BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HOÀNG LÊ PHÚC
BỆNH WILSON Ở TRẺ EM VIỆT NAM ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, SINH HÓA, ĐIỀU TRỊ, TẦM SOÁT VÀ DI TRUYỀN HỌC PHÂN TỬ
Chuyên ngành: Nhi khoa
Mã số: 62720135
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN DIỆP TUẤN (HDC) PGS.TS PHẠM LÊ AN (HDP)
Phản biện 1: GS.TS. NGUYỄN GIA KHÁNH
Trường đại học Y Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. ĐỖ THỊ THANH THỦY
Đại học Y Dược TP. HCM
Phản biện 3: PGS.TS. PHAN HÙNG VIỆT
Trường đại học Y Dược Huế
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường
Họp tại Đại học Y Dược TP.HCM
số 217 Hồng Bàng – Quận 5 – TP.HCM.
Vào lúc 8g30 ngày 16 tháng 6 năm 2017.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM
- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Wilson được đặt tên theo họ của bác sĩ Samuel Alexander
Kinnier Wilson (Wilson SAK), là người phát hiện bệnh đầu tiên năm 1912
[140]. Đây là bệnh rối loạn chuyển hóa đồng, di truyền tính lặn và gien gây
bệnh, ATP7B, nằm trên nhiễm sắc thể 13. Gien bị đột biến làm sản phẩm
protein của nó, enzym ATP7B, bị thay đổi hoặc mất chức năng, vì vậy đồng
không thể thải ra ngoài qua mật mà bị tích tụ ở gan, sau đó lắng đọng ở các cơ
quan khác, thường nhất là não, mắt và hồng cầu, gây ra các biểu hiện bệnh
tương ứng.
Bệnh Wilson được xếp vào nhóm bệnh hiếm gặp, tính trên toàn cầu độ
lưu hành bệnh là 12-29/ triệu dân và tần suất mắc bệnh mới là 1: 30.000 với tỷ
lệ người lành mang gien bệnh là 1:100 [50]. Mặc dù hiếm nhưng bệnh Wilson
lại là bệnh gan chuyển hóa di truyền thường gặp nhất. Trong một thời gian dài
sau khi được Wilson phát hiện, các bệnh nhân này đều tử vong hoặc tàn tật
[50],[104]. Mãi cho tới khi Walshe tìm ra D-Penicillamine, rồi Trientine thì
bệnh Wilson lại là bệnh gan chuyển hóa có thể điều trị, thậm chí khi xơ gan
đã ở giai đoạn trễ [15]. Phát hiện này cùng với sự kiện ba nhóm nghiên cứu
độc lập cùng tìm ra gien gây bệnh ATP7B vào năm 1993 [22],[126],[144] đã
làm các nhà khoa học rất lạc quan, cho rằng trong một thời gian ngắn sẽ có
phương pháp phát hiện sớm và điều trị hiệu quả căn bệnh này. Thế nhưng,
trong hơn 20 năm nay người ta dần dần nhận ra thật sự mình còn biết quá ít về
căn bệnh tưởng chừng như đơn giản nhưng thật sự rất phức tạp này.
Tính phức tạp của nó thể hiện đầu tiên ở tính đa dạng lâm sàng. Bệnh
có thể biểu hiện ở nhiều cơ quan khác nhau như gan, thần kinh, thận, mắt,
hồng cầu, xương khớp, thậm chí ở tim. Thêm vào đó, ngay cả hai biểu hiện
2
chính và đặc trưng của bệnh là gan và thần kinh cũng biểu hiện lâm sàng rất
đa dạng. Có thể nói bệnh Wilson có thể biểu hiện giống bất kỳ bệnh gan do
những nguyên nhân khác nên trước một trường hợp bệnh gan không rõ
nguyên nhân chúng ta cần nghĩ đến bệnh này trong chẩn đoán phân biệt. Điều
này cũng đúng với biểu hiện thần kinh của bệnh. Hơn nữa, đáp ứng điều trị
của bệnh đối với các loại thuốc thải đồng và cạnh tranh hấp thu đồng cũng rất
khác nhau. Điều đặc biệt nguy hiểm là đã có báo cáo nếu ngưng điều trị thải
đồng thì bệnh nhân có thể vào thể tối cấp, tử vong nếu không được ghép gan.
Chi phí điều trị cho các trường hợp phát hiện bệnh trễ rất cao và thời gian hồi
phục thường lâu làm người ta hướng nguồn lực đến việc tìm cách chẩn đoán
bệnh sớm. Chẩn đoán sớm còn giúp chúng ta quản lý được thể bệnh Wilson
tối cấp vì nó có thể xuất hiện ở bất kỳ nhóm tuổi nào. Ba đặc trưng của bệnh
là nồng độ ceruloplasmin trong máu giảm, nồng độ đồng trong nước tiểu 24
giờ cao và vòng Kayser Fleisher có thể giúp chẩn đoán bệnh sớm hơn rất
nhiều mà không cần bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng rõ ràng như những
trường hợp đến quá trễ. Rủi thay, lại một lần nữa, ba đặc trưng này đều xuất
hiện rất thay đổi trong tiến trình bệnh nên không thể đơn độc giúp chẩn đoán
xác định hay loại trừ hoàn toàn được bệnh Wilson.
Sinh học phân tử có giá trị giúp chẩn đoán sớm các bệnh di truyền.
Nhưng đối với bệnh Wilson áp dụng khái niệm này không đơn giản. Cho tới
thời điểm 2013 đã có gần 500 đột biến phân tử gien ATP7B đã được công bố
[58]. Phần lớn các đột biến này xảy ra lẻ tẻ, ít có tính lặp lại. Hơn nữa, khảo
sát sự phân bố các đột biến này lại cho thấy có sự khác biệt rất đáng kể theo
vùng miền, quốc gia và chủng tộc. Tính đa dạng trong đột biến phân tử tạo
nên sự đa dạng trong kiểu gien, đặc biệt kiểu gien dị hợp tử kép chiếm đa số
làm chúng ta rất khó xác định vai trò cũng như tính ngoại hiện của từng đột
biến trong cơ chế bệnh sinh. Vì vậy việc xác định rõ ràng mối liên quan kiểu
3
gien-kiểu hình đòi hỏi phải có cỡ mẫu lớn, trong bối cảnh bệnh hiếm gặp nên
cần có tính toàn cầu, chuẩn hóa tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại kiểu hình
để có thể quy nạp và tìm ra mối liên quan. Điều này cũng có nghĩa là việc
nghiên cứu phân loại lâm sàng, chẩn đoán, điều trị, tầm soát, phân tích đột
biến phân tử của từng địa phương là rất cần thiết cho việc xử trí hiệu quả hơn
căn bệnh này.
Mặc dù y văn cho thấy bệnh Wilson đã được phát hiện ở Việt Nam từ
thập niên 60 của thế kỷ trước, nhưng cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào tại
nước ta đánh giá toàn diện bệnh lý này từ lâm sàng đến sinh học phân tử ở trẻ
em. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu xác định các đặc điểm lâm sàng, sinh
hóa, đột biến, đáp ứng điều trị và tầm soát bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam để
góp phần phát hiện và điều trị hiệu quả và sớm bệnh lý này.
4
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả đặc điểm dân số học, thể lâm sàng và cận lâm sàng bệnh Wilson
2. Xác định đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B.
3. Chứng minh bước đầu mối liên quan kiểu gien-kiểu hình
4. Mô tả kết quả tầm soát bệnh Wilson cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột của
theo phân loại Leipzig 2003.
bệnh nhi bệnh Wilson bằng lâm sàng, sinh hóa và phân tích đột biến phân
5. Xác định tỷ lệ đáp ứng lâm sàng, sinh hóa chức năng gan và biến cố bất lợi
tử gien ATP7B.
của các thuốc D-Penicillamine, Trientine và kẽm.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. 1. LỊCH SỬ
Tháng ba năm 1912, Samuel A Kinnier Wilson [140]
(Hình 1.1) đã mô tả một bệnh sau này mang tên ông
trên tạp chí Brain. Bài báo này dài 213 trang, chiếm
toàn bộ nội dung số tạp chí đó (Hình 1.2), lấy tiêu đề là
“Progressive lenticular degeneration: a familial
nervous disease associated with cirrhosis of the liver”
(“thoái hóa nhân đậu tiến triển: một bệnh thần kinh có
tính gia đình đi kèm với xơ gan”). Wilson đã mô tả 4
Hình 1.1. S A Kinnier Wilson “Nguồn: Wilson, SAK. Brain, 1912” [140]
trường hợp mà ông đã gặp và tự mình nghiên cứu (3
trường hợp lúc còn sống, 1 trường hợp sau tử vong), 2
trường hợp từ bệnh án của bệnh viện quốc gia Queen Square, Luân Đôn và 6
trường hợp được Ormerod mô tả trước đó vào năm 1890 trong báo cáo bệnh
viện St. Batolomew. Thật ra trước SAK Wilson đã có vài tác giả mô tả các
trường hợp có biểu hiện giống bệnh này (von Frerichs 1861, Võlsch 1911,
Westphal 1883; Strũmpell 1898, Homén 1890; Homén 1892) nhưng đã không
thấy được mối liên hệ với gan hoặc lại cho là do nguyên nhân khác.
Từ điểm mốc có tính đột phá này cho đến nay y học đã có nhiều tiến bộ
trong việc tìm hiểu cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng, sinh hóa, điều trị, di
truyền, sinh học phân tử (Bảng 1.1). Hiện nay người ta đã phát hiện gần 500
đột biến gien ATB7B [26],[57] và đang nỗ lực xác định mối tương quan giữa
kiểu gien và kiểu hình của bệnh.
6
Hình 1.2. Trang bìa tạp chí Brain tháng Ba năm 1912 đánh dấu sự phát hiện bệnh Wilson “Nguồn: Wilson, SAK. Brain, 1912” [140]
7
Bảng 1.1. Các cột mốc của quá trình nghiên cứu bệnh Wilson trong y khoa [133]
Năm Sự phát triển
1902 Kayser mô tả vòng sắc tố ở giác mạc
1912 Wilson mô tả các dấu hiệu lâm sàng thần kinh trên tạp chí Brain
1913 Rumpel nhận ra đồng tích tụ quá mức trong gan các bệnh nhân Wilson
tử vong
1921 Hall giả định đây là bệnh di truyền tính lặn
1934 Gerlach và Rohrschneider chứng minh đồng lắng đọng quá mức ở
vòng sắc tố ở giác mạc
1948 Cumings chứng minh đồng tích tụ quá mức ở gan và não của bệnh
nhân Wilson và đề xuất điều trị bằng Dimercaprol (BAL)
1952 Bearn, Kunkel, Scheinberg và Gitlin cùng báo cáo độc lập nhau về sự
thiếu hụt các protein gắn kết đồng và caeruloplasmin
1955 Walshe đề nghị dùng penicillamine để điều trị
1961 Schouwink cho thấy muối kẽm có thể ức chế sự hấp thu đồng từ ruột
và có thể có giá trị dược liệu
1969 Walshe báo cáo triethylene tetramine 2HCl (Trientine) là chất thải
đồng có giá trị, có thể điều trị thay thế penicillamine
1982 Starzl và cộng sự báo cáo ca ghép gan đầu tiên cho bệnh nhân Wilson
1984 Walshe mô tả khả năng của tetrathiomolybdate huy động đồng từ gan
và cải thiện hình ảnh mô học
1993 Ba nhóm nghiên cứu hoạt động độc lập cùng báo cáo đã định danh
được gien bệnh Wilson, một loại ATPase type P (ATPase 7B) nằm
trên nhiễm sắc thể 13q14 kiểm soát sự chuyển động của đồng qua
màng tế bào
8
1.2. DỊCH TỄ HỌC
Bệnh Wilson là bệnh hiếm gặp. Các số liệu đáng tin cậy về độ lưu hành
bệnh rất phân tán và thay đổi theo thời gian [111]. Ở hầu hết các nước châu
Âu, độ lưu hành bệnh lúc sinh là 12-18 phần triệu ca sinh. Ở Nhật, là quốc gia
có xu hướng kết hôn cùng dòng máu, theo Saito, 1981 là 33 phần triệu dân
[105]. Costa Rica có tỷ lệ rất cao: 60 phần triệu dân [53]. Tỷ lệ ở Hoa Kỳ
khoảng 1/50,000 dân. Tuy nhiên cần lưu ý rằng vì tỷ lệ tử vong của bệnh cao
nên độ lưu hành của bệnh tại các thời điểm sau sinh sẽ thấp hơn tỷ lệ lúc sinh
rất nhiều [98], chẳng hạn như ở Ireland, độ lưu hành bệnh trong số bệnh được
điều trị vì bệnh Wilson năm 1986 là 3.6 phần triệu dân trong khi tỷ lệ này lúc
sinh là 17 phần triệu ca sinh [102].
Tần suất người lành mang gien bệnh cũng thay đổi theo quốc gia và dao
động từ 1/90-1/500 [47].
1.3. BỆNH SINH
1.3.1. Chuyển hóa đồng trong cơ thể người
Đồng là yếu tố vi lượng thiết yếu đóng vai trò cofactor catalytic quan
trọng cho rất nhiều protein cần cho hoạt động chức năng của tế bào bình
thường. Thiếu đồng sẽ gây ra nhiều triệu chứng, điển hình là bệnh Menkel,
bệnh di truyền lặn liên kết nhiễm sắc thể giới tính X do đột biến gien ATP7A
[85].
Đồng trong thức ăn hàng ngày sẽ được hấp thu nguyên phát ở ruột non.
Từ tế bào ruột đồng được đưa vào tĩnh mạch cửa nhờ sự hỗ trợ của protein
bệnh Menkel ATP7A. Trong tĩnh mạch cửa, đồng gắn kết với albumin,
transcuprein và histidine. Từ huyết tương tĩnh mạch cửa nó nhanh chóng được
nội bào hóa vào tế bào gan. Tại gan lượng đồng dư không cần cho các hoạt
động chuyển hóa sẽ được bài tiết ra mật xuống ruột. Phần đồng không hấp thu
9
tại ruột non sẽ được thải qua phân cùng với lượng đồng thải qua mật này.
Phần đồng chuyển ngược từ gan vào hệ tuần hoàn sẽ được gắn kết với
albumin hoặc ceruloplasmin (Hình 1.3) [11], [118].
Hình 1.3. Chuyển hóa đồng trong cơ thể người
“Nguồn: Hollwich F. Taschenatlas der Augenheilkunde. 3rd ed.
Stuttgart: Thieme, 1987“ [118]
1.3.2. Sự cân bằng chuyển hóa đồng ở tế bào gan - Vai trò của gien
ATP7B và metallochaperones
Bài tiết đồng qua mật bị giảm là cơ chế bệnh sinh căn bản của sự tích tụ
đồng trong cơ thể và đây chính là điểm mấu chốt của bệnh Wilson. Sự giảm
thải đồng qua mật và giảm khả năng gắn kết đồng vào ceruloplasmin là hậu
quả trực tiếp của sự biến đổi hoặc mất chức năng của enzym ATP7B. Enzym ATP7B là protein nội bào, định vị chủ yếu ở trans-Golgi [109] của tế bào gan.
10
Vị trí độc đáo trong tế bào này giúp cho ATP7B thực hiện được đồng thời 2
chức năng: có thể đi đến các bào quan khác như lysosome hoặc endosome (sự
tái phân bố ATP7B) để thải đồng ra ngoài gan vào mật và tham gia vào quá
trình gắn kết đồng vào peptid ceruloplasmin mới tổng hợp (Hình 1.4)
Hình 1.4. Điều hoà chuyển hoá đồng tại tế bào gan
“Nguồn: Ala A. & Schilsky M. L., 2004” [11]
Ở người bình thường, khi có tình trạng tăng đồng, khả năng tái phân bố
này sẽ giúp loại bớt đồng ra khỏi cơ thể [47] còn khi lượng đồng trong gan ít
đi thì từ vị trí ở trans-Golgi ATP7B sẽ giúp đồng tham gia vào quá trình tổng
hợp ceruloplasmin rồi vào máu [9],[108].
Để nghiên cứu thực nghiệm bệnh Wilson, người ta chọn chuột LEC là
loại chuột đã bị mất ATPase có chức năng vận chuyển đồng. Trong các
nghiên cứu ở chuột này, cho người ta thấy rằng sự thải các cơ chất ra mật của
11
lysosome (tiêu thể) hoàn toàn còn nguyên vẹn nhưng đồng không thải ra mật
được do ATPase đã không thể tái phân bố đến tiêu thể [116]. Đồng cũng
không gắn được vào peptid ceruloplasmin làm cho sản phẩm này kém ổn định
trong hệ tuần hoàn gây ra giảm nồng độ trong máu, điều mà hơn 50 năm trước
đây đã được ghi nhận [110].
Vì vậy chính vị trí tại bộ Golgi giúp cho ATP7B hoàn thành được các
chức năng của mình và đây chính là điểm mấu chốt của cân bằng chuyển hóa
đồng trong tế bào gan [141]. Các thông tin thu được từ nghiên cứu các thể đột
biến ATP7B ở người bệnh Wilson đã củng cố thêm cho luận điểm này (Hình
1.4).
Gần đây Tsivkovskii và cộng sự đã cho thấy ATP7B của đột biến
thường gặp nhất H1069Q đã định vị sai vị trí tại mạng lưới nội tương thô
[130], thay vì phải ở bộ Golgi (Hình 1.5). Sản phẩm của các loại đột biến
khác cũng nằm lan tỏa trong bào tương hoặc thiếu khả năng tái phân bố khi có
tình trạng tăng đồng [59],[89].
1.3.3. Đột biến gien ATP7B
Gien ATP7B dài 80kb, có 21 exon nằm trên nhiễm sắc thể 13 mã hóa
một protein có chiều dài 1465 acid amin là một loại enzym ATPase type P
vận chuyển đồng trong tế bào [38] (Hình 1.6). Theo cơ sở dữ liệu của Dian
Cox [26] năm 2014 số đột biến gien ATB7P đã vượt quá 500, được mô tả ở
châu Âu, Hoa Kỳ, châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Trung Quốc).
Phần lớn các đột biến này chỉ xảy ra ở vài bệnh nhân gốc và các thành viên
trong gia đình của họ. Chỉ có đột biến H1069Q có thể gặp đến 40% ở Bắc Âu
[47], [141]. Đột biến này cũng phổ biến ở Đông và Trung Âu, Châu Mỹ còn ở
châu Á đột biến A778L có thể chiếm tới 14-49% nhưng lại không tìm thấy ở
châu Âu [31],[90]. Vì vậy kiểu gien của người bệnh Wilson phần lớn là dị
hợp tử kép, làm cho việc xác định đột biến rất tốn thời gian và khó khăn. Nếu
12
chỉ tầm soát các đột biến thường gặp tỷ lệ phát hiện đột biến khoảng 30%.
Nếu giải trình tự trực tiếp cả 21 exon thì có thể phát hiện 70%-80% bệnh nhân
có đột
Hình 1.5. Các quá trình trong tế bào của enzym ATP7B bình thường và bị đột biến:
ATP7B được phiên mã trong nhân. ARN thông tin dịch mã sang protein trong mạng
lưới nội tương. Protein được tạo ra được đưa đến bộ Golgi và trans-Golgi và định vị
ở đó. Một số protein có thể di chuyển qua lại giữa trans-Golgi và các bào quan
endosome hoặc lysosome để thải ra mật. Dạng đột biến ATP7B, H1069Q được dịch
mã trong mạng lưới nội tương thô nhưng không được đưa tới bộ Golgi. Các dạng
đột biến khác có thể định vị tại các ngăn khác nhau của tế bào nhưng không thể tái
phân bố để đáp ứng với sự tăng đồng trong tế bào
biến[38]
“Nguồn: Ala A. & Schilsky M. L., 2004” [11]
Hình 1.6. Cấu trúc gien ATP7B và sản phẩm protein của nó, enzym ATP7B
13
“Nguồn: Ferenci P, 2005” [38]
1.3.4. Tổn thương tế bào các cơ quan do đồng [67],[68], [141]
Trong giai đoạn sớm của bệnh, đồng được phân bố đều khắp bào tương
tế bào gan dưới dạng gắn với metallothionein. Khi bệnh tiến triển đồng tích tụ
tại tiêu thể. Lượng đồng tích tụ này tạo ra các gốc tự do làm tổn thương tế bào
qua con đường stress oxy hóa. Hơn nữa ceruloplasmin trong máu giảm làm
giảm khả năng kết nối đồng với nó trong huyết thanh. Vì vậy khi bị tích tụ
trong gan quá nhiều lượng đồng phóng thích vào máu sẽ không nối với
ceruloplasmin mà nối với albumin hoặc acid amin. Lượng đồng kết nối với
các chất này sẽ tăng thải qua nước tiểu (nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ
tăng) và sẽ lắng đọng ở các cơ quan như não, thận, giác mạc, cơ, xương và
khớp.
Trong bệnh Wilson sắt cũng tích tụ ở gan giống như đồng. Điều này do
ceruloplasmin là một dạng feroxidase nên khi bị giảm nó sẽ không chuyển sắt
14
(II) thành sắt (III). Vì vậy một phần tổn thương gan trong bệnh Wilson có thể
do tích tụ sắt gây ra.
1.3.5. Quá tải đồng và biểu hiện lâm sàng
Deiss và các tác giả khác [29] đã đề nghị hệ thống phân loại giai đoạn
để lý giải tính đa dạng của các biểu hiện bệnh Wilson. Gồm 5 giai đoạn như
sau
Giai đoạn I: đặc trưng bởi sự tích tụ đồng ngày một nhiều hơn xảy ra ở
bào tương tế bào gan. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi các vị trí kết nối
đồng trong gan được bão hòa. Giai đoạn này không có triệu chứng và thường
xảy ra trước 3 tuổi.
Giai đoạn II: đồng ở trong tế bào gan được tái phân bố từ bào tương
đến lysosome và đồng thời sẽ phóng thích ra khỏi gan. Nếu sự phóng thích
này xảy ra một cách từ từ, bệnh nhân vẫn không có triệu chứng. Nếu tái phân
bố nhanh, gan sẽ hoại tử và bệnh nhân bắt đầu có triệu chứng của bệnh gan.
Ngoài ra, nếu đồng phóng thích vào máu nhanh thì có thể gây thiếu máu tán
huyết. Giai đoạn này thường đi kèm với suy gan tối cấp, cần phải ghép gan.
Tuy nhiên nếu bệnh nhân qua khỏi giai đoạn II mà không có biểu hiện lâm
sàng thì họ vẫn không có triệu chứng.
Giai đoạn III: đồng tiếp tục tích tụ ở lysosome và quá trình sợi hóa hoặc
xơ hóa với nhiều mức độ khác nhau sẽ xảy ra. Ở giai đoạn này, sự tích tụ
đồng cũng xảy ra ở các mô khác như não, giác mạc, thận hay hệ xương. Bệnh
nhân vẫn còn không có triệu chứng trong vài năm nếu sự lắng đọng đồng ở
não diễn ra từ từ.
Giai đoạn IV: đặc trưng bởi bệnh lý hệ thần kinh trung ương. Nếu tích
tụ đồng diễn ra nhanh thì bệnh gan, bệnh thần kinh hoặc cả 2 sẽ trở nên rõ
15
ràng trong thời gian ngắn. Bệnh nhận tử vong do suy gan mạn hoặc tàn tật nếu
không được điều trị đặc hiệu.
Giai đoạn V: diễn ra khi điều trị thải đồng qua nước tiểu được bắt đầu
trước khi bệnh nhân tử vong do suy gan hoặc tổn thương não không hồi phục,
đặc trưng bởi giảm tích tụ đồng dần dần ở mô, sửa chữa các tổn thương mô
học và cải thiện dần tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
1.4. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh thường liên quan đến gan hoặc hệ
thần kinh (Bảng 1.2).
Các triệu chứng rất thay đổi, khác nhau và trên lâm sàng bệnh hiếm khi
biểu hiện trước 5 tuổi trừ khi có bệnh gian phát xảy ra như viêm gan siêu vi,
viêm gan do thuốc. Tuy nhiên đã có báo cáo phát hiện lâm sàng ở trẻ 2 tuổi.
Hầu hết các biểu hiện đều liên quan đến sự lắng đọng đồng tại cơ quan đặc
hiệu. Theo Scheinberg và Sternlied [111] triệu chứng khởi đầu bằng biểu hiện
bệnh gan là 42%, thần kinh 34%, tâm thần 10%, huyết học hoặc nội tiết 12%
và thận là 1%. Khoảng 25% số bệnh nhân trong nghiên cứu này có biểu hiện
lâm sàng ở từ 2 cơ quan trở lên. Trong 50 trường hợp do Walshe báo cáo, có
31 trường hợp biểu hiện gan và 17 trường hợp có triệu chứng thần kinh. Ở trẻ
em thường biểu hiện gan có trước và xảy ra nhiều năm trước khi có biểu hiện
thần kinh. Biểu hiện thần kinh thường bắt đầu sau tuổi dậy thì còn biểu hiện ở
gan thường xảy ra trước thời điểm này [104].
1.4.1. Biểu hiện ở gan
Lâm sàng bệnh Wilson tại gan rất đa dạng [11],[104],[113]. Bệnh có
thể biểu hiện dưới dạng viêm gan cấp tự giới hạn, hồi phục hoàn toàn khiến
bệnh nhân được chẩn đoán nhầm là viêm gan siêu vi. Nhưng sau nhiều tháng
hoặc nhiều năm sẽ xuất hiện bệnh gan trở lại.
16
Bảng 1.2. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh Wilson [103]
Gan
Gan to đơn thuần không triệu chứng Lách to Tăng enzym gan AST, ALT kéo dài Gan nhiễm mỡ Viêm gan cấp Viêm gan giả tự miễn Xơ gan (còn bù hoặc mất bù) Suy gan tối cấp
Thần kinh
Rối loạn vận động (run, cử động không tự ý) Chảy nước bọt, khó nói Loạn trương lực cơ co cứng Liệt dạng hành não Các cơn động kinh (seizures) Nhức đầu dạng migraine Khó ngủ (insomnia) Trầm cảm Các chứng loạn thần kinh Thay đổi nhân cách Chứng loạn tâm thần
Cơ quan khác
Tiểu axit amin, sỏi thận Loãng xương sớm, viêm khớp Bệnh cơ tim, rối loạn nhịp tim Viêm tụy Nhược cận giáp Rối loạn kinh nguyệt, vô sinh, sảy thai liên tiếp
17
Các bệnh nhi, đặc biệt là trẻ nhỏ, có thể nhập viện bằng biểu hiện suy
gan tối cấp như vàng da, giảm albumin máu, rối loạn đông máu, cổ chướng,
hôn mê gan và thường kèm tán huyết.
Nếu không có tiền sử gia đình bị bệnh gan hoặc thần kinh, hoặc chưa
được chẩn đoán Wilson từ trước thì rất khó phân biệt bệnh Wilson tối cấp với
suy gan tối cấp do các nguyên nhân khác. Với bệnh cảnh này tiên lượng rất
xấu, chỉ có thể ghép gan mới có thể cứu sống. Theo một báo cáo loạt ca của
Schilsky [113], 16 trên 21 bệnh nhân dạng này là nữ. Quan sát này cũng được
thấy bởi một số tác giả khác và được giả thiết rằng do khác biệt về hormon
giới tính.
Trẻ lớn và trẻ vị thành niên có thể biểu hiện bằng bệnh cảnh suy gan
mạn và xơ gan với cổ chướng, phù, hạ albumin máu và biểu hiện tăng áp cửa.
Có thể có vàng da.
Người trẻ có thể đến khám vì bệnh cảnh lâm sàng và mô học tương tự
viêm gan mạn. Các triệu chứng và dấu hiệu có thể chỉ đơn thuần là tăng
enzym gan phát hiện tình cờ hoặc là các dấu hiệu của biến chứng tăng áp cửa
hay suy gan. Ở những bệnh nhi này rối loạn chức năng thần kinh và vòng
Kayser- Fleischer có thể không có và ceruloplasmin/ máu có thể bình thường
làm cho chẩn đoán rất khó khăn.
Do biểu hiện lâm sàng ở gan cùa bệnh quá đa dạng nên ở trẻ em đứng
trước một bệnh gan dù biểu hiện ở bất cứ dạng gì mà chưa rõ nguyên nhân
chúng ta cần chú ý tìm bệnh Wilson [103].
1.4.2. Biểu hiện thần kinh
Khi Wilson mô tả bệnh là thoái hóa gan-nhân đậu ông ta cho rằng tổn
thương thần kinh chỉ giới hạn ở hạch đáy, đặc biệt vùng bèo sẫm [140] nhưng
giờ đây người ta nhận thấy tổn thương bệnh lý ở hệ thần kinh có thể lan rộng
18
hơn và phổ bệnh cũng nhiều hơn tương ứng (Bảng 1.2). Biểu hiện thần kinh
có thể bắt đầu rất sớm từ 6 tuổi nhưng thường gặp nhất là khởi đầu vào thập
niên thứ hai hoặc ba và thường đi kèm vòng Kayser-Fleischer. Khởi bệnh của
thể thần kinh thường từ từ, và nặng dần nếu không được điều trị. Tổn thương
thần kinh giới hạn hầu như hoàn toàn ở hệ thần kinh vận động và không có
tổn thương hệ thần kinh cảm giác. Các biểu hiện sớm thường gặp là run chi,
mất khả năng phối hợp, loạn trương lực cơ và khó khăn khi thực hiện các cử
động tinh tế như viết chữ, mặc quần áo. Sau đó các biểu hiện khác như gương
mặt vô cảm, chảy nước dãi, cứng đơ, và thay đổi dáng đi trở nên rõ hơn. Điều
đáng thương là trí tuệ không bị giảm sút nên bệnh nhân cảm thấy rất thất
vọng, dễ có bất thường tâm lý thậm chí tâm thần. Ở người lớn hơn rất dễ chẩn
đoán nhầm với các rối loạn tâm thần kinh đơn thuần hoặc bệnh thần kinh như
xơ cứng rải rác hoặc rối loạn hạch đáy não. Ở trẻ em biểu hiện tâm thần kinh
sớm nhất có thể là sa sút học lực.
Hình 1.7. Hình ảnh MRI điển hình của bệnh nhi Wilson người Việt 14 tuổi
Chẩn đoán hình ảnh có vai trò trong xác định sự lan tỏa của tổn thương
bệnh và có thể có các hình ảnh điển hình có giá trị hướng đến bệnh. Cộng
hưởng từ có thể phát hiện các bất thường được thấy trên chụp cắt lớp điện
toán và tỏ ra đặc hiệu hơn. Tăng tín hiệu được thấy ở vùng hạch đáy và teo
19
gần như toàn bộ chất xám và chất trắng. Cộng hưởng từ còn phát hiện các tổn
thương trong thể nhân đậu, nhân răng, chất đen và thùy nhộng tiểu não.
1.4.3. Vòng Kayser-Fleischer
Vòng Kayser-Fleischer, do lắng đọng
đồng ở màng Descemet giác mạc, là một dấu
hiệu lâm sàng thường gặp và có giá trị chẩn
đoán bệnh Wilson thể thần kinh. Vòng có
màu sắc thay đổi tùy thuộc một phần vào
Hình 1.8. Vòng Kayser-Fleischer ở bé trai người Việt 14 tuổi
màu của mống mắt vì vậy được mô tả như
phần loạn sắc tố màu nâu vàng, xanh nâu,
vàng xanh hay màu đồng ở vùng viền của giác mạc. Khi được nhìn thấy bằng
mắt thường nó có thể trông giống như dải sắc tố màu vàng hơi nâu gần vùng
viền. Tuy nhiên đa số trường hợp cần phải có đèn khe và người có kinh
nghiệm mới phát hiện được nó. Vòng Kayser-Fleischer hầu như hiện diện ở
bệnh nhân có biểu hiện thần kinh nhưng cũng không tuyệt đối vì có khoảng
5% bệnh nhân thể thần kinh không có vòng này. Nó chỉ hiện diện trong 19-
82% bệnh nhân thể gan mật [11],[123]. Ngoài ra vòng Kayser- Fleischer còn
có thể có trong một số bệnh lý ứ mật mạn tính hoặc ứ mật trong gan mạn ở trẻ
nhỏ (Bảng 1.3)
1.5. CHẨN ĐOÁN
Về mặt lịch sử, bệnh Wilson được nhận ra đầu tiên hoàn toàn bằng lâm
sàng khi bệnh nhân có triệu chứng thần kinh điển hình và xơ gan, và sau đó
nhờ phát hiện ra vòng Kayser- Fleischer. Nhưng ở giai đoạn này bệnh đã quá
trễ, bệnh nhân thường tử vong hoặc tàn tật suốt đời. Mãi cho đến khi biết
20
được ceruloplasmin huyết thanh giảm trong 95% bệnh Wilson người ta mới
thật sự nghĩ đến việc chẩn đoán bệnh sớm/ tầm soát để cứu sống bệnh nhân
hoặc điều trị phục hồi. Nhưng sau đó chẳng bao lâu người ta sớm nhận ra một
mình ceruloplasmin không thể chẩn đoán xác định được bệnh vì có tới 20%
người dị hợp tử (người lành mang gien bệnh) có ceruloplasmin thấp.
Một số bệnh gan nặng hoặc các tình trạng mất protein như hội chứng
thận hư, Kwashiokor cũng làm ceruloplamin thấp. Ở một bệnh lý hiếm gặp
khác, bệnh không có ceruloplasmin (aceruloplamin) bệnh nhân hoàn toàn
không có chất này trong huyết thanh nhưng lại không bị tích tụ đồng. Ngược
lại tới 45% bệnh nhân Wilson thể gan có ceruloplamin ở giới hạn thấp của
người bình thường. Hơn nữa, vì ceruloplasmin là một loại protein pha cấp nên
có thể tăng trong các tình trạng viêm, đặc biệt viêm gan nặng. Vì vậy
ceruloplasmin thấp không đủ để chẩn đoán bệnh và cao thì cũng không thể
loại trừ bệnh [39],[65],[74],[123],[124](Bảng 1.3)
Sự thải đồng trong nước tiểu tăng đáng kể trong bệnh Wilson nhưng giá
trị chẩn đoán của nó lại giới hạn. Định lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ có
thể không chính xác do quá trình lưu giữ nước tiểu trong ngày, đặc biệt ở trẻ
em và bé gái hoặc do nhiễm đồng từ nguồn khác. Chỉ số này có thể thấp ở
bệnh nhân tiền triệu chứng nhưng sẽ tăng cao >1600mcg/24 giờ sau khi dùng
2 liều D-Penicillamine 500mg cách nhau 12 giờ. Mặc khác đồng có thể thải ra
nước tiểu rất nhiều trong bất kỳ bệnh lý nào gây hoại tử tế bào gan nặng
(Bảng 1.3).
