ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

-----***-----

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

BIẾN ĐỔI HOẠT ĐỘNG GIÓ MÙA MÙA HÈ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Khí tượng và khí hậu học

Mã số: 62440222

DỰ THẢO

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHÍ TƯỢNG VÀ KHÍ HẬU HỌC

Hà Nội - 2017

Công trình được hoàn thành tại:

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS. Vũ Thanh Hằng

2. PGS. TS. Nguyễn Hướng Điền

Phản biện 1: ......................................................................................

......................................................................................

Phản biện 2: ......................................................................................

…………………………..............................................

Phản biện 3: .....................................................................................

…………………………………………………….....

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm

luận án tiến sỹ họp tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên vào hồi

……... ngày …. tháng..... năm …….

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề:

“Gió mùa là chế độ dòng khí của hoàn lưu khí quyển trên một

phạm vi rộng lớn của bề mặt trái đất, trong đó, ở mọi nơi trong khu

vực gió mùa, gió thịnh hành chuyển ngược hướng hay gần như

ngược hướng từ mùa đông sang mùa hè và từ mùa hè sang mùa

đông”. GMMH cung cấp lượng mưa lớn cho nhiều khu vực. Tuy

nhiên, sự đến sớm hay muộn của GMMH có thể gây ra ảnh hưởng

lớn đến tổng lượng mưa năm, mùa cũng như cường độ mưa và các

hiện tượng cực đoan liên quan đến lượng mưa.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ

thuật, việc ứng dụng các mô hình số để mô phỏng khí hậu, mô phỏng

ngày bắt đầu và kết thúc GMMH, cũng như dự tính sự thay đổi của

các đặc trưng GMMH trong tương lai theo các kịch bản khí nhà kính

được thực hiện nhiều hơn và có những kết qu ả đáng tin cậy hơn. Chính vì vậy, đề tài luận án “Biến đổi hoạt động gió mùa mùa

hè ở Việt Nam” sẽ xác định ngày bắt đầu/ kết thúc GMMH và xu thế

biến đổi của nó, sự biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong mùa

GMMH trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ trong thời kỳ quá khứ

và thời kỳ tương lai.

Mục tiêu chung

- Nghiên cứu xác định ngày bắt đầu và kết thúc GMMH và

các chỉ số mưa cực đoan trong thời kỳ GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ, dự tính sự biến đổi của ngày bắt đầu và kết thúc

GMMH, sự biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong thời kỳ

1

GMMH trong tương lai.

Mục tiêu cụ thể

- Xác định ngày bắt đầu/kết thúc và sự khác biệt giữa mùa

mưa và mùa GMMH;

- Áp dụng và điều chỉnh chỉ tiêu để xác định ngày bắt đầu/kết

thúc GMMH và tính toán các chỉ số mưa cực đoan trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ trong quá khứ;

- Dự tính sự biến đổi của ngày bắt đầu và kết thúc GMMH và

sự biến đổi của các chỉ số mưa cực đoa n trong thời kỳ GMMH ở khu

vực Tây Nguyên và Nam Bộ trong tương lai;

- Phân tích đặc điểm hoàn lưu quy mô lớn trong thời kỳ

GMMH ở hai khu vực trên.

Phạm vi nghiên cứu:

- Khu vực nghiên cứu: Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ

- Thời gian: thời kỳ quá khứ 1981-2014, thời kỳ tương lai

(2016-2035), (2046-2065), (2080-2099).

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

- Góp phần làm rõ xu thế sớm lên của GMMH trong những

năm gần đây.

- Góp phần xác định ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu

vực, dự tính được những thay đổi của hoạt động GMMH trong tương

lai trên khu vực Việt Nam, dự tính được sự thay đổi của các chỉ số

mưa cực đoan trong thời kỳ GMMH. Ngoài ra, nghiên cứu còn góp

phần trong công tác dự báo mưa và mưa lớn. Những đóng góp mới của luận án:

- Xác định được ngày bắt đầu/ kết thúc GMMH và xu thế biến

đổi của nó trong giai đoạn 1981-2014; sự khác biệt giữa mùa mưa và

2

mùa GMMH và đặc điểm hoàn lưu quy mô lớn trong thời kỳ này.

- Dự tính sự biến đổi của ngày bắt đầu/ kết thúc GMMH và

sự biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong thời kỳ GMMH ở Tây

Nguyên và Nam Bộ trong tương lai theo kịch bản RCP4.5.

Cấu trúc của luận án: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Kiến

nghị, Luận án gồm: Chương 1. Tổng quan, Chương 2. Số liệu và

phương pháp nghiên cứu. Chương 3. GMMH và mưa thời kỳ 1981-

2014. Chương 4. Dự tính một số đặc trưng GMMH theo kịch bản

RCP4.5.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1 Khái niệm và các khu vực gió mùa

Khái niệm về gió mùa: Gió mùa là chế độ dòng khí của hoàn

lưu khí quyển trên một phạm vi rộng lớn của bề mặt Trái Đất, trong

đó gió thịnh hành chuyển ngược hướng hay gần như ngược hướng từ

mùa đông sang mùa hè và từ mùa hè sang mùa đông. Trong hai loại

gió mùa, gió mùa mùa hè (GMMH) cung cấp lượng mưa lớn cho các

hoạt động sản xuất, nông lâm ngư nghiệp, thủy điện.

Cơ chế hình thành gió mùa mùa hè: có ba nhân tố hình

thành và duy trì hoạt động gió mùa: sự nóng lên khác nhau theo mùa

của lục địa và đại dương, các quá trình ẩm của khí quyển và sự tự

quay của trái đất.

Phân chia khu vực gió mùa

GMMH Châu Á là hệ thống gió mùa lớn nhất trên trái đất và

cung cấp lượng mưa dồi dào cho khu vực Châu Á. Theo Murakami

và cộng sự (1994), khu vực gió mùa Châu Á bao gồm gió mùa Đông

Nam Á (SEAM), gió mùa tây bắc Thái Bình Dương (WNPM), gió

mùa bắc Oxtralia (NAIM) và hai vùng mưa ngoại nhiệt đới meiyu ở

3

Trung Quốc và Baiu ở Nhật Bản. Khu vực gió mùa Đông Nam Á kéo

dài từ phía đông biển Ả rập, Ấn Độ, Vịnh Bengal, bán đảo Đông

Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), gồm cả gió mùa Nam Á. Theo

