VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH LIÊM
HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các
dẫn liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những phát
hiện trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
ĐOÀN THANH LIÊM
Tác giả luận án
Đoàn Thanh Liêm
HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9. 22. 01. 21
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp. Các kết quả nêu ra trong luận
án là hoàn toàn trung thực; các kết luận được đưa ra chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2020
Tác giả
Đoàn Thanh Liêm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN......................................................................................................................... 6
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử .......................................... 6
1.2. Cơ sở lí thuyết và hướng tiếp cận của luận án .................................................. 17
CHƯƠNG 2. HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM .............................................................................. 32
2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời ............................................................... 32
2.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam ................................................................................................................... 55
Chương 3 . HỆ BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM .............................................................................. 68
3.1. Các biểu tượng đấng minh quân, kẻ sĩ, liệt nữ .................................................. 68
3.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam ............................................................................................................ 95
CHƯƠNG 4. HỆ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG TRONG TIỂU
THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM ............................................... 106
4.1. Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội .................................................... 106
4.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam ............................................................................................... 133
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 149
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tượng hiện hữu trong đời sống nhân loại ngay từ khi loài người
biết tư duy về tự nhiên và xã hội với những hình ảnh đơn giản nhất. Từ xã hội
nguyên thủy cho đến xã hội văn minh, từ con người tiền sử cho đến con người
hiện đại, biểu tượng luôn được tạo ra như là một công cụ thực hiện chức năng xã
hội, thể hiện nhận thức của con người về tự nhiên và xã hội. Cùng với trình độ tư
duy của con người ngày càng phát triển, thế giới biểu tượng càng ngày được thiết
tạo phong phú và sinh động, sử dụng rộng rãi trên các mặt đời sống xã hội. Biểu
tượng “không chỉ là hiện tượng văn hóa thông thường, hệ thống biểu tượng là
nền tảng cơ bản của một nền văn hóa dân tộc” [31, tr.9]. Hệ thống biểu tượng ấy
không hề tồn tại độc lập mà xuyên thấu vào nhau vừa mang bản sắc văn hóa của
thời đại mà nó được sản sinh ra vừa không ngừng được bổ sung các giá trị qua
lịch sử phát triển.
1.2. Biểu tượng không chỉ có trong phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, trong chính trị, hoạt động quảng cáo sản phẩm… mà biểu tượng cũng tồn
tại trong tác phẩm nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Nó không chỉ là một hiện
tượng văn hóa mà còn là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật, thực hiện chức năng giao tiếp gắn kết giữa mĩ học sáng tạo và mĩ học
tiếp nhận. Nghĩa của biểu tượng trong tác phẩm không chỉ có nghĩa định danh,
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu cảm mà còn có nghĩa “siêu niệm”.
Tầng nghĩa ấy vừa mang tính phổ quát cộng đồng vừa mang cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ trước thời đại, vừa lưu giữ nguồn gốc khởi thuỷ của nó vừa phảng
phất vốn văn hoá, vốn sống của mỗi nhà văn, sự chi phối của tư duy nghệ thuật
mỗi thời đại. Đặc biệt hơn, tầng nghĩa ấy không bao giờ giống nhau qua cách
tiếp cận đồng đại và lịch đại.
1.3. Về mặt nhận thức, có nhiều phương tiện thực hiện chức năng chuyển
tải nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam, thế giới biểu tượng là một phương tiện nghệ thuật thực hiện chức
năng đó. Biểu tượng tự thân nó gắn liền với nội dung (tư tưởng, lịch sử, văn
1
hóa…) nào đó, đến lúc nội dung đó làm bình diện biểu hiện cho một nội dung
khác cùng cấp độ hoặc khác cấp độ giá trị trong tác phẩm nghệ thuật. Những
biểu tượng nghệ thuật ở đây không thuộc về điển cố, điển tích, không thuộc về
ký hiệu chỉ dẫn, nó có thể hình thành từ những cổ mẫu mang tâm thức văn hoá
cộng đồng, từ khả năng sáng tạo biểu tượng mới của người nghệ sĩ… Nó là một
đơn vị ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp xã hội với việc tái tạo, cô đúc các
giá trị văn hóa đi qua các thời đại lịch sử, thiết chế xã hội. Trong thực tiễn sáng
tác, cùng với ngôn ngữ, biểu tượng thực hiện chức năng chuyển tải quan điểm
của nhà văn về văn hóa, lịch sử dân tộc, tham gia vào quá trình liên kết văn bản,
xây dựng tính cách nhân vật.
1.4. Đối với nền văn học đương đại Việt Nam (khái niệm đương đại mà
chúng tôi sử dụng vừa dùng để chỉ mốc thời gian ấn hành các tác phẩm, đồng
thời nói đến với sự đổi mới phương thức phản ánh và nội dung phản ánh trong
tác phẩm nghệ thuật…), thể tài tiểu thuyết lịch sử có những đóng góp lớn, để lại
dấu ấn sâu sắc. Minh chứng cho điều này là sự “thắng thế” của các tiểu thuyết
lịch sử qua các lần trao giải và rất nhiều diễn đàn văn học bàn luận về tác giả và
tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc trưng phức hợp.
Thể tài văn học này lấy hiện thực lịch sử làm chất liệu “xương cốt” và hư cấu
nghệ thuật làm “hồn phách” tinh anh của tác phẩm. Đối tượng thẩm mĩ thường
được các nhà văn hướng đến là những chi tiết, sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch
sử được thời gian và các tầng lớp nhân dân phủ bóng trầm tích văn hóa trong quá
trình tiếp nhận. Nhà văn sử dụng đặc trưng hư cấu để làm sáng tỏ thêm những
góc khuất lịch sử trên tinh thần của thời đại ngày nay, qua đó nhắn gởi những
thông điệp đến đời sống đương đại và mai sau. Trong thời gian qua, các nhà
nghiên cứu đã thực hiện nhiều công trình khoa học chỉ ra tiến trình vận động,
phát triển, diện mạo, đặc điểm, các phương thức biểu đạt của tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam nói chung, tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam nói riêng từ góc
nhìn lí luận loại thể văn học. Cốt lõi của các tác phẩm thuộc thể tài văn học này
là thành tố lịch sử và văn hóa thì chưa có công trình nghiên cứu nào bàn luận sâu
rộng, chuyên biệt. Chỉ có một số bài viết bàn đến yếu tố văn hoá, lịch sử, đề cập
2
đến biểu tượng trong một tác phẩm cụ thể nào đó… Trước bối cảnh văn hóa và
văn học thế giới đang xóa nhòa những khoảng cách, có khả năng chồng xếp và bị
hút lẫn nhau, việc nghiên cứu thế giới biểu tượng nhằm khám phá chiều sâu địa
tầng văn hoá, lịch sử nhân loại và dân tộc qua hệ thống tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam là rất cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc Việt qua các hệ biểu tượng.
- Trong quá trình khảo sát và phân tích các biểu tượng, chúng tôi sẽ làm rõ một
số luận điểm có ý nghĩa định vị giá trị biểu tượng và sự kết nối các giá trị ấy với vấn
đề đời sống xã hội, con người đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án sẽ giới thuyết lại một số vấn đề lý luận về biểu tượng và tiểu thuyết
lịch sử trên tinh thần kế thừa, phát huy các công trình đã nghiên cứu trước đó.
- Luận án tập trung khảo sát, nhận diện và phân tích một số hệ biểu tượng nghệ
thuật cơ bản: hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn
hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
- Luận án sẽ làm rõ vai trò, chức năng của biểu tượng là đơn vị ngôn ngữ đặc
trưng - ngôn ngữ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam qua tư
duy nghệ thuật của nhà văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trực tiếp mà luận án nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới. Về bản chất, biểu tượng nghệ thuật cũng là
một loại ký hiệu, hàm chứa và biểu đạt vô vàn giá trị lịch sử, tư tưởng, văn hóa, của
cá nhân, cộng đồng... Đi sâu tìm hiểu, giải mã biểu tượng cho phép chúng ta mở
rộng nhận thức, khám phá những giá trị ẩn khuất của tác phẩm, hiểu biết sâu sắc hơn về
văn hóa nhân loại và dân tộc. Trong văn học, biểu tượng rời xa đời sống nguyên khởi của
nó để trở thành một dạng ký hiệu, một đơn vị ngôn ngữ quan trọng để kiến tạo nghĩa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3
Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986, ở một
chừng mực nào đó, luận án sẽ khảo sát tiểu thuyết lịch sử các giai đoạn trước đó,
đồng thời, so sánh với tiểu thuyết lịch sử của một số nền văn học khác để thấy rõ
hơn thành tựu của tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp chúng tôi tập hợp được các biểu tượng khác nhau,
sắp xếp chúng theo hệ biểu tượng tương ứng để phân tích. Phương pháp hệ thống
cũng giúp chúng tôi tập hợp được các công trình, bài viết nghiên cứu xoay quanh
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi sẽ xác định được bản chất của đối
tượng nghiên cứu trong tương quan với đối tượng của các công trình nghiên cứu
khác; xác định bản chất của từng loại biểu tượng trong mối quan hệ với các biểu
tượng khác.
4.3. Phương pháp loại hình
Nói đến loại hình là nói đến “tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung
những đặc điểm cơ bản nào đó” [19, tr.327]. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi
nhận dạng các biểu tượng khác nhau để xếp chúng về một kiểu loại phù hợp.
4.4. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Biểu tượng là phương diện quan trọng của văn hóa và là phương tiện biểu đạt
của văn học qua tư duy nghệ thuật của nhà văn. Tiếp cận biểu tượng văn học từ góc
nhìn văn hóa sẽ giúp luận án có điều kiện khám phá chiều sâu các giá trị của biểu
tượng trong tác phẩm văn học.
4.5. Phương pháp liên ngành
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học, đặc biệt là biểu tượng trong tiểu thuyết
đòi hỏi sử dụng nhiều loại hình tri thức khác nhau như sử học, xã hội học, văn hóa
học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng, thi pháp học, tự sự học…Vì thế, luận án sẽ sử
dụng phương pháp liên ngành nhằm cắt nghĩa sâu hơn cách sử dụng biểu tượng
cũng như các tầng nghĩa nằm sâu trong biểu tượng văn học.
4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên biệt về biểu tượng trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam.
- Góp phần hệ thống hóa các tri thức lý thuyết về biểu tượng và biểu tượng
văn học, biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử làm cơ sở khám phá giá trị văn hóa và
văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng và văn học nói chung.
- Phân tích hệ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chỉ ra
những thành tựu sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, qua đó, nhận thấy rõ hơn sự giàu
có và phong phú của các giá trị văn hóa trong văn học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Luận án xác định được quan điểm cơ bản về tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam.
- Luận án đóng góp thêm một tiếng nói nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam từ lý thuyết biểu tượng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đi sâu nghiên cứu những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc qua các hệ
biểu tượng, từ đó góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc
trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học ở phổ
thông và đại học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Chương 3: Hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Chương 4: Hệ biểu tượng văn hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Nghiên cứu biểu tượng
1.1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu biểu tượng trên thế giới
Ở các quốc gia phát triển và có truyền thống văn hóa lâu đời, việc nghiên cứu
biểu tượng đã có từ rất sớm cả về khảo sát thực tiễn lẫn nền tảng lý thuyết. Các thao
tác đọc biểu tượng và giải mã biểu tượng thường gắn với hệ tư tưởng triết học và
mỹ học nào đó.
Theo triết học mácxít, quá trình nhận thức của con người về thế giới trải qua
hai giai đoạn nhận thức cơ bản: cảm tính và lý tính. Các cấp độ của quá trình nhận
thức diễn ra rất biện chứng và phức tạp, mỗi cấp độ có nội dung, chức năng và ý
nghĩa khác nhau. Biểu tượng là mắt xích sau cùng, là hình thức phản ánh cao nhất
và phức tạp nhất của quá trình nhận thức cảm tính gồm: cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Theo đó, biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng khách quan tương đối
hoàn chỉnh và trừu tượng còn lưu lại trong bộ óc người sau khi sự vật, hiện tượng
đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. “Biểu tượng là hình ảnh của cảm
tính về các sự vật, hiện tượng khách quan nên ít nhiều mang tính trừu tượng hóa”
[120, tr.300-303]. Quan điểm triết học mácxít xem biểu tượng là sản phẩm chủ quan
cá nhân trong hoạt động nhận thức của con người, biểu tượng mất đi giá trị văn hoá
không thuộc về cái đã có, cổ xưa được tích luỹ qua các thời đại và không mang tâm
thức cộng đồng.
Đối với các nhà phân tâm học, biểu tượng không phải là một giai đoạn của quá
trình nhận thức mà là những hình ảnh, sự vật được kết tinh từ “vô thức tập thể”, của
“vùng kinh nghiệm” được truyền từ đời này sang đời khác (nằm ngoài quy luật di
truyền học) dùng để biểu đạt một điều gì đó. Biểu tượng một mặt xuất hiện trong
giấc mơ hay “giấc mơ là nguồn gốc chính để tìm ra biểu tượng” [14, tr.67] nhưng
không chỉ có vậy, biểu tượng còn được hình thành từ phương diện tâm lý cá nhân
và những vô thức tập thể. Từ phương diện tâm lý cá nhân, “có những ý tưởng và
6
tâm tình có tính cách biểu tượng. Có những hành động và hoàn cảnh có tính cách biểu
tượng” [14, tr.68]. Nhưng cũng “có rất nhiều biểu tượng quan trọng, không có tính
cách cá nhân mà có tính cách đoàn thể, kể cá phương diện tính chất lẫn phương diện
nguồn gốc” đó là “những ý tưởng tập thể thoát thai từ những giấc mơ, từ trí tưởng
tượng” [14, tr.68-69] tập thể xã hội trong hoàn cảnh nhất định nào đó tác động đến.
Carl Jung đã chia tâm thức con người ra làm ba phần: (1) Cái tôi - bộ phận ý
thức của tâm thần; (2) Cõi tiềm thức cá nhân - đó là tất cả những gì không xuất hiện
nhưng thuộc về ý thức. Khi cần sẽ trở thành một phần của ý thức; (3) Vô thức tập
thể. Đây chính là phần quan trọng, khẳng định giá trị học thuyết của Jung. Nếu S.
Freud quan tâm đến bản năng trong cõi vô thức tác động đến ý thức và hành vi con
người, làm nên các giấc mơ, biểu tượng hình thành từ giấc mơ để biểu đạt hành vi
thì với Carl Jung, những kiến thức từ cõi vô thức tập thể luôn có ảnh hưởng lên tất
cả những hành vi của con người. Nội dung của những ảnh hưởng đến từ cõi vô thức
tập thể được gọi là những nguyên mẫu. Đó chính là những tâm thức hệ chủ quan
bao gồm những biểu tượng hoặc những hình ảnh huyền thoại hay những hình ảnh
nguyên thủy. Các nguyên mẫu thuộc về tâm thức di truyền hoàn toàn không có liên
hệ nguồn gốc sinh học. Các nguyên mẫu không mang thuộc tính bản năng mà là
những nhu cầu mang thuộc tính tinh thần. Trong cuốn Thăm dò tiềm thức, Carl Jung
cho rằng: biểu tượng hoàn toàn khác với ký hiệu. Theo ông, “một chữ hay một hình
ảnh sẽ trở thành biểu tượng khi nó gợi đến một cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên
và trực tiếp” [14, tr.18]. Trong khi “ký hiệu không bao giờ nói hết những ý nghĩa
của một ý niệm ghi lại bằng ký hiệu ấy còn biểu tượng gợi đến một nội dung to lớn
hơn ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp của biểu tượng” [14, tr.67]. Đối với các nhà triết
học phân tâm, khi phân tích biểu tượng trước hết họ khảo sát những biểu tượng tự
nhiên, đối chiếu với các biểu tượng văn hóa. Những biểu tượng tự nhiên “thoát thai
từ nội dung phi ý thức của cái psyché (Chữ này Jung dùng để chỉ toàn bộ những tác
động trí thức và tiềm thức và được dùng theo một nghĩa rộng hơn chữ “tâm thần”)
[14, tr.20], còn “những biểu tượng văn hóa dùng để diễn tả những chân lý vĩnh cửu.
Những biểu tượng này đã nhiều lần thay đổi, có thể do một tiến trình cấu tạo có ý thức,
và trở thành những hình ảnh tập thể được các xã hội văn minh chấp nhận” [14, tr.135].
7
Thế kỷ XX với sự phát triển vượt bậc của nhiều chuyên ngành khoa học xã hội
khác nhau như cấu trúc luận, ngôn ngữ học, ký hiệu học, nhân học... đã tác động
mạnh mẽ đến hoạt động nghiên cứu biểu tượng và lý thuyết biểu tượng trên thế giới.
Có thể có nhiều cách giải thích khác nhau về vỏ vật chất, nghĩa và ý nghĩa, giá trị
của một phương tiện giao tiếp, song các nhà khoa học cấu trúc luận, ngôn ngữ học,
ký hiệu học quan niệm ngôn ngữ, ký hiệu gồm hai phần: cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Từ mô hình cấu trúc do Ferdinand de Sausure lập ra với quan niệm ngôn
ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần cái biểu đạt và cái
được biểu đạt, nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Tzvetan Todorov,
Roland Barthes, Jacques Derrida, C. Levi-Strauss kế tiếp nhau dụng hành và phát
triển nó thành hệ thống lý thuyết về cấu trúc luận, ký hiệu học với những giá trị lớn
lao. Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt và cái
được biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, “ký hiệu được hình thành từ cái biểu
đạt và cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau thành mô thức của cái biểu đạt
và cái được biểu đạt cao hơn tạo nên các ký hiệu mới” [38, tr.21]. Cái biểu đạt được
cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan, cái được biểu đạt bị che lấp, ẩn sâu, khó
nắm bắt. Hệ thống quan điểm này là chìa khoá giải mã biểu tượng.
Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, biểu tượng là thuộc tính đặc trưng của ngôn
ngữ. Ferdinand de Sausure cho rằng “ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đã được xã
hội chấp nhận bằng các quy ước... là sản phẩm của văn hóa đặc biệt của loài người.
Một trong những đặc tính quan trọng nhất cấu thành ngôn ngữ chính là tính biểu
tượng được thể hiện thông qua các ký hiệu” [38, tr.24-25]. Với quan niệm này, tác
giả đã thừa nhận “bên cạnh các ngôn ngữ thông thường như ngôn ngữ nói, ngôn
ngữ viết còn có thêm một loại ngôn ngữ quan trọng khác đó là ngôn ngữ biểu
tượng” [38, tr.25] được con người sử dụng trong hoạt động sống của mình. Và
“ngôn ngữ biểu tượng là một thành tố văn hóa do con người tạo ra để sử dụng như
một loại công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng... Tìm hiểu ngôn ngữ
biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hóa và xã hội thông qua các biểu
tượng văn hóa do họ tạo ra... Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng sử
8
dụng ngôn ngữ biểu tượng để giải mã các thành tố văn hóa được sản sinh trong đời
sống của con người” [38, tr.27].
Theo Iu. M. Lotman, biểu tượng là một ký hiệu văn hóa. Ông khẳng định “văn
hóa là hiện tượng ký hiệu học. Mọi hiện tượng văn hóa đều có đặc điểm ký hiệu
học. Cho nên, đối tượng của ký hiệu học chỉ có thể là văn hóa, và hướng tiếp cận
văn hóa chỉ có thể là ký hiệu học” [66, tr.9]. Biểu tượng sẽ phải được soi xét dưới
góc độ ký hiệu học. “Biểu tượng được xác định như một ký hiệu, mà ý nghĩa của nó
là một ký hiệu thuộc loại này hay loại khác… Hoặc biểu tượng là sự biểu đạt ký
hiệu cho một bản chất phi ký hiệu cao nhất và trừu tượng”. Không dễ gì định nghĩa
biểu tượng, quan niệm về biểu tượng “phải xuất phát từ các quan niệm trực giác do
kinh nghiệm văn hóa mang lại rồi cố gắng khái quát tiếp theo” [66, tr.218-219]. Lý
thuyết ký hiệu học văn hóa của Lotman lấy văn bản làm trung tâm. Ở bình diện biểu
hiện, biểu tượng là một văn bản. “Tức là nó có một ý nghĩa thống nhất đóng kín bên
trong nó”. Khi đó, “văn bản là thông tin chí ít hai lần mã hóa, thông tin được
chuyển tải bằng một ngôn ngữ, là một hiện tượng đa ngữ…Văn bản không phải là
một cái bọc đựng một nghĩa thụ động, mà là tổ chức “truyền đạt”, “lưu giữ” và sáng
tạo thông tin” [66, tr.11].
Biểu tượng thuộc về văn hóa. Giá trị của biểu tượng không hề bất định mà có
sự dịch chuyển, bổ sung khi nó dịch chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác, từ các thiết chế xã hội này sang thiết chế xã hội khác. Tuy nhiên, giá trị ban
đầu vẫn tồn tại cùng nhận thức của xã hội để khi tư duy xã hội vận động thì giá trị
ấy được bổ sung, thêm mới phù hợp. Nghiên cứu biểu tượng trên thế giới vì thế đi
vào chiều sâu tri nhận, đó là thế giới biểu tượng của huyền thoại, chiêm mộng,
phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc, con số… mà hai tác giả Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant viết nên cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
hay đó thế giới bí ẩn thuộc về tướng số, kinh dịch, phong thuỷ của xã hội phương
Đông, là thế giới linh thú, con vật trong Thánh kinh của Thiên chúa giáo - Cựu Ước
và Tân Ước “không chỉ là vật thể của hiện thực mà còn là biểu trưng của thế giới
tâm thần” được soi sáng dưới lý thuyết phân tâm học về cổ mẫu.
9
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu biểu tượng trên thế giới xoay quanh trục nguồn
gốc biểu tượng, quá trình hình thành biểu tượng hoặc biểu tượng như là một phương
tiện giao tiếp văn hoá, là đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật… Vấn đề nghiên cứu biểu tượng
trên thế giới không đơn giản dừng lại ở những công trình mà chúng tôi đề cập. Vẫn còn
nhiều quan điểm về lý thuyết biểu tượng mà chúng tôi chưa thể cập nhật bởi nhiều lý
do chủ quan và khách quan. Song thiết nghĩ, những khái quát trên đây cũng nói lên
được trọng tâm của các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng trên thế giới.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Biểu tượng không còn là đối tượng nghiên cứu mới ở Việt Nam, nhưng những
nghiên cứu về biểu tượng ở nước ta trong suốt thời gian dài vừa qua vẫn còn bỏ ngỏ
nhiều khoảng trống lí luận chuyên sâu, mang tính đặc thù trên từng lĩnh vực đời
sống xã hội. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam chủ yếu diễn ra theo hai xu
hướng chính là dịch thuật các công trình nghiên cứu nước ngoài và vận dụng lí thuyết
đã được dịch thuật để nghiên cứu biểu tượng theo từng lĩnh vực đời sống xã hội.
Về mặt dịch thuật và giới thiệu lý thuyết, có thể kể đến một số công trình đáng
chú ý sau đây: 1/ từ phân tâm học, chủ yếu là tác phẩm của Sigmund Freud, Carl
Jung như: Vật tổ và cấm kỵ (Đoàn Văn Chúc dịch), Nguồn gốc của văn hoá và tôn
giáo (Lương Văn Kế dịch), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ (Nguỵ
Hữu Tâm dịch), Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch), Jung đã thực sự nói gì
(Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Phân tâm học nhập môn (Nguyễn Xuân Hiến dịch),
Phân tâm học về tính dục (Thụ Nhân dịch); các ấn phẩm đề cập đến biểu tượng
trong mối quan hệ với văn hoá tâm linh, nghệ thuật, tình yêu, tính cách dân tộc do
Đỗ Lai Thúy và các cộng sự thực hiện; 2/ từ ngôn ngữ, ký hiệu học văn hóa với Ký
hiệu học văn hóa của Iu. M. Lotman (1922-1993) do nhóm tác giả Lã Nguyên, Đỗ
Hải Phong, Trần Đình Sử thực hiện. Đây là một công trình khoa học tuyển tập các
nghiên cứu đặc sắc, những tư tưởng nòng cốt làm nên lý thuyết ký hiệu học văn hóa
của nhà nghiên cứu văn học, nhà văn hóa học và ký hiệu học nổi tiếng thế giới, một
trong số học giả hàng đầu thế kỷ XX. Cùng hướng dịch thuật, nghiên cứu trên đây
là công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên) đã nghiên cứu và
dịch tác phẩm của R. Barthes, R. Jakobson, W. Morris, D. Chandler…
10
Bên cạnh đó, đáng chú ý là các nghiên cứu của Đoàn Văn Chúc, Đinh Hồng
Hải, Trần Đình Sử, Trần Lê Bảo, Lê Nguyên Cẩn, … đã từng bước làm đầy đặn hơn
hướng nghiên cứu biểu tượng văn hóa và văn học ở Việt Nam.
Chúng tôi coi những công trình trên đây có ý nghĩa tạo lập cơ sở lý thuyết và thực
tiễn cho nghiên cứu Biểu tượng học ở Việt Nam. Đây cũng là các công trình lý luận
quan trọng giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Việc nghiên cứu biểu tượng trong văn học cũng là hướng nghiên cứu được
nhiều nhà nghiên cứu chú ý trong thời gian qua. Từ các bài báo nghiên cứu biểu
tượng trong thơ ca, tiểu thuyết như Biểu tượng thơ ca, (Bùi Công Hùng), Vấn đề
nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian (Phạm Thu Yến), Quan hệ giữa tôn giáo và
thơ ca trong thế giới biểu tượng (Nguyễn Văn Hạnh), Một số biểu tượng mang tâm
thức Mẫu trong “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh (Hoàng Thị Huế)…
đến các công trình, luận án chuyên sâu như: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt (Nguyễn Thị Ngọc Điệp), Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân
Kính), Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên), Tiếp cận văn học từ góc
nhìn văn hóa (Lê Nguyên Cẩn), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa (Lương Minh
Chung), Biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam (Trần Thị Hường)… đã khám phá
chiều sâu tác phẩm từ góc nhìn văn hoá, tư tưởng. Các tác giả đã khảo sát biểu tượng
rồi tiến hành giải mã các lớp trầm tích văn hoá, tư tưởng trên các biểu tượng trong tác
phẩm qua đó tìm thấy dấu ấn văn hoá trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Biểu tượng rất khó tiếp cận vì tính phức tạp của nó. Ngay cả khi được trang bị
kiến thức về nó, chúng ta cũng không dễ dàng cảm thức đầy đủ giá trị mà nó biểu
đạt. Điều may mắn cho tôi khi thực hiện luận án này là tiếp cận được nhiều công
trình nghiên cứu về biểu tượng trên thế giới bằng tiếng Việt nhờ vào tâm huyết và
trí tuệ của các nhà nghiên cứu, dịch giả Việt Nam. Đấy là nguồn lí thuyết căn bản
để hiểu thế nào là biểu tượng, phân biệt được biểu tượng với các dạng thức tương
cận nó, cũng như xác lập các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng. Nhìn chung,
nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam chưa hướng đến xây dựng hệ thống lí luận đặc
thù, chưa thành lập được khoa nghiên cứu biểu tượng độc lập như các chuyên ngành
khoa học khác. Tuy vậy, hoạt động nghiên cứu cũng đạt được kết quả đáng trân
11
trọng. Từ chỗ nghiên cứu biểu tượng như là thuộc tính cơ bản của văn hoá học, đến
nay, nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam diễn ra trên cả diện rộng và chiều sâu ở tất
cả các lĩnh vực xã hội, qua đó thấy được ý nghĩa to lớn của thế giới biểu tượng
trong đời sống xã hội.
1.1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1986
Trong nền văn học Việt Nam, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện khá sớm với Hoan
Châu ký, hay còn có tên là Thiên Nam liệt truyện, do tác giả Nguyễn Cảnh thị
(tức người họ Nguyễn Cảnh), biên soạn vào khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680 -
1705) đời Lê, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tiếp đến, nền văn học
hiện đại có Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Tiếng sấm đêm đông, Lê Đại
Hành, Hai Bà Trưng đánh giặc… của Nguyễn Tử Siêu, đặc biệt là nhiều tác phẩm
của Nguyễn Triệu Luật như Hòm đựng người, Bà chúa chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn
kiêu binh, Rắn báo oan… đã làm nên dòng văn học riêng trong dòng văn học
chung- văn học hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, trước 1986, những công trình nghiên
cứu về dòng văn học này không nhiều, chỉ là những bài viết ngắn, nhỏ lẻ đăng trên
các tạp chí, thảng hoặc xuất hiện một số nhận định khái quát chung nhân đọc tác
phẩm như trường hợp tác giả Triêu Dương trong bài Mấy ý kiến về tiểu thuyết lịch
sử nhân đọc cuốn “Quận He khởi nghĩa”, đăng trên Tạp chí Văn học số 8/1964 có
đề cập đến chủ đề, nhân vật, phương thức tái hiện các sự kiện lịch sử. Hay Tân Dân
Tử viết lời giới thiệu tiểu thuyết Gia Long tẩu quốc có bàn đến lịch sử đại lược và
tiểu thuyết lịch sử với điểm khác nhau cơ bản là “Lịch sử đại lược có nói đến nhân
vật xuyên sơn, quốc gia hưng phế mà không tả diện mạo, tính tình ngôn ngữ, không
tả tính tình phong cảnh, còn lịch sử tiểu thuyết thì nói đủ các nhân vật xuyên sơn,
tính tình ngôn ngữ, tả tới hỉ nộ, ái ố, trí não tinh thần, tả tới phong cảnh, cỏ hoa, nhà
cửa, đài các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn ve làm cho độc giả…dễ cảm xúc vào
lòng, dễ quan niệm vào trí” [57, tr.Pl10]. Nguyễn Triệu Luật trong lời mở đầu tiểu
thuyết Hòm đựng người, và lời tựa tác phẩm Ngọc đường Trường Thi… có bàn đến
“Viết lịch sử tiểu thuyết (Roman historique) không cần theo phép của sử học, không
cần có sự thật. Tác giả chỉ tưởng tượng ra một chuyện “có thể có” ở một thời đại,
12
rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy chuyện không đâu mà
làm sống lại một thời đại” [90, tr.5]; “Triệu Luật phỏng theo lối ấy mà viết cuốn lịch sử
tiểu thuyết này. Phần chân sử ở trong tự cũng như có giá mà phần lông bông thêm thắt
may ra cũng có giá. Tưởng đó là lối viết lịch sử tiểu thuyết nên cho nhập cảng vào địa
hạt văn chương ta nên đem ra thử lần đầu” [90, tr.302] … Nhìn chung có rất nhiều phát
biểu về tiểu thuyết lịch sử song những phát biểu ấy chưa thể đạt chiều sâu lí luận cho
một thể tài văn học.
