Glaucoma
GLAUCOMA là một nhóm bệnh tật tại mắt, gây hư hoại thần kinh mắt
(optic nerve) và tạo ra mù lòa. Sự gia tăng áp suất trong mắt (intraocular
pressure hay IOP) thường, nhưng không nhất thiết là luôn luôn, gây sự hư
hoại kể trên.
Đây là nguyên nhân gây mù lòa thường thấy nhất, đôi khi còn gọi là sự
"đánh cướp thị giác âm thầm" vì glaucoma gây hư hoại thị giác từ từ, người
bệnh không nhận ra, cho đến khi căn bệnh vào thời kỳ trầm trọng.
Loại glaucoma thường thấy nhất là là "primary open-angle", không có dấu
hiệu rõ rệt nào trừ việc suy giảm thị giác lần lần.
Chẩn bệnh sớm và chữa trị kịp thời tiết giảm sự hư hoại thần kinh mắt và
giữ được phần lớn thị lực. Vì vậy, nên đi khám mắt hàng năm theo định kỳ
và đo áp suất trong mắt mỗi lần khám bệnh.
Triệu chứng
Loại glaucoma thường thấy như "primary open-angle" và "acute angle-
closure" có triệu chứng hoàn toàn khác biệt:
Primary open-angle glaucoma thường có các triệu chứng và dấu hiệu sau:
- Vùng không gian có thể nhìn thấy (visual field) bị thu nhỏ từ từ, thường
xảy ra trong cả 2 mắt. Trung bình, "visual field" là 180 độ cộng thêm 5 độ
mỗi bên khi nhìn thẳng, hai mắt có thể thấy vật thể trong vùng không gian
190 độ này (từ -5 độ đến +5 độ hay mặt phẳng: -5 độ -180 độ-+5 độ).
- Khi chỉ nhìn thấy một vùng không gian thu nhỏ như đường hầm (tunnel
vision) thì căn bệnh đã đến hồi trầm trọng.
Acute angle-closure glaucoma thường có các triệu chứng và dấu hiệu sau:
- Đau nhói tại mắt
- Buồn nôn ói mửa cùng với đau mắt
- Loạn thị xảy ra thình lình tai nơi thiếu ánh sáng
- Giảm sút thị lực
- Ánh đèn có vòng mờ chung quanh (halo)
- Mắt đỏ
Hiện tượng "halo" khi bị glaucoma:
Cả hai chứng glaucoma kể trên đều có thể là nguyên phát (primary) hoặc thứ
phát (secondary). Ta gọi chứng bệnh là "nguyên phát" khi không tìm ra lý
do, và "thứ phát" khi bác sĩ tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như
chấn thương mắt, viêm, u bướu, đục thủy tinh thể hoặc tiểu đường.
Glaucoma thứ phát có các triệu chứng và dấu hiệu tương tự như glaucoma
nguyên phát.
Khi nào thì đi khám mắt?
Đừng chờ cho đến khi các triệu chứng trở nên rõ ràng, các loại glaucoma
nguyên phát đều diễn tiến rất chậm, khi có triệu chứng rõ ràng là bệnh tình
đã nặng, khó cứu chữa. Khám mắt thường xuyên theo định kỳ là cách khám
phá chứng glaucoma hữu hiệu nhất, đủ thời gian để chữa trị.
The American Academy of Ophthalmology đề nghị nên khám mắt hàng năm
cho mọi người tuổi từ 40 trở lên, và mỗi 3 - 5 năm sau đó nếu không có yếu
tố rủi ro nào gây glaucoma. Khi đến tuổi 60, cần khám mắt hàng năm. Nếu
bạn là người da đen hoặc có các yếu tố rủi ro dẫn đến glaucoma, việc khám
mắt thường xuyên có thể bắt đầu trong tuổi 20.
Ngoài ra, bạn cần nhớ rằng khi nhức đầu dữ dội hoặc đau nhói trong mắt,
vùng lông mày, buồn nôn ói mửa, mắt mờ hoặc loạn sắc khi nhìn ánh đèn là
những triệu chứng của acute angle-closure glaucoma. Khi có một hoặc nhiều
các triệu chứng kể trên cần đến phòng cấp cứu của bệnh viện hoặc đến bác sĩ
nhãn khoa ngay lập tức.
Nguyên nhân
Y học chưa giải thích rõ ràng tại sao gia tăng áp suất trong mắt gây hư hoại
thần kinh mắt, hiện tượng chính của glaucoma. Áp suất này xuất phát từ sự
tích tụ chất lỏng có tên "aqueous humor" do mắt tạo ra.