Wang và Ho (2002) và Wang và ccs (2003), GMMH Châu Á được chia thành ba tiểu hệ thống gió mùa: GMMH Ấn Độ (ISM) (5-270N, 65-1050E), GMMH tây-bắc Thái Bình Dương (WNPSM) (5-22,50N, 105-1500E), GMMH Đông Á (EASM) (22,5-450N,105-1400E). Với cách phân chia nào thì Việt Nam vẫn nằm trên bán đảo Đông Dương,

là ranh giới giữa các đới GMMH Nam Á và Đông Á, tây bắc Thái

Bình Dương nên chịu ảnh hưởng bởi các đới gió mùa này do đó chế

độ GMMH ở khu vực Việt Nam hết sức phức tạp. 1.2 Tình hình nghiên cứu về gió mùa mùa hè trên thế giới 1.2.1 Nghiên cứu về gió mùa mùa hè trong quá khứ

Nghiên cứu về GMMH Nam Á, Đông Á, khu vực bán đảo

Đông Đương, Biển Đông trong quá khứ dựa trên bộ số liệu quan trắc

và số liệu tái phân tích đã được thực hiện khá nhiều. Các kết quả

nghiên cứu cho thấy ngày bắt đầu GMMH trên khu vực Ấn Độ

thường xảy ra vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6 và kết thúc khoảng

cuối tháng 9 và tháng 10. Ngày bắt đầu GMMH trên Biển Đông xảy

ra vào nửa đầu tháng 5, trên bán đảo Đông Dương và Vịnh Bengal

thường xảy ra vào đầu tháng 5. Ngày kết thúc GMMH ở khu vực

Châu Á thì không được nghiên cứu nhiều như ngày bắt đầu GMMH.

Tuy nhiên, một số kết quả cho thấy ngày kết thúc GMMH trong quá

khứ ở Biển Đông dao động giữa tháng 10.

1.2.2 Nghiên cứu khả năng mô phỏng và dự tính GMMH từ sản

phẩm mô hình số

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ cao

thì việc ứng dụng các sản phẩm của mô hình số vào việc mô phỏng

4

và dự tính những thay đổi của các đặc trưng gió mùa ngày càng

nhiều. Điển hình, Dash và ccs (2006) chỉ ra rằng mô hình RegCM3

mô phỏng tốt các đặc tính hoàn lưu GMMH Ấn Độ như gió tây mực

850 hPa, gió đông mực 200 hPa; lượng mưa mô phỏng bằng mô hình

cũng khá gần với lượng mưa từ trung tâm lượng mưa khí hậu toàn

cầu, nhưng cao hơn so với quan sát ở khu vực phía bắc và đông bắc

Ấn Độ. Kitoh và Uchiyama (2006) đã xem xét ngày bắt đầu và kết

thúc của GMMH Đông Á dựa trên số liệu lượng mưa ngày dự tính

cho thế kỷ 21 từ 15 mô hình khí hậu toàn cầu kết hợp đại dương khí

quyển theo kịch bản A1B. Kết quả cho thấy ngày kết thúc GMMH

muộn hơn rõ rệt tại Đài Loan và phía nam Nhật Bản trong khi ngày

kết thúc này dường như lại sớm hơn trên lưu vực sông Dương Tử.

Inoue và Ueda (2011) cho thấy ngày bắt đầu GMMH trên vịnh

Bengal, bán đảo Đông Dương và Biển Đông vào cuối thế kỷ 21 theo

kịch bản A1B chậm 5-10 ngày so với cuối thế kỷ 20. Nguyên nhân

được lý giải là có thể do sự đảo chiều gradient kinh hướng của nhiệt

độ ở phía trên của tầng đối lưu giữa lục địa Á-Âu và bắc Ấn Độ

Dương bị chậm lại.

Xuebin và ccs (2005) nghiên cứu xu thế biến đổi của các chỉ

1.2.3 Nghiên cứu về mưa cực đoan số khí hậu cực đoan, bao gồm cả số ngày mưa, cường độ mưa, sự

kiện mưa ngày lớn nhất. Kết quả về xu thế biến đổi của các chỉ số

mưa dựa trên phương pháp Mann Kendall không đồng nhất theo

không gian. Boroneant và ccs (2006) sử dụng mô hình RegCM để

ước tính những thay đổi của cường độ và lượng mưa cực trị trên khu

vực ven biển Pháp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình mô phỏng

chu trình năm của lượng mưa cao hơn quan trắc, mô phỏng tốt chỉ số

5

mưa 5 ngày cực đại trong tất cả các mùa.

1.3 Tình hình nghiên cứu về gió mùa mùa hè ở Việt Nam

1.3.1 Các nghiên cứu về gió mùa mùa hè trong quá khứ

Nghiên cứu về GMMH ở Việt Nam cũng được thực hiện sớm.

Một số nghiên cứu cho thấy ngày bắt đầu GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ trung bình thời kỳ dài xảy ra lân cận ngày 10/5.

Một số nghiên cứu khác chỉ ra mối quan hệ giữa ngày bắt đầu mùa

mưa với tổng lượng mưa. Nghiên cứu về ngày kết thúc GMMH trên

khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ vẫn còn rất hạn chế.

1.3.2 Tình hình nghiên cứu về mưa cực đoan

Các chỉ số mưa cực đoan thường được sử dụng trong các

nghiên cứu là số ngày ẩm ướt (WD), cường độ mưa (SDII), tổng

lượng mưa trong những ngày có mưa (PRCPTOT), số ngày mưa lớn

hơn 50 mm (R50), lượng mưa ngày lớn nhất trong năm, mùa

(RX1day), tổng lượng mưa 5 ngày lớn nhất trong năm, mùa

(RX5day), số ngày liên tiếp có mưa dài nhất (CWD), số ngày liên

tiếp không mưa dài nhất (CDD). Kết quả nghiên cứu cho thấy số

ngày ẩm ướt (WD) có xu thế giảm, trong khi cường độ mưa (SDII)

tăng lên ở phía nam. số ngày mưa lớn hơn 50 mm (R50) có xu thế

tăng mạnh ở khu vực Tây Nguyên. RX1day và RX5day có xu thế

tăng lên ở nhiều trạm, tổng lượng mưa năm cũng tăng nhanh ở trạm

Mdrak, Đăk Nông, Bảo Lộc, CDD có xu thế giảm.

Việc ứng dụng sản phẩm mô hình số để mô phỏng khí hậu và

các hiện tượng thời tiết cực đoan ở nước ta ngày càng phổ biến. Ở

Việt Nam, RegCM được sử dụng để mô phỏng khí hậu khu vực và

dự báo khí hậu mùa, mô phỏng một số yếu tố khí hậu cực đoan trên

khu vực Việt Nam, mô phỏng hạn hán ở khu vực Nam Trung Bộ

trong thời kỳ tương lai theo kịch bản phát thải khí nhà kính.