Đồng trong mô gan tăng trong 82% bệnh nhân Wilson và thường vượt quá
250mcg/g mô gan khô (bình thường < 50mcg/g mô gan khô). Nếu không có
các bất thường sinh hóa khác chẩn đoán xác định Wilson không thể chỉ dựa
vào chỉ số này. Các tình trạng ứ mật mạn tính, trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và ngộ độc
đồng ngoại sinh đều có thể có đồng trong mô gan > 250mcg/g mô gan
21
Bảng 1.3. Các xét nghiệm và dấu hiệu lâm sàng thường qui trong chẩn đoán
bệnh Wilson [38]
Xét nghiệm
Kết quả
Âm tính giả
Dương tính giả
Giảm
Ceruloplasmin huyết thanh
- Bình thường ở bệnh nhân có viêm gan nặng - Cao giả tạo nếu đo bằng phương pháp miễn dịch
Thấp trong: - Kém hấp thu - Bệnh không có ceruloplasmin/ máu (aceruloplasminemia) - Suy gan - Người dị hợp tử - Hoại tử gan nhiều - Nhiễm đồng ngoại sinh
Đồng/ nước tiểu 24giờ
Đồng tự do/ huyết thanh
<10 mcg/dL
Đồng/ gan
- Các tình trạng ứ mật -Viêm gan do rượu
>250 mcg/g mô gan khô
Hiện diện
Xơ gan ứ mật nguyên phát
Vòng Kayser- Fleischer
>100 mcg Bình thường nếu - Hứng không đủ - Trẻ không có biểu hiện gan Bình thường nếu đo ceruloplasmin bằng phương pháp miễn dịch Sinh thiết vào mô gan ít đồng do đồng phân bố không đều trong gan ở bệnh nhân - Có bệnh đang hoạt động - Có nốt tái sinh - 40% bệnh nhân có biểu hiện gan không có vòng này - Hầu hết bệnh nhân tiền triệu chứng không có vòng này
khô. Mặt khác do đồng phân bố trong mô không hoàn toàn đồng nhất nên nếu
chỉ số này bình thường cũng không loại trừ được bệnh (Bảng 1.4).
Vì vậy để chẩn đoán bệnh Wilson cần phải dựa vào nhiều yếu tố
[38],[42],[71],[84],[101],[113],[123],[124]. Hiệp hội Nghiên cứu các bệnh về
gan Hoa Kỳ và hội Wilson quốc tế đã đưa ra lưu đồ chẩn đoán bệnh [103] dựa
22
trên sự phối hợp các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm sinh hóa (Sơ đồ 1.1).
Tuy nhiên sơ đồ này chưa kể đến vai trò của phân tích đột biến phân tử. Vào
năm 2003 Ferenci đã đề nghị thang điểm sau này mang tên ông (Bảng 1.4) để
đánh giá một cách hệ thống các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm hiện có để
chẩn đoán bệnh [31],[39]. Nếu với những dấu hiệu lâm sàng và kết quả sinh
hóa thường qui (Bảng 1.4) mà đã đủ 4 điểm hoặc hơn thì không cần làm thêm
các xét nghiệm khác. Các xét nghiệm cần thủ thuật xâm lấn được dành cho
những trường hợp ít điểm hơn và phân tích đột biến có giá trị chẩn đoán xác
định và đặc biệt có ý nghĩa cho tầm bệnh soát nhân tiền triệu chứng
[10],[25] [43],[76],[81],[99],[105],[128],[131].
1.6. PHÂN LOẠI KIỂU HÌNH
Cũng như những bệnh di truyền tính lặn khác, người ta rất quan tâm
đến tính ngoại hiện của bệnh Wilson để tiên đoán được bệnh cảnh lâm sàng
và đáp ứng điều trị. Rủi thay, biểu hiện lâm sàng của bệnh Wilson quá đa
dạng và tính ở thời điểm năm 2001 đã có hơn 200 đột biến khác nhau của gien
ATP7B được công bố, làm cho việc xác định mối liên quan kiểu gien kiểu
hình càng thêm khó khăn [141]. Vào trung tuần tháng Tư năm 2001, dưới sự
hỗ trợ của Hiệp hội Nghiên cứu các bệnh về gan Châu Âu, một nhóm các
chuyên gia về gan và bệnh Wilson đã họp ở Leipzig, Đức và đưa ra tiêu chuẩn
chẩn đoán cũng như phân loại kiểu hình bệnh Wilson [39].
Phân loại Leipzig 2003
Gồm 2 nhóm chính là biểu hiện gan, biểu hiện thần kinh và phân loại khác
Biểu hiện gan:
Cần phải loại trừ các biểu hiện thần kinh bằng thăm khám lâm sàng
thần kinh thật chi tiết và kỹ lưỡng vào thời điểm chẩn đoán
o H1: Bệnh Wilson thể gan cấp
23
Vàng da cấp tính trên một người hoàn hoàn khỏe mạnh trước đó, có
thể do bệnh giống viêm gan hoặc do bệnh tán huyết Coomb hồng
cầu âm tính hoặc do phối hợp cả hai. Có thể chuyển nặng thành suy
gan tối cấp cần ghép gan cấp cứu.
o H2: Bệnh Wilson thể gan mạn tính
Bất kỳ loại bệnh gan mạn tính nào, có hoặc không có triệu chứng.
Có thể dẫn đến hoặc thậm chí biểu hiện như xơ gan mất bù. Chẩn
đoán dựa trên tiêu chuẩn sinh hóa và/hoặc bằng chứng hình ảnh học
hoặc giải phẫu bệnh từ mẫu sinh thiết gan
Biểu hiện thần kinh
Bệnh nhân có biểu hiện thần kinh và/hoặc tâm thần lúc chẩn đoán
o N1: đi kèm bệnh gan có triệu chứng
Thường thì bệnh nhân có xơ gan lúc được chẩn đoán bệnh Wilson
thể thần kinh. Bệnh gan mạn tính có thể xuất hiện nhiều năm trước
khi có biểu hiện thần kinh hoặc xảy ra trong quá trình chẩn đoán
nguyên nhân cho bệnh nhân có triệu chứng thần kinh
o N2: không đi kèm bệnh gan có triệu chứng
Xác định không có bệnh gan đáng kể (sợi hóa/thoái hóa mỡ có thể
hiện biện bất kỳ lúc nào) cần bằng chứng trên sinh thiết gan
o NX: sự hiện diện hay không hiện diện bệnh gan không được khảo
sát
O: phân loại khác
24
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ phát hiện bệnh Wilson theo Hội Wilson quốc tế
25
ĐIỂM
2 0 Bảng 1.4. Bảng điểm chẩn đoán bệnh Wilson của Ferenci [38] CÁC CHỈ SỐ Các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng Vòng Kayser-Fleischer Có Không
Các triệu chứng thần kinh
2 1 0
Nặng Nhẹ Không có Xét nghiệm khác Ceruloplasmin/máu
0 1 2
Bình thường (>0,2g/L) 0,1-0,2g/L <0,1g/L Thiếu máu tán huyết Coombs âm tính
1 0 Có Không
2 1 -1 1 Đồng trong mô gan (không có ứ mật) >5 giới hạn trên (>250mcg/g) 50-250mcg/g Bình thường (<50mcg/g) Có các hạt Rhodamine (+)
Đồng/nước tiểu 24 giờ (không có viêm gan cấp)
0 1 2 2 Bình thường 1-2 lần giới hạn trên >2 lần giới hạn trên Bình thường, nhưng >5 lần giới hạn trên
sau khi dùng D-Penicillamine
Phân tích đột biến
Cả 2 nhiễm sắc thể Chỉ 1 nhiễm sắc thể Không phát hiện được
4 1 0
≥ 4 điểm: chẩn đoán xác định 3 điểm: chẩn đoán có thể, cần làm thêm xét nghiệm 0-2 điểm: rất ít khả năng có bệnh
26
1.7. ĐIỀU TRỊ
1.7.1. Điều trị bằng thuốc:
Bệnh Wilson nếu không được điều trị sẽ tử vong hoặc tàn tật nhưng
mãi 50 năm sau khi mô tả nó người ta mới tìm được thuốc điều trị. Vì là bệnh
hiếm nên ít có nghiên cứu có đối chứng về hiệu quả của thuốc. Ban đầu
British anti-Lewisite (BAL hoặc dimercaptopropanol) được dùng để bất hoạt
đồng nhưng thuốc này tỏ ra bất lợi, không dùng lâu dài được do phải dùng
đường tiêm bắp và được thay thế bằng Penicillamine. Cho đến nay
Penicillamine là thuốc được dùng rộng rãi nhất trên thế giới để điều trị bệnh
Wilson đã có biểu hiện lâm sàng hoặc dự phòng cho các trường hợp tiền triệu
chứng. Vì thuốc này có nhiều tác dụng phụ (Bảng 1.6) nên Trientine được tìm
ra để thay thế cho các bệnh nhân không dung nạp được thuốc này. Kẽm được
phát hiện một cách độc lập cũng như Tetrathiomolybdate (TM) đã được dùng
trong thú y để thải độc cho các vật nuôi bị ngộ độc đồng. Ngày nay biện pháp
điều trị chính bệnh Wilson là dùng thuốc suốt đời; còn ghép gan có thể sửa
chữa tận gốc tổn thương cơ bản của bệnh này là từ gan chỉ dành cho các
trường hợp nặng hoặc kháng trị.
Nói chung, lựa chọn cách điều trị bệnh Wilson tuỳ thuộc vào các yếu
tố: (1) bệnh đã có biểu hiện rõ ràng bằng lâm sàng hay bằng các bất thường
sinh hoá hoặc mô học của tổn thương viêm tiến triển; hay (2) được chẩn đoán
tiền triệu chứng; (3) biểu hiện chính là gan hay thần kinh và (4) điều trị ban
đầu hay duy trì [103].
Đối với các bệnh nhân có triệu chứng hoặc bệnh tiến triển lựa chọn
được khuyến cáo là điều trị thải đồng mặc dù có vài báo cáo cho thấy kẽm có
thể đáp ứng đủ cho một số bệnh nhân. D-Penicillamine là thuốc thải đồng
được sử dụng nhiều nhất trên thế giới nhưng gần đây có xu hướng chọn
27
Trientine là thuốc khởi đầu. Đã có dữ liệu cho thấy Trientine có hiệu quả
trong điều trị bệnh gan hoặc thần kinh mất bù.
Điều trị phối hợp thuốc thải đồng và kẽm về mặt lý thuyết sẽ tác động
lên cả 2 phương diện là chống hấp thu đồng ở ruột và tăng thải đồng qua nước
tiểu; đã có báo cáo dùng phối hợp ngay từ đầu nhưng trong tương lai vẫn cần
phải có nghiên cứu có đối chứng chứng minh cách phối hợp này có hiệu quả
hơn dùng thuốc thải đồng đơn thuần.
Kết quả rút ra từ các nghiên cứu sử dụng TM cho thấy thuốc này có thể
là điều trị ban đầu hữu hiệu cho những bệnh nhân thể thần kinh.
Khi bệnh đã ổn định về lâm sàng và sinh hoá, thường trong vòng 2-6
tháng có thể chuyển sang điều trị duy trì bằng thuốc thải đồng liều thấp hơn
hoặc bằng kẽm suốt đời. Điều trị duy trì được định nghĩa là điều trị ở giai
đoạn hàm lượng đồng đã dưới ngưỡng độc và đồng không còn gây độc tiếp
nữa. Mục tiêu điều trị của giai đoạn này là làm giảm thêm một cách từ từ
phần đồng còn tích tụ và ngăn chặn sự tích tụ đồng trở lại. Cần lưu ý là các
thuốc thải đồng/ ức chế hấp thu đồng không có tác dụng trực tiếp lên sự
thuyên giảm hay hồi phục tổn thương các cơ quan. Sự phục hồi tổn thương và
cải thiện các triệu chứng lâm sàng là do tự bản thân của cơ thể, và cần một
khoảng thời gian rất dao động từ 5-24 tháng sau khi bắt đầu điều trị. Nếu
không điều trị duy trì bệnh có thể tái phát và có thể đột ngột suy gan cần phải
ghép gan mới sống sót.
Bệnh nhân tiền triệu chứng có thể điều trị bằng thuốc thải đồng liều duy
trì hoặc bằng kẽm.
Các loại thuốc điều trị bệnh Wilson được liệt kê trong Bảng 1.5
28
Bảng 1.5. Các thuốc điều trị bệnh Wilson [103] Loại thuốc
Cơ chế tác động
Tác dụng phụ
Lưu ý
D-Penicillamine
- Sốt, phát ban, tiểu đạm, phản ứng
- Giảm liều khi phẫu thuật để thúc đẩy sự
giống Lupus
lành vết thương
Nắm bắt và bất hoạt đồng làm tăng thải đồng qua nước tiểu
- Giảm liều trong thai kỳ - Liều tối đa 20 mg/kg/ngày - Giảm khoảng 25% khi lâm sàng ổn định
- Suy tủy - Giảm bạch cầu - Giảm tiểu cầu - Hội chứng thận hư - Thoái biến da - Elastosis perforans serpingosa - Viêm võng mạc thanh dịch - Độc gan
- Giảm liều khi phẫu thuật để thúc đẩy sự
Trientine
lành vết thương
- Viêm dạ dày - Suy tủy: hiếm - Thiếu máu nguyên bào sắt
Nắm bắt và bất hoạt đồng làm tăng thải đồng qua nước tiểu
- Giảm liều trong thai kỳ - Liều tối đa 20 mg/kg/ngày - Giảm khoảng 25% khi lâm sàng ổn định
- Không cần giảm liều khi phẫu thuật hay
Kẽm
trong thai kỳ
- Viêm dạ dày, viêm tụy sinh hóa - Tích tụ kẽm - Có thể thay đổi chức năng miễn
- Liều thường dùng ở người lớn: 50 mg kẽm
Tạo metallothionein, ức chế hấp thu đồng ở ruột
dịch
nguyên tố x 3 lần/ ngày
- Liều tối thiểu ở người lớn: 50 mg/ngày - Liều trẻ em: 50 mg kẽm nguyên tố x 2 lần/
ngày
- Thiếu máu, giảm bạch cầu hạt - Độc gan
Tetrathiomolybdate Nắm bắt và bất hoạt đồng, ức chế hấp thu đồng
Còn trong vòng thực nghiệm ở Hoa Kỳ và Canada
Triệu chứng thần kinh nặng hơn 10%-20% trong pha khởi đầu điều trị 10%-15% trong pha khởi đầu điều trị Có thể xảy ra trong pha khởi đầu điều trị Đã có báo cáo trong pha khởi đầu điều trị nhưng rất hiếm
29
1.7.2. Các thuốc điều trị mới
Các thuốc điều trị kể trên có đặc điểm bất lợi chung là tác dụng toàn thân,
nghĩa là phân bố sinh học khắp cơ thể và có tính đặc hiệu kém đến vị trí gây
bệnh, làm cho phải dùng liều cao để đạt được nồng độ điều trị ở mô đích, làm
tăng lên tác dụng phụ của thuốc. Chẳng hạn, điều trị bệnh Wilson bằng D-
Penicillamine sẽ làm nặng lên các triệu chứng thần kinh ở một số không nhỏ
bệnh nhân.
Khái niệm tiền-thuốc: tiền-thuốc là hợp chất trơ, chỉ hoạt hóa ở vị trí mong
muốn nên chỉ đưa thuốc có hoạt tính đến đúng ngay mô cùng tác động. Cơ chế
gây bệnh trong bệnh Wilson chủ yếu là gan nên có thể thiết kế thuốc theo
phương thức này. Vì trữ lượng đồng nội bào là ở dạng đồng oxy hóa hóa trị +1
nên dùng chất gắp đồng có thể vào tế bào gan và đặc hiệu cho đồng (I), và được
bào chế dưới dạng tiền-thuốc [30] để chỉ đến khi vào trong tế bào gan thì mới
phóng thích chất gắp đồng này. Khi gắp được đồng rồi thì độc tính của đồng tự
do sẽ giảm nhiều nhưng cần phải thải được đồng ra phân qua sự bài tiết mật. Ở
trong mật đồng có thể ở dạng hợp chất với chất gắp hay dạng tự do hay không thì
tùy thuộc vào cách thiết kế các tiểu đơn vị của thuốc.
1.7.3. Ghép gan
Ghép gan thường được chỉ định cho các trường hợp suy gan cấp hoặc xơ
gan mất bù [40]. Bởi vì các khiếm khuyết sinh hóa đều chủ yếu do gan nên ghép
gan toàn bộ có thể giải quyết triệt để bệnh này. Đối với nhóm ghép gan do suy
gan cấp người ta chỉ định dựa vào bảng tiên lượng cho người lớn và trẻ em riêng
biệt. Nếu điểm tiên lượng > 11 (Bảng 1.6) thì chắc chắn tử vong nếu không
ghép gan. Theo Schilsky, phân tích 33 trường hợp xơ gan mất bù và 21 trường
30
Hình 1.9. Sơ đồ thiết kế thuốc mới điều trị thải đồng đặc hiệu
dựa trên khái niệm tiền-thuốc .
“Nguồn: Delangle P and Mintz E.,2012 ”[30]
hợp suy gan cấp do bệnh Wilson được ghép gan của châu Âu và Mỹ, thời gian
sống trung bình sau ghép là 2,5 năm, dài nhất là 20 năm. Tỷ lệ sống còn tại 1
năm là 79%. Một báo cáo cáo khác ở đại học Pittsburgh trên 51 trường hợp ghép
cho 16 trẻ em và 23 người lớn cho thấy tỷ lệ sống còn của mảnh ghép là 73% và
của bệnh nhân là 79%. Tỷ lệ sống còn của nhóm bệnh gan mạn tính (90%) tốt
hơn so với nhóm suy gan cấp (73%). Ghép gan người sống (trong bối cảnh người
cho là dị hợp tử bắt buộc) thì tiện lợi và cho kết quả rất tốt. Tỷ lệ sống còn rất
thỏa đáng và có vẻ tốt ở nhóm bệnh gan mạn tính hơn nhóm suy gan cấp. Tỷ lệ
sống còn chung đang được cải thiện với trường hợp sống lâu nhất là 20 năm. Ở
31
Việt Nam ghép gan để cứu sống bệnh Wilson hầu như không thể thực hiện được
do không có nguồn gan dự trữ cũng như đội ngũ ghép gan cấp cứu.
Một vài báo cáo nhỏ cho thấy sự cải thiện triệu chứng thần kinh sau ghép
gan toàn bộ nhưng cũng có báo cáo triệu chứng thần kinh nặng hơn rất nhiều sau
khi ghép gan thành công.
Bảng 1.6. Thang điểm đánh giá tiên lượng bệnh Wilson
theo Nazer, điều chỉnh bởi Dhawan [32]
Thông số sinh hóa
1 100-150 100–150 1,3-1,6 6,8-8,3 34-44 Điểm 2 151-200 151–300 1,7-1,9 8,3-10,3 25-33 Bilirubin máu (mcmol/L) AST máu (IU/L)* INR Bạch cầu (109/L) Albumin/máu(g/L) 0 0-100 0-100 0-1,29 6,7 >45 3 201-300 301–400 2,0-2,4 10,4-15,3 21-24 4 > 300 >400 >2,4 >15,3 <21
* giá trị bình thường của AST tại King’s college là 20U/L
1.7.4. Ghép tế bào gan
Ghép gan toàn bộ là một ví dụ điển hình, đại thể của liệu pháp điều trị di
truyền, nhằm thay đổi (toàn bộ) kiểu hình của bệnh nhân Wilson. Tuy nhiên
ghép gan là phẫu thuật rất lớn, đòi hỏi kỹ năng rất cao, chi phí tốn kém và đặc
biệt rất hạn chế trong việc tìm nguồn gan để ghép. Người ta hướng tới giải pháp
ít xâm lấn và khả năng áp dụng rộng rãi và dễ dàng hơn là ghép tế bào gan cho
người bệnh. Hiện nay, khả năng ghép tế bào người cho bình thường vào bệnh
nhân để nó tích hợp vào gan ở xoang gan và thải đồng vào mật một cách hiệu
quả hơn tế bào bệnh nhân chỉ mới được chứng minh ở động vật. Người ta cần
32
nghiên cứu 2 vấn đề quan trọng trong ghép tế bào gan: làm thế nào để kích thích
các tế bào ghép tăng sinh, lưu trú và tái phân bố tại gan cũng nhưng cách ức chế
các tế bào còn lại của bệnh nhân. Cách kích thích hiện đang được dùng trong các
thực nghiệm ở động vật là cắt gan một phần, còn cách ức chế được nhiều nghiên
cứu dùng nhất là sử dụng các hợp chất alkaloid để ức chế sự tái tăng trưởng của
tế bào người bệnh đối với việc cắt gan.
1.7.5. Liệu pháp Di truyền
Người ta dùng 2 loại chuột LEC và chuột sữa bị nhiễm độc để nghiên cứu
khả năng can thiệp di truyền cho bệnh Wilson. Các số liệu ban đầu cho thấy chỉ
cần sửa chữa khoảng 30-50% tế bào gan là đủ đảm bảo việc thải đồng qua mật
hiệu quả. Số lượng gien được biểu hiện ở tế bào được chuyển gien càng nhiều thì
cần ghép ít tế bào hơn. Tuy nhiên người ta cũng quan ngại liệu biểu hiện gien
quá mức có ảnh hưởng gì đến cơ thể không. Ngoài đánh giá khả năng gien đưọc
chuyển có tạo được ATP7B đầy đủ chức năng qua việc thải đồng qua mật, người
ta còn đánh giá chức năng của enzym ATP7B qua việc đo lường
holoceruloplasmin và apoceruloplasim trong huyết thanh. Nếu thành công và áp
dụng được cho người thì đây là liệu pháp điều trị triệt căn cho căn bệnh cần dùng
thuốc cả đời [114].
1.7.6. Điều trị trong thai kỳ
Điều trị thành công bệnh Wilson đem lại cơ hội cho bệnh nhân nữ có thể
mang thai. Cần kiểm soát tình trạng đồng trong cơ thể thật tốt trước khi mang
thai. Cũng cần tham vấn di truyền cho họ. Mặc dù có sự quan ngại về khả năng
sinh bướu quái do D-Penicillamine nhưng nguy cơ ngưng điều trị nguy hiểm hơn
tiếp tục điều trị rất nhiều. Tổng hợp y văn của 161 thai kỳ trong 83 bệnh nhân
33
(một trường hợp thụ tinh nhân tạo thành công) được điều trị D-Penicillamine
trong thai kỳ cho thấy 122 trẻ sinh ra có 119 sinh bình thường. Nhóm nghiên
cứu ở Ấn Độ có tỷ lệ xảy thai cao.
Điều này cũng xảy ra với nhóm điều trị Trientine hoặc kẽm. Có nên giảm
liều trong thai kỳ không cũng là một vấn đề chưa ngã ngũ, Phần lớn khuyến cáo
chỉ dựa vào suy đoán hơn là vào dữ liệu. Nguy cơ tạo bướu quái cao nhất là ở ba
tháng đầu thai kỳ. Vì vậy nên giảm liều D-Penicillamine trong thời gian này và
theo dõi liên tục trong suốt thai kỳ. Có quan niệm cho rằng nên giảm về liều tối
thiểu (300-600mg/ ngày) trong tam cá nguyệt cuối để tránh hiện tượng thiếu
cung cấp đồng cho thai hoặc không lành vết mổ Cesar hoặc vết rách tầng sinh
môn. Không nên cho trẻ bú người mẹ đang điều trị thải đồng mặc dù có báo cáo
cho thấy trẻ bú mẹ đang điều trị D-Penicillamine không bị vấn đề gì.
Mặc dù ngừa thai cũng là vấn đề quan trọng nhưng ít có báo cáo chi tiết về
điểm này. Estrogen có thể tương tác với sự thải đồng qua mật. Ở người khỏe
mạnh dùng thuốc ngừa thai sự thải đồng qua nước tiểu cũng như đồng huyết
thanh tăng lên, thậm chí người ta cũng quan sát thấy sự lắng đọng đồng ở giác
mạc. Hơn nữa nhiều dụng cụ ngừa thai cũng chứa đồng. Vì vậy chỉ có thuốc diệt
tinh trùng và bao cao su hoặc thuốc ngừa thai dựa trên progesterone mới có thể
an toàn cho các bệnh nhân Wilson nữ.
1.7.7. Chế độ ăn
Tránh các thực phẩm có nhiều đồng như động vật nhuyễn thể, đậu phụng,
sô cô la, nấm và nội tạng. Chế độ ăn thiếu đồng có thể làm chậm khởi phát bệnh
và kiểm soát sự tiến triển nhưng không được khuyến cáo như một cách điều trị
riêng biệt. Kiểm tra đồng trong nước uống, nước sinh hoạt. Không dùng các vật
chứa bằng đồng hoặc nồi, chảo đồng.
34
1.8. TẦM SOÁT
Bệnh Wilson là bệnh di truyền tính lặn, gien gây bệnh nằm trên nhiễm sắc
thể thường nên nếu trẻ bị bệnh thì anh chị em ruột có 25% bị mắc bệnh. Theo
Hiệp hội Nghiên cứu các bệnh về gan Hoa Kỳ cần tầm soát bệnh cho anh chị em
ruột từ lúc 2 năm tuổi, tuy nhiên đã có báo cáo bệnh có thể có triệu chứng ở tuổi
sớm hơn và đồng trong nước tiểu 24 giờ có thể đã vượt quá mức cho phép ở 13
tháng tuổi [3]. Hơn nữa như đã nói ở trên phát hiện bệnh ở những người tiền
triệu chứng bằng những xét nghiệm sinh hóa thường qui rất khó. Vì vậy xu
hướng gần đây đặc biệt ở châu Âu người ta tầm soát sớm bằng phân tích phân tử
đột biến [25],[43],[76],[81],[93],[99],[105],[128],[131].
Nếu đã xác định được đột biến ở người bệnh thì chỉ cần phân tích/ xác
định trực tiếp đột biến này ở anh chị em ruột và cha mẹ của người bệnh.
Trường hợp chỉ phát hiện được một đột biến hoặc không phát hiện được
đột biến thì có thể dùng phương pháp phân tích haplotye để xác định kiểu gien
ATP7B của anh chị em ruột có đồng nhất với người bệnh hay không (Hình 1.10).
Phân tích này đòi hỏi phải có chất liệu di truyền của bệnh nhân và của ít nhất
một người từ cha mẹ. Giá trị của phương pháp này là có thể xác định bệnh ngay
cả khi không xác định được cụ thể dạng đột biến của ca bệnh.
1.9. TÌNH HÌNH BỆNH TẠI VIỆT NAM
Mặc dù bệnh đã được mô tả ở Việt Nam từ thập niên 60 thế kỷ trước [111]
nhưng cho đến nay có rất ít nghiên cứu ở trẻ em đặc biệt về sinh học phân tử
[1],[3],[4],[5],[6]. Theo nghiên cứu ban đầu của chúng tôi [5] bệnh gặp ở cả ba
miền Bắc, Trung và Nam. Miền Nam có nhiều bệnh hơn và thể nặng chỉ gặp ở
miền Nam, đặc biệt các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể do các bệnh
35
Hình 1.10. Phân tích haplotype ca bệnh và cha, mẹ cho thấy kiểu gien của người
em hoàn toàn tương đồng với ca bệnh nên được chẩn đoán xác định bệnh Wilson
mặc dù chưa có triệu chứng và chức năng gan, ceruloplamin đều bình thường và
cũng không có vòng Kayser-Fleischer.
“Nguồn: Ferenci P, 2005” [38]
nhi cư trú gần bệnh viện Nhi Đồng 1, nơi chúng tôi nghiên cứu. Nam mắc bệnh
gấp đôi nữ (22:11). Tuổi trung bình là 11,24±2,6 tuổi. Tuổi nhỏ nhất được phát
hiện lúc 13 tháng. Có 5 bé thuộc dân tộc ít người như K’Ho (3), Choro (1) và
Roglai (1). Các thể lâm sàng tối cấp, bệnh gan không tối cấp, thần kinh-gan và
thần kinh lần lượt là 15,2%, 51,5%, 27,3% và 6,1%. Điều đáng lưu ý là phần lớn
bệnh nhi đến trong bệnh cảnh xơ gan thậm chí đã mất bù. Vòng Kayser-Fleischer
được tìm thấy ở tất cả bệnh nhân có biểu hiện thần kinh nhưng chỉ thấy ở 75,6%
tổng số ca.
36
Các bất thường sinh hóa thường gặp nhất là ceruloplasmin thấp (100%),
đồng/nước tiểu 24 giờ tăng (93,9%). Tỷ số alkaline phosphatase (UI/L): bilirubin
(mg%) < 2 trong tất cả 5 trường hợp tối cấp (trung bình 1,04).
Với cách tầm soát trước gien H1069Q sau đó giải trình tự trực tiếp các
exon từ 4-21 của gien ATP7B chúng tôi phát hiện được 56,3% bệnh nhi Wilson
có đột biến trong đó chỉ có 11,1% đồng hợp tử và 11,1% dị hợp tử kép. Số bệnh
nhi còn lại chỉ mới xác định một alen đột biến trên một nhiễm sắc thể, alen còn
lại còn chưa xác định được [5].
Chúng tôi đã phát hiện được 5 đột biến đã được y văn mô tả trước đây bên
cạnh 2 đột biến mới L1015R và IVS 15-2:A>G (dữ liệu tham chiếu Dian Cox
2007 và HGMD tháng10/2008) [26],[57].
Exon có nhiều đột biến nhất trong nghiên cứu này là exon 16 với dạng
I1148T thường gặp hơn cả. Vị trí này nên được ưu tiên trong khảo sát cấu trúc
phân tử gien ATP7B ở người Việt trong các nghiên cứu tiếp theo.
Ngoài ra chúng tôi còn thấy 2 polymorphism A1140V và R832K [127].
Hai biến đổi này làm thay đổi cấu trúc nucleotide (GTC - GCC, AAG – AGG)
nhưng không làm thay đổi cấu trúc, trình tự acid amin trên polypeptid và gặp
trên người bình thường. Điều này góp phần vào tính đa dạng của kiểu gien của
bệnh Wilson.
37
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Dân số nghiên cứu
2.1.1.1. Dân số mục tiêu
Tất cả trẻ được chẩn đoán bệnh Wilson hay có biểu hiện bệnh gan hoặc rối loạn
vận động tại hai phòng khám Tiêu hóa và Thần kinh, ba khoa Tiêu hóa, Thần
kinh và Hồi sức Tích cực Chống độc của Bệnh viện Nhi đồng 1 và cha, mẹ, anh,
chị, em ruột của trẻ có chẩn đoán xác định bệnh Wilson.
2.1.1.2. Dân số chọn mẫu
Tất cả trẻ được chẩn đoán bệnh Wilson hay có biểu hiện bệnh gan hoặc rối loạn
vận động tại phòng khám Tiêu hóa, Thần kinh, khoa Tiêu hóa, Thần kinh, Hồi
sức Tích cực Chống độc, Bệnh viện Nhi đồng 1, từ ngày 1/1/2000 đến
31/12/2014 và cha, mẹ, anh, chị, em ruột của trẻ có chẩn đoán xác định bệnh
Wilson.
2.1.2. Cỡ mẫu
Lấy trọn mẫu từ ngày 1/1/2000 đến 31/12/2014
2.1.3. Tiêu chí chọn bệnh
2.1.3.1. Tiêu chí chọn vào
- Tất cả bệnh nhi < 16 tuổi có chẩn đoán bệnh Wilson theo tiêu chuẩn thang
điểm Ferenci (Bảng 1.4b) ≥ 4 điểm. Nếu bệnh nhân đã có ít nhất 4 điểm qua
thăm khám lâm sàng, khám mắt tìm vòng Kayser-Fleischer, xét nghiệm
ceruloplasmin huyết thanh, định lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ và test D-
38
Penicillamine thì không cần sinh thiết gan để nhuộm sinh hóa đồng hoặc định
lượng đồng trong mô gan khô. Mặc dù sinh thiết gan có thể giúp tăng điểm trong
thang điểm này nhưng chúng tôi không thực hiện nó thường qui vì những lý do
sau: (1) nó là một xét nghiệm rất xâm lấn, có thể biến chứng tử vong do xuất
huyết đặc biệt trên trẻ có rối loạn đông máu, (2) nếu bệnh gan đã nặng đặc biệt
xơ gan hoặc suy gan tối cấp thì đồng không còn phân bố đồng đều trong mô gan,
mà thường tập trung vào các nốt tăng sinh và cũng tích tụ rất thay đổi giữa các
nốt và cả vùng kế cận, (3) dễ có kết quả không phản ánh đúng sự tích tụ đồng
trong mô gan nếu không lấy đủ mô gan, nghĩa là phải lấy nhiều mẫu và dùng kim
kích thước lớn. Điều này (4) làm tăng nguy cơ xuất huyết gan [23], [37], [75],
[121].
- Cha, mẹ, anh, chị em ruột của bệnh nhi Wilson (mục tiêu tầm soát 5).
