hàng trăm trình diễn như
thế. Đặc biệt, đã có những hoạt động trở thành sự kiện định kỳ của bảo tàng
như tết Nguyên Đán, tết Trung thu, Tết Quốc tết thiếu nhi 1/6, múa rối nước,
hát ca trù. Các hoạt động ở đây, tạo điều kiện cho những người dân ở địa
phương cũng như ở các nước trong khu vực tự giới thiệu văn hóa, trực tiếp
giao lưu với du khách trong và ngoài nước. Những sự kiện này đã thật sự thu
hút công chúng đến và quay trở lại BTDTHVN cũng như giúp bảo tàng ngày
càng nâng cao chất lượng trong các hoạt động.
BTDTHVN lấy cộng đồng làm trung tâm và chú trọng việc thiết lập
quan hệ chặt chẽ mối quan hệ giữa bảo tàng với cộng đồng. Đa số các hoạt
động của BTDTHVN được triển khai theo hướng này. Quá trình làm khu trưng
bày ngoài trời, bảo tàng đã tạo dựng được rất nhiều mối quan hệ với cộng
đồng. Ngoài ra, có rất nhiều hoạt động bảo tàng đã làm việc với chủ thể văn
hóa như người trong cuộc, lấy cộng đồng làm trung tâm chẳng hạn như cuộc
trưng bày Thế giới qua con mắt trẻ em Hmông (2003) sử dụng phương pháp
photovoice. Bảo tàng đã triển khai cách thức trao máy ảnh cho người dân.
Điều này có nghĩa là chính chủ thể văn hóa được trao cơ hội tự lựa chọn chụp
những bức ảnh để giới thiệu văn hóa dân tộc theo ý muốn và nhận thức của
bản thân/ của cộng đồng. Những bức ảnh có chất lượng tốt, thể hiện ý tưởng và
có lời giải thích của chủ thể văn hóa đã là cơ sở chính để trung bày tại bảo
tàng. Bên cạnh phương pháp photovoice, BTDTHVN còn áp dụng phương
pháp “phim cộng đồng”. BTDTHVN sẵn sàng trao máy quay cho người dân.
Bằng cách này, cộng đồng tự trao đổi và quyết định chọn hình ảnh, nội dung,
lời thoại, nhạc nền, chủ đề, tên phim...Điều mấu chốt của cả hai phương pháp
này là cộng đồng làm trung tâm, cộng đồng quyết định sẽ giới thiệu cái gì đến
21
công chúng theo cách nghĩ và mong muốn của họ. Bằng những cách như thế
này, mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng ngày càng gắn bó và phát triển.
Người dân- những chủ thể văn hóa thật sự tự hào khi chứng kiến những di sản
văn hóa của dân tộc mình được nâng niu, trân trọng.
Phát triển theo hướng xây dựng bảo tàng trở thành một địa chỉ có thương
hiệu, uy tín trong việc giới thiệu di sản văn hóa, giáo dục thế hệ trẻ cũng như
kết nối các di sản văn hoá của Việt Nam và các nước trong khu vực.
BTDTHVN giúp người xem luôn tìm thấy ở đây những tri thức quý giá về lịch
sử, văn hoá tộc người, mối quan hệ tương đồng văn hoá giữa Việt Nam với các
nước Đông Nam Á và khu vực. Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại qua
phát triển các hoạt động văn hoá, BTDTHVN đã tổ chức một số cuộc trưng
bày, hoạt động giới thiệu văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện cho
nhân dân thế giới cũng như các Việt kiều ở các nước sở tại hiểu biết đúng đắn
về lịch sử, cuộc sống đương đại và nền văn hoá phong phú, đa dạng, đậm đà
bản sắc của Việt Nam.
Bảo tàng coi trọng từng đối tượng công chúng và dành nhiều công sức
nghiên cứu các hoạt động để phục vụ cũng như thu hút đa dạng các đối tượng
công chúng trong và ngoài nước. Với mỗi một đối tượng công chúng, bảo
tàng đã nghiên cứu các nhu cầu và tạo ra những hoạt động khác nhau để thu
hút. Có loại hoạt động dành cho trẻ em mẫu giáo; học sinh cấp 1, cấp 2, cấp
3; sinh viên; giáo viên; nhà nghiên cứu; gia đình; người khuyết tật/ thiệt thòi,
khách nước ngoài… Công chúng là học sinh có nhiều cơ hội học tập và trải
nghiệm theo hình thức học mà chơi, học từ trải nghiệm thực tế. Các bạn sinh
viên được thể hiện, khám phá khả năng thông qua nhiều hình thức như diễn
đàn, tọa đàm, giao lưu, thi viết bài, hướng dẫn du khách, làm việc với nghệ
nhân dân gian…Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhiều hiện tượng
văn hóa có xu hướng giao lưu và ảnh hưởng qua lại, BTDTHVN có quan
điểm sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp trong và ngoài nước
để cùng nhau phát triển và hội nhập. Với chủ trương tạo ra mạng lưới các bảo
tàng cùng phát triển theo hướng tiếp cận mới đa dạng các hoạt động để cùng
22
nhau góp sức trong việc duy trì và phát huy các giá trị di sản văn hóa nên tại
BTDHVN đã có rất nhiều các hoạt động trưng bày, trình diễn giao lưu văn
hóa giữa Việt Nam với các nước. Ngoài ra, BTDTHVN còn chủ động thiết
lập và mở rộng mối quan hệ hợp tác với các bảo tàng, các đơn vị hoạt động
văn hoá ở địa phương,ở các quốc gia trên thế giới. Bảo tàng đã tổ chức nhiều
lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ với sự tham gia của cán bộ bảo tàng
và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch địa phương cũng như mời các chuyên gia
nước ngoài tập huấn cho các Bảo tàng Việt Nam. Có thể kể đến việc mở rộng
mạng lưới với các bảo tàng địa phương ở vùng đồng bằng Nam Bộ qua thực
hiện dự án về nâng cao năng lực nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày, với sự
tham gia của các bảo tàng ở An Giang, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Hà Giang. Tập huấn về giáo dục, bảo quản của chuyên gia Mỹ, tập huấn về
truyền thông của chuyên gia Hàn Quốc, Anh… Thông qua hàng loạt các hoạt
động nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, tổ chức hoạt động giáo dục, tập huấn
cho giáo viên, sinh viên… rất nhiều cán bộ đã được nâng cao năng lực
chuyên môn và từ đó các sản phẩm của Bảo tàng gửi đến công chúng ngày
23
càng đa dạng và phong phú.
Tiểu kết
Sau 18 năm thành lập, 16 năm mở cửa phục vụ công chúng, BTDTHVN
đã trở thành một trung tâm văn hóa, một cơ sở khoa học có tính xã hội rộng
lớn của thủ đô Hà Nội. Bằng qúa trình vừa làm việc, vừa học hỏi tự rút kinh
nghiệm và vươn lên, bảo tàng đã có được những thành công trong nghiên cứu,
sưu tầm, trưng bày, giáo dục, truyền thông góp phần bảo tồn các giá trị văn
hóa dân gian trong và ngoài nước.
Qua đó, BTDTHVN đã chuyển tải đến công chúng trong và ngoài nước
thông điệp tình yêu đất nước và con người Việt Nam, sự tôn trọng và niềm tự
hào về di sản văn hóa của dân tộc mình cũng như của bạn bè quốc tế. Đồng
thời, tạo cơ hội cho công chúng một cái nhìn toàn diện, khái quát nhưng hết
sức cụ thể về đời sống văn hoá các dân tộc ở Việt Nam và khu vực.
Những kết quả bước đầu này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
định hướng các hoạt động của BTDTHVN cũng như tạo cở sở vững chắc trong
việc nghiên cứu, trưng bày, phát triển các hoạt động bảo tồn, gìn giữ và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
24
chung trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Chƣơng 2
GIỚI THIỆU TẾT TRUNG THU CỦA HÀN QUỐC, NHẬT BẢN VÀ
VIỆT NAM TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
2.1. Một số quan điểm về việc khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong
hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại BTDTHVN
2.1.1. Quan điểm khai thác cái hiện dạng một cách đa dạng và sống động
Quan điểm này có tính chất làm kim chỉ nam như sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá trình triển khai các hoạt động của bảo tàng trong đó có hoạt động tổ chức
tết Trung thu. Bảo tàng xác định việc giới thiệu, khai thác các yếu tố văn hóa
dân gian đi từ cái hiện dạng/ đời thường và đáp ứng tiêu chí đa dạng, sống
động. Đây là mấu chốt để thu hút khách tham quan và mang ý nghĩa xã hội
cao. BTDTHVN đã triển khai tổ chức các hoạt động bám sát các quan điểm
“Tiếp cận hiện vật trong cái nhìn tổng thể, gắn chặt với con người, với đời
sống hàng ngày, với môi trường sinh thái của chúng. Nói cách khác, hiện vật
thể hiện con người - đời sống - môi trường. Hiện vật là văn hóa… Nói đến bảo
tàng thường nghĩ đến cái cũ, “cái cổ”, “cái đã qua” cùng với những hình ảnh
lớp bụi phủ của thời gian trước những đống cổ vật. Quan điểm và cách tiếp cận
mới của loại hình bảo tàng dân tộc học không phải là như vậy. Có thể nói là
hoàn toàn khác.”[11, tr.51]. Chính vì vậy, quan điểm giới thiệu văn hóa truyền
thống không phải là cái gì xa xưa, cổ kính mà chính là cuộc sống đời thường,
cái hiện dạng/ đương đại người dân đang duy trì và thực hành. DSVHPVT
biểu hiện qua các câu chuyện đời thường bởi vậy mỗi hiện tượng văn hóa bảo
tàng lựa chọn luôn giới thiệu gắn với những câu chuyện đời thường. Chương
trình tết Trung thu 2012, chúng tôi đã mời người dân ở Hội An đến trình diễn
cách làm bánh tráng đập. Khi đặt vấn đề mời họ đến bảo tàng, chính họ đã
không tin và băn khoăn nói: “việc làm bánh tráng đập có gì đâu mà phải trình
diễn, hằng ngày tôi vẫn làm ra hàng trăm cái để bán, có mấy ai hỏi đâu, chắc
25
chắn chẳng ai quan tâm mà…” (chị Nguyễn Thị Sáu, 45 tuổi ở Hội An). Trong
suốt những ngày trình diễn tại BTDTHVN chị Sáu đã gặp gỡ hàng nghìn công
chúng và chia sẻ hàng chục câu chuyện của chính chị. Công chúng có cơ hội
hiểu rõ cách thức làm bánh, bí quyết làm bánh từ khâu chọn gạo, ngâm gạo
đến cách tráng bánh, cuộc sống của người đi bán bánh tráng đập, những khó
khăn trong nghề, những niềm vui trong nghề, kiến thức dân gian giúp họ thành
công… Ở đây, chủ thể văn hóa được tạo điều kiện để trực tiếp giao lưu với
công chúng qua các câu chuyện đời thường mà rất đáng trân trọng. Chính từ
việc làm này, người dân đã nhận thức được giá trị văn hóa của dân tộc mình và
từ đó thêm tự hào, yêu quí các DSVHPVT. Chị Sáu chia sẻ khi kết thúc: “Tôi
vui quá, công việc đơn giản mà đến đây được nhiều người quan tâm. Họ rất
thích thú khi làm thử và nghe tôi nói chuyện. Có cả mấy ông Tây cũng xem và
ngồi ăn thử đấy. Đặc biệt, bọn trẻ ở đây hỏi nhiều lắm. Mấy đứa nhỏ mà cũng
quan tâm ghê. Về nhà tôi sẽ kể với gia đình tôi”. Vào dịp tết Trung thu 2007
chúng tôi đã phối hợp tổ chức cùng với Bảo tàng Dân gian quốc gia Hàn Quốc.
Trước khi thống nhất các nội dung về tết Trung thu của Hàn Quốc đưa sang
Việt Nam giới thiệu chúng tôi đã có những trình bày và thảo luận. Trên cơ sở
đã tiến hành nghiên cứu ở nhiều góc độ như tài liệu sách, phỏng vấn người
dân, nghiên cứu tại điểm (theo chân một gia đình tại làng Andong), hỏi các
chuyên gia, quan sát… về phía Việt Nam đưa ra nội dung giới thiệu liên quan
chủ yếu đến tết Trung thu hiện nay ở Hàn Quốc như thế nào. Chẳng hạn, thể
hiện qua những thước phim, hình ảnh về tết Trung thu của gia đình ông Lee
Won Tae ở Andong, qua trích giọng nói của người dân về trung thu, qua báo
chí nói về trung thu đương đại, qua những hoạt động trình diễn của người dân
địa phương… Nhưng đã gặp phải ý kiến cho rằng làm như vậy thì người dân
Việt Nam sẽ hiểu nhầm về tết Trung thu ở Hàn Quốc. Chúng tôi đã phân tích
và chia sẻ rằng người dân Việt Nam cũng như các nước khác mong muốn hiểu
biết về văn hóa Hàn Quốc qua tết Trung thu hiện nay thế nào, những thông tin,
hình ảnh có địa chỉ chính xác, có câu chuyện của người dân- chủ thể văn hóa
đang nắm giữ văn hóa - là những yếu tố tạo niềm tin, gây hấp dẫn với người
xem. Điều này thuyết phục và nhận được đa số các ý kiến ủng hộ. Quan trọng
26
hơn, các nội dung đó khi triển khai đã nhận được sự thích thú của công chúng,
của chính người tham gia giới thiệu (chủ thể văn hóa), của các cán bộ ở Bảo
tàng Dân gian quốc gia Hàn Quốc. Bà Kim Won Lee nói: “ thật vui, tôi thấy
người Việt Nam rất thích thú tìm hiểu tết Trung thu của Hàn Quốc qua xem
trưng bày, video về gia đình ông Lee, tham gia các hoạt động trải nghiệm làm
bánh Songpeon do người địa phương hướng dẫn… Theo kết quả phiếu tham
khảo ý kiến khách tham quan có đến 90% khách cho rằng họ đã hiểu thêm về
văn hóa Hàn Quốc qua phòng trưng bày, các hoạt động trình diễn trong lễ hội.
Như vậy, cái “đời thường”/ cái hiện tại chính là văn hóa. Cái “đời thường”
được khai thác đúng lúc, đúng nơi, đúng người sẽ trờ thành “phi thường” bởi
nó chứa đựng bao giá trị văn hóa đáng được nâng niu, trân trọng và gìn giữ.
Cùng với việc triển khai hoạt động bám sát các quan điểm trong nghiên
cứu, trưng bày là giới thiệu cái hiện dạng/ cái đời thường, BTDTHVN luôn tổ
chức hoạt động theo tiêu chí đa dạng, sống động. “ BTDTHVN là bảo tàng
đầu tiên ở Việt Nam mở ra những hoạt động mới trong việc thực hiện đa dạng
hóa hoạt động bảo tàng, thậm chí đi trước cả nhiều bảo tàng ở khu vực. Đặc
biệt, đó là tổ chức tại bảo tàng các hoạt động trình diễn nghề thủ công và văn
nghệ dân gian của các dân tộc” [7, tr.21]. Trên thực tế, công chúng sẽ ít quay
lại bảo tàng nếu chúng ta chỉ có những trưng bày cũ kỹ, hiện vật cố định mang
theo cảm giác nhàm chán, buồn tẻ, không đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Điều quan trọng để thu hút được công chúng bảo tàng cần tạo hơi thở, sức
sống mới, sự năng động qua các hoạt động. Tính từ cuộc trình diễn đầu tiên
vào năm 2000 trong chương trình Trình diễn văn hóa dân gian của chúng ta
cho đến nay BTDTHVN đã liên tục tổ chức được hàng trăm các hoạt động như
thế. Trong số đó, bảo tàng đã chắt lọc lựa chọn giới thiệu một số hoạt động
mang tính sự kiện thường niên như tết Nguyên Đán, tết Trung thu, ngày Quốc
tế thiếu nhi 1/6… Qua nhiều năm tổ chức giới thiệu tết Trung thu trở thành
một sự kiện thường niên, qui mô ngày càng phát triển, thu hút đông đảo khách
tham quan trong và ngoài nước. Chương trình Trung thu 2007: Ngày hội văn
hóa Việt - Hàn đã thu hút được gần 40 nghìn khách; chương trình Trung thu
27
2008: Ngày hội dành cho trẻ thơ đã có trên 20 nghìn khách tham gia; Trung
thu 2009: Sắc màu Việt - Nhật có gần 20 nghìn khách; Trung thu 2010: Sắc
màu Việt - Trung gần 20 nghìn. Bảo tàng chủ trương khai thác các yếu tố văn
hóa dân gian trong nội dung của sự kiện này một cách đa dạng, sống động và
thể hiện nhiều dạng thức khác nhau của DSVHPVT. Về sự đa dạng trong nội
dung có thể phân loại ra bốn dạng hoạt động cơ bản sau: trình diễn/ biểu diễn
như múa nông dân (nongga), múa Ganggangsulle (Hàn Quốc - 2007), múa
Yosakoi (Nhật Bản - 2009), múa lân sư rồng (Việt Nam - 2010), hát dân ca,
chơi bài chòi (Việt Nam - 2012)… trình diễn và hƣớng dẫn làm đồ chơi dân
gian: làm mặt nạ, làm diều, hộp giấy (Hàn Quốc - 2007), làm giấy, làm quạt
(Nhật Bản - 2009), làm đèn Trung thu, ông tiến sỹ, tàu thủy sắt tây (Việt Nam
- 2007 đến 2012)…; trình diễn và thi đấu trò chơi dân gian: các trò chơi
dân gian Việt - Hàn (2007), trò chơi Việt - Nhật (2009), … (các trò chơi dân
gian của nhiều dân tộc Việt Nam lần lượt được giới thiệu trong các chương
trình tết Trung thu); trò chơi/ đồ chơi sáng tạo (dựa trên các yếu tố văn hóa
dân gian để sáng tạo): làm con giống bằng giấy bạc, giấy cuộn, gấp con
giống bằng giấy, chơi Kia - Nọ, làm đánh dấu sách theo trang phục dân tộc,
ghép vỏ sò… Việc giới thiệu đa dạng các hoạt động như thế này đã giúp công
chúng thực sự được khám phá văn hóa dân gian đa chiều, đem đến những hiểu
biết sâu sắc, đồng thời tạo điều kiện cho nhiều loại hình văn hóa dân gian được
phát triển.
Bên cạnh sự phong phú về các mảng nội dung và các dạng hoạt động,
tiêu chí đa dạng của BTDTHVN còn thể hiện qua sự tham gia của nhiều dân
tộc ở Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia trong cùng môi trường tại bảo
tàng. Đó là tết Trung thu của Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản.
Cùng là tết Trung thu nhưng sự thể hiện ở các quốc gia khác nhau đã tạo nên
sự đa dạng, phong phú. Thông qua việc giới thiệu này tạo cơ hội cho công
chúng trong và ngoài nước thấy được những nét tương đồng và khác biệt giữa
các nền văn hóa để từ đó khơi dậy niềm tự hào văn hóa dân tộc cũng như thêm
tôn trọng và yêu quí văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Đồng thời tạo
28
cơ sở tiền đề trong việc phát triển và giao lưu văn hóa với các nước trong khu
vực cũng như bước đầu tiếp cận định hướng vươn ra thế giới của bảo tàng.
Năm 2012 với chủ đề Vui cùng đồ chơi dân gian, du khách trong và nước
ngoài đã được tham gia trực tiếp làm các loại đồ chơi dân gian với sự hướng
dẫn của thợ thủ công đến từ Hội An, Bắc Ninh, Hà Nội… như làm ông tiến sỹ
giấy, ông đánh gậy, đèn ông sao, đèn kéo quân, đèn lồng hay nghe hát bài chòi
xứ Quảng… Trung thu 2011: Sắc màu biển cả đã tạo cơ hội cho công chúng
được giao lưu, khám phá văn hóa biển đảo trực tiếp với các nghệ nhân dân
gian đến từ Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Nam Định. Lần đầu tiên công chúng thủ đô
được thưởng thức hát Bả trạo của những người dân vùng biển Quảng Ngãi.
Việc trình diễn đi cà kheo có độ cao vài mét rồi còn nhảy dây, đá bóng rất
thoải mái của các bạn đến từ vùng biển Nam Định đã khiến công chúng
ngưỡng mộ tài nghệ và sự dũng cảm của họ… tết Trung thu 2010: Sắc màu
Việt - Trung đã giới thiệu DSVHPVT của một số dân tộc ở Vân Nam, Trung
Quốc. Công chúng đã tận mắt chứng kiến cách bày biện trên bàn thờ ngày tết
Trung thu của người Bạch với các loại bánh trái, đặc biệt là bánh hình mặt
trăng và các loại hoa quả đặc trưng theo mùa hay nghe các câu chuyện sự tích
gắn với tết Trung thu của hai nước có rất nhiều nét tương đồng. Sự tinh tế,
khéo léo trong nghệ thuật cắt giấy tạo hình của nghệ nhân người Di đã thể hiện
qua hàng loạt mẫu hình đầy ý nghĩa được trưng bày ngay tại bảo tàng. Khu
vực trình diễn chữ tượng hình của người Naxi đã luôn chật cứng các bạn trẻ
học viết học đọc cùng nghệ nhân Trương Văn Trường (dân tộc Naxi),… Tết
Trung thu của Nhật Bản được giới thiệu vào năm 2009 cũng để lại những dấu
ấn tốt đẹp trong lòng công chúng. Sự khéo léo của nghệ nhân dạy cắm hoa
nghệ thuật (Ikebana) đã giúp công chúng hiểu ý nghĩa và sự công phu trong
từng bước cắm hoa. Cách pha trà đạo của Nhật Bản và sự thưởng thức hết sức
cầu kỳ đã đem lại những kiến thức mới cho du khách về tinh thần cao quý
trong nghệ thuật trà đạo. Hàng trăm người cùng tham gia múa Yosakoi với các
bạn Nhật Bản đã tạo nên một hoạt động trải nghiệm tập thể vô cùng ấn tượng
và ý nghĩa. Các nghệ nhân Nhật Bản còn hướng dẫn tỷ mỉ các bước làm giấy
truyền thống từ đó giúp nhiều du khách thấy được sự tương đồng với giấy dó
29
của Việt Nam về kỹ thuật, chất liệu… Năm 2007, tại BTDTHVN đã giới thiệu
thành công về tết Trung thu của Hàn Quốc với chủ đề Ngày hội văn hóa Việt -
Hàn. Đây cũng là một trong những hoạt động để lại dấu ẩn bởi tạo được nhiều
ấn tượng với công chúng và số lượng khách đông nhất từ trước đến nay với
gần 40 nghìn khách tham gia trong 3 ngày. Tại lễ hội, điệu múa của người
nông dân (Nongga) đã thu hút hàng nghìn người xem đi xem lại bởi sự vui
nhộn, dí dỏm và hồn nhiên nhảy múa của những người “nông dân”. Múa
ganggangsulle- một điệu múa đặc trưng vào tết Trung thu của Hàn Quốc- đã
làm say mê bao du khách Việt Nam và nước ngoài khi được múa cùng nhau.
Những chiếc hộp xinh xắn, đẹp mắt do các bạn trẻ làm ngày tại bảo tàng dưới
sự hướng dẫn của các nghệ nhân đến từ Hàn Quốc đã tạo ấn tượng cho nhiều
du khách. Cách nặn bánh songpeong – bánh trung thu của Hàn Quốc- tạo nên
một trải nghiệm thú vị giúp bao công chúng Việt Nam nhận ra nét tương đồng
với bánh dẻo của Việt Nam… Các hoạt động tết Trung thu ở BTDTHVN luôn
thiết kế ở dạng mở để tạo điều kiện cho người dân địa phương (chủ thể văn
hóa) có cơ hội tự giới thiệu văn hóa đến công chúng và cũng như du khách
được trực tiếp giao lưu, trò chuyện với chủ thể văn hóa. Với sự tương tác trực
tiếp và có sự giao lưu mạnh mẽ giữa chủ thể văn hóa và công chúng đã tạo ra
một nét riêng, độc đáo trong các hoạt động của BTDTHVN. Qua hàng loạt các
hoạt động giới thiệu văn hóa của Việt Nam và các nước, bảo tàng đã thật sự
tạo ra sân chơi bổ ích giúp công chúng Việt Nam và nước ngoài hiểu biết về
văn hóa của nhau, đặc biệt nhiều người Việt Nam đã nhận diện được đặc trưng
văn hóa của dân tộc mình qua lăng kính so sánh. Điều này đã góp phần quan
trọng vào việc tăng cường, phát triển giao lưu văn hóa trong khu vực cũng như
duy trì, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân gian của Việt Nam và các
nước, đúng như trong Công ước về bảo vệ DSVHPVT năm 2003 đã đề cập
“vai trò tối quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể là yếu tố đưa nhân loại
xích lại gần nhau hơn và đảm bảo sự giao lưu hiểu biết lẫn nhau giữa mọi
người”.
Sự đa dạng còn thể hiện ngay trong bản thân ở từng dạng thức của
30
DSVHPVT như cùng là đi cà kheo nhưng lại thể hiện những tri thức về ứng xử
với môi trường tự nhiên khác nhau qua cách làm dụng cụ. Các cư dân vùng
biền thường làm cà kheo dài tới hơn 3m bởi xuất phát từ trong cuộc sống lao
động hàng ngày, cà kheo phục vụ mục đích mưu sinh, người dân dùng để đi
dưới biển bắt hải sản gần bờ như cào ngao, vớt rạm..., vừa biến chúng thành
dụng cụ chơi và trình diễn trong dịp lễ hội ở địa phương. Còn cà kheo ở vùng
núi ví như của người Hmông có chân kheo rất thấp chừng 30 - 50 cm để phục
vụ mục đích vui chơi trong lễ hội hay đôi khi để di chuyển từ nhà này sang nhà
khác và tránh được rắn rết hay thời tiết mưa bẩn … Như vậy, cùng là một loại
dụng cụ chơi nhưng mỗi dân tộc lại có những nét riêng thể hiện đặc điểm về
địa lý, ứng xử với môi trường tự nhiên, nếp sống, tri thức về sản xuất… Chính
những nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa cũng như nét đặc trưng riêng
của mỗi dân tộc đã giúp các dân tộc cùng tồn tại và phát triển. Có thể khẳng
định việc khai thác yếu tố đa dạng văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam cũng
như trên thế giới là một điểm mạnh cần quan tâm. Điều này sẽ chi phối và ảnh
hưởng đến nhận thức trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
2.1.2. Đề cao và tôn vinh vai trò của chủ thể văn hóa
BTDTHVN chủ trương coi việc tổ chức các hoạt động là những dịp để
đề cao, tôn trọng và tôn vinh vai trò của chủ thể văn hóa. Điều này được thể
hiện ở nhiều góc độ, ngay từ khâu phối hợp cùng địa phương để đưa các đoàn
đến trình diễn tại bảo tàng, chúng tôi đã luôn đưa ra tiêu chí cần mời chính các
cá nhân hoặc cả cộng đồng ở địa phương- những người đang nắm giữ hay thực
hành một loại hình di sản văn hóa nào đó. Bảo tàng luôn đóng vai trò của
người làm cầu nối/người hướng dẫn chứ không làm thay hoặc định hướng cho
người dân. Trong các hoạt động, bảo tàng chú trọng và tăng cường tổ chức
nhiều cuộc giao lưu giữa chủ thể văn hóa với công chúng. Bằng những câu
hỏi, sự gần gũi của công chúng, các chủ thể văn hóa đã tự chia sẻ các câu
chuyện của mình, của gia đình mình hay của cả cộng đồng. Thí dụ, trong dịp
tết Trung thu 2012, bên cạnh trình diễn múa lân thiên cẩu của Hội An chúng
tôi đã tổ chức cho những người dân địa phương chia sẻ câu chuyện của mình
với công chúng. Những khó khăn trong việc tập luyện, sự thiếu vắng người trẻ 31
tuổi tham gia, những kỷ niệm buồn vui trong suốt quá trình trình diễn … đã
làm rung động trái tim của công chúng. Không dừng ở những lời nói các hoạt
động giao lưu còn tạo cơ hội cho người dân trực tiếp hướng dẫn công chúng
chơi thử nhạc cụ truyền thống (trống, thanh la…), đội đầu thiên cầu và múa…
Những cuộc giao lưu thế này tạo được sự gần gũi với công chúng cũng như
tăng cường hiểu biết, khơi dậy được tình cảm của người dân với loại hình văn
hóa mình đang nắm giữ. Từ đó, góp phần quan trọng nâng cao ý thức, trách
nhiệm trong việc tôn trọng, bảo tồn, duy trì và phát triển văn hóa dân gian. Sự
đề cao, tôn trọng chủ thể văn hóa còn thể hiện qua cách làm việc với người dân
để đưa các DSVHPVT về bảo tàng giới thiệu. Rõ ràng mỗi một hiện tượng văn
hóa khi chúng ta tách ra khỏi môi trường, bối cảnh của địa phương để giới
thiệu sẽ có những tác động nhất định đối với chủ thể văn hóa. Bởi vậy,
BTDTHVN luôn nghiên cứu và cùng phối hợp với người dân tìm mọi cách để
hạn chế điều này cũng như tạo được bối cảnh gần gũi với thực tế để người dân
trình diễn. Chẳng hạn, khi giới thiệu nghệ thuật cắm hoa của Nhật Bản
(Ikebana), chúng tôi đã tìm hiểu từ người trình diễn và biết được khi cắm hoa
là nghệ thuật diễn tả tình cảm thưởng thức thiên nhiên, những sắc thái tình cảm
bộc lộ qua cung bậc màu sắc của các loại hoa và yếu tố quan trọng là thiên
nhiên. Bởi vậy, Bảo tàng đã tạo một môi trường trình diễn gần gũi thiên nhiên
để gây cảm hứng và tăng hiệu qua trình diễn. Nghệ nhân Nhật Bản đã rất hài
lòng với bối cảnh trình diễn này, họ đã thực sự thăng hoa khi hoạt động ở môi
trường tự nhiên. Công chúng cũng được thưởng thức những tác phẩm hoa rất
nghệ thuật cùng như được trải nghiệm đầy thú vị… Việc luôn tôn trọng hỏi ý
kiến chủ thể văn hóa khi định giới thiệu một loại hình văn hóa nào đó ở
BTDTHVN đã giúp chúng tôi thành công trong các hoạt động. Ngoài ra, cuối
mỗi đợt trình diễn bảo tàng luôn cấp giấy khen với ngụ ý tôn vinh vai trò của
chủ thể văn hóa và nhắc nhở họ hãy tiếp tục duy trì và phát huy các giá trị văn
hóa tại địa phương. Qua cách làm ở bảo tàng đã giúp những chủ thể văn hóa
nhận thức được giá trị, hiểu được ý nghĩa sâu sắc, cảm thấy tự hào cũng như
nâng cao trách nhiệm cần duy trì, bảo tồn và phát huy các loại hình DSVHPVT
32
mà mình đang nắm giữ.