6

Gần đây nhất, trong khuôn khổ dự án CORDEX-SEA, Ngô

Đức Thành và ccs (2016) đã chạy thử nghiệm mô hình RegCM 4.3

cho 18 thí nghiệm với các thông số vật lý khác. Nghiên cứu đã đánh

giá khả năng mô phỏng của 18 thí nghiệm cho 12 chỉ số khí hậu cực

đoan ở khu vực Đông Nam Á, gồm 7 chỉ số mưa và 5 chỉ số nhiệt độ.

Kết quả cũng chỉ ra rằng, các thí nghiệm với sơ đồ MIT-Emuael cho

kết quả tốt hơn, đặc biệt là sự kết hợp giữa trao đổi đại dương MIT –

Emanuel và sơ đồ BATS1e.

CHƯƠNG 2. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Số liệu

2.1.1 Số liệu quan trắc: Luận án sử dụng số liệu mưa ngày quan trắc

tại 13 trạm thuộc khu vực Tây Nguyên và 4 trạm thuộc khu vực Nam

Bộ thời kỳ 1981-2014.

2.1.2 Số liệu tái phân tích: số liệu gió, độ ẩm, nhiệt độ của

NCEP/NCAR với độ phân giải là 2,5 độ thời kỳ 1981-2014. Số liệu

tái phân tích ERA_Interim thời kỳ 1986-2005.

2.1.3 Số liệu mô hình: Gió, mưa, nhiệt độ, độ ẩm từ mô hình

RegCM thời kỳ cơ sở chạy với điều kiện ban đầu và điều kiện biên

từ số liệu tái phân tích ERA_Interim và thời kỳ cơ sở và tương lai

theo kịch bản RC4.5 chạy với điều kiện ban đầu và điều kiện biên là

mô hình toàn cầu CNRM5.

2.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1 Phương pháp xác định ngày bắt đầu, kết thúc mùa mưa và

mùa gió mùa mùa hè.

Luận án sẽ thử nghiệm tính toán xác định mùa mưa theo

phương pháp Zhang và ccs (2002) và mùa GMMH theo phương pháp

7

của Cheang và cs (1988) và Wang và ccs (2004) cho khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ, trên cơ sở đó phân tích và điều chỉnh chỉ tiêu

cho phù hợp với khu vực nghiên cứu.

Phương pháp Zhang và ccs (2002)

Ngày bắt đầu mùa mưa hàng năm là ngày đầu tiên trong 5

ngày liên tiếp có lượng mưa trung bình trượt 5 ngày lớn hơn 5 mm,

trong 20 ngày liên tiếp có ít nhất 10 ngày có lượng mưa trung bình

trượt 5 ngày lớn hơn 5 mm. Ngày kết thúc là ngày từ cuối năm trở về

trước thỏa mãn các điều kiện trên.

Phương pháp Cheang và cs (1988)

Theo phương pháp này, ngày bắt đầu gió mùa tây nam trên

khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ được định nghĩa là ngày có cả hai

thành phần gió vĩ hướng mực 850 hPa và 700 hPa tính trung bình khu vực Tây Nguyên (12oN-14.5oN; 107.5oE-109oE), Nam Bộ (9oN- 11,5oN, 104,5oE -107oE) dương và kéo dài ít nhất 20 ngày kể từ ngày bắt đầu. Ngày kết thúc GMMH được xác định ngược lại từ cuối

chuỗi số liệu trở về trước.

Phương pháp Wang và ccs (2004)

Ngày bắt đầu GMMH là ngày đầu tiên trong 5 ngày liên tiếp

có gió vĩ hướng trung bình khu vực Tây Nguyên (Nam Bộ) dương, ít

nhất 15/20 ngày liên tiếp có gió vĩ hướng dương, gió vĩ hướng trung

bình 20 ngày liên tiếp đó phải lớn hơn 1 m/s, phải xảy ra sau ngày

25/4. Ngày kết thúc được xác định ngược lại từ cuối năm trở về

trước.

Đề xuất chỉ tiêu kết hợp

Để xác định ngày bắt đầu và kết thúc GMMH cho khu vực

Tây Nguyên và Nam Bộ trong thời kỳ 1981-2014, nghiên cứu này

kết hợp cả chỉ số mưa và chỉ số gió như sau: Ngày bắt đầu và kết

8

thúc GMMH (kí hiệu tương ứng là BĐGM và KTGM) được xác định

trước tiên theo chỉ tiêu mưa đầu của Zhang và cs (2002), sau đó chỉ

tiêu thứ hai là tốc độ gió vĩ hướng tại mực 850 hPa lớn hơn 0,5 m/s

trong 5 ngày liên tiếp tính từ ngày bắt đầu GMMH hoặc tính ngược

lại từ ngày kết thúc GMMH.

Trên cơ sở xác định được bộ chỉ tiêu cho ngày bắt đầu và kết

thúc GMMH trong quá khứ, luận án sẽ tiến hành đánh giá khả năng

mô phỏng GMMH từ mô hình RegCM_ERA-interim dựa trên bộ chỉ

tiêu trên cho thời kỳ 1986-2005. Sau đó áp dụng chỉ tiêu trên cho bộ

số liệu mô hình RegCM_CNRM5 để dự tính sự biến đổi GMMH

trong thời kỳ đầu (2016-2035), giữa (2046-2065) và cuối thế kỷ 21

(2080-2099). 2.2.2 Phương pháp tính toán các chỉ số mưa cực đoan

Các chỉ số mưa cực đoan trong luận án được đề cập ở bảng 2.4.

Bảng 2.4: Các chỉ số mưa cực đoan

TT Chỉ số Định nghĩa Đơn vị

PRCPTOT Tổng lượng mưa của những ngày có

1 WD Số ngày có lượng mưa ≥ 1mm ngày

mm 2

mưa > 1mm

SDII Cường độ mưa, tỷ lệ của PRCPTOT và mm/ngày 3

WD

RX1day Lượng mưa 1 ngày lớn nhất trong năm mm 4

RX5day Lượng mưa 5 ngày lớn nhất trong năm mm 5

R50 Số ngày có lượng mưa ≥ 50mm ngày 6

CDD Số ngày liên tiếp không mưa hay mưa < ngày 7

1mm

9

CWD Số ngày liên tiếp có mưa ≥ 1mm ngày 8

2.2.3 Phương pháp hiệu chỉnh kết quả mô hình

a) Kiểm nghiệm phi tham số Mann-Kendall và xu thế Sen

Để đánh giá sự biến đổi của các đặc trưng gió mùa như ngày

bắt đầu, ngày kết thúc, các chỉ số mưa cực đoan trong cả thời kỳ dài,

luận án sử dụng phương pháp kiểm nghiệm phi tham số Mann-

Kendall và xu thế Sen.

