VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THÀNH TRUNG

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THÀNH TRUNG

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn TS Dương Quỳnh Hoa đã tận tình

hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này.

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, các bạn

học viên lớp Cao học Luật đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian khoá học.

Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành đến lãnh đạo và các anh chị tại

Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã tạo điều kiện và hỗ trợ tôi về các tài

liệu nghiên cứu hữu ích trong quá trình thực hiện luận văn.

Những lời cảm ơn sau cùng xin dành cho bạn bè và người thân trong

gia đình đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tác giả luận văn

Đinh Thành Trung

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi có sự hỗ

trợ và hướng dẫn từ Cô hướng dẫn. Các kết quả nêu trong Luận văn do tôi

nghiên cứu chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Trong quá

trình làm tác giả có tham khảo các tài liệu liên quan nhằm khẳng định thêm sự

tin cậy và cấp thiết của đề tài, việc tham khảo các nguồn tài liệu, các số liệu,

ví dụ đã được thực hiện trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin

cậy, trung thực và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.

Tác giả

Đinh Thành Trung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN

THỰC PHẨM ............................................................................................................ 8

1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm ......................................................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm bảo vệ người tiêu dùng ............................................................. 8

1.1.2. Khái niệm an toàn vệ sinh thực phẩm ........................................................ 9

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an

toàn thực phẩm ................................................................................................. 122

1.1.4. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

trong đời sống xã hội ........................................................................................ 155

1.1.5. Các yếu tố tác động đến việc bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an

toàn thực phẩm ................................................................................................. 177

1.2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn

thực phẩm ............................................................................................................ 221

1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ

sinh an toàn thực phẩm ...................................................................................... 21

1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn

thực phẩm ........................................................................................................... 22

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP

LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC

AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 30

2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ............................... 30

2.2. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm. .................................... 311

2.3. Nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm. ............ 355

2.3.1. Trách nhiệm chung của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với

người tiêu dùng thực phẩm ............................................................................... 355

2.3.2. Quy định trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật và bồi thường thiệt

hại do hàng hoá có khuyết tật gây ra ................................................................. 37

2.4. Các hành vi bị cấm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về an toàn thực

phẩm. .................................................................................................................... 400

2.5. Giải quyết tranh chấp với người tiêu dùng ..................................................... 44

2.6. Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực an toàn thực phẩm .......................................................................... 46

2.6.1. Chế tài dân sự ........................................................................................... 47

2.6.2. Chế tài hành chính ................................................................................... 47

2.6.3. Chế tài hình sự ......................................................................................... 48

2.7. Thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm ................................. 49

2.7.1. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực

phẩm ................................................................................................................... 49

2.7.2. Tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm.............. 49

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ

NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM ........... 52

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong

lĩnh vực an toàn thực phẩm .................................................................................... 52

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy vai trò

tiên phong, giám sát của chi bộ, đảng viên trong công tác bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. ........................................... 52

3.1.2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tổ chức bộ máy chuyên trách, nâng cao

năng lực thực thi pháp luật, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối

với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm. .................................................................................................................. 53

3.1.3. Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá

nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức xã hội trong công tác

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ....................................................................... 54

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm .............................................................................................................. 54

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng ................ 54

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà sản

xuất, kinh doanh thực phẩm ............................................................................... 55

3.2.3. Giải pháp hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp với người tiêu

dùng .................................................................................................................... 56

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ............................ 57

3.2.5. Giải pháp hoàn thiện thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực

phẩm ................................................................................................................... 58

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng

trong lĩnh vực an toàn thực phẩm .......................................................................... 58

3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước ..................................................................... 58

3.3.2. Giải pháp từ phía các cơ quan tổ chức .................................................... 61

3.3.3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp ........................................................ 64

3.3.4. Giải pháp từ phía người tiêu dùng ........................................................... 65

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

An toàn thực phẩm ATTP

An toàn vệ sinh thực phẩm ATVSTP

Customer International Tổ chức Quốc tế người CI

tiêu dùng.

Luật số 55/2010/QH12 của Quốc hội - Luật An Luật ATTP

toàn thực phẩm năm 2010

Luật số 59/2010/QH12 của Quốc hội - Luật Bảo Luật BVQLNTD

vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010

Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27-10-2011 Nghị định

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số 99/2011/NĐ-CP

điều của Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu

dùng.

World Trade Organization Tổ chức Thương mại WTO

thế giới

World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới WHO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối

với sức khỏe của mỗi cá nhân và cộng đồng. ATTP có tác động đến sức khỏe

của người dân và làm ảnh hưởng đến phát triển du lịch, thương mại, kinh tế

và an sinh xã hội. Vấn đề này được xem như một nguy cơ, thách thức lớn

trong tình hình hiện nay.

Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, việc triển khai

thi hành pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm đã được lãnh đạo các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, coi trọng. Các

sở, ban ngành có liên quan đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về ATTP. Điển hình là đã thành lập và kiện toàn Ban

Chỉ đạo đảm bảo ATTP; trung bình mỗi năm tổ chức hơn 400 đoàn kiểm tra

liên ngành, liên tuyến thanh tra, kiểm tra chất lượng ATTP cho hơn 5.500 cơ

sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, từng bước chấn chỉnh, khắc phục và xử lý

các sai phạm của người sản xuất, tiểu thương… Tuy nhiên, tình hình mất vệ

sinh, ATTP có thời điểm vẫn còn diễn biến phức tạp. Tình trạng sử dụng tùy

tiện kháng sinh, hóa chất trong nuôi trồng; dư lượng kháng sinh, chất tăng

trưởng tồn dư trong thực phẩm, hoá chất bảo vệ thực vật trong sản xuất trái

cây, rau quả vẫn là vấn đề nhức nhối cho các nhà quản lý, bất an cho người

tiêu dùng. Việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm còn xảy ra

khá phổ biến. Các cơ sở sản xuất rau, thịt sử dụng nguyên liệu, nguồn nước

không đảm bảo vệ sinh an toàn; một số địa điểm kinh doanh thực phẩm tươi

sống chưa được cấp giấy chứng nhận vệ sinh ATTP; một số cơ sở giết mổ gia

súc, gia cầm không có giấy chứng nhận vệ sinh thú y gây ảnh hưởng tới sức

khỏe và quyền lợi của người tiêu dùng… Ý thức của một số người sản xuất,

kinh doanh thực phẩm còn thấp, người tiêu dùng tiêu thụ thực phẩm theo thói

1

quen… đã gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật bảo về người tiêu

dùng trong lĩnh vực ATTP. Theo thống kê, từ 2013 đến nay đã xảy ra 17 vụ

với 266 trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, có 01 người chết. Kết quả kiểm tra

hằng năm cho thấy số cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có vi phạm về

ATTP còn cao (3.412/28.124 lượt cơ sở) [4].

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chính là từ sự bất

cập của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Mặc dù đã được Quốc hội

thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010; Luật An toàn thực

phẩm 2010; Nghị định 38/2012/NĐ - CP, ban hành 25 tháng 04 năm 2012

quy định chi tiết một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Nghị định

91/2012/NĐ-CP, ban hành ngày 08 tháng 11 năm 2012 quy định xử phạt hành

chính về ATTP cùng nhiều văn bản khác như Luật Chất lượng sản phẩm,

hàng hóa; Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; sửa đổi, bổ sung một số điều

về vi phạm ATTP trong Bộ luật hình sự … cùng hệ thống cơ quan quản lý

nhà nước về ATTP được hình thành từ trung ương đến cơ sở. Song khả năng

áp dụng còn hạn chế, nội dung điều chỉnh chưa thực sự phù hợp với quan hệ

xã hội đang tồn tại.

Hệ thống các quy phạm pháp luật còn có tình trạng nội dung một số

điểm còn chưa rõ, chồng chéo, không phân định rõ trách nhiệm quản lý giữa

các bộ, ngành; còn những thiếu sót, chưa phủ hết các lĩnh vực, có khoảng

trống giữa các khâu trong trách nhiệm quản lý. Một số lĩnh vực mới phát sinh

chưa được hướng dẫn quản lý cụ thể, chi tiết nên địa phương rất khó thực

hiện. Bên cạnh đó, có những quy định không phù hợp với thực tế như: hiện

tuyến xã không thể nào có đủ cán bộ chuyên môn để thực hiện việc khám sức

khỏe, thẩm định cơ sở, cấp giấy phép theo quy định; những thử nghiệm cho

kết quả ngay thì không đủ cơ sở pháp lý để xử phạt và xử lý ngay, nhằm tránh

ngộ độc thực phẩm xảy ra, còn chờ kết quả chính thức thì thực phẩm đã được

2

tiêu thụ hết; mức xử lý vi phạm còn chưa phù hợp với quy mô của cơ sở.

Ngoài tình trạng chồng chéo và thiếu thống nhất, vấn đề quan trọng là hiệu

quả quản lý thấp, không đi vào cuộc sống.

Thực trạng trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện

cả về cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực ATTP dưới góc độ Luật Kinh tế nhằm đánh giá những ưu điểm,

hạn chế, vướng mắc, đồng thời đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hơn

nữa hiệu lực, hiệu quả pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP là

rất cần thiết và khách quan, đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức

khỏe nhân dân trong tình hình mới. Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài:

“Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm theo pháp

luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên

cứu Luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu Pháp luật về

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhưng nhìn chung, những công trình được

đề cập trên đã tập trung nghiên cứu một số quy định cũng như việc tổ chức

thực hiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng và pháp luật về ATTP, phân

tích, làm rõ những hạn chế, bất cập trong thực thi pháp luật về hai lĩnh vực

trên. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khỏe học nào đi sâu nghiên

cứu một cách cơ bản và có hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong

lĩnh vực ATTP từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.

Công tác bảo đảm quyền lời người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP tuy

đóng vai trò rất quan trọng, song pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong lĩnh vực ATTP ở nước ta mới chỉ được quan tâm đúng mức và bắt

đầu có một số nghiên cứu quy mô trong thời gian gần đây, được thể hiện

3

trong nhiều công trình khỏe học công bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành

và các Luận văn Thạc sỹ, Luận án Tiến sỹ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lí luận, thực trạng pháp luật và

thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh

an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó xây

dựng hệ thống giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu

dùng nói chung, bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm tại

thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích như trên, luận văn phải làm rõ những nhiệm vụ cụ

thể sau:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lí luận pháp luật về bảo vệ người

tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; như: những vấn đề lý

luận khái quát về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và

khái quát về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm.

- Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ người tiêu

dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm;

- Đánh giá việc thực hiện, bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ

sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; nêu lên những

hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó

- Làm sáng tỏ các luận cứ khoa học cho các giải pháp nhằm góp phần

hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn

thực phẩm và nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Luận văn đặt vào mục tiêu tìm hiểu về việc thực thi pháp luật bảo vệ

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh.

- Cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành và

chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an

toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh.

- Về thời gian: từ năm 2014 đến hết năm 2018.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm Chủ nghĩa Mác –

Lênin với phương pháp luận biện chứng để xem xét về thực trạng thi hành pháp

luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; quan điểm trong

đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý xã hội trong nền

kinh tế thị trường.

Trong quá trình viết luận văn, một số phương pháp nghiên cứu như sau:

- Phương pháp phân tích văn bản, phân tích quy phạm: Làm rõ các khái

niệm, quy định hiện hành về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm …

- Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật và so sánh pháp luật: Chủ

yếu sử dụng trong chương 1 và chương 2 để đánh giá thực trạng pháp luật bảo

vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm và thực tiễn thi

hành trên thực tế.

- Phương pháp quan sát và phương pháp phân tích số liệu thứ cấp: Chủ

yếu sử dụng trong chương 2 nhằm làm sáng tỏ thực trạng và những bất cập

5

trong thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh sinh an

toàn thực phẩm.

- Phương pháp diễn giải, phương pháp dự báo khoa học: Chủ yếu được

sử dụng trong Chương 3 để đưa ra định hướng và các giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn

- Về mặt lý luận: Những kết quả thu được thông qua thực hiện đề tài sẽ

bổ sung cơ sở thực tiễn để đánh giá chung về pháp luật liên quan đến bảo vệ

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Đồng thời, bổ sung, hoàn

thiện những quy định về pháp luật của nhà nước, địa phương về thực thi pháp

luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm đảm bảo chặt

chẽ, hiệu quả.

- Về thực tiễn: Góp phần hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo đảm

bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao

hiệu quả thực thi; góp phần hạn chế, giải toả những vướng mắc về pháp lý,

chế độ, chính sách về bảo đảm bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh

an toàn thực phẩm tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, cả nước nói

chung.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm có: Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và được bố cục

thành 03 chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh

6

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả việc thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an

toàn thực phẩm.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ

QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC

AN TOÀN THỰC PHẨM

1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực

an toàn thực phẩm

1.1.1. Khái niệm bảo vệ người tiêu dùng

1.1.1.1.Quyền lợi người tiêu dùng

Quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP bao gồm những quyền năng cơ

bản và phát sinh của người tiêu dùng khi họ tham gia vào quan hệ mua bán

trong lĩnh vực ATTP và có thể kéo dài trong suốt quá trình sử dụng sản phẩm,

dịch vụ. Theo điều 8 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy

định có tám quyền cơ bản: Quyền được bảo đảm; Quyền được cung cấp thông

tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được góp ý; Quyền được tham gia xây dựng

và thực thi; Quyền được yêu cầu; Quyền được khiếu nại; Quyền được tư vấn.

1.1.1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Chính vì người tiêu dùng yếu thế trong các mối quan hệ với các nhà sản

xuất, kinh doanh cho nên người tiêu dùng không thể đưa ra các chọn lựa phù

hợp và đúng đắng với lợi ích của họ. Vì lý do đó, Nhà nước phải can thiệp để

bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Có hai cách tiếp cận chủ đạo trên thế giới

mà thông qua đó Nhà nước bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng [11, tr.10-11]:

Một là, xây dựng một hệ thống pháp luật trong đó quy định trách nhiệm

pháp luật đối với các bên sau khi đã xảy ra vi phạm; Đây là cách tiếp cận mà

theo đó các bên liên quan phải bồi thường thiệt hại sau khi xảy ra thiệt hại

thực sự. Theo cách tiếp cận này, các cơ quan phân xử, trong đại đa số các

trường hợp là các toà án, bao gồm cả các toà chuyên biệt, sẽ quyết định mức

độ bồi thường thiệt hại, căn cứ trên bản chất và thực tế vụ việc. Các bên liên

8

quan phải chịu bồi thường thiệt hại do sai sót mà đã họ gây ra, nhưng chỉ sau

khi bên bị thiệt hại đã kiện ra toà hoặc khiếu nại đến các cơ quan chức năng

có thẩm quyền khác, với đầy đủ căn cứ và bằng chứng chứng minh thiệt hại

của mình và hành vi vi phạm của bên kia có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Hai là, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh, ngăn chặn

trước các hành vi vi phạm để giảm thiểu tối đa vi phạm. Cách tiếp cận thứ hai

này mang tính ngăn chặn, phòng ngừa. Theo cách tiếp cận này, một hệ thống

quy chuẩn phải được thiết lập, không liên quan đến việc có xảy ra thiệt hại

thực sự cho người tiêu dùng hay không. Các vụ việc, hay cả một nhóm các

vấn đề, đều có thể được điều chỉnh bởi các quy định chuẩn chung này, giảm

thiểu khả năng xảy ra việc phải phân định đúng sai, hay giúp tránh các phán

quyết không nhất quán và thiếu công bằng trên cơ sở vụ việc. Và trong đại đa

số các trường hợp, các cơ quan chức năng sẽ sử dụng các thủ tục hành chính

để xem xét các thông tin kỹ thuật có liên quan, nhằm đi đến kết luận cuối

cùng.

1.1.2. Khái niệm an toàn vệ sinh thực phẩm

Đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP) luôn được Đảng và Nhà nước ta

đặc biệt quan tâm vì xuất phát từ tầm quan trọng của nó; bảo đảm ATTP trước

hết là chăm lo sức khỏe của nhân dân, phát triển kinh tế, an sinh xã hội và

phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đảng và Nhà

nước ta thường xuyên chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm không ngừng

hoàn thiện pháp luật về ATTP, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

về ATTP. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về ATTP đã được ban hành

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ATTP. Các cấp, các ngành

đã vào cuộc và tạo được sự chuyển biến tích cực đã được ghi nhận ở nhiều địa

phương, đơn vị, đặc biệt ở những thành phố lớn. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể,

công tác bảo đảm ATTP vẫn là vấn đề thách thức to lớn ở nước ta. Ngộ độc

9

thực phẩm và các mối nguy đe dọa mất an toàn thực phẩm tiếp tục là những

vấn đề quan tâm hàng đầu đối với sức khỏe cộng đồng, an sinh xã hội và tăng

trưởng kinh tế. Các giải pháp giải quyết vấn đề này đang được đặt ra rất cấp

bách, nhất là việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về ATTP. Do vậy cần

thiết phải có các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và

bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh

vực an toàn thực phẩm, tạo lập trật tự, ổn định xã hội.

An toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý đến việc đảm bảo

an toàn vệ sinh đối với thực phẩm nhằm bảo đảm sức khỏe cho người tiêu

dùng. Đây là một vấn đề lớn lớn mà các nước phát triển và đang phát triển

phải đối mặt hằng ngày và trong đó có Việt Nam.

