BỆNH LỴ TRỰC KHUẨN

(Kỳ 3)

ĐIỀU TRỊ: Bệnh nhân lỵ trực khuẩn phải được cách ly tại nhà, tại bệnh xá

hoặc bệnh viện suốt thời gian bệnh cấp; dụng cụ, bát đĩa, ấm chén … đều phải

dùng riêng. Khử khuẩn phân bằng Clorua vôi: 1 phần phân + nửa phần Clorua vôi

trộn để 2 giờ, tẩy uế bô phân: ngâm trong dung dịch Cloramin 2%, luộc sôi bát

đĩa, chai sữa, vú sữa; tẩy uế lần cuối buồng ở bằng Lysol 5%. Người phục vụ, tiếp

xúc với bệnh nhân phải ngâm tay trong dung dịch Cloramin 1-2%.

Chế độ ăn: Chỉ hạn chế trong một vài ngày đầu, không được để bệnh nhân

nhịn ăn dù chỉ 1 ngày, trở lại chế độ ăn bình thường từ ngày thứ ba, thứ tư trở đi.

Đối với trẻ còn bú, vẫn cho bú như thường lệ, không giảm số lần, số lượng sữa mẹ

ngay từ ngày đầu. Với trẻ đang bú sữa bằng chai, phải làm vệ sinh tốt các dụng cụ

như bình đựng, vú sữa; đảm bảo chất lượng sữa pha chế, ngay từ ngày đầu, không

hạn chế số lần uống, số lượng sữa. Với trẻ lớn, người lớn, trong vài ngày đầu dùng

cháo ninh nhừ, đặc hoặc loãng, nấu với bột thịt, cá. Từ ngày thứ ba, thứ tư ăn cháo

đặc với thịt, trứng, khoai tây nghiền, sữa chua, chuối quả, sau đó ăn cơm nát, thịt

nạc luộc, nước hoa quả. Tránh thức ăn nhiều bã, thảo mộc khô.

Sulfamide và kháng sinh:

Ngày nay, trực khuẩn lỵ đã kháng nhiều với Sulfamide, với kháng sinh,

trước kia được coi như thuốc đặc trị hàng đầu (Sulfadiazine, Chloromycétine),

hiện tượng kháng ít hoặc nhiều với kháng sinh ngày càng tăng và cũng biến đổi

tùy từng vùng. Theo chương trình giám sát về tính kháng thuốc của vi khuẩn gây

bệnh kết thúc giai đoạn 2: 1/1992 - 12/1993 của Bộ y tế Việt Nam, thì độ nhạy với

kháng sinh của S.Flexneri chỉ còn:

Số Trung Kháng sinh Nhạy Kháng

lượng gian

1. Sulfamide 124 111 13

% 89,5 10,5

2. 113 103 6 4

Tetracycline % 91,2 5,3 3,5

3. 163 136 8 27

Chloramphenicol % 93,4 4 16,6

6 4. Ampicillin 143 132 5

% 4,2 92,3 3,5

28 5. Bactrim % 153 124 1

81,0 0,7 18,3

Như vậy, nếu gộp cả Sulfamide (theo nhiều tác giả, hầu như không còn

hiệu nghiệm nữa) thì Chloramphenicol, Tetracycline, Streptomycine tác động trên

trực khuẩn lỵ đã giảm nhiều, hơn nữa lại gây nhiều tác dụng phụ (loạn khuẩn ruột,

độc với tủy xương, với bào thai …). Thuốc tốt nhất trong điều trị lỵ ngày nay là:

Céphalosporin thế hệ 3 (Ceftriaxon), Quinolone thế hệ 1 (Acid nalidixic) hoặc

Fluoroquinolone (Ciprofloxacine, Ofloxacine, Péfloxacine) rất hiệu quả, rút ngắn

ngày dùng thuốc, cụ thể:

Tetracycline 1 viên 0,25g, người lớn 4 viên/ngày chia 4 lần, thời gian 5 - 7

ngày.

Chloramphenicol (Chloromycétin, Chlorocid, Leukomycine, Lifomycine):

1 viên 0,15g; người lớn 4 - 6 viên/ngày, chia 3 - 4 lần.

Ampicilline (Totapen, Binotal, Nuvapen, Amblosin, Polycilline) 1 viên

0,25g hoặc 0,5g. Liều dùng: trẻ em 50 mg/kg/ngày, chia 4 lần; người lớn 1,5 - 2g

(ngày chia 4 lần, thời gian 5 - 7 ngày).

