Bệnh lúa Von (1)
Bệnh lúa von còn gọi là bệnh mạ đực, bệnh thối gốc
(Foot-rot), bệnh vươn lóng (elongation disease).
Tiếng Nhật gọi là bệnh bakanae. Do nấm Fusarium
moniliforme-Gibberella fujikuroi. Bệnh có thể xuất
hiện và gây hại từ khi cây lúa ở giai đoạn mạ cho
đến lúc thu họach. Nấm bệnh lưu tồn trong phôi hạt
giống và trong đất, do bào tử phân sinh và quả thể
bầu ở vết bệnh được nước mưa làm rơi xuống đất, tồn
tại trong đất, thành nguồn bệnh. Trên đồng ruộng,
bào tử phân sinh có thể tồn tại và giữ sức sống trong
đất từ 4-6 tháng.
Bệnh thường phát sinh vào những năm có thời
tiết ấm áp, ẩm độ cao và ánh sáng yếu. Nấm bệnh có thể phát triển được ở nhiệt độ 10-370C (thích hợp nhất là từ 24-320C).
Bón phân đạm quá cao tạo điều kiện thích hợp
cho bệnh phát triển. Bệnh còn có thể lây truyền qua
không khí, gió hoặc nước, qua tàn dư của cây bị
bệnh vụ trước (rơm rạ), nhưng chủ yếu là qua hạt
giống, vì thế muốn hạn chế bệnh rất cần phải xử lý
hạt giống trước khi gieo hạt. Các bộ phận ở phía
dưới của cây như rễ, gốc thân dễ bị nhiễm bệnh hơn
các bộ phận ở phía trên của cây như bẹ lá, đốt thân.
Thực tế đồng ruộng cho thấy ở giai đoạn mạ và thời
kỳ đón đòng, thường bị nhiễm bệnh mạnh nhất.
Nghiên cứu mới về thực vật học, một số nhà
khoa học cho rằng có sự tham gia của 2 chất kích
thích tố gibberelin (GA3) và acid fusaric
(C10H13NO2). Chính kích thích tố gibberrelin gây
nên sự vươn lóng và acid fusaric gây nên sự còi
cọc.
Ở Nhật, các nhà khoa học đã phát hiện bệnh lúa
von trong nhiều loại cỏ họ hòa bản (chẳng hạn
Panicum miliaceum L.), trên lúa mạch, bắp, lúa
miến và mía đường. Các loài ký chủ phụ của nấm
bệnh bao gồm cà chua, chuối, đậu đũa.v.v...
Triệu chứng
Triệu chứng chung nhất của cây bị bệnh lúa von
là cây phát triển cao vọt, mảnh khảnh. Lá lúa từ
màu xanh lục chuyển dần sang màu xanh nhạt rồi
vàng gạch cua, cứng giòn và chết nhanh chóng.
Lóng thân cây bệnh phát triển dài ra, thường
mọc nhiều rễ phụ ở đốt (rễ gió) và có thể thấy lớp
phấn trắng phớt hồng bao quanh đốt thân và vị trí
xung quanh đốt thân.
Nếu bị nhiễm muộn, lá bị khô, giảm số chồi.
Nếu nhiễm vào giai đoạn trước khi đâm chồi, cây
mạ bị chết khô. Trường hợp sống sót, trỗ bông với
toàn hạt lép hoặc lững. Chính những hạt lép lửng
này, mang mầm bệnh. Vỏ hạt màu xám, nếu thời
tiết ẩm ướt, trên vỏ hạt có thể xuất hiện lớp phấn
trắng phớt hồng. Nếu thời tiết khô, trên đốt thân và
vỏ hạt có nhiều chấm nhỏ li ti màu xanh đen.
Mô tả nấm bệnh
Nấm bệnh có cả hai loại cuống bào tử đính nhỏ
và lớn. Sợi nấm phân cành và chia thành ngăn.
Mầm bệnh sản sinh nang bào tử, được hình thành
trong một túi, gọi là túi nang. Nang chứa trong các
thể quả, gọi là thể quả túi hay thể quả bào tử được
xem như là các thể quả dạng chai.
Các thể quả dạng chai này có màu xanh sậm và
đo được từ 250-330 x 220-280 µm (micrometre, hệ
đo lường Quốc tế, một khoảng cách bằng một phần
triệu mét). Chúng có hình cầu hay bầu dục, hơi xù
xì. Nang có hình trụ, dạng pít-tông, phía trên dẹp và
kích thước từ 90-102 x 7-9 µm. Nang chứa từ 4 – 6
bào tử, có khi 8. Các bào tử thường có một vách
ngăn và kích thước khoảng 15 x 5,2 µm, thỉnh
thoảng lớn hơn từ 27 - 45 x 6 - 7 µm.
Cuống bào tử đỉnh có dạng bột trắng có thể nhìn
thấy ở gốc hoặc phần dưới của các cây bệnh. Nếu
nhìn qua kính hiển vi, các hạt bị nhiễm bệnh có
những thể sợi nấm phủ long tơ mịn, trắng bao phủ
toàn bộ hạt. Về sau phát triền thành dạng bột do sự
hình thành bào tử đính.
Không phải tất cả cây mạ bị nhiễm biểu thị cùng
triệu chứng nói trên, thỉnh thoảng chúng biểu hiện
còi cọc hoặc khó phát hiện.
Lê Thiện Tùng Cập nhật từ nguồn thông tin Trung
tâm Khuyến nông Quốc gia