TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
BIẾN ĐỔI TRONG TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA, TỈNH
LÀO CAI
Mã số: DTSV.02.2021
Chủ nhiệm đề tài
: Đỗ Cẩm Anh
Lớp
: 1805QLVA
Cán bộ hướng dẫn : Th.s Trần Thị Phương Thúy
Hà Nội, tháng 5 năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm tác giả xin cam đoan đề tài: “Biến đổi trong trang phục
truyền thống của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai” là kết
quả mà nhóm tự khảo sát, nghiên cứu và viết báo cáo, các nội dung
nghiên cứu khoa học là trung thực, trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc
cũng như trong phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2021
Chủ nhiệm đề tài
Đỗ Cẩm Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu khoa học, nhóm đề tài đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của Sở Văn hóa Thể thao & Du
lịch tỉnh Lào Cai, phòng Văn hóa Thông tin, Trung tâm Văn hóa – Thông
tin, Thể thao thị xã Sa Pa, các gia đinh người H’mông đen trên địa bàn đã
cung cấp thông tin, tạo điều kiện giúp đỡ để hoàn thành đề tài nghiên cứu
khoa học này. Trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của quý
cơ quan, ban ngành và toàn thể gia đình, bạn bè trong suốt quá trình hoàn
thành đề tài nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần
Thị Phương Thúy, là người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ và
động viên nhóm tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng song không thể tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong thầy giáo, cô giáo cùng toàn thể bạn bè góp ý để
đề tài hoãn thiện hơn.
Xin kính chúc quý thầy, cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp
đào tạo những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai.
Xin trân trọng cảm ơn!
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT NGHĨA ĐẦY ĐỦ
1 UBND Ủy ban Nhân dân
2 HĐND Hội đồng Nhân dân
3 UBMTTQ Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
4 NQ Nghị quyết
5 QĐ-UB Quyết định-Ủy ban
6 QH Quốc Hội
7 QĐ-TT Quyết định-thông tư
8 QĐ - BVHTT Quyết định- Bộ Văn hóa Thông tin
9 TP Thành Phố
10 TTHH Trách nhiệm hữu hạn
11 BQL Ban quản lý
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................. 1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................3
4. Giả thuyết khoa học......................................................................................4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................4
7. Đóng góp mới của đề tài.............................................................................. 5
8. Nội dung đề tài............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
VÀ VỀ NGƯỜI H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI........... 6
1.1. Khái quát về trang phục truyền thống.......................................................6
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................... 6
1.1.1.1. Trang phục.......................................................................................6
1.1.1.2. Trang phục truyền thống................................................................. 7
1.1.1.3. Biến đổi văn hóa..............................................................................8
1.1.2. Đặc điểm của trang phục truyền thống.............................................. 8
1.2. Khái quát về thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai..................................................... 9
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên...................................................... 9
1.2.2. Dân cư...............................................................................................11
1.2.3. Kinh tế.............................................................................................. 12
1.2.4. Văn hóa, xã hội.................................................................................13
1.3. Tổng quan về người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.............. 14
1.3.1. Khái quát về tộc người H’mông.......................................................14
1.3.2. Khái quát vể tộc người H’mông ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai..........15
1.3.3. Đặc điểm dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhóm người
H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai................................................... 15
Tiểu kết chương 1...........................................................................................16
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG VÀ
NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI
H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI......................................18
2.1. Trang phục truyền thống của người H’mông đen ở Sa Pa..................... 18
2.1.1. Chất liệu trang phục truyền thống....................................................18
2.1.2. Quy trình sản xuất ra bộ trang phục truyền thống........................... 19
2.1.2.1. Quy trình sản xuất vải lanh........................................................... 19
2.1.2.2. Quy trình in sáp ong...................................................................... 23
2.1.2.3. Quy trình cắt may thành phẩm......................................................24
2.1.3. Kiểu dáng trang phục....................................................................... 25
2.1.3.1. Trang phục truyền thống nam....................................................... 25
2.1.3.2. Trang phục truyền thống nữ..........................................................27
2.1.3.3. Trang phục của trẻ em...................................................................30
2.1.4. Cách sử dụng trang phục..................................................................32
2.1.4.1. Trang phục trong cưới xin.............................................................32
2.1.4.2. Trang phục trong ma chay............................................................ 33
2.1.4.3. Trang phục trong lễ hội................................................................. 35
2.2. Những biến đổi trong trang phục truyền thống của người H’mông
đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai......................................................................36
2.2.1. Biến đổi về chất liệu.........................................................................36
2.2.2. Biến đổi về cách tạo trang phục....................................................... 37
2.2.3. Biến đổi về nghệ thuật trang trí........................................................39
2.2.4. Biến đổi về phụ kiện và đồ trang sức...............................................40
2.2.5. Biến đổi về sử dụng trang phục....................................................... 40
2.2.5.1. Trang phục hàng ngày...................................................................41
2.2.5.2. Trang phục trong đám cưới...........................................................41
2.2.5.3. Trang phục trong lễ hội................................................................. 42
2.2.6. So sánh biến đổi trong trang phục của người H’mông đen với
người H’mông khác....................................................................................43
2.3. Nguyên nhân của sự biến đổi trong trang phục truyền thống của
người H’mông đen thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai................................................44
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan.....................................................................44
2.3.2. Nguyên nhân khách quan................................................................. 45
Tiểu kết chương 2...........................................................................................46
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA TRANG PHỤC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRANG
PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ
SA PA TỈNH LÀO CAI......................................................................................47
3.1. Ý nghĩa của trang phục truyền thống của người H’mông đen............... 47
3.1.1. Phản ánh tư duy kỹ thuật thủ công...................................................47
3.1.2. Phản ánh mỗi quan hệ của người H’mông với môi trường
sống.............................................................................................................47
3.1.3. Phản ánh đời sông kinh tế xã hội của người H’mông..................... 48
3.1.4. Là sản phẩm văn hóa tạo nên đặc trưng văn hóa.............................49
3.1.5. Mang giá trị thẩm mĩ........................................................................50
3.2. Xu hướng biến đổi trang phục truyền thống của người H’mông
đen ở Thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.................................................................... 51
3.3. Những giải pháp góp phần giữ gìn trang phục truyền thống của
người H’mông đen......................................................................................... 52
3.3.1. Những vấn đề đặt ra......................................................................... 52
3.3.2. Những giải pháp bảo tồn trang phục truyền thống.......................... 54
3.3.2.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân về giá trị
của bộ trang phục truyền thống H’mông đen............................................ 54
3.3.2.2 Giảng dạy cho thế hệ trẻ về nét đẹp và giá trị của bộ trang
phục truyền thống H’mông đen..................................................................56
3.3.2.3. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, giữ gìn nét đẹp và phát huy giá
trị của bộ trang phục truyền thống H’mông đen trên địa bàn....................57
3.3.2.4. Quảng bá rộng rãi và tạo điều kiện để đưa bộ trang phục
truyền thống vào ngành du lịch..................................................................59
3.3.2.5. Thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn hoặc cuộc thi về
trang phục truyền thống của dân tộc thiểu số............................................ 61
3.3.2.6. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa ở địa phương.......63
Tiểu kết chương 3...........................................................................................64
KẾT LUẬN..........................................................................................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................67
PHỤ LỤC ............................................................................................................70
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để
chúng ta nhận biết một dân tộc. Trang phục không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ cơ
thể và làm đẹp cho con người mà trang phục còn mang dấu ấn xã hội. Trang
phục chỉ ra nguồn gốc và bản sắc văn hóa của dân tộc đó, cũng là cơ sở là nguồn
tư liệu góp phần nghiên cứu trật tự xã hội của cộng đồng tộc người nào đó.
Dân tộc H’mông là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H’mông sinh sống ở Việt Nam có khoảng 80
vạn người thuộc nhóm ngôn ngữ: H’mông – Dao và được chia ra làm các ngành:
H’mông trắng (Môngz Đơư), H’mông hoa (Môngz Lênhs), H’mông đen (Môngz
Đuz), H’mông xanh (Môngz Dua), Người ta phân biệt được các ngành là do
trang phục của họ. Trang phục của cả nam và nữ dân tộc H’mông đều là do đôi
bàn tay khéo léo của người phụ nữ làm ra. Với sự cần cù và trí tưởng tượng
phong phú, người phụ nữ H’mông đã trở thành người nghệ sĩ tạo nên những tác
phẩm nghệ thuật đặc biệt.
Người H’mông đen ở Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai cũng vậy, qua bao đời nay
trang phục của họ đã trở thành giá trị văn hóa, mang dấu ấn xã hội và có nhiều ý
nghĩa sâu sắc. Tuy vậy, trong bối cảnh giao lưu văn hóa trang phục và cách sử
dụng trang phục truyền thống bị tác động làm cho biến đổi rất nhiều. Để góp
phần vào việc bảo tồn các giá trị văn hóa của tộc người thiểu số trong đó có
trang phục của Người H’mông đen, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài “Biến đổi
trong trang phục truyền thống của người H'mông đen ở thị xã Sa Pa, tỉnh
Lào Cai” để nghiên cứu khảo sát chỉ ra nhưng nguyên nhân, từ đó đề xuất giải
pháp giữ gìn giá trị truyền thống trang phục này trước nguy cơ mai một.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và văn hóa dân tộc
1
H’mông nói riêng luôn là đề tài hấp dẫn thu hút nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
đi sâu nghiên cứu. Các học giả, nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn chuỗi góc
độ lịch sử, văn hóa, khảo cổ, kinh tế, dân tộc học, mĩ học, kĩ thuật đã đề cập đến
nội dung liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến trang phục. Các học giả đã nhận
ra vai trò của trang phục trong nghiên cứu lịch sử tộc người, điều đó được thể
hiện qua một số công trình:
Dân tộc Mèo – các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của
Bế Viết Đẳng – là những nghiên cứu bước đầu về tộc người H’mông với nguồn
gốc lịch sử, tên gọi; đời sống vật chất và tinh thần của họ.
Dân tộc H’mông ở Việt Nam của tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam -
Trong công trình này, hai tác giả đã giải thích và đặt lại tên gọi người H’mông là
“Mông” (Không có tiết tố H) và cung cấp một cách hệ thống các sinh hoạt văn
hoá, trong đó có nhiều phong tục, tập quán của người H’mông
Tập tục chu kỳ đời người của các dân tộc người - ngôn ngữ Mông - Dao ở
Việt Nam đó lý giải về phong tục tập quán trong chu kỳ đời người bao gồm các
tục liên quan đến sinh đẻ và nuôi con, tập tục đánh dấu sự trưởng thành, tập tục
trong cưới xin, ma chay…
Văn hoá tâm linh của người H’mông ở Việt Nam - Truyền thống và hiện
đai của tác giả Vương Duy Quang đó giúp chúng ta hiểu rừ hơn văn hoá tâm
linh của người H’mông ở Việt Nam, sự biến đổi của nó ra sao qua thời gian và
những biến cố trong lịch sử, nhất là giai đoạn gần đây khi Việt Nam đang thực
thi chính sách đổi mới và đang chịu tác động mạnh mẽ của những xáo động trên
thế giới và khu vực như hội nhập và phát triển, toàn cầu hoá;
Dân ca Mèo của tác giả Doãn Thanh, đã tập trung nghiên cứu về các thể
loại dân ca của người H’mông, trong đó nổi bật nhất là phần “Tiếng hát làm
dâu” đã giúp người đọc hiểu biết rõ hơn về phong tục, tập quán của người
H’mông.
Văn hoá dân tộc H’mông Hà Giang của Trường Lu và Hùng Đình Quý,
2
Đời sống văn hoá dân tộc Mông tỉnh Hà Giang từ năm 2000 đến nay, luận văn
thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hòa, đó khái quát nguồn gốc, dân số, kinh tế
truyền thống, đời sống vật chất, sinh hoạt tinh thần, quan hệ xó hội của người
H’mông ở Hà giang đồng thời cũng đánh giá thực trạng đời sống văn hoá của
đồng bào H’mông ở Hà Giang từ năm 2000 đến 2006.
Văn hoá người H’mông ở Nghệ An của tác giả Hoàng Xuân Lương cho
chúng ta thấy các đặc trưng văn hoá đặc sắc, độc đáo của người H’mông trên địa
bàn tỉnh Hà Giang, Nghệ An…
- Viện Dân tộc học Việt Nam đã viết cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt
Nam” hay những bài viết trên tạp chí, văn hóa dân gian, các nghiên cứu văn hóa
nghệ thuật, dân tộc học.
- Tác giả Diệp Trung Bình đã viết cuốn “Hoa văn trên vải dân tộc
H’mông”, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Thời gian gần đây có một số công trình nghiên cứu riêng về trang phục
như: Tác giả Ngô Đức Thịnh với bài viết “Trang phục cổ truyền các dân tộc
Việt Nam”.
Đây là nguồn tư liệu tốt, gợi mở quan trọng về lý luận và thực tiễn để
nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài: “Biến đổi trong trang phục truyền
thống của người H'mông đen ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát, tìm hiểu về trang phục truyền thống và sự biến đổi trong trang
phục của người của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai. Qua đó đề
xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa của trang phục truyền
thống người H’mông đen trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về văn hóa trang phục, văn hóa tộc người.
3
- Khảo sát, tìm hiểu về trang phục và những biến đổi trong trang phục tại
của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị trong trang phục
truyền thống của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
4. Giả thuyết khoa học
Tìm hiểu về sự biến đổi trong trang phục truyền thống của người H’mông
đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai là nhiệm vụ quan trọng trong công tác bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiện cứu
Khảo sát trang phục truyền thống và những biến đổi trong trang phục của
người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trang phục truyền thống của dân tộc H’mông đen
ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi thời gian: Khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2015 – 2020.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp được áp dụng trong chuyến đi thực tế của chúng em.
Phương pháp này đem lại những luận cứ thực tiễn cho đề tài, tài liệu cụ thể,
những minh chứng sống động nhất từ thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp để so sánh sự thay đổi trong cách làm ra một bộ trang phục
truyền thống của người H’mông đen xưa và nay. So với ngay nay trang phục đã
bị biến đổi như nào để từ đó đưa ra phương pháp để giữ gìn, bảo tồn nét đẹp
trang phục truyền thống nhưng vẫn phù hợp với thời đại.
4
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được chúng tôi sử dụng để nghiên cứu
cơ sở lý luận về trang phục người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Phương pháp này bao gồm các giai đoạn như sau: phân tích, tổng hợp, so sánh,
hệ thống hóa lý thuyết cũng như nghiên cứu các đề tài nghiên cứu của các tác
giả khác. Trên cơ sơ các công trình nghiên cứu đó, tiếp thu, kế thừa các thông
tin có liên quan để đưa ra giải pháp hữu hiệu nhất.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Làm rõ những nét giá trị văn hóa của trang phục truyền thống dân tộc
Hmông đen ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Chỉ ra những biến đổi trang phục hiện nay của dân tộc H’mông đen.
- Đề xuất một số các biện pháp có tính khả thi góp phần bảo tồn trang
phục truyền thống.
- Đề tài là tư liệu để tham khảo cho sinh viên ngành Quản lý văn hóa.
8. Nội dung đề tài
Chương 1: Khái quát về trang phục truyền thống và về người H’mông đen
ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Chương 2: Nhận diện trang phục truyền thống và những biến đổi trong
trang phục của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Chương 3: Ý nghĩa của trang phục và những vấn đề đặt ra nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị trang phục truyền thống của người H’mông đen ở thị xã Sa
5
Pa tỉnh Lào Cai
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
VÀ VỀ NGƯỜI H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI
1.1. Khái quát về trang phục truyền thống
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Trang phục
Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu và đưa khái niệm về trang phục. Tác
giả Lê Ngọc Thắng cho rằng: “Trang phục gồm y phục (khăn, áo, nón, váy,
quần...) và đồ trang sức (trâm, vòng cổ, hoa tai, vòng tay, xà tích...) [23, tr.6]
hoặc cụ thể hơn: “Trang phục là cách ăn mặc của con người. Mỗi một thành
phần dân tộc trên đất nước ta có một nếp sống văn hóa đặc thù nên cách ăn mặc
cũng phản ánh những sắc thái phong phú, đa dạng đó” [24, tr.16].
Tác giả Trần Thị Thu Thủy đã đưa ra khái niệm “trang phục” gắn với
chức năng và của nó: ‘‘Trang phục là những phương tiện vật chất bao gồm y
phục, trang sức được con người sử dụng trong sinh hoạt, lao động sản xuất,
chiến đấu và các hoạt động văn hóa xã hội khác; thể hiện cách ứng xử văn hóa
trong mối quan hệ của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
nhằm thỏa mãn các chức năng: sinh học, xã hội và thẩm mỹ của con người” [25,
tr.48]. Tác giả Nguyễn Anh Cường cho thấy: “Trang phục bao gồm y phục và
trang sức, là cách thể hiện ăn mặc của mọi con người và của mỗi dân tộc. Mỗi
dân tộc đều có những nét văn hóa mang tính đặc thù mà bộ trang phục cổ truyền
là một trong những khía cạnh thể hiện rõ nét nhất tính tộc người” [26, tr.22]. Tác
giả Võ Thị Mai Phương cũng khẳng định rằng trang phục gồm y phục và trang
sức: “Trang phục bao gồm y phục và trang sức của một tộc người cụ thể. Trang
phục là những vật thể cụ thể, song nó còn chứa đựng nhiều thông tin văn hóa
mang bản sắc tộc người” [27, tr.12-13].
Qua những cách khái niệm về trang phục ở trên có thể thấy, mỗi nhà khoa
học có góc nhìn khác nhau nhưng cơ bản là thống nhất theo nhận định của Lê
6
Ngọc Thắng ở chỗ trang phục bao gồm y phục và trang sức:
+ Y phục bao gồm khăn, áo, nón, váy, quần... Do đó, y phục là bộ phận
quan trọng nhất trong bộ trang phục, bao gồm những đồ để mặc như khăn, áo,
quần, váy... Chẳng hạn, áo dùng để che phần trên của cơ thể; quần để che phần
dưới của cơ thể tính từ bụng trở xuống, có hai ống để che hai chi dưới; váy để
che phần dưới của cơ thể từ bụng trở xuống, không chia thành hai ống như quần;
yếm để che phần ngực của phụ nữ nên có lúc gọi là áo ngực... Liên quan đến y
phục, còn có các từ ngữ như xiêm y (váy áo), y quan (áo mũ), nội y (đồ mặc lót
bên trong)...
+ Trang sức gồm trâm, vòng cổ, hoa tai, vòng tay, xà tích... Như vậy,
trang sức được hiểu là những phụ kiện trang trí được mang trên cơ thể con người,
với mục đích sử dụng rất phong phú. Con người có thể dùng trang sức với quan
niệm để làm đẹp, cũng có thể dùng theo quan niệm dân gian như bảo vệ sức
khỏe, chống tà ma,... Chất liệu và trang trí hoa văn trên trang sức thể hiện trình
độ kỹ thuật, mỹ thuật của tộc người ở từng thời kỳ. Trang sức được coi là yếu tố
văn hóa vật chất, nên được nghiên cứu đi kèm với y phục.
+ Bên cạnh đó, còn có những phụ kiện đi kèm theo y phục được hiểu là
những đồ để làm tăng vẻ đẹp hay tăng giá trị của y phục. Đó là đồ để đội như
mũ, nón, khăn... để đi như giày, dép, ủng, tất,...
1.1.1.2. Trang phục truyền thống
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, truyền thống là
thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế
hệ này sang thế hệ khác [28, tr.1053]. Vì vậy, khái niệm trang phục truyền thống
trong có thể hiểu là các thành tố của bộ y phục và các đồ trang sức được tộc
người tạo ra và sử dụng đã lâu đời, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác,... Như vậy, trang phục truyền thống hiện nay được hiểu là trang phục
truyền thống còn được duy trì, bảo lưu trong bối cảnh hiện tại, bao gồm: Trang
phục truyền thống nguyên bản, tức trang phục đó được gìn giữ và trao truyền
qua nhiều thế hệ mà hiện nay vẫn đang tồn tại. Trang phục dạng truyền thống,
7
nghĩa là trang phục đó đã có sự biến đổi nhưng chưa thay đổi hẳn, nên vẫn giữ
được những điểm cơ bản so với bộ truyền thống nguyên bản về kiểu dáng các
thành tố, các màu sắc.
Trong khi Âu phục đã dần dần chiếm ưu thế trên toàn cầu, quốc phục
được duy trì là trang phục đặc biệt dùng vào những ngày lễ liên quan đến truyền
thống văn hóa hoặc những dịp mang tính cách trang nghiêm, trịnh trọng. Trong
khi trang phục truyền thống có thể bao gồm nhiều loại quần áo từ người nhà quê
đến bậc vương giả nhưng quốc phục là trang phục trang trọng nhất của thường
dân dành cho các dịp khánh tiết.
1.1.1.3. Biến đổi văn hóa
Có nhiều cách hiểu khác nhau về biến đổi văn hóa. Hiểu một cách rộng
nhất, biến đổi văn hóa có thể hiểu là: một sự thay đổi so với một tình trạng văn
hóa hoặc một nền văn hóa có trước dưới những tác động của những nhân tố
chính trị - kinh tế - xã hội. Trong một phạm vi hẹp hơn, người ta cho rằng sự
biến đổi văn hóa được đề cập đến là sự biến đổi về cấu trúc của văn hóa, về các
thành tố của văn hóa và các giá trị văn hóa. Và sự biến đổi này ảnh hưởng sâu
sắc đến phần lớn các thành viên của một xã hội. [21, tr.36]
“Biến đổi văn hoá bao hàm những sự chia sẻ, những sự biến đổi tương
đối lâu dài của những mô hình ứng xử và niềm tin văn hoá. Nhìn ở khía cạnh
lịch sử, xã hội nào cũng biểu lộ những sự biến đổi, cũng trộn lẫn những sự tiếp
nối và biến đổi” [22, tr.65-66].