Đáng kể nhất trong các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
trước 1986 là công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả xác định tiểu thuyết lịch sử là một khuynh
hướng sáng tác. Đồng thời với việc điểm lượt những tác giả, tác phẩm tiêu biểu, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đã nêu ra những nhận địch thoả đáng về tiểu thuyết lịch sử
với các đặc điểm riêng của khuynh hướng sáng tác này trước 1930 và sau đó. Theo
ông, “Trong thời kỳ 1900 - 1930, tiểu thuyết lịch sử là một hình thái mới của văn
học yêu nước và cách mạng. Tiểu thuyết lịch sử viết về quá khứ của dân tộc nhưng
lại mang một ý nghĩa rất hiện đại… những tác phẩm này đồng thời lại là một loại
tiểu thuyết lịch sử có luận đề, luận đề về cách mạng Việt Nam” [26, tr.47]. Ưu điểm
của các tác giả tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này là “họ đã phát huy vai trò của hư cấu
sáng tạo, không hoàn toàn nô lệ vào tài liệu lịch sử” nhưng nhược điểm là “họ chưa
có một thái độ nghiên cứu lịch sử thật nghiêm túc, đôi khi họ vi phạm tính chân
thực lịch sử nghiêm trọng” [26, tr.51]. Trên nguyên tắc sáng tác của Gôgôn,
L.Tônxtôi, Quách Mạt Nhược, ông không tán thành “cái bệnh hiện đại hoá lịch sử,
xem lịch sử chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức hoạ của tôi” [26, tr.51].
Nhìn chung, trong bối cảnh Việt Nam tập trung nhân tài vật lực cho những
cuộc trường chinh vĩ đại, kháng chiến kiến quốc và hàn gắn vết thương chiến tranh
sau khi đất nước được thống nhất… đời sống văn học đã cuộn xoáy theo hiện thực
ấy. Các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật không thể đứng ngoài
cuộc đời dân tộc mà sống cho riêng mình. Trên diện rộng và sâu, đời sống văn học
chỉ xoay quanh đề tài chiến tranh nhân dân, kiến thiết đất nước, phản ánh kịp thời
hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Về mặt ý nghĩa lịch sử tư tưởng xã hội, đời
13
sống văn học thời kỳ này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cổ vũ, “minh hoạ”,
nhưng ý nghĩa văn học, lí luận và phê bình đúng với bản chất nghệ thuật vẫn còn
nhiều khoảng trống cần được hoàn thiện trong tiến trình phát triển của văn học nghệ
thuật dân tộc qua các chặng đường tiếp theo.
1.1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986
Từ sau 1986, hoạt động nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu tiểu thuyết
lịch sử nói riêng đã có bước chuyển biến tích cực. Cánh cửa giao lưu văn hoá được
rộng mở, tiếng nói dân chủ trong đời sống văn học ngày càng được chú trọng là tiền
đề để phong trào dịch thuật, sáng tác và nghiên cứu phát triển. Những quan điểm có
tính nguyên tắc sáng tác văn học, trong đó có thể tài tiểu thuyết lịch sử của các nhà
nghiên cứu, các tác giả tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng trên thế giới như Bakhtin,
Biêlinxki, Kundera, Lukács, Hella S. Haasse, Lion Feuchtwanger… được dịch
thuật, giới thiệu đã góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực ấy.
Trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình, nhiều hội thảo chuyên đề về tiểu thuyết
lịch sử diễn ra. Cuối năm 2012, Hội đồng lí luận - phê bình văn học, nghệ thuật
trung ương tổ chức Hội thảo khoa học “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch
sử”, Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức toạ đàm về tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh. Những tham luận tại toạ đàm được tập hợp thành công trình Lịch sử
và văn hoá, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh, cũng đã mở ra cách tiếp
cận đa chiều về tiểu thuyết lịch sử nói chung, tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh nói riêng, trên cả phương diện nội dung lẫn phương thức tự sự, đặc biệt là
những bàn luận sâu sắc về tư duy lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh. Ở đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng, Nguyễn Xuân Khánh là
người có tư tưởng riêng chứ không minh họa cho tư tưởng nào khác. Ông viết lịch
sử là để viết về con người, về những giá trị nhân văn trong đời sống… Cũng như
“Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp - miêu tả cái dữ dội của hiện thực từ một giai
đoạn lịch sử để cuối cùng cũng chỉ hướng tới khao khát nhân văn của nhân loại. Tác
giả Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh là một diễn
ngôn về lịch sử và văn hóa… Diễn ngôn nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh chính
14
là những suy tư của ông về lịch sử và văn hóa, trong đó, văn hóa là lõi cốt của lịch
sử, là chiều sâu quy định sự hằng tồn của quốc gia, dân tộc” [27, tr.8].
Vào năm 2019, Tạp chí Văn nghệ quân đội và Đại học Hồng Đức cũng tổ chức
hội thảo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy tiểu thuyết lịch sử. Hội thảo đã thu
hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm về thể loại có phần “nhạy cảm” này.
Bên cạnh những toạ đàm còn có những bài viết, phê bình sâu sắc của các nhà
nghiên cứu, những phát biểu, trao đổi giàu chất lí luận của Nguyễn Xuân Khánh,
Nguyễn Mộng Giác, Nam Dao… về thể tài văn học này. Trong bài viết “Cần đổi
mới suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử kêu
gọi phải thay đổi nhận thức và đổi mới tư duy tự sự lịch sử, mạnh dạn thể nghiệm
lối viết hiện đại/hậu hiện đại. Nguyễn Văn Dân trong bài “Tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam đương đại - phác họa một số xu hướng chủ yếu” đã căn cứ vào mục đích và
quan niệm nghệ thuật của nhà văn để phân chia thành ba khuynh hướng: Tiểu
thuyết lịch sử chương hồi khách quan; Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn; Tiểu thuyết
lịch sử luận giải.
Bên cạnh những công trình trên, còn có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước và sau 1986. Có những luận án liên quan đến vấn
đề nghiên cứu của tôi như luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu
thế kỷ XX đến 1945 - Diện mạo và đặc điểm của Bùi Văn Lợi, chuyên luận Tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 của Nguyễn Thị Tuyết Minh, luận án Tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc nhìn tự sự học của Nguyễn Văn Hùng…
Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Lợi bàn diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945. Với công trình này, tác giả
Bùi Văn Lợi đã sử dụng phương pháp văn học sử và phương pháp so sánh để làm
sáng tỏ những điều kiện lịch sử, xã hội - văn hóa với tư cách là động lực thúc đẩy sự
ra đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945.
Luận án đã nêu ra và phân tích một số khái niệm như: Tiểu thuyết lịch sử là gì? Sự
khác biệt giữa tiểu thuyết lịch sử với các chủng loại tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết
hiện thực, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kiếm hiệp. Tiếp theo đó, tác giả nêu ra
sự khác nhau giữa cuốn tiểu thuyết lịch sử với một công trình khoa học lịch sử, giữa
15
một bên là hư cấu, dã sử với một bên là chính sử. Theo tác giả, đặc điểm nội dung
tiểu thuyết lịch sử thể hiện ở cảm hứng sáng tạo và quan niệm nghệ thuật về con
người. Trong đó, cảm hứng lịch sử và dân tộc, cảm hứng thế sự, cảm hứng đạo lý là
những cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này. Hình tượng con người
anh hùng cứu nước là hình tượng trung tâm. Song, có sự phát hiện độc đáo và chân
thực hơn là nét đời thường ở con người anh hùng phi thường. Đặc điểm kết cấu tiểu
thuyết lịch sử thời kỳ này chính là theo phong cách kết cấu truyền thống: Kết cấu
theo thời gian tuyến tính và kết cấu theo tuyến nhân vật chính diện/phản diện. Luận
án đã thâu tóm được đặc điểm và diện mạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này
nhưng vấn đề biểu tượng chưa được đề cập.
Chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 của Nguyễn Thị Tuyết
Minh (do Nxb CAND ấn bản năm 2012) là bước “chạy tiếp sức” rất ý nghĩa, tiếp
nối công trình của Bùi Văn Lợi. Đối tượng tiểu thuyết lịch sử được khảo sát nối dài
từ 1945 đến nay đã không cho phép tác giả đi sâu nghiên cứu muôn mặt của đời
sống tiểu thuyết lịch sử. Chuyên luận đã tiến đến phân kỳ tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam từ 1945 đến nay thành hai giai đoạn: giai đoạn 1: từ 1945 đến 1985, giai đoạn
2: từ 1986 đến nay. Trên cơ sở phân kỳ tiểu thuyết lịch sử, tác giả nêu ra các đặc
điểm về nội dung và phương thức nghệ thuật ở mỗi giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, nội
dung chủ yếu là yêu nước, nghệ thuật tự sự theo lối kết cấu chương hồi, kết cấu thời
gian, kết cấu nhân quả, ngôn từ nghệ thuật đậm chất biền ngẫu, nhiều điển tích, điển
cố. Ở giai đoạn tiếp theo, nội dung thế sự được nhà văn quan tâm khai thác nhiều
hơn và trở thành cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết lịch sử. Nghệ thuật tự sự có
những đổi mới đáng kể qua kết cấu, điểm nhìn, giọng điệu và mang âm hưởng tiểu
thuyết phương Tây, gắn với tâm thức văn hóa, tâm thế sáng tạo ở thời kỳ hội nhập.
Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc nhìn tự sự học của
Nguyễn Văn Hùng có thể xem là một công trình lí luận về tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam thời kỳ đổi mới. Trên nền tảng lí thuyết tự sự học, tác giả đã khảo sát, phân
tích và tìm ra những đặc trưng quan trọng về điểm nhìn trần thuật, kết cấu tự sự, diễn
ngôn tự sự của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì này. Đặc biệt, tác giả tìm thấy tính
chất, dấu ấn hậu hiện đại trong tư duy nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử thời kì mới.
16
Chúng ta có thể nhìn nhận tình hình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1986 diễn ra sôi nổi hơn giai đoạn trước đó. Trọng tâm của các công trình
nghiên cứu vẫn xoay quanh mục đích của nhà văn khi chọn lịch sử làm đối tượng
nghệ thuật, vấn đề chính sử và dã sử, hư cấu nghệ thuật và bịa đặt lịch sử... những
vấn đề có tính chất lí luận về thể tài văn học này được nêu ra tranh biện và giải
quyết. Mặt khác, các nghiên cứu đã chú ý đến phương thức nghệ thuật tự sự, vấn đề
văn hoá thời đại lịch sử khi được phản ánh qua tác phẩm. Tuy nhiên, với thành tựu
vượt bậc của thể tài văn học này trong dòng chảy chung của văn học dân tộc thời kỳ
đương đại, những giới hạn nghiên cứu không hề đóng khép, mà cần sự khám phá
nhiều hơn. Đấy là cơ sở để chúng tôi tiếp tục kế thừa, phát huy và tìm tòi những
điểm mới mẻ về tiểu thuyết thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
1.2. Cơ sở lí thuyết và hướng tiếp cận của luận án
1.2.1. Vấn đề biểu tượng
1.2.1.1. Khái niệm biểu tượng
Hằng ngày, chúng ta sống trong thế giới biểu tượng và biểu tượng sống với
chúng ta. Nhưng, Biểu tượng là gì? Theo nhà ký hiệu học văn hóa Iu.Lotman thì “từ
biểu tượng (symbol) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các
khoa học về ký hiệu”. Tác giả J.Chevalier lại cho rằng “Không định nghĩa được
biểu tượng. Tự bản chất của nó, phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái
cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà không bay, đứng im
mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không nắm bắt được… Nếu phải định nghĩa về nó,
chúng ta phải huy động hệ thống từ ngữ để gợi ra một hay nhiều nghĩa của một biểu
tượng; nên phải luôn nhớ rằng, các từ không thể diễn đạt được tất cả giá trị của biểu
tượng” [69, tr.14]. Dẫu các nhà nghiên cứu thừa nhận rất khó để nêu ra một định
nghĩa hoàn thiện về biểu tượng nhưng chúng ta vẫn tìm thấy điểm chung trong quan
niệm của họ về biểu tượng. Trong tiếng Hán, biểu tượng là một từ ghép “biểu” và
“tượng” lại với nhau, có nghĩa. Biểu có nghĩa là “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu” để
người ta nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là hình tượng. Biểu tượng là một
hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng,
nhằm để diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Trong tiếng Anh, tiếng Pháp,
17
thuật ngữ symbol hay symbole được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp cổ đại: Symbolon. Có nghĩa là ký hiệu (sign), dấu hiệu, tín hiệu. Từ
góc nhìn của một khoa học chuyên sưu tầm, tập trung phân tích các mặt hình và
nghĩa các từ của một ngôn ngữ, định nghĩa biểu tượng của các nhà từ điển học trên
thế giới có sự tương đồng nhau. Theo “Từ điển Latin” của Chertol T. Lewis,
“symbol/symbolon là ký hiệu, phù hiệu mà nó mang lại một cái gì khác, nhằm hiểu
thấu những gì đằng sau nó” [160, tr.141]; Theo tự điển “Le Petit Larousse” của
Claude Augé “biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động hay đồ vật,
biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì
đó” [17, tr.78]; Theo “Từ điển biểu tượng” của Liungman “những gì được gọi là
biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một nghĩa là
đại diện cho chính bản thân nó” [38, tr.12]; Theo “Từ điển tiếng Việt” do giáo sư
Hoàng Phê chủ biên, biểu tượng có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là hình ảnh tượng
trưng, nghĩa thứ hai là hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm
dứt… Có thể thấy rằng, những định nghĩa về biểu tượng của các bộ từ điển có sự
tương đồng nhau khi xem biểu tượng là cái đại diện, biểu hiện cho cái gì đó, ngoài
nó và khác nó. Đó có thể là một vật, một hình ảnh, một hành vi, một nghi thức, nghi
lễ… có tính “ý niệm” được xã hội thừa nhận. Có thể coi biểu tượng gồm có hai
thành tố “Cái biểu đạt” và “Cái được biểu đạt”.
Các tác giả của công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng đã khảo sát, phân tích
quan niệm của các nhà nhiên cứu về cái biểu đạt và cái được biểu đạt của biểu
tượng và đã chia thành ba nhóm quan niệm khác nhau. Với quan điểm cái được biểu
đạt vắng mặt và được hiểu trực tiếp từ cái biểu đạt, một số nhà nghiên cứu đã đồng
quy tất cả những cái gì thuộc các hình thức biểu hiện văn hóa tinh thần của loài
người như lễ hội, nghi thức, huyền thoại, tôn giáo, hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật, khái
niệm và công thức khoa học, lịch sử, ngôn ngữ…đều là biểu tượng. Tiêu biểu cho
quan niệm này là E. Cassier và Ch. Pierce; Nhưng, nếu coi cái được biểu đạt phải
được hiểu gián tiếp, ngoài cái biểu đạt thì biểu tượng là một dạng ký hiệu đặc biệt,
nó gắn liền với nội dung tư tưởng nào đó, đến lượt nội dung đó lại dùng làm bình
18
diện cho một nội dung khác, thông thường là nội dung ở đây có giá trị văn hóa cao
hơn. “Nó làm trung hòa ý nghĩa thứ nhất, biến một ký hiệu chỉ có chức năng thông
tin thuần túy thành sự biểu đạt văn hóa” [31, tr.27]. Những đại diện tiêu biểu cho
quan niệm này có thể kể đến Iu. Lotman, Todorov và các nhà phân tâm học S.
Freund, Carl Jung…; Loại ý kiến thứ ba coi biểu tượng là một loại hiện tượng
thiêng liêng, thần bí, một thông điệp của đấng tối cao gửi đến con người.
Như vậy, trong hoạt động nghiên cứu, những luận giải về mối liên hệ giữa
hình thức và nội dung của biểu tượng, quan niệm về hai thành tố cái biểu đạt và cái
được biểu đạt của biểu tượng từ các nhà khoa học không hoàn toàn trùng khớp
nhau, điều đó đã làm nên tính phong phú, đa dạng về biểu tượng. Biểu tượng không
đơn giản là khái niệm dùng để gọi tên, định danh sự vật, hiện tượng với nghĩa cố
định, bất biến; không thể là sản phẩm của ý thức cá nhân nào đó… Biểu tượng
thuộc về văn hoá mang tâm thức cộng đồng, có tính chất cổ xưa, huyền bí, ý nghĩa
của nó đã vượt lên trên vỏ vật chất ngôn ngữ mà nó đa mang, hàm ẩn những thông
điệp văn hoá tinh thần của nhân loại.
1.2.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số dạng thức tương cận
Theo Đoàn Văn Chúc, biểu tượng - một mặt dùng chỉ định chung tất cả các
dạng thức biểu tượng, tức là mọi dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, mặt khác
bản thân nó là sản phẩm mang tâm thức văn hóa cộng đồng diễn ra qua đồng đại và
lịch đại chứ không phải là sự quy ước giản đơn của cộng đồng hình thành nên nó.
Mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tùy thuộc vào thời gian và không gian của nó,
nói một cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hóa sản sinh
ra nó, phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, kể cả tâm thức sáng tạo và
tiếp nhận. Và tất nhiên, mục đích sử dụng của nó cũng thay đổi tùy thuộc vào các
yếu tố trên. Chính điều này làm nên sự khác biệt cơ bản giữa biểu tượng với các
dạng thức biểu tượng có tính ổn định về nghĩa mà chúng tôi tham vấn từ các công
trình nghiên cứu sẽ trình bày dưới đây.
Biểu trưng: Là bày ra, trưng ra cho nhận thấy một cái gì đó. Vật được chọn
làm biểu trưng có quan hệ nghĩa “gần gũi hay chồng khớp” với giá trị được diễn
đạt. Ví như cái cân có nghĩa là cân bằng, công minh được chọn làm biểu trưng cho
19
công lý…Nhưng với biểu tượng ý nghĩa được suy ra từ vật được chọn làm biểu
tượng luôn bị khúc xạ, mơ hồ.
Ký hiệu: Ký hiệu được hiểu theo hai nghĩa: (1) - dấu hiệu vật chất đơn giản do
quan hệ tự nhiên hoặc do quy ước, được coi như thay cho một thực tế phức tạp hơn
(chữ viết, ký hiệu hóa học); (2) - cái có thể nhận biết trực tiếp, cho phép kết luận về
sự tồn tại hoặc về tính chân thực với một cái khác liên hệ với nó (chữ cái).
Theo các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Ký hiệu tức là cái vật
chất có thể cảm biết được mà người phát sử dụng để kích thích đối phương tiếp
nhận nhằm truyền đạt một cách quy ước về một vật hoặc một tình huống vắng mặt
hoặc chưa xuất hiện… Phương diện có thể cảm biết ấy là cái biểu đạt, cái vắng mặt
đó là cái được biểu đạt” [117, tr.164]. Như vậy, ký hiệu là những hình ảnh vật thể
vật chất, hữu hình do sự tồn tại tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra dùng để
nhận biết một sự tồn tại, một liên hệ nào đó bên ngoài nó. Trong khi đó, biểu tượng
không chỉ là hình ảnh vật chất cụ thể mà còn có cả cái phi vật thể, cái được biểu đạt
không chỉ là cái hiển hiện mà còn có cả cái “ẩn nấu”, “hình dung”.
Dấu hiệu: Dấu hiệu là một từ rất thông dụng trong đời sống hằng ngày. Đó là
dấu để làm hiệu, báo hiệu một cái gì đó sắp sửa xảy ra. Vật làm “dấu” cũng đơn
giản là hình ảnh, cử chỉ, màu sắc …có tính ước lệ. Chẳng hạn quan niệm của người
Việt chim én - dấu hiệu mùa xuân, hoa cúc - dấu hiệu mùa thu, hoa mai - dấu hiệu
mùa xuân, người phụ nữ tóc búi trên đỉnh đầu - đã có chồng…
Tín hiệu: Tín hiệu là một từ có hàm nghĩa cố định, bất biến và không thay thế cho
vật nào. Trong mọi trường hợp tín hiệu không thuộc về lĩnh vực tư tưởng, chỉ thuộc về
thế giới của những đồ vật kỹ thuật thuần túy. Ví như: tín hiệu đèn giao thông.
Ẩn dụ: Là phương thức chuyển nghĩa của cái này cho cái kia. Mối quan hệ
giữa vật/ cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ sở tương đồng nhau. Ẩn dụ
có tính linh hoạt, thiếu bền vững vì gắn liền với hoàn cảnh và mục đích sử dụng.
Chúng ta có thể thấy “thuyền” trong ca dao chỉ đối tượng người con trai trong quan
hệ tình yêu lứa đôi: “Thuyền về có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi
thuyền”. Nhưng khi Tố Hữu sử dụng trong trường ca Nước non ngàn dặm thì
“thuyền” ở đây là con thuyền cách mạng. Như vậy, nghĩa ẩn dụ là nghĩa định danh
20
sự vật hiện tượng trong khi nghĩa biểu tượng là trừu tượng, giá trị không nhằm định
danh cho sự vắng mặt nào cả.
Phúng dụ: Là biện pháp tu tù nghệ thuật thường được sử dụng trong các tác
phẩm văn học. “Là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng hình ảnh cụ thể,
sinh động để biểu thị một ý niệm về triết lý nhân sinh hay một bài học luân lý đạo
đức, nhằm làm cho sự trình bày đó trở nên sâu sắc, thâm thúy” [81, tr.65]. Đó là sự
kết hợp của các hình tượng, hình ảnh với nhau trong một cấu trúc chặt chẽ hoàn
chỉnh nhằm liên tưởng hướng đến một ý nghĩa trừu tượng. Hình ảnh phúng dụ có
hai mặt nghĩa: nghĩa “trực hiện” và nghĩa “ngụ ý”. Nghĩa “trực hiện” là phương
tiện, nghĩa “ngụ ý” là mục đích.
Vẫn còn nhiều dạng thức khác tương cận biểu tượng mà con người sử dụng
trong hoạt động giao tiếp hằng ngày nhằm hướng đến sự hiểu, song, chúng tôi chỉ
nêu ra một số dạng thức cơ bản, thường gặp đồng thời phân tích sự khác biệt nhau
giữa chúng với biểu tượng để qua đó làm rõ hơn về biểu tượng, củng cố thêm về
cách thức lập luận khi nghiên cứu, phân tích đối tượng của luận án.
1.2.1.3. Hình tượng nghệ thuật và biểu tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là tế bào trung tâm của tác phẩm. Đó là “các khách thể
đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong tác phẩm nghệ
thuật” [117, tr.147]. Nó vừa là thế giới hiện thực được nhà văn tái hiện vừa là thế
giới mới, sản phẩm nghệ thuật biểu hiện toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái
độ, vốn sống của nhà văn trước thực tại xã hội. Trong tác phẩm nghệ thuật, không
có hình tượng nghệ thuật thì không có cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của
tác phẩm nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học có thể tồn tại
qua chất liệu vật chất như một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên… cũng có thể
tồn tại dưới dạng tinh thần, phi vật thể như một sự kiện xã hội, một lối sống… được
cảm nhận. Thông thường trong tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật là con
người (con người cá thể: chị Dậu, Chí Phèo, Huấn Cao…; con người tập thể, đại
diện: Nhân dân, Tổ quốc, Bà má Hậu Giang, Người con gái Việt Nam, Dáng đứng
Việt Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt…) do nhà văn tái hiện hoặc sáng tạo ra. Đặc điểm cơ
bản của hình tượng nghệ thuật là “vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt
21
không lặp lại, vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất của một
kiểu/loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của nghệ sĩ” [117,
tr.148]. Cơ chế để tạo nên hình tượng nghệ thuật là ý thức chủ quan của nhà văn khi
sử dụng ngôn ngữ để mô tả và biểu đạt nó. Cái được mô tả là hình ảnh và cái được
biểu đạt là cảm xúc, tư tưởng không thể tách rời nhau mà chúng là “hình hài” và
“linh hồn” của nhau. Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học gắn với đặc
trưng nghệ thuật ngôn từ. Phương thức giải mã hình tượng nghệ thuật thường bắt
đầu bằng việc truy tầm hoàn cảnh xã hội, tiểu sử và phong cách tác giả. Tóm lại,
hình tượng nghệ thuật có thể hữu hình hoặc siêu hình, là con người hoặc không
gian, thời gian… được nhà văn xây dựng với “sự thống nhất giữa các mặt chủ quan
và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình
và biểu hiện” [117, tr.148].
Mỗi tác phẩm văn học là một cách ứng xử của nhà văn trước lịch sử. Nhà văn
có thể sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu để sáng tạo hình tượng qua đó nhận thức đời
sống xã hội. Mặt khác, nhà văn vẫn phải sử dụng các phương tiện biểu đạt khác để
chuyển tải những giá trị nằm ngoài khả năng tri nhận trực tiếp của con người, trong
trường hợp này biểu tượng là một phương tiện hữu dụng nhất. Biểu tượng nghệ
thuật dù là một hình ảnh, một lối sống, một nghi thức, một tín ngưỡng… hữu hình
hoặc vô hình thì ý nghĩa của nó cũng luôn vượt lên tính trực quan, quy ước của
ngôn ngữ phổ quát, dùng sự đa dạng của đời sống văn hoá, tư tưởng để diễn đạt ý
niệm về nó. “Biểu tượng tồn tại trong tác phẩm văn học như một công cụ kiến tạo
văn bản nghệ thuật, song bản thân nó cũng là một văn bản” [31, tr.41]. Trước khi
xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật nó thuộc về văn hóa. Nó có thể du hành từ loại
hình nghệ thuật này sang loại hình nghệ thuật khác, từ tác phẩm này sang tác phẩm
khác bởi khả năng kết nối liên văn hóa, liên văn bản. Cơ chế tạo nghĩa của biểu
tượng nghệ thuật vừa xuất phát từ mẫu gốc, vô thức tập thể, văn hóa folklore… vừa
gắn kết với ý thức chủ quan của chủ thể sáng tạo. Để giải mã biểu tượng, chúng ta
phải phỏng đoán, liên tưởng, tưởng tượng, phải truy tầm nguồn gốc bởi những trầm
tích văn hóa lắng đọng, phủ bóng qua thời gian. Do đó, ý nghĩa của biểu tượng
trong tác phẩm không thuộc về quy ước chủ quan của chủ thể sáng tạo mà cứ thế
22
mở rộng bất tận, không ngừng cùng với sự đa dạng, phong phú, sự giàu có về kiến
văn tư tưởng, văn hoá của chủ thể tiếp nhận.
Trong tác phẩm văn học, hình tượng và biểu tượng không phải là những cái
song trùng cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau mà nằm trong cấu trúc hình
tượng của tác phẩm. Gốc của hình tượng được xây dựng từ tư duy hình tượng chủ
quan của người nghệ sĩ còn gốc của biểu tượng thuộc về văn hoá và tâm thức cộng
đồng. Nếu hình tượng thường đồng hoá mình với những giá trị bên ngoài, phảng
phất trong đó những mẫu hình nghệ thuật bên cạnh nó thì biểu tượng có sự đồng
hoá nội tại các giá trị vào mình để tạo nên thế giới khó phân định, khó nắm bắt cụ
thể. Có thể biểu tượng là một hình tượng trong tác phẩm vì “bất cứ một sự vật nào tồn
tại chỉ để người ta nhận ra một cái khác nó, vượt ra ngoài nó, thì đó là hình tượng”.
Nhưng một hình tượng sẽ trở thành biểu tượng khi nó vượt ra ngoài giá trị của tác
phẩm, tác động đến tư tưởng cộng đồng, làm nên giá trị văn hóa trong đời sống xã hội.
Vậy nên, không phải mọi hình tượng của tác phẩm văn học đều là biểu tượng.
Tác phẩm văn học là một thực thể sinh động, giá trị của tác phẩm thoát khỏi ý đồ
sáng tạo nghệ thuật ban đầu của nhà văn, chịu sự chi phối, tác động của cộng đồng tiếp
nhận. Giá trị của tác phẩm không ngừng được khơi sâu cùng lịch đại trong mối quan hệ
giữa tác giả và bạn đọc cùng với sự cộng hưởng của yếu tố văn hoá, thời đại làm nên
độ mở về giá trị cho tác phẩm thông qua hệ thống biểu tượng nghệ thuật như là chất
liệu ngôn ngữ đặc biệt. Vì lẽ đó, con đường để giải mã một biểu tượng nghệ thuật
không thể là tư duy duy lí, giản ước theo lối rút gọn mà cần chú ý đến ngữ cảnh văn
bản, cái khái quát trong mạch ngầm văn bản cũng như những phương thức nghệ thuật
mà nhà văn sử dụng để kiến tạo thế giới biểu tượng trong tác phẩm.
