BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HỒ CHÍ MINH

--------------------

NGUYỄN TƯỜNG VÂN

DIỄN BIẾN HÌNH THÁI KIẾN TRÚC

NHÀ THỜ CÔNG GIÁO

ĐÀ LẠT – LÂM ĐỒNG

(TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NAY)

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

TP. HỒ CHÍ MINH 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------

NGUYỄN TƯỜNG VÂN

DIỄN BIẾN HÌNH THÁI KIẾN TRÚC

NHÀ THỜ CÔNG GIÁO

ĐÀ LẠT – LÂM ĐỒNG

(TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NAY)

Chuyên ngành: Kiến Trúc

Mã số: 8.58.01.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. KTS. PHAN HỮU TOÀN

TP. HỒ CHÍ MINH 2019

MỤC LỤC

PHẦN MỘT. MỞ ĐẦU ......................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................ 1

2. Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến đề tài ................ 2

3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................. 3

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu............................................. 3

5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................... 3

PHẦN HAI. NỘI DUNG ....................................................................... 5

Chương I. Tổng quan về các nhân tố hình thành và diễn biến kiến

trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng .............................. 5

1.1 Điều kiện môi trường tự nhiên ............................................... 5

1.1.1 Vị trí địa lý và địa hình .................................................... 5

1.1.1.1 Địa lý tự nhiên ............................................................ 5

1.1.1.2 Địa hình và ý đồ quy hoạch cảnh quan ....................... 5

1.1.2 Điều kiện tự nhiên và cảnh quan thiên nhiên ................ 5

1.1.2.1 Điều kiện tự nhiên ...................................................... 5

1.1.2.2 Cảnh quan thiên nhiên ................................................ 5

1.2 Nền tảng các thành tố xã hội nhân văn .................................. 6

1.2.1 Sự ra đời và thức giấc của một thánh phố nghĩ dưỡng. 6

1.2.2 Quá trình đô thị hóa và xây dựng kiến trúc Nhà Thờ

Đà Lạt – Lâm Đồng ................................................................... 6

1.2.2.1 Sự biến đổi diện mạo qua các đồ án quy hoạch đô thị

Đà Lạt – Lâm Đồng ................................................................. 6

1.2.2.2 Quá trình tụ cư và nguồn gốc hình thành Nhà Thờ

Công Giáo ................................................................................ 7

1.3 Tổng quan diễn biến lịch sử kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo

tại Đà Lạt – Lâm Đồng qua các thời kỳ ....................................... 7

1.3.1 Ngôi Nhà Thờ đầu tiên ..................................................... 7

1.3.2 Diễn biến lịch sử kiến trúc Nhà Thờ tại Đà Lạt – Lâm

Đồng............................................................................................ 7

Tiểu kết chương 1 .......................................................................... 8

Chương 2. Cơ sở khoa học về lý luận và tác động đến sự biến đổi

hình thái kiến trúc Nhà Thờ Đà Lạt – Lâm Đồng .............................. 8

2.1 Cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến diễn biến hình thái

kiến trúc Nhà Thờ Đà Lạt – Lâm Đồng ...................................... 8

2.1.1 Lý luận về hình thái học kiến trúc .................................. 8

2.1.2 Lý luận về hiện tượng học kiến trúc ............................... 8

2.1.3 Lý thuyết về “Giao Thoa và thiếp biến văn hóa” .......... 9

2.1.3.1 Khái niệm về giao thoa và tiếp biến văn hóa .............. 9

2.1.3.2 “Giao thoa và tiếp biến văn hóa kiến trúc” ở Việt Nam

và tại Đà Lạt – Lâm Đồng ....................................................... 9

2.1.4 Thiên Chúa Giáo và mô hình Nhà Thờ nguyên gốc ...... 9

2.1.5 Kiến trúc Nhà Thờ Pháp và kiến trúc địa phương Pháp

................................................................................................... 10

2.1.5.1 Kiến trúc Nhà Thờ Pháp ........................................... 10

2.1.5.2 Kiến trúc địa phương Pháp ....................................... 10

2.1.6 Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Việt Nam qua các thời

kỳ .............................................................................................. 10

2.2 Cơ sở thực tiến kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo trong nước

và tại Đà Lạt – Lâm Đồng ........................................................... 11

2.2.1 Nhà Thờ Công Giáo giai đoạn tiên kỳ (từ đầu thế kỷ

XX đến năm 1954) ................................................................... 11

2.2.2 Nhà Thờ Công Giáo gai đoạn II từ năm 1954 đến năm

1975 ........................................................................................... 11

2.2.3 Nhà Thờ Công Giáo giai đoạn III từ sau 1975 đến nay

................................................................................................... 12

Tiểu kết chương 2 ........................................................................ 13

Chương 3. Diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà

Lạt – Lâm Đồng ................................................................................... 13

3.1 Nhận dạng diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công

Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng ...................................................... 13

3.1.1 Kiến trúc Nhà Thờ thời Pháp thuộc ............................. 13

3.1.1.1 Nhà Thờ mô phỏng cổ điển Châu Âu ....................... 13

3.1.1.2 Nhà Thờ phong cách Á - Âu ..................................... 14

3.1.2 Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng ... 14

3.1.2.1 Nhà Thờ truyền thống Nam Trung Bộ ...................... 14

3.1.2.2 Nhà Thờ phong cách bản địa mới ............................. 14

3.1.2.3 Nhà Thờ cách tân thuần Việt .................................... 15

3.2 Đặc trưng và giá trị kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà

Lạt – Lâm Đồng ........................................................................... 15

3.2.1 Đặc trưng kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt –

Lâm Đồng ................................................................................. 16

3.2.1.1 Sự biến đổi hình thái quy hoạch đô thị và dấu ấn kiến

trúc Nhà Thờ .......................................................................... 16

3.2.1.2 Sự đa dạng trong biến đổi hình thái kiến trúc và quy

hoạch ..................................................................................... 16

3.2.1.3 Khai thác yếu tố kiến trúc hài hòa với cảnh quan và

đặc điểm nơi chốn .................................................................. 16

3.2.1.4 Kiến trúc kết hợp vật liệu xây dựng địa phương và

thích ứng với khí hậu miền cao nguyên ................................. 17

3.2.2 Nhận định về giá trị hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công

Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng .................................................. 15

3.2.2.1 Giá trị vật thể ............................................................ 17

3.2.2.2 Giá trị phi vật thể ...................................................... 17

Tiểu kết chương 3 ........................................................................ 18

PHẦN BA. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................... 19

1.Kết luận ..................................................................................... 19

2.Kiến nghị ................................................................................... 20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trần Lâm Bền (2000). Hỏi & đáp về Văn hóa Việt Nam, NXB A. Tài liệu tiếng Việt [1]. Văn hóa dân tộc & Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

[2]. Nguyễn Huy Côn (2004). Kiến trúc và môi sinh, NXB Xây

Dựng, Hà Nội.

[3]. Nguyễn Hồng Dương, Ngô Quốc Đông. Công giáo Việt Nam –

Trí thức cơ bản, NXB Từ điển bách khoa.

Tôn Thất Đại (2005). Kiến trúc hậu hiện đại, NXB Xây Dựng,

[4].

Hà Nội

[5]. Việt Hà, Nguyễn Ngọc Giả (2000). Khí hậu kiến trúc, NXB Xây

Dựng, Hà Nội.

[6]. Đặng Thái Hoàng. Hình thái học kiến trúc. [7]. Đặng Thái Hoàng. Hiện tượng học kiến trúc. [8]. Ngô Huy Huỳnh (2010). Tìm hiểu Lịch sử kiến trúc Việt Nam,

NXB Xây Dựng, Hà Nội.

[9]. Nguyễn Khởi (1991). Kiến trúc Việt Nam – Các dòng tiêu biểu,

NXB Đại học Kiến trúc, TPHCM.

[10]. Nguyễn Khởi (2002). Bảo tồn và trùng tu các di tích kiến trúc,

NXB Xây Dựng, Hà Nội.

[11]. Doãn Minh Khôi (2016). Đọc & hiểu Kiến trúc, NXB Xây dựng,

Hà Nội.

[12]. Hoàng Đạo Kính (2001). Đừng để kiến trúc Đà Lạt tàn phai, Tuổi

trẻ chủ nhật số 39.

[13]. Vũ Tam Lang (2008). Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB Xây dựng,

Hà Nội.

[14]. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tuấn, Lương Ninh

(1991). Lịch sử Việt Nam, NXB ĐH & GDCN, Hà Nội.

[15]. Phan Huy Lê (2018). Di sản Văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn

lịch sử, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

[16]. Trần Đức Lộc (2000). Đà Lạt trong tôi, NXB Trẻ, TPHCM. [17]. Mai Thái Lĩnh (1995). Đồ án Lagisquet có gì lạ - Tạp chí Kiến

trúc Việt Nam số 02 – 1995.

[18]. Nguyễn Nghị, Nguyễn Quốc Thái, Khổng Thành Ngọc, Hoàng Minh Thức (2006). Nhà thờ Công giáo ở Việt Nam – kiến trúc – lịch sử, NXB Tổng hợp TPHCM, TPHCM.

[19]. Hãn Nguyên. Lịch sử phát triển Đà Lạt, Tài liệu kho lưu trự thư

viện tỉnh Lâm Đồng.

[20]. Phạm Đức Nguyên (2002). Kiến trúc sinh khí hậu, NXB Xây

Dựng, Hà Nội.

[21]. Nguyễn Vĩnh Nguyên, Trần Công Hòa, Nguyễn Pháp (1993).

Kiến trúc cảnh quan Đà Lạt, Tạp chí Kiến trúc số 5.

[22]. Nguyễn Vĩnh Nguyên (In lần 5 (2018)). Đà Lạt một thời hương xa – Du khảo Văn hóa Đà Lạt 1954-1975, NXB Trẻ, TPHCM. [23]. Lê Thanh Sơn. Kiến trúc phương Tây thời kỳ cổ đại, Đại học

Kiến trúc TPHCM.

[24]. Lê Thanh Sơn (1999). Biểu tượng và không gian kiến trúc – đô

thị.

[25]. Nguyễn Đức Thuần (2014). Khía cạnh Văn hóa – Xã hội của

Kiến trúc, NXB Xây Dựng, Hà Nội.

[26]. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996). Kiến trúc phong cảnh, NXB

Khoa học Kiến trúc.

[27]. Nguyễn Hữu Tranh (Tái bản năm 2017). Đà Lạt năm xưa – lược

khảo, NXB Trẻ, TPHCM.

[28]. Chu Quang Trứ (2001). Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng

và tôn giáo ở Việt Nam, NXB Mỹ Thuật, Hà Nội.

[29]. Nhóm giáo sư, sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn (1970). Sử

địa – Đặc khảo Đà Lạt, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

[30]. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2006). Dựng xây từ những viên

đá sống động, NXB Tôn Giáo.

[31]. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993). Đà Lạt, Thành phố

Cao Nguyên, NXB TPHCM.

[32]. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (2008). Đà Lạt địa chí, NXB

Tổng hợp, TPHCM.

[33]. Tòa giám mục giáo phận Đà Lạt (1991). Lịch sử giáo phận Đà

Lạt, Xí nghiệp in Lâm Đồng, Đà Lạt.

[34]. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993). Đà Lạt thành phố

Cao nguyên, NXB TPHCM.

[35]. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2001). Địa chí Lâm Đồng,

NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội.

Tài liệu tiếng Việt tác giả nước ngoài [36]. Xavier Brrali Altet (2005). Kiến trúc Tây phương thời Trung đại. (Hà Nguyên Thanh biên tập), NXB Mỹ Thuật, Hà Nội.

[37]. Emily Cole (2015). Ngữ pháp Kiến Trúc. (Lê Phục Quốc dịch),

NXB Xây Dựng, Hà Nội.

[38]. Eric T. Jennings (10/2015. Đỉnh cao Đế quốc – Đà Lạt và Sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp. (Phạm Viêm Phương, Bùi Thanh Châu dịch), NXB Hồng Đức.