1.1.2. Đặc điểm của trang phục truyền thống
Trang phục nói riêng là một nhu cầu vật chất quan trọng trong đời sống
của nhân dân ta. Với tính chất thực dụng, nó là một sản phẩm. dưới góc độ thẩm
mỹ, nó lại là một tác phẩm. Chức năng cơ bản trước nhất của nó là bảo vệ con
người. Về mặt này, trang phục dân tộc Việt đã đạt được hiệu quả cao.
Sự xuất hiện của trang phục đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức
của con người. Lúc đầu trang phục chỉ là nhu cầu bảo vệ cơ thể, che nóng, che
8
lạnh. Dần dần, trang phục trở thành nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu làm đẹp của con
người. Trang phục thể hiện nghề nghiệp, đẳng cấp, phong tục, tập quán, tôn giáo,
lễ nghi. Trang phục liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống như: địa lý, lịch
sử, kinh tế, môi trường văn hóa. Chính vì thế, trong mỗi giai đoạn lịch sử, trang
phục lại có những biến đổi, cách tân cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và đời
sống sinh hoạt của con người.
Bên cạnh đó, trang phục truyền thống còn có một số các đặc trưng khác
để phân biệt 54 dân tộc anh em trên cả nước và thị hiếu của từng vùng. Đứng ở
góc độ văn hóa tinh thần, trang phục còn có ý nghĩa về ý thức chính trị, về đạo
đức con người, về quan niệm thẩm mỹ...
Trang phục của các dân tộc Việt Nam hết sức phong phú và đa dạng, và
mỗi trang phục lại mang những nét độc đáo và đặc trưng riêng cho từng vùng,
từng miền, chẳng hạn ở vùng thấp miền núi, các dân tộc sống trên những nếp
nhà sàn thường mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô-típ hoa văn mô
phỏng hoa rừng, thú rừng. Ở vùng núi, cao nguyên phụ nữ thường mặc váy, nam
giới đóng khố... Song nhìn chung trang phục của các dân tộc được trang trí hoa
văn sặc sỡ hài hoà về màu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận
cho lao động trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo dốc.
Cùng với những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ
của các thiếu nữ dân tộc tạo ra thì những bộ đồ trang sức như các loại hoa tai,
vòng tay, vòng cổ bằng đồng, bạc, dây cườm không thể thiếu được trong trang
phục của người dân tộc.
1.2. Khái quát về thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Sa Pa là một thị xã vùng cao thuộc tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Nơi đây ẩn
chứa nhiều điều kỳ diệu của tự nhiên, có cảnh sắc thơ mộng và hấp dẫn từ cảnh
quan đất trời.
Tối 28/12/2019, UBND tỉnh Lào Cai tổ chức Lễ công bố Nghị quyết của
9
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thị xã Sa Pa dưới sự chứng kiến
của đông đảo người dân và du khách.
Thị xã Sa Pa tiền thân là thị trấn Sa Pa khởi thủy từ năm 1994. Sau 25
năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, Sa Pa đạt được những kết quả rất
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Ngày 11/9/2019 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số
767 về việc thành lập thị xã Sa Pa và các phường, xã thuộc thị xã Sa Pa, trên cơ
sở giữ nguyên toàn bộ 681,37 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 81.857
người của huyện Sa Pa cũ.
Sau khi thành lập, thị xã Sa Pa sẽ còn lại 16 đơn vị hành chính cấp xã bao
gồm 10 xã và 6 phường, giảm 2 đơn vị hành chính so với hiện tại.
Thị xã Sa Pa nằm ở phía tây tỉnh Lào Cai, nằm trong toạ độ địa lý
22°20′8″B 103°50′31″Đ
Có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Bảo Thắng và thành phố Lào Cai
Phía tây giáp huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu
Phía nam giáp huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu và huyện Văn Bàn
Phía bắc giáp huyện Bát Xát.
Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, thị xã Sa Pa có diện tích tự nhiên
682,37km2, với độ cao trung bình khoảng 1.500 m – 1.800 m so với mực nước
biển, cách thành phố Lào Cai 33 km và 317 km tính từ Hà Nội. Ngoài con
đường chính từ thành phố Lào Cai, để tới Sa Pa còn một tuyến giao thông khác,
quốc lộ 4D nối từ xã Bình Lư, Tam Đường, Lai Châu
Sa Pa nằm trên một mặt bằng ở độ cao 1.500 đến 1.650m ở sườn núi Lô
Suây Tông. Đỉnh của núi này có thể nhìn thấy ở phía đông nam của Sa Pa, có độ
cao 2.228m. Từ trung tâm thị xã nhìn xuống có thung lũng Ngòi Đum ở phía
đông bắc và thung lũng Mường Hoa ở phía đông nam.
10
Tại ngã ba ranh giới phía Tây của thị xã Sa Pa với các huyện Tam Đường
và Tân Uyên, trên địa bàn xã Hoàng Liên là ngọn núi Phan Xi Păng - nóc nhà
của Đông Dương, cao gần 3.143m. Do ảnh hưởng của các yếu tố địa hình, địa
mạo phức tạp, bị chia cắt mạnh và với vị trí địa lý đặc biệt nên khí hậu Sa Pa có
các đặc trưng cơ bản sau:
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 15 - 40C, nhiệt độ trung bình
từ 18 - 20C vào tháng mùa hè, vào các tháng mùa đông 10 - 12C. Nhiệt độ tối
cao tuyệt đối 33C vào tháng 4, ở các vùng thấp. Nhiệt độ xuống thấp nhất từ
tháng 2 năm sau, thấp nhất vào tháng 1 là 0C (cá biệt có những năm xuống tới -
3,20 C). Tổng tích ôn trong năm từ 7.500 - 7.8000C. Tuy nhiên do đặc điểm địa
hình của các khu vực khác nhau nên tạo ra các vùng sinh thái khác nhau và có
nhiệt độ khác nhau trong cùng một thời điểm.
Độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối bình quân hàng năm từ 85 - 90%, độ
ẩm thấp nhất vào tháng 4 khoảng 65% - 70%. Do sương mù nhiều, càng lên cao
càng dày đặc, đặc biệt trong những thung lũng kín và khuất gió khí hậu ẩm ướt
hơn các khu vực khác.
Lượng mưa: Lượng mưa bình quân hàng năm khoảng 2.762 mm, cao nhất
3.484 mm và phân bố không đều qua các tháng, mưa cũng phụ thuộc vào địa
hình từng khu vực, càng lên cao mưa càng lớn. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 10, chiếm khoảng 80% lượng mưa cả năm. Các tháng ít mưa có lượng
mưa trung bình từ 50 - 100 mm/tháng. Mưa đá hay xảy ra vào các tháng 2, 3, 4
và không thường xuyên trong các năm.
1.2.2. Dân cư
Theo thống kê năm 2019, thị xã Sa Pa có diện tích 681,37 km², dân số là
65.695 người, mật độ dân số đạt 96 người/km².
Đây là nơi sinh sống của dân cư 6 dân tộc Kinh, H'mông, Dao đỏ, Tày,
Giáy, Xá Phó (Phù Lá). Tỉ lệ các dân tộc H'mông chiếm 51,65%, Dao chiếm
23,04%, Kinh chiếm 17,91%, Tày chiếm 4,74%, Giáy chiếm 1,36%, Phù Lá
11
chiếm 1,06%, Hoa và các dân tộc khác chiếm 0,23%,... Các đồng bào dân tộc cư
trú ở 17 xã, sống chủ yếu bằng nông nghiệp, nghề rừng và những ngành nghề
thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, mây tre đan… Mặc dù phần lớn cư dân
Sa Pa là những người dân tộc thiểu số, nhưng khu vực trung tâm thị xã lại tập
trung chủ yếu những người Kinh sinh sống bằng nông nghiệp và dịch vụ du lịch.
Các dân tộc ở Sa Pa đều có những lễ hội văn hóa mang nét đặc trưng:
Hội Roóng pọc của người Giáy vào tháng giêng âm lịch.
Hội Sải sán (đạp núi) của người H'mông.
Lễ tết nhảy của người Dao diễn ra vào tháng tết hàng năm.
Những ngày chợ phiên ở Sa Pa nhộn nhịp vào tối thứ bảy và kéo dài đến
chủ nhật hàng tuần. Chợ Sa Pa có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách từ
phương xa tới. Người ta còn gọi nó là "chợ tình Sa Pa" vì ở đây nam nữ thanh
niên người dân tộc H'mông, Dao đỏ có thể nhờ âm thanh của khèn, sáo, đàn môi,
kèn lá hay bằng lời hát để tìm hay gặp gỡ bạn tình.
1.2.3. Kinh tế
Trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, Sa Pa đã có nhiều biến đổi
sâu sắc. Là một vùng đất từ nền nông nghiệp lạc hậu độc canh thuần nông, tự
cung, tự cấp dần trở thành một huyện có nền kinh tế phát triển tương đối toàn
diện theo hướng du lịch và dịch vụ - Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản – Công nghiệp
và xây dựng.
Cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng
sản xuất hàng hoá. Các vùng chuyên canh được hình thành, sản xuất hàng hóa
phát triển, sản lượng lương thực ngày một tăng. Cơ sở hạ tầng được quan tâm
xây dựng, đường giao thông liên thôn, liên xã được mở mang, trụ sở, trạm xá,
trường học từ thị trấn đến nông thôn đầu được xây dựng khang trang.
Với thế mạnh của Sa Pa có tiềm năng to lớn về du lịch và nông nghiệp
vùng Á nhiệt đới núi cao. Trên cơ sở được Nhà nước và tỉnh quan tâm chọn là
trọng điểm đầu tư phát triển, Đảng bộ thị xã Sa Pa đã tích cực tranh thủ các
12
nguồn lực hỗ trợ trong nước, của tỉnh, của nhiều tổ chức quốc tế và huy động
sức dân trên cơ sở phát huy ý chí tự lập, tự cường, không ngừng đẩy mạnh các
hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng từ trung tâm huyện lỵ đến các xã vùng sâu,
vùng xa. Sa Pa đã được tập trung xây dựng với tốc độ nhanh, đã làm hồi sinh lại
thị trấn du lịch bị tàn phá trong các cuộc chiến tranh, đưa điện lưới quốc gia vào
năm 1994, trước nhiều nơi khác trong tỉnh. Chính nhờ có sự phát triển cơ sở hạ
tầng này nên đã hấp dẫn bè bạn trong nước và khắp năm châu đến Sa Pa ngày
càng đông. Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, phát huy tiềm năng thế mạnh
của Sa Pa đó là lấy phát triển du lịch – dịch vụ làm ngành kinh tế mũi nhọn, đột
phá. Trong những năm qua, sự phát triển của hoạt động du lịch mang lại hiệu
quả rõ nét trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xoá đói, giảm nghèo. Du
lịch đã có tác động trực tiếp, quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa tỷ
trọng ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế của huyện từ 15% những năm 90 tăng
lên 58,7% trong những năm gần đây.
1.2.4. Văn hóa, xã hội
Sa Pa với nhiều dân tộc cư trú xen kẽ, mỗi tộc người có một nét văn hoá
riêng nên mỗi năm có rất nhiều các lễ hội văn hóa diễn ra ở đây. Hơn nữa, du
lịch kết hợp tìm hiểu văn hoá, lịch sử vùng miền đang là xu hướng được nhiều
người ưa chuộng. Thế nên, vẻ đẹp thiên nhiên cùng với cơ sở hạ tầng và sự đa
dạng các sản phẩm du lịch ngày càng làm cho Sa Pa trở thành điểm đến nổi
tiếng của Tây Bắc, của Việt Nam và của cả du khách khắp nơi trên thế giới.
Đời sống văn hóa tinh thần phong phú của đồng bào còn được thể hiện ở
nghề thủ công, mỹ nghệ, thổ cẩm truyền thống của đồng bào đã đạt đến độ tinh
xảo và cuốn hút đến diệu kỳ. Phụ nữ Mông, Dao, Xá Phó rất giỏi trong cảm thụ
màu sắc, những tấm thổ cẩm của họ bao giờ cũng hội đủ sắc màu của thiên
nhiên từ cây thông, đồi núi, hạt ngô, hạt lúa… Tất cả được biểu đạt như chính
bức tranh sống động của đời sống đồng bào.
Các sản phẩm về thổ cẩm của phụ nữ các dân tộc miền núi đã làm cho
khách du lịch phải thán phục. Mỗi họa tiết trên váy áo là một kỳ công, là cả một
13
công trình nghệ thuật được thêu dệt trên trang phục.
Trong lĩnh vực kiến trúc, những ngôi nhà mái chảy chất lợp ngói nung
hoặc gỗ ván, dựa theo sườn núi vẫn thu hút được sự quan tâm của du khách. Đó
là những ngôi nhà mang đậm chất văn hoá riêng ở những bản người Mông, Dao,
Xá Phó, Tày, Giáy… với đời sống sinh hoạt còn lưu giữ các giá trị văn hoá đặc
sắc. Ý thức được vấn đề bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, tỉnh Lào Cai đã và
đang hết sức quan tâm việc xây dựng các làng văn hoá. Hiện tỉnh đã xâu dựng
một số mô hình điểm như: làng Cát Cát ở xã Hầu Thào, Sả Séng ở xã Tả Phìn,
Bản Hồ của xã Bản Hồ… cho thấy đang phát huy rất hiệu quả, thu hút khách du
lịch đông nhất.
1.3. Tổng quan về người H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
1.3.1. Khái quát về tộc người H’mông
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'mông được coi là một
thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc H'mông
cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết
các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới
Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ
yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai
Châu, Sơn La... Do tập quán du cư nên một số người H'mông trong những năm
1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia
Lai và Kon Tum.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt Nam
có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 6 trong bảng danh sách các dân tộc ở
Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh.
Ở nước ta người H’mông nằm trong nhóm các tộc người nói ngôn ngữ
H’mông – Dao (gồm 3 tộc người: H’mông, Dao, Pà Thẻn).
Dân tộc H’mông còn được các dân tộc khác gọi với tên khác là Miêu,
Mẹo, Mèo…. Hiện nay có các nhóm H’mông sau: H’mông đơ hoặc H’mông đâu
14
(H’mông trắng); H’mông đu (H’mông đen); H’mông dua (H’mông xanh);
H’mông lềnh (H’mông hoa)
1.3.2. Khái quát vể tộc người H’mông ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Theo số liệu thống kê, người H’mông ở thị xã Sa Pa có 3 ngành: H’mông
đơ (H’mông trắng); H’mông đu (H’mông đen); H’mông lềnh (H’mông hoa).
Dân cư của các ngành phân bố khá tập trung, cụ thể là:
H’mông đơ (H’mông trắng): tập trung cư trú ở suối Thầu, Bản Phùng,
Nậm Cang.
H’mông Đu (H’mông đen): chủ yếu tại bản Cát Cát, Tả Phìn, Sử Pán.
H’mông Lềnh (H’mông hoa): Tập trung tại các Xã Sa Pả, Lao Chải, Tả
Van, Hầu Thào, Bản Hồ, San Sá Hồ, Tả Giàng Phình.
1.3.3. Đặc điểm dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhóm người
H’mông đen ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Người H’mông đen chiếm khoảng 53% dân số, được phân bố ở 7/97 thôn
trên địa bàn thị xã Sa Pa. Họ sống xen lẫn giữa các ngành H’mông khác và cũng
có những bản riêng của ngành H’mông Đen. Khu vực cư trú người H’mông ở Sa
Pa tập trung chủ yếu ở khu vực các bản Cát Cát, Tả Phìn, Sử Pán.
Về Kinh tế:
- Trồng trọt: Sa Pa là nơi có địa hình núi non hiểm trở, đất đai khô cằn
nhưng với kinh nghiệm trồng lúa vốn có từ xa xưa thì người dân H’mông đã
không ngại san đắp những sườn núi, sườn đồi, đốt rừng, phát hoang thành những
thửa ruộng bậc thang độc đáo, mỗi năm có thể trồng được hai vụ lúa hoặc hai vụ
ngô. Ngoài ra còn sản xuất nông, lâm nghiệp, các loại cây như: thảo quả, chuối,
dứa, cây ăn quả, thuốc lá, đậu tương cao sản, chè, sắn.
- Chăn nuôi: Người H’mông đen chăn nuôi chủ yếu Trâu, bò, lợn, gà,..
- Về lâm nghiệp: Bên cạnh trồng lương thực trên rừng, đồng bào H’mông
đen còn trồng rừng bằng các loại cây bản địa có khả năng thích nghi cao, ngoài
15
thân gỗ còn cho thu quả, hạt để bán ra thị trường như trám, sơn tra (táo mèo),
trẩu, tre măng Bát Ðộ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Nghề Thủ công: Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản
xuất đặc sắc của người H’mông đen. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công
như đan lát, rèn, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị
hiếu của người dân.
- Về văn hóa, xã hội: Trong đời sống văn hóa, người H’mông đen say
đắm dân ca của dân tộc mình đó là tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cưới
xin (gầu xồng)… mà họ thường ca mỗi khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi
dệt vải hay lúc đi chợ, đi hội.
Người H’mông đen thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn
với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ
và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh
bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người H’mông quen uống rượu
ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay
mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng.
Gầu tào là lễ hội nổi bật của người H’mông đen nói riêng và các người
H’mông khác nói chung, những bài hát dân ca không chỉ được thể hiện bằng lời
mà còn được giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc như sáo, khèn, kèn, đàn
môi. Thanh niên của người H’mông đen thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa để
gửi gắm và thể hiện lòng mình với người bạn đời, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống,
quê hương đất nước.
Người H’mông đen sử dụng ngôn ngữ nói thuộc hệ ngôn ngữ H’mông –
Dao. Chữ viết của người H’mông được kí tự hóa theo chữ La tinh vào năm 1961
nhưng ngày nay không được sử dụng rộng rãi.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 trình bày khái quát cơ sở lý luận về trang phục, trang phục
16
truyền thống, sự biến đổi trong trang phục, đồng thời đưa ra những đặc điểm nổi
bật nhất về người H’mông ở Việt Nam nói chung và người H’mông đen ở thị xã
17
Sa Pa tỉnh Lào Cai nói riêng.
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG VÀ
NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI H’MÔNG
ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI
2.1. Trang phục truyền thống của người H’mông đen ở Sa Pa
2.1.1. Chất liệu trang phục truyền thống
Cũng giống với người H’mông nói chung, người H’mông đen cũng dệt
vải từ sợi cây lanh là chính chứ không phải từ sợi bông. Gia đình nào cũng có
một nương trồng lanh. Ngoài khâu cày xới cần tới bàn tay nam giới, còn việc
gieo trồng, chăm bón hoàn toàn do phụ nữ đảm nhiệm. Lanh đã tới độ thu hoạch,
người ta cắt buộc lại từng bó đem về phơi khô trong khoảng từ 10-15 ngày, sau
đó tước lấy vỏ và trải qua nhiều bước khác nhau như se sợi, dệt, nấu rồi mới tạo
ra một miếng vải hoàn chỉnh.
Người H’mông đen cũng trồng chàm và chế biến thuốc nhuộm chàm (cao
chàm). Cách thức chế biến thuốc nhuộm của họ không khác mấy với các dân tộc
láng giềng. Chàm cắt về đem ngâm cho mục rã, sau đó gạn lấy nước cốt đem
hoà với nước tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm. Loại cao
chàm này trữ lại dùng lâu dài trong cả năm, vừa để nhuộm vải mới, vừa nhuộm
lại những váy áo đã bạc màu. Trước khi nhuộm vải, bao giờ cũng nhúng qua
nước là cho vải ngâm đều, rồi mới nhúng vào vai nước chàm. Vải nhúng nước
chàm xong vớt ra đem ủ qua đêm, hôm sau giặt qua nước lã rồi mới đem phơi.
Cứ thế, qua 10-18 lần thì vải có màu chàm đen ánh là được. Ở người H’mông
đen hoa văn trên trang phục của họ được in bằng sáp ong sau đó mới được may
vá vào bộ trang phục. Cũng cần nói thêm rằng, nghề trồng và dệt vải lanh đã gắn
bó lâu đời với người H’mông, nó không chỉ là thứ vật liệu cơ bản để dệt vải may
mặc, một nhu cầu quan trọng của đời sống vật chất của con người, mà cây lanh,
sợi lanh đã đi vào thế giới tâm linh, tình cảm, trở thành một thứ biểu tượng cho
sự bền chắc của đời người, của tuổi thọ, sự gắn bó của lứa đôi, là sợi chỉ dẫn
đường cho linh hồn người chết về với tổ tiên, là cái cầu để linh hồn tổ tiên đầu
18
thai trở lại với con cháu.
2.1.2. Quy trình sản xuất ra bộ trang phục truyền thống
2.1.2.1. Quy trình sản xuất vải lanh
Trồng lanh: Lanh là loại cây ưa ánh sáng nên mảnh đất trồng lanh phải
được phát quang làm cho xung quanh thoáng đãng, không có cây to che bóng.