1.2.2. Vấn đề tiểu thuyết lịch sử
1.2.2.1. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử
Về nguyên tắc, không một tác phẩm văn học nào thoát ly hoàn toàn khỏi sự
quy định của đời sống lịch sử, văn hóa xã hội. Tiểu thuyết lịch sử cũng không nằm
ngoài quy luật ấy. Tuy nhiên, vấn đề gây nên những tranh luận về tiểu thuyết gần
đây là hiện thực lịch sử nào làm chỗ dựa cho tiểu thuyết lịch sử đương đại, nhất là
khi quan niệm về hiện thực đã khác trước và mô hình văn học phản ánh hiện thực
23
đã lộ rõ sự hạn chế. Lịch sử là hiện thực diễn ra trong quá khứ, một hiện thực hợp
pháp, chính thống được ghi chép bởi các sử quan triều đình hay đó là những dã sử,
những ghi chép không bị ràng buộc bởi quy tắc, thể lệ, quan điểm sử quan, mà trực
tiếp ghi lại những điều nghe, thấy, biết theo quan điểm riêng trong đó, “ngoài những
sử liệu đáng quý cũng pha trộn những việc nghe, chép lại không có căn cứ” [117,
tr.104]. Chính những “điểm mù” của lịch sử và cách tiếp cận đối tượng khác nhau
làm nên những quan niệm phong phú, đa chiều về thể tài văn học này.
Có nhóm quan niệm cho rằng, lịch sử cần được tôn trọng và đối xử công bằng,
tác phẩm văn học viết về lịch sử phải nêu chính xác sự kiện, diễn biến lịch sử,
những hư cấu sẽ là bịa đặt, nguỵ tạo, làm méo mó lịch sử. Những anh hùng, tượng
đài lịch sử là bất khả xâm phạm, chỉ để ngưỡng vọng tôn vinh. Nhà văn thêm vào
đó những yếu tố đời tư, dung tục là sự xúc phạm, hạ bệ lịch sử. Nhà mĩ học Lukács
cho rằng “nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử là chứng minh sự tồn tại của hoàn cảnh
và nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” [21], nhiệm vụ của nhà văn là nghệ
thuật hóa lịch sử. Cùng quan điểm này, nhà văn Thái Vũ phát biểu trên Báo Văn
nghệ số 39/2003 rằng “khi tôi nói, tôi viết tiểu thuyết lịch sử sự thật là tôi không
viết tiểu thuyết mà tôi viết lịch sử. Trước hết phải trung thực với mọi chi tiết lịch sử
mà biên niên sử có ghi. Hư cấu không phải là bịa mà tôn trọng tính chính xác của
lịch sử”. Với quan điểm này, các nhà văn muốn trình bày một cách trung thực lịch
sử thời đại, sinh động hoá những vấn đề lịch sử biên niên khô khan do sử quan ghi
chép để bạn đọc dễ tìm hiểu lịch sử đã qua.
Khi hiện thực lịch sử đặt vào tầm nghi vấn cùng với đó là đặc trưng hư cấu
mặc nhiên của thể tài tiểu thuyết đã khơi dậy những quan điểm trái ngược, hoài nghi
khi đối thoại với lịch sử. Các nhà văn không ngần ngại hư cấu, giải thiêng lịch sử.
Lịch sử không thể là thành trì kiên cố, không chỉ là đối tượng ngưỡng vọng mà là
đối tượng để trải nghiệm. Hư cấu lịch sử là phương tiện nghệ thuật, là con đường đi
đến chân lí cuộc sống. Nếu sự chân thật của lịch sử không được kiểm chứng bởi con
người thời đại sản sinh ra thì lịch sử trên những văn bản cũng chỉ là trang tư liệu đối
chứng với thời đại mà thôi. Hedl. S. Haasse xem lịch sử là phương tiện chứ không
phải là cứu cánh. “Một cuốn tiểu thuyết lịch sử hay không, luôn luôn là một cái
24
phản chiếu cái thế giới bên trong của tác giả ở một thời điểm nhất định trong cuộc
đời họ” [99, tr.32-33]. Hedl S. Haasse nhấn mạnh đến cá tính, ý thức sáng tạo của
nhà văn. Tác phẩm văn học không viết cho bạn đọc quá khứ mà phục vụ bạn đọc
đương đại và tương lai. Con người thời đại ngày nay sẽ tìm thấy giá trị gì cho bản
thân, cho xã hội mình đang sống qua tác phẩm để tránh những va vấp, chấn thương
tinh thần. Lion Feuchtwanger cho rằng việc xem xét thế sự thăng trầm thời xưa rất
có ích, vì hoặc nó giống hệt thế sự thăng trầm ngày nay, hoặc không giống thì nó
cũng giúp ta nhận định rõ những biến chuyển của công việc ngày nay. Pushkin, nhà
văn vĩ đại Nga cũng khẳng định chất vấn quá khứ là để trả lời cho hiện tại và tương
lai. Biêlinxki, nhà nghiên cứu văn học Nga cũng đồng thuận với quan niệm trên.
Ông quan niệm chúng ta hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã qua để chúng ta giải
thích cho hiện tại và chỉ ra tương lai cho chúng ta.
Lịch sử diễn tiến từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. “Lịch sử có quyền tự
lặp lại. Nhưng không bao giờ trên cùng một cấp độ, nhất là khi những sự kiện được
bàn đến có một tầm quan trọng mang tính lịch sử, và khi chúng có khả năng gây
một ảnh hưởng lâu dài đến xã hội” [70, tr.32]. Bản thể lịch sử không hoàn nguyên,
đồng nhất thì không lí do gì đòi hỏi nhà tiểu thuyết lịch sử sao chép nguyên vẹn
những sự kiện, nhân vật như chính sử lưu hậu. Phan Cự Đệ cho rằng, “trong quá
trình sáng tác, các nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử vừa
phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng tạo nghệ thuật” [26, tr.164]. Tiểu thuyết
lịch sử khác với khoa học lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử không phải là bản sao các sự
kiện, nhân vật lịch sử mà phải biết hư cấu lịch sử miễn sao đảm bảo tính chân thực
nhưng không nhàm chán. Nhà văn Bùi Anh Tấn cũng quan niệm viết tiểu thuyết
lịch sử không phải là chép lại lịch sử, “vừa dùng tư duy của ngày hôm nay để đánh
giá những việc của người xưa, vừa thâm nhập vào thế giới quan của tiền nhân để
hiểu họ, phân tích, đánh giá việc làm của họ và rút tỉa những bài học lịch sử cho hậu
sanh” [Trả lời Báo Văn nghệ trẻ]. Nguyễn Xuân Khánh cũng nhấn mạnh quan điểm
trên khi trả lời phóng viên Báo văn nghệ trẻ, tháng 10/2015. Theo ông, “tiểu thuyết
lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà là phản ánh những con
người hiện đại” [76].
25
Tóm lại, tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc thù riêng so với các thể
tài văn học khác. Như tên gọi, thể tài văn học này có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai
thành tố lịch sử và tiểu thuyết, chất liệu hiện thực và đặc trưng phản ảnh của loại
hình nghệ thuật ngôn từ. Trong suốt thời gian qua, cùng với lịch sử thăng trầm của
thể tài này, giới nghiên cứu và sáng tác có nhiều phát biểu về tiểu thuyết lịch sử mà
trọng tâm vẫn là mục đích sáng tác, đối tượng nghệ thuật chính sử - dã sử, những
nguyên tắc tiếp cận hiện thực lịch sử. Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết lịch
sử là sự tái hiện chân thực về lịch sử đã qua. Theo quan niệm hiện đại, tiểu thuyết
lịch sử là diễn ngôn lịch sử dưới cái nhìn của thời đại dân chủ hóa, toàn cầu hóa.
Nhà văn viết về lịch sử theo nguyên tắc “hoài cổ vi kim”.
Chúng ta có thể khái quát những quan điểm nhận thức về tiểu thuyết lịch sử
như sau: 1) Lịch sử là nguồn cảm hứng nghệ thuật trong quá trình sáng tác; 2) Lịch
sử không phải là lâu đài để nhà văn chạy trốn hiện thực đang diễn ra mà là cái cớ để
nhà văn trải nghiệm, chất vấn hiện tại và tương lai; 3) Tính quy mô, bao quát rộng
lớn các vấn đề của hiện thực bằng nhận thức mới của thời đại làm cho các sự kiện,
nhân vật lịch sử trở nên gần gũi với đời sống đương đại hơn so với khoa học lịch sử;
4) Hư cấu nghệ thuật không thể thiếu khi viết về lịch sử. Hư cấu khác với bịa đặt,
viết lại lịch sử.
1.2.2.2. Vài nét về tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Là một bộ phận của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, tiểu thuyết lịch sử giai
đoạn này cũng mang đậm dấu ấn của thời đại mà nó được sinh ra, tồn tại và phát
triển. Điều này phù hợp quy luật tất yếu của văn học nghệ thuật, bởi không một văn
nghệ sĩ nào lại đứng ngoài thời cuộc mà họ đang sống, không hấp thu những giá trị,
những vang vọng của thời đại. Vấn đề có khác chăng là họ chịu tác động của thời
đại ra sao và họ tác động lại xã hội như thế nào qua các sản phẩm mà họ tạo ra. Tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn bám lấy hiện thực lịch sử xã hội đã qua từ
nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật, hình tượng lịch
sử vẫn là cội nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ cạn trong nhận thức. Mặt
khác, tính chất dã sử, đối thoại, phản biện thức nhận càng ngày đặt ra và thách thức
“tầm đón đợi” của bạn đọc khi đời sống xã hội và đời sống văn học được mở rộng
26
biên độ tư duy và tư tưởng. Lịch sử dưới cái nhìn của thời đại mới, không còn là những
trang giấy, những con chữ ghi chép xơ cứng mà nó luôn vận động không ngừng trong
mối quan hệ với tác giả và bạn đọc, gắn với các tiêu chí mĩ học sáng tạo và mĩ học tiếp
nhận thời đại mới, dân chủ, đa dạng. Là một thể tài năng động, tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam mang trong nó những khát vọng cách tân nghệ thuật, “làm mới” hiện thực
bằng quan điểm, tư duy của thời đại toàn cầu hóa, dân chủ hóa.
Về mặt nghệ thuật trần thuật: Kết cấu, ngôn ngữ, điểm nhìn, giọng điệu trần
thuật của tiểu thuyết lịch sử đương đại thể hiện rõ nhất sự đổi mới. Từ lối kết cấu
truyền thống theo trật tự thời gian tuyến tính, hay kết cấu chương hồi, đến thời điểm
này, kết cấu đã có sự phá cách táo bạo. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép mang dấu ấn
điện ảnh đầy “ngẫu hứng” và kết cấu liên văn bản, tổng hợp nhiều loại hình văn bản
khác nhau cùng xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết theo lối viết hậu hiện đại đã
trở thành “trò chơi” sáng tạo của các nhà văn. Bằng cách xé lẻ tâm trạng của nhân
vật, sự kiện thành nhiều mảng nhỏ, rời rạc và đặt cạnh nhau không tuân theo lôgic
lý tính, cốt truyện truyền thống vì thế mà cũng bị phân rã, phá bỏ. Sự “tráo trở” và
“làm chủ sự tráo trở” cốt truyện là nét đặc sắc trong phong cách các nhà văn.
Về phương diện hiện thực lịch sử: Các nhà văn không ngần ngại gia cố chất
đời tư, thế sự vào các nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ lối tư duy viết tiểu
thuyết lịch sử theo kiểu “chép sử” với mục đích giáo huấn thì đến nay, các nhà văn
đưa thêm vào các tiểu tiết, các giả thuyết lịch sử làm cho tác phẩm trở nên “có vấn
đề”, làm cho các “đại tự sự” thành “tiểu tự sự”, làm cho cái “trung tâm” thành cái
“ngoại biên” để “giải thiêng” các sự kiện, nhân vật, hình tượng lịch sử. “Lịch sử
trong tiểu thuyết lịch sử đã mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử đã qua và lịch
sử thời người viết đang sống” [168]. Có lẽ vì thế mà những tranh luận về chính sử -
dã sử trở thành chủ đề nóng bỏng trên các diễn đàn văn học.
Khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam: Về phương diện này,
Trần Đình Sử cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời đổi mới có rất nhiều tác
phẩm đến được với lòng người, được người đọc trân trọng, yêu chuộng. Điểm đáng
chú ý nhất là nó đã vượt qua mô hình cũ và tạo ra nhiều hướng phát triển có hứa
hẹn. Có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hoàng Quốc Hải với hai bộ trường
27
thiên. Có hướng nghiêng về phương diện văn hóa, đối thoại văn hóa như Nguyễn
Xuân Khánh, có hướng diễn giải lại lịch sử như Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy,
có hướng “phi trung tâm hóa” như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, có
hướng phi huyền thoại hóa lịch sử như Hội thề của Nguyễn Quang Thân, có hướng
đối thoại với chính sử như Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê, có hướng đổi mới
cách nhìn như Biết đâu địa ngục thiên đường của Nguyễn Khắc Phê, có hướng viết
“tiểu sử gia tộc” hư cấu, mà thực ra là viết lịch sử thời đại với con mắt giễu nhại
trong Thời của thánh thần của Hoàng Minh Tường, Dưới chín tầng trời của Dương
Hướng, Cuồng phong của Nguyễn Phan Hách, còn có hướng ngụ ngôn hóa lịch
sử… Sáng tạo lại diễn ngôn lịch sử bằng nghệ thuật sẽ là một nguồn cảm hứng lớn
cho các nhà văn Việt Nam hôm nay và ngày mai” [168]. Tuy nhiên, để lí giải sáng
tỏ vấn đề này, thiết nghĩ phải phân tích các đặc điểm của nó dưới góc nhìn lí luận
văn học. Ở đây, chúng tôi chỉ xác định, phân loại các khuynh hướng sáng tác tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam dựa trên một số căn cứ như sau. Căn cứ vào kết
cấu nghệ thuật sẽ có các kiểu loại tiểu thuyết theo kết cấu nhân/quả, tiểu thuyết theo
kết cấu tuyến nhân vật chính diện/phản diện, tiểu thuyết theo kết cấu chương hồi,
tiểu thuyết theo kết cấu mang dấu ấn hậu hiện đại. Căn cứ vào mục đích sẽ có tiểu
thuyết lịch sử chính sử, giáo huấn, tiểu thuyết lịch sử - văn hóa. Căn cứ vào tính
chất và chức năng phản ảnh sẽ có khuynh hướng tiểu thuyết mô phỏng lịch sử và
khuynh hướng tiểu thuyết hư cấu lịch sử.
Tóm lại, sự vận động và phát triển của thể tài tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong dòng chảy văn học dân tộc thời
kỳ này. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 có đặc
điểm về nội dung thể hiện ở cảm hứng sáng tạo và quan niệm nghệ thuật về con
người. Trong đó, cảm hứng lịch sử và dân tộc, cảm hứng thế sự, cảm hứng đạo lý là
những cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này. Hình tượng con người
anh hùng cứu nước là hình tượng trung tâm. Song, có sự phát hiện độc đáo và chân
thực hơn là nét đời thường ở con người anh hùng phi thường. Đặc điểm kết cấu tiểu
thuyết lịch sử thời kỳ này theo phong cách kết cấu truyền thống: kết cấu theo thời
gian tuyến tính và kết cấu theo tuyến nhân vật chính diện/phản diện. Tiểu thuyết
28
lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1985 có nội dung chủ yếu là yêu nước, nghệ thuật tự
sự theo lối kết cấu chương hồi, kết cấu thời gian, kết cấu nhân quả, ngôn từ nghệ
thuật đậm chất biền ngẫu, nhiều điển tích, điển cố. So với tiểu thuyết lịch sử các
thời kỳ trước đó, tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam có những đặc điểm riêng,
mới mẻ về ngôn ngữ, kết cấu văn bản, điểm nhìn trần thuật, nội dung trần thuật, tư
duy nghệ thuật… Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn đặt ra nhiều thách
thức khám phá cho đông đảo công chúng văn học.
1.2.3. Hướng tiếp cận của luận án
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam có nhiều khuynh hướng sáng tác,
nhưng khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử - văn hóa là khuynh hướng nổi bật hơn cả.
Đó là những diễn ngôn về lịch sử, văn hóa mang cảm quan nghệ thuật thời đại dân
chủ, hội nhập.
Bên cạnh ngôn ngữ là chất liệu làm nên tác phẩm, biểu tượng nghệ thuật cũng
là một đơn vị ngôn ngữ tham gia kiến tạo diễn ngôn lịch sử. Khi xem biểu tượng là
một đơn vị ngôn ngữ/ ký hiệu chúng tôi sẽ xét đến nghĩa định danh, gọi tên sự vật,
hiện tượng; nghĩa tri nhận, lí tính, phân biệt sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng;
đặc biệt biểu tượng không phải là một vật thay thế trực tiếp cho một cái khác nó, ngoài
nghĩa quy ước một cái gì cụ thể thì đến lượt cái cụ thể đó mang nghĩa chuyển tiếp ở cấp
độ khác qua đặc trưng phản ánh của loại hình nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh đó, chúng tôi
phân tích, làm rõ nguyên tắc, phương thức kiến tạo biểu tượng nghệ thuật nhằm làm cho
biểu tượng biểu đạt hiệu quả nhất thông tin mà nó đa mang và sự tham gia của biểu
tượng vào kết cấu văn bản nghệ thuật.
Vấn đề hệ biểu tượng cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Xem xét cấu tạo
và cách xếp đặt của biểu trưng, J.Lacan cho rằng “hệ biểu tượng chỉ loại hiện tượng
mà khoa phân tâm học quan tâm trong chừng mực chúng được cấu trúc như một
ngôn ngữ” [67, tr.XXII]. S.Feurd nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa cái vỏ vật
chất/bên ngoài và nội hàm được biểu đạt/bên trong, ông cho rằng “hệ biểu tượng là
tập hợp những biểu tượng có ý nghĩa ổn định có thể tìm thấy trong các sản phẩm
khác nhau của vô thức” [67, tr.XXII]. Trong Luận án tiến sĩ Thơ Hoàng Cầm từ góc
nhìn văn hoá, tác giả Lương Minh Chung cho rằng “Hệ biểu tượng là những giá trị
29
mang tính kết tinh, là thuộc tính cơ bản của một nền văn hoá” [18, tr.61]. Theo hai
nhà nghiên cứu Jean Chevalier và Alain Gheerbrant thì “Hệ biểu tượng, một mặt tập
hợp các quan hệ và các giải thích gắn với một biểu tượng, chẳng hạn hệ biểu tượng về
lửa, mặt khác tập hợp các biểu tượng đặc trưng cho một truyền thống, như hệ biểu
tượng Pháp truyền Kinh Thánh hay hệ biểu tượng của người Maya, hệ biểu tượng nghệ
thuật Roman…; cuối cùng là nghệ thuật giải thích các biểu tượng, bằng phân tích tâm
lí, bằng dân tộc học so sánh, bằng cơ chế và kĩ thuật của sự tích hội [67, tr.XXII]. Tóm
lại, hệ biểu tượng là tập hợp, hệ thống những biểu tượng có chung nguồn gốc hoặc cơ
chế nảy sinh từ hệ hình tư tưởng, văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng.
Tiểu kết Chương 1
Tiểu thuyết lịch sử, tự tên gọi của nó đã thể hiện đặc trưng thể loại là hư cấu-
sử liệu. Nhưng thế nào là hư cấu, sử liệu nào làm bình diện nội dung cho tác phẩm
nghệ thuật? Những quan điểm khác nhau về vấn đề này phản ánh sự khác nhau
trong tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ, từ đó hình thành những khuynh hướng
sáng tác tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Về nguyên tắc, tiểu thuyết lịch sử
không khác gì so với tiểu thuyết thông thường, cái khác ở đây là hiện thực đã qua -
sự vĩ đại của lịch sử được nó thể hiện như thế nào. Xuất phát từ quan điểm hiện
thực lịch sử cần được tôn trọng, sẽ đưa đến khuynh hướng lịch sử hóa tiểu thuyết.
Nhưng với quan điểm “hoài cổ vi kim”, lịch sử tự thân nó là những kí hiệu sẽ làm
nên khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử. Cũng cần nói thêm rằng, việc nhà văn
“triệu hồi”, “phục dựng” lịch sử qua các trang tiểu thuyết khi chính họ thấy nhu cầu
lịch sử cần phải được giải mã. Không hẳn các nhà văn là những nhà tư tưởng nhưng
họ đã mẫn cảm thấy rõ sự lãng quên lịch sử dân tộc, sự đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc trong thế giới phẳng ngày nay của con người hiện tại là có lỗi với lịch sử,
thời đại và hậu thế.
Nhìn từ triết học của sự tồn tại, con người có ba mối quan hệ chính đó là: tự
nhiên, cộng đồng nhân loại, lịch sử - văn hóa. Đây cũng chính là ba thành tố làm
nên ba hệ biểu tượng cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam gồm có
hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng.
Tuy nhiên, từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng văn học là hành trình nhà văn tạo
30
mã mới cho thế giới biểu tượng. Con người tạo ra thế giới nhờ biểu tượng, thông
qua biểu tượng nhận thức thế giới. Nghĩa nguyên sơ của biểu tượng có thể do ngẫu
nhiên hoặc từ những quy ước mà có, gắn với quá trình tư duy tập thể. Biểu tượng
thuộc về văn hóa, nó có thể dịch chuyển từ thời đại này sang thời đại khác hoặc mất
đi nếu như giá trị/ý nghĩa của nó không được con người tái tạo, bồi đắp. Vậy nên,
khi những biểu tượng ấy trở thành biểu tượng nghệ thuật, đòi hỏi nhà văn cấp mã
mới sao cho nó thực hiện được chức năng liên văn hóa, liên văn bản, kết nối với đời
sống đương đại. Không phải tất cả biểu tượng văn hóa xuất hiện trong tác phẩm văn
học đều trở thành biểu tượng nghệ thuật mà chỉ có những biểu tượng được nhà văn
tái lập mã mới, thiết lập được kênh giao tiếp với đời sống đương đại mới trở thành
biểu tượng nghệ thuật. Thế giới biểu tượng nghệ thuật ấy đã diễn đạt hiệu quả nhất,
chuyển tải hữu dụng nhất những khát vọng, thông điệp của nhà văn về lịch sử và văn
hóa dân tộc trước đời sống đương đại.
Mỗi tác phẩm là một cách ứng xử của nhà văn trước lịch sử và văn hóa.
Phương tiện để nhà văn thể hiện cách ứng xử ấy không chỉ có ngôn ngữ mà còn có
thế giới biểu tượng. Khảo sát tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chúng ta
không ngạc nhiên khi các trang tiểu thuyết lấp lánh hệ thống các biểu tượng tự
nhiên, con người, văn hóa, tín ngưỡng… Các chương tiếp theo của luận án sẽ đi sâu
khảo sát và phân tích các biểu tượng cơ bản, tìm hiểu những phương thức kiến tạo
và ý nghĩa của từng hệ biểu tượng để qua đó thấy được bản chất của lịch sử và văn
hóa qua cái nhìn của nhà văn đương đại, những bài học nhân sinh rút ra cho hậu thế
từ lịch sử và văn hóa dân tộc thông qua các hệ biểu tượng.
31
CHƯƠNG 2
HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Hệ biểu tượng tự nhiên xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam. Đây là những biểu tượng có sức sống vĩnh hằng cùng với lịch sử văn hoá
nhân loại, được các nhà văn mã hoá thành biểu tượng nghệ thuật vừa mang nghĩa
nguyên sơ vừa được bồi đắp thêm giá trị khi đi qua các hệ hình văn hoá, tư tưởng xã
hội khác nhau. Xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật, hệ biểu tượng tự nhiên khoác
lấy vỏ âm thanh của ngôn ngữ, làm thành phương tiện nghệ thuật. Trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam, những biểu tượng tự nhiên mà chúng tôi khảo sát như
Nước, Lửa, Đất, Trời và các biến thể của nó hoặc xuất hiện nhiều lần, tham gia trực
tiếp vào kết cấu tác phẩm hoặc xuất hiện không nhiều nhưng đã mở ra khả năng
khám phá đời sống văn hoá xã hội và con người.
2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời
2.1.1. Biểu tượng Nước và các biến thể
Nước là một trong tứ đại mẫu gốc tự nhiên (Nước, Lửa, Khí/Trời, Đất) có giá
trị phổ quát trong mọi nền văn hoá nhân loại. Những dạng thể tồn tại của nước rất
phong phú, đa dạng như biển, sông, suối, thác ghềnh, ao, hồ, đầm, vực, mưa, nước
mắt, dòng sữa… Đó là tất cả dạng thức tinh thể lỏng, bay hơi và ngưng tụ. Là một
thực thể tự nhiên mang giá trị văn hóa phổ quát, nước và các dòng sông trên con
đường hình thành biểu tượng nghệ thuật, mang giá trị văn hóa tộc người khi nó
phản ánh được tâm thức cộng đồng dân tộc và thời đại nào đó, kết nối và phản chiếu
cuộc đời của các nhân vật lịch sử.
Nhìn từ đặc điểm địa lí- lịch sử, biểu tượng nước với biến thể sông, suối, kênh,
rạch… để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống văn hóa, lịch sử dân tộc Việt
Nam. Nước gắn liền với hệ thống sông suối, kênh rạch và lưu trình của nó làm
thành hệ thống giao thông quan trọng trên dải đất Việt này. Ngay từ xa xưa, các lưu
vực sông lớn luôn là địa điểm trọng yếu để xây dựng kinh đô phong kiến Đại Việt,
từ đó hình thành trung tâm văn hoá- chính trị- kinh tế của các vùng miền. Không
32
phải ngẫu nhiên mà các dòng sông Bạch Đằng, Như Nguyệt, Sông Lam, Sông
Gianh, Sông Hương, Sông Côn… có sức sống vững bền trong tâm thức dân tộc Việt
mà nó là những chứng nhân lịch sử, là những biểu tượng cho truyền thống đấu tranh
dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Xuất hiện trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, những dòng sông lịch sử được nhà văn miêu tả trong mối gắn
kết mật thiết với các yếu nhân Đại Việt trong tiến trình lịch sử dân tộc. Hình ảnh
người anh hùng Lý Thường Kiệt đại thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt, Nhà
Trần với ba lần đại thắng quân Nguyên Mông trên dòng Thiên Đức, Bạch Đằng
giang… xuất hiện khá nhiều trên các trang văn của Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ, Vũ
Ngọc Đĩnh, Bùi Anh Tấn, Hoàng Quốc Hải, Trần Thanh Cảnh… có ý nghĩa biểu
tượng khẳng định quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam trong các cuộc chiến
tranh với giặc dữ phương Bắc, như muốn đánh thức ý chí của con dân đất Việt hôm
nay cần gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước trong bối cảnh lịch sử đương
đại. Nhưng cũng từ những dòng sông ấy, với cái nhìn nghệ thuật thời đại mới, các
nhà văn đã miêu tả những dòng sông chiến địa không chỉ lưu dấu hào hùng của kẻ
chiến thắng mà bên cạnh đó, sau mỗi trận chiến, sông nước làm chứng cho thảm
cảnh tang thương. Trong tiểu thuyết Hội thề, nhà văn Nguyễn Quang Thân đau xé
cõi lòng khi nói đến dòng Nhị Hà. Mải miết chảy cứ ngỡ hồn nhiên và lặng lẽ
nhưng dòng sông ấy, “… con sông mẹ vẫn mênh mông, lặng lẽ đổ về xuôi ngày đêm
mang theo trong dòng nước nâu hồng chất chứa oan khiên khổ nạn của mấy chục
năm tan nhà mất nước” [148, tr.63]. Nguyễn Trãi nhìn ra sông, Ông nghĩ “Sông
Nhị Hà chưa một ngày được bình yên đưa phù sa tưới nhuần cây cỏ, ruộng đồng.
Triều Lý rồi Trần, sông này vẫn là con sông trận mạc” [148, tr.78]. Trong Sông
Côn mùa lũ, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã khắc họa khung cảnh chiến trường lặng
ngắt, không một âm thanh, “những cột buồm đơn côi, như những nén hương khổng
lồ cắm rải khắp một quãng sông dài, tựa như một bãi tha ma dưới nước. Và dòng
sông đỏ lựng màu máu cứ lững lờ trôi xuôi” [36, tr.550] như xoáy sâu vào nỗi tang
thương của bao số phận, cuộc đời nhỏ bé bị chiến tranh cuốn theo. Có thể thấy rằng,
đằng sau chiến thắng hay thất bại của những thế lực chính trị trên mặt trận quân sự
là nỗi đau, nỗi mất mát của nhân dân vô tội. Vậy nên, tiếng nói phản kháng chiến
33
tranh, thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình cần được nhìn nhận từ số phận của
nhân dân, những con người vô tội bị cuộc chiến lôi kéo chứ không thể chỉ từ kết quả
phân định thắng bại của các lực lượng tham chính. Thắng trận hay bại trận trên đấu
trường quân sự đều là sự thất bại của chiến tranh bởi hậu quả nặng nề nó để lại
trong đời sống nhân loại.
Các biểu tượng vốn dĩ đã có mã giá trị trong tâm thức cộng đồng. Nhìn từ
phương diện văn hóa, biểu tượng nước tại một số nước châu Á “có thể xem xét trên
hai bình diện hoàn toàn đối lập… Nước là nguồn sống và là nguồn chết, có chức
năng tạo dựng và tiêu huỷ” [67, tr.711]. Tâm thức văn hoá cộng đồng dân cư châu
Á, trong đó có người Việt, xem nước là dạng thức thực thể của thế giới, là biểu
tượng của “tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh” [19,
tr.710]. Trong các tác phẩm, nhà văn sử dụng hệ thống biểu tượng đó để xây dựng
biểu tượng thẩm mĩ bằng cách gắn kết văn hóa cộng đồng với đối tượng lịch sử cụ
thể, qua đó vừa lưu giữ giá trị nguyên khôi, vừa dùng giá trị ấy để nói lên ý nghĩa
lịch sử của đối tượng được đề cập hay cụ thể hoá các giá trị ấy qua biểu đồ tâm hồn,
dòng đời các nhân vật và lịch sử xã hội. Biểu thị giá trị này thể hiện rõ qua cách
miêu tả nguồn nước giếng làng của cộng đồng cư dân người Việt trên các trang tiểu
thuyết. Nếu trong tiểu thuyết Minh sư, nhà văn Thái Bá Lợi đã khai thác giá trị
thiêng của nước/giếng để khẳng định tính đúng đắn và tài năng của Nguyễn Hoàng
khi khai mở trời Nam thì trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh lại khai
thác nghĩa ngưng đọng, tắc nghẽn của nước/giếng khi bàn về chính sự Nhà Trần.