An toàn thực phẩm là việc chế biến, xử lý, lưu trữ và bảo quản các

loại thực phẩm bằng các phương pháp phòng chống, phòng ngừa bệnh tật do

thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng gồm các thói quen, thao tác khi

chế biến cần phải được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe đến người

tiêu dùng.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tiến hành nhiều nghiên cứu công phu

và đi đến kết luận, thực phẩm không an toàn có thể gây ra những vấn đề rất

lâu dài với sức khỏe của người dùng. Khái niệm thực phẩm an toàn (hay thực

phẩm sạch) khá rộng và trừu tượng, nên có nhiều quan niệm khác nhau. Theo

WHO, thực phẩm đạt mức an toàn là khi không chứa hoặc chứa hàm lượng ở

mức chấp nhận được các chất ô nhiễm hay vi khuẩn mà bình thường có thể

gây nhiễm độc, hoặc bất kỳ chất nào khác có thể khiến thực phẩm trở nên có

hại cho sức khỏe. Nói cách khác, thực phẩm an toàn là loại thực phẩm cung

cấp các chất dinh dưỡng phù hợp, thiết yếu mà không gây hại cho sức khỏe

của người sử dụng do các loại ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học hay các

hình thức ô nhiễm khác gây ra.

10

Gắn liền với khái niệm thực phẩm an toàn là khái niệm an toàn thực

phẩm. WHO định nghĩa, an toàn thực phẩm có nghĩa là bảo đảm thực phẩm sẽ

không gây hại cho con người cả trong quá trình chuẩn bị và/hoặc khi đã sử

dụng. Nhằm thống nhất ý chí và hành động của các quốc gia trong việc bảo

đảm an toàn thực phẩm, kể từ năm 1962, Tổ chức Lương thực và Nông

nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) đã xây dựng nên Bộ quy tắc về thực phẩm

và thành lập Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế - cơ quan liên chính phủ

với 165 nước thành viên, nhằm xác lập các tiêu chuẩn quốc tế về thực phẩm

cũng như tổ chức thực hiện các hoạt động bảo đảm an toàn thực phẩm trên

phạm vi toàn cầu.

Theo quy định tại Điều 2 – Luật An toàn thực phẩm năm 2010 [An toàn

thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính

mạng con người]. Vì vậy, an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen,

thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Do vậy, để đảm bảo an toàn thực phẩm, các chủ thể cần tuân theo

những quy định, điều kiện cụ thể mới có thêm đảm bảo thực phẩm không gây

hại đến sức khỏe cơn người. Điều kiện để đảm bảo an toàn thực phẩm là quy

chuẩn về kỹ thuật đối với các nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích đảm bảo thực

phẩm an toàn đối với sức khỏe, tính mạng con người [39].

Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 là văn bản luật đầu tiên

quy định toàn diện các vấn đề về vệ sinh, an toàn thực phẩm trong quá trình

sản xuất, kinh doanh thực phẩm, phòng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm

và truyền bệnh qua thực phẩm. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định chi tiết

cách thức kiểm tra, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thực phẩm. Qua 06 năm

thực hiện cho thấy, Pháp lệnh này đã thật sự là một công cụ quan trọng để

11

Nhà nước quản lý công tác vệ sinh an toàn thực phẩm . Tuy nhiên, trong quá

trình triển khai thực hiện, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm tồn tại một số

bất cập cần phải được nghiên cứu sửa đổi, hoàn chỉnh như: cùng một vấn đề

nhưng quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh (134 văn bản của

các ngành, các cấp) nên có sự chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp, có vấn đề

nảy sinh nhưng chưa có văn bản quy định điều chỉnh; việc phân công trách

nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Bộ Công thương và các Bộ, ngành liên quan chưa được rõ ràng

(đặc biệt là đối với việc quản lý thực phẩm tươi sống) nên dẫn đến những khó

khăn trong quá trình triển khai, phối hợp thực hiện, cũng như đùn đẩy trách

nhiệm khi sự việc xảy ra. Các quy định về hệ thống thanh tra chuyên ngành

về vệ sinh an toàn thực phẩm hiện mới được nêu tại Nghị định số

79/2008/NĐ-CP ngày 18/7/2008 của Chính phủ mà chưa được luật hoá nên

hiệu lực pháp lý chưa cao. Mặt khác, các quy định trong Nghị định về hệ

thống thanh tra chuyên ngành ATTP cũng chưa đồng nhất với pháp luật về

thanh tra hiện hành…những hạn chế, bất cập trên đã được nhìn nhận, sửa đổi,

tiếp tục tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ, có hiệu quả hơn về ATTP và

từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về ATTP. Do đó ngày 28/06/2010

Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật An toàn thực phẩm và có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/07/2011. Luật An toàn thực phẩm có 11 chương, 72 điều quy

định một cách toàn diện về vấn đề an toàn thực phẩm.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh

vực an toàn thực phẩm

ATTP là một lĩnh vực có yêu cầu cao về điều kiện chất lượng và tiêu

chuẩn của thực phẩm. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong

lĩnh vực ATTP rất chú trọng về tiêu chuẩn, an toàn của người tiêu dùng thực

12

phẩm. Lĩnh vực đặc biệt này còn liên quan đến các luật chuyên ngành về chất

lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm trong chế biến, sản xuất, bảo quản.

Từ những phân tích trên về khái niệm an toàn thực phẩm, người tiêu

dùng và khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Chúng ta có thể đưa ra

cách hiểu khái quát về khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về an toàn

vệ sinh thực phẩm như sau: [Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực

an toàn vệ sinh thực phẩm là việc Nhà nước bảo vệ quyền năng cơ bản và

phát sinh của người tiêu dùng khi họ tham gia vào quan hệ mua bán thực

phẩm và có thể kéo dài trong suốt quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ liên

quan đến thực phẩm nhằm bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức

khỏe, tính mạng con người].

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP là việc bảo đảm

cho người tiêu dùng có được đầy đủ các quyền cơ bản nói chung nhưng trước

tiên là “Quyền được an toàn”. Khi người tiêu dùng bị thiệt hại liên quan đến

ATTP thì phải được nhanh chóng bù đắp và bồi thường các tổn thất về tinh

thần và sức khỏe. Đây là đặc trưng của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực ATTP, vì liên quan đến các quyền cơ bản của con người như

quyền được tự do, quyền được sống, an toàn cá nhân; quyền được có một

cuộc sống với sức khoẻ cho bản thân và gia đình trong Tuyên ngôn Quốc tế

Nhân quyền của Liên Hợp Quốc. [25, Điều 3, Điều 25]

Từ khái niệm về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về an toàn vệ sinh

thực phẩm như trên, có thể thấy việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về an

toàn vệ sinh thực phẩm có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ

sinh thực phẩm quy định các quy tắc xử sự chung cho mọi người trong những

hoạt động ở lĩnh vực thực phẩm.

13

Về mặt này, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ

sinh thực phẩm điều chỉnh khá đầy đủ những hành vi, hoạt động liên quan đến

điều kiện đảm bảo ATTP; điều kiện đảm bảo chất lượng trong sản xuất, kinh

doanh thực phẩm; xuất – nhập khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn sản

phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với ATTP, phòng ngừa

ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; đưa ra những hành vi bị cấm.

Thứ hai, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ

sinh thực phẩm quy định các chế tài ràng buộc con người thực hiện những yêu

cầu của pháp luật để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong ATTP

Trong thực tế các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh, sản xuất

thực phẩm thường chỉ chú ý tới lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người

khác, của chung cộng đồng, bỏ qua hoặc không tự giác thực hiện nghĩa vụ và

trách nhiệm phải thực hiện với việc bảo đảm ATTP. Chẳng hạn, khi thực hiện

nghĩa vụ đánh giá thực phẩm tiêu chuẩn, các chủ sản xuất kinh doanh thường

không thấy trước được lợi ích của mình do đó luôn tìm cách lẩn tránh nghĩa

vụ pháp lý với thực phẩm.

Thứ ba, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh

thực phẩm quy định các tiêu chuẩn bảo đảm ATTP, đồng thời công nhận

những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn.

Nhằm đánh giá được mức độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong

lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng, pháp

luật Việt Nam hiện nay đã đặt ra những tiêu chuẩn nhất định cho thực phẩm

và cả quá trình chế biến, phân phối thực phẩm an toàn. Những tiêu chuẩn này

thường do Bộ Y tế ban hành và được gọi là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

ATTP.

Nhờ đặt ra những quy chuẩn này, việc đánh giá mức độ an toàn của

thực phẩm, mức độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

14

vệ sinh thực phẩm trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Cũng từ đó có thể công

nhận danh hiệu cho những sản phẩm thực phẩm đạt chuẩn để chúng tạo dựng

được niềm tin với người tiêu dùng; đẩy lùi những thực phẩm không rõ nguồn

gốc, kém an toàn và có thể gây nguy hại đến sức khoẻ con người.

Thứ tư, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh

thực phẩm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan

quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

vệ sinh thực phẩm.

Như ta đã biết, tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội đều cần phải có sự

quản lý của nhà nước và thực phẩm cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm còn là

một hoạt động, nhiệm vụ quan trọng bởi thực phẩm là vấn đề tương đối phức

tạp nên rất cần có hệ thống tổ chức quản lý phù hợp, hiệu quả.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

Việt Nam hiện nay đã ngày càng thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ

chế hoạt động cho các tổ chức, cơ quan bảo đảm ATTP. Cụ thể, do nhận thấy

những bất cập từ việc phân công quản lý theo từng nhóm sản phẩm và quá

trình.

1.1.4. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm trong đời sống xã hội

Để đảm bảo thực hiện các chính sách, kế hoạch của Đảng và Nhà nước

trong công tác bảo đảm ATTP thì pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP đã trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý

lĩnh vực này. Nhìn chung có thể đánh giá vai trò của pháp luật trong việc bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP ở Việt Nam hiện nay qua

những mặt như sau:

Đối với chính trị - xã hội:

15

Trong nền kinh tế thị trường, NTD là đối tượng được hướng tới của

người sản xuất và kinh doanh, là động lực phát triển của sản xuất và kinh

doanh nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế và xã hội nói chung. Tất cả mọi

người đều cần trao đổi, mua bán để có những hàng hóa, dịch vụ đáp ứng các

nhu cầu của mình, tiếp đó là đáp ứng nhu cầu của gia đình và tổ chức của

mình. Như vậy có thể thấy rằng, NTD là tất cả mọi người, không phân biệt

tuổi tác, thành phần, dân tộc, giới tính, địa vị xã hội. Hơn nữa NTD có mặt ở

khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo…

Bảo vệ NTD không những chỉ là công việc có tính chất xã hội mà còn

có tính chất kinh tế, chính trị rõ rệt. Một khi NTD, lực lượng xã hội đông đảo

nhất, bao gồm toàn thể mọi người, được tôn trọng, được bảo vệ, được nâng

cao cuộc sống vật chất và tinh thần, họ sẽ trở thành một động lực phát triển xã

hội rất to lớn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển xã hội nói chung. Quyền lợi

của NTD bị xâm phạm sẽ khiến cho sự phát triển của xã hội bị kìm hãm. Việc

bảo vệ NTD là một công việc có tính chất xã hội rộng lớn và sâu sắc và được

đông đảo mọi người trên toàn thế giới quan tâm.

Việc bảo vệ NTD là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và các cơ

quan quản lý Nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh

doanh chân chính.Thực tế, trong nền kinh tế thị trường, thị trường chủ yếu do

tiêu dùng điều tiết. NTD có ảnh hưởng to lớn đến những quyết sách về kinh

tế, dù là của khu vực nhà nước hay của khu vực tư nhân và NTD cũng là đối

tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các quyết định về kinh tế. Chính phủ ở

các nước đều rất quan tâm đến vấn đề NTD và nếu giải quyết tốt vấn đề này

sẽ làm cho kinh tế phát triển, xã hội chính trị ổn định. Ngược lại, sẽ làm cho

kinh tế chậm phát triển thậm chí khủng hoảng xã hội, rối loạn và mất ổn định

chính trị. Bảo vệ NTD là một trong những hoạt động nhằm thực hiện một xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời cũng là duy trì và bồi dưỡng cho

16

một động lực kinh tế quan trọng. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì

vấn đề NTD và bảo vệ NTD càng cần đề ra và thực hiện một cách nghiêm túc.

Đối với kinh tế:

Bảo vệ NTD giúp củng cố niềm tin cho NTD đối với hàng hóa, dịch

vụ, từ đó khuyến khích tiêu dùng. Niềm tin của NTD là mong muốn của tất cả

các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Nó đảm bảo cho sự ổn định và

phát triển của doanh nghiệp đó. Khi không có niềm tin vào sản phẩm, dịch vụ,

NTD sẽ hạn chế thậm chí chấm dứt việc tiêu dùng sản phẩm đó. Phản ứng của

NTD không chỉ gây khó khăn cho sự tồn tại phát triển của riêng doanh nghiệp

đó mà nếu phản ứng đó diễn ra trên diện rộng, cùng lúc thách thức nhiều

doanh nghiệp thì cả nền kinh tế có nguy cơ bị ảnh hưởng.

Bảo vệ quyền lợi NTD giúp đảm bảo công bằng cho NTD. Trong khi

thực hiện hành vi tiêu dùng, NTD có những quyền lợi chính đáng nhất định.

Việc bảo vệ những quyền lợi đó là yêu cầu khách quan để đảm bảo công bằng

cho NTD, cũng là góp phần thực hiện công bằng xã hội. Từ đó, bảo vệ quyền

lợi NTD góp phần quản lý thị trường, giúp thị trường hoạt động lành mạnh,

công bằng. Bảo vệ quyền lợi NTD thực chất là ngăn chặn những hành vi xâm

phạm quyền lợi NTD của nhà sản xuất cung ứng hàng hóa dịch vụ.

1.1.5. Các yếu tố tác động đến việc bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh

vực an toàn thực phẩm

Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng.

Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền Bảo vệ quyền lợi NTD là một

trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước và được thực hiện

hóa bởi một hệ thống quy định pháp lý cụ thể. Việc chờ đợi ý thức trách

nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu thiếu vắng một hệ thống quy

17

định pháp lý là điều không thể bởi họ còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố liên

quan đến lợi nhuận, cạnh tranh…

Những quy định pháp lý sẽ là cơ sở cho các nhà sản xuất kinh doanh ý

thức được vấn đề quyền lợi NTD và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ

quyền lợi NTD. Bên cạnh đó, NTD cũng có cơ sở để thực hiện quyền lợi của

mình. Trong trường hợp các doanh nghiệp không tuân thủ đúng quy định của

pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD thì hệ thống pháp lý sẽ tạo

khung quy định những biện pháp xử phạt và cưỡng chế đối với những doanh

nghiệp đó. 15 Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ thể hiện trong các văn

bản pháp luật mà còn trong thiết chế thực thi pháp luật như các cơ quan Nhà

nước, cơ quan hành chính, hệ thống tòa án các cấp, các tổ chức bảo vệ quyền

lợi NTD. Nhà nước ở bất cứ quốc gia nào cũng luôn có vai trò to lớn trong

bảo vệ NTD. Đó là cơ quan lập ra các chính sách, tổ chức thực hiện các chính

sách và kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách bảo vệ NTD ở nước

mình. Các tổ chức phi chính phủ như Hiệp hội bảo vệ NTD và các cơ quan

quản lý của nhà nước như Cục Quản lý cạnh tranh, Cục quản lý thị trường...

phải tham gia đôn đốc, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở sản xuất

kinh doanh hàng hóa và dịch vụ để họ có ý thức hơn về việc đảm bảo quyền

lợi NTD. Nhờ đó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi gây tổn hại

đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Chính quyền và các đoàn thể có

trách nhiệm tuyên truyền giáo dục kiến thức về tiêu dùng, cung cấp thông tin

về chất lượng hàng hóa, giám sát thị trường, kịp thời can thiệp những hành vi

vi phạm quyền lợi NTD, cũng như chấn chỉnh, kiểm tra về chuyên môn theo

từng lĩnh vực sản xuất để bảo đảm độ an toàn cao cho NTD.

Người sản xuất - kinh doanh:

Người sản xuất, kinh doanh muốn phát triển vững thay vì chỉ quan tâm

đến lợi ích của riêng mình thì phải hơn nữa đến quyền và lợi ích chính đáng

18

của NTD. Họ phải có trách nhiệm đối với NTD về sự an toàn khi sử dụng sản

phẩm, phải phục vụ tốt NTD, hướng dẫn NTD trong việc sử dụng sản phẩm,

phải lắng nghe tiếng nói của NTD để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên

cạnh đó, nhà sản xuất kinh doanh nên có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp

thời và chính xác về hàng hóa và dịch vụ, trách nhiệm bảo đảm tiêu chuẩn đo

lường và chất lượng, trách nhiệm bảo hành, trách nhiệm bảo đảm an toàn cho

NTD và trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại cũng như đền bù thỏa đáng cho

NTD.

Bản thân người tiêu dùng:

Bản thân NTD phải có trách nhiệm tự bảo vệ mình, phải có hiểu biết để

sử dụng đồng tiền của mình một cách hợp lý, đồng thời phải quan tâm đến

mọi người, 16 môi trường xung quanh, phải cảnh giác, phối hợp với các bên

có liên quan trong việc ngăn chặn và trừng trị những vấn đề tiêu cực trong xã

hội. NTD có khả năng tự bảo vệ chính mình thông qua việc ý thức được

quyền lợi chính đáng và trách nhiệm của mình. Khi quyết định tiêu dùng, để

đảm bảo quyền lợi của mình, việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về chất lượng, xuất

xứ, thông tin chính xác về sản phẩm là một công việc không thể thiếu. Từ đó

NTD có thể bảo vệ chính mình tránh khỏi các thông tin sai lệch, hiểu lầm và

rủi ro, thiệt hại khi tiêu dùng sản phẩm.