[39]. Steven J. Schloeder (2015). Thư viện Đại chủng viện Đức Mẹ vô

nhiễm Bùi Chu. (Nguyễn Đình Diễn, Vũ Văn Thuấn dịch)

Luận văn [40]. Lê Thị Hồng Na (2003). Luận văn kiến trúc Đà Lạt thời thuộc Pháp (1893-1954), Đại học Kiến trúc TPHCM.

[41]. Lê Thanh Sơn (1999). Luận văn Kiến trúc và hiện tượng cộng

sinh văn hóa, Đại học Kiến trúc TPHCM.

[42]. Nguyễn Huy Văn (2003). Luận văn dấu ấn quan hệ của người Pháp trong sự phát triển không gian đô thị và kiến trúc cảnh quan thành phố Đà Lạt, Đại học Kiến trúc TPHCM.

B. Các nguồn tài liệu điện tử. [43]. https://www.tapchikientruc.com.vn/ [44]. https://dalatarchi-tranconghoaktsk.blogspot.com/ [45]. https://vi.wikipedia.org/ [46]. http://www.giaoxugiaohovietnam.com/

[47]. https://ashui.com/mag/ [48]. https://kienviet.net/ [49]. https://www.archdaily.com/ [50]. https://www.pinterest.com/

1

PHẦN MỘT. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

Nằm trên cao nguyên cao nhất của Tây Nguyên, Đà Lạt - Lâm Đồng thuộc cao nguyên Lâm Viên – Di

Linh có độ cao hơn 1000m so với mực nước biển và là tỉnh thành lớn thứ bảy cả nước, tiếp giáp với vùng kinh

tế trọng điểm ở phía Nam: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 2010, Lâm

Đồng là tỉnh đầu tiên ở Tây Nguyên có hai thành phố trực thuộc tỉnh đó là thành phố Đà Lạt và thành phố Bảo

Lộc.

Với mong muốn của người Pháp về một thành phố nghỉ dưỡng mang hơi thở “Châu Âu” giữa lòng thuộc

địa, Đà Lạt xuất hiện đong đầy sự mời gọi: buổi ban đầu khai phá - những năm cuối thế kỷ XIX, Đà Lạt còn là

một vùng đất hoang vu trên cao nguyên Lang Biang xa xôi, nhưng lại rất lý tưởng với đầy đủ các điều kiện: độ

cao thích hợp, diện tích khá rộng, nguồn nước đảm bảo, khí hậu ôn hòa và nhất là có thể thiết lập hệ thống giao

thông.

Vào đầu thế kỷ XX, công cuộc kiến tạo một thành phố nghỉ dưỡng - nơi tái hiện khung cảnh núi Alpes

bắt đầu được triển khai. Các bản đồ quy hoạch đầu tiên hình thành với diện mạo kiến trúc cổ Châu Âu. Ngoài

ra, các kiến trúc sư tiên phong vận dụng thêm vào đó các yếu tố Á Đông một cách hài hòa tạo ra một phong cách

riêng gọi là “Une architecture Indochinoise – Kiến trúc Đông Dương”.

Trong đồ án quy hoạch, không gian trung tâm thành phố là một cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp kết hợp

với hệ thống hồ nước nhân tạo nối khu trung tâm với những vùng trồng trọt xung quanh. Rừng thông đóng vai

trò như một bộ máy điều hòa khí hậu tự nhiên khổng lồ, núi đồi ven hồ là những khu vực lý tưởng bố trí các

công trình quan trọng như: dịnh thự, khách sạn, trường sở và đặc biệt không gian nhà thờ tu viện cổ kính tái hiện

không gian Trung Cổ bên trời Âu. Nổi lên quan niệm thiết kế chủ đạo các đồ án là yếu tố tôn trọng địa hinh,

điều kiện và cảnh quan thiên nhiên và trong đó các công xưởng sản xuất được hạn chế để đảm bảo nguyên vẹn

không gian trong lành và yên tĩnh.

Tất cả những gì người Pháp tạo ra cho thành phố này đều là nhằm mục đích phục vụ nhu cầu vật chất và

tinh thần. “Yếu tố Pháp” ở Đà Lạt tồn tại không chỉ trong ý niệm đồ án quy hoạch mà người Pháp còn mong

muốn chuyển tải những “giá trị tinh thần” nơi mẫu quốc đến vùng đất này và để lại các dấu ấn, “giá trị văn hóa

Pháp” thực sự tồn tại hàng trăm năm. Đó chính là hình ảnh các Thánh Đường (Basilica) - Nhà Thờ Công

Giáo, nơi chốn biểu trưng tâm linh và tôn vinh Đức Chúa Trời, nơi chữa lành tâm hồn, một công trình tôn giáo

quan trọng ở các nước Châu Âu từ thời Trung Cổ đến nay. Thường chiếm ngự trên đồi cao hay tọa lạc vị trí

trung tâm thành phố, soi mình bên thắng cảnh hồ Xuân Hương tĩnh lặng là địa điểm quy hoạch cho công trình

kiến trúc tôn giáo thiêng liêng này.

Cùng với người Pháp, đạo Công Giáo đến Đà Lạt – Lâm Đồng như một làn gió mới và ồ ạt, các Nhà Thờ

mọc lên tái hiện nguyên vẹn hình ảnh và tinh thần của Thánh Đường Châu Âu. Các kiến trúc sư ý thức rằng nhà

thờ không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng Thiên Chúa Giáo ở địa

phương, không gian kiến trúc quan trọng - hạt nhân của thành phố, mang những dấu ấn đặc trưng văn hóa Pháp

vào công trình. Đó là dấu ấn về kiến trúc, vật liệu, không gian, màu sắc và cụ thể nhất là hình tượng “gà trống

Gaulois” trên thanh thập tự giá ở đỉnh tháp chuông của Nhà Thờ trung tâm – Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Lạt. Có

thể nói rằng, họ mong muốn tái hiện lại những hình ảnh quen thuộc để bù lấp đi nổi nhớ nhung quê hương,

2

nhưng phần khác cũng có thể xem đây là một cột mốc đánh dấu: người Pháp đã bước chân đến vùng đất hoang

vu này, khai phá và xây dựng đô thị mới.

Những năm 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc. Thập niên sau đó, dân số

Đà Lạt tăng nhanh, đặc biệt là những đợt di cư của cư dân từ miền Bắc vào miền Nam trong đó chủ yếu là người

Công Giáo. Từ đó hình thành các giáo họ, giáo sở, giáo xứ, giáo hạt và Nhà Thờ Công Giáo trên khắp các vùng

Đông Nam Độ, ban đầu đa phần là những không gian kiến trúc tạm bợ được người dân đóng góp xây dựng sau

đó mới dần được tu sửa kiên cố.

Trải qua 115 năm hình thành và phát triển, thành phố Đà Lạt gắn liền với những giai đoạn biến động của

lịch sử, thế nhưng cho đến ngày nay nó vẫn còn giữ được “Hồn nơi chốn” của mình. Tại thành phố Đà Lạt,

không biết có bao nhiêu Nhà Thờ hiện hữu, lớn có nhỏ có, cũ có mới có; dường như đây là một công trình không

thể vắng mặt đối với cảnh quan phố núi và người Đà Lạt. Đây không chỉ là một công trình tôn giáo, mà còn là

một công trình của tâm linh văn hóa, của dấu ấn lịch sử hình thành và phát triển vùng đất cao nguyên Lang

Biang. Mỗi một biến đổi về hình thái kiến trúc của Nhà Thờ Công Giáo gắn liền với sự biến đổi của văn hóa, xã

hội, môi trường của vùng đất này. Chính vì thế, học viên lựa chọn đề tài “Diễn biến hình thái kiến trúc Nhà

Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng (từ đầu thế kỷ XX – đến nay)” để nghiên cứu về những sự thay đổi về

hình thái kiến trúc của Nhà Thờ Công Giáo. Thông qua nghiên cứu sự biến đổi có cái nhìn tổng quát về các yếu

tố tác động, nhận dạng hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo, đồng thời nhận định về các giá trị của công trình

đối với Đà Lat – Lâm Đồng. 2. Tổng quan những nghiên cứu liến quan đến đề tài.

Lâm Đồng nói chung và Đà Lạt nói riêng luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà nghiên cứu, nhà

văn, nhà thơ. Trong đó phần lớn tác phẩm viết về “một thời hương xa” của vùng đất này, đó là môi trường tự

nhiên, lịch sử hình thành, con người và văn hóa. Một số công trình nghiên cứu về kiến trúc và quy hoạch đô thị

là các bài báo khoa học, luận văn của các kiến trúc sư và học giả.

Tác phẩm: "Đỉnh cao đế quốc - Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp" (tên tiếng

Anh: Imperial Heights: Dalat and the Making and Undoing of French Indochina.) của tiến sĩ Eric T. Jennings

xuất bản vào 10/2013: thể hiện sự hình thành Đà Lạt thời Pháp thuộc ở các góc độ: chính trị, kinh tế, quân sự,

quy hoạch, giáo dục, tôn giáo và du lịch. Cuốn sách là tác phẩm thứ tư của Tiến sĩ người Canada Eric. T.

Jennings, trình bày những suy nghĩ khách quan của tác giả - một người ngoại quốc với những gì mà người Pháp

đã làm nên cho Đà Lạt.

Nói về một cao nguyên Lang Biang trong quá khứ và các hình ảnh cùng các bản đồ quy hoạch Đà Lạt xưa

là hai tác phẩm: "Đà Lạt năm xưa" của tác giả Nguyễn Hữu Tranh và “Đà Lạt một thời hương xa” của tác giả

Nguyễn Vĩnh nguyên. Nếu như Nguyễn Hữu Tranh khai thác về nguồn gốc hình thành và giai đoạn sơ khai của

một thành phố nghỉ dưỡng, thì Nguyễn Vĩnh Nguyên lại khai thác tập trung về thời kỳ phát triển cực thịnh của

Đà Lạt, “chất nghệ sĩ” và “tâm hồn” của Đà Lạt. Cả hai tác giả đều muốn vẽ lại bức tranh Đà Lạt năm xưa. Đô

thị mang hình mẫu châu Âu trong long cao nguyên Nam Việt Nam, thể hiện qua thiết kế hệ thống giao thông,

hình thái kiến trúc, phân khu chức năng, triết lý bảo tồn cảnh trí tự nhiên và cuối cùng là lối sống cư dân…

Viết về Nhà Thờ Công Giáo, "Nhà Thờ Công Giáo ở Việt Nam; Kiến trúc-lịch sử" của các tác giả

Nguyễn Nghị, Nguyễn Quốc Thái, Khổng Thành Ngọc, Hoàng Minh Thức. Tác phẩm này liệt kê các Nhà Thờ

3

Công Giáo trên tiêu biểu trên toàn lãnh thổ Việt Nam đồng thời giới thiệu sơ lược về lịch sử hình thành và kiến

trúc. Còn tác phẩm “Công giáo trong văn hóa Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Hồng Dương là cơ sở nghiên

cứu về sự hình thành, phát triển và ý nghĩa của Đạo Công Giáo ở Việt Nam. Tác phẩm “French Church

Architecture” của tác giả E. Tyrell. Green giới thiệu bức tranh về không gian kiến trúc, vật liệu, nội thất cũng

như ý nghĩa của Thánh Đường đối với người pháp.

Về quy hoạch đô thị thành phố Đà Lạt có luận văn “Dấu ấn của người Pháp trong sự phát triển không

gian đô thị và kiến trúc cảnh quan thành phố Đà Lạt” của Nguyễn Huy Văn. Trong luận văn này, đề cập đến

các đồ án quy hoạch đô thị, vai trò và dấu ấn của người Pháp tạo nên giá trị bản sắc của Đà Lạt, đồng thời đưa

ra các giải pháp bảo tồn và tiếp nối cho sự phát triển thành phố. Còn trong luận văn "Kiến trúc Đà Lạt thời

Thuộc Pháp" tác giả Lê Thị Hồng Na nghiên cứu tổng quan về các loại hình kiến trúc Pháp tại Đà Lạt, từ đó

đưa ra các đánh giá về di sản kiến trúc Pháp tại Đà Lạt.