39
Bảng 1.4b. Bảng điểm chẩn đoán bệnh Wilson của Ferenci [38]
ĐIỂM
CÁC CHỈ SỐ Vòng Kayser-Fleischer
2 0 Có Không
Các triệu chứng thần kinh
2 1 0
Nặng Nhẹ Không có Ceruloplasmin/ máu
0 1 2 Bình thường (>0,2g/L) 0,1-0,2g/L <0,1g/L
Thiếu máu tán huyết Coombs âm tính
1 0 Có Không
2 1 -1 1 Đồng trong mô gan (không có ứ mật) >5 giới hạn trên (>250 mcg/g) 50-250 mcg/g Bình thường (<50 mcg/g) Có các hạt Rhodamine (+)
Đồng/ nước tiểu 24 giờ (không có viêm gan cấp)
0 Bình thường 1 1-2 lần giới hạn trên 2 >2 lần giới hạn trên 2 Bình thường, nhưng >5 lần giới hạn trên
sau khi dùng D-Penicillamine
Phân tích đột biến
4 1 0 Cả 2 nhiễm sắc thể Chỉ 1 nhiễm sắc thể Không phát hiện được
40
2.1.3.2. Tiêu chí loại trừ
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu
- Không thu thập đủ số liệu cho nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt trường hợp
2.2.2. Thu thập số liệu
2.2.2.1. Biến số nghiên cứu
Nhóm đặc điểm dân số học
o Tuổi: biến liên tục, tính tròn năm
o Giới: biến nhị giá, gồm 2 giá trị nam và nữ
o Địa phương: biến phân loại, nhiều giá trị ứng với tên của các tỉnh
thành Việt Nam
Nhóm các đặc trưng của bệnh Wilson
o Nồng độ ceruloplasmin trong máu
biến liên tục: qui về mg%
phân loại : 2 trị số thấp (nếu < ngưỡng bình thường 20mg%
(mẫu gửi Bệnh viện Chợ Rẫy) hoặc 10mg% (mẫu gửi trung
tâm chẩn đoán y khoa MEDIC)) và bình thường (còn lại)
o Nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ
biến liên tục: qui về mcg%
phân loại : 2 trị số cao (nếu > 100mcg%) và bình thường (còn
lại)
o Vòng Kayser -Fleischer: biến nhị giá, gồm 2 giá trị dương và âm
41
Nhóm phân loại kiểu hình
o Theo thể lâm sàng chính Leipzig 2003: là biến phân loại gồm các
giá trị H1, H2, N1, N2, NX và O
H1: Bệnh Wilson thể gan cấp: vàng da cấp tính trên một
người hoàn hoàn khỏe mạnh trước đó, có thể do bệnh giống
viêm gan hoặc do bệnh tán huyết Coombs hồng cầu âm tính
hoặc do phối hợp cả hai. Có thể chuyển nặng thành suy gan
tối cấp cần ghép gan cấp cứu.
H2: Bệnh Wilson thể gan mạn tính: bất kỳ loại bệnh gan mạn
tính nào, có hoặc không có triệu chứng. Có thể dẫn đến hoặc
thậm chí biểu hiện như xơ gan mất bù. Chẩn đoán dựa trên
tiêu chuẩn sinh hóa và/hoặc bằng chứng hình ảnh học hoặc
giải phẫu bệnh từ mẫu sinh thiết gan
N1: biểu hiện thần kinh đi kèm bệnh gan có triệu chứng (vì
bệnh gan mạn tính có thể xuất hiện nhiều năm trước khi có
biểu hiện thần kinh hoặc xảy ra sau này nếu H2 có thêm
biểu hiện thần kinh trong quá trình nghiên cứu thì được đổi
phân loại thành N1).
N2: biểu hiện thần kinh không đi kèm bệnh gan có triệu
chứng xác định không có bệnh gan đáng kể (sợi hóa/thoái
hóa mỡ có thể hiện biện bất kỳ lúc nào) cần bằng chứng trên
sinh thiết gan
NX: sự hiện diện hay không hiện diện bệnh gan không được
khảo sát
O: phân loại khác
42
o Theo mức độ tổn thương protein: là biến phân loại gồm các giá trị
lệch nghĩa, vô nghĩa, dừng sớm, đứt đoạn, lệch khung đọc và bất
thường nối ghép.
Nhóm kiểu đột biến và kiểu gien
o Đột biến: là biến phân loại, gồm các giá trị tương ứng tên đột biến
và giá trị 0 (không phát hiện đột biến)
o Kiểu đột biến: là biến phân loại, gồm các giá trị: chèn vào, thay thế,
đứt đoạn, bất thường nối ghép vùng intron.
o Kiểu gien: là biến phân loại, gồm các giá trị: đồng hợp tử, dị hợp tử
và dị hợp tử kép.
Nhóm kết quả điều trị
o Kết quả điều trị: biến phân loại gồm các giá trị :
Hồi phục : nếu tất cả các xét nghiệm chức năng gan (ALT,
AST, Đông máu toàn bộ, Albumin) đều trở về bình thường
Cải thiện: giảm độ bất thường các xét nghiệm chức năng gan
nhưng chưa về bình thường tất cả
Không đáp ứng: xét nghiệm chức năng gan xấu hơn so với
trước điều trị
Tử vong: bệnh nhân tử vong được xác định do bệnh Wilson
(xét nghiệm viêm gan siêu vi A, B, C âm tính và không có
bệnh khác)
Dự phòng tốt: kết quả xét nghiệm chức năng gan không xấu
hơn trong khoảng thời gian điều trị
o Biến cố bất lợi: biến phân loại gồm các giá trị đặt tên theo theo dạng
biến cố bất lợi và 0 (không có biến cố bất lợi)
43
2.2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Bệnh án mẫu ghi nhận bệnh sử, lâm sàng.
- Quá trình điều trị được ghi nhận theo một phiếu theo dõi riêng đồng thời
ghi vào sổ tái khám hoặc ghi nhận từ bệnh án nếu bệnh nhân nhập viện.
- Các thông số công thức máu, chức năng gan, thận, albumin, tổng phân tích
nước tiểu ghi nhận từ kết quả xét nghiệm của bệnh viện Nhi Đồng 1.
- Nồng độ ceruloplasmin được ghi nhận từ kết quả xét nghiệm của Trung
tâm chẩn đoán y khoa MEDIC. Nếu MEDIC không thực hiện do không có
thuốc thử thì sẽ thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Đo ceruloplasmin bằng
phương pháp đo độ đục (nephelometry) theo quy trình chuẩn IS9002 ở cả
2 trung tâm MEDIC và bệnh viện Chợ Rẫy.
- Nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ được ghi nhận từ kết quả xét nghiệm
của Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm TP. Hồ Chí Minh. Nếu trung
tâm này không thực hiện do không có thuốc thử thì sẽ thực hiện tại Bệnh
viện Chợ Rẫy.
- Kết quả phân tích phân tử đột biến được ghi nhận từ kết quả xét nghiệm
của Đại học Viên, Áo (exon 4-21), trung tâm sinh học phân tử Đại học Y
Dược TP.Hồ Chí Minh (exon 2-3 và vùng promoter).
2.2.2.3. Công cụ thu thập số liệu
Bệnh án nghiên cứu và phiếu theo dõi quá trình điều trị.
2.2.2.4. Các bước thực hiện
- Tất cả bệnh nhi có biểu hiện điển hình hoặc có bệnh gan hoặc thần kinh
không rõ nguyên nhân sẽ được đưa vào qui trình tầm soát ban đầu bệnh
Wilson gồm khám mắt tìm vòng Kayser-Fleischer, định lượng
ceruloplasmin huyết thanh và đồng trong nước tiểu 24 giờ. Từ kết quả ban
44
đầu này sẽ quyết định chẩn đoán xác định hay cần làm thêm các thử
nghiệm D-Penicillamine, xét nghiệm xâm lấn khác hoặc phân tích đột biến
gien ATP7B (Sơ đồ 2.1)
- Mỗi bệnh nhi sẽ được phân tích đột biến bằng phương pháp giải trình tự
trực tiếp tất cả exon của gien ATP7B. 5mL máu được dự trữ ở nhiệt độ
phòng trong ống EDTA cho đến khi được phân tích đột biến.
- Cha mẹ anh chị em ruột của các trường hợp đã xác nhận có đột biến ở cả
hai nhiễm sắc thể 13 (đồng hợp tử hoặc dị hợp tử kép) hoặc chỉ phát hiện
được một đột biến nhưng có tổng điểm Ferenci cuối cùng >3 sẽ được tầm
soát bằng phân tích trực tiếp đột biến tương ứng hoặc phân tích haplotype.
- Trường hợp ca bệnh được chẩn đoán bằng lâm sàng nhưng không phát
hiện được đột biến thì các thành viên trong gia đình sẽ được phân tích
haplotype
- Tất cả các thành viên trong gia đình của bệnh nhi Wilson đều được thăm
khám và xét nghiệm theo qui trình tầm soát ban đầu bệnh Wilson gồm
khám mắt tìm vòng Kayser-Fleischer, định lượng ceruloplasmin huyết
thanh và đồng trong nước tiểu 24 giờ trước khi lấy máu để phân tích đột
biến gien ATP7B.
- Lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp thể bệnh cho các trường hợp < 16 tuổi
được chẩn đoán xác định. Các trường hợp được chẩn đoán xác định còn lại
sẽ được giới thiệu đến bác sĩ có kinh nghiệm xử trí bệnh Wilson (Bệnh
viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh).
- Tất cả thông tin lâm sàng, sinh hoá, di truyền học sẽ được ghi nhận theo
hồ sơ thu thập số liệu của nghiên cứu.
45
2.2.3. Phân tích đột biến
2.2.3.1. Phân tích đột biến exon 2-3 và vùng promoter tại Đại học Y Dược
TP. Hồ chí Minh
- Tách chiết genomic DNA: Máu tĩnh mạch được lấy vào tube có chứa chất chống
đông EDTA. Genomic DNA được tách chiết từ 200 µL máu bằng bộ kit QIAamp
DNA Kit (Qiagen, Hoa Kỳ) theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Thiết kế mồi: Các cặp mồi được thiết kế bằng phần mềm CLC Main
Workbench dựa trên trình tự chuẩn của gien ATP7B mang accession number
NG_008806 trong GenBank. Vị trí mồi nằm trên các intron, cách vị trí tiếp giáp
exon-intron ít nhất 50 bp để có thể khuếch đại được toàn bộ các exon và vùng
tiếp giáp exon-intron. Mồi được đặt tổng hợp bởi Integrated DNA Technologies
(Hoa Kỳ). Thông tin các đoạn mồi được mô tả trong Bảng 2.1.
- Thực hiện PCR: Kỹ thuật PCR được thực hiện với các cặp mồi đặc hiệu đã được thiết kế và bộ kit TaKaRa TaqTM HotStart Polymerase (Takara, Nhật Bản).
Các phản ứng luôn kèm theo một chứng âm không chứa DNA để kiểm soát
ngoại nhiễm. Chu trình luân nhiệt cho PCR được thực hiện trên máy
Mastercycler@Pro S (eppendorf, Đức), bao gồm giai đoạn biến tính ban đầu ở 980C trong 3 phút, theo sau bằng 40 chu kỳ gồm biến tính ở 980C trong 10 giây, gắn mồi ở 580C trong 15 giây, tổng hợp chuỗi DNA ở 720C trong 2 phút. Sản
phẩm PCR được phát hiện bằng điện di trên thạch agarose 0,8% có nhuộm ethidium bromide và quan sát với hệ thống chụp ảnh điện di Geldoc-ItTM (UVP,
Hoa Kỳ). Sản phẩm PCR sau đó được tinh sạch bằng QIA quick Gel Extraction
kit (Qiagen, Hoa Kỳ) theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất và được kiểm tra
lại bằng điện di trên thạch agarose 0,8%.
46
Bảng 2.1. Các đoạn mồi dùng trong khuếch đại vùng khởi động, exon 2 và 3 của
gien ATP7B
Tên mồi Trình tự chuỗi (5’-3’) Đoạn gien được khuếch đại (bp)
ATP7-2F GAGAAGCTGGGATGTTGTAG Exon 2 (1376)
ATP7-2R CCACCATCCAGGAGCTATAA
ATP7-3F CCTGAAACCTCTTGTTCTGA Exon 3 (2426)
ATP7-4R CAAACTGTCAGAAGCCTGTA
ATP7-P1 GAAGCAGGGAAGGGAACTCG Vùng khởi động (1494)
ATP7-1R GGAGGAAAATCCTCCTGGTG
- Thực hiện giải trình tự chuỗi DNA: Sản phẩm PCR đã được tinh sạch được
chạy phản ứng cycle sequencing với BigDye terminator v3.1 (Applied
Biosystem, Hoa Kỳ) theo cả 2 chiều xuôi và ngược, sau đó được kết tủa bằng ethanol, hòa tan trong Hi-Di formamide, biến tính 2 phút ở 960C và làm lạnh đột
ngột trong đá bào. Trình tự DNA được xác định bằng máy giải trình tự ABI 3130
Genetic Analyzer với POP-7 polymer và capillary 50cm. Kết quả được phân tích
bằng phần mềm CLC Main Workbench.
2.2.3.2. Phân tích đột biến exon 4-21 tại đại học Viên, Áo
Phân tích đột biến phân tử gien ATP7B được làm tuần tự theo các bước đã
được mô tả trong nghiên cứu trước [42]. Tách chiết genomic DNA bằng kít
QIAamp của Qiagen. Nếu qua tầm soát các đột biến thường gặp H1069Q ở châu
Âu không phát hiện được đồng hợp tử, DNA ly trích sẽ được tầm soát tất cả đột
biến của Áo bằng hệ thống D-HPLC Wavefrom Trangenomic. Mỗi exon sẽ được
phân tích riêng biệt. Nếu tìm thấy bất kỳ bất thường so với wildtype, mẫu DNA
đó sẽ được giải trình tự trực tiếp bằng ABI Prism 310 Genetic Analyzer
47
2.2.4. Xử lý và phân tích số liệu
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0
- Các biến liên tục được kiểm định bằng test Shapiro-Wilk (p<0.05 thì bác
bỏ phân phối bình thường) nếu có tính phân phối chuẩn sẽ được phân tích
theo số trung bình và 95%CI; nếu không phân phối chuẩn sẽ được phân
tích và trình bày theo trung vị (25 percentile,75 percentile)
- Các biến phân loại sẽ được phân tích và trình bày theo tần suất (%)
- Mối liên quan kiểu gien-kiểu hình
o Về kiểu gien chúng tôi phân tích theo các nhóm đồng hợp tử (có 2
đột biến giống nhau) so với dị hợp tử kép (có 2 đột biến gien
ATP7B khác nhau) hoặc đồng hợp tử và nhóm còn lại (dị hợp tử
kép và nhóm chỉ phát hiện một đột biến). Mức độ tổn thương enzym
ATP7B được chia thành các nhóm có biến đổi lệch nghĩa và còn lại
(gồm các đột biến được cho là làm quá trình tổng hợp protein bị
thay đổi trầm trọng như đột biến vô nghĩa, dừng sớm, lệch khung
đọc, bất thường nối ghép vùng intron).
o Về kiểu hình chúng tôi đã phân tích các dữ liệu tuổi biểu hiện bệnh
(tính bằng năm), thể lâm sàng theo phân loại Leipzig 2003 bệnh
Wilson (H1: bệnh Wilson thể gan cấp đơn thuần, H2: bệnh Wilson
thể gan mạn đơn thuần, N1: thể gan-thần kinh và thể không triệu
chứng); các đặc trưng sinh hóa như nồng độ ceruloplasmin trong
máu (chia 2 nhóm thấp và bình thường tùy theo chuẩn của phòng
xét nghiệm), hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ (cao nếu > 100
mcg/24 giờ), sự hiện diện vòng Kayser-Fleischer (có hoặc không).
48
o Ngoài ra chúng tôi cũng phân tích các tổn thương gan của cả 3
nhóm H1, H2 và N1 theo tiêu chí viêm gan tối cấp, viêm gan mạn
và xơ gan và kết quả điều trị của những bệnh nhân được điều trị liên
tục ít nhất 6 tháng (gồm các phân loại (i) hồi phục nếu tất cả bất
thường sinh hóa chức năng gan về bình thường, lâm sàng hết triệu
chứng thần kinh; (ii) cải thiện nếu các triệu chứng lâm sàng và sinh
hóa không nặng hơn so lúc đầu; (iii) dự phòng tốt ở trường hợp
không triệu chứng không có biểu hiện lâm sàng hoặc bất thường
sinh hóa chức năng gan, (iv) thất bại nếu triệu chứng lâm sàng và
sinh hóa chức năng gan xấu hơn và (v) tử vong nếu nguyên nhân tử
vong được xác định là do bệnh Wilson)
o So sánh giữa 2 nhóm sẽ dùng test chính xác Fisher cho biến phân
loại và Wilcoxon rank sum test cho biến liên tục.
49
Lưu ý 0-1 điểm: các trường hợp bệnh gan/ thần kinh không rõ nguyên nhân hoặc anh chị em ruột không triệu chứng của bệnh nhân
Sơ đồ 2.1. Qui trình lọc bệnh Wilson
50
2.2.5. Vấn đề y đức
Nghiên cứu này không vi phạm y đức vì
- Không xâm hại bệnh nhân
- Tất cả cha mẹ bệnh nhi đều tự nguyện tham gia nghiên cứu
- Không có mục đích nào khác ngoài phục vụ y học và khoa học
- Được sự đồng ý của Hội đồng khoa học trường và Bệnh viện Nhi đồng 1
- Thông tin bệnh nhân hoàn toàn bảo mật
51
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 1/1/2000-31/12/2014, tại bệnh viện Nhi Đồng 1 chúng tôi tiếp nhận 2571
bệnh nhân bệnh gan được nhập viện trong đó có 876 trường hợp chưa rõ nguyên
nhân (491 bệnh xơ gan, 207 viêm gan và 88 gan to). Qua lọc bệnh và theo dõi có
157 lượt nhập viện vì bệnh Wilson trong đó có
• 50 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh Wilson đồng ý tham gia vào nghiên
cứu.
• 18 trẻ không được phân tích di truyền do đã (i) tử vong hoặc bỏ tái
khám trước 11/2006 (là thời điểm bắt đầu phân tích đột biến gien
ATP7B tại Áo); (ii) truyền máu trước tử vong trong lần nhập viện
đầu hoặc (iii) bỏ tái khám trước ngày 45 kể từ khi truyền máu).
• 32 trẻ trong số này được phân tích di truyền gien ATP7B
• 29 trẻ trong số này có ít nhất một đột biến gien ATP7B
• 20 trẻ trong số này có 66 thành viên ruột thịt (cha, mẹ, anh,
chị em ruột) trong gia đình được tầm soát bệnh và 2 trẻ (cùng
với 2 cặp cha mẹ) cũng được tầm soát bệnh Wilson do có
anh/chị ruột > 15 tuổi là bệnh nhân Wilson của bệnh viện
khác.
• Qua tầm soát chúng tôi phát hiện được thêm 4 ca bệnh nên tổng cộng có
54 ca bệnh Wilson được mô tả đặc điểm dân số học, tỷ lệ các thể lâm sàng
lâm sàng.
Phân bố các ca bệnh theo mục tiêu nghiên cứu như sau
52
MT1 Đặc điểm dân số học, các thể lâm sàng, cận lâm sàng theo phân loại Leipzig 2003 (N=54) 32 ca 4 ca
MT 5 Mô tả kết quả điều trị (N=54)
2 ca
MT 4 Mô tả kết quả tầm soát (N=72)
2 ca
MT 2 Xác định đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B (N=36)
MT 3 Chứng minh mối liên quan kiểu gien-kiểu hình (N=33)
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ kết quả nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong các Bảng 3.1-34 và các Hình 3.1-6
53
3.1. Các thông số chung về dân số học
Bảng 3.1. Phân bố bệnh theo địa phương (n=54)
Địa phương TP. Hồ Chí Minh Bình Thuận Đồng Nai Lâm Đồng An Giang Quảng Ngãi Tiền Giang Cà Mau Đắc Lắc Đồng Tháp Hà Nội Kiên Giang Long An Phú Yên Bà Rịa - Vũng Tàu Bắc Ninh Bình Dương Bình Phước Đắc Nông Gia Lai Kon Tum Ninh Thuận Sóc Trăng Tây Ninh Vĩnh Long Vĩnh Phúc Số ca 7 4 4 4 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 % 13,0 7,4 7,4 7,4 5,6 5,6 5,6 3,7 3,7 3,7 3,7 3,7 3,7 3,7 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9 1,9
54
Bệnh gặp ở 26 tỉnh thành của cả 3 miền đất nước, tập trung nhiều ở miền Nam,
đặc biệt TP. Hồ Chí Minh và các vùng lân cận.
Bảng 3.2. Phân bố tuổi (n=54)
Số ca % 1,9 1,9 1,9 1,9 9,3 5,6 22,2 27,8 11,1 11,1 5,6 100,0 1 1 1 1 5 3 12 15 6 6 3 54 Tỷ lệ tích lũy 1,9 3,7 5,6 7,4 16,7 22,2 44,4 72,2 83,3 94,4 100,0 Tuổi (năm) < 1 (8 tháng) 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Tổng
Chúng tôi chỉ ghi nhận được tuổi có biểu hiện lâm sàng vì tuổi khởi bệnh không
được người nhà ghi nhận chính xác. Trẻ 1 tuổi trong bảng này thực ra được chẩn
đoán lúc 8 tháng tuổi nhờ phân tích đột biến. 2 trường hợp khác không có triệu
chứng lâm sàng thì tuổi được tính vào thời điểm làm xét nghiệm tầm soát.
Phân bố tuổi được kiểm định bằng test Shapiro-Wilk, p=1.98 nên không phải
phân phối bình thường. Tuy nhiên để tiện so sánh y văn chúng tôi vẫn tính tuổi
trung bình là 11,4, 95% CI (6,5, 16,2). Tuổi trung vị là 12 (11, 13). Đa số trẻ
(92,6%) trong nhóm nghiên cứu > 8 tuổi.
55
Bảng 3.3. Phân bố bệnh theo giới
Giới tính Số ca %
34 Nam 63,0
20 Nữ 37,0
54 100,0 Tổng
Bệnh gặp ở bé trai gấp 1,7 lần bé gái
3.2. Tỷ lệ các thể lâm sàng theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003 (Bảng 3.4-
9, Hình 3.1)
Bảng 3.4. Các thể lâm sàng chính theo phân loại Leipzig 2003 (n=54)
% Thể lâm sàng Số ca
H1: Bệnh Wilson thể gan cấp 6 11,1
H2: Bệnh Wilson thể gan mạn đơn thuần 29 53,7
N1: Bệnh Wilson thể gan-thần kinh 16 29,6
S : Không triệu chứng 3 5,6
Trong nhóm nghiên cứu này chúng tôi không gặp bệnh Wilson thể thần kinh đơn
thuần (N2). Các trường hợp bệnh thần kinh không rõ nguyên nhân có triệu chứng
gợi ý bệnh Wilson đều có tổn thương gan trên sinh hóa nên cũng không có dạng
NX. Điều đáng lưu ý là ngoại trừ 3 trường hợp không triệu chứng tất cả bệnh nhi
đều có biểu hiện bệnh gan lúc được chẩn đoán. Tất cả các dạng bệnh gan trong
phân loại Leipzig 2003 đều gặp ở nhóm này.
56
Bảng 3.5. Phân bố và tuổi trung bình của các dạng lâm sàng tổn thương gan
Các dạng lâm sàng Tuổi trung bình Số ca %
11,83 Viêm gan tối cấp 6 11,7
11,06 Viêm gan mạn 17 33,3
11,89 Xơ gan 28 54,9
11,41 51 100,0 Tổng
Biểu hiện gan đa dạng, đáng lưu ý là dạng nặng (tối cấp, xơ gan) lại chiếm đa số.
Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi biểu hiện lâm sàng của các dạng lâm sàng
của tổn thương gan, p=0,41, Wilcoxon test
Bảng 3.6. Thể lâm sàng và tuổi trung bình theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003
Thể lâm sàng Tuổi trung bình Số ca
8,0±6,0 % n=54 3 3 Không triệu chứng
11,8±2,6 11,1 6 H1 (thể gan cấp)
11,3±2,0 53,7 29 H2 (bệnh gan mạn đơn thuần)
Viêm gan mạn 10,1±1,9 16,7 9
Xơ gan 11,9±1,8 37 20
12,1±1,7 29,6 16 N1 (gan-thần kinh)
Xơ gan 12,0±1,7 14,8 8
Viêm gan mạn 12,1±1,7 14,8 8
Tuổi có biểu hiện viêm gan mạn ở nhóm có biểu hiện thần kinh lớn hơn nhóm
bệnh gan đơn thuần trong khi xơ gan thì biểu hiện ở cùng lứa tuổi giữa các nhóm
có triệu chứng lâm sàng, p=0,03, Wilcoxon test
57
Thể Lâm Sàng
H1 H2 N1 Không triệu chứng
Bệnh Wilson thể gan cấp (trong nhóm này đều là suy gan tối cấp) gặp nhiều ở tuổi lớn nhưng có thể gặp ở tuổi rất nhỏ. Thể Wilson gan-thần kinh tập trung ở trẻ từ 9 tuổi trở lên. Bệnh Wilson thể gan mạn đơn thuần có thể gặp ở các lứa tuổi khác nhau sau 1 tuổi.
Tuổi
Biểu đồ 3.1. Phân bố phân loại kiểu hình Leipzig 2003 theo lứa tuổi
58
3.3. Tỷ lệ bất thường của ba đặc trưng chính của bệnh Wilson: hiện diện
vòng Kayser-Fleisher, giảm nồng độ ceruloplasmin trong máu, tăng nồng độ
đồng trong nước tiểu 24 giờ (Bảng 3.7-10)
Bảng 3.7. Tỷ lệ vòng Kayser-Fleischer, hàm lượng ceruloplasmin/máu và đồng
nước tiểu 24 giờ (n=54)
Đặc điểm Số ca %
Vòng Kayser-Fleischer
Dương 39 72,2
Âm 10 18,5
Không thực hiện 5 9,3
Ceruloplasmin/máu
Thấp 51 94,4
Bình thường 3 5,6
Đồng nước tiểu 24 giờ
Cao 44 81,5
Bình thường 10 18,5
Vòng Kayser-Fleischer (KF) được tìm thấy trong phần lớn (72,2%) số bệnh nhân
được khám mắt, tuy nhiên cần lưu ý đã có 9,3% bệnh nhân trong nhóm nghiên
cứu không được khám mắt tìm dấu hiệu đặc trưng này.
59
Bảng 3.8. Phân bố vòng Kayser-Fleischer theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003
(n=54)
Thể lâm sàng (số ca)
Vòng Kayser-Fleischer Âm Số ca %
Không khám Số ca %
Dương Số ca %
H1: bệnh Wilson thể gan cấp (6)
1
16,7
1
16,7
4
66,7
H2: bệnh Wilson thể gan mạn (29)
24
82,8
5
17,2
0
-
N1: bệnh Wilson thể thần kinh-gan (16)
13
81,3
3
18,8
0
-
Không triệu chứng (3)
1
33,3
1
33,3
1
33,3
Tổng
39
72,2
10
18,5
5
9,3
Phần lớn bệnh nhân Wilson thể gan mạn và gan thần kinh có hiện diện vòng
Kayser-Fleischer khi thăm khám. Nhóm bệnh nhân không được khám mắt tìm
vòng đặc trưng này hầu hết là bệnh Wilson thể gan cấp (suy gan tối cấp trong
nhóm nghiên cứu này)
Bảng 3.9. Bất thường nồng độ ceruloplasmin trong máu theo phân loại kiểu hình
Leipzig 2003 (n=54)
Ceruloplasmin/máu
Thể lâm sàng (số ca)
Thấp Số ca %
Bình thường %
Số ca
H1: bệnh Wilson thể gan cấp (6)
5
83,3
1
16,7
H2: bệnh Wilson thể gan cấp mạn đơn thuần (29)
29
100
0
-
N1: thể thần kinh-gan (16)
16
100
0
-
Không triệu chứng (3)
1
33,3
2
66,7
Tổng
51
94,4
3
5,6
Nồng độ ceruloplasmin trong máu thấp trong tất cả bệnh nhân thể H2, N1, trong
đa số bệnh Wilson tối cấp và chỉ trong 1/3 trường hợp không triệu chứng
60
Bảng 3.10. Phân bố hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ theo phân loại kiểu
hình Leipzig 2003 (n=54)
Đồng/nước tiểu 24 giờ
> 100 mcg
≤ 100mcg
Thể lâm sàng (số ca)
Số ca %
Số ca %
H1: bệnh Wilson thể gan cấp (6)
6
100
0
-
H2: bệnh Wilson thể gan cấp mạn đơn thuần (29)
23
79,3
6
20,7
N1: thể thần kinh-gan (16)
15
93,8
1
6,3
Không triệu chứng (3)
0
-
3
100
Tổng (%)
44
81,5
10
18,5
Đồng trong nước tiểu 24 giờ tăng trong tất cả bệnh nhân thể gan cấp, trong đa số
bệnh có biểu hiện lâm sàng khác nhưng bình thường trong tất cả các trường hợp
không triệu chứng.
3.4. Các đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B ở trẻ em Việt Nam (Bảng
3.11-14, Hình 3.1-5)
3.4.1. Đặc điểm tính đa hình gien ATP7B (polymorphism):
Khi giải trình tự trực tiếp gien ATP7B có một số biến đổi cấu trúc gien
được ghi nhận (Bảng 3.14) nhưng những cấu trúc này được xem là bình thường
vì nó gặp ở người khỏe mạnh và sản phẩm protein tổng hợp của nó không bị xáo
trộn chức năng. Người ta gọi những thay đổi cấu trúc này là đa kiểu hình của
alen. Chúng tôi phát hiện được 7 kiểu đa kiểu hình ở các trẻ bệnh Wilson này,
chủ yếu tập trung ở vùng khởi động (promoter) và các exon 2, 3, 10, 16. Điều
này góp phần làm nên tính đa dạng của kiểu gien ATP7B ở Việt Nam
61
Bảng 3.11. Đặc điểm Polymorphism của alen gien ATP7B (n=20)
Polymorphism Số ca Vị trí
c.-525T>C 5 Promoter
c.-75A>C 1 Promoter
c.-123_-119dupCGCCG 1 Promoter
S406A 2 Exon 2
V456L 3 Exon 3
R832K 2 Exon 10
A1140V 6 Exon 16
3.4.2. Đặc điểm các loại đột biến được phát hiện:
Chúng tôi tìm được 20 dạng đột biến khác nhau nằm rải rác trên các exon khác
nhau của gien ATP7B (Hình 3.1, Bảng 3.15). Bên cạnh 3 đột biến đã được mô tả
đầu tiên ở Việt Nam [5] chúng tôi còn phát hiện thêm 5 đột biến mới trong nhóm
nghiên cứu này.
62
L1333fsX59
Hình 3.1. Các vùng cấu trúc của enzym ATP7B được mã hóa tương ứng với các
exon trên gien ATP7B. Các đột biến được phát hiện trong nghiên cứu này ở exon
(hình chữ nhật) và intron (IVS) cùng với tỷ lệ phát hiện (bảng dữ liệu) cho thấy
đột biến rất đa dạng và xảy ra trên nhiều vùng khác nhau của gien này.
63
Bảng 3.12. Đặc điểm các loại đột biến được phát hiện (xếp theo thứ tự exon)
Đột biến
Hậu quả*
Chủng tộc gốc
Exon #
Kiểu đột biến***
Vùng protein bị ảnh hưởng**
Đã được mô tả
V176fs
Ins
premstop
2
Cu2
British
X
S105X
nonsense
S
2
Cu1
German
X
R778L
missense
S
8
TM4
Chinese
X
Ins
frameshift
Korea, Italian, British
P767P-fs
8
TM 4
X
missense Giữa TM4/Td
Italian
L795F
S
9
X
T850I
missense
S
10
Vietnamese
X
L902P
missense
S
11
Mới
11
P868P-fs (del C)
Del
frameshift
Mới
G943D
missense
S
12
TM5
Taiwanese
X
L1015R
missense
S
13
Vietnamese
X
D1027H
missense
S
14
Mới
15
IVS 15-2:A>G
Spl
splicing
Vietnamese
I1148T
S
16
missense
Quai ATP
Greek
X
E1173K
S
16
missense
Quai ATP
Italian
X
P1273Q
S
18
missense
Bản lề ATP
Taiwanese
X
N1270S
S
18
missense
Bản lề ATP
Sicilian
X
19
L1333fsX59
Del
frameshift
Mới
20
L1371P
S
missense
TM8
Chinese- Han
X
20
IVS20+3:A>G
Spl
splicing
Mới
20
Q1372X
S
nonsense
TM8
Chinese - Han
X
#
* **
vị trí đột biến trên gien ATP7B, được chia làm 21 vùng (exon) và đánh số thứ tự tương ứng. TM: transmembrane (xuyên màng). Td: transduction (tải nạp) Hậu quả trên sinh tổng hợp protein, tức là enzym ATP7B: missense (lệch nghĩa); premstop (dừng sớm); nonsense (vô nghĩa), frameshift (lệch khung đọc)
*** S: substitution (thay thế) Spl: splicing (bất thường nối ghép)
Del: deletion (mất đoạn)
Ins: insertion (chèn vào)
64
3.4.3. Đặc điểm kiểu gien
Kiểu gien đồng hợp tử chiếm 22,2% nhưng đều phân tán, chỉ lập lại ở dạng
D1027H mà thôi (Bảng 3.13). Đa số là kiểu gien dị hợp tử kép làm cho kiểu gien
ở nhóm nghiên cứu này rất đa dạng.
Bảng 3.13. Phân bố kiểu gien của 36 bệnh nhân Wilson
Kiểu gien Hai đột biến Đồng hợp tử
S105X/S105X L902P/L902P G943D/G943D D1027H/D1027H P1273Q/P1273Q L1371P/L1371P
Dị hợp tử kép
P767P-fs/T850I L795F/D1027H T850I /P868P-fs(del C) D1027H/L1333fsX59 IVS 15-2: A>g/P1273Q P1273Q/IVS20+3:A>G R778L/E1173K
Exon(Intron)* 2/2 11/11 12/12 14/14 18/18 20/20 8/10 9/14 10/11 14/19 (15)/18 18/(20) 8/16 Số ca % 41,6 22,2 2,8 2,8 2,8 8,3 2,8 2,8 19,4 2,8 2,8 2,8 2,8 2,8 2,8 2,8 50,0 8,4 15 8 1 1 1 3 1 1 7 1 1 1 1 1 1 1 18 3 Một đột biến Không phát hiện
* Vùng intron là vùng được gien ATP7B mã hóa sẽ bị cắt bỏ đi trong quá trình
nối ghép gien ATP7B. Đột biến xảy ra trong vùng này có thể gây ra sự bất
thường bản sao mã sau nối ghép ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp và làm
sai lệch cấu trúc protein cuối cùng.
65
Tỷ lệ phát hiện được đột biến trên 72 nhiễm sắc thể (36 trường hợp) là 66,6%;
(48/72) (3 trường hợp không phát hiện và 18 trường hợp chỉ phát hiện được một
đột biến)
Xét vị trí tổn thương của gien ATP7B thì có tới 13 trên tổng số 21 exon của
gien ATP7B bị tổn thương, trong đó các exon bị tổn thương nhiều nhất là exon
14, 2, 18, 10, 8 và 20 (Bảng 3.14)
Bảng 3.14. Phân bố tổn thương theo exon của 48 alen gien ATP7B có đột biến
Exon# % Số alen bị đột biến (n=48)
8 16,7 14
7 14,6 2
6 12,5 18
5 10,4 10
4 8,3 8
4 8,3 20
3 6,3 11
3 6,3 12
3 6,3 16
2 4,2 15
1 2,1 9
1 2,1 13
1 2,1 19
66
.
