Bệnh Xơ Cứng Tai

(Otosclerosis)

Bệnh xơ cứng tai có thể gây ra điếc dẫn truyền và/ hoặc điếc thần kinh

giác quan. Bệnh này luôn bắt đầu ở một bên tai nhưng cuối cùng sẽ bị cả

2 tai với một tiến trình bệnh thay đổi.

MÔ TẢ LÂM SÀNG

Trên Thính lực đồ, mất sức nghe có đặc điểm giảm ở tần số trầm, tần số

cao bị ảnh hưởng chậm hơn. Điếc thần kinh giác quan được ghi nhận có ở

bệnh nhân bị bệnh xơ cứng tai; thường mất ở tần số cao thường bị vào

giai đoạn sau của bệnh.

Khoảng 0,5% dân số được chuẩn đoán bị bệnh xơ cứng tai. Các nghiên

cứu trên xác (post mortem stadies) cho thấy nhiều hơn 10% dân số có thể

bị các tổn thương xơ cứng tai (otosclerotic lerions) ở xương thái dương

của họ, nhưng hình như họ chưa bao giờ có dấu hiệu để nghĩ đến bị bệnh

này. Người da trắng bị nhiều hơn người da đen và người da vàng. Trong

thực tế lâm sàng nữ bị bệnh này nhiều hơn nam khoảng gấp 2 lần, nhưng

điều này không phản ánh tỷ lệ mắc bệnh thật theo giới (true sex ratio).

Khi nghiên cứu các gia đình người ta nhận thấy tỷ lệ nữ giới bị bệnh chỉ

hơi nhiều hơn nam giới [2]. Thường bắt đầu nghe kém xảy ra có thể nhận

biết được là ở tuổi trung niên, nhưng nó cũng có thể bắt đầu sớm hơn

nhiều. Nghe kém được tin là tăng nhiều trong suốt thời gian mang thai [3]

nhưng nghiên cứu cho thấy thời gian mang thai và cho con bú có thể

không làm bệnh xơ cứng tai xấu đi [4].

DI TRUYỀN (GENETICS)

Bệnh này có thể được cho là do di truyền, nhưng sự xuyên suốt của nó và

mức độ diễn đạt có thể thay đổi rất cao, rất khó để tìm thấy một mẫu của

di truyền Hầu hết các gen nói tới được truyền theo kiểu trội nhiễm sắc thể

định hình (autosomal dominant). Một phân tích rộng bộ di truyền liên

quan bệnh xơ cứng tai với sự thay đổi trong RELN gene [5].

SINH BỆNH HỌC (Pathophysiology)

Sinh bệnh học của bệnh xơ cứng tai phức tạp. Tổn thương chính của bệnh

xơ cứng tai là nhiều vùng bị xơ cứng nằm trong sụn của xương thái

dương. Các tổn thương này chia sẻ một số đặc tính với bệnh Paget

nhưng người ta không nghĩ nó có liên quan. Tất cả các nghiên cứu tế bào

học đều trên xương thái dương người chết, vì thế các kết luận có thể chỉ

cho giai đoạn tiến triển của bệnh. Dường như các tổn thương đi qua giai

đoạn xốp/ tăng sinh mạch máu (spongiotic/hypervascular phase) trước khi

phát triển vào giai đoạn xơ cứng. Có rất nhiều gen và protein được xác

định nếu bị đột biến có thể dẫn đến những tổn thương này. Cũng có

chứng cớ cho rằng virút bệnh sởi hiện diện trong những vị trí bị sơ cứng,

ám chỉ một nguồn gốc nhiễm trùng (điều này cũng được ghi nhận trong

bệnh Paget).

Điếc dẫn truyền (CHL) là do tổn thương giống sẹo thường nằm ở 2 vị trí

chính. Cơ chế chính là do sự cố định của đế xương bàn đạp vào cửa sổ

bầu dục của ốc tai. Điều này làm đế xương bàn đạp chuyển động không

tốt và vì thế ảnh hưởng đến sự dẫn truyền âm thanh vào tai trong (“sự nối

các xương con” = ossicular coupling). Thêm nữa cửa sổ tròn cũng có thể

trở nên xơ cứng và bằng cách tương tự như trên nó làm ảnh hưởng đến

các sóng áp suất âm thanh đi vào tai trong (“sự nối âm thanh” = acoustic

coupling).

Điếc thần kinh giác quan trong bệnh xơ cứng tai còn có thể gây ra tranh

luận. Suốt thế kỷ qua, các nhà tai học và các nhà nghiên cứu tai thần kinh

học hàng đầu đã tranh luận, liệu điếc thần kinh giác quan trong giai đoạn

cuối của bệnh xơ cứng tai là do bệnh xơ cứng tai hay đơn giản chỉ là điếc

già (presbycusis) điển hình. Chắc chắn có một vài trường hợp chứng

minh tốt của tổn thương xơ cứng phá hủy hoàn toàn cấu trúc giác quan

bên trong ốc tai (cochlea) và dây chằng xoắn (spiral ligament). Những

trường hợp này được chụp và báo cáo sau khi chết. Các dữ liệu hỗ trợ

khác bao gồm chắc chắn các tế bào lông bị mất ở bệnh nhân bị bệnh xơ

cứng tai, các tế bào này là cơ quan giác quan chính để tiếp nhận âm

thanh. Một cơ chế được đề nghị cho điều này là sự phóng thích các

enzyme có tính thủy phân vào cấu trúc tai trong nhờ các tổn thương xốp

(spongiotic lesion).