Trong những công trình nghiên cứu có liên quan, học viên nhận thấy rằng Đà Lạt - Lâm Đồng là một

đề tài nghiên cứu hấp dẫn, được nhiều tác giả khai thác ở nhiều mặt khác nhau. Hình thái kiến trúc Nhà Thờ

Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng được nói đến tuy nhiên vẫn chưa chuyên sâu, còn mang tính bao quát, đề cập

với tinh thần giới thiệu, khá chung chung. Vì vậy, đề tài luận văn "Sự biến đổi hình thái kiến trúc Nhà Thờ

Công Giáo tại Đà Lạt-Lâm Đồng (từ đầu thế kỷ XX - đến nay)" học viên mong muốn có thể dựa trên những

nền tảng nghiên cứu về cảnh quan và kiến trúc tại Đà Lạt - Lâm Đồng, đi sâu hơn về kiến trúc Nhà Thờ Công

Giáo, sự biến đổi hình thái theo thời gian và những tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi đó. Song, các tư liệu nêu

trên sẽ là nguồn tham khảo hữu ích hỗ trợ việc nghiên cứu, cung cấp thông tin cụ thể và khoa học hơn, là tiền đề

và cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề và mục tiêu luận văn đề ra. 3. Mục tiêu nghiên cứu.

- Nhận dạng hình thái kiến trúc của Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng qua các thời kỳ.

- Nhận định về nét đặc trưng, giá trị của kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng và triển

vọng về sự phát triển. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo của người Kinh và người Thượng.

-Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tập trung vào thành phố Đà Lạt và tỉnh lị Lâm Đồng. Cụ thể là các công

trình Nhà Thờ Công Giáo tiêu biểu tại: thành phố Đà Lạt, thành phố Bảo Lộc, huyện Di linh, huyện Đơn Dương

và huyện Đức Trọng. 5. Phương pháp nghiên cứu

-Phương pháp thu thập tư liệu được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu một cách có hệ thống. Phương

pháp này giúp tìm hiểu về những nghiên cứu có liên quan đến đề tài, những dữ liệu khoa hoc, dữ liệu lịch sử,

hình ảnh, số liệu…cần thiết về đề tài nghiên cứu.

-Phương pháp điền dã nhằm có cái nhìn chân thực nhất về đề tài, đối tượng nghiên cứu - ở đây Nhà Thờ

Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng. Khảo sát về địa hình, địa lí, xã hội, kiến trúc của và hiện trạng của dối tượng

để củng cố thêm nguồn dữ liệu cho mục đích nghiên cứu.

4

-Phương pháp phân tích và tổng hợp để chắc lọc, tổng hợp những thông tin sau khi đã có nguồn cơ sở dữ

liệu vững chắc và phong phú. Đảm bảo những thông tin chính xác, rõ ràng có liên quan đến đề tài hỗ trợ nghiên

cứu và đưa ra kết luận.

-Phương pháp so sánh đối chiếu sử dụng bằng cách lập bảng biểu so sánh để có cái nhìn tổng quan hơn,

giúp cho việc tổng hợp dữ liệu, trình bày kết quả nghiên cứu được rõ ràng, mạch lạc và xác đáng.

5

PHẦN HAI. NỘI DUNG

Chương I. Tổng quan về các nhân tố hình thành và diễn tiến kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng. 1.1. Điều kiện môi trường tự nhiên. 1.1.1 Vị trí địa lý và địa hình. 1.1.1.1. Địa lý tự nhiên.

Cao nguyên Lang Biang xinh đẹp, có độ cao trung bình 1500m so với mực nước biển. Về phía Đông và

phía Nam bao bọc bởi các cao nguyên tương đối rộng lớn nhưng có độ cao thấp hơn, trung bình 1000m so với

mực nước biển.

Hiện nay thành phố Đà Lạt có diện tích tự nhiên: 424 km2. Địa giới hành chánh của thành phố Đà Lạt: về

phía Bắc Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, phía Tây và

Tây Nam giáp với huyện Lâm Hà và Đức Trọng.

Là một tỉnh lị thuộc Nam Tây Nguyên, Lâm Đồng giáp với tỉnh Khánh Hoà ở phía Đông Bắc, phía Đông

giáp với tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp Đắk Nông, phía Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai và Bình Phước, phía

Nam - Đông Nam giáp tỉnh Bình Thuận và giáp tỉnh Đắc Lắc ở phía Bắc. Hai thành phố trực thuộc tỉnh của Lâm

Đồng là thành phố Bảo Lộc ở phía Tây Nam và thành phố Đà Lạt ở phía Đông Bắc.

1.1.1.2. Địa hình và ý đô quy hoạch cảnh quan.

Thành phố Đà Lạt được bao quanh bởi các đỉnh núi cao và dãy núi liên tiếp nhau. Cao nguyên Lâm Viên

(Lang Biang) với bề rộng 12 km có địa hình bao gồm những chuỗi đồi thoai thoải dạng cong tròn nhấp nhô, xen

kẽ, nối tiếp nhau trải dài 18 km đến tận chân rặng núi Lang Biang. Sư xâm thực, nhất là sự xói mòn mãnh liệt

của các dòng nước đã mài dần mặt đất, đưa cốt liệu từ vùng đồi cao xuống vùng thung lũng thấp làm địa thế trở

nên bằng phẳng hơn.

Đặc trưng của địa hình Đà Lạt là những hình khối, chúng chia cắt không gian một cách mạnh mẽ thành

những khu vực riêng biệt, rõ nét và tạo nên những chuỗi phong cảnh phong phú, đa dạng.

1.1.2. Điều kiện tự nhiên và cảnh quan thiên nhiên.

1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên.

Về địa chất, bề mặt địa hình và địa khối Đà lạt – Lâm Đồng đã có từ lâu đời, cách đây cả trăm triệu năm,

nhưng so với niên đại địa chất thì nó tương đối trẻ. Các hoạt động kiến tạo phức tạp kéo dài xuyên suốt 70 triệu

năm của kỷ Kreta kết thúc bởi thời kỳ tạo núi và cao nguyên Lang Biang bền vững. Đất trên cao nguyên hình

thành do sự tan rã của đá huyền vũ (bazan) và đá hoa cương (granite) tạo thành một loại đất sét màu đỏ.

Khí hậu là một trong những nhân tố chính hình thành nên thổ nhưỡng và khu hệ động thực vật Đà Lạt.

Do ở độ 1.500 m và được bao quanh bởi những dãy núi cao, nên tuy ở trong vùng nhiệt đới gió mùa nhưng khí

hậu vùng này vẫn mát mẻ quanh năm. May mắn ở độ cao trung bình, nhiệt độ ở Đà Lạt không bao giờ xuống

quá thấp.

1.1.2.2. Cảnh quan thiên nhiên.

Từ đặc điểm địa hình, khí hậu mà cảnh quan của cao nguyên Lâm Viên được tạo lập hết sức kỳ thú. Trên

mọi ngả đường, cảnh quan đèo dốc, độ cao địa hình thay đổi liên tục tưởng chừng như đang đứng trước một bức

tranh với hình ảnh, màu sắc, đường nét thay đổi không dừng. Bao bọc đèo dốc là cảnh quan rừng thông quanh

6

năm xanh mượt. Rừng tiếp rừng trên những gân núi sườn đồi, cạnh những dinh thự và cả các khu nhà dân dã.

Giữa các đồi núi là bạt ngàn thung lũng, nơi bốn mùa đều có sương giăng buổi sớm. Đôi khi giữa biển sương

mù nổi lên các ngọn đồi núi cao như các hòn đảo giữa khơi xa. Do sự phân cắt mạnh mẽ của địa hình, cá ghềnh

thác hùng vĩ hình thành, những dòng chảy trên cao nguyên Lang Biang trước khi đổ xuống cao nguyên lân cận

đã chảy xuyên tạo nên vô số ghềnh thác lớn nhỏ.

Yếu tố mặt nước là một trong những yếu tố quan trọng trong sự hình thành và phát triển cảnh quan thành

phố ngàn hoa, phố núi sương mù. Hồ ở Đà Lạt, chủ yếu là hồ nhân tạo, phân bố rải rác. Hiện tại có trên dưới 16

ao hồ lớn nhỏ. Một số hồ theo thời gian bị bồi lấp dần hoặc đã trở thành vườn trồng rau. Trong đó, hồ Xuân

Hương nằm ở vị trí trung tâm của thành phố và là một dấu mốc quan trọng cho việc hình thành và phát triển

cảnh quan của khu vực trung tâm thành phố.

Trải qua một thời gian dài, các yếu tố tự nhiên đã góp phần hình thành nên một thảm thực vật đa dạng

tại Đà Lạt-Lâm Đồng, đó là các kiều hình rừng khác nhau như: rừng lá kim rừng, rừng hỗn giao và trảng cỏ cây

bụi... Các khối núi cao, đồ sộ, có độ chia cắt mạnh cho phép bảo tồn ở đây nhiều loài động thực vật cổ xưa. 1.2. Nền tảng các thành tố xã hội và nhân văn.

1.2.1. Sự ra đời và thức giấc của một thành phố nghỉ dưỡng.

Từ thuở sơ khai, cao nguyên Lang Biang đã có hai tộc người Chin và Lạch cùng sinh sống, số lượng người

Kinh là rất ít. Vùng đất xứ Thượng này là nguồn cảm hứng và mục tiêu của các nhà thám hiểm và nghiên cứu

người Pháp. Tuy nhiên mãi đến năm 1893, chuyến khảo sát cao nguyên Lang Biang của bác sĩ A. Yersin mới

thực sự đánh một dấu mốc quan trọng cho sự ra đời của một thành phố nghỉ dưỡng.

Ngày 5-1-1906 Hội đồng Quốc Phòng Đông Dương họp ở Đà Lạt, quyết định chọn cao nguyên Lang

Biang để xây dựng thành phố nghỉ dưỡng sau những nghiên cứu và khảo sát.

1.2.2. Quá trình đô thị hóa và xây dựng Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

1.2.2.1. Sự biến đổi diện mạo qua các đồ án quy hoạch đô thị Đà Lạt – Lâm Đồng.

Năm 1906, thị trưởng Đà Lạt Cham-poudry phác họa đồ quy hoạch thành phố Đà Lạt, những đường nét

sơ khai cho đô thị nghỉ dưỡng được hình thành từ đây, với phương pháp “Zoning” mà ngày nay chúng ta gọi là

“Quy hoạch phân vùng”.

Năm 1923 bản đồ quy hoạch đô thị hoản chỉnh đầu tiên ra đời, được thiết kế bởi kiến trúc sư Ernest

Hébrard (1875-1933). Bản đồ là sự đáp ứng cho yêu cầu của Toàn quyền Long về “Chương trình chỉnh trang

tổng quát” cho Đà Lạt, với mục tiêu dự kiến xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ của Liên bang Đông Dương. Trục

Đông – Tây của thành phố có thể xác định từ Nhà Ga Đà Lạt (phía Đông) đến Sân Bay Đà Lạt (phía Tây), chính

giữ là Nhà Thờ Lớn (Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Lạt) được tiến hành khởi công vào năm 1931.

Đúng một thập niên sau đó, năm 1933 kiến trúc sư Louis Georges Pineau đã trình bày công trình nghiên

cứu và chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt có phần thục tiễn hơn E. Hébrard. Theo ông, việc chỉnh trang và quy

hoạch nên giới hạn lại, tập trung xây dựng khu vực trung tâm và quy hoạch chi tiết ở mức độ tương đối.

Năm 1940, kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án quy hoạch và chỉnh trang Đà Lạt – “Avant - Project

d’Aménagement et d’Extension de Dalat”. Ông cho rằng thành phố đã đề cao sự tôn trọng cảnh quan một cách

cứng nhắc khi xác định một vùng đất cấm xây dựng quá lớn ở trung tâm thành phố và chỉ phát triển thành phố

theo chiều dài Đông – Tây, điều này tạo nên sự dàn trải và lãng phí đi khu trung tâm. Do vậy kiến trúc sư đưa ra

7

giải pháp tổ chức các không gian chức năng lại thành nhóm, ưu tiên cho các lô đất ngay trung tâm và phát triển

theo trục.