2.1.3. Văn hóa dân gian sống được trong cộng đồng và ngược lại
Bảo tàng luôn quan niệm việc bảo tồn và phát huy các DSVHPVT
không chỉ là đề cao vai trò của cộng đồng mà còn làm thế nào để các
DSVHPVT được sống trong cộng đồng cũng như cộng đồng/ chủ thể văn hóa
phải sống được với nghề hay hưởng lợi từ nghề. Các nghệ nhân dân gian, thợ
thủ công, nghệ sỹ dân gian … là các chủ thể văn hóa- những người nắm giữ,
bảo tồn các giá trị DSVHPVT. Ở nước ta, chưa có những chính sách để đảm
bảo cuộc sống của nghệ nhân dân gian giúp họ toàn tâm toàn ý vào công việc
phát triển các giá trị văn hóa truyền thống. Vì vậy nhiều nghệ nhân đã phải bỏ
nghề, ví dụ: trước đây gần như cả thôn Ái Hậu (xã Vân Canh, huyện Hoài
Đức, Hà Nội) làm đồ chơi vào dịp tết Trung thu. Sản phẩm đặc trưng của làng
là các loại đèn ông sao, ông tiến sỹ giấy, ông đánh gậy…Nhưng hiện nay chỉ
còn một hai nhà lay lắt duy trì nghề. Hay hiện tượng tại làng Đông Hồ, Thuận
Thành, Bắc Ninh - một làng quê nổi tiếng với nghề làm tranh Đông Hồ đã đi
vào thơ ca- vậy mà tính đến nay chỉ còn hai gia đình làm nghề. Nguyên nhân
chủ yếu đều xuất phát từ việc họ không sống được với nghề, dành phải bỏ
nghề đi tìm việc khác phục vụ kế sinh nhai. Từ thực tế này, BTDTHVN đã chủ
động tìm những hướng đi phù hợp –với cuộc sống của những chủ thể văn hóa.
Với các nghề thủ công truyền thống, bảo tàng luôn duy trì một khu vực giới
thiệu và bán các sản phẩm thủ công truyền thống do chính các thợ thủ công
trong chương trình làm ra như các loại đèn Trung thu, ông tiến sỹ giấy, tàu
thủy sắt tây… Hay bảo tàng cũng tạo các hoạt động để người dân trực tiếp
hướng dẫn công chúng cách làm một sản phẩm nào đó. Bằng cách này không
chỉ giúp công chúng được trải nghiệm và thích thú khi tự tay làm dưới sự
hướng dẫn của chủ thể văn hóa mà còn góp một phần giúp đỡ người dân bán
được sản phẩm của mình. Hướng làm này không phải ai cũng ủng hộ, chẳng
hạn cũng có ý kiến cho rằng việc để cho thợ thủ công bán hàng trong bảo tàng
đó là thương mại hóa nên chăng bỏ bán hàng và chỉ mời họ trình diễn, ý kiến
khác phê phán thợ thủ công đã ngồi tại bảo tàng làm ra sản phẩm để bán thì có
33
lẽ không cũng cần việc trình diễn cách làm và hướng dẫn công chúng nữa…
Và thực tế đã trả lời điều này, khi chúng tôi đặt vấn đề với gia đình chị
Nguyễn Thị Tuyết, 49 tuổi, Hoài Đức, Hà Tây (cũ) về việc chỉ mời trình diễn
làm đèn Trung thu và không bán hàng đã gặp khó khăn. Chị Tuyết chia sẻ: “Cả
năm mới có một vụ để thêm đồng ra đồng vào cho các cháu đi học mà không
cho chị bán hàng thì chị không thể vào bảo tàng trình diễn được đâu. Chị sẽ tự
đi bán ở chợ thôi” hay gia đình nhà anh Nguyễn Mạnh Hùng ở Khương
Thượng, Thanh Xuân, Hà Nội chuyên làm tàu thủy sắt tây cũng vậy anh từ
chối ngay việc chỉ có trình diễn mà không được bán hàng… “Đối với gia đình
anh trình diễn cũng là niềm vui, vinh dự nhưng chẳng được bán hàng nghĩa là
không có thu nhập cho gia đình…” - anh Hùng chia sẻ. Trong cùng một
không gian, cùng một người thợ thủ công nhưng nếu đặt vấn đề với họ là làm
ra sản phẩm để bán họ sẽ quan tâm đến chất lượng và năng suất lao động. Vẫn
người thợ thủ công đó, vẫn không gian đó nếu chúng ta mời họ trình diễn để
công chúng hiểu các công đoạn làm ra một sản phẩm, bí quyết làm nghề, kinh
nghiệm các nhân, tri thức dân gian trong nghề, cuộc sống của người làm
nghề…sẽ tạo ra sự ảnh hưởng qua lại giữa công chúng và chủ thể văn hóa. Bởi
vì, chính từ các cuộc giao lưu, trò chuyện khi hướng dẫn làm trực tiếp này giúp
công chúng hiểu biết về con người, sản phẩm truyền thống, tri thức dân gian…
đã khiến họ tôn trọng, nâng niu di sản văn hóa, đồng thời đối với chủ thể văn
hóa khi nhận được sự quan tâm, cổ vũ từ công chúng đã khơi dậy niềm vui
trong nghề, tình yêu với nghề… Qua các hoạt động tại bảo tàng, đã có nhiều
người dân được mời đi trình diễn ở trong và ngoài nước cũng như nhận được
các hợp đồng đặt hàng. Anh Đặng Đình Hổ, 38 tuổi ở Hà Tây cũ là một ví dụ
điển hình. Là người khéo tay, yêu nghề anh Hổ đã nặn ra nhiều sản phẩm tò he
ngộ nghĩnh, đẹp mắt. Anh đã tham gia các hoạt động tại bảo tàng gần 10 năm.
Năm 2010, anh Hổ đã được BTDTHVN đưa đi Hàn Quốc trình diễn và hướng
dẫn cho du khách cách nặn tò he. Cũng qua các đợt trình diễn ở bảo tàng đã có
nhiều trường học, cơ quan đặt hàng của anh. Hay gia đình anh Nguyễn Văn
Khôi ở Hoài Đức, Hà Tây (cũ) cũng đã nhận được nhiều đơn đặt hàng làm đèn
Trung thu, ông tiến sỹ giấy cũng như mời đi trình diễn ở khắp nơi trong và
34
ngoài Hà Nội… Như vậy, với sự quan tâm và nhìn nhận vấn đề phát triển và
bảo tồn DSVHPVT gắn với lợi ích của chủ thể văn hóa đã giúp BTDTHVN có
những quan tâm, chia sẻ kịp thời với cộng đồng. Từ đó, giúp cộng đồng gắn bó
thường xuyên với nghề, với các hoạt động của bảo tàng. Sống được với nghề
là động lực giúp cộng đồng gắn bó, yêu quí nghề có nghĩa là DSVHPVT được
sống trong cộng đồng, được cộng đồng duy trì. Đây chính là cái nôi nuôi
dưỡng, phát triển các DSVHPVT tốt nhất, điều này có ý nghĩa to lớn và góp
phần quan trọng trong việc bảo tồn các DSVHPVT.
Như vậy, với các quan điểm cơ bản như chúng tôi đã trình bày,
BTDTHVN đã tạo ra những sự thay đổi lớn trong cách nhìn nhận về văn hóa
dân gian và việc khai thác các yếu tố đó trong các hoạt động của bảo tàng.
Cũng từ các quan điểm chủ đạo đó mà nhiều hiện tượng văn hóa, trong đó có
tết trung thu của Việt Nam và một số quốc gia khác đã được giới thiệu một
cách rất thành công trong không gian bảo tàng. Chúng tôi sẽ tiếp tục trình bày
kỹ hơn và tập trung vào việc giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam ở BTDTHVN ở các chương mục tiếp theo
2.2. Các tiêu chí lựa chọn giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại
BTDTHVN
2.2.1. Đặc điểm tết Trung thu ở các quốc gia
Chương trình giới thiệu văn hóa truyền thống vào dịp tết Trung thu của
BTDTHVN đã tổ chức được hơn 10 năm và trong suốt quãng thời gian đó
chúng tôi đã nhận được sự ủng hộ của báo chí, công chúng trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với Bảo tàng là làm thế nào để chương trình
luôn đổi mới và các hoạt động phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
công chúng. Một trong những yếu tố quyết định đó là việc lựa chọn các loại
hình di sản văn hóa nào để giới thiệu? Các loại di sản văn hóa đó ở đâu? Thuộc
quốc gia hay địa phương nào? BTDTHVN quyết định mở rộng hướng hoạt
động giới thiệu văn hóa các nước trong khu vực. Trước hết là lựa chọn những
35
quốc gia có những nét tương đồng văn hóa với Việt Nam. Sở dĩ chúng tôi chọn
đặc điểm này vì công chúng sẽ có cơ hội tìm hiểu những nét tương đồng và
khác biệt; dễ dàng chia sẻ hiểu biết của mình và nhận ra những giá trị văn hóa
của dân tộc mình, khêu gợi lòng tự hào dân tộc và sự tôn trọng, chia sẻ với các
nước trong khu vực. Đặc biệt, đây sẽ là cơ sở tiền đề mở rộng quan hệ giao lưu
với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản là ba quốc gia tiếp thu nhiều yếu tố
văn hóa từ Trung Quốc. Mặc dù quá trình và cách thức tiếp thu không hoàn
toàn giống nhau nhưng giữa các nước này lại có nhiều yếu tố văn hóa giống
nhau như ảnh hưởng của Nho giáo, xã hội nông nghiệp lúa gạo, thực hành một
số lễ tết, trong đó có tết Trung thu. Có lẽ từ những đặc điểm trên đã tạo nên
những nét tương đồng và khác biệt trong tết Trung thu của 3 quốc gia này. Đây
chính là đặc điểm/ tiêu chí tạo nên sự thú vị, hấp dẫn trong việc lựa chọn giới
thiệu Trung thu của 3 nước tại BTDTHVN. Trong bối cảnh hội nhập khu vực
và quốc tế, nhu cầu giao lưu, hiểu biết văn hóa lẫn nhau cũng như chia sẻ,
thông cảm cùng nhau của các nước là điều vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, trên
thực tế sự hiểu biết về quá khứ và hiện tại; đất nước và con người của các nước
trong khu vực còn hạn chế. Hiện nay, chúng ta thấy số lượng du khách từ Châu
Âu hay các nước có nền kinh tế phát triển ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore… có nhu cầu sang du lịch ở các nước đang phát triển như Việt
Nam, Lào, Campuchia ngày càng cao. Theo số liệu thống kê của BTDTHVN
trong khoảng 7 năm trở lại đây, du khách đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc liên
tục nằm trong danh sách 10 nước có lượng khách đến Bảo tàng đông nhất. Hàn
Quốc và Nhật Bản chỉ cách Việt Nam vài giờ bay, khoảng cách tuy không xa
đó nhưng không phải ai cũng có điều kiện được du lịch sang các nước đó, nhất
là những người ở Việt Nam- một đất nước có nền kinh tế còn nhiều khó khăn.
Chính vì thế, nhu cầu giao lưu văn hóa, trao đổi văn hóa giữa các nước trong
khu vực với Việt Nam và ngược lại là vô cùng cần thiết. Tại thời điểm trước
khi hướng tới những hợp tác với các nước trong khu vực, bảo tàng đã tổ chức
thành công một số hoạt động giới thiệu văn hóa của các nước trong khu vực
như “Liên hoan trò chơi dân gian Việt Nam - Nhật Bản” (2003), trưng bày
“Hanbok - Y phục truyền thống Hàn Quốc” (2004), “Đồ vải của người Thái ở 36
tiểu vùng sông Mê Công: tiếp nối và biến đổi” (2004)…Qua các hoạt động
này, chúng tôi mong muốn công chúng trong và ngoài nước nâng cao hiểu biết
về mối quan hệ đa dạng và thống nhất của các dân tộc trong khu vực. Từ
những kinh nghiệm thực tiễn, BTDTHVN nhận thấy vấn đề giao lưu văn hóa
là động lực giúp tăng cường hiểu biết để tôn trọng và chia sẻ với nhau của các
dân tộc trên thế giới nói chung và khu vực Châu Á nói riêng trong bối cảnh hội
nhập quốc tế là vô cùng cần thiết. Việc nghiên cứu tổ chức giới thiệu tết Trung
thu của 3 quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là một trong số những
hoạt động của bảo tàng có thể thỏa mãn được nhu cầu này.
Sự tương đồng văn hóa của 3 nước qua giới thiệu tết Trung thu tạo nên
hiểu biết mới, sự tôn trọng và sự chia sẻ các giá trị văn hóa của dân tộc mình
cũng như của bạn đối với các cư dân trong khu vực. Nhiều người mới chỉ biết
đến Hàn Quốc, Nhật Bản qua phim ảnh, ca nhạc, thời trang…chỉ khi đến tham
gia vào hoạt động Trung thu tại Bảo tàng họ mới hiểu thêm con người, cuộc
sống đương đại của các cư dân nơi đây. Người Hàn hay người Nhật đều tổ
chức tết Trung thu, đều làm bánh hình mặt trăng, đều cúng tổ tiên/ cúng
trăng…Về thời gian diễn ra tết Trung thu của cả 3 quốc gia đều vào ngày 15
tháng 8 âm lịch (tính theo lịch trăng), thực chất là tết cầu mùa liên quan đến
chu kỳ trồng cây lúa. Đây là dịp con người làm lễ dâng tặng đất trời, tổ tiên
những sản vật mùa thu với ước mong một mùa màng bội thu, ấm lo, hạnh
phúc. Từ đặc điểm chung này mà tên gọi của tết Trung thu dù ở nước nào cùng
đều liên quan đến mùa thu, mùa thu hoạch, ánh trăng. Ở Hàn Quốc, người ta
gọi là Chusok nghĩa là “ngày thu hoạch” hay tên gọi khác Hangawi (han là
quan trọng, gawi là giữa - một ngày quan trọng vào giữa mùa thu hay ngày
hội lớn giữa mùa thu). Ở Nhật Bản có tên gọi là Tsukimi (tsu nghĩa là trăng,
kimi là ngắm). Việt Nam gọi là tết Trung thu nghĩa là tết vào giữa mùa thu
giống như cách gọi của Hàn Quốc hay còn có tên gọi khác là tết Trông trăng
giống như cách gọi của Nhật Bản. Người ta cho rằng vào ngày này, mặt trăng
tròn nhất và sáng nhất thể hiện khoảng thời gian thịnh vượng và no đủ. Đây là
ngày dành cho tổ tiên và sự sum họp gia đình. Chính vì vậy, ngày tết Trung
thu, người ta coi trọng việc cúng ông bà tổ tiên, cầu mong và tin tưởng tổ tiên 37
phù hộ cho họ thu hoạch được nhiều thóc gạo và mùa màng bội thu. Về nguồn
gốc tết Trung thu của 3 nước cũng có nhiều nét tương đồng nên nhiều du
khách đã chia sẻ được nội dung qua các câu chuyện cùng nhau. Có nhiều tích
truyện về tết Trung thu, trong đó một số có mối liên hệ với nhau như đều có
cốt chuyện liên quan đến Thỏ Ngọc, việc đi đánh giặc vào đêm rằm… Ở Nhật
Bản, hình ảnh Thỏ ngọc đã đi vào lời bài hát “con thỏ, con thỏ. Điều gì làm
bạn vui vẻ nhảy nhót quanh trăng rằm?…”. Thỏ ngọc và mặt trăng có mối
quan hê ̣ mâ ̣t thiết gắn bó , không thể tách rờ i . Bở i vì tương truyền Thỏ ngo ̣c là răng, là biểu tượng của mặt trăng . Ngườ i ta nói hóa thân của ánh sáng mặt t
rằng “Vào đêm 15, Thỏ ngọc đã mang nh ững bông lúa đầu tiên trong năm dâng lên mă ̣t trăng… Nếu Thỏ ngọc được đặt vào những nơi có ánh sáng chiếu xuống, mặt trăng sẽ mang nó lên cung trăng” [75, tr.54]. Truyền thuyết về
ả ở Việt Nam.
“Thỏ ngo ̣c trên cung trăng” không chỉ có ở Nhâ ̣t Bản mà có c Thỏ ngọc được biết đến qua câu chuyện thật cảm động kể về sự hy sinh bản
thân nhảy vào lửa tự thui làm thức ăn cho đồng đội trong lúc hoạn nạn. Vì thế,
Thỏ ngọc được đức Phật đưa lên Cung Quảng Hàm uống thuốc trường sinh và
sống mãi mãi. Ở Hàn Quốc lại có câu chuyện truyền thuyết về tết Trung thu
gắn với điệu múa Ganggangsulle (điệu múa đặc trưng trong tết Trung thu). Đó
là, vì không đủ người chiến đấu với quân xâm lược, người chỉ huy đã nảy ra
một sáng kiến, ông đã yêu cầu tất cả phụ nữ trong vùng tới mặc trang phục như
những người lính, xếp thành hình vòng tròn và trình diễn điệu múa
Ganggangsulle trên núi dưới ánh trăng sáng. Quân địch tưởng nhầm có rất
nhiều quân chiến đấu nên đã bỏ chạy hết. Sau sự kiện này, vị tướng có sáng
kiến ấy đã trở thành anh hùng, ông tên là Lee Soon Shin. Quá vui mừng, người
dân Hàn đã đặt tên điệu múa này là Ganggangsulle. Từ đó, Ganggangsulle đã
ngày một nổi tiếng và vào mỗi dịp Trung thu người Hàn lại cùng nhau chơi trò
chơi này. Còn ở Việt Nam, sự tích hát trống quân trong tết Trung thu gắn với
câu chuyện đánh giặc của vua Quang Trung (1753 – 1792) “ Riêng về nước ta,
vị anh hùng dân tộc Quang Trung cũng đánh dấu ngày rằm tháng Tám bằng
một cử chỉ không nhuốm vẻ hoang đường, đài các nhưng vô cùng thiết thực
38
mà nên thơ, muốn cho binh sĩ theo ngài đi đánh đông dẹp bắc quên nỗi nhớ
nhung quê hương, vua Quang Trung đã cho họ trong các giờ nhàn rỗi, nhất là
các đêm có gió mát trăng thanh, cùng nhau hôi họp, để vui hát đối, một bên
nam, một bên giả nữ, vừa đánh nhịp vào một đường dây thép, căng trên một
chiếc thùng rỗng ruột. Nhân dân, thấy hay và lạ, đã bắt chước rồi áp dụng vào
cuộc tiêu khiển vào ngày hội rằm tháng Tám, mà gọi đó là “tục” “hát trống
quân”…[2, tr.145]. Nguồn gốc về tết Trung thu của 3 nước đều nhắc tới tích
truyện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc (thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn
Minh). Đó là, vào đêm trăng rằm tháng tám, cảnh đẹp, gió mát, nhà vua đã
được tiên ông đưa lên cung Quảng Hàm xem các tiên nữ múa hát. Quay về
trần gian, để kỷ niệm ngày đó nhà vua đặt ra tết Trung thu. Cũng từ tích này
mà các nước có tục uống rượu thưởng trăng. Và vì thế, ở Nhật Bản và Việt
Nam còn gọi tết này là tết Trông trăng.
Việc thờ cúng vào tết Trung thu cả 3 nước đều mang ý nghĩa cảm tạ trời
đất, cúng lễ tổ tiên hay cúng trăng để cầu mùa màng bội thu nên đều lập bàn
thờ để dâng lễ vật cúng và cầu mong. Ở Hàn Quốc bàn thờ rất to và bề thế.
Trên đó bày đủ các sản vật mùa thu với qui định chặt chẽ. Theo truyền thống
hành lễ ở Hàn Quốc, thức ăn bày trên bàn thờ chỉ là các món nướng và luộc.
Việc sắp đặt lễ vật thể hiện sự hiểu biết và khéo léo. Người ta thường bày
thành 5 hàng, tượng trưng cho 5 hướng: đông, tây, nam, bắc, trung tâm. Một số
gia đình kết hợp hàng thứ hai và thứ ba làm một nên chỉ còn 4 hàng. Thông
thường, hàng đầu tiên có táo, lê, hồng, hạt dẻ và những loại bánh làm từ gạo tẻ,
gạo nếp. Quả thường gọt vỏ sẵn hoặc cắt đi một phần ở phía trên với hàm ý để
tổ tiên có thể ăn được. Hàng thứ hai bày cá khô hoặc bạch tuộc khô và canh
rau, đặc biệt họ chú ý màu sắc của 3 loại rau: dương xỉ màu đen (biểu tượng
quá khứ, tức tổ tiên), giá đỗ màu trắng (hiện tại, con người đang sống), rau cải
màu xanh (tương lai, thế hệ trẻ). Hàng thứ ba bày canh thịt bò, thịt lợn và cá.
Hàng thứ tư có thịt lợn xiên nướng và thức ăn rán làm từ bột trộn với cải bắp,
ớt, cà tím… Hàng thứ năm đặt bài vị tổ tiên nhô cao ở chính giữa, bên cạnh là
bánh Songpeon, đôi đũa và chiếc chén để rót rượu cúng. Bài vị có ghi tên, thứ
bậc, ngày tháng năm sinh và mất của người quá cố. Nghi lễ truyền thống qui
39
định mâm cơm cúng tổ tiên thường phải xếp theo 5 hàng nhưng cũng tuỳ theo
từng vùng mà cách sắp xếp này cũng có sự khác nhau. Ở một vài vùng người
ta cúng tổ tiên những món ăn đặc sản của vùng đó như ở Andong có loại cá
mập, ở Pohang có cá heo, ở Jeolla có cá đuối … và ở mỗi một gia đình có
những cách sắp xếp mâm cơm cúng thay đổi ít nhiều. Sau khi làm lễ cúng ở
nhà, người Hàn cùng nhau ra mộ thắp hương và cúng tổ tiên. Lễ cúng và đồ
cúng ở mộ đơn giản hơn, thường chỉ có hoa quả, rượu và một ít đồ ăn.
Ở Việt Nam, tết Trung thu trước đây được cúng ở hai nơi. “Ban ngày
làm cỗ cúng tổ tiên, tối đến bày cỗ thưởng nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt giăng,
và dùng những thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc, sặc sỡ xanh đỏ
trắng vàng. Con gái hàng phố, thi nhau tài khéo, gọt đu đủ trổ các thức hoa nọ
hoa kia, nặn bột làm con tôm, con cá, coi cũng đẹp” [5, tr.24-25]. Tục cúng tại
bàn thờ tổ tiên ban ngày hiện nay có gia đình còn duy trì nhưng đồ lễ đơn giản
hơn. Thường họ chỉ cúng hoa quả và bánh trung thu. Ở một số vùng quê còn
duy trì cúng cỗ mặn có thịt, xôi, rượu…hay còn làm thêm một số loại bánh
nếp, bánh trôi, bánh chay, bánh tước… như ở Khoái Châu (Hưng Yên), Hoài
Đức (Hà Nội)… Đến tối, ở ngoài sân các gia đình bày cỗ trông trăng với đủ
thứ sản vật của mùa thu như bưởi, hồng, chuối…và không thể thiếu những cặp
bánh nướng bánh dẻo, với đủ hình thù vui mắt. Nhiều nơi còn bày biện, trang
trí vô cùng hấp dẫn, đẹp mặt. Có con chó bông làm bằng bưởi, các củ quả
được cắt tỉa thành hình những con vật ngộ nghĩnh, có cả những nhân vật hoạt
hình mà trẻ yêu thích. Một số nơi còn giữ phong tục bày ông tiến sỹ giấy trên
bàn thờ gia tiên hoặc ở bàn cỗ trông trăng với ước mong con cái sẽ học hành,
đỗ đạt hiển vinh. Ở Nhật Bản, trong ngày này họ làm bánh dango và bày lên
bàn lễ cúng trăng cùng với cành lau (susuki), hạt dẻ, khoai lang, ngô, sắn,…các
sản vật của mùa thu để cảm tạ thần linh cũng như cầu mong một vụ mùa bội
thu. Lễ vật trên bàn nhiều hay ít là tuỳ từng gia đình nhưng luôn luôn phải có
cành lau, susuki và bánh dango. Cành lau được bày với ngụ ý đánh đuổi tà ma
để có vụ mùa tốt tươi, còn bánh dango mang ý nghĩa may mắn khi được trẻ em
lấy đi. Sau khi bày lễ vật và cúng trăng họ cùng ngồi quây quần bên nhau ở
hiên nhà để ăn bánh dango, uống trà và thưởng thức vẻ đẹp của trăng. Hiện
40
nay hình ảnh này đã thay đổi, đặc biệt tại các thành phố lớn như Tokyo,
Osaka,…lễ hội ngắm trăng được tổ chức đơn giản hơn, thậm chí có nhiều gia
đình không tổ chức nữa. Qua cách bày tỏ sự cảm tạ trời đất, biết ơn tổ tiên hay
thần Mặt Trăng, sự bày biện trên các bàn thờ dù ít hay nhiều lễ vật đều có các
sản vật của mùa thu và không thể thiếu chiếc bánh Trung thu có hình mặt
trăng. Bánh của Hàn Quốc bây giờ phổ biến có hình bán nguyệt và gọi là
songpeon (trước đây có hình trăng tròn), ở Nhật Bản có bánh dango hình tròn
như mặt trăng. Còn bánh của Việt Nam gọi là bánh nướng bánh dẻo. Bánh
nướng có hình vuông, chiếc bánh dẻo màu trắng hình tròn tựa như mặt trăng
rằm. Như vậy, bánh Trung thu của các nước rất đa dạng có nhiều màu sắc như
trắng, hồng, xanh, vàng…; phong phú về hình dáng như hình lưỡi liềm hay
hình tròn song đều mang ý nghĩa tượng trưng cho hình mặt trăng hứa hẹn sự
viên mãn, tròn đầy và phát triển. Đó cũng là ước mơ của các cư dân trồng lúa.
Qua việc tìm hiểu, khám phá về những nét tương đồng trong tết Trung
thu của 3 nước đã giúp những cư dân trong khu vực thật sự hiểu nhau hơn,
xích lại gần nhau hơn. Từ đó tạo mối quan hệ gần gũi và tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị liên dân tộc. Bên cạnh những nét tương đồng trong tết Trung thu
của 3 nước còn có những nét đặc trưng văn hóa riêng của từng quốc gia. Điều
này cũng tạo ra những nét độc đáo, sự hấp dẫn đối với công chúng khi khám
phá về văn hóa của 3 quốc gia với cùng một chủ đề là tết Trung thu. Cùng là
ánh trăng trong dịp Trung thu nhưng mỗi quốc gia lại có cách cảm nhận riêng.
Ngườ i Nhâ ̣t Bản coi trăng tròn vào r ằm tháng tám v ới một cảm nhận rất đă ̣c biê ̣t không gi ống vớ i những tu ần trăng khác. Vì mặt trăng cứ khuyết lại tròn nên ngày xưa ngườ i ta coi nó như mô ̣t biểu tươ ̣ng củ a sự h ồi sinh, vĩnh cửu và điều đó đem la ̣i cho ho ̣ ý nghĩ tôn thờ mă ̣t trăng . Với người Nhật, ngắm trăng là một nghệ thuật rất cầu kỳ. Người ta thích ngắm trăng tròn trong tết Trung
thu bởi họ cho rằng nó bắt nguồn từ nghi lễ nông nghiệp tôn thờ mặt trăng như
một vị thần. Họ diễn tả mặt trăng và cảm nhận của họ khi đợi trăng lên bằng
những từ vô cùng đẹp như trăng của ngày 13 là “Shoh – mochi- zuki” (trăng
tròn nhỏ), ngày 14 là “Machiyoi – no – tsuki” (trăng tối đang đợi tròn đầy),
ngày 15 đặc biệt nhất gọi là “Mochi – zuki” (trăng tròn hay trăng được chờ
41
đợi). Có thể nói bằng việc đặt tên cho mặt trăng theo hình dáng thay đổi thể
hiện nghệ thuật hết sức cầu kỳ của người Nhật trong việc ngắm trăng cũng như
sự quan trọng của trăng trong vai trò là vị thần phù hộ cho cư dân nông nghiệp.
Với người Việt Nam, hình ảnh của trăng gắn với những mâm cỗ ngoài sân của
người lớn bày cho trẻ em để cùng trông trăng, cùng vui vẻ hay trăng được in
hình trên bánh trung thu và trên đèn trung thu. Theo kinh nghiệm dân gian Việt
Nam nếu ánh trăng trong sáng thì mùa màng sang năm sẽ bội thu, còn ánh
trăng u ám thì năm sau mùa màng không được như ý. Năm nào không có trăng
thì coi như bị mất mùa cả hai vụ… Nếu như người Việt Nam, Nhật Bản xem
trăng tròn là biểu tượng cho sự hạnh phúc viên mãn thì người Hàn Quốc lại coi
trăng khuyết mới là hình ảnh mong đợi. Theo quan niệm của họ “trăng khuyết
rồi sẽ tròn” như là sự sinh sôi, nảy nở. Và đó là lý do tại sao những chiếc bánh
Songpeong thường được nặn theo hình lưỡi liềm.
Lễ hội Trung thu (Hangawi) ở Hàn Quốc được biết đến sớm nhất là vào
triều đại vua Silla (năm 57 trước công nguyên đến năm 935 sau công nguyên),
nó có nguồn gốc từ một sự kiện đặc biệt do vua Yuri khởi xướng. Nhà vua đã
lựa chọn những người phụ nữ từ 6 tỉnh thành trên cả nước và chia họ ra thành
2 nhóm rồi tổ chức thi dệt vải. Vào ngày 15 tháng 8 âm lịch nhà vua đánh giá
kết quả của cả hai đội và sẽ xác định đội chiến thắng và đội thua cuộc. Đội bị
thua sẽ phải thết đãi đội thắng cuộc. Vào hôm đó mọi người cùng nhau ăn
uống, ca hát và nhảy múa. Tết Trung thu ở Nhật Bản được biết đến “vào nửa
đầu thời Heian (thời Bình An- thời kỳ phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật
Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến năm 1185) với tên gọi Chuhshuh - setsu
(lễ hội trung thu). Triều đình kế thừa hoàn toàn phong tục của người Trung
Quốc và coi đó là một lễ hội văn hóa trang trọng trong nghi lễ chính thức.
Ngoài nghi lễ trong triều đình, người ta bắt đầu có tục lệ O-tsukimi (lễ hội
trăng thu) để tỏ sự tôn kính trăng như một vị thần trong thời Muromachi (thời
đại Thất Đinh- thời kỳ đánh dấu sự thống trị của Mạc phủ Ashikaga từ năm
1336 đến năm 1573)” [75, tr.53]. Bắt đầu từ thời kỳ này phong tục ngắm trăng,
làm lễ dâng thần trăng đã lan ra những người dân thường. Vốn bắt nguồn từ
42
nghi lễ nông nghiệp nên người ta dâng lễ vật lên thần trăng để cầu mùa màng
tươi tốt. Lễ vật gồm có cành lau (suzuki) với ngụ ý để tránh tà ma, những củ
khoai sọ và sau này có thêm bánh dango làm bằng bột gạo. Hiện nay, có
những nơi dâng cả khoai sọ, bánh dango và cành lau nhưng có nơi lại làm bánh
dango theo hình củ khoai sọ như ở Kyoto, Osaka. Riêng về lễ vật bằng khoai
sọ có giải thích “Ban đầu, khoai sọ, nguồn thức ăn chủ yếu vào thời đó đã
được dâng lên trong lễ O-tsukimi. Khi việc trồng lúa trở nên phổ biến khắp
nước Nhật, người ta đã cầu mong có những vụ lúa tốt hơn vụ khoai sọ. Họ bắt
đầu dâng cúng bánh dango làm bằng bột gạo và bánh hình những củ khoai sọ”.