Đất trồng lanh phải là đất tốt, độ phì cao, thường ở ven chân núi hay trong các
thung lũng nhỏ, được chiếu sáng cả ngày. Đất trồng lanh phải được cày ải, làm
cỏ, bón phân trước khi gieo. Để lợi dụng những yếu tố thuận lợi và tránh những
yếu tố tiêu cực của tự nhiên, người H’mông đen ở Sa Pa đã căn cứ vào điều kiện
địa hình thành các dạng đồi thoải lượn sóng hoặc phân bậc của địa hình mà lựa
chọn địa điểm trồng lanh ở sát cạnh những sườn dốc chắn gió hướng Đông Bắc.
Những mảnh đất ấy thường là tương đối bằng phẳng và không có đá nhô đầu, ít
lẫn đá phong hoá. Cây lanh thường được trồng vào tháng tư âm lịch và thu
hoạch trong vòng 3 - 4 tháng.
Sơ chế vải: Nghề se lanh dệt vải đã hình thành từ xa xưa trong cộng đồng
dân tộc H’mông, tỉnh Hà Giang. Đến độ tuổi trưởng thành, người phụ nữ
H’mông ai cũng biết se lanh dệt vải để phục vụ cuộc sống gia đình.
Để làm ra bộ quần áo theo đúng phương pháp truyền thống họ phải trải
qua những công đoạn công phu, cầu kỳ. Cây lanh sau khi thu hoạch sẽ được
phơi khô, tước vỏ rồi cho vào cối để giã cho mềm. Sau đó nối sợi, công đoạn tuy
đơn giản này lại đòi hỏi sự bền bỉ, khéo léo, kỹ thuật chính xác nâng đến tầm
nghệ thuật. Để tạo một mối nối, họ phải tước vỏ lanh cùng một cỡ, trình tự hợp
lý để nối vỏ lanh lại là nối ngọn với ngọn, gốc với gốc. Hai đầu đoạn vỏ lanh
được xoắn vào nhau và se dọc theo chiều dài của vỏ về hai phía. Nối được bao
nhiêu họ lại quấn vào lòng bàn tay tạo thành cuộn. Sau khi nối, cuộn vỏ lanh
được ngâm trong nước rồi se thành sợi. Khi đó chúng vẫn có màu nâu nhạt của
vỏ, người ta sẽ luộc sợi cùng tro của cây gỗ trai để tẩy trắng.
Người H’mông có kỹ thuật nhuộm và tạo hoa văn độc đáo. Để tạo độ bền,
đẹp của sợi họ luộc sợi cùng với nước sôi pha sáp ong rồi đem đi ép hết nước.
19
Sau khi sơ chế họ đem sợi ra phơi lên một chiếc dàn phơi, quay và gỡ những sợi
lanh để không bị rối. Đến lúc này việc chế biến sợi nguyên liệu dệt được hoàn
thành, sợi được đưa vào khung dệt thành vải, in hoa văn, nhuộm màu, để chế tác
những bộ trang phục truyền thống.
Kỹ thuật và các công đoạn sơ chế lanh thành sợi: Để có được một bộ y
phục từ cây lanh, người H’mông đen phải trải qua một quá trình lâu dài với
nhiều công đoạn sơ chế khác nhau. Trong toàn bộ quy trình dệt thì việc là sợi là
mất thời gian nhất và tốn khá nhiều công sức. Việc phân công lao động trong
quá trình tạo nguyên liệu cho nghề dệt của người H’mông đen ở đây diễn ra theo
giới tính và lứa tuổi. Thông thường, người đàn ông tham gia làm đất, giao trồng
và thu hoạch lanh, còn tất cả quá trình tạo ra sợi đều do những người trong gia
đình đảm nhiệm. Cây lanh sau thu hoạch xong sẽ được phơi khô và tước thành
sợi. Sợi lanh sau đó sẽ được treo lên lên xà nhà và vuốt cho thẳng để hai đến ba
ngày cho khô sau đó cuộn thành những cuộn to cất đi và xe dần. Sau đây là các
công đoạn sơ chế:
Tước vỏ lanh: Sau khi thân cây lanh được phơi nắng, phơi sương đủ độ,
lanh được tước lấy vỏ tiếng H’mông đen gọi là “têz mangx”. Vị trí tước vỏ đầu
tiên được thực hiện bắt đầu từ giữ thân về phía ngọn. Sau đó, sợi lại tiếp tục được
tước từ giữa thân cây về phía gốc. Theo công thức đó, người phụ nữ H’mông
dùng hai đầu ngón tay trỏ và ngón tay cái của cả hai bàn tay vê và lắc nhẹ giữa
đoạn thân cây cho dập rồi luồn móng tay cái của một bàn tay bất kỳ (Thường thì
sẽ luồn bằng bàn tay thuận luồn vào giũa lớp vỏ thân cây để tách sợi).
Nhuộm vải: Theo quan điểm của đồng bào thì nhuộm vải có tác dụng làm
cho vải tăng độ bền, đẹp và làm nền để thêu được các hoa văn nổi bật, đồng thời
khi mặc những vết bẩn khó phát hiện, tuy màu này rất cổ xưa nhưng nó rất phù
hợp với điều kiện sống và lao động của người H’mông. Mặt khác, màu chàm đối
với người miền núi nói chung với người H’mông đen nới riêng, là màu gắn với
rừng núi rất có lợi cho đồng bào bởi nó dễ lẫn với lá cây rừng, các loại thú và
khó phát hiện khi họ đi săn bắn, hái lượm, hoặc lao động nên họ thường mặc
20
màu chàm.
Nguyên liệu nhuộm vải: Sau khi dệt thành vải, vải lanh vẫn có màu ngà
ngà trắng. Để có một màu chàm truyền thống người H’mông đen ở Sa Pa dùng
lá của cây chàm để nhuộm lên vải. Cùng là màu chàm như các dân tộc miền núi
khác nhưng màu chàm của vải lanh có vẻ cứng cỏi, ánh sắc hơn so với màu
chàm của vải bông.
Cây chàm, người H’mông đen ở Sa Pa gọi là “gangx”, là loại cây dùng để
nhuộm vải của nhiều dân tộc ở các tỉnh miền núi phía bắc. Chàm là loại cây
thuộc họ thân cỏ, dễ sống, mọc thành bụi, được nhân giống bằng cách dâm cảnh.
Cây chàm dễ sống nên có thể trồng trên đất dốc, trồng trên nương gần nhà, một
số gia đình còn tận dụng mảnh đất trồng gần nhà để trồng làm hàng rào xung
quanh vườn. Đồng bào chọn giống bằng cách xem nhiều cây cao, mập mạp,
những cây chàm tốt, đem chặt thành những đoạn dài từ 30 đến 50cm, trồng bằng
cách cấm tháng xuống đất rồi lấp một lớp đất phủ kín lên nó. Đồng bào thường
trồng chim vào tháng tư, tháng năm âm lịch, có những nơi trồng sớm hơn một
đến hai tháng. Khi cây chùm mọc được khoảng một tháng đồng bào bón phân
cho nó, kết hợp với nhặt cỏ. Sau sáu tháng có thể thu hoạch được. Trồng chàm,
theo quan niệm của đồng bào cũng phải chọn ngày tốt, đồng bào thường trồng
vào đầu tháng, gốc nào có vì trồng vào đầu tháng sẽ tươi tốt, trồng vào cuối
tháng thường bị sâu bệnh. Thu hoạch chàm cũng phải đúng thời vụ, nếu thu
hoạch muộn, lá chàm già quá sau khi pha chàm sẽ không được nhựa chàm như ý
muốn. Để có thể nhuộm màu chàm đẹp, công đoạn đầu tiên người ta phải sơ chế
cây nguyên liệu nhuộm, tạo ra cao chàm.
Chế biến chàm thành thuốc nhuộm: Việc tạo ra cao chàm phải trải qua rất
nhiều khâu, từ khi đề giống cây chàm, làm đất trồng chàm, làm cỏ, chăm sóc cây
chàm, đến khi thu hoạch, cây được cho vào nước ngâm và tạo ra cao chàm. Bên
cạnh đó, còn một công đoạn không thể thiếu chất phụ gia, đó là nghề đốt vội
truyền thống, lấy vôi bột để hòa với nước ngâm cây chàm, dùng để lọc lấy nhựa
chàm. Công việc đốt vôi là một công việc rất nặng nhọc, tốn nhiều thời gian,
21
kiêng kỵ nghiêm ngặt, thường người đàn ông trong gia đình đảm nhiệm, từ kinh
nghiệm chọn đá, đập đá, vận chuyển đá, chặt đốn củi, vận chuyển củi, công việc
đào lò, đốt lò, khi vôi chín gỡ vôi trong lò ra, đều do đàn ông làm. Công việc
nhuộm màu chàm cho vải và nhuộm màu của chỉ thêu hoàn toàn do phụ nữ đảm
nhiệm. Do vậy, việc tạo ra màu chàm này, đòi hỏi khá công phu, cần sự giúp đỡ
của các thành viên nam, nữ trong gia đình. Bên cạnh đó, đồng bào còn phải nhờ
đến bàn tay khéo léo của người thợ mộc để làm ra những chiếc thùng đựng
chàm, bằng cách ghép các mảnh gỗ pơ mu lại với nhau. Cây chàm sau khi cắt về
cả thân và lá được ngâm nước trong thùng gỗ Pơ mu hoặc thùng nhựa khoảng từ
hai đến ba ngày. Thùng nhuộm chàm tiếng H’mông đen gọi là “trơưr”, được
chia ra hai phần: phần trên để vải nhuộm, bên dưới thùng chứa cạn bã hoặc cao
chàm. Vật ngăn cách giữa thùng là một cái phên đan mắt cáo bằng tre hoặc nứa.
Dệt vải: Công cụ dệt vải truyền thống của người H’mông đen ở Sa Pa là
chiếc khung dệt “ndêx txus”. Đây là loại khung dệt dùng dây buộc lưng hay gọi
một cách khác dễ hiểu hơn là khung dệt dùng thân người (kết hợp với dây đai)
để căng sợi dọc, chiếc khung của người H’mông ở Sa Pa chỉ có hai chân. Vì vậy,
để cho khung có thể dùng được trong quá trình vận hành người ta phải buộc gắn
nó vào một điểm tựa chắc chắn (vách tường nhà hoặc cột gỗ). Khung dệt được
làm chủ yếu từ gỗ pơ mu, gỗ dồi hoặc gỗ khảo. Những loại gỗ này xưa nay được
tìm trong rừng già, trên những sườn núi dốc trong rừng Hoàng Liên. Để làm
khung dệt, người ta không cần phải chặt và cả cây gỗ mà chỉ cần lấy những đoạn
cây có thể đáp ứng được về chất liệu, kiểu dáng và kích thước cảu khung dệt là
được. Vì thế, có thể thu nhặt những loại cây được người khác mang về làm nhà
là được. Ngoài ra, cũng có thể lấy gỗ làm khung dệt từ những thân cây đổ vì
việc làm chiếc khung dệt từ những thân cây đổ vì việc làm chiếc khung dệt
không cần kiêng kỵ gì, trong khi đó, gỗ từ các thân cây đổ (nếu chưa mục) lại có
ưu điểm là dễ lấy, không cần chặt. Nếu như việc dệt vải là công việc của phụ nữ
thì việc chế tác công cụ là của đàn ông. Nhưng lúc nông nhàn những người đàn
ông H’mông thương tranh thủ vào rừng để chọn gỗ làm khung. Tuy chế tác công
cụ là việc của đàn ông nhưng trên thực tế không phải người đàn ông H’mông
22
nào cũng biết làm khung dệt.
Những người biết làm khung dệt, do còn phải thực hiện “chức năng” chế
tác ra những chiếc khung dệt cho cộng đồng, nên họ cũng thường có những sự
chuẩn bị trước.
Bộ công cụ chế tác khung dệt của người H’mông đen ở Sa Pa gồm có: cưa,
đục và dao. Với loại khung dệt này, độ căng của sợi dọc được tạo ra bằng cách
cuốn thành nhiều vòng vào trục cuốn sợi. trục này được đóng vào giữa hai cột
cao khoảng 150cm bằng gỗ. Đầu dây bên kia được buộc một đầu vào trục cuốn
vải. Khi dệt, người phụ nữ người phụ nữ lấy dây buộc vào trục cuốn vải, dùng
thân người để căng sợi dọc. Vải dệt đến đâu được cuộn tròn vào trục cuộn vải
đến đó.
Người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào lưng để
làm căng sợi dọc, chân buộc vào vào dây nối với cơ cấu nâng sợi, họ trở thành
một bộ phận của khung dệt. Trong khi dệt, người phụ nữ dùng chân để điều
khiển dây nối. Khi kéo dây về phía sau, cần tách sợi sẻ thành hai luồng sợi là đôi
tạo một khoảng trống để đưa thoi vào, dùng lực bép dập cho các sợi khít lại với
nhau. Khi thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên để
trở lại thế ban đầu.
2.1.2.2. Quy trình in sáp ong
Ngày nay, đồng bào người H’mông đen ở xã thị xã Sa Pa vẫn còn lưu giữ
được kỹ thuật in, vẽ sáp ong. In sáp ong là dùng khuôn có chạm khắc các hoạ
tiết trang trí từ trước rồi nhúng vào sáp ong được đun nóng và dập lên vải trắng.
Còn vẽ sáp ong các nghệ nhân dùng bút vẽ riêng và chấm vào bát sáp ong, vẽ
theo ý thích của mình. Bút để vẽ có đầu làm từ 3 miếng đồng ghép lại và thân
bút làm bằng gỗ. Những cô gái H’mông sẽ dùng bút, chấm vào bát sáp ong và
vẽ trực tiếp lên vải lanh. Kỹ thuật này đòi hỏi người vẽ hoa văn phải vô cùng tập
trung có tính chính xác cao bởi nếu đã vẽ ra thì sẽ không sửa được nữa, vì thế
người làm công việc này phải thật tinh tế, sáng tạo và có tính thẩm mĩ. Kỹ thuật
công phu đòi hỏi sự tài tình này có vẻ đang bị mai một theo thời gian bởi sự
23
phức tạp cũng như yêu cầu cao của nó.
Khi khô, sáp ong đông đặc như sáp nến, người ta mang đi nhuộm chàm
nhiều lần và phơi khô. Việc nhuộm chàm nhiều lần cũng tạo nên những sắc khác
nhau cho hoa văn. Những hoa văn màu trắng được nhuộm 1 đến 2 lần, hoa văn
được vẽ lên vải trắng có màu trắng ngà, hoa văn có màu xanh nhạt thì sau khi
nhuộm chàm 1 lần người Mông sẽ vẽ sáp lên lớp hoa văn đó và nhuộm cho đến
khi ưng ý. Có một lưu ý khi mang đi phơi không được phơi chỗ nắng quá sáp
ong sẽ bị tan hết. Cuối cùng, người ta đem luộc tấm vải đó với nước sôi, sáp ong
gặp nhiệt độ cao sẽ tan ra để lộ các đường trắng của vải, sản phẩm hoàn thiện
tạo thành hoa văn trắng trên nền chàm xanh.
2.1.2.3. Quy trình cắt may thành phẩm
Kĩ thuật cắt may y phục mỗi dân tộc có cách làm ra quần áo riêng, phù
hợp với thẩm mỹ và điều kiện của mình. Trước đây, khi chưa có máy khâu, việc
may vá quần áo đều làm thủ công bằng tay. Dụng cụ cắt, khâu quần áo của
người H’mông đen bao gồm kim khâu, kéo. Người H’mông đen cắt quần áo cho
các thành viên trong gia đình, người phụ nữ hoàn toàn lựa bằng mắt của mình để
ước lượng vải hoặc ướm trực tiếp tấm vải lên cơ thể để lấy chiều dài và chiều
rộng của trang phục mà không cần phải theo một công thức nhất định. Khi định
may áo cho người thân trong gia đình, họ phải định lượng khổ vải dệt cho vừa
với kích thước người mặc trước khi dệt, họ rất ít cắt vải bởi sợi sẽ bị bung ra hết
bởi họ chưa có kỹ thuật vắt sổ như người Kinh vẫn thường làm. Trước khi khâu
quần áo, người phụ nữ H’mông đen thường thêu hoa văn và ghép vải ở các bộ
phận như: tay áo, nẹp áo, cổ áo rồi mới cắt vải và khâu nối các bộ phận lại với
nhau. Khổ vải của người H’mông đen thường là có bề rộng khổ vài từ 30 đến
40cm, chiều dài không cố định nên khi khâu quần phải ghép nhiều miếng vải lại
với nhau. Các vị trí như khẩu ở sườn áo, nách áo, ống quần người ta phải gấp hai
mép vài lại, chấp hai mép lại để khâu. Việc gấp mép vải giúp cho sợi vải không
xổ ra trong quá trình sử dụng. Ngoài ra còn khâu nối ghép hai mép vải lại với
nhau ở các bộ phận của y phục như: tay áo, sườn áo, gấu áo, ống quần và những
mép vải như ở lưng áo, tà áo đằng trước và các mảnh vải thêu sẵn để khâu nối
24
với các bộ phận của áo hoặc quần thì người ta gấp hai đầu mép vải để khâu dấu
vào bên trong. Trong kĩ thuật khâu trang phục, người H’mông đen thường sử
dụng 2 cách khâu đó là khâu đuổi mũi thưa và khâu đuổi mũi mau. [7]
2.1.3. Kiểu dáng trang phục
2.1.3.1. Trang phục truyền thống nam
Trang phục nam giới H’mông đen gồm có: mũ, áo trong, áo ngoài, quần
và dép. Hiện nay, do giao lưu văn hóa ngày một mở rộng, y phục của nam giới
có nhiều đổi mới. Song, những nét về trang phục cổ truyền vẫn được bảo lưu ở
một mức độ nhất định trong khi nơi các dân tộc khác, nhất là thế hệ thanh niên
đã mặc theo kiểu của người Kinh, trang phục của họ đang mất dần sắc thái văn
hoá truyền thống tộc người.
Mũ đội đầu: Ngày nay, người người đàn ông H’mông đen thường cắt tóc
ngắn và đội mũ. Mũ "mov” của nam giới H’mông đen được làm bằng vải lanh
nhuộm chàm, là loại mũ nồi, được khâu ghép từ ba đến bốn miếng vải lanh tự
dệt màu chàm đen, hình tam giác nhọn, kích thước to nhỏ tuỳ thuộc vào vòng
đầu của người sử dụng.
Áo: Áo của nam giới người H’mông đen bao gồm 2 loại: áo trong vào áo
khoác bên ngoài. Áo trong của nam giới H’mông đen may bằng vải lanh nhuộm
chàm đen, kiểu xẻ ngực, khuy áo cài hơi lệch sang bên ngực phải, không có cổ,
có hai túi phía trước và gấu áo ngắn đến thắt lưng. Áo được may ngắn, luôn vừa
vặn với người mặc, tôn thêm vóc dáng khoẻ mạnh mà gọn gàng cho người đàn
ông. Áo nam của người H’mông đen đã có sự biến đổi, nếu so với kiểu áo trước
đây không thấy trang trí hoa văn, nhưng hiện nay do thị hiếu của giới trẻ với nhu
cầu làm cho chiếc áo được đẹp hơn, trước ngực áo được thêu một dải hoa văn,
chủ yếu là hoa văn bí, ở gần cửa tay, đáp thêm một đoạn vải thêu hoa văn trang
trí và ghép vải. Ở mặt trong của áo, người ta may thêm một chiếc túi nhỏ để
người mặc cất tiền hay những vật nhỏ gọn. Vị trí may túi là ở thân trước phía
bên trái, ngang tầm giữa ngực và bụng người mặc. Kiểu áo mới hiện nay đều
dành cho những thanh niên trẻ mặc, còn người trung tuổi thì vẫn mặc kiểu áo
25
trước đây.
Áo ngoài của nam giới H’mông đen may bằng vải lanh, nhuộm chàm. Áo
dài qua mông, xẻ ngực, không đơm khuy, may kiểu gi lê, xẻ tà cao sát nách, áo
gồm hai lớp vải may ghép với nhau, bên trong màu xanh nhạt, lớp ngoài màu
đen, toàn bộ mép áo ở nẹp, nách, tà, gấu được trang trí những đường viền chỉ
trắng. Cổ áo liền thân bé bán rộng và được thêu hoa văn trang trí được trang trí
hoa văn chữ T, chữ S, hoa văn zích zắc, hoa văn con ốc (kw), bên ngoài là các
bằng vải màu đỏ và xanh. Gấu áo trang trí mảng hoa văn dải trang trí màu trắng
rộng 3 cm, chủ yếu là mô típ đường kẻ nằm kề sát nhau. Khi mặc, các chàng trai
H’mông đen ở Sa Pa để hai vạt áo khoác phanh ra , thả lỏng song song nhau một
cách tự nhiên. Ngày thường, nam giới người H’mông đen ở Sa Pa ít mặc mà chủ
yếu mặc trang phục người kinh, đồng bào chủ yếu mặc trang phục truyền thống
vào dịp đi chơi, đi chợ và mặc vào những dịp đại sự, hội hè, lễ tết. Trang phục
của nữ và nam khác nhau ở hoa văn trang trí và các chi tiết về vạt áo. Áo của nữ
thì có hai cái vat vắt chéo lên trước, áo của nam thì cài cúc. Áo nữ phức tạp hơn
nhiều so với áo nam, bởi có rất nhiều loại hoa văn khác nhau trang trí ở cổ áo,
tay áo và thắt lưng. Áo của nam chỉ có hoa văn ở cổ áo, hiện nay có thêm dải
hoa văn trước ngực, tay áo được thêu ghép vải nhưng ít họa tiết hoa văn so với
áo nữ, riêng phụ nữ chân còn phải cuốn xà cạp.