Tính chất lưỡng diện đối lập về nghĩa của biểu tượng nước thể hiện qua những chi
tiết nói lên sự thành bại của yếu nhân lịch sử. Hay tin Nguyễn Hoàng lập nghiệp
trên đất Thuận Hóa, với ước vọng và lòng thành không nói được nên lời, làng nghèo
không có gì xứng đáng, dân làng Thuận Hóa dâng lên Đoan Quận Công bảy vò
nước giếng thiêng, trong khiết như là “điềm trời ban cho quận công cả một giang
sơn” [87, tr.39]. Sau khi Hồ Quý Ly giúp Trần Nghệ Tông đánh bại loạn quân
Dương Nhật lễ, khôi phục triều Trần, chính sự tạm yên, Quý Ly nhận xét, “nước ta
như cái giếng khơi để lâu năm, dưới đáy có nhiều bùn nhơ lắng cặn…có thể nói cái
giếng cũ toàn một thứ nước tanh tưởi, những nguồn thuỷ sinh, những mạch nước
34
ngầm trong và mát đều đã bị bịt kín… Bệ hạ lên ngôi đó là một trận mưa rào…”
[77, tr.120]. Nếu nguồn nước giếng thường được dùng trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày, “để giữ cho mạch nước trong linh thiêng này, người làng chỉ dùng nước
giếng vào những việc như tế làng, múc nước về cúng tổ tiên ngày đầu năm, và các
sự kiện trọng đại khác” [87, tr.38]. Ngược lại, giếng và nước nếu không được khơi
sâu, gìn giữ sẽ là ao tù, nước đọng bẩn dơ biểu thị cho những mặt trái, cái xấu của
xã hội và con người. Giếng và nước qua hai trường hợp được phân tích trên đây đã
vượt qua nghĩa biểu tượng của đời sống sinh hoạt làng Việt trở thành biểu tượng
cho sự thăng trầm một triều đại, cho những nhân cách lịch sử.
Sông là một biến thể của nước. Biểu tượng sông hay dòng nước chảy đồng
thời là biểu tượng của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Giá trị này biểu
tượng sông nước được các nhà văn tái tạo khi phản ánh dòng đời của các nhân vật
lịch sử. Trong tác phẩm Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã khéo léo tạo dựng sức
sống bền vững cho những giá trị của biểu tượng nước trong tính đối lập, lằn ranh
mong manh giữa sự sống và sự chết qua cuộc đời, tâm hồn của các nhân vật. Sông
Gâm và thác nước của con sông này phản chiếu khá rõ dòng đời của Từ Lộ. Ngược
dòng sông Gâm, chiếc bè dưới tay sào Từ Lộ vẫn luồn lách qua những mõm đá
ngầm cây đổ sóng dữ. “Càng lên thượng nguồn nước sông càng chảy xiết… Những
thân cây đổ từ thượng nguồn trôi về lập lờ trên mặt nước như những thay người
chết đuối vừa bị hồn quỷ nhập chỉ phăm phăm nhằm thẳng bè của chàng mà sầm
sập lao tới” [52, tr.201-202]. Từ Lộ thấy cả thế giới này đang bủa vây lấy chàng,
những hiểm nguy khôn lường cứ hiện ra. Nếu dòng nước sông Gâm khi Từ lộ
ngược dòng là dòng chảy của sự chết, thể hiện lòng hận thù dâng cao trong tâm hồn
và trí nghĩ, những khổ đau mà chàng nếm trải bấy nhiêu thì khi Từ Lộ xuôi dòng
buông trôi, dòng sông lại cuốn phăng những đắng cay, thù hận rồi tắm táp cho
chàng những ngọt ngào hạnh phúc, cho sự tái sinh tâm hồn, cho tình yêu của chàng
và Nhuệ Anh. “Con bè tuột dây neo từ từ tách bến Đá trôi xuôi. Chỉ còn lại Từ Lộ,
Nhuệ Anh…bao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực, bóp nghẹt trái
tim chàng từng ấy ngày đêm cũng theo đó mà tan ra mất dạng” [52, tr.211-213].
35
Biểu tượng nước mang tâm thức Mẫu cứu rỗi cuộc đời con người thể hiện khá
rõ nét trong nhiều tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Nước tuôn chảy từ các
nguồn như người mẹ hiền dung dưỡng phù sa làm cho cây cối, vạn vật sinh sôi, phát
triển. Trong tiểu thuyết Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã thổi luồng sinh bất diệt
vào biểu tượng nước. Nước tuôn chảy từ trời - mưa, là biểu tượng cho sự ban phúc.
Những cơn mưa trời đã tưới tắm cho tâm hồn, cho tình yêu và thể xác của Từ Lộ -
Nhuệ Anh thăng hoa. “Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm
ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể
nàng…” [52, tr.211] đã kéo Nhuệ Anh và Từ Lộ hoà quyện vào nhau trong niềm
khoái lạc mênh mang và nỗi đau trần thế kì diệu. Nước cứu sống chàng Cá Bơn khi
cậu bé bị dì ghẻ quăng xuống sông. Nước và chàng Cá Bơn cứu sống Nhuệ Anh khi
nàng buông tay xuống Thác Oán. Nguồn nước là một biểu tượng của tình mẫu tử.
Những giọt sữa của Dã Nhân đã cứu lấy Từ Lộ. Nước thanh tẩy và gột rửa những
bụi bẩn trần tục để con người trở nên cao cả đẹp đẽ hơn. “Mưa trở về trời/ Nu na nu
nời/ Ru trời/ Trời ơi” [52, tr.339] là dòng nước mát lành xoa dịu không khí hừng
hực của giàn thiêu nhân thế, cởi bỏ lớp áo bào của đức hoàng đế và cung nhân để
Thần Tông và Ngạn La tan biến vào khung trời trẻ thơ, mộng mơ đáng yêu. Những
giọt nước mắt của sư bà Động Trầm “chảy đến đâu, những đám lông vằn vện tuột
ra từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình của đức vua với nước da trắng xanh, thư
sinh nho nhã” [52, tr.563]. Giọt nước mắt ấy đã xoá hết lịch sử của một đời người
từng trải qua những kiếp nạn và khôi phục con người trong một trạng thái mới.
Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh miêu tả
nước dày đặc: 273 lần. Đó là nước mưa, sông, sữa. Là Mẫu Mẹ, nước nuôi dưỡng
đời sống tinh thần. Đó là thứ “thứ nước tinh khiết từ rừng, từ suối bốc lên, rồi rơi
xuống bốn cái tán lá cau xanh tươi đó, rồi theo cuống phễu tức là bốn thân cây
chảy xuống đến ngang tầm miệng bể, gặp bốn tàu cau buộc ngang thân cây ngăn
lại, rót nước vào bể” [78, tr.63] mà trời ban phúc cho con người. Nước mưa ở cái
bể cụ Tiết vì thế mà rất ngon, rất quý, đã đánh thức khát vọng tâm hồn mỗi người
như cụ Tiết, Điều, Trịnh Huyền, Nhụ…; Đó là sữa, nguồn dinh dưỡng cứu sống cho
con người trên bờ vực cái chết. Cả làng Cổ Đình rơi vào đại dịch tả, người mắc dịch
36
liệt giường chiếu rồi “ra đi luôn”. Ông lý Cỏn đang trong cơn thập tử nhất sinh vì
bệnh nhưng “cái vú mềm mại và bóng mượt” của bà Ba Váy như có cách gọi riêng
của nó, để rồi chồng bà, ông lý Cỏn bám vào đôi bầu vú, “bú sữa mới được hai
ngày…đã khá hẳn lên. Đến ngày thứ ba, ông mở được mắt ra…Thế là ông tỉnh lại
rồi” [78, tr.578]. Điều cũng vậy, không thể thoát khỏi lưỡi hái tử thần nếu không có
bầu sữa của Nhụ giữ cái vong linh lay lắt chỉ chực vụt bay đi mất… Sữa là nguồn dinh
dưỡng đầu đời của mỗi con người mà trong sử thi Ramayana Ấn Độ, trong đạo Hindu
giáo, trong tâm thức của người Maya, trong Kito giáo hay đạo Hồi luôn đề cao giá trị
“là thức uống của sự sống... là biểu tượng của sung túc, màu mỡ… là biểu tượng của sự
bất tử” [67, tr.835-836]. Sữa là biểu tượng thái âm, nữ tính ở mức cao nhất, gắn với sự
đổi mới thanh xuân. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả rất ấn tượng vẻ đẹp
thiêng liêng đậm tính phồn thực, mẫu tính là bộ ngực, bầu vú và nguồn sữa của những
người phụ nữ là nguồn thức uống bất tử, cứu rỗi con người làng Cổ Đình.
Tóm lại, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã khai phóng tính
chất của nước theo tư duy nghệ thuật thời đại mới. Tâm thức lịch sử, văn hóa nhân
loại và dân tộc, “những dòng nước chết chỉ nhằm vào những kẻ có tội, đối với
những người chính trực, những dòng nước đó hoá thành nước của sự sống” [67,
tr.713]. Với ý nghĩa mang tâm thức Mẫu, nước và các biến thể tái sinh những kiếp
sống trong ý nghĩa thiêng liêng nhất, với ý nghĩa là dòng chảy cuộc đời, nước và
các biến thể nhiều khi đưa đến sự chết chóc, hủy diệt.
2.1.2. Biểu tượng Lửa và các biến thể
Lửa tồn tại một cách bí ẩn trong tự nhiên. Việc loài người phát hiện ra lửa đã
đánh dấu bước tiến hóa quan trọng, làm thay đổi căn bản thói quen, phong tục, tập
quán sinh hoạt của họ. Từ chỗ con người sử dụng lửa trong đời sống sinh hoạt
thường nhật như để nấu chín thức ăn, nước uống, xua đuổi thú dữ đến việc linh
thiêng lửa, thần thánh hoá lửa, thờ bái lửa đã phản ánh đầy đủ, sâu sắc giá trị bản
thể cũng như vai trò của lửa trong đời sống sinh hoạt và văn hoá tâm linh của con
người. Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Chevallier và Alain
Gheerbart cho rằng lửa vừa tượng trưng cho sự văn minh, chân lí, soi sáng, tẩy uế,
hồi sinh, sinh sôi nảy nở… vừa tượng trưng cho sự tàn phá, huỷ diệt, thiêu cháy. Đó
37
là ngọn lửa tư duy, trí tuệ, ngọn lửa tinh thần, tình yêu, ngọn lửa của dục vọng, thù
hận, ngọn lửa chiến tranh. Như vậy, lửa là biểu tượng có tính lưỡng diện. Đặc tính
căn bản của lửa là phát ra ánh sáng, toả nhiệt và đốt cháy, thiêu huỷ. Các nhà tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam tri dụng lửa trong các tác phẩm theo tinh thần
lưỡng diện ấy. Lửa vừa là biểu tượng cho chiến loạn, hận thù tàn phá, chết chóc vừa
tượng trưng cho niềm tin, sức mạnh, trí tuệ, khai sáng và tái sinh trong mối tương
liên với thời đại lịch sử và con người thời đại.
Lửa thiêu đốt, huỷ diệt đó là ngọn lửa chiến tranh, dục vọng tham tàn, thù hận,
trừng phạt. Hiện thực lịch sử được tái hiện trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam phần lớn là hiện thực chiến tranh tham tàn giữa các lân bang phong kiến
phương Bắc với Đại Việt, Việt với Chiêm. Không khí chiến tranh bao trùm xã hội,
có thể cảm được, ngửi được mùi thuốc súng, mùi lửa, mùi máu me và chết chóc lan
tận nơi nơi. Đặc biệt, các cuộc chiến tranh của Đại Việt chống lại phong kiến
phương Bắc bao giờ cũng diễn ra vô cùng ác liệt, người chết như rạ, lấp kín các
dòng sông. Để khắc hoạ bức tranh tang thương ấy, các nhà văn thường dùng biểu
tượng lửa và các biến thể của lửa để tạo điểm nhấn, gây ấn tượng mạnh. Lửa tàn sát
giết người là súng đạn, hoả công do các thế lực cầm quyền sử dụng trong chiến trận,
máu và nước mắt tưới lên nhau làm nên cảnh thảm sát. Trong Thăng Long nổi giận,
Hoàng Quốc Hải sử dụng biểu tượng lửa với nghĩa tàn phá hủy diệt. “Lửa cháy trên
mặt sông mỗi lúc mỗi to rực sáng cả một vùng trời… Các loại song sảo pháo, ngũ
sảo pháo của ta bắn thẳng vào đám giặc… và những tên lửa bùi nhùi tới tấp lao
vào thuyền giặc như lửa trời ào ào ập xuống đầu chúng… Một ngày sau khi trận
đánh diễn ra xác nổi kín mặt sông” [41, tr.532-535]. Ngọn lửa chiến tranh hận thù
tiếp tục hoàn thành sứ mệnh tận diệt của nó khi “Hoả pháo của ta từ phía sau rơi
trên đầu chiến luỹ giặc, bắn ra những chùm nhựa thông bốc cháy. Lửa bám vào
quần áo cung thủ. Chúng buông cung, biến thành đuốc sống lăn theo mái đất. Voi
quen chiến trận giẫm lên những cái thây đỏ lòm máu và lửa” [148, tr.147].
Bên cạnh những cuộc chiến tranh xâm lược giữa các lân bang, các cuộc nội
chiến trong lòng phong kiến Đại Việt cũng đưa lại những thảm cảnh hoang tàn
không kém. Sự tàn lụi của triều đại trước là cơ hội cho sự vươn lên, tiếm ngôi của
38
triều đại sau mà điểm giao giữa các triều đại bao giờ cũng là những chiến loạn đẫm
máu và nước mắt. Ngọn lửa của chiến tranh giữa các lân bang diễn ra có trình tự
thời gian, khoảng cách nhưng ngọn lửa của nội loạn lại âm ỉ cháy từng khắc ngày và
luôn trực trào thiêu huỷ tất cả. Sự tranh giành quyền lực, địa vị giữa các tôn thất nội
tộc, ngoại tộc khiến cho đời sống nhân dân rơi vào cảnh xáo xác loạn lạc, máu chảy
đầu rơi không kém phần tanh tưởi. Với Bí mật hậu cung, Giàn thiêu, Bùi Anh Tấn
và Võ Thị Hảo đã vén bức màn bí mật, khơi ra phần “tăm tối” bị khuất lấp của
Nguyên phi Ỷ Lan khi giết chết Dương Thái hậu và 76 cung nữ; với Bão táp cung
đình, Hoàng Quốc Hải tái dựng lại hiện thực đổi ngôi Lý - Trần đầy rẫy những mưu
xảo tội lỗi, chết chóc dưới bàn tay kiến thiết Trần Thủ Độ; với Hồ Quý Ly, Nguyễn
Xuân Khánh kết tội tôn thất nhà Trần cuối mùa yếu hèn, đẩy nhân dân đến bờ vực đói
khổ và ngợi ca Hồ Quý Ly; cuộc nội chiến giữa ba thế lực Trịnh - Nguyễn Gia Miêu -
Nguyễn Tây Sơn đưa đến sự chia cắt đất nước Đại Việt, gây tao loạn khắp nơi gắn với
trách nhiệm lịch sử của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh và nhân sĩ thời bấy giờ.
Lần về quá khứ để trải nghiệm, chiếm hữu lịch sử bằng tâm thức của thời kì
hội nhập, dân chủ, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam không ngừng hư
cấu lịch sử, giải thiêng những nhân vật lịch sử đã trở thành huyền thoại trong chính
sử bằng cái nhìn chất vấn, đối thoại về những sự kiện liên quan đến họ. Các nhà văn
không ngần ngại lí giải lịch sử nội chiến xuất phát từ ngọn lửa của lòng tham lam
quyền lực, từ dục vọng chiếm đoạt, sở hữu, từ lòng thù hận, ghen tuông giữa các phi
tần chốn hậu cung. Chúng ta choáng ngợp, ngột ngạt trước sức nóng của ngọn lửa
thiêu huỷ, quặn lòng đắng cay, buốt nhức trước ngọn lửa lòng tham lam, dục vọng
trong lòng xã hội và con người khi đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo. Cả xã hội cuộn
xoáy vào lửa. Lửa chiếm cả không gian, thời gian, tâm trí con người. Mở đầu tác
phẩm là “Giàn thiêu”, kết thúc tác phẩm là “Lửa”, xuyên suốt 25 chương tiểu
thuyết, lửa ngập tràn, bùng cháy trên từng trang sách, lửa xuyên thấu lí trí và tâm
can mỗi nhân vật. Sức huỷ diệt tàn bạo của lửa được nhà văn miêu tả qua những
cảnh tượng rùng rợn. Lửa liêu trai, ma quái ngay từ đầu tác phẩm đã tạo nên ấn
tượng day dứt trong lòng bạn đọc. “Lập tức lửa bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ
thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo bùng cháy như một con giao long khổng
39
lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ nuốt trọn đảo Âm Hồn... Đảo nhỏ biến
thành đảo lửa. Trên cái nền đỏ ấy, nổi bật những bóng đàn bà nhảy dựng lên trên
những phiến gỗ thông ngùn ngụt cháy, chới với hai cánh tay lên trời rồi lảo đảo gục
xuống, bùng lên như những bó đuốc. Mùi tanh lợm của thịt người, của lông chim
cháy cuồn cuộn bốc lên phủ khắp vùng” [52, tr.37].
Hoàn toàn trái ngược với lửa soi sáng, lửa toả khói và tàn phá tượng trưng cho
trí tưởng tượng bị kích động, cho cái hang trong lòng đất, cho lửa địa ngục, cho trí
khôn dưới dạng nổi loạn, ngọn lửa liếm giàn thiêu trong tác phẩm của Võ Thị Hảo
chính là biểu hiện bên ngoài của ngọn lửa ghen tuông, dục vọng tham tàn vô độ
trong tâm can mỗi người. Với Nguyên phi Ỷ Lan Hoàng Thái hậu vì muốn phải là
ngôi thứ nhất buông rèm chính sự, sai khiến cả thiên hạ, bà đã giết chết Dương Thái
hậu và 76 cung nữ. Bà không hề che giấu mà thừa nhận điều này khi đối thoại với
oan hồn ma Dương Thái hậu: “Với ta như thể chưa đủ. Ta muốn duy ngã độc tôn
trong thiên hạ… Ta luôn muốn sai khiến được người duy nhất nắm giữ thiên hạ
trong tay…Không gì thích thú bằng khi thấy chỉ với một ngón tay út của bàn tay ta,
cả giang san rùng rùng chuyển động…Ta là người đàn bà duy nhất mà sử sách phải
lưu truyền mãi mãi…Kẻ nào ngán đường ta, dù chỉ là vô tình, kẻ đó phải chết” [52,
tr.234-235]. Với Lý Câu, ngọn lửa dục vọng muốn chiếm đoạt tất thảy dẫu những gì
không thuộc về mình đã thiêu đốt lòng nhân, phẩm cách của một người xuất thân từ
dòng dõi hoàng tộc, có ăn học, có giáo dục. Lý Câu như con ong hoang cả thèm
chóng chán, Nhuệ Anh càng xua đuổi, càng cao ngạo bao nhiêu, ngọn lửa đam mê
rừng rực thiêu đốt hắn bấy nhiêu. Bằng quyền lực tôn thất, bất chấp các thủ đoạn,
Lý Câu giết người không hề run tay, sẵn sàng chà đạp lên hạnh phúc của người
khác. Với Lê Thái hậu, ngọn lửa thù tình ẩm ỉ chảy trong lòng để rồi nhân cơ hội
Hoàng đế Lý Nhân Tông băng hà, ngọn lửa ấy bùng phát, Lê Thái hậu đưa Minh
Đạo Vương Thiên Lộc, Ngạn La và 47 cung nữ lên giàn thiêu, che đậy sự trả thù
tình ấy bằng đạo trung quân theo hầu Hoàng đế. Bà căm hận, ghen tuông với những
tháng năm mẹ con Ngạn La được Vua yêu chiều mà bỏ rơi bà. “Trên môi Lê Thái
hậu nở một nụ cười. Những kẻ ngày xưa được Vua yêu chiều, nay sẽ đến lược phải
quằn quại trong lưỡi lửa giàn thiêu... Đắc ý trước một nhan sắc có thể làm xiêu
40
lòng đến cả Diêm Vương sắp bị tận diệt” [52, tr.534-535]. Với Từ Lộ, trước cái
chết oan của song thân, ngọn lửa lòng hận thù đối với kẻ đã giết hại cha mẹ mình
dâng cao khiến cho Từ Lộ biến dạng cả nhân hình và nhân tính. “Đôi mắt dịu dàng
tình tứ trước đây nay như bốc lửa dưới đôi mày rậm…Trong con ngươi của đôi mắt
rừng rực loé lên ngọn lửa man dại…Nỗi đau của Từ như một thứ phong thấp nhập
tâm phế. Nó khiến chàng câm lặng, ngày đêm nung nấu trong trí não một điều gì
ghê gớm” [52, tr.111]. Ngày ngày trôi qua, cơn khát trả thù càng bùng cháy, ngọn
lửa thù hận không những thiêu đốt tình yêu của Từ Lộ đối với Nhuệ Anh mà còn
thiêu đốt cả cuộc đời chàng. Từ liều lĩnh, phiêu lưu với chính mạng sống của mình.
Dẫu Từ dấn thân và hoá chuyển qua nhiều kiếp là chàng Cá Bơn hay Lý Thần Tông,
ngọn lửa ấy đã khoét sâu, để lại những khoảng trống trải, những khát khao không
thôi về tình yêu và tình mẫu tử. “Sau một tháng mê man cùng những lạc thú nơi
cung cấm, vị vua trẻ bắt đầu lờ mờ cảm thấy một điều gì. Một cơn khát không bao
giờ thoả. Trong làn sương ngào ngạt phả ra từ bồn tắm, trong văng vẳng tiếng nhạc
thăng giáng từ nóc cung điện, manh nha một nỗi trống trải” [52, tr.247]. Ngọn lửa
hận thù đã tàn phá Từ Lộ thành những mảnh đời vụn vỡ, không hoàn nguyên được
ngay cả khi chuyển hóa trở về kiếp người. Thông qua cuộc đời Từ Lộ, nhà văn dóng
lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả những ai theo đuổi ngọn lửa hận thù cũng sẽ bị
ngọn lửa ấy thiêu cháy tất cả.
Lửa - thức ngộ, hoài bão cũng là giá trị đặc biệt trong cái nhìn của nhà tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam về đời sống xã hội và bản thể con người. Ý
nghĩa bản thể của mẫu gốc lửa là phát sáng và toả nhiệt. Nhưng sự tồn tại của lửa
trong đời sống nhân loại chỉ khi nó được tạo mã giá trị gắn với con người. Phát triển
từ ý nghĩa ấy, biểu tượng lửa trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam mang
hơi ấm, mang đến sự hồi sinh. Đó là ngọn lửa chính trực, ngọn lửa chân lí có sức
mạnh diệt trừ cái ác mà nhân dân mong đợi từ các đấng minh quân, những quan phủ
liêm chính đang nắm giữ vận mệnh thiên hạ. Nhà văn Võ Thị Hảo đã gởi gắm khát
vọng của dân đen con đỏ đến đấng cửu trùng qua nỗi lòng trăn trở của quan Đô hộ
phủ ngục tụng Trần Dĩnh. Trên chiếc án thư, một chồng đơn chất ngất phủ bụi, cao
ngang mày đang nấu mình chờ Ngài giải quyết, “trong lòng Trần Dĩnh (quan Đô hộ
41
phủ) bỗng ngùn ngụt cháy ngọn lửa chính trực. Hàng vạn dân đen con đỏ đang
ngày đêm mòn con mắt trông đợi ngọn bút của ngài. Nếu phá được vụ án Diên
Thành hầu, kỷ cương trong nước sẽ được lập lại…Rường mối quốc gia nhờ sự công
bằng minh định thì mới được vững chãi” [52, tr.98]. Đây là ngọn lửa của niềm tin
và khát khao về công bằng xã hội bởi thiết chế quân chủ tập trung độc quyền, bọn
gian thần lạm dụng nhũng nhiễu, hạch sách nhân dân.
Biến thể của lửa là màu đỏ, màu máu, trái tim, là ánh sáng do lửa phát ra...
Biểu tượng lửa và các biến thể của nó có tính nhị nguyên, biến hoá ảo diệu trong tư
duy nghệ thuật của người nghệ sĩ. Khi thì nhà văn sử dụng các biến thể ấy để gợi
lên cảnh tang thương, chết chóc. Nhưng cũng có khi lửa là biểu tượng của tình yêu
nồng ấm, xoa dịu, hoá giải nỗi đau và những hận thù. Có trường hợp lửa/màu đỏ
tượng trưng cho sức sống bất diệt, là màu của nềm tin chiến thắng như hình ảnh
“Phương đông ửng hồng” xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm Bão táp cung đình
biểu thị niềm tin vào tương lai rạng ngời của triều Trần hay đó là lửa/cờ đào phất
phới khắp nơi như ánh mặt trời là “dấu hiệu của niềm hi vọng…là nhãn hiệu thức
thời” [36, tr.928] đã thắp lên niềm tin cho nghĩa quân Tây Sơn tụ hội làm thành sức
mạnh đánh thắng các thế lực cạnh tranh lúc bấy giờ.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, nền văn hoá Phật giáo phủ
bóng, trầm mặc trên các trang sách viết về thời đại Lý, Trần và trong đời sống nhân
dân. Lửa cùng với tiếng mõ và kinh cầu nguyện tượng trưng cho sự giác ngộ của
lòng người trước đức Phật sau bao thăng trầm dâu bể. Thái sư Trần Thủ Độ đầy
mưu lược và là dũng tướng, “ngọn lửa như còn bừng cháy trong mắt ông” [40,
tr.145] chất chứa tham vọng về một triều Trần hùng mạnh thay thế triều Lý đến thời
bạc nhược. Ngọn lửa trong lòng ông là niềm xót thương và cả sự hối hận về những
cảnh tượng giết chóc đẫm máu mà ông có phần trách nhiệm. Ông suy nghĩ về mấy
việc cần làm, “trước hết, phải làm một tuần cầu siêu thật lớn trong cả nước để
chiêu minh cho những ai bỏ mình vì nghĩa lớn, những linh hồn chết oan, những
người ông sai giết” [40, tr.145]. Lửa trong các trường hợp thế này phát lộ từ chân
tâm. Lửa sám hối cũng là để tẩy uế và tái sinh nhân tâm mỗi người.
42
Nhưng lửa không đơn điệu xoay vần trong vòng sinh- diệt mà được tách thể để
nhà văn mặc khải những điều sâu kín trong bản thể, phỏng chiếu tính cách, khát
vọng của mỗi con người. Có ngọn lửa thuộc về tâm hồn thuần khiết, thanh cao,
khiêm nhường trước cuộc sống như ngọn lửa trong tâm hồn Hồ Nguyên Trừng đã
nuôi “bằng những que hương ở góc miếu dưới gốc ngọc lan”, có ngọn lửa bốc lên
trời như “Những ngọn bạch lạp nối nhau, nắm tay nhau chạy quanh phòng ở. Và
em đi giữa ánh sao sa ấy để đọc cuốn Minh Đạo của cha. Đường sáng! Đường
sáng! … Ý tưởng của cha như những viên ngọc lấp lánh trước mặt. Em đi suốt đêm
trong phòng dát đầy ánh sao” [77, tr.464] thể hiện khí thế hướng thượng, thăng hoa
tinh thần của Hồ Hán Thương. Ngọn lửa của bà Huy Ninh và Hồ Quý Ly cũng
khác. Ngay từ thuở nhỏ, bà Huy Ninh và Quý Ly là đôi bạn thân, họ cùng có sở
thích chơi với lửa nhưng ngọn lửa trong mỗi người lại ẩn chứa những nỗi niềm,
khát vọng khác nhau. Ngọn lửa của bà Huy Ninh hiền từ, nhân hậu đó là “Ngọn nến
chảy ròng ròng như người khóc. Giọt nến giống như giọt nước mắt” [77, tr.544].
Trong khi đó, ngọn lửa của Hồ Quý Lý là ngọn lửa hoài bão, nhiều tới mức cuồng
nộ. “Lúc tám tuổi, cậu bé bỗng nảy ra ý nghĩ phải nhen một ngọn lửa, tự mình nhen
lấy. Hương sẽ tắt; ngọn lửa của cây bạch lạp, của một ngọn đèn hễ hết đêm rồi
cũng tắt; ngay như vần lửa của vần mặt trời rực rỡ đến bao nhiêu, mà lúc hoàng
hôn cũng phải chìm dần. Riêng Quý Ly, cậu bé muốn nhen một ngọn lửa không bao
giờ tắt… có thể đó là một bản năng khát khao thầm kín của con người muốn giữ
một ngọn lửa đời đời” [77, tr.542]. Lửa đất tượng trưng cho trí khôn, nghĩa là ý
thức với tất cả tính hai chiều của nó. “Quý Ly nuôi ngọn lửa tí xíu ấy trong một hốc
đá, cạnh cây đa sum xuê. Cậu bé tiếp sống cho nó bằng những cành khô, lá khô,
nhất là thứ lá ngải màu xám xanh, thứ lá tùng chết màu nâu, và những bụi cúc rạc
nắng…” [77, tr.542-543]. Cây đa là biểu tượng của trường sinh, che mát. Ngọn lửa
của Hồ Quý Ly nuôi trong hốc đá, dưới gốc cây đa sum xuê kia nói lên hoài bão đời
người của kẻ muốn làm nên nghiệp lớn, toả bóng muôn đời. Ngọn lửa ấy cháy mãi
trong tâm trí Hồ Quý Ly khi ông cùng với Nghệ Hoàng cứu vãn nhà Trần trước sự
suy thoái, nhưng rồi tôn thất nhà Trần không đủ mạnh, đủ tài gánh vác sứ mệnh lịch
sử, Hồ Quý Lý tiếm ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ bằng mọi giá, kể cả đổ máu, bêu
43
đầu, tàn sát, bất chấp lòng dân. Ngọn lửa khát vọng hoài bão đã biến thành ngọn lửa
cuồng nộ qua hành động.