Do sự phát triển quá vội vã dẫn đến lộn xộn, nhà chức trách cho rằng cần phải có một “Chương trình

chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” có uy lực về mặt pháp lý để thành phố phát triển một cách hợp lý và hài hòa.

Nhiệm vụ quan trọng này được Toàn quyền Decoux giao cho Nha Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương,

kiến trúc sư J. Lagisquet. Ngày 27/4/1943 đồ án quy hoạch, chỉnh trang mới của Đà Lạt được Toàn quyền

Decoux thông qua và tiến hành áp dụng. Đồ án của J. Lagisquet là sự kế thừa L. G. Pineau, nghiên cứu từ tổng

quát đến chi tiết nhằm đáp ứng việc thiết lập trật tự và hài hòa của thành phố từ tổng thể đến mỗi thành phần.

Ông nhận thấy thành phố phát triển theo một chiều dài từ Tây sang Đông tạo thành dạng tuyến, khiến các khu

chức năng không có chiều sâu mà chỉ bám víu các trục chính. Lúc bấy giờ Nhà Thờ Lớn đã hoàn thiện và dần

hiện ra là một hạt nhân của thành phố, tiền cảnh là vườn hoa Ánh Sáng và dòng suối Cam Ly khi nhìn từ phía

vòng xoay và chợ Đà Lạt. Đồ án J. Langisquet tạo ra một sức sống mới cho thành phố, nhộn nhịp, đầy sinh khí,

năng lượng và màu sắc.

1.2.2.2. Quá trình tụ cư và nguồn gốc hình thành Nhà Thờ Công Giáo.

Đà Lạt là một trong những địa điểm có nhiều thành phần dân cư nhất của nước ta. Người dân bản địa

trên cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là người dân tộc thiểu số. Cộng đồng dân cư ở đây gồm 3 tộc dân: Lạch,

Chil và Srê.

Những người Pháp đầu tiên đặt chân lên cao nguyên Lang Biang là những thành viên trong các đoàn

thám hiểm. Nhưng từ ngày 6-1-1916, tỉnh Lang Biang được thành lập, hệ thống đường xá phát triển mạnh đã

tạo làn sóng người Âu lên Dalat vào năm 1915 và từ đó tắng dần lên.

Vào những năm đầu thế kỷ 20, những thương gia người Hoa bắt đầu đến Dalat, lúc đầu cung cấp hàng

hóa phục vụ dân địa phương, dần dần cũng định cư luôn tại Dalat.

Cư dân gốc Thừa Thiên – Huế đến Đà Lạt bằng con đường hợp tác lao động. Trong cộng đồng dân cư

thành phố Đà Lạt có một đại bộ phận đông đảo là cư dân từ các tỉnh phía Bắc trong đó phần lớn là người Công

Giáo. 1.3. Tổng quan diễn biến lịch sử kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng qua các thời kỳ.

1.3.1. Ngôi Nhà Thờ đầu tiên.

Công trình Công Giáo đầu tiên này mang tên “Chalet de Saint Nicolas” (Ngôi nhà gỗ của thánh

Nicolas) nằm cạnh “Dưỡng Viện Giáo Đồ, Sanatorium-Presbytere” của các giáo sĩ, nay là một phần Nhà xứ

Chánh Tòa Đà Lạt, Nhà Nguyện được xây dựng bởi linh mục Frederic Sidot vào năm 1920.

Ngày 05.7.1922, ngôi Nhà Thờ đầu tiên mới chính thức được xây dựng – tiền thân của Nhà Thờ Chánh

Tòa, có kích thước dài 8 mét, rộng 26 mét với tháp chuông cao 26m khánh thành vào ngày 17 tháng 2 năm

1924 và đặt dưới sự bảo trợ của thánh Nicolas.

1.3.2. Diễn biến lịch sử kiến trúc Nhà Thờ tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

Do sự phát triển nhanh chóng của Giáo hội, ngày 19 tháng 7 năm 1931 Nhà Thờ Chính Tòa ngày nay

được xây dựng có kích thước rộng 14 mét, dài 65 mét với tháp chuông cao 47m. Nhà thờ được khánh thành ngày

25 tháng 1 năm 1942 mang tước hiệu Nicolas, sau 11 năm thi công.

8

Cùng với đó, nhiều Thánh Đường khác đã mọc lên ở khắp nơi trên địa bàn Đà Lạt – Lâm Đồng để đáp

ứng nhu cầu tăng cao của cộng đồng Công Giáo.

Tiểu kết chương 1

Những biến động của lịch sử đã vô tình tạo ra những cơ hội phát triển cho thành phố Đà Lạt. Có thể nói

ngoài điều kiện tự nhiên thuận lợi thì Đà Lạt có sự “may mắn” và “ưu ái” bởi hoàn cảnh lịch sử trong nước và

cả thế giới, đó chính là “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” làm nền móng cho một sự ra đời của đô thị nghỉ dưỡng

hàng đầu. Cùng bước chân người Pháp, Thiên Chúa Giáo đã đến đây kéo theo cùng kéo theo kiến trúc Thánh

Đường Công Giáo Châu Âu xa hoa, lộng lẫy, làm tiền đề cho sự phát triển trong quy hoạch, kiến trúc, xây dựng

Nhà Thờ Công Giáo trong các giai đoạn sau. Với đặc thù cảnh quan thiên nhiên và sự phong phú trong thành

phần dân cư đã góp phần đưa kiến trúc Nhà Thờ đến một tầm cao mới, vừa đa dạng về phong cách vừa mang

chất riêng của đặc điểm nơi chốn. Việc nghiên cứu tổng quan về Đà Lạt – Lâm Đồng và những công trình kiến

trúc Nhà Thờ đầu tiên sẽ đóng góp những tư liệu quan trọng làm cơ sở nghiên cứu sâu hơn về kiến trúc Nhà Thờ

Công Giáo ở các chương sau. Chương 2. Cơ sở khoa học về lý luận và tác động đến sự biến đổi hình thái kiến trúc Nhà Thờ Đà Lạt – Lâm Đồng. 2.1. Cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Đà Lạt – Lâm

Đồng.

2.1.1. Lý luận về hình thái học kiến trúc.

Hình thái học kiến trúc (Morphological Architecture) ra đời từ sự giao thoa của hai bộ môn khoa học là

Chủ nghĩa cấu trúc và Hình thái học. Đã có định nghĩa rằng: “Hình thái học kiến trúc miêu tả sự logic cơ bản

trong hình thức kiến trúc. Nó cũng được biết đến như một bộ môn nghiên cứu Hình dạng học, nó nhấn mạnh

tính hình học cơ bản và giới hạn tổ chức của không gian”.

Lý luận về Hình thái học kiến trúc ra đời góp phần giải quyết khủng hoảng kiến trúc, kết hợp và dung hòa

giữa lý trí và cảm xúc, giữa kỹ thuật và nghệ thuật. Lý luận đề cao nghiên cứu những quá trình hình thành và

biến đổi của môi trường hình thể kiến trúc. Bằng việc sử dụng những tiêu chí đánh giá về hình thái, cho phép

tổng hợp và phân tích một nhóm các đối tượng kiến trúc cần nghiên cứu, hiểu rõ sự hình thành cũng như các đặc

điểm của chúng trong những giai đoạn nhất định và đưa ra giải pháp kết cấu không gian phù hợp đảm bảo cả về

khả năng chịu lực và tính thẩm mỹ.

2.1.2. Lý luận về hiện tượng học kiến trúc.

Hiện tượng học kiến trúc (Phenomenology of Architecture) là một bộ môn nghiên cứu về kiến trúc trên tinh

thần của nơi chốn, tầm quan trọng của tinh thần nơi chốn – nơi tác phẩm kiến trúc được tạo ra.

Hiện tượng học kiến trúc nghiên cứu và tìm kiếm mối liên hệ, tương tác giữa các yếu tố tự nhiên và yếu tố

nhân tạo đối với môi trường kiến trúc. Đặc biệt xem xét sự đối thoại, kể cả sự tương tác lẫn nhau của các yếu tố

ảnh hưởng đến chất lượng môi trường kiến trúc và con người sống trong môi trường kiến trúc đó. Hay kiến trúc

là một thế giới nhỏ, là thành thánh phố của thế giới tự nhiên, là mô hình mới từ tự nhiên mang tính sáng tạo hơn

nhằm phục vụ nhu cầu sống và hoạt động văn hóa xã hội cho con người. Trên cơ sở đó, hiện tượng học kiến trúc

9

xem xét tổng thể của từng kiến trúc - như một hữu thể sống – hiện tượng văn hóa, để tồn tại nó cần xây dựng

một mối quan hệ tương tác hỗ trợ và hài hòa mang tính xây dựng, tôn trọng và tích cực.

2.1.3. Lý thuyết về “Giao thoa và tiếp biến văn hóa”.

2.1.3.1. Khái niệm về “Giao thoa và tiếp biến văn hóa”.

Không một nền văn hóa nào dù lớn hay nhỏ hiện nay tự hình thành và phát triển mà không có sự vay

mượn, kế thừa một số nhân tố của các nền văn hóa khác. Văn hóa Việt Nam nổi trội là sự đan xen, hỗn dung và

tiếp biến (Acculturation). Biểu trưng là tính phong phú đa dạng trong một chỉnh thể văn hóa thống nhất trên nền

tảng là truyền thống Việt. Văn hóa Việt Nam mang nhiều yếu tố nội sinh và không ít yếu tố ngoại sinh.

Riêng Việt Nam, chỉ với khái niệm “Acculturation” cũng có nhiều phiên bản dịch thuật khác nhau. Để

diễn đạt đầy đủ mà ngắn gọn khái niệm “Acculturation” có thể được dịch là “Giao thoa và tiếp biến văn hóa”

(Sự giao lưu, tiếp xúc, tiếp nhận và biến đổi văn hóa). Đây là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó với

tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển văn hóa – quá trình vận động thường xuyên của văn hóa.

2.1.3.2. “Giao thoa và tiếp biến văn hóa kiến trúc” ở Việt Nam và tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

“Giao thoa và tiếp biến văn hóa” là quy luật phát triển của văn hóa, phát triển xã hội. Là điều tất yếu của

đời sống như một nhu cầu tự nhiên của con người hiện đại. “Giao thoa và tiếp biến văn hóa” ở Việt Nam là một

quá trình phức tạp và kéo dài từ buổi xa xưa cho đến ngày nay.

Việt Nam là một trong những quốc gia thành công trong công cuộc “Giao thoa và tiếp biến văn hóa”. Và

nếu nói như thì Đà Lạt – Lâm Đồng là một biểu tượng cho sự thành công của “Giao thoa và tiếp biến văn hóa”

tại Việt Nam. Thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng chỉ hình thành khi người Pháp xuất hiện, cũng vì lẽ đó khiến nó

trở nên đặc biệt hơn hẳn. Nền văn hóa thuần Pháp – văn hóa phương Tây xuất hiện tại vùng đất hoang vu trên

cao nguyên của đất nước nhiệt đới và là cơ tầng cơ bản cho văn hóa vùng đất này. Dần dà, với sự vận động

không ngừng của xã hội cùng những chuyển biến lịch sử, nền văn hóa ngoại sinh Pháp – Việt phát triển mạnh

mẽ. Các thành phần di dân từ Bắc, Trung, Nam mang theo sự đa dạng văn hóa tạo ra sự hỗn dung cùng với văn

hóa bản địa của người dân tộc Đà Lạt – Lâm Đồng hình thành nên nét văn hóa rất riêng mình – văn hóa Việt

trên cơ tầng văn hóa phương Tây tạo nên “Hồn nơi chốn”– “Hồn Đà Lạt”.