Bình thường
Thay đổi
Hình 3.2. Đột biến c.314C>A đồng hợp tử
Bình thường
Thay đổi
Hình 3.3. Đột biến c.314C>A dị hợp tử
67
Bình thường Thay đổi
Hình 3.4. Đột biến chèn thêm 1 nucleotide (c.525- 526insA)
Hình 3.5. Đột biến mới p.D1027H (c.3079G>C) của exon 14
68
3.5. Tương quan kiểu gien – kiểu hình: trong 36 trường hợp được phân tích di
truyền gien ATP7B có 3 trường hợp không tìm thấy đột biến nào, vì vậy chúng
tôi chỉ đưa vào phân tích mối liên quan kiểu gien-kiểu hình trong 33 trường hợp
(Bảng 3.18-29)
Về kiểu gien chúng tôi phân tích theo các nhóm đồng hợp tử (có 2 đột biến
giống nhau) so với dị hợp tử kép (có 2 đột biến gien ATP7B khác nhau) hoặc
đồng hợp tử và nhóm còn lại (dị hợp tử kép và nhóm chỉ phát hiện một đột biến).
Mức độ tổn thương enzym ATP7B được chia thành các nhóm có biến đổi lệch
nghĩa và còn lại (gồm các đột biến được cho là làm quá trình tổng hợp protein bị
thay đổi trầm trọng như đột biến vô nghĩa, dừng sớm, lệch khung đọc, bất
thường nối ghép vùng intron).
Về kiểu hình chúng tôi đã phân tích các dữ liệu tuổi biểu hiện bệnh (tính
bằng năm), thể lâm sàng theo phân loại Leipzig 2003 bệnh Wilson (H1: bệnh
Wilson thể gan cấp đơn thuần, H2: bệnh Wilson thể gan mạn đơn thuần, N1: thể
gan-thần kinh và thể không triệu chứng); các đặc trưng sinh hóa như nồng độ
ceruloplasmin trong máu (chia 2 nhóm thấp và bình thường tùy theo chuẩn của
phòng xét nghiệm), hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ (cao nếu > 100
mcg/24 giờ), sự hiện diện vòng Kayser-Fleischer (có hoặc không).
Ngoài ra chúng tôi cũng phân tích các tổn thương gan của cả 3 nhóm H1,
H2 và N1 theo tiêu chí viêm gan tối cấp, viêm gan mạn và xơ gan và kết quả
điều trị của những bệnh nhân được điều trị liên tục ít nhất 6 tháng (gồm các phân
loại (i) hồi phục nếu tất cả bất thường sinh hóa chức năng gan về bình thường,
lâm sàng hết triệu chứng thần kinh; (ii) cải thiện nếu các triệu chứng lâm sàng và
sinh hóa không nặng hơn so lúc đầu; (iii) dự phòng tốt nếu các trường hợp không
triệu chứng không có biểu hiện lâm sàng hoặc bất thường sinh hóa chức năng
69
gan, (iv) thất bại nếu triệu chứng lâm sàng và sinh hóa chức năng gan xấu hơn và
(v) tử vong nếu nguyên nhân tử vong được xác định là do bệnh Wilson)
70
Bảng 3.15. Đặc điểm dân số, lâm sàng và sinh hóa của 15 trường hợp có 2 đột biến gien ATP7B
Hậu quả
Giới
CP
Kiểu gien
Exon thứ
Tuổi (năm)
Vòng K-F
Đồng NT24g
Cổ chướng
Tán huyết
Kết quả điều trị
Thể lâm sàng
Tổn thương gan
Nam H2 H2 Nữ Nữ H2 Nam N1 Nam N1 H2 Nữ
XG XG XG XG XG XG
D1027H/D1027H D1027H/D1027H D1027H/D1027H G943D/G943D L1371P/L1371P L902P/L902P
14 14 14 12 20 11
missense missense missense missense missense missense
14 11 11 12 14 12
+ + + + + +
+ + + - - +
- - - - - -
VGM
P1273Q/P1273Q
18
missense
13
+
-
-
VGM
S105X/S105X
2
Vùng APT7P bị tổn thương TM5 TM8 ATP hinge Cu1
12
+
-
-
Thấp BTh Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao
Bỏ TKh Cải thiện Bỏ TKh Cải thiện Cải thiện Cải thiện Cải thiện Cải thiện
VGM
D1027H/L1333fsX59
14/19
11
Thấp BTh
+
-
+
Hồi phục
Nam N1 Nam H2 Nam H2
14
D1027H/L795F
14/9
Nữ
H1
VGTC K.kh
BTh Cao
-
+
Tử vong
12
IVS 15-2: A>g/P1273Q
15/18
XG
Thấp BTh
+
+
-
Bỏ TKh
Nam H2
13
P1273Q/IVS20+3:A>G
18/20
VGM
-
-
-
Nam N1
Thấp Cao
Cải thiện
bet TM4/Td ?/ATP hinge ATP hinge
10
P767P-fs/T850I
8/10
TM 4
XG
-
-
-
Nam H2
Thấp Cao
Cải thiện
1
P767P-fs/T850I
8/10
TM 4
Nam S
K.Trch K.kh
-
-
Thấp BTh
12
P868P-fs (del C) / T850I
10/11
Nữ
S
K.Trch
-
-
-
BTh BTh
Dự phòng tốt Hồi phục
nonsense missense/ missense missense/ missense splicing/ missense splicing/ missense FS/ missense FS/ missense FS/ missense
Vòng K-F: vòng Kayser-Fleischer; CP: nồng độ ceruloplasmin trong máu, Đồng NT24g: nồng độ đồng trong nước tiểu 24giờ Missense: lệch nghĩa; Nonsense: vô nghĩa, FS: lệch khung đọc, Splicing: bất thường nối ghép vùng intron S: không triệu chứng; H1 : bệnh gan cấp tính đơn thuần H2 : bệnh gan mạn tính đơn thuần N1: bệnh gan – thần kinh XG: xơ gan, VGM : viêm gan mạn, VGTC: viêm gan tối cấp, K.Trch : không triệu chứng K.kh : không khám; BTh: bình thường ; TKh : tái khám
71
Bảng 3.16. Đặc điểm dân số, lâm sàng và sinh hóa của 18 trường hợp phát hiện 1 đột biến gien ATP7B
Kết quả điều trị
Tuổi
(năm) Giới
Thể lâm sàng
Tổn thương gan
Vòng K-F
CP
Cổ chướng
Tán huyết
Kiểu gien
Exon
Đồng NT24g Cao
Hồi phục
missense missense
16 12
E1173K/? G943D/?
XG XG
+ -
+ +
- -
8 Nam H2 11 Nam H2 Nữ
Thấp Thấp Cao Cao
Bỏ TKh Bỏ TKh
missense
16
I1148T/?
12
H2
XG
+
Thấp
+
-
Nữ
Cao
Bỏ TKh
missense splicing missense
16 15 13
I1148T/? IVS 15-2:A>G /? L1015R/?
10 H2 12 Nam N1 9 Nam H2
VGM VGM VGM
+ + -
- - -
Cải thiện Bỏ TKh
- - -
Thấp Thấp Cao Thấp Cao Thấp Cao
missense
18
N1270S/?
11 Nữ
H2
XG
+
+
Cải thiện
-
Thấp Cao
Vùng APT7P bị tổn thương Hậu quả ATP loop TM5 ATP loop ATP loop ATP hinge ATP hinge TM8 TM4 TM4 Cu1
missense nonsense missense missense nonsense missense
18 20 8 8 2 10
N1270S/? Q1372X/? R778L/? R778L/? S105X/? T850I/?
12 Nam H2 N1 9 Nữ 12 Nam N1 6 Nam H2 11 Nữ N1 14 Nữ H2
VGM VGM VGM VGM VGM XG
+ + + + - +
- - - - - +
- - - - - -
Nam
Thấp Cao Thấp Cao Thấp BTh Thấp Cao Thấp Cao BTh
S
Cu2 Cu2 Cu2 Cu2
missense premstop premstop premstop premstop
10 2 2 2 2
T850I/? V176fs/? V176fs/? V176fs/? V176fs/?
11 14 Nam N1 13 Nữ H2 9 Nữ H2 12 Nữ H2
K.Trch + - XG + XG + VGM + XG
BTh Thấp BTh Thấp Cao Thấp BTh Thấp Cao
- + + - +
Bỏ TKh Cải thiện Cải thiện Hồi phục Bỏ TKh Cải thiện Dự phòng tốt Cải thiện Cải thiện Hồi phục Bỏ TKh
- - - - -
Vòng K-F: vòng Kayser-Fleischer; CP: nồng độ ceruloplasmin trong máu, Đồng NT24g: nồng độ đồng trong nước tiểu 24giờ . Missense: lệch nghĩa;
Nonsense: vô nghĩa, Premstop: dừng sớm, FS: lệch khung đọc, Splicing: bất thường nối ghép vùng intron. S: không triệu chứng ; H1 : bệnh gan cấp
tính đơn thuần H2 : bệnh gan mạn tính đơn thuần N1: bệnh gan – thần kinh . XG: xơ gan, VGM : viêm gan mạn, VGTC: viêm gan tối cấp, K.Trch :
không triệu chứng. BTh: bình thường ; TKh : tái khám
72
Bảng 3.17. Các đặc trưng chính của bệnh Wilson ở hai nhóm đồng hợp tử và
dị hợp tử
Vòng K-F n=31* Ceruloplasmin n=33 Đồng/NT 24 giờ n=33 Kiểu gien
Âm Dương Thấp Cao Bình thường Bình thường
Đồng hợp tử 0 8 8 0 7 1
Dị hợp tử 7 16 22 3 17 8
Tổng 7 24 30 3 24 9
*2 trường hợp không được khám mắt tìm vòng Kayser-Fleischer.
Tất cả các trường hợp kiểu gien bị đột biến đồng hợp tử đều có vòng Kayser-
Fleischer. Không có trường hợp kiểu gien bị đột biến đồng hợp tử nào có
nồng độ ceruloplasmin trong máu bình thường
Bảng 3.18a. Phân bố các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ở hai nhóm
đồng hợp tử và dị hợp tử (n=33)
Kiểu hình Thể lâm sàng
H1 n=1 H2 n=20 N1 n=9 Không triệu chứng n=3
Đồng hợp tử 0 5 3 0
Dị hợp tử 1 15 6 3
P=0,4, χ2
73
Bảng 3.18b. Phân bố các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 có triệu chứng
lâm sàng của hai nhóm đồng hợp tử và dị hợp tử (n=30)
Kiểu hình
Đồng hợp tử H1 n=1 0 H2 n=20 5 N1 n=9 3
Dị hợp tử 1 15
6 P=0,4, χ2
Bảng 3.19. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa các trường hợp có đột biến D1027H
)
/
(
/
i
)
L U m ề i
n ế i
%
) - ( s b m o o C
g n à s
u á m n m s a l
i ớ i G
i ổ u T
g n ớ ư h c
g m
(
b t ộ Đ
F K g n ò V
p o l
m â L
ổ C
) g c m ( g 4 2 T N / g n ồ Đ
u r e C
t ế y u h n á T
k e s a t a h p s o h P
L795F/D1027H
14 Nữ
Tối cấp
15
7062
-
+
20
Không khám
-
402
D1027H/D1027H
11 Nữ Xơ gan +
10,6
246
+
-
153
D1027H/D1027H
11 Nữ Xơ gan +
5,3
1081 +
-
279
D1027H/D1027H
14 Nam Xơ gan +
3
37
+
11 Nam
+
9
27
-
+
51
D1027H/L1333fsX 59
Viêm gan cấp
74
Bảng 3.20. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa của hai nhóm đồng hợp tử và dị hợp
tử kép có biểu hiện triệu chứng lâm sàng
p**
Đặc điểm
Giới tính - Nữ - Nam Thể lâm sàng* - H1 - H2 - N1 Tổn thương gan*
- Viêm gan tối cấp - Viêm gan mạn - Xơ gan
Vòng Kayser-Fleischer*
- âm tính - dương tính
Ceruloplasmin/máu
- Thấp - Bình thường Đồng/ nước tiểu 24 giờ
- Cao - Bình thường Tán huyết Coombs âm
Dị hợp tử kép n=7 Số ca % 2 28,6 5 71,4 1 20,0 3 60,0 1 20,0 1 20,0 2 40,0 2 40,0 3 60,0 2 40,0 5 71,4 2 28,6 3 42,9 4 57,1 5 71,4 2 28,6
Đồng hợp tử n=8 Số ca % 3 37,5 5 6,5 0 - 5 62,5 3 37,5 0 - 2 25,0 6 75,0 0 - 8 100,0 8 100,0 0 - 7 87,5 1 12,5 8 100,0 0 -
1,00 0,52 0,35 0,035 0,20 0,12 0,20
- Không - Có
* Chỉ ghi nhận được ở 5 trường hợp ** p được tính theo test chính xác Fisher cho biến phân loại và Wilcoxon rank sum test cho biến liên tục
75
Bảng 3.21. Các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 theo hai nhóm đột biến
gây tổn thương enzym ATP7B lệch nghĩa và khác
Biểu hiện lâm sàng Tổng Dạng tổn thương enzym ATP7B H1 H2 N1
Lệch nghĩa 1 13 4 18
Loại khác * 0 7 5 12
1 20 9 Tổng
30 P=0,4, χ2
*Loại khác bao gồm các kiểu đột biến dừng sớm, vô nghĩa, bất
thường nối ghép, mất đoạn và dịch khung
Bảng 3.22. Biểu hiện gan theo hai nhóm đột biến gây tổn thương enzym
ATP7B lệch nghĩa và khác
Biểu hiện gan
Tổng Tối cấp Viêm gan mạn Xơ gan Dạng tổn thương enzym ATP7B
Lệch nghĩa 1 6 11 18
Loại khác* 0 7 5 12
Tổng 1 13 16 30
*Loại khác bao gồm các kiểu đột biến dừng sớm, vô nghĩa, bất
thường nối ghép, mất đoạn và dịch khung
Ca tối cấp có kiểu đột biến lệch nghĩa
76
Bảng 3.23. Tuổi trung bình biểu hiện bệnh của hai nhóm đột biến gây
tổn thương enzym ATP7B lệch nghĩa và khác (n=30)
n 25% 75% Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Trung vị Lớn nhất
18 11,4 2,2 6,0 11,5 12,0 13,5 14,0 Lệch nghĩa
* Loại khác bao gồm đột biến vô nghĩa, dừng sớm, lệch khung đọc, bất thường nối ghép
vùng intron.
12 11,5 1,6 9,0 10,0 12,0 12,0 14,0 Loại khác*
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tuổi biểu hiện bệnh giữa 2
nhóm lệch nghĩa và còn lại, P=0,91, Kruskal-Wallis H.
Bảng 3.24. Tuổi biểu hiện lâm sàng theo các dạng tổn thương protein do đột
biến (n=30)
h n
ị v
ì
%
%
a c
h c ệ l
Dạng tổn thương protein do đột biến
5 2
5 7
ố S
n ẩ u h c
ộ Đ
g n u r T
t ấ h n ỏ h N
t ấ h n n ớ L
b g n u r T
7 1 1
12,4 12,0 14,0
1,3
11,0 11,5 12,0 12,0 12,0 12,0 14,0 14,0 14,0
14,0 12,0 14,0
14,0 12,0 14,0
2
10,5
0,7
10
10 10,5
10,5
11
2
12,5
0,7
12
12 12,5
12,5
13
12
Đồng hợp tử đột biến lệch nghĩa Đồng hợp tử đột biến vô nghĩa Dị hợp tử 2 đột biến lệch nghĩa Dị hợp tử kép đột biến lệch khung và lệch nghĩa Dị hợp tử kép đột biến bất thường nối ghép vùng intron và lệch nghĩa Một đột biến bất thường nối ghép vùng intron Một đột biến dừng sớm Một đột biến lệch nghĩa Một đột biến vô nghĩa
1 4 10 2
12 12 10,5 10
2,2 2,3 1,4
12 9 6 9
12 9 12,5 11 9 10 9
12 13 12 10
12 14 14 11
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tuổi biểu hiện bệnh với
các dạng tổn thương enzym ATP7B, P=0.25, Kruskal-Wallis H.
77
Bảng 3.25. Kết quả điều trị của hai nhóm đột biến gây tổn thương enzym
ATP7B lệch nghĩa và khác (n=30)
Kết quả điều trị
Hồi phục (n=4) Tử vong (n=1) Cải thiện (n=15) Bỏ trị (n=10) Lệch nghĩa (n=18) 2 11,1% 1 5,6% 8 44,4% 7 38,9% Loại khác* (n=12) 2 16,7% 0 0.00% 7 58,3% 3 25%
* Loại khác bao gồm đột biến vô nghĩa, dừng sớm, lệch khung đọc, bất
thường nối ghép vùng intron.
Mẫu nhỏ không thực hiện được test thống kê kết quả điều trị giữa 2 nhóm
lệch nghĩa và loại khác.
78
Bảng 3.26. Phân bố dạng lâm sàng bệnh gan theo exon tổn thương (n=33)
Biểu hiện gan
Exon# Tổng
Tối cấp n=1 Viêm gan mạn n=13
Không triệu chứng n=3 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 0 1 2 3 1 1 2 0 Xơ gan n=16 1 0 1 2 0 3 0 0 0 1 2 1 3 1 0 0 1 2 1 1 2 1 3 1 1 1 1 3 3 6 2 1 2 2 10 10/11 11 12 13 14 14/19 14/9 15 15/18 16 18 2 20 20/18 8 8/10
Chưa tìm được mối liên quan của tổn thương exon gien ATP7B với biểu hiện
lâm sàng bệnh gan do mẫu nhỏ không thực hiện được test thống kê.
79
3.6. Kết quả tầm soát bệnh Wilson cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột của
bệnh nhi Wilson bằng lâm sàng, sinh hóa và phân tích đột biến phân tử
gien ATP7B
72 thành viên ruột thịt trong gia đình của 22 bệnh nhân nhi trong
nghiên cứu và 2 bệnh nhân từ bệnh viện khác được tầm soát bệnh dựa vào
nồng độ ceruloplasmin trong máu, hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ,
khám mắt tìm vòng Kayser-Fleischer và tìm trực tiếp đột biến gây bệnh đã
biệt từ ca bệnh. Test D-Penicillamine chỉ thực hiện khi đồng NT 24 giờ bình
thường và điểm Ferenci > 0.Trong số ca tầm soát này có 29 anh chị em ruột
của ca bệnh và 43 cha mẹ ruột
3.6.1. Tầm soát anh chị em ruột
Với các xét nghiệm sinh hóa và khám mắt tìm vòng KF chúng tôi phát
hiện được 1 ca bệnh trong số các trường hợp anh chị em ruột ca bệnh (7 điểm
Ferenci). Khi tính thêm kết quả đột biến thì tổng cộng có 4/27 (14.8%) trẻ
được xác định có bệnh trong đó có 1 trẻ đã bị bỏ sót qua tầm soát bằng các xét
nghiệm và dấu hiệu lâm sàng thường qui và 1 trẻ được chẩn đoán lúc 8 tháng
và có biểu hiểu quá tải đồng rất sớm từ lúc 13 tháng tuổi (phụ lục 3, Bảng
3.26 và 3.27).
3.6.2. Tầm soát cha mẹ ruột
1/42 cha mẹ (2,3%) được phát hiện bệnh dù lâm sàng không triệu chứng (phụ
lục 3) . Tính thêm kết quả đột biến cũng không phát hiện thêm ca bệnh nào
trong nhóm này.
80
Bảng 3.27. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa và đột biến của các ca bệnh phát hiện
ờ i g
n i m
-
c ớ ư r t
D
n ệ i h
n ế i b
g n à s
a C
) g c m
) g c m
i á h P
i ổ u T
% g m
(
(
t s e T
t ộ Đ
m â l
u ể i B
F - K g n ò V
e n i m a l l i c i n e P
u a s D W m ể i Đ
s a l p o l u r e C
D W m ể i Đ
4 2 T N / g n ồ Đ
nhờ tầm soát và anh chị em bị bệnh tương ứng
S-ca 1 12 M Thần kinh-xơ gan
3,4
221
P
ND
7
11 G943D/G943D
Ca 1
19
M Thần kinh-xơ gan
1,6
1375 P
ND
7
11 G943D/G943D
S-ca 2 9
M Viêm gan mạn
1,0
170 N
ND
3
L1015R
4
Ca 2
15
F
Viêm gan mạn
2,5
1700 N
ND
4
L1015R
5
N
S-ca 3 12
F Không triệu chứng
17,5**
57
998.4*** 0
6
P868P-fs/T850I
P
Ca 3
20
F
Thần kinh-xơ gan
12,0
490
ND
6
10
P868P-fs /T850I
S-ca 4 13th M Không triệu chứng
16,0
50
ND ND
1
5
P676P-fs/T850I
Ca 4
10
M Xơ gan
5,0
140 N
2750
5*
9
P676P-fs/T850I
S-ca ca tầm soát được. * **
có sinh thiết gan và nhuộm đồng. chuẩn của nơi làm xét nghiệm (Bệnh viện Chợ Rẫy):15-34mg%, các giá trị còn lại đều thấp hơn chuẩn (20mg%) thực hiện sau khi có kết quả phân tích đột biến
*** D-Penicillamine test (+) khi > 1600mcg Điểm WD (Wilson Disease)
4 3 2
chẩn đoán xác định có thể bệnh, cần làm thêm xét nghiệm rất ít có khả năng mắc bệnh
81
Bảng 3.28. Sự thay đổi điểm Ferenci sau khi có kết quả đột biến phân tử
ATP7B (n=45)
Điểm bệnh Wilson (WDS) sau
0
1
2
4
5
6
11
Tổng
WDS trước
23
16
0
0
0
0
0
39
0
0
1
0
0
1
0
0
2
1
0
0
1
0
0
1
0
2
2
0
0
0
1
0
0
0
1
3
0
0
0
0
0
0
0
0
4
0
0
0
0
0
0
1
1
7
1
1
1
1
1
45
23
17
Tổng
51,1
37,8
2,2
2,2
2,2
2,2
2,2
100
%
Điểm bệnh Wilson (WDS) trước và sau: Điểm theo thang điểm Ferenci chưa
(có) tính điểm phân tích đột biến
Nhờ ứng dụng phân tích đột biến phân tử gien ATP7B đã phát hiện được 3 ca
bệnh Wilson
3.7. Xác định kết quả điều trị bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam
Bảng 3.29. Kết quả điều trị chung (n=54)
Dự phòng tốt Hồi phục Cải thiện
Số ca 24 2 6 16 8 22 54 % 44,5 3,7 11,2 29,6 14,8 40,7 100,0 Còn sống Tử vong Chưa điều trị thuốc đặc hiệu Tổng
Tỷ lệ bệnh nhân không điều trị thuốc đặc hiệu cao 40,7%. Số này bao gồm
82
các bệnh nhân chưa được điều trị thuốc vì không có sẵn thuốc; chỉ nhập viện
chẩn đoán rồi xuất viện và không quay lại nữa. Số tử vong chỉ phản ánh các
trường hợp theo dõi được chứ chưa phải là tỷ lệ tử vong của toàn bộ nhóm
nghiên cứu.
Bảng 3.30. Kết quả điều trị của các trường hợp có dùng thuốc đặc hiệu (n=32)
Số ca %
Dự phòng tốt 2 6,3
Hồi phục 6 18,8
Tử vong 8 25,0
Cải thiện 16 50,0
32 100,0 Tổng
Kết quả điều trị khá tốt mặc dù tỷ lệ tử vong là 25% vì cần lưu ý đây là bệnh
di chuyển hóa di truyền nếu không điều trị sẽ chắc chắn tử vong hoặc tàn tật.
Bảng 3.31. Phân bố kết quả điều trị theo dạng tổn thương lâm sàng ở gan
(n=29)
Tổng Kết quả điều trị Tối cấp n=5 Biểu hiện gan Viêm gan mạn n=11 Xơ gan n=13
Hồi phục 0 4 1 5
Tử vong 5 0 3 8
Cải thiện 0 7 9 16
Dự phòng tốt 0 0 0 0
Tất cả các ca bệnh gan tối cấp đều tử vong vì ghép gan không có sẵn ở Việt
Nam. Tổn thương viêm gan mạn đáp ứng tốt với điều trị thuốc. Đáng lưu ý là
xơ gan trong nhóm nghiên cứu này có thể hồi phục hoặc cải thiện khá nhiều.
83
Bảng 3.32. Phân bố kết quả điều trị theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003
(n=32)
Kết quả Tổng
H1 n=5 0 5 0 0 H2 n=13 5 1 7 0 N1 n=11 0 2 9 0 S* n=3 1 0 0 2 6 8 16 2
Hồi phục Tử vong Cải thiện Dự phòng tốt *S: không triệu chứng
Nhóm không triệu chứng đáp ứng rất tốt với điều trị thuốc. Ca hồi phục là hết
viêm gan mạn. Hai trường hợp còn lại đã được dự phòng tốt các tổn thương
gan và thần kinh trong thời gian khá dài 8 và 10 năm.
Nhóm có biểu hiện thần kinh vẫn diễn tiến nặng đến tử vong hoặc chỉ cải
thiện với thuốc điều trị mà không phục hồi mặc dù được điều trị khá dài.
Mặc dù có tử vong nhưng hầu hết bệnh nhân nhóm bệnh gan mạn tính đơn
thuần có điều trị thuốc đều cải thiện và hồi phục tổn thương và cải thiện chức
năng gan.
84
Bảng 3.33. Các dạng phối hợp thuốc (n=26)
Điều trị 1 thuốc
D T Z
Có đổi thuốc DT DZ TDT DTD DZD DTDT Số ca 8 2 1 4 4 1 3 1 2 % 30,8 7,7 3,8 15,4 15,4 3,8 1,5 3,8 7,7
D: D-Penicillamine Z: kẽm T: Trientine
Thứ tự trong tổ hợp cũng chính là thứ tự đổi thuốc. Ví dụ: DTDT bệnh nhân
được dùng lần lượt D-Penicillamine Trientine D-Penicillamine rồi
Trientine
6 trường hợp tử vong do bệnh gan quá nặng ngay lúc nhập viện nên chỉ còn
26 trường hợp được điều trị dài hạn hơn 6 tháng với thuốc đặc hiệu
Bảng 3.34. Tác dụng phụ chung (n=32)
Số ca %
Giảm bạch cầu Phát ban, sốt Tiểu máu Stevens Johnson Tổn thương da Không có 1 1 1 1 2 27 3,1 3,1 3,1 3,1 6,3 81,3
Tỷ lệ phản ứng phụ của thuốc chung là 18,7%, bao gồm huyết học, thận và da
85
Hình 3.6. Tổn thương da ở trẻ dùng D-Penicillamine (ca W22 và W37)
86
Bảng 3.35. Tác dụng phụ của D-Penicillamine (n=23)
Số ca %
Giảm bạch cầu 1 4,3
Phát ban, sốt 1 4,3
Tiểu máu 1 4,3
Stevens Johnson 1 4,3
Tổn thương da 2 8,7
Không có 18 74,0
Tỷ lệ phản ứng phụ của D-Penicillamine là 26%, bao gồm huyết học, thận và
da
87
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Xác định đặc điểm dân số học và tỷ lệ các thể lâm sàng (bệnh gan
cấp, bệnh gan mạn đơn thuần, bệnh gan-thần kinh và bệnh thần kinh đơn thuần) của phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ở trẻ em bệnh Wilson.
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh gặp ở cả ba miền Bắc, Trung và
Nam. Miền Nam có nhiều bệnh hơn và thể nặng chỉ gặp ở miền Nam, đặc biệt
các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu long có thể do các bệnh nhi cư trú gần
bệnh viện Nhi Đồng 1, thuộc thành phố Hồ Chí Minh nơi chúng tôi nghiên
cứu. Số ca ở miền Bắc và miền Trung không nhiều cũng góp phần cho việc
không ghi nhận được ca nặng bên cạnh lý do về địa lý, quá xa so với nơi tiếp
nhận bệnh. Các bé thuộc dân tộc tộc ít người như K’Ho (3), Choro (1) v
Roglai (1). Nam mắc bệnh 1,7 lần nữ (34:20). Tuổi trung bình là 11,4±2,4,
đáng lưu ý là 92,6% trẻ trong nhóm nghiên cứu > 8 tuổi. Tuổi nhỏ nhất được
phát hiện lúc 13 tháng. Các thể lâm sàng tối cấp, bệnh gan mạn tính đơn
thuần, thần kinh-gan và thần kinh đơn thuần lần lượt là 6 (11,1%), 29(53,7%),
16(29,6%) và 0%. Mặc dù có 3(5,6%) phát hiện nhờ tầm soát nên không có
triệu chứng nhưng điều đáng lưu ý là phần lớn bệnh nhi đến trong bệnh cảnh
xơ gan thậm chí đã mất bù.
Hầu hết y văn cho thấy nam có xu hướng mắc bệnh nhiều hơn nhưng sự
chênh lệch này không được xác định ở một số nghiên cứu khác, thậm chí của
cùng nhóm tác giả [105],[20]. Ngược lại, cũng có báo cáo ở Đài Loan cho
thấy tỷ lệ nam: nữ = 0,3 nhưng không được xác định lại trong báo cáo sau đó
của cùng tác giả [20]. Trong nhóm của chúng tôi có sự chênh lệch rõ rệt so
với y văn, nam mắc bệnh gấp 1,7 lần nữ. Đây là điểm cần lưu ý cho những
nghiên cứu tiếp theo ở nước ta.
88
Theo Chu [20] nếu bệnh diễn tiến tự nhiên, không điều trị trẻ sẽ tử vong
chỉ trong vài năm sau khởi bệnh (12,2 tuổi so với 15,7 tuổi). Tuổi biểu hiện
bệnh trung bình của bệnh nhi Việt Nam hơi sớm hơn so với mô tả trong y văn (11,4 so với 12,2 tuổi) [20],[104] có thể do chúng tôi chỉ nhận bệnh trẻ em
dưới 15 tuổi trong khi tuổi nhi khoa theo một số nghiên cứu có thể đến 18
tuổi. Điều này có thể thấy rõ hơn khi phân tích tuổi khởi bệnh theo thể lâm
sàng (Bảng 3.6, Biểu đồ 3.1).
Deiss [29] đã đề nghị hệ thống phân loại giai đoạn để lý giải tính đa dạng
của các biểu hiện bệnh Wilson. Ở giai đoạn I, sự tích tụ đồng ngày một nhiều
hơn xảy ra ở bào tương tế bào gan. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi các vị
trí kết nối đồng trong gan được bão hòa. Giai đoạn này không có triệu chứng
và thường xảy ra trước 3 tuổi. Ở giai đoạn II, đồng ở trong tế bào gan được tái
phân bố từ bào tương đến lysosome và đồng thời sẽ phóng thích ra khỏi gan.
Nếu sự phóng thích này xảy ra một cách từ từ bệnh nhân vẫn còn vô triệu
chứng. Nếu sự tái phân bố nhanh, sự hoại tử gan sẽ xảy ra và bệnh nhân bắt
đầu có triệu chứng, dĩ nhiên là của bệnh gan. Thêm vào đó, nếu sự phóng
thích vào máu cũng nhanh thì có thể gây thiếu máu tán huyết. Giai đoạn này
thường đi kèm với suy gan tối cấp, cần phải ghép gan. Tuy nhiên nếu bệnh
nhân qua khỏi giai đoạn II mà không có biểu hiện lâm sàng thì vẫn còn vô
triệu chứng. Ở giai đoạn III, đồng tiếp tục tích tụ ở lysosome và quá trình sợi
hóa hoặc xơ hóa với nhiều mức độ khác nhau sẽ xảy ra. Ở giai đoạn này, sự
tích tụ đồng cũng xảy ra ở các mô khác như não, giác mạc, thận hay hệ
xương. Bệnh nhân vẫn còn vô triệu chứng trong vài năm nếu sự lắng đọng
đồng ở nào diễn ra từ từ. Giai đoạn IV đặc trưng bởi bệnh lý hệ thần kinh
trung ương. Nếu sự tích tụ đồng diễn ra nhanh thì bệnh gan, bệnh thần kinh
hoặc cả hai sẽ trở nên rõ ràng trong thời gian ngắn.
89
Biểu hiện gan đơn thuần là thể lâm sàng thường gặp nhất (29(53,7%),
Bảng 3.4) trong nhóm bệnh nhi của chúng tôi. Nếu tính thêm cả nhóm gan-
thần kinh (16 (29,6%) và tối cấp 6(11,1%)) thì biểu hiện gan là 94,4% gần
giống Sanchez [106] (94% biểu hiện gan /26 bệnh nhi Tây Ban Nha). Theo
Sokol [120], tính gộp 2 nhóm bệnh nhi của Washe và Scheinberg, thì tỷ lệ
bệnh gan hơi thấp hơn chúng tôi, 83% ở trẻ nhỏ hơn 10 tuổi và nhưng chỉ
chiếm 52% ở nhóm 10-18 tuổi. Trong những báo cáo chung cho cả người lớn
và trẻ em tỷ lệ này thấp hơn nhiều, có thể dao động từ 29-67%. Vì chúng tôi
nhận bệnh nhân từ cả Khoa Thần kinh nên ít có sai số trong chọn mẫu, triệu
chứng gan là biểu hiện thường gặp nhất của bệnh Wilson trẻ em Việt Nam.
Điều đáng lưu ý là phần lớn (51,9%, Bảng 3.5) bệnh nhi đến trong bệnh cảnh
xơ gan thậm chí đã mất bù. Nguy hiểm hơn, tỷ lệ Wilson tối cấp khá cao
(11,1%) và xảy ra ở tuổi rất nhỏ và không tiên đoán được tuổi khởi bệnh
(Biểu đồ 3.1). Các bệnh nhân này đều tử vong vì ghép gan cấp cứu chưa sẵn
có Việt Nam [11]. Trong bệnh Wilson tối cấp hoạt tính phosphastase kiềm
giảm đáng kể [56], [103] thường kèm tán huyết nội mạch nên tỷ lệ
phosphatase (UI/L): bilirubin (mg%) < 2. 83,3% (5/6) trường hợp tối cấp của
chúng tôi đều có tỷ lệ này < 1, một trường hợp (ca mã số 4, phụ lục) có tỷ lệ
này là 2,4 lúc đầu nhưng sau đó cũng <2. Điều này rất có ý nghĩa ứng dụng
lâm sàng vì Phosphatase kiềm và bilirubin/máu là hai xét nghiệm thường qui
trong xử trí bệnh gan mật. Cần lưu ý xác định tỷ lệ này để hướng tới bệnh
Wilson trong bệnh cảnh lâm sàng có suy gan nặng.