Kiểm nghiệm Mann-Kendall nhằm xác định xu thế của một

chuỗi số liệu đã được sắp xếp theo trình tự thời gian (Kendall, 1975).

Phương pháp này dựa trên việc so sánh giá trị giữa các phần tử với

nhau để xác định xu thế của cả tập mẫu. Công thức tính kiểm nghiệm

Mann -Kendall như sau:

Giả sử có một chuỗi số liệu gồm n phần tử đã được sắp xếp

theo trình tự thời gian{x1, x2, ...., xn}, trong đó xi là giá trị tại thời điểm thứ i. Mục tiêu là so sánh giá trị của mỗi phần tử xi với (n-i) phần tử còn lại sau nó. Giả sử giá trị thống kê Mann -Kendall (S) ban

!!!

!

!!!

!!!!!

đầu bằng 0, các giá trị tiếp theo sẽ được xác định như sau: (2.1) 𝑆 = 𝑠𝑖𝑔𝑛(𝑥! − 𝑥!)

Trong đó:

(2.2)

𝑠𝑖𝑔𝑛 𝑥! − 𝑥! = 1 𝑘ℎ𝑖 𝑥! − 𝑥! > 0 0 𝑘ℎ𝑖 𝑥! − 𝑥! = 0 1 𝑘ℎ𝑖 𝑥! − 𝑥! < 0

giá trị S dương thể hiện xu thế tăng, S âm thể hiện xu thế giảm, xu

thế càng rõ ràng khi giá trị tuyệt đối của S càng lớn.

Tiếp đó, kiểm nghiệm xu thế của chuỗi ta tính hệ số tương quan

10

Mann-Kendall, kí hiệu là 𝜏

𝑆 − 1

𝑘ℎ𝑖 𝑆 > 0

𝑉𝑎𝑟(𝑆)

𝜏 =

0 𝑘ℎ𝑖 𝑆 = 0

𝑆 − 1

𝑘ℎ𝑖 𝑆 < 0

𝑉𝑎𝑟(𝑆)

(2.3)

!

𝑉𝑎𝑟 𝑆 =

(𝑁 𝑁 − 1 2𝑁 + 5 −

𝑡! 𝑡! − 1 (2𝑡! + 5)

1 18

!!!

trong đó, Var (S) là phương sai của S, được tính theo công thức: (2.4)

Với g là số nhóm, trong đó mỗi nhóm sẽ bao gồm các phần

tử có cùng giá trị, tp là số phần tử thuộc nhóm p. Để kiểm nghiệm xu thế: ta giả thiết xác xuất phạm sai lầm loại 1 bằng 𝛼 cho trước, với τcó phân bố chuẩn: 𝑃 𝜏 > 𝜏! = 𝛼 P τ > τ! = α xác định được 𝜏! theo bảng thống kê

Như vậy, nếu | 𝜏 | > 𝜏! thì chuỗi có xu thế có ý nghĩa thống kê, | 𝜏 | < 𝜏! thì chuỗi không có xu thế, 𝜏 dương thì xu thế tăng, 𝜏 âm thì chuỗi có xu thế giảm.

Xu thế Sen (Sen’slope)

Để xác định độ lớn của xu thế cho ngày bắt đầu và kết thúc

mùa GMMH cũng như các chỉ số mưa cực đoan, nghiên cứu đã sử

dụng các ước lượng hệ số Sen.

, vớik = 1,2, … , n-1; j > k . Hệ số Sen kí hiệu là Q, Q là giá trị trung vị của: !!-!! !-!

Ở đây Q cùng dấu với 𝝉

b) Phương pháp kiểm nghiệm Student

Luận án xác định sự biến đổi của ngày bắt đầu và kết thúc

mùa mưa, ngày bắt đầu, kết thúc và thời gian kéo dài mùa GMMH,

11

các chỉ số mưa cực đoan trong năm và thời kỳ GMMH tính trung

bình trong giai đoạn 1998-2014 so với giai đoạn 1981-1997. Tương

tự, luận án cũng xác định sự biến đổi của các đặc trưng GMMH thời

kỳ đầu, giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở 1986-2005.

Luận án sử dụng phương pháp kiểm nghiệm Student với

mức độ tin cậy 95% để đánh giá ý nghĩa thống kê của sự biến đổi của

các yếu tố trên. 2.2.4 Phương pháp hiệu chỉnh lượng mưa

Giả thiết phân bố tích lũy lượng mưa mô phỏng từ mô hình và

quan trắc có thể được xấp xỉ được bằng một hàm phân bố lý thuyết

gamma. Cụ thể, phân bố tích lũy của phân bố lý thuyết gamma tại

mỗi trạm (mô phỏng và quan trắc) được tính toán.

m) được tính

Mỗi sự kiện (lượng mưa mỗi ngày hoặc hàng tháng) của mô

m = Fm(Mi)

hình (Mi) có sắc xuất tích lũy (CDFi CDFi (2.12)

o) và xác suất tích lũy

Ngịch đảo hàm gamma của quan trắc (F-1

o(CDFi

m) Ni là giá trị lượng mưa mô hình hiệu chỉnh.

Mi cho ta một sự kiện mới (Ni): Ni= F-1 (2.13)

CHƯƠNG 3. GIÓ MÙA MÙA HÈ VÀ MƯA THỜI KỲ

1981-2014

3.1 Sự phân bố lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ

3.1.1 Sự phân bố lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên

Kết quả cho thấy tổng lượng mưa năm tại các trạm nằm ở

sườn đón gió (tây nam) ở khu vực núi cao tương đối lớn, có thể lên

tới 2936 mm và 2545 mm tại trạm Bảo Lộc và Đăk Nông. Ở sườn

khuất gió mùa hè, tổng lượng mưa năm rất thấp, ví dụ như trạm

12

Ayunpa, lượng mưa chỉ đạt 1268 mm/năm. Lượng mưa tập trung chủ

yếu từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa tại các trạm như An Khê,

Ayunpa, Mdrak tập trung chủ yếu vào tháng 9 đến tháng 12 do nằm

ở sườn khuất gió. Do đó, ba trạm này sẽ không được xem xét trong

việc tính toán tổng lượng mưa mùa mưa, mùa GMMH trên toàn khu

vực Tây Nguyên trong các phần sau.

Tổng lượng mưa năm ở các trạm trên khu vực dao động từ

3.1.2 Sự phân bố lượng mưa trên khu vực Nam Bộ 1600 mm đến 2400 mm. Lượng mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5

đến tháng 11, cao điểm vào tháng 9 đến tháng 10 ở hầu hết các trạm

3.2 Xác định mùa mưa/ mùa gió mùa mùa hè trên khu vực Tây

Đối với khu vực Tây Nguyên

Nguyên, Nam Bộ và đặc điểm trường hoàn lưu quy mô lớn Phương pháp Zhang và ccs (2002) xác định mùa mưa trên khu

vực Tây Nguyên. Kết quả về ngày bắt đầu và kết thúc mùa mưa trên

khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ 1981-2014 ngày 20/4 và 31/10

với độ lệch chuẩn là 17,4 ngày và 15,7 ngày.