84, tr54]. Cành lau (susuki) được dâng cúng với ngụ ý thay thế cây lúa “Những
cây lúa mới lớn còn quá non vào dịp trung thu (O-tsukimi), và cành lau
(susuki) trông giống cây lúa hay những nhánh lúa dâng cúng lên Yorishiro (cột
trụ chỉ dẫn) cho các vị thần đến. Cây lau (susuki) sống quanh năm và có họ với
cây lúa trong thực vật học. Thời xưa, người ta cho rằng cây lau có sức mạnh
ma thuật. Lúc cắt cành lau sẽ bị đau nếu chạm vào những đường viền sắc ở
thân và lá. Vì thế, cây lau được coi là có sức mạnh bảo vệ mùa màng khỏi
những tai họa” [84, tr.54]. Ở Việt Nam, ngoài việc đề cập tết Trung thu có
nguồn gốc từ thời nhà Đường ở Trung Quốc (vua Duệ Tôn) còn có giải thích
dựa vào văn bia chùa Đọi ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (năm
1121) từ thời nhà Lý (1009 - 1225). Tết Trung thu được chính thức tổ chức ở
kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn.
Đến đời Lê - Trịnh thì tết Trung thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ
Chúa điều này đã được miêu tả trong “Tang thương ngẫu lục”. Còn theo các
nhà khảo cổ học thì tết Trung thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, từng được
khắc trên trống đồng Ngọc Lũ có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập
trung hoa văn phong phú nhất. Nghiên cứu về nguồn gốc tết Trung thu, theo
học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông
người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ
quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối
tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và
dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi
43
lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ
chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân
gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Việt Nam là một nước nông nghiệp nên
vào dịp tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, cũng là lúc được thảnh
thơi nên người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi tết Trung thu. Một nét đặc
sắc nữa trong tết Trung thu đó là hệ thống các câu chuyện truyền thuyết/ sự
tích liên quan. Đa số các tích chuyện đều bắt nguồn từ Trung Quốc và lý giải
nguồn gốc của tết Trung thu hay các tục lệ, trò chơi, hình ảnh liên quan như
múa lân, múa sư tử, rước đèn, thỏ ngọc…Tuy nhiên, khi tiếp thu các yếu tố
văn hóa này mỗi quốc gia lại có những sáng tạo riêng phản ánh tinh thần, bản
sắc của mỗi dân tộc. Nếu ở Trung Quốc có chuyện liên quan đến Ngô Cương
làm nhiều điều bậy ở chốn tiên cung nên bị Ngọc Hoàng tức giận đày xuống
cung trăng để bóc vỏ cây Đan quế. Và để người trần nhìn thấy vào đêm trăng
bóng hình lúi húi ở gốc cây. Đến Việt Nam hình ảnh này lại biến thành Thằng
Cuội ngồi gốc cây đa. Và hình ảnh này đã đi vào ca dao: “Thằng Cuội ngồi
gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời! Cha còn cắt cỏ trên trời. Mẹ còn cưỡi
ngựa đi mời quan viên.” Thằng Cuội của Việt Nam gắn với hình ảnh một kẻ
nói dối như dân gian vẫn ví “nói dối như Cuội”. Cuội chuyên gia nói dối và đã
lừa được một lão trượng cho cây Đa thần có thể dùng lá chữa người chết sống
lại. Nhưng do cô vợ không cần thận đã vi phạm điều thiêng tưới nước tiểu vào
cây làm cây bay lên trời. Đúng lúc Cuội nhìn thấy tiếc quá đã lấy cuốc móc
vào cây và cùng bay lên cung Quảng Hàm. Từ đó dân gian có tục cho trẻ phá
cỗ trông trăng, trông Cuội vào đêm rằm tháng Tám. Ở Nhật Bản có chuyện thỏ
ngọc gắn với truyền thuyết thỏ là một đặc sứ của mặt trăng. Nó mang vụ lúa
đầu tiên trong năm dâng lên mặt trăng vào đêm rằm tháng Tám. Và hình ảnh
thỏ ngọc ở Nhật đã thay đổi trở thành con thỏ giã bột trong cối để làm bánh
dango ở trên cung trăng. Còn ở Hàn Quốc cũng có câu chuyện riêng như tướng
quân nhờ mọi người múa Ganggangsulle khiến quân Nhật tưởng đông binh
lính nên bỏ chạy hay vua Yuri tổ chức thi dệt cho hai đội trong 1 tháng. Đội
nào dệt được nhiều quần áo hơn sẽ thắng và có thể quyết định trừng phạt cho
đội thua. Vậy nên, cho đến ngày nay, một số cuộc thi dệt ở Hàn Quốc vẫn
44
được tổ chức vào ngày tết này…
Trải qua quá trình giao lưu, hội nhập và phát triển mỗi quốc gia đã có
những biến đổi khác nhau trong việc tổ chức, gìn giữ những thói quen, nếp
nghĩ, phong tục tập quán trong dịp tết Trung thu. Với Việt Nam, tết này dân
dần trở thành ngày tết dành cho trẻ con. Những gia đình giữ nếp làm cỗ cúng
gia tiên không còn nhiều. Chủ yếu vào dịp tết Trung thu, ông bà cha mẹ bầy
cỗ, tổ chức rước đèn cho các con, các cháu để cùng nhau đón trăng rằm. Thời
điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ xem múa lân, sư tử, rước đèn, múa hát, ngắm
trăng phá cỗ. Cỗ đón tết Trung thu không thể thiếu bánh nướng bánh dẻo, các
loại bánh kẹo khác và trái cây theo mùa. Đây cũng là dịp cha mẹ, ông bà thể
hiện sự quan tâm đến con cái bằng những món quà đầy ý nghĩa như đèn Trung
thu, đèn lồng, trống con, trống bỏi… Cũng trong dịp này người ta mua bánh
Trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ
hàng… Thay vì tổ chức đón tết Trung thu như trước đây theo từng gia đình
hoặc nhóm gia đình, hiện nay rất nhiều nơi có xu hướng tổ chức tết Trung thu
cho trẻ con theo cụm dân cư, các cơ quan, các công ty, trường học… Ở Nhật
Bản, trước đây và bây giờ Trung thu đã có nhiều thay đổi. Trước đây, họ
thường tổ chức tết Trung thu vào ngày 15 tháng 8 âm lịch còn hiện nay đã ở
các thành phố lớn gần như không còn tổ chức tết Trung thu mà quan tâm tới
các ngày lễ theo lịch phương Tây như ngày Giáng Sinh, Tết Dương lịch…Tuy
nhiên, ở một số vùng nông thôn Chiba, Ibaraki, Kamawa, Kumamoto…, tết
Trung thu vẫn được duy trì vẫn còn các gia đình tổ chức tết Trung thu. Ngày
tết Trung thu ở Hàn Quốc coi trọng việc cúng ông bà tổ tiên thể hiện qua việc
thực hành nghi lễ Chare (lễ cúng tổ tiên). Họ cầu mong và tin tưởng tổ tiên
phù hộ cho họ thu hoạch được nhiều thóc gạo và hoa quả. Những hoạt động
của các gia đình chuẩn bị cho tết Trung thu cũng tập trung chủ yếu vào việc
chuẩn bị để làm lễ cúng tổ tiên. Như vậy, có thể nói, dù tết Trung thu ở quốc
gia nào, cách thức duy trì và hành lễ ra sao thì bức tranh về tết Trung thu của 3
quốc gia vẫn thể hiện rõ những nét văn hóa tương đồng và khác biệt. Chính vì
thế mà việc giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia trong bối cảnh giao lưu văn
hóa, hội nhập quốc tế sẽ giúp công chúng nói chung và các cư dân Châu Á nói
45
riêng hiểu về lịch sử, văn hóa, cuộc sống đượng đại của nhau hơn. Từ đó, các
dân tộc xích lại gần nhau, chia sẻ với nhau nhiều hơn, củng cố tình thần đoàn
kết dân tộc và liên dân tộc.
2.2.2. Các đối tác phối hợp tổ chức
Trong chiến lược vươn ra thế giới, trước hết là khu vực lân cận Việt
Nam như các nước ở Đông Nam Á và Đông Á, đồng thời thể hiện trách nhiệm
xã hội trong việc đáp ứng nhu cầu của công chúng cũng như định hướng các
nhu cầu đó, BTDTHVN đã chủ động tìm hiểu và kết nối với các bảo tàng,
Trung tâm Văn hóa ở Việt Nam và nước ngoài để lần lượt giới thiệu các di sản
văn hóa của các dân tộc tại Việt Nam và các nước. Trong số các đối tác của
BTDTHVN phải kể đến Hàn Quốc, Nhật Bản và các tỉnh địa phương ở Việt
Nam. Sự phối hợp với các đối tác chỉ thành công khi chúng ta tìm được những
địa chỉ có cùng nhu cầu, mục đích, mong muốn trong công tác gìn giữ, bảo tồn
và phát huy các giá di sản văn hoá phi vật thể. Vì thế, bên cạnh việc lựa chọn
đúng quốc gia cần tìm hiểu và lựa chọn được những cơ quan đáp ứng những
tiêu chí như: có chủ trương bảo vệ di sản văn hóa dựa trên những qui định/bộ
luật bảo vệ di sản văn hóa, có kinh nghiệm, có chuyên môn, có khả năng kết
nối cộng đồng tốt, sẵn sàng hợp tác và ủng hộ hết lòng.
Về đối tác nước ngoài, chúng tôi đã lựa chọn Bảo tàng Dân gian quốc
gia Hàn Quốc (NFMK) trong chương trình Trung thu 2007: Ngày hội văn hóa
Việt - Hàn, Bảo tàng Quốc gia Kyushu, Nhật Bản trong chương trình Trung
thu 2009: Sắc màu Việt - Nhật. Cả hai đối tác này đều nằm trong hệ thống bảo
tàng quốc gia và ở những nước rất phát triển trong khu vực. Họ đã có những
chính sách bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể rất hiệu quả và đã được khẳng
định bằng thực tế. Ở Hàn Quốc, Luật Bảo vệ Di sản văn hóa được Chính phủ
Hàn Quốc thông qua từ năm 1962 đã tạo cở sở pháp lý cho chương trình bảo
tồn văn hóa. Ở Nhật Bản cũng thiết lập một bộ Luật về Tri thức cổ truyền và
Các biểu hiện văn hóa. Như vậy, các nước đều có những bộ luật để triển khai
46
việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa rất cụ thể, mang tầm vóc
khu vực. Các bộ luật này chính là công cụ pháp lý hữu ích giúp những người
làm công tác bảo tàng, bảo tồn có thể triển khai tốt các hoạt động.
Bên cạnh việc có các bộ luật, qui định rõ ràng về việc bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa, các bảo tàng tham gia phối hợp tổ chức hoạt
động với chúng tôi có mối quan hệ với cộng đồng chặt chẽ, có kinh nghiệm, có
chuyên môn cao… Bảo tàng Dân gian Quốc gia Hàn Quốc quản lý rất nhiều
hoạt động giới thiệu di sản văn hóa, họ thường xuyên duy trì các hoạt động tại
bảo tàng cũng như tại địa phượng. Tất cả các buổi thứ bẩy, chủ nhật hằng tuần
đều có trình diễn nghệ thuật dân gian tại bảo tàng. Đây là cơ sở giúp chúng tôi
dễ dàng lựa chọn một số loại hình nghệ thuật đưa sang Việt Nam trong tết
Trung thu như múa của người nông dân (nongga). Hay bảo tàng thường xuyên
có lớp học về nghề thủ công truyền thống như dạy làm hộp giấy truyền thống
(Hanji), làm búp bê truyền thống, làm quạt, làm diều, làm mặt nạ… Từ hoạt
động này, chúng tôi đã lựa chọn được trình diễn cách làm hộp giấy truyền
thống (Hanji), làm diều, làm mặt nạ giới thiệu ở Việt Nam. Bảo tàng này cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng, họ có những chương trình lưu động
đến địa phương như bảo tàng lưu động (dạng xe bus) đưa đến các vùng ngoại ô
để công chúng xem tự do và khám phá về văn hóa của Hàn Quốc. Ngoài ra, họ
thường xuyên có những chuyến đi với người địa phương khảo sát triển khai
hoạt động trình diễn dân gian… nên việc mời những người địa phương tham
gia vào hoạt động giới thiệu văn hoá dân gian cũng rất thuận lợi. Bảo tàng
Quốc gia Kyushu, Nhật Bản có cơ sở pháp lý của những bộ luật đảm bảo để
triển khai việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa qua rất hiệu quả.
Họ có những chuyên gia cho từng lĩnh vực nên việc phối hợp từ trưng bày đến
hoạt động công chúng trong dịp tết Trung thu rất chuyên nghiệp thể hiện
chuyên môn cao và sự nhiệt tình của đối tác. Mỗi nhóm đều có một cá nhân
chịu trách nhiệm về nội dung trình diễn. Chẳng hạn, việc triển khai hoạt động
trình diễn các bước làm giấy của Nhật Bản rất cầu kỳ, đòi hỏi kỹ thuật cao, các
dụng cụ để thực hiện phức tạp. Nhóm này đã cử hai chuyên gia của bảo tàng
47
chuyên trách trình diễn kỹ thuật làm giấy và hướng dẫn cho khách cách làm
các sản phẩm từ giấy truyền thống. Mỗi sản phẩm du khách làm ra họ đều theo
dõi, hướng dẫn tỉ mỉ từ bước đầu tiên cho đến cuối cùng. Ngoài ra, họ còn phối
hợp với chúng tôi mời các nghệ nhân dân gian trình diễn cắm hoa và trà đạo.
Nhờ các mối quan hệ và làm việc với địa phương, các trung tâm văn hóa chặt
chẽ nên các nghệ nhân đã đến trình diễn và giao lưu với khách đúng như cách
làm của BTDTHVN và đạt hiệu quả. Các nghệ nhân đã được nâng cao vai trò,
thể hiện giọng nói của chủ thể văn hóa qua chia sẻ những tri thức dân gian,
kinh nghiệm trong nghề, câu chuyện của cá nhân, gia đình đến công chúng.
Công chúng đã trực tiếp tham gia các hoạt động dưới sự hướng dẫn của nghệ
nhân dân gian, được tự tay làm ra những sản phẩm/ tác phẩm một cách thích
thú và chủ động.
Về đối tác Việt Nam, chúng tôi chủ yếu chọn lựa các bảo tàng và trung
tâm văn hóa ở địa phương (thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh). Mỗi
chương trình chúng tôi lựa chọn các đối tác khác nhau với mong muốn lần lượt
giới thiệu các di sản văn hóa của địa phương đến công chúng trong và nước
ngoài. Trung thu năm 2012 với chủ đề Vui cùng đồ chơi dân gian, chúng tôi đã
làm việc với Trung tâm văn hóa Hội An. Trung thu 2011: Sắc màu biển cả
chúng tôi phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi…
Đây cũng là những địa chỉ duy trì, giới thiệu các trình diễn dân gian, văn nghệ
dân gian thường xuyên cũng như có mối quan hệ khăng khít với địa phương,
với cộng đồng. Điều thuận lợi là các đối tác dù ở Hội An, Quảng Ngãi hay bất
cứ đâu đều hợp tác rất nhiệt tình bởi cùng chung mục đích bảo tồn các giá trị
văn hóa dân tộc nên chúng tôi đều khai thác được các thế mạnh của địa
phương để đem tới công chúng trong và ngoài nước những nét văn hóa đặc sắc
của mỗi vùng. Đồng thời, chúng tôi cùng nhau giúp người dân địa phương
(chủ thể văn hóa) tự nhận diện được giá trị văn hóa của mình, nâng ý thức bảo
vệ di sản văn hóa đó và tôn trọng di sản văn hóa của nước bạn.
Qua việc lựa chọn phối hợp với các đối tác trong và ngoài nước để tổ
chức hoạt động giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam
BTDTHVN nhận thấy vai trò của các đối tác là rất quan trọng. Việc thành 48
công hay thất bại phụ thuộc nhiều vào sự lựa chọn được đối tác ra sao. Bởi
vậy, việc tìm hiểu và lựa chọn các đối tác phối hợp, nhất là đối tác nước ngoài
là một yếu tố rất quan trọng. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của một
chương trình hoạt động.
2.2.3. Nội dung giới thiệu
Dựa trên quan điểm khai thác đa dạng các hoạt động, làm nổi bật những
nét tương đồng và khác biệt của địa phương/ quốc gia; nhấn mạnh nét đặc sắc
của vùng miền để phản ánh văn hóa, cuộc sống đương đại của các dân tộc,
BTDTHVN chủ trương khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong hoạt động
giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam theo các tiêu chí
sau
Thứ nhất, lựa chọn các nội dung gắn kết và thể hiện nét đặc trưng trong
tết Trung thu của mỗi địa phương/ quốc gia. Tết Trung thu của Hàn Quốc
(2007) đã được tiến hành nghiên cứu tại địa phương, chúng tôi tham dự tết
Trung thu tại một gia đình ở Andong, tỉnh Gyeongsangbuk. Từ những tư liệu
nghiên cứu tại thực địa, những cuộc điều tra, phỏng vấn người dân và làm việc
với Bảo tàng Dân gian Quốc gian Hàn Quốc, chúng tôi đã lựa chọn và giới
thiệu tết Trung thu qua 3 chủ đề trong trưng bày. Chủ đề nghi lễ ẩm thực
không chỉ cho người xem tìm hiểu về các món ăn đặc trưng trong ngày tết
Trung thu mà còn giúp công chúng hiểu ý nghĩa của các loại đồ ăn. Ngoài ra,
qua góc trưng bày bàn để đồ lễ du khách còn tìm hiểu cách tiến hành làm lễ
của người Hàn. Lễ cúng trong ngày tết Trung thu ở Hàn Quốc gọi là lễ Chare.
Đây là nghi lễ quan trọng nhất của tết Trung thu nhằm cảm ơn tổ tiên phù hộ
cho mùa màng tươi tốt và cầu xin phù hộ những điều tốt lành trong tương lai.
Lễ Chare diễn ra vào sáng sớm, thường là ở nhà người con trai cả, với sự có
mặt của tất cả các thành viên trong dòng họ, do một người đàn ông lớn tuổi
nhất chủ trì. Trên bàn thờ bày biện nhiều loại thức ăn và hoa quả. Mọi người
mặc trang phục truyền thống (Hanbok) hoặc quần áo mới, quì xuống phía
49
trước bàn thờ để lạy và khấn mời tổ tiên thụ hưởng đồ ăn thức uống. Thông
thường, việc hành lễ được thực hiện lần lượt từ anh, vợ của anh, rồi đến em, vợ
của em... Ba người làm lễ đầu tiên chính là những người có trách nhiệm thờ
cúng tổ tiên. Lời khấn có thể đọc theo văn bản, hoặc nói mộc mạc những điều
họ suy nghĩ và mong muốn. Làm lễ Chare xong, những người đàn ông cùng
nhau ăn uống (một bữa ăn nhỏ) ngụ ý là ăn uống với tổ tiên. Buổi trưa mới đến
bữa ăn của cả gia đình. Ăn uống xong, họ đem thức ăn, rượu và hoa quả ra mộ
cúng tổ tiên. Nhắc đến, tết Trung thu Hàn Quốc không thể không nhắc đến
bánh songpeon- một loại bánh đặc trưng của tết này. Bánh songpeon với người
Hàn Quốc cũng quan trọng như bánh dẻo, bánh nướng với người Việt. Bánh
được làm từ bột gạo tẻ mới và có nhân thập cẩm gồm hạt dẻ, đậu đỏ vụ mới,
vừng, đường hoặc mật ong. Trước kia, bánh có hình vầng trăng tròn, gửi gắm
mong uớc về sự no đủ cho gia đình và cộng đồng. Ngày nay, nhiều gia đình
làm bánh hình bán nguyệt và nhỏ hơn, bởi họ cho rằng cuộc sống đã đầy đủ,
nên chiếc bánh cần làm xinh xắn và vừa miệng. Đôi khi bánh cũng được thay
đổi hình thức hoặc mùi vị cho phù hợp với sở thích riêng. Các địa phương,
thậm chí các gia đình, có những cách làm bánh songpeon khác nhau. Nhưng
điều quan trọng nhất là bánh phải đẹp. Ở Hàn Quốc có câu: "Người phụ nữ
làm được những chiếc bánh đẹp sẽ lấy được người chồng tốt và đẻ ra những
đứa con xinh xắn". Chủ đề thứ 2 giới thiệu Trang phục Hanbok ngày tết Trung
thu. Ở Hàn Quốc, trang phục truyền thống gọi là Hanbok, dùng mặc trong các
dịp đặc biệt như: đứa trẻ tròn 1 tuổi, đám cưới, đám ma, tết năm mới theo âm
lịch, tết Trung thu… Trước kia, Hanbok may cầu kỳ và có sự phân chia theo
đẳng cấp xã hội, giới tính, độ tuổi của người mặc. Ngày nay, Hanbok may đơn
giản, thường không có túi và ít hoa văn, nhưng đa dạng về chất liệu và màu
sắc; sự phân biệt kiểu cách chủ yếu tuỳ thuộc chức năng sử dụng. Vào dịp tết
Trung thu, ở khắp nơi người ta mặc Hanbok với những màu sắc và kiểu dáng
khác nhau. Bộ Hanbok của nữ giới gồm một chiếc váy (chima) và một áo ngắn
(jeogori); của nam giới gồm một áo ngắn (jeogori), một chiếc quần rộng dài
đến mắt cá chân (baji). Trang phục trẻ em cùng kiểu dáng như của người lớn
nhưng kích cỡ nhỏ và thường sặc sỡ hơn. 5 màu: trắng, vàng, đỏ, xanh và đen
50
trên Hanbok tương ứng với 5 hướng: đông, tây, nam, bắc và trung tâm. Cứ mỗi
dịp tết Trung thu đến, trẻ em Hàn Quốc lại được sắm những bộ trang phục
mới, trong đó có bộ Hanbok. Người Hàn Quốc thích trang trí trên Hanbok trẻ
em các màu đỏ, vàng, hồng, xanh, tay áo thường có sắc cầu vồng. Họ tin rằng
trẻ em mặc Hanbok sẽ được bảo vệ để tránh ốm đau, bệnh tật và những điều
xấu. Những bộ Hanbok mới của trẻ em là một sắc thái tết Trung thu ở Hàn
Quốc. Chủ đề thứ 3 dành giới thiệu các trò chơi dân gian của Hàn Quốc. Ở
Hàn Quốc có khoảng 200 trò chơi dân gian, chủ yếu chơi vào những dịp tết
theo phong tục cổ truyền: tết năm mới âm lịch (Seolnal), rằm tháng Giêng
(Daeboreum), Đoan ngọ (Dano), tết Trung thu (Chuseok)… Ở Hàn Quốc, lễ
hội chủ yếu liên quan đến nông nghiệp; trò chơi dân gian cũng mang dấu ấn
của các tập quán nông nghiệp, gắn với chu kỳ canh tác, từ cày cấy, gieo hạt
cho đến thu hoạch, và thường nhằm cầu mong mùa màng bội thu. Trò chơi có
thể chia thành 4 nhóm: trò chơi giải trí, trò chơi mang tính nghi lễ, trò chơi cá
nhân mang tính hài hước, trò chơi tập thể mang tính trình diễn theo định kỳ.
Trong dịp tết Trung thu, người Hàn Quốc thích chơi nhiều trò chơi dân gian
khác nhau: nhảy bập bênh, kéo co, đánh quay, đấu vật, ném gậy vào lọ (toho),
yut, phổ biến và đặc trưng nhất là múa vòng tròn dưới ánh trăng (gangangulle).
Ganggangsulle là một điệu múa kèm với bài hát ngắn chỉ dành riêng cho phụ
nữ. Những người tham gia điệu múa sẽ hòa vào đoạn điệp của ca khúc như
một trò chơi khi người trưởng trò hướng dẫn họ ở đoạn cao trào của bài hát.
Để tăng phần cuốn hút, người ta xen thêm một số điệu nhảy truyền thống gắn
với các hoạt động hàng ngày như trò bắt rùa, tìm lá dương xỉ dại, cá rán, chạy
qua mái nhà, cuốn đệm rơm, cắt đuôi cá, may vá…Điệu múa này góp phần gắn
kết cộng đồng và tăng niềm vui sau những ngày lao động mệt nhọc. Dần dần
ganggangsulle đã trở thành một hình thức giải trí cho phụ nữ tuy nhiên bây giờ
điệu múa này cùng không còn phổ biến lắm.
Đối với tết Trung thu của Nhật Bản, chúng tôi đã nghiên cứu và
phỏng vấn nhiều người dân ở những vùng miền khác nhau cũng như làm việc
với Bảo tàng Kyushu của Nhật Bản để xác định nội dung giới thiệu với công
51
chúng ở Việt Nam. Đó là, bàn thờ cúng trăng trong ngày tết Trung thu. Bàn
thờ có bánh dango, cành lau (suzuki), hạt dẻ, khoai lang, khoai môn, sắn…
Chủ yếu là các sản vật của mùa thu được bày trang trọng bên hiên nhà hoặc
cạnh cửa sổ để bày tỏ lòng thành kính, cảm tạ thần linh và cầu mong mùa
màng bội thu. Cành lau (susuki) tượng trưng cho cành lúa và ngụ ý đánh đuổi
những điều xấu để có vụ mùa tốt tươi. Cúng xong, họ ngồi quây quần ở hiên
nhà và ăn bánh dango, uống trà, ngắm trăng. Nói đến tết Trung thu của Nhật
không thể không nhắc đến bánh dango - một loại bánh làm từ bột gạo. Chúng
tôi trưng bày cách làm và mời người giới thiệu cách làm bánh dango. Bánh
được làm từ bột gạo (nửa tẻ, nửa nếp). Cách làm tương tự như làm bánh trôi
của Việt Nam. Chỉ khác khi ăn chấm bánh vào bột đậu (kinako), bột trà xanh,
hoặc mứt đậu… tùy sở thích từng người. Theo kinh nghiệm dân gian thêm một
chút đường và muối vào bột đậu thì bánh sẽ ngon hơn. Người Nhật thường ăn
bánh dango khi ngắm trăng tết Trung thu, kết hợp với uống trà.
Đối với tết Trung thu ở Việt Nam, BTDTHVN đã tổ chức nhiều
chuyến điền dã, nghiên cứu, tổ chức trưng bày và hoạt động giới thiệu tết
Trung thu đến công chúng Việt Nam và nước ngoài. Mở đầu là trưng bày “ Tết
trẻ em” (1999) gồm ba phần: Trung thu xưa và nay; Trẻ em Dao, Hmông ở Sa
Pa và những chiếc mũ; Lan Châu và trẻ em cơ nhỡ. Riêng phần trưng bày
Trung thu xưa và nay đã giới thiệu đến công chúng một số loại đồ chơi như
đèn con thỏ, ông sao, con cá, kéo quân, ông tiến sỹ giấy, ông đánh gậy dưới
trăng, mặt nạ, tò he, đồ chơi bằng sắt tây… Cuộc trưng bày đã giúp du khách
hiểu được một phần về tết Trung thu dưới góc độ đồ chơi của trẻ em. Từ đây
đã gợi ý cho bảo tàng hướng giới thiệu đa dạng, sâu rộng phản ánh các khía
cạnh khác nhau trong tết Trung thu cũng như phát triển quan điểm tôn trọng,
nâng cao vai trò của chủ thể văn hóa bằng việc sử dụng giọng nói của chủ thể
văn hóa trong trưng bày (đây là trưng bày đầu tiên bảo tàng sử dụng các câu
trích của chủ thể văn hóa) cũng như trong hoạt động trình diễn giao lưu trực
tiếp với công chúng… Trải qua hơn một chục năm, nghiên cứu, tổ chức trưng
bày, tổ chức hoạt động trình diễn giới thiệu tết Trung thu, BTDTHVN đã làm
52
đa dạng, phong phú thêm nội dung từ giới thiệu các nghi lễ truyền thống qua
mâm ngũ quả đến các đồ chơi dân gian hay món ăn đặc trưng trong ngày tết
Trung thu của người Việt đã lần lượt được giới thiệu tại đây. Với người Việt,
tết Trung thu vốn dịp để người dân làm lễ dâng cúng ông bà tổ tiên ước mong
mùa màng bội thu và vạn vật sinh sôi nảy nở. Điều này thể hiện mong ước của
tất cả những cư dân làm nông nghiệp và ở Hàn Quốc hay Nhật Bản cũng mang
ý nghĩa sâu xa này. Vào dịp tết Trung thu người Việt có truyền thống làm cỗ
cúng tổ tiên ban ngày và ban tối bày cỗ trông trăng cho trẻ con. Bên cạnh mâm
ngũ quả dâng lên tổ tiên ngày tết Trung thu, mâm quả để trẻ con phá cỗ đêm
rằm cũng là một nét đẹp riêng trong văn hóa Việt Nam. Mâm cỗ thường được
cha mẹ bày đẹp mắt với đủ các sản vật mùa thu như bưởi, chuối, hồng đỏ,
hồng ngâm, na, cốm… rồi bánh nướng, bánh dẻo và vô vàn các loại quà mà trẻ
con yêu thích như bim bim, kẹo hình các con vật… Các bà, các mẹ khéo tay
thường làm con chó bằng bưởi hay các con vật ngộ nghĩnh từ củ quả… Trong
mâm cỗ Trung thu không thể thiếu ông tiến sỹ giấy. Ông mặc áo vua ban, đội
mũ cánh chuồn ngồi uy nghi trên kiệu có lọng che. Theo dân gian, ông tiến sĩ
là biểu tượng cho việc học hành đỗ đạt nên thường đặt trang trọng ở chính giữa
hoặc chỗ cao nhất trong mâm cỗ Trung thu. Sau khi “phá cỗ trông trăng”, ông
tiến sĩ được trẻ em rước quanh làng vừa để trẻ vui chơi, vừa mang ý nghĩa giáo
dục trẻ em có ý thức chăm chỉ học hành để đỗ đạt, thành tài như ông. Cuối
cùng người ta đặt ông lên bàn thờ hoặc đem hóa để cầu mong mọi việc được
linh nghiệm. Thông qua hình ảnh ông tiến sỹ giấy thể hiện ước mong con cái
học hành đỗ đạt của ông bà cha mẹ đối với con cháu. Đằng sau ông tiến sỹ
thường có hai ông đánh gậy buộc ở hai bên ngai của ông tiến sĩ (loại to), mô
phỏng lại đám rước ông tiến sĩ vinh quy bái tổ (Thanh Oai, Hà Nội). Song, có
nơi lại coi đây là con rối và thường buộc hai ông đánh gậy dưới ánh trăng treo
ở nơi có gió sẽ chuyển động rất vui mắt (Hoài Đức, Hà Nội). Cùng với các
nghi lễ cúng tổ tiên, thưởng trăng và ông tiến sỹ giấy, các loại đồ chơi dân gian
là yếu tố văn hóa quan trọng tạo nên nét đặc trưng trong tết Trung thu của Việt
Nam. Đa số các loại đèn cho trẻ em chơi vào dịp rằm tháng Tám đều gắn với
một tích truyện nào đó, mang ý nghĩa giáo dục như: đèn cá chép gắn với
53
truyền thuyết cá chép vượt Vũ môn hoá Rồng thể hiện tinh thần vượt khó, ý
chí bền bỉ; đèn thỏ ca ngợi tấm lòng từ bi và sự hy sinh cao cả; đèn ông sao gợi
nhớ cuộc Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945… Đèn ông sao rất phổ
biến trong dịp Trung thu. Có một số ý kiến cho rằng, đèn ông sao trước năm
1945 có 6 cánh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, mọi người
đều chuyển sang làm đèn sao 5 cánh và có cờ đỏ sao vàng cắm trang trí trên
đèn có lẽ thể hiện lòng tự hào dân tộc. Chiếu đèn kéo quân cũng rất được ưa
dùng trong dịp rằm tháng tám, có những câu chuyện khác nhau kể về đèn kéo
quân nhưng phổ biến là chuyện liên quan đến anh nông dân nghèo tên là Lục
Đức (theo tích truyện của Trung Quốc). Nhờ một giấc mơ gặp ông tiên dạy
cách làm đèn kéo quân hết sức ý nghĩa để dâng vua vào dịp tết Trung thu mà
anh đã được trọng thưởng và dân gian lưu truyền chiếc đèn cho đến ngày nay.