Biểu hiện thần kinh trong nghiên cứu của chúng tôi không có dạng đơn
thuần (0%) mà đi kèm với biểu hiện gan (29,6%, Bảng 3.4). 50% số trường
hợp này có biểu hiện xơ gan nên việc chẩn đoán tương đối dễ dàng nhưng
chúng ta cũng cần chú ý 50% số trường hợp này có biểu hiện viêm gan mạn
khá kín đáo. Vì vậy trước một bệnh nhân có biểu hiện thần kinh gợi ý bệnh
90
Wison hoặc không rõ nguyên nhân bác sĩ lâm sàng nên chú ý kiểm tra chức
năng gan.
Tuổi trung bình nhóm biểu hiện thần kinh hơi cao hơn các thể khác và
không có trường hợp nào xảy ra trước 9 tuổi. Điều này đã được Saito [104]
ghi nhận với tuổi khởi bệnh của thể gan đơn thuần và thể thần kinh đơn thuần
lần lượt là 9,4±5,4 (5-10 tuổi) và 15±5,3 (9-16 tuổi). Trẻ em Việt Nam bệnh
Wilson cũng có tuổi trung bình biểu hiện triệu chứng thần kinh cao hơn các
nhóm khác (12,1 tuổi so với 11,3 tuổi) và đều xảy ra sau 9 tuổi.
4.2. Xác định tỷ lệ 3 đặc trưng chính của bệnh Wilson: hiện diện vòng
Kayser Fleischer, giảm nồng độ ceruloplasmin trong máu, tăng nồng độ
đồng trong nước tiểu 24 giờ ở trẻ em bệnh Wilson
Mặc dù vòng Kayser Fleischer chỉ xuất hiện 16,7% (Bảng 3.7) trường
hợp tối cấp nhưng đây là một dấu hiện rất quan trọng để chẩn đoán nguyên
nhân suy gan cấp ở trẻ em. Cần lưu ý dấu hiệu này để cho bé đi khám chuyên
khoa mắt sớm khi còn di chuyển được vì điều kiện khám cần bé còn ngồi và
đặt được cằm vào bàn khám có đèn khe. 66,7% trường hợp trong nghiên cứu
của chúng tôi không thể xác định sự hiện diện vòng K-F cũng vì lý do này.
Vòng Kayser – Fleischer, do lắng đọng đồng ở màng Descemet giác
mạc, là một dấu hiệu lâm sàng thường gặp và có giá trị chẩn đoán bệnh
Wilson thể thần kinh. Tuy nhiên chỉ có thể phát hiện vòng này trong 19-82%
trong thể gan mật [11],[123]. Trong nghiên cứu này, Vòng Kayser-Fleischer
được tìm thấy ở 81,3% bệnh nhân có biểu hiện thần kinh, 82,8% bệnh nhân có
biểu hiện bệnh gan mạn tính đơn thuần nhưng chỉ thấy ở 72,2% tổng số bệnh
nhân (Bảng 3.8, 3.9). Chúng ta nên tìm dấu hiệu này thường qui trên các bệnh
nhi vừa có biểu hiện thần kinh và gan hoặc biểu hiện gan hay thần kinh chưa
rõ nguyên nhân.
91
Ceruloplasmin huyết thanh có giá trị bất thường (< 20mg% hoặc
<10mg% tùy phương pháp) trong 94,4% (Bảng 3.10) các bệnh nhi của chúng
tôi. Đây là xét nghiệm thường được dùng nhất để tầm soát bệnh Wilson,
nhưng có thể bình thường tới 27% theo một số báo cáo [56],[65], [124]. Nồng
độ ceruloplasmin huyết thanh cũng có thể thấp trong một số bệnh khác như
thiếu/giảm protein do nhiều nguyên nhân khác nhau [71],[84],[101] ở trẻ sơ
sinh bình thường, người thiếu/không có ceruloplasmin máu bẩm sinh [36]
hoặc ở 10-20% người dị hợp tử [48].
Mốc 20mg% được Scheinberg và Gitlin đưa ra từ 1952 [110] để tính giới
hạn dưới của ceruloplasmin/máu là một trong 3 tiêu chuẩn chính để chẩn đoán
bệnh Wilson trong bối cảnh chưa có phân tích đột biến gien. Ferenci đề nghị
tính điểm dựa trên mức độ giảm của ceruloplasmin/máu dưới mức 20mg%,
theo đó tính 1 điểm nếu từ 10-20mg% và 2 điểm nếu <10mg%. Trong nghiên
cứu của chúng tôi có 9 bệnh nhân làm xét nghiệm định lượng
ceruloplasmin/máu có chuẩn bình thường của phòng xét nghiệm là 10-
30mg%. Vì vậy với nhóm bệnh nhân này chúng tôi áp dụng thang điểm
Ferenci điều chỉnh nhưng không tính được nồng dộ trung bình của
ceruloplasmin/máu trong toàn bộ 54 ca bệnh. Thay vào đó chúng tôi phân tích
số liệu theo 2 giá trị bình thường và thấp (Bảng 3.7, 3.9).
Theo bảng 3.9, trong nghiên cứu này ceruloplasmin giảm trong tất cả
bệnh nhân thể gan mạn đơn thuần và thể thần kinh-gan. Tuy nhiên trong thể
tối cấp có tới 16,7% ceruloplasmin bình thường cho thấy chẩn đoán bệnh
Wilson tối cấp cần dùng thêm xét nghiệm khác. Giá trị tiên lượng dương rất
kém của ceruloplasmin trong bối cảnh suy gan cấp cũng đã được Ferenci đề
cập[43]. Ceruloplasmin bình thường trong những trường hợp này do tính chất
di truyền hoặc do nó là protein pha cấp nên cũng tăng trong tình trạng viêm
nặng. Vì vậy sau đợt viêm cấp nếu vẫn còn nghi ngờ chưa loại trừ bệnh
92
Wilson chúng ta nên cân nhắc thử lại ceruloplasmin trong máu. Chúng tôi sẽ
bàn luận về 66,7% ceruloplasmin/máu bình thường ở các ca không triệu
chứng trong phần tầm soát bệnh.
Định lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ là phương pháp hữu hiệu để xác
định chẩn đoán nếu được lấy chính xác [113]. 81,5% bệnh nhân của chúng tôi
có thông số này cao (Bảng 3.7). 93,8% bệnh nhân có triệu chứng thần kinh có
thông số này bất thường (Bảng 3.10) nên cần nghĩ đến thử đồng/ nước tiểu 24
giờ ở bệnh nhân thần kinh không rõ nguyên nhân có biểu hiện gan. Trong 10
bệnh nhân (8,5%) còn lại có lượng đồng trong nước tiểu bình thường có 6
bệnh nhân được làm test D-Penicillamine vì chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán.
5/6 trường hợp này có đồng trong nước tiểu 24 giờ cao > 5 lần bình thường
sau dùng 2 liều 500mg D-Penicillamine cách 12 giờ.
4.3. Xác định các đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B
4.3.1. Đặc điểm các loại đột biến được phát hiện
Chúng tôi đã phát hiện được 20 loại đột biến (Bảng 3.12) trên 13 exon
và 2 intron (Hình 3.1). Trong đó có 8 đột biến mới, chưa được y văn mô tả
trước đây là T850I, P868P-fs (del C), L902P, L1015R, D1027H,
L1333fsX59, IVS 15-2:A>G và IVS20+3:A> G. Điều đáng lưu ý là 7 (35%)
loại đột biến chỉ gặp một lần.
Các đột biến gặp nhiều nhất là D1027H (16,7%), T850I (10,4%),
P1273Q (8,3%), V176fs (8,3%), S105X (6,3%), G943D (6,3%) và R778L
(4,2%). Đột biến D1270H chỉ phát hiện ở các bé dân tộc ít người.
Trong nhóm các các đột biến được phát hiện (Bảng 3.12), dạng thay thế
nucleotide (substitution) là thường gặp nhất 83,3% (40/48), còn lại là do chèn
thêm nucleotide (insertion) 6,3% (3/48), bất thường trong quá trình cắt ghép
(splicing) 6,3% (3/48) hoặc mất nucleotide (deletion) 4,1 % (2/48). Hậu quả
93
của các tác động này làm đột biến dạng lệch nghĩa (missense) chiếm đa số
70,8% (34/48), còn lại là dạng vô nghĩa (nonsense) 8,3% (4/48), dạng dừng
sớm (premstop) 8,3% (4/46), lệch khung đọc 6,3% (3/48) và bất thường nối
ghép (splicing) 6,3% (3/48).
Đột biến mới D1027H (dữ liệu tham chiếu Dian Cox [26] tháng/2013 và
HGMD [58] tháng 5/2013), nằm trên exon 14 cũng là đột biến thường gặp
nhất trong nghiên cứu của chúng tôi. Đột biến này làm cho acid Aspartic tại vị
trí 1027 của enzym ATP7P bị đổi thành Histidine. Huster [59] đã nghiên cứu
đột biến nhân tạo D1270A (Aspartic bị đổi thành Alanin tại vị trí 1027), cho
thấy sự thay đổi này trong vùng phosphoryl hóa đã làm giảm hoạt tính
phosphoryl hóa rõ rệt, chỉ còn 25,6±8,4 so với bình thường, tốc độ thu nạp
đồng trong 120 phút cũng bị ảnh hưởng trầm trọng, chỉ còn 0,04±0,01 so với
1,33±0,18 nmol/mg protein. Điều này làm gien ATP7B bất hoạt vì không còn
tính năng vận chuyển đồng. Chúng tôi chưa thể xác định cơ chế gây bệnh của
đột biến mới D1027H nhưng khả năng nó là đột biến gây bệnh rất cao vì với
sự giúp đỡ nhiệt tình của TS Hoàng Anh Vũ đã kiểm chứng trên 20 người
chứng khoẻ mạnh đều không thấy đột biến này. Điều đáng lưu ý và thú vị là
đột biến này chỉ tìm thấy ở các bé dân tộc K’Ho, Choro, Roglai với dân số
khoảng 145.857 người K’Ho, 26.455 người Choro và 108.442 người Roglai
(thống kê ước tính 1/7/2003 theo vinaculto.vn ).
Đột biến gặp nhiều thứ 2 trong nghiên cứu này, T850I (10,4%) đã được
chúng tôi mô tả đầu tiên ở Việt Nam ở 2 anh em trai dị hợp tử kép P767P-
fs/T850I [3], [5] bé nhỏ có biểu hiện quá tải đồng rất sớm từ 12 tháng tuổi,
sau đó cũng được mô tả ở miền Bắc Việt Nam [1] và 1 trường hợp dị hợp tử
kép T850I/L1371P ở Thái Lan [99].
Hiện chỉ có 3 báo cáo về đột biến P1273Q [26]. Đột biến này chiếm tỷ lệ
5,6%, cao hơn nhiều so với báo cáo ở Đài Loan [136] (phát hiện đầu tiên)
94
1,7% (1/58 nhiễm sắc thể), Hồng Kông Trung Quốc [83] 2,4% (3/129 nhiễm
sắc thể ) và Ai Cập [8] (1/48 trẻ).
Đột biến V176fs (c.525 - 526insA) làm cho quá trình tổng hợp sản
phẩm protein kết thúc sớm tại vị trí của amino acid thứ 203, kết quả là sản
phẩm protein chỉ có 202 amino acid nên không có chức năng như ATPase có
chiều dài đầy đủ. Đột biến c.525- 526insA cũng tìm thấy trên người Đài Loan,
Hồng Kông và Trung Quốc [130]. Ngoài ra, đột biến cũng được phát hiện ở
bệnh nhân Wilson người Thái Lan [99]
Genschel [49] mô tả đột biến S105X (Hình 3.2, 3.4) đầu tiên ở bệnh
nhân Đức, tiên đoán đột biến này biến serine thành mã kết thúc, tạo ra protein
ATP7B bị cắt cụt sớm tại vị trí của amino acid thứ 105, kết quả là sản phẩm
protein của gien ATP7B chỉ có 104 amino acid. Do đó, protein ATPase bị mất
chức năng chuyển hóa đồng, dẫn đến đồng tích tụ trong gan và não. Đột biến
S105X không tìm thấy trên người Hàn Quốc, nhưng đã được tìm thấy trên
người Hồng Kông, Trung Quốc. Hiện chỉ có hai báo cáo của Hồng
Kông [72], [82] ghi nhận đột biến này với tỷ lệ 2,4% thấp hơn của chúng tôi
là 4,2%. Tại Việt Nam trước đây đã có báo cáo với tỷ lệ rất cao 20% [6] và
45,83% [2] tuy nhiên các nghiên cứu này đều có cỡ mẫu nhỏ.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ đột biến phát hiện ở exon 2 hai đột biến
S105X (6,3%) và V176fs 8,3% (Bảng 3.17), cao hơn nghiên cứu của Mak
[82] với tỉ lệ đột biến trên exon 2 chỉ chiếm 7,9% ở người Hồng Kông và
nghiên cứu của Panichareon [99] với tỉ lệ là 5,3%. Mặc dù, mỗi đột biến trên
exon 2 này có tỷ lệ chưa đến 10% nhưng nó cũng là một trong những exon
được sàng lọc đầu tiên đối với những bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh Wilson ở
Hồng Kông [82]. Điều này cho thấy rằng, exon 2 là exon nên được quan tâm
nhiều trong phát hiện đột biến ở bệnh nhân Wilson ở châu Á và Việt Nam.
95
Đột biến G943D (6,3%) do Tsai [129] tìm ra năm 1998 là đột biến
thường gặp thứ ba ở Đài Loan và cũng được mô tả sau đó ở Ý [39], Đài Loan
[136] và Trung Quốc [83], [130]. Đột biến này làm thay đổi cấu trúc protein
vùng xuyên màng 5 (Transmembrane domain: Tm 5) làm rối loạn chức năng
enzym ATP7B
Đột biến R778L là đột biến chỉ chiếm 4,2% ở nghiên cứu của chúng tôi
trong khi ở châu Á (Thái Lan [100], Nhật Bản [91],[97], Hàn Quốc [64],
Hồng Kông [82], Trung Quốc [51]) có thể chiếm tới 10,52%-49,2 %. Theo
Mak [82], nghiên cứu trên 660 người Trung Quốc gốc Hán ở Hồng Kông, đột
biến này đã có trên 220 thế hệ, với chiều dài trung bình một thế hệ là 25 năm
thì lịch sử xuất hiện của nó là khoảng 5.500 năm. Điểm khá thú vị là đột biến
này lại không tìm thấy trong các báo cáo ở châu Âu và vài vùng ở Bắc Ấn Độ
[31],[63] cho thấy cách phân bố các đột biến có tính chất theo vùng địa lý và
chủng tộc.
Theo Yoo [145] đột biến R778L nằm ở exon 8 mà bản sao chuyển mã
của gien ATP7B trong não thì lại không có exon 8, nên mô não không bị tác
động nhiều do đột biến ở exon 8 mà chủ yếu là gây tổn thương tại gan, tuy
nhiên dạng đồng hợp tử của đột biến từng được y văn ghi nhận là có biểu hiện
ở hệ thống thần kinh [130]
Theo Sandeep [69] hai đột biến R778L và R778G phổ biến ở Trung quốc
và Đài Loan, tương tự như đột biến R778W được tìm thấy ở Châu Âu và cũng
tìm thấy ở Ấn độ. Đột biến tại vị trí R778 này được cho là ngăn cản sự tạo
thành các vùng xuyên màng của gien ATP7b. Ngoài ra, đột biến này làm giảm
khả năng vận chuyển đồng trong các bệnh nhân Wilson. Arginin ở vị trí 778
bị đột biến và có thể thay thế bằng leucin (L), glycin (G) hay tryptophan (W).
Trong nghiên cứu trên bệnh nhân Wilson ở Việt Nam, chúng tôi thấy đột biến
tại vị trí 778, Arginin (R) được thay thế bằng Leucin (L), chứ không gặp các
96
dạng khác. Trong báo cáo của Hương [1], 2/12 (8,3%) bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng nghi ngờ bệnh Wilson được khảo sát đột biến gien ATP7B,
có mang đột biến R778L. Tỷ lệ này hơi cao hơn nghiên cứu của chúng tôi tuy
nhiên cỡ mẫu của nghiên cứu này nhỏ nên có thể không phản ánh đúng tỷ lệ
thật của đột biến này.
Đột biến N1270S chiếm tỷ lệ 2,8% trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn tỷ lệ 5,1% của Đài Loan [136], được Tanzi [126] mô tả đầu tiên ở bệnh
nhân Sicilian năm 1995. Theo Kuppala [70] đột biến này được phát hiện bởi
rất nhiều nhóm nghiên cứu ở Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn
Độ, Bulgary, Ai Cập, Brazil, Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này gợi ý đây là vị trí rất
dễ tổn thương của gien ATP7B.
Cũng làm xáo trộn cấu trúc protein xuyên màng nhưng ở Tm4 là đột biến
2299delC (đứt chuỗi 6 nucleotide toàn là cytosine từ 2299-2304, làm cắt cụt
phần 660 đầu-C còn lại, P767P-fs) đã được Kim và cộng sự [64] mô tả năm 1998 ở Hàn Quốc. Đột biến này cũng gặp ở Trung Quốc [83]
Gu mô tả Q1372X ở người Hán [51] Trung Quốc với cơ chế có thể làm
xáo trộn Tm8 do cắt ngắn protein ATP7B. Việt Nam là nước thứ hai mô tả
đột biến này.
Hai đột biến làm xáo trộn enzym ATP7B tại quai ATP I1148T [79] và
E1173K[78] đều do Loudianos phát hiện ra vào những năm cuối thập niên 90
thế kỷ trước. Ban đầu I1148T được tìm thấy ở bệnh nhân có nguồn gốc Hy Lạp [28], sau đó ở Đức [52], Trung Quốc [51],[130] và Cộng hòa Séc[132],
đột biến này làm thay đổi cấu trúc thứ phát của quai ATP gây suy giảm chức
năng enzym ATP7B. Hậu quả của đột biến E1173K là sự thay thế glutamic
bằng lysin làm thay đổi tính toan thành tính kiềm trong cấu trúc sản phẩm
protein của exon 16. Đột biến này cũng gặp ở Ý và Trung Quốc[51],[130].
97
Ba đột biến còn lại đã được y văn mô tả chiếm tỷ lệ thấp nhưng cho thấy
phổ đột biến ở Việt Nam rất đa dạng, tạo nên rất nhiều tổ hợp kiểu gien.
Đối với 6 đột biến mới khác, 5 đột biến chưa được y văn mô tả là P868P-
fs (del C), IVS 15-2:A>G, L1015R, L1333fsX59 và IVS20+3: A>G (dữ liệu
tham chiếu Dian Cox [26] tháng/2013 và HGMD [58] tháng 5/2013). Đột
biến L1333fsX59 cũng được tìm thấy ở bé trai người dân tộc K’Ho. Chúng tôi
đang thực hiện thêm việc kiểm chứng trên người khỏe mạnh cũng như các
khảo sát chức năng và sẽ báo cáo trong thời gian tới. Đột biến mới L902P
được mô tả sau này ở miền Bắc nhưng bệnh cảnh lâm sàng có triệu chứng
thần kinh [94] không giống biểu hiện gan mạn đơn thuần của trường hợp
chúng tôi đã phát hiện.
4.3.2. Đặc điểm các exon bị tổn thương
Các exon bị tổn thương nhiều nhất là exon 14 (16,7%), 2 (14,6%), 18
(12,5%), 10 (10,4%) và 8 (8,3%) (Bảng 3.14).
Các exon bị đột biến trong nghiên cứu này khá đa dạng và phân bố
tương đối đều nên chúng tôi không tìm thấy exon nào có tỷ lệ bị tổn thương
cao rõ rệt. Năm exon bị tổn thương nhiều nhất (14 (16,7%), 2 (14,6%), 18
(12,5%), 10 (10,4%) và 8 (8,3%)) chiếm 41.6% tổng số nhiễm sắc thể khảo
sát tức là 62,5% (30/48) số nhiễm sắc thể tìm thấy đột biến.
Wu [142] ghi nhận exon 8 và 12 chiếm tới 57% số đột biến ở người
Trung Quốc. Theo Mak [82] ở vùng Bắc Trung Quốc 60,5-74% đột biến nằm
ở 5 exon 8, 12, 13, 16 và 18; Đài Loan 61,8% ở exon 8, 12, 13,16 và 18; Hàn
Quốc 59,8-71,4% ở exon 8, 11và 18; Nhật Bản 60,9-70% ở exon 5, 8, 12, 13
và 18, người Trung Quốc gốc Hán ở Hồng Kông 70% ở exon 2, 8 12, 13 và
16. Điểm tương đồng của nghiên cứu này với y văn trong khu vực châu Á là
các exon 2, 8, 18 đều là các exon dễ bị tổn thương nhất. Tuy nhiên chúng tôi
98
không tìm thấy báo cáo ở châu Á ghi nhận exon 14 có nhiều đột biến. Theo
Curtis [27], ở bệnh nhân gốc Anh 60% đột biến tập trung ở 3 exon 8, 14 và 18
trong đó exon 14 chiếm tỷ lệ 27% (23/77). Điều đáng lưu ý là đột biến
D1270H ở exon 14 trong nghiên cứu này chỉ xuất hiện ở các bệnh nhi dân tộc
ít người. Vì vậy chúng tôi đề nghị nên ưu tiên khảo sát trước các exon 18,10,
8 và 2 cho các bệnh nhân người Kinh và exon 14 đặc biệt là đột biến D1270H
cho bệnh người dân tộc.
4.3.3. Đặc điểm polymorphism
Ngoài ra chúng tôi còn tìm thấy các polymorphism (Bảng 3.11) c.-
525T>C, c.-75A>C, c.-123_-119dupCGCCG (vùng promoter), S406A (exon
2), V456L (exon 3), R832K (exon 10) và A1140V (exon 16). Điều này góp
phần vào tính đa dạng của kiểu gien của người bệnh Wilson Việt Nam cũng
như thế giới. Hơn nữa nó còn giúp chúng ta tăng tỷ lệ phát hiện đột biến trên
những vùng exon tổn thương tương ứng bằng cách tránh hiện tượng bỏ rơi
alen (allele dropout)
4.3.4. Tỷ lệ phát hiện đột biến
37,5% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ phát hiện đuợc 1
đột biến. Cùng với 8,4% không phát hiện được đột biến nào cho thấy việc xác
định đột biến trên bệnh nhi Wilson rất khó khăn. Tỷ lệ phát hiện được đột
biến 66,7 % của chúng tôi phù hợp với thế giới [42],[78],[119]nhưng thấp hơn
97,6% của Mak [82] ở khu vực châu Á. Các yếu tố lý giải cho việc không tìm
thấy đột biến bao gồm đứt đoạn toàn bộ exon, mất hoặc nhân đôi toàn bộ
gien, đột biến vùng intron xa điểm ghép nối (splicing) của exon, đột biến gien
điều hòa hoặc còn một gien khác tham dự vào cơ chế bệnh Wilson [70],[141]
4.3.5. Đặc điểm kiểu gien
99
Kiểu gien đồng hợp tử cả 2 đột biến, dị hợp tử kép, mang một đột biến và
không phát hiện đột biến nào có tỷ lệ lần lượt là 8(22,2%), 7(19,6%),
18(50%) và 3 (8,4%) (Bảng 3.13). Trong 14 tổ hợp kiểu gien đủ 2 đột biến,
chỉ có kiểu đồng hợp tử D1270H/D1270H lặp lại trong 3 bệnh nhi người
K’Ho, có lẽ do dân tộc này còn có văn hóa kết hôn cận huyết. Các kiểu gien
khác chỉ được phát hiện một lần.
Hai mươi dạng đột biến được phát hiện cũng như không có đột biến nào
có tỷ lệ chiếm ưu thế rõ rệt, đặc biệt phần lớn đột biến chỉ xảy ra một lần cho
thấy tính đa dạng về kiểu gien của bệnh này thể hiện rất rõ ở người Việt. Điều
này phù hợp với y văn vì hiện nay theo cơ sở dữ liệu của Dian Cox [26] số
đột biến gien ATB7P đã vượt quá 500. Phần lớn các đột biến này chỉ xảy ra ở
vài bệnh nhân gốc và các thành viên trong gia đình của họ. Chỉ có đột biến
H1069Q có thể gặp đến 34-72% ở Bắc Âu [58]. Đột biến này cũng phổ biến ở
Đông và Trung Âu, Châu Mỹ nhưng không tìm thấy ở châu Á. Trong nghiên
cứu này chúng tôi cũng không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào có đột biến này
dù nó được ưu tiên tầm soát trước tại Áo.
4.4. Xác định bước đầu mối liên quan kiểu gien-kiểu hình của bệnh
Wilson ở trẻ em Việt Nam
Mối liên quan kiểu hình với kiểu gien của bệnh Wilson vẫn còn là chủ
đề nóng [95]. Người ta tìm mối liên quan này chủ yếu dựa vào 2 cách tiếp cận
chính là (i) dựa vào các cá thể độc lập có đột biến giống nhau, đặc biệt các
trường hợp đồng hợp tử và (ii) dựa vào các bệnh nhân trong cùng gia đình,
đặc biệt các trường hợp song sinh. Phần lớn y văn đều tập trung nghiên cứu
kiều hình của đột biến thường gặp nhất ở châu Âu H1069Q. Đột biến này có
xu hướng biểu hiện bệnh muộn hơn và có biểu hiện thần kinh [122]. Tuy
nhiên những nhóm nghiên cứu khác lại cho thấy không có sự khác biệt có ý
100
nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân đồng hợp tử đột biến này và những bệnh nhân khác về tuổi khởi bệnh và biểu hiện lâm sàng [95].
Chúng tôi không ghi nhận được bệnh nhi nào có đột biến này mặc dù
nó được ưu tiên khảo sát trước.
Chúng tôi ghi nhận trong nghiên cứu này tất cả các trường hợp kiểu
gien bị đột biến đồng hợp tử đều có vòng Kayser-Fleischer và đều có nồng độ
ceruloplasmin máu thấp. Tuy nhiên, nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ
không cao trong tất cả các trường hợp đồng hợp tử này (Bảng 3.17). Điều này
cho thấy bệnh sinh của vòng Kayser-Fleischer khá phức tạp, không chỉ đơn
thuần do sự lắng đọng đồng ở mắt khi sự tích tụ đồng trong gan đã quá
ngưỡng. Người ta cho rằng đồng lắng đọng ở giác mạc từ thủy dịch chứ
không phải từ tuần hoàn vùng rìa và có tính hệ thống nên xảy ra ở 2 bên mắt
[125]. Điều này được giả định từ quan sát của Innes [60] cho thấy vòng
Kayser-Fleischer chỉ hiện diện ở một mắt không bị sẹo của bệnh nhân Wilson.
Mắt bị sẹo có tuần hoàn vùng rìa bình thường trong khi thủy dịch bị giảm
đáng kể. Rodman cũng không tìm thấy sự liên quan giữa sự thải đồng qua
nước tiểu 24 giờ với sự hiện diện của vòng Kayser-Fleischer ở bệnh nhân
Wilson tiền triệu chứng. Quan sát của nhóm tác giả ở Hungary [46] cho thấy
bệnh nhân có kiểu gien đồng hợp tử H1069Q thường có vòng Kayser-
Fleischer hơn các nhóm còn lại nhưng không nêu rõ có ý nghĩa thống kê hay
không. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt giữa thải đồng trong nước tiểu
24 giờ giữa 2 nhóm đồng hợp tử và dị hợp tử kép nhưng vòng KF lại hiện
diện khác biệt có ý nghĩa thống kê trong 2 nhóm này (Bảng 3.20) cho thấy ớ
bệnh nhân Wilson Việt Nam bệnh sinh của vòng Kayser-Fleischer có lẽ
không phụ thuộc hoàn toàn vào sự phóng thích đồng từ gan đã tích tụ quá tải
vào máu. Gần đây người ta nhận thấy biểu hiện tính trạng của gien ATP7B
(tức là enzym ATP7B) cũng có nhưng ở mức thấp hơn ở gan rất nhiều tại các
101
cơ quan khác như não, thận, nhau, tuyến vú, ruột và phổi cùng với enzym
ATP7A [80],[141]. Các cơ quan này có hiện tượng bù chức năng của ATP7A
nên chỉ khi quá khả năng bù thì mới bị đồng tích tụ và làm tổn thương. Phải
chăng gien ATP7B của người Việt Nam khi bị đột biến đồng nhất cũng biểu
hiện protein của nó ở giác mạc của các bệnh nhân đồng hợp tử này?
Các quan sát khác cho thấy suy gan tối cấp thường có xu hướng xảy ra
ở bệnh nhân có đột biến làm cắt cụt protein. Bệnh nhân có đột biến vô nghĩa,
dịch khung đọc hoặc bất thường nối ghép sẽ bị bệnh sớm và nặng hơn, cần theo dõi cẩn thận nhóm này vì có thể chuyển thành thể tối cấp [73] . Chúng tôi
không tìm thấy sự khác biệt về tuổi biểu hiện lâm sàng giữa nhóm có đột biến
lệch nghĩa với nhóm còn lại (Bảng 3.23), thậm chí nhóm đột biến dừng sớm
và bất thường nối ghép lại có tuổi cao hơn nhóm lệch nghĩa (Bảng 3.24). Điều
này có thể do khác biệt về phổ đột biến nhưng cũng không loại trừ do bệnh
nhân nhóm không-lệch nghĩa đến với chúng tôi trễ do bị chẩn đoán sai hoặc
do ở xa Bệnh viện Nhi Đồng 1. Hơn nữa chúng tôi cũng không thu thập được
số liệu tuổi khởi bệnh bên cạnh tuổi đến khám khi đã có biểu hiện lâm sàng rõ
ràng và mẫu cũng không lớn.
Theo Lee [73] bệnh nhân có đột biến dạng vô nghĩa, dịch khung hoặc nối
ghép thường bị tối cấp hơn, biểu hiện bệnh sớm hơn và ít gặp N1 N2 NX hơn
so với dạng lệch nghĩa đơn thuần. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, biểu hiện
thần kinh lại gặp ít hơn ở nhóm lệch nghĩa (4/18 so với 5/12) và trường hợp
tối cấp lại có kiểu gien dị hợp tử kép 2 đột biến lệch nghĩa (Bảng 3.19, 3.21-
24). Bảng 3.19 ghi nhận ở 5 trẻ dân tộc ít người, cho thấy kiểu gien đồng hợp
tử D1027H/D1027H đều ứng với kiểu hình xơ gan đơn thuần không có biểu
hiện thần kinh, vòng KF (+), ceruloplasmin/máu giảm, đồng nước tiểu 24 giờ
cao ở 2 bé gái nhưng bình thường ở bé trai dù nhập viện trong cùng bệnh cảnh
xơ gan cổ chướng. Sự thay thế D1027H bằng một đột biến khác đã gây ra
102
bệnh cảnh lâm sàng khá khác biệt. Với đột biến L795F thì bé gái bị suy gan
tối cấp có kèm tán huyết nặng và tử vong sau đó, trong khi với đột biến
L1333fsX59 thì bé trai cũng bị viêm gan cấp, rối loạn đông máu, có tán huyết
nhưng hồi phục sau đó và đáp ứng rất tốt với D-Penicillamine. Điều rất thú vị
là bé trai này cũng có đồng trong nước tiểu 24 giờ bình thường. Có vẻ bên
cạnh kiểu đột biến thì giới tính cũng góp phần quyết định kiểu hình của bệnh
Wilson.
Bệnh nhân có cả 2 đột biến trong vùng biến năng (Td) hoặc quai ATP
thường không triệu chứng hoặc chỉ biểu hiện gan mà không có triệu chứng
thần kinh [13], [73],[74],[88]. Tuổi trung bình lúc biểu hiện bệnh của nhóm
bệnh nhân này 11,4±9,1 (2,9-34,2) và không có triệu chứng thần kinh xuất
hiện sau thời gian theo dõi 9,2±5,5 (2,6-19,3) năm. Quai ATP liên kết vùng
gắn kết ATP với vùng xuyên màng thứ 7 của enzym ATP7B như một cái
vòng lỏng lẻo. Vì vậy đột biến ở vùng này làm giảm sự liên kết. Tác giả cũng
ghi nhận các đột biến ở vùng biến năng (Td) cũng gây các biểu hiện tương tự.
Vùng biến năng điều phối năng lượng ATP cho việc vận chuyển kim loại.
Thật khá thú vị khi bệnh nhân nam 13 tuổi (Bảng 3.15), đồng hợp tử đột biến
P1273Q/P1273Q trên exon 18, làm tổn thương vùng quai ATP lại có lý do
nhập viện vì khó nói và viết chữ xấu.
Gần đây người ta đều nhất trí với giả thuyết không chỉ một mình loại đột
biến quyết định kiểu hình mà còn có vai trò thêm vào của các gien điều chỉnh
còn chưa biết khác và các yếu tố môi trường [141]. Các yếu tố đó là:
polymorphism trong gien, apolipoprotein E, prion protein,
methylenetetrahydrofolate reductase, gien Murr1 chuyển hóa đồng,
antioxidant 1, các chất ức chế sự tự tiêu tế bào theo chương trình gắn với
nhiễm sắc thể X, các chất liên quan chuyển hóa sắt, các quá trình viêm, stress
oxy hóa và thậm chí giới tính [73].
103
Chúng tôi cũng ghi nhận được ở các bệnh nhân có kiểu gien đồng hợp tử
thì ceruloplasmin/máu đều thấp, vòng KF đều hiện diện và đồng nước tiểu 24
giờ tăng trong đa số nhưng không phải tất cả các trường hợp này (Bảng 3.17)
Ngoài ra không có sự tương quan giữa exon tổn thương, loại đột biến cụ
thể, kiểu phối hợp các đột biến với tuổi, giới, thể lâm sàng chính, biểu hiện
gan (bảng 3.18a,b; 3.25-6).