Quần của nam giới H’mông đen thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai may kiểu chân
què, cạp lá toạ, đũng rộng, ống rộng và quần dài. Cạp quần may táp thêm miếng
vải màu xanh cao khoảng 10cm, khi mặc cạp được giặt sang một bên rồi dùng
thắt lưng vải buộc thắt cho chặt. Với kiểu quần được may như vậy rất thích hợp
với điều kiện địa hình vùng cao nơi đây, làm cho họ có thể di chuyển một cách
dễ dàng không chỉ bằng đôi chân mà còn bằng các loại phương tiện khác ngoài
ra còn có thể múa khèn được dễ dàng hơn.
Dây lưng: Nam giới vốn được biết đến là những người đơn giản trong
cách ăn mặc, ít dùng trang sức, phụ kiện nhưng đối với nam giới H’mông đen,
chiếc dây lưng là một trong những phụ kiện không thể thiếu. Dây lưng tiếng
26
H’mông đen gọi là (hlangz tris), dây lưng vừa có tác dụng để thắt cạp quần, định
hình cho chiếc quần, vừa như một điểm nhấn, tạo sự gọn gàng, lịch lãm và nam
tính. Trước đây, để thắt quần, nam giới H’mông đen thường dùng một dải vải
lanh nhuộm chàm nhỏ nhưng hiện nay nam giới người H’mông đen cũng đã sử
dụng thắt lưng bằng da mẫu mã đa dạng, phong phú và phối theo nhiều loại
trang phục khác nhau.
Dép: Hiện nay, nam giới người H’mông đen ở Sa Pa chủ yếu đi loại dép
quai hậu hằng nhựa, màu nâu, do Trung Quốc sản xuất, được bản nhiều trên thị
trường. Loại dép này được làm bằng chất liệu nhựa, ít gây trơn trợt, có các rãnh
sâu dưới mặt đế dép để tăng độ ma sát với mặt tiếp xúc, phần quai dép kiểu dáng
đơn giản, thường dùng khi di chuyển ở địa hình đồi núi dốc. Ngoài ra, đồng bào
còn dùng loại dép nhựa trắng mà đồng bào thường gọi đó là “dép tổ ong” vừa
nhẹ vừa đi lại thuận tiện, giá thành lại rẻ.
2.1.3.2. Trang phục truyền thống nữ
Trang phục phụ nữ H’mông đen gồm có: khăn, áo trong, áo ngoài, quần,
xà cạp, giầy dép, túi đeo. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương, trang phục phụ nữ
H’mông đen có những điểm khác biệt. Phụ nữ H’mông đen ở Sa Pa, Lào Cai
quấn khăn thành vòng tròn lớn trên đầu, trên khăn ít trang trí hoa văn. Áo trang
trí ở giữa ống tay những khoanh vải màu, quần ống rộng, ngắn. Trang phục của
họ chủ yếu là chàm sẫm.
Áo của phụ nữ H’mông đen gồm có áo trong dài tay và áo khoác ngoài
cộc tay: Áo trong của phụ nữ H’mông đen may bằng vải lanh nhuộm chàm, áo
dài kín mông, dài tay, xẻ ngực, không đơm khuy, được may từ bốn mảnh vải,
khổ vải rộng từ 30 đến 40cm, chiều dài gấp đôi chiều dài thân áo, gập đôi lại
thành thân trước và thân sau. Chiều dài của thân áo thường được tính từ ngang
vai đến giữa đùi (tuỳ theo chiều cao người mặc có thể dài hơn hoặc ngắn hơn).
Cổ áo trong là một mảnh vải lanh nhuộm chàm hình chữ nhật được cắt rời sau
đó ghép vào thân áo. Cổ áo may hai lớp, khổ vải rộng khoảng 9cm, dài từ 45cm.
Quanh cổ áo được thêu một đường chỉ màu hồng và không can thêm mảnh vải
27
có thêu hoa văn ra bên ngoài như cổ chiếc áo khoác. Trên chiếc áo dài thường có
hai màng hoa văn chủ đạo trên tay áo, mảng hoa văn này không thiếu trực tiếp
lên tay áo mà được đáp thêm vào.
Chiếc áo khoác ngoài của cả nam và nữ có kiểu dáng tương tự nhau và
đều là loại áo xẻ ngực, chỉ khác nhau ở độ xẻ của tà áo. Áo của nữ xẻ tà cao hơn
áo của nam, áo khoác bao gồm cổ áo và thân áo, không có tay. Áo ngoài của phụ
nữ H’mông đen may bằng vải lanh nhuộm chàm, chiếc áo khoác này được lăn
ép bằng sáp ong vì thế có màu đen ánh bạc để mặc đẹp hơn. Áo kiểu xẻ ngực,
không đơm khuy, may kiểu gi lê, xẻ tà gần sát nách. Ảo gồm hai lớp, lớp trong
màu trắng, lớp ngoài màu chàm đen. Toàn bộ đường gấp mép ở nẹp, nách áo, tà
áo và gấu áo được trang trí các đường viền bằng chỉ màu trắng, Cổ áo khoác
giống với cổ của áo trong nhưng quanh cổ áo không thêu đường chỉ màu hồng
và can thêm mảnh vải có thêu hoa văn và ghép vải ra bên ngoài, mảng hoa văn ở
cổ có chiều rộng khoảng 10 đến 13cm, chiều dài thường dài hơn chiều rộng của
áo bằng 32cm. Phần đáng chú ý là chiếc cổ áo được thêu hoa văn khá cầu kỳ,
được trang trí hoa văn bằng kỹ thuật thêu chỉ mầu, với đồ án hoa văn gồm các
hình hoa văn như hình hoa dưa, hoa văn xoáy ốc, hình rắn giun... Hoa văn trên
cổ áo là một dải băng ngang, được thêu hoa văn xen với mô típ đường thẳng
song song, các băng hoa văn theo quy luật đối xứng. Theo nghệ nhân Giàng Seo
Gà - Giám đốc Trung tâm Văn hóa thị xã Sa Pa cho biết: Ngoài ý nghĩa trang trí,
măng hoa văn trên cổ áo của nữ giới còn mang ý nghĩa như một bức liên lạc của
hai vợ chồng người H’mông trước đây vì trong quá trình lịch sử người H’mông
bị người Hán đàn đáp chạy khắp nơi, vợ chồng, cha con ly tán, họ gặp nhau
nhưng không thể nói chuyện, thông tin cho nhau nên chỉ có thể gửi gắm thông
tin qua các hình vẽ hoa văn trên cổ áo. Vì vậy, hoa văn thêu trên cổ áo bao giờ
cũng được định ở mặt sau cổ áo và khi mặc họ sẽ dựng cô áo lên để lộ mảng hoa
văn trang trí. Ngoài ra, hai bên tay áo còn được trang trí các mảng hoa văn nối
với nhiều họa tiết hoa văn khác nhau. Chính này tạo ra sự khác biệt về trang
phục giữa người H’mông đen với người H’mông trắng đồng thời có tác dụng
bảo vệ cổ của người mặc, tránh nắng vào mùa hè và giữ ấm cho cổ vào mùa
28
đông. Đồng bào quan niệm, một chiếc áo đẹp phải được làm từ loại vải lanh có
độ bóng cao, cổ áo, tay áo phải được ghép những mảng hoa văn đẹp, cân đối tạo
ra sự hài hoà cho người mặc. Ngoài ra, các đường viền mép ở gấu áo, ống tay,
đường xẻ tà phải được khâu cẩn thận bằng loại chỉ tơ tằm. Tuy toàn bộ trang
phục của người H’mông đen không thêu nhiều hoa văn rực rỡ như các nhóm
H’mông khác nhưng nó vẫn mang một vẻ đẹp rất riêng.
Quần: Ở Sa Pa xưa kia, đồng bào mặc váy nhưng nay chuyển sang mặc
quần, phụ nữ H’mông đen ở Sa Pa khác với phụ nữ H’mông đen ở một số nơi
khác là mặc quần cộc, họ chuyển sang mặc quần bởi vì do thời tiết nơi đây khá
lạnh không thích hợp cho việc mặc váy. Quần là một trong những thành tố quan
trọng trong bộ y phục của nữ giới. Có tác dụng che đậy, bảo vệ nửa dưới của cơ
thể. Quần gồm các bộ phận sau: cạp quần, đũng quần, ống quần, gấu quần. Quần
của phụ nữ H’mông đen thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai may bằng vải lanh nhuộm
chàm đen hoặc bằng loại vải nhung đen, kiểu chân què, cạp lá toạ, đũng rộng,
ống rộng hơn 30cm và khi mặc quần chỉ cộc đến ngang đầu gối. Cạp quần vắn
chặt là miếng vải màu xanh rộng khoảng 9cm, một nửa cạp phía dưới được trang
trí in hoa văn nét liền trơn và chấm tròn bằng sáp ong. Khi mặc, quần sẽ bị che
đi bởi chiếc áo dài, phần dưới của quần để nguyên một màu đen. Chiếc quần của
người phụ nữ H’mông đen chủ yếu là màu xanh chàm, màu nâu và màu đen hiện
nay không trang trí hoa văn. Theo ông Vàng A Dế, 60 tuổi, thôn Can Ngài, xã
Tả Phìn, huyện Sa Pa thì trước đây, trong thời gian trước cách mạng tháng tám,
phụ nữ H’mông đen vẫn mặc váy nhưng kể từ sau cách mạng tháng tám, phụ nữ
H’mông đen không mặc váy nữa mà chuyển sang mặc quần. Chính vì vậy mà
chiếc váy cho đến nay hầu như chỉ còn được mặc khi sinh con và mặc lúc chết,
chiếc váy của phụ nữ đã thay thế hoàn toàn bằng chiếc quần cộc đến đầu gối.
Phụ kiện: Nói đến trang phục của phụ nữ H’mông đen không thể thiếu
được chiếc thắt lưng. Đồng bào quan niệm, đeo thắt lưng là thể hiện sự duyên
dáng cho người mặc và làm tôn thêm vẻ đẹp cho người phụ nữ đồng thời cũng
làm cho các thiếu nữ H’mông có được một vóc dáng đẹp hơn, tạo nên đường
29
cong mềm mại cho cơ thể người phụ nữ. Ngoài ra bên cạnh đó, trong trang phục
của họ còn bao gồm khăn, giày dép, túi đeo và đồ trang sức. Tất cả đều được chế
tác một cách tỉ mỉ bằng nhiều hoa văn, hoạ tiết đẹp mắt, từ đó đã góp phần tạo
nên một nét độc đáo riêng biệt cho người phụ nữ H’mông đen ở Sa Pa.
2.1.3.3. Trang phục của trẻ em
Khi đứa trẻ mới sinh, được ủ trong một cái tã cắt ra từ một mảnh vải. Đến
ngày thứ ba, gia đình tổ chức lễ đặt tên ru hồn “gênh pli” cho trẻ, sau đó đặt tên
và mặc áo do người mẹ hay cho đứa trẻ. Khi đứa trẻ đầy tháng, có thể dùng địu
đo ông bà ngoại hoặc chị gái cho hoặc do người mẹ tự làm lấy cho con. Người
H’mông đen còn sử dụng và lanh do mình tạo ra để may các vận dụng trong gia
đình trong đó có chiếc địu. Theo quan niệm của người H’mông đen ở Sa Pa,
chiếc địu dùng để địu trẻ, nó còn tượng trưng cho cái kén, trên địu trang trí rất
nhiều hoa văn khác nhau như một cái kén bảo vệ cho đứa bé ở bên trong, không
để cho con ma làm hai đứa trẻ. Địu trẻ em gọi là “nhuax cuov”, địu có tác dụng
giữ cho đứa bé ở trên lưng. Địu của người H’mông đen được may từ một tấm
vải hình chữ nhật, có dây buộc ở phía trên. Địu được may bằng hai lớp vải và
được trang trí bằng các hoa văn kết hợp với những họa tiết được ghép bằng vải
nhỏ hoặc những hoa văn in bằng sáp ong kết hợp với ghép vải, một nửa trên
ghép vải đen, nửa dưới ghép vải đỏ. Ở lớp trong, nửa trên là một mảnh vải đen
không trang trí hoa văn, nửa dưới có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong giống
như nửa dưới lớp ngoài. Trang trí trên mặt địu trẻ chủ yếu là hoa văn hình con
ong mú, hoa văn hình con ong “má”, ong là biểu tượng cho sự chăm chỉ, cần
mẫn, là một loài côn trùng gần gũi, thân thiện với đời sống người H’mông đen,
mô típ hoa văn hình con ong được in bằng sáp ong trên mặt địu của trẻ em.
Ngoài ra, nhiều hình ảnh những con côn trùng này còn được chạm khắc trên đồ
trang sức như: vòng đeo cổ, vòng đeo tai của người H’mông đen, Đối với hoa
văn này, người H’mông đen có truyền thuyết như sau: Truyện kể rằng ngày xưa,
quần áo của người H’mông không có hoa văn, chỉ làm bằng vải lanh màu trắng.
Có người chuyên vào rừng lấy mật ong nên sáp ong vướng lên quần áo và đi về
30
thường đi qua rừng chàm nên cũng bị vướng vào lá chàm nên quần áo có vết đen.
Khi giặt quần áo, sáp ong bong ra thì có màu trắng trên nền chàm xanh tạo ra
hình thù đẹp mắt. Họ thấy thích và cảm ơn con ong đã bày cho họ cách tạo hoa
văn, nên đã vẽ hình con ong như một sự biết ơn, kể từ đó có loại hoa văn này.
Khi trời lạnh có thể kéo nửa dưới lớp ngoài đè lên nửa trên lớp ngoài của địu để
giữ ấm cho đứa trẻ. Tùy theo sự khéo léo của người mẹ mà địu được trang trí
các hoa văn khác nhau. Trong thời gian dưới một tuổi, trẻ em người H’mông
đen ở Sa Pa còn được bố mẹ chúng làm cho một cái mũ đội đầu và chỉ mặc áo,
tã lót, không mặc quần. Mũ cho trẻ em “mov mes”: Trẻ em sinh ra đều được đội
mũ do mẹ hoặc bà làm cho. Mũ của trẻ em người H’mông đen được may bằng
những mảnh vải lanh nhuộm chàm đen, cũng giống vải làm quần áo, người ta
cắt các miếng vải hình tam giác xếp lại với nhau, phần trên chụm lại khâu các
cạnh lại thành chóp mũ, trên chóp mũ thường được trang trí bằng các dây vải,
tạo thành các tua. Mũ của trẻ em H’mông đen trước đây thường được đính các
đồng bạc, nhưng nay được thay thế bằng các đồng xu, đính bạc vào vừa để trang
trí, vừa có tác dụng tránh gió.
Trên một tuổi, trẻ em mới được cho mặc quần, áo, từ ba tuổi trở lên, yếu
tố giới tính mới được thể hiện qua trang phục, quần áo đã phân biệt nam nữ.
Trang phục của trẻ em giống trang phục của người lớn, chỉ khác là kích cỡ nhỏ
hơn và hoa văn trang trí đơn giản hơn trang phục của người lớn, cách cắt quần
áo trẻ em giống cách cắt quần áo người lớn. Trang trí trên áo là phương pháp
ghép vải và thêu. Áo của trẻ em trai thường thêu, ghép vải trước đầu ống tay áo,
còn trẻ em gái thường được thêu hoa văn ở cố áo, hai bên ống tay, thắt lưng. Ở
người H’mông đen, trẻ em luôn được mặc trang phục truyền thông trong đời
sống hằng ngày. Trước đây, đối với mỗi đứa trẻ hàng năm phải có từ bốn đến
năm bộ quần áo mới đủ cho cả năm, tết đến trẻ được bố mẹ khâu cho các em
những bộ mới để mặc tết. Các em bé gái từ bảy đến tám tuổi đã bắt đầu làm
quen với sợi lanh, với việc cắt may và thêu…quá trình trưởng thành của các cô
gái H’mông đen cũng là quá trình hoàn thiện tay nghề khâu may quần áo, dệt vải
ý thức về trang phục cũng dần được thể hiện rõ nét. Con gái H’mông đen 13 đến
31
14 tuổi bắt đầu làm duyên, biết thêu các hoa văn, khâu ghép trên y phục của
mình. Đến độ tuổi thanh niên, ý thức về cái đẹp ngày một rõ hơn. Đặc biệt, các
cô gái, chủ nhân của những chiếc khăn, áo, quần...bắt đầu chú ý đến đường kim
mũi chỉ sao cho y phục của mình cũng đẹp không thua kém chị em, các chàng
trai cũng dành những bộ quần áo mới để đi chơi sau những giờ lao động mệt
nhọc. Đồ trang sức của các em bé chủ yếu đeo vòng bạc và một số em đeo vòng
vía với mục đích tránh gió, kị tà ma, giúp trẻ luôn khỏe mạnh.
2.1.4. Cách sử dụng trang phục
2.1.4.1. Trang phục trong cưới xin
Trang phục của nữ
Một sự kiện quan trọng trong đời sống người H’mông đen là đám cưới.
Trong đám cưới, cô dâu vẫn ăn mặc giống như ngày thường nhưng trang phục
mới hơn gồm có: khăn đội đầu, áo, dây lưng nhuộm chàm, có trang trí hoa văn ở
phía sau lưng, xà cạp, đeo đồ trang sức. Đồng bào không có kiểu quần áo cưới
riêng mà chỉ là những bộ quần áo được may, thêu thùa và ghép vải công phu
hơn và thưởng được mặc trong đám cưới (mặc về nhà chồng) và mặc trong các
ngày lễ hội, mặc trong ngày tết.
Người H’mông đen đánh giá tài năng, vẻ đẹp của người phụ nữ qua khả
năng thêu thùa thể hiện trên bộ trang phục mặc đi chơi ngày chợ tình, ngày tốt,
ngày hội. “Muốn biết người tốt thì xem gác bếp, muốn hay người đẹp thì xem áo
quần”. (Xangr pâuz nênhs jông zuôr sêiz sau ntangz, Xangz jông nênhs quangl
zuôr sêi yao jông). Một số nam giới người H’mông đen có tiêu chí để chọn vợ
thông qua những mẫu thêu trang trí trên cổ áo, thắt lưng và cánh tay. Họ cho
rằng, một mẫu thêu đẹp phải đều nhau, cân xứng về tỷ lệ và màu sắc, phải rực rỡ
tươi sáng. Nếu người con gái nào có những mẫu thêu đẹp thì chứng tỏ một điều
rằng họ là người khéo léo đảm đang, cần cù chăm chỉ, khoẻ mạnh, không ít
chàng trai đã chọn được bạn tình qua những ngày lễ hội hay trong những phiên
chợ. Trong lễ cưới, các cô gái H’mông đen luôn dành hết thời gian, công sức
cho bộ váy áo mới của mình. Mức độ thành thạo trong việc dệt vải, thêu thùa
32
cũng là một phần thước đo giá trị của người phụ nữ, người giỏi thêu thùa được
cả cộng đồng mà trước hết là gia đình nhà chồng đề cao, coi trọng. Vì vậy,
những bộ trang phục mà người phụ nữ người H’mông đen mặc, thường được
may, thêu hết sức cầu kỳ, do họ tự làm, nếu bố mẹ có thì có thể tặng cho. Cô dâu
khi về nhà chồng thường mang theo miếng thêu ở cổ áo để tặng cho bố mę
chồng hoặc cũng có thể may bộ quần áo tặng cho bố mẹ chồng. Còn bố mẹ đẻ,
nếu gia đình nào khá giả sẽ cho con gái một vòng tay hoặc vòng cổ bằng bạc,
một bộ quần áo, một váy vẽ sáp ong, váy này dùng để mặc lúc đẻ con và mặc
khi chết, có thể nói đó là của hồi môn.[8]
Trang phục của nam
Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong cuộc đời mỗi người vì vậy, trước
khi cưới, gia đình phải chuẩn bị các lễ vật hết sức cần thiết nhất là phải chuẩn bị
cho mình một bộ lễ phục thật đẹp trong ngày quan trọng này. Trong ngày cưới
chú rể người H’mông đen ở Sa Pa mặc một bộ trang phục truyền thống mới và
bắt buộc phải mặc áo khoác ra bên ngoài áo ngắn tay. Chú rể phải mặc đầy đủ
ảo truyền thống gồm: mũ, áo trong, ngoài, quần, vòng bạc, dép quay hậu vàng.
Đầu cuốn khàn hai lớp dành cho người đại diện thay bố mẹ nhà trai khi sang nhà
gái mới phải đội hai lớp khăn bên bằng vải lanh nhuộm chàm đen và đeo một
sừng trâu bên trong đựng rượu, khi đi đường gặp ai thì cho họ uống để mừng,
đến nhà gái rót rượu trong sừng ra để nói chuyện người lớn với nhà gái. Người
chủ hôn (người đại diện nhà trai), phù rể và bố chủ rể cũng mặc giống như ngày
thường nhưng phải là quần áo mới và khoác thêm áo khoác cộc tay ra bên ngoài
áo ngắn dài tay.
2.1.4.2. Trang phục trong ma chay
Lễ tang nhằm thể hiện tình cảm đối với người quá cố, là biểu hiện của nếp
sống văn hóa, là biểu hiện của những tập quán truyền thống , của nhận thức về
cái chết và các mối quan hệ thân tộc, xã hội, của người sống đối với người chết
qua đám tang, hàng loạt những yếu tố văn hóa được biểu hiện trong đó có tang
phục. Tang phục là cách phục sức đặc biệt với những nét đặc trưng của văn hóa
33
tộc người, biểu hiện sự đau buồn xót thương, có khi là niềm hoan hỷ đối với
việc thân nhân đã thoát ly cái hạn hữu của kiếp người. Ý nghĩa của trang phục
tuỳ thuộc vào sự hình dung về nhân sinh, về vũ trụ của từng tộc người cụ thể.