Chiếc đèn kéo quân đến Việt Nam đã có sự biến đổi phù hợp với người Việt.
Cây đèn kéo quân dành cho trẻ em chơi vào dịp Trung thu có ý nghĩa giáo dục
giáo dục lòng yêu nước, nhắc nhở về lịch sử anh hùng của cha ông nên hình
ảnh trên cây đèn thường nói về việc nghĩa, về những đoàn quân lính xung trận.
Sau này người ta mở rộng nhiều chủ đề khác như vinh qui bái tổ, tứ linh nhảy
múa, nông dân làm ruộng, mục đồng chăn trâu,… và hiện nay còn có cả những
nội dung mang tính giải trí như hình ảnh các nhân vật hoạt hình: thủy thủ mặt
trăng, Đôrêmon, Pikachu… Đèn lồng ở Hội An, Việt Nam cũng là một hình
ảnh đặc trưng trong tết Trung thu. Cho đến nay vẫn chưa thể xác định được
đèn lông Hội An có nguồn gốc từ đâu. Có người cho rằng đèn lồng Hội An do
những người họ Châu, La, Thái ở Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Trung
Quốc buôn bán, lập nghiệp ở thương cảng Hải Phố (Faifo) đem đến Việt Nam.
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn có ghi lời kể của một thương gia họ Trần
người Quảng Đông khi chở hàng đến Hội An như sau : "Người Minh Hương
và người Thanh (Trung Quốc) chọn Hội An làm nơi định cư đã mang theo đèn
lồng từ quê hương đến và có thói quen thắp sáng đèn mỗi khi màn đêm buông
xuống‟‟. Tuy nhiên, có một số người già ở Hội An khẳng định chiếc đèn lồng
Hội An làm nét riêng, độc đáo do người Hội An nghĩ ra. Ở Hội An hiện nay
hầu hết các gia đình có thói quen treo đèn lồng trước nhà nhất là vào đêm rằm.
54
Đèn lồng Hội An đã có mặt ở khắp nơi, nghề làm đèn lồng, thói quen sử dụng
đèn lồng thường xuyên trở thành một nét đặc sắc ở Hội An. Ngoài các loại đèn
trên vào dịp tết Trung thu trẻ em còn chơi các loại đèn con thỏ, đèn con tôm,
con cá, trống bỏi, con giống chuyển động, mặt nạ bằng giấy bồi, chong chóng,
tàu thủy sắt tây… Đây cũng là các đồ chơi dân gian đã lần lượt được trình diễn
và hướng dẫn cho khách tham quan tại BTDTHVN.
Bên cạnh mâm cỗ Trung thu, các loại đồ chơi dân gian, bánh nướng
bánh dẻo, còn có cốm một món ăn rất đặc trưng để nhận biết mỗi khi mùa thu
về. Nói đến cốm thì bất kỳ người Hà Nội nào cũng biết đến cốm Làng Vòng.
Hiện nay, ở làng Vòng tuy không còn làm cốm nhộn nhịp, nhưng còn một số
gia đình vẫn duy trì nghề. Bảo tàng đã thường xuyên mời một gia đình có kinh
nghiệm lâu năm đến bảo tàng trình diễn các công đoạn làm cốm, ý nghĩa của
cốm ngày rằm và giao lưu với khách.
Ngoài ra, BTDTHVN còn giới thiệu rất nhiều trò chơi dân gian gắn với tết
Trung thu như kéo co, rước đèn, múa sư tử, nhảy vô… Trong số đó có nhiều trò
vẫn còn phổ biến cho đến bây giờ. Thí dụ trò kéo co, cướp cờ, nhảy dây, rồng rắn
lên mây…hiện nay khá phổ biến trong các trường học, lễ hội ở làng quê hay các
cụm dân cư vào mỗi dịp Trung thu. Ngoài ra, chúng tôi còn chú ý khai thác các
trò chơi gắn với nghề làm đồ chơi dân gian hoặc đang bị mai một như con giống
chuyển động, múa sư rử, rước đèn, thi thả tàu thuỷ sắt tây... Đặc biệt, bảo tàng
quan tâm nghiên cứu và khai thác những trò chơi đã bị mai một như trò nhảy vào
(nhảy vô). „‟Đó là một cách chơi, nguyên tắc chơi như sau: trẻ con chia ra làm hai
phái. Trong một phái, thì trẻ con ngồi xổm chung quanh một cái vòng tròn và
nắm tay nhau. Còn những trẻ con ở phía kia thì tìm cách nhảy vào vòng tròn đó
qua những nắm tay của phái thứ nhất. Khi nào thấy trẻ trực nhảy vào thì ngăn
cấm, đứng và giơ tay lên để làm ngã những trẻ chực muốn nhảy vào. Nêu một trẻ
nhảy vào được vòng tròn đó, thì các trẻ khác ở phái đó cứ việc tiến vào theo một
lối. Khi đã vào đủ rồi mà muốn ra thì cũng lại phải tìm cách làm như khi muốn
vào.‟‟[5, tr.1085]. Hay các trò chơi gắn với đồ chơi bằng sắt tây như thả tàu thủy
sắt tây trên mặt nước, thi trang trí đèn con bướm, con thỏ đánh trống. Chiếc tàu
thủy, con thỏ đánh trống, con bướm bằng sắt tây vốn một thời là đồ chơi dân gian 55
không thể thiếu trong dịp Trung thu. Tuy nhiên, vào khoảng từ năm 1995 đến
năm 2000, tại làng Khương Hạ, Thanh Xuân, Hà Nội nhiều gia đình làm đồ
chơi đã bỏ nghề. Đến nay chỉ còn ông Nguyễn Văn Mạnh Hùng (sinh năm
1965, gọi là ông Tám) còn làm nghề. Đứng trước tình hình nguy cơ loại hình
đồ chơi bằng sắt tây bị biến mất, BTDTHVN đã liên tục mời gia đình ông Tám
đến bảo tàng trình diễn cách làm và hướng dẫn cho khách tham quan chơi tàu
thủy. Điều này đã phần nào giúp các thành viên trong gia đình nhận thức được
giá trị văn hóa của loại hình di sản mình đang nắm giữ, từ đó thể hiện ý thức,
trách nhiệm trong việc duy trì, giữ gìn nghề này.
Có thể nói các phong tục tập quan trong dịp tết Trung thu từ mâm cỗ
cúng đến các món ăn dân dã hay các món đồ chơi, trò chơi dân gian đều là
những di sản văn hóa vô cùng quý báu, phản ánh tinh thần, cốt cách dân tộc,
đời sống hàng ngày của các cư dân nông nghiệp ở Việt Nam cũng như Hàn
Quốc, Nhật Bản. Văn hóa dân tộc không chỉ giáo dục công chúng hiểu biết về
cội nguồn, tình yêu quê hương, đất nước, yêu lao động mà còn giúp họ có
những cảm nhận sâu sắc về truyền thống văn hoá của dân tộc, về con người
trong và ngoài nước. Ngoài ra, những phong tục tập quán, những đồ chơi, trò
chơi dân gian luôn chứa đựng những vẻ đẹp sâu xa, có ý nghĩa lớn lao trong sự
hình thành niềm tự hào về dân tộc, về quê hương cho công chúng nói chung và
thế hệ trẻ nói riêng.
Bên cạnh đó, BTDTHVN còn khai thác các yếu tố văn hoá thể hiện nét
riêng/ đặc trưng văn hoá của vùng / quốc gia. Ở Nhật Bản, ngoài tết Trung
thu, người Nhật còn có “ngày bé trai” và “ngày bé gái”. Trưng bày Trung thu
và ngày trẻ em ở Nhật Bản là những chấm phá về văn hóa đương đại và suy
nghĩ của người Nhật với truyền thống. Du khách có thể tìm thấy những nét
tương đồng và khác biệt với truyền thống của mình. Tập tục này du nhập từ
Trung Quốc dưới triều đại của Nữ hoàng Suiko (593 – 638). Thời kỳ đầu,
người Nhật gọi đó là Tango no Sekku (tết Đoan ngọ). Đầu tháng 5 âm lịch,
nông dân cắm cờ và hình nộm ở cánh đồng, với hy vọng chúng sẽ giúp họ xua
đuổi côn trùng để bảo vệ mùa màng. Về sau, nó chuyển biến thành ngày trẻ em 56
(Kodomo no hi), dành cho các bé trai, hay lễ hội bé trai (Tango Matsuri), tổ
chức vào ngày mồng 5-5 hằng năm, với mong muốn các bé khỏe mạnh và
trưởng thành. Quan niệm về cá chép có nguồn gốc xa xưa từ Trung Quốc, với
ý nghĩa đuổi tà ma để bảo vệ trẻ nhỏ. Cá chép được cho là có thể vượt ghềnh
thác trên sông suối để hoá rồng, nên tượng trưng cho sự mạnh mẽ, dũng cảm
và thành đạt. Ý nghĩa này cũng giống với hình tượng cá chép trong câu chuyện
truyền thuyết liên quan đến đèn Trung thu hình cá của trẻ em Việt Nam. Nếu
các bé trai có ngày 5-5 thì các bé gái người Nhật có lễ hội búp bê Hina vào
ngày 3-3. Lễ hội này có những tên gọi khác nhau: Mono no Sekku (lễ hội mừng
hoa đào nở), Hina no Sekku (lễ hội búp bê), phổ biến nhất là Hina Matsuri (lễ
hội búp bê Hina). Lễ hội tổ chức tại gia đình vào ngày 3-3, dành cho các bé
gái. Người ta bày búp bê Hina, rượu trắng, bánh dày, bánh bột gạo tẩm đường
và hoa đào trên bàn, để cúng cầu mong hạnh phúc và tương lai tốt đẹp cho con
gái mình. Hoa đào không thể thiếu, vì nó tượng trưng cho hôn nhân hạnh phúc,
đồng thời còn là biểu tượng về những đức tính của người phụ nữ: điềm tĩnh,
nhẹ nhàng, ôn hòa, quý phái. Bên cạnh việc giới thiệu 2 ngày dành cho trẻ em
chúng tôi còn giới thiệu một số đồ chơi, trò chơi dân gian phổ biến ở Nhật
Bản. Bên cạnh đồ chơi bản địa, có cả đồ chơi du nhập từ Trung Quốc và bán
đảo Triều Tiên. Cùng với đồ chơi chế tác thủ công và dùng chất liệu tự nhiên,
có đồ chơi được phát triển trên cơ sở truyền thống hoặc chịu ảnh hưởng của
phương Tây. Ví như đồ chơi con quay (Koma) có từ thế kỉ thứ 10, là đồ chơi
có lỗ và từ lỗ đó phát ra âm thanh. Đến thế kỉ 18-19, đồ chơi này rất thịnh hành
tại châu Âu và ở Nhật Bản, thời Ê-đô (1603 – 1868), đồ chơi này được chơi
nhiều; Trò chơi Yo – Yo vốn được một giáo viên người Nhật đi Mỹ năm 1933
mang về, đồ chơi này do rất dễ chơi, không cần luyện tập nhiều nên được cả
các công chức và học sinh chơi; Chơi bài Ca-ru-ta. Ca-ru-ta là từ vay mượn từ
tiếng Tây Ban Nha. Quân bài trong bộ bài Obake karuta (bài quỷ) xuất hiện từ
đầu thế kỷ thứ 19,… Cùng với các đồ chơi giới thiệu trong trưng bày, chúng
tôi tổ chức trình diễn và giới thiệu một số trò chơi dân gian như nhảy lò cò
(ishikeri), đi cà kheo (takeuma), đánh quay (koma), nối đuôi đoàn tau (jyanken
57
resya), tìm người giấu mặt (kagome), đánh cờ (shogi), chuồn chuồn tre
(taketombo), tung túi đậu (otedama), ném vòng (wanage &yoyo), mặt cười
(fuku – warai). Đây là những trò chơi có những nét tương đồng với trò chơi
Việt Nam, chính vì vậy công chúng thấy thú vị bởi họ nhìn thấy những nét văn
hóa tương đồng và họ có thể chia sẻ được cách chơi, luật chơi của nước mình
tới các bạn Nhật Bản. Từ đó, tăng cường sự giao lưu, gắn kết tự nhiên giữa
công chúng Việt Nam và người trình diễn (Nhật Bản) cũng như làm tăng
cường hiểu biết, sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau. Đây là cơ sở vững chắc cho
việc phát triển và giao lưu văn hóa trong khu vực.
Nhắc đến Nhật Bản người ta nhắc tới Trà đạo, nghệ thuật cắm hoa
(Ikebana) và nghệ thuật gấp giấy (origami). Ba hoạt động này tạo nên điểm
nhấn và thể hiện đậm nét bản sắc Nhật Bản trong nội dung giới thiệu của
chúng tôi. Nghệ thuật gấp giấy xuất hiện từ thời Bình An (794-1192), trong
các gia đình quý tộc, người ta dùng giấy để gói các quà tặng và nghệ thuật gấp
giấy ban đầu chỉ là dùng giấy gấp lại để gói các quà tặng như là giấy trang trí,
sao cho thật đẹp, thật vừa khít. Gần đây, có những cách gấp giấy mới nhưng
vẫn mang đậm phong cách gấp giấy truyền thống như Ô-ri-zu-ru, Yakko. Thời
Ê-đô (1603 – 1868), nghệ thuật gấp giấy phát triển làm cho ngành sản xuất
giấy cũng phát triển theo. Sau thời Minh Trị (1868-1912), có một người Đức
tên là Froebel đã nghĩ ra cách gấp giấy nhằm giáo dục trẻ em với nhiều đồ vật
được tạo ra từ nghệ thuật gấp giấy origami mang đầy tính truyền thống. Ngoài
nghệ thuật gấp giấy origami, Nhật Bản còn được biết đến với trà đạo. Trà đạo
không phải là một nét văn hoá “tự sinh” trên đất nước Nhật Bản mà nó được
du nhập từ Trung Quốc. Tuy nhiên, người Nhật không du nhập theo cách giữ
nguyên gốc rồi phổ cập mà thổi vào đó cái gọi là “tinh thần Nhật” của dân tộc
mình, nâng nó trở thành một thứ nghệ thuật mang tinh thần độc đáo mà không
một quốc gia nào có được. Bên cạnh nghệ thuật gấp giấy origami, trà đạo,
Nhật Bản còn nối tiếng với nghệ thuật cắm hoa (Ikebana). Ikebana được biết
đến dưới cái tên Kado (hoa đạo). Kado không chỉ phô bày vẻ đẹp của hoa, mà
còn gửi gắm vào đó nhiều ý nghĩa về cuộc sống, về nhân sinh quan. Nói cách
58
khác, Ikebana là sự kết hợp của mỹ học và triết học.
Đối với Trung thu của Việt Nam, chúng tôi lần lượt lựa chọn các yếu
tố văn hóa mang sắc thái riêng của từng vùng miền để giới thiệu tới công
chúng. Năm 2012, đặc sản văn hóa của Hội An đã được giới thiệu tại
BTDTHVN. Múa Thiên cẩu là một điệu múa chỉ có ở Hội An vào những dịp lễ
tết. Gần giống như múa lân sư nhưng múa thiên cẩu có những nét riêng của
Hội An. Múa Thiên cẩu là một loại múa linh vật lưu truyền ở Hội An từ lâu
đời và mang tính độc đáo về nhiều khía cạnh. Về tên gọi, Thiên cẩu có nghĩa là
con chó nhà trời, về hình dáng nó hoàn toàn không mang dáng dấp gì của con
chó thật với một chiếc đầu to tạo bằng mây, tre, giấy vẽ nhiều màu rực rỡ theo
sự sáng tạo của người chế tạo. Múa Thiên cẩu là hoạt động mang tính tập thể,
những người múa Thiên cẩu (gồm người múa đầu, những người múa đuôi) vừa
phải thể hiện các sinh hoạt hằng ngày của con Chó như ăn, uống, ngủ, đi lại...
vừa diễn tả những hành động mang thần thái của một linh vật trong nghi thức
tín ngưỡng là lạy chào, lạy tạ, liếm cổng trừ tà, đớp trẻ trừ phong... theo tiếng
trống và xập xỏa. Nếu múa Lân, sư tử chỉ do hai người múa, một ở đầu, một ở
đuôi tạo thành con vật bốn chân thì múa Thiên cẩu có thể do nhiều người thực
hiện, tạo thành một con vật khác thường, nhiều chân. Hoạt động múa Thiên
cẩu là một trò chơi phản ánh ánh tư duy văn hóa tổng hợp, tôn trọng tự nhiên
của con người, cụ thể là mối liên hệ biện chứng giữa: Trời - Đất - Người - Vật.
Đồng thời đây cũng là một trò chơi mang tính sáng tạo, kỹ thuật và yêu cầu sự
phối hợp nhóm cao. Bên cạnh “đặc sản” múa Thiên cẩu, Hội An còn có hát
dân ca, chơi bài chòi. Đây là 2 hoạt động Hội An đã duy trì nhiều năm ở khu
vực phố cổ. Bởi vậy, du khách một lần đến Hội An không thể quên được hai
sinh hoạt văn hóa truyền thống này. Hô bài chòi là thú chơi khá phổ biến của
người dân các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến Bình Định,
Phú Yên… mỗi dịp đầu xuân hoặc hội hè, đình đám, lễ lạc... nhưng có một
thời gian dài, loại hình văn hoá này chỉ còn là hoài niệm đẹp về thời xưa cũ. Ở
Quảng Nam, từ khi có Đêm rằm phố cổ Hội An (1998), bài chòi mới xuất hiện
trở lại với hình thức “hội” chơi và những nét văn hoá đặc sắc của nó được
phục hồi. Không phải là chiếc nôi của bài chòi nhưng với ý thức giữ gìn và
59
phát huy các giá trị văn hoá của ông cha, người Hội An đã tạo được một vị thế
đặc biệt cho loại hình văn hoá phi vật thể này. Và hiện nay, trò chơi bài chòi
đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với người dân và du khách thập
phương khi đến tham quan, thưởng lãm khu phố cổ - di sản văn hoá thế giới.
Cùng với việc bảo tồn quần thể kiến trúc đô thị cổ người dân Hội An ngày
càng chăm chút và làm cho phố đẹp hơn. Những đêm hội hoa đăng trên sông
Hoài phố ngày càng lung linh và hấp dẫn bước chân bao du khách gần xa.
Những lời ca, tiếng hát của các điệu lý, điệu hò đã chuyển tải tình yêu quê
hương, đất nước, ca ngợi cuộc sống của người nông dân đến đông đảo công
chúng. Tết Trung thu năm 2011 với chủ đề: Sắc màu biển cả, bảo tàng đã
khuyến khích các địa phương giới thiệu các “đặc sản” quê hương. Vùng biển
Hải Hậu, Nam Định đã trình diễn đi cà kheo múa lân, sư tử. Từ công cụ mưu
sinh đơn thuần, cà kheo trở thành một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo,
được biểu diễn trong các dịp lễ hội quan trọng, làm nên bản sắc văn hóa riêng
cho vùng quê Nam Định. Những nét văn hóa đặc sắc riêng của từng địa
phương hay quốc gia được chọn lọc giới thiệu đến công chúng đã tạo thành
điểm nhấn trong các hoạt động tại Bảo tàng. Thông qua đó, những người trình
diễn đến từ các địa phương/ quốc gia có cơ hội tự giới thiêu văn hóa của mình
trực tiếp đến công chúng. Người xem (công chúng) được tận tay làm các sản
phẩm hay chơi các nhạc cụ hoặc thử một bài dân ca… với sự hướng dẫn trực
tiếp của người dân địa phương. Mối quan hệ qua lại trong các hoạt động này
tạo nên sự giao lưu văn hóa vô cùng ý nghĩa giữa các dân tộc trong cùng một
quốc gia với nhau, giữa dân tộc Việt Nam với Hàn Quốc, Nhật Bản. Điều này,
lại một lần nữa khơi dậy niềm tự hào dân tộc, sự tôn trọng văn hóa của dân tộc
của mình cũng như của bạn. Đồng thời tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa
các dân tộc trong khu vực.
Một điểm mới trong việc lựa chọn nội dung hay các yếu tố văn hóa dân
gian giới thiệu vào dịp Trung thu, BTDTHVN hướng đến các hoạt động mang
tính sáng tạo, phát huy được trí lực của thế hệ trẻ. Chúng tôi xác định đây là
cơ hội giúp những người trẻ tuối, những người yêu văn hóa Việt Nam thể hiện
khả năng, góp phần trong công tác bảo tồn, gìn giữ văn hóa dân tộc. Đồng
60
thời, mở ra cơ hội phát triển cho các di sản văn hóa đang có nguy cơ bị mai
một hoặc biến mất có con đường phát triển mới. Các tiêu chí lựa chọn hoạt
động sáng tạo: hoạt động thể hiện sáng tạo về mẫu mã, chất liệu, nội dung…
dựa trên nền là văn hóa truyền thống hoặc sáng tạo mới hoàn toàn nhưng thể
hiện giá trị trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Năm 2007 (phối hợp với Hàn Quốc),
2009 (phối hợp với Hàn Quốc) chúng tôi giới thiệu đồ chơi những con giống
bằng giấy bạc làm từ đồ phế liệu (giấy báo cũ). Đây là một sáng kiến của một
thanh niên trẻ ở Bắc Giang (Nguyễn Minh Tuân, SN 1982). Từ say mê các con
giáp trong đồ chơi dân gian nặn tò he anh thanh niên này đã tự nghiên cứu, tìm
tòi nguyên liệu để làm ra những con vật chủ yếu bằng giấy phế liệu trông rất
đẹp mắt. Các sản phẩm của anh đã thu hút được nhiều em nhỏ tập làm thử.
Qua việc sử dụng giấy phế liệu dễ kiếm trong đời sống để sáng tạo đồ chơi của
một cậu thanh niên trẻ đã góp phần tác động, giáo dục thế hệ trẻ suy nghĩ làm
những việc có ích cho xã hội, biến những đồ bỏ đi thành đồ có giá trị. Năm
2009 qua hoạt động kể chuyện tranh Kamishi bai của Nhật bản. Chúng tôi
nhận thấy, cách sử dụng tranh minh họa để kể chuyện cho trẻ em rất lôi cuốn
và dễ thực hiện. Từ đó trở đi chúng tôi đã đề xuất áp dụng hình thức kể chuyện
tranh Kamishi bai của Nhật cho các chuyện cổ tích/ truyền thuyết gắn với tết
Trung thu. Hoạt động này luôn thu hút trẻ em và thật sự giúp các em hiểu các
giá trị văn hóa dân gian qua các câu chuyện cổ tích và truyền thuyết. Năm
2010, từ sáng tạo của một bác nhà giáo về hưu (Bác Chu Tạo Đoan ở phố Tôn
Đức Thắng, Hà Nội) dựa trên nguyên tắc trò chơi Trí Uẩn với 7 miếng ghép
thông minh, chúng tôi đã cùng bác tạo ra những bộ trò chơi ghép hình về các
câu chuyện liên quan đến tết Trung thu như sự tích múa sư tử, ông tiến sỹ giấy,
thằng Cuội… Đây là một trò chơi nhỏ, nhưng ẩn sau đó là sự rèn luyện lòng
kiên trì và tăng cường khả năng tính toán. Trò chơi Trí Uẩn đã được coi là một
trong những trò chơi "độc nhất vô nhị" bởi sự bắt nguồn từ một tình thế khắc
nghiệt của cuộc sống. Đồng thời nó đã từng là thú vui giải trí gần như duy nhất
của nhiều thế hệ thanh, thiếu niên Việt Nam suốt thời chiến tranh. Một ví dụ
khác liên quan đến sáng tạo của tuổi trẻ: khi tổ chức tết Trung thu với Nhật
Bản, chúng tôi đã mời một số nhóm sinh viên Việt Nam, Nhật Bản đến trình
61
diễn điệu múa Yosakoi. Yosakoi là một điệu múa mới ra đời được hơn 50 năm
tại thành phố Kochi của Nhật Bản, vậy mà giờ đây nó không chỉ phát triển
mạnh mẽ ở Nhật Bản, mà còn mở rộng sang các nước khác, trong đó có Việt
Nam. Đến năm 2005, múa Yosakoi đã phổ biến khắp nước Nhật với phong
cách mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực, gồm những bước nhảy truyền thống trên nền
nhạc hiện đại. Mặc dù du nhập vào Việt Nam chưa lâu theo dòng chảy của sự
du nhập văn hóa phương Đông, nhưng với tất cả ý nghĩa và sự hấp dẫn vốn có
của mình, Yosakoi đang dần trở thành một trào lưu trong các bạn trẻ tại Việt
Nam. Sinh viên Việt Nam tìm đến Yosakoi không chỉ với mục đích giải trí lành
mạnh đơn thuần, họ tìm đến Yosakoi để mong được hiểu thêm về tinh thần
Nhật Bản, để tìm thấy nét chung trong nền văn hóa của 2 đất nước, tìm đến cái
“chúng ta” trong nét đặc sắc riêng của mỗi dân tộc, mỗi con người.
Qua các tiêu chí lựa chọn khác nhau trong việc khai thác các yếu tố văn
hóa dân gian vào nội dung trình diễn trong hoạt động giới thiệu tết Trung thu
của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, BTDTHVN đã vẽ lên một bức tranh văn
hóa phong phú nhiều màu sắc. Các tiêu chí này rất quan trọng, nó mang ý
nghĩa bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như tăng cường giao lưu
văn hóa của Việt Nam với Hàn Quốc, Nhật Bản và ngược lại.
2.3. Cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong hoạt động giới
thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại BTDTHVN
2.3.1 Qua trưng bày
BTDTHVN lựa chọn hình thức truyền tải nội dung đến công chúng
thông qua trưng bày chuyên đề. Chúng tôi khai thác các yếu tố văn hóa dân
gian về tết Trung thu của các quốc gia dựa trên các nguyên tắc trong trưng bày
như sau: trưng bày rõ từng chủ đề để công chúng tránh bị nhầm lẫn. Chẳng hạn
chủ đề về nghi lễ, ẩm thực, trò chơi dân gian. Các chủ đề rõ ràng đã giúp công
chúng thuận lợi trong quá trình xem. Họ không cần xem theo một lộ trình tuần
tự từ đầu đến cuối mà vẫn có thể hiểu. Chi tiết này cũng phù hợp và khắc phục
nhược điểm của phòng trưng bày trong bảo tàng có hai đường vào như nhau.
62
Các khâu trong thiết kế, trưng bày được nghiêm túc chú ý. Về thiết kế, màu
sắc, không gian tái tạo… nghiên cứu kỹ lưỡng và đưa ra nhưng sản phẩm phù
hợp với đối tượng công chúng cũng như thể hiện được bản sắc địa phương. Thí
dụ trưng bày bàn thờ để lễ vật dâng cúng tổ tiên của người Hàn trong phần
nghi lễ chúng tôi đã đã nghiên cứu kỹ càng bối cảnh, không gian thật tại Hàn
Quốc, sử dụng những bức ảnh, đoạn video đưa cho nhà thiết kế để cùng thảo
luận bối cảnh trưng bày tại bảo tàng sao cho phù hợp. Đối với trưng bày này,
chúng tôi tuân theo các quan điểm chung trong trưng bày thường xuyên của
bảo tàng. Sử dụng các bài giải thích cho từng chủ đề. Mỗi bài có ảnh minh
họa, cung cấp các thông tin một cách, rõ ràng, cô đọng, súc tích. Để giúp các
đối tượng công chúng (cả nước ngoài, trẻ em…) có thể tiếp cận các nội dung
từ chú thích đến bài viết đều có 3 ngữ (tiếng Anh, Pháp, Việt) và treo ở độ cao
vừa phải. Đặc biệt, chúng tôi còn quan tâm đến đối tượng công chúng là người
khuyết tật. Nội dung trong trưng bày đã được dịch sang chữ nổi giúp người
khiếm thị có thể tiếp cận được trưng bày. Để tăng cường vai trò của chủ thể
văn hóa, trong trưng bày sử dụng video giới thiệu về đời sống văn hóa của mỗi
nước. Trung thu Hàn Quốc được biết đến qua bộ phim giới thiệu về “Gia đình
ông Lee với tết Trung thu năm 2006”. Bộ phim miêu tả chân thực tết Trung
thu hiện nay ở Hàn Quốc qua trường hợp cụ thể là gia đình ông Lee Won Tae
ở Andong, tỉnh Gyeongsangbuk, Hàn Quốc. Cùng với các hình ảnh sinh động,
bộ phim còn ghi lại những phỏng vấn của các thành viên trong gia đình ông
Lee nói về tết Trung thu. Tết Trung thu của Nhật Bản được giới thiệu qua bộ
phim “Trung thu và ngày trẻ em ở Nhật Bản qua các giọng nói”. Các nhân vật
ở độ tuổi khác nhau, giới tính khác nhau, vùng miền khác nhau đã nói lên suy
nghĩ của mình về tết Trung thu và ngày trẻ em ở Nhật Bản. Qua giọng nói của
những nhận vật cụ thể, có tên tuổi, địa chỉ đã phản ánh chân thực đời sống văn
hóa các dân tộc. Những hình ảnh thực, con người thực trực tiếp nói về văn hóa
của họ đã đem đến những cảm xúc, cảm nhận chân thực về ngày tết Trung thu
ở Hàn Quốc, Nhật Bản. Tiêu chí tôn trong vai trò của chủ thể văn hóa còn
được thể hiện qua việc chúng tôi sử dụng các câu trích lời nói của người dân
về tết Trung thu của 3 quốc gia. Đối tượng được phỏng vấn để chia sẻ các câu
63
chuyện của họ về tết Trung thu lựa chọn theo tiêu chí: đa dạng các độ tuổi (trẻ
em, thanh niên, trung niên, người cao tuổi); đủ giới tính (cả nam và nữ); đa
dạng các vùng miền (cả nông thôn và thành thị) (xem phụ lục 2, tr 103). Thông
qua các giọng nói khác nhau đã phản ánh được suy nghĩ chân thực của chủ thể
văn hóa về di sản văn hóa mà họ đang nắm giữ. Đây là yếu tố quan trọng giúp
công chúng hiểu được bức tranh về tết Trung thu của 3 quốc gia hiện nay một
cách sâu sắc. Ngoài ra, đây cũng là trưng bày đầu tiên có hoạt động tương tác
ngay trong trưng bày. Một không gian dành cho các hoạt động này nhằm giúp
du khách có những hoạt động tương tác tìm hiểu hiện vật qua các giác quan,
người giải thích. Trưng bày tết Trung thu ở Hàn Quốc du khách có thể mặc thử
các bộ Hanbok, sắp xếp đồ ăn trên bàn thờ…, tết Trung thu của Nhật có hoạt
động mặc thử và hỏi đáp thông tin về Kimônô, Yukata; tìm hiểu và chơi một số
đồ chơi dân gian, đố vui về truyện tranh Nhật Bản… Các hoạt động này giúp
du khách nhớ được lâu hơn về hiện vật và hiểu được tết Trung thu đương đại
của Hàn Quốc, Nhật Bản.