Từ các điểm trên cho thấy biểu hiện kiểu gien và lâm sàng bệnh Wilson
ở trẻ em Việt Nam rất đa dạng và có thể có khác biệt so với các vùng khác.
Không có trường hợp kiểu gien bị đột biến đồng hợp tử nào có nồng độ
ceruloplasmin trong máu bình thường. Tất cả các trường hợp kiểu gien bị đột
biến đồng hợp tử D1027H, G943D, L1371P, L902P và S105X đều có vòng
Kayser-Fleischer và khác biệt có ý nghĩa thống kê với nhóm dị hợp tử kép.
4.5. Xác định kết quả tầm soát bệnh Wilson cho cha, mẹ, anh, chị, em
ruột của bệnh nhi Wilson bằng lâm sàng, sinh hóa và phân tích đột biến
phân tử gien ATP7B
Về mặt lịch sử, bệnh Wilson được nhận ra đầu tiên hoàn toàn bằng lâm
sàng khi bệnh nhân có triệu chứng thần kinh điển hình và xơ gan, và sau đó
nhờ phát hiện ra vòng Kayser-Fleischer. Nhưng ở giai đoạn này bệnh đã quá
trễ, bệnh nhân thường tử vong hoặc tàn tật suốt đời. Mãi cho đến khi biết
được ceruloplasmin huyết thanh giảm trong 95% bệnh Wilson người ta mới
thật sự nghĩ đến việc chẩn đoán bệnh sớm/tầm soát để cứu sống bệnh nhân
hoặc điều trị phục hồi. Nhưng sau đó chẳng bao lâu người ta sớm nhận ra một
mình ceruloplasmin không thể chẩn đoán xác định được bệnh vì có tới 20%
người dị hợp tử (người lành mang gien bệnh) có ceruloplasmin thấp. Một số
bệnh gan nặng hoặc các tình trạng mất protein cũng làm ceruloplamin thấp. Ở
một bệnh lý hiếm gặp khác, bệnh không có ceruloplasmin (aceruloplamin)
bệnh nhân hoàn toàn không có chất này trong huyết thanh nhưng lại không bị
104
tích tụ đồng. Ngược lại tới 45% bệnh nhân Wilson thể gan có ceruloplamin ở
giới hạn thấp của người bình thường. Nếu dùng ceruloplasmin để tầm soát
bệnh thì giá trị tiên lượng dương chỉ khoảng 6%[43]. Ở trẻ em bệnh Wilson
có 16-30% trẻ có ceruloplasmin bình thường [43]. Gần đây Kim, trong một
nghiên cứu ở trẻ em Hàn Quốc trên 2.834 trẻ bị viêm gan có 6,4% trẻ bệnh
Wilson đã xác định với điểm cắt 20mg% thi ceruloplasmin máu có độ nhạy
cảm, độ đặc hiệu và độ chính xác trong chẩn đoán bệnh Wilson lần lượt là
93,4%, 84,2% và 84,8%. Trong nghiên cứu của Kim có 14,7% dương tính giả
và 0,4% âm tính giả. Tuy nhiên khí hạ điểm cắt xuống 16,6 mg% thì có thể
chẩn đoán bệnh với độ chính xác cao hơn, 94,7% với độ nhạy cảm là 94,9%
và độ đặc hiệu là 94,9% [65]. Hơn nữa, vì ceruloplasmin là một loại protein
pha cấp nên có thể tăng trong các tình trạng viêm, đặc biệt viêm gan nặng. Vì
vậy ceruloplasmin thấp không đủ để chẩn đoán bệnh và cao thì cũng không
thể loại trừ bệnh [36],[42],[48],[65],[71],[84],[101],[110],[113],[123],[124].
Sự thải đồng trong nước tiểu tăng đáng kể trong bệnh Wilson nhưng giá
trị chẩn đoán của nó lại giới hạn. Định lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ có
thể không chính xác do quá trình lưu giữ nước tiểu trong ngày, đặc biệt ở trẻ
em và bé gái hoặc do nhiễm đồng từ nguồn khác. Chỉ số này có thể thấp ở
bệnh nhân tiền triệu chứng nhưng sẽ tăng cao >1600mcg/24 giờ sau khi dùng
2 liều D-Penicillamine 500mg cách nhau 12 giờ. Mặt khác đồng có thể thải ra
nước tiểu rất nhiều trong bất kỳ bệnh lý nào gây hoại tử tế bào gan nặng [36],
[42],[48],[71],[84],[101],[110],[113],[123],[124].
Đồng trong mô gan tăng trong 82% bệnh nhân Wilson và thường vượt
quá 250 mcg/g mô gan khô (bình thường <50 mcg/g mô gan khô). Nếu không
có các bất thường sinh hóa khác chẩn đoán xác định Wilson không thể chỉ
dựa vào chỉ số này. Các tình trạng ứ mật mạn tính, trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và ngộ
độc đồng ngoại sinh đều có thể có đồng trong mô gan >250mcg/g mô gan
105
khô. Mặt khác do đồng phân bố trong mô không hoàn toàn đồng nhất nên nếu
chỉ số này bình thường cũng không loại trừ được bệnh [36],[42],[48],
[71],[84],[101],[110],[113],[123],[124].
Vì vậy để chẩn đoán bệnh Wilson cần phải dựa vào nhiều yếu tố. Thang
điểm Ferenci đánh giá một cách hệ thống các dấu hiệu lâm sàng và xét
nghiệm hiện có để chẩn đoán bệnh. Nếu với những dấu hiệu và kết quả sẵn có
mà đã đủ 4 điểm hoặc hơn thì không cần làm thêm các xét nghiệm khác (bảng
3.28). Phân tích đột biến cho những trường hợp ít điểm hơn và rất có ý nghĩa
cho tầm soát bệnh nhân tiền triệu chứng [25],[76],[81],[117],[128],[131].
S-ca 1 được phát hiện hoàn toàn nhờ vào lâm sàng và các xét nghiệm
thường qui (điểm WD là 7). Bệnh nhi này có anh bị xơ gan và khó nói, viết
chậm, thay đổi tính tình và được chẩn đoán bệnh lúc 19 tuổi. Tuy có cơ hội
được chẩn đoán sớm hơn 7 năm nhưng bệnh nhân này đã có triệu chứng thần
kinh là nói khó, viết khó và chảy nước dãi (droofing) và lách to. Xét nghiệm
chức năng gan cho thấy biểu hiện xơ gan (INR: 1,5, Fibrinogen: 2,1g/L). Kết
quả đột biến hoàn toàn tương đồng với người anh, đồng hợp tử G943D. Đột
biến G943D do Tsai [129] tìm ra năm 1998 là đột biến thường gặp thứ ba ở
Đài loan và cũng được mô tả sau đó ở Đài Loan [136], Trung Quốc[51],[83]
nhưng dưới dạng dị hợp tử kép với R778L. Các bệnh nhân này cũng có biểu
hiện thần kinh và khởi phát lúc 15, 18 tuổi.
Mặc dù có tăng AST và ALT nhưng S-ca 2 hoàn toàn bình thường trên
lâm sàng và không có vòng KF. Với 3 điểm WD, để chẩn đoán xác định bệnh
cần phải làm thêm xét nghiệm. Sinh thiết gan trên bệnh nhi này rất khó được
người nhà chấp nhận vì trẻ “hoàn toàn bình thường” trong khi người chị (ca
2) chỉ biểu hiện viêm gan mạn phát hiện do vàng da. Kết quả đột biến
L1015R/? tương đồng giữa 2 chị em giúp chẩn đoán xác định cho S- ca 2 mà
không cần phải làm thủ thuật xâm lấn.
106
Nếu không có kết quả di truyền học chúng tôi đã bỏ sót S-ca 3. Bé gái
này hoàn toàn không có triệu chứng lâm sàng và nhãn khoa, đồng niệu 24 giờ
ở mức bình thường cao nhưng không đủ tính 1 điểm (>100mcg/24 giờ).
Ceruloplasmin nằm trong giới hạn bình thường theo chuẩn của nơi xét
nghiệm (xét nghiệm lần 2:20mg%). Test D-Penicillamine đã không được thực
hiện nhưng với kết quả khá cao như đã làm sau khi có kết quả đột biến
(998mcg/24 giờ) thì vẫn <1600mcg/24 giờ nên cũng cần sinh thiết gan xác
định thêm vì chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán. Bệnh nhân này có kiểu dị hợp tử
kép P868P-fs (del C)/T850I tương đồng với người chị có biểu hiện thần kinh
(không tập trung, nói khó, viết khó, giảm các vận động tinh tế) từ năm 17 tuổi
và có kèm xơ gan khi được chẩn đoán lúc 20 tuổi. P868P-fs (del C) là đột
biến mới chưa được mô tả trong y văn. Y văn cũng đã mô tả một trường hợp
được phát hiện nhờ phân tích phân tử gien ATP7B sau khi bị bỏ sót 18 năm
[83]. Gần đây một số tác giả [31],[32],[96],[103] cho rằng nên chọn ngưỡng
đồng niệu là 0.64mmol (40 mcg)/24 giờ để nghĩ đến bệnh Wilson trong tầm
soát ca bệnh nhẹ hoặc không triệu chứng và làm thêm xét nghiệm/thăm khám.
Qua trường hợp này, chúng tôi cho rằng nếu không phân tích được đột biến /
haploptye thì ngưỡng 40mcg/24 giờ là ngưỡng an toàn để tầm soát các thành
viên ruột thịt của người bệnh Wilson.
Khi được chẩn đoán lúc 10 tuổi Ca 4 đã có biểu hiện tăng áp cửa rất
nặng và được cắt lách vì vỡ dãn tĩnh mạch thực quản sau khi được chích xơ 3
đợt. Giảm bạch cầu nặng trong khi điều trị thải đồng bằng D-Penicillamine
cũng là yếu tố góp phần cho chỉ định cắt lách ở bé trai này vì tại thời điểm đó
Trientine chưa có ở Việt Nam. Với kiểu gien dị hợp tử kép P676P-fs/T850I
hoàn toàn tương đồng với Ca 4, S- ca 4 được chẩn đoán xác định lúc 8 tháng
tuổi. Bệnh Wilson thường biểu hiện lâm sàng từ 3-55 tuổi nhưng tuổi không
phải là yếu tố loại trừ bệnh này vì đã có báo cáo bệnh biểu hiện ở 9 và 13
107
tháng với tăng transaminase, xơ gan lúc 3 tuổi, suy gan cấp lúc 5 tuổi [10]
[15],[23],[61],[62],[75],[139]. Bệnh nhân của chúng tôi được chẩn đoán từ rất
nhỏ, có biểu hiện quá tải đồng trên sinh hóa khi thử lại lúc 12 tháng tuổi
(đồng huyết thanh: 13,9mcmol/L, Ceruloplasmin 16mg%, đồng tự do:
40,9mcg/dL và đồng niệu/24 giờ là 52mcg). Đến 13 tháng tuổi thì đồng niệu
đã là 90mcg/24 giờ vượt quá 40mcg là ngưỡng quá tải đồng như đã nói ở trên.
Do là bệnh hiếm gặp và di truyền lặn nên bệnh Wilson rất ít khi xảy ra
ở hai thế hệ liên tiếp. Chỉ vài báo cáo đề cập đến vấn đề này như chủ yếu là
báo cáo ca [14],[33], [35], [45]. Các hiệp hội Gan Mật trên thế giới đều chỉ
khuyến cáo tầm soát anh chị em ruột và con của người bệnh mà không tầm
soát cha mẹ của họ. Người ta cho rằng anh chị em ruột ca bệnh có nguy cơ
25% bị bệnh và con của người bệnh có nguy cơ bệnh là 0,5%. Tuy nhiên gần
đâ có báo cáo cho rằng nên tầm soát luôn cả cha mẹ [21], [34]. Lý do nên tầm
soát cha mẹ ca bệnh là: (i) tỷ lệ mắc bệnh ước lượng là 0,5%, (ii) có sự không
đồng nhất trong kiểu hình của cùng một kiểu gien (iii) không tiên đoán được
tuổi khởi bệnh và tuổi có biểu hiện lâm sàng và (iv) kiểu gien của cha mẹ trẻ
bệnh chưa chắc đã giống hoàn toàn với trẻ. Vì vậy có thể trẻ đã có triệu
chứng lâm sàng rõ nhưng cha mẹ trẻ có thể vẫn còn không triệu chứng hoặc
có biểu hiện lâm sàng khác. Chúng tôi phát hiện 1/42 cha mẹ (2,3%) mắc
bệnh dù lâm sàng không triệu chứng. Cần lưu ý đối với nhóm này nếu qua
cách tìm trực tiếp đột biến đã biết từ ca bệnh mà chỉ phát hiện được một bất
thường thì chúng tôi tiếp tục giải trình tự trực tiếp cả gien ATP7B. Các trường
hợp còn lại chúng tôi không giải trình tự toàn bộ 21 exon gien ATP7B. Vì vậy
nghĩ đến việc tầm soát cha mẹ trẻ bệnh là một bước rất cần thiết và quan trọng
trong chẩn đoán sớm bệnh Wilson. Thậm chí có tác giả còn khuyến cáo tầm
soát xa hơn cho anh chị em ruột của cha mẹ trẻ bệnh [34].
4.6. Xác định hiệu quả điều trị bệnh Wilson ở trẻ em.
108
Trong 54 ca bệnh Wilson đến với chúng tôi có 22 (40,7%) bỏ tái khám
(Bảng 3.29) nên không đủ dữ liệu để phân tích thêm về điều trị. Lý do bỏ tái
khám không được khảo sát đầy đủ, nhưng có thể do bệnh đã quá nặng, nhà xa,
không có thuốc điều trị và chi phí điều trị lớn.
Với 32 trường hợp còn lại có 75% đáp ứng với điều trị và 25% tử vong
(75% tối cấp tử vong lúc được phát hiện trong lần đầu nhập viện Bệnh viện
Nhi Đồng 1, 25% do bệnh xơ gan nặng giai đoạn cuối, kèm triệu chứng thần kinh ). Ghaffar [8] nghiên cứu 61 trường hợp trẻ em cũng cho thấy tỷ lệ tử
vong rất gần với tỷ lệ của chúng tôi (6 (9,8%) tử vong sớm và 10 (16,4%) tử
vong trễ sau đó). Tác giả cũng ghi nhận có 6,5% trường hợp bệnh xấu đi dù
tuân thủ điều trị. Chúng tôi không có nhóm bệnh nhân này nhưng có thể nhóm
này nằm trong nhóm bỏ tái khám. Với nhóm đáp ứng điều trị thì kết quả rất
ngoạn mục, có những trường hợp phục hồi tốt (tất cả bất thường sinh hóa đều
trở về bình thường) dù xơ gan nặng (Bảng 3.29-32). Tất cả các trường hợp
viêm gan mạn đều phục hồi hoặc cải thiện. Tỷ lệ 50% cải thiện gần giống tỷ
lệ Ghaffar ghi nhận ở nhóm trẻ Ai Cập. Tuy nhiên tác giả này không phân biệt
rõ nhóm hồi phục hoàn toàn và cải thiện [8].
Scheinberg và Sternlied từ 1984 [112] cũng đã cho rằng sau khi điều trị
bệnh Wilson có 3 kiểu đáp ứng: hồi phục về tình trạng khỏe mạnh, diễn tiến
xấu rồi tử vong dù tuân thủ điều trị và chỉ cải thiện một phần hoặc không
nặng hơn nữa nhưng không về bình thường được. Có thể cơ chế do kiểu gien
của bệnh quyết định. Gần đây Nicastro [95] nghiên cứu trên 58 trẻ người Y
cho thấy tử vong xảy ra ở 17,2% nhóm có đột biến làm cắt cụt protein so với
chỉ 8% nhóm có đột biến điểm lệch nghĩa. Tác giả cũng ghi nhận sau khi điều
trị số bệnh nhân có đột biến vô nghĩa/ dịch khung cũng kém đáp ứng điều trị
(ALT về bình thường) hơn hẳn nhóm có đột biến lệch nghĩa (45,5% so với
23,6%).
109
Trientine là thuốc điều trị bệnh Wilson có hiệu quả và được chỉ định
cho những bệnh nhân không dung nạp hoặc có những biểu hiện cho thấy nguy
cơ không dung nạp D-Penicillamine (bất kỳ loại bệnh thận nào, lách to sung
huyết gây giảm tiểu cầu nặng, xu hướng tự miễn). Nói chung các phản ứng
phụ của D-Penicillamine sẽ mất đi khi được chuyển qua dùng Trientine và
không bị tái phát khi tiếp tục dùng Trientine dài hạn. Triệu chứng thần kinh
xấu đi sau khi dùng Trientine cũng đã được báo cáo nhưng ít hơn D-
Penicillamine nhiều. Trientine cũng được chứng minh là thuốc điều trị khởi
đầu rất hiệu quả cho bệnh Wilson thậm chí đã có biểu hiện xơ gan mất bù.
Trientine chưa có giấy phép lưu hành ở Việt Nam nên nguồn thuốc
Trientine là từ Hoa Kỳ cung cấp. Những năm gần đây nguồn viện trợ không
đều vì chính sách giá thuốc thay đổi ở Hoa Kỳ làm chi phí cho một năm điều
trị bằng Trientine lên khoảng 300,000 đô la Mỹ cho một bệnh nhân người lớn
[115]. Vào những thời điểm không có Trientine chúng tôi phải dùng D-
Penicillamine thay thế hoặc dùng kẽm nếu bệnh nhân dị ứng D-Penicillamine
(Bảng 3.32).
D-penicillamine: được Walshe [134] đưa vào điều trị bệnh Wilson vào
năm 1956. D-Penicillamine được cho là sản phẩm thoái biến của Penicillin
nhưng thực sự nó đã được thay thế nhóm sulfhydryl bằng 2 nhóm methyl và
có hoạt tính nắm giữ và làm bất hoạt đồng (chelating agent). Ngày nay người
ta đã tổng hợp được D-Penicillamine trực tiếp theo cấu tạo của nó nên không
còn lo ngại vấn đề nhiễm penicillin cũng như hoạt tính kháng pyridoxine của
hỗn hợp racemic như lúc trước. Tuy nhiên cũng cần dùng bổ sung 25-50mg
pyridoxine mỗi ngày khi điều trị bằng D-Penicillamine. Tác dụng chính của
nó là tăng thải đồng qua nước tiểu. D-Penicillamine cũng có tác động làm
tăng metallothionein trên bệnh nhân Wilson. D-Penicillamine được hấp thu
nhanh chóng qua đường tiêu hoá khi đói.
110
Có rất nhiều nghiên cứu chứng minh hiệu quả của D-Penicillamine
trong điều trị bệnh Wilson có triệu chứng. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu của
điều trị 10-50% bệnh nhân có triệu chứng thần kinh xấu hơn. Trong một báo
cáo gần đây triệu chứng thần kinh cũng xấu đi trong cả 3 phương pháp điều trị
(D-Penicillamine, Trientine và kẽm) nhưng D-Penicillamine là nhiều nhất
[86] 13,8%. Đối với nhóm bệnh nhân có biểu hiện gan thời gian hồi phục
chức năng tổng hợp và cải thiện các triệu chứng lâm sàng như vàng da, cổ
chướng thường là 2-6 tháng nhưng quá trình hồi phục hơn nữa có thể xảy ra
trong năm đầu. Không tuân thủ duy trì chắn chắn sẽ làm bệnh gan tiến triển
và suy gan trong 1-12 tháng bỏ trị, dẫn tới tử vong hoặc phải ghép gan.
Kẽm được Schouwink [54],[55] dùng ở Hà Lan vào những năm đầu
thập niên 60 thế kỷ trước. Cơ chế hoạt động của nó khác D-Penicillamine và
Trientine, nghĩa là ngăn sự hấp thu đồng từ đường tiêu hóa. Kẽm thúc đẩy tế
bào ruột tạo ra các metallothionein là loại protein giàu cystein có vai trò như
chất gắn kết và bất hoạt đồng nội sinh. Các chất này có ái lực với đồng mạnh
hơn kẽm vì vậy sẽ gắn kết đồng trong tế bào ruột làm cho nó không vào hệ
cửa được. Một khi bị gắn kết đồng sẽ không được hấp thu và bị thải ra ngoài
theo phân khi tế bào ruột chết đi theo quá trình tái tạo thông thường của ống
tiêu hóa. Bởi vì đồng cũng đi vào ống tiêu hóa từ nước bọt và chất tiết dạ dày
nên điều trị bằng kẽm cũng có thể gây ra cân bằng chuyển hóa đồng âm và
theo đó loại bỏ đồng dự trữ. Kẽm cũng còn tác động bằng cách tăng
metallothionein ở gan.
Cần tính liều kẽm phải tính theo kẽm nguyên tố. Dùng kẽm phải tránh
xa bữa ăn và các nước giải khát ngoại trừ nước lọc ít nhất 1 giờ. Phytate và
chất sợi trong thực phẩm gắn kết với kẽm làm nó không vào tế bào ruột được.
Liều kẽm tối thiểu là 75mg/ngày mới đủ ức chế hấp thu đồng và phải cho ít
111
nhất 2 lần/ngày. Nếu có tác dụng phụ, thường là kích ứng dạ dày, thì cũng có
thể dùng gần bữa ăn với liều cao hơn.
Hiệu quả tạo metallothionein có tính tích lũy. Trong một nghiên cứu sự hấp thu dùng 64Cu cần 2 tuần để điều trị kẽm đạt mức ức chế hoàn toàn hấp
thu kẽm. Quá trình giải ức chế (nghĩa là hết tác dụng của kẽm) cũng xảy ra
tương đối chậm, với thời gian bán hủy khoảng 10 ngày. Điều này rất có ý
nghĩa lâm sàng vì nếu bệnh nhân quên thuốc khi đi du lịch, công tác hoặc nếu
bệnh dạ dày ruột thì không bị nguy cơ mất khả năng ức chế hấp thu đồng
trong khoảng thời gian này.
Khi điều trị kẽm, do cơ thế ức chế hấp thu này, bệnh nhân có thể không
cần tuân thủ nghiêm ngặt việc tiết chế đồng trong thức ăn. Chỉ cần kiêng hoàn
toàn gan và động vật nhuyễn thể, còn các thức ăn khác có thể dùng số lượng
như người bình thường.
Kẽm có thể dùng phối hợp với các thuốc thải đồng khác như D-
Penicilamin, Trientine hoặc TM, ngay từ đầu khi đồng còn tích tụ nhiều. Với
bệnh nhân có biểu hiện gan, dùng kẽm với một các chất thải đồng sẽ tạo
metallothionein ở gan, tạo phức hợp với đồng làm giảm độc tính đồng tự do
có tính oxy hoá. Tuy nhiên trong giai đoạn duy trì dùng cùng lúc nhiều thuốc
thải/ức chế đồng không có lợi hơn dùng một loại. Ví dụ dùng kẽm acetate với
D-Penicillamine sẽ gây ra cân bằng đồng âm như là dùng một trong hai thuốc.
Điều này có lẽ do khi đồng tích tụ ở gan không còn nhiều nữa thì D-
Penicillamine tạo phức với kẽm ở mức độ nào đó, làm giảm tác dụng của cả
hai. Điều này cũng xảy ra với điều trị phối hợp kẽm và Trientine.
Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào cải thiện lâm sàng, sinh hóa và đo
đồng trong nước tiểu 24 giờ, phải <75mcg khi điều trị ổn định. Thêm vào đó
cần tính đồng không gắn kết ceruloplasmin và chỉ số này cũng phải trở về
112
bình thường. Cần kiểm tra kẽm trong nước tiểu định kỳ để đánh giá sự tuân
thủ điều trị của bệnh nhân.
Xét về tính hiệu quả của điều trị bệnh Wilson, đánh giá các tiêu chí đưa
ra trong các nghiên cứu cũng như các báo cáo loạt ca rất khó vì diễn tiến các
triệu chứng của gan và thần kinh thường không được đánh giá trong một thời
gian theo dõi đủ dài. Một vấn đề khác là bản thân các tiêu chí này cũng khó
đánh giá. Đối với các biểu hiện gan, tiêu chí đánh giá là sự sống còn mà
không cần ghép gan hoặc các thay đổi sinh hóa bất thường thì dễ thực hiện
nhưng còn các tiêu chí thần kinh thì rất khó đánh giá một cách định lượng. Để
cải thiện cho cho điều này người ta đã đề nghị thang điểm và cũng đã lượng
giá nó nhưng hiện nay chưa có nghiên cứu đoàn hệ nào dùng nó để đánh giá
cũng như chưa có nơi nào ứng dụng trên thực hành lâm sàng.
Hầu hết các dữ liệu đều tập trung cho đánh giá hiệu quả điều trị thải
đồng của D-Penicillamine vì nó đã được dùng sớm nhất và rộng rãi nhất. Có
nhiều nghiên cứu khác nhau về hiệu quả của D-Penicillamine trên nhóm bệnh
có biểu hiện gan. Không có nghiên cứu so sánh trực tiếp Trientine với D-
Penicillamine nhưng Trientine cũng tỏ ra là thuốc có hiệu quả trong nhóm
bệnh gan.
Theo Weiss [138], hơn 90% bệnh nhân biểu hiện gan sẽ cải thiện với
điều trị D-Penicillamine hoặc Trientine. Khi so sánh kẽm với các thuốc thải
đồng, cũng theo Weiss, trên nghiên cứu đoàn hệ 248 bệnh nhân, được cho là
nghiên cứu lớn nhất hiện nay, tỷ lệ không đáp ứng điều trị (đo bằng các xét
nghiệm sinh hóa chức năng gan và sự tăng thải đồng qua nước tiểu) của nhóm
dùng kẽm cao hơn nhóm thải đồng. Điều này cũng phù hợp với quan sát của
Linn trên 17 bệnh nhân. Khái niệm mới được đưa ra gần đây, “không đáp ứng với kẽm” [107], [137] làm cho chúng ta phải lưu ý đến việc lựa chọn điều trị
cũng như chiến lược theo dõi các bệnh nhân đang được điều trị kẽm.
113
Với nhóm bệnh biểu hiện thần kinh, kết quả điều trị của thuốc thải
đồng kém hẳn. Một mặt, theo kinh nghiệm lâm sàng, ở một số bệnh nhân các
triệu chứng thần kinh sẽ không có hiệu quả gì dù điều trị chuẩn. Mặt khác các
triệu chứng thần kinh bị xấu đi rất nhanh khi khởi đầu điều trị, đặc biệt đối
với D-Penicillamine nhưng ngay cả Trientine cũng có. Cơ chế của hiện tượng
này cho tới nay vẫn còn chưa rõ, có lẽ do sự huy động đồng quá mạnh từ các
điểm lắng đọng trên não, nên giải phóng đồng tự do, tức là đồng gây độc làm
tổn thương não. Kẽm cũng không giải quyết được vấn đề không cải thiện triệu
chứng thần kinh hoặc triệu chứng thần kinh xấu đi trong giai đoạn đầu điều
trị.
Trong bối cảnh bệnh hiếm, ít có nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên có đối
chứng, cộng với diễn tiến đặc thù của bệnh Wilson, nhiều các nhóm tác giả
khác nhau đưa ra các lựa chọn xử trí chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và nghiên
cứu nhỏ. Mặc dù đã có 2 hướng dẫn lâm sàng [40],[103] được cho là dựa trên
y học bằng chứng nhưng vẫn không hướng dẫn cụ thể được trên thực hành
lâm sàng. Kinh nghiệm của nhóm tác giả Brewer (chuyên gia thần kinh),
Askari (chuyên gia gan mật) thuộc Đại học Michigan [18], Hoa Kỳ sẽ được
trình bày tóm tắt dưới đây:
Điều trị bệnh gồm 2 loại: điều trị khởi đầu và điều trị duy trì.
Phân nhóm điều trị dựa vào biểu hiện lâm sàng (Sơ đồ 4.1) là không
triệu chứng, gan hay thần kinh để lựa chọn thuốc điều trị
Đánh giá tiên lượng nhóm biểu hiệu bệnh gan dựa vào thang điểm
Nazer hoặc kinh nghiệm của bản thân nhóm này (Bảng 4.1)
Điều trị các vấn đề nội khoa phối hợp.
114
Bảng 4.1. Thang điểm đánh giá tiên lượng bệnh Wilson theo Nazer [92]
Điểm
Thông số sinh hóa
0
1
2
3
4
Giá trị bình thường
0,2-1,2 3-20 10-35
<5,8 <100 <100 <4
5,8-8,8 100-150 100-150 4-8
8,8-11,7 151-200 151-200 9-12
11,7-17,5 201-300 201-300 13-20
>17,5 > 300 >300 >20
Bilirubin máu (mg%) (mcmol/L) AST máu (IU/L) Tăng PT so với chứng (giây)
PT: prothrombin time
Theo nhóm này, nếu bệnh nhân chỉ có tăng AST đơn độc (kể cả xơ gan
nhưng chỉ có tăng AST trong khi không có biểu hiện bất thường gì khác của
tình trạng mất bù như albumin máu thấp, tăng bilirubin, đông máu toàn bộ rối
loạn) thì chỉ cần điều trị duy trì với kẽm hoặc Trientine là đủ. Nếu bệnh nhân
đã có bằng chứng mất bù, cần phân loại mức độ suy gan để xem có thể điều
trị thuốc hay phải ghép gan. Cần đặc biệt lưu ý là phân loại suy gan theo
Child-Turcotte-Pugh hoặc các thang điểm khác như MELD hay PELD đều
không thích hợp cho phân loại bệnh nhân Wilson chuẩn bị ghép gan, vì đã có
trường hợp theo tiêu chuẩn Child-Turcotte-Pugh cần phải ghép thì nhưng cuối
cùng đều đáp ứng tốt với điều trị thải đồng. Thang điểm Nazer được dùng cho
phân loại suy gan của bệnh Wilson.
Ban đầu tác giả cho rằng bệnh nhân có điểm ≤ 6 sẽ đáp ứng với điều trị
Penicillamine trong khi bệnh nhân > 6 thì cần phải ghép gan. Tuy nhiên với
cách điều trị phối hợp ngay từ đầu với Trientine và kẽm thì có thể cứu sống
bệnh nhân có điểm Nazer là 9.
1. Lựa chọn hàng đầu 2. Lựa chọn thay thế TM: Tetrathiomolybdate
115
Sơ đồ 4.1: Phân loại bệnh nhân cho lựa chọn thuốc khởi đầu điều trị
Điều trị phối hợp hai thuốc này cần liên tục đến khi các xét nghiệm chức năng
gan cải thiện tốt (thường 4 tháng) thì có thể chuyển qua duy trì với một thuốc.
Ở giai đoạn duy trì không cần thậm chí không nên dùng phối hợp 2 thuốc.
Chức năng gan thường bắt đầu cải thiện sau 3-4 tháng điều trị và sẽ tiếp tục
cải thiện, trong hầu hết bệnh nhân, khi được 12 tháng. Một vài tổn thương
gan, và trong nhiều trường hợp xơ gan thuần túy sẽ vẫn còn tồn tại trong
nhiều bệnh nhân. Bệnh có thể vẫn có xơ gan lâu dài, tăng áp cửa, cường lách
và dãn tĩnh mạch thực quản/dạ dày. Nguy cơ vỡ dãn tĩnh mạch thực quản cao
nhất trong 2-3 năm đầu rồi giảm dần.
Đối với nhóm thần kinh, điều trị ưu tiên là TM vì cả D-Penicillamine
và Trientine đều có thể làm tổn thương thần kinh nặng hơn không hồi phục.
Kẽm phát huy được tác dụng quá chậm, mất 4-6 tháng, và trong thời gian này
có thể bệnh đã tiến triển nặng hơn. Vì TM vẫn chưa được FDA công nhận nên
116
nếu những vùng chưa có TM thì nên dùng kẽm vì an toàn hơn 20% chuyển
nặng nếu bệnh nhân dùng Trientine.
Điều trị duy trì bắt đầu khi đồng đã hết tác dụng gây độc cấp, thường
sau 2-4 tháng điều trị, biểu hiện trên sinh hóa là đồng/nước tiểu 24 giờ
≤150mcg, nếu bệnh nhân chỉ dùng kẽm, hoặc đồng không kết nối
ceruloplasmin trong huyết thanh < 25mcg. Thuốc được lựa chọn hàng đầu là
kẽm, kế đó là Trientine.
Điều trị duy trì được áp dụng cho nhóm tiền triệu chứng cũng như
nhóm chỉ tăng enzym gan đơn độc.
Do nguồn thuốc Trientine và D-Penicillamine nhận tài trợ từ Mỹ có lúc
không được liên tục nên chúng tôi phải thay đổi phác đồ như bảng 3.33, theo
đó có đến 9 tổ hợp phác đồ nên không thể phân tích kết quả điều trị theo từng
phác đồ do cở mẫu nhỏ. Tuy nhiên với cách thay thế thuốc vào lúc thuốc
không sẵn có hoặc nếu xảy ra tác dụng phụ (Bảng 3.33) chúng tôi nhận thấy
miễn là bệnh nhân không bỏ điều trị tất cả 3 thuốc thì có thể duy trì được sự
ổn định thậm chí vẫn bệnh vẫn có thể tiến triển tốt. Điều này cũng được các
tác giả ở Nhật ghi nhận [66].
Trong điều trị có lúc phải đổi hoặc phối hợp thuốc nên chúng tôi ghi
nhận biến cố bất lợi cùng với một hoặc nhiều thuốc đang điều trị. Tác dụng
phụ được cho là của thuốc đặc hiệu nếu như xảy ra khi bệnh nhi chỉ đang sử
dụng thuốc đó và mất đi khi ngưng điều trị. Trường hợp đang sử dụng 2 thuốc
thì chúng tôi tùy theo phản ứng phụ đã được mô tả trong y văn mà ngưng
thuốc có khả năng gây phản ứng trước hoặc đổi hẳn sang nhóm thuốc khác
nếu nguồn thuốc sẵn có. Các phản ứng phụ giảm bạch cầu, phát ban và sốt,
tiểu máu và Stevens Johnson xảy ra khi bệnh nhi đang khởi đầu điều trị bằng
D-Penicillamine. Hai trường hợp có tổn thương da được ghi nhận đều do D-
Penicillamine vì cả 2 bệnh nhi đã dùng Trientine nhiều năm và do không còn
117
nguồn thuốc nên chuyển sang D-Penicillamine thì xuất hiện sang thương da.