CHUẨN ĐOÁN

Bệnh xơ cứng tai được chuẩn đoán theo cách truyền thống nhờ các kết

quả lâm sàng đặc hiệu bao gồm điếc dẫn truyền tiến triển (progressive

conductive hearing loss), màng nhĩ bình thường và không có những

chứng cớ về tai giữa bị viêm. Ụ nhô ốc tai có thể phản chiếu tình trạng

mạch máu của tổn thương bằng màu hồng lợt, được gọi là dấu hiệu

Schwartze. Điếc dẫn truyền thường thứ phát do tác động của xương

không bình thường trên đế xương bàn đạp.Sự ảnh hưởng của cửa sổ bầu

dục này là nền tảng của tên gọi “xơ cứng tai ở cửa sổ” (fenestral

otosclerosis). Vị trí thông thường nhất trong bệnh xơ cứng tai là xương

chỉ ở phần trước của cửa sổ bầu dục tại một rãnh nhỏ được gọi là rãnh

trước cửa sổ (fissula ante fenestram). Rãnh này là một nếp nhỏ của mô

nối kéo dài qua lớp nội sụn khoảng giữa cửa sổ bầu dục và ụ nhô ốc tai

(cochleariform process), nơi cân co mang nhĩ quay sang bên hướng về

xương búa.

Chuẩn đoán hình ảnh thường không thuyết phục trong các trường hợp

điếc dẫn truyền đơn thuần và các kết quả lâm sàng đặc hiệu. Những

trường hợp chỉ bị điếc dẫn truyền thường được điều trị nội khoa hoặc

phẫu thuật không cần chuẩn đoán hình ảnh. Chuẩn đoán có thể không rõ

ràng về lâm sàng ở các trường hợp điếc thần kinh giác quan hay điếc hỗn

hợp và có thể để chuẩn đoán chính xác hơn chỉ có thể dựa vào chuẩn

đoán hình ảnh. Vì thế chuẩn đoán hình ảnh thường được chỉ định khi bị

điếc hỗn hợp hay điếc thần kinh giác quan. Cơ chế của điếc thần kinh

giác quan trong bệnh xơ cứng tai chưa được hiểu nhiều. Nó có thể do

những chấn thương trực tiếp vào ốc tai và dây chằng xoắn từ quá trình

thủy phân hoặc từ việc phóng thích các enzyme phân hủy protein trong ốc

tai. Chụp CT độ phân giải cao cho thấy các kết quả rất khó thấy về

xương. Đó là kỹ thuật chuẩn đoán hình ảnh cho những sự lựa chọn đặc

biệt vì những ưu điểm của kỹ thuật CT với độ phân giải tốt hơn hay cao

hơn.

Bệnh xơ cứng tai có thể qua kết quả CT phân lọai theo độ của Symons và

Fanning [6]. Độ 1: chỉ cửa sổ bị; độ 2: bệnh ốc tai được phân bổ lỗ chỗ

(Với hoặc không có bệnh tích ở cửa sổ) hoặc ở vòng đáy ốc tai (độ 2A),

hoặc ở vòng giữa/ vòng đỉnh (độ 2B), hoặc cả 2 vòng đáy và vòng giữa/

vòng đỉnh (độ 2C); độ 3: gia tăng sự hợp nhất ốc tai (với hoặc không có

bệnh tích của cửa sổ).

ĐIỀU TRỊ

Có 2 lựa chọn chính trong điều trị bệnh xơ cứng tai: máy nghe (đây là

lựa chọn có rất gần đây bao gồm cả máy nghe đường xương) và phẫu

thuật xương bàn đạp (stapectomy). Máy nghe thường rất có hiệu quả

trong giai đoạn đầu của bệnh nhưng cuối cùng thì phẫu thuật xương bàn

đạp có thề được yêu cầu để điều trị. Những cố gắng sớm để bảo toàn sức

nghe qua việc giải phóng đơn giản xương bàn đạp khỏi các chỗ bám xơ

cứng vào cửa sổ bầu dục cải thiện sức nghe tạm thời, nhưng điếc dẫn

truyền hầu như luôn tái phát lại. Phẫu thuật lấy xương bàn đạp

(stapecdectomy) bao gồm lấy phần đế xương bàn đáp bị xơ cứng và thay

thế nó bằng một vật cấy được buộc chặt vào xương đe. Quá trình này bào

tồn được sự tiếp tục chuyển động của của chuỗi xương con và cho phép

các sóng âm truyền từ màng nhĩ đến tai trong. Một phương pháp mới hiện

đại khác với phương pháp này có tên gọi là “mở xương bàn đạp”

(stapedotomy). nó được thực hiện bằng cách khoan một lỗ nhỏ ở đế

xương bàn đạp với một cái khoan siêu nhỏ hoặc với laser, và gắn một bộ

phận giả giống pit-tông. Mức độ thành công của phẫu thuật mở xương

bàn đạp hoặc phẫu thuật lấy xương bàn đạp phụ thuộc rất lớn vào kỹ năng

và sự thành thạo qui trình của bác sĩ phẫu thuật [7].

Phương pháp điều trị khác ít hiệu quả hơn bao gồm uống fluorid, theo lý

thuyết nó trở nên hợp nhất trong xương và ngăn chặn sự tiến triển của xơ

cứng tai. Điều trị này không làm đảo ngược điếc dẫn truyền, nhưng có thể

làm chậm lại sự tiến triển của cả 2 thành phần của bệnh gây điếc dẫn

truyền và gây điếc thần kinh giác quan. Otoflour là một lọai thuốc đã

được xử dụng rộng rãi thành phần của nó là sodium flouride. Mới đây có

vài hiệu quả được báo cáo về thuốc bisphosphonate, nó ngăn chặn sự phá

hủy của xương [8,9,10 ]. Có hàng lọat tác dụng phụ của 2 lọai thuốc này,

bao gồm thỉnh thòang đau bao tử, ngứa dị ứng và đau các khớp gia tăng

có thể dẫn đến viêm khớp [11].