NTD có quyền bày tỏ ý kiến đối với nhà sản xuất kinh doanh, đối với

các cơ quan có thẩm quyền. NTD có quyền được khiếu nại và bồi thường nếu

khiếu nại hợp lý. NTD có quyền chọn lựa không dùng hàng kém chất lượng,

tẩy chay hàng giả, hàng nhái, điều này cũng giúp các nhà sản xuất chân chính

được bảo vệ. NTD góp ý, phản ảnh về chất lượng sản phẩm, nhà sản xuất thấy

được khuyết điểm, khắc phục, sửa chữa, sẽ giúp cho hàng hóa tốt hơn, chính

điều này lại tạo lợi thế cho NTD khi được sử dụng sản phẩm tốt, còn nhà sản

19

xuất có lợi là được tín nhiệm bán được nhiều hàng hóa, thu lợi nhuận nhiều

hơn….

NTD nên phải tự bảo vệ mình, có ý thức chọn lựa hàng tốt, tẩy chay

không mua hàng giả, hàng nhái, và có ý thức trách nhiệm góp phần bảo vệ

quyền lợi chung của cả cộng đồng bằng hành động thiết thực như đóng góp ý

kiến về chất lượng hàng hóa, lên tiếng báo động xã hội đối với những vấn đề

làm thiệt hại lợi ích chung. Sức mạnh to lớn của NTD là thái độ với các nhà

sản xuất kinh doanh và quyền tẩy chay sản phẩm. Quyền này chỉ được phát

huy khi NTD ý thức được sức mạnh của mình và đoàn kết lại. Khi hội NTD

đã phát triển thành một lực lượng đông đảo, sẵn sàng tham gia tổ chức bảo vệ

quyền lợi của chính mình thì vấn đề xâm hại quyền lợi NTD sẽ có xu hướng

giảm.

NTD là một lực lượng đông đảo của xã hội và dư luận xã hội cũng là

một trong “vũ khí” hiệu quả mà hộtạo ra trong việc bảo vệ quyền lợi của

chính mình. Do đó, dư luận xã hội có ý nghĩa lớn trong việc khuyến khích các

hành động góp phần bảo vệ NTD, đồng thời lên án, phê phán những hành

động xâm phạm quyền lợi của NTD. Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay

được toàn thể xã hội quan tâm và được cơi là một trong những vấn đề quan

trọng nhằm bảo đảm tốc độ tăng trưởng luôn đi đôi với chất lượng tăng

trưởng. Bảo vệ quyền lợi NTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Mọi

quyền và lợi ích hợp pháp của NTD phải được tôn trọng và bảo vệ. Mọi hành

vi vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của NTD phải được xử lý kịp thời và

nghiêm minh, nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Như vậy, bảo vệ quyền lợi NTD là một vấn đề rất đang được chú ý và là trách

nhiệm của mọi người, của toàn xã hội. Hiệu quả của hoạt động bảo vệ này có

được khi có sự tham gia và phối hợp hành động của mọi người, từ người làm

20

công tác quản lý nhà nước đến các doanh nhân, doanh nghiệp, từ các tổ chức

bảo vệ quyền lợi NTD đến chính bản thân NTD.

Việc xây dựng luật bảo vệ NTD hay thành lập các tổ chức, uỷ ban đại

diện bảo vệ NTD đều cần thiết trong việc dẫn dắt NTD tiếp cận thông tin, tiếp

cận pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình; hướng dẫn NTD tạo thói quen thiết

lập chứng cứ; quy rõ trách nhiệm cho đơn vị quản lý nhà nước và liên kết các

lực lượng xã hội để cùng giải quyết các vấn đề bảo vệ NTD. Để quyền và lợi

ích chính đáng của NTD được bảo vệ thì cần có một chiếc “kiềng ba chân”

trong đó, Nhà nước cùng các cơ quan chức năng, người sản xuất kinh doanh

và người tiêu dùng đóng vai trò là ba chiếc chân vững chắc.

1.2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ

sinh an toàn thực phẩm

1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh

vực vệ sinh an toàn thực phẩm

1.2.1.1. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trong xã hội dân chủ, pháp luật luôn được xem là cơ chế hữu hiệu nhất

bảo đảm quyền lợi của các chủ thể khi tham gia vào bất cứ hoạt động nào.

Mặc khác, Nhà nước đặt ra pháp luật nhằm đòi hỏi chủ thể hành động trong

một phạm vi nhất định, mà vượt quá nó, họ sẽ phải chịu những điều chỉnh và

chế tài tương ứng.

Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng và điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cá nhân với người tiêu

dùng và các nhà sản xuất, kinh doanh để bảo vệ quyền, lợi ích của người tiêu

dùng, nhà sản xuất, kinh doanh và lợi ích xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ sở

để xử lý các vi phạm của nhà sản xuất, kinh doanh, các cá nhân, khi họ thực

hiện hành vi xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng đã được luật định.

21

Luật Bảo vệ người tiêu dùng, chủ yếu bao gồm các điều khoản quy

trách nhiệm pháp luật, và được bổ sung bởi quy định của các văn bản quy

phạm pháp luật khác, nhu quy định về an toàn thực phẩm, sức khỏe . Cách

tiếp cận này giúp đảm bảo tính chuyên biệt của từng lĩnh vực pháp luật khác

nhau, giúp các cơ quan thực thi tập trung vào chuyên môn của mình, tuy có

mặt trái là tính rời rạc, đôi khi có thể dẫn đến không nhất quán, hay xung đột

pháp luật. Trong các lĩnh vực chuyên ngành, hệ thống tư pháp thường không

có khả năng thành công cao, do thiếu hiểu biết chuyên sâu về các vấn đề kỹ

thuật liên quan đến sức khỏe và an toàn, không đủ nhân lực hay các thủ tục

không chuyên. Do đó, đối với các quy định về tiêu chuẩn, an toàn của người

tiêu dùng hiện đang được điều chỉnh tại các văn bản pháp luật khác thì sẽ quy

định theo hướng dẫn chiếu.

1.2.1.2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an

toàn vệ sinh thực phẩm

Lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP là toàn

bộ nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và dẫn chiếu đến

một lĩnh vực đó là lĩnh vực ATTP gồm các luật như: Luật chất lượng sản

phẩm, hàng hoá năm 2007; Luật an toàn thực phẩm năm 2010; Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng năm 2010; Các chế định bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng các chế tài xử phạt liên quan đến hành chính hoặc hình sự … Tất cả

đã tạo thành khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong

lĩnh vực ATTP.

1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh

an toàn thực phẩm

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước Việt Nam từ lâu đã đặc

biệt quan tâm và coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, về

22

an toàn xã hội, sức khoẻ cộng động, về bảo vệ môi trường và cũng là vấn đề

có ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, Đảng và Nhà

nước đã và đang thường xuyên chỉ đạo và đưa ra các giải pháp nhằm không

ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 25 tháng 02

năm 2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng

cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, Kết luận số 43-KL/TW của Bộ

Chính trị về 03 năm thực hiện Nghị quyết số 46-NQ-TW, Nghị quyết số

34/2009/NQ-QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội về đẩy mạnh

thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực

phẩm là những văn bản quan trọng, tiêu biểu của Đảng và Nhà nước để chỉ

đạo, đưa ra những biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả

công tác an toàn thực phẩm trong toàn xã hội.

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP có đầy

đủ những nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung,

và được chuyện biệt hoá bởi các quy định chuyên ngành về đảm bảo chất

lượng, an toàn về sinh thực phẩm. Do đó, tác giả sẽ phân tích nội dung chung

nhất của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó sẽ bổ sung thêm

những đặc trưng riêng biệt trong lĩnh vực ATTP. Về cơ bản, pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng sẽ phải có những nội dung chính sau:

1.2.2.1. Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm

Nguyên tắc BVQLNTD là: trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã

hội; quyền lợi của NTD được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp lụât;

BVQLNTD phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp

luật và hoạt động BVQLNTD không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ và tổ chức, cá nhân khác.

23

Các văn bản của Liên Hợp Quốc và Tổ chức Quốc tế người tiêu dùng

luôn có liên đến các quy định nhằm bảo đảm ATTP cần được quan tâm là

Hiệp định về ATTP và Kiểm dịch động thực vật của WTO. Hiệp định bao

gồm các điều khoản về quá trình kiểm soát, kiểm tra và chấp thuận, đưa ra

những quy định trong việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật -

các quy định về sức khỏe cây trồng, vật nuôi, và an toàn thực phẩm[34].Hiệp

định SPS liên quan chủ yếu đến hoạt động thương mại quốc tế nhưng những

tiêu chuẩn, biện pháp được nêu trong Hiệp định nhằm mục đích bảo vệ người

tiêu dùng thực phẩm.Đây là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các quy định

về ATVSTP trong pháp luật của mỗi quốc gia thành viên WTO. Trong đó,

nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng nói chungcó nguyên tắc cụ thể như sau:

Thứ nhất, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP là

trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội.

Thứ hai, Quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP được tôn

trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP

phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật.

Thứ tư, Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực

ATTP không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân

khác.

Đây là một trong những quy định có ý nghĩa quan trọng đối với bảo vệ

người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP, xác định quan điểm quản lý về ATTP

phải xuất phát từ khâu sản xuất đến sản phẩm. Đó là cả một quy trình cần có

sự chung tay và phối hợp đồng bộ của các cơ quan ban ngành có liên quan,

thay đổi quan điểm quản lý như trước đây về tiêu chuẩn sản phẩm cuối cùng,

từng bước đi vào giải quyết tận gốc của các vấn đề về ATTP. Bên cạnh đó,

24

doanh nghiệp phải có trách nhiệm trước sản phẩm mà mình sản xuất, kinh

doanh và phải chịu trách nhiệm cho các vi phạm.

1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm

Quyền của người tiêu dùng:

Quyền của người tiêu dùng thực phẩm là một trong những nội dung

quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bản hướng dẫn về

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc nêu ra các nguyên tắc

bảo vệ người tiêu dùng nói chung, bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm nói

riêng. Bản hướng dẫn đã vạch ra tám lĩnh vực cơ bản có thể phát triển các

chính sách bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm, nay được chuyển thành tám

quyền cơ bản của người tiêu dùng thực phẩm.

“Quyền được an toàn” của người tiêu dùng trong lĩnh vực ATVSTP

đặc biệt được chú trọng vì thực phẩm luôn là hàng hóa phải được bảo đảm vệ

sinh trước khi đến tay người tiêu dùng để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe tinh

thần thể chất của người tiêu dùng thực phẩm.

Nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm:

Người tiêu dùng phải kiểm tra, xem nguồn gốc xuất xứ hàng hóa phải

rõ ràng trước khi nhận để tránh gây cho chính mình và cho cộng đồng xã hội.

Khi phát hiện hàng hóa không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm có thể gây

nguy hại đến sức khỏe, tinh thần, tính mạng người tiêu dung phải thông tin

ngay cho tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước. Đối đối các cơ sở sản xuất kinh

doanh thực phẩm thì pháp luật quy định khi cung cấp hàng hóa ra thị trường

phải đảm bảo tính an toàn, tiêu chuẩn chất lượng của hàng hóa và phải chịu

trách nhiệm đối với hàng hoá của mình nếu có sai sót xảy ra gây ảnh hưởng

đến người tiêu dùng.

1.2.2.3. Điều kiện bảo đảm an toàn với thực phẩm, bảo đảm an toàn

trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

25

Để quản lý đối với sản phẩm, dù là sản phẩm ở dạng nào cũng phải bảo

đảm các điều kiện chung nhất. Chính vì vậy, một số điều kiện mà sản phẩm

phải đáp ứng nhằm bảo đảm an toàn cho sản phẩm.

Ngoài các điều kiện chung, đối với các nhóm thực phẩm cụ thể, đặc thù

như: thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến; thực phẩm tăng cường

vi chất dinh dưỡng; thực phẩm chức năng; thực phẩm biến đổi gen; thực

phẩm đã qua chiếu xạ; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến; bao gói, chứa

đựng thực phẩm cần phải bảo đảm thêm một số điều kiện riêng khác nữa.

Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm cũng có những điều

kiện chung, ngoài ra còn có thêm những điều kiện riêng đối với từng sản

phẩm và từng quá trình như: sản xuất, kinh doanh thực phẩm tươi sống, điều

kiện trong sơ chế, chế biến, kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến, điều kiện

trong kinh doanh dịch vụ ăn uống. Bên cạnh đó, do thức ăn đường phố là một

loại hình kinh doanh đặc biệt và hiện là đối tượng gây ngộ độc thực phẩm cao

nhất, chính vì vậy đưa ra một mục riêng quy định về điều kiện bảo đảm an

toàn trong kinh doanh thức ăn đường phố.

1.2.2.4. Các hành vi bị cấm

Lĩnh vực pháp luật về ATTP cũng quy định những điều cấm trong kinh

doanh về thực phẩm, như các quy định về: Sử dụng nguyên liệu; Sử dụng phụ

gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; Sản xuất, kinh doanh thực

phẩm; Sử dụng phương tiện gây ô nhiễm thực phẩm… Những quy định pháp

luật về các điều cấm về an toàn thực phẩm trong an toàn thực phẩm có vai trò

hết sức quan trọng nhằm răn đe, chất chỉnh các chủ thể tham gia quan hệ pháp

luật bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

1.2.2.5. Giải quyết tranh chấp với người tiêu dùng thực phẩm

Quan hệ giữa người tiêu dùng thực phẩm và người kinh doanh thực

phẩm là quan hệ tư. Vì vậy, các tranh chấp giữa người tiêu dùng thực phẩm

26

với thương nhân kinh doanh thực phẩm sẽ được giải quyết theo trình tự luật

tư.

Trong khi đó, lĩnh vực tiêu dùng thực phẩm, với tính chất cá nhân

người tiêu dùng và thương nhân thường không ký kết với nhau một hợp đồng

mua bán nào, nên việc tồn tại một thoả thuận về điều khoản trọng tài là không

thể.

1.2.2.6. Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm

Việc quy định về các chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về bảo bệ NTD

trong lĩnh vực ATTP yêu cầu phải vừa đảm bảo được tính giáo dục, hiệu quả

cho các quy định của pháp luật nhưng phải tránh xung đột, trùng lắp giữa các

loại chế tài với nhau. Các quy định này tạo ra khung chế tài có khả năng điều

chỉnh, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh

vực ATTP.

Thứ nhất, chế tài dân sự.

Chế tài dân sự trong việc pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực ATTP là quan hệ dân sự của các chủ thể khi tham gia có quyền

tự định đoạt, thỏa thuận các biện pháp dân sự cụ thể và được áp dụng nhiều

trong đời sống dân sự hằng ngày.

Thứ hai, chế tài hành chính.

Chế tài hành chính là đối với hành vi vi phạm pháp luật được áp dụng

với các tổ chức, cá nhân, các nhà sản xuất kinh doanh xâm phạm đến quyền

lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATVSTP là những hậu quả pháp lý bất lợi

nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân tổ

chức đó. Chế tài này nhằm giáo dục các cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh,

tổ chức vi phạm và họ phải chịu các hình thức xử phạt hành chính.

Thứ ba, chế tài hình sự

27

Chế tài hình sự là biện pháp nghiêm khắc và chỉ áp dụng đối với những

trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu

dùng và toàn xã hội. Chế tài này được quy định trong bộ luật hình sự năm

2015 và được tòa án áp dụng, trong khi đó chế tài hành chính và chế tài dân

sự chủ yếu được sử dụng giải quyết các vụ việc bồi thường thiệt hại cho

người tiêu dùng trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh

vực an toàn thực phẩm. Vì chế tài hình sự có tính nghiêm khắc cho nên các

nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm cũng có ý thức hơn trong việc làm của

mình để tránh phải chịu chế tài nặng nề mà pháp luật đã đặt ra.

1.2.2.7. Thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm

Thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm phải tuân thủ

nguyên tắc: Bảo đảm các nguyên tắc chung về quản lý nhà nước và hoạt động

tư pháp; Bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng với tư cách là chủ thể yếu thế

trong quan hệ pháp luật với thương nhân; và Trên thế giới có hai mô hình cơ

quan nhà nước chuyên trách về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Hệ thống

cơ quan hạt nhân; Hệ thống cơ quan hình chóp. Hệ thống các cơ quan bảo vệ

người tiêu dùng đuợc tổ chức thành hệ thống với một cơ quan dạng Ủy ban

hoặc Hội đồng trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội.

Kết Luận Chương 1

Từ việc phân tích các lý thuyết, khái niệm liên quan về pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP, tác giả đưa ra kết luận sau

đây:

Các nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm đóng vai trò quan trọng việc

đưa các loại sản phẩm an toàn tới tay người tiêu dùng. Do vậy, khi thực hiện

các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP,

các nước trên thế giới đều ghi nhận nó trong nhiều đạo luật khác nhau và lấy

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng làm nền tảng. Những nội dung pháp

28

luật của các quốc gia và các tổ chức trên thế giới là kinh nghiệm bổ ích để

làm làm cơ sở trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong lĩnh vực ATTP tại Việt Nam.

Những lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực ATTP mà tác giả đã tìm hiểu ở chương 1 là cơ sở, tiền đề để

tác giả phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP tại chương 2 của luận văn.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP

LUẬT

VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC

AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh liên

quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực

phẩm

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương và cũng

thành phố lớn nhất Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những trung

tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan trọng nhất của Việt Nam.

Theo báo cáo kết quả năm 2019 thì tổng diện tích thành phố hơn 2.095 km2,

dân số là 8.993.082 người. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm mua

sắm lớn và có nhiều các quán bar, vũ trường, sân khấu, các khu vui chơi giải

trí.