Như vậy, từ thuộc tính nguyên sơ của lửa, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam đã thắp sáng giá trị của lửa khi kiến giải những góc khuất lịch sử,
những khát vọng bên trong tâm hồn, nhân cách con người. Lửa khơi sâu những biểu
hiện bản thể vốn có của xã hội và con người trước thời cuộc vần vũ.
2.1.3. Biểu tượng Đất và các biến thể
Trong tiến trình vận động và phát triển không ngừng của đời sống văn hoá
nhân loại, biểu tượng đất hình thành sớm nhất, mang tính phổ quát rộng rãi và ổn
định hơn so với các biểu tượng cổ mẫu tự nhiên khác. Dù trải qua nhiều hệ hình tư
tưởng xã hội, văn hoá, tôn giáo khác nhau, biểu tượng đất “như là bản nguyên thụ
động đối lập với bản nguyên chủ động (Trời)”, đất chống đỡ và cam chịu. Mang giá
trị Mẫu phổ quát nhất, “Đất tượng trưng cho người mẹ, nguồn gốc hiện hữu và sự
sống, che chở chống lại mọi sức mạnh huỷ diệt” [46, tr.287]. Khúc biến tấu của đất
trong tâm thức văn hoá người Việt là mầu nhiệm tâm linh và huyền thoại qua truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, qua việc thờ Thần Đất: Thổ công, Thổ địa, Thành
Hoàng, thờ Mẫu - Mẹ Đất, Mẹ Rừng là Mẫu Thượng Ngàn. Trong tiểu thuyết lịch
sử đương đại Việt Nam, biểu tượng đất vẫn giữ lại giá trị bản thể Mẫu vĩnh hằng,
đất sinh ra các hình dạng sống, che chở cho muôn loài và con người nhưng mang
đậm bản sắc tư tưởng phương Đông. Vượt lên ý nghĩa cổ sơ, biểu tượng đất trong
tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam hàm nghĩa cho tư tưởng, bản sắc văn hóa
Đại Việt. Đất là địa linh, là Mẫu mẹ, là ranh giới không gian và lòng người…
Từ một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đất có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
với quốc gia, nhân dân Đại Việt. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam,
biểu tượng đất và biểu tượng đấng minh quân được các nhà văn khai sáng trong mối
quan hệ gắn kết mật thiết tương hỗ nhau. Các triều đại phong kiến Việt Nam không
chỉ coi trọng quân sự, bang giao giữa các quốc gia lân cận mà luôn nêu cao ý thức
trách nhiệm gìn giữ biên cương, mở rộng lãnh thổ khi có điều kiện, kể cả chiến
tranh mở rộng mặt Nam của Đại Việt. Trong nhiều tiểu thuyết viết về nhà Trần, các
tác giả không quên gợi nhắc đến việc Nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho Chế
44
Mân để đổi lấy hai Châu Ô, Châu Lí làm phên dậu Việt - Chiêm. Đất ở đây trở
thành chứng nhân lịch sử bang giao của hai nhà nước. Giá trị của đất đã vượt
ngưỡng của một loại tài sản, vật trao đổi mà thể hiện ý chí, khát vọng mở rộng bờ
cõi, cương vực lãnh thổ, khẳng định quyền lực xã hội giữa các dân tộc lân bang. Có
người cho rằng Công chúa Huyền Trân xét trên quan điểm ái tình cá nhân thì trong
cuộc trao đổi này là mất mát vì bị đánh cắp hạnh phúc bởi những mưu đồ chính trị
của nhà cầm quyền. Nhưng trước lịch sử vận mệnh dân tộc, họ là những anh thư,
liệt nữ hi sinh vì giang sơn, xã tắc. Trong bối cảnh đất đai biên cương Tổ quốc đang
bị kẻ thù xâm lấn từng ngày từng tí một, chúng ta hành động ra sao để đất thiêng Tổ
quốc không bị đánh mất? Đau đáu trên mỗi trang văn viết về đất là ý thức về chủ
quyền quốc gia, dân tộc của các nhà văn muốn gởi gắm vào con người đương đại,
đặc biệt là giới cầm quyền sẽ quyết định ra sao, có đủ trí năng, sẵn sàng hi sinh tư
lợi cá nhân… để giữ hồn thiêng Tổ quốc như các bậc tiên hiền đã từng làm, từng
đánh bại mọi kẻ thù xâm lược phương Bắc, phương Nam, phương Tây, đã từng dẹp
loạn kiêu binh, chia cắt lãnh thổ mà thống nhất đất nước?
Cùng với quá trình bảo vệ biên cương, mở rộng lãnh thổ, các đấng minh quân
luôn quan tâm đề ra chính sách, chiếu dụ khuyến nông, bình điền, chia ruộng đất,
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân an yên canh tác. Đất chính là nguồn sống của
nhân dân. Một vị vua anh minh, biết chăn dân, trước hết phải chăm lo ruộng đất cho
dân canh tác, đó là cơ sở đầu tiên để bộ máy nhà nước phong kiến, đứng đầu là Vua
tạo niềm tin trong dân. “Đất là trinh nữ mà thân thể được lưỡi mai, lưỡi cày xuyên
vào, được mưa hoặc máu, tinh dịch của Trời, làm thụ thai. Khắp nơi trong hoàn vũ,
đất là một tử cung thai nghén những nguồn nước, khoáng sản, kim loại” [67,
tr.287], vậy nên, các triều đại phong kiến Đại Việt rất coi trọng Lễ Tịch điền, lập
đàn tế Trời, cúng tế Thần Nông. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, vua Lê Đại Hành là
vị vua đầu tiên thực hiện nghi thức Lễ Tịch điền trong lịch sử Việt Nam. Lệ đặt ra,
nhà vua lập đàn tế Thần Nông, đi cày cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi
tốt bội thu, khai mở những đường cày đầu tiên để nêu gương cho nông phu trăm họ.
Lễ Tịch điền được nhà Lý tổ chức hằng năm nhằm tôn vinh Mẹ Đất.
45
Trong tiểu thuyết Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã xử lí khéo léo, tinh tế ý
nghĩa “được đất mới là triệu được nước” [52, tr.260] khi tháo gỡ việc truyền ngôi
Thái tử của vua Lý Nhân Tông, qua đó tránh một cuộc huynh đệ tương tàn. Sau
những đường cày khai mở đất bắt đầu mùa vụ của một năm, nhà vua dùng thuật sở
nguyện để chọn người nối ngôi báu. Nhà vua cho đám nội giám bày ra la liệt trước
mắt các cậu ấm con nhà Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu,
Thành Hưng nhiều thứ vật dụng khác nhau để cho các cậu ấm lựa chọn. Khi đó, cậu
bé Dương Hoán bỏ qua tất cả cung kiếm đao thương, lụa là gấm vóc, nghiên bút
kinh sách, từ bỏ những vật dụng thường ngày như son phấn gương lược, rượu chè,
bánh kẹo, hoa quả…, cậu chống tay đứng dậy, lẫm chẫm từng bước theo đường cày
của đức Nhân Tông, “bàn tay bé nhỏ nhặt lên một hòn đất, toét miệng cười, và giơ
tay cầm hòn đất về phía Hoàng thượng như để khoe, rồi đưa đất lên miệng” [52,
tr.260]. Với hành động này, Dương Hoán được chọn kế ngôi Thái tử, sau này là vua
Lý Thần Tông. Việc nhà vua ban hành Chiếu Khuyến nông, Luật Bình điền, hay các
chính sách liên quan đến ruộng đất hay việc nhà vua tổ chức Lễ Tịch điền, ngay cả
việc dùng sở nguyện đất để chọn người nối ngôi của Lý Nhân Tông đã thể hiện rõ
tư tưởng coi trọng đất đai của người Việt, tiến trình kiến thiết xã hội, an dân để
dựng nước và giữ nước của các đấng minh quân.
Tâm thức văn hoá người Việt xem Đất là Địa linh để Nhân kiệt khởi phát sự
nghiệp. Đất vì vậy mà gắn kết mật thiết các yếu nhân lịch sử theo mô hình tam tài
Thiên - Địa - Nhân trong quá trình khởi tạo công nghiệp của một dòng họ, triều đại.
Những địa danh Thăng Long, Hoa Lư, Thành Nhà Hồ, Huế, Tây Sơn, Thành Quy
Nhơn, Gia Định… đã làm thành biểu tượng văn hoá cho mỗi vùng miền, quốc gia.
Kinh đô Thăng Long là nơi rồng tụ, là trung tâm văn hóa - kinh tế - xã hội của Đại
Việt, “đó là đất cai trị muôn dân lúc thời bình” [77, tr.295] bởi đất Thăng Long là
nơi hợp long quy tụ các con sông chảy về khiến cho giao thông đường thuỷ thuận
tiện, đất ấy là đất thiêng văn hiến, sẽ đem lại những dòng phù sa trù phú. Nhưng đất
Thăng Long không thể là nơi cố thủ về mặt quân sự. Thực tế lịch sử đã chỉ ra mỗi
khi giặc phương Bắc xâm lấn hay Chế Bồng Nga cất quân tấn công, triều đình Đại
Việt đều phải rời Thăng Long để bảo toàn nhân lực.
46
Trong Minh sư, hành trình mở cõi trời Nam, gây dựng cơ nghiệp của dòng họ
Nguyễn Gia Miêu bắt đầu từ câu sấm truyền của Nguyễn Bỉnh Khiêm về đất “dung
thân” khởi nghiệp “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” [87, tr.51]. Về việc
này, Trịnh Kiểm đã rõ Thuận Hoá là đất biên địa “hình thế lại quan trọng, binh tài
từ đó mà ra. Muốn có nghiệp lớn thì phải giữ vùng đất đó” [87, tr.52]. Quả thực khi
Nguyễn Hoàng được trao cho cơ hội cai quản Thuận Hoá, thế nhân mấy trăm năm
sau vẫn còn bàn cãi về quyết định của Trịnh Kiểm “thay vì tống khứ một địch thủ
thì đã trao cho địch thủ cả một vương quốc, làm thay đổi dân tộc Việt” [87, tr.52].
Trong cái không gian hỗn man của vùng đất này, Nguyễn Hoàng cho người đoạt
hoạ núi sông, ghi tạc vào đầu óc mình thế sông, dáng núi, “hoà mục với đất trời, với
cây cối, với đất đai, với con người xứ này” [87, tr.168] để xây dựng vương triều
Nguyễn Gia Miêu. Đất Thuận Hoá được mở rộng thành Thuận Quảng và là đất sống
của dòng họ ông và muôn dân theo ông sau này.
Cũng với nhãn quan Đất - Địa linh, nhà văn Nguyễn Mộng Giác viết về anh hùng
Nguyễn Huệ trong Sông côn mùa lũ cũng khai thác chi tiết đất thiêng gây dựng công
nghiệp của người anh hùng áo vải. Buổi đầu tụ hội nghĩa quân trên Tây Sơn thượng,
nhiều người hồ nghi, không tin vào “đám giặc cỏ mán mọi” do anh em Nguyễn Nhạc
làm thủ lĩnh, nhưng càng ngày, từng người đều trố mắt kinh ngạc trước uy minh bình
Bắc dẹp Nam của anh em nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ sau khi chinh phạt phương Nam
đánh bại quân Xiêm rồi dẫn quân ra Bắc, đập tan bè lũ nhà Trịnh, lên ngôi Hoàng Đế,
đại phá quân Thanh, xây dựng kinh thành Phú Xuân, lúc này muôn dân nhận ra “Ông
Quế Đường (Lê Quý Đôn) thật là người trông xa biết rộng. Ông ấy đoán Tây Sơn là
đất thiên tử, không thể coi thường được” [36, tr.823].
Không chỉ dừng lại ở giá trị bản nguyên đất là nơi trú ngụ, đất ở của con
người, trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, giá trị của biểu tượng đất còn
là ranh giới tư tưởng, quyền lực và lòng người. Trong Sông côn mùa lũ, Luỹ Thầy,
Bến Ván trở thành mốc giới phân định quyền lực cai trị xã hội của anh em Nhà
Nguyễn Tây Sơn, ngăn cản ước vọng thống nhất đất nước của Nguyễn Huệ. Luỹ
Thầy là một dãi đất được đắp cao, làm chiến tuyến phòng thủ quân Trịnh của nhà
Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đắp cái luỹ này với bao công của. Việc Nguyễn
47
Huệ vượt qua Luỹ Thầy tiến công ra Bắc đánh đuổi quân Thanh xâm lược, rồi cưới
công chúa Ngọc Hân làm vợ không đơn thuần là vượt qua ranh giới chia cắt Bắc -
Nam mà vượt qua ranh giới quyền lực chính trị, tư tưởng thời đại, ý thức tự chủ
quyết định vượt mặt vua anh sau bao lần do dự xin ý kiến. “Ông dám bất tuân lệnh
vua anh vượt qua Luỹ Thầy nhưng không đủ sức mạnh ý chí và sự lạnh lùng để vượt
qua cái luỹ vô hình là tình máu mủ” [36, tr.1134]. Tuy nhiên, trong thế giới vô hình
của tư tưởng, sau khi vượt qua Luỹ Thầy trở về, tư tưởng và tình cảm giữa anh em
Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ có phần lạnh nhạt, những lằn ranh xuất hiện giữa họ.
Tiếp sau đó, “Bến Ván! Bến Ván! Cái tên ấy sắc như một lưỡi gươm chém đứt thân
thể của xứ sở, chém đứt ước vọng thống nhất của một người anh hùng” [36,
tr.1134]. Bến Ván trở thành ranh giới hai vùng cai trị của anh em họ Nguyễn Tây
Sơn. Con đường Nam tiến của Nguyễn Huệ bị tắt nghẽn ở Bến Ván.
Trong tâm thức văn hóa nhân loại, Đất là Mẫu Mẹ. “Đất tượng trưng cho
người mẹ, nguồn gốc hiện hữu và sự sống, che chở chống lại mọi sức mạnh huỷ
diệt” [67, tr.287]. Qua các tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, ý nghĩa này
không ngừng được phát triển gắn với tâm thức Mẫu của người Việt. Nếu đất trong
cuộc mưu sinh hay mưu tìm chiếm đoạt của kẻ xâm lược là đất hứa, nhưng đối với
người bản địa, những người chống lại kẻ xâm lược thì đất ấy là Đất Mẹ linh thiêng,
mang tâm hồn cốt cách của con người bản xứ, đất khởi thủy cho sự sống và tái sinh
của họ. “Đất cũng có hồn, đó là Hồn Đất. Nó là tổng hợp của những hồn người,
hồn ma, hồn cây cỏ, ao hồ, cả hồn đá nữa” [78, tr.193]. Hương của đất như “lời ru
của mẹ, mời gọi hai tay ta buông xuôi, trở về vĩnh hằng” [78, tr.192]. Hồn của Đất
thấm dần vào mỗi chúng ta từng tí một, từng tí một. Đó hồn thiêng Quốc Tổ gợi lên
trong mỗi chúng ta niềm tự hào, tự cường dân tộc. Đất cùng chung chịu số phận với
người, cùng nếm trải những đắng cay ngọt bùi với người khi đi qua chiến tranh loạn
lạc hay thái bình, đất luôn bao dung, nuôi dưỡng Người vì thế mà “hồn đất sẽ quyết
trả thù” [78, tr.193] những thế lực hắc ám xâm phạm quyền sống của các sinh linh
trong vòng tay yêu thương của Mẹ Đất. Đất cũng có quê hương. Đất là quê hương
của con người và cả muôn loài. “Trong đất có tỉ tỉ ức ức những con sâu bọ, con
trùng, giun dế, đất là quê hương nơi trú ngụ của chúng” [78, tr.192]. Đối với mỗi
48
chúng ta, dẫu trải qua khắp ngã cuộc đời, được về quê hương Đất Mẹ luôn là niềm
khao khát, mến yêu vô tận. Trong mối quan hệ với các yếu nhân lịch sử, đất quê
luôn là đất sống. Nhà Trần từng dựa vào phủ Thiên Trường, quê gốc của mình làm căn
cứ địa lập nghiệp và xây dựng nên nhà nước phong kiến Đại Việt hùng mạnh, khiến kẻ
thù lân bang khiếp sợ. Khi lịch sử đổi ngôi, Hồ Quý Ly tiếm ngôi Nhà Trần, ông không
chọn Thăng Long làm kinh đô mà chọn Thanh Hoá, không chỉ vì lòng dân Kinh đô
luôn hướng về nhà Trần khiến ông khó bề cai trị, không chỉ vì Thăng Long trống trải,
giặc có thể đến rất nhanh, không chỉ vì Tây Đô là nơi hiểm yếu nếu có chiến tranh xảy
ra… mà sâu xa hơn, Thanh Hoá là quê hương. Ông dựa vào đất quê hương như nương
tựa vào người Mẹ văn hóa xứ sở để dựng xây cơ nghiệp.
Biến thể đặc biệt của đất là Rừng. Đặc điểm của rừng với những tán lá rậm
dày, rộng lớn, che mát đã làm nên tính Mẫu - Mẹ Rừng. Nhưng rừng cũng ẩn chứa
những bất ngờ, nguy hiểm bởi sự kín rợp của nó, “rừng là biểu tượng cho những
mặt hiểm hoạ của vô thức, tức là cái xu hướng bị nuốt chửng hoặc che khuất đi lí
trí” (J. E. Cirlot). Trong hệ thống tiểu thuyết mà chúng tôi khảo sát, biểu tượng
Rừng xuất hiện rất nhiều và thiên về tính Mẫu chở che cho con người, là nơi tìm về
để trải lòng người sau bao biến cố dâu bể. Trong mối liên hệ gắn kết với kẻ sĩ hay
đấng minh quân, núi rừng sẽ giúp cho tâm hồn của họ thư thái, êm dịu hơn sau khi
họ phải nếm trải bụi trần gian khắc nghiệt. Núi rừng Côn Lôn đẹp trong bởi ở đó có
những tâm hồn vĩ nhân cao quý như Nguyễn Trãi. Không gian, phong cảnh núi rừng
khiến cho hồn thơ phiêu bồng, bay bỗng, “Nguyễn nằm im, nghe hơi đá mát lạnh
dưới lưng. Nghe không khí lâng lâng của rừng thu. Nghe tiếng lá thông vi vút trong
gió. Nghe dòng suối rì rào ngân nga như tiếng đàn. Nghe rừng trúc xạc xào. Miên
man êm đềm… Tự nhiên ông thấy lòng thư thái, thấy mình như tan hoà cùng không
gian, cảnh vật, nhận ra hồn mình lâng lâng như sạch hết bụi trần” [151, tr.9]. Núi
rừng Côn Lôn là nơi để cho hồn thơ Nguyễn Trãi thăng hoa và hồn thơ và tài năng
của Nguyễn Trãi đã chắp cánh cho núi rừng Côn Lôn đến được với con người thời đại
và hậu thế trọn niềm mến yêu, trân trọng. Không riêng gì Nguyễn Trãi, các bậc đế
vương cũng vậy, chỉ khi về với thiên nhiên núi rừng họ mới thấy chiều sâu của tâm
hồn, thấy được niềm tự do, họ mới thực sự là chính mình. Không gian núi rừng đối lập
49
hoàn toàn với không gian chốn quan trường, giữa một nơi thanh sạch, tinh khiết, yên
tịnh với một chốn náo loạn, điên cuồng, vần vũ. Hai chốn không gian ấy vạch ra hai thế
giới trong tâm hồn của họ, để họ nhận ra đâu là thiện căn bản tính của lòng người.
Không gian núi rừng chính là nơi để dựng xây các đền, chùa thánh linh thành kính.
Phong cảnh hữu tình, kì thú, có núi, có sông, có cỏ cây hoa lá thêm cái hồn của con
người hướng thiện khiến cho Yên Tử bồng bềnh, bảng lảng trong không gian mây trời
nhốm màu thiền đạo. Sau hai lần đánh tan giặc Nguyên, vua Trần Nhân Tông rời bỏ
ngôi báu, mặc áo nâu sồng, đi chân đất lên núi thiêng tu Phật, thành lập thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử. Ở Yên Tử, đi giữa mây trắng, “vượt từ cõi ồn ào say miền tịnh thổ; ở đó
đất trời gặp nhau cho ta cảm giác dịu dàng, hiền hoà; ở đó chỉ có sự tốt lành, hết tranh
giành, cắn xé…Đứng ở Yên Tử, hòn núi cao nhất vùng, tâm hồn ta như được cởi mở,
nâng cao lên, khoáng đạt hơn, rộng lượng hơn, tầm mắt nhìn được xa hơn” [77, tr.741-
742]. Chân tâm mới là điều quan trọng nhất của đức hạnh đời người. Núi rừng đã bao
bọc, che chở để chân tâm của con người phát lộ.
Mẹ rừng che chở, bao bọc chúng sinh được nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khắc
hoạ rõ nét qua hai tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa. Rừng xuất hiện
229 lần trong Mẫu Thượng Ngàn, 123 lần trong Đội gạo lên chùa. Rừng tham dự một
cách máu thịt vào cuộc sống của con người Cổ Đình. Rừng là không gian diễn ra hội
trải ổ, che chở cho mối tình diễm lệ của Phác (Trịnh Huyền) và bà Ba Váy, cho Nhụ và
Điều. Rừng là nơi Cò Huy nhận ra người cha đích thực của mình là Trịnh Huyền chứ
không phải Lý Cỏn, để rồi trong cơn điên loạn, Cò Huy chạy vào rừng để được an ủi,
lắng lọc. Rừng che chở cho anh Mường rồ và cô Ngơ sống với nhau sau khi bị dân làng
rượt đuổi. Rừng là không gian sống của người dân làng Sọ, cưu mang Nguyệt và sư
Khoan Độ trong khi giặc Pháp càn quét. Rừng thông gần làng Sọ là nơi bé An tìm kiếm
bản thể, truy tín mong manh về sinh tồn và phiêu tán.
Với những biểu hiện của biểu tượng đất và các biến thể đã được phân tích,
chúng ta nhận ra giá trị của biểu tượng đất đã vượt lên ý nghĩa cổ sơ đất là không
gian sinh tồn, là nơi nuôi dưỡng mọi thực thể tồn tại. Các nhà tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam đều có cái nhìn thống nhất về những giá trị của biểu tượng đất
trong mối quan hệ với đấng quân vương và con người nói chung. Nó vừa phản
50
chiếu tầm nhìn chiến lược xây dựng và phát triển đất nước, là đất thiêng để nhân
kiệt lập nghiệp vừa là giới hạn của tư tưởng và lòng người trước thời cuộc.
2.1.4. Biểu tượng Trời/ Ông Trời
Biểu tượng Trời trong các nền văn hoá, tư tưởng, tôn giáo dường như có sự
tương đồng về ý nghĩa là qua đó “con người thể hiện niềm tin vào một Sinh Linh
thần thánh ở trên cao, người sáng tạo ra vũ trụ và đảm bảo cho sự phì nhiêu của
đất… Trời là một biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, của uy quyền, của cái vĩnh
hằng, cái thiêng liêng: cái mà không sinh vật nào trên mặt đất này có thể đoạt được”
[67, tr.956]. Trời là nơi các thần linh cư ngụ, cũng là cõi cực lạc, chỗ ở các thánh
nhân. Trong truyền thống Thánh Kinh, Trời được đồng nhất hoá với Thượng Đế.
Trong hệ hình văn hoá phương Đông (chủ yếu là Trung Hoa, Việt Nam), “với tư
cách là người điều tiết trật tự vũ trụ, trời được xem là cha của các đế vương là lãnh
chúa nơi trần thế” [67, tr.956]. Chế độ quân chủ phong kiến đã thiết lập trật tự xã
hội theo mô hình phân cấp cao-thấp ấy, ở đó Vua là Thiên tử, người đứng đầu nhà
nước trị vì thiên. Đó là kết quả của sự dịch chuyển “từ cõi siêu nghiệm sang quân
quyền, hình thành một tập hợp cổ điển: trời - thượng đế sáng thế - quân chủ, ứng
với một tập hợp khác, cũng không kém phần cổ điển: vương quốc - thiên tử - ân
nhân - chúa tể” [67, tr.956]. Các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã khai
thác và làm sáng tỏ mối quan hệ Trời - đấng tối cao quyền uy của muôn loài và Vua
- Thiên Tử, đấng tối cao quyền uy của muôn dân cũng như giá trị xã hội của các
biểu tượng tương liên này.
Trong tiểu thuyết Sông côn mùa lũ, nhà văn Nguyễn Mộng Giác thường dùng
biểu tượng trời “với tư cách là người điều tiết vũ trụ…và trật tự nội tại của con
người” [36, tr.956] khi nói đến hành động, ý nghĩ của các “lãnh chúa” như Biện
Nhạc, Nguyễn Huệ. Nhìn lại những chặng đường đã qua, chính Biện Nhạc cũng
không nghĩ đến sự thành công mà con người vượt qua bao hiểm nguy để tạo lập,
phát triển Tây Sơn Thượng. Biện Nhạc ưa dùng “lòng Trời” để giải thích điều tốt
đẹp, khích lệ đám đông chịu đựng gian khổ, khó khăn. Ông Biện ưa nói: “Không có
trời thì thế này… không có trời thì thế kia. Người nghe ôn lại những ngày nhọc
nhằn, lo âu đầu tiên, rán tìm một lối giải thoát… Họ thầm cảm ơn Trời đã không xô
51
dạt họ, xua đuổi họ từ chỗ này đến chỗ khác…dẫn họ đến một thung lũng ấm, ban
cho họ một niềm hi vọng” [36, tr.214]. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình,
Nguyễn Huệ làm việc gì cũng lấy Trời làm chỗ dựa để tạo niềm tin, để gắn kết nhân
dân. Nguyễn Huệ cất quân đánh chiếm Gia Định năm 1782 nhằm tiêu diệt Nguyễn
Ánh, khi nghiên cứu kĩ địa thế sông rạch, hướng gió thổi, ông khẳng khái tuyên
lệnh trước cận thần rằng “Lòng trời không muốn ta dừng lại, mới sai gió đến giục ta
tiến về sông Ngã Bảy. Các ngươi hãy thuật lại cho tướng sĩ biết” [36, tr.766]. Suốt
cuộc hành trình từ Cần Giờ đến sông Ngã Bảy, anh em tướng sĩ được gió giúp sức
khỏi nhọc công chèo. Ý tưởng thuận lòng trời đã là nguồn cổ vũ bất ngờ, làm nên
sức mạnh to lớn để Nguyễn Huệ điều binh khiển tướng, muôn người đồng chí
hướng đánh thắng Nguyễn Ánh. Đối với sĩ phu Bắc Hà, những người xuất thân từ
của Khổng sân Trình, họ thấm nhuần tư tưởng trung quân nhưng họ cũng rõ tư
tưởng Thiên - Địa - Nhân hợp nhất hơn ai hết. Trước cái dùng dằng của kẻ sĩ Bắc
Hà và niềm khát khao thu phục tầng lớp nhân sĩ trí thức giúp rập mình khi tiến quân
ra Bắc đánh diệt nhà Trịnh, rồi đánh đuổi quân Thanh, Nguyễn Huệ xưng Vương và
ra chiếu phủ dụ kêu gọi sự cộng tác của sĩ phu cũng viện dẫn đến ý trời: “Trẫm ứng
mệnh Trời, thuận lòng người” [36, tr.1138]. Chiếm được Thăng Long, để chính
danh giúp vua Lê và khôi phục Đại Việt sau bao cơn tao loạn, Nguyễn Huệ cưới
công chúa Ngọc Hân. Ngay cả việc cưới Ngọc Hân công chúa ông cũng lấy trời làm
điểm tựa: “Trời đưa công chúa đến cho ta, ý muốn bảo cái công lao mở nước từ
Quỷ môn quan đến núi Thạch Bi không phải kẻ phàm nào cũng giữ được. Cái ý
thống nhất đã có sẵn trong cuộc hôn nhân này rồi” [36, tr.1077]. Những thành
công liên tiếp đến trên chính trường thể hiện rõ tài năng quân sự của Nguyễn Huệ,
song lúc nào ông cũng coi trọng trời. Trong niềm tự hào về thắng lợi, ông không
ngần ngại ngân ca “Vì trời ở về phía ta mà…nào nước lụt đang dâng cao lại rút
xuống, nào gió nồ thổi mạnh giục thuyền ta tiến nhanh về Thăng Long! Gió, nước là
của ta, thì ngày tháng cũng là của ta. Chọn ngày nào chẳng là ngày lành” [36,
tr.991]. Với ý nghĩa Trời có quyền uy tối cao, Vua là Thiên Tử/ con Trời, các bậc đế
vương thường viện dẫn “ý trời”, “lòng trời”, “mệnh trời”, “trời cao”... nhân danh
Trời để thực hiện một ý nghĩ, một hành động, một mục tiêu nào đó. Nhưng chúng ta
52
cũng cần nhấn mạnh Trời/Vua được tôn trọng khi ý nghĩa ông Trời trong hệ quy
chiếu tất yếu nói đến sự gắn kết giữa khát vọng chân chính của nhân dân và sức
mạnh tự nhiên thông qua đại nghiệp thành công của các đấng minh quân, anh hùng
dân tộc. Bằng ngược lại là sự chất vấn nghiêm khắc từ muôn dân.