Như vậy, nếu xét trên hệ quy chiếu văn hóa Việt - Pháp để nhìn nhận vấn đề, phải chăng đối với thành

phố Đà Lạt – Lâm Đồng thì yếu tố ngoại sinh ở đây lại chính là “văn hóa Pháp” và yếu tố nội sinh lại là “văn

hóa Việt” và “văn hóa tộc người bản địa”. Vì thế để nói về sự hỗn dung văn hóa thì chắc kiến trúc Nhà Thờ

Công Giáo là một ví dụ sống động nhất. Từ sự áp đặt của yếu tố phương Tây, cho đến yếu tố bản địa. Cuối cùng

yếu tố văn hóa Việt sau khi trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến đổi đã trở thành yếu tố nổi trội mang tính chủ

đạo.

2.1.4. Thiên Chúa Giáo và mô hình Nhà Thờ nguyên gốc.

Trong những thế kỷ đầu, vào thời La Mã cổ đại, dưới sự đàn áp của giai cấp quý tộc, người dân nô lệ phải

chịu đựng một cuộc sống vô cùng khốn khổ. Một số nô lệ đứng lên chống trả, nhưng phần lớn âm thầm gánh

chịu, họ cầu nguyện và đặt niềm tin tưởng vào Đấng tối cao nhất định mang đến sự giải thoát. Thiên Chúa Giáo

từ đó xuất hiện như một giải thoát tinh thần chống lại sự nô dịch của giai cấp thống trị La Mã.

10

Năm 313 SCN , Cóntantine Đại Đế chính thức cho phép các Kito hữu tự do hành đạo và truyền giáo trên

toàn đế quốc La Mã. Đây mở đầu trang sử mới cho Thiên Chúa Giáo và như thế những ngôi Nhà Thờ đầu tiên

được xây dựng.

Vào lúc này (thời kỳ Thiên Chúa Giáo Tiên Kỳ), mô hình nhà thờ ban đầu dựa trên kiểu mẫu kiến trúc

pháp đình Basilica. Nhà Thờ có mặt bằng hình chữ nhật (một thời gian sau là hình chữ thập Latin) trải dài theo

hướng Đông Tây, trong đó Cung Thánh (Apse) quay về hướng Đông (hướng nhìn về Jerusalem), chiều dài gấp

đôi, đôi khi gấp ba lần chiều rộng. Các không gian chính của một kiến trúc Nhà Thờ nguyên gốc là: sân trước

có hàng cột và tường bao quanh (Atrium), tiền sảnh (Narthex), gian chính (Nave), hàng cột (Colonade), gian

phụ (Aisle), cung thánh hoặc hậu cung (Apse), bàn thánh (Altar).

2.1.5. Kiến trúc Nhà Thờ Pháp và kiến trúc địa phương Pháp.

2.1.5.1. Kiến trúc Nhà Thờ Pháp.

Là một trong những quốc gia Châu Âu, Nhà Thờ Công Giáo tại Pháp cũng khởi đầu từ Basilica và phát

triển theo tiến trình lịch sử. Năm 330, Constantine Đại Đế chuyển thủ đô của đế chế La Mã về Byzantium sau

trở thành Constantinople (hiện tại là Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ), tại đây hình thành và nở rộ lên một nền nghệ thuật

mới mang tên Byzantine.

Khoảng đầu thế kỷ X, có sự kế thừa hình mẫu kiến trúc La Mã xưa xây dựng những công trình mới, làn

sóng này tạo nên thời kỳ Romanesque trong kiến trúc.

Công trình Nhà Thờ St. Denis của Viện phụ Abbot Suger đánh dấu sự ra đời đầu tiên của kiến trúc Gothic

tại Pháp vào nửa thế kỷ XII.

Về sau, những công trình Nhà Thờ khôi phục tinh hoa kiến trúc cổ đại Hy Lạp – La Mã mọc lên có sức

ảnh hưởng vĩ đại, lan tỏa ra khỏi Châu Âu, đánh dấu thời kỳ Phục Hưng trong kiến trúc.

Từ cuối thế kỷ XVI, thời kỳ Baroque khởi đầu với mong muốn tạo nên nhiều chi tiết và hình thức phóng

đại, như một vật thể sống tạo nên sự chuyển động trong kiến trúc.

Vào thế kỷ XX, khi cuộc Cách mạng Khoa Học Kỹ Thuật bùng nổ, các vật liệu mới lập tức ứng dụng vào

là sắt và thép. Ngoài ra, phong trào “Canh Tân Phụng Vụ” cũng mang lại thay đổi trong quan điểm của các Kito

hữu và ảnh hưởng trực tiếp đến cách tổ chức không gian Nhà Thờ.

2.1.5.2. Kiến trúc địa phương Pháp.

Ở miền Bắc nước Pháp chủ yếu là phong cách Normandie, phong cách kiến trúc vùng Provence ở miền

Nam nước Pháp chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây Ban Nha và vùng Địa Trung Hải, miền Tây nước Pháp là

vùng khí hậu đại dương - nổi tiếng với phong cách kiến trúc miền Bretagne, kiến trúc vùng Savoie miền Đông

nước Pháp có đặc điểm kiến trúc gần giống như kiến trúc xứ Basque miền Tây nước Pháp.

2.1.6. Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Việt Nam qua các thời kỳ.

Thiên Chúa Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu thế kỷ XVI, do những nhà truyền giáo Tây Ban Nha

và Pháp.

Trước năm 1874, Nhà Thờ Thiên Chúa giáo Việt Nam có quy mô nhỏ bé kiểu nhà truyền thống của người

Việt, cửa được mở ra hai bên cho tín đồ thực hiện "lễ vọng" vào những ngày người đến dự lễ quá đông. Vật liệu

xây cũng rất đơn giản, mang tính chất "tạm bợ", chủ yếu là tranh tre, nứa, lá hoặc bằng gỗ. Từ sau Hoà ước Giáp

Tuất 1874 (trong đó có điều khoản đảm bảo cho Thiên Chúa giáo được truyền bá tự do), Nhà Thờ Thiên Chúa

11

giáo ở Việt Nam xây dựng kiên cố hơn với hình thức đa dạng hơn. Những ngôi Thánh Đường mới với với quy

mô và phong cách đa dạng, nhiều nhất là ở miền Bắc. Từ năm 1954 đến năm 1975, Thiên Chúa Giáo ở miền

Trung và miền Nam đang vào thời kỳ nở rộ, rất nhiều Nhà Thờ được xây dựng trải dài hai miền với những phong

cách và đường nét hiện đại. 2.2. Cơ sở thực tiễn kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tiêu biểu tại Đà Lạt – Lâm Đồng. 2.2.1. Nhà Thờ Công Giáo Giai đoạn tiên kỳ (từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954).

Giai đoạn này phần lớn kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo được xây dựng bởi người Pháp, cho đến ngày nay

những công trình này được xem là di sản văn hóa, du lịch TP.Đà Lạt – Lâm Đồng.

Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Lạt, hay còn có tên gọi khác là Nhà Thờ Con Gà (vì trên đỉnh tháp chuông có

hình con gà), Nhà Thờ nằm trên đường Trần Phú thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Công trình được

xây dựng trong 11 năm và khánh thành ngày 25 tháng 1 năm 1942. Nhà Thờ được thiết kế theo mô hình "kiểu

mẫu" các Nhà Thờ Công giáo Rôma ở Châu Âu theo kiến trúc Romanesque, sử dụng vật liệu điạ phương và

vật liệu vận chuyển từ Pháp sang

Nổi tiếng không kém là ngôi Thánh Đường màu hồng rực rỡ tọa lạc trên một ngọn đồi cao, đó là Nhà Thờ

Domaine de Marie hay Nhà Thờ Mai Anh nằm trên đường Ngô Quyền cách trung tâm thành phố Đà Lạt vào

khoảng 1 km về hướng Tây Nam. Nhà thờ được xây dựng từ năm 1930 nhưng năm 1943 nhà thờ được phục

dựng với một dạng kiến trúc độc đáo hơn, có nhiều điểm cách tân so với các Nhà Thờ cùng thời kỳ, là sự kết

hợp giữa kiến trúc địa phương Pháp và kiến trúc bản địa.

Di Linh (phiên âm từ chữ dân tộc Djiring) là một giáo xứ kỳ cựu nhất của giáo phận Dalat. Nhà Thờ Dinh

Linh tọa lạc tại thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Nhà Thờ được hình thành bắt đầu từ nỗi bận

tâm về việc rao giảng Tin Mừng cho đồng bào thiểu số vùng cao nguyên Trung Phần, kết cấu xây dựng bằng

gạch và hoàn thành vào năm 1954 sau bao nỗ lực của cha sở và giáo dân thời ấy. Kiến trúc của Thánh Đường

này là một Basilica nguyên gốc với mặt bằng hình chữ nhật, Cung Thánh quay về hướng Đông. Mặt đứng chính

được thiết kế theo kiến trúc Romanesque.

2.2.2. Nhà Thờ Công Giáo Giai đoạn II từ năm 1954 đến năm 1975.

Khoảng thời gian này là giai đoạn đầy biến động lịch sử, số lượng giáo xứ mới tăng lên đáng kể tại Đà

Lạt – Lâm Đồng. Đa phần các Nhà Thờ được xây dựng một cách tạm bợ và gấp rút. Trong quá trình khảo sát

tác giả nhận thấy đa số Nhà Thờ đã được tu sửa nhiều hoặc xây dựng lại mới hoàn toàn, chỉ một số ít còn giữ

được hình ảnh nguyên bản tiêu biểu cho đến ngày nay.

Nằm ẩn mình trên một ngọn đồi thuộc đường Huyền Trân Công Chúa của thành phố ngàn hoa, Nhà Thờ

Du Sinh được linh mục Thiên Phong Bửu Dưỡng xây dựng cho bà con giáo dân di cư từ miền Bắc khánh thành

vào năm 1957. Nhà Thờ Du Sinh mô phỏng theo kiến trúc truyền thống cung đình Huế, từ đường nét, hình

khối đến trang trí đều mang đậm dấu ấn văn hóa Á Đông.

Cuối năm 1954, đồng bào Công Giáo từ Bắc vào lập nghiệp tại khu vực xã Lộc Phát ngày nay và qui tụ

thành 3 họ đạo, trong đó có họ đạo Thánh Tâm. Nhà Thờ Thánh Tâm tọa lạc tại phường Lộc Phát, thành phố

Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Xây dựng vào năm 1962, Kiến trúc Nhà Thờ tương đối đặc biệt và không giống với

tất cả ngôi Nhà Thờ trước đó. Kiến trúc được xây theo phong cách hiện đại, phần lớn công trình sử dụng vật

12

liệu béton cả ở mặt tiền, mặt bên, nội thất và mái. Hình khối mạnh mẽ, dứt khoát, tiết chế các chi tiết trang trí

cầu kỳ.

Nhà Thờ Cam Ly hay Nhà Thờ Sơn Cước tọa lạc tại số 11 Đường Nguyễn Khuyến, Phường 5, Thành

phố Đà Lạt, phục vụ chủ yếu cho người dân tộc thiểu số. Nhà thờ Cam Ly được xây dựng vào năm 1959 và hoàn

thành vào năm 1967, từ ý tưởng của linh mục người Pháp Boutary về một ngôi nhà chung của Chúa và Yàng

(một vị thần của dân tộc Churu). Đây là một công trình kiến trúc độc đáo cách điệu từ mái nhà rông của đồng

bào Tây Nguyên kết hợp hài hòa với kiến trúc miền Nam nước Pháp, được thể hiện theo tinh thần trường

phái kiến trúc thô mộc.

2.2.3. Nhà Thờ Công Giáo Giai đoạn III từ năm sau 1975 đến nay.

Trong khoảng thời gian đầu từ năm 1975 đến năm 1990 tình hình kinh tế còn khá khó khăn nên việc xây

cất Nhà Thờ không nhiều. Sau đó, sự phát triển của kinh tế và xã hội những ngôi Thánh Đường mới dần hình

thành, mang theo cả sự mới lạ và hoài cổ.