Bình thường chất lỏng kể trên "thoát" qua hệ thống ống dẫn (traberculae)
nằm tại góc iris-cornea. Khi hệ thống ống dẫn này tắc nghẽn, không hoạt
động bình thường, aquous humor không thể "thoát" đi theo tốc độ định sẵn,
tích tụ và tạo áp suất đè ép thần kinh mắt.
Primary open-angle glaucoma
Trong chứng bệnh này, hệ thống dẫn tại góc iris-cornea vẫn mở nhưng các
ống dẫn li ti bị nghẽn, do đó aquous humor thoát đi rất chậm, tạo nên sự tích
tụ và hậu quả là áp suất trong mắt gia tăng từ từ. Sư hư hoại thần kinh mắt
xảy ra rất chậm, không gây đau đớn nên người bệnh thường không biết cho
đến khi thị lực sút giảm rõ ràng mới nhận ra sự thay đổi. Nguyên nhân gây
chứng bệnh này còn nằm trong vòng nghiên cứu.
Angle-closure glaucoma
Angle-closure glaucoma còn gọi là "closed-angle glaucoma", xảy ra khi iris
trương phồng gây thu hẹp hoặc gây tắc nghẽn góc iris-cornea. Hậu quả là
aquous humor không thoát được nên tích tụ và tạo áp suất. Khi hiện tượng
này xảy ra thình lình, gọi là "Acute angle-closure glaucoma", áp suất gia
tăng cấp kỳ. Khi sự tắc nghẽn ống thoát xảy ra từ từ, gọi là "Chronic angle-
closure glaucoma".
Bệnh nhân bị chứng angle-closure glaucoma thường có một góc iris-cornea
nhỏ hơn bình thường tự bẩm sinh, và thường không biết khi bệnh tật không
xảy ra.
Nếu bạn là người có góc iris-cornea nhỏ hơn bình thường, khi đồng tử (con
ngươi) nở lớn thình lình có thể tạo ra tình trạng "closed-angle". Đồng tử nở
lớn khi vào bóng tối, bị khích động, hoặc do thuốc men. CẦN TRÁNH các
loại thuốc men như antihistamines (desloratadine như Clarinex, cetirizine
như Zyrtec); tricyclic antidepressants như doxepin, protryptyline và các loại
thuốc nhỏ mắt khiến con ngươi nở lớn khi khám mắt.
Glaucoma với áp suất thấp
Dù áp suất trong mắt bình thường, không gia tăng nhưng thần kinh mắt vẫn
bị hư hoại. Chứng bệnh này hiếm thấy và ta chưa rõ nguyên nhân. Một số
chuyên viên cho rằng thần kinh mắt bị hư hoại do mỡ tích tụ tại các tiểu
mạch gây thiếu máu mãn tính và dẫn đến hư hoại thần kinh.
Pigmentary glaucoma
Loại glaucoma xuất hiện trong người trẻ tuổi - trung niên, thường do "bụi"
sắc tố trôi trong mắt gây tắc nghẽn hệ thống thoát aquous humor.
Việc vận động cơ thể như chạy đua đôi khi khuấy động các vẩn bụi sắc tố,
và khiến chúng tích tụ tại hệ thống ống dẫn.
TAGS: Glaucoma, Primary open-angle glaucoma, Acute angle-closure
glaucoma, Pigmentary glaucoma, Tran Ly Le
Những yếu tố rủi ro (risk factors) Glaucoma (Cườm Nước)
Glaucoma mãn tính thường dẫn đến mù lòa trước khi các triệu chứng xuất
hiện, do đó cần biết những điều sau đây:
- Gia tăng áp suất trong mắt (IOP), khi IOP cao hơn bình thường, tỷ lệ bị
glaucoma gia tăng
- Tuổi tác: tuổi 60 trở lên tỷ lệ bị glaucoma gia tăng, nếu là người da đen, tỷ
lệ này lên cao hơn nữa. Do đó cần khắm mắt thường niên.
- Chủng tộc: người da đen có tỷ lệ bị glaucoma cao gấp 5 lần người da trằng
và dễ bị mù lòa vì bệnh này. Người Hoa Kỳ gốc Mễ và gốc Á Châu cũng có
tỷ lệ bị glaucoma cao hơn người da trắng.
- Gia tộc có người bị glaucoma: tỷ lệ bị glaucoma gia tăng. Glaucoma có yếu
tố di truyền, thân tộc cùng di tính có tỷ lệ glaucoma cao hơn bình thường.
Loại glaucoma xuất hiện trong thiếu niên là một loại bệnh di truyền.