Theo báo cáo, TP. Hồ Chí Minh có nhiều kênh phân phối và cung cấp

sản phẩm thực phẩm đến người dân như chợ đầu mối, 240 chợ truyền thống

có kinh doanh ngành hàng thực phẩm, dịch vụ ăn uống; 186 siêu thị và hơn

880 cửa hàng tiện lợi. Ngoài ra, TP còn có 46.950 cơ sở kinh doanh dịch vụ

ăn uống và khoảng 19.000 cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố…[24]

Theo thống kê, trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 20.013 cơ sở

kinh doanh thức ăn đường phố với trên 24.522 người tham gia kinh doanh

thức ăn đường phố [24]. Thức ăn đường phố TPHCM là một nét đặc trưng

trong văn hóa của người dân thành phố, các món ăn đa dạng, phong phú, là

một trong những điểm thu hút khách du lịch. Việc đảm bảo ATTP thức ăn

30

đường phố là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan chức năng, của các ngành,

các cấp.

Qua khảo sát thực tế tại thị trường Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy:

Có đến 51,4% người tiêu dùng (đặc biệt là giới trẻ) đang ưa chuộng đồ hộp,

thức ăn chế biến sẵn... Nhiều người thích ăn bánh snack, khoai tây chiên vì

cho rằng có cảm giác vui vẻ khi ăn; khi uống nước ngọt có ga cảm thấy mình

hiện đại; ăn thức ăn nhanh chứng tỏ được mình theo kịp tiến độ... Thành phố

Hồ Chí Minh được ghi nhận là thị trường lớn về tiêu dùng hàng thực phẩm

chế biến sẵn, có tốc độ phát triển rất nhanh. Dù chỉ có 24% người tiêu dùng

tin tưởng vào những thông tin quảng cáo ghi trên bao bì các loại thực phẩm

đóng hộp, nhưng chỉ có 30% cho rằng thực phẩm đó có ảnh hưởng xấu tới

mình, so với 45% người tiêu dùng ở các nước trong khu vực. Với các nước

khác, khi có một nhãn hiệu thực phẩm mới xuất hiện trên thị trường mà chưa

biết rõ chất lượng, chỉ có trên 55% dám mua dùng thử, trong khi đó ở Thành

phố Hồ Chí Minh con số lên tới 73% [17]

Những đặc điểm và thói quen tiêu dùng, mua sắm, ăn uống như trên

của người dân Thành phố Hồ Chí Minh ảnh hưởng lớn đến quá trình đảm bảo

an toàn thực phẩm nói chung, còn ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm quyền

lợi người tiêu dùng về an toàn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng.

2.2. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm.

Quyền của người tiêu dùng thực phẩm:

Căn cứ theo Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010,

người tiêu dùng có tám quyền sau đây: Quyền được an toàn; Quyền được

thông tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được lắng nghe; Quyền được tham

gia xây dựng chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

31

Quyền được yêu cầu bồi thường;Quyền được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện;

Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng.

Đáng chú ý, quyền được sử dụng thực phẩm sạch của nhân dân chưa

được đảm bảo, chẳng hạn, theo báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị

của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm trên địa bàn TP.HCM quý 1 năm 2019 cho thấy Thành phố

Hồ Chí Minh đã kiểm tra 22.530 cơ sở và phát hiện 8.505 cơ sở vi phạm

(chiếm tỉ lệ 37,75 %). Đặc biệt, trong quá trình hậu kiểm việc đảm bảo an

toàn thực phẩm đối với 345 hồ sơ tự công bố sản phẩm, có đến 304 hồ sơ

không đạt. trong số 1.990 mẫu thực phẩm được lấy mẫu để kiểm tra các chỉ

tiêu an toàn thực phẩm, chỉ có 1.885 mẫu đạt, còn 105 mẫu không đạt. [28].

Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang thực hiện nhiều giải pháp để kiểm

soát, phát hiện kịp thời thực phẩm không bảo đảm chất lượng. Cùng với đó,

thành phố tiếp tục triển khai những giải pháp lâu dài nhằm xây dựng chuỗi

chế biến, cung ứng thực phẩm sạch... nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của người tiêu dùng.

Đơn cử, tại chợ đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn đang gặp không

ít trở ngại trong việc kiểm soát chất lượng an toàn thực phẩm, thường xuyên

lấy mẫu giám sát, đánh giá nguy cơ ô nhiễm, kiểm tra các chỉ tiêu an toàn

thực phẩm, tiến hành truy xuất và xử lý đúng quy định các mẫu không đạt,

ngăn chặn thực phẩm không bảo đảm chất lượng lưu thông ngoài thị trường.

Hiện nay, Ban Quản lý an toàn thực phẩm thành phố có hai đội quản lý an

toàn thực phẩm đặt tại chợ đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn và Bình

Điền nhằm quản lý trực tiếp trên địa bàn, bảo đảm xử lý các vấn đề về an toàn

thực phẩm kịp thời và nhanh nhất.

Cùng với việc kiểm soát nguồn thịt tại các lò giết mổ, chợ đầu mối, thời

gian tới, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục khuyến khích tiểu thương, doanh

32

nghiệp phân phối thịt nói riêng và thực phẩm nói chung qua các kênh hiện

đại, có tủ bảo quản (siêu thị, cửa hàng tiện lợi...). Thành phố sẽ bỏ dần các

điểm chợ cóc, chợ tạm bày bán thực phẩm tươi sống do chưa bảo đảm vệ

sinh. Để bảo đảm an toàn thực phẩm tại các quầy hàng thực phẩm tươi sống

trong các chợ truyền thống, Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh sẽ phối

hợp với lực lượng quản lý thị trường, tăng cường lực lượng kiểm tra tại 500

điểm chợ truyền thống, chợ tạm. Đồng thời, Sở cũng làm việc với hệ thống

cung cấp thực phẩm sạch qua kênh cửa hàng tiện lợi, siêu thị bảo đảm đủ

cung ứng cho người dân. Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục ký

kết với các đơn vị, tỉnh, thành khác để xây dựng chuỗi cung ứng thực phẩm

sạch. Nhờ vậy, các loại thực phẩm sẽ được kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản

xuất đến sơ chế, giết mổ, chế biến, kinh doanh, truy xuất được nguồn gốc.

Quy định về quyền của người tiêu dùng có một điểm chung là hầu hết

đều tôn trọng và ghi nhận tương tự các quyền đề ra theo Bản Hướng dẫn của

Liên Hợp Quốc. Bởi vì các quyền mà Liên Hợp Quốc nêu ra đã khá toàn diện

và bao trùm được tất cả các vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ người

tiêu dùng [47, tr. 12]. Người tiêu dùng thực phẩm cũng được pháp luật các

quốc gia chú trọng đến các quyền lợi cơ bản như của người tiêu dùng nói

chung.

Thực trạng quy định về quyền của người tiêu dùng đã được quy định

trong nhiều văn bản pháp luật tại Việt Nam, tuy nhiên thực tiễn thực hiện

quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam nói chung và tại Thành phố Hồ Chí

Minh nói riêng vẫn còn những vấn đề cần phải lưu ý

Nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm:

Tại Khoản 2 Điều 9 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 cũng đã có quy

định về nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm. Các quy định này có mục

đích hướng người tiêu dùng tới việc tự bảo vệ mình và cộng đồng khỏi những

33

ảnh hưởng của việc vi phạm ATTP. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, để tạo thói

quen cho người tiêu dùng về ý thức lựa chọn thực phẩm sạch, tự bảo vệ mình

và xã hội trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa

ra các chủ đề trong các tháng hành động vì an toàn thực phẩm như: “Sản xuất,

kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm tươi sống an toàn; kiểm soát rượu, phòng

chống ngộ độc rượu”. Để đưa thực phẩm an toàn đến bếp ăn của người tiêu

dùng, tháng 12-2016, thành phố đã triển khai Chương trình truy xuất nguồn

gốc thịt heo. Đến nay, đã có hơn 10 cơ sở giết mổ; gần 20 doanh nghiệp, hàng

trăm trại chăn nuôi trên địa bàn thành phố và các tỉnh lân cận hội đủ các điều

kiện, tiêu chuẩn như không sử dụng chất cấm, thuốc kháng sinh trong quá

trình chăn nuôi; giết mổ, vận chuyển, bán sỉ, bán lẻ bảo đảm an toàn vệ

sinh… được tham gia chương trình. Tiếp đó, tháng 1-2017, Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn thành phố cũng triển khai Chương trình truy xuất

nguồn gốc rau xanh. Thực hiện kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm, Ban

Quản lý đề án chuỗi thực phẩm an toàn thành phố đã cấp giấy chứng nhận sản

xuất an toàn cho gần 100 trang trại trồng rau xanh khu vực ngoại thành và các

tỉnh lân cận. Các cơ sở này mỗi năm cung cấp hàng trăm nghìn tấn rau canh

tác theo tiêu chuẩn VietGap cùng nhiều loại thực phẩm khác cho thị trường

thành phố [18].

Khi người tiêu dùng có ý thức trong việc lựa chọn thực phẩm an toàn,

chất lượng để sử dụng thì nguy cơ bị thiệt hại đến quyền lợi của chính mình

sẽ được giảm xuống đáng kể. Vấn đề còn lại là Nhà nước thực hiện quản lý về

ATTP và nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ

của mình trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

34

2.3. Nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh thực

phẩm.

2.3.1. Trách nhiệm chung của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối

với người tiêu dùng thực phẩm

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 12 Luật Bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng năm 2010 quy định trách nhiệm của cơ sở sản xuất kinh

doanh trong lĩnh vực ATTP là phải ghi nhãn hàng hoá, cảnh báo hàng hóa có

ảnh hưởng xấu đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng theo quy

định của pháp luật.

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Ban

Quản lý An toàn thực phẩm) là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo liên ngành

về an toàn thực phẩm thành phố, đầu mối tổng hợp trong việc tham mưu Ủy

ban nhân dân thành phố các giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm. Tiêu biểu

là việc UBND thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định 19/2018/QĐ-

UBND HCM Quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt động đảm bảo an toàn

thực phẩm, với mục đích đảm bảo thực hiện chỉ đạo xuyên suốt từ thành phố

đến quận - huyện, phường - xã - thị trấn, tăng cường trách nhiệm và quy định

về phân công, phân cấp, phối hợp giữa các ngành, các tổ chức chính trị xã hội

và địa phương nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm.

Tuy nhiên, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn tồn tại

những trường hợp nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm thiếu trách nhiệm đối

với người tiêu dùng thực phẩm. Trong đó có nhiều vụ việc nổi cộm, cụ thể

như:

Vào rạng sáng Ngày 11/4/2019, Đội 4 Phòng Cảnh sát phòng chống tội

phạm về môi trường bất ngờ kiểm tra 3 cơ sở sản xuất thực phẩm tại khu dân

cư Bến Lức, Phường 7, Quận 8, TPHCM. Qua kiểm tra, Công an phát hiện

35

gần 2 tấn thực phẩm gồm: ngó sen, chuối bào,… ngâm hoá chất, chất tẩy

trắng, hàn the. Cụ thể, tại cơ sở sản xuất thực phẩm tại căn nhà không số do

bà Lê Kim Trúc làm chủ, tổ công tác phát hiện gần 1 tấn ngó sen chua được

ngâm với chất tẩy. Tại số nhà 116 cách cơ sở của bà Trúc không xa, Công an

phát hiện hơn 500kg chuối bào ngâm trong chất tẩy và hàn the. Tại điểm thứ

3, Công an cũng phát hiện có gần 200kg chuối bào được ngâm trong chất tẩy

trắng và hàn the. Tổng cộng, Công an thu giữ 200kg chất tẩy trắng, 5kg hàn

the, 100kg acid acetic, đây đều là những hoá chất độc hại. Ngoài ra, khu vực

sản xuất dơ bẩn, không đảm bảo vệ sinh. Bước đầu, chủ các cơ sở trên khai

nhận dùng hoá chất không liều lượng và đổ trực tiếp vào để làm trắng ngó sen

và chuối bào trước khi cung cấp số lượng lớn cho các chợ đầu mối, chợ lẻ,

quán ăn và đưa đi nhiều tỉnh thành tiêu thụ [9].

Ngày 14/4/2019, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường

(PC49) thuộc Công an Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, đã bắt quả tang bốn

cơ sở tại quận Thủ Đức, đang có hành vi sử dụng hóa chất để ngâm, tẩy rửa

cà rốt, chuẩn bị đưa ra thị trường. Cơ quan công an đã thu giữ tổng cộng 6,3

tấn cà rốt đã được tẩy bằng hóa chất và đang tiếp tục làm rõ, xử lý các cơ sở

trên theo quy định. Sau một thời gian theo dõi, vào rạng sáng cùng ngày, Đội

3 PC49 đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang cơ sở của ông Bùi Văn Sáng

nằm trên đường số 2, Khu phố 5, phường Tam Bình, quận Thủ Đức đang

dùng hóa chất độc hại ngâm 3,1 tấn cà rốt. Cơ quan công an còn thu giữ 1kg

hóa chất tại hiện trường. Ông Sáng khai nhận mỗi ngày cơ sở này tẩy rửa 7

đến 8 tấn cà rốt. Ngoài ra, Công an đã bắt quả tang thêm ba cơ sở khác cách

đó không xa cũng có hành vi tẩy rửa tổng cộng 3,2 tấn cà rốt bằng hóa chất;

đồng thời thu giữ thêm 4kg chất tẩy công nghiệp không rõ nguồn gốc.

Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật bảo

vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP cũng rất quan trọng để người tiêu

36

dùng có ý thức tự bảo vệ mình và nêu cao trách nhiệm từ nhà sản xuất thực

phẩm. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày càng được đẩy mạnh với nhiều hình

thức, nhiều thành phần trong xã hội cùng tham gia. Công tác truyền thông

giáo dục ý thức chấp hành, thực hiện tốt công tác đảm bảo VSATTP không

ngừng được tăng cường với sự tham gia hưởng ứng tích cực của chính quyền,

các sở, ban ngành đoàn thể và nhân dân: Triển khai chiến dịch truyền thông

trong tháng hành động vì chất lượng VSATTP, trong phòng chống dịch bệnh

mùa hè trong dịp tết Nguyên đán, tết Trung thu, truyền thông cơ động trong

các lễ hội đạt kết quả tốt.

Để nâng cao nghĩa vụ của nhà sản xuất với người tiêu dùng trong lĩnh

vực an toàn thực phẩm, tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 9 tháng đầu năm

2018, trên địa bàn thành phố tổ chức cung cấp kiến thức ATTP, tập huấn cho

14.637 người kinh doanh thức ăn. Ngoài ra, các quận-huyện, phường-xã tại

Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tiến hành kiểm tra 15.193 cơ sở (chiếm

76%), phát hiện 6.245 cơ sở vi phạm an toàn thực phẩm, 126 cơ sở bị phạt với

số tiền hơn 114 triệu đồng, số còn lại bị nhắc nhở, cảnh cáo…[24]

2.3.2. Quy định trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật và bồi

thường thiệt hại do hàng hoá có khuyết tật gây ra

Tại chương IV của Luật An toàn thực phẩm (2010) quy định [Điều

kiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm]. Điều

kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong khâu sản xuất kinh doanh các loại thực

phẩm tươi sống, chế biến và phân loại cho từng sản phẩm thực phẩm, điều

kiển đảm bảo các loại thức ăn đường phố đây là điều kiện cần được quản lý

riêng mà hiện tại chưa có văn bản pháp luật nào đề cập đến.

Căn cứ theo quy định tại điều 22, điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng năm 2010 [Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật]; [Bồi

thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra]. Đây là căn cứ để các cơ sở

37

kinh doanh sản xuất nghiêm túc thực hiện các tiêu chuẩn trong quá trình sản

xuất thực phẩm, chất lượng sản phẩm của mình, điều này có ý nghĩa quan

trọng trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất để tránh gây

ảnh hưởng đến người tiêu dùng thực phẩm.

Trước đây, việc quy kết trách nhiệm cho nhà sản xuất đối với những

trường hợp thực phẩm có khuyết tật ngay từ giai đoạn sản xuất nếu được đưa

vào lưu thông thì hậu quả tất yếu sẽ thiệt hại cho người tiêu dùng về tính

mạng, sức khỏe, tài sản này được thực hiện theo các quy định của Bộ luật Dân

sự năm 2015 – đặc biệt là các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá quy định về bồi thường do sản

phẩm, hàng hoá không đạt chất lượng trong với tư cách là các quy định bổ

sung của Bộ luật Dân sự.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Chất lượng sản

phẩm, hàng hoá, người tiêu dùng chỉ có thể yêu cầu Toà án buộc nhà sản xuất

chịu trách nhiệm bồi thường khi chứng minh được đầy đủ bốn vấn đề sau: (i)

có thiệt hại xảy ra; (ii) có hành vi trái pháp luật của nhà sản xuất (có hành vi

gây thiệt hại); (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với

thiệt hại xảy ra; (iv) nhà sản xuất có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây thiệt

hại. Việc chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra không phải là vấn đề quá khó.