Tín ngưỡng của người Việt là tin ngưỡng đa thần. Dường như thế giới tự nhiên
có bao nhiêu biểu hiện thì có bấy nhiêu vị thần trong đời sống tâm linh của nhân
dân. Có rất nhiều nguyên nhân làm nên hệ thống đa thần trong tín ngưỡng tâm linh
người Việt, trong đó, nền văn minh nông nghiệp làng xã, phụ thuộc nhiều vào các
yếu tố tự nhiên là nguyên nhân cơ bản. Tâm thức dân tộc Việt xem Đất, Trời, Nước
là Mẫu (Địa Mẫu, Thiên Mẫu, Mẫu Thoải) có ý nghĩa biểu tượng cho sự chở che,
bao bọc. Biểu tượng Trời được các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
miêu tả trong mối quan hệ gắn kết mật thiết giữa tự nhiên - xã hội - con người cũng
không chệch khỏi giá trị biểu tượng ban nhận phúc ân, che chở.
Trời luôn ngự trị và chi phối đời sống nhân sinh. Nếu chẳng may gặp hoạn nạn
thì “cầu Trời cho tai qua, nạn khỏi”, nếu làm điều thất nhân, thất đức ắt sẽ có ngày
gặp hoạ, sẽ bị “Trời phạt”, phàm làm việc gì trong đời thì “mưu sự tại Nhân, thành
sự tại Thiên”… Tâm thức dân gian ấy kết hợp với tư tưởng lệ thuộc vào đấng quân
chủ và sùng tín tự nhiên, tôn thờ Trời, khiến cho nhân dân thường thiêng hóa, linh
hóa những bậc vĩ nhân, anh hùng dân tộc bằng các truyền thuyết, huyền thoại để tỏ
bày lòng sùng kính, tin yêu. Những huyền tích dân gian ấy tiếp tục được các nhà
văn khai thác sử dụng trong tác phẩm viết về triều đại Nhà Lê như Hội thề, Thị Lộ
chính danh, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất, quyển 2: Bức huyết
thư), Hào kiệt Lam Sơn … Không phải ngẫu nhiên mà quân sư Nguyễn Trãi bày
mưu kế khắc chữ “Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần” trên lá cây để thả trôi theo
dòng suối. Mưu kế ấy xuất phát từ căn nguyên thờ thần Trời trong văn hóa tâm linh
của nhân dân Đại Việt. Cách á thánh hóa Lê Lợi như vậy sẽ gia tăng uy quyền, vị
thế của Lê Lợi mang tầm vóc của tự nhiên thần bí để tập hợp dân chúng, làm nên
sức mạnh đoàn kết đánh giặc ngoại xâm. Lê Lợi còn được nhân dân huyền thoại hóa
qua Truyền thuyết Hồ Gươm với thanh bảo kiếm khắc hai chữ Thuận Thiên do thần
Kim Quy trao cho. Lê Lợi trong khát vọng nhân dân là biểu tượng thánh nhân “thay
53
trời hành đạo”, trừ bạo yên dân. Cũng tương tự như vậy, trong tác phẩm Minh sư,
biểu tượng trời được khắc họa là không gian vũ trụ bao la trên tầng không so với
mặt đất gồm những thành tố tự nhiên vốn có như: mặt trời, nắng, mây, gió với thuộc
tính của nó. Nhà văn soi xét việc mở cõi lập nghiệp phương Nam của Nguyễn
Hoàng thuận theo lẽ Trời. Mỗi hành động, quyết định của Nguyễn Hoàng trước thời
cuộc đều có sự chứng giám của Trời. Nguyễn Hoàng xuất hiện trước dân chúng
Thuận - Quảng, bầu trời bao giờ cũng được miêu tả yên ắng, tiên báo về điềm lành.
Ngay buổi đầu đặt chân đến Ái Tử, bầu trời “lúc này nắng càng rực rỡ hơn. Nền
trời có những đám mây bồng bềnh trôi từ ngoài biển vào che mát cho đám rước, rồi
lại về núi” [87, tr.39]. Mỗi khi Nguyễn Hoàng có việc tụ tập dân làng, Trời như
đấng linh thiêng bảo bọc. Mặt khác, từ ý nghĩa biểu tượng, mặt trời là nguồn sáng
phát quang, sáng láng, xua tan bóng tối đem lại sự sống cho muôn loài, sự xuất hiện
của Nguyễn Hoàng có ý nghĩa khai sáng, dẫn đường cho nhân dân Thuận Quảng,
mảnh đất cằn cỗi sỏi đá, bao năm qua bị ức hiếp bởi thế lực nhà Trịnh. Ý nghĩa về
mặt trời đã vượt qua thực thể tự nhiên, vượt qua cấp độ nghĩa ẩn dụ cho một lí
tưởng nào đó mà trở thành niềm tin, niềm mong đợi trong tâm thức nhân dân về một
vị lãnh tụ tinh thần của họ. Trong nhiều trường hợp, trời xa quá so với trần thế,
“Dân đói khổ kêu trời đâu có thấu. Nhiều người còn oán trời không có mắt nữa”
[36, tr.219], cái gì gần gũi hơn, quen thân với mọi người hơn? Trời trở thành đối
tượng để cho con người chất vấn: “Nếu trời đã thuận ý với chúng tôi mà nổi gió để
giúp thuyền chúng tôi lướt nhanh về phía sông Ngã Bảy, thì số phận những người
chết cháy, chết chìm, chết đâm, chết chém, số phận những kẻ sống dở chết dở đang
rên xiết quằn quại…thuộc về cái gì trong ý muốn của Trời? Trời phạt họ ư? Họ là
đồng đội, đồng thuyền của anh em chúng tôi, họ có tội gì mà nở nặng tay với họ? Trời
thương xót họ ư? Cuộc đời có chật vật khốn khó đấy, nhưng họ không bao giờ chán đời
đến độ xin được chết, trừ khi họ bị trời hành hạ đau đớn như bây giờ? Nếu Trời chí
công thì cái chết của họ là tội lỗi của con người. Con người nào?” [36, tr.768]. Trời vì
thế không chỉ là biểu tượng của quyền năng tối thượng mà còn là biểu tượng gắn với
lương tâm, lương tri của các đấng minh quân đang nắm trong tay quyền trị vì thiên hạ.
Trời ở đây tương liên mật kết với các đấng minh quân, “dùng để chỉ cái tuyệt đối của
54
những hoài bão của con người, như là kết quả mỹ mãn của sự tìm kiếm, như là nơi mà
tinh thần con người có thể được hoàn thiện, tựa hồ trời là tinh thần của thế giới” [36,
tr.959-960] như đấng minh quân là tinh thần của nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng thiên nhân hợp nhất là một trong những tư tưởng chủ đạo
làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Thiên là Trời, là đấng tối cao của vũ trụ. Nhân
là Con Người nói chung, trong đó Vua, là đấng tối cao trong xã hội, nắm quyền lực
quyết định vận mệnh dân tộc. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các
nhà văn thể hiện nhận thức về mối quan hệ Trời - Đấng minh quân luôn gắn kết mật
thiết, soi sáng cho nhau. Đại nghiệp của đấng minh quân nếu vì nhân dân thì luôn
được Trời chứng kiến và hỗ trợ. Các bậc đế vương luôn lấy dân làm gốc, đặt quyền
lợi của nhân dân trên quyền lợi cá nhân, dẫu họ nắm quyền cao chức trọng có thể áp
đảo tất cả nhưng sự sống của họ trong lòng nhân dân không vững bền nếu họ không
sắp xếp ổn thỏa mối quan hệ của họ với nhân dân. Trong ý nghĩa tìm về lịch sử để
vi kim, các nhà tiểu tuyết đề cao lẽ sống Ý Trời và Lòng Dân hài hòa trong mọi
chính sách xã hội của đấng minh vương là thông điệp gởi đến mọi giai tầng trong
đời sống xã hội đương đại.
2.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam
2.2.1. Quá trình chuyển hóa, mở rộng biên độ giá trị biểu tượng
Nhìn từ tư tưởng triết học phương Đông, mối quan hệ giữa thiên nhiên và con
người được các bậc thánh triết nêu ra và phân tích rất sâu sắc. Nguyên lý vạn vật
đồng nhất thể, nguyên lý con người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, nguyên lý
thiên địa nhân hợp nhất từ nền tảng tư tưởng triết học cổ đại ấy đã chi phối đến toàn
bộ đời sống xã hội con người phương Đông, là tiền đề cơ bản trong cách ứng xử
giữa con người với thiên nhiên, con người với con người và các phương diện biểu
hiện đời sống tinh thần xã hội như văn chương, hội họa… Với đặc trưng của nền
văn minh nông nghiệp, từ xa xưa, con người phương Đông nói chung, người Việt
Nam nói riêng đã học được cách sống hài hòa với tự nhiên. Thiên nhiên vừa là môi
trường vừa là nguồn lợi và là nỗi lo âu của con người. Đặc biệt, trước sức mạnh của
tự nhiên, họ chưa thể giải thích nguyên lí làm nên sức mạnh đó, con người chỉ biết
55
dựa vào tự nhiên để tồn tại… Đấy là một trong những cơ sở hình thành nên tư tưởng
vạn vật hữu linh trong tâm thức văn hóa cộng đồng phương Đông và cũng lí giải vì
sao sự xuất hiện và tồn tại của hệ biểu tượng tự nhiên trong đời sống vũ trụ dẫu
được loài người khám phá, khai thác sử dụng qua các thời đại văn minh nào chăng
nữa vẫn là những thế giới đầy bí ẩn. Loài người linh thiêng, sùng bái, thờ cúng thế
giới tự nhiên cổ mẫu như là điều khả nhiên trong đời sống tâm linh của họ.
Thế giới của nước, lửa, đất, trời và các biến thể của nó (biển, sông, suối, ao,
hồ, mưa, màu đỏ, máu, núi, rừng, vườn, bãi, mặt trăng, mây, gió…) luôn hàm chứa
sức mạnh khó lí giải nhất từng được con người cầu viện thiêng hóa, linh hóa, có sức
sống vững bền trong tâm thức văn hóa nhân loại và dân tộc nay được các nhà tiểu
thuyết lịch sử thời kỳ này đánh thức và hoàn thiện các giá trị biểu đạt trong mối gắn kết
với hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn hóa tín ngưỡng. Trong mối quan hệ với
con người, các biểu tượng tự nhiên thường được thần thánh hóa, đó là các thần sông,
thần biển, thần núi, thần trời… có sức mạnh siêu việt che chở, giúp đỡ cho các đấng
minh quân, anh hùng dân tộc thực hiện đạo nghĩa chăn dân, bảo vệ quốc gia Đại Việt
trước các thế lực xâm lăng, tàn bạo, bất lương, bất chính. Những truyền thuyết Con
Rồng cháu Tiên, truyền thuyết Hồ Gươm với thần Kim Quy, thanh kiếm Thuận Thiên,
hay thần biển trợ giúp Lê Lợi dựng nên đại nghiệp… đã tồn tại trong “ký ức tập thể”
dân tộc Việt được các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại trưng dụng để gợi nhắc về
nguồn cội dân tộc, nói lên khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam.
Mọi đối tượng của thế giới nghệ thuật đều có thể chuyển từ trạng thái tĩnh tại,
khép kín sang trạng thái động, rộng mở về biên độ tiếp nhận. Trong nhiều tác phẩm
(Giàn thiêu, Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn…), thế giới tự nhiên hiện diện như là
một đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật tham gia trực tiếp xây dựng kết cấu văn bản và tính
cách nhân vật. Lửa xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm Giàn thiêu, trang văn nào
cũng đầy ắp lửa, nhân vật nào cũng có ngọn lửa của riêng mình. Trong tiểu thuyết
Hồ Quý Ly, lửa soi sáng ý chí, nhân cách và tâm hồn của các nhân vật, rõ nhất là
ngọn lửa của Hồ Quý Ly, bà Huy Ninh, Hồ Nguyên Trừng… Mặt khác, những tính
chất cơ bản của thế giới tự nhiên thường được sử dụng để soi chiếu bản thể con
người cá nhân hoặc nói lên tinh thần của dân tộc trước những hoàn cảnh cụ thể.
56
Chẳng hạn các biểu tượng tự nhiên như Lửa - sự huỷ diệt, trong trường hợp cụ thể
lửa mang giá trị tinh thần, ý chí nung nấu, là tái sinh; Nước - sự trôi chảy sẽ là gội
rửa, rủ bỏ thế tục... Trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, hai biểu tượng
“nước và lửa đã thoát xác bay lên”, lửa tượng trưng cho dục vọng tham tàn, cho sự
huỷ diệt, nước tượng trưng cho sự hồi sinh, cứu rỗi. Nhà văn Võ Thị Hảo đã tạo nên
huyền tích mới, làm giàu đẹp thêm cho các biểu tượng tự nhiên cổ mẫu này. Có những
trường hợp nước, lửa với bản tính huỷ diệt, hận thù và hồi sinh … được chuyển mã giá
trị mang sức mạnh tinh thần dân tộc Việt qua tư duy nghệ thuật của nhà văn. Trong
cuộc chiến một mất một còn của nhân dân Đại Việt chống kẻ thù xâm lược, ngọn lửa
tinh thần yêu nước bừng cháy trong ý nghĩ, con tim. Chiến trận A Lỗ, lửa bao trùm cả
không gian trên bờ và dưới nước. “Lửa cháy bốn bề, lửa cháy tưng bừng tàu trại, bốn
phương tám hướng không đâu là không có lửa cháy rát bỏng” [41, tr.526]. Dưới hạ lưu
bật vang lên tiếng trống đồng, trống cái, tiếng tù và hoà trong tiếng pháo, “những tên
lửa bùi nhùi, tới tấp lao vào thuyền giặc, như lửa trời ập xuống đầu chúng” [41,
tr.533-534]. Một ngày sau trận đánh diễn ra, “xác giặc nổi kín mặt sông. Nước đang
rút mạnh, cuốn xác giặc từng mãn như những mãn bèo vỡ tan tác, khiến thuyền bè
không đi lại được” [41, tr.535]. Từ cái nhìn của dân tộc chống ngoại xâm bảo vệ non
sông, nước và lửa biểu thị sức mạnh huỷ diệt cái ác.
Trong mối quan hệ với hệ biểu tượng tín ngưỡng - tôn giáo, hệ biểu tượng tự
nhiên là chiếc cầu nối thế giới trần thực với thế giới tâm linh, giữa các bậc minh
quân với lực lượng siêu nhiên. Không có lửa, mọi nghi thức tín ngưỡng, tôn giáo
không diễn ra, ý nghĩa thiêng liêng của nó cũng mất đi. Nhiều lúc con người nguyện
cầu những điều tốt đẹp cho chúng sinh hoặc con người hối hận vì những điều mình
gây ra dẫu vô tình hay cố ý, con người thường tìm đến cõi thiêng thông qua lửa của
các nghi thức tín ngưỡng tôn giáo, con người sám hối và hướng thiện. Với niềm tin
về sự tồn tại của linh hồn, của thế giới siêu nhiên bên cạnh thế giới trần tục, con
người đã linh hóa lửa thành chiếc cầu nối cõi dương và cõi âm, thế giới hữu hình
với thế giới vô hình. Từ lửa của tự nhiên thành lửa của văn hóa dân tộc Việt qua
nghi thức dâng hương trong các lễ cúng bái đến lửa của nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử
luôn có sự gắn kết ngầm bên trong bởi sự huyền bí của lửa. Chúng ta có thể nhìn thấy
57
điều này khi nhân vật Đoàn Minh Thành trong tiểu thuyết Minh sư đến thăm miếu mộ
Thái phó Nguyễn Ư Dĩ. Anh “thắp cả bó hương cắm lên bình hương trước miếu. Ánh
lửa từ những cây hương bập bùng trước gió rồi bỗng nhiên cả bó hương cháy bùng
lên. Bác tài vội quỳ xuống vái lia lịa, miệng lầm bầm: Ngài ứng đó, ngài ứng đó…
Thành đứng nhìn nén hương cháy cho đến hết… trong anh thật nhẹ nhàng… anh cảm
nhận được chân mình đứng vững hơn trên mặt đất ở nơi này” [87, tr.282]. Khi cả bó
hương cháy bùng lên là kết quả tất yếu do gió tác động vào. Nhưng khi bác tài quỳ
xuống vái lia lịa, Thành cảm thấy thanh thản trong lòng, thấy yên bình khi đặt chân trên
đất Thuận Quảng là bởi niềm kính trọng tỏa vào trong đó. Khi lửa đèn thắp lên, lửa
hương ngào ngạt, lửa lòng hướng về cõi thiêng, khấn vái…đó là lúc con người đi tìm
sự tương tri, tương ngộ về những điều cần tìm lấy trong cuộc sống còn nhiều ấm ức.
Lửa là là chiếc cầu nối đặc biệt giữa con người và thế giới siêu nhiên.
Những cổ mẫu nguyên sơ không thể là biểu tượng chết, các giá trị của nó luôn
luôn được bồi đắp khi đi qua giới hạn mỗi vùng văn hóa, tư tưởng. Đặc biệt trong
tác phẩm nghệ thuật, các nhà văn rất có ý thức thanh lọc và chuyển hóa các mã giá
trị để biểu tượng sinh động và phù hợp với tư duy nghệ thuật thời đại. Chẳng hạn,
biểu tượng nước và các dạng thể của nó được các tác giả cuốn Từ điển biểu tượng
văn hoá thế giới phân tích khá sâu sắc theo góc nhìn của văn hóa học. “Những ý
nghĩa tượng trưng của nước có thể qui về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống,
phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường được gặp trong các
truyền thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng nhất và
đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [19, tr.709]. Trong những nền văn hoá tộc người khác
nhau, các chủ đề chính yếu này thường được biểu hiện khác nhau, giúp chúng ta đi
sâu hơn vào những sắc thái trong ý nghĩa tượng trưng với mỗi nền văn hoá. Tại
châu Á, “nước là dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố
tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính
thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh” [67, tr.710]. Các bản
kinh Hindu giáo nói rằng: “mọi vật đều là nước”. “Nước trở thành biểu tượng của
đời sống tinh thần và của Thánh Linh” [67, tr.712]. Kinh Coran “coi nước được ban
phép lành… nhờ có nước Người đã làm cho hoa quả mọc lên để nuôi sống loài
58
người” [67, tr.714]. Đối với các dân tộc Việt, nước vừa là mầm sống khởi thuỷ
được phản ánh rõ trong các truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, các truyền
thuyết về Vua Hùng, sử thi Đẻ đất đẻ nước, vừa còn là hiểm hoạ, trừng phạt qua
truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh; Người dân miền núi ở Nam Việt Nam coi “nước
của trời làm ra thóc lúa; họ cũng còn coi trọng chức năng tái sinh của nước, đối với
họ, nước là vị thuốc và là đồ uống trường sinh bất tử” [67, tr.710]; Dòng nước trong
quan niệm của người Việt là dòng đời… Từ biểu tượng văn hoá phổ quát chung,
biểu tượng nước và các biến thể của nó được các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam sử dụng làm chứng nhân lịch sử chiến tranh của Đại Việt với các lân
bang. Dòng chảy của nước hay cũng chính là dòng chảy của các triều đại phong
kiến Đại Việt, có lúc chở nặng phù sa làm nên sự phồn thịnh của quốc gia Đại Việt,
nhưng có lúc cũng tắc nghẽn, ao tù nước đọng bởi những cuộc nội chiến từ nội cát
hoàng tộc, từ các tập đoàn phong kiến tranh giành địa vị, quyền lợi như những khúc
quanh lịch sử làm bờ ngăn cản trở sự phát triển của đất nước. Cũng có khi biểu
tượng nước tiềm ẩn sức mạnh thần kỳ, gắn kết mật thiết với các yếu nhân lịch sử
như Lý Thường Kiêt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hoàng, Quang Trung… giúp họ
đánh thắng các thế lực ngoại bang xâm chiếm Đại Việt. Hay những biểu hiện của
nước gắn kết với cuộc đời nhân vật cụ thể, nước vừa là không gian vừa là thời gian
đời người, vừa là dòng nước chết, nhấn chìm vừa là chứng nhân, tái sinh cuộc đời
nhân vật như trường hợp dòng đời của Từ Lộ trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ
Thị Hảo là minh chứng cho ý nghĩa biểu hiện này của nước và các biến thể của nó.
Ý niệm của con người tạo ra thế giới biểu tượng, đến lượt thế giới biểu tượng
tiếp tục được thanh lọc qua tư duy người nghệ sĩ để tham gia vào quá trình sáng tạo
nghệ thuật và có sức sống mới. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, hệ
biểu tượng tự nhiên là một đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật phản ánh, cắt nghĩa hiện
thực xã hội và con người. Trong tác phẩm, nó có tính chất dự báo cho điều sắp xảy
ra, nó là tín hiệu thẩm mĩ để bạn đọc tri nhận được những sự việc diễn biến sau đó.
Hình ảnh Phương đông đã ửng hồng lặp lại nhiều lần trong các thiên tiểu thuyết
Hoàng Quốc Hải có tính dự báo cho đại nghiệp thành công mà Trần Thủ Độ gây
dựng. Ngọn lửa được Hồ Quý Ly nung nấu tự nhỏ đã nói lên hoài bão của một đời
59
người… Tùy vào từng đối tượng, hoàn cảnh cụ thể mà tính chất tín hiệu do hệ biểu
tượng tự nhiên mang lại trong nhận thức của bạn đọc khác nhau. Màu đỏ những
đám mây lưỡi tầm sét õng máu lơ lửng trên phía hoàng thành, lửa cháy xuyên suốt
trong tác phẩm Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đã tạo ra trong bạn đọc những liên tưởng
về một trật tự xã hội cũng như bản thể nhân tính mỗi nhân vật đảo điên, quay cuồng,
vần vũ. Nếu những giọt nước mưa cổ xúy cho cuộc giao hoan của Từ Lộ và Nhuệ
Anh thăng hoa thì “những bông hoa gạo đỏ bầm như bụm máu” [52, tr.213] lại dự
cảm về sự tan vỡ. Quãng sông hoa gạo đỏ ấy đã thổi bùng cháy rần rật một ngọn lửa
khác trong lòng Từ Lộ, lửa hận thù đối chọi và chiến thắng lửa tình yêu, rồi bầu
máu đen đầy nghẹt lồng ngực khiến cho Từ Lộ chối bỏ Nhuệ Anh… Có thể khẳng
định rằng, trong rất nhiều trường hợp như thế, hệ biểu tượng tự nhiên trở thành
những tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm nghệ thuật. Từ giá trị ngọn lửa bản thể đến
giá trị ngọn lửa nghệ thuật là quá trình mã hoá các giá trị theo ý đồ nghệ thuật của
nhà văn. Biểu tượng lửa trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam nhiều khi là
điềm tiên tri báo hiệu những điều sắp xảy ra. “Một miếng giấy nhỏ, có hình tam
giác màu đỏ chói như máu” [140, tr.118] mà Trần Gia Viễn nhận từ tay viên quản
gia, khiến mặt ông biến sắc vì tai hoạ sắp ập đến. Lửa có khi được dùng để so sánh,
ví von cho một “cơ nghiệp nhà Trần lúc này như ngọn đèn trước gió” mong manh,
chập chờn sắp đến hồi vãn” [77, tr.150]; “Kẻ đến trước người đến sau, kẻ vô học
tham lam với người tài cao học rộng như nước với lửa, thường là duyên do mọi
hiềm khích” [148, tr.200]. Đấy chính là giá trị thức ngộ về sự sống và cái chết.
Cũng có khi hệ biểu tượng tự nhiên biểu thị nét nghĩa gốc nhưng khi qua mỗi điểm
nhìn trần thuật, tư tưởng của nhà văn thì nghĩa gốc ấy lại hàm ngôn giá trị cụ thể
khác. Chẳng hạn biểu tượng lửa - với ý nghĩa huỷ diệt qua mỗi trang văn lại biểu thị
cho những cái chết khác nhau. Lửa trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải là ngọn
lửa yêu nước, ngọn lửa tinh thần dân tộc sẵn sàng dìm chết kẻ thù xâm lược. Lửa
trên các trang văn của Nguyễn Xuân Khánh là ngọn lửa của khát vọng, hoài bão
canh tân đất nước, sẵn sàng thiêu rụi tất thảy những tàn tích lạc hậu, cũ nát cản
đường sự phát triển. Lửa trên các trang văn của Võ Thị Hảo là ngọn lửa hận thù cá
nhân, là lửa lòng ích kỹ. Ngọn lửa ấy vừa thiêu cháy biết bao thân phận, tâm hồn
60
nhưng lại thắp sáng cho bạn đọc thấy rõ phần đớn hèn, tham lam dục vọng và quyền
lực bị chìm khuất trong mỗi con người.
Kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên làm thành ngôn ngữ để thức nhận đời sống xã
hội với các biểu hiện của nó, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam thường
ý niệm huyền thoại hoá sức mạnh tự nhiên trong mối quan hệ với hệ biểu tượng con
người. Trong mối quan hệ khắng khít này, biểu tượng tự nhiên đất, trời và các đấng
minh quân, anh hùng dân tộc được soi chiếu từ góc nhìn của lý thuyết tam tài Thiên
- Địa - Nhân hợp nhất. Với vai trò là thành tố trung tâm, trung gian giữa đất - trời,
gián tiếp biểu thị sức sống của thế giới tự nhiên con người như ánh mặt trời chiếu
sáng, xua tan bóng tối, đem lại cho muôn loài sự sống sinh sôi nảy nở. Vẻ đẹp của
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng, Quang Trung và nhiều
bậc liên tài khác trước những thời khắc lịch sử quan trọng là vẻ đẹp của những
“đấng cứu thế” dẫn đường cho nhân dân trước bóng tối cuộc đời. Thế giới tự nhiên
quyền uy, huyền nhiệm thường được sinh hóa ảo diệu qua đại nghiệp của các bậc vĩ
nhân. Thanh kiếm Lê Lợi dùng là thanh kiếm báu Thuận Thiên, sấm truyền của
Nguyễn Bỉnh Khiêm cho Nguyễn Hoàng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”,
Nguyễn Huệ đứng trước ba quân thường dùng “ứng với mệnh trời” mà hành động…
Những bậc anh tài để thành công trong đại nghiệp cần có điều kiện thiên thời, địa
lợi mới đủ mạnh để đánh tan tất cả những thế lực cản trở, đem lại đời sống yên
bình, ấm no cho nhân dân. Từ tư tưởng sùng bái tự nhiên vũ trụ đất trời đến việc
thần bí hóa sức mạnh của các anh tài gắn với thế giới tự nhiên đã làm nổi rõ tài
năng, đức hạnh của họ trước thời cuộc và nhân dân.
Mỗi nhà văn có thể là nhà tư tưởng trong thời đại của họ. Các tác phẩm của họ
vừa chịu sự chi phối rất lớn của nền tảng tư tưởng xã hội vừa có ý thức vượt lên trên
nền ý thức ấy để tồn tại vững bền qua thời gian. Vậy nên, trong tư duy nghệ thuật
của nhà văn, mọi hình ảnh, hình tượng đều có khuynh hướng trở thành biểu tượng
nghệ thuật khi nó hội đủ các điều kiện đa nghĩa, cổ sơ, huyền bí. Trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam, hệ biểu tượng tự nhiên trước khi thành huyền thoại của
nghệ thuật, tự thân nó đã là những huyền thoại, giàu sắc thái văn hóa thuộc hệ thống
“ký ức tập thể”. Cơ chế tạo nghĩa của hệ biểu tượng tự nhiên gắn liền với sự vận
61
động chuyển mã giá trị từ tâm thức văn hóa nhân loại và dân tộc về tự nhiên đến tư
duy nghệ thuật của các nhà văn đương đại.
2.2.2. Kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên từ góc nhìn sinh thái
Với đặc trưng của nền văn minh hình thành từ những vùng đất phù sa màu mỡ
bên cạnh những con sông lớn, hợp lưu các dòng chảy, con người Việt Nam thường
quy thuận, hòa nhập với tự nhiên hơn là chinh phục tự nhiên. Từ tư duy xã hội đến
tư duy văn học, thiên nhiên được xem là chuẩn mực của cái đẹp. Các nhà thơ, nhà
văn thường dùng tự nhiên để nói đến tâm hồn, tình cảm, tính cách con người. Ở đó,
tùng, cúc, trúc, mai… là biểu tượng cho nhân cách, khí phách của người quân tử,
của nam thanh nữ tú. Thế giới tự nhiên ấy thực hiện thiên chức cứu rỗi tâm hồn mỗi
khi con người tìm về, nó chứa đựng cái tình thi sĩ. Thiên nhiên là người thầy minh
triết trong nhận thức, là người bạn thân thiết sâu nặng trong tâm hồn Việt. Chúng ta
có thể bắt gặp điều ấy qua các trang thơ văn bằng tình yêu vô tận đối với núi cao
hùng vĩ hay vẻ đẹp giản dị của nhành hoa, cây cỏ, ngọn rau hay đó là âm thanh dội
về từ thế giới côn trùng, những tiếng mưa đêm, là “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/Ấp
ủ cùng ta là cái con” (Nguyễn Trãi), là “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng
lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” (Hồ Chí Minh)… Thiên nhiên đã làm thành hệ biểu
tượng với nhiều ý nghĩa khi phản ánh tư tưởng, tâm hồn, cốt cách con người Việt
Nam. Tuy nhiên, về cơ bản, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn
học trước đây chưa trở thành ý thức nghệ thuật tự giác, chưa mang ý nghĩa truy vấn
về sự ích kỷ mà con người đã dành cho tự nhiên.