Phương pháp Cheang và cs (1988) và Wang và ccs (2004) xác

định ngày bắt đầu GMMH trên khu vực Tây Nguyên xảy ra muộn

hơn, ngày kết thúc GMMH xảy ra sớm hơn so với nhiều nghiên cứu

trước đây.

Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Tây Nguyên

trong thời kỳ 1981-2014 theo chỉ tiêu kết hợp là ngày 13/5 và ngày

30/9 với độ lệch chuẩn lần lượt là 17,8 ngày và 10,2 ngày.

Đối với khu vực Nam Bộ

Phương pháp Zhang và ccs (2002) xác định mùa mưa trên khu

vực Nam Bộ. Kết quả về ngày bắt đầu và kết thúc mùa mưa trên khu

vực Nam Bộ trong thời kỳ 1981-2014 ngày 27/4 và 13/11 với độ lệch

13

chuẩn là 20,9 ngày và 14,8 ngày.

Phương pháp Cheang và cs (1988) xác định ngày bắt đầu

GMMH muộn hơn và ngày kết thúc sớm hơn so với các nghiên cứu

trước. Phương pháp Wang và ccs (2004) xác định ngày bắt đầu

GMMH trên khu vực Nam Bộ tương đối phù hợp nhưng ngày kết

thúc GMMH xảy ra sớm hơn so với nhiều nghiên cứu trước đây.

Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Nam Bộ trong

thời kỳ 1981-2014 theo chỉ tiêu kết hợp là ngày 15/5 và ngày 13/10

với độ lệch chuẩn lần lượt là 14,1 ngày và 13,6 ngày.

Đặc điểm trường hoàn lưu quy mô lớn

Phân tích đặc điểm của sự vận chuyển ẩm tích phân theo chiều

thẳng đứng và sự tương phản nhiệt độ mực 300 hPa giữa lục địa Á-

Âu và đại dương trong thời kỳ GMMH cho thấy: Ngày bắt đầu

GMMH có liên quan đến sự vận chuyển theo hướng tây nam đầu

tháng 5 xuất phát từ vịnh Bengal đi vào Tây Nguyên và Nam Bộ,

ngày kết thúc GMMH liên quan đến sự chấm dứt nguồn ẩm hướng

tây nam và thay thế bởi nguồn ẩm từ đông bắc tràn vào hai khu vực

vào khoảng đầu tháng 10. Sự sớm lên của GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ có mối quan hệ với sự đảo chiều hướng gió đông

sang tây và sự tương phản giữa lục địa và đại dương sớm lên.

3.3 Sự biến đổi của các chỉ số cực đoan ở khu vực Tây Nguyên và

Nam Bộ

Phân tích đặc điểm thống kê của các chỉ số mưa cực đoan tại

từng trạm trên khu vực Tây Nguyên trong cả năm và trong mùa

GMMH giai đoạn 1981-2014 cho thấy: Sự dao động của các chỉ số

PRCPTOT, SDII trong thời kỳ GMMH tương đồng với cả năm

nhưng với giá trị thấp hơn. Sự dao động của chỉ số RX1 day,

RX5day trong thời kỳ GMMH khá tương đồng với cả năm. R50

14

trong thời kỳ GMMH thấp hơn so với cả năm. CWD trong năm và

trong thời kỳ GMMH tương tự nhau. CDD trong cả năm tương đối

cao, ngược lại CDD trong thời kỳ GMMH rất thấp.

Xem xét xu thế biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong

năm và trong mùa GMMH thông quan hệ số Sen ở Hình 3.12a cho

thấy: Chỉ số RX1day, RX5day, PRCPTOT, SDII có xu thế giảm tại

trạm Đăk Tô và Pleiku nhưng tăng lên trên hầu hết các trạm trong

khu vực Tây Nguyên. Ở Hình 3.12b, R50 trong năm và mùa GMMH

có xu thế tăng mạnh nhất tại trạm Kon Tum và có ý nghĩa thống kê

với mức độ tin cậy 95%, trong khi các trạm còn lại không có xu thế

rõ ràng. WD trong cả năm và mùa GMMH có xu thế tăng nhẹ trên

phần lớn các trạm. CDD trong năm giảm rõ rệt tại hầu hết các trạm.

Hình 3.21a: Hệ số Sen của các chỉ số mưa cực đoan trong năm (trên) và mùa GMMH (dưới) ở khu vực Tây Nguyên thời kỳ 1981-2014

Đối với khu vực Nam Bộ, PRCPTOT và SDII trong thời kỳ

GMMH thấp hơn so với cả năm ở khu vực Nam Bộ. Chỉ số RX1day,

15

RX5day, R50, CWD trong thời kỳ GMMH thay đổi không đáng kể

so với cả năm. Chỉ số CDD trong thời kỳ GMMH thấp hơn rõ rệt so

với CDD cả năm.

Xem xét xu thế biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong

năm và mùa GMMH tại các trạm ở Nam Bộ thông qua hệ số Sen ở

(Hình 3.24) cho thấy: RX1day trong năm và mùa GMMH tăng lên

tại trạm Cần Thơ nhưng giảm ở các trạm còn lại. RX5day trong năm

và trong mùa GMMH không đồng nhất giữa các trạm. SDII trong

năm và trong mùa GMMH thay đổi không đáng kể. PRCPTOT và

WD trong năm và mùa GMMH tăng lên tại Rạch Giá nhưng giảm ở

các trạm còn lại. CDD trong năm tăng tại trạm Cà Mau nhưng giảm

ở hầu hết các trạm còn lại. CDD trong mùa GMMH tăng rõ rệt tại

Cần Thơ và gần như không thay đổi ở các trạm còn lại.

3.4. Mối quan hệ giữa lượng mưa GMMH với thời gian kéo dài

GMMH.

Đối với khu vực Tây Nguyên, tổng lượng mưa mùa mưa và

mùa GMMH có tương quan cao với thời gian kéo dài mùa mưa và

mùa GMMH với hệ số tương quan lần lượt là 0,62 và 0,72. Thời gian

kéo dài mùa GMMH nhìn chung ngắn hơn thời gian kéo dài mùa

mưa trung bình thời kỳ 1981-2014 là 54 ngày.