Tuy nhiên, việc chứng minh rằng nhà sản xuất có lỗi trong việc làm cho sản

phẩm có khuyết tật là điều không hề đơn giản (nhiều trường hợp sẽ là không

thể) bởi lẽ người tiêu dùng rất khó tiếp cận được với các thông tin về quy

trình sản xuất ra sản phẩm. Có thể thấy rằng, với rào cản về trách nhiệm

chứng minh như thế, người tiêu dùng sẽ gặp phải những trở ngại rất lớn trong

yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Việc ghi nhận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có

khuyết tật theo Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam chỉ

38

mới dừng lại ở việc công nhận đây là một trong những trách nhiệm của nhà

sản xuất, kinh doanh thực phẩm mà chưa có thêm những hướng dẫn chi tiết

cho việc áp dụng điều luật này, như là quy định cụ thể thiệt hại do hàng hoá

khuyết tật gây ra đến mức độ nào và trong trường hợp nào thì thương nhân có

trách nhiệm phải bồi thường cho người tiêu dùng. Thực trạng này làm cho

quy định về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật chưa

đạt hiệu quả điều chỉnh tốt nhất. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi các

cơ quan quản lý đang loay hoay tìm ra một biện pháp quản lý hữu hiệu hơn

thì ngày ngày, tại TP Hồ Chí Minh NTD vẫn phải rùng mình trước những

thông tin về thực phẩm ô nhiễm, thực phẩm bẩn và tác hại của chúng đến sức

khỏe của NTD. Những vụ việc rau nhiễm kim loại nặng, nước tương chứa

chất gây ung thư, sữa chứa melanin, phở chứa hoocmon, giò chả chứa hàn

the… liên tục được phát hiện và thông tin trên các phương tiện truyền thông

thực sự cho thấy tình trạng báo động về ATTP ở Thành phố Hồ Chí Minh

hiện nay. Kết quả trong quý 1-2019, TP.HCM kiểm tra 22.530 cơ sở và phát

hiện 8.505 cơ sở vi phạm (tỉ lệ 37,75 %), phạt tiền 464 cơ sở với tổng số tiền

phạt trên 5 tỉ đồng. Đặc biệt chuyển cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố 1

trường hợp vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều khá hi hữu bấy lâu nay

trong bối cảnh vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm khá phổ biến nhưng cơ

quan chức năng kêu khó xử lý. Sức khỏe và cả tính mạng của NTD đang bị đe

dọa nghiêm trọng bởi các loại thực phẩm độc hại mà họ đang phải nhắm mắt

lựa chọn và sử dụng [28].

Do việc đưa thực phẩm an toàn, hợp vệ sinh đến số đông người tiêu

dùng vẫn còn rất nhiều khó khăn. Các loại thực phẩm tươi sống có thể truy

xuất nguồn gốc mới chỉ được bày bán trong các siêu thị, cửa hàng tiện ích. Ở

nhiều chợ truyền thống, công tác kiểm tra, kiểm soát nguồn gốc thực phẩm,

nhất là rau, củ quả, thịt gia cầm chưa được ban quản lý chợ và chính quyền

39

địa phương quan tâm đúng mức. Chung quanh các khu công nghiệp, nơi có

đông công nhân, người lao động lưu trú tồn tại hàng chục chợ tự phát. Không

có thời gian đi xa, các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc, giá rẻ bày bán ở

những chợ này là nơi cung cấp thực phẩm bữa ăn hằng ngày cho công nhân,

người lao động. Bên cạnh đó, các quán nhậu bình dân; hàng quán bán thức ăn

đường phố là những địa chỉ tiêu thụ thực phẩm, các loại rượu pha chế thủ

công, không rõ nguồn gốc... rất cần sự kiểm tra, kiểm soát thường xuyên của

chính quyền, cơ quan chức năng tại Thành phố Hồ Chí Minh [18].

Hiện nay, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn tồn tại những vụ

việc vi phạm về nguồn gốc thực phẩm. Trong tháng 07 năm 2019, Ban Quản

lý an toàn thực phẩm đã ban hành 84 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

đối với cá nhân, tổ chức vi phạm về an toàn thực phẩm với tổng số tiền phạt là

1.285.512.000 đồng, trong đó 46 cơ sở không có giấy chứng nhận cơ sở đủ

điều kiện an toàn thực phẩm và giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn

thực phẩm hết hạn trên 3 tháng, không có hồ sơ tự công bố, không nộp hồ sơ

tự công bố đến cơ quan quản lý, buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Trong đó có

Công ty TNHH Nhà hàng Gang Nam BBQ (phường Tân Phong, quận 7) bị

phạt 56.500.000 đồng do có 2 hành vi là: kinh doanh dịch vụ ăn uống mà

không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm và sử dụng

nguồn nguyên liệu không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Ngoài bị phạt tiền, nhà hàng

này bị buộc tiêu hủy 210 kg thịt heo do không có giấy tờ chứng minh nguồn

gốc hợp pháp [27].

2.4. Các hành vi bị cấm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về

an toàn thực phẩm.

Luật An toàn thực phẩm năm 2010 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng năm 2010 quy định về các hành vi bị cấm đối với các tổ chức, cá nhân

kinh doanh sản xuất hàng hóa dịch vụ yêu cầu người tiêu dùng thanh toán mà

40

không có thỏa thuận trước với người tiêu dùng, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn

của người tiêu dùng mà cung cấp sản phẩm kém chất lượng gây ảnh hưởng

thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng ngươi tiêu dùng. Các cơ sở sản xuất kinh

doanh sử dụng nguồn nguyên liệu không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng, sử

dụng các chất phụ gia vượt giới hạn cho phép, hóa chất bị cấm, các sản phẩm

được chế biến từ thịt chưa qua kiểm dịch thú y hoặc đã qua kiểm tra nhưng

chưa đạt yêu cầu. Các cơ sở sản xuất rau, thịt sử dụng nguyên liệu, nguồn

nước không đảm bảo vệ sinh an toàn; một số địa điểm kinh doanh thực phẩm

tươi sống chưa được cấp giấy chứng nhận vệ sinh ATTP; một số cơ sở giết

mổ gia súc, gia cầm không có giấy chứng nhận vệ sinh thú y gây ảnh hưởng

tới sức khỏe và quyền lợi của người tiêu dùng. Điều luật chỉ ghi nhận khái

quát về những hành vi của thương nhân với tính chất là hành vi có thể gây

thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm.

Bên cạnh đó, quy định về những điều cấm trong bảo vệ người tiêu dùng

còn được đề cập trong Luật An toàn thực phẩm năm 2010. Có 13 loại hành vi

bị cấm đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm gồm các nguyên phụ

liệu, các chất phụ gia, các điều kiện về tiêu chuẩn kỹ thuật trong chế biến thực

phẩm... được quy định trong luật an toàn thực phẩm năm 2010 nhằm tránh rủi

ro, sức khỏe, tính mạng cho người tiêu dùng thực phẩm.

Tuy nhiên, tình hình sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân tại

TP Hồ Chí Minh có nhiều vấn đề đáng lo ngại. NTD không khỏi lo ngại trước

thực trạng thực phẩm không rõ nguồn gốc, thực phẩm chứa các chất nguy

hiểm, các chất phụ gia. Nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm đã sử dụng

một số phụ gia không có trong danh mục của Bộ Y tế hoặc sử dụng sai quy

trình như cháo dinh dưỡng sử dụng Natri Benzoat; hạt dưa dùng phẩm chứa

Rhodamin B để nhuộm màu [20]... Các chất phụ gia độc hại, không rõ nguồn

gốc được sử dụng bừa bãi cũng đe dọa an toàn và sức khỏe của NTD. Các

41

chất như hàn the, phocmon, chất bảo quản thực phẩm từ lâu đã được cảnh báo

là gây hại đến sức khỏe của người sử dụng thực phẩm nhưng cho đến hiện tại,

các chất phụ gia nguy hiểm này vẫn tiếp tục được sử dụng [20].

Việc kinh doanh thực phẩm không rõ nguồn gốc, thực phẩm ôi, thiu, ô

nhiễm trở nên phổ biến. Đặc biệt nóng trong năm 2019 là tình trạng nhập

khẩu phụ phẩm thịt không đảm bảo an toàn, buôn bán nội tạng động vật

không rõ nguồn gốc qua biên giới đã gia tăng gấp 3 lần so với năm 2018 [32].

Rau củ quả là loại thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn nhưng

chất lượng của các loại rau củ ngày càng khiến NTD phải lo lắng. Thuốc bảo

vệ thực vật tìm thấy dư lượng trong các loại rau ăn lá và ăn quả chiếm đến

70% số mẫu [5]. Về chăn nuôi, chúng ta chưa kiểm soát được chăn nuôi ở các

hộ gia đình, chưa kiểm soát được thức ăn chăn nuôi, thuốc tăng trọng và giết

mổ gia súc, gia cầm. Theo thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, có 64,5% các cơ sở nằm trong khu dân cư, 35,5% nằm trong các chợ,

trong đó mới chỉ có 67,7% các cơ sở giết mổ tập trung gia súc được kiểm soát

thú y và 27% các cơ sở giết mổ gia cầm được kiểm soát thú y. Các cơ sở giết

mổ chỉ có 45% thực hiện được vệ sinh tiêu độc, vì thế tỷ lệ số mẫu ô nhiễm vi

sinh vật còn chiếm tới 57%. (Nhân dân, 23/5/2017 – Sức khỏe và môi trường,

số 11,2017)

Quy định về những điều cấm trong bảo vệ người tiêu dùng cũng đã

được quy định cụ thể tại các quốc gia khác.

Quy định pháp luật về những điều cấm trong bảo vệ người tiêu dùng

còn được đề cập cụ thể trong các văn bản pháp luật tại Việt Nam.

Khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ, NTD luôn đứng trước nguy cơ sử dụng

hàng hóa, dịch vụ thiếu độ an toàn. Đối với hàng hóa, có thể kể đến việc thiếu

an toàn của thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm... Đã có không ít những

trường hợp bị ngộ độc thực phẩm do sử dụng các loại thực phẩm kém chất

42

lượng. Nếu như năm 2008 rộ lên việc sử dụng một số hóa chất độc hại trong

chế biến thực phẩm như Melamine, 3-MCPD... thì năm 2009 tình trạng này

gần như không còn nhưng lại xuất hiện nhiều vụ vi phạm nóng về an toàn vệ

sinh thực phẩm dưới nhiều hình thức đa dạng hơn.

Thứ nhất, đã phát hiện ngày càng nhiều các cơ sở sản xuất, chế biến

thực phẩm không đảm bảo điều kiện vệ sinh, nhiều lò chế biến lòng, mỡ, bì

bẩn; dùng hóa chất tẩy trắng bì lợn...; nhiều loại nước tinh khiết bị nhiễm

bẩn... Theo thông tin từ Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Bộ Y tế, năm 2008,

lực lượng chức năng đã phát hiện trên 16% cơ sở sản xuất chế biến kinh

doanh thực phẩm vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm [26].

Qua đợt kiểm tra từ ngày 19/01/2010 cho thấy, vi phạm chủ yếu ở các cơ sở

sản xuất là chưa bảo đảm ATTP, trang thiết bị chưa đáp ứng, nguồn gốc

nguyên liệu không rõ ràng...

Theo quy định thì các cơ sở chế biến kinh doanh thực phẩm phải có

giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP thì mới được hoạt động. Tuy nhiên trên

thực tế tại Tp Hồ Chí Minh, chất lượng thực phẩm của phần lớn các cơ sở này

không được kiểm soát. Báo cáo của ngành y tế tại hội nghị ATTP lần thứ 2

vào ngày 9/04/2008 cho thấy số cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện

ATTP mới chỉ đạt khoảng 10%, 90% còn lại chất lượng thực phẩm thả nổi

không kiểm soát. Hơn thế nữa chưa chắc những cơ sở được cấp giấy chứng

nhận ATTP là đủ tiêu chuẩn về ATTP. Điển hình nhất là vụ việc tại cơ sở sản

xuất mứt Như Ý, quận Bình Tân với hàng trăm thùng nguyên liệu sản xuất

mứt như đu đủ, chùm ruột, cóc, lê... đã bị hư hỏng nghiêm trọng, chứa đầy dòi

và trứng ấu trùng. Ngạc nhiên hơn cả là cơ sở này đã hoạt động từ năm 2001

và được cấp giấy chứng nhận ATTP từ năm 2008, có nghĩa là suốt 8 năm trời,

sản phẩm mứt của cơ sở này được đưa ra thị trường tiêu thụ mà NTD không

thể biết thực hư về chất lượng của những sản phẩm đó.

43

Tình trạng dùng hoá chất không được phép sử dụng trong công nghiệp

thực phẩm để tẩy trắng thực phẩm diễn ra phổ biến. Rạng sáng 14/4/2018 Đội

3 Phòng cảnh sát chống tội phạm về môi trường, Công an TP HCM phát hiện

6 tấn rau củ ở Thành phố Hồ Chí Minh bị tẩy trắng bằng hoá chất. Củ cải, cà

rốt… được hàng loạt cơ sở ở quận Thủ Đức dùng chất tẩy công nghiệp làm

trắng trước khi bán ra thị trường. Cảnh sát thu giữ tổng cộng 5 kg chất tẩy

công nghiệp không rõ nguồn gốc. Hoá chất tẩy trắng nếu không sử dụng đúng

liều lượng, thể loại có thể làm tổn thương hệ tiêu hóa, niêm mạc thành ruột,

dẫn đến viêm loét ruột, dạ dày, tổn thương mao mạch. Người nào thường

xuyên dùng thực phẩm bị tẩy trắng, lượng hoá chất sẽ tích tụ trong cơ thể, gây

ung thư [33].

2.5. Giải quyết tranh chấp với người tiêu dùng

Căn cứ theo quy định tại điều 30 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng năm 2010 quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người

tiêu dùng và các cá nhân kinh doanh hàng hoá, tổ chức, dịch vụ. Theo đó, có

bốn phương thức giải quyết tranh chấp đó là thương lượng, hoà giải, trọng tài

và toà án. Luật còn quy định không được thương lượng, hoà giải trong trường

hợp tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người

tiêu dùng và lợi ích công cộng. Các quốc gia trên thế giới thường sử dụng là

phương thức thương lượng, phương thức hòa giải và phương thức tòa án để

giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và các nhà sản xuất kinh doanh

thực phẩm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

Thứ nhất, về phương thức thương lượng.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng năm 2010 quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất là thời hạn không

quá 7 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận và tiến hành thương lượng với người

tiêu dùng.

44

Theo quy định hiện hành thì chưa có một chế tài nào trong trường hợp

các nhà sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm cố tình

phớt lờ các yêu cầu của người tiêu dùng thực phẩm. Các thiếu sót này làm cho

việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng giữa người tiêu dùng thực phẩm

và các doanh nghiệp không mang lại hiệu quả nếu doanh nghiệp không thực

sự có ý giải quyết các yêu cầu của người tiêu dùng thực phẩm.

Thứ hai, về phương thức hòa giải.

Theo quy định tại Điều 33, điều 34, điều 35, điều 36, điều 37 Luật Bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và điều 31, điều 32, điều 33 của Nghị

định 99/2011/NĐ-CP phương thức hoà giải trong giải quyết tranh chấp về

quyền lợi người tiêu dùng. Vì các tổ chức hoà giải, nguyên tắc hoà giải, thực

hiện kết quả hoà giải có tính khả thi cao và quy định chặt chẽ nên đây được

xem là một phương thức tốt trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền lợi

người tiêu dùng tại Việt Nam.

Thứ ba, về phương thức tố tụng tại tòa án.

Theo quy định tại Điều 41 đến Điều 46 Luật Bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng năm 2010 thì: Ngoại lệ của nguyên tắc xét xử hai cấp là thủ tục xét

xử rút gọn đối với vụ việc cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện tổ chức, cá

nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện,

vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá trị giao dịch dưới một trăm triệu đồng

tại Khoản 2 Điều 41[37]. Miễn án phí, lệ phí Toà án kể cả khi thua kiện khi

người tiêu dùng khởi kiện theo Khoản 2 Điều 43. Cơ quan, tổ chức khởi kiện

vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích

công cộng, lợi ích của Nhà nước không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí

[21, Điều 3].

Tòa án đóng vai trò đặc biệt trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng. Bởi vì, Tòa án phải tuân theo các quy định thủ tục, trình tự, chặt

45

chẽ, và nhân danh nhà nước để xử lý; trong nhiều trường hợp phải rất nghiêm

khắc, giáo dục mạnh mẽ, chế tài được áp dụng cho các đối tượng xâm phạm

lợi ích người tiêu dùng quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành cao và bảo

vệ được triệt để quyền lợi của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Tòa hành chính

cũng có vai trò nhất định thông qua việc xem xét các hành vi hành chính,

quyết định hành chính của người có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm

quyền lợi người tiêu dùng bị khởi kiện tại Tòa hành chính.

Trong hệ thống toà án của Việt Nam không có Toà án chuyên trách về

bảo vệ người tiêu dùng. Nhiều vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại của người tiêu

dùng do bị xâm phạm quyền lợi trong lĩnh vực ATTP có thể được giải quyết

theo Bộ luật dân sự và các văn bản có liên quan. Nhữngx nguyên nhân chủ

yếu làm cho người tiêu dùng chưa tích cực trong việc khởi kiện là:

Pháp luật hiện nay ở nước ta chưa quy định rõ chủ thể nào sẽ là người

bị kiện, người tiêu dùng thực phẩm cũng không biết nên khởi kiện nhà sản

xuất, nhà phân phối hay người bán lẻ?

Do thói quen của người tiêu dùng thực phẩm khi mua hàng hoá không

có giữ lại các hoá đơn, chứng từ cần thiết. Khi xảy ra vụ việc, người tiêu dùng

thực phẩm sẽ gặp khó khăn trong việc thu thập các chứng cứ, các loại tài liệu

để chứng minh mình đã mua thực phẩm không an toàn gây ảnh hưởng đến sức

khỏe. Để có kết luận là thực phẩm có chứa độc tố gây ảnh hưởng đến sức

khỏe người tiêu dùng thì phải qua quy trình giám định, giám sát, kiểm tra thì

mới phát hiện được nhưng hiện nay việc kiểm nghiệm kiểm tra chưa đủ để

cung cấp chứng cứ cho người tiêu dùng khởi kiện.

2.6. Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

Chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu

dùng thực phẩm được đề cập trong Bộ luật Hình sự năm 2017, Luật Bảo vệ

46

quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật An toàn thực phẩm năm 2010,

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, và các Nghị định liên quan.