Bên cạnh sử dụng việc khai thác các yếu tố văn hóa dân gian qua trưng
bày chuyên đề, chúng tôi còn khai thác qua trưng bày gắn với khu vực có hoạt
động trình diễn. Các trưng bày này thực hiện tại nơi có người trình diễn nên
quá trình tổ chức dựa trên nguyên tắc chung của bảo tàng và theo một số yêu
cầu/ yếu tố riêng xuất phát từ nhu cầu của công chúng và người trình diễn.
Chuẩn bị bục, kệ, giá phục vụ trình diễn và bày các sản phẩm của nghệ nhân
dân gian được lựa chọn phù hợp với từng loại hình như với nghệ nhân in tranh
Đông Hồ dùng các chiếu trải trên nền đất/ gạch phẳng để dễ thao tác. Viết thư
pháp sử dụng những chiếc bàn cao ngang tầm người viết và bố trí các giá,
khung để trưng bày sản phẩm hoàn thiện… Để người xem hiểu hơn về người
trình diễn, cách thức trình diễn, các bước làm ra một sản phẩm bảo tàng đã
cung cấp thông tin tăng cường bằng hình thức trưng bày pano bài viết, pano
ảnh có chú thích. Các pano này được tính toán thiết kế phù hợp với thị hiếu
của công chúng và thu hút được nhiều người quan tâm. Các pano hướng đến
đối tượng công chúng là nhóm khách gia đình nên thiết kế theo tiêu chí vui
64
mắt, nhiều màu sắc, nhiều hình ảnh và chú thích rõ ràng. Một cách nữa để tăng
cường thông tin và tạo cơ hội cho du khách tiếp cận với các trình diễn nghề thủ
công truyền thống bảo tàng trưng bày các bước thể hiện qui trình làm ra một
sản phẩm.
Qua cách khai thác các yếu tố văn hóa dân gian của 3 quốc gia Hàn
Quốc, Nhật Bản và Việt Nam bằng hình thức trưng bày theo chuyên đề và
trưng bày tại nơi có nghệ nhân trình diễn đã đem lại hiệu quả cho công chúng.
Đồng thời đạt được mục tiêu truyền tải thông tin qua trưng bày của bảo tàng.
Chính nhờ cách làm này, công chúng đã tiếp cận với di sản văn hóa một cách
dễ dàng, khoa học cũng như cảm nhận được các di sản văn hóa đó một cách
chân thực và hiệu quả nhất.
2.3.2. Qua thiết kế các hoạt động
Việc lựa chọn các nội dung hay thu hút công chúng để tổ chức giới thiệu
văn hoá dân gian nói chung và tết Trung thu của 3 quốc gia nói riêng là vô
cùng quan trọng. Tuy nhiên việc khai các yếu tố văn hóa đó như thế nào trong
bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế là một câu hỏi lớn đối với nhà nghiên
cứu tổ chức hoạt động. Vấn đề đặt ra cần thiết kế các hoạt động đáp ứng nhu
cầu của công chúng và gắn chặt với các quan điểm trong hoạt động của bảo
tàng. BTDTHVN đã liên tục tổ chức và thực hiện nhiều hoạt động mang tính
đổi mới, thành công và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn.
Trước hết là thiết kế tổ chức đa dạng các hoạt động giới thiệu văn hóa
dân gian xuất phát từ nhu cầu của đa dạng của công chúng. Các hoạt động giới
thiệu văn hóa dân gian của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam tại bảo tàng đã thu
hút khoảng 20 nghìn công chúng. Trong số này có rất nhiều các thành phần
như nhóm gia đình, học sinh tiểu học, trẻ em của các trường mẫu giáo, sinh
viên, người nước ngoài… điều này có nghĩa công chúng của bảo tàng đa dạng
về thành phần và sự hiểu biết. Bởi vậy, chúng tôi thiết kế đa dạng các hoạt
động đáp ứng nhu cầu phong phú đó. Các hoạt động thể hiện ở trạng thái tĩnh
và động. Những hoạt động động nhằm tạo không khí sôi nổi cho lễ hội, thu hút
65
đám đông, nhất là đám đông ưa hoạt động. Đây là những loại hoạt động hướng
đến du khách trẻ tuổi là sinh viên, nhóm gia đình trẻ thích hoạt động sôi nổi.
Những hoạt động này thường thu hút hàng chục, thậm chí đến hàng trăm người
cùng tham gia. Chẳng hạn, hoạt động múa Yosakoi của Nhật đã có tới hơn 100
người cùng trình diễn một lượt hay múa lân, sư, rồng của Việt Nam, múa
Ganggangsulle của Hàn Quốc có hơn 20 người cùng biểu diễn. Hoạt động
luôn là tâm điểm của lễ hội và thu hút các bạn trẻ tham gia tích cực, nhiệt tình
góp phần đáp ứng nhu cầu của những công chúng trẻ tuổi và tạo điểm nhấn,
dấu ấn cho mỗi lễ hội. Bên cạnh đó, việc đáp ứng nhu cầu của những nhóm
thích hoạt động nhẹ nhàng, không ồn ào cũng được chúng tôi chú trọng. Đây
thường là những du khách trung tuổi, gia đình có con nhỏ, người hưu trí thích
hoạt động tĩnh. Chúng tôi tạo cơ hội cho nhóm du khách này khám phá tìm
hiểu văn hóa dân gian qua loại hình trình diễn là đồ chơi dân gian như làm đèn
Trung thu, hộp giấy của Hàn Quốc, làm diều của Nhật Bản… hay chơi trò chơi
dân gian đòi hỏi sự kiên trì, suy nghĩ như chơi ô ăn quan của Việt Nam, cờ
shogi của Nhật Bản, Yutnori của Hàn Quốc… Những nhóm hoạt động này có
thể giữ chân khách tham quan hàng giờ và tạo được niềm vui, sự say mê cho
du khách bởi những sản phẩm do chính tay họ làm ra được mang về kỷ niệm.
Ngoài ra, BTDTHVN còn chú ý trọng việc thiết kế các hoạt động mang
tính so sánh để du khách dễ dàng tìm ra những nét tương đồng và khác biệt
giữa văn hóa của các nước. Chúng tôi đã xếp theo các nhóm hoạt động như
các trò chơi dân gian, các nghề thủ công truyền thống, ẩm thực truyền thống…
Cùng là làm bánh Trung thu, khi trình diễn của Việt Nam và Nhật Bản được
đặt cạnh nhau khiến du khách dễ dàng nhận ra những nét tương đồng và khác
biệt, tạo nên những trải nghiệm thú vị, khó quên. Về nguyên liệu rất giống
nhau vì cùng là bột gạo nếp pha với gạo tẻ để làm ra bánh dango (Nhật Bản),
bánh dẻo của Việt Nam. Cũng trong trình diễn này, du khách còn khám phá ra
những nét khác biệt như bánh dẻo có nhân hạt sen, mứt bí, vừng… còn bánh
dango lại ăn kèm với bột đậu xanh hoặc mứt dâu. Bánh dango làm như bánh
trôi và dùng tay nặn ra hình tròn như quả trứng gà, còn bánh dẻo lại dùng
66
khuôn để tạo ra hình tròn, dẹt…
Thêm nữa, BTDTHVN tăng cường các hoạt động trải nghiệm, giao lưu
để tạo sự chủ động cho công chúng cũng như của chủ thể văn hoá.
Chúng tôi quan niệm các trải nghiệm là mấu chốt tạo nên sự sống động cho
hoạt động cũng như có sức thu hút đối với công chúng. Từ xa xưa, người
phương Đông đã có câu: “Những gì tôi nghe, tôi sẽ quên; Những gì tôi thấy,
tôi sẽ nhớ; Những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu” (dựa theo câu nói của Khổng Tử,
451). Một nghiên cứu gần đây của người phương Tây cũng đã chỉ ra rằng
người ta nhớ khoảng 10% những gì họ nghe được; 16% những gì họ đọc được;
20% những gì họ nghe được và thấy được; 70% những gì họ nghe được, thấy
được và phản ứng với chúng; và 90% những gì họ nghe được, thấy được và
phản ứng với chúng trong một quá trình (làm một điều gì đó) [93, tr 2]. Như
vậy, có thể thấy rằng việc tạo ra các trải nghiệm bằng các hoạt động tương tác
(làm) trực tiếp và có sự giao lưu giữa chủ thể văn hóa với công chúng sẽ giúp
công chúng hiểu và ghi nhớ tốt hơn. Các hoạt động trong chương trình của
chúng tôi đa số tạo điều kiện cho công chúng được làm/ trải nghiệm. Công
chúng có thể chủ động làm một chiếc đèn ông sao dưới sự hướng dẫn của nghệ
nhân từ bước đầu tiên chẻ nan cho đến khâu cuối cùng là dán và trang trí đèn.
Thông qua quá trình tự tay làm công chúng sẽ nhớ từng bước làm, các câu
chuyện của nghệ nhân lâu hơn và biết yêu quí sản phẩm làm ra cũng như trân
trọng những tri thức của nghệ nhân. Các hoạt động vui nhộn như múa lân sư,
yosakoi, ganggangsulle sẽ bị lãng quên nếu chúng tôi không khai thác những
cuộc giao lưu, tạo điều kiện cho công chúng được thử nghiệm đánh trống, chơi
thanh la, đội đầu lân múa thử hay chơi thử nhạc cụ nariko trong điệu múa
yosakoi của Nhật Bản hoặc cùng hát vàng bài ganggangsule với người Hàn
Quốc. Đặc biệt, bảo tàng rất quan tâm đến việc tạo cơ hội cho những người
trình diễn đến từ địa phương (chủ thể văn hóa) tự chia sẻ các câu chuyện của
mình với công chúng. Sự đối thoại, giao lưu giữa công chúng với chủ thể văn
hoá không chỉ tạo ra sự gần gũi và hấp dẫn mà điều quan trọng là đưa lại hiệu
quả giáo dục, nhận thức cao đối với cả hai phía. Điều này, chúng tôi đã có
những kiểm nghiệm thực tế. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn và hỏi khách
tham quan vào cuối hành trình về việc hoạt động nào gây ấn tượng nhất hay 67
khách tham quan nhớ nhất? Đa số câu trả lời dành cho các hoạt động có trải
nghiệm và giao lưu.
Như vậy, qua việc khai thác các yếu tố văn hóa dân gian bằng cách thiết
kế các hoạt động động và tĩnh; thiết kế các hoạt động mang tính so sánh để du
khách dễ dàng tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa văn hóa của các
nước; tăng cường các hoạt động trải nghiệm, giao lưu để tạo sự chủ động cho
công chúng cũng như của chủ thể văn hoá tạo điều kiện cho chủ thể văn hoá
vừa tham gia trình diễn, vừa trực tiếp giới thiệu những di sản văn hoá mà mình
đang nắm giữ, đồng thời giao lưu và đối thoại với công chúng. Hoạt động này
tạo điều kiện giáo dục thế hệ trẻ ý thức tự hào về văn hoá dân tộc, đồng thời
biết yêu quý, tôn trọng những nền văn hoá dân tộc khác.
2.3.3. Qua người giới thiệu văn hóa dân gian
Vai trò của các nghệ nhân dân gian trong các hoạt động của BTDTHVN
được xác định vô cùng quan trọng. Chúng tôi luôn coi các chủ thể văn hóa là
linh hồn của các hoạt động. Theo đó, vai trò của họ được đề cao, tôn trọng. Có
nhiều hình thức khác nhau để thể hiện vai trò của chủ thể văn hóa. Cách thức
trao giọng nói cho các chủ thể văn hóa được bảo tàng áp dụng hiệu quả. Các
lời nói, suy nghĩ, chia sẻ, tâm sự của chủ thể văn hóa được bảo tàng trích
nguyên văn và bày trang trọng tại trưng bày chuyên đề hoặc nơi trình diễn của
các nghệ nhân. Với trưng bày Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản đã sử dụng
tổng số 30 câu trích. Bên cạnh đó, bảo tàng còn quay băng video ghi lại những
câu chuyện đời thường, những suy nghĩ của chủ thể văn hóa về một vấn đề nào
đó. Đó là cơ sở để bảo tàng dựng thành những thước phim phản ánh chân thực
đời sống văn hóa của họ. Chúng tôi tôn trọng và nâng niu những gì thuộc về
chủ thể văn hóa thí dụ trong phim giữ nguyên những giọng nói của chủ thể mà
không dùng lời thuyết minh hay khi dựng phim luôn mời sự tham gia của chủ
thể văn hóa và tôn trọng ý kiến của họ về nội dung sẽ đưa ra công chúng. Cách
khai thác này chúng tôi đã đưa công chúng tới những cảm xúc thực, chân
thành bởi họ được tìm hiểu và khám phá về văn hóa không phải từ cái gì xa lạ
68
mà chính từ những câu chuyện đời thường, có thật của những nhân vật cụ thể.
Ngoài ra, BTDTHVN còn tổ chức giao lưu, đối thoại giữa người trình diễn và
công chúng. Công việc này đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của những người làm
công tác tổ chức với vai trò như một người cầu nối. Bảo tàng nghiên cứu các
nội dung, vấn đề công chúng quan tâm và chủ thể văn hóa có thể chia sẻ hay
mong muốn chia sẻ. Bằng nhiều phương pháp, bảo tàng tạo môi trường gần
gũi với người trình diễn như gắn kết trình diễn với các ngôi nhà truyền thống,
ví dụ: thổi kèn của người Hmông được tổ chức trình diễn ngày tại sân nhà
Hmông trong khuôn viên của BTDTHVN chứ chúng tôi không đưa lên sân
khấu. Đặc biệt việc bố trí cho những người tham gia thưởng thức đứng xung
quanh trông rất tự nhiên như ở địa phương và không tạo khoảng cách với
người trình diễn. Nhiều câu chuyện đời thường đã được khai thác khéo léo
khiến chủ thể văn hóa tự nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong
cộng đồng, những giá trị của loại hình di sản mình đang nắm giữ đồng thời
công chúng hiểu, chia sẻ và cảm thông với những khó khăn của nghệ nhân,
những giá trị văn hóa họ đang làm chủ. Những điều này tạo nên sức mạnh kết
nối các dân tộc trong và ngoài nước với nhau để hướng tới một tương lại tốt
đẹp.
Tại BTDTHVN các hoạt động khai thác văn hoá dân gian không thể
thiếu vai trò của người giới thiệu văn hoá. Đó chính là những cán bộ bảo tàng
hoặc tình nguyện viên/ cộng tác viên. Họ là người hỗ trợ kết nối giữa người
trình diễn (chủ thể văn hóa) với công chúng. Trên thực tế, đa số các nghệ nhân
đến trình diễn tại bảo tàng đều là lần đầu ra khỏi bản làng hoặc là người nước
ngoài nên vai trò của những cầu nối giới thiệu văn hóa vô cùng quan trọng.
Những người giới thiệu được tập huấn các phương pháp, cách thức làm việc
với nghệ nhân, cách khai thác câu chuyện từ chủ thể văn hóa. Khuyến khích
các nghệ nhân tự nói câu chuyện của mình một cách tự nhiên. Những câu
chuyện kể về những khó khăn, thách thức, niềm vui, kỷ niệm trong nghề, cuộc
sống gia đình… đều là các chủ đề hay và hấp dẫn công chúng. Người giới
thiệu văn hoá luôn giữ nguyên tắc không nói thay nói hộ chủ thể văn hóa. Có
thể có những câu hỏi, vấn đề lặp đi lặp lại, người giới thiệu văn hóa hoàn toàn
biết câu trả lời những điều quan trọng công chúng muốn nghe từ giọng nói của 69
chủ thể. Những câu trả lời có thể là còn ngập ngừng, không lưu loát nhưng lại
có sức hút bởi nó phản ánh câu chuyện thật của con người thật. Chính vì thế,
những người giới thiệu văn hoá luôn đóng vai trò là người hỗ trợ, dẫn dắt chứ
không thay thế chủ thể văn hóa để giới thiệu.
Với cách khai thác các yếu tố văn hóa dân gian qua chủ thể văn hóa và
người hỗ trợ giới thiệu văn hóa đã giúp người trình diễn tự thể hiện quan điểm,
suy nghĩ về các loại hình di sản đang nắm giữ/ thực hành một cách sống động
và chân thực. Cách làm này là một cơ hội quảng bá văn hoá sâu rộng, từ đó
nâng cao niềm tự hào dân tộc, ý thức bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá
70
trong cộng đồng.
Tiểu kết
Dựa trên quan điểm xuyên suốt trong việc nghiên cứu, sưu tầm, trưng
bày hiện vật, BTDTHVN đã áp dụng tổ chức hoạt động khai thác các yếu tố
văn hóa dân gian của các quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam qua việc
giới thiệu tết Trung thu. Việc tập trung vào khai thác các yếu tố liên quan đến
cuộc sống đương đại; tôn vinh vai trò của chủ thể văn hóa; làm thế nào cho
văn hóa dân gian sống được trong cộng đồng và ngược lại là những định
hướng mang tính khoa học giúp bảo tàng có những hướng đi tốt trong các hoạt
động.
Qua nghiên cứu, phân tích từng trường hợp cụ thể, BTDTHVN đã xác
định các tiêu chí lựa chọn giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia dựa trên các
đặc điểm tương đồng và khác biệt văn hóa. Đây là đặc điểm tạo ra nhiều lý
thú, hấp dẫn trong quá trình triển khai. Ngoài ra, những tiêu chí liên quan trực
tiếp đến những đối tác phối hợp và cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân
gian theo phương pháp của bảo tàng cũng được phân tích cụ thể với những ví
dụ trong các hoạt động tết Trung thu của 3 nước.
Việc lựa chọn và khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong hoạt động
giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia tại BTDTHVN đã được nghiên cứu kỹ
càng, có quan điểm, có phương pháp triển khai. Đây sẽ là cơ sở tiền để trong
việc mở ra các hoạt động giao lưu văn hóa tại bảo tàng và khu vực trong bối
71
cảnh hội nhập quốc tế.
Chƣơng 3
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ VIỆC GIỚI THIỆU TẾT TRUNG
CỦA HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, VIỆT NAM TẠI BẢO TÀNG DÂN
TỘC HỌC VIỆT NAM
3.1. Giao lƣu và quảng bá văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhâp quốc tế diễn ra nhanh chóng như
hiện nay. Sự chia sẻ hiểu biết, cảm thông lẫn nhau của các quốc gia trong khu
vực là vô cùng quan trọng. Việc BTDTHVN tổ chức giới thiệu các hoạt động
tết Trung thu của 3 quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là hoạt động
quan trọng góp phần vào tạo ra nhiều triển vọng cho sự giao lưu và quảng bá
văn hóa.
Trước hết, từ việc tổ chức thành công hoạt động giao lưu văn hóa của 3
quốc gia thông qua tết Trung thu đã góp phần đưa BTDTHVN trở thành trung
tâm giao lưu văn hóa không chỉ ở trong khu vực mà còn vươn ra các nước
khác. Những kết quả thu được từ việc tổ chức giao lưu văn hóa với Hàn Quốc,
Nhật Bản về số lượng khách (vài chục nghìn khách trong một đợt ngắn 3
ngày); sự phản ánh liên tục của báo chí, truyền hình trong và ngoài nước; sự
đón nhận của đa dạng công chúng, sự ghi nhận từ phía các nghệ nhân dân gian,
cán bộ của những Bảo tàng, Trung tâm văn hóa phối hợp… đã làm cơ sở vững
chắc cho bảo tàng phát triển các hoạt động giao lưu văn hóa với các nước
trong và ngoài khu vực. Chẳng hạn, BTDTHVN đã phối hợp với Bảo tàng
Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York tổ chức cuộc trưng bày Việt Nam-
Những cuộc hành trình của Con người - Tinh thần và Linh hồn (2003); phối
hợp với Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc trong việc trao đổi hiện vật tổ chức
trưng bày tại Hàn Quốc (2009); trao đổi với Bảo tàng Dân gian Hàn Quốc về
nghiên cứu đám cưới các dân tộc Việt Nam sẽ giới thiệu đến công chúng tại
Seoul - Hàn Quốc vào năm 2013. Nhân kỷ niệm 40 thiết lập quan hệ ngoại
giao Việt Nam - Nhật Bản, BTDTHVN phối hợp với Bảo tàng Kyushu ở Nhật
Bản tổ chức trưng bày giới thiệu di sản văn hóa Việt Nam tại Nhật (tháng 4 -
72
6/ 2013)… Ngoài ra, BTDTHVN còn thu hút các cá nhân, tổ chức quốc tế, cơ
quan văn hóa của các nước tham gia, phối hợp tố chức giới thiệu văn hóa của
các nước tại bảo tàng. Trưng bày Trở thành đàn ông: Lễ thành đinh và hội kín
của người Bamana ở Mali là kết quả hợp tác của BTDTHVN với hai người
bạn Pháp, môt là nhà nhân học hình ảnh và một là chuyên gia thiết kế trưng
bày đồ họ. Thông qua các mặt nạ, vật thờ cúng, phim, ảnh, công chúng đã
khám phá những tập tục huyền bí và đặc sắc của truyền thống Châu Phi, vừa
xa lạ, vừa có nét tương đồng với văn hóa của một số dân tộc ở Việt Nam.
Tháng 12/2012 bảo tàng phối hợp cùng tỉnh Yên Bái và Val de Marne ở Pháp
tổ chức trưng bày Truyền thống lễ hội với mong muốn tạo bối cảnh để công
chúng có cơ hội tiếp cận các nền văn hóa ở hai vùng xa cách “đối thoại” và
“cộng hưởng” với nhau. Bảo tàng phối hợp với Đại sứ quán Mexico tại Hà Nội
tổ chức trưng bày Bàn thờ Mexico nhân "Ngày tưởng nhớ những người đã
khuất". Tuy trưng bày nhỏ gọn, nhưng giúp người xem có cái nhìn đối sánh
thú vị tại chỗ giữa bàn thờ của người Việt với bàn thờ của người Mexico, gây
ấn tượng và để lại nhiều cảm xúc sâu sắc cho du khách… Như vậy, qua các
cuộc tổ chức hoạt động trưng bày, giao lưu văn hóa, BTDTHVN đã trở thành
cầu nối đưa di sản văn hóa của Việt Nam đến công chúng ở nước ngoài cũng
như đưa di sản văn hóa của các nước đến công chúng ở Việt Nam. Những hoạt
động thiết thực này có giá trị trong việc trao đổi, học hỏi, tăng cường hiểu biết
lẫn nhau và quảng bá hình ảnh đất nước, con người của nhau cũng như tạo đà
cho sự phát triển giao lưu văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, hoạt động trình diễn giao lưu văn hóa của 3 quốc gia tại
BTDTHVN đã góp phần giáo dục thế hệ trẻ nâng cao ý thức tôn trọng và bảo
vệ di sản văn hóa của Việt Nam cũng như các nước trong khu vực. Thông qua
các hoạt động này đã giúp cho thế hệ trẻ của Việt Nam có cơ hội tiếp xúc,
khám phá về di sản văn hóa của Hàn Quốc, Nhật Bản. Bằng những hoạt động
trải nghiệm cụ thể qua xem trình diễn, trải nghiệm làm đồ chơi dân gian dưới
sự hướng dẫn trực tiếp của chủ thể văn hóa đã giúp các bạn trẻ nhận ra các giá
trị văn hoá và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, biết chia sẻ cảm xúc, sự đồng
cảm, sự tôn trọng với những người đang nắm giữ. Thông qua hoạt động này,
73
thế hệ trẻ còn có cơ hội hiểu thêm mỗi dân tộc ở từng quốc gia có những cách
khác nhau để sáng tạo, bảo tồn và khẳng định bản sắc văn hoá, từ đó thế hệ trẻ
biết làm giàu, làm phong phú các kiến thức của mình cũng như biết tôn trọng,
yêu quý di sản văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước.
Ngoài ra, những hoạt động giao lưu văn hóa tại BTDTHVN đã góp phần
vào việc quảng bá những sản phẩm thủ công truyền thống đến các nước trên
thế giới. Trên thực tế, những sản phẩm thủ công truyền thống của chúng ta có
giá trị tiềm năng kinh tế to lớn. Các nghề thủ công truyền thống tại nhiều làng
nghề đang đứng trước những khó khăn, đối mặt với sự sống còn và đứng trước
nguy cơ bị mai một, biến mất. Trong bối cảnh đó, BTDTHVN thường xuyên
tổ chức các trình diễn nghề thủ công truyền thống đem lại hiệu quả ở nhiều
góc độ. Đối với thợ thủ công, các hoạt động đã tạo niềm vui, sự say mê nghề
nghiệp đối với thợ thủ công khi thấy nghề nghiệp được tôn vinh. Tự nhận diện
giá trị di sản văn hóa của cá nhân và cộng đồng đang nắm giữ. Nâng cao ý
thức bảo vệ và duy trì các nghề thủ công truyền thống. Đối với nghề thủ công
truyền thống, các hoạt động góp phần thúc đẩy tái sản xuất, nâng cao chất
lượng và mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu của công chúng, mở rộng khả
năng tìm kiếm thị trường mới, hứa hẹn cơ hội tăng việc làm cho người dân…
Đó là những cơ hội góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cùng như đẩy lùi đói nghèo tại vùng sâu vùng xa. Từ những hoạt động
trình diễn, giao lưu tại bảo tàng, các sản phẩm thủ công của người dân được du
khách trong và ngoài nước biết đến ngày càng nhiều. Nhiều thợ thủ công đã
nhận được những lời mời trình diễn và các đơn đặt hàng của Việt Nam cũng
như nước ngoài.
Hơn thế nữa, BTDTHVN kết nối cộng động trong và ngoài nước qua
hoạt động giao lưu văn hóa tại bảo tàng. Các nghệ nhân dân gian trong
chương trình đã có những giao lưu trao đổi về nghề nghiệp, nhất là những
nghề có nhiều nét tương đồng. Những nghệ nhân dân gian của Việt Nam đã
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm làm diều của nghệ nhân Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thí dụ qua trao đổi họ đã nhận ra về các bước làm diều cơ bản giống nhau,
74
những kinh nghiệm chọn tre, vào khung, căng dây khá là giống nhau tuy nhiên
ở Hàn Quốc và Nhật Bản đã ứng dụng những công nghệ tiên tiến để tạo ra
nhiều mẫu mã hơn như vẽ/in các hình liên quan đến câu chuyện dân gian của
Nhật trên con diều, đưa hình ảnh quốc kỳ vào con diều của Hàn Quốc... Nhóm
Hàn Quốc đã gợi ý một số cách thức trong đổi mới làm diều để nhóm Việt
Nam tham khảo. Qua việc vừa trao đổi kinh nghiệm trong công việc vừa trò
chuyện về cuộc sống đời thường hay câu chuyện khó khăn làm nghề, giữ nghề
các nghệ nhân đã học hỏi và chia sẻ cảm thông cho nhau. Câu chuyện này
không giới hạn trong phạm vi lễ hội mà còn được mang về nhà, về nước để
chia sẻ với gia đình, bạn bè, cộng đồng của những người trình diễn. Vậy là,
câu chuyện nhỏ, câu chuyện đời thường của mỗi người trình diễn đã vượt ra
khỏi biên giới đến với những cộng đồng mới ở những quốc gia mới. Điều đó,
tạo nên những hiểu biết lẫn nhau, sự cảm thông sâu sắc từ đó mỗi cá nhân, mỗi
cộng đồng tự nhận thấy giá trị văn hóa của dân tộc mình để nâng cao ý thức
bảo vệ và gìn giữ văn hóa dân gian. Rõ ràng việc giao lưu văn hóa trong bối
cảnh hội nhập quốc tế góp phần làm tăng cường tình hữu nghị đoàn kết dân tộc
và liên dân tộc.
Song song với việc giao lưu văn hóa, vấn đề quảng bá văn hóa cũng
được phát huy vai trò. Các nước cùng tham gia vào sự kiện này có cơ hội
quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa của nhau cũng như cho các
nước khác. Nhờ tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa đa dạng, phong phú
mang tính khu vực nên những thông tin về BTDTHVN và các đối tác tham gia
ngày càng cập nhật và lan tỏa rộng rãi đến công chúng trong và ngoài nước.
Trung bình mỗi chương trình khoảng 40 lượt phát sóng trên đài phát thanh và
đài truyền hình phản ánh về chương trình. Đặc biệt các sự kiện này đã được
xuất hiện trong những chương trình truyền hình có nhiều người quan tâm như
bản tin Thời sự (VTV1, VTV2, VTV4, HTV1, TTX, An TV), chương trình
Chào buổi sáng, Điểm hẹn văn hóa (VTV1)… Trong đó có các kênh VTV4 là
kênh tiếng Việt dành cho người Việt Nam ở nước ngoài. Là kênh thông tin văn
hóa, chính trị, kinh tế của Việt Nam dành riêng cho kiều bào Việt Nam ở xa tổ
quốc. Kênh có các chương trình du lịch và văn hóa về Việt Nam. Một số
chương trình thời sự tiếng Anh thuyết minh tiếng Việt và các bộ phim Việt 75
Nam nổi tiếng với phụ đề tiếng Anh. Hay kênh VTC 10 là kênh phát triển
phong phú, đa dạng về các chương trình truyền hình nhằm giới thiệu đến bạn
bè quốc tế về một Việt Nam đang phát triển và hội nhập quốc tế. Đây là nhưng
kênh thông tin truyền tải, quảng bá hình ảnh đất nước con người của các quốc
gia tại Việt Nam và ra các nước rất nhanh chóng và hiệu quả. Không chỉ dừng
ở việc quảng bá hình ảnh qua truyền hình các hoạt động của BTDTHVN còn
được đưa tin qua Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), trong đó có hệ phát thanh
Đối ngoại (VOV5) của Đài Tiếng nói Việt Nam là kênh dành cho người Việt
Nam và người nước ngoài ở các nước trên thế giới được phát trên sóng ngắn
và sóng trung với các chương trình phát thanh bằng 12 thứ tiếng gồm tiếng
Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Bắc Kinh, Đức, Lào, Thái Lan,
Campuchia, Indonesia và tiếng Việt dành cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ
quốc. VOV5 còn được phát trên sóng FM có thể nghe được ở Hà Nội, Quảng
Ninh, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận gồm các chương trình phát
thanh bằng 12 thứ tiếng như trên dành cho cộng đồng người nước ngoài đang
sống và làm việc tại Việt Nam và người Việt Nam biết ngoại ngữ. Ngoài ra,
mỗi hoạt động còn được hàng trăm bài báo đưa tin trên các loại báo khác nhau
bao gồm cả báo tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp như báo Vietnamnews,
VN plus,Thanhniennews.com, Tuoitre news.vn, The Saigontime.vn,
Le‟Courre, Báo Dân trí, Thanh Niên, Lao động, Nhân dân, Tuổi trẻ… Nhờ nội
dung phong phú, đa dạng và các cơ quan báo chí kịp thời phản ánh trên các
phương tiện thông tin đại chúng các hoạt động giao lưu văn hóa của
BTDTHVN đã tạo nên được quan tâm của công chúng đến Việt Nam cũng như
các nước trong khu vực. Sự đóng góp này là một phần quan trọng trong việc
quảng bá hình ảnh của 3 quốc gia đến bạn bè trong và ngoài nước.