Nếu như trong lễ tết, hội hè, đình đám trang phục như bằng sắc cùng thiên
nhiên đây tươi đẹp, trang phục như hoà cùng với niềm vui của con người thì
trong tang ma, trang phục lại có một thế giới riêng, phù hợp với nhu cầu về tín
ngưỡng, tâm linh đang ẩn chứa trong mỗi con người H’mông, trang phục như có
sự đồng cảm với nỗi buồn khổ đau của con người khi mất đi người thân. Ở
người H’mông đen, dù nam hay nữ, sau khi chết đi đều được mặc áo phụ nữ và
đội khăn. Đàn ông nào chết cũng đều phải mặc váy giống phụ nữ. Người chết
phải được mặc quần áo làm bằng sợi lanh vì theo quan niệm của đồng bảo, nếu
mặc bằng sợi bông hay chất liệu khác, người chết sẽ không thể đi gặp tổ tiên
được. Áo dài tay của người chết khác áo phụ nữ mặc hàng ngày. Khi để xác
quàn ở trong nhà, người chết được che mặt bởi một chiếc khăn nhuộm chàm.
Người được đắp nhiều lớp vải lên mình, số lượng vải đắp này tùy thuộc vào
những người đến phúng viếng họ biểu cho người chết. Trong bàn tay người chết
người ta để mười hai que tre nhỏ buộc chặt bằng sợi lanh (nếu để trong quan tài
thi không buộc gì, để bình thường). Theo như giải thích của đồng bào thì khi
linh hồn của người chết đi đến cõi âm, gặp con rồng thì đút mười hai que tre
buộc sợi lanh đó vào miệng con rồng với mong muốn có thể đầu hai trở lại, nếu
không có các que tre đó, hồn người chết sẽ bị con rồng lấy đi, người chết sẽ
không thể đầu thai được. Khi người đàn ông chết, mặc trang phục nữ bao gồm
khăn đội đầu, áo nữ, váy, tạp dề, thắt lưng và đầu gối khăn gối đầu, chân quấn
xà cạp, đi giầy vải. Đối với áo nữ, phải mặc áo dài tay (loại áo có thêu, in hoa
văn bằng sáp ong), chân đi giày may bằng vải lanh, đế giày được lót bằng mo
cau giống như hình cái thuyền, trên đầu có trang trí và thêm biểu tượng mào gà
(trang phục của đàn ông ăn mặc giống nữ giới như đã mô tả ở phần trên). Khi
người đàn ông chết sẽ phải mặc áo, váy, tạp dề của phụ nữ. Theo sự giải thích
của ông Vàng A Dế 60 tuổi, ở thôn Can Ngài, xã Tả Phìn, thị xã Sa Pa thì thì
ngày xưa trong chiến tranh giữa người Hán và người H’mông, người Hán chi
34
giết đàn ông chứ không giết đàn bà nên đàn ông H’mông khi chết phải cải trang
thành đàn bà, mặc áo và cuốn khăn như phụ nữ để khi đi đường về với tổ tiên
mới không bị ma người Hán làm hại. Vì thế cho nên ngày nay đàn ông người
H’mông đen khi chết vẫn mặc chiếc áo và váy của phụ nữ. Bên cạnh đó, ngày
xưa do chiến tranh giữa người H’mông đen và người Hán mà tổ tiên của họ phải
di cư tới đây nhưng chỉ có phụ nữ mới được đi qua biên giới còn đàn ông hầu
như bị giết chết hoặc bị bắt lại làm lính, họ đã nghĩ ra một cách là thay đổi trang
phục nam sang mặc váy, cuốn khăn trên đầu đóng giả như phụ nữ để người Hán
không phát hiện ra mới qua được biên giới. Do đó, khi chết đàn ông cũng phải
mặc trang phục như phụ nữ để trở về với tổ tiên.
2.1.4.3. Trang phục trong lễ hội
Những ngày lễ tết là những ngày sinh hoạt cộng đồng, ngày vui chơi cho
thanh thiếu niên và các cụ già, đó là dịp sinh hoạt vui chơi giải trí, sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian, nên hầu như người nào cũng muốn mặc đẹp, mặc quần áo mới.
Tết là dịp để người H’mông đen khoe những bộ quần áo mới và đẹp nhất của
mình. Trong những ngày tết, người già mặc quần áo đẹp để đi chơi, thăm hỏi
nhau về sức khỏe, về gia đình, còn thanh niên mặc quần áo mới để đi tìm hiểu
bạn trai, bạn gái làm chồng làm vợ sau này. Trong dịp tết, dịp lễ hội nhiều đôi
trai gái đã trở thành vợ thành chồng. Đi chơi tết, người H’mông đen dù là con
trai hay con gái đều phải mặc cho mình một bộ quần áo mới, nếu không có áo
mới đi chơi tết để dẫm hạt cỏ thì sau này làm nương cây cỏ sẽ mọc nhiều như lời
một bài hát H’mông “... Đi dẫm hạt cỏ, miệng có không mọc được, để chúng ta
chăm sóc cây giống, con giống cho tốt...cho chúng ta được mùa...”. Việc sử
dụng trang phục mới, đẹp, trong ngày lễ tết hội hè, là nét đẹp văn hóa của dân
tộc. Ông cha ta có câu “Gà đẹp nhờ bộ lông, người đẹp nhờ quần áo”, đối với trẻ
em trong ngày tốt, ngày hội có được quần áo mới thì mừng, điều đó cho thấy
nếp sống tộc người qua trang phục. Trong những dịp sinh hoạt này, trang phục
không chỉ là chức năng vật chất thuần túy mà nó đạt đến chức năng thẩm mỹ.
Mặc đẹp, mặc sạch không chỉ cho riêng mình mà vì mọi người, vì cái đẹp của
35
cộng đồng.
2.2. Những biến đổi trong trang phục truyền thống của người H’mông đen
ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Với 110 năm lịch sử, Sa Pa là một trung tâm du lịch lớn vùng Tây Bắc
của tổ quốc nên ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX , giao thông khá phát
triển , sự có mặt của người Pháp cùng với sự xuất hiện của nhiều khách du lịch
trong suốt quá trình phát triển đã tạo ra những tác động không nhỏ đến mọi mặt
của đời sống xã hội ở những nơi có khách du lịch. Trong đó, tác động trước hết
là những người làm về dịch vụ phục vụ du lịch về lối sống, sống và nhiều mặt
khác đặc biệt về trang phục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế,
xã hội cùng với việc mở rộng hệ thống giao thông, chợ, dịch cụ, đời sống vật
chất của người H’mông đen đã thực sự thay đổi. Nền kinh tế hàng hóa đã phá vỡ
sự trì trệ của nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời đại bùng nổ thông tin người
H’mông đen có đồng cư dân khác không chỉ lân cận mà còn rất xa cả trong nước
và thế giới. Thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, tất cả các điều
kiện trên có tác động nhất định đến các khía cạnh khác nhau trong tập quán
trang phục của người H’mông đen ở Sa Pa hiện nay.
Cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, tuy với cấp độ khác nhau giữa
các nơi và các nhóm, trang phục của người H’mông đen hiện nay đang biển đổi
do tác động từ bên ngoài và cả nguyên nhân nội tại trong đời sống của đồng bào.
Trang phục có những biểu hiện sự biến đổi cơ bản về chất liệu vải, về công cụ,
trang trí hoa văn và cách sử dụng.
2.2.1. Biến đổi về chất liệu
Chất liệu tạo ra trang phục không bó hẹp vào sợi lanh mở rộng sang vải
dệt công nghiệp. Đối với người H’mông đen quần áo của họ thường được may
bằng vải lanh, đồng bào vẫn trồng lanh để dệt vải. Khi được hỏi tại sao không sử
dụng chất liệu vải truyền thống để may, người dân cười nói rằng vải công
nghiệp được bày bán tràn lan, phong phú về chủng loại, mẫu mã đẹp, giá cả rẻ
hơn chất liệu truyền thống. Trong khi muốn dệt một tấm vải truyền thống lại
36
phải trải qua nhiều khâu từ trồng lanh, phơi khô, tước lấy sợi, nối sợi, quay
thành cuộn, sau đó luộc sợi, giặt sợi, làm trắng sợi, lên khung dệt, nhuộm chàm,
vè sáp ong, thêu thùa hoa văn… Thời gian trung bình cũng phải mất vài tuần,
một tháng mới có thể có được tấm vải ưng ý. Điển hình như chiếc quần cộc của
nữ người H’mông đen ở Sa Pa hiện nay hầu hết được may bằng vải công nghiệp
từ Trung Quốc đưa sang hoặc đưa từ dưới xuôi lên.
Về nguyên liệu nhuộm: Người H’mông đen ở Sa Pa họ vẫn trồng chàm để
nhuộm vài may quần áo bởi họ rất thích với nhuộm chàm, đa số các gia đình vẫn
trồng chàm để lấy thuốc nhuộm vải. Tuy nhiên, về thuốc nhuộm cũng có sự thay
đổi đáng kể, ngoài màu truyền thống, đồng bào còn mua các loại thuốc nhuộm
hóa học được bày bán sẵn ở chợ về nhuộm, nhất là các loại chỉ thêu.
Về công cụ: Người H’mông đen ở Sa Pa có sự thay đổi về khung dệt,
công cụ chính để làm ra vải may quần áo. Qua khảo sát cho thấy, Người
H’mông đen một số còn dệt vải bằng khung dệt của mình, một số khác họ tiếp
thu khung dệt của người Giáy, có lẽ do sự tiện dụng của nó khiến cho họ chuyển
sang khung dệt này.
2.2.2. Biến đổi về cách tạo trang phục
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, diện mạo ở Sa Pa đã đổi
thay về mọi mặt, đời sống tinh thần được nâng lên, việc trao đổi giao lưu văn
hóa được mở rộng, du lịch phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới ấy, những
bản sắc văn hoá truyền thống của người H’mông ngày càng mất dần đi, trong đó
có trang phục truyền thống của người H’mông.
Điều đáng suy ngẫm là nếu như trước đây, khi đến vùng của người
H’mông chúng ta đều thấy nam nữ người H’mông từ già đến trẻ đều mang trên
mình những bộ trang phục truyền thống có nét đặc trưng riêng của dân tộc, thì
nay những bộ trang phục truyền thống ấy ở nơi người H’mông đã dần biến mất.
Từ váy áo của nữ giới đến quần áo của nam giới không còn được may bằng vải
lanh như trước kia mà được thay bằng vải cotton, vải láng.
37
Hiện nay khung cửi và guồng quay sợi không còn được H’mông đen tại
thị xã Sa Pa sử dụng. Họ không còn làm nghề dệt vải như trước nữa. Những
công cụ làm ra vải và trang phục không còn được sử dụng. Hiện nay đa phần
trang phục truyền thống của người H’mông đen ở thị xã Sa Pa, Lào Cai mua chủ
yếu của Trung Quốc. Họ không còn tự tay mình làm ra những bộ trang phục. Có
chăng cũng chỉ là mua những phụ kiện về và máy lại với nhau chứ không còn tự
tay mình làm ra bộ trang phục của mình từ đầu tới cuối. Vải làm trang phục
cũng chỉ là vải công nghiệp dệt sẵn chứ không còn là vải lanh tự nhiên như
trước đây. Hiện nay các hoa văn in trên vải chủ yếu là in công nghiệp chứ không
còn thêu tay như trước nữa. In như thế này hoa văn trở nên đều đẹp và vải mịn
không bị thô như vải thêu tay thông thường.
Vải được mua từ chợ có thể là vải trắng đem về nhuộm chàm hoặc đồng
bào mua trực tiếp các loại vải màu về cắt may quần áo cho mình. Những mảnh
vải công nghiệp được bán trong các phiên chợ. Đồng bào mua vải sẽ đỡ tốn một
khoảng thời gian dài để gia công xe sợi làm vải. Tuy vải công nghiệp không
được tốt và bền như vải lanh truyền thống nhưng nó có một ưu thế là đẹp, mịn
mềm, tuy không phải là rẻ nhưng lại đỡ mất thời gian và công sức nên hiện nay
người H’mông chọn mua vải về làm váy hơn là tự làm vải. Một số mua hẳn bộ
váy, những bộ váy mặc thường ngày để làm sản xuất có giá giao động từ 2- 4
triệu đồng một bộ (bao gồm cả áo, váy, khăn đội đầu, xà cạp, yếm ) còn những
bộ váy đã được cách điệu để đi hội, đi chơi thì có giá giao động từ 7-10 triệu
đồng. Hiện nay váy người H’mông được cách điệu lên rất nhiều.
Người phụ nữ H’mông vẫn thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ của mình trên
những mảnh vải thêu. Tuy nhiên số người hứng thú và yêu thích công việc này
càng ít. Do hiện nay trên thị trường có nhiều mặt hàng có mẫu mã đẹp thu hút
được thị hiếu của người dân. Hiện nay trang phục ghép những mảnh vải thêu
ngày càng trở nên ít hơn do thêu vải tốn rất nhiều thời gian. Trang phục truyền
thống hiện nay đang dần bị mai một nó được thể hiện qua hình ảnh người đàn
ông mặc quần áo sơ mi, áo phông khi tiết trời nắng ấm hoặc mặc những chiếc áo
38
khoác từ miền xuôi mang lên đã trở thành phổ biến ở vùng cao.
Quần cũng vậy, nhiều người không còn dùng quần do mình tự thêu dệt mà
là những chiếc quần may sẵn (hàng của Trung Quốc) được bày bán ở chợ, các
họa tiết hoa văn trên quần không phải là thêu bằng sợi chỉ mà là những họa tiết
được in ấn bằng mực với máy hiện đại lên mặt chất vải.
2.2.3. Biến đổi về nghệ thuật trang trí
Về mô típ - bố cục
Trang phục hiện nay làm từ chất vải công nghiệp của trung Quốc nhưng
mẫu mã, hoa văn vẫn là hoa văn mô típ của dân tộc H’mông đen. Trung Quốc đã
sưu tầm những hình thức, mô típ hoa văn của dân tộc H’mông đen, đem về tạo
thành những bản in áp dụng trong sản xuất trang phục công nghiệp đại trà.
Ngoài làm ra những bộ trang phục truyền thống theo chất liệu công nghiệp hiện
nay trung Quốc còn sáng tạo ra những bộ trang phục H’mông cách tân với nhiều
kiểu dáng, đa dạng. Chủ yếu là mô típ áo cổ tròn, tay áo làm đa phần bằng vải
thêu ren và loe rộng ở phần cổ tay. Cổ áo không còn đóng kín cổ như trước đã
có sự phóng khoáng hơn trong cách tạo trang phục. Trong quá trình phát triển,
bộ trang phục dần thay đổi về kiểu dáng và màu sắc. Chiếc áo được may ngắn
lên hay dài ra, cổ tay dần được thu nhỏ lại. Bộ trang phục hiện nay thay đổi về
kích thước những chiếc váy có thể ngắn hơn hoặc dài hơn đầu gối, có bộ chân
váy được làm bằng vải ren mỏng. Có những bộ trang phục dài tới tận gót chân.
- Về hoa văn
Nhiều loại hình hoa văn đặc sắc hơn trước. Hoa văn chủ yếu được in bằng
máy. Đồng đều hơn loại váy do người dân tự làm hoa văn chủ yếu vẫn là hoa
văn cũ và có sự sáng tạo thêm những kiểu hoa văn mới đẹp mắt, có nhiều mẫu
mã, vải ren được dùng rất nhiều trong trang phục H’mông hiện nay.
- Về màu sắc
Khác với người H’mông đen và vùng nội địa, người H’mông đen ở biên
giới có xu hướng ngày càng vượt khỏi sắc màu thiên nhiên, phải rực rỡ và nổi
39
bật trước không gian núi rừng vùng cao tràn ngập màu lạnh. Tất nhiên, nghệ
thuật sử dụng màu sắc ở mỗi vùng cũng khác nhau. Ở vùng sâu nội địa y phục
ngày hội của phụ nữ H’mông đen được trang trí nhiều băng dải hoa văn đẹp ở
vai, cánh tay, thắt lưng, gần gấu váy. Nhưng các hoạ tiết hoa văn này do ít sử
dụng tối đa màu đỏ vàng mà thiên màu lơ, lụa, tím nên hoa văn không rực rỡ, ít
có cảm giác chói, nóng.
2.2.4. Biến đổi về phụ kiện và đồ trang sức
Đồ trang sức cổ truyền của người H’mông đen chủ yếu làm bằng bạc, gần
đây một số nơi mới sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm, kẽm, đồng. Bộ đồ
trang sức của người H’mông ở Cát Cát thường có khuyên tai (câux nhas), vòng
cổ, (pâux chax đangz), vòng tay (pâux tês), bộ xà tích (lăngx hliaz), nhẫn (ntir
blaiz) và răng vàng (nar cul). Phụ nữ người H’mông thường đeo nhiều khuyên
tai bằng nhôm, mỏng, toàn thân hình xoắn ốc, mỗi bên tai đeo ít nhất một cái
còn thường là hai, ba cái. Trên mặt của những chiếc khuyên tai trang trí nhiều
họa tiết, trong đó chủ yếu là họa tiết xoắn ốc, một họa tiết trang trí chủ đạo của
người H’mông. Vì đeo nhiều loại vòng khuyên như thế nên từ khi còn nhỏ đã
được xâu lỗ tai.
Hiện nay các đồ trang sức của người H’mông chủ yếu là làm bằng nhôm
và đồng. Những nhà khá giả bắt đầu dùng những đồ trang sức như vàng ta, vàng
tây, bạc không còn nguyên chất như trước. Còn đa phần những nhà không có
điều kiện họ chỉ dùng những đồ trang sức bằng nhôm bằng đồng, hiện nay còn
có nhiều đồ mĩ kí, đồ trang sức bằng nhựa. Trẻ con rất thích dùng những đồ
trang sức. Có khi một cổ tay đeo 4 - 5 cái vòng tay, đeo vòng cổ, khuyên tai.
2.2.5. Biến đổi về sử dụng trang phục
Ngày nay, đa số người H’mông đen chỉ mặc trang phục truyền thống vào
những dịp quan trong như đám cưới, đám ma, ngày tết, hội hè. Đối với người
lớn tuổi ngày thường họ đa số họ cất giữ các bộ trang phục của mình chỉ khi đi
đầu mới mặc và quần áo giống của người Kinh, đặc biệt giới trẻ người H’mông
đen hiện nay không thích trang phục truyền thống mà thích mặc trang phục của
40
người Kinh hơn. Ngày nay phần lớn nam nữ H’mông đen theo thời gian thành
thói quen mặc quần tây, quần Jeans, áo khoác với các kiểu model khác nhau
hoặc bên ngoài họ mặc áo truyền thống nhưng bên trong họ mặc áo phông, sơ
mi. Không chỉ người lớn mà trẻ con cũng vậy, thường những em nhỏ chỉ mặc
những bộ quần áo may sẵn bán ở chợ chỉ khi lễ hội hoặc ngày Tết mới sử dụng
trang phục truyền thống, Trong bộ trang phục truyền thống ít bị biến đổi nhất có
lẽ là áo của nữ giới. Cùng với những biến đổi về loại hình trang phục thì trong
cung cách ứng xử với trang phục, chất liệu trang phục cũng có nhiều thay đổi.
2.2.5.1. Trang phục hàng ngày
Trang phục của người kinh thuận lợi trong giao tiếp còn quần áo của dân
tộc rườm rà, sự cầu kỳ trong trang phục gây khó khăn, vướng víu trong công
việc, sinh hoạt hàng ngày, ngoài ra họ ngại mặc bởi vì khó hòa nhập. Điều này
dễ nhận thấy khi cuộc sống của người dân đã cải thiện và nâng cao hơn.
Ngày nay khi đi chợ, đi lên nương họ thay trang phục truyền thống bằng
trang phục giống như người Kinh, nam giới họ thường mặc quần vải, áo thun vì
nó có độ co dãn cao thoáng mát thấm hút mồ hôi thuận tiện cho việc di chuyển
lao động. Còn ở nữ giới họ vẫn mặc quần truyền thống, nhưng áo thì họ thay
bằng áo phông hoặc áo sơ mi mặc bên trong tùy vào sở thích của họ. Vì trang
phục truyền thống chất liệu vải dày gây nóng nực khó chịu vào mùa hè, không
thoải mái khi di chuyển, làm những công việc nặng nhọc.
2.2.5.2. Trang phục trong đám cưới
Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong cuộc đời mỗi con người, vì vậy
trước khi cưới, gia đình phải chuẩn bị cho mình một bộ trang phục thật đẹp
trong ngày quan trọng này. Trong ngày cưới chú rể H'mông đen ở Sa Pa thường
mặc trang phục truyền thống mới và bắt buộc phải mặc thêm áo khoác ra ngoài
áo ngắn dài tay. Chú rể phải mặc đấy đủ áo truyền thống gồm: mũ, áo trong, áo
ngoài, quần, vòng bạc, dép quai hậu vàng.
Các chàng trai cô gái nên duyên này đã không còn sử dụng trang phục
41
truyền thông như ngày xưa nữa, những bộ trang phục nguyên bản sử dụng đang
thưa vắng dần, trang phục truyền thống không còn được duy trì nhiều, đặc biệt
trong các đám cưới không chỉ có cô dâu chú rể khoác lên minh bộ đồ cưới theo
phong cách hiện đại như nhẫn cưới dây chuyền vàng...