2.6.1. Chế tài dân sự

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, mỗi hành vi xâm

phạm quyền lợi người tiêu dùng sẽ được áp dụng các chế tài khác nhau. Khi

có yêu cầu của nxgười bị xâm phạm thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

mới được áp dụng các chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền lợi NTD thực

phẩm. Bên cạnh đó, còn có thể áp dụng biện pháp thoả thuận giữa các tổ

chức, cơ sở sản xuất kinh doanh với người tiêu dùng thực phẩm. [2, tr. 189]

Các loại chế tài dân sự có thể được áp dụng bao gồm: Buộc chấm dứt

hành vi xâm phạm. Hành vi vi phạm quyền lợi NTD thực phẩm phải thể hiện

bằng hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động. Buộc thực hiện

nghĩa vụ dân sự, pháp luật bắt buộc nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm phải

thực hiện những cam kết theo sự thoả thuận đối với NTD. Đây là những cam

kết được hình thành dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận. Nhà sản xuất, kinh

doanh thực phẩm phải thực hiện những hành vi nhất định vì quyền lợi của

người tiêu dùng thực phẩm mà lại không thực hiện thì dẫn tới hậu quả pháp lý

là phải thực hiện hành vi theo yêu cầu của pháp luật hoặc thoả thuận với

NTD. Buộc phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Hành vi xâm phạm

quyền lợi người tiêu dùng nói chung và người tiêu dùng thực phẩm nói riêng

có thể gây thiệt hại về sức khỏe, tinh thần, tính mạng, các quyền và lợi ích

hợp pháp khác của người tiêu dùng.

2.6.2. Chế tài hành chính

Chế tài xử lý, xử phạt vi phạm hành chính trong bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP được quy định đầy đủ trong nhiều văn bản quy

phạm pháp luật khác nhau gồm: Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày

14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; Nghị

47

định số 06/2009/NĐ-CP Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản

phẩm, hàng hoá theo Nghị định số 54/2009/NĐ-CP của Chính phủ...Bên cạnh

Các quy định trên còn những hạn chế sau:

Theo quy định tại Khoản 8 Điều 10 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không bảo đảm chất

lượng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng. Căn

cứ quy định tại Khoản 2 Điều 27 Nghị định 80/2013/NĐ-CP về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,

hàng hoá, đối tượng vi phạm có thể chỉ bị phạt tiền từ 6 đến 10 triệu đồng.

Mức xử phạt này vẫn chưa tương xứng với hậu quả của hành vi vi phạm gây

ra, từ đó còn thiếu tính răn đe không bảo đảm tính phòng ngừa chung đối với

hành vi vi phạm này trong tình hình hiện nay.

2.6.3. Chế tài hình sự

Chế tài hình sự được áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật gây

nguy hiểm đặc biệt cho cộng đồng xã hội được coi là tội phạm theo quy định

Bộ luật hình sự năm 2015. Việc thực hiện các quy định về chế tài xử phạt đối

với các vi phạm an toàn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện

khá nghiêm túc. ban Quản lý an toàn thực phẩm thành phố (Ban QLATTP),

cho biết trong năm 2018 Ban đã kiểm tra hơn 41.000 cơ sở, phát hiện tỷ lệ vi

phạm là 27,8%, phạt tiền đối với 2.780 trường hợp với tổng số tiền phạt gần 17

tỷ đồng. Trong năm 2018, Đoàn kiểm tra của Ban QLATTP đã kiểm tra và xử

lý kịp thời nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Điển hình như vụ việc

công ty TNHH Hotel Students bị buộc phải tiêu hủy 404 kg nguyên liệu, 670

kg hàng hóa sản phẩm không nhãn mác, 808 kg bán thành phẩm chưa ép vỉ,

214.320 viên thuốc đã ép vỉ… và bị xử phạt với số tiền gần 115 triệu đồng vì

vi phạm sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng không đảm bảo an toàn…

48

2.7. Thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm

2.7.1. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

thực phẩm

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 47 và khoản 4 điều 4 Luật Bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định chung là các bộ, cơ quan

ngang bộ không phải là Bộ Công thương có trách nhiệm và Luật cũng không

đề cập đến cơ quan cụ thể nào. Luật khẳng định trách nhiệm của Uỷ ban nhân

dân các cấp có vai trò là cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa

phương, thực hiện nhiệm vụ theo phân công trực tiếp của cấp trên và phổ

biến, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trách

nhiệm quản lý của nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh

vực ATTP được phân công và phân cấp cho nhiều cơ quan nhà nước cùng

tham gia và được xem là một chính sách quan trọng của Luật An toàn thực

phẩm năm 2010. Thông tư số 13/2014/TTLT/BYT-BNN-BCT là phân công

quản lý nhà nước giao cho ba Bộ gồm: Bộ Công thương, Bộ Nông nxghiệp và

Phát triển nông thôn và Bộ Y tế. Thông tư này quy định cơ sở kinh doanh

sản xuất sản phẩm chịu sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước.

Bộ Y tế kiểm tra đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chỉ quản lý

thực phẩm khi đến tay người tiêu dùng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn quản lý từ sản xuất đến nơi tiêu thụ đối với các loại thực phẩm tươi sống

trong nước và nhập khẩu. Bộ Công Thương sẽ phối hợp với hai Bộ trên để

kiểm tra, thanh tra thực phẩm kém chất lượng, thực phẩm được sử dụng và

lưu thông trên thị trường.

2.7.2. Tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điều 29 Luật Bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng năm 2010 thì các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi

NTD bao gồm tư vấn, giúp đỡ người tiêu dùng khi người tiêu dùng yêu cầu;

49

giúp NTD khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện; xây dựng kế hoạch, biện pháp

chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Quyền khởi kiện tập thể thông qua tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng, người tiêu dùng có nhiều điều kiện cũng như cơ hội để được

bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.Lợi ích của việc khởi kiện tập thể là tăng

cường sức mạnh cho tập thể những người tiêu dùng bị xâm phạm quyền lợi,

tạo sức ép lớn lên thương nhân vi phạm và tiết kiệm chi phí cho Nhà nước.

Hiện nay, có 61 Hội Bảo vệ quyền lợi NTD hoạt động trải dài trên khắp

các tỉnh thành cả nước. Hoạt động của hội là nhằm mục đích đoàn kết các hội

viên tham gia trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định pháp

luật Việt Nam hiện nay nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, các hội viên

tích cực phối hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước để bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng.

Kết Luận Chương 2

Từ những phân tích chi tiết về quy định của pháp luật về bảo vệ người

tiêu dùng về vệ sinh an toàn thực phẩm, cụ thể như những quy định về quyền

và nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm; nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà

sản xuất, kinh doanh thực phầm; các hành vi bị cấm; giải quyết tranh chấp với

người tiêu dùng; chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm; Thiết chế bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm.

Bên cạnh đó, tác giả đã kết hợp phân tích tình hình thực thi pháp luật về

bảo vệ người tiêu dùng về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí

Minh hiện nay để thấy được kết quả đạt được cũng như những hạn chế và

nguyên nhân của các hạn chế đó.

Những phân tích về thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu

dùng về vệ sinh an toàn thực phẩm và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí

50

Minh tại chương 2 là tiền đề quan trọng để tác giả đưa ra những định hướng

và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về an

toàn thực phẩm tại chương 3.

51

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ

NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy

vai trò tiên phong, giám sát của chi bộ, đảng viên trong công tác bảo vệ

quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm là

nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cấp uỷ đảng,

chính quyền, của cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị và

toàn xã hội. Khắc phục triệt để tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thiếu

quyết liệt của từng ngành, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách; có

cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức và địa phương,

trong đó có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể đối với từng cấp, từng

ngành trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm.

Xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; coi đây là một

trong những nội dung đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của cá

nhân và tổ chức, người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan quản lý

nhà nước.

52

3.1.2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tổ chức bộ máy chuyên trách,

nâng cao năng lực thực thi pháp luật, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật,

tạo hành lang pháp lý thuận lợi và khả năng thực thi hiệu quả công tác bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ an toàn thực phẩm theo hướng

thống nhất, đồng bộ và phù hợp với tập quán tiêu dùng của người dân trong

bối cảnh hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học, công nghệ và xu hướng

phát triển các giao dịch thương mại điện tử. Công khai, minh bạch các thông

tin liên quan đến tiêu chuẩn và nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, hàng hóa.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực, nâng cao năng

lực thực thi của các cơ quan quản lý nhà nước và các hội bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Tổng kết thực hiện Luật

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung Luật

cho phù hợp với yêu cầu quản lý của đất nước và hội nhập quốc tế trong tình

hình mới.

Xây dựng cơ chế quản lý nhà nước thống nhất từ Trung ương đến địa

phương, trong nội bộ các ngành, giữa các ngành, các lĩnh vực; xác định rõ vai

trò đầu mối, điều tiết và giám sát các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên phạm vi cả nước.

Kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm từ Trung ương đến địa

phương phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017

của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi

mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu

lực, hiệu quả.

53

3.1.3. Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ

chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức xã hội trong

công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, gắn trách nhiệm của

doanh nghiệp trong thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực an toàn thực phẩm với việc nâng cao lợi thế cạnh tranh sản

phẩm; tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cạnh

tranh quốc gia. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm nghiêm túc

tuân thủ các nghĩa vụ đối với người tiêu dùng, coi đây là lợi thế cạnh tranh và

phát triển doanh nghiệp.

Tạo điều kiện để các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm hình thành, phát triển và hoạt

động có hiệu quả. Các tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

thường xuyên quan tâm phân tích, đánh giá, phân loại để kịp thời có cơ chế,

chính sách để xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.

Đồng thời khuyến khích, động viên các doanh nghiệp có thực phẩm

chất lượng tốt, giá thành hợp lý, có uy tín, thương hiệu trên thị trường để cung

cấp thông tin đến người tiêu dùng. Có chính sách khen thưởng kịp thời đối

với các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho công tác bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong

lĩnh vực an toàn thực phẩm

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng

Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Đảng, Nhà nước ta cần xây dựng

và vận hành khá hiệu quả mạng lưới giám sát thực thi pháp luật trực tiếp hoặc

gián tiếp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

54

* Xây dựng mạng lưới giám sát hành chính. Các ngành quản lý chức

năng như Y tế, Hải quan, Quản lý thị trường, Giám sát kỹ thuật, Tiêu chuẩn

đo lường chất lượng, Vệ sinh phòng dịch, Bảo vệ môi trường… cần phát huy

tác dụng góp phần hạn chế những tiêu cực trong việc đảm bảo chất lượng

hàng hoá, hạn chế sự ép buộc mua hàng, chống việc độc quyền tăng giá,

chống hàng giả, hàng nhái v.v.. để góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền

lợi của người tiêu dùng Việt Nam trong thời gian vừa qua. Đặc biệt, các cơ

quan bảo vệ pháp luật của Bộ Công an cần tích cực triển khai các biện pháp

giám sát, kiểm soát, điều tra phá án nhằm chống lại tệ nạn làm và buôn bán

hàng giả, hàng kém chất lượng đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền

lợi của người tiêu dùng nước ta.

* Xây dựng mạng lưới giám sát xã hội. Hiệp hội người tiêu dùng các

cấp từ trung ương xuống địa phương cần được thành lập. Ở cấp trung ương,

cần thành lập Hội khoa học kỹ thuật về tiêu chuẩn hoá, đo lường, chất lượng

và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ở các cấp địa phương, trên cả nước cần

có tổ chức người tiêu dùng. Các tổ chức này sẽ góp phần tích cực đẩy mạnh

các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng

trong cả nước.

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và trách nhiệm của

nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm

Trong xu thế toàn cầu hoá, cần thiết phải xây dựng hệ thống các cam

kết và trách nhiệm về ATTP phù hợp với khu vực và thế giới, nhằm đảm bảo

quyền 56 của người tiêu dùng thực phẩm Việt Nam là ngang bằng với công

dân của các quốc gia khác trên thế giới. Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện

các các cam kết và trách nhiệm về ATTP theo chuẩn quốc tế và đặc thù của

Việt Nam. Mục đích cuối cùng là áp dụng các các cam kết và trách nhiệm

55

quốc tế vào thị trường trong nước, nâng cao tiêu chuẩn về ATTP theo tiêu

chuẩn chung của quốc tế.

Mặc khác, tăng cường khả năng đáp ứng các quy định và các cam kết

và trách nhiệm về bảo vệ quyền lời NTD trong lĩnh vực ATTP. Nâng cao

kiểm nghiệm các thực phẩm có nguy cơ mất an toàn về ATTP, nâng cao khả

năng tiếp cận thị trường hàng thuỷ sản, hàng nông sản tạo môi trường thuận

lợi bảo vệ tính mạng, sức khỏe và của người dân khỏi các đại dịch.

3.2.3. Giải pháp hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp với

người tiêu dùng

Về phương thức tố tụng tại Toà án, Luật Việt Nam quy định thẩm

quyền giải quyết vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thuộc về

Toà án. Trong khi đó, vấn đề xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng nói chung

và người tiêu dùng thực phẩm nói riêng hiện nay đang diễn ra ngày càng phổ

biến. Chủ thể khởi kiện là tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng hoặc chủ thể

đơn, hoặc mộ tập thể người tiêu dùng luôn muốn được giải quyết theo yêu cầu

của mình một cách nhanh chóng nhất.

Vì vậy, cần thành lập một Tòa án Bảo vệ người tiêu dùng, chuyên để

xét xử các vụ án liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng . Khi đó, nếu người

tiêu dùng thấy mình xâm phạm quyền lợi và họ chỉ cần nộp đơn lên Tòa án

này là đủ, khỏi phải theo thủ tục, trình tự như hiện nay. Nếu tòa này được

thành lập sẽ khuyến khích người tiêu dùng phản hồi một cách đơn giản và

nhanh chóng.

Đặc biệt, với hình thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và

các chủ thể khác c ần có các quy định hướng dẫn chi tiết về thủ tục tố tụng rút

gọn cho một số vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm.

56

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

Nhằm hoàn thiện chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, Nhà

nước ta cần xây dựng, ban hành các quy định về kế hoạch hành động vệ sinh

an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật theo nguyên tắc tiếp cận hệ

thống toàn bộ ở tất cả các khâu trong chu trình thực phẩm, từ đó phân nhóm

hành động theo chức năng và trách nhiệm của từng cơ quan nhằm xử lý vi

phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm.

Trên cơ sở tìm hiểu kinh nghiệm, mô hình quản lý an toàn thực phẩm

của một số nước và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, nghiên cứu ban hành

các quy định pháp luật để xây dựng mô hình quản lý vệ sinh an toàn thực

phẩm nói chung và hoàn thiện chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Trong đó, ban

hành các văn bản quy định việc xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch, tổ

chức thực hiện, thanh tra, giám sát, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên

quan chịu trách nhiệm về các vấn đề bảo vệ NTD trong lĩnh vực ATTP. Tiếp

tục ban hành các quy định pháp lý để làm căn cứ cho việc hoàn thiện chế tài

xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh

vực an toàn vệ sinh thực phẩm.

Các Bộ, Ban, Nghành liên quan cần nghiên cứu đưa ra biện pháp và

cách thức xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực

ATTP phù hợp hơn. Đối với Tòa án Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao cần có văn bản hướng dẫn và tập huấn cho thẩm phán và những người

làm công tác thực tiễn về phương thức, chế tài xử lý phù hợp hơn đối với các

loại vụ việc này.

57

3.2.5. Giải pháp hoàn thiện thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

thực phẩm

Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn về vệ sinh và an toàn thực phẩm

theo chuẩn quốc tế và đặc thù của Việt Nam. Mục đích cuối cùng là áp dụng

các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực ATTP một

cách phù hợp vào thị trường trong nước.

Nâng cao năng lực về ngăn ngừa các nguy cơ dịch bệnh từ động vật và

thực vật. Nâng cao các quy định về kiểm dịch động, thực vật. Xây dựng các

để có thể cạnh tranh được với các quy định quốc tế nhưng phù hợp với điều

kiện trong nước.

Cần tham khảo có ý kiến các chuyên gia để xây dựng các quy định

quản lý để các nhà sản xuất thực hiện có hiệu quả dựa trên các chứng cứ khoa

học

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ

người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước

3.3.1.1. Tăng cường và hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và

tòa án bảo vệ người tiêu dùng

Để công tác bảo vệ NTD được thực hiện tốt hơn cần sớm ban hành

Luật bảo vệ NTD trong đó quy định cụ thể: cơ chế phối hợp giữa các ban

ngành, cần quy định đơn vị đầu mối làm công tác phối hợp các ngành liên

quan tại trung ương cũng như địa phương; có hỗ trợ kinh phí cho thành lập và

hoạt động của hội do đây là hội đặc biệt không thu phí của hội viên và bảo vệ

cho hơn 80 triệu dân; nên đưa ra cơ chế giải quyết khiếu nại đơn giản với

những chế tài đủ mạnh để tính thực thi cao hơn nữa. Bên cạnh đó, các cơ quan

Nhà nước cần mạnh tay và có sự phối hợp liên ngành mạnh mẽ hơn nữa. Hiện

58

nay có một tình trạng là các bộ, ngành thường đổ trách nhiệm cho nhau, dựa

dẫm vào nhau do đó cần phải tăng cường thanh tra đột xuất.

Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước thay vì cấp phép cho các cơ sở

sản xuất kinh doanh mặc dù không đủ điều kiện sau đó mới tiến hành kiểm thì

đối với một số loại thực phẩm có nguy cơ mất an toàn cao thì cơ quan Nhà

nước phải chủ động ngay từ đầu, phải đến thanh tra, kiểm tra, khi thật sự có

đủ điều kiện thì mới cấp phép cho phép sản xuất kinh doanh thực phẩm. Đồng

thời, phải tăng cường kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh từ khâu sản

xuất cho đến khi đưa ra thị trường.