Nằm ngay trung tâm thành phố Đà Lạt, cách Nhà Thờ Chánh Tòa không xa, có một ngôi Giáo Đường uy

nghi trắng tinh ấn tượng với những ai lần đầu nhìn thấy. Chính là Nhà Thờ Thánh Tâm của tu viện hội truyền

giáo Vinh Sơn, trong khuôn viên rộng lớn, Nhà Thờ còn có nhà chủng sinh. Xây dựng đầu tiên năm 1928 bởi

dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh sơn; năm 1940, dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh sơn chuyển qua Nhà Thờ Mai Anh, để lại

toàn bộ Thánh Đường này cho các Cha Tu hội Vinh Sơn. Qua nhiều lần trùng tu, đến năm 1993, nhà thờ được

đại tu toàn bộ như hiện nay. Ấn tượng của Nhà Thờ có lẽ bởi cách kết hợp đầy tinh tế phong cách kiến trúc địa

phương Pháp, mô phỏng kiến trúc Nhà Thờ Châu Âu cổ điển, cả hình ảnh mái nhà rông quen thuộc của cư

dân miền cao và kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Nhà Thờ Bảo Lộc nằm trên quốc lộ 20, thuộc Phường Blao, thị xã Bảo lộc, tỉnh Lâm Đồng. Sự hình

thành giáo xứ Bảo Lộc gắn liền với sự hình thành vùng Blao nên có một lịch sử lâu đời và nhiều biến đổi. Nhà

thờ Bảo Lộc xây dựng từ năm 1994, khánh thành năm 1999, theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và

là công trình cuối cùng của Ông. Nhà Thờ mang dáng vấp hiện đại, hình khối lồng ghét những nét truyền

thống dân tộc: khối vuông bên dưới tượng trưng cho đất (hình ảnh bánh chưng) và phần khối tròn bên trên

tượng trưng cho trời (hình ảnh bánh giày).

Nhà Thờ Giáo xứ Bắc Hội nằm trên quốc lộ 27, xã Hiệp Thạnh, huyện Ðức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Bắc

Hội là một trong những giáo xứ kỳ cựu nhất của Giáo phận Ðà Lạt, hình thành vào khoảng thập niên 1920-1930.

Ngày 16 tháng 03 năm 2000 viên đá đầu tiên được đặt và sau 11 tháng thi công, vào ngày 18 tháng 11 năm

Thánh 2000 Thánh Đường được khánh thành. Nhà Thờ có lối kiến trúc cách tân với hình khối tự đo, các đường

nét gọn gàng, khỏe khoắn và đối xứng với nhau ở trục đứng trung tâm.

Qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, và sau hơn ba năm khởi công xây dựng. Ngày 4 tháng 6 năm

2013 lễ Cung Hiến và Khánh Thành Nhà Thờ La Vang được tổ chức thay thế cho ngôi nhà nguyện cũ lợp bằng

mái tranh – vách nứa. Giáo họ La Vang hình thành từ năm 1978 do chính sách di dân. Ngày nay khuôn viên giáo

họ nới rộng trên khu đất 3ha5. Nhà Thờ Giáo họ La Vang tại xã Đạm B’Ri rất gần với khu du lịch thác Dambri.

Nhà Thờ có kích thước rộng 20 mét và dài 36 mét. Kiến trúc hậu hiện đại, tổng thể hình khối được tạo thành

bởi các khối cung nhọn và một tháp cao hình khối trụ với chóp nhọn, một tổ hợp khối từu tượng và đa nghĩa.

13

Thánh Mẫu là một trong 3 xứ đạo thuộc xã Lộc Phát, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng do đồng bào

công giáo thành lập vào cuối năm 1954. Theo thời gian, trải qua nhiều lần xây cất và tu sửa Nhà Thờ Thánh

Mẫu mới trở nên khang trang như hiện nay, khánh thành vào ngày 15 tháng 12 năm 2015. Kiến trúc Nhà Thờ

gần như là sự mô phỏng Nhà Thờ cổ điển Châu Âu theo phong cách Gothic. Với tất cả các đặc điểm kiến

trúc từ cửa sổ hoa hồng, tháp chuông nhọn cao ở hai bên mặt đứng, các cửa đi và cửa sổ cuốn cung nhọn….

Kiến trúc Nhà Thờ Thánh Mẫu là sự hoài niệm về quá khứ. Tiểu kết chương 2

Quá trình nghiên cứu, khảo sát kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng mang lại nhiều bất

ngời, chính bởi sự đa dạng trong hình thái kiến trúc. Từ đó học viên tìm kiếm các tư liệu, lý luận làm nền tảng

cho việc nghiên cứu kiến trúc Nhà Thờ Công Giái tại Đà Lạt – Lâm Đồng. Các lý luận về hình thái học kiến trúc và hiện tượng học kiến trúc cung cấp cơ sở lý luận làm nền tảng cho

việc nghiên cứu, phân tích, nhận dạng hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo.

Kiến trúc Thánh Đường theo chân người Pháp đến cao nguyên Nam Trung Phần, vì thế các lý thuyết về

kiến trúc Nhà Thờ cổ điển Châu Âu cũng như mô hình Nhừ Thờ nguyên góc đóng vai trò quan trọng cung cấp,

hệ thống tư liệu cho các lý luận phân tích kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng ở chương sau.

Văn hóa xã hội, nhân văn là một thành tố mang ý nghĩa quan trọng đối với kiến trúc Nhà Thờ. Sự đa dạng,

đặc thù văn hóa của vùng đất cao nguyên này là nguyên nhân then chốt của sự đa dạng hình thái kiến trúc Nhà

Thờ Công Giáo. Lý luận về sự giao thoa và tiếp biến văn hóa giúp là rõ và có cái nhìn tổng quát về văn hóa, sự

ảnh hưởng của đa dạng văn hóa lên hình thái kiến trúc công trình Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng.

Chương 3. Diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

3.1. Nhận dạng diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

Trong quá trình khảo sát học viên nhận thấy kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng tồn tại

rất nhiều hình thức và phong cách. Mỗi thời điểm lịch sử khác nhau kiến trúc sẽ khác nhau, kiến trúc biến đổi

theo thời gian. Ở đây, học viên đưa ra những nhận dạng hình thái kiến trúc Nhà Thờ tiêu biểu nhất lại vùng đất

cao nguyên này.

3.1.1. Kiến trúc Nhà Thờ thời Pháp thuộc.

3.1.1.1. Nhà Thờ mô phỏng cổ điển Châu Âu.

Trên phương diện hình thái, tại Đà Lạt – Lâm Đồng, kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo đầu tiên kể là mô hình

Nhà Thờ phong cách cổ điển Châu Âu.

Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Lạt là một công trình kiến trúc biểu trưng thời đó, từ quan niệm xây dựng, cảnh

quan đến vị trí xác định quy hoạch – hạt nhân của Thành phố, người Pháp ra sức đầu tư từ ngoại thất, kiến trúc

đến nội thất thậm chí từng viên ngói, mãng kính màu trang trí lòng Cung thánh và ô của sổ. Dưới góc nhìn bao

quát, đây gần như một mô hình Nhà Thờ Châu Âu kiểu mẫu.

Sau những thăng trầm và biến động của lịch sử đầu thế kỷ XX, ngày nay, một số Nhà Thờ Công Giáo vẫn

được xây dựng mới theo mô hình phục cổ, hình thức kiến trúc mô phỏng một phần hoặc gần như toàn bộ kiến

14

trúc cổ điển Châu. Nổi bật là Nhà Thờ Thánh Mẫu Bảo Lộc với hình thức mô phỏng hoàn toàn, hơn nữa công

trình mô phỏng này được thực hiện bởi chính tay người Việt. Có thể xem đây là một cách tìm về nguồn gốc của

một thời vang bóng, một sự hoài niệm hay tôn vinh, đơn giản hơn chỉ vì say đắm xen lẫn sự chế ngự bởi hình

ảnh kiến trúc thời Pháp thuộc.

Hơn một thể kỷ xây dưng, nhìn chung, Thánh Đường cổ điển Châu Âu góp phần làm nên “hồn nơi chốn”

thành phố cao nguyên Đà Lạt – Lâm Đồng. Minh chứng cho khởi đầu và là thành quả của một quá trình xây dựng

đô thị và kiến trúc công trình, sự tiếp biến giữa các nền văn hóa, văn minh mới của tôn giáo lần đầu tiên xuất

hiện ở vùng đất cao nguyên này.

3.1.1.2. Nhà Thờ phong cách Á - Âu.

Đặc điểm chung cho những Nhà Thờ cách này là, đường nét trộn lẫn, phong phú, bao quanh bởi vườn

hoa rộng rải hoặc điểm tô bởi các tầng mái nhọn cùng tháp chuông vươn cao trên bầu trời xanh ngắt, cùng với

kiểu kiến trúc này, vật liệu địa phương mộc mạc cũng được ưu tiên sử dụng nhiều hơn.

Ý đồ của các kiến trúc sư Pháp là tái hiện hình ảnh mẫu quốc dựa trên cơ tầng bản địa và “hồn nơi chốn”

của cao nguyên. Những Thánh Đường phong cách kiến trúc Á - Âu cũng từ đó xuất hiện, ban đầu còn mang

đậm dấu ấn địa phương Pháp.

Một trong những kiến trúc Nhà Thờ mang phong cách Á – Âu tiêu biểu thời Pháp thuộc là Nhà Thờ

Mai Anh, về sau có Nhà Thờ Thánh Tâm tại trung tâm thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng.

Sự giao thoa Á - Âu còn tạo ra một làn sóng lan rộng có tên gọi “phong cách kiến trúc Đông Dương”.

Người tiên phong đi đầu trong phong cách này không ai khác đó chính là kiến trúc sư Ernest Hébrard.

3.1.2. Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng.

Sau 1954, kiến trúc Đà Lạt dần thoát ra khỏi ảnh hưởng của người Pháp, thời điểm đề cao các giá trị

truyền thống dân tộc, sau đó là sự phát triển và hội nhập. Tuy nhiên do sự biến động lịch sử, chính trị, kinh tế,

xã hội dẫn đến việc thay đổi các thành phần dân cư đã tác động không nhỏ đến sự biến đổi hình thái kiến trúc

Nhà Thờ Công Giáo.

3.1.2.1. Nhà Thờ truyền thống Nam Trung Bộ.

Xuất thân là tông thất triều Nguyễn, lại thêm kinh thông Phật Giáo và văn hóa Á Đông, linh mục Bửu

Dưỡng chính là người đặt nền móng cho kiến trúc Nhà Thờ truyền thống Nam Trung Bộ. Bắt nguồn từ tâm tư

của một người con xứ Huế, mong muốn xây dựng một “ngôi nhà Chúa” mang dáng dấp cố đô, Ông nẩy lên ý

tưởng một ngôi Thánh Đường đậm nét kiến trúc cung đình Huế ngay tại vùng đất hẻo lánh này. Nhà Thờ Du

Sinh là một kiến trúc rất khác lạ mang dấu ấn truyền thống Trung Bộ tại Cao nguyên Nam Trung phần.

Có thể nói Nhà Thờ truyền thống Nam Trung Bộ là sự tổ hợp kiến trúc phương Đông và phương Tây

trong đó yếu tố phương Đông giữ vai trò chủ đạo. Kiến trúc phương Tây đã được các bàn tay tài hoa của người

Việt biến thể tạo ra một loại hình nhà thờ mới góp phần làm phong phú loại hình nhà thờ Thiên Chúa giáo Việt

Nam.