Đối với khu vực Nam Bộ, tổng lượng mưa mùa mưa và mùa

GMMH có tương quan cao với thời gian kéo dài mùa mưa và mùa

GMMH với hệ số tương quan lần lượt là 0,71 và 0,83. Thời gian kéo

dài mùa GMMH ở Nam Bộ nhìn chung ngắn hơn thời gian kéo dài

mùa mưa trung bình thời kỳ 1981-2014 là 49 ngày.

Tổng lượng mưa mùa mưa/mùa GMHH ở khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ có tương quan cao với ngày bắt đầu mùa

16

mưa/mùa GMMH, với hệ số tương quan khoảng (-0,43 đến -0,55).

CHƯƠNG 4. DỰ TÍNH MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG GMMH THEO

KỊCH BẢN RCP4.5

4.1 Khả năng mô phỏng GMMH từ mô hình khí hậu khu vực RegCM Mô hình RegCM_ERA-Interim mô phỏng ngày bắt đầu

GMMH ở khu vực Tây Nguyên trung bình thời kỳ 1986-2005 là

ngày 28/4 với độ lệch chuẩn là 18,4 ngày, sớm hơn 14 ngày so với

ngày bắt đầu GMMH tính từ số liệu mưa quan trắc và gió tái phân

tích. Ngày kết thúc GMMH là ngày 27/9 với độ lệch chuẩn tương đối

thấp là 7,7 ngày, sớm hơn 1 ngày so với ngày kết thúc GMMH tính

từ số liệu mưa quan trắc và gió tái phân tích.

Đối với khu vực Nam Bộ, Mô hình RegCM_ERA-Interim mô

phỏng ngày bắt đầu GMMH là ngày 13/5 với độ lệch chuẩn là 13,7

ngày, sớm hơn 3 ngày so với ngày bắt đầu GMMH tính toán từ số

liệu mưa quan trắc và gió tái phân tích. Mô hình mô phỏng ngày kết

thúc GMMH ở Nam Bộ sớm hơn 9 ngày. Như vậy có thể thấy, mô

hình có khả năng mô phỏng được ngày bắt đầu và ngày kết thúc

GMMH trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, nhưng sớm hơn so

với tính toán từ số liệu mưa quan trắc và gió tái phân tích.

Để làm rõ sự sớm lên này luận án đánh giá khả năng mô

phỏng lượng mưa và gió vĩ hướng mực 850 hPa trên từng khu vực.

Kết quả cho thấy mô hình mô phỏng tốt được thời gian đổi chiều từ

gió đông sang gió tây và ngược lại trên khu vực Tây Nguyên và Nam

Bộ. Mô hình mô phỏng được biến trình năm của lượng mưa trên hai

khu vực nhưng thiên cao hơn so với quan trắc.

Trên cơ sở đánh giá khả năng mô phỏng lượng mưa và gió

nhận thấy sự thiên cao về lượng mưa là nguyên nhân dẫn đến mô

17

hình mô phỏng ngày bắt đầu và kết thúc GMMH sớm hơn so với kết

quả tính toán từ số liệu quan trắc. Do đó, nghiên cứu đã tiến hành

hiệu chỉnh lượng mưa mô hình RegCM_ERA_Interim và

RegCM_CNRM5 trước khi tính toán ngày bắt đầu và kết thúc

GMMH.

4.2 Dự tính sự biến đổi của hoạt động GMMH ở Tây Nguyên và

Nam Bộ trong tương lai

4.2.1 Hoạt động GMMH thời kỳ cơ sở 1986-2005

Để dự tính được ngày bắt đầu và kết thúc GMMH và các chỉ

số mưa cực đoan trong tương lai, cần xác định ngày bắt đầu và kết

thúc GMMH trrong thời kỳ cơ sở. Kết quả cho thấy (Bảng 4.1):

Bảng 4.1. Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH từ quan trắc và từ mô

hình khí hậu RegCM thời kỳ 1986-2005

Các trường hợp Tây Nguyên Nam Bộ

BĐGM KTGM BĐGM KTGM

Quan trắc 12/5 16/5 11/10 28/9

RegCM_ERA_Interim 28/4 13/5 02/10 27/9

chưa hiệu chỉnh 26/9 RegCM_ERA_Interim 12/5 16/5 1/10

đã hiệu chỉnh 30/9 RegCM_CNRM5 đã 12/5 15/5 9/10

hiệu chỉnh

- Ngày bắt đầu GMMH ở Tây Nguyên và Nam Bộ từ hai bộ số

liệu mô hình đã hiệu chỉnh tương đối phù hợp với ngày bắt đầu

GMMH tính toán từ lượng mưa quan trắc và gió tái phân tích. Đối

với khu vực Tây Nguyên, ngày kết thúc GMMH mô phỏng từ cả hai

mô hình đã hiệu chỉnh khá gần với quan trắc. Đối với khu vực Nam

18

Bộ, mô hình RegCM_ERA_Interim mô phỏng ngày kết thúc GMMH

vẫn thấp hơn so với quan trắc, RegCM_CNRM5 mô phỏng ngày kết

thúc GMMH gần với kết quả tính toán từ số liệu mưa quan trắc và

gió tái phân tích. Trong phần sau, luận án sẽ dùng kết quả mô phỏng

ngày bùng phát và kết thúc GMMH từ mô hình RegCM_CNRM5 là

cơ sở đánh giá sự biến đổi GMMH trong tương lai.

4.2.2 Dự tính biến đổi của hoạt động GMMH

Hình 4.4 biểu diễn ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu

vực Tây Nguyên và Nam Bộ trong tương lai theo kịch bản RCP4.5.

Biến đổi_GMMH_Tây Nguyên_theo kịch bản RCP4.5

Biến đổi_GMMH_Nam Bộ_theo kịch bản RCP4.5

4

8

Ngày bùng phát GMMH

2

Ngàykết thúc GMMH

4

Thời gian kéo dài GMMH

0

0

-2

-4

y à g N

y à g N

-4

Ngày bùng phát GMMH

-6

-8

Ngàykết thúc GMMH

-8

Thời gian kéo dài GMMH

-12

-10

-12

-16

2080-2099

2016-2035

2046-2065

2016-2035

2046-2065

2080-2099

Thời gian

Thời gian

Hình 4.4: Sự biến đổi của ngày bắt đầu và kết thúc, thời gian kéo dài mùa GMMH trên khu vực Tây Nguyên (trái) và Nam Bộ (phải) trong giai đoạn đầu, giữa và cuối thế kỷ 21 theo kịch bản RCP4.5 so với thời kỳ cơ sở 1986-2005

Đối với khu vực Tây Nguyên, ngày bắt đầu GMMH có khả

năng xảy ra sớm hơn trong giai đoạn đầu (1 ngày) và giữa (3 ngày)

và không thay đối trong giai đoạn cuối thế kỷ 21. Xu thế sớm hơn

của ngày bắt đầu GMMH trong giai đoạn đầu thế kỷ 21 có ý nghĩa

thống kê với mức độ tin cậy 95% của kiểm nghiệm Student. Ngày

kết thúc GMMH trong cả ba giai đoạn tương lai có khả năng xảy ra

sớm hơn so với thời kỳ cơ sở.