Chàng trai H'mông đen trong đám cưới hiện nay đại đa số đã không còn
sử dụng khăn đội đầu, bạc, dép quai hậu... Trang phục nam giới người H’mông
đen thì thay bằng những bộ vest áo sơ mi quần âu, tay đeo nhẫn vàng và sử dựng
những đôi giày da lịch lãm. Trang phục truyền thống dần bị quên lãng và ít là sự
lựa chọn trong đám cưới ngày nay nữa.
Phụ nữ H’mông đen ở Sa Pa đã thay đổi trang phục truyền thống bằng áo
dài, bằng váy cưới trắng nhiều tầng giống người Kinh cách điệu dài ngắn và bên
cạnh đó còn đa dạng về màu sắc tùy vào sở thích của từng người. Những người
sử dụng những bộ trang phục truyền thống thì cũng đã được cách điêu, không
còn vẻ nguyên bản như ban đầu nữa.
Qua tìm hiểu ở một số thanh niên H’mông đen ở Sa Pa, họ đưa ra một số
lý do như: Họ thấy trang phục trong đám cưới của người Kinh đẹp, lộng lẫy,
sang trọng văn minh. Còn trang phục truyền thống của họ thì màu đen không
đẹp, không lịch sự.
2.2.5.3. Trang phục trong lễ hội
Trong các dịp lễ hội, người H'mông đen thường rất chỉnh chủ về trang
phục của họ. Là dịp để họ khoe những bộ quần áo mới đẹp nhất của mình.
Những người già thường tới để thăm hỏi nhau về sức khoẻ, gia đình, còn những
thanh niên diện những bộ đồ xinh đẹp để tìm hiểu nhau để tìm hiểu nên duyên
vợ chồng sau này. Việc mặc những trang phục mới, đẹp trong ngày hội hè là nét
đẹp văn hoá dân tộc H’mông đen.
Ngày nay, lễ hội xuất hiện nhiều trò chơi mới bên cạnh nhưng trò chơi
truyền thống và trang phục khi đi lễ hội cũng bị thay đôi theo để phù hợp với
cách chơi của trò chơi đó. Họ thay bằng áo phông, áo croptop quần thể thao để
42
di chuyển dễ dàng hơn khi chơi. Hoặc là những bộ váy cách điệu giống dân tộc
Kinh với đủ kiểu dáng mà không phải là trang phục truyền thống nữa. Nên nhiều
khách du lịch khi đến Sa Pa vào mùa lễ hội của người H’mông đen họ không dễ
nhận ra được đây lễ lễ hội của dân tộc nào và đâu là trang phục truyền thống của
họ. Hoặc một phần khác những cô gái vẫn sử dụng chiếc chân váy truyền thống,
nhưng thay vì áo cùng bộ thì họ sử dụng nhưng chiếc áo theo xu hướng giới trẻ
hiện nay. Nhưng số ít vẫn có những người lớn tuổi họ vẫn lựa chọn mặc trang
phục truyền thống vào những dịp này.
2.2.6. So sánh biến đổi trong trang phục của người H’mông đen với
người H’mông khác
Hiện nay, cách mặc và sử dụng trang phục của người dân tộc H'mông đen
cũng khá giống với các tộc người H’mông khác như H’mông trắng, H’mông đỏ.
đa phần người H’mông mặc trang phục thống không còn nguyên bản. Người dân
cũng đan xem giữa mặc trang phục truyền thống phối hợp với các trang phục
người Kinh ví dụ như áo phông, quần bò. Người dân sẽ mặc bên trong trang
phục truyền thống một lớp áo phông (áo xuất xứ từ bên Quảng Châu - Trung
Quốc), những phụ kiện trang sức đi kèm cũng được tối giản hóa hoặc thay thế
bằng trang sức bên ngoài.
Chất liệu vải để tạo nên trang phục hiện nay cũng dần thay thế bằng các
chất liệu vải tổng hợp, vải công nghiệp giúp người làm dễ dàng hơn và rút ngắt
được công đoạn đỡ vất vả hơn. Không mấy khó khăn để có thể mua được các
loại vải, sợi cần thiết để may trang phục truyền thống mà người dân vẫn mặc
ngày nay. Các cửa hàng tạp hóa ở ngay trung tâm luôn rất sẵn các loại vải và sợi
màu để lựa chọn. Vải sợi hóa học tuy không có được nhiều thuộc tính tốt như
vải, sợi tự nhiên nhưng chúng có độ bền cao và lại rất tiện dụng. Vì vậy, khoảng
chục năm trở lại đây, phụ nữ H'mông đen và các tộc người khác nói chung dùng
các loại vải, sợi này để may trang phục truyền thống.
Trang phục thường ngày của người H’mông đen cũng như nhưng tộc
người H’mông ở Sa Pa như H’mông hoa, H’mông đỏ thường thường khá giống
43
nhau. Họ sẽ tối giản các phần không cần thiết của trang phục và đan xen các loại
áo quần của người kinh như áo phông, quần bò hay quần vải vào cuộc sống hàng
ngày để bớt đi sự rườm rà tiện hơn trong việc sinh hoạt thường nhật hằng ngày
của đồng bào dân tộc.
Trong những ngày lễ quan trọng: lễ hội, cưới xin, ma chay cũng tương tự
như vậy. Những người lớn tuổi đa phần sẽ mặc trang phục truyền thống ít có sự
xuất hiện của trang phục người Kinh, nhưng với những người trẻ sẽ mặc lẫn với
trang phục của người Kinh lẫn với trang phục truyền thống.
Trong ngày cưới trọng đại cô dâu và chú rể sẽ mặc trang phục truyền
thống của dân tộc không có sự đan xen áo phông hay sơ mi quần bò nhưng trang
phục sẽ có sự cách điệu hơn so với trang phục truyền thống xưa.
Trong chay người mất sẽ được mặc trang phục truyền thống hạn chế việc
mặc các trang phục khác với quan niệm ông bà tổ tiên sẽ nhận ra được con cháu.
Trong lễ hội những người đứng đầu phụ trách phần lễ cúng bái đặc biệt
mặc trang phục dân tộc không có sự có mặc của trang phục khác xen lẫn vào để
thực hiện nghi thức tế lễ thần linh. Còn những người tham gia lễ hội có người
mặc những trang phục truyền thống, có người sẽ có sự pha lẫn giữa truyền thống
và Kinh, cũng có một bộ phận giới trẻ sẽ mặc toàn bộ là đồ người Kinh.
2.3. Nguyên nhân của sự biến đổi trong trang phục truyền thống của người
H’mông đen thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Trang phục ra đời trước hết là vì con người, đáp ứng nhu cầu của con
người trong đời sống. Do quá trình hội nhập, toàn cầu hóa nhanh chóng, sự giao
thoa văn hóa mạnh mẽ cùng với sự tác động của kinh tế thị trường, nhất là Sa Pa
lại là một điểm du lịch, trang phục dân tộc H’mông đen đang ngày càng biến đổi.
Sự biến đổi về trang phục H’mông đen hiện nay do hai nguyên nhân: nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Hiện nay, do sống trong môi trường du lịch phát triển, người dân có điều
44
kiện tiếp xúc với văn hóa bốn phương thông qua khách du lịch (chủ yếu là khách
phương tây) cùng với quá trình toàn cầu hóa, thông tin bùng nổ, sự giao thoa
giữa các nền văn hóa khác nhau là xu thế chung của thời đại, thanh niên hiện
nay đã có quan điểm sống hướng ngoại và cởi mở hơn, thị hiếu của giới trẻ cũng
có nhiều thay đổi. Cuộc sống hiện đại nhường chỗ cho những bộ trang phục
phương tây tiện lợi, nhiều cô gái trẻ không còn quan tâm đến thêu thùa váy áo
truyền thống. Trước đây, người ta đánh giá vẻ đẹp, đức tính của một cô gái
thông qua trang phục họ tự thêu và số chăn đệm họ tự dệt, để mang về nhà
chồng, thì nay ít người quan tâm đến. Điều đó cho thấy, sự thay đổi tâm lý cộng
đồng rất rõ, nhiều thanh niên còn ngại mặc trang phục truyền thống của mình vì
lý do không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Qua đó, thấy rõ sự đổi thay về thị
hiếu của một bộ phận giới trẻ dân tộc H’mông đen trong thời kỳ hội nhập và đây
chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự mai một trong trang phục của
người H’mông đen.
2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là do kinh tế và tác động về mặt văn hóa và biến
đổi về ý thức tộc người. Trước đây, nền kinh tế của người H’mông đen hoàn
toàn dựa trên nền kinh tế tự cung tự cấp, tương đối bó hẹp, đời sống gặp nhiều
khó khăn, nhiều nơi đồng bào còn phải lo cái ăn từng bữa. Trong khi, để làm ra
một bộ trang phục truyền thống phải mất nhiều thời gian và tiền bạc để hoàn
thành khi điều kiện kinh tế còn eo hẹp nên sản phẩm làm ra chỉ đáp ứng nhu cầu
thường nhật nhưng họ vẫn thích tạo ra quần áo dân tộc, bởi họ rất tự hào về
trang phục truyền thống của mình. Nhưng hiện nay, các địa phương nơi người
H’mông đen sinh sống ở Sa Pa, nền kinh tế thị trường đang đà phát triển mạnh
mẽ, nhất là trong lĩnh vực hoạt động du lịch. Nếu như trước đây, sản phẩm của
đồng bào làm ra chỉ đảm bảo nhu cầu mặc của các thành viên trong gia đình thi
nay đã trở thành hàng hoá, có mặt trên thị trường, đem lại nguồn lợi kinh tế
không nhỏ cho cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, sự xuất hiện nhiều loại
quần áo may sẵn bán trên thị trường được người dân lựa chọn rất phong phú về
45
chủng loại, đa dạng về mẫu mã, màu sắc đẹp mắt, mới lạ, đã tạo ra sức hút đối
với người H’mông đen, đặc biệt là tầng lớp trẻ có tâm lý thích “diện” và thích
đối "mốt". Để có quần áo và các loại vải may mặc, họ có thể mua sẵn bởi chúng
vừa rẻ lại rất tiện ích bởi chất liệu nhẹ, tiện dụng, dễ giặt và nhanh khô và phù
hợp trong quá trình sử dụng, kéo theo là không phải mất nhiều công sức, thời
gian và phí tốn kém để làm ra bộ trang phục truyền thống. Do đó, việc lựa chọn
sử dụng nguyên liệu và các sản phẩm sẵn để sử dụng cũng là điều dễ hiểu.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã giúp chúng ta nhận biết rõ các loại trang phục, nói rõ về chất
liệu, quy trình làm ra một bộ trang phục như nào. Ngày nay xã hội ngày càng
phát triển, con người chạy theo xu hướng, sở thích riêng từ đó dẫn đến sự biến
đổi trong quy trình sản xuất, sự thay đổi về kiểu dáng trang phục. Càng ngày
trang phục truyền thống không được sử dụng nhiều nữa mà thay vào đó là trang
46
phục của người Kinh.
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA TRANG PHỤC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRANG PHỤC
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG ĐEN
Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI
3.1. Ý nghĩa của trang phục truyền thống của người H’mông đen
3.1.1. Phản ánh tư duy kỹ thuật thủ công
Trang phục là kết quả của một quy trình sản xuất thủ công, với các công
đoạn từ khâu tước vỏ lanh, nối lanh, rồi cuộn lại từng cuộn. Để có được sợi lanh
màu trắng, đồng bào phải cho vào nước tro, ủ, giặt, luộc sợi, kéo sợi dệt vải,
nhuộm chàm, thêu hoa văn, may quần áo. Các bước để làm ra trang phục đều
được tiến hành bởi đôi bàn tay của người phụ nữ, gắn với hoạt động của từng
gia đình, đó là quá trình lao động thủ công, để có thể tạo ra một bộ trang phục,
đồng bào phải trải qua quá trình lao động sáng tạo lâu dài với lối tư duy kỹ thuật
đạt đến trình độ cao của người H’mông đen.
3.1.2. Phản ánh mỗi quan hệ của người H’mông với môi trường sống
Người H’mông đen cư trú trên các sườn núi cao, sinh sống chủ yếu bằng
nghề nông nghiệp trồng trọt, trải qua nhiều thế hệ, đồng bào H’mông đen đã tích
lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về điều kiện với trường tự nhiên để thích
ứng cho phù hợp. Đồng bào biết khai thác các nguồn lợi tự nhiên có sẵn để phục
vụ cho cuộc sống của cộng đồng và trang phục H’mông đen được hình thành từ
đó. Trang phục là những thứ cần thiết để đồng bào chống rét, bảo vệ cơ thể nên
quần áo phải đảm bảo độ dày nhất định, đồng bào chọn cây lanh “mangx” là
nguồn nguyên liệu chính tạo ra vài may quần áo, bởi ưu điểm của loại cây này
rất thích hợp sống ở những nơi núi cao, có độ dốc lớn, sợi lanh qua chế biến có
sức dẻo dai, co dãn, khi mặc có tác dụng giữ nhiệt về mùa đông, thoáng mát và
thấm mồ hội về mùa hè.
Như vậy, với địa danh Sa Pa nổi tiếng là một trung tâm nghỉ mát và du
47
lịch của cả nước, với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mát mẻ vào mùa hè nhưng rất
lạnh vào mùa đông, thiên nhiên đã ban tặng cho con người nơi đây những nguồn
lợi ưu đãi to lớn về mọi mặt nhưng đồng thời thiên nhiên cũng là lực lượng
thường xuyên đe dọa cuộc sống tộc người. Sống trong điều kiện tự nhiên như
vậy, cùng với các yếu tố văn hóa vật chất khác, trang phục đã góp phần quan
trọng trong việc thích ứng của con người với môi trường. Trang phục truyền
thống đã thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử với thiên nhiên và đời sống của
người H’mông đen.
3.1.3. Phản ánh đời sông kinh tế xã hội của người H’mông
Trải qua nhiều thế hệ, người H’mông đen đã tích lũy cho mình một kho
tàng kinh nghiệm phong phú về thích ứng, cải tạo và khai thác phục vụ cho cuộc
sống của mình. Họ đã biết tận dụng nguồn lực phẩm, có sẵn trong tự nhiên để
duy trì sự sống. Họ sống chủ yếu dựa vào tự nhiên, với nền kinh tế cung tự cấp
là chủ yếu, nghề trồng trọt làm nương rẫy là chính, kết hợp với săn bắt, hái lượm.
Từ cỏ cây trong thiên nhiên, người H’mông đen đã biết trồng cây lanh (manga)
để lấy sợi dệt vải và trồng cây chàm (gangx) để làm thuốc nhuộm, lựa chọn cây
rừng để làm khung dệt vải... họ đã sáng tạo, làm ra cái mặc, chống lại mùa đông
giá rét ở vùng núi cao, đem lại cảm giác mát mẻ vào mùa hè. Trang phục chính
là kết quả quá trình cần cù lao động, tư duy sáng tạo của người H’mông đen
trong việc chế tạo ra quần áo mặc.
Trong cộng đồng người H’mông đen ở Sa Pa tỉnh Lào Cai, việc phân
công lao động rất rõ dàng giữa các thành viên, tuỳ theo độ tuổi và theo giới.
Trong gia đình, người nam giới không chỉ gánh vác mọi công việc nặng nhọc
mà còn rất giỏi trong việc làm mộc, làm thợ rèn, chạm bạc... Đối với phụ nữ,
ngoài công việc nội trợ, chăm sóc con cái họ còn làm nương, xe lanh, dệt vải,
thêu thùa may quần áo cho các thành viên trong gia đình. Chính từ sự phân công
lao động như vậy mà các em bé gái H’mông đen ngay từ rất nhỏ, từ khi lên bảy,
lên tám tuổi đã được các mẹ, các chị dạy cho cách làm quen với việc may vá,
lớn lên các em có đủ khả năng tự tạo ra những bộ quần áo đẹp cho mình và cho
48
những người thân trong gia đình. Phụ nữ H’mông đen rất giỏi khâu vá, thêu thùa,
se lạnh, dệt vải, hễ họ có thời gian họ lại ngồi vào khung dệt, họ thêu ở bất cứ
đâu, bất cứ khi nào mà đôi tay họ rảnh, những giây phút thì ngơi mỗi khi trên
đường lên nương, xuống chợ... bàn y của họ luôn thấm đẫm màu chàm. Như vậy,
trang phục đã góp phần phản ánh nền kinh tế nông nghiệp của người H’mông
đen, thể hiện tư duy sáng tạo qua nhiều thể hệ, tiếp nổi nghề dệt vải của đồng
bào, cùng với sự phân công lao động trong xã hội của họ, cho thấy phụ nữ
H’mông đen là chủ nhân sáng tạo và làm ra trang phục cho bản thân và các
thành viên trong gia đình, là căn cứ để đánh giá khả năng lao động và đức tính
cần cù của phụ nữ H’mông đen. Từ đó cho thấy, vai trò của người phụ nữ trong
gia đình được đánh giá cao, với kỹ thuật từ trồng cây nguyên liệu, kỹ thuật cắt
may, trang trí để tạo ra được bộ trang phục, được người phụ nữ trao truyền qua
các thế hệ, góp phần tạo lập và củng cố mối quan hệ, trong việc bảo lưu các giá
trị văn hóa truyền thống của trang phục.
3.1.4. Là sản phẩm văn hóa tạo nên đặc trưng văn hóa
Thông qua trang phục chúng ta có thể hình dung ra cuộc sống sinh hoạt và
văn bản của cộng đồng dân tộc H’mông đen vào những dịp lễ tết, hội hè đặc biệt
trong lễ hội “Gầu tào”, nam nữ H’mông đen luôn tự hào khoe vẻ đẹp trong
những bộ trang phục mới nhất, lộng lẫy nhất của họ. Đối với người lớn tuổi, họ
thường mặc quần áo đẹp để đi chơi, thăm hỏi nhau về sức khỏe, về gia đình, còn
đối với nam nữ thanh niên, mặc quần áo mới để đi tìm hiểu bạn trai, bạn gái làm
chồng làm vợ sau này. Vào ngày cưới, cô dâu mặc bộ quần áo đẹp nhất, lộng lẫy
nhất khi về nhà chồng. Không chỉ vậy, mỗi người H’mông đen thường chuẩn bị
sẵn cho mình một bộ váy ảo đẹp nhất để mặc khi mất đi về với tổ tiên.
Có thể nói, trang phục là một trong những sản phẩm văn hóa vật chất tiêu
biểu, phản ánh rõ nét đặc trưng văn hóa tộc người. Chính vì thế, người phụ nữ
H’mông đen rất chú ý đến việc trồng lanh, dệt vải. Hình ảnh người phụ nữ chăm
chỉ cần mẫn bên khung dệt đã trở thành hình ảnh quen thuộc, trở thành nét đẹp
chung của phụ nữ H’mông đen. Thông qua trang phục, người H’mông đen đã
49
bảo lưu, gìn giữ phản ánh đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
3.1.5. Mang giá trị thẩm mĩ
Đó là sự kết hợp hài hòa về nghệ thuật tạo hình và việc xử lý các đồ án
hoa văn, màu sắc và bố cục theo phong cách riêng, sử dụng trang trí trên trang
phục rất đa dạng. Nghệ thuật tạo dáng của trang phục, nhất là một phong cách
rất riêng, sử dụng trang trí trên trang phục trang phục nữ là nơi tập trung những
quan điểm thẩm mỹ, sự tài hoa, phản ánh đặc trưng tộc người. Với lối cắt kiểu
áo dài, xẻ ngực, thắt lại ở băng dài thắt lưng ở bụng tạo cho thân hình của người
phụ nữ có độ cong nhất định, nổi bật dải hoa văn ở phía sau, tay áo trang trí
ghép vải đan xen các mảng trơn, mảng nổi (thêu), màu sắc trang trí được thể
hiện tinh tế, hài hòa, bố cục thành dài. Các mô típ hoa văn về động vật, thực vật
trang trí trên áo, thắt lưng, váy là những hoa văn sinh động. Cùng với y phục, đồ
trang sức đi kèm rất đa dạng và chủng loại, mẫu mã, được các nghệ nhân dân
gian chạm khắc lên các sản phẩm của mình, bằng con mắt thẩm mỹ, sự tài hoa,
ngoài ý nghĩa tiềm ẩn trong nó một yếu tố tín ngưỡng thầm kín, còn làm tăng
thêm vẻ đẹp cho người mang nó. Các sản phẩm tạo ra từ nghề chạm bạc đã tạo
nên vẻ đẹp riêng và có sự kết hợp hài hòa với y phục của dân tộc. Trên nền xanh
của núi, màu đen của chàm, phụ nữ H’mông đen đã biết kết hợp hài hòa bộ y
phục nhuộm chàm đen với trang sức bạc trắng tạo nên những bộ trang phục đẹp
rực rỡ, góp phần làm tôn lên vẻ đẹp của mình trước thiên nhiên. Các sản phẩm
từ nghề chạm bạc bao gồm (vòng cổ, khuyên tai, vòng tay, nhẫn, xà tích ...) tuy
có kiểu cách, hoa văn khác nhau nhưng có một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy,
đó là những sản phẩm trang sức này không thể tách rời khỏi y phục, mà nó luôn
cần sự kết hợp, tạo nên bộ trang phục hài hòa mang giá trị thẩm mỹ cao.