3.1.2.2. Nhà Thờ phong cách bản địa mới.

Trên bình diện văn học, một công trình kiến trúc thu hút người khác không chỉ bởi hình thái hay công

năng cần có mà còn bởi yếu tố văn hóa khác biệt, nổi bật, biểu hiện trong kiến trúc. Đó là yếu tố văn hóa địa

phương, là cái “hồn” của địa điểm, hội tụ những giá trị cộng đồng đúc kết theo thời gian. Kiến trúc bản địa xây

15

dựng bước đầu nhằm để đáp ứng trực tiếp các nguồn tài nguyên sẵn có và nhu cầu văn hóa sinh hoạt của người

dân địa phương. Bên cạnh “phần xác” phải được đặt lên hàng đầu, công trình mang bản sắc địa phương từ các

yếu tố vị trí, địa hình, công năng và thỏa mãn điều kiện khí hậu. Đặc biệt, công trình kiến trúc phải hài hòa với

cảnh quan nơi nó mọc lên, làm cho người sử dụng cảm nhận chính mình là một chủ thể trong đó, ẩn dấu sự lôi

cuốn người khác đến khám phá, nhờ vào “phần hồn” của nó. Nét văn hóa bản địa thể hiện hình ảnh, hình tượng,

nghệ thuật trong kiến trúc là một yếu tố vô cùng quan trọng. Tất cả chúng ta đều mong muốn được sống trong

những không gian kiến trúc hài hòa với thiên nhiên và môi trường sinh thái, thăng hoa những giá trị nơi chốn và

cộng đồng. Khi các hình thái đô thị ô bàn cờ giống nhau mọc lên ngày càng nhiều, gây ra sự nhàm chán, Thế giới

bắt đầu quay lại đề cao giá trị văn hóa hình ảnh nơi chốn trong kiến trúc, yếu tố bản địa đem đến giá trị bền vững

để công trình kiến trúc có thể tồn tại lâu dài.

Ở nước ta, xu hướng này được khởi đầu ở miền Bắc từ những năm 1960 và ở miền Nam từ trước 1975

với tên gọi ban đầu “kiến trúc hiện đại nhiệt đới hoá”. Chiết trung từ kiến trúc truyền thống, những nguyên tắc

cốt lõi về tỷ lệ, sử dụng vật liệu, bố cục hình khối chặt chẽ theo công năng, điều kiện địa hình và thời tiết khí hậu

địa phương…để đưa vào công trình có dáng vóc hiện đại. Cùng thời kỳ, phong cách kiến trúc này theo đà lan

rộng lên vùng cao nguyên. Với lợi thế địa hình và khí hậu, tính đặc thù trong văn hóa xã hội – nhân văn đã góp

phần tạo ra những kiến trúc bản địa mới độc đáo và đậm chất cao nguyên Lang Biang. Kiến trúc Thánh Đường

đầu tiên đi theo triết lý này Nhà Thờ Cam Ly, với kiến trúc cách tân từ nhà rông truyền thống. Mới đây, Nhà Thờ

Ka Đơn cũng gây một tiếng vang lớn trong giới kiến trúc cũng theo phong cách này.

3.1.2.3. Nhà Thờ cách tân thuần Việt.

Sự gia tăng giáo dân một cách đột ngột đã kéo theo bước nhảy vọt trong xây dựng Nhà Thờ Công Giáo,

cả về số lượng, chất lượng và kiến trúc công trình.

Nửa sau thế kỷ XX, rất nhiều Nhà Thờ mới mọc lên rải rác khắp cao nguyên Đà Lạt – Lâm Đồng phục

vụ nhu cầu tính ngưỡng cho cư dân. Giai đoạn đầu, do điều kiện khó khăn, Thánh Đường được xây dựng vô cùng

đơn giản với nhà tranh, vách lá. Tuy nhiên cũng có một số ngôi Thánh Đường được xây dựng kiên cố và tồn tại

đến ngày nay.

Trường phái hậu hiện đại kéo theo nhiều xu hướng, tuy nhiên kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt

– Lâm Đồng đi theo hai xu hướng chính: xu hướng “ẩn dụ và trừu tượng”, hòa nhập trong “không gian hậu hiện

đại”.

Hội nhập trào lưu này, biểu hiện nhiều hình thái đa dạng, từ hình khối, nội thất, không gian kiến trúc, là

một đường lối thiết kế cách tân, thoát ly yếu tố cổ điển Pháp thuộc, mang tính chất thuần Việt. Kiến trúc công

trình vận dụng chọn lọc và tinh tế, nhấn mạnh các quan điểm quan trọng trong xu hướng này: chú trọng ý nghĩa

văn hóa của kiến trúc, kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với ngoại cảnh, với môi trường lịch sử.

Xu hướng kiến trúc này hiện nay gần như mang tính bao quát cho các công trình kiến trúc Nhà Thờ xây

mới tại Đà Lạt – Lâm Đồng. 3.2. Đặc trưng và giá trị kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

16

3.2.1. Đặc trưng Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng.

3.2.1.1. Sự biến đổi hình thái quy hoạch đô thị và dấu ấn kiến trúc Nhà Thờ.

Từ buổi sơ khai đến nay, thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng đã trải qua nhiều đồ án quy hoạch và chỉnh

trang, mỗi đồ án quy hoạch đều có những kết quả và thành công riêng.

Đầu tiên là “Đồ án chỉnh trang tổng quát” của E. Hébrard (1923) – “Bản khai sinh vóc dáng đô thị Đà

Lạt”. Lúc bấy giờ Nhà Thờ Chánh Tòa chưa được xây dựng, nhưng theo quy hoạch này, Nhà Thờ nằm ở vị trí

chính giữa trục giao thông, ngay hệ thống các khu chức năng cảnh quan trong đô thị là hồ nước, vườn hoa và

cạnh khu hành chánh. Trong quy hoạch, tầm nhìn ở vị trí trung tâm – Nhà Thờ Chánh Tòa được mở rộng về

hướng Bắc, nhìn qua “hồ Lớn” - đồi Cù, rừng dự trữ và viễn cảnh núi Lang Biang lần lượt xuất hiện.

Dự án quy hoạch của Pineau (1933) mở ra cánh cổng mới trong quy hoạch đô thị tại Đà Lạt – Lâm Đồng,

có sự điều chỉnh phù hợp thực tế và tỉnh táo hơn. Tiếp nối quan niệm của Pineau là Lagisquest với “Đồ án quy

hoạch năm 1943”, trân trọng các giá trịn thiên nhiên và văn hóa của Đà Lạt – Lâm Đồng. Thời điểm này, Thánh

Đường đã hoàn thiện thi công, bản quy hoạch này là một quyết định cảnh quan của công trình. Theo đó, từ khu

trung tâm, bố trí các khu vực ở và phụ trở xung quanh. Điều này cho phép tối đa sự tiếp xúc với Thành Đường,

bán kính phục vụ bảo đảm, công trình gắn kết với các khu ở - khu phục vụ - khu công cộng, Nhà Thờ không tách

rời mà hòa quyện vào đời sống và các hoạt động của con người.

Với tình hình phát triển như ngày nay, hình thái đô thị thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng thay đổi quá nhanh

chóng, vô tình mất đi những trật tự - nề nếp trong trong các bản quy hoạch trước đó. Tuy nhiên Nhà Thờ Chánh

Tòa vẫn đủ sức hấp dẫn và là một dấu ấn trong đô thị, hấp dẫn bởi sự bề thế của một công trình biểu tượng Châu

Âu, bởi kiến trúc cổ điển tinh xảo và dấu ấn thời gian – chứng nhân lịch sử.

3.2.1.2. Sự đa dạng trong biến đổi hình thái kiến trúc và quy hoạch.

Đà Lạt vốn là một thành phố nổi tiếng với sự hiện diện gần như phủ sóng của các Nhà Thờ Công Giáo.

Dù tuổi đời chỉ hơn một thế kỷ, nhưng Đà Lạt đã xây dựng được cho mình hàng trăm ngôi nhà thờ và tu viện

nằm rải rác khắp thành phố.

Sự đa dạng về thành phần cư dân dẫn đến đa dạng văn hóa và ảnh hưởng sâu sắc đến hình thái kiến trúc

Nhà Thờ Công Giáo.

Địa hình và khí hậu cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công

Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng.

Ngoài ra, quy hoạch đô thị và định hướng phát triển trong quy hoạch cũng tác động trực tiếp đến hình

thái kiến trúc Nhà Thờ, trong đó xác định vị trí xây dựng công trình tác động vào quá trình hình thành, quy mô,

kiến trúc và xây dựng.

3.2.1.3. Khai thác yếu tố hài hòa với cảnh quan và đặc điểm nơi chốn.

Tại Đà Lạt – Lâm Đồng, các công trình kiến trúc nói chung, cùng với cảnh quan thiên nhiên, rừng cây

và thôn ấp đều được sắp đặt hài hòa trong một quy hoạch tinh tế như một bản giao hưởng.

Nghệ thuật điều hòa không gian, chiều cao của quy hoạch thật tinh tế trong khung cảnh dập dờn của địa

hình đồi núi, ở trung tâm để đột biến lên hai tháp chuông cao vút, một ở phía Đông - trường Cao đẳng sư phạm,

một ở phía Nam - Nhà Thờ Chánh Tòa. Công trình biến thể phù hợp với địa hình đồi núi, khéo léo nép mình vào

17

thiên nhiên. Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo được tạo nên từ quan điểm hài hòa với cảnh quan, mang dấu ấn đặc

trưng nơi chốn.

3.2.1.4. Kiến trúc kết hợp với vật liệu địa phương và thích ứng với khí hậu cao nguyên.

Vùng cao nguyên Trung phần nói chung và Đà Lạt - Lâm Đồng nói riêng, ngoài tài nguyên rừng còn có

nhiều loại khoáng sản đáng kể. Nhóm khoáng sản đá quý và đá phục vụ công nghiệp xây dựng cũng khá phong

phú. Riêng đá granite có khoảng bốn đến năm trăm ngàn khối, Đà Lạt - Lâm Đồng có hai loại đá granite rất

hiếm, màu đen tuyền và hồng đào. Các mỏ đá này tập trung ở Đơn Dương, Đạ Hoai. Đặc biệt là lớp đá bazan

phong phú trên bề mặt cũng là nguyên, vật liệu trong xây dựng.

Thời kỳ đầu, Nhà Thờ sử dụng những vật liệu địa phương như tranh, tre, nứa, lá... làm bộ xương mái và

các loại gỗ tốt như cẩm lai, gụ, giổi, trám, đinh hương... để dựng nên khung nhà. Về sau, kiến trúc khai thác triệt

để yếu tố vật liệu địa phương mà nhiều nhất ở nơi này là gỗ và đá. Đá granite sau này mới được dùng nhiều hơn,

trang trí mặt tiền, lót sàn và một số chi tiết khác.

Kiến trúc Đà Lạt được đánh giá là “bảo tàng sống " của nhiều phong cách kiến trúc địa phương Pháp tụ

hội về đây. Điều làm nên nét riếng biệt cho đô thị cao nguyên này có lẽ chính là sự tương đồng về khí hậu và

điều kiện tự nhiên giữa Đà Lạt – Lâm Đồng và nước Pháp. Tận dụng lợi thế về khí hậu, Nhà Thờ Công Giáo đã

tạo nên những kiến trúc sinh khi hậu mang dấu ấn các nhân của cao nguyên Trung phần.

3.2.2. Nhận định về giá trị hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm

Đồng.

3.2.2.1. Giá trị vật thể.

Dấu ấn của người Pháp tại cao nguyên Lang Biang, là bước ngoặc vẽ lên bước đi đầu của người được

xem là “thực dân” trên mảnh đất xa xôi “thuộc địa”, một mảnh đất hoang vu giữa núi rừng. Là một trong những

công trình xuất hiện đầu tiên ở vùng đất này, các công trình Thiên Chúa Giáo ngoài vai trò phụng vụ mà còn là

những tác phẩm nghệ thuật, kết tinh giá trị nghệ thuật biểu trưng tâm linh và chứng nhân lịch sử.

Dấu ấn trong quy hoạch và là một điển nhấn cảnh quan trung tâm đô thị. Điểm nhấn đô thị (Urban

Landmark) là những vật thể trong đô thị thu hút sự quan tâm vì có những đặc tính vật chất đáng chú ý hay mang

ý nghĩa lịch sử văn hóa và nghệ thuật kiến trúc mang tính biểu trưng.

Là sản phẩm mang tính thời đại của nhiều thời kỳ và của cộng đồng, thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng

không chỉ được tạo nên bởi điều kiện tự nhiên lý tưởng, mà còn bởi sự gián tiếp “ủng hộ” của tình thế thời cuộc

trong mỗi diễn biến lịch sử. Kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo bảo lưu và chuyển tải dấu ấn về thời gian và không

gian của từng giai đoạn, gắn liền với lịch sử, mỗi thời kỳ khác nhau mang một diện mạo khác nhau.