Cotrimoxazol (Bactrim, Sepbrin, Eusaprim): 1 viên 0,480g gồm 400mg

Sulfaméthoxazol và 80mg Triméthoprim. Liều dùng: trẻ em từ 2 - 3 tuổi: 1

viên/ngày chia 2 lần; từ 4 - 6 tuổi: 2 viên/ngày chia 2 lần; từ 7 - 11 tuổi: 3

viên/ngày chia 2 lần, từ 12 tuổi và người lớn: 4 viên/ngày chia 2 lần. Thời gian 5

ngày (không dùng khi có chống chỉ định dùng Sulfamide).

Negram 1g 1 viên, uống; Acid nalidixic: 30 mg/kg/ngày, thời gian 5 ngày.

Fluoro-quinolein (Aprofloxacine: Ciflox): 0,500g 1 viên, 2 - 3 viên/ngày,

chia 2 lần, thời gian 5 ngày.

Cotriaxone (Rocéphin) tiêm tĩnh mạch 50 mg/kg/ngày, thời gian 5 ngày.

Chú ý: Không dùng kháng sinh trong các thể nhẹ. Không dùng kháng sinh

liều tối đa, thời gian kéo dài trong điều trị lỵ. Tránh dùng một lúc 2 kháng sinh vì

vừa không cần thiết, vừa tăng tác dụng phụ của thuốc. Khuyên không dùng kháng

sinh điều trị cho người mang trùng lành vì tự thải sau một số tuần.

Trực khuẩn thể: Phân lập từ bệnh nhân lỵ tại ổ dịch cũng có tác dụng diệt

khuẩn lỵ, được một số tác giả Việt Nam nghiên cứu. Kết quả hạn chế vì không bao

trùm mọi type lysotyp, genotyp … của từng nhóm Shigella.

Ngoài ra, ở Việt Nam, để điều trị lỵ còn dùng nhiều cây, lá thuốc nam tùy

địa phương, theo sự chỉ dẫn của Lương y.

Berbérin (chiết xuất từ cây Hoàng đằng), viên 50g. Liều dùng 8 - 10

viên/ngày, chia 2 lần trong 7 - 10 ngày.

Dây Hoàng đằng 5 - 10 g/ngày, sắc nước uống 5 - 7 ngày liên tục. Lá mơ

tam thể 30g + 1 quả trứng gà + vài gam muối bếp; rửa sạch lá, thái nhỏ, trộn với

trứng và muối, xào chín hoặc hấp cơm, ăn trong ngày, dùng 4 - 7 ngày.

Các đơn thuốc thảo mộc khác được dùng:

Bài 1: Rau sam 400g, hạt cau 100g, củ phượng vĩ 100g, cỏ sữa nhỏ lá 400g,

lá mơ lông 100g (tán bột, dùng 20 g/ngày).

Bài 2: Phèn đen 20g, vỏ rụt 10g, củ phượng vĩ 20g (sao đen, sắc uống trong

ngày).

Hai bài thuốc trên là của Trường đại học y khoa Hà Nội.

Bài 3: Cỏ nhọ nồi tươi 100g, lá mơ lông (mơ dại) 100g, lá phượng vĩ 100g.

(Nếu chỉ có 1 vị, dùng 200 g tươi, sắc với 3 bát nước cho đến khi còn 1 bát; uống

nước sắc, chia 2 - 3 lần, ngày uống 1 thang, trong 3 - 6 ngày).

Bài 4: Cỏ sữa lá to 100g, rau sam 100g, ngân hoa 20g, búp ổi 20g, búp sim

100g (sắc như bài 2, ngày uống 1 thang, trong 3 - 6 ngày).

Bù dịch và điện giải: Ngày nay, bù dịch và điện giải uống (thể vừa), truyền

dịch (thể nặng) được coi là những biện pháp hàng đầu trong điều trị ỉa chảy do

virus, vi khuẩn … (trong đó có lỵ) và làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong đối với trẻ

dưới 5 tuổi. Vì vậy, ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác, phương pháp này

được Tổ chức y tế thế giới khuyến khích, giúp đỡ phổ biến gói bột điện giải

Oresol, gồm: Natri clorua 3,5g, Natri bicarbonat (tốt nhất: Natri xitrat) 2,5g, Kali

clorua 1,5g, Glucose 20g. Pha trong 1 lít nước ấm, uống dần theo nhu cầu cho cả

trẻ em và người lớn.

Dung dịch truyền tĩnh mạch là dung dịch Phillips. Trong 1 lít dung dịch có:

Natri clorua 5g, Natri bicarbonat 4g, Kali clorua 1g.