Đối với khu vực Nam Bộ: ngày bắt đầu GMMH có khả năng

xảy ra sớm hơn trong giai đoạn đầu và giữa thế kỷ, muộn hơn trong

giai đoạn cuối thể kỷ 21. Xu thế muộn hơn này tương đồng với xu

19

thế muộn hơn của ngày bùng phát GMMH trên khu vực Bán đảo

Đông Dương vào cuối thế kỷ 21 theo kịch bản A1B của Inoue và

cộng sự (2011). Ngày kết thúc GMMH có xu thế sớm lên trong cả ba

giai đoạn tương lai. Xu thế sớm lên trong hai giai đoạn đầu có ý

nghĩa thống kê với mức độ tin cậy là 95% của kiểm nghiệm Student.

4.2.3 Sự thay đổi của hoàn lưu trong thời kỳ GMMH

Ngày bắt đầu GMMH trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ

sớm lên trong hai giai đoạn đầu thế kỷ 21 đi cùng với sự vận chuyển

ẩm theo hướng tây nam từ vịnh Bengal vào khu vực sớm lên.

4.3 Dự tính sự biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan trong thời kỳ

GMMH

4.3.1 Khu vực Tây Nguyên

Trong mùa GMMH, PRCPTOT trong giai đoạn đầu không

thay đổi đổi, giảm nhẹ ở giai đoạn giữa, và biến đổi không đồng nhất

tại các trạm trong giai đoạn cuối thế kỷ. Cụ thể PRCPTOT tăng

mạnh tại Đà Lạt và Liên Khương (46%), giảm mạnh tại EakMat và

Buôn Ma Thuột (30%). SDII tại trạm Đà Lạt và Liên Khương tăng

trong giai đoạn giữa và cuối nhưng giảm ở hầu hết các trạm trong cả

ba giai đoạn. RX1day và RX5day giảm ở các trạm phía bắc và tăng ở

các trạm phía nam trong cả ba giai đoạn. WD tại các trạm giảm mạnh

ở giai đoạn cuối thế kỷ (khoảng 10 ngày). R50 tại các trạm trong giai

đoạn đầu và giữa thay đổi không đáng kể, giảm (1-2ngày) trong giai

đoạn cuối.

CDD giảm tại Đà Lạt và Liên Khương nhưng tăng lên ở phần

lớn các trạm trong giai đoạn đầu và giữa, tăng ở hầu hết các trạm

trong giai đoạn cuối thế kỷ. CWD giảm tại các trạm phía bắc trong

giai đoạn đầu (2-4 ngày) và tăng lên ở hầu hết các trạm trong cả ba

20

giai đoạn.

4.3.2 Khu vực Nam Bộ

Trong cả ba giai đoạn đầu, giữa và cuối thế kỷ 21, các chỉ số

PRCPTOT, SDII, WD, R50, CWD đều giảm so với thời kỳ cơ sở

trên toàn khu vực Nam Bộ. Trong đó, mức giảm mạnh nhất của các

chỉ số xảy ra vào giai đoạn cuối thế kỷ 21.

Hai chỉ số RX1day, RX5day tăng tại trạm Tây Ninh trong giai

đoạn đầu thế kỷ 21 nhưng giảm tại tất cả các trạm trong cả ba giai

đoạn. CDD trong cả ba giai đoạn đầu, giữa và cuối thế kỷ 21 đều có

xu thế tăng lên.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Trên cơ sở số liệu mưa quan trắc, gió tái phân tích

NCEP/NCAR, số liệu mưa và gió từ mô hình RegCM_ERA-Interim,

số liệu mô hình RegCM_CNRM5 theo kịch bản RCP4.5 với điều

kiện biên là mô hình CNRM5, luận án đã tính toán xác định mùa

mưa và mùa GMMH trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ trong

thời kỳ 1981-2014, xem xét diễn biến của các chỉ số mưa cực đoan

trong năm và trong cả thời kỳ GMMH; đánh giá khả năng mô phỏng

GMMH từ mô hình RegCM_ERA-Interim, hiệu chỉnh ngưỡng chỉ

tiêu mưa và gió vĩ hướng mực 850 hPa xác định ngày bắt đầu và kết

thúc GMMH để dự tính sự biến đổi ngày bắt đầu và kết thúc

GMMH, thời gian kéo dài mùa GMMH, sự biến đổi của các chỉ số

mưa cực đoan trong thời kỳ GMMH trong tương lai theo kịch bản

nồng độ khí nhà kính trung bình thấp RCP4.5. Từ các kết quả trên,

luận án rút ra một số kết luận.

1) Mùa mưa mùa hè và mùa GMMH trên khu vực Tây Nguyên

21

và Nam Bộ trong thời kỳ 1981-2014 có sự khác nhau:

- Phân tích mùa mưa bằng chỉ số Zhang và ccs (2002) trong

thời kỳ 1981-2014, ngày bắt đầu và kết thúc mùa mưa trên khu vực

Tây Nguyên lần lượt là 20/4 và 31/10 với độ lệch chuẩn lần lượt là

17,4 và 15,7 ngày. Ngày bắt đầu và kết thúc mùa mưa trên khu vực

Nam Bộ lần lượt là ngày 27/4 và 13/11 với độ lệch chuẩn tương ứng

là 20,9 và 14,78 ngày.

- Sử dụng chỉ tiêu kết hợp mưa và gió vĩ hướng mực 850 hPa

để xác định ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ thời kỳ 1981-2014 cho thấy:

+ Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Tây

Nguyên là ngày 13/5 và 30/9 với độ lệch chuẩn lần lượt là 17,8 ngày

và 10,2 ngày. Ngày bắt đầu GMMH đến sớm hơn trong những năm

gần đây với hệ số Sen là -2,5 ngày/ thập kỷ. Ngày kết thúc GMMH

không có xu thế rõ ràng.

+ Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Nam Bộ là

ngày 15/5 và ngày 13/10 với độ lệch chuẩn tương ứng là 14,12 ngày

và 13,55 ngày. Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH xảy ra sớm hơn

trong những năm gần đây với giá trị hệ số Sen lần lượt là -3,3

ngày/thập kỷ và -1,76 ngày/thập kỷ.