Nâng cao năng lực cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện hoạt động

quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hoạt động quản lý nhà

nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề tương đối mới mẻ tại Việt

Nam. Trong bối cảnh nguồn ngân sách còn nhiều khó khăn, các cơ quan quản

lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần tận dụng sự hỗ trợ của

các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động đào tạo

cũng như học hỏi kinh nghiệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Trên

cơ sở đó, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ, kỹ

năng để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật.

3.3.1.2. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao khả năng tự bảo vệ của người

tiêu dùng

Tuyên truyền giáo dục cho NTD là một mảng vô cùng quan trọng trong

hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD giúp họ nâng cao khả năng tự bảo vệ mình.

Nội dung tuyên truyền giáo dục phải bao gồm nội dung các quyền hợp pháp

của NTD, cách thức để NTD có thể tự bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm

phạm cũng như bổ sung những kiến thức về tiêu dùng.

Việc giáo dục thường xuyên và có tổ chức cho NTD những kiến thức

cần thiết về tiêu dùng là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt là vấn

59

đề tiêu dùng hợp lý nhằm tránh lãng phí. Việc giáo dục bồi dưỡng về tiêu

dùng bền vững, tiêu dùng không gây ảnh hưởng tới môi trường ngày càng có

ý nghĩa hơn trong bối cảnh môi trường sống của chúng ta đang bị đe dọa

nghiêm trọng. Tuyên truyền giáo dục cho NTD có thể được thực hiện qua

nhiều kênh thông tin như truyền hình, báo chí, hội thảo, tờ rơi… thậm chí có

thể đưa giáo dục tiêu dùng vào nội dung giáo dục cơ bản.

Cần phát động, tuyên truyền sâu rộng các chương trình bảo vệ người

tiêu dùng trên diện rộng nhằm nâng cao ý thức về quyền lợi của người tiêu

dùng để tự bảo vệ chính mình. Ở nước ta hiện nay, việc tuyên truyền giáo dục

NTD mới chỉ được chú trọng thực hiện tại các thành phố, khu vực nông thôn

và miền núi NTD hầu như ít được tiếp cận với hoạt động này. Vì vậy, để nâng

cao hiệu quả của công tác này, cần đẩy mạnh các chương trình giáo dục tiêu

dùng đến cả các khu vực vùng sâu vùng xa để đảm bảo sự công bằng, mọi

người dân đều được biết về kiến thức tiêu dùng hợp lý. Đóng vai trò quan

trọng không kém, các cơ quan truyền thông, báo chí cũng phải vào cuộc. các

cơ quan truyền thông cần thường xuyên đưa tin về các hoạt động bảo vệ

người tiêu dùng cũng như các hành vi vi phạm của đơn vị sản xuất kinh doanh

để cảnh báo trước cho NTD biết và để NTD không sử dụng sản phẩm của đơn

vị đó nữa.

Tăng cường tuyên truyền và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng;

nâng cao nhận thức của người tiêu dùng trong việc hiểu và thực hiện các

quyền của người tiêu dùng. Hoạt động tuyên truyền cần đa dạng và thực hiện

đan xen với các hoạt động khác nhằm tăng cường hiệu quả của việc cung cấp

thông tin. Đặc biệt, trong thời gian tới, cần nhanh chóng áp dụng các giải

pháp kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào các hoạt động tuyên truyền thông tin

cho người tiêu dùng. Hiện tại, Cục Quản lý Cạnh Tranh đã vận hành chính

thức Hệ thống tiếp nhận phản ánh của người tiêu dùng qua điện thoại (Call

60

Center - 1800 6838) đồng thời đưa Trang thông tin điện tử về bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng (bvntd.vca.gov.vn) đi vào hoạt động. Đây là những hoạt

động hết sức cần thiết không chỉ giúp người tiêu dùng, cộng đồng doanh

nghiệp tìm hiểu các quy định của pháp luật, phản ánh các thắc mắc mà còn là

một kênh thông tin quan trọng phục vụ hoạt động của các cơ quan quản lý nhà

nước có liên quan cũng như các tổ chức tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng

Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, bảo vệ cho mình, nhưng chúng ta cũng

cần có trách nhiệm bảo vệ cho cộng đồng, cho toàn xã hội, do đó, chúng ta

phải đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa với các hiện tượng tiêu cực. Bên cạnh đó,

phải đưa cả những hiện tượng tích cực, những cơ sở sản xuất kinh doanh làm

ăn chân chính, đảm bảo đưa ra những sản phẩm có chất lượng an toàn để định

hướng cho NTD biết để lưạ chọn, mua và sử dụng những sản phẩm đó.

3.3.1.3. Nâng cao ý thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của doanh

nghiệp

Nâng cao ý thức bảo vệ quyền lợi NTD của doanh nghiệp trước hết là

nâng cao nhận thức bảo vệ quyền lợi NTD cho các doanh nghiệp. Điều này

xuất phát từ 84 thực tế có nhiều cá nhân tổ chức sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ

còn chưa có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm và ý nghĩa của việc bảo vệ

quyền lợi NTD. Do đó, việc phổ biến giáo dục cho các doanh nghiệp về

những vấn đề này là hết sức cần thiết trong việc nâng cao ý thức và có tác

dụng răn đe.

3.3.2. Giải pháp từ phía các cơ quan tổ chức

3.3.2.1. Tăng nguồn kinh phí và xây dựng cơ sở hạ tầng

Các cơ quan tổ chức không thể hoạt động hiệu quả nếu không có đủ cơ

sở hạ tầng. Đặc biệt trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm định chất lượng hàng hóa,

cần có đủ số lượng các phòng thí nghiệm kiểm định và có đầy đủ trang thiết

61

bị cần thiết chò các phòng này. Hiện nay, cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực tiêu

chuẩn hóa và kiểm định còn thiếu vì vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong

lĩnh vực này cần được ưu tiên đặc biệt. Bên cạnh đó, trên thực tế, các hội bảo

vệ NTD đều hoạt động tự nguyện nên không có kinh phí do đó, nguồn kinh

phí của các hội này bị hạn chế và thường không ổn định.

Để hội thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có sự hỗ trợ giúp

đỡ đắc lực từ phía cơ quan chính quyền cả tài chính lẫn quyền lực…. Do đó,

cần tăng cường sự phối hợp và giúp đỡ của các cơ quan quản lý nhà nước và

toàn xã hội nhằm tăng quỹ và tăng nguồn ngân sách cho các hoạt động trong

việc bảo vệ quyền lợi NTD. Đồng thời, các hội này có thể triển khai thêm các

dịch vụ tư vấn NTD qua điện thoại, lập đề tài nghiên cứu để phục vụ khách

hàng và bán kết quả nghiên cứu cho giới truyền thông hay phát hành tạp chí…

3.3.2.2. Xây dựng nguồn nhân lực

Trong mọi lĩnh vực, nhân lực luôn là một trong những yếu tố quan

trọng nhất quyết định sự thành bại của tổ chức, doanh nghiệp. Để nâng cao

năng lực hoạt động, các cơ quan cần có kế hoạt phát triển nguồn nhân lực của

mình như kế hoạch 86 tuyển dụng thu hút thêm các nhân tài hay bổ sung nhân

lực chuyên về những lĩnh vực mới. Bên cạnh đó, việc không ngừng bồi

dưỡng, nâng cao kỹ năng kiến thức cho đội ngũ cán bộ để theo kịp sự phát

triển của các lĩnh vực này cũng cần được triển khai thường xuyên.

Hiện nay vấn đề nguồn nhân lực của các cơ quan chức năng đang gặp

nhiều khó khăn mà nguyên nhân chính là do thiếu cơ hội để phát triển và chế

độ đãi ngộ còn hạn chế. Điều này dẫn tới tình trạng chảy máu chất xám đang

diễn ra ngày một nghiêm trọng. Vì vậy để có thể thu hút và giữ chân được

nguồn nhân lực có chất lượng, các cơ quan cần phải có sự cải thiện trong chế

độ đãi ngộ, lương thưởng cũng như tạo ra môi trường làm việc mới...

3.3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

62

Bên cạnh việc nhà nước đưa ra các quy định cụ thể về quy trình phối

hợp giữa các cơ quan thì bản thân các cơ quan tổ chức cũng cần có sự chủ

động phối hợp với nhau thay vì đùn đẩy trách nhiệm và trông chờ lẫn nhau.

Các cơ quan, tổ chức nên có sự chia sẻ thông tin để hỗ trợ hoạt động của nhau

và chủ động bàn bạc để đưa ra những giải pháp kịp thời đối với những vấn đề

về xâm phạm quyền lợi NTD. Bên cạnh đó, hoạt động của cơ quan và tổ chức

lãnh đạo cần gắn kết tốt hơn với các ngành hữu quan thông qua các đại diện

trong hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp: nhà nước và nhân dân. Đồng

thời, cần tăng cường hoạt động của văn phòng khiếu nại của NTD, phối hợp

với cơ quan chức năng giải quyết có hiệu quả các khiếu nại.

Cần phát triển hội thành một tổ chức xã hội với vai trò, chức năng,

nhiệm vụ rõ ràng hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa hội, tòa án với các trung tâm đo

lường, kiểm tra, kiểm định chất lượng quốc gia, hội luật gia, cơ quan chăm

sóc y tế nhằm bảo đảm VSATTP và các mặt hàng tiêu dùng khác.

3.3.2.4. Tăng cường sự liên hệ với người tiêu dùng

Phản ánh và tố cáo của NTD là một trong những nguồn thông tin hữu

ích cho các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Việc tăng

cường sự liên hệ với NTD có thể thực hiện thông qua việc lập ra các đường

dây nóng, hòm thư góp ý dành cho NTD, đảm bảo những ý kiến của NTD

được cập nhật và trả lời một cách kịp thời thỏa đáng, tránh trường hợp các

kênh liên hệ với NTD chỉ mang tính chất hình thức. Ngoài ra, các cơ quan tổ

chức này có thể tổ chức các cuộc điều tra xin ý kiến của NTD về các loại

hàng hóa, dịch vụ nhất định. Thông qua đó, các cơ quan tổ chức có được sự

gợi ý về các hình thức và trường hợp vi phạm quyền lợi NTD để tổ chức hoạt

động thanh kiểm tra có trọng tâm và hiệu quả.

63

3.3.3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp

Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NTD, doanh nghiệp cũng

đóng vai trò không kém phần quan trọng. Giải pháp đối với doanh nghiệp là

cần phối hợp hợp lý các hoạt động khuyến khích nhà sản xuất kinh doanh

lành mạnh có trách nhiệm và thông tin trung thực cho NTD. Những hoạt động

sản xuất kinh doanh chân chính của doanh nghiệp góp phần quan trọng trong

việc làm trong sạch thị trường và đảm bảo đáp ứng nhu cầu của NTD một

cách hiệu quả. Tránh tình trạng vì lợi nhuận mà bỏ qua cả đạo đức kinh

doanh.

3.3.3.1. Nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh

Sản xuất kinh doanh có tốt, sản phẩm mới được đảm bảo chất lượng.

Do đó, doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm bắt các quy định của pháp luật liên

quan đến an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm có chất

lượng sản xuất đảm bảo các quy định đề ra. Đối với các cơ sở sản xuất chăn

nuôi thì nên thực hiện quy hoạch tổ chức chăn nuôi, trồng chọt theo hướng tập

trung công nghiệp gắn với chế biến giết mổ đảm bảo an toàn vệ sinh để thuận

lợi trong quá trình quản lý, giám sát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực

phẩm và vệ sinh môi trường.

Doanh nghiệp nên đầu tư xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn an

toàn thực phẩm theo quy trình chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu dùng thực phẩm,

đồng thời, tăng cường đầu tư mới công nghệ sản xuất tiên tiến nhằm đáp ứng

nhu cầu phát triển của thị trường hàng hóa thực tiễn.

3.3.3.2. Cung cấp những thông tin trung thực về hàng hóa dịch vụ của

doanh nghiệp

Thông tin về sản phẩm là nhân tố cần thiết không thể thiếu trong quá

trình ra quyết định của NTD. Thông tin càng trung thực thì quyền lợi của

NTD càng được bảo đảm. Do đó, nên khuyến khích việc doanh nghiệp cung

64

cấp những thông tin trung thực chính xác, tránh phóng đại về chất lượng cũng

như chức năng công dụng của sản phẩm nhằm giúp NTD có những quyết định

tiêu dùng tốt nhất. Việc cung cấp thông tin về doanh nghiệp cũng như giới

thiệu, quảng bá các sản phẩm mới có thể thông qua những phương tiện truyền

thông đại chúng, báo chí, trang web của doanh nghiệp… nhưng không nên

quá lãng phí vào các kênh thông tin này để rồi NTD lại là những người cuối

cùng gánh chịu những chi phí đó.

3.3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp nhằm chiếm được

lòng tin của người tiêu dùng.

Niềm tin khách hàng là nhân tố quan trọng sống còn đối với một doanh

nghiệp. Khi doanh nghiệp làm ăn chân chính, có được niềm tin của NTD,

doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng cạnh tranh được với những doanh nghiệp khác.

Sản phẩm của họ thường được NTD đón nhận và sử dụng nhiều hơn những

sản phẩm chất lượng kém. Do đó, doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận

và không ngừng đầu tư, củng cố và phát triển và cải tiến mẫu mã cũng như

chất lượng sản phẩm. Do đó, việc đưa ra các tiêu chí cao hơn trong việc công

nhận doanh nghiệp được NTD tin cậy là một động lực thúc đẩy các doanh

nghiệp chân chính hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời quá trình thực hiện sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng cần được kiểm soát một cách chặt

chẽ nhằm nâng cao ý thức về quyền và lợi ích của NTD cho các doanh

nghiệp.

3.3.4. Giải pháp từ phía người tiêu dùng

NTD là một nhân tố quan trọng trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của

chính mình do đó cần phải tăng cường hơn nữa vai trò của NTD. Làm thế nào

để NTD phải nâng cao được nhận thức và hiểu biết tiêu dùng của mình và trở

thành những NTD thông thái để có thể chọn lựa được những sản phẩm đảm

bảo an toàn, bảo vệ quyền lợi của chính mình.

65

3.3.4.1. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi mua hàng

Trước khi ra quyết định mua một sản phẩm nào đó, NTD cần tìm hiểu

kỹ các thông tin về sản phẩm bằng việc đọc kỹ các thông tin trên nhãn hàng

và tìm hiểu kỹ các thông tin quan cáo. NTD phải biết tự bảo vệ mình, phải có

những kiến thức nhất định để làm sao phân biệt giữa những loại thực phẩm có

chất lượng và thực phẩm không đủ tiêu chuẩn chất lượng.

Đặc biệt, khi mua và sử dụng thực phẩm phải lựa chọn những thương

hiệu đã biết trước, có nguồn gốc rõ ràng, có thời hạn bảo hành, thời hạn sử

dụng, nhãn thực phẩm phải đáp ứng được các yêu cầu, quy định của Nhà

nước, phải có những bằng chứng cụ thể xác nhận rằng thực phẩm đó đã được

các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận và đảm bảo các vấn

đề về chất lượng… NTD nên hình thành thói quen tìm hiểu và lựa chọn thông

tin, đòi hỏi nghiêm khắc hơn về tính trung thực và đầy đủ của thông tin về sản

phẩm mình tiêu dùng nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân và xã hội.

3.3.4.2. Mua hàng có nguồn gốc rõ ràng

Nguồn gốc xuất xứ hàng hóa liên quan đến chất lượng của hàng hóa và

việc đòi lại quyền lợi mà NTD đã bị xâm phạm. Hiện nay, NTD Việt Nam

còn ít quan tâm đến nguồn gốc của hàng hóa, và chính những người cung cấp

trung gian cũng không biết hàng hóa có nguồn gốc ra sao. Điều này đã tạo

điều kiện cho các loại hàng hóa trôi nổi đến tay NTD, kéo theo đó là vấn đề

về chất lượng và an toàn sản phẩm. Nhưng ngay cả khi hàng hóa đó được phát

hiện là kém chất lượng và không đủ an toàn, ảnh hưởng đến quyền lợi NTD

thì việc quản lý, ngăn chặn những loại hàng hóa này khỏi xâm nhập thị trường

cũng sẽ gặp khó khăn vì không thể truy ra nguồn gốc của chúng để xử lý kịp

thời. Vì vậy, mỗi NTD khi mua hàng cần quan tâm về nguồn gốc của sản

phẩm, không nên mua các loại hàng hóa không có xuất xứ nguồn gốc rõ ràng.

3.3.4.3. Nâng cao ý thức về an toàn thực phẩm

66

Thực trạng ATTP ở nước ta hiện nay không chỉ do sự vô trách nhiệm

của các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, do hoạt động quản lý còn chưa

hiệu quả mà còn do chính ý thức của NTD. Mặc dù có thông tin về các sản

phẩm hàng hóa không nhãn mác, hàng rong, hàng gia công gây ngộ độc thực

phẩm, mất ATVSTP nhưng NTD vẫn sử dụng. Điều này càng khiến cho tình

trạng mất ATVSTP tăng cao. Do đó, NTD nên ý thức hơn về sự an toàn của

mình, người thân và xã hội để tránh sử dụng những thực phẩm thiếu nguồn

gốc, kém chất lượng và không đảm bảo ATVSTP. NTD cần lựa chọn thực

phẩm sạch, thực phẩm của những thương hiệu có uy tín để hạn chế những rủi

ro do thực phẩm không an toàn. Trong trường hợp mua phải thực phẩm kém

chất lượng, không đảm bảo chất lượng thì người tiêu dùng cần báo ngay đến

tổ chức bảo vệ NTD địa phương để kịp thời có giải pháp ngăn chặn, xử lý các

hành vi vi phạm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và góp phần tạo dư

luận tích cực để ngăn ngừa các hành vi vi phạm tiềm ẩn.