- Các chứng bệnh như tiểu đường, thấp nội tiết tố giáp trạng
(hypothyroidism) gia tăng tỷ lệ glaucoma
- Cận thị: gia tăng tỷ lệ bị glaucoma
- Dùng corticosteroid quá lâu gia tăng tỷ lệ bị glaucoma, nhất là loại thuốc
nhỏ mắt.
Biến chứng
Không chữa trị, glaucoma sẽ gây mù lòa, và thường diễn tiến như sau:
- Điểm mù trong vùng không gian có thể thấy (visual field)
- Chỉ thấy vật thể trong "đường hầm" (tunnel vision)
- Mù lòa
Sửa soạn trước khi đi khám bệnh
Trong hầu hết mọi trường hợp, glaucoma không tạo ra triệu chứng đáng kể
cho đến khi sự hư hoại xảy ra. Nên hỏi ý kiến bác sĩ gia đình xem khi nào ta
cần đi khám mắt.
-Ghi chép các chi tiết về triệu chứng đã gặp, và đã xảy ra bao lâu
-Ghi chép danh sách các loại thuốc đang dùng, kể cả dược thảo
-Ghi chép các thay đổi về thị giác, thị lực
-Ghi chép sẵn các câu hỏi dành cho bác sĩ
Những điều nên thảo luận với bác sĩ
- Tôi có dấu hiệu nào về glaucoma không?
- Tôi cần những thử nghiệm nào để chẩn bệnh?
- Bác sĩ đề nghị loại chữa trị nào?
- Tôi có cần thay đổi sinh hoạt hàng ngày hay không?
- Tôi cần tự chăm sóc ra sao?
- Tình trạng glaucoma sẽ ra sao về sau này?
- Tôi có cần đi khám mắt thường xuyên không?
- Tôi có cần gặp bác sĩ chuyên khoa không?
- Tôi cũng bị bệnh xyz, làm thế nào để tôi tự chăm sóc?
Bác sĩ có thể hỏi một số chi tiết như sau:
- Ông/bà có triệu chứng gì tại mắt? Đau? Khó chịu? Mắt mờ?
- Điều gì khiến ông / bà lo âu?
- Thân nhân có ai bị glaucoma không? Các bệnh mắt khác?
- Ông / bà đã thử mắt lần nào chưa? Hồi nào?
- Ông / bà đang dùng các thứ thuốc nào?
Thử nghiệm và chẩn đoán
Bác sĩ có thể làm một số thử nghiệm để chẩn bệnh:
- Đo áp suất trong mắt: tonometry là một cách đo IOP nhanh chóng, không
đau đớn, dễ dàng; đây là loại thử nghiệm đầu tiên để tìm kiếm glaucoma
- Quan sát thần kinh mắt để tìm dấu vết hư hoại: bác sĩ rọi đèn gắn kính hiển
vi để quan sát các cấu trúc trong mắt; những thay đổi tại thần kinh mắt có
thể là dấu hiệu đầu tiên của glaucoma.
- Visual Field test: Tìm kiếm xem vùng không gian có thể thấy có bị giới
hạn không, glaucoma thu hẹp vùng không gian này.
- Đo độ dày của cornea (giác mạc) hay pachymetry: Khi độ dày của cornea
gia tăng, áp suất tại mặt lên cao hơn bình thường. Áp suất có thể lên cao
nhưng không nhất thiết là bị glaucoma. Ngược lại, áp suất trong mắt có thể
bình thường nhưng vẫn bị glaucoma.
- Các loại thử nghiệm khác: Để phân biệt giữa "open-angle" và "closed-
angle" glaucoma, bác sĩ có thể sẽ dùng gonioscopy, một tròng kính đặc biệt
đặt trên mắt để quan sát hệ thống ống thoát. Tonography đo tốc độ thoát của
chất lỏng aqueous humor trong mắt
Chữa trị & Dược phẩm
Bác sĩ chữa glaucoma bằng cách hạ IOP, giúp việc thoát chất lỏng aqueous
humor trong mắt, giảm việc chế tạo chất lỏng này hoặc cả hai. Ta chưa thể
chữa dứt bệnh glaucoma, sự hư hoại đã xảy ra không thể phục hồi nhưng
chữa trị và theo dõi mắt thường xuyên giúp duy trì phần thị lực còn lại.
Thuốc nhỏ mắt
Glaucoma thường được chữa trị bằng thuốc nhỏ mắt. Hãy dùng thuốc theo
lời chỉ dẫn để duy trì thị lực, làm chậm hoặc ngưng tiến trình của bệnh tật.
Khi cần dùng nhiều loại thuốc nhỏ mắt khác nhau, hãy chờ một thời gian
trước khi dùng loại thứ nhì, thứ ba; hãy hỏi ý kiến bác sĩ về khoảng thời gian
chờ đợi này, bao nhiêu lâu thì đủ.