Trang phục H’mông đen không rực rỡ sắc màu như trang phục của người
H’mông hoa và cũng không trầm lăng như trang phục của người Tày, sự đa dạng
của các chủng loại hoa văn cùng với việc xử lý về màu sắc, bố cục theo một
phong cách riêng, chứng tỏ người H’mông đen đã có một tư duy thẩm mỹ cao,
cách nhìn nhận về cái đẹp và ngày càng phát huy trên trang phục của mình.
50
Trang phục của người H’mông đen ở Sa Pa là một sản phẩm văn hóa có
giá trị cao về mặt khoa học. Trong quá trình khảo sát cho thấy, trang phục đã có
từ lâu đời, được kế tục qua các thế hệ người H’mông từ đời này qua đời khác,
các mô típ hoa văn qua từng thời kỳ cũng tương đối giống nhau. Chưa có sự
nghiên cứu nào về biểu tượng chân thực của các mẫu hoa văn, ngoài những suy
đoản phản ánh về cuộc sống sinh hoạt đời thường, miêu tả thiên nhiên Đặc biệt
là sự nghiên cứu liên quan đến các biểu tượng trong văn hóa tín ngưỡng người
H’mông đen ở Sa Pa vẫn còn là những ẩn số, cần sự nghiên cứu của các nhà
khoa học. Tính khoa học của trang phục H’mông đen còn được thể hiện ở sự
tinh tế từ cách thức chọn nguyên liệu làm ra trang phục đến kỹ thuật trang trí
thêu, ghép vải, in hoa văn bằng sáp ong... tất cả đều là một quy trình mang tính
sáng tạo, có giá trị cao về mặt khoa học. Tóm lại, người H’mông đen đã thể hiện
được chính mình thông qua trang phục, họ đã thể hiện được sâu sắc bền bỉ nhất
chiều sâu văn hóa, tâm tính của dân tộc, góp phần làm phong phú đa dạng hơn
trang phục của các dân tộc Việt Nam. Trang phục truyền thống của người
H’mông đen là một sản phẩm văn hóa tộc người, nó đã đóng góp một phần giá
trị to lớn, tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá vùng miền trong một quốc gia đa dân
tộc. Cùng với sự phát triển, đứng trước nguy cơ mai một về trang phục, người
H’mông đen, bản thân chủ thể văn hóa cần có sự nhận thức kịp thời, cùng với sự
vào cuộc của cơ quan chức năng về bảo tồn văn hóa nhằm giữ gìn sắc thái văn
hóa trang phục truyền thống tộc người.
3.2. Xu hướng biến đổi trang phục truyền thống của người H’mông đen ở
Thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
Trang phục của cả nam và nữ dân tộc H’mông đều là do đôi bàn tay khéo
léo của người phụ nữ người H’mông đen làm ra. Với sự cần cù và trí tưởng
tượng phong phú, người người H’mông đen đã trở thành người nghệ sĩ tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật làm say đắm lòng người. Nhưng với xã hội phát
triển này, trang phục truyền thống của họ có phần lỗi thời, lạc hậu. Vì vậy chúng
ta cần nhìn nhận lại xem trang phục đó còn phù hợp với xã hội hiện đại về thẩm
51
mĩ, đạo đức, lịch sự, nhân văn có tính nhân loại.
Ngày nay một vài người cao tuổi họ vẫn mặc trang phục truyền thống
hằng ngày, chỉ thay đổi ở chất liệu vải và quy trình làm ra nó. Còn vào dịp lễ hội,
trang phục mặc sẽ được cách tân theo xu hướng.
Người H’mông đen có nhiều sự thay đổi về trang phục ở cả nam và nữ,
trước đây hằng ngày họ đều sử dụng trang phục truyền thống để đi làm, đi học,
xã hội ngày càng phát triển thì việc đó không xảy ra thường xuyên nữa. Họ coi
trang phục truyền thống lỗ thời, màu sắc không được đa dạng, kiểu dáng cũng
không nhiều, nên đã chuyển sang trang phục hợp với thời đại hơn.
Người H’mông còn có xu hướng mặc trang phục của người Kinh vì trang
phục người Kinh đẹp, chất liệu thoải mái, màu sắc bắt mắt. Do cuộc sống ngày
càng phát triển, nhận thức về vẻ đẹp của mỗi người, mỗi tầng lớp, lứa tuổi một
khác nhau. Con trai người H’mông ngày nay không còn mặc trang phục truyền
thống của mình nữa. Thay vào đó họ mặc áo phông, áo len, quần đùi, quần bò
đủ mọi kiểu dáng Họ chỉ mặc vào những ngày hội. Ngay cả đến trang phục
truyền thống của nữ còn bị cách tân quá mức, họ tạo ra những chiếc váy ngắn
hơn, áo hở hơn, hóa văn màu sắc biến đổi theo sự yêu thích của bản thân, vì mỗi
một dân tộc H’mông đều có một màu sắc cách thiết kế riêng không rống nhau
điều đó làm mất đi nét đẹp riêng của cùng dân tộc H’mông, gây ra việc giống
với các trang phục của dân tộc khác. Khách du lịch khi mới đặt chân đến sẽ
không thể biết được đâu mới là trang phục truyền thống chính gốc.
Đứng trước nguy cơ trang phục truyền thống biến mất, bị đồng hoá, bị
cách tân quá đà làm mất đi nét truyền thống vốn có. Thì việc giữ gìn trang phục
truyền thống của dân tộc thiểu số là điều cấp thiết.
3.3. Những giải pháp góp phần giữ gìn trang phục truyền thống của người
H’mông đen
3.3.1. Những vấn đề đặt ra
Không gian văn hóa ngày càng bị thu hẹp do xu thế đô thị hóa, hiện đại
52
hóa ngày càng nhanh, mạnh. Không gian thực hành văn hóa như các nghi lễ, lễ
hội chưa được quan tâm đầu tư tương xứng. Không gian văn hóa, sinh hoạt ngày
càng biến đổi, môi trường giao thoa văn hóa…
Quá trình đô thị hóa ngày càng sâu rộng dẫn đến diện tích đất canh tác
trồng cây nguyên liệu cho nghề thủ công truyền thống của đời sống càng ngày bị
thu hẹp. Nghề dệt, nhuộm thủ công truyền thống chưa quan tâm sản xuất nguyên
liệu, đổi mới trang thiết bị, quảng bá và giới thiệu sản phẩm... Sự thương mại
hóa có tác động ngày càng sâu rộng. Sự tiện lợi, thời gian hoàn thành bộ trang
phục, giá thành về sản phẩm trang phục truyền thống đắt gấp nhiều lần so với
trang phục bán trên thị trường.
Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đặc biệt là sự du nhập các loại hình văn hóa thông qua internet, phim, ảnh và các
trang mạng xã hội, khách du lịch... đã tác động không nhỏ đến nhận thức và thói
quen sử dụng trang phục truyền thống của người dân.
Người dân tộc nhiều nơi không còn mặc trang phục truyền thống. Việc
không sử dụng trang phục truyền thống của dân tộc đã trở thành hiện tượng phổ
biến ở một số dân tộc.
Ở nhiều nơi, đồng bào dân tộc chỉ mặc trang phục truyền thống trong các
ngày lễ, tết, khiến trang phục này gần như trở thành một thứ lễ phục không còn
thân thuộc với đời sống sinh hoạt của người dân.
Thậm chí trang phục truyền thống hoàn toàn biến mất ở nhiều cộng đồng
dân tộc thiểu số. Hiện nhiều thanh niên dân tộc thiểu số còn ngại khi mặc trang
phục của mình trước đám đông.
Từ nhiều năm nay, phần lớn người dân không còn sản xuất đồ thủ công,
không tự may thêu váy áo nữa, mà mua từ dưới xuôi lên hoặc mua hàng
Trung Quốc.
Một số làng vẫn còn giữ vài khung dệt vải mộc và thổ cẩm nhưng chỉ có
tính chất trưng bày tượng trưng.
53
Xu hướng biến mất của trang phục truyền thống được sản xuất thủ công
của người dân tộc thiểu số là khó thể tránh khỏi khi người dân quan niệm mặc gì
cũng được, trong khi trang phục truyền thống vốn rất tốn công, tốn của để làm ra,
lại vướng víu, không phù hợp với đời sống sinh hoạt hiện đại.
Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo tồn văn hóa nói
chung và trang phục truyền thống dân tộc nói riêng bên cạnh công tác phát triển
kinh tế - xã hội còn hạn chế, dẫn đến việc quán triệt, triển khai, tổ chức thực
hiện chưa đầy đủ, chưa thường xuyên nên hiệu quả chưa như mong muốn. Đặc
biệt là nhận thức của chính những người dân - những chủ thể văn hóa đối với về
vấn đề bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống chưa được thống nhất và đầy
đủ. Xu hướng sử dụng bởi sự tiện ích của trang phục phổ thông trong lớp trẻ
ngày càng nhiều, gây khó khăn cho công tác bảo tồn giá trị của trang phục
truyền thống. Nhiều sinh hoạt văn hóa, từ lễ hội đến biểu diễn nghệ thuật truyền
thống tiềm ẩn nguy cơ không giữ được những nét văn hóa đặc trưng.
3.3.2. Những giải pháp bảo tồn trang phục truyền thống
3.3.2.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân về giá trị của bộ
trang phục truyền thống H’mông đen
Trước hết, cần tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân
tộc thiểu số hiểu về tầm quan trọng của việc bảo tồn trang phục truyền thống của
chính dân tộc mình. Nâng cao niềm tự hào của người dân về văn hóa của dân tộc
nói chung và trang phục truyền thống nói riêng. Từ đó có ý thức tự bảo vệ, phát
triển bộ trang phục truyền thống của các tộc người. Công tác bảo tồn trang phục
truyền thống sẽ hiệu quả hơn nhiều nếu được chính người dân tộc thiểu số - chủ
thể văn hóa có ý thức tự giác bảo tồn.
Mỗi người tạo ý thức, thói quen dùng trang phục truyền thống để sử dụng
trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là trong các dịp lễ hội, cưới xin, ma chay,
hoặc các ngày lễ trọng đại trong năm. Sử dụng trang phục thường xuyên,
khuyến khích con em mặc trang phục dân tộc đi học, đi làm.
54
Ghi hình lưu lại các trang phục ở cả trạng thái tĩnh và động, tức là phải
gắn với các hoạt động của đời sống lao động, sinh hoạt như: lên nương rẫy,
ngoài đồng ruộng, trong các lễ hội, nghi lễ tâm linh… Bên cạnh đó, khuyến
khích đồng bào mặc trang phục dân tộc mình trong các dịp lễ tết, tổ chức thi
cách tân trang phục ở cấp tỉnh nhằm thu hút trí tuệ, sáng tạo của những người
tâm huyết với văn hóa dân tộc.
Đa số người H’mông đen đều tự hào và có mong muốn gìn giữ bộ trang
phục truyền thống của dân tộc mình. Bởi vậy, nếu kinh tế phát triển, đời sống
người dân được nâng cao thì khó khăn cơ bản trong việc bảo tồn trang phục dân
tộc sẽ được tháo gỡ. Để giải quyết vấn đề này cần đầu tư mở rộng, phát triển các
làng nghề thủ công truyền thống, thu hút đồng bào tham gia thêu thùa trang
phục dân tộc. Có kế hoạch tổ chức quảng bá thu hút khách tham quan, bán hàng
ngay tại làng nghề, tạo thu nhập cho đồng bào.
Quần chúng nhân dân luôn là chủ thể văn hóa của mình, là người sáng tạo
ra văn hóa và hưởng thụ chính những nét văn hóa do mình sáng tạo nên. Vì vậy,
quần chúng nhân dân luôn phải có ý thức trân trọng văn hóa của mình, luôn có ý
thức giữ gìn và truyền lại cho con cháu muôn đời sau của họ. Từ đó, chúng ta coi
việc bảo tồn văn hóa truyền thống trong cộng đồng phải được đặt lên hàng đầu,
nhất là công tác giáo dục tuyên truyền người dân nhận thức được việc bảo tồn văn
hóa dân tộc nói chung, bảo tồn trang phục của mình nói riêng trong cộng đồng, làm
cho đồng bào nhận thức đúng những gì cần bảo tồn, những gì cần loại bỏ.
Xây dựng các website về văn hóa người H’mông đen, trong đó chú ý giới
thiệu những nét đặc trưng về trang phục dân tộc là một hình thức tuyên truyền,
quảng bá mới, hiện đại, thuộc lĩnh vực thông tin, truyền thông đạt hiệu quả cao.
Trên thế giới, đã có rất nhiều nơi ứng dụng phương tiện truyền thông này để quảng
bá về những giá trị văn hóa của đất nước mình. Thông qua các website, những nội
dung đưa lên mạng giới thiệu như là một bảo tàng di động hay những cuốn sách,
các tập catalo, những bức ảnh, những bộ phim ngắn... có lời giới thiệu.
Có rất nhiều hình thức quảng bá thông tin, tùy theo mục đích hay phương
55
pháp khoa học chuyên ngành. Chẳng hạn: Nhà bảo tàng học có thể giới thiệu
trang phục theo những sưu tập được phân loại theo các nhóm tộc người hay theo
các vùng miền; các nhà văn hóa giới thiệu theo từng chuyên đề đặc trưng văn
hóa tiêu biểu, độc đáo hay đại diện cho nhóm tộc người hoặc đại diện nhóm
vùng miền; các nhà hội họa có thể giới thiệu những đặc trưng trong nghệ thuật
trang trí hoa văn trên trang phục, các nhà sưu tầm có thể giới thiệu các sưu tập
trang phục mà mình có hay đang nghiên cứu, các chuyên gia nghiên cứu về dệt
có thể giới thiệu qua các loại hình hoa văn hay các nhóm chủ đề hoa văn hoặc
theo kỹ thuật tạo vải, kỹ thuật cắt may trang phục...
Gắn hoạt động bảo tàng với hoạt động du lịch và các loại hình dịch vụ văn
hóa dân tộc là một hoạt động mang tính chất kinh doanh. Tuy nhiên, chúng ta có
thể tận dụng yếu tố này như là một hình thức tuyên truyền, quảng bá di sản văn
hóa nói chung, trang phục nói riêng. Trong thực tế hiện nay có rất nhiều địa
điểm du lịch hay các cửa hàng dịch vụ văn hóa có bày bán nhiều mặt hàng là
những sản phẩm dệt may (như y phục, túi đeo), đồ đan lát (giỏ, gùi) do đồng bào
các dân tộc sản xuất hay do thợ thủ công bắt chước kiểu dáng. Những đồ vật này
ít nhiều cũng đem lại một số khái niệm cho người mua về một góc độ văn hóa
nào đó của một tộc người, một vùng văn hóa.
3.3.2.2 Giảng dạy cho thế hệ trẻ về nét đẹp và giá trị của bộ trang phục
truyền thống H’mông đen
Chúng ta có thể thông qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng, lồng
ghép với các hoạt động hay các chương trình văn hóa văn nghệ. Có thể tổ chức
các tổ văn hóa, các nhóm tình nguyện trong chính những người dân để tự tuyên
truyền, hoặc chính các thành viên trong đội văn nghệ ở tại địa phương. Họ là
những hạt nhân tiên phong trong việc sử dụng các loại đồ dùng, nhất là mặc các
loại trang phục dân tộc. Mặt khác cần có biện pháp lồng ghép với việc giáo dục
trên học đường. Đối với các cấp tiểu học hay trung học cơ sở, giữa ngành văn
hóa với ngành giáo dục cần phải phối hợp với nhau, đưa chương trình văn hóa
truyền thống vào dạy học. Chính việc giáo dục các em ngay từ khi còn nhỏ có
56
tác dụng như việc trang bị vũ khi tinh thần để bảo vệ, tôn vinh nền văn hóa
truyền thống của dân tộc ta thông qua các bộ trang phục.
Tại các vùng dân tộc, hiệu trưởng cần khuyến khích học sinh mặc trang
phục dân tộc vào ít nhất một ngày trong tuần. Hoặc có thể lấy trang phục dân tộc
làm đồng phục khi đi học. Đưa vào bài giảng ý nghĩa về trang phục truyền thống
đối với dân tộc mình.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần có chính sách giáo dục mang tầm vĩ
mô đối với các đối tượng khác nhau. Không chỉ là giáo dục trong chính mỗi dân
tộc mà cần phải giáo dục đồng đều về văn hóa các tộc người cho mọi đối tượng.
Trên cơ sở đó, các dân tộc sẽ hiểu biết nhau hơn, tôn trọng nhau hơn, cùng nhau
đoàn kết xây dựng và bảo tồn nền văn hóa chung của cả nước. Muốn được như
vậy thì cần phải tăng cường giáo dục trong các trường học ở cấp cao hơn trong
cả nước.
3.3.2.3. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, giữ gìn nét đẹp và phát huy giá trị
của bộ trang phục truyền thống H’mông đen trên địa bàn
Bảo tồn những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc là một trong
những việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay, bởi lẽ văn hóa là một mục tiêu,
vừa là một động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển, trong đó, văn hóa truyền
thống tốt đẹp là cái cốt lõi để giữ gìn và phát triển như các nghị quyết mà Đại
hội Đảng đã đề ra. Do đó, việc xác định thế nào là văn hóa truyền thống tốt đẹp,
thế nào là phản văn hóa hay văn hóa lạc hậu cũng hết sức quan trọng. Chúng ta
có thể phải tôn trọng và thừa nhận các yếu tố văn hóa được đông đảo quần
chúng sáng tạo và lưu truyền, bởi đó là tất cả những sinh hoạt văn hóa đời
thường, gắn với cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Tuy nhiên
bên cạnh đó, nhiều yếu tố văn hóa ngoại nhập từ xa xưa đã in đậm trong tiềm
thức của nhân dân, được nhân dân tiếp thu, bảo tồn trong đời sống cũng là một
yếu tố cần được phát huy.
Theo chúng tôi, để bảo tồn văn hóa truyền thống nước Việt tốt đẹp nói
chung và bảo tồn trang phục các dân tộc thiểu số nói riêng, cần phải đồng thời
57
kết hợp giữa điều kiện pháp luật làm cơ sở với các giải pháp về chuyên môn,
nhận thức.
Công tác nghiên cứu là một trong những hoạt động thiết thực cho việc bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Nó vừa mang tính lý luận giá trị thực tiễn,
bảo tồn văn hóa dưới dạng thành văn hay dưới dạng lý luận nghiên cứu, khám
phá. Công tác nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa có nhiều dạng thức khác nhau:
Nghiên cứu toàn diện, tổng thể, nghiên cứu chuyên đề theo chiều sâu về những
vấn đề bức thiết hay những vấn đề mà chủ thể quan tâm; nghiên cứu theo dạng
miêu thuật cung cấp thông tin từ thực tiễn; sưu tầm các bài dân ca dân vũ, các
câu chuyện kể… từ đó tiến hành nghiên cứu, phân loại và tổng hợp, rút ra những
quy luật phát triển của các loại hình văn hóa truyền thống đó, định ra hướng phát
triển và bảo tồn cho mỗi loại hình văn hóa.
Trong nhiều năm qua, ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu hay sưu tầm,
miêu thuật về văn hóa truyền thống các tộc người đã được công bố, làm cho
quần chúng nhân dân hiểu biết hơn về các giá trị văn hóa của cha ông, từ đó
khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tin tưởng vào sự phát triển và bình đẳng giữa các
dân tộc. Việc nghiên cứu văn hóa hay nghiên cứu lịch sử tộc người cần được
phối hợp chặt chẽ và linh hoạt giữa các ngành, các chuyên ngành khoa học và
bảo đảm tính khoa học, chân thực và khách quan, bình đẳng. Trong nhiều năm
trước đây, việc nghiên cứu văn hóa dân tộc được một số cơ quan khoa học Việt
Nam thực hiện như Viện Dân tộc học, Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Văn hóa
thông tin và một số trường đại học thuộc khoa xã hội nhân văn... đã nghiên cứu,
tìm hiểu, khám phá văn hóa của 54 dân tộc người ở Việt Nam, đóng góp đáng kể
vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Tuy nhiên,
trước những quan điểm khoa học về dân tộc học truyền thống chi phối nên một
phần đã ảnh hưởng đến chất lượng các công trình. Trong thời gian gần đây,
ngành văn hóa học và chuyên ngành nhân học văn hóa đã có những bước
chuyển rất quan trọng về nhận thức trong công tác nghiên cứu về con người, làm
cho việc nghiên cứu văn hóa và con người được đi theo nhiều chiều, đa dạng
58
hóa trong nghiên cứu, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống tộc người một cách
khách quan, trung thực. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu, bảo tồn di sản văn
hóa ở nước ta cũng ra đời; nhiều loại hình di sản văn hóa nói chung, di sản văn
hóa vật chất, phi vật chất và trang phục nói riêng của đồng bào dân tộc đã được
nhiều nơi biết đến; nhiều người đã ý thức tốt hơn trách nhiệm của mình trong
việc bảo tồn di sản văn hóa. Hy vọng rằng trong những năm tiếp theo, công tác
nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc người được đẩy mạnh hơn,
đem lại hiệu quả thiết thực hơn.
Công tác sưu tầm, tài liệu khoa học và bảo quản hiện vật bảo tàng cũng là
một trong những hình thức nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa. Đó là công việc
của nhà bảo tàng học và của các nhà nghiên cứu thuộc các hội, các viện... Thông
thường trước đây, người ta quan niệm có hai loại hình nghiên cứu là nghiên cứu
lý thuyết với sản phẩm là các bài viết , các công trình khoa học dạng thành văn
và loại nghiên cứu sưu tầm vật thể đưa di sản văn hóa về các bảo tàng để phục
vụ công chúng hoặc phục vụ công tác nghiên cứu tiếp theo. Ngày nay, công tác
nghiên cứu văn hóa dân tộc được phối hợp giữa các hình thức với nhau: vừa
nghiên cứu các hiện tượng, sự vật, sự kiện để tạo ra các công trình khoa học
dưới dạng thành văn, vừa tiến hành sưu tầm các hiện vật di sản văn hóa dưới
dạng vật thể và phi vật thể. Đến nay nhiều sưu tập hiện vật đã được xây
dựng trong các bảo tàng và các sưu tập nằm trong các nhà nghiên cứu sưu tầm
tư nhân.