Sang thương này biến mất dần khi chuyển sang lại Trientine và lại tái xuất
hiện khi dùng D-Penicillamine trở lại. Trong nghiên cứu này, biến cố bất lợi
chung là 18,7% (bảng 3.34) nhưng chúng tôi không ghi nhận bất kỳ tác dụng
phụ nào của Trientine mặc dù bệnh nhân được theo dõi nghiêm ngặt theo
phác đồ định trước. Theo y văn, Trientine có ít tác dụng phụ. Không có phản
ứng quá mẫn. Giảm 3 dòng tế bào máu đã được báo cáo nhưng rất hiếm. Nó
cũng gắn kết và bất hoạt sắt nhưng không được dùng chung Trientine và sắt vì
phức hợp hình thành sẽ rất độc. Thiếu máu nguyên bào sắt là do điều trị quá
mức làm cơ thể thiếu đồng và tình trạng này có thể hồi phục. Vài báo cáo gần
đây cho thấy Trientine có thể gây ứ sắt ở gan tương tự như D-Penicillamine.
Nó cũng gây viêm dạ dày xuất huyết, mất vị giác và nổi ban trên nhóm bệnh
nhân xơ gan ứ mật nguyên phát.
D-Penicillamine có nhiều tác dụng phụ có hại (Bảng 1.5). Các tác dụng
có hại nặng làm khoảng 30% bệnh nhân phải ngưng điều trị. Các phản ứng
mẫn cảm sớm như sốt kèm phát ban, hạch to, giảm bạch cầu hạt, giảm tiểu
cầu và tiểu đạm có thể xảy ra trong 1-3 tuần đầu tiên. Cần phải ngừng D-
Penicillamine ngay nếu có sự mẫn cảm sớm vì đã có thuốc thay thế, không
cần dùng kèm prednisone như trước đây. Độc thận là một phản ứng mẫn cảm
muộn, thường được cảnh báo bằng tiểu đạm hoặc có trụ tế bào, cũng là lý do
phải ngưng thuốc. Nó có thể tương tác với các mối liên kết ngang của sợi
colagen và cũng có tác dụng ức chế miễn dịch. Chúng tôi ghi nhận 26% số
bệnh nhân dùng D-Penicillamine có tác dụng phụ (Bảng 3.35). Đa số tác dụng
phụ xảy ra sớm sau khi dùng D-Penicillamine vài ngày, trong đó có 1 trường
hợp bị Stevens Johnson rất nặng cần nhập viện điều trị. Tổn thương da đặc
hiệu do D-Penicillamine được ghi nhận trong 2 trường hợp như đã nói ở trên.
118
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 54 trường hợp bệnh Wilson tại Bệnh viện Nhi đồng 1,
chúng tôi rút ra các kết luận như sau
1. Về đặc điểm dân số học và tỷ lệ các thể lâm sàng theo phân loại Leizig
2003:
- Bệnh gặp cả 3 miền Bắc Trung Nam của nước ta
- Nam mắc bệnh gấp 1,7 lần nữ với tuổi trung bình là 11,4 ± 2,4
- Tỷ lệ các thể bệnh gan cấp, bệnh gan mạn tính đơn thuần, thần kinh-gan
lần lượt là 6 (11,1%), 29(53,7%), 16(29,6%), và không có thể thần kinh
đơn thuần. 3(5,6%) không có triệu chứng phát hiện nhờ tầm soát.
- Xơ gan chiếm 51,9% bệnh gan mạn tính.
- Tỷ lệ Wilson tối cấp là 11,1% và có thể xảy ra ở tuổi rất nhỏ, không tiên
đoán được tuổi khởi bệnh.
2. Về tỷ lệ 3 đặc trưng chính của bệnh:
- Vòng Kayser-Fleischer được tìm thấy ở 72,2% tổng số ca; 81,3% bệnh
nhân có biểu hiện thần kinh; 82.8% bệnh nhân có biểu hiện bệnh gan mạn
tính đơn thuần.
- Nồng độ ceruloplasmin huyết thanh có giá trị thấp trong 94,4% .
- Hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ cao >100mcg trong 81.5% tổng số
bệnh nhân và trong 93,8% bệnh nhân có triệu chứng thần kinh.
3. Về đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B:
- Tỷ lệ phát hiện được đột biến 66,7 %.
- Có 20 loại đột biến trên 13 exon và 2 intron . Trong đó có 8 đột biến mới
là T850I, P868P-fs (del C), L902P, L1015R, D1027H, L1333fsX59,
IVS 15-2:A>G và IVS20+3:A> G.
- Không có đột biến nào có tỷ lệ chiếm ưu thế rõ rệt.
119
- Năm exon bị tổn thương nhiều nhất là exon 14 (16,7%), exon 2 (14,6%),
exon 18 (12,5%), exon 10 (10,4%) và exon 8 (8,3%).
- Biểu hiện kiểu gien bệnh Wilson ở trẻ em Việt nam rất đa dạng và có khác
biệt so với các vùng khác.
4. Về mối liên quan kiểu gien-kiểu hình của bệnh ở trẻ em Việt Nam:
- Vòng Kayser-Fleischer hiện diện có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm đột biến đồng hợp tử (D1027H, G943D, L1371P, L902P và S105X)
và dị hợp tử kép (p=0,035).
- Các bệnh nhân đồng hợp tử đều có ceruloplasmin/máu thấp, vòng KF đều
hiện diện và đồng nước tiểu 24 giờ tăng trong 87,5%.
- Thay D1027H bằng một đột biến khác làm bệnh cảnh lâm sàng thay đổi
từ gan mạn tính (xơ gan) sang bệnh gan cấp (tối cấp hoặc viêm gan cấp).
5. Về kết quả tầm soát bệnh cho 72 cha, mẹ, anh, chị, em ruột của bệnh nhi:
- Bằng khám lâm sàng và sinh hóa phát hiện được 1 trường hợp bệnh là anh
ruột và 1 trường hợp là cha của ca bệnh.
- Tích hợp thêm phân tích đột biến phân tử gien ATP7B đã phát hiện được
thêm 3 trường hợp là anh chị em ruột ca bệnh trong đó có 1 ca phát hiện
rất sớm từ 8 tháng tuổi và 1 ca đã bị bỏ sót khi tầm soát bằng lâm sàng và
sinh hóa.
6. Về kết quả điều trị bệnh:
- 75% đáp ứng với điều trị và 25% tử vong.
- Không bỏ điều trị tất cả 3 thuốc có thể duy trì được sự ổn định bệnh trong
khi chờ thuốc thay thế.
- 26% số bệnh nhân dùng D-Penicillamine có tác dụng phụ.
120
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin kiến nghị:
- Cần tìm bệnh Wilson trong thực hành lâm sàng ở nước ta, đặc biệt trước
những bệnh nhân có biểu hiện vừa gan và thần kinh; suy gan tối cấp hoặc xơ
gan mất bù không rõ nguyên nhân.
- Trong tầm soát và chẩn đoán bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam cần tìm vòng
Kayser-Fleischer, đo nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và định lượng đồng
trong nước tiểu 24 giờ.
- Tìm đột biến phân tử gien ATP7B khi cần xác định bệnh Wilson giai đoạn
sớm và ở những trường hợp phức tạp, chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán xác định
dựa trên lâm sàng và xét nghiệm sinh hóa
- Ưu tiên khảo sát các exon 2,18,10 và 8 ở bệnh nhân người Kinh và exon 14
đặc biệt là đột biến D1270H ở người dân tộc ít người.
- Tầm soát cha mẹ, anh chi em ruột của bệnh nhi để chủ động phát hiện sớm
bệnh.
- Nghiên cứu cỡ mẫu lớn hơn để xác định rõ vai trò các đột biến phân tử gien
ATP7B và mối liên quan kiểu gien-kiểu hình đặc biệt là vòng Kayser-
Fleischer trong chẩn đoán, tầm soát và tiên lượng bệnh Wilson ở trẻ em Việt
Nam
- Nghiên cứu 50 người bình thường để xác định tính mới của các đột biến
P868P-fs (del C), L1015R, L1333fsX59, IVS 15-2:A>G và IVS20+3:A>G.
- Duy trì ít nhất một thuốc thải đồng hoặc kẽm trong điều trị bệnh.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Lê Phúc, Phạm Lê An, Trần Diệp Tuấn (2015), “Xác định bước đầu mối liên quan kiểu gien-kiểu hình của bệnh Wilson ờ trẻ em Việt Nam”, Nhi khoa 8 (6), tr 67-76.
2. Hoàng Lê Phúc, Krsin Zinober, Claudia Willheim, Peter Ferenci (2013), “Phân tích đột biến phân tử gien ATP7B ở bệnh nhân Wilson Việt Nam”, Nhi khoa 6 (4), tr 21-28.
3. Đỗ Thị Thanh Thủy, Võ Thị Tuyết Nga, Hoàng Anh Vũ, Hoàng Lê Phúc (2012), “Nghiên cứu phát hiện đột biến trên exon 2 của gien ATP7B ở bệnh nhân Wilson Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 16, phụ bản của số 4, tr. 199-204.
4. Đỗ Thị Thanh Thủy, Hoàng Anh Vũ, Hoàng Lê Phúc (2012), “Xác định đột biến R778L trên exon 8 của gien ATP7B ở bệnh nhân bị bệnh Wilson bằng phương pháp RFL”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 16, phụ bản của số 4, tr. 193-198.
5. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Claudia Willheim, Peter Ferenci (2008), “Bước đầu phân tích đột biến phân tử gien ATP7B ở bệnh nhi Wilson Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản 4, tr. 70-74.
6. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Claudia Willheim, Peter Ferenci (2008), “Tầm soát bệnh Wilson: vai trò của phân tích đột biến phân tử gien ATP7B” , Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản 4, tr. 246-251.
7. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Peter Ferenci (2008), “ Bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản 4, tr.112-118.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt 1. Đỗ Thanh Hương và cộng sự (2010) “Phát hiện đột biến phổ biến Arg778Leu của gien ATP7B ở bệnh nhân Wilson Việt Nam”, Tạp chí Nhi Khoa, tập 3, tr. 231-235.
2. Nguyễn Thị Mai Hương và cộng sự (2010), “Phát hiện đột biến gien ATP7B gây bệnh Wilson tại bệnh viện Nhi Trung Ương”, Tạp chí Nhi Khoa, tập 3, tr. 236-240.
3. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Claudia Willheim, Peter Ferenci (2008), “Bước đầu phân tích đột biến phân tử gien ATP7B ở bệnh nhi Wilson Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, (4), tr. 70- 74.
4. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Claudia Willheim, Peter Ferenci (2008), “Tầm soát bệnh Wilson: vai trò của phân tích đột biến phân tử gien ATP7B”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, (4), tr. 246- 251.
5. Hoàng Lê Phúc, Kerstin Zinober, Peter Ferenci (2008), “ Bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 12, (4), tr.112- 118.
6. Đỗ Thị Thanh Thủy, Võ Thị Tuyết Nga, Hoàng Anh Vũ, Hoàng Lê Phúc (2012), “Nghiên cứu phát hiện đột biến trên exon 2 của gien ATP7B ở bệnh nhân Wilson Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, tập 16, (4), tr. 199-204.
7. Quách Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Gia Khánh (2007), “Đặc điểm lâm sàng và những biểu hiện sớm bệnh Wilson”, Nhi khoa tập 15, (2), tr 55-70.
Tiếng Anh 8. AbdelGhaffar T. Y., Elsayed, S. M., Elnaghy, S., Shadeed, A.,
Elsobky, E. S., Schmidt, H. (2011) “Phenotypic and genetic characterization of a cohort of pediatric Wilson disease patients”. BMC Pediatrics, 11(1),pp. 56.
9. Abdelghaffar, T. Y., Elsayed S. M., Elsobky E., Bochow B., Büttner J.,
Schmidt H. (2008) “Mutational analysis of ATP7B gene in Egyptian children with Wilson disease: 12 Novel mutations”. Journal of Human Genetics, 53(8), pp. 681-687. 10. Abuduxikuer K., Li L.-T., Qiu Y.-L., Wang N.-L., & Wang J.-S.
(2015). “Wilson disease with hepatic presentation in an eight-
month-old boy”. World Journal of Gastroenterology, 21(29), pp. 8981–8984.
11. Ala A., Schilsky M. L. (2004). “Wilson disease: Pathophysiology, diagnosis, treatment, and screening”. Clinics in Liver Disease, 8(4),pp. 787–805.
12. Aysel Y., Nurten K., F. G. and H. O. (2000) “Wilson’s disease with
hepatic presentation in childhood”. Indian Pediatrics, 37, pp. 31- 36.
14. Bennett J. T., Schwarz K. B., Swanson P. D., & Hahn S. H. (2013). An exceptional family with three consecutive generations affected by Wilson disease. JIMD Reports, 10, pp. 1–4.
13. Barada K., El-Atrache M., El-Hajj, I. I., Rida K., El-Hajjar J., Mahfoud Z., Usta J. (2010) “Homozygous mutations in the conserved ATP hinge region of the Wilson disease gene: association with liver disease”. Journal of Clinical Gastroenterology, 44(6), pp. 432- 439.
15. Beyersdorff A., Findeisen A. (2006) “Morbus Wilson: Case report of a
two-year-old child as first manifestation”. Scandinavian Journal of Gastroenterology, 41(4), pp. 496-497.
16. Brewer G.J., Askari F, Lorincz M.T., Carlson M, Schilsky M., Kluin K.J., et al. (2006) “Treatment of Wilson disease with ammonium tetrathiomolybdate: IV. Comparison of tetrathiomolybdate and trientine in a double-blind study of treatment of the neurologic presentation of Wilson disease”. Arch Neurol; 63, pp. 521-527.
17. Brewer G.J., Yuzbasiyan G. (1992) “V. Wilson’s disease”. Medicine;
71, pp. 139-164.
18. Brewer G. J., Askari F. K. (2005) “Wilson’s disease: Clinical
management and therapy”. Journal of Hepatology, 42(SUPPL. 1), pp. 13-21.
19. Brewer G. J., Hedera P., Kluin K. J., Carlson, M., Askari F., Dick R.
20. Brunet A. S., Marotte S., Guillaud O., & Lachaux A. (2012). Familial screening in Wilson’s disease: Think at the previous generation! Journal of Hepatology, 57(6), pp. 1394–1395.
B., Fink J. K. (2003) “Treatment of Wilson Disease With Ammonium Tetrathiomolybdate”. Archives of Neurology, 60(3), pp. 379.
21. Brunet A. S., Marotte S., Guillaud O., & Lachaux A. (2012). Familial screening in Wilson’s disease: Think at the previous generation! Journal of Hepatology, 57(6), pp. 1394–1395.
22. Bull P. C., Thomas G. R., Rommens J. M., Forbes J. R., Cox D. W.
(1993) “The Wilson disease gene is a putative copper transporting P-type ATPase similar to the Menkes gene”. Nature Genetics, 5(4), pp. 327-337.
24. Chu N. (1993). Geographic variations in Wilson’s disease. Journal of
23. Caprai S., Loudianos G., Massei F., Gori L., Lovicu M., Maggiore G. (2006) “Direct diagnosis of Wilson disease by molecular genetics”. The Journal of Pediatrics, 148(1), pp. 138-140.
the Neurological Sciences, 117, pp. 1–7.
25. Cossu P., Pirastu M., Nucaro A., Figus A., Balestrieri A., Borrone C., et al. (1992) “Prenatal Diagnosis of Wilson’s Disease by Analysis of DNA Polymorphism”. New England Journal of Medicine, 327(1), pp. 57.
26. Cox D.W. Wilson disease mutation database
(http://www.medicalgenetics.med.ualberta.ca/wilson/index.php ). accessed 14 May 2013.
27. Curtis D., Durkie M., Balac P., Sheard D., Goodeve A., Peake I.,
Tanner S. (1999) “A study of Wilson disease mutations in Britain”. Human Mutation, 14(4), pp. 304-311.
28. Dedoussis G. V. Z., Genschel J., Sialvera T. E., Bochow B., Manolaki N., Manios Y., Schmidt H. (2005) “Wilson disease: High prevalence in a mountaineous area of crete”. Annals of Human Genetics, 69(3), pp. 268-274.
29. Deiss A., Lynch R.E., Lee G.R., Cartwright G.E. (1971) “Long-term
therapy of Wilson's disease”. Ann Intern Med 75 : pp. 57-65 30. Delangle P. and Mintz E. (2012) “Chelation therapy in Wilson’s
disease: from D-penicillamine to the design of selective bioinspired intracellular Cu (I) chelators”. Dalton Transactions, 41(21), pp. 6359-6370.
31. Dhawan A. (2005) “Evaluation of the scoring system for the diagnosis
of Wilson’s disease in children”. Liver International, 25(3), pp. 680-681.
32. Dhawan A., Taylor R. M., Cheeseman, P., De Silva P., Katsiyiannakis
L., Mieli-Vergani G. (2005) “Wilson’s disease in children: 37-year
33. Dufernez F., Lachaux A., Chappuis P., De Lumley L., Bost M.,
experience and revised King's for liver transplantation”. Liver Transplantation, 11(4), pp. 441-448.
Woimant F., Debray D. (2013). Wilson disease in offspring of affected patients: Report of four French families. Clinics and Research in Hepatology and Gastroenterology, 37(3), pp. 240– 245.
34. Dziezdotyc K., Gromadzka G., & Członkowska a. (2011). Wilson’s disease in consecutive generations of one family. Parkinsonism and Related Disorders, 17(7), pp. 577–578.
35. Dziezyc K., Litwin T., Chabik G., Gramza K., & Członkowska A.
(2014). Families with Wilson’s disease in subsequent generations: Clinical and genetic analysis. Movement Disorders, 29(14), pp. 1828–1832.
36. Edwards C.Q., Williams D.M., Cartwright G.E.. (1979) “Hereditary
hypoceruloplasminemia”. Clin Genet;15: pp.311-6.(ABSTRACT) 37. Faa G., Nurchi V., Demelia L., Ambu R., Parodo G., Congiu T., Crisponi, G. (1995) “Uneven hepatic copper distribution in Wilson’s disease”. Journal of Hepatology, 22(3), pp. 303-308
38. Ferenci P. (2005) “Wilson’s disease (clinical genomics)”. Clin
Gastroenterol Hepatol 3:pp. 726-733
39. Ferenci P., Caca K., Loudianos G., Mieli-Vergani G., Tanner S.,
Sternlieb I., et al. (2003) “Diagnosis and phenotypic classification of Wilson disease”. Liver Int, 23, pp. 139-142.
40. Ferenci P., Czlonkowska A., Stremmel W., Houwen R., Rosenberg
W., Schilsky M. , Jansen P., Moradpour D., Gitlin J.. (2012) “EASL Clinical Practice Guidelines: Wilson's disease”. J Hepatol, 56(3), pp. 671-85.
41. Ferenci P., Steindl-Munda P., Vogel W., et al. (2005)” Diagnostic
value of quantitative copper determination in liver biopsy samples in patients with Wilson disease”. J Clin Gastroenterol Hepatol, 3, 811-818
42. Ferenci P. (2006) “Regional distribution of mutations of the ATP7B
43. Ferenci P. (2014). Whom and how to screen for Wilson disease. Expert
gene in patients with Wilson disease: Impact on genetic testing”. Human Genetics, 120(2), pp. 151-159.
Review of Gastroenterology & Hepatology, 8(5), pp. 513–20.
44. Figus A., Angius A., Loudianos G., Bertini C., Dessi V., Loi A., Pirastu
45. Firneisz G., Szönyi L., Ferenci P., Görög D., Nemes B., & Szalay F.
M. (1994), Molecular Pathology and Haplotype Analysis of Wilson Disease in Mediterranean Populations, 3, pp. 1318-1324.
46. Folhoffer A., Ferenci P., Csak T., Horvath A., Hegedus D., Firneisz G., Szalay F. (2007) “Novel mutations of the ATP7B gene among 109 Hungarian patients with Wilson’s disease”. European Journal of Gastroenterology & Hepatology, 19(2), pp. 105-111. 47. Forbes J. R., Cox D. W. (2000). “Copper-dependent trafficking of
(2001). Wilson disease in two consecutive generations: an exceptional family. The American Journal of Gastroenterology, 96(7), pp. 2269–71.
Wilson disease mutant ATP7B proteins”. Human Molecular Genetics, 9(13), pp. 1927-1935.
48. Genschel J., Sommer G., Haas R., Buettner C., Bochow B., Manns M.,
Lochs H. and Schmidt H. H.-J. (2000) “Three novel mutations, c314C>A, C778insC, and c1285+2T>A, in exon 2 of the Wilson disease gene”. Hum. Mutat., 16: pp. 278.
49. Gibbs K., Walshe J. M. (1979) “A study of the caeruloplasmin
concentrations found in 75 patients with Wilson’s disease, their kinships and various control groups”. The Quarterly Journal of Medicine, 48(191), pp. 447-463.
50. Gollan J. L., Gollan T. J. (1998) “Wilson disease in 1998: genetic,
diagnostic and therapeutic aspects”. Journal of Hepatology, 28 Suppl 1, pp. 28-36.
51. Gu Y. H., Kodama H., Du S. L., Gu Q. J., Sun H. J., Ushijima H.
(2003) “Mutation spectrum and polymorphisms in ATP7B identified on direct sequencing of all exons in Chinese Han and Hui ethnic patients with Wilson’s disease”. Clinical Genetics, 64(6), pp. 479-484.
52. Haas R., Gutierrez-Rivero B., Knoche J., Böker K., Manns M. P., Schmidt H. H.-J. (1999) “Mutation analysis in patients with Wilson disease: Identification of 4 novel mutations”. Human Mutation, 14(1), 88.
53. Herra S.A., Hevia F.J., Vargas M., Schosinsky K. (1990) “Fulminant Wilson's disease in Costa Rica. Clinico-pathological study of 7 cases”. G E N. 44: pp. 9-14. ABSTRACT
54. Hoogenraad T.U., Koevoet R., de Ruyter Korver E.G.. (1979) “Oral
zinc sulphate as long-term treatment in Wilson’s disease (hepatolenticular degeneration)”. Eur Neurol, 18, pp. 205-211. ABSTRACT
55. Hoogenraad T. U., Van Hattum J., Van den Hamer C. J. (1987)
“Management of Wilson’s disease with zinc sulphate. Experience in a series of 27 patients”. Journal of the Neurological Sciences, 77(2-3), pp. 137-146.
56. Hoshino T., Kumasaka K., Kawano K., Yamagishi F., Koyama I.,
Fujimori-Arai Y., Komoda T. (1995) “Low serum alkaline phosphatase activity associated with severe Wilson’s disease. Is the breakdown of alkaline phosphatase molecules caused by reactive oxygen species?”. Clinica Chimica Acta; International Journal of Clinical Chemistry, 238(1), pp. 91-100.
57. http://www.hgmd.cf.ac.uk/ac/index.php 58. http://www.hgmd.cf.ac.uk/ac/index.php accessed 14 May 2013 59. Huster D., Hoppert M., Lutsenko S., Zinke J., Lehmann C., Mössner J., Caca K. (2003) “Defective cellular localization of mutant ATP7B in Wilson’s disease patients and hepatoma cell lines”. Gastroenterology, 124(2), pp. 335-345.
60. Innes J. R., Strachan I. M. and Triger D. R. (1986) “Unilateral Kayser-
Fleischer ring”. Br J Ophthalmol 70: pp. 469-470 61. Iorio R., D’Ambrosi M., Mazzarella G., Varrella F., Vecchione R.,
Vegnente, A. (2003) “Early occurrence of hypertransaminasemia in a 13-month-old child with Wilson disease”. Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition, 36(5), pp. 637-638. 62. Kalach N., Seidman E.G., Morin C., Rasquin-Weber A., O’Regan S.,
Laberge JM, et al. (1993) “Acute liver failure from Wilson’s disease in a five year-old child”. Can J Gastroenterol, 7,pp. 610-6
63. Kalita J., Somarajan B. I., Misra U. K., Mittal B. (2010.). “R778L,
H1069Q, and I1102T mutation study in neurologic Wilson disease”. Neurology India, 58(4), pp. 627-630.
65. Kim J. A., Kim H. J., Cho J. M., Oh S. H., Lee B. H., Kim G.-H., Yoo H.-W. (2015). Diagnostic Value of Ceruloplasmin in the
64. Kim E. K., Yoo O. J., Song K. Y., Yoo H. W., Choi S. Y., Cho S. W., Hahn S. H. (1998) “Identification of three novel mutations and a high frequency of the Arg778Leu mutation in Korean patients with Wilson disease”. Human Mutation, 11(4), pp. 275-278.
Diagnosis of Pediatric Wilson’s Disease. Pediatric Gastroenterology, Hepatology & Nutrition, 18(3), pp. 187–192. 66. Kobayashi S., Kodama H., Inuzuka R., Mori Y., Yanagawa Y. (2005)
“Combination treatment with penicillamine and trientine in a patient with Wilson’s disease”. Pediatrics International, 47(5), pp. 589-591.
67. Kodama H., Fujisawa C. (2009) “Copper metabolism and inherited
copper transport disorders: molecular mechanisms, screening, and treatment”. Metallomics, 1(1),pp. 42.
68. Kodama H., Fujisawa C., Bhadhprasit W. (2012) “Inherited Copper Transport Disorders: Biochemical Mechanisms, Diagnosis, and Treatment”. Current Drug Metabolism, 13(3), pp. 237-250. 69. Kumar S., Thapa B., Kaur G., Prasad R. (2007) “Analysis of most
common mutations R778G, R778L, R778W, I1102T and H1069Q in Indian Wilson disease patients: Correlation between genotype/ phenotype/ copper ATPase activity”. Molecular and Cellular Biochemistry, 294(1-2), pp. 1-10.
70. Kuppala D., Deng J., Brewer G. J., Wang M. M., Borjigin J. (2009)
“Wilson Disease Mutations in the American Population: Identification of Five Novel Mutations in ATP7B”. The Open Hepatology Journal, 1(1), pp. 1-4.
71. Lahey M. E., Behar M., Viteri F., Scrimshaw N. S. (1958) “Values for copper, iron and iron-binding capacity in the serum in kwashiorkor”. Pediatrics, 22(1, Part 1),pp. 72-79. 72. Lam C.-W., Mak C. M. (2006) ”Allele Dropout in PCR-Based Diagnosis of Wilson Disease: Mechanisms and Solutions”. Clinical Chemistry, 52(3), pp. 517-520.
73. Lee B. H., Kim J. H., Lee S. Y., Jin H. Y., Kim K. M. K. J., Lee J. J.,
Yoo H. W. (2011) “Distinct clinical courses according to presenting phenotypes and their correlations to ATP7B mutations in a large Wilson’s disease cohort”. Liver International, 31(6), pp. 833-841.
74. Leggio L., Addolorato G., Loudianos G., Abenavoli L., Gasbarrini G.
(2006) “Genotype-phenotype correlation of the Wilson disease ATP7B gene”. American Journal of Medical Genetics, 140 A(8), pp. 933.
75. Lo Curto A.G., Marchi A., Grasso M., Arbustini E., Loudianos G.,
Brega A. (2006) “Early diagnosis of Wilson Disease in a six-year- old child”. J Pediatr; 148 (1):141.
76. Loudianos G., Figus A.L., Loi A., Angius A., Dessi V., Deiana M.,
(1994), Improvement of prenatal diagnosis of wilson disease using microsatellite, Prenatal Diagnosis, 14, pp. 999–1002 77. Loudianos G., Gitlin J.D. (2000) “Wilson’s disease”. Semin Liver Dis.
20: pp. 353-64.
78. Loudianos G., Dessi V., Lovicu M., Angius A., Altuntas B., Giacchino R., Cao A. (1999) “Mutation analysis in patients of Mediterranean descent with Wilson disease: identification of 19 novel mutations”. Journal of Medical Genetics, 36(11), pp. 833-836. 79. Loudianos G., Dessì V., Lovicu M., Angius A, Kanavakis E., Tzetis
80. Lutsenko S. (2014) “Modifying factors and phenotypic diversity in
M., Pirastu M. (1998) “Haplotype and mutation analysis in Greek patients with Wilson disease”. European Journal of Human Genetics: EJHG, 6(5), pp. 487-491
Wilson’s disease”. Annals of the New York Academy of Sciences, 1315(1), pp. 56-63.
81. Maier-Dobersberger T., Mannhalter C., Rack S., Granditsch G., Kaserer K., Korninger L., Ferenci P. (1995) “Diagnosis of Wilson’s disease in an asymptomatic sibling by DNA linkage analysis”. Gastroenterology, 109(6), pp. 2015-2018 82. Mak C. M., Lam C. W., Tam S., Lai C. L., Chan L. Y., Fan S. T., Chan Y. W. (2008) “Mutational analysis of 65 Wilson disease patients in Hong Kong Chinese: Identification of 17 novel mutations and its genetic heterogeneity”. Journal of Human Genetics, 53(1), pp. 55-63.
83. Mak C. M., Tam S., Fan S. T., Liu C. L., Lam C. W. (2006) “Wilson’s disease: a patient undiagnosed for 18 years”. Hong Kong Medical Journal = Xianggang Yi Xue Za Zhi / Hong Kong Academy of Medicine, 12(2), pp. 154-158.
84. McCullough A. J., Fleming C. R., Thistle J. L., Baldus W. P., Ludwig
J., McCall J. T., Dickson E. R. (1983) “Diagnosis of Wilson’s disease presenting as fulminant hepatic failure”. Gastroenterology, 84(1), pp. 161-167.
85. Menkes J. H., Alter M., Steigleder G. K., Weakley D. R., Sung J. H.
(1962) “A sex-linked recessive disorder with retardation of
growth, peculiar hair, and focal cerebral and cerebellar degeneration”. Pediatrics, 29(May), pp. 764-779. 86. Merle U., Schaefer M., Ferenci P., Stremmel W. (2007) “Clinical presentation, diagnosis and long-term outcome of Wilson’s disease: a cohort study”. Gut, 56(1), pp. 115-120.
87. Merle U., Weiss K. H., Eisenbach C., Tuma S., Ferenci P., Stremmel
W. (2010) “Truncating mutations in the Wilson disease gene ATP7B are associated with very low serum ceruloplasmin oxidase activity and an early onset of Wilson disease”. BMC Gastroenterology, 10, pp. 8.
88. Møller L. B., Ott P., Lund C., Horn N. (2005) “Homozygosity for a gross partial gene deletion of the C-terminal end of ATP7B in a Wilson patient with hepatic and no neurological manifestations”. American Journal of Medical Genetics, 138 A(4), pp. 340-343.
89. Morgan C. T., Tsivkovskii R., Kosinsky Y. a., Efremov R. G.,
Lutsenko S. (2004) “The distinct functional properties of the nucleotide-binding domain of ATP7B, the human copper- transporting ATPase: Analysis of the Wilson disease mutations E1064A, H1069Q, R1151H, and C1104F”. Journal of Biological Chemistry, 279(35), pp. 36363-36371.
90. Nanji M. S., Nguyen V. T., Kawasoe J. H., Inui K., Endo F., Nakajima
T., Cox D. W. (1997) “Haplotype and mutation analysis in Japanese patients with Wilson disease”. American Journal of Human Genetics, 60(6), pp. 1423-1429.
91. Nanji M. S., Nguyen, V. T., Kawasoe, J. H., Inui, K., Endo, F., Nakajima, T., Cox D. W. (1997) “Haplotype and mutation analysis in Japanese patients with Wilson disease”. American Journal of Human Genetics, 60(6), pp. 1423-1429
93. Németh D., Árvai K., Horváth P., Kósa J. P., Tobiás B., Balla B.,
92. Nazer H., Ede R. J., Mowat a P., Williams R. (1986) “Wilson’s disease: clinical presentation and use of prognostic index”. Gut, 27(11), pp. 1377-1381.
94. Nguyen T. T., Pham T. L. A., Ho T. C., Tran D. Q., Tran T. H., Ta V.
Szalay F. (2016). “Clinical Use of Next-Generation Sequencing in the Diagnosis of Wilson’s Disease”. Gastroenterology Research and Practice, 2016, 4548039 .
T., & Tran K. V. (2016). “Novel ATP7B mutations in Vietnamese
patients with Wilson disease”. Vietnam Journal of Science 2(2), pp. 8–11.
95. Nicastro E., Loudianos G., Zancan L., D’Antiga L., Maggiore G.,
96. Nicastro E., Ranucci G., Vajro P., Vegnente A., & Iorio R. (2010). Re-
Marcellini M., Iorio R. (2009) “Genotype-phenotype correlation in Italian children with Wilson’s disease”. Journal of Hepatology, 50(3), pp. 555-561.
evaluation of the Diagnostic Criteria for Wilson Disease in Children With Mild Liver Disease. Hepatology 2010;52: pp. 1948–56.
97. Okada T., Shiono Y., Hayashi H., Satoh H., Sawada T., Suzuki A.,
Mabuchi H. (2000), Mutational Analysis of ATP7B and Genotype-Phenotype Correlation in Japanese With Wilson’s Disease, Human Mutation, 15(Feb), pp. 454–462.
98. Olsson C., Waldenström E., Westermark K., Landegre U., Syvänen C. (2000) “Determination of the frequencies of ten allelic variants of the Wilson disease gene (ATP7B), in pooled DNA samples”. European Journal of Human Genetics : EJHG, 8(12), pp. 933-938.
99. Panichareon B. et al (2011) “Six novel ATP7B mutations in Thai patients with Wilson disease”. European Journal of Medical Genetics 54(2): pp. 103-7
100. Panichareon B., Taweechue K., Thongnoppakhun W., Aksornworanart
M., Pithukpakorn M., Yenchitsomanus P. T., Limjindaporn T. (2011) “Six novel ATP7B mutations in Thai patients with Wilson disease”. European Journal of Medical Genetics, 54(2), pp. 103- 107.
101. Perman J. a, Werlin S. L., Grand R. J., Watkins J. B. (1979)
“Laboratory measures of copper metabolism in the differentiation of chronic active hepatitis and Wilson disease in children”. The Journal of Pediatrics, 94(4), pp. 564-568.
102. Reilly M., Daly L., Hutchinson M. (1993) “an Epidemiologic-Study of
Wilson Disease in the Republic of Ireland”. Neurol Neurosurg Psychiatry,1993;56: pp. 298-300
103. Roberts E. a., Schilsky M. L. (2008) “Diagnosis and treatment of
Wilson disease: An update”. Hepatology, 47(6), pp. 2089-2111. 104. Saito, T. (1987) “Presenting symptoms and natural history of Wilson disease”. European Journal of Pediatrics, 146(3), pp. 261-265.