Các dung dịch khác để nuôi dưỡng, bù nước, điện giải là dung dịch ngọt ưu

trương 20 - 30%, ngọt đẳng trương 5%. Dung dịch muối đẳng trương 0,9%, dung

dịch Ringer lactate, ngày dùng 30 - 50 ml/kg (hoặc hơn) tùy tình hình mất nước và

độ tuổi.

Dung dịch Natri bicarbonat 4% dùng 100 - 200 ml/ngày khi nhiễm acid.

Trường hợp nặng đặc biệt, dùng thêm huyết tương (10 ml/kg) hoặc máu tươi đồng

loại, mỗi lần 150 - 250 ml. Có thể dùng nhắc lại 2 - 3 lần nếu cần thiết.

Các biện pháp điều trị khác:

Trợ lực: Vitamin B1, viên 10mg. Liều dùng 3 - 5 viên/ngày, chia 2 lần.

Vitamin C viên 100mg, 3 - 5 viên/ngày, chia 2 lần.

Chống đau bụng: chườm nóng, thụt giữ bằng nước ấm. Có thể cho uống

Belladone, viên 5mg, mỗi lần 1 - 2 viên, ngày 1 - 2 lần; hoặc tiêm Atropin sulfate

0,25mg, dưới da, mỗi lần 1 ống, ngày 1 - 2 lần.

Chứng đau rát hậu môn: Ngâm mông trong bô nước Belladone ấm 30 phút.

Đặt đạn Belladone ngày 1 viên qua hậu môn. Không dùng thuốc có thuốc phiện,

không dùng Bismuth.

PHÒNG BỆNH:

Phát hiện sớm bệnh nhân và người lành mang khuẩn. Cách ly điều trị bệnh

nhân lỵ cấp. Phát hiện trong ổ dịch những thể mờ, cụt, không điển hình, đặc biệt ở

nhóm người dễ mắc, dễ lây lan do nghề nghiệp. Thời gian cách ly, điều trị ít nhất

10 - 15 ngày, sau 2 lần cấy phân âm tính cách nhau 3 ngày. Tẩy uế các chất thải

(bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%); dụng cụ, quần áo bệnh nhân phải được sát

trùng hoặc ngâm Cloramin 2%. Tẩy uế buồng bệnh bằng Cresyl 5%.

Bảo vệ người lành: theo dõi 7 ngày đối với người tiếp xúc với bệnh nhân

(cùng ăn ở một nhà). Nếu có điều kiện, cấy phân 1 hoặc 2 lần, cách nhau 3 ngày

để kiểm tra. Kiểm tra đường tiêu hóa, 3 tháng 1 lần, những người làm công việc

nấu ăn, bán thực phẩm, giữ trẻ … đồng thời, cấy phân phát hiện người mang

khuẩn. Đối với những người cùng làm việc và cùng ở chung nhà, không nên dùng

Sulfamide hoặc kháng sinh hàng loạt để dự phòng, vì vừa tốn kém, vừa tăng sức

kháng của vi khuẩn.

Cắt khâu trung gian truyền bệnh: Thực phẩm tươi sống nên cất vào tủ,

buồng có lưới chống ruồi nhặng. Không nên ăn rau sống chưa sát khuẩn. Giữ vệ

sinh nguồn nước, không để bị ô nhiễm, không để hệ thống nước thải, cống rãnh bị

tắc. Xử lý nguồn phân và rác cho hợp vệ sinh. Không dùng phân tươi để bón

ruộng. Diệt ruồi, nhặng, côn trùng bằng mọi cách. Giữ gìn tốt vệ sinh cá nhân.

Uống nước đun sôi, thức ăn phải nấu chín.

Vaccin: ngày nay Shigella đã kháng với các thuốc thông dùng nên chống

dịch ít hiệu quả, điều trị tốn kém, phức tạp; vì vậy thế giới đang nỗ lực phát triển

vaccin dự phòng. Vaccin uống của Việt Nam và Thùy Điển với các chủng dự

tuyển S.fl 114, S.fl 124 và S.fl 1070 của Pháp và Mỹ với chủng S.fl 2a, được thử

nghiệm ở giai đoạn II với nhiều hứa hẹn. Vaccin tiêm: một số vaccin tiêm gồm

Polysaccharide của S.dysenteriae, S.flexneri, S.sonnei đang được nghiên cứu thử

nghiệm; có thể vào đầu thế kỷ tới sẽ có vaccin phòng Shigella được sử dụng trong

y tế cộng đồng.

Vệ sinh môi trường: nhà ở, nhà ăn, nhà bếp, nhà kho …