3.2. Một số hạn chế trong việc giới thiệu văn hóa của 3 quốc gia
Qua tổ chức các hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia,
BTDTHVN đã đạt được một số kết quả đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình
76
triển khai và phối hợp chúng tôi cũng nhận thấy một số bất cập/ khó khăn.
Thứ nhất, việc mời người dân đến trình diễn trong các hoạt động giao
lưu văn hóa khác nhau ở mỗi địa phương/ quốc gia có những yêu cầu riêng,
bởi vậy việc đáp ứng các nhu cầu, thói quen, phong tục tập quán hết sức đa
dạng đó là điều không dễ. Mỗi một hoạt động của bảo tàng trung bình cần huy
động sự tham gia của khoảng 100 nghệ nhân dân gian đến từ các địa phương/
quốc gia khác nhau. Các nghệ nhân dân gian có thể là người dân tộc thiểu số
hay người nước ngoài, họ có thể đến từ vùng đồng bằng, vùng miền núi hay từ
những quốc gia ngoài Việt Nam như ở Hàn Quốc, Nhật Bản… Tất cả các yếu
tố đó phần nào tạo nên sự đa dạng, phức tạp hay nói cách khác là những khó
khăn cho mỗi hoạt động. Nhu cầu tổ chức hoạt động của bảo tàng cần tăng
cường giới thiệu văn hóa của các dân tộc vùng sâu vùng xa - nơi có nhiều dân
tộc thiểu số sinh sống, đặc biệt ưu tiên các dân tộc lần đầu tiên đến trình diễn
hoặc các dân tộc ở nước ngoài ngày càng cao. Để tiếp cận và mời được những
nhóm dân tộc này đòi hỏi phải có những chuẩn bị kỹ lưỡng, những chuyến đi
nghiên cứu và làm việc với họ trước khi họ chính thức tham gia. Điều đầu tiên
chúng tôi hay gặp phải đó là sự từ chối không muốn ra khỏi bản làng, không
muốn đi xa gia đình. Đây là một tâm lý dễ hiểu bởi hầu hết họ là người lần đầu
đi xa nhà, lần đầu đến BTDTHVN để trình diễn. Họ chưa hiểu được các công
việc của bảo tàng có ý nghĩa như thế nào đối với cá nhân và cộng đồng của
chính họ. Và nhiều người trong số họ thường cho rằng các công việc họ đang
làm rất bình thường, chuyện đời thường hằng ngày chứ không có gì cần phải
trình diễn/ biểu diễn hay giới thiệu. Đó là những tâm lý và suy nghĩ khiến
chúng tôi phải dành nhiều thời gian thuyết phục. Từ giải thích về ý nghĩa công
việc của bảo tàng đang làm, đang muốn giúp đỡ cộng đồng, đến lấy các ví dụ
dẫn chứng về những lợi ích, ý nghĩa của các nghệ nhân đã tham gia trong
chương trình ở bảo tàng… đã giúp chúng tôi dần dần thuyết phục họ. Một điều
nữa khi làm việc với đa dạng các nghệ nhân trình diễn tại bảo tàng, chúng tôi
cố gắng thấu hiểu và chia sẻ với từng trường hợp từng nhóm, làm sao phải
điều chỉnh các hoạt động hài hòa với những thói quen, phong tục tập quán
riêng. Chẳng hạn, có người đã nhất trí tự giới thiệu về loại hình văn hóa của
77
dân tộc mình khi trình diễn tại bảo tàng nhưng trên thực tế họ lại không nói vì
ngại đứng trước đám đông hoặc những ngày đầu mới xa gia đình họ thấy buồn,
không có tâm trạng để nói. Hay có dân tộc lại có thói quen uống rượu khi ăn
bởi vậy ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quá trình trình diễn trước công chúng.
Đôi khi cũng có những trường hợp vui vẻ bỏ vị trí trình diễn đi chơi/ chụp ảnh
với người nước ngoài hoặc có những phát biểu mang tính cá nhân với giới
truyền thông. Ngoài ra, việc mời các nghệ nhân dân gian nước ngoài cũng vô
cùng khó khăn bởi chi phí đi lại rất cao và họ có những yêu cầu khá kỹ càng
trong việc sinh hoạt tại Việt Nam. Nghệ nhân dân gian Nhật Bản là một ví dụ,
khi đặt vấn đề mời nghệ nhân sang trình diễn Trà đạo họ yêu cầu phải có
người nhà đi cùng để chăm sóc, phải ở đúng khách sạn của người Nhật hay ở,
bữa ăn hằng ngày theo đồ ăn của Nhật… Điều này cũng tạo ra những khó khăn
cho chúng tôi lúc ban đầu. Chúng tôi đã phải tìm hiểu lại các nhu cầu, thói
quen của người Nhật và thuyết phục họ theo hướng sắp xếp của bảo tàng. Tất
cả những tình huống, câu chuyện thực tế trên đều liên quan trực tiếp đến nếp
nghĩ, thói quen, phong tục tập quán riêng từng cá nhân, từng nhóm. Bởi vậy,
nhiệm vụ đặt ra với người tổ chức phải luôn tìm hiểu các đặc điểm, sở thích
của cá nhân/ nhóm người trình diễn; tiên lượng và tháo gỡ được những khó
khăn bằng cách hài hòa các nhu cầu; không được phép sai sót làm ảnh hưởng
đến các hoạt động trình diễn.
Thứ hai, tạo bối cảnh phục vụ hoạt động trình diễn ở bảo tàng sao cho
sát thực và gần gũi với địa phương là điều khó khăn. Những buổi trình diễn và
giao lưu văn hóa chỉ thành công khi người trình diễn (chủ thể văn hóa) được
bố trí trong không gian, môi trường ở địa phương. Họ sẽ cảm thấy thoải mái,
tự tin và sẵn sàng chia sẻ. Chúng tôi thường nghiên cứu đặc điểm từng loại
hình trình diễn để có phương án tạo dựng môi trường phục vụ trình diễn tránh
được vấn đề “sân khấu hóa”. Hầu hết các hoạt động đều được bố trí trong
khung cảnh tự nhiên hạn chế dùng sân khấu để người trình diễn cảm thấy gần
gũi với mọi người. Cách bố trí vị trí cho công chúng cũng được chú ý, không
có khoảng cách nào giữa họ với người trình diễn như chúng tôi không dây
78
ngăn cách, hạn chế dùng ghế cho hoạt động, một số hoạt động còn dùng chiếu
như trình diễn làm đèn ông sao, làm ông tiến sỹ giấy… cả nghệ nhân và khách
tham quan ngồi quây quần trên chiếu vừa làm vừa trò chuyện giống như một
gia đình. Bên cạnh việc tạo ra môi trường trình diễn gần gũi với thực tế việc
lựa chọn loại hình trình diễn nào để giới thiệu với công chúng cũng vô cùng
quan trọng. Thực tế, có những loại hình nghệ thuật hay nghề truyền thống rất
hay nhưng chúng ta không thể trình diễn tách ra khỏi cộng động hay tách ra
khỏi phần nghi lễ. Ví dụ như khi nghiên cứu tết Trung thu của Hàn Quốc
chúng tôi nhận thấy việc cả gia đình người Hàn mặc trang phục truyền thống,
đứng xếp hàng trước bàn thờ cùng cúi lạy tổ tiên đồng thời đọc lời khấn rất ấn
tượng và hay. Nhưng phần nghi lễ và hoạt động này không thể tách rời môi
trường thật để đưa về bảo tàng trình diễn, vì thế không thể chọn trình diễn này.
Thứ ba, trong quá trình sử dụng trưng bày để khai thác giới thiệu văn
hóa dân gian của các nước chúng tôi đã gặp phải khó khăn trong việc lựa chọn
ngôn ngữ trong trưng bày. Theo tiêu chuẩn của bảo tàng các bài giới thiệu
trưng bày luôn sử dụng 3 ngữ Việt - Pháp - Anh, nên khi trưng bày giới thiệu
về văn hóa của Hàn Quốc hay Nhật Bản đã gây khó khăn trong quyết định sử
dụng ngôn ngữ nào. Một số ý kiến cho rằng chỉ sử dụng 3 ngôn ngữ theo qui
định của bảo tàng, một số khác cho rằng sử dụng cả 4 ngữ tức là thêm ngôn
ngữ của Hàn Quốc/ Nhật Bản hay có ý kiến lại muốn bỏ đi tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp và thay vào đó sử dụng ngôn ngữ của chủ thể văn hóa để thể hiện
sự tôn trọng chủ thể cũng như đáp ứng mong muốn của đối tác. Chúng tôi đã
dành nhiều thời gian cho thảo luận này làm thế nào để vừa duy trì được trưng
bày theo tiêu chuẩn của bảo tàng vừa giải quyết được vấn đề sử dụng ngôn ngữ
của chủ thể văn hóa mà không ảnh hưởng đến việc thiết kế đồ họa. Sử dụng 3
ngôn ngữ như thông lệ là điều bình thường không cần thảo luận nhưng nếu sử
dụng 4 ngôn ngữ trên một panô sẽ ảnh hưởng đến thiết kế bởi quá nhiều chữ là
điều bảo tàng không muốn vì sẽ tạo cảm giác khó đọc, không thoải mái cho
công chúng, hơn nữa các kiểu chữ của Hàn Quốc và Nhật Bản không phải là
dạng chữ Latinh nên cũng có những khó khăn nhất định trong thiết kế… Nếu
79
bỏ đi tiếng của chủ thể văn hóa cũng là không nên bởi ngôn ngữ của mỗi quốc
gia thể hiện niềm tự hào dân tộc. Cuối cùng chúng tôi quyết định vẫn thực hiện
theo tiên chuẩn của bảo tàng, vẫn giữ ngôn ngữ của chủ thể văn hóa và không
làm ảnh hưởng đến thiết kế trưng bày bằng cách thiết kế nội dung giới thiệu
trên panô với 3 ngữ qui chuẩn, riêng ngôn ngữ của chủ thể văn hóa thiết kế
theo dạng sách cứng và cùng trưng bày trong phòng trưng bày chuyên đề.
Thứ tư, vì các hoạt động này tổ chức mang tính chất sự kiện chỉ diễn ra
trong vài ngày, đồng thời thế mạnh của BTDTHVN là khu ngoài trời nên các
hoạt động chủ yếu khai thác tại không gian ngoài trời. Chính vì vậy yếu tố thời
tiết ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động. Không gian ngoài trời của bảo
tàng khá rộng và là nơi trưng bày các ngôi nhà dân gian. Chúng tôi thường bố
trí các hoạt động trình diễn xung quanh các ngôi nhà để tận dụng không gian
văn hóa. Tuy nhiên, có một thực tế nếu thời tiết mưa hoặc nắng to sẽ không có
công chúng nào muốn tham gia các hoạt động ngoài trời, nhất là gia đình có trẻ
em thường sẵn sàng hủy các cuộc đi chơi như thế này. Dựa trên nhu cầu và
tâm lý của công chúng chúng tôi thường xử lý tình huống bằng cách căng dù,
dựng nhà bạt, dùng ô che… nhưng điều này chỉ có thể khắc phục tạm thời khi
mưa không quá to hoặc trời không quá nóng. Năm 2009 chúng tôi đã phải tạm
dừng hoạt động trình diễn Trà đạo trong một buổi vì thời tiết quá mưa, mái che
không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu của địa điểm trình diễn. Tuy nhiên
chúng tôi cũng linh hoạt trong xử lý việc này thay việc xem và thưởng thức
Trà đạo bằng cách mời nghệ nhân chỉ trò chuyện giao lưu với công chúng. Hai
bên chia sẻ những hiểu biết về Trà đạo, về nghệ thuật pha trà, câu chuyện của
nghệ nhân trong nghệ thuật này… Bằng cách xử lý khéo léo các tình huống bất
ngờ trong quá trình tổ chức hoạt động, chúng tôi đã đáp ứng được phần nào
nhu cầu của công chúng và tránh được những phản ứng không tích cực từ phía
công chúng hoặc người trình diễn.
Thứ năm, số lượng khách tham quan là thước đo kết quả của một hoạt
động. Chiến lược truyền thông quảng bá cho từng hoạt động là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp số lượng khách tham quan. Mặc dù trong những năm qua bảo
80
tàng đã rất quan tâm đến công tác truyền thông song vẫn thể hiện một số bất
cập. BTDTHVN chưa có kế hoạch dài hơi trong việc tổ chức các hoạt động bởi
vậy công tác truyền thông không thể lên một kế hoạch dài hạn. Điều này dẫn
đến hạn chế trong việc triển khai các kênh truyền thông có đối tượng công
chúng đi theo tập thể, nhất là khách nước ngoài đặt tour đi qua công ty du lịch.
Chúng tôi thường xuyên gửi thông báo tới các công ty du lịch trước khi hoạt
động diễn ra những hầu hết các thông báo đó chỉ phù hợp với tour lẻ đi 1-2
người, những tour đông người thường có kế hoạch sắp xếp trước hàng năm.
Chính vì thế đối tượng khách nước ngoài đến tham gia chủ yếu từ những tour
lẻ và tour có sự sắp xếp ngẫu nhiên trùng ngày. Những nhóm học sinh đi tham
quan theo lớp hoặc trường cũng chưa được tiếp thị bài bản. Mặc dù
BTDTHVN là một điểm đến tham quan, học tập của nhiều trường song những
dịp có hoạt động vẫn chưa thu hút được nhóm này. Lý do một phần do cơ chế
hoạt động của ngành giáo dục nên nhà trường gặp khó khăn khi bố trí học sinh
đi vào những dịp này mặt khác bảo tàng chưa thực sự nghiên cứu cách thức
phối hợp chặt chẽ với nhà trường để thúc đẩy việc cho học sinh tham gia vào
các hoạt động này. Ngoài ra, các thông tin phục vụ truyền thông không có kế
hoạch sớm cũng làm hạn chế việc đưa tin trên báo, truyền hình. Một số báo,
tạp chí ra theo quý hoặc theo tháng hay các kênh truyền hình lên kế hoạch
trước hàng tháng bởi vậy các thông tin của bảo tàng gửi đến họ trong một thời
gian ngắn nên không thể sắp xếp quảng bá được.
Như vậy, có thể nói để quá trình khai thác các yếu tố văn hóa dân gian
trong việc giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia một cách hiệu quả và tránh
được một số bất cập như đã nêu ở trên. BTDTHVN cần có những kế hoạch dài
hơi, chuẩn bị và lường trước mọi tình huống trước, trong và sau quá trình tổ
chức.
3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian trong xã hội hiện nay
Từ nghiên cứu quá trình khai thác các yếu tố văn hóa dân gian qua tổ
chức hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia, BTDTHVN đã rút ra
được những bài học sâu sắc trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
dân gian. Đây là một trường hợp nghiên cứu cụ thể giúp chúng tôi phát hiện ra 81
những ra những thế mạnh cũng như thấy được những bất cập/khó khăn trong
công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian. Từ đó hình
thành nên các phương pháp/ cách thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
dân gian trong xã hội hiện nay.
Bảo tàng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa dân gian. Một thực tế chỉ ra rằng công cuộc bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa cần có sự phối hợp từ nhiều phía, nhiều yếu tố. Trong số đó
phải kể đến vai trò hàng đầu là cộng đồng- những chủ thể văn hóa. Để vai trò
của cộng đồng được phát huy thực sự chúng ta cần giúp họ tự nhận diện ra các
giá trị di sản văn hóa mà họ đang nắm giữ để từ đó nâng cao ý thức duy trì,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa không phải là cái
gì xa lạ mà nó ở quanh mỗi chúng ta, đó là những cái trong đời thường, cái mà
người dân nắm giữ. Đó là những sinh hoạt văn hóa văn nghệ, nghề thủ công
truyền thống, nghi lễ tín ngưỡng dân gian… Tuy nhiên, không phải ai cũng có
thể nhận diện ra các giá trị văn hóa đó mà có rất nhiều người coi đó là cái bình
thường, không đáng quan tâm. Trên thực tế còn có những người dân thường
suy nghĩ những hình thức văn hóa họ đang nắm giữ bình thường, đơn giản, lúc
vui lúc nhà rỗi thì thực hành, ai cũng có thể làm được hoặc họ không nhận
được lợi ích gì… bởi vậy khi bảo tàng đặt vấn đề mời họ tham gia các hoạt
động hay bị từ chối. Điều quan trọng để người dân nhận ra các giá trị văn hóa
thì bảo tàng hay các cơ quan văn hóa cần tạo môi trường thuận lợi để họ thể
hiện và nhận diện văn hóa. Trong chuyến đi nghiên cứu về tết Trung thu của
Hàn Quốc chúng tôi đã gặp một phụ nữ hát rất hay. Chúng tôi hỏi chuyện mới
biết bà ta có thể múa điệu múa truyền thống trong ngày tết Trung thu điệu
ganggangsulle- đây là điệu múa đặc trưng của trung thu đã bị mai một. Những
điều này chẳng ai biết giá trị, thậm chí cả con gái của bà cũng mới nghe lần
đầu. Còn bà thì cho rằng “đấy là việc bình thường của quá khứ, bọn trẻ bây giờ
có còn quan tâm đâu mà nói và con gái tôi chắc cũng chẳng bao giờ múa
đâu…” Song thực tế, trong khi trao đổi với người con gái bà lại thể hiện sự
82
quan tâm và muốn tìm hiểu về điều này từ người mẹ. Như vậy, qua câu chuyện
này chúng ta thấy điều quan trọng phải giúp người dân- chủ thể văn hóa- hiều
và nhận diện được các giá trị văn hóa, để chính họ là người bảo tồn văn hóa
đó. Trong môi trường nào là bảo tàng hay trung tâm văn hóa hoặc nơi cộng
đồng sinh sống… chúng ta cần tạo ra những cơ hội giao lưu để chủ thể văn hóa
được tự trình bày, nhận được những chia sẻ, trao đổi từ công chúng hay chính
những người trong cộng đồng của họ hoặc những cộng đồng khác. Những môi
trường có nhiều sự tương tác sẽ là cái nôi nuôi dưỡng, kích thích các sáng tạo,
niềm vui, sự say mê công việc, nhận thức đích thực về giá trị văn hóa của cộng
đồng. Từ đó khiến chủ thể văn hóa tự nâng cao ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc.
Bảo tồn các giá trị văn hóa ngay trong cộng đồng. Giá trị văn hóa đó
được sống, phát triển trong cộng đồng và môi trường văn hóa của chính nó thì
mới có sức bền lâu dài. Các nhà quản lý văn hóa có thể hướng dẫn chủ thể văn
hóa tổ chức các hoạt động tại địa phương. Vào các dịp lễ tết chúng ta đóng vai
trò là người hướng dẫn người dân thể hiện các loại hình văn hóa tại địa phương
dựa trên nguyên tắc tránh việc làm thay làm hộ họ. Nếu một sinh hoạt văn hóa
được tổ chức theo ý nguyện của đa số người dân trong một vùng hay một bản
thì chính họ mới thấy đó là sản phẩm, là hơi thở và cuộc sống của họ. Họ chắc
chắn sẽ yêu quí và gìn giữ nó. Có một ví dụ minh họa sống động cho điều này,
tại Bảo tàng DTHVN khi tiến hành làm các ngội nhà truyền thống của người
Dao. Chúng tôi đã gặp phải nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có ý kiến cho
rằng bảo tàng đã làm sai nhà Dao, không đúng, không điển hình là nhà của
người Dao. Song, trên thực tế, bảo tàng DTHVN không đi tìm cái nguyên mẫu,
cái điển hình mà chúng tôi tìm những con người thật, những địa chỉ thật để
phản ánh cuộc sống, văn hóa đương đại của chính người dân bình thường. Và
quan trọng hơn là ngôi nhà Dao của chúng tôi được chính đồng bào Dao coi là
ngôi nhà của họ. Khi nhà hỏng họ sẵn sàng phối hợp với BTDTHVN để sửa
chữa, làm xong nhà họ ghi “đây là nhà của ông Bàn Văn Sấm”, khi họ đưa con
83
đi thi ở Hà Nội họ xin vào nhà đó để ở…
Chúng ta cần tôn vinh các giá trị văn hóa của cộng đồng. Khi cộng
đồng đã nhận diện, đã hiểu và bảo tồn tại chỗ, chúng ta luôn luôn cần củng cố
và tôn vinh các giá trị văn hóa đó. Chúng ta có thể giới thiệu, quảng bá các văn
hóa của địa phương, của quốc gia đến công chúng trong và ngoài nước. Điều
này như một nguồn sinh lực giúp các chủ thể văn hóa được khẳng định các giá
trị của chính minh cũng như khơi dậy tình yêu, niềm tự hào dân tộc và từ đó
tăng cường hiểu biết cũng như tự ý thức việc bảo tồn di sản. Trong đợt trình
diễn nhân dịp tết Trung thu Hàn Quốc tại BTDTHVN, chị Lee- Hyori tâm sự:
“Bình thường tôi vẫn hướng dẫn học sinh làm những chiếc hộp truyền thông
này, nhưng hôm nay khi trình diễn ở Viện Nam, có nhiều người tìm hiểu, tôi
thấy vui hơn, tự hào hơn nhiều. Tôi sẽ kể lại điều này với gia đình và bạn bè ở
Hàn Quốc. Và sau lần này, tôi sẽ rủ bạn bè tôi tiếp tục dạy cho bọn trẻ cách
làm hộp truyền thống này nhiều hơn nữa. Tôi rất vui.‟‟
Kết nối và xây dựng mối quan hệ với cộng đồng trên tinh thần hợp tác
đối tác và tôn trọng chia sẻ quyền lợi. Bảo tàng cần hiểu và làm việc, ứng xử
với cộng đồng như một đối tác. Bảo tàng không thể trưng bày hay tổ chức
trình diễn mà không đi nghiên cứu tại địa phương, không sử dụng tri thức dân
gian của những người dân. Ngược lại, người dân sẽ có nhiều cơ hội giao lưu,
quảng bá văn hóa khi phối hợp làm với bảo tàng. Mối quan hệ qua lại sẽ dẫn
đến sự chia sẻ quyền hạn cho hai bên. Chúng ta cần bỏ suy nghĩ làm cho cộng
đồng mà thay vào đó là làm với cộng đồng vì lợi ích hai bên. Theo đó, chúng
ta cần quan niệm cộng đồng như một đối tác cần tôn trọng, quan tâm, chăm
sóc và chia sẻ quyền hạn. Một yếu tố quan trọng khi làm với động đồng đó là
cần hiểu rõ vai trò của cộng đồng và nguyên tắc cơ bản làm việc với cộng
động: tôn trọng, lắng nghe, khai thác tối đa giọng nói chủ thể văn hóa …
Cần quan tâm, thúc đẩy bảo tồn di sản văn hóa bằng cách tạo môi trường để
văn hóa truyền thống được giới thiệu, sáng tạo và phát triển. Chúng ta cần phối
hợp tìm nhiều con đường để việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thật sự
phát triển bằng nội lực của chính loại hình di sản văn hóa đó. Như chúng ta đã
84
chứng kiến nhiều di sản văn hóa không thể sống nổi bởi không đáp ứng được
nhu cầu xã hội, không có môi trường, không có con người nuôi dưỡng. Thiết
nghĩ, bước đầu chúng ta nên xây dựng nền tảng giúp các di sản dần dần tự
“sống” bằng chính nội lực. Đó là, tạo môi trường cho di sản văn hóa được
“sống” có cơ hội thể hiện để có thể sáng tạo và phát triển. Ở đây, chúng ta có
thể tham khảo cách làm của Hàn Quốc về việc bảo vệ các Báu vật nhân văn
sống (living human treasures). Họ đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo tồn
“sống” các Báu vật nhân văn sống như đảm bảo trợ cấp, đảm bảo điều trị y tế
miễn phí, tạo môi trường truyền dạy cho thế hệ trẻ… Hoặc ít nhất chúng ta
cũng cần tạo cho các chủ nhân văn hóa có một chỗ dựa, một niềm tin. Bảo
tàng rất phù hợp với vai trò này. Bảo tàng có thể tổ chức các hoạt động giao
lưu nhằm giới thiệu, tôn vinh và quảng bá văn hóa. Bảo tàng cần kết nối nhiều
đầu mối trong và nước ngoài giúp cộng đồng có thể giao lưu, sáng tạo ra các
sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu hiện tại và phát triển. Bảo tồn phải gắn
chặt với thúc đẩy kinh tế sẽ đáp ứng được mong mỏi của người dân và là động
lực giúp các di sản tự “sống” bằng nội lực của chính mình. Nếu chúng ta biết
phối hợp gắn kết phát triển văn hóa với phát triển kinh tế và du lịch sẽ mang
lại những lợi ích kinh tế cho cộng đồng và xã hội. Trong xu hướng gắn kết văn
hóa với kinh tế cần làm trên cơ sở hài hòa giữa lợi ích của các thành phần xã
hội, các đối tác tham gia, đặc biệt là lợi ích của cộng đồng. Đây sẽ là cách huy
động được các nguồn lực xã hội, đặc biệt các chủ thể văn hóa cùng chung tay
góp sức cho công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian.
Đối với BTDTHVN, hướng đến xây dựng chương trình hoạt động dài hơi
và có quy mô, tầm cỡ khu vực và thế giới. Để hoạt động trình diễn văn hoá dân
gian đạt hiệu quả xã hội cao hơn, bảo tàng cần nghiên cứu xây dựng nội dung
các hoạt động trình diễn mang tính chủ động và lâu dài. Chúng ta có thể xây
dựng các chương trình khai thác các yếu tố văn hóa dân gian theo chủ đề, theo
khu vực địa lý, theo tộc người gắn với các dân tộc ở Việt Nam và các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhâp quốc tế
và toà nhà giới thiệu văn hóa Đông Nam Á sắp khai trương BTDTHVN cần
85
đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động trình diễn giao lưu giới thiệu văn hóa của các
nước với quy mô lớn hơn, mang tầm vóc quốc tế. Đây là một vấn đề đòi hỏi
phải có chiến lược lâu dài để khẳng định vai trò của BTDTHVN với tư cách là
một địa chỉ văn hóa tạo cơ hội cho công chúng tăng cường hiểu biết hơn nữa
về các dân tộc Việt Nam và các dân tộc sinh sống trong khu vực. Ngoài ra cần
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của bảo tàng. Trong bối cảnh hội nhập
hiện nay, khi tham gia hoạt động công chúng không còn “thụ động” nữa. Nhu
cầu của họ cần được trải nghiệm, giao tiếp, đối thoại, chia sẻ… Điều này đòi
hỏi các cán bộ ở bảo tàng phải có phương pháp tiếp cận khoa học, chủ động,
sáng tạo, thể hiện tính chuyên nghiệp cao. Để làm được điều này, lãnh đạo bảo
tàng cần quan tâm đầu tư đào tạo một đội ngũ cán bộ trẻ với những nhận thức
và quan niệm mới, hiện đại về nhân học, dân tộc học, bảo tàng học và các
ngành khoa học liên quan. Đội ngũ cán bộ này sẽ là lực lượng chủ chốt để đổi
mới bảo tàng tương lai nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của công
chúng trong bối cảnh hội nhập. Thêm nữa, BTDTHVN cần thấy rõ vai trò của
hợp tác quốc tế trong việc góp phần nâng cao nhận thức về chuyên môn và các
cách tiếp cận mới, đồng thời phát triển các dự án quốc tế để tạo điều kiện cho
các cán bộ của bảo tàng được tiếp xúc, học hỏi các chuyên gia, từ đó nâng cao
nhận thức và năng lực chuyên môn.
Trong văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nhấn
mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”. Bảo tàng là một thiết chế văn hoá
mang trách nhiệm phục vụ các lợi ích xã hội phi lợi nhuận. Đối với
BTDTHVN, một định hướng rõ ràng để tồn tại và phát triển luôn phải đổi mới
và đa dạng hoá các hình thức hoạt động. Tuy nhiên, trên thực tế kinh phí để tổ
chức những hoạt động trình diễn văn hóa dân gian rất hạn chế, không ổn định.
Trong những năm qua, nhờ thúc đẩy hợp tác quốc tế, tài trợ từ quốc tế đã góp
một phần quan trọng vào sự duy trì, phát triển các hoạt động giao lưu văn hóa
tại BTDTHVN. Những năm gần đây, BTDTHVN đã chuyển sang hoạt động
của mô hình của đơn vị sự nghiệp có thu (theo NĐ 43/2006/ NĐ- CP). Như
86
vậy, nếu chỉ dựa vào kinh phí từ các tổ chức nước ngoài thì không thể đáp ứng
được nhu cầu phát triển ngày càng lớn mạnh của bảo tàng. Vì thế, bảo tàng
phải tìm cách phát triến các hình thức hoạt động mới thu hút công chúng cũng
như mở ra các hình thức dịch vụ chuyên môn. Điều này phải được thực hiện
dựa trên một nguyên tắc nhất quán là tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá
trị truyền thống của văn hoá dân tộc. Một số hình thức dịch vụ có thể khai
thác: dịch vụ liên quan đến nghiên cứu khoa học như tổ chức các buổi hội
thảo, thuyết trình, tọa đàm, giao lưu văn hóa, xuất bản phim nhân học, phối
hợp với đài truyền hình làm phim khám phá văn hóa các dân tộc, bộ bưu thiếp
giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam…; các dịch vụ phục vụ nhu
cầu vui chơi giải trí như tổ chức tết Trung thu, tết 1/6, các trò chơi dân gian…;
dịch vụ phục vụ các đối tác tổ chức sự kiện, thuê vị trí hoạt động… Các hoạt
động này triển khai sẽ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của công chúng trong và
ngoài nước. Như vậy, để có thể tổ chức hoạt động giao lưu văn hoá dân gian,
BTDTHVN cần chủ động tìm kiếm các nguồn tài trợ và đẩy mạnh khai thác
các nguồn tiềm năng tại bảo tàng. Đồng thời tranh thủ phát triển các hỗ trợ của
các cơ quan, tổ chức, các nhân trong và ngoài nước như Đại sứ quán các nước,
Trung tâm Văn hóa, các tổ chức phi chính phủ, Văn phòng UNESCO tại Việt
Nam, các trường đại học, các Viện nghiên cứu, các bảo tàng trong nước và
quốc tế, UBND và Sở văn hoá thể thao và du lịch các tỉnh và địa phương… Đã
đến lúc BTDTHVN phải “ coi kinh tế như một mục tiêu, một sự định hướng
lành mạnh và phát triển, nhưng vẫn phải coi thiên chức của văn hoá nói chung
(trong đó có văn hoá bảo tàng), mà giá trị của nó vẫn phải dựa trên nguyên tắc
hiệu quả xã hội, hiệu quả giáo dục, hiệu quả hoàn thiện nhân cách con người,
không chỉ khẳng định, mà còn giới thiệu văn hoá Việt Nam - thống nhất trong
đa dạng - với đông đảo người xem, cả trong và ngoài nước là cơ bản, theo
đúng nghĩa bảo tàng của mọi người và vì mọi người. Đó cũng chính là thước
đo giá trị nhân văn của văn hoá, của sản phẩm văn hoá, trong đó có
87
BTDTHVN” [12, tr. 58].