105. Saito T., Vogler G. P., Rao D. C. (1988) “An expected decrease in the
incidence of autosomal recessive disease due to decreasing consanguineous marriages”. Genetic Epidemiology, 5(6), pp. 421- 432.
106. Sánchez-Albisua I., Garde T., Hierro L., Camarena C., Frauca E., Vega
A, Jara P. (1999) “A high index of suspicion: the key to an early diagnosis of Wilson’s disease in childhood”. Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition, 28(2), pp. 186-190. 107. Santiago R., Gottrand F., Debray D., Bridoux L., Lachaux A., Morali
A., Lamireau T. (2015). Zinc Therapy for Wilson Disease in Children in French Pediatric Centers. Journal of Pediatric Gastroenterology and Nutrition, 61(6), pp. 613–618.
108. Schaefer M., Hopkins R. G., Failla M. L., Gitlin J. D. (1999) “Hepatocyte-specific localization and copper-dependent trafficking of the Wilson’s disease protein in the liver”. The American Journal of Physiology, 276(3 Pt 1), G639-46.
109. Schaefer M., Roelofsen H., Wolters H., Hofmann W. J., Muller M.,
Kuipers F., Vonk R. J. (1999) “Localization of the Wilson’s disease protein in human liver”. Gastroenterology, 117(6), pp. 1380-1385.
110. Scheinberg I.H., Gitlin D. (1952) “Deficiency of ceruloplasmin in
patients with hepatolenticular degeneration (Wilson’s disease)”. Science, 116: pp. 484-485.
111. Scheinberg I.H., Sternlieb I. (1965) “Wilson's disease”. Annu Rev Med,
16, 119-34.
112. Scheinberg I.H., Sternlieb I. (1984), Wilson’s Disease, WB Saunders,
Philadelphia, pp. 5-20
113. Schilsky M. L. (2002) “Diagnosis and treatment of Wilson’s disease”.
Pediatric Transplantation, 6(1), pp. 15-19.
114. Schilsky M. L. (2009) “Wilson disease: Current status and the future”.
115. Schilsky M. L., Roberts E. a., Hahn S., & Askari F. (2015). Costly choices for treating Wilson’s disease. Hepatology, 61(4), pp. 1106–1108.
Biochimie, 91(10), pp. 1278-1281.
116. Schilsky M. L., Stockert R. J., Sternlieb I. (1994) “Pleiotropic effect of LEC mutation: a rodent model of Wilson’s disease”. The American Journal of Physiology, 266(5 Pt 1),pp. G907-G913.
117. Shah AB., Chernov I., Zhang H. T., Ross B. M., Das K., Lutsenko S., Petrukhin K. (1997) “Identification and analysis of mutations in the Wilson disease gene (ATP7B): population frequencies, genotype-phenotype correlation, and functional analyses”. American Journal of Human Genetics, 61(2), pp. 317-328.
118. Silbernagl S., & Lang F. (2000). Color Atlas of Pathophysiology (3rd
119. Şimşek P. Ö., Aşık A. S., & Terzioğlu O. (2015). “Clinical and genetic
ed., Vol. 111). Thieme, New York, pp.253
analysis of pediatric patients with Wilson disease”. The Turkish Journal of Gastroenterology : The Official Journal of Turkish Society of Gastroenterology, 26(5), pp. 397–403. 120. Sokol R.J. (1994), Liver disease in children, Mosby, Suchy FJ, St
Louis, pp. 747-72.
121. Song Y. M., Chen M. D. (2000) “A single determination of liver
copper concentration may misdiagnose Wilson’s disease”. Clinical Biochemistry, 33(7), pp. 589-590.
122. Stapelbroek J. M., Bollen C. W., Ploos Van Amstel J. K., Van Erpecum
K. J., Van Hattum J., Van Den Berg L. H., Houwen R. H. J. (2004) “The H1069Q mutation in ATP7B is associated with late and neurologic presentation in Wilson disease: Results of a meta- analysis”. Journal of Hepatology, 41(5), pp. 758-763.
123. Steindl P., Ferenci P., Dienes, H., Grimm, G., Pabinger I., Madl C., Gangl A. (1997) “Wilson’s disease in patients presenting with liver disease: a diagnostic challenge”. Gastroenterology, 113(1), pp. 212–218.
124. Stremmel W., Meyerrose K. W., Niederau C., Hefter H., Kreuzpaintner
G., Strohmeyer G. (1991) “Wilson disease: clinical presentation, treatment, and survival”. Annals of Internal Medicine, 115(9), pp. 720-726.
125. Suvarna J.C. (2008) “Kayser-Fleischer ring”. J Postgrad Med;54: pp.
238-40
126. Tanzi R. E., Petrukhin K., Chernov I., Pellequer J. L., Wasco W., Ross
B., Brzustowicz L. M. (1993) “The Wilson disease gene is a copper transporting ATPase with homology to the Menkes disease gene”. Nature Genetics, 5(4), pp.344-350.
127. Thomas G. R., Forbes J. R., Roberts,E. a, Walshe J. M., Cox D. W.
(1995) “The Wilson disease gene: spectrum of mutations and their consequences”. Nature Genetics, 9(2), pp. 210-217.
128. Thomas G. R., Roberts, E. a, Walshe J. M., Cox D. W. (1995)
“Haplotypes and mutations in Wilson disease”. American Journal of Human Genetics, 56(6), pp. 1315-1319.
129. Tsai C. H., Tsai F. J., Wu J. Y., Chang J. G., Lee C. C., Lin S. P., Lo
M. C. (1998) “Mutation analysis of Wilson disease in Taiwan and description of six new mutations”. Human Mutation, 12(6), pp. 370-376.
130. Tsivkovskii R., Eisses J. F., Kaplan J. H., Lutsenko S. (2002)
”Functional Properties of the Copper-transporting ATPase ATP7B (The Wilson’s Disease Protein) Expressed in Insect Cells”. Biochemistry, 277(2), pp. 976 -983.
131. Vidaud D., Assouline B., Lecoz P., Cadranel J. F., Chappuis P. (1996)
“Misdiagnosis revealed by genetic linkage analysis in a family with Wilson disease”. Neurology, 46(5), pp. 1485-1486.
132. Vrabelova S., Letocha O., Borsky M., Kozak L. (2005) “Mutation
analysis of the ATP7B gene and genotype/phenotype correlation in 227 patients with Wilson disease”. Molecular Genetics and Metabolism, 86(1-2), pp. 277-285.
133. Walshe J. M. (2006) “History of Wilson’s disease: 1912 to 2000”.
Movement Disorders, 21(2), pp. 142-147.
134. Walshe J.M. (1956) “Wilson’s disease. New oral therapy”. The Lancet,
267 (6906), pp. 25-26.
135. Walshe M., El R., Boumsell L., Bernard A., El R., Lm N., Sf S. (1982) “Treatment of Wilson’s disease with trientine (triethylene tetramine) dihydrochloride”. Lancet, 1: pp. 643-647. 136. Wan L., Tsai C.-H., Tsai Y., Hsu C.M., Lee C.C., Tsai F.J. (2006).
”Mutation analysis of Taiwanese Wilson disease patients”. Biochemical and Biophysical Research Communications, 345(2), pp. 734-738.
137. Weiss K. H., Gotthardt D. N., Klemm, D., Merle U., Ferencifoerster D.,
Schaefer M., Stremmel W. (2011) “Zinc monotherapy is not as effective as chelating agents in treatment of Wilson disease”. Gastroenterology, 140(4) ,pp. 1189-1198.
138. Weiss K. H., Stremmel W. (2012) “Evolving perspectives in Wilson disease: Diagnosis, treatment and monitoring”. Current Gastroenterology Reports, 14(1), pp. 1-7.
139. Wilson D. C., Phillips M. J., Cox D. W., Roberts E. (2000). “Severe hepatic Wilson’s disease in preschool-aged children”. Journal of Pediatrics, 137(5), pp. 719-722.
141. Wu F., Wang, J., Pu C., Qiao L., & Jiang C. (2015). Wilson’s disease: A comprehensive review of the molecular mechanisms. International Journal of Molecular Sciences, 16(3), pp. 6419– 6431.
140. Wilson S.A.K.. (1912) “Progressive lenticular degeneration: a familial nervous disease associated with cirrhosis of the liver”. Brain, 34, pp. 295-507.
142. Wu Z. Y., Wang N., Lin M. T., Fang L., Murong S. X., Yu L. (2001)
“Mutation analysis and the correlation between genotype and phenotype of Arg778Leu mutation in chinese patients with Wilson disease”. Archives of Neurology, 58(6), pp. 971-976. 143. Yamaguchi Y., Aoki T., Arashima S., Ooura T., Takada G., Kitagawa T., et al. (1999) “Mass screening for Wilson’s disease: results and recommendations”. Pediatr Int. 41, pp. 405-408.
144. Yamaguchi Y., Heiny M.E.(1993) “Isolation and characterization of a
human liver cDNA as a candidate gene for Wilson disease”. Biochem Biophys Res Commun, 197, pp. 271-277. 145. Yoo H.-W. (2002) “Identification of novel mutations and the three most common mutations in the human ATP7B gene of Korean patients with Wilson disease”. Genetics in Medicine : Official Journal of the American College of Medical Genetics, 4(6 Suppl), pp. 43S-48S.
PHỤ LỤC 1
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
I. PHẦN HÀNH CHÁNH Họ tên: Số hồ sơ: / Ngày sinh: Mã số nghiên cứu: Giới: nam/ nữ Địa chỉ: Ngày nhập viện: Ngày xuất viện: II. TIỀN SỬ Bản thân
Con thứ Số con: Cân nặng lúc sanh: Bệnh khác:
Gia đình
Bệnh Wilson: có/ không Bệnh gợi ý bệnh Wilson: gan ; thần kinh ; tâm thần ; thiếu máu tán huyết
III. BỆNH SỬ
Tuổi khởi phát: Triệu chứng khởi phát: Số lần khám trước được chẩn đoán: Thời gian từ lúc khởi phát đến khi được chẩn đoán:
o tháng năm không rõ
Diễn tiến:
IV. LÂM SÀNG Không triệu chứng do tầm soát gia đình Tình cờ phát hiện do bất thường xét nghiệm chức năng gan
A. TRIỆU CHỨNG Tổng trạng: Tốt Mệt Trung bình Học kém đi Kém Sụt cân
Bệnh gan: Không có Tiền hôn mê gan vào tháng … năm … … Vàng da vào tháng … năm … … Tiểu đen vào tháng … năm … … Tiêu phân bạc màu vào tháng … năm … … Tiêu phân đen/ máu vào tháng … năm … … Ngứa vào tháng … năm … … Ói máu vào tháng … năm … … Bầm da, chảy máu chỗ khác vào tháng … năm … … Bụng to vào tháng … năm … …
Thần kinh: Không
Rung/lắc vào tháng … năm … … Các cử động không tự ý khác vào tháng … năm … … Khó nói/ thay đổi giọng nói vào tháng … năm … … Tăng tiết/ nhễu nước bọt vào tháng … năm … … Khó nuốt vào tháng … năm … … Dáng đi bất thường vào tháng … năm … … Thay đổi chữ viết vào tháng … năm … …
Tâm thần: Không
Thay đổi tính tình do bé tự nhận biết vào tháng … năm … … Thay đổi tính tình do người ngoài nhận biết vào tháng … năm … …
Nhận thức: Không
Sức học giảm sút do bé tự nhận biết vào tháng … năm … … Sức học giảm sút do người ngoài nhận biết vào tháng … năm … …
Các triệu chứng khác: Không Thiếu máu Thận Khớp Đau xương vào tháng … năm … … vào tháng … năm … … vào tháng … năm … … vào tháng … năm … …
B. DẤU HIỆU Bệnh gan: Không có
không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết không biết
có không Vàng da có không Tiểu xá xị có không Phân bạc màu có không Tiêu phân đen/ máu có không Ngứa Ói máu có không Bầm da/ xuất huyết nơi khác có không có không Đau bụng có không Phù hai chi dưới có không Tuần hoàn bàng hệ có không Gan to có không Lách to có không Cổ chướng Thần kinh: Không
không đánh giá không đánh giá không đánh giá không đánh giá không đánh giá không đánh giá không đánh giá
có không Rung/lắc Các cử động không tự ý khác có không Khó nói/ thay đổi giọng nói có không có không Tăng tiết/ nhễu nước bọt có không Khó nuốt có không Dáng đi bất thường Thay đổi chữ viết không có Khám thần kinh có dấu hiệu bất thường không có không đánh giá
Tâm thần: Không Thay đổi tính tình/ sức học Do bé tự nhận biết do cha/ mẹ do người nhà nhận biết do thầy/ cô nhận biết có không có không có không có không không biết không biết không biết không biết
mg% mcg mcg mcg mg/L
V. CẬN LÂM SÀNG Chẩn đoán bệnh Vòng KF Ceruloplasmin/ máu Đồng/ NT 24g Đồng/ NT 24g khi test D-Pen Đồng/ NT 48g khi test D-Pen Đồng/ máu Sinh thiết gan: o Đồng/ mô học o Đồng/ gan khô
âm không làm dương … … mcg/g gan khô không làm không không làm có
MRI phù hợp MRI chi tiết:
Chức năng gan
T D I
Bilirubin (mg%) SGPT (UI/L) SGOT (UI/L) PAL (UI/L) GGT (mg%) Albumin (g/L) INR Hct % Hb (g/L) Bạch cầu: / Tiểu cầu đếm: /
bình thường
teo bình thường
to to bình thường bình thường bất thường___________________________ bất thường___________________________
Siêu âm bụng Gan Lách Hệ mật Hệ cửa
VI. CHẨN ĐOÁN Thể cấp Thể gan đơn thuần Thể gan-thần kinh Thể thần kinh đơn thuần Lưu ý: Ghi nhận ngày khám, hỏi, đánh giá, làm xét nghiệm sau mỗi chi tiết
PHỤ LỤC 2
PHIẾU THEO DÕI ĐIỀU TRỊ BỆNH WILSON
SHS Ngày Ngày Ngày Ngày Ngày
Họ tên: ĐT:
LIỀU (mg/ngày) (mg/ngày) (mg/ngày) (mg/ngày) (mg/ngày)
THUỐC D-Penicillamine Pyroxidine (B6) Trientine Zinc gluconate Zinc sulfate Thuốc khác CÔNG THỨC MÁU BẠCH CẦU HgB HCT TIỂU CẦU CHỨC NĂNG GAN Albumin Total bilirubin Direct bilirubin Alkaline phosphatase ALT AST Alpha fetoprotein (AFP)
ĐÔNG MÁU
INR Prothrombin time Đồng và Kẽm
Đồng/ máu Ceruloplasmin/ máu Đồng/NT 24 giờ Kẽm/NT 24 giờ Cu non- ceruloplasmin
SHS Ngày Ngày Ngày Ngày Ngày
Họ tên: ĐT:
TPTNT
Protein
WBC
RBC
CHỨC NĂNG THẬN
BUN
Creatinine
LÂM SÀNG
Gan
Lách
Cổ chướng
Triệu chứng thần kinh
Khác:
CTM, chức năng gan, INR, TPTNT
Dùng D-Penicillamine: vào N 3,6, 9 và 12 mỗi tuần trong 1 tháng 2 lần mỗi tuần trong 1 tháng mỗi 2 tuần trong 2 tháng mỗi tháng trong 6 tháng, mỗi 3 tháng trong 1 năm mỗi 6 tháng trong 2 năm mỗi 6 tháng
Dùng Trientine: mỗi tuần trong 1 tháng mỗi 2 tuần trong 2 tháng mỗi tháng trong 6 tháng mỗi 3 tháng trong 1 năm mỗi 6 tháng trong 2 năm mỗi 6 tháng
Đồng/ NT 24 giờ, Đồng tự do/ máu: 4 lần trong năm đầu mỗi 6 tháng
PHỤ LỤC 3: Đặc điểm sinh hóa, lâm sàng và kết quả phân tích đột biến của các ca được tầm soát (N=74)
MÃ
Giới
Đột biến
Đa hình
CP (mg%)
Đồng NT 24g
Vòng KF
WDS trước
WDS sau
Tuổi (năm)
11 36 36
A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V A1140V
N N 16 N N N N N N
M M F 8 tháng M M M F M M M F M M M
7 36 34 14 13 34 31 4 12 37
P767P-FS/T850I, R832K T850I, R832K P767P-FS/WILDTYPE P767P-FS/T850I, R832K E1173K/? E1173K/? không tìm thấy không tìm thấy không tìm thấy không tìm thấy không tìm thấy không tìm thấy
N N N N N N N N N N
- - ND - - - - - - -
0 0 1 0 0 0 0 0 0 0
1 1 5 1 0 0 0 0 0 0
W01 W01-F W01-M W01-S1 W02 W02-F W02-M W02-S1 W03 W03-F W03-M W03-S1 W04 W04-F
A1140V A1140V
N N
35 7
F F
không tìm thấy không tìm thấy
N N
- -
0 0
0 0
W04-M W04-S1
N
20 58 58
F M F
V176fs
N N
- -
0 0
0 0
W06 W06-F W06-M
A1140V A1140V A1140V A1140V
N N
N N
A1140V A1140V
N N N N
39 26 9 37 35 6 2 13
M F F M F M M M
N N N N N N*
- - - - - -*
0 0 0 0 0 0
0 0 1 0 0 1
W06-S1 W06-S2 W08 W08-F W08-M W08-S1 W08-S2 W10
46
M
N
-
0
1
W10 - F
Q1372X/? Q1372X/? không tìm thấy không tìm thấy Q1372X IVS 15-2:A>G SPLICE SITE /? IVS 15-2:A>G SPLICE SITE /? không tìm thấy
N N
42 18
F F
N N
- -
0 0
0 0
W10 - M W10 – S1
không tìm thấy I1148T/? không tìm thấy I1148T
N N N
13 41 32 7
F M F M
N N N
- - -
0 0 0
0 1 0
W11 W11 - F W11 - M W11 - S1
không tìm thấy N1270S/? không tìm thấy N1270S/?
N N N
14 52 48 18
F M F M
N N N
- - -
0 0 0
0 1 0
W12 W12 - F W12 - M W12 - S1
không tìm thấy
N
14
M
N
-
0
0
W12 - S2
15
M
W13
không tìm thấy L1015R/?
N
L1015R/? P868P-FS (DEL C) / T850I P868P-FS (DEL C) /WT T850I/WT T850I/WT
N N 1.0 N N N
39 40 9 20 48 43 19 12
M F F F M F F F
N N 170 N N N N
- - - - - - -
0 0 3 0 0 0 2**
4 1 1 1 6
W13 - F W13 - M W13 - S1 W15 W15 - F W15 - M W15 - S1 W15 – S2
P868P-FS (DEL C) / T850I
N N N N
13 48 42 20 15
M M F F M
N N N N
- - - -
0 0 0 0
W19 W19 - F W19 - M W19 - S1 W19 - S2
I1148T/? không tìm thấy I1148T
N N N
11 45 45 21
F M F F
N N N
- - -
0 0 0
0 1 1
W20 W20 - F W20 - M W20 - S1
I1148T/? G943D/G943D G943D
N N
20 45 44
M M F
N N
- -
0 0
1 1
W22 W22 - F W22 - M
G943D
13
M
W22 - S1
N 3.4
221 N
P -
7 0
11 1
G943D/G943D S105X/S105X S105X
21 44
M M
N
W29# W29-F
N1270S/?
T850I/?
L1371P/L1371P
L902P/L902P
R778L/?
N N N N N* 347 N N N N N N N N N N N N N
- - - - - + - - - - - - - - - - - - -
0 0 0 0 0 4 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
0
43 16 14 40 44 11 9 39 37 13 39 39 19 14 14 35 33 12 8 5 4 7 46 39
F M M M F M M M F M M F F F F M F M F F M M M F
W29-M W29-S1 W32 W32-F W32-M W32-S1 W37## W37-F W37-M W38 WD38-F WD38-M WD38-S1 WD38-S2 W39 WD39-F WD39-M WD39-S1 WD39-S2 WB39-S4 WB39-S3 W43 WD43-F WD43-M
SNP.p.S406
N N N N N N N N N N N N N N N N N N N
Không tìm thấy V176fs
2 N N
SNP.V456L
WD43-S1 W44 WD44-F WD44-M WD44-S2* WD44-S1*
12 13 47 45 26 25
F F M F M M
N N N
- - -
2 0 0
2
V176fs
W55 WD55-M WD55-S1
14 39 9
M
N 110
- -
0 1
1
Không tìm thấy
N SNP p.S046A N
WD##-S#: anh/chị em ruột ca gốc; WD-F: cha ruột ca gốc; WD-M: Mẹ ruột ca gốc F: Nữ; M: Nam SNP: Single Nucleotite Polymorphism (đa hình đơn nucleotite) CP: ceruloplasmin máu NT: nước tiểu * 2 người anh đã được chẩn đoán tại bệnh viện khác nên không cần tầm soát
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HOÀNG LÊ PHÚC
BỆNH WILSON Ở TRẺ EM VIỆT NAM ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, SINH HÓA, ĐIỀU TRỊ, TẦM SOÁT VÀ DI TRUYỀN HỌC PHÂN TỬ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HOÀNG LÊ PHÚC
BỆNH WILSON Ở TRẺ EM VIỆT NAM ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, SINH HÓA, ĐIỀU TRỊ, TẦM SOÁT VÀ DI TRUYỀN HỌC PHÂN TỬ
Chuyên ngành: Nhi khoa Mã số: 62720135
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. TRẦN DIỆP TUẤN PGS. TS. PHẠM LÊ AN
Thành Phố Hồ Chí Minh- Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình, biểu đồ, sơ đồ
Bảng đối chiếu các thuật ngữ Anh-Việt sử dụng trong luận án
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................................ 1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................................. 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................... 5 1. 1. Lịch sử ........................................................................................................................... 5 1.2. Dịch tể học ..................................................................................................................... 8 1.3. Bệnh sinh ....................................................................................................................... 8 1.4. Biểu hiện lâm sàng ...................................................................................................... 15 1.5. Chẩn đoán .................................................................................................................... 19 1.6. Phân loại kiểu hình ..................................................................................................... 22 1.7. Điều trị ......................................................................................................................... 26 1.8. Tầm soát....................................................................................................................... 34 1.9. Tình hình bệnh tại Việt Nam ..................................................................................... 34 CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 37 2.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................. 37 2.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 40 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 53 3.1. Các thông số chung về dân số học ............................................................................. 53 3.2. Tỷ lệ các thể lâm sàng theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ................................ 55 3.3. Tỷ lệ bất thường của ba đặc trưng chính của bệnh Wilson: hiện diện vòng Kayser-Fleisher, giảm nồng độ ceruloplasmin trong máu, tăng nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ .................................................................................................................. 58 3.4. Các đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B ............................................................ 60 3.5. Tương quan kiểu gien – kiểu hình ............................................................................. 68
3.6. Kết quả tầm soát bệnh Wilson cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người bệnh bằng lâm sàng, sinh hóa và phân tích đột biến phân tử gien ATP7B ........................... 79 3.7. Xác định kết quả điều trị bệnh Wilson ở trẻ em Việt Nam ..................................... 81 CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN .................................................................................................. 87 4.1.Mô tả đặc điểm dân số học và tỷ lệ các thể lâm sàng (bệnh gan cấp, bệnh gan mạn đơn thuần, bệnh gan-thần kinh và bệnh thần kinh đơn thuần) của phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ........................................................................................................................ 87 4.2. Mô tả tỷ lệ 3 đặc trưng chính của bệnh Wilson: hiện diện vòng Kayser Fleischer, giảm nồng độ ceruloplasmin trong máu, tăng nồng độ đồng trong nước tiểu 24 giờ .. 90 4.3. Xác định các đặc điểm đột biến phân tử gien ATP7B ............................................. 92 4.4. Chứng minh bước đầu mối liên quan kiểu gien-kiểu hình ..................................... 99 4.5. Mô tả kết quả tầm soát bệnh Wilson cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột của bệnh nhi Wilson bằng lâm sàng, sinh hóa và phân tích đột biến phân tử gien ATP7B ............ 103 4.6. Xác định hiệu quả điều trị bệnh Wilson ................................................................ 107 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 118 KIẾN NGHỊ...................................................................................................................... 120 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH SÁCH BỆNH NHÂN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ALT Alanine aminotransferase
AST Aspartate Aminotransferase
ATP7B ATPase copper transporting beta
Female (bé gái) F
Bệnh Wilson thể gan cấp H1
Bệnh Wilson thể gan mạn tính H2
Male (bé trai) M
MELD Model for End-stage Liver Disease
Negative (âm tính) N
Biểu hiện thần kinh đi kèm bệnh gan có triệu chứng N1
Biểu hiện thần kinh không đi kèm bệnh gan có triệu chứng N2
Not done (không thực hiện) ND
NT 24 giờ Nước tiểu 24 giờ
Biểu hiện thần kinh nhưng sự hiện diện hay không hiện diện NX
bệnh gan không được khảo sát Positive (dương tính) P
PELD Score Pediatric End-Stage Liver Disease Score
TM Tetrathiomolybdate
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
VGM Viêm gan mạn
Vòng KF Vòng Kayser-Fleischer
WD Wilson’s disease
XG Xơ gan
Danh mục các bảng
Bảng 1.1. Các cột mốc của quá trình nghiên cứu bệnh Wilson trong y khoa ... 7
Bảng 1.2. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh Wilson ........................................ 16
Bảng 1.3. Các xét nghiệm và dấu hiệu lâm sàng thường qui trong chẩn đoán
bệnh Wilson ..................................................................................... 21
Bảng 1.4. Bảng điểm chẩn đoán bệnh Wilson của Ferenci ............................. 25
Bảng 1.5. Các thuốc điều trị bệnh Wilson ....................................................... 28
Bảng 1.6. Thang điểm đánh giá tiên lượng bệnh Wilson theo Nazer, điều
chỉnh bởi Dhawan ........................................................................... 31
Bảng 1.4b. Bảng điểm chẩn đoán bệnh Wilson của Ferenci ........................... 39
Bảng 2.1: Các đoạn mồi dùng trong khuếch đại vùng khởi động, exon 2 và 3
của gien ATP7B ................................................................................ 46
Bảng 3.1. Phân bố bệnh theo địa phương ....................................................... 53
Bảng 3.2. Phân bố tuổi .................................................................................... 54
Bảng 3.3. Phân bố bệnh theo giới ................................................................... 55
Bảng 3.4. Các thể lâm sàng chính theo phân loại Leipzig 2003 ...................... 55
Bảng 3.5. Phân bố và tuổi trung bình của các dạng lâm sàng tổn thương gan 56
Bảng 3.6. Thể lâm sàng và tuổi trung bình theo phân loại kiểu hình Leipzig
2003 .................................................................................................. 56
Bảng 3.7. Tỷ lệ vòng Kayser-Fleischer, hàm lượng ceruloplasmin/máu và
đồng nước tiểu 24 giờ ...................................................................... 58
Bảng 3.8. Phân bố vòng Kayser-Fleischer theo phân loại kiểu hình Leipzig
2003 .................................................................................................. 59
Bảng 3.9. Bất thường nồng độ ceruloplasmin trong máu theo phân loại kiểu
hình Leipzig 2003 ............................................................................ 59
Bảng 3.10. Phân bố hàm lượng đồng trong nước tiểu 24 giờ theo phân loại
kiểu hình Leipzig 2003 .................................................................... 60
Bảng 3.11. Đặc điểm Polymorphism gien ATP7B .......................................... 61
Bảng 3.12. Đặc điểm các loại đột biến được phát hiện ................................... 63
Bảng 3.13. Phân bố kiểu gien của 36 bệnh nhân Wilson ................................. 64
Bảng 3.14. Phân bố tổn thương theo exon của 48 alen gien ATP7B có đột
biến ................................................................................................... 65
Bảng 3.15. Đặc điểm dân số, lâm sàng và sinh hóa của 15 trường hợp có 2 đột
biến gien ATP7B.............................................................................. 70
Bảng 3.16. Đặc điểm dân số, lâm sàng và sinh hóa của 18 trường hợp phát
hiện 1 đột biến gien ATP7B ............................................................ 71
Bảng 3.17. Các đặc trưng chính của bệnh Wilson ở hai nhóm đồng hợp tử và
dị hợp tử ........................................................................................... 72
Bảng 3.18a. Phân bố các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ở hai nhóm
đồng hợp tử và dị hợp tử .................................................................. 72
Bảng 3.18b. Phân bố các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 có triệu chứng
lâm sàng của hai nhóm đồng hợp tử và dị hợp tử ........................... 73
Bảng 3.19. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa các trường hợp đột biến D1027H ... 19
Bảng 3.20. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa của hai nhóm đồng hợp tử và dị hợp
tử kép có biểu hiện triệu chứng lâm sàng ........................................ 74
Bảng 3.21. Các thể phân loại kiểu hình Leipzig 2003 theo hai nhóm đột biến
gây tổn thương enzym ATP7B lệch nghĩa và khác ......................... 75
Bảng 3.22. Biểu hiện gan theo hai nhóm đột biến gây tổn thương enzym
ATP7B lệch nghĩa và khác .............................................................. 75
Bảng 3.23. Tuổi trung bình biểu hiện bệnh của hai nhóm đột biến gây tổn
thương enzym ATP7B lệch nghĩa và khác ...................................... 76
Bảng 3.24. Tuổi biểu hiện lâm sàng theo các dạng tổn thương protein do đột
biến .................................................................................................. 76
Bảng 3.25. Kết quả điều trị của hai nhóm đột biến gây tổn thương enzym
ATP7B lệch nghĩa và khác .............................................................. 77
Bảng 3.26. Phân bố dạng lâm sàng bệnh gan theo exon tổn thương .............. 78
Bảng 3.27. Đặc điểm lâm sàng, sinh hóa và đột biến của các ca bệnh phát hiện
nhờ tầm soát và anh chị em tương ứng ............................................ 80
Bảng 3.28. Sự thay đổi điểm Ferenci sau khi có kết quả đột biến phân tử
ATP7B ............................................................................................ 81
Bảng 3.29. Kết quả điều trị chung ................................................................... 81
Bảng 3.30. Kết quả điều trị của các trường hợp có dùng thuốc đặc hiệu ....... 82
Bảng 3.31. Phân bố kết quả điều trị theo dạng tổn thương lâm sàng ở gan .... 82
Bảng 3.32. Phân bố kết quả điều trị theo phân loại kiểu hình Leipzig 2003 ... 83
Bảng 3.33. Các dạng phối hợp thuốc .............................................................. 84
Bảng 3.34. Tác dụng phụ chung ..................................................................... 84
Bảng 3.35. Tác dụng phụ của D-Penicillamine ............................................... 86
Bảng 4.1. Thang điểm đánh giá tiên lượng bệnh Wilson theo Nazer ............ 114
Danh mục các hình
Hình 1.1: S A Kinnier Wilson ............................................................................ 5
Hình 1.2: Trang bìa tạp chí Brain tháng Ba năm 1912 đánh dấu sự phát hiện
bệnh Wilson ........................................................................................ 6
Hình 1.3: Chuyển hóa đồng trong cơ thể người ................................................. 9
Hình 1.4: Điều hoà chuyển hoá đồng tại tế bào gan ........................................ 10
Hình 1.5: Các quá trình trong tế bào của enzym ATP7B bình thường và bị
đột biến ............................................................................................. 12
Hình 1.6. Cấu trúc gien ATP7B và sản phẩm protein của nó, enzym ATP7B 13
Hình 1.7. Hình ảnh MRI điển hình của bệnh nhi Wilson người Việt 14 tuổi . 18
Hình 1.8. Vòng Kayser-Fleischer ở bé trai người Việt 14 tuổi ..................... 19
Hình 1.9. Sơ đồ thiết kế thuốc mới điều trị thải đồng đặc hiệu ....................... 30
Hình 1.10: Phân tích haplotype ........................................................................ 35
Hình 3.1: Các vùng cấu trúc của enzym ATP7B được mã hóa tương ứng với
các exon trên gien ATP7B và các đột biến được phát hiện ............. 62
Hình 3.2. Đột biến c.314C>A đồng hợp tử ..................................................... 66
Hình 3.3. Đột biến c.314C>A dị hợp tử ........................................................... 66
Hình 3.4. Đột biến chèn thêm 1 nucleotide (c.525- 526insA) ........................ 67
Hình 3.5. Đột biến mới p.D1027H (c.3079G>C) của exon 14 ........................ 67
Hình 3.6. Tổn thương da do D-Penicillamine .................................................. 85
Danh mục các sơ đồ và biểu đồ
Sơ đồ 1.1. Lưu đồ chẩn đoán bệnh Wilson ...................................................... 24
Sơ đồ 2.1: Qui trình lọc bệnh Wilson .............................................................. 49
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ kết quả nghiên cứu ............................................................... 52
Sơ đồ 4.1: Phân loại bệnh nhân cho lựa chọn thuốc khởi đầu điều trị .......... 115
Biểu đồ 3.1. Phân bố phân loại kiểu hình Leipzig 2003 theo lứa tuổi ............. 57
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH-VIỆT SỬ DỤNG
TRONG LUẬN ÁN
Aceruloplaminemia Bệnh không có ceruloplasmin máu
Allele drop out Hiện tượng rớt alen
Bản lề ATP ATP hinge
Quai ATP ATP loop
Protein chaperon Chaperone
Chromosome Nhiễm sắc thể
Mất đoạn Deletion
Exon Exon
Bé gái Female
Ferenci score Thang điểm Ferenci
First degree relatives Anh chị em ruột
Frameshift Lệch khung đọc
Gien Gene
Kiểu gien Genotype
Tập hợp cá biệt của đột biến di truyền cụ thể Haplotype
trong một phân đoạn ADN nhất định
Chèn vào Insertion
Vùng DNA không mã hóa cho axit amin nằm Intron
giữa các exon của một gien
Leipzig diagnostic score Thang chẩn đoán Leipzig
Bé trai Male
Lệch nghĩa Missene
Đột biến Mutation
Âm tính Negative
Vô nghĩa Nonesene
Không thực hiện Not done
Polymorphism Đa hình
Dương tính Positive
Dừng sớm Premstop
Tiền thuốc Pro-drug
Kiểu hình Phenotype
Tầm soát Screening
Nối ghép Splice site
Thay thế Substitution
Tải nạp Transduction
Transmembrane Xuyên màng
Truncated Cắt cụt
Wilson diagnostic score Thang điểm chẩn đoán bệnh Wilson