+ Tổng lượng mưa mùa mưa và mùa GMMH có tương quan

cao với thời gian kéo dài mùa mưa và mùa GMMH. Thời gian kéo

dài mùa GMMH ở Tây Nguyên, Nam Bộ nhìn chung ngắn hơn thời

gian kéo dài mùa mưa trung bình thời kỳ 1981-2014.

2) Ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ trong thời kỳ 1981-2014 có mối liên hệ với sự

vận chuyển ẩm theo hướng tây nam đi vào khu vực. Sự sớm lên của

22

ngày bắt đầu và kết thúc GMMH có liên quan đến sự đổi chiều sớm

lên của gió vĩ hướng mực 850 hPa và chênh lệch nhiệt độ mực 300

hPa giữa lục địa Á-Âu và đại dương.

- Ở khu vực Tây Nguyên, số ngày không mưa liên tiếp dài

nhất trong thời kỳ GMMH rất thấp nhưng cao trong cả năm. Số ngày

không mưa liên tiếp dài nhất trong năm giảm trên toàn khu vực trong

khi số ngày mưa liên tiếp dài nhất trong năm tăng lên ở phần lớn các

trạm. Tổng lượng mưa của những ngày có mưa (PRCPTOT), cường

độ mưa (SDII), lượng mưa lớn nhất 1 ngày (RX1day), lượng mưa 5

ngày liên tiếp lớn nhất (RX5day) giảm tại Đăk Tô, Pleiku nhưng tăng

lên trên hầu hết các trạm trong cả năm và thời kỳ GMMH. Ở Nam

Bộ, xu thế biến đổi của các chỉ số mưa cực đoan không đồng nhất

giữa các trạm, tuy nhiên xu thế giảm vẫn chiếm phần lớn các trạm

trong năm và trong thời kỳ GMMH.

3) Mô hình RegCM sau khi hiệu chỉnh có khả năng mô phỏng

tốt ngày bắt đầu GMMH trong thời kỳ cơ sở. Mô phỏng ngày kết

thúc GMMH sớm hơn so với kết quả tính toán từ số liệu mưa quan

trắc và gió tái phân tích.

4) Trên cơ sở đánh giá khả năng mô phỏng ngày bắt đầu và kết

thúc GMMH trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, luận án dự tính

sự biến đổi của ngày bắt đầu và kết thúc GMMH trên khu vực Tây

Nguyên và Nam Bộ trong tương lai, sự biến đổi của các chỉ số mưa

cực đoan trong tương lai theo kịch bản RCP4.5.

- Trong thời kỳ cơ sở (1986-2005), ngày bắt đầu GMMH trên

khu vực Tây Nguyên xảy ra vào ngày 12/5 và kết thúc vào ngày

30/10, thời gian kéo dài mùa GMMH trung bình cả thời kỳ là 142

ngày. Đối với khu vực Nam Bộ, ngày bắt đầu và kết thúc GMMH lần

23

lượt là 15/5 và 09/10, thời gian kéo dài mùa GMMH là 148 ngày.

- Ở khu vực Tây Nguyên, ngày bắt đầu GMMH đến sớm hơn

trong giai đoạn đầu và giữa thế kỷ, muộn hơn trong giai đoạn cuối,

ngày kết thúc GMMH đến sớm hơn trong cả ba giai đoạn tương lai.

Xu thế sớm lên của ngày bắt đầu GMMH giai đoạn đầu có ý nghĩa

thống kê với mức độ tin cậy 95%.

- Ở khu vực Nam Bộ, ngày bùng GMMH đến sớm hơn trong

giai đoạn đầu và giữa và muộn hơn trong giai đoạn cuối thế kỷ 21.

Ngày kết thúc GMMH đến sớm hơn trong cả ba giai đoạn tương lai.

Xu thế sớm lên của ngày kết thúc GMMH ở giai đoạn đầu và giữa

thế kỷ 21 có ý nghĩa thống kê với mức độ tin cậy là 95%.

- Trong thời kỳ GMMH, ở khu vực Tây Nguyên, các chỉ số

mưa cực đoan có xu thế giảm ở phần lớn các trạm trong giai đoạn

cuối thế kỷ 21. Riêng số ngày không mưa liên tiếp cực đại tăng lên

hầu hết các trạm trong giai đoạn cuối thế kỷ 21. Ở khu vực Nam Bộ,

hầu hết các chỉ số mưa cực đoan giảm tại tất cả các trạm trong cả ba

giai đoạn của thế kỷ 21. Tuy nhiên, số ngày không mưa liên tiếp cực

đại tăng lên trong cả ba giai đoạn, tăng mạnh nhất ở giai đoạn giữa

thế kỷ.

Kiến nghị

Nghiên cứu của luận án mới chỉ dừng lại ở một mô hình khí

hậu khu vực RegCM4.3, trong tương lai cần sử dụng nhiều mô hình

khí hậu khu vực hơn để nghiên cứu ngày bắt đầu và kết thúc

GMMH, các chỉ số mưa cực đoan trong tương lai trên khu vực Tây

24

Nguyên và Nam Bộ.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Ngô Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Thanh Huệ, Vũ Thanh

Hằng, Ngô Đức Thành (2013), “Nghiên cứu ngày bắt đầu mùa

mưa trên khu vực Việt Nam thời kỳ 1961-2000”, Tạp chí đại

học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, Số 2S, tr. 72-80.

2. Ngo Thi Thanh Huong, Thanh Ngo-Duc, Hanh Nguyen-Hong,

Peter Baker, Tan Phan-Van (2017), “A distinction between

summer rainy season and summer monsoon season over the

Central Highlands of Vietnam”, Theoretical and Applied

Climatology, doi: 10.1007/s00704-017-21786.

3. Ngo Thi Thanh Huong, Hang Vu-Thanh (2017), “A study on

summer monsoon season and rainfall characteristics in summer

monsoon season over the Southern Vietnam in the period 1981-

2014”, Book of abtracts, The International Conference on

Research Development and Cooperation in Geophysics Hanoi,

October 18-22, pp 23.

4. Ngo Thi Thanh Huong, Hue Nguyen-Thanh, Hang Vu-Thanh,

Thanh Ngo-Duc (2013), “A study on rainy season onset dates

over Vietnam for the period 1951-2007 using the

APHRODITE”, MAHASRI workshop, 23-26/August, 2013, Da

Nang, VietNam, pp. 201-208.

5. Ngô Thị Thanh Hương, Ngô Đức Thành, Nguyễn Thị Hồng

Hạnh (2015), “Phân tích đặc điểm mùa mưa và mùa gió mùa

trên khu vực Tây Nguyên và khả năng dự báo”, Tuyển tập hội

thảo khoa học Khí tượng cao không lần thứ VIII, tr. 16-12, 389-

25

394.