Tiểu kết
Thông qua việc tổ chức khai thác các yếu tố văn hóa dân gian trong hoạt
động giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam tại
BTDTHVN, chúng tôi đã rút ra những ưu điểm và một số bất cập/ khó khăn.
Việc tổ chức thành công hoạt động giao lưu văn hóa của 3 quốc gia đã
thể hiện những ưu điểm góp phần giáo dục thế hệ trẻ nâng cao ý thức tôn trọng
và bảo vệ di sản văn hóa; quảng bá những sản phẩm thủ công truyền thống đến
các nước trên thế giới; kết nối cộng động trong và ngoài nước; làm cơ sở vững
chắc cho bảo tàng phát triển các hoạt động giao lưu văn hóa với các nước
trong và ngoài khu vực trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các nước cùng tham
gia vào sự kiện này có cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa
cùng nhau. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận ra những điểm hạn chế như vấn
đề mời nghệ nhân ở xa, mời nghệ nhân nước ngoài, làm việc trong bối cảnh đa
dạng các thành phần, bảo tàng chưa có kế hoạch dài hạn để phát triển hoạt
động giao lưu văn hóa, việc phối kết hợp với địa phương và quốc tế…
Từ những ưu điểm và hạn chế trong việc tổ chức khai thác các yếu tố
văn hóa dân gian qua hoạt động giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật
Bản và Việt Nam đã hình thành nên những cách thức, phương pháp mang tính
thực tiễn đóng góp trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân
88
gian trong xã hội hiện nay.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu văn hóa ngày càng
được mở rộng và đa chiều. Chính vì thế, các di sản văn hóa phi vật thể
(DSVHPVT) đang đứng trước những nguy cơ bị mai một, thậm chí biến mất
bởi những thách thức của thời gian, của ý thức cá nhân/cộng đồng và bởi chính
quá trình toàn cầu hóa… Bởi vậy công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa phi vật thể cần được đánh giá, nhìn nhận một cách sâu sắc, đặt trong sự
quan tâm của toàn xã hội. Bảo tàng là một thiết chế văn hóa rất phù hợp thực
hiện nhiệm vụ này. Đứng trước trách nhiệm to lớn trong việc bảo vệ di sản văn
hóa của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng, BTDTHVN đã trăn
trở với suy nghĩ làm gì để gìn giữ, phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa dân
gian? Cần khai thác các yếu tố văn hóa dân gian như thế nào để giới thiệu đến
công chúng trong bối cảnh giao lưu, hội nhập hiện nay? Việc giới thiệu tết
Trung thu của 3 quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam đã thể hiện trách
nhiệm của BTDTHVN trong việc góp phần gìn giữ, phát huy và bảo tồn các
giá trị văn hóa dân gian trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hoạt động giới thiệu tết Trung thu của 3 quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam mang ý nghĩa quan trọng đối với công chúng Việt Nam và nước
ngoài. Đặc biệt, nó còn đóng vai trò nền tảng trong việc nâng cao hiểu biết,
tăng cường phát triển giao lưu văn hóa ở khu vực cũng như trên thế giới. Có
thể nói trên địa bàn Hà Nội và ven Hà Nội vào dịp tết Trung thu ngày càng có
nhiều đơn vị tổ chức hoạt động nhằm thu hút công chúng song BTDTHVN
luôn được đánh giá là một điểm hấp dẫn vì hoạt động tết Trung thu ở đây
mang đậm nét văn hóa dân gian cũng như thể hiện tầm vươn ra quốc tế trong
bối cảnh hội nhập. Báo Lao động đưa tin ngày 28/9/2009 trong bài Khơi dậy
nét đẹp trung thu truyền thống “Cuộc sống thời hội nhập, đồ chơi ngoại nhập
có thời điểm chiếm 90% thị phần. Song nếu đến Bảo tàng Dân tộc học VN
những ngày này, được thấy nụ cười rạng rỡ của những thiếu nhi khi được tham
gia các trò múa lân, đi cà kheo, nhảy lò cò, tung túi đậu, ném vòng tròn, mặt
cười, cờ Nhật; được hướng dẫn làm đồ chơi truyền thống: đèn ông sao, đèn cù, 89
làm diều… mới cảm nhận được rằng, tại đây, đồ chơi trung thu cổ truyền của
Việt Nam được lên ngôi, khác hẳn với các loại đồ chơi ngoại nhập đắt tiền”;
Báo Hà Nội mới đưa tin ngày 14/9/2008 “tết Trung thu không chỉ là dịp để các
em phá cỗ trông trăng, chơi các trò chơi dân gian, mà còn là dịp để các em tìm
về cội nguồn, góp phần gìn giữ di sản văn hóa của cha ông. Chính vì lý do này,
Bảo tàng Dân tộc học - điểm vui chơi không thể thiếu của trẻ em Hà Nội trong
mỗi dịp tết Trung thu”; Báo Nhân dân, ngày 21/9/2007 đưa tin về tết Trung thu
2007: Ngày hội văn hóa Việt – Hàn “Đông đảo du khách trong và ngoài nước
đến Bảo tàng chứng kiến một lễ hội trung thu rực rỡ nhiều màu và đậm đà bản
sắc truyền thống. Không chỉ có những trò chơi, đồ chơi dân gian Việt Nam –
vốn là đặc sản của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam mỗi dịp Trung thu trong
những năm gần đây, năm nay còn có sự góp mặt của nghiều phần trình diễn,
trưng bày và trò chơi đặc sắc của Hàn Quốc”… Không như những điểm tham
quan khác, đến BTDTHVN du khách được trải nghiệm thực tế và chiêm
ngưỡng những cuộc trình diễn văn hóa dân gian, phong tục tập quán cũng như
trực tiếp giao lưu với nghệ nhân dân gian đến từ nhiều dân tộc trong và ngoài
nước. Mỗi chương trình hoạt động đều được xây dựng phong phú và hữu ích
đáp ứng đa dạng nhu cầu của công chúng cả Việt Nam và nước ngoài. Những
hoạt động giới thiệu văn hoá nhân dịp tết Trung thu với sự tham gia trực tiếp
của người dân đến từ các địa phương, quốc gia khác nhau có ý nghĩa tích cực
đối với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá. Qua đó, nhiều giá trị văn hóa
truyền thống được giới thiệu tạo cơ hội cho công chúng, nhất nhóm công
chúng trẻ tuổi có điều kiện tiếp cận, trải nghiệm thực tế, tăng cường hiểu biết,
phát triển giao lưu quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho những người dân đến
từ các địa phương/ quốc gia khác tự giới thiệu với du khách về văn hóa và
cuộc sống của chính cộng đồng mình. Điều này hiện quan điểm tiếp cận mới
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa toàn cầu và có thể coi đó là
một trong những đổi mới thành công của Bảo tàng góp phần đáng kể trong
công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Chình vì thế mà hình
ảnh của BTDTHVN ngày càng được nâng cao và khẳng định vị thế trong nước
90
và quốc tế.
Thông qua nghiên cứu đề tài “Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và việc
giới thiệu tết Trung thu của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam”, chúng tôi
muốn khẳng định hoạt động tổ chức giới thiệu văn hoá của các nước tại
BTDTHVN là một trong chủ trương mang tính định hướng về việc mở rộng
qui mô hoạt động cũng như mong muốn vươn ra thế giới để quảng bá và giới
thiệu văn hóa của Việt Nam cũng như các nước trong khu vực trong bối cảnh
giao lưu và hội nhập quốc tế. Qua cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân
gian thể hiện hướng đi, cách tiếp cận mới của BTDTHVN trong việc bảo tồn,
gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Từ các quan điểm giới
thiệu khai thác văn hóa truyền thống trong cuộc sống đời thường, cái hiện
dạng/ đương đại người dân đang duy trì và thực hành một cách đa dạng và
sống động; đề cao tôn vinh vai trò của chủ thể văn đến làm thế nào để văn hóa
dân gian sống được trong cộng đồng và ngược lại đã tạo nhiều cơ hội mới cho
chủ thể văn hóa cũng như công chúng. Như vậy, Bảo tàng đã tạo ra hiệu quả
kép vừa giáo dục công chúng nâng cao hiểu biết và ý thức bảo tồn di sản văn
hóa, vừa kích lệ các chủ thể văn hóa tình yêu, niềm tự hào và ý thức bảo tồn di
sản mà mình đang nắm giữ. Một số vấn đề đặt ra trong luận văn tập trung vào
việc giao lưu và quảng bá văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay;
những hạn chế trong việc giới thiệu văn hóa của các nước tại Bảo tàng, đặc
biệt là những biện pháp trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân
gian trong xã hội hiện nay.
Nói tóm lại, qua nghiên cứu cách thức khai thác các yếu tố văn hóa dân
gian trong việc giới thiệu tết Trung thu của các quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam, BTDTHVN đã thể hiện được các quan điểm, hướng đi, cách tiếp
cận mới của mình. Chúng tôi mong muốn những bài học kinh nghiệm quý báu
trong công tác nghiên cứu tổ chức hoạt động hay những đề xuất trong việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian của luận văn này có thể áp dụng
vào thực tiễn; đồng thời những kết quả này sẽ là một số gợi ý góp phần cho
các nhà Bảo tàng học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa… xây dựng các
chính sách, đường lối trong công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
91
dân gian trong trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Toan Ánh (2005), Nếp cũ - hội hè đình đám, quyển thượng, tái bản, Nxb Trẻ,
Tp Hồ Chí Minh.
2. Anne Gregory (2010), Sáng tạo chiến dịch PR, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2010), Nếp cũ - trẻ em chơi, tái bản, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
4. Phan Kế Bính (2003), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
5. Phan Kế Bính (1945), Việt Nam phong tục, Đông Dương tạp chí, số 26, Hà Nội.
6. Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể (2007) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Cục di sản văn hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
7. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam: 10 năm xây dựng và phát triển, giai đoạn
1995– 2006, (2006), Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Trần Hòa Bình, Bùi Lương Việt (2009), Trò chơi dân gian trẻ em, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
9. Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh chủ biên (2002), Văn hóa các dân tộc Việt
Nam thống nhất trong đa dạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.122.
10. Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Giới thiệu Văn hoá Phương Đông, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
11. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập I (1999),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập II (2001),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập III (2003),
92
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập IV (2004),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập V (2005),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập VI (2008),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập VII (2011),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Phương Châm (2000), Nghi lễ hôn nhân của người Kinh ở Trung
Quốc(Trường hợp làng Vạn Vĩ, Giang Bình, Đông Hưng, Quảng Tây), Nxb.
VH thông tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Phương Châm (2006), Giá trị và tính đa dạng của Folklo châu Á
trong quá trình hội nhập (tr 267 -276), Nxb Thế giới, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Phương Châm (2007), Quá trình biến đổi văn hóa của cộng đồng
người Việt ở Vạn Vĩ (Quảng Tây, Trung Quốc). Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á (tr 85-91), Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Phương Châm (2007), Những xu hướng biến đổi văn hóa ở làng
Đồng Kỵ hiện nay (tr13 -33), Thông báo văn hóa dân gian 2007, Nxb. Khoa
học XH, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Phương Châm (2008), Phục hồi và sáng tạo văn hóa truyền thống
trong bối cảnh công nghiệp hóa ở làng (tr 23 – 35), Tạp chí Nguồn sáng dân
gian, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hoá ở các làng quê hiện nay,
Nxb.Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
24. Kaulen M.E. (chủ biên, 2006), Sự nghiệp Bảo tàng của nước Nga, người dịch
Đỗ Minh Cao, người hiệu đính Phan Khanh, Nxb Thế giới, Hà Nội.
25. Gary Edson- David Dean (2001), Cẩm nang Bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng
93
Việt Nam, Hà Nội.
26. Natalie Fenton (chủ biên, 2010), biên dịch : Nguyễn Thị Huệ, Phương tiện
truyền thông mới, tin tức cũ (New Media and Old News), Nxb Saga.
27. Nguyễn Văn Huy (tuyển chọn, biên tập, 2007), Di sản văn hóa, Bảo tàngvà
những cuộc đối thoại, Nxb Thế giới, Hà Nội.
28. Ngô Văn Doanh – Vũ Quang Thiện (1997), Phong tục các dân tộc Đông Nam
Á, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
29. Phan Đại Doãn (2008), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Huy Hà, Hoàng Lân, Ngô Bích Luận, Phan, Ngọc Minh, Lê Bích Ngọc sưu tầm
tuyển chọn (1992), Trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội.
31. Nguyễn Văn Huy (2007, tuyển chọn, biên tập), Di sản văn hóa Bảo tàng và những
cuộc đối thoại, Nxb. Thế giới
32. Đinh Thị Thúy Hằng (2009), PR kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp, Nxb.
Lao động và xã hội.
33. Henri Oger (1909), Kỹ thuật của người An Nam, dịch theo bản tiếng Pháp
Technique du peuple Annamites, 2009, tập 1, tập 2, tập 3, Nxb Trẻ, Tp HCM.
34. Đinh Gia Khánh (1995), “Về những đóng góp của các nhà nghiên cứu người Pháp
trong việc tìm hiểu văn hóa dân gian (folklore) ở Việt Nam‟‟, trong: 90 năm
nghiên cứuvề văn hóa và lịch sử Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Nxb KHXH,
Hà Nội.
35. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
36. Vũ Ngọc Khánh chủ biên (1974), Tục chơi xuân, Sở VHTT Thanh Hóa, Thanh
Hóa.
37. Vũ Ngọc Khánh (2009), Trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
38. Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Hải Yến, Hoàng Lan Anh (2009), Hỏi đáp về trò chơi
dân gian Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
94
39. Phan Ngọc Khuê (1973), „„Đồ chơi dân gian Việt Nam‟‟, tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, số 8, Hà Nội.
40. Tiểu Kiều (2010), Trò chơi dân gian của thiếu nhi, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, tr. 12 -
13.
41. Lê Văn Kỳ (2002), Lễ Hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà
Nội.
42. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng (1997),
Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb VHTT, Hà Nội.
43. Lê Hồng Lý chủ biên (2005), “Những hoạt động lễ hội tín ngưỡng của người
Việt trong sự đổi mới kinh tế hiện nay”, trong Giá trị và tính đa dạng của
folkclore châu Á trong quá trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội.
44. Lê Hồng Lý chủ biên (2011), Lễ hội ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
45. Mai Văn Muôn chủ biên (1989), Trò chơi xưa và nay, tập 1, Nxb Thể dục thể
thao, Hà Nội.
46. Lương Ninh (chủ biên, 2007), Lịch sử văn hoá thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội
47. Vũ Thị Nhài sưu tầm và tập hợp (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc tết, Nxb
Lao động, Hà Nội.
48. Nguyễn Đình Thanh (chủ biên, 2008), Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển,
Nxb. Tổng hợp Tp HPCM.
49. Ngô Đức Thịnh (1997), Thủ công cổ truyền và sự phát triển nông thôn ngày
nay, Tạp chí Dân tộc học, số 3, Hà Nội.
50. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hoá vùng & phân vùng văn hoá ở Việt Nam, tái
bản, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
51. Thông báo Văn hóa dân gian năm 2007 (2008), Nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
52. Thông báo Văn hóa dân gian năm 2008 (2009), Nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
53. Phạm Vĩnh Thông chủ biên (2000), Trò chơi dân gian của trẻ em Việt Nam,
95
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
54. Mai Viên Đoàn Triển (2008), An Nam phong tục sách, Nxb Hà Nội.
55. Tranh dân gian Việt Nam (1995), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
56. Từ điển Văn hóa, Tín ngưỡng, Phong tục (2009), Nxb VHTT, Hà Nội.
57. Văn hóa dân gian - những phương pháp nghiên cứu (1990), Nhiều tác giả, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Viện Nghiên cứu văn hóa (2004), Văn hóa dân gian một chặng đường nghiên
cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
60. Trần Quốc Vượng chủ biên (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, (in lần thứ bẩy) ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội Văn hóa, Hà Nội.
61. Trần Quốc Vượng (2009), Văn hóa cổ Việt Nam (Lịch, Tết, Tử vi và phong
thủy), Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
62. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng nghề - phố nghề Thăng Long - Hà
Nội, Nxb Trung tâm Triển lãm Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
63. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2010), Làng nghề - phố nghề Thăng Long - Hà
Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
64. Dominique Wolton (2006), người dịch Đinh Thúy Nga, Ngô Hữu Long, Toàn
cầu hóavăn hóa, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
65. Khu vực học: Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu, (tháng 11
năm 2006), ĐH Quốc Gia Hà Nôi, ĐHQG Tokyo.
66. Đông Phương học Việt Nam, kỷ yếu hội thảo quốc gia lần thứ nhất, tháng
11/2000, Hà Nội.
B. TIẾNG ANH VÀ PHÁP
67. Korean folk museum, Guide to the National Folk Museum (1994), Korea,
96
Printed, bound and published by Shin-yoo published company.
68. Hak Won- Sa, Korea, its land, people and culture of all ages, (2000) Seoul,
Korea
69. Korean Cultural Heritage1-2, Seen through Pictures and Names, Published by
Sigong Teach Co., Ltd. & Korea Visuals Co,Ltd.
70. Experiencing Traditional Rites (T11/2006) KTX magazine/
71. Intangible Cultural Heritage of Gangneung, Korea, “A masterpieces of the oral
and Intangible Heritage of Humanity” (2006) Gangneung Danoje Festival”.
72. General edited Huu Ngoc- Lady Borton, Tet Trung Thu- Mid- Autumn festival,
Vietnamese culture frequetly asked questions, The gioi publisheds, Hanoi 2004.
73. 200 years of Korean fashion and culture 2001.5.3- 6.11, Ministry of Culture
and Tourism, The Committee of 2000 years of Korean fashion and culture, The
National Folk Museum of Korea.
74. Publication 1984-2004, The National Folk Museum of Korea, 2004
75. Park Youngdae, translated by Chris Johnson- Ahn Soonja, Essential Korean
Art, published in Korea by Hyeonamsa Publishing Co., Ltd.
76. Choi Joon- sik, Folk- religion, the customs in Korea, Ewh a Womans
University Press
77. Compiled by Seo Dae- seok, edited by Peter H. Lee, Myths of Korea,
JIMOONDANG publishing company.
78. Translated by Kim dat- yong, Overlooked Historical Records of the three
Korean Kingdoms, Ilyeon, JIMOONDANG publishing company, 1998
79. Jang Nam- hyuck, Shamanism in Korean Christianity, JIMOONDANG
publishing company, năm 2006
80. Fragrance, Elegance, and Virtue, Korean Women in Traditional Arts and
Humanities, , published by Daewonsa Publishing Co, năm 2003
81. Shi Myung- ho, translated by Timothy V. Atkinson (2001), Joseon Royal Court
Culture, ceremonial and daily life
97
82. Text by Yoo Myeong- jong, (2003) The discovery of Korea
83. Cultural life in Korea scenes from everyday life (2004), published by
Kyomumsa Ltd.
84. A cultural & historic journey in to Andong (2003), written by Institute of
Andong Cultural at Andong National University,translated by center for
Korean studies at Hawaii University.
85. Korean Intangibale Cultural Properties- Folk Dramas, Games, and Rites,
translated by John H.T. Harvey &Lee Chunoc, Published by Ministry of
Culture & Sports, Korea
86. Kudo Tadatsugu & Gote Tamiko (2008), Japan – How our Hearts breathe &
How our Hearts beat, published by New Millennium Netwwork Corporation.
87. Translated by Lee Don- hee & Yoon Yeon- hae, Dynamic Korea (2002)
published by Korea Plus.
88. Explore Korea essence of culture & tourism, Ministry of Culture & Tourism
Republic of Korea
89. Edward B. Adams, Korea Folk art & craft, Seoul International Publishing
House
90. Lee Kyong- hee (Legacies & Lore), Korea culture, published by Korea Heralo.
91. Korea Intangible Culture Properties Traditional Music & Dance, Culture
properties, Administration the Republic of Korea, published by Hollym
Corporation, 2000
92. An Illustrated guide to Korea culture, 233 traditional key words, The National
Academy of the Korea language, Published by Hakgojae, 2002
93. Edited by John H. Koo & Andrew C. Nahm, An introduction to Korea culture,
Hollym
94. Writer Dong Kwon- lin, translated by Yung Mi- ko, In search of Korea
Folklore
95. Photographs and text by H. Edward Kim, Korea Beyond the hills, Eulyoo
98
Publishing Company, LTD.
C. WEBSITE
96. http://www.clickasia.co.kr/about/h815.htm
97. http://images.search.yahoo.com/search/images
98. http://www.nfm.go.kr/folk/f4_1pre.jsp
99. http://www.ijih.org/: intangible
100. http://www.hua.edu.vn/khoa/cnts/index2.php?option=com_docman&task=doc_
view &gid=482&Itemid=146
101. http://www.indiana.edu/~easc/resources/korea_slides/index.htm
102. http://www.clickasia.co.kr/aboutf2.htm#top
103. http://en.wikipedia.org/wiki/Category:Clothing
104. http://www.chiff.com/home_life/holiday/harvest-moon-festival.htm\
105. http://www.watanabesato.co.jp/jpculture/tukimi/tukimi.html
106. http://thanksgiving.indiaserver.com/thanksgiving-games.html
107. www.nfm.go.kr
108. www.vme.org.vn
109. www.familyculture.com/holidays/chusok.htmival
110. http://www.clickasia.co.kr/about/h815.htm
111. http://images.search.yahoo.com/search/images
112. http://www.nfm.go.kr/folk/f4_1pre.jsp
99
113. http://www.ijih.org/: intangible
114. http://www.topics-mag.com/edition11/games-sticks-stones.htm
115. http://www.indiana.edu/~easc/resources/korea_slides/index.htm
116. http://www.clickasia.co.kr/aboutf2.htm#top
117. http://image.search.naver.com/search.naver?where=image&query
118. http://www.watanabesato.co.jp/jpculture/tukimi/tukimi.html
119. http://thanksgiving.indiaserver.com/thanksgiving-games.html
120. www.nfm.go.kr
121. www.vme.org.vn
122. www.familyculture.com/holidays/chusok.htmival
123. http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Banh-trung-thu--Huong-vi-Tet-Doan-Vien/
124. http://www.baomoi.com/Thuong-thuc-banh-Trung-thu-cua-cac-nuoc-chau-A
125. http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BFt_Trung_thu
126. http://xzone.vn/Web/77/482/88981/Dango-chiec-banh-trung-thu-cua-Nhat-
Ban.html
127. http://avimedia.com.vn/event/ong-tin-s-giy-v-p-m-thut-dan-gian.html
128. http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Hoai-niem-ve-tet-Trung-thu-xua-cua-Ha-
100
Noi
PHỤ LỤC 1: Số lƣợng khách tham quan của BTDTHVN (1998 – 2012)
Tỷ lệ % Tổng số khách Năm Việt Nƣớc (ngƣời) Nam ngoài
1998 37.091 67.1 32.9
1999 42.668 58.9 41.1
2000 56.032 55.8 44.2
2001 75.943 54.9 45.1
2002 97.511 49.4 50.6
2003 91.865 60.1 39.9
2004 132.550 58.6 41.4
2005 163.635 50.2 49.8
2006 207.517 55.8 44.2
2007 337.232 57.2 42.8
2008 400.580 62 38
2009 400.836 69.5 30.5
2010 412.836 62.7 37.3
2011 417.596 59.9 40.1
2012 453.118 66.1 33.9
61 39 Tổng 3.327.010
Ba triệu ba trăm hai mƣơi bẩy nghìn không trăm mƣời nghìn khách
101
(chưa kể khách tham quan miễn phí)
102
PHỤ LỤC 2: Một số suy nghĩ về tết Trung thu của 3 nƣớc
Tết Trung thu ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều
thay đổi. Giữa các thế hệ, các vùng miền có cách nghĩ, cách nhìn nhận khác
nhau về ngày tết này. Qua các giọng nói đa dạng của những người trong cuộc
chúng ta sẽ thấy bức tranh về tết Trung thu ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam hiện nay.
Một số suy nghĩ về tết Trung thu của Hàn Quốc
Ông Lee Won Tae, 47 tuổi
Xưa kia, khi tôi còn nhỏ, xã hội hồi đó là xã hội nông nghiệp, vào các
ngày Trung thu, chúng tôi đón Trung thu ở nhà và sau đó khoảng một tháng
chúng tôi thường đi thăm mộ tổ tiên. Ngày nay, ai ai cũng đều bận rộn cả nên
mọi người thường lễ tổ tiên ngay ở nhà và đi viếng mộ vào cùng một ngày. Gia
đình tôi rất quan trọng ngay này, chúng tôi thường về quê tiến hàng các nghi lễ
Lee Dong Hoon, 17 tuổi
Thật là tuyệt khi cả gia đình cùng tụ họp lại với nhau vào các ngày lễ
truyền thống như ngày tết Trung thu. Tôi thấy ngày lễ này nên được tiếp tục
duy trì, đây chính là cơ hội giúp mọi thành viên trong gia đình có thể quây
quần lại bên nhau, cùng tiến hành các nghi thức của tổ tiên. Trong tương lai,
tôi cũng chưa biết chuyện gì có thể xảy ra, nhưng hiện giờ gia đình tôi luôn cố
gằng duy trì ngày lễ này.
Lee Dong Ha, 17 tuổi
Khi lớn lên, tôi sẽ vẫn giữ những nghi lễ truyền thống này của tổ tiên vì
ngày này qua ngày khác, chúng ta ngày càng ít có cơ hội gặp gỡ gia đình, họ
hàng, bởi thế, thật tốt khi có dịp ta được sum họp cùng người thân. Nhưng tôi
103
nghĩ các thủ tục sẽ ngày một giản đơn hơn.
Cô Kim Tae Kyeong, 31 tuổi
Tôi thấy để làm được món bánh songpyeon giống như mẹ chồng tôi thì
thật khó nhưng tôi sẽ cố gắng học những kinh nghiệm ấy của bà. Tôi hy vọng
là mình sẽ tự làm được bánh songpyeon. Vì người Hàn Quốc có nói rằng:
những người có thể làm ra những chiếc bánh songpyeon xinh xắn cũng sẽ có
những bé gái đáng yêu.
Bà Cho Nam- Iee, 72 tuổi
Ngày tết Trung thu các con cháu về đầy nhà, tôi rất vui. Gia đình tôi
thật hạnh phúc vì năm nào cũng có đủ mọi người. Tôi mong 2 đứa cháu trai sẽ
kế tiếp công việc của bố nó vào các dịp lễ tết. Điều này rất có ý nghĩa.
Bà Bae Bok- yeon, 60 tuổi
Tôi sống ở Gwangju còn con trai tôi sống ở Seoul, bởi vậy tôi thường
tới Seoul thăm nó thay vì nó về Gwangju bởi giao thông đi lại khó khăn.
Những năm trước đây, chúng tôi hay tới khu mộ nhổ cỏ dại và thăm hỏi ông bà
tổ tiên rồi nhưng tết Trung thu năm nay chúng tôi đã không tới thăm khu mộ tổ
tiên được vì lên Seoul.
Ông Lee Seung-gak, 64 tuổi
Trước kia, vào dịp này chúng tôi thường trình diễn các bản nhạc đồng
quê, còn những người phụ nữ thì tham gia múa ganggangsulle. Tôi rất thích
ngôi nhà daljip, đó là một ngôi nhà được làm từ rơm mà chúng tôi sẽ đốt cháy
nó khi đêm xuống dưới ánh trăng sáng. Tôi thường viết ra giấy những mong
ước của mình rồi đặt nó trong ngôi nhà daljip ấy, để rồi chúng cũng sẽ bị đốt
cháy cùng với cả ngôi nhà. Nhưng giờ đây tục lệ này không còn nữa.
Ông Kim Tae-chong, 60 tuổi
Ngày nay, hầu hết các gia đình trẻ ở Hàn Quốc đã sống tách riêng với bố
mẹ. Cùng với sự thay đổi lối sống là sự thay đổi trong cách nghĩ, quan niệm, 104
nghi lễ… và cách ăn tết Trung thu gia đình tôi một ví dụ. Các con tôi không ở
cùng nữa nên ngày tết Trung thu cũng trở nênđơn gian. Hơn nữa, những năm
gần đây nhiều người thích dành thời gian đi thăm bạn bè và họ hàng thay cho
việc về quê hoặc đi du lịch nước ngoài. Các dịch vụ hàng không ở Hàn Quốc
bị quá tải trong dịp này. Cần phải đặt vé trước nhiều tháng mới có thể đi được
du lịch.
Xu hướng của gia đình trẻ càng ngày càng làm đơn giản tết Trung thu.
Hầu hết họ mua các lễ vật, đồ ăn bán sẵn bởi nhiều người gần như không có
thời gian để chuẩn bị theo cách truyền thồng vì công việc bận rộn. Hơn nữa,
các dịch vụ trọn gói về lễ vật để cúng cho tết Trung thu cũng phát triển.
Cô Woo Deo-kin, 29 tuổi
Chúng tôi thường tới thăm nhà bố mẹ chồng vào buổi sáng, còn buổi
chiều chúng tôi tới gia đình bố mẹ vợ rồi cùng nhau trở về nhà cùng gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình không còn làm theo những tục lệ như thế nữa.
Nhưng mỗi khi tới dịp này chúng tôi vẫn thường sum họp cả gia đình lại rất
vui vẻ.
Mỗi gia đình đều tự chuẩn bị đồ ăn và thực hiện các nghi lễ tạ ơn trời
đất cùng tổ tiên sau vụ mùa mới gặt. Gia đình tôi thậm chí còn không mua đồ
ăn nữa, chúng tôi chỉ mua hoa quả thôi. Do đã khá bận rộn trong việc tổ chức
các nghi lễ của tổ tiên nên hầu như chúng tôi chẳng còn đủ thời gian để làm
các việc khác nữa. Ngày nay, có nhiều người đặt làm sẵn các đồ ăn chứ không
tự làm ở nhà.
Bà Park Hong-cha, 55 tuổi
Chúng tôi thường mặc trang phục Hanbok trong dịp lễ Trung thu cũng
như vào ngày đầu tiên của năm mới, ngày 1 tháng 1. Người lớn thường tặng
cho bọn trẻ các món quà như đồ mỹ phẩm, tiền may mắn, đồ chơi…Tôi cũng
105
tặng một chút quà nhỏ cho con gái tôi.
Cháu Hong Su Shin, 13 tuổi
Cháu được nhận nhiều quà, được mặc hanbok mới và được đi chơi. Tết
Trung thu nao cũng có các anh chị ở thành về chơi. Cháu rất vui
Cô Lee Sang-jeong, 29 tuổi
Đường sá đến Seoul bây giờ đông đúc vô cùng. Bình thường, tôi phải
mất 4 giờ để đi về quê nhưng hôm nay tôi phải mất đến 9 giờ. Ôi, giao thông
bây giờ thật kinh khủng.