3.3.4.4. Lấy hóa đơn, phiếu bảo hành khi mua hàng

Hóa đơn và phiếu bảo hành là những chứng từ rất quan trọng khi mua

hàng, liên quan đến lợi ích của NTD sau khi mua hàng. Phiếu bảo hành liên

quan đến các dịch vụ hậu mãi đảm bảo cho NTD được sử dụng đúng hàng hóa

đúng với hợp đồng, còn hóa đơn là chứng cứ mua hàng. Cả hai chứng từ này

đều là căn cứ cần thiết để NTD đòi bồi hoàn hoặc bồi thường cho những thiệt

hại phát sinh của mình. Ngoài ra, khi có hóa đơn, NTD còn có thể được

hưởng những quyền lợi liên quan đến thuế. Vì vậy, NTD nên hình thành thói

quen lấy các loại chứng từ này khi mua hàng vì chính lợi ích của mình. Do

thói quen mua bán không chứng từ đã có lâu, không phải doanh nghiệp nào

cũng tự động cung cấp hóa đơn cho khách hàng, trong trường hợp đó, NTD

phải chủ động yêu cầu lấy hóa đơn. Đồng thời, khi lấy các chứng từ này, NTD

67

nên đọc kỹ nội dung xem có đúng với nội dung giao dịch không, tránh những

nhầm lẫn ảnh hưởng đến khả năng đòi bồi hoàn của mình sau mua.

3.3.4.5. Phản ứng mạnh mẽ với những hành vi xâm phạm quyền lợi

người tiêu dùng

Có thể nói một trong những nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp

dám xâm phạm quyền lợi NTD ở nước ta là do NTD còn quá hiền lành. Việc

NTD bỏ qua và im lặng trước những hành vi vi phạm của doanh nghiệp đã

phần nào cổ vũ cho doanh nghiệp tiếp tục làm liều dẫn đến hoạt động xâm

phạm quyền lợi NTD tái diễn. Vì vậy, để thay đổi cách ứng xử của doanh

nghiệp thì NTD cần có sự thay đổi trong phản ứng của mình bằng cách mạnh

dạn đưa ra những ý kiến về sản phẩm, đòi hỏi thái độ tiếp nhận những ý kiến

đó một cách đúng mực cũng như từ bỏ tâm lý e ngại khi khiếu nại doanh

nghiệp. Ngoài ra, NTD cũng có thể liên hệ với các phương tiện truyền thông

nhờ họ lên tiếng đòi quyền lợi cho mình.

Hiện nay, NTD có thể làm điều này rất dễ dàng với sự hỗ trợ của các

chuyên mục, đường dây nóng về bảo vệ NTD mà báo đài cung cấp. Cũng

thông qua giới truyền thông, NTD có thể chia sẻ thông tin tiêu dùng với nhau,

liên kết lại để tạo sức ép dư luận buộc các doanh nghiệp phải thay đổi hành vi

của mình và giải quyết thỏa đáng cho những khiếu nại của NTD. Thực tế cho

thấy sự liên kết giữa NTD với báo chí có hiệu quả rất cao, giúp cho những

thắc mắc khiếu nại của NTD được giải quyết một cách nhanh chóng.

Kết Luận Chương 3

Hiện nay quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP ngày càng bị xâm phạm

nghiêm trọng, một trong những nguyên nhân đó là do hiệu quả của việc điều

chỉnh của pháp luật chưa cao. Cần phải có những giải pháp hữu hiệu bổ sung

và chỉnh sửa và quy định pháp luật để phù hợp hơn. Ngoài ra, bảo vệ quyền

lợi NTD là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự tham gia của nhiều yếu tố kết

68

hợp hoạt động quản lý từ phía nhà nước, thông tin giới truyền thông, ý thức

của NTD và trách nhiệm của doanh nghiệp. Vì vậy, nâng cao sự chủ động và

tích cực của các yếu tố này cũng là một nhiệm vụ quan trọng.

Việc phát hiện những hạn chế và hoàn thiện các quy định của pháp luật

Việt Nam về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP là một yêu cầu tất

yếu trong hoạt động pháp luật hiện nay của Nhà nước và của toàn xã hội. Để

giải quyết vấn đề này cần có rất nhiều biện pháp khắc phục những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền lợi NTD như hiện nay. Các biện

pháp này cần được tiến hành đồng bộ, hỗ trợ nhau phát huy hiệu quả cao nhất.

Bên cạnh những biện pháp đặc thù phù hợp với điều kiện nước ta, kinh

nghiệm từ các nước là những bài học rất đáng quý mà chúng ta có thể học tập.

69

KẾT LUẬN

Bảo vệ quyền lợi NTD là một nhu cầu tự nhiên không chỉ đối với bản thân

NTD, mà còn cần thiết để nền kinh tế phát triển. Đây là hoạt động khó khăn liên

quan đến tất cả các yếu tố của thị trường. Tại Việt Nam, cơ chế thị trường đang

trong giai đoạn hình thành và dần hoàn thiện, nhận thức về vai trò của NTD đã được

phẩn nào nâng lên nhưng nhìn chung họ chưa được đặt vào đúng vị trí của mình.

Đồng thời, quá trình chuyển đổi này cũng tạo ra lúng túng cho hoạt động quản lý thị

trường của nhà nước. Cùng với đó là những thói quen tiêu dùng làm mất đi khả

năng tự bảo vệ mình của NTD. Với những lý do đó dẫn đến một thực tế là quyền lợi

của NTD Việt Nam bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Những hành vi tổn hại

quyền lợi của họ đã và đang diễn ra thường xuyên trên tất cả các lĩnh vực.

Bảo vệ quyền lợi NTD về lĩnh vực ATTP giữ vai trò quan trọng không chỉ

đối với bản thân người tiêu dùng, doanh nghiệp, nhà sản xuất mà còn có ý nghĩa đối

với xã hội. Một mặt, ATTP bảo vệ cho người tiêu dùng. ATTP cũng là thước đo

cho doanh nghiệp khẳng định thương hiệu duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh ổn

định, thường xuyên, liên tục, bảo đảm cho doanh nghiệp tăng năng suất, hiệu quả

trong kinh doanh. Với tầm quan trong như vậy, đòi hỏi Bảo vệ quyền lợi NTD về

ATTP phải được bảo đảm bằng pháp luật.

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP là một bộ phận của

pháp luật về bảo vệ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; có nội dung gồm các nhóm

quy phạm quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh về

ATTP; về các điều kiện kinh doanh ATTP; và về quản lý nhà nước đối với ATTP.

Bên cạnh những ưu điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh

vực ATTP, như: có cách tiếp cận mới trong các quy định về quản lý ATTP ( xuất

phát từ khâu sản xuất đến sản phẩm); các quy định xử lý vi phạm pháp luật về bảo

vệ quyền lợi NTD về ATTP ngày càng được hoàn thiện theo hướng chỉ rõ hành vi

vi phạm và chế tài xử lý vi phạm về ATTP..., pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD về

ATTP vẫn còn không ít hạn chế, bất cập, ít nhiều gây khó khăn, vướng mắc trong

quá trình thực thi, như: các quy định về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP

70

còn tản mát trong nhiều văn bản; chưa có cách giải thích thống nhất một số thuật

ngữ chuyên môn về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực ATTP; phân công trách

nhiệm giữa các cơ quan chức năng về quản lý bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực

ATTP còn chưa được rõ ràng...

Cũng như tình trạng chung, việc thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD

trong lĩnh vực ATTP tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng gặp một số khó khăn, vướng

mắc đòi hỏi phải được khắc phục trong thời gian tới, như: việc tổ chức bộ máy cơ

quan quản lý chuyên ngành còn chưa hoàn thiện chế tài xử phạt còn nhiều bất cập,

chưa cụ thể và chưa có tính răn đe cao, tình trạng tồn dư hóa chất, ô nhiễm hóa chất

bảo quản trong một số thực phẩm chưa được cải thiện nhiềun ý thức trách nhiệm

của một bộ phận các nhà sản xuất, người kinh doanh thực phẩm chưa cao; một số

người tiêu dùng thường sử dụng thực phẩm theo thói quen.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực

ATTP là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay, nhất là các quy

định về ATTP tươi sống, về thanh tra xử lý vi phạm, về chế tài xử phạt…

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Vân Anh (2012) Vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng

trong việc bảo vệ người tiêu dùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

2. Nguyễn Thị Vân Anh – Nguyễn Văn Cương (2012) Giáo trình Luật bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

3. Bách khoa

toàn

thư mở Wikipedia, Thành phố Hồ Chí Minh,

Ch%C3%AD_Minh>, (19/8/2019).

4. Ban Chỉ đạo liên ngành VSATTP (2014-2017) Tổng hợp, thống kê Báo

cáo tổng kết công tác VSATTP của Ban Chỉ đạo liên ngành VSATTP của UBND

thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014-2017.

5. Ban Quản lý ATTP TP.HCM (2019) “Thành phố Hồ Chí Minh: Hội nghị

tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm năm 2019”, Trang điện tử

Cục An toàn thực phẩm – Bộ Y tế,

ho-chi-minh-hoi-nghi-tong-ket-cong-tac-thanh-tra-kiem-tra-an-toan-thuc-pham-

nam-2018.html> (06/01/2019).

6. Bộ Tư pháp (2008) Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Báo

cáo phúc trình đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

7. Chính phủ (2012) Nghị định số 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm, ban hành ngày 25-04-

2012, Hà Nội.

8. Chính phủ (2011) Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, ban

hành ngày 27-10-2011, Hà Nội.

9. Nam Chung (2019) “Phát hiện gần 2 tấn thực phẩm ngâm hóa chất”,

Trang

tin

điện

tử Đảng

bộ

Thành

phố Hồ Chí Minh,

chat-1491853403>, (11/4/2019).

10. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương (2008) Báo cáo nghiên cứu

chuyên đề “Thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: thực trạng Việt Nam, kinh

nghiệm quốc tế và định hướng hoàn thiện”, Hà Nội.

11. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương (2008) Báo cáo nghiên cứu

chuyên đề “So sánh luật bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới – bài học

kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản trong dự thảo luật bảo vệ người tiêu

dùng của Việt Nam”, Hà Nội.

12. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương (1999) Hướng dẫn của Liên

hợp quốc về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng - Bản dịch tài liệu “The United

Nations Guidelines on Consumer Protection (as expanded in 1999)”.

13. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương (2006) Sổ tay công tác bảo vệ

Người tiêu dùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Cương (2008) “Một số vấn đề xây dựng luật bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13(129), tr.29-34.

15. Ngô Vĩ Bạch Dương (2010) “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp

luật cạnh tranh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17 (178), tr. 37-42.

16. Ngô Vĩ Bạch Dương (2014) “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng”, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, số 08 (263), tr. 20-22.

17. Kim Đồng (2018) “TP.HCM: Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm thực

phẩm thức ăn đường phố”, Báo lao động online,

dam-bao-an-toan-thuc-pham-thuc-an-duong-pho-649282.ldo>, (29/12/2018).

18. Nguyễn Thu Hà (2017) “Tạo thói quen truy xuất nguồn gốc thực phẩm”,

Trang

TP. Hồ

Chí Minh

Báo

nhân

dân

điện

tử,

quen-truy-xuat-nguon-goc-thuc-pham.html>, (24/4/2017).

19. Lê Hồng Hạnh (2010) Trách nhiệm sản phẩm và việc bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam, tài liệu Hội thảo Pháp ngữ khu vực “Bảo

vệ người tiêu dùng từ hai góc độ Á – Âu, Hà Nội.

20. Đinh Hằng (2018) “Tp. Hồ Chí Minh thu giữ số lượng lớn thực phẩm bẩn,

không rõ nguồn gốc”, Trang tin kinh tế Bnew,

thu-giu-so-luong-lon-thuc-pham-ban-khong-ro-nguon-goc-/72872.html>,

(06/01/2018).

21. Hội đồng thẩm phán (2012) Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng

thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh Phí và lệ

phí, ban hành ngày 13/6/2012, Hà Nội.

22. Minh Huệ (2015) “Tăng cường thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người

tiêu

dùng”,

Tạp

chí

Cộng

sản

điện

tử,

doimoi/2015/36671/Tang-cuong-thuc-thi-phap-luat-bao-ve-quyen-loi-

nguoitieu.aspx>, ngày 14/12/2015.

23. Đinh Thế Hưng (2010) “Bảo vệ người tiêu dùng bằng pháp luật hình sự”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (171), tr. 38.

24. Tá Lâm (2017) “TP. Hồ Chí Minh: Gần 50% thức ăn đường phố không

đạt

chuẩn”,

Thời

báo

Tài

chính

Việt

Nam

online,

50-thuc-an-duong-pho-khong-dat-chuan-45102.aspx>, (04/07/2017).

25. Liên Hợp Quốc (1948) Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hợp

Quốc, thông qua ngày 10/12/1948 tại Paris, Pháp.

26. Huệ Linh (2009) “Người tiêu dùng Việt Nam luôn chịu thiệt”, Báo An

ninh thủ đô điện tử,

nam-luon-chiu-thiet/346202.antd>, (14/4/2009).

27. Tùng Linh (2019) “Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 84 cơ sở kinh doanh vi phạm

an toàn thực phẩm”, Thời báo Chứng khoán Việt Nam,

minh-xu-phat-84-co-so-kinh-doanh-vi-pham-an-toan-thuc-pham-45342.html>,

(19/8/2019).

28. Hoàng Lộc (2019) “TP.HCM phát hiện 8.505 vụ vi phạm an toàn vệ sinh

thực phẩm – khởi tố 1”, Báo Tuổi trẻ online,

505-vu-vi-pham-an-toan-ve-sinh-thuc-pham-khoi-to-1-20190402173923069.htm>,

(02/04/2019).

29. Tưởng Duy Lượng (2008) “Vai trò của Toà án trong việc bảo vệ quyền lợi

người

tiêu

dùng”,

Trang

Thông

Tin

Pháp

Luật Dân

Sự,

, ngày 28/06/2008.

30. MUTRAP (2016) “Cần một cơ quan độc lập kiểm soát an toàn thực

phẩm”,

doclap-kiem-soat-an-toan-thuc-pham>, ngày 13/05/2016;

31. Chu Đức Nhuận (2008) “Vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy

định của pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 214, tr. 35-42;

32. Hoa Nguyễn (2018) “Tăng cường trách nhiệm của người sản xuất, kinh

doanh thực phẩm”, Báo Pháp luật Việt Nam,

thong-minh/tang-cuong-trach-nhiem-cua-nguoi-san-xuat-kinh-doanh-thuc-pham-

388624.html>, (16/4/2018).

33. Hiếu Nguyễn (2019) “Tháng 3, TP.HCM xử phạt gần 895 triệu đồng các

tổ

chức,

nhân

vi

phạm ATTP”, Báo Văn

hóa

điện

tử,

xu-phat-gan-895-trieu-dong-cac-to-chuc-ca-nhan-vi-pham-attp>, (12/4/2019).

34. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2009) “Hiệp định về Các

biện pháp Kiểm dịch động thực vật”,

ve-cacbien-phap-kiem-dich-dong-thuc-vat>, ngày 23/12/2009;

35. Quốc hội (2015) Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội.

36. Quốc hội (2015) Bộ luật Hình sự năm 2015, Hà Nội.

37. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.

38. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

39. Quốc hội (2010) Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Hà Nội.

40. Quốc hội (2010) Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Hà

Nội.

41. Quốc hội (2007) Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007, Hà Nội.

42. Quách Thúy Quỳnh (2013) “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng các

vụ kiện tập thể - kinh nghiệm nước ngoài và các gợi ý hoàn thiện pháp luật”, Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (248), tr. 53-58;

43. Đinh Thị Hồng Trang (2014) “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi

của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng

12 (273), tr. 10-14;

44. Thanh Tùng (2015) “Nên có cơ quan riêng để giải quyết tranh chấp liên

quan đến người tiêu dùng”,

co-toaan-rieng-bao-ve-nguoi-tieu-dung-.aspx>, ngày 26/10/2015;

45. Lê Ngọc Uyên (2015) “An toàn thực phẩm và quyền lợi người tiêu dùng”,

Báo điện tử Đất Việt,

quyen-loi-nguoitieu-dung-3295190/>, ngày 20/12/2015;

46. Dương Anh Văn (2015) “Pháp luật hình sự về xử lý các tội xâm phạm

quyền lợi của người tiêu dùng - thực trạng và giải pháp hoàn thiện”,

id=1751909&item_id=112891609&article_details=1>, ngày 03/08/2015;

47. Viện Khoa học pháp lý (2007) “Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng:

thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, Thông tin khoa học pháp lý, số

5+6/2007, tr. 12;

48. Consumers International http://www.consumersinternational.org/.

49. Consumers’ Rights and Obligations-The Australian Consumer Law,

https://www.accc.gov.au/business/treating-customers-fairly/consumers-

rightsobligations;

50. Consumer Unionhttp://www.consumersunion.org/.

51. Regulation (EC) No 852/2004 of the European Parliament and of the

Council,

Official

Journal

of

the

European

Union,

http://eurlex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=OJ:L:2004:139:0001:0054:e

n:P DF;

52. Regulation (EC) No 853/2004 of the European Parliament and of the

Council,

Official

Journal

of

the

European

Union,

http://eurlex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=OJ:L:2004:139:0055:0205:e

n:P DF;