Đó cũng là lý do, trong một thời gian dài, nhất là từ khi bước vào thời hiện
đại, văn học, hoặc là lãng quên tự nhiên, hoặc từ sự kiêu ngạo và ích kỷ của con
người mà xem nhẹ bản thể tự nhiên như là người mẹ bao dung và vĩ đại. Văn học
sinh thái và phê bình sinh thái, sau khi nhận ra sự vụ lợi và ích kỷ của con người đã
nhìn về tự nhiên bằng thái độ khác, trân trọng và tìm kiếm sự hài hòa giữa con
người và tự nhiên. Sự tàn phá tự nhiên, môi trường sinh thái không chỉ diễn ra trong
thời chiến mà diễn ra ngay ở thời bình, khi con người nhân danh văn minh và phát
triển để tận diệt tự nhiên. Đó là một thực tế đáng suy ngẫm khi con người hiện đại
đã và đang đánh mất dần đi sự liên kết với tự nhiên. Những cây xanh cổ thụ hàng
62
trăm tuổi đã bị cắt bỏ, khai thác, trục xuất khỏi rừng đồi, thành phố bởi chúng ta vờ
lãng quên đi vẻ đẹp kỳ diệu của cây cối, của môi trường không khí trong lành.
Thiên nhiên đang bị bức tử, bị tướt đoạt đi nhiều thứ. Con người đã can thiệp quá
sâu và quyết liệt vào hành trình sinh tồn, phát triển của tự nhiên mà quên đi một
điều để hình thành nên hệ sinh thái tự nhiên ấy phải cần rất nhiều thời gian mới có
được. Một bộ phận không nhỏ con người hiện đại khai thác tự nhiên để thỏa mãn
thú vui xa hoa đã bức tử cây xanh từ các khu rừng. Những cánh rừng bị tàn phá
nặng nề bởi con người hiện đại khai thác gỗ làm vật trang trí, núi đá bị khai thác,
sang bằng để phục vụ cho các công trình xây dựng đủ mọi hình thức. Con người
thời hiện đại đã ỷ lại khoa học kỹ thuật mà quay lưng với thiên nhiên, họ trải qua
cảm giác thiếu thiên nhiên trong đời sống nhưng họ không biết bảo vệ, tái tạo thiên
nhiên, ngược lại họ khai thác tự nhiên triệt để hơn. Họ đánh tráo khái niệm gần gũi
thiên nhiên theo cách đem tự nhiên sống trong hệ sinh thái làm thành tự nhiên chết
trong các nhà, phố hiện đại. Cùng với quá trình phát triển của xã hội hậu công
nghiệp, chúng ta đang bị kẹp trong những khu đô thị đông đúc, chúng ta đang bị bao
bọc bởi khí thải, hiệu ứng nhà kính, bởi máy lạnh và các phương tiện kỹ thuật hiện
đại. Diện tích đất đai tự nhiên ngày càng bị thu hẹp bởi tốc độ “chóng mặt” của quá
trình đô thị hóa, những khu chung cư cao tầng mọc lên chiếm lĩnh cả không gian
mặt đất, không gian bầu trời, diện tích sông suối, ao hồ, biển cả tự nhiên cũng bị
con người lấn chiếm, chặn dòng, lấp dòng dẫn đến sự thay đổi dòng chảy tự
nhiên… đã tạo nên những tác động xấu đến môi sinh. Con người hiện đại ngày càng
hứng chịu những hệ lụy xấu vì sự mất cân bằng sinh thái do chính họ gây ra. Nói
riêng về Đất và quá trình đô thị hóa, chúng ta nhận thức rõ những mối đe dọa đang
đặt ra đối với mỗi chúng ta. Tâm thức ứng xử, văn hóa dân gian người Việt đã biểu
thị quan niệm “tất đất tất vàng”, “mua ăn thì mất, mua đất thì còn”, “đất có lề, quê
có thói” … Đất can dự vào hành trình sống của con người. Đất ấy là đất lập thân lập
nghiệp, là văn hóa xứ sở. Thế nhưng trong thời đại ngày nay, đất đai tự nhiên đang
hứng chịu quá trình chuyển hóa với đủ lí do, mục đích khác nhau. Đất đai màu mỡ
sử dụng trong sản xuất bị thu hẹp để thay vào đó là các khối công trình chung cư,
trung tâm thương mại dịch vụ, giải trí mọc lên. Đất từ tay của nhân dân lao động
63
bao đời nay bị đánh tráo, mất dần vào tay các nhà tư bản, tập đoàn kinh tế trong và
ngoài nước. Sự chuyển hóa này không đơn giản là mất đất canh tác sản xuất truyền
thống mà đó là quá trình thay thế và tiến đến xóa bỏ bản sắc văn hóa, văn minh
nông nghiệp bằng văn minh công nghiệp mại bản. Chúng ta không thể phủ nhận giá
trị kinh tế to lớn do nền văn minh công nghiệp mại bản đem lại rất nhiều lần, nhưng
chúng ta cũng không được phép lãng quên hay vờ lãng quên khi đánh mất văn
minh, văn hóa truyền thống dân tộc là đánh mất chủ quyền quốc gia. Nếu chúng ta
không có cơ chế, giải pháp hữu hiệu kịp thời để bảo vệ tài nguyên đất quốc gia ngay
từ hôm nay thì đất sẽ bị các nhà mại bản nước ngoài, nhất là nhà mại bản của các đế
quốc luôn rình rập xâm chiếm Việt Nam thâu tóm, lúc đó mất đất, mất chủ quyền,
mất nước không chỉ là nguy cơ.
Từ đời sống xã hội đương đại đến đời sống văn học đương đại, với ý thức trăn
trở của con người nhận ra sự mất mát, các nhà văn đã mượn các tác phẩm của mình
để nói rõ hơn về thế giới tự nhiên trong mối quan hệ với con người và văn hóa.
Nhiều tác phẩm như Muối của rừng, Con thú lớn nhất, Sói trả thù (Nguyễn Huy
Thiệp), Cánh đồng bất tận, Sông, Nước như nước mắt (Nguyễn Ngọc Tư), Thập giá
giữa rừng sâu (Nguyễn Khắc Phê), Chuyến đi săn cuối cùng (Sương Nguyệt Minh)
… đã rung lên những hồi chuông cảnh bảo về sự mất cân bằng, thảm họa sinh thái.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại, những trang văn viết về rừng mai, bãi dâu, núi
rừng Yên Tử, thác nước sông Gâm, sông Nhị Hà… rất đẹp, rất sống động như
những thông điệp gởi đến con người đương đại ý thức bảo vệ vẻ đẹp thuần khiết của
thiên nhiên, nối lại mạch nguồn sống chất phác của con người, gìn giữ bản sắc thiên
nhiên đất nước trước những biến chuyển phồn tạp của đời sống xã hội. Chúng ta sẽ
nhận ra được khả năng vi diệu của tự nhiên khi con người hòa mục vào thế giới ấy
và đón nhận sự cảm hóa. Xuất hiện nhiều lần trong các trang tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam là núi thiêng Yên Tử với chùa chiền, cảnh vật. “Đó là núi,
suối, là hoa cỏ cây cối, là đi giữa mây trắng, vượt từ cõi ồn ào sang miền tịnh thổ;
ở đó chỉ có sự tốt lành, hết tranh giành, cắn xé” [77, tr.714]. Không phải ngẫu
nhiên mà minh vương Trần Nhân Tông sau hai lần đánh tan giặc Nguyên, đã rời bỏ
ngôi báu, mặc áo nâu sồng, đi chân đất lên núi thiêng Yên Tử - một trong bảy mươi
64
hai phúc địa của Đại Việt, tu Phật và thành lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tâm
thức văn hoá người Việt tin rằng, “ở những ngọn núi thiêng, khí âm trong lòng đất
nhờ chóp núi cao, nên đổ dồn về tụ hợp tại đó, và khí dương trên trời thấy khí âm tụ
hội, cũng nương theo những đám mây trắng bay tới, để giao hoà. Sự thái hoà nhờ
đó mà được xác lập tốt lành” [77, tr.712]. Thế giới tự nhiên ấy đem lại cảm giác
thanh tịnh cho con người sau bao biến cố xô đẩy, con người quyện hòa vào cảnh vật
mà sinh tỏa hòa tâm. Kẻ sĩ Hồ Nguyên Trừng đã từng thức ngộ, “đứng ở đỉnh Yên
Tử, hòn núi cao nhất vùng, tâm hồn ta như được cởi mở, nâng cao lên, khoáng đạt
hơn, rộng lượng hơn, tầm mắt nhìn được xa hơn” [77, tr.724]. Sức sống của tự
nhiên với cây cối, núi rừng như lan toả khí lành từ bi làm nổi bật cái hư vô của đạo
phật, là tấm gương phản chiếu soi tỏ chân tâm của con người.
Vẻ đẹp của thiên nhiên với sức cảm hóa được nhiều nhà văn khai thác để nói
đến nhân cách cao đẹp của các bậc trượng phu, quân tử. Bản thể nhân cách ấy vốn
bị cái xô bồ của quyền lực xã hội chèn lấp chỉ phát lộ ra bên ngoài khi họ hoà mình
vào đời sống thiên nhiên. Trong tiểu thuyết Giàn thiêu, đời sống xã hội quyền lực
chèn ép, thúc đẩy Từ Lộ từ một con người hiền lành, trong sáng thành con người
đầy thù hận là thế nhưng khi Từ Lộ hòa mình vào thiên nhiên với sự can thiệp của
núi rừng, sông nước, con người tha hóa, tàn nhẫn ấy đã được cứu rỗi. Trong tiểu
thuyết Hồ Quý Ly, trước đời sống của chính trường đầy rẩy những mưu toan, Hồ
Nguyên Trừng luôn phải dè chừng, cảnh giác. Nhưng trước vẻ đẹp tinh khiết của
vườn mai, bãi dâu, núi rừng Yên Tử, ông nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn kẻ sĩ hướng
về cái đẹp đầy nghệ thuật. Trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần, nhà văn Trần Thanh
Cảnh thường đặt đấng quân vương vào cuộc chiến sống còn với kẻ thù để ngợi ca
thiên tài quân sự của đức Vương. Nhưng để soi tỏ tấm lòng của đức Vương hiền từ,
đức độ giàu nghĩa tình nhà văn dành nhiều trang miêu tả vẻ đẹp của bãi dâu, bến bờ
sông Thiên Đức mỗi khi đức Vương tìm đến. Chính vẻ đẹp hoang sơ tự nhiên của
những bãi dâu xanh tươi ngút ngàn tít tắp cùng với vẻ đẹp của người thiếu nữ thôn
dã đã thôi miên, níu kéo con người trở về với đời sống bình dị thuần khiết sau khi
họ bị những cơn bão táp lịch sử cuốn trôi sấp ngữa. Một vị tướng trẻ Trần Quốc
Tuấn nức tiếng Đại Việt là văn võ toàn tài bấy năm qua toàn tâm toàn ý lo việc binh
65
đã bắt gặp tình yêu của cuộc đời với người thiếu nữ thanh khiết Quế Lan trong buổi
sáng thanh bình trên nương dâu bên bờ sông Thiên Đức. Tình yêu của họ thêm diễm
tình khi những cây dâu mềm mại ở hai bên luống, chưa kịp hái lá, đan cài với nhau
thành một mái xanh tự nhiên bỗng rung lên dạt dào trong vũ điệu huê tình của họ.
“Họ nằm giữa bờ bãi mà như nằm trong cung vàng điện ngọc. Xung quanh, những
hàng dâu xanh mướt che chở cho đôi tình nhân như những dải lụa gấm thêu trướng
rủ” [15, tr.32]. Những nương dâu bạt ngàn mướt mát sâu thẳm, bất tận ám ảnh mãi,
theo mãi Trần Quốc Tuấn. Khi Vương từ Vạn Kiếp lai kinh rồi quay về, những khi đọc
sách, thưởng trà, hay trước khi chia lìa cõi đời, “Vương lấy miếng ngọc thiên thanh
hình lá dâu để vào quyển sách, chỗ trang đọc dở… Mỗi lần thấy miếng ngọc thiên
thanh kia, Vương nhớ đến bãi dâu nước mát bên bờ sông Thiên Đức năm nào…” [15,
tr.242]. Có thể nói, thiên nhiên tươi mát trong xanh ấy đã điều hòa trạng thái tinh thần
của con người trước thời cuộc để họ sống chân thật hơn, nhân văn hơn.
Thế giới tự nhiên trở thành di sản tinh thần, là biểu tượng trong đời sống nhân
loại khi nó được tri giác với những thông điệp mà nó hàm chứa để mở ra những
chân trời tri nhận cho con người trong hoạt động sống. Từ trong đời sống văn hóa
tộc người đến đời sống triết học, thế giới tự nhiên trong mối quan hệ với xã hội và
loài người luôn gắn kết, soi chiếu, phản thức lên nhau. Con đường kiến tạo hệ biểu
tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam cũng bắt nguồn từ
những nhận thức, kiến giải về tự nhiên và các mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội
loài người theo lăng kính nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử đương đại. Từ những giá trị
bản thể mang tâm thức văn hóa, các nhà văn chắp cánh cho hệ biểu tượng tự nhiên
vẻ đẹp nghệ thuật ngôn từ để qua đó biểu đạt những tâm tư, ý nghĩ, xoáy sâu vào
bản thể bên trong của con người trước thời cuộc, hoàn cảnh đang sống.
Tiểu kết Chương 2
Hệ biểu tượng tự nhiên tự thân nó đã có tính cổ sơ và huyền bí trong nhận thức
của loài người. Các dạng thể biểu tượng tự nhiên hàm ẩn những giá trị riêng biệt
làm thành biểu tượng độc lập trong đời sống văn hoá tộc người. Tính chất liên văn
hóa của hệ biểu tượng tự nhiên thể hiện khá rõ trong nhận thức của nhân loại khi
chúng đi qua các hệ hình tư tưởng, thiết chế văn hóa tộc người khác nhau. Thiên
66
nhiên sẽ trở thành biểu tượng nghệ thuật khi nó không chỉ gọi tên sự vật, hiện tượng
tự nhiên, một hình ảnh của thế giới khách quan, cái cổ sơ vũ trụ mà nó đóng vai trò
là công thức nối kết văn bản, kết nối dòng chảy của lịch sử, dòng đời và dòng
người/hệ thống các nhân vật trong tác phẩm, gắn kết con người và thần linh. Trong
mối quan hệ mật thiết ấy, hệ biểu tượng tự nhiên vừa là những mật ngữ báo hiệu,
tiên đoán về những biến cố, sự kiện sẽ xảy ra và sâu sắc hơn nữa là góp phần phản
ánh, lí giải chiều sâu bản thể con người và xã hội trên các mặt đời sống văn hoá,
tâm linh… Nhìn tổng thể, hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam đã được ý niệm hàm nguyên các giá trị nguyên sơ vừa được mở rộng biên
độ ý niệm các giá trị ấy trong mối quan hệ với con người và tin ngưỡng văn hóa,
phát huy giá trị ấy trong bối cảnh lịch sử-văn hóa, văn học thời kỳ đổi mới.
67
Chương 3
HỆ BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Con người qua cách tiếp cận triết học, văn hoá Tây phương và Đông phương
là rất khác nhau. Nền triết học, văn hoá Tây phương lí giải Con người và các vấn đề
liên quan đến con người từ nguồn gốc tự nhiên và giác độ khoa học tự nhiên. Nhưng
triết học, văn hoá Đông phương lại chú trọng bản tính xã hội và huyền nhiệm. Tuy
vậy, trong một phạm vi nhất định, “con người coi chính mình như một biểu tượng
trong chừng mực y ý thức về sự hiện hữu của mình” (J.E.Cirlot). Nền tư tưởng triết
học, văn hoá Đông phương xem con người là một tiểu vũ trụ. Các giác quan, mỗi
phần cơ thể của con người tương ứng với thế giới vũ trụ cổ mẫu: Trời, Khí, Đất,
Nước, các hướng. Điều thú vị này đã nâng tầm con người thành trung tâm của vũ
trụ, là cầu nối giữa Trời - Đất. Giờ đây, “giữa con người như một cá thể cụ thể và
vũ trụ có một thuật ngữ trung gian - một trung vũ trụ. Và trung vũ trụ này chính là
Con người Phổ quát”(J.E.Cirlot). Kiểu Con người Phổ quát chứa đựng trong mình
một sự sinh sôi toàn vẹn, ngụ ý trong nó những tính cách văn hoá tương ứng với
“vô thức tập thể” về nó. Khái lược về con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam, chúng tôi tìm đến những kiểu tính cách văn hoá: đấng minh quân, anh
hùng dân tộc, kẻ sĩ, nhà cải cách, hồng nhan liệt nữ, đám đông… đây là những biểu
tượng nghệ thuật, những mật mã để nhà văn thể hiện tư tưởng, thái độ, khát vọng về
chốn nhân gian và niềm tri âm của bạn đọc.
3.1. Các biểu tượng đấng minh quân, kẻ sĩ, liệt nữ
3.1.1. Biểu tượng đấng minh quân
Mỗi một hình thái ý thức xã hội sẽ có những kiểu/tuýp con người đặc trưng
tương ứng với nền tảng tư tưởng, văn hoá của xã hội đó. Mô hình xã hội phong kiến
Việt Nam được thiết lập theo không gian văn hóa phương Đông với hệ tư tưởng
Nho học. Mô hình xã hội này có Vua là người đứng đầu, cai quản đất nước, “Vua
tượng trưng cho toàn bộ khuôn mẫu của thế giới biểu hiện, đó là phạm vi toàn vẹn
của những khả thể mở ra cho nhân loại” (J.E.Cirlot). Với mô hình xã hội ấy những
vị vua anh minh, những anh hùng dân tộc là những kiểu mẫu tính cách lí tưởng của
68
xã hội mà nhân dân hướng đến trong niềm ngưỡng vọng, sùng bái. Trong mối quan
hệ với đại chúng nhân dân, họ là biểu tượng cho lẽ sống, niềm tin, trong mối quan
hệ với kẻ sĩ, trí thức họ là biểu tượng cho tư tưởng trọng tài, thân tài, dụng tài khi
xây dựng quốc gia, đại nghiệp.
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam viết về đấng minh quân kiệt hiệt qua
các triều đại phong kiến Việt Nam được sử sách lưu danh không chệch khỏi tiềm
thức văn hóa truyền thống dân tộc. Dẫu ý thức của người cầm bút hôm nay chịu sự
nhiễu động của luồng tư tưởng dân chủ mới, các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại gia cố thêm chất đời tư thế sự để những vĩ nhân là một con người đời
thường trước khi lịch sử gọi tên. Tuy nhiên, không hẳn vì vậy mà hình tượng lịch sử
bị phủ nhận. Tiếp cận tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chúng ta vẫn bắt gặp
ở đó những vĩ nhân như Lý Thường Kiệt, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng,
Quang Trung và nhiều nhân kiệt khác với những phẩm chất điển hình về nhân
nghĩa, trí đức, dũng tín. Họ là “các khuôn mẫu dân tộc hay hình ảnh dân tộc là
những biểu tượng tinh thần tập thể, có quan hệ với các nhóm dân tộc, được diễn đạt
dưới hình thức những bản đúc bằng lời, những xét đoán khuôn mẫu” [116, tr.35].
Họ là biểu tượng nhân sinh cho lẽ sống, niềm tin của đại chúng nhân dân Việt Nam
trải qua các thời kỳ lịch sử dân tộc. Lê Lợi xuất hiện trong bối cảnh loạn ly của đất
nước trở thành đấng cứu tinh của muôn dân, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng trên
hành trình đi tìm “không gian sống cho dân tộc này” luôn sống động trong khát
vọng của nhân dân, dù là người Chăm hay người Việt thì “con dân đất này mừng
vui khi hay tin ngài vào Nam” [87, tr.194].
Chọn lịch sử làm đối tượng nghệ thuật, với tâm thức của người cầm bút thời
đại hội nhập sâu rộng viết về những nhà chính trị, quân sự hàng đầu của các triều
đại phong kiến Việt Nam, các nhà văn “không phải chỉ để bảo lưu kinh nghiệm
nhân sinh mà còn để phát huy giá trị cùng ý nghĩa trọng đại của lịch sử truyền tới
hậu thế căn cứ vào đó mà chỉ đạo tương lai bởi vì lịch sử không phải là một thứ dĩ
vãng chết mà là dĩ vãng đã đúc kết thành tinh thần kiên cố và những sức mạnh “tối
linh” (Forces obscures) vượt khỏi tầm với của lập luận “logique” tầm thường” [91,
tr.15]. Với nhãn quan chính trị nhạy bén trước sự vận động của thời cuộc lịch sử,
69
với tầm nhìn bao quát về đối nội đối ngoại, với khả năng đảm lược trên mặt trận
quân sự, lấy lợi ích quốc gia dân tộc, nhân dân làm trọng… những đấng minh quân,
anh hùng dân tộc đã tạo nên những biến động lịch sử, làm đổi thay vận mệnh dân
tộc theo hướng phát triển. Chính họ đã tạo lập vị thế vững mạnh của đất nước trong
thời đại của mình. Viết về triều Trần, nhà văn Hoàng Quốc Hải không chỉ viết về
những vị tướng tài ba như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật…
mà còn chú ý khắc hoạ chân dung cao đẹp của những vị vua Trần Thái Tông, Trần
Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông nhằm đề cao,
khẳng định vai trò vị trí của họ trong đời sống xã tắc Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông
sáng ngời những phẩm chất cao đẹp nhất không chỉ trên mặt trận quân sự, ngoại
giao mà ngay việc xử lí những mối quan hệ đời thường trong dòng tộc. Trước tình
thế mối quan hệ giữa Đại Việt và phương Bắc “căng như dây đàn”, Trần Nhân Tông
vẫn phải căn dặn dù “sao vẫn phải giữ gìn quốc thể” [40, tr.79]. Trong mối quan hệ
với Chiêm Thành, ông chủ trương giãn hoà bằng chiếc cầu nhân duyên Huyền Trân
- Chế Mân. Trong nội bộ hoàng tộc, ông nhận ra mối mâu thuẫn dai dẳng giữa các
tôn thất là mối nguy hại cho dân tộc nên ông nêu ra quan điểm phải gỡ bỏ các thứ tư
riêng hiềm oán để nhập vào đại cuộc của quốc gia dân tộc, đoàn kết một lòng vì
quốc gia dân tộc may ra mới giữ được nước.
Vai trò, tài năng, phẩm đức của đấng minh quân, anh hùng dân tộc không chỉ
được soi sáng qua mối quan hệ tương tác với kẻ đối nghịch mà còn biểu hiện qua
các mối quan hệ với nhân dân và tầng lớp nhân sĩ trí thức, bởi dân là gốc, “dân có
thể chở thuyền và cũng có thể lật thuyền”, bởi trí thức là lực lượng cách mạng nhất
trong đại chúng nhân dân. Đối với nước với dân, các đấng minh quân canh cánh nỗi
lòng quốc thái dân an. Trong suy nghĩ và hành động, họ chú tâm thực hiện đạo
“trung với nước, hiếu với dân”, họ luôn lấy yên dân làm gốc. Tư tưởng yên dân thể
hiện qua chính sách trị vì thiên hạ của các bậc thánh nhân. Trong Thiền sư dựng
nước, nhà văn Hoàng Quốc Hải đã tái dựng hình tượng nhà vua Lý Thái Tổ gắn liền
với các chính sách mang lại lợi ích cho nhân dân. Lý Thái Tổ phá bỏ những hình
luật hà khắc như ném người vào vạc dầu, nhốt tội nhân vào chuồng hổ báo, hay đẩy
tội nhân xuống hầm rắn độc… Trong mười tám năm trị vì thiên hạ, Lý Thái Tổ ba
70
lần xuống chiếu miễn tô thuế ruộng đất cho dân chúng nhằm làm cho nhân dân có
cái ăn cái mặc. Vị vua khai nghiệp nhà Lý cho ban hành luật pháp với quan điểm
“Chớ có soạn luật văn chỉ có lợi riêng cho ta và các khanh mà thiệt hại cho trăm
họ, thì đấy sẽ là đầu mối của mọi sự bất công… Lợi quyền của ta và chư khanh phải
hoà đồng vào lợi quyền của bách tính” [47, tr.174]. Vua Lý Thái Tông nối ngôi cửu
trùng cũng rất coi trọng việc nông trang. Nhà vua đã tìm ra phương pháp dệt gấm,
tự cày ruộng để làm gương cho dân… Viết về triều Lê, các nhà văn cũng chú ý xây
dựng hình tượng Lê Lợi anh minh. Trong tác phẩm Thị Lộ chính danh (Võ khắc
Nghiêm), sau khi đánh đuổi giặc Minh, Lê Lợi cho thực thi ngay nhiều chính sách
nhằm khoan thư sức dân, sức lính, làm cho “dân cày có ruộng” để họ yên tâm sản
xuất. Ông bắt tay sắp xếp lại bộ máy chính quyền gồm ba Bộ: Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ
Dân. Trong đó Bộ Dân thay Bộ Hộ; Sắp xếp lại các đơn vị hành chính địa phương,
xóa bỏ Bộ Hình. “Việc Hình thì giao cho Phủ, Huyện xử theo đúng các điều luật
nghiêm ngặt, trừ án tử phải xin chiếu vua ban. Riêng các quan trong triều phạm tội,
tùy người, tùy việc vua sẽ bảo quan khâm sai điều tra xét xử” [104, tr.140]. Không
những vậy, Lê Lợi ban bố Luật Bình Điền, “chia ruộng đất cho mọi người không
phân biệt quan hay dân, khỏe hay yếu. Chỉ những khanh tướng, công thần được vua
ban thưởng ruộng đất nhiều hơn và những hào phủ có công khai phá đất hoang
trang trại, còn lại đất công điền, công thổ chia theo nhân khẩu” [104, tr.141]. Tư
tưởng yên dân còn được các minh quân thể hiện qua đường lối đấu tranh quân sự và
ngoại giao đối với lân bang. Đối với thế lực các triều đại phong kiến phương bắc
lớn mạnh, các đấng minh vương thường sử dụng hoà hiếu để xây dựng nền thái bình
vững bền cho dân tộc. Sau khi “trói giặc mà đánh”, chặn đường tiếp viện, cô lập
Vương Thông, thế giặc như kiến trong chảo, quân ta thế mạnh chẻ tre, Lê Lợi vẫn
mở “Hội nghị Diên Hồng” nhà Lê với chủ trương tạo hoà hiếu giữa hai dân tộc, để
nhân dân được nghỉ sức, tránh đổ máu xương tan. Về lẽ này, trong tác phẩm Sông
côn mùa lũ, Quang Trung từng nói với Ngô Thì Nhậm nhà Thanh “là nước lớn gấp
mười nước mình, sau khi bị thua trận thế nào cũng hổ thẹn nên cố báo thù. Nhưng thế
thì việc binh đao không bao giờ dứt, thật không phải phúc cho dân. Lòng ta không nỡ
làm vậy” [36, tr.1361]. Có thể thấy Quang Trung ý thức rõ sức người, sức ta, muốn
71
chấm dứt binh đao chiến trận với nhà Thanh để dân yên. Trong chính sách về nông
nghiệp, Quang Trung cũng thấu hiểu nỗi thống khổ của bách tính, ông hiểu họ cần gì
cho cuộc sống của mình nên khi đăng ngôi Hoàng đế, ông cho ban Chiếu khuyến nông
nhằm khuyến khích mọi người dân tham gia lao động sản xuất, phát triển nông nghiệp.
Tính cách xã hội của dân tộc Việt là anh hùng. Tính cách đó được hình thành
từ trong môi trường văn hóa tự nhiên - xã hội vừa phải chống chọi với thiên nhiên
khắc nghiệt vừa phải đấu tranh để tồn tại trước sự xâm lăng, đồng hóa của thế lực
phương Bắc và các lân bang khác trong suốt chiều dài lịch sử. Vậy nên, đấng minh
quân, anh hùng dân tộc trong tâm thức của người Việt không phải là đấng cứu thế
siêu nhiên mà là con người, chủ thể của xã hội, tài giỏi võ văn, tha nhân đức độ dẫn
dắt soi đường cho dân tộc. Những bậc vĩ nhân ấy có thể được nhân dân thánh hóa,
huyền thoại hóa, làm nên tín ngưỡng thờ cúng sùng bái, họ trở thành biểu tượng
nhân sinh trong nhận thức của nhân dân. Những anh hùng hào kiệt, đấng mình quân
với tài năng thao lược về chính trị, quân sự, đối nhân, xử thế đã làm nên biểu tượng
quyền lực về ba chữ Tài - Tâm - Tầm của người lãnh đạo trong công cuộc xây dựng
đất nước trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Tư tưởng làm nên tính cách. Những người
có tư tưởng bảo thủ, vị kỉ cá nhân, cục bộ địa phương, gia đình thì sẽ có tầm nhìn
ngắn và không những không lập danh mà còn làm phương hại đến quốc gia, dân
tộc. Một đấng minh quân trong thiên hạ cần phải thoát khỏi những tư tưởng tầm
thường, vụn vặt mới tạo được lẽ sống, niềm tin cho nhân dân.