Bố tôi là anh cả trong gia đình, bởi vậy cháu phải dành khá nhiều thời
gian để chuẩn bị đồ ăn trong ngày này. Bây giờ làm xong rồi tôi không thể ăn
bất cứ thứ gì nữa. Tôi thấy hơi mệt nhưng vẫn rất vui.
Anh Kim Dong-jang, 35 tuổi
Tôi nhận được rất nhiều quà trong dịp tết Trung thu. Tôi rất thích ấm trà
này nó là của con trai đầu tôi mang tới. Tôi cũng đã gửi tặng quà cho họ hàng
và bạn bè tôi như hoa quả, cá rán An Dong, bia… Ngày này với tôi thaaaatjys
nghĩa.
Ông Won Ku-chan, 59 tuổi
Tôi đã gửi một ít nhân sâm cho bạn tôi ở đảo Cheju và cũng muốn mua
một chút quà gửi cho họ hàng nữa. Những người hàng xóm cũng mới mang
cho tôi một ít nước ngọt và hoa quả mùa thu. Những ngày này ở Andong rất
nhộn nhịp. Tôi yêu vùng quê này.
Bà Lee Son cha, 50 tuổi
Trước đây, chúng tôi thường cùng nhau làm bánh songpyeon, loại bánh
có hình giống như nửa mặt trăng. Nhớ lại những ngày trước kia, hồi đó thực
phẩm thiếu thốn nên chúng tôi thường làm những chiếc bánh trông thật to.
106
Nhưng bây giờ, mọi thứ đã dư dả hơn nên chúng tôi làm những chiếc bánh nhỏ
đi. Hiện nay, ngày càng có nhiều người đi du lịch vào dịp lễ Trung thu. Bạn tôi
có nhiều người dự định đi du lịch tới Thái Lan, Singapore … vào dịp tết Trung
thu năm sau.
Cô Pang Ho-jae, 35 tuổi
Tôi định sẽ đi xem phim cùng một người bạn thân. Khi còn nhỏ, tôi
thường giúp mẹ làm bánh songpyeon và dọn dẹp nhà cửa trong dịp này. Nhưng
bây giờ, gia đình tôi thường mua bánh bày bán ngoài chợ.
Chong Yu-kyeong, 28 tuổi
Gia đình tôi đang chuẩn bị các món ăn cho lễ Chare nhưng không theo
phong cách truyền thống. Có một vài món chúng tôi không tự làm mà đi mua
ngoài siêu thị. Vào dịp lễ tết Trung thu năm nay, tôi đã đi thăm những người
họ hàng của mình và tới cả nhà thờ nữa.
Bà Kim Tae-kyeong, 52 tuổi
Để làm ra được những chiếc bánh đẹp thì không dễ chút nào. Hôm nay,
tôi đã thử học mẹ chồng tôi cách làm bánh songpyeon. Tôi tin là sau này con
gái tôi sẽ rất xinh đẹp.
Bà Jin Mi, 55 tuổi
Gia đình chúng tôi thường dành khoảng 500.000W cho việc chuẩn bị
thức ăn nhưng năm nay đã giảm đi 300.000W. Con cái chúng tôi không về
nhà, gia đình giảm người đi cho nên đã hay phải bỏ thức ăn thừa. Năm ngoài,
chúng tôi mất hơn 10 ngày mới ăn hết thức ăn. Bây giờ tôi đã thay đổi suy
nghĩ rồi.
Vai trò của phụ nữ trong xã hội bây giờ đã khác xưa. Họ giữ các vị trí
cao trong xã hội. Phụ nữ làm việc đóng góp cho cuộc sống sinh hoạt trong gia
107
đình. Vì thế, các công việc nội trợ cũng được chia sẻ với các thành viên trong
gia đình. Người đàn ông có thể giúp vợ vào bếp trong khi trước đây thì là điều
không thể.
Anh Seo Sang- guk, 39 tuổi
Tôi làm một số việc đơn giản giúp vợ như rửa bát, lau sàn nhà thôi
nhưng tôi nhận thây vợ và con gái tôi rất vui và hạnh phúc. Vì thế, tôi muốn
giup họ nhiều hơn như vậy niềm hạnh phúc sẽ đến với gia đình tôi.
Một số suy nghĩ về tết Trung thu của Nhật Bản
Ông Mutaigawa, 61 tuổi, thành phố Okayama, Nhật Bản-
Từ xưa đến nay ở Nhật có phong tục ăn tết Trung thu cổ truyền, người ta
thường mua bánh dango về bày, sau đó cả gia đình tập trung ngắm trăng và ăn
bánh. Năm ngoái mọi người cũng làm như thế, ở mỗi nhà tự tập trung mọi
người lại và ăn uống. Hồi còn nhỏ bố mẹ tôi có làm bánh dango nhưng hiện
nay tại hầu hết các cửa hàng đều có bán sẵn nên đa số mọi gia đình đều mua.
Ngày rằm tháng Tám hàng năm ở Nhật Bản đểu tổ chức đón tết Trung
thu, vừa ngắm trăng, vừa ăn bánh, và uống trà. Những người trẻ hiện nay thì
cũng không thích lắm bởi còn bận đi làm không có thời gian. Nhưng tại các
vườn trẻ vẫn duy trì tổ chức cho trẻ con, chúng rất thích. Tôi cũng đã từng
tham gia ở vườn trẻ vào dịp Trung thu trước đây.
Chị Naoko, 21 tuổi, Kyoto, Nhật Bản
Ngày 3-3 là ngày lễ các bé gái nên khi còn bé tôi được mẹ hoặc bố đã
trang trí những con búp bê này ở trong nhà. Từ hai tuần trước ngày lễ gia đình
tôi đã trang trí những con búp bê này rồi và vào ngày lễ mùng 3-3 thì chỉ trang
trí thêm vào thôi. Trong thời gian bày những búp bê này có ý nghĩa như cầu
cho con gái sau này không lấy chồng muộn, cũng giống như thúc giục cô gái là
“kết hôn, kết hôn đi”, vì thế ngay khi ngày lễ này kết thúc thì phải dọn dẹp hết
108
các con búp bê.
Ms. Naoko, 21 tuổi, Kyoto, Nhật Bản
Trong ngày hôm đó chúng tôi làm bánh dango và lấy bông lau trên núi
mang về và trang trí, sau đó cùng thưởng thức vui vẻ thời khắc ngăm trăng.
Nếu thời tiết tốt thì chúng tôi ngắm ông trăng tròn, và tổ chức ăn uống bên
ngoài. Nhưng cũng có nhiều năm thời tiết xấu thì không thể làm nh ững vi ệc
như vậy. Ngày lễ của các bé gái chúng tôi trang trí cho những con búp bê hina
và làm các món ăn như món cơm trộn sushi chirashizushi, sau đó cả gia đình
cùng thưởng thức.
Khi nghe nói tới ngày tết Trung thu thì tôi nhớ đầu tiên là ánh trăng, ông
trăng tròn nhất và bông lau. Sau nữa là khi tôi còn bé tôi sống trong một căn
nhà nhỏ có một mái hiên. Buổi tối tối tết Trung thu thì kéo cái hiên ra, cha tôi
thường chăng nó như một cái ô và anh em tôi cùng với bố mẹ, ngồi ở dưới mái
hiên đó và ngắm trăng. Bây giờ thì tôi ở một căn hộ chung cư có bậc thềm
nhưng mà không có mái hiên cho nên không có chỗ ngắm trăng. Về đồ ăn cho
ngày lễ Trung thu cũng có nhiều ở các siêu thị nên những tập quán như là mẹ
tự làm bánh dango thì đã bị mất đi khá nhiều.
Ông Yoshikawwa Takeji, 60 tuổi
Kỷ niệm của tôi về ngày tết Trung thu là cách đây 10 năm, tôi vẫn nhớ
lần đầu tiên tôi làm bánh dango tại nhà. Bánh dango đựợc làm từ bột giống
như chiếc bánh dày trắng nhỏ xíu, sau đó cho thêm nước và nhào bằng tay, tạo
thành những viên bột tròn to khoảng như quả bóng bàn, để bánh dễ chín chúng
ta tạo một vết lõm ở chính giữa chiếc bánh, sau đó đem luộc (hấp) bằng nước
nóng. Bánh rất ngon khi đem dùng để ăn nhấm nháp vào bữa phụ. Sau đó ăn
cùng với kinako làm từ đậu đỏ và đường, nó tạo thành thứ đồ ăn rất ngọt, ăn
kèm cùng chè anko.
Một kỉ niệm đáng nhớ của tôi vào ngày tết Trung thu. Khi lớn lên, tôi
cũng dần mất đi thú vui ngắm trăng. Vào năm ngoái, vào đúng tháng 9 năm
109
2008, tại suối nước nóng Yugawara,có tổ chức 1 lễ hội ngắm trăng rất lớn.Tại
đó, có trưng bày 1 chiếc bánh dango rất to và mọi người nhảy múa xung quanh
chiếc bánh. Đến tận bây giờ, trung thu vẫn là một trong những sự kiện quan
trọng không thể thiếu ở Nhật Bản. Gần đây ở Tokyo, nơi mà tôi đang sống, cứ
gần đến dịp trung thu, chúng ta có thể dễ dàng mua được những chiếc bánh
dango ở siêu thị và những cây lau ở của hàng hoa. Và cũng có những người
mua bộ đồ tượng trưng, trên đó có bày bánh dango, bánh dày omochi.
Chị Fujita Megumi, 29 tuổi,
Hồi còn học tiểu học và trung học, vào dịp tết Trung thu gia đình tôi
trang trí bằng bánh dango, rượu sake và những cành lau ở engawa- bàn dâng
cúng (bàn thờ), và sau khi cúng chúng tôi vừa ăn bánh, vừa ngắm trăng để
chúc phúc cho nhau. Bố thích uống rượu sake. Khi còn đi học cấp hai, cô giáo
tôi kể cho chúng tôi câu chuyện “Take tori mono gatari”, một câu chuyện liên
quan đến mặt trăng. Tôi nhớ hồi đó đã vẽ một bức tranh có mặt trăng và cây
lau rất đẹp. Đáng tiếc là không có giải thưởng nhưng đó là một kỉ niệm vô
cùng vui vẻ trong dịp tết Trung thu.
Anh Murakami Yoshifumi, 37 tuổi
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng Saitama-Nhật Bản. Khi tôi còn nhỏ, ở
trong phòng ngủ nhà tôi được trưng bày bộ áo giáp của các võ sĩ Samurai thời
xưa. Đây là bức ảnh bộ áo giáp đó và bây giờ bộ áo giáp này được bày ở nhà
tôi. Ngoài ra, tôi còn rất nhớ các món ăn tôi vẫn thường ăn vào ngày tết trẻ em
món kashiwa. Món kashiwa là món ăn được ăn bằng cách quấn bánh dầy bên
ngoài những chiếc há cảo. Thêm vào đó, còn có lễ hội cá chép, những con cá
chép cũng được trang trí trong nhà. Bởi vì hồi bé, tôi sống trong ngôi nhà rất
nhỏ nên tôi chỉ có chiếc mũ kabuto và những con cá chép cũng không to như
thế này. Đây không phải là những con cá chép được sử dụng trong lễ hội bé
110
trai mà nó dược mua trước ngày tết bé trai đầu tiên của con trai tôi.
Trước khi con trai tôi ra đời, gia đình tôi đã có một bé gái và đây là thứ mà
tôi đã chuẩn bị cho con trai tôi vào ngày tết bé trai. Chính vì vậy, tôi chưa mua
nó khi con gái tôi sinh ra và mua để chuẩn bị cho con trai tôi vào ngày lễ bé
trai đầu tiên sau khi ra đời. Thực ra những con cá chép này được trang trí ở
ngoài vườn nhưng bởi vì nhà tôi không có vườn nên tôi treo nó ở ngoài hiên
nhà để ở ngoài cũng có thể nhìn thấy. Khi treo trên nhà, mỗi khi có gió thổi
những con cá chép sẽ bay thẳng lên trông rất đẹp mắt đó là những cảm nhận
của tôi về ngày tết trẻ em.
Chị Hiragama Makie, 35 tuổi
Tôi sống ở Kanagoeshi vùng Saitama. Nói về lễ hội bé gái (Hinamasuri),
trong nhà tôi có 1 con búp bê, đó là con búp bê đã được trang trí trong nhà bà
tôi trước khi tôi lấy chồng và nó thật sự là rất cũ rồi. nó chỉ gồm 2 con búp bê
và khi mẹ đưa con gái về nhà chồng thì búp bê này cũng được mang đi cùng,
bây giờ tôi vẫn giữ trong nhà mình con búp bê cũ này. Thêm 1 chút nữa, ở nhà
ông bà tôi có trang trí những con búp bê rất đẹp 7 tầng. Có lẽ nó được mua cho
tôi khi tôi chào đời.
Vào dịp tết Trung thu, tôi không mấy khi làm gì đặc biệt thông thường
vào dịp này có những gia đình chỉ trang trí những bông lau và ăn những chiếc
bánh dango hình mặt trăng (tsuki dango). Tôi vẫn còn 1 chút kỷ niệm lúc mình
làm bánh dango hồi nhỏ. Gần đây nếu bạn đến siêu thị, bạn có thể mua được
những chiếc bánh dango. Khi nói về Trung thu, mọi người không chỉ nghĩ về
ăn mà còn ngắm trăng và người Nhật thường nói rằng ở trong mặt trăng có 1
chú thỏ đang giã bánh giày. “Hãy nhìn kỹ đi, chú thỏ đang giã bánh giày đấy”
“ À đúng vậy nhỉ, tôi có nhìn thấy 1 chú thỏ” “ Cố gắng giã tiếp đi nhé”… có
rất nhiều quan điểm khác nhau, tùy vào từng người nhưng người Nhật vẫn
111
luôn nghĩ rằng có 1 chú thỏ vẫn miệt mài giã bánh giầy trên cung trăng.
Bà Sugiyama Kumino- OSAKA NEYAGAWA, 48 tuổi
Khi chúng tôi còn nhỏ tôi có những kí ức là được trang trí những bông
lau vào mái hiên, được mẹ làm những cho chiếc bánh dango và buổi tối cùng
với bạn bè đi ăn trộm bánh dango và nói “ngon nhỉ, ngon nhỉ” rồi vừa đem về.
Tuy nhiên, những đứa trẻ của tôi bây giờ không thể làm như thế được nữa. Có
thể là do có những ngôi nhà hiện nay không có mái hiên. Tôi không muốn thay
đổi về tết Trung thu, tôi vẫn cùng những đứa trẻ trong nhà đón Trung thu với
hoa, những bông lau và tự làm bánh dango ở nhà, tôi cùng các con ngắm trăng
vào mỗi dịp Ttrung thu. Nơi tôi đang sống là Osaka không thấy được nhiều gia
đình ăn tết Trung thu lắm.
Em Takato Ura, Kumamoto Arao, 22 tuổi
Từ năm 15 tuổi vào dịp trung thu tôi cùng với bố mẹ làm bánh dango,
sau đó cùng nhau vừa ngắm trăng và ăn bánh. Chúng tôi mua bánh dango từ
các hiệu bánh ngọt ở Nhật về thưởng thức. Cùng với ăn những chiếc bánh ấy,
tôi cùng thưởng thức vẻ đẹp của trăng cùng gia đình mình. Năm ngoái lễ trung
thu thì cùng bố mẹ làm bánh Trung thu và ngắm trăng bên cửa sổ. Sau đó vừa
ăn vừa nói chuyện về lễ Trung thu có chú Thỏ giã bánh dày…
Em Noya takashi, tỉnh Kamawa, 21 tuổi
Năm ngoái thì trong dịp tết Trung thu tôi cùng với bố mẹ mình làm bánh
dango và cùng trang trí susuki với dango bên cửa sổ sau đó cả gia đình quây
quần bên nhau ăn bánh dango và ngắm trăng. Từ ngày còn bé tôi có nghe bố
mẹ nói rằng có chú thỏ trên cung trăng vì vây có nghĩa là tôi đã nghĩ rằng thỏ
hay là những vị thần có thật. Tôi được học cách làm bánh dango từ bà của
mình. Ấn tượng nhất của tôi về Trung thu hay nói khác đi là kỉ niệm tôi nhớ
nhất đó là đúng vào dịp Trung thu trời mưa rất to và không thể ngắm trăng
được. Tôi đã vẽ trăng vào tờ giấy, trang trí và sau đó tự thưởng thưc đêm
112
Trung thu bằng cách ngắm trăng của riêng mình.
Em Nana, tỉnh Ibaraki, 21 tuổi
Nhà tôi ở tỉnh Ibaraki cách Tokyo khoảng 2 giờ đi xe điện.Trung thu
2008 tôi cùng mẹ làm bánh dango.Gần nhà có rất nhiều cây lau nên tôi sẽ ra
đấy cắt để lấy về. Tôi sẽ cắm những cây lau đó vào bình để trang trí. Và bánh
dango mà tôi cùng mẹ làm được đặt cạnh bình hoa đó. Và khoảng gần đến 9h
thì tôi cùng mẹ vừa ngắm trăng vừa ăn bánh dango. Bố tôi hay đi vắng nên dịp
mà cả nhà quây quần bên nhau. Bởi vậy nên Trung thu trở thành cơ hội để mẹ
con tôi có thể trò chuyện được nhiều hơn. Với loại bánh dango có gia đình tự
làm ở nhà nhưng có gia đình thì ra siêu thị mua về. Gia đình tôi thường tự làm
bánh dango nên tôi rất vui.
Em Naoko, Ichibaken, 21 tuổi
Tôi ở huyện Ichibaken cách Tokyo khoảng 100 km, mất khoảng 1,5h xe
buýt. Hằng năm, cứ vào lúc trăng tròn trong ngày tết Trung thu, cả gia đình tôi
lại cùng ngăm trăng thưởng thức bánh dango và cùng trò chuyện vui vẻ. Đúng
vào lúc trăng lên, gia đình tôi bày những chiếc bánh dango lên mọi người cùng
tập trung lại, không nói chuyện gì đặc biệt nhưng mọi người quây quần bên
nhau nói chuyện thực sự là khoảng thời gian đặc biệt. Gia đình tôi có làm nông
nghiệp nên hàng năm gia đình tôi làm bánh dango từ gạo nếp được gặt ở ruộng
nhà và những chiếc bánh dango được bày lên đó cũng vậy. Ngoài ra 1 vật
không thể thiếu cùng với bánh dango là những cành lau (Suzuki) một loại cây
không thể thiếu vào mùa thu ở Nhật Bản. Nếu trang trí những cành lau này bên
cạnh những chiếc bánh dango thì mới là tết Trung thu.
Nếu chỉ nhìn gia đình tôi, từ ngày xưa, khoảng 10 năm trước cho đến
bây giờ hầu như không có thay đổi gì đặc biệt. Gia đình tôi đều đón Trung thu
như mọi năm. Tuy nhiên, kể từ khi tôi đến Tokyo, bạn bè tôi cũng đến từ nhiều
vùng khác nhau thì những người bạn đã sống từ bé ở những thành phố lớn như
Tokyo, OSAKA đều không có nhiều cơ hội đón Trung thu cùng với gia đình,
113
họ cũng không có nhiều kinh nghiệm sống cùng với ông bà nên ngày càng có
nhiều người không biết những nghi lễ truyền thống theo cách cổ truyền.Vì vậy,
gần đây ở thành phố có nhiều người đã đến siêu thị để mua những chiếc bánh
dango và thưởng thức nó 1 mình, ngoài ra có những quán bán đồ ăn nhanh
(fast food) cũng có những quầy để thưởng thức trăng tròn (tsukibar), ở đó có
món humburger này. Tuy nhiên, thực sự họ không có cách thưởng thức ngày
tết Trung thu, họ chỉ ngồi thôi. Vì vậy tôi có cảm giác những nghi lễ truyền
thống của Nhật Bản ngày càng mất đi và tôi thấy hơi tiếc vì điều đó.
Một số suy nghĩ về tết Trung thu của Việt Nam
Bà Hồ Bích Hạnh, 40 tuổi, Giảng Võ, Hà Nội
Ngày xưa tết Trung thu tôi rất háo hức lắm, đồ chơi thật đơn giản chỉ có
một cái đèn ông sao do bố làm cho. Tôi được đi phá cỗ, trông trăng ở khu phố
với bọn trẻ con. Bây giờ hai đứa bé nhà tôi bận học hành nên tôi chỉ cố gắng
cho các cháu đi thưởng thức tết Trung thu một cách đơn giản như ra Hàng Mã
mua một số đồ chơi và đợi cùng rước đèn với cụm dân cư là xong.
Ông Nguyễn Trọng Bình, 36 tuổi, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Nhà tôi gần Bảo tàng DTH nên năm nào tôi cũng đưa con sang đây chơi.
Ở đây có nhiều hoạt động rất dễ chọn lựa cho các cháu hoạt động. Đưa lớn tôi
cho đi vẽ, chơi trò chơi dân gian, đứa bé cho nặn tò he và tô màu. Tôi nghĩ ở
đây chỉ phục vụ được dân cư quanh khu vực này, Hà Nội cần có nhiều nơi tổ
chức được như ở bảo tàng này.
Chị Nguyễn Thu Hƣơng, 58 tuổi, Hội Vũ, Hà Nội
Tết Trung thu của chúng tôi năm xưa đơn giản lắm. Ban ngày các chị,
các bà cả khu phố thi nhau cắt tỉa hoa quả, tạo hình các con vật. Tôi làm con
chó bông bằng bưởi rất khéo, có năm đã được nhận giải. Buổi tối cả phố nô
nức kéo nhau rước đèn và đi theo nhịp trống của đám múa lân.
114
Chị Nguyễn Thị Luyến, 40 tuổi, Phƣợng Đức, Hà Tây
Ở quê tôi ngày rằm có nhiều nhà thắp hương, làm cỗ cúng tổ tiên. Buổi
tối trẻ con tập hợp ở nhà văn hóa để xem múa lân, ca nhạc, phá cỗ. Đội múa
lân và biểu diễn văn nghệ thường tập luyện hàng tháng trước đó dưới sự chỉ
đạo của thanh niên xã. Phải nói những ngày này ở quê tôi rất vui đó.
Bà Lê Thị Dung, 65 tuổi, Nghĩa Tân, Hà Nội
Cái thời của chúng tôi tết Trung thu chỉ vài cái bánh, cái kẹo và 1 chiếc
đèn ông sao là vui lắm rối. Trẻ con được tập chung ở những sân rộng của khu
tập thể để xem phim màn ảnh rộng. Xem xong được người lớn phát cho 1 gói
quà nhỏ là vui sướng cả đêm rằm. Trẻ con bây giờ nhiều đồ chơi nhưng toàn
đồ của Trung Quốc. Tôi không thích các cháu tôi chơi những đồ chơi này.
Ông Mai Văn Lƣơng, 70 tuổi, Cầu Giấy, Hà Nội
Vào dịp này tôi thường làm cho bọn trẻ đèn ông sao, ông đánh gậy để
chơi đêm rằm. Hồi xưa Trung thu thật giản dị trẻ con mỗi đứa chỉ được 1 quả
chuối hoặc 1 múi bưởi thôi.
Lê Thị Sƣa, 35 tuổi, Phú Xuyên, Hà Tây
Thời của tôi đóng 1 bát gạo cho nhà trường để tổ chức cắm trại. Từ ngày
13, 14 âm lịch đã thi nhau trang trí trại và chờ chấm điểm. Tôi làm những súc
xích các màu để trang trí, có bạn mang tranh ảnh đến bày. Đến trưa ngày 15
rằm là tất cả trẻ con cùng ăn liên hoan. Bây giờ trẻ con quê tôi vẫn cắm trại
nhưng không phải đóng gạo nữa.
Cháu Nguyễn Đức Anh, 8 tuổi, TH Ngọc Khánh, Hà Nội
Cháu chơi cả buổi sáng rồi nhưng chưa muốn về. Ở trường cháu chật
lắm, chẳng có chỗ mà chơi, còn ở nhà cũng không có chỗ và không có bạn để
chơi trò chơi dân gian. Cháu thích nhất là đi cà kheo và kéo co.
115
Ông Lê Văn Hùng, 39 tuổi, phố Trần Tử Bình, Cầu Giấy, Hà Nội
Hai cái đèn trung thu này vừa làm xong, là công sức của cả nhà tôi đấy...
Tôi vui lắm, vì các con tôi vừa được chơi vừa được học về tết Trung thu truyền
thống tại Bảo tàng Dân tộc học VN.
Bà Đinh Ngọc Mai, 56 tuổi, khu tập thể Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội
Tết Trung thu của chúng tôi hồi xưa luôn cùng nhau làm hạt bưởi để đốt
và bày mâm quả có chó bưởi, ông tiến sỹ giấy. Bây giờ các cháu có suy nghĩ
khác rồi, chỉ ra Hàng Mã mua đồ chơi cho nhanh thôi. Tôi cũng mong con
cháu tôi biết và duy trì các phong tục trong ngày trung thu.
Cháu Hoàng Minh Quang, 12 tuổi, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
Hôm nay cháu được chơi các trò chơi thỏa thích ở trường không có chỗ
và ít có thời gian lắm ạ. Cháu đã chơi một số đồ chơi trong dịp trung thu làm
đèn ông sao, ông đánh gậy. Cháu sẽ rủ các bạn hàng xóm đi chơi mấy trò này.
Cô Lê Ngọc Hà, 36 tuối, Tập thể Nghĩa Tân, Cầu Giấy Hà Nội
Thật ý nghĩa khi tham gia các hoạt động là đồ chơi dân gian. Đây là
những dịp hiếm hoi mà cả gia đình tôi cung đi chơi, cùng làm một cái đèn ông
sao như thế này. Bình thường tôi cứ mua cho nhanh, không mất thời gian.
Nhưng thực ra tôi thấy dành một chút thời gian cho con và gia đình vào tết
Trung thu như thế ý nghĩa và đáng nhớ hơn.
Chị Bùi Minh Phƣơng, 37 tuổi, Khúc Hạo, Ba Đình, Hà Nội
Trung thu bây giờ khác thời của tôi nhiều. Trẻ con bây giờ được mua
nhiều quà quá, tôi thấy quan trọng cần phải làm gì để trẻ hiểu ý nghĩa của các
món đồ chơi, nhất là đồ chơi truyền thống. Ở Bảo tàng Dân tộc học Việt làm
116
đã làm được điều này. Năm nào cả nhà tôi cũng có mặt ở đây.
PHỤ LỤC 3: Một số hình ảnh về tết Trung thu của Việt Nam
(người chụp ảnh: An Thu Trà)
Trình diễn múa lân sư, BTDTHVN, 2011 Chơi rải ranh, Trình diễn múa lân sư, BTDTHVN, 2010
tàu thủy sắt tây, Hướng dẫn làm ông tiến sỹ giấy, BTDTHVN, 2008 thả Hướng dẫn BTDTHVN, 2012
117
Trình diễn làm cốm, BTDTHVN, 2011 Kể chuyện sự tích tết Trung thu, BTDTHVN, 2011
Một số hình ảnh về tết Trung thu của Việt Nam
Mâm cỗ trông trăng, BTDTHVN, 2012 Tổ chức cho trẻ em phá cỗ đêm rằm, BTDTHVN, 2012
Trình diễn và hướng dẫn tỉa hoa quả, BTDTHVN, 2012 Trình diễn và hướng dẫn làm đèn lồng, BTDTHVN, 2012
118
Chơi kéo co, BTDTHVN, 2009 Thi đấu rối tre, BTDTHVN, 2010
Một số hình ảnh về tết Trung thu của Việt Nam
Trình diễn và giao lưu hát Bả trạo, BTDTHVN, 2011 Trình diễn đi cà kheo múa sư tử, BTDTHVN, 2011
làm đèn kéo quân, làm đèn ông sao, Hướng dẫn BTDTHVN, 2010 Hướng dẫn BTDTHVN, 2009
119
Chơi ô ăn quan, BTDTHVN, 2009 Chơi rồng rắn lên mây, BTDTHVN, 2010
PHỤ LỤC 4: Một số hình ảnh về tết Trung thu của Hàn Quốc
(người chụp ảnh: An Thu Trà)
Cả gia đình ông Lee Won - tae về quê ăn tết Trung thu, Andong, 2006 Chuẩn bị đồ cúng ở gia đình ông Lee Won – tae, Andong, 2006
Bàn bày đồ cúng tổ tiên ở gia đình ông Lee Won – tae, Andong, 2006 Lễ cúng tổ tiên ở gia đình ông Lee Won – tae, Andong, 2006
Cả gia đình ở gia đình ông Lee Won – tae cúng ở mộ, Andong, 2006
120
Chuẩn bị đồ ăn cúng ở mộ của gia đình ông Lee Won – tae, Andong, 2006
Một số hình ảnh về tết Trung thu của Hàn Quốc
trưng bày,
Bàn thờ nghi lễ trong BTDTHVN, 2007 Hướng dẫn trẻ em xem trưng bày, BTDTHVN, 2007
Trẻ em xem phim về tết Trung thu ở Hàn Quốc, BTDTHVN, 2007
Các cán bộ Bảo tàng DGQG Hàn Quốc trưng bày đồ lên bàn thờ nghi lễ, BTDTHVN, 2007
Khách tham quan đọc bài giới thiệu trong trưng bày, BTDTHVN, 2007 tết Trung
121
Sách cứng trưng bày: báo chí Hàn Quốc viết về thu, BTDTHVN, 2007
Một số hình ảnh về tết Trung thu của Hàn Quốc
làm hộp giấy Hanji, Hướng dẫn chơi yutnori, BTDTHVN, 2007 Hướng dẫn BTDTHVN, 2007
trang trí mặt nạ Hàn Quốc,
Tự BTDTHVN, 2007 Trẻ em chụp ảnh cùng sản phẩm hộp giấy Hanji tự làm, BTDTHVN, 2007
122
Múa ganggangsulle, BTDTHVN, 2007 Chơi bâp bênh Hàn Quốc, BTDTHVN, 2007
PHỤ LỤC 5: Một số hình ảnh về tết Trung thu của Nhật Bản
(người chụp ảnh: An Thu Trà)
Trẻ em tham quan khu vực mâm cúng trăng của Nhật Bản, BTDTHVN, 2009
Sắp xếp hiện vật trong mâm cúng trăng của Nhật Bản trong trưng bày, BTDTHVN, 2009
Hướng dẫn trẻ em khám phá trưng bày về Ngày bé gái, bé trai, BTDTHVN, 2009 Trẻ em tự xem trưng bày bàn thờ bày búp bê trong Ngày bé gái, BTDTHVN, 2009
123
Hướng dẫn hoạt động tương tác chơi trò chơi dân gian trong trưng bày, BTDTHVN, 2009 Trẻ em khám phá tết Trung thu Nhật Bản bằng tài liệu giáo dục, BTDTHVN, 2009
Một số hình ảnh về tết Trung thu của Nhật Bản
Nghệ nhân trình diễn và giao lưu về cách làm quạt, BTDTHVN, 2009 Nghệ nhân trình diễn và giao lưu về nghệ thuật Trà đạo, BTDTHVN, 2009
thuật cắm hoa (ikebana) Nghệ nhân trình diễn và hướng dẫn làm bánh dango, BTDTHVN, 2009 Nghệ nhân trình diễn và hướng dẫn về , nghệ BTDTHVN, 2009
124
Trẻ em mặc Yukata chụp ảnh, BTDTHVN, 2009 Trình diễn và giao lưu múa Yosakoi, BTDTHVN, 2009