Một số thuốc nhỏ mắt có thể ngấm vào máu, tạo ra phản ứng phụ trong cơ
thể (ngoài mắt). Để giảm mức thuốc ngấm vào máu, nhắm mắt từ 1-2 phút
sau khi nhỏ thuốc. Ấn nhẹ lên khóe mắt (gần mũi) vùng ống dẫn nước mắt
(tear duct) khoảng 1 phút và lau sạch những giọt thuốc dư thừa.
Các loại thuốc nhỏ mắt thường dùng:
1) Nhóm Prostaglandin-like: Loại thuốc này nhằm giảm sự chế tạo aqueous
humor, bao gồm latanoprost (Xatalan) và bimatoprost (Lumigan). Các phản
ứng phụ có thể gồm xót mắt, đỏ và xậm màu iris, thay đổi màu da trên mí
mắt, mờ mắt vì sưng trướng retina (võng mạc).
2) Nhóm Beta Blocker: Loại thuốc này nhằm giảm sự chế tạo aqueous
humor, bao gồm timolol (Betimol, Timoptic). betaxol (betopic) và
metipranolol (Optipranolol). Các phản ứng phụ có thể gồm khó thở, giảm
nhịp tim, rụng tóc, hạ huyết áp, liệt dương, mệt mỏi, trầm cảm và giảm trí
nhớ. Nếu bị suyễn, phổi trướng hoặc viêm khí quản, cần tránh dùng nhóm
thuốc này. Nếu đang dùng insulin để chữa tiểu đường cũng cần tránh nhóm
thuốc này.
3) Alpha Agonist: Loại thuốc này nhằm giảm sự chế tạo và giúp thoát
aqueous humor, bao gồm apraclonidine (lodipine) và brimonidine
(Alphagan). Các phản ứng phụ có thể gồm mất sức, chóng mặt, mắt sưng đỏ,
ngứa ngáy, khô miệng, và dị ứng.
4) Carbonic anhydrase inhibitor: Loại thuốc này nhằm giảm sự chế tạo
aqueous humor, bao gồm dorzolamide (Trusopt) và brinzolamide (Azopt).
Các phản ứng phụ có thể gồm tiểu rắt, cảm giác kim châm trên đầu ngón tay,
chân; thường thấy với loại thuốc uống hơn là loại thuốc nhỏ mắt. Nếu bị dị
ứng với loại dược phẩm chứa sulfa, cần tránh dùng nhóm thuốc này.
5) Miotic & cholinergic agent: Loại thuốc này giúp thoát aqueous humor
nhanh chóng, bao gồm pilocarpin (Isopto Carpine) và carbachol (Isopto
Carbachol). Các phản ứng phụ có thể gồm đau nhức mắt, vùng lông mày,
mờ mắt, cận thị, dị ứng, ngạt mũi, tháo mồ hôi, nhiễu nước miếng và đôi khi
ăn khó tiêu, đau bụng.
6) Epinephrine: Loại thuốc này giúp thoát aqueous humor nhanh chóng, bao
gồm dipivefrin (propine). Các phản ứng phụ có thể gồm đỏ mắt, dị ứng, tim
đập mạnh, tăng huyết áp, nhức đầu và hồi hộp lo âu.
Các loại thuốc uống
Khi thuốc nhỏ mắt không hạ áp suất trong mắt, bác sĩ có thể cần dùng thuốc
uống, thường trong nhóm carbonic anhydrase inhibitor. Nên uống thuốc
cùng bữa ăn để tránh phản ứng phụ.
Lúc bắt đầu, carbonic anhydrase inhibitor có thể gây tiểu rắt, và cảm giác
kim châm trên đầu ngón tay, chân. Sau nhiều ngày, các triệu chứng này sẽ
ngưng. Các phản ứng phụ có thể gồm nổi mề đay trên da, trầm cảm, mệt
mỏi, sạn thận, ngầy ngật, đau bụng, lưỡi có vị kim loại khi uống nước nổi
bọt (carbonated beverage), liệt dương và xuống ký.
Các loại thuốc bảo vệ thần kinh mắt
Giảm áp suất trong mắt (IOP) chỉ là một phần của việc chữa trị glaucoma, ta
cần tìm cách bảo vệ thần kinh mắt lâu dài (ngưng hoặc làm chậm lại sự hư
hoại để duy trì thị giác, thị lực). Các loại thuốc nhằm bảo vệ thần kinh đang
được thử nghiệm trong các chương trình thử nghiệm lâm sàng (clinical
trials).
Ly-Le Tran