Trong công cuộc dựng nước và giữ nước, nguồn nhân lực kẻ sĩ, trí thức có vị
trí, vai trò vô cùng quan trọng. Một đấng minh quân nắm quyền điều hành đất nước
cần nhận thức đúng đắn giá trị của kẻ sỉ và trọng dụng họ trong đại nghiệp. “Hiền
tài là nguyên khí quốc gia”, là nguồn nhân lực chất lượng cao trong mọi cuộc cách
mạng xã hội. Trước thời cuộc loạn li, sức mạnh của võ biền chưa chắc cứu được
bản thân chứ đừng nói gì đến trọng trách gánh vác giang sơn xã tắc. Những thiệt hại
nặng nhẹ, những thành bại của các cuộc chinh phạt đều xuất phát từ trí khôn nhân
loại mà kẻ sĩ là tầng lớp đại diện tiêu biểu. Do vậy, chính sách về giáo dục và đào
tạo luôn nhận được sự quan tâm đầu tư đặc biệt. Các triều đại phong kiến Việt Nam,
đặc biệt là nhà cầm quyền rất coi trọng tầng lớp kẻ sĩ. Trong tác phẩm Thiền sư
72
dựng nước, minh quân Lý Thánh Tông từng coi “Việc mở trường học và thi cử ở
nước ta là nhằm vào người khai trí cho người mình một cách có quy củ, có hệ
thống, có luật chặt chẽ. Như thế mặt bằng dân trí sẽ được nâng lên, theo đó mặt
bằng quan trí sẽ được nâng lên” [47, tr.292]. Nối tiếp quan điểm ấy, trong tác phẩm
Bão táp cung đình, Trần Thủ Độ đã nhận thức rõ “Kẻ sĩ không gì có thể kìm giữ họ
được. Uy vũ ư, không bao giờ khuất phục nổi họ. Danh vọng, phú quý chăng, họ coi
không bằng chiếc dép cỏ. Điều bọn này khả dĩ chấp nhận, ấy là lòng chân thực và
sự tôn kính” [40, tr.46]. Vì biết được chỗ mạnh yếu, ương gàn của kẻ sĩ mà Trần
Thủ Độ gìn giữ mối quan hệ trong sáng như toà lâu đài đối với Hoàng tiên sinh. Đối
với Lê Lợi, Quang Trung, buổi đầu dựng nghiệp vì mến nghĩa, dựng cờ tụ tập binh
sĩ nhưng càng ngày càng ý thức rõ vai trò của kẻ sĩ và trọng dụng họ trong các cuộc
chinh chiến binh lược cũng như khi giang sơn hòa bình, thịnh trị. Lê Lợi xem “bốn
nho sĩ Bắc Hà không hẹn mà gặp, không vời mà có khác nào con mắt của ông vậy”
[148, tr.136]. Lê Lợi biết mình không làm mấy kẻ sĩ Bắc Hà thán phục liên tài về thi
thư chữ nghĩa nhưng ông “đủ bản lĩnh để cho họ chẳng những không dám coi
thường mà còn coi ông như một minh chủ huyền thoại đáp ứng được niềm tin mà họ
đã đánh mất” [148, tr.133]. Chính tư tưởng biệt đãi nhân tài khiến cho Nguyễn Trãi
phải thốt lên đầy thán phục Lê Lợi “là một con người lỗi lạc, ít học nhưng biết
trọng dụng người có học” [148, tr.155]. Cũng như Lê Lợi, Nguyễn Huệ sau khi
xưng đế, ông sai Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền với khát khao tuyển mộ nhân
tài giúp ông. Những nhân sĩ nổi tiếng như Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Thì
Nhậm, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã tìm đến giúp ông xây dựng đại nghiệp.
Một trong những kế sách trị vì đất nước hướng đến xã hội thống nhất, ổn định
lâu dài là coi trọng và tập hợp được nhân sĩ, trí thức. Đấng minh quân không chỉ
biết cách thu phục kẻ sĩ mà còn biết đánh giá đúng tài năng để sử dụng họ. Mỗi trí
thức xã hội là một nhân cách tài năng khác biệt. Đọc được suy nghĩ của bề tôi, bằng
uy minh của mình để giải hòa các mối quan hệ giữa các trí thức nhằm tập hợp sức
mạnh là nghệ thuật lãnh đạo. Trong tác phẩm Hội thề, nhà văn Nguyễn Quang Thân
tập trung khắc họa mối quan hệ giữa minh chủ và trí thức xã hội, cụ thể là nho sĩ
Đông Quan. Ở tác phẩm này, trong vai trò của đấng minh quân, Lê Lợi nhận xét
73
“Bọn Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn khác với tướng sói nanh vuốt của ông là tài
họ cao, kiến văn họ rộng… Cái tài ấy gây ra tị hiềm với các tướng lĩnh nhiều võ
công của đất Bái… Ông hơn bọn họ ở chỗ thấu hiểu và biết dùng cái giá trị và cả
cái vô gí trị của kẻ thất học” [148, tr.155]. Trong tác phẩm Sông côn mùa lũ của
Nguyễn Mộng Giác, hình tượng Quang Trung xuất hiện trước thời đại lịch sử không
chỉ là nhà quân sự tài ba, lãnh đạo nghĩa quân bách chiến bách thắng qua các trận đánh
mà còn là một con người biết nhận định, phân tích đúng vai trò của từng loại nhà nho.
Nếu ông đề cao Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, La Sơn phu tử Nguyễn
Thiếp… thì ông cũng mạnh dạn lên án, phê phán đám nhà nho thủ cựu ngu trung cố
chấp sẽ “bị đào thải vì không theo kịp các biến động quá nhanh xảy ra trước mắt” [36,
tr.477], trong số nhà nho ấy có Nguyễn Đăng Trường và thầy giáo Hiến.
Đấng minh quân khác một bạo chúa. Mô hình xã hội do đấng minh quân kiến
tạo không phải là kết quả của một cá nhân thiết kế và mọi người khuôn rập theo, kẻ
nào cúi đầu phò rập thì được trọng dụng, kẻ nào phản biện, nói trái ý thì bị triệt hạ,
đầy đọa. Đấng minh quân không chỉ có tài năng thiên bẩm về chính trị, quân sự mà
biết lắng nghe những phản biện từ những thành viên trong xã hội, dù đó là thuộc hạ
thân tín hay đến những người thứ dân, binh lính bình thường, dù đó là những ý kiến
hợp lòng hay trái chiều. Khi chấp nhận được sự thật dẫu nghiệt ngã của đời sống xã
hội, bậc minh quân sẽ biết cách ứng vạn biến phù hợp trước thời cuộc. Như Nguyễn
Hoàng đã luận giải “Minh sư của ta. Không chỉ có nhiều người gần gũi ta, những
người nói điều phù hợp với lòng ta mà ngay cả những người nói điều trái ý ta, cả
những người muốn hại ta, kẻ thù của ta, họ đều là những bậc thầy sáng suốt của ta,
ta tri ân họ vì họ dạy ta nhiều điều” [87, tr.439]. Lịch sử xây dựng và bảo vệ đất
nước Việt Nam từ cổ đến kim đã chỉ ra mối quan hệ quyết định đến sự hưng vong
của triều đại, của dân tộc đó là mối quan hệ giữa bộ máy chính quyền cai trị với
tầng lớp trí thức, cốt lõi của mối quan hệ này là chính sách trọng dụng nhân sĩ trí
thức, tôn trọng và lắng nghe những phản biện xã hội của nguồn nhân lực ưu tú này.
Lịch sử vàng son của dân tộc Việt Nam được đánh dấu bằng những sự kiện
làm rung chuyển xã hội bao giờ cũng gắn liền với các nhà lãnh đạo anh minh. Từ
“Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập”, đại nghiệp của quốc gia dân tộc
74
Việt Nam đều gắn kết mật thiết với những hào kiệt, những vĩ nhân, những nhà lãnh
đạo kiệt xuất mang khát vọng của nhân dân. Đại nghiệp của họ thành công bởi vì họ
dùng Nhân Tâm để thu phục Nhân Tâm, dùng Nhân Tài để ban hành và thực thi
chính sách chứ không hô vang những khẩu hiệu lí tính. Lịch sử chọn họ là đấng
minh quân, anh hùng dân tộc, trách nhiệm của họ là chăm lo cho nhân dân được
hạnh phúc, “cứ xem lòng dân thì sẽ đoán được vận nước” [42, tr.274]. “Lịch sử có
quyền tự lặp lại, nhưng không bao giờ trên cùng một cấp độ, nhất là những sự kiện
được bàn đến có một tầm quan trọng mang tính lịch sử, và khi chúng có khả năng
gây một ảnh hưởng lâu dài đến xã hội” [70, tr.31] vậy nên, khi viết về đấng minh
quân, anh hùng dân tộc, các nhà văn đề cao giá trị tư tưởng thân dân - trọng dân - vì
dân, tư tưởng tôn tài - trọng tài - dụng tài trong đường lối lãnh đạo công cuộc xây
dựng đất nước của bộ máy chính quyền, của những kẻ cầm quyền.
3.1.2. Biểu tượng kẻ sĩ, nhà cải cách
Kẻ sĩ là một lực lượng xã hội có thang bậc giá trị đặc biệt. Theo quan điểm
Đông phương, kẻ sĩ là những người có đạo đức, có kiến thức, có lí tưởng, có trách
nhiệm phụng sự tha nhân. Theo Paul Alexandre Baran (một kinh tế gia và cũng là
một học giả nổi tiếng Hoa Kỳ), trí thức là người “lao động về trí óc”, ngoài yếu tố
kiến thức ra, người trí thức còn là người hội đủ các yếu tố (1) Trung lập về đạo đức;
(2) Khao khát chân lí; (3) Tôn trọng sự thật; (4) Trí thức còn là người phê phán xã
hội. Quan niệm về kẻ sĩ và trí thức như trên có điểm tương đồng nhau. Nói đến kẻ
sĩ, trí thức là nói đến những người có tư chất thông minh, học vấn cao, tri thức rộng,
họ là những người đem sự hiểu biết của mình cống hiến cho nhân dân, dân tộc và
tiến bộ xã hội. Trong tâm thức văn hoá dân tộc Việt, thang bậc giá trị xã hội của kẻ
sĩ, trí thức sau vua: Quân - Sư -Phụ hoặc xếp đầu trong các ngành nghề xã hội: Nhất
sĩ nhì nông hay Sĩ - Nông - Công - Thương. Học vấn tri thức là nền tảng của mọi
nghề nghiệp. Sự vong hưng của một đất nước một phần do ý thức tôn trọng nền học
vấn và trí thức mà ra. Dưới nhãn quan chính trị, kẻ sĩ, trí thức là một giai tầng, một
quyền lực. Thái độ chính trị của họ chi phối rất lớn đến việc thiết lập các cơ chế
hoạt động, chính sách xã hội của bộ máy công quyền. Kẻ sĩ, trí thức có phẩm đức
chính nghĩa, không chịu làm tay sai cho các thế lực chính trị. Họ sử dụng hiểu biết
75
của mình như một quyền lực thực hiện chức năng phản biện xã hội, phê phán xã hội
và truy tìm chân lý. Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa trí thức với thế lực
cầm quyền thường xảy ra các chiều hướng hoặc hoà hợp hoặc phụ thuộc hoặc mâu
thuẫn bởi khả năng dung hoà của nhau về quyền lực chính trị, lợi ích vật chất, khát
vọng canh tân đất nước...
Kẻ sĩ, nhà cải cách- biểu tượng nguồn nhân lực vĩnh hằng mà bất kỳ chế độ
chính trị, nhà nước, đảng phái nào cũng cần đến họ. Hẳn các nhà văn khi viết về họ
sẽ gởi gắm nhiều thông điệp cho đời sống nhân sinh. Trước khi bàn về biểu tượng
kẻ sĩ, nhà cải cách trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chúng ta cũng cần
điểm lược đôi nét về hình tượng này qua các thời kỳ văn học. Thực tế sáng tác văn
học đã chỉ ra rằng, hình tượng kẻ sĩ, nhân sĩ, hay là trí thức xã hội đã là một đề tài
lớn, xuyên suốt trong đời sống văn học nghệ thuật. Đối với nền văn học viết Việt
Nam, từ văn học trung đại đến hiện đại và văn học thời kỳ đổi mới, các nhà văn
luôn dành những trang viết tâm huyết viết về mẫu hình nhân cách này. Kẻ sĩ trong
văn học trung đại Việt Nam luôn là những nhà nho mẫu mực, mẫn cán với công
việc, dù xuất thế hay nhập thế, họ vẫn giữ tiết Nho thanh sạch. Bất mãn với triều
đình, thời cuộc, họ hoà mục với thiên nhiên, “chơi ngông” tài tử. Khi xã hội Việt
Nam có sự dịch chuyển về mặt cơ cấu, hình thành nên những trí thức mới, hình
tượng kẻ sỉ trong văn học cũng có nhiều biểu hiện biến chuyển theo thời đại. Những
nho sĩ quý tộc cuối mùa trong tác phẩm của Nguyễn Tuân lại bất mãn với thời cuộc,
họ đắm say thú chơi tao nhã, lãng mạn như thưởng trà, uống rượu. Những trí thức
trong các tác phẩm của Nam Cao luôn phải rơi vào bi kịch giữa khát vọng viết văn
chân chính với sự giành giật của cái đói và miếng ăn. Hình tượng người trí thức
Thăng Long trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng lịch sự, hào hoa, mang lý tưởng
khát vọng thời đại. Kẻ sĩ trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam dù muốn hay
không, dù cố tình dấn thân hay bị ép buộc bởi hoàn cảnh và nhà cầm quyền thì kẻ sĩ
đều bước vào con đường chính trị, gắn bó với công việc triều chính và bộ máy cầm
quyền cai trị giang sơn xã tắc. Dĩ nhiên mọi việc xảy ra đều có nguyên do của nó.
Thứ nhất: do chế độ khoa cử học để làm quan, càng học giỏi, càng đỗ đạt cao thì
càng được giới cầm quyền sử dụng; Thứ hai: tinh thần đạo đức Nho học là “đoàn
76
kết quốc dân, bảo vệ giang sơn mang trách nhiệm tâm cực lớn phấn đấu cho lợi ích
bình dân” [91, tr.42]. Dưới nhãn quan của các nhà văn, kẻ sĩ, trí thức xã hội qua các
thời kỳ lịch sử hiện lên dáng vẻ riêng trước thời cuộc. Họ là nguồn nhân lực quan
trọng, có đóng góp lớn cho sự phát triển của xã hội và đáng được trân trọng.
Trở lại vấn đề biểu tượng kẻ sĩ, nhà cải cách. Đã gọi kẻ sĩ, nhà cải cách là một
biểu tượng nghĩa rằng, họ là một hình ảnh kiểu mẫu với những giá trị về trí thông
minh, kiến thức uyên bác trong tương quan với các giai tầng khác và toàn thể xã
hội. Họ có vị thế xã hội đặc biệt, có đóng góp lớn trong công cuộc kiến thiết, xây
dựng đất nước. Bất kỳ một thế lực cầm quyền, một chế độ chính trị, một dân tộc
quốc gia nào cũng cần đến những kẻ sĩ chính danh quân tử, kẻ sĩ thức thời canh tân,
bởi họ luôn là nguồn lực có vai trò tiên quyết sử dụng và vận hành các nguồn lực xã
hội khác trong quá trình phát triển. Hẳn nhiên việc chiêu hiền đãi sĩ luôn là kế sách
quan trọng trong chiến lược trị vì thiên hạ, điều hành đất nước của các thế lực cầm
quyền. Trong tiểu thuyết Bão táp cung đình của nhà văn Hoàng Quốc Hải, Thái sư
Trần Thủ Độ đã ý thức rõ tầm quan trọng của kẻ sĩ. Theo ông, “Kẻ nắm giữ trọng
trách quốc gia, mà để cho người tài đức phải bỏ nước ra đi, ấy là sự phỉ nhổ, sự
khinh thị của họ đối với bộ máy nhà nước… đó là một vết nhơ, một sự nhục mạ”
[40, tr.342]. Trong công cuộc phục dựng triều Trần, kẻ sĩ thức thời canh tân Hồ Quý
Ly luôn là người được các vua Trần coi trọng. Ông can dự vào việc triều chính với
vai trò tham mưu xây dựng các chính sách phát triển đất nước. Chỉ tiếc rằng, các
vua Trần thời mạt vận nhận thấy tài năng của Hồ Quý Ly nhưng không đủ bản lĩnh
trọng dụng và triển khai thực thi các chính sách Hồ Quý Ly tham mưu. Chưa bàn
đến sự thất bại của nhà Hồ sau này, chúng ta vẫn thấy được quan điểm hết sức đúng
đắn của Hồ Quý Ly về kẻ sĩ. Vì lẽ “vua là người cầm đầu kẻ sĩ trong thiên hạ, sử
dụng kẻ sĩ, điều hành kẻ sĩ, nếu không phải là một kẻ sĩ, thì đó là điều bất hạnh cho
dân. Biết tôn trọng một kẻ sĩ làm thầy mình, làm bạn mình, điều đó chỉ có được ở
một ông vua mắt biếc” [77, tr.682]. Với Lê Lợi, một trong những điềm phúc lành
của ông khi khởi nghiệp chính là được gặp và trong dụng các nhân sĩ Đông Quan.
Ông xem “bốn nho sĩ Bắc Hà không hẹn mà gặp, không vời mà có khác nào con
mắt của ông vậy” [148, tr.136]. Với Quang Trung, trên đường tiến quân chinh phạt
77
phía Bắc, ông đau đáu tâm can làm thế nào để thu phục nhân sĩ Bắc Hà giúp rập
mình. Rất nhiều lần ông sai bề tôi tìm mời các nhân sĩ Nguyễn Thiếp, Trần Văn Kỷ
ra làm quan, giúp ông xây dựng đất nước. Và sau khi bình định được mạn Trung,
mạn Bắc của Đại Việt, ông ra Chiếu cầu hiền với mong muốn tập trung được nhiều
người tài trí giúp đỡ mình. Xét đến cùng, bên cạnh tài năng quân sự thiên bẩm, Lê
Lợi, Quang Trung thành công trong đại nghiệp phần lớn nhờ vào tầng lớp nhân sĩ
thức thời lúc bấy giờ. Lật lại những trang tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
viết về đại nghiệp của các đấng minh quân, anh hùng dân tộc như Trần Thủ Độ, Lê
Lợi, Quang Trung… chúng ta thấy các nhà văn luôn khai thác mối quan hệ của họ
với nhân sĩ trí thức. Khi mối quan hệ ấy đạt đến sự đồng thuận thì đại nghiệp tất
thành. Và ngược lại, sự mâu thuẫn, nghi ngờ giữa họ sẽ tạo ra những khoảng cách,
những dang dở. Trải nghiệm lịch sử với tâm thức “tri cố vi kim”, các nhà văn nêu
lên thông điệp có giá trị bất biến là nếu nhà cầm quyền phủ nhận vai trò của kẻ sĩ,
phớt lờ những phản biện của họ là đi ngược với chiều hướng phát triển của lịch sử.
Mỗi kẻ sĩ là một thân phận trong xã hội. Trước thời đại lịch sử mà mình đang
sống, họ có cách chọn lựa xuất xử khác nhau, ứng vận phù hợp để những mong đem
tài trí hiểu biết phụng sự đại nghiệp vì cái tôi chính trị hay cái tôi cá nhân. Có những
kẻ sĩ vi quân vị liễu bất vi thân, họ chủ động tìm đến minh quân và dấn thân trên
chốn quan trường, tham gia vào bộ máy chính quyền thực hiện đạo vua tôi, “trung
quân ái quốc”, “trí quân trạch dân”. Có những kẻ sĩ bị ràng buộc vào chính trị bởi
quyền lực, họ miễn cưỡng chấp nhận đến với chốn quan trường. Cũng có những
trường hợp như thầy giáo Hiến - thầy dạy học Nguyễn Huệ, bám riết lấy chữ trung,
để rồi không theo kịp chuyển biến của thời đại do học trò mình khởi xướng nên
đành bị thời đại bỏ rơi; hay là Nguyễn Hữu Chĩnh cơ hội, từ bỏ chữ trung với Lê,
Trịnh, chạy theo kẻ mạnh Nguyễn Huệ, cùng lập chiến công khi Nguyễn Huệ tiến
quân ra Bắc nhưng lại bị bỏ rơi giữa kinh thành Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh sợ
các thế lực Lê, Trịnh trả thù nên tìm đường thoát thân vào Nam theo Nguyễn Huệ;
có kẻ sĩ thức thời cơ hội chỉ có giá trị lợi dụng, vì nham hiểm khó lường, đó là kẻ
thù đáng gờm mà Nguyễn Huệ cảnh báo, cẩn trọng nhất. Ông từng nói về ba kẻ thù:
“bọn lưu manh vô lại, bọn thủ cựu cố chấp, và bọn cơ hội. Trong số này, bon cơ hội
78
là kẻ thù nguy hiểm nhất. Vì chúng thông minh hơn bọn vô lại ngu dốt, lại giỏi nịnh
nọt luồn cúi hơn bọn cố chấp hẹp hòi. Chúng đổi màu da theo hoàn cảnh như da tắc
kè, lại được việc. Khó phân biệt được bọn cơ hội ấy với những kẻ thiện chí và có lí
tưởng. Nguy hiểm là chỗ đó” [36, tr.792]. Tuy nhiên, bản thể nhân cách của phần
lớn nhân sĩ trí thức được đề cao trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đó là
tiên vi dân hậu vi thân. Điều này thể hiện rõ qua hành vi, suy nghĩ của họ khi ra làm
quan cũng như trong cuộc sống thường nhật gần gũi nhân dân. Nguyễn Trãi luôn
lấy chữ Nhân, chữ Nghĩa làm gốc cho hành động của mình. Khi làm quân sư cho Lê
Lợi trong chiến tranh cũng như sau khi đánh thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi luôn lấy
yên dân đặt lên hàng đầu. Trong chiến trận, ông chủ trương hoà hiếu dân tộc, lấy
“chí nhân để thay cường bạo” nhằm tránh cảnh nhân dân đầu rơi máu chảy. Ông
từng nói: “lấy máu rửa máu thì bao nhiêu cho đủ? Đông Quan không chỉ phải sạch
bóng giặc mà phải là kinh đô Đại Việt vạn cổ thái bình. Nếu xua được giặc đi mà
dân chết, dân khổ, kinh kỳ thành phế đô thì đó không phải là ý muốn” [148, tr.77].
Nguyễn Du, một nhân sĩ bị ép phải tham gia chốn quan trường cũng một lòng vì
nhân dân. Ông đau đớn giằng xé tâm can vì cảnh dân tình đói khát, bị bọn cường
hào ức hiếp mà không có cách nào giúp dân được. Ông nhìn thấy “đời là bể khổ
nhưng sao những người dân hiền lành lại khổ đến nông nổi này?” [130, tr.140].
Đêm trước khi nhận chức tri huyện Phù Dung, Nguyễn Du thao thức khá lâu về
công việc mà mình đảm nhận. “Ngày mai bắt đầu ngày của một viên quan tri huyện
quèn, tri huyện Phù Dung. Dân tình qua bao năm chiến tranh chắc khổ nhiều. Liệu
mình có làm được gì hay là tất cả lại trở thành phù du” [130, tr.25]. Rồi khi làm
Cai bạ Doanh Quảng Bình, giỏi lắm ông cũng chỉ cứu được dân trước tình thế cấp
bách, sẵn sàng mở kho thóc cứu đói chứ không cứu được thời cuộc. Ông bất lực
trước nhà cầm quyền, xót xa trước tình cảnh “dân tình khốn khổ điêu linh, muốn
làm tốt cũng không làm được, cường hào, ác bá, quan trên quan dưới sẽ xâu xé
mình” [130, tr.44]. Vạn thể bất đắc dĩ dụng! Một Hồ Nguyên Trừng tài trí thông
minh, sinh ra gặp buổi loạn lạc, là con cả của quan Thái sư và sau này là Hoàng
thượng Hồ Quý Ly, ông vẫn dửng dưng với công việc triều chính do cha ông khổ
tâm, lầy óc lập nên. Ông không phản đối việc cha làm và cũng không ủng hộ. Ông
79
có cái nhìn thông cảm với cha trên con đường tiếm ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ.
Trước sự hỗn loạn xô bồ của đại cuộc, ông chạy trốn thực tại bằng thú vui thưởng
hoa điểm nguyệt, cầm kỳ thi hoạ. Hay đó là thân phận kẻ sĩ Hồ Quý Ly, xét ở giác
độ lịch sử chính biên như lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký toàn
thư là “Quý Ly đến đây tội ác quá nhiều lắm rồi” như chiếc đinh đóng chặt những
định kiến lịch sử vào Hồ Quý Ly. Nhưng thức nhận lại lịch sử, nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh chiêu tuyết cho Hồ Quý Ly khi lật lại giá trị lịch sử từ biến pháp canh
tân cũng như sự thất bài nhanh chóng của nhà Hồ với tinh thần “Hồn nước mới là
chính yếu” [77, tr.635], đánh giá thành bại có khi hàng mấy trăm năm sau. Nguyễn
Xuân Khánh tạo tác lại mẫu hình Hồ Qúy Ly như là biểu tượng của nhà cách tân
mang tầm vóc thời đại. Về sau, những vị vua anh minh như Lê Lợi, Quang Trung
cũng rất quan tâm và đề ra nhiều chính sách có lợi cho dân, cho nước như “Luật
Bình Điền”, “Chiếu cầu hiền”, “Chiếu khuyến nông” và nhiều chính sách khác
tương tự được người đời ngợi ca. Mọi tư tưởng canh tân đất nước đều xuất phát từ
nhu cầu thực tế, chỉ có những người tài giỏi mói phát hiện ra và tận dụng được. Tư
tưởng canh tân đất nước, chấn hưng dân tộc của Hồ Qúy Ly diễn ra ở thế kỷ XIV
không chỉ là tư tưởng của một thời đại mà là bài học lịch sử sâu sắc trên con đường
xây dựng bảo vệ đất nước.
Bàn về bản thể cách của nhân sĩ trí thức trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam, chúng ta không thể không nói đến tính chất lý tưởng hoá về một trật tự
xã hội tốt đẹp của họ. Chính sự lý tưởng hoá này đã vấp phải một thực tế phũ
phàng, nhiều nghịch lý, nhân sĩ trí thức rơi vào bi kịch cô đơn và cô độc trước thời
cuộc. Nguyễn Trãi dấn thân vì minh chủ Lê Lợi và đại cuộc nhà Lê là thế nhưng
vẫn cô đơn và cô độc. Ông luôn là khách giữa đám quần thần tướng lĩnh của một
triều đại đang bắt đầu sửa soạn ngôi thứ. Họ là người nhà, còn ông là khách, mãi
mãi là khách. Giữa ông và đám võ biền Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn là một khoảng
cách không thể xoá lấp. Nguyễn Quang Thân đã kéo giãn khoảng cách ấy ra khi để
Nguyễn Trãi chỉ biết tìm tri kỉ là Thái Phúc, một hàng tướng của nhà Minh trước
nghĩa quân Lam Sơn và chỉ có Nguyễn Thị Lộ mới là người tâm giao tri nhận ra
“Con người trong sáng nhường ấy, đức độ tài năng nhường ấy mà sao cô đơn đến
80
vậy? Chàng là cả một thế giới cô đơn!” [154, tr.161]. Về con người cô đơn,
Nguyễn Du cũng vậy. “Bốn năm ở chốn triều đình, bốn năm ở bên ngoài, Nguyễn
cảm thấy một mình ta cô độc giữa triều đình. Không theo phái nào, không dựa vào
ai, không khen ai, không chê ai, không gây sự với ai” [130, tr.146]. Nhiều lúc ông
tự vấn “Thân phận mình ra sao giữa đất trời này? Từ một thằng tù, một viên thơ lại
trở thành một phụ mẫu chi dân của một doanh giờ chỉ thành một tên cai phu khuôn
vác ư?” [130, tr.140]. “Còn Hoàng thượng có rộng lượng hay không thì chưa rõ.
Cái điều rõ nhất là ngài không tin tưởng chính ta” [128, tr.23]. Cả Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du trong hoàn cảnh cụ thể cũng đều ngờ vực về đấng hoàng thượng mà
mình đang phụng sự. Có thể nói, tính chất lí tưởng của nhân sĩ trí thức đã vấp phải
thực tại tàn khốc, chân lí của một người thì làm sao chống lại cái hư nguỵ của đám
đông quyền lực? nên họ rơi vào bi kịch không lối thoát.
Dưới nhãn quan các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, mối quan hệ
giữa nhân sĩ trí thức và thế lực cầm quyền hoặc hài hoà hoặc phụ thuộc hoặc mâu
thuẫn đối nghịch nhau. Khi “chính trị là một sự nghiệp thực tại tàn nhẫn và cam go,
vận dụng trí thức để giải quyết bế tắc sinh hoạt xã hội, dọn quang chướng ngại trên
đường đi của lịch sử” [92, tr.55] thì mối quan hệ này chắc chắn là mâu thuẫn đối
nghịch nhau. Nhân sĩ trí thức luôn hướng đến Chân - Thiện - Mỹ nên họ không chịu
khom lưng quỳ gối trước quyền lực. Họ dùng cái Tâm để đối xử với đời, chính điều
này, trước chốn quan trường đầy tàn bạo, họ trở thành lực lượng đối nghịch, kẻ thù
không đội trời chung với bọn cường quyền, nhất là những kẻ cậy quyền thế, danh
gia vọng tộc nhưng bất tài. Dù đó là Nguyễn Trãi - Tam Nguyên Yên Đỗ lập danh
chốn quan trường hay là Nguyễn Du xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, làm
quan trong tình thế chẳng đặng đừng thì trên nghị trường chính sự, họ có rất nhiều
kẻ thù, nhất là bọn nịnh thần luôn tìm cách hãm hại. Trong con mắt của những kẻ
cậy thân thế, cậy quyền lực thì những trí thức như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và
nhiều nho sĩ khác là “Những kẻ ham đọc sách chỉ là một lũ thầy cúng thầy mo”
[148, tr.29]. “Xưa nay sơn hà đổ nát là do bọn nho sĩ chỉ biết đọc sách mà không
dám cầm cung kiếm” [148, tr.24]. Thậm chí ngay cả những đấng quân vương cũng
không ít lần hoài nghi kẻ sĩ dưới trướng. Dẫu đối xử với nhân sĩ Bắc Hà là trọng
81
khách, phục tài họ nhưng trong thâm tâm Lê Lợi không tránh khỏi tâm lí “khách
vẫn là khách. Cái tài ấy vẫn gây ra