Hiện nay tại Hà Nội, đã có bảo tàng Dân tộc học là nơi lưu giữ những bộ
trang phục truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, chúng ta cần
xác định đúng tính cấp thiết của công tác sưu tầm di sản văn hóa, bởi nếu lơi
lỏng công tác này thì theo thời gian, các di sản văn hóa sẽ dần biến mất, đặc biệt
là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập hiện nay, nhiều nét truyền thống trên những
bộ trang phục xưa đã không còn nguyên vẹn. Cần phải huy động các nguồn lực
khác nhau trong việc sưu tầm, thu thập các di sản văn hóa, cho dù các sưu tập
hiện vật.
59
3.3.2.4. Quảng bá rộng rãi và tạo điều kiện để đưa bộ trang phục truyền
thống vào ngành du lịch
Việc vận động bà con tổ chức sản xuất các bộ trang phục truyền thống
dưới hình thức gia đình và nhóm sản xuất cũng là một giải pháp hữu ích. Như
vậy, việc sản xuất sẽ gắn liền với việc thương mại hóa mang tính chất lưu niệm
để đưa vào du lịch. Chẳng hạn như ở Sa Pa hiện nay đã có dịch vụ cho thuê bộ
trang phục truyền thống để khách du lịch mặc chụp ảnh. Mỗi bộ trang phục
được trưng bày la liệt với mục đích bán hoặc cho thuê ấy đều do chính bàn tay
của chị em đồng bào người H’mông đen thêu dệt nên. Những người đi du lịch là
đối tượng chủ yếu tham gia vào quá trình mua bán này. Tuy mục đích của mỗi
người là khác nhau, nhưng điều đó cũng đã góp phần tích cực vào việc bảo tồn
các giá trị văn hóa của người H’mông đen tại thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai. Tuy
nhiên, nếu cứ dựa vào những hoạt động thương mại ấy để bảo tồn văn hóa
truyền thống rất phiến diện và không bảo đảm tính chân thực của các giá trị văn
hóa. Vấn đề đặt ra đối với chúng ta là, vừa biết phát huy cái tích cực của hoạt
động thương mại hóa, du lịch trên lĩnh vực văn hóa truyền thống, vừa định
hướng cho các hoạt động ấy đi đúng chủ trương bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống đích thực.
Bên cạnh đó, các nhà du lịch nước ngoài là một đối tượng trái ngược với
khách du lịch thông thường, đó là những người có tâm huyết khám phá cái đẹp
nguyên gốc, do đó họ có nhu cầu tìm đến các sản phẩm văn hóa “chính hiệu”
dân tộc. Đại đa số khách du lịch trong nước muốn mua các mặt hàng đẹp đẽ về
hình thức, nổi bật và lạ mắt, mục đích của họ là đem về làm quà cho bạn bè, anh
chị em. Còn các khách là người nước ngoài, nếu họ muốn mua một thứ nào đó,
chẳng hạn như chiếc áo, họ hỏi xem có phải nhuộm bằng thảo mộc truyền thống
không, và nhất là mua những sản phẩm mà họ được chứng kiến người dân thực
thụ đang làm ra nó. Như thế, đây chính là một thị trường đầy tiềm năng mà ta có
thể phát huy việc sản xuất ra các sản phẩm văn hóa mang tính truyền thống. Từ
quá trình sản xuất tiêu thụ đó, chúng ta có thể điều chỉnh được sản phẩm và thị
60
hiếu của người mua trong nước dần dần trùng với nhau.
Hiện nay, bộ trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số chủ yếu chỉ
được sử dụng trong các lễ hội truyền thống. Vì vậy, việc phục dựng các lễ hội
truyền thống để người dân có cơ hội mặc trang phục là hết sức cần thiết. Phải có
các chính sách hỗ trợ người dân có thêm thu nhập từ chính hoạt động văn hóa
mà họ là chủ thể chính.
3.3.2.5. Thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn hoặc cuộc thi về trang
phục truyền thống của dân tộc thiểu số
Bằng chính sách và việc làm thực tế, ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai, tùy theo
điều kiện mà có thể tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, gắn liền với việc
phô trương, trình diễn trang phục truyền thống của người người H’mông đen.
Hiện nay Đảng và Nhà nước chủ trương khôi phục các hoạt động văn hóa nghệ
thuật quần chúng, trong đó, đặc biệt khuyến khích các loại hình văn nghệ dân
gian, bao gồm cả trình diễn trang phục truyền thống.
Trong những năm vừa qua trên địa bàn cả nước, nhiều địa phương, chính
quyền, cùng với các cơ quan chức năng như ngành văn hóa thông tin đã phối
hợp với các đoàn thể, xây dựng được những chương trình, dự án khôi phục văn
hóa truyền thống, kể cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Theo đó, nhiều
hoạt động văn nghệ dân gian được lồng ghép với các hoạt động lễ hội truyền
thống ở địa phương. Đối với đồng bào các dân tộc ở vùng núi phía Bắc nói
chung, và tỉnh Lào Cai nói riêng, trong tổng số 12 di sản văn hóa phi vật thể của
đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh được công nhận là Di sản văn
hóa phi vật thể Quốc gia, một trong những di sản văn hóa người H’mông góp
mặt là kỹ thuật trồng lanh và dệt vải lanh, đó là một tín hiệu đáng mừng về văn
hóa dân gian của người H’mông. Điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho việc khôi
phục những nét văn hóa dân gian truyền thống, cũng như khôi phục lại các yếu
tố văn hóa vật chất, gắn liền với bộ trang phục của người H’mông ở nơi đây. Bởi
vậy, mỗi năm việc trình diễn di sản trang phục truyền thống nên được diễn ra
đều đặn.
61
Cùng với chủ trương bảo tồn di sản văn hóa của Đảng, đồng bào dân tộc
H’mông càng nên ý thức được giá trị văn hóa truyền thống và càng biết trân
trọng, giữ gìn các giá trị ấy. Điều đó được thể hiện qua các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày, giống như phong tục của mỗi gia đình H’mông đen, khi người mẹ
truyền dạy lại cho người con gái những kĩ thuật thêu thùa, dệt vải,… để làm nên
bộ trang phục truyền thống ngàn đời của họ.
Cơ hội để trưng diện bộ trang phục truyền thống cũng là vấn đề cần được
quan tâm. Trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số đã khó khăn trong
việc hoàn thành, sử dụng, nay càng khó khăn hơn khi cơ hội xuất hiện ngày một
thu hẹp. Nói rằng để làm ra bộ trang phục truyền thống tốn kém tiền bạc và mất
thời gian nhưng trước đây, khi điều kiện kinh tế còn thấp, đồng bào vẫn thiết tha
với quần áo dân tộc. Bởi họ có cả một môi trường lớn để trưng diện những bộ
váy áo truyền thống, trong cả sinh hoạt và lễ hội. Tuy nhiên hiện nay hầu hết
trang phục của các dân tộc thiểu số chỉ được mặc vào các dịp trọng đại như ngày
tết, lễ hội hoặc các ngày kỉ niệm lớn của đất nước. Đây là cơ hội để những bộ
trang phục xuất hiện trang trọng trong niềm tự hào, hân hoan của người mặc và
những người chiêm ngưỡng xung quanh. Tiếc rằng những cơ hội ấy còn quá ít.
Vừa qua, chúng ta đã tổ chức chương trình Trình diễn trang phục dân tộc lần thứ
I nhưng một ngày hội tụ trang phục của 54 dân tộc anh em như vậy cũng rất
hiếm hoi. Bên cạnh đó, các lễ hội chỉ tạo điều kiện trưng diện trang phục chứ
chưa mang lại hiệu quả kinh tế cho người tham gia.
Ở Hà Nội hiện nay, có nhiều hội sinh viên các dân tộc thiểu số như: Hội
sinh viên H’mông Hà Nội,… Vài năm trở lại đây, Hội sinh viên người H’mông
tại Hà Nội thường tổ chức ăn tết. Các bạn gặp nhau, cùng tổ chức các hoạt động
văn hóa đặc trưng của dân tộc H’mông như: khèn H’mông, hát dân ca H’mông,
múa sinh tiền, ném pao,… đây là những hoạt động duy trì văn hóa truyền thống
rất đáng quý, đáng trân trọng góp phần duy trì và phát triển văn hóa dân tộc
trong giới trẻ người dân tộc thiểu số. Các bạn đến đây mang theo những nét đặc
sắc của người H’mông trên các vùng miền của tổ quốc với những trang phục
62
truyền thống của các nhóm dân tộc H’mông hoa, H’mông trắng, H’mông đen…,
cùng nói và hát tiếng H’mông và tham gia các hoạt động văn hóa của dân tộc
mình. Đây chính là một trong những cơ hội để văn hóa tộc người được hiện diện,
lưu giữ và phát triển rõ nhất.
3.3.2.6. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa ở địa phương
Cần có các chuyên gia là người dân tộc thiểu số, hiểu sâu sắc trang phục
dân tộc, nhất là những trang phục gốc để phục chế và phổ biến. Với các dân tộc
không còn giữ được trang phục truyền thống, cần tìm hiểu kĩ nguồn gốc, đi đến
tận các nơi dân tộc đó sinh sống, khảo sát lại xem trang phục gốc của tộc người
đó như thế nào, chụp ảnh lại, sau đó có kinh phí khôi phục lại. Hoặc ra nước
ngoài nơi có dân tộc đó sinh sống để nghiên cứu và tìm trang phục, sau đó khôi
phục lại, coi đó là bộ trang phục gốc của đồng bào.
Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Nhà nước đối với việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa bộ trang phục truyền thống của đồng bào H’mông tại Sa
Pa. Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh, phát triển nguồn nhân lực, cán bộ quản lý
văn hóa các cấp là vấn đề cấp bách. Hiện nay, nhân sự của Ban quản lý di sản
khu vực miền núi còn mỏng, kiến thức trang bị chưa đồng đều, cho nên rất cần
được các cấp các ngành trên cả nước quan tâm trong việc tuyển dụng những
người có trình độ chuyên môn được đào tạo kiến thức cơ bản về di sản văn hóa
vào các vị trí liên quan.
Giải pháp này nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bảo tồn trang
phục văn hóa truyền thống, với phương án đào tạo các cán bộ quản lý tại chỗ có
trình độ và khả năng quản lý di sản văn hóa, xử lý đúng các tình huống xảy ra
trong công tác quản lý ở địa phương. Những cán bộ quản lý văn hóa cấp cơ sở
tham gia trực tiếp trong Ban quản lý di sản cần không ngừng tự hoàn thiện, nâng
cao nhận thức bởi điều này sẽ góp phần không nhỏ cho việc công tác quản lý
đền được bài bản, đúng với truyền thống mà không lai căng, sai lệch thậm chí vi
phạm những quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
Các cấp lãnh đạo cần quan tâm nhiều hơn nữa đến các hoạt động văn hóa
63
của các dân tộc. Khuyến khích, tìm hiểu và có kế hoạch tài trợ hoặc kêu gọi tài
trợ cho các hoạt động không chỉ về tiền bạc mà cả địa điểm tổ chức, quảng bá,
liên lạc,…
Mới đây, Chính phủ đã ra Quyết định Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, chia thành hai giai
đoạn hành động nhằm khôi phục, bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số. Nói về ý
nghĩa của chương trình Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân
tộc Việt Nam năm 2011, đồng chí Hoàng Xuân Lương - Phó Chủ nhiệm Ủy ban
Dân tộc đã cho biết: “Qua chương trình trình diễn lần này, chúng tôi sẽ có
những đánh giá, xem trang phục dân tộc nào cần khôi phục, trang phục nào đang
mai một và làm thế nào để người dân tộc tự hào khi mặc trang phục của mình…
Sau đó, sẽ trình lên Chính phủ, đề nghị hướng bảo tồn và phát huy”. Thiết nghĩ,
đây chính là những tín hiệu đáng mừng về vấn đề bảo tồn trang phục các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 đã nêu lên ý nghĩa của trang phục và xu hướng biến đổi trang
phục truyền thống của người H'mông đen ngày nay ở thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai
và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn nét đẹp truyền thống của trang
phục nhưng vẫn không ngừng tiếp thu những cái mới để phù hợp với nhu cầu
64
của thời đại ngày nay.
KẾT LUẬN
Trang phục của mỗi dân tộc là dấu hiệu đặc trưng nhất để nhận biết và
phân biệt các dân tộc với nhau, nó là kết tinh văn hóa truyền thống của mỗi dân
tộc. Vẻ đẹp của trang phục H’mông đen là vẻ đẹp bắt nguồn từ lao động, từ bàn
tay khéo léo và sự sáng tạo không ngừng đã được người phụ nữ tạo nên trên
trang phục. Đó là sự sáng tạo ra các giá trị văn hóa có từ cội nguồn gốc rễ từ bao
đời của cha ông truyền lại, những giá trị đó được định hình và tồn tại qua nhiều
thế hệ.
Trang phục của người H’mông ở thị xã Sa Pa là một thành tố quan trọng
trong đời sống văn hoá của đồng bào, thể hiện không chỉ trong đời sống hàng
ngày mà còn cả trong những dịp lễ hội cộng đồng và đại sự của gia đình, cá
nhân. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều yếu tố trên trang phục của
người H’mông đã có những biến đổi nhất định cho phù hợp với điều kiện sống,
nhưng nhìn chung vẫn giữ được cái cốt cách ban đầu, đặc biệt là ở kỹ thuật dệt,
nhuộm vải và chế tác đồ trang sức.
Trang phục H’mông không chỉ mang tính thẩm mĩ thuần tuý mà nó còn
chứa đựng đặc thù văn hoá truyền thống trong thế giới quan, nhân sinh quan của
người H’mông và góp phần tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá vùng miền trong một
quốc gia đa dân tộc.
Trước sự mai một này, những người H’mông - bản thân chủ thể văn hóa
cần có sự nhận thức kịp thời, cùng với đó là sự vào cuộc của cơ quan chức năng
về bảo tồn văn hóa nhằm giữ gìn sắc thái văn hóa trang phục truyền thống của
người H’mông.
Trang phục H’mông đen là sự phản ánh quá trình lịch sử tộc người cũng
như quá trình giao lưu của nó. Trang phục H’mông đen vừa mang đặc trưng tộc
người vừa mang sắc thái địa phương, vừa có sự giao lưu ảnh hưởng lẫn nhau với
trang phục các dân tộc anh em.
65
Thông qua nghiên cứu trang phục, chúng ta có thể tiếp cận và hiểu rõ hơn
về văn hóa H’mông đen ở Sa Pa, một nền văn hóa phong phú, đa dạng và mang
66
đậm đặc trưng tộc người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Duệ Anh (1991), “Lược khảo về trang phục truyền thống của các dân
tộc ở Việt Nam” Dân tộc học, (3), tr. 59-66.
2. Nguyễn Duy Bính (2005), “Dân tộc Miêu (H’mông) ở Trung Quốc”
Dân tộc học, (5), tr. 56-66
3. Diệp Trung Bình (2005), Hoa văn trên vải dân tộc H’mông, NXB Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1959), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
5. Vũ Quốc Khánh ( 2005), Người H’mông ở Việt Nam, NXB Thông tấn
Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Lệ (2014), Biến đổi trang phục truyền thống của người H’mông
hoa ở huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
7. Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (kruôz cê) của người Mông Sa Pa, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội
8. Nguyễn Văn Lợi (2003), Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những
năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Võ Thị Mai Phương (2012), Trang phục của người Lào ở Tây Bắc Việt
Nam, Nxb chính trị Quốc gia - Sự thật.
10. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa ở H’mông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà NộI.
11. Doãn Thanh (1963), Truyện cổ Mèo, Nxb văn học, Hà Nội.
12. Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo, Nxb văn học, Hà Nội.
13. GS. TS Ngô Đức Thịnh (2019), Trang phục cổ truyền Các dân tộc ở
Việt Nam, NXB Tri Thức.
14. Trần Thị Thu Thủy (2004), Trang phục cổ truyền của người H’mông
Hoa ở tỉnh Yên Bái, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Dân tộc học.
67
15. Vương Xuân Tình (2018), Các dân tộc ở Việt Nam, NXB Chinh trị
Quốc gia Sự Thật.
16. Nguyễn Anh Tuấn (1998), Tìm hiểu trang phục cổ truyền của H’mông
ở huyện Sa Pa - Tỉnh Lào Cai, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Lịch sử, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
17. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa người H’mông ở Si Ma Cai, Nxb
Chính trị Hành chính, Hà Nội.
18. Lâm Thị Thanh Xuân (2012), Hoa văn họa tiết trên trang phục người
H’mông, tiểu luận môn học Nhân văn đại cương và các tộc người ở Việt Nam.
19. Viện dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam - các tỉnh
phía Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
20. Cư Hòa Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc H’mông ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Nguyễn Duy Bắc (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối
cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb từ điển bách
khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
22. Winthrop, Robert H (1991), Dictionary of concepts in Cultural
Anthropology [Từ điển các khái niệm nhân học văn hóa], New York:
Greenwood Press].
23. Lê Ngọc Thắng (1991), Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây
Bắc Việt Nam, Tóm tắt Luận án phó tiến sĩ Sử học, lưu tại Thư viện quốc gia,
Hà Nội.
24. Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục Thái, Nxb. Văn hóa
dân tộc - Trung tâm Văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
25. Trần Thị Thu Thủy (2004), Trang phục cổ truyền của người Hmông
Hoa ở tỉnh Yên Bái, Luận án tiến sĩ Dân tộc học, lưu trữ tại Thư viện Viện Dân
tộc học.
68
26. Nguyễn Anh Cường (2001), Trang phục cổ truyền của người Dao ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Sử học, Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.
27. Võ Thị Mai Phương (2012), Trang phục của người Lào ở Tây Bắc
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia.
28. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng &
Trung tâm Từ điển học.
29. https://dulichsapalaocai.net/cam-nang-du-lich-sapa/nhung-dieu-thu-vi-
ve-trang-phuc-cua-nguoi-mong-sapa-co-the-ban-chua-biet/
30. http://laocaitv.vn/van-hoa-du-lich/bao-ton-trang-phuc-truyen-thong-
cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so-o-lao-cai
31. https://baodansinh.vn/tho-cam-lanh-tinh-hoa-van-hoa-nguoi-hmong-
tai-lao-cai-20200909174212929.htm
32. https://bigsealand.vn/tim-hieu-van-hoa-xa-hoi-cua-nguoi-hmong-o-
69
sapa/
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC H’MÔNG ĐEN Ở THỊ XÃ SA PA TỈNH LÀO CAI
Ảnh 1 Trang phục của người H’mông đen Sa Pa - Ảnh:Viettourist.vn https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan-toc-viet-nam/trang-phuc-cua- nguoi-mong-o-sapa-911123.vov (Truy cập ngày 05/5/2021)
70
Ảnh 2 Trang phục của người H’mông đen Sa Pa - Ảnh:Viettourist.vn https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan-toc-viet-nam/trang-phuc-cua- nguoi-mong-o-sapa-911123.vov (Truy cập ngày 05/5/2021)
Ảnh 3 Trang phục cô dâu trong đám cưới của người H’mông đen Sa Pa - Ảnh:Baotintuc.vn https://baotintuc.vn/anh/doc-dao-dam-cuoi-nguoi-hmong-tai-sa-pa- 20170330202017469.htm (Truy cập ngày 05/5/2021)
71
Ảnh 4 Kỹ thuật nhuộm chàm của đồng bào người Mông Sapa. - Nguồn: dulichsapalaocai.net https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan-toc-viet-nam/trang-phuc-cua- nguoi-mong-o-sapa-911123.vov (Truy cập ngày 05/5/2021)
Ảnh 5 Hình ảnh người phụ nữ H’Mông gắn bó với khung cửi https://baovemoitruong.org.vn/chuong-trinh-mtqg-giam-ngheo-ben-vung-2016- 2020-day-manh-nghe-det-truyen-thong-cua-nguoi-hmong-sa-pa/ (Truy cập ngày 05/5/2021)
72
Ảnh 6 Những tấm vải thổ cẩm khi hoàn thành https://baovemoitruong.org.vn/chuong-trinh-mtqg-giam-ngheo-ben-vung-2016- 2020-day-manh-nghe-det-truyen-thong-cua-nguoi-hmong-sa-pa/ (Truy cập ngày 05/5/2021)
Ảnh 7 Người H’Mông thực hiện tạo hoa văn bằng sáp ong và khuôn dập hình thú http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=3450&sitepageid=650 (Truy cập ngày 05/5/2021)
73
Ảnh 8 Mẫu chăn tổng hợp các kỹ thuật tạo hoa văn (thêu, ghép vải, vẽ sáp ong) http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=3450&sitepageid=650 (Truy cập ngày 05/5/2021)
Ảnh 9 Họa tiết vẽ sáp ong sau khi đã nhuộm chàm http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=3450&sitepageid=650 (Truy cập ngày 05/5/2021)
74
Ảnh 10 Hình ảnh chụp lúc đi điền dã
75
Ảnh 11 Hình ảnh chụp lúc đi điền dã