Với vị thế là một công trình mang giá trị về vật chất và tinh thần, kiến trúc Thánh Đường là một cuộc

chạy đua của các nhà kiến trúc, nhằm tìm tòi và phát huy những thành tựu kỹ thuật và nghệ thuật áp dụng vào

công trình này.

3.2.2.2. Giá trị phi vật thể.

Những ngôi Thánh Đường sơ khai xây dựng có vai trò đánh một dấu mốc cho nền tôn giáo mới – ngoại

lai tại vùng đất núi rừng hoang sơ. Mặt khác, công trình còn mang lại giá trị về du lịch và phát triển kinh tế.

18

Công Giáo và Nhà Thờ Công Giáo từ lâu đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng đến đời sống xã hội – nhân

văn vùng này, đó là sợi dây sự gắn kết những tộc người, vùng miền khác nhau trở thành một cộng đồng chung

sống và cùng nhau phát triển, đặc trưng văn hóa tâm linh của cộng đồng cư dân.

Cùng với sự nghiệp truyền giáo, người Pháp mang đến đây một loại hình công trình kiến trúc mang tính

biểu tượng của văn minh phương Tây. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho kiến trúc Đà Lạt – Lâm Đồng và cả

Việt Nam trong việc tiếp nhận, học hỏi tinh hoa kiến trúc Thế giới, từ công nghệ thi công, kỹ thuật xây dựng,

nguyên vật liệu hiện đại cho đến nghệ thuật bố cục tạo hình và trang trí, làm tiền đề cho sự phát triển sau này.

Nhà Thờ Công Giáo không chỉ là một công trình kiến trúc tôn giáo đơn thuần, mà có thể gọi đây là một

sản phẩm nghệ thuật, xã hội – nhân văn. Bởi lẽ, ngoài không gian chính là Thánh Đường, đa phần các công trình

đều tổ chức các phòng ốc, khu vực cho không gian phục vụ cộng đồng.

Tiểu kết chương 3

Hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng diễn biến trong tiến trình lịch sử phát triển

đô thị Đà Lạt – Lâm Đồng. Trong quá trình biến đổi, hình thành những phong cách khác nhau, mang dấu ấn đặc

trưng, phản ánh rõ nét tình hình lịch sử, bối cảnh xã hội, đời sống văn hóa và tâm linh cộng đồng giai đoạn đó.

Trên cơ tầng văn hóa kiến trúc, văn hóa tâm linh Pháp, “người Đà Lạt” tiếp nhận, sáng tạo và phát triển,

Việt hóa và bản địa hóa trở thành văn hóa thuần Việt bản địa biểu trưng cho “hồn nơi chốn” Đà Lạt – Lâm Đồng.

Qua các thời kỳ đầy biến động lịch sử, kiến trúc Thánh Đường vẫn luôn là một dấu ấn đô thị, dấu ấn

văn hóa tâm linh cộng đồng cư dân bản xứ và là chứng nhân lịch sử sinh động của Thành phố, mang đến những

giá trị vật thể và phi vật thể vô cùng ý nghĩa, đáng trân trọng, giữ gìn và phát huy.

Theo đà phát triển thời đại, hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng ngày nay gần

như thoát ly khỏi mô hình cổ điển trước đó, biến hóa khôn lường về hình khối, bố cục mặt bằng tổng thể và tổ

chức không gian. Mỗi Nhà Thờ là một thế giới nhỏ của cộng đồng giáo xứ tại chỗ, mang dấu ấn biểu trưng cho

cộng đồng đó. Đặc trưng này đem đến những giá trị đa sắc màu độc đáo cho đô thị, cảnh quan thiên nhiên, cộng

đồng dân cư, không chỉ ở Đà Lạt – Lâm Đồng mà còn là di sản chung của văn hóa kiến trúc cả nước.

19

PHẦN BA. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1. Sau hơn 100 năm kể từ khi người Pháp phát hiện ra Đà Lạt (1893) và gần 80 năm kể từ khi đồ án

quy hoạch đô thị đầu tiên của Đà Lạt để cấp có thẩm quyền phê duyệt (1923) đến nay, chúng ta có thể khẳng

định một điều: người Pháp đã để lại dấu ấn di sảnh đô thị quy hoạch, kiến trúc Pháp tại Đà Lạt – Lâm Đồng,

góp phần làm giàu thêm nguồn vốn di sản văn hoá dân tộc Việt Nam nói chung, tạo nên một nét độc đáo

riêng trong đặc trưng kiến trúc của khu vực Tây Nguyên. Là minh chứng cho sự giao thoa tiếp biến văn hóa

độc đáo giữa 2 nền văn hoá Pháp - Việt, kết tinh giữa khái niệm “tiên tiến hiện đại” và “đậm đà bản sắc dân

tộc”. Trong đó Nhà Thờ Công Giáo giữ vị trí và vai trò hết sức đặc biệt.

2. Diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại đây khởi đầu là kiến trúc Thánh Đường

Châu Âu, với quan điểm tâm linh, văn hóa, kiến trúc Châu Âu dần ăn sâu rễ vào đời sống. Kiến trúc Nhà

Thờ Công Giáo là chứng minh cho công cuộc tiếp biến văn hóa Pháp – Việt theo những điều kiện nhất định,

từ đó cho ra những giá trị nhất định. Trải qua nhiều năm sau thời Pháp thuộc, những ngôi Thánh Đường cổ

điển vẫn còn tồn tại mang theo dấu ấn lịch sử của một thời kỳ mang tính biểu tượng, đóng góp cho cảnh quan

và đô thị nghỉ dưỡng.

Ngày nay một số Nhà Thờ đi theo mô-típ mô phỏng hoàn toàn mô hình kiến trúc cổ điển, tuy không

đáng kể về số lượng, các công trình Nhà Thờ mới xây dựng đa phần hướng đến xu hướng “kiến trúc bản địa

mới”. Phong cách này tìm ra những hướng đi mới: sử dụng trực tiếp các vật liệu địa phương, gốc tự nhiên

vào công trình, thể hiện ngôn ngữ thiết kế hiện đại thay vì lập lại hoặc mô phỏng hình thức truyền thống, bản

địa bằng vật liệu hiện đại (phong cách Á – Âu). Hướng đi mới này các kiến trúc sư thể hiện dấu ấn văn hóa

bản địa và “hồn nơi chốn” một cách rõ nét trong một công trình kiến trúc Thánh Đường mang dáng vẻ hiện

đại, đạt được những thành công thông qua sự công nhận của công chúng và các giải thưởng quốc tế.

3. Trải qua thời gian, kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo tại Đà Lạt – Lâm Đồng từ khi hình thành và phát

triển đã chuyển hóa hình thái kiến trúc trở nên đa dạng và phong phú, đơn cử là hai thời kỳ: thời kỳ Pháp

thuộc và thời kỳ sau Pháp thuộc. Trong thời kỳ Pháp thuộc, hình thái kiến trúc Thành Đường nhận dạng hai

loại: phong cách mô phỏng kiến trúc cổ điển Châu Âu và kiến trúc phong cách Á – Âu. Còn thời kỳ sau Pháp

thuộc gồm có các dạng hình thái kiến trúc: phong cách truyền thống Nam Trung Bộ, kiến trúc bản địa mới và

kiến trúc cách tân thuần Việt.

4. Nếu nhìn nhận diễn biến hình thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng dưới khía

cạnh giao thoa văn hóa thì quá trình này đơn cử bốn giai đoạn:

Giai đoạn đầu mang yếu tố ngoại sinh (yếu tố Pháp) là chủ yếu. Bởi căn nguyên ban đầu đô thị nghỉ

dưỡng Đà Lạt – Lâm Đồng được các kiến trúc sư thiết kế, quy hoạch phục vụ cho nhu cầu của người Pháp là

chủ yếu song song với đó là kiến trúc Thánh Đường thuần cổ điển Châu Âu.

Một thời gian sau, giao thông thuận lợi, người Việt đến đây nhiều hơn, tiếp nhận văn hóa Pháp như

một điều tất yếu. Cùng với đó kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo giai đoạn này có sự giao thoa văn hóa Pháp –

Việt, tuy nhiên yếu tối ngoại sinh vẫn chiếm ưu thế hơn.

20

Giai đoạn sau, khi cộng đồng Thiên Chúa Giáo lan rộng khắp vùng cùng với biến đổi của thành phần

cư dân, kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo phát triển mạnh mẽ về số lượng để phục vụ nhu cầu đời sống tâm linh

cho cộng đồng giáo dân mà chủ yếu là người Việt, tiếp đó là người dân tộc thiểu số. Yếu tố Pháp trong hình

thái kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo Đà Lạt – Lâm Đồng lúc bấy giờ vẫn tồn tại, tuy nhiên đã được Việt hóa và

thêm vào đó là yếu tố bản địa trở thành văn hóa kiến trúc Thánh Đường Việt – Pháp.

Ngày nay, kiến trúc Thánh Đường tại Đà Lạt – Lâm Đồng phát triển vượt bậc, tuy nhiên vẫn không

tách rời với nền văn hóa kiến trúc phương Tây. Người Đà Lạt – Lâm Đồng tiếp nhận giao thoa văn hóa tự

nguyện và sáng tạo, chuyển hóa yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh – văn hóa thuần Việt, tạo ra những

tác phẩm kiến trúc Nhà Thờ Công Giáo thuần Việt nhưng mang dấu ấn nơi chốn Đà Lạt – Lâm Đồng.

2. Kiến nghị.

1. Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của công nghệ kỹ thuật dần tác động đến các kiến trúc Thánh

Đường cổ điển. Sự xuất hiện những công trình có chiều cao vượt trội vô tình làm mất đi các giá trị cảnh quan,

mà các đồ án quy hoạch trước đó muốn gìn giữ thông quan biện pháp khống chế chiều cao các công trình.

Cần có các biện pháp khắc phục tình trạng này trong thời gian tới, bằng những quy hoạch có tính thực tiễn,

quản lý hợp lý, trên nền tảng nghiên cứu chuyên sâu. Bởi việc gìn giữ di sản kiến trúc không chỉ riêng Thánh

Đường đóng vai trò quan trọng cho bộ mặt đô thị cao nguyên Đà Lạt – Lâm Đồng, là một phần trong giá trị bản sắc văn hóa, lịch sử, du lịch và kinh tế thành phố.

2. Cần có những chính sách thích hợp để phát huy những nét văn hóa kiến trúc đặc sắc của vùng cao

nguyên. Tận dụng địa điểm kiến trúc Thánh Đường kết hợp với yếu tố khác để phát triển du lịch và nguồn

lực kinh tế. Mang những hơi thở thời đại và kiến trúc sinh thái, sinh khí hậu, nhất là giá trị trong kiến trúc

Thành Đường Công Giáo cùng văn hóa bản địa nơi cao nguyên Nam Trung phần quảng bá đến khắp nơi kể

cả trong và ngoài nước.

3. Hiện nay, trên thế giới xuất hiện nhiều Thánh Đường mang phong cách hiện đại mới (Nhà thờ

Jubilee Ý, Nhà thờ Crystalline Mỹ, Nhà Thờ Giáo Hội Presbyterian Hàn Quốc, Nhà Thờ Holy Cross Sedona

– Arizona), giải tỏa và phô diễn kết cấu (Nhà Thờ chính tòa Oakland – “Cathedral of Christ the Light”

California – Mỹ). Kiến trúc áp dụng những thành tựu trong khoa học – kỹ thuật xây dựng tiên tiến nhất. Để

theo kịp thời đại và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của thành phố, phải chăng chúng ta cần có một tầm nhìn

mới về quy hoạch kiến trúc, nghiêm túc hơn trong nghiên cứu thiết kế và đầu tư xây dựng, tiếp thu công nghệ

kỹ thuật văn minh tiên tiến để tạo ra những tác phẩm kiến trúc không chỉ mang dấu ấn bản địa, đậm đà bản

sắc dân tộc mà còn là biểu trương văn hóa thời đại hội nhập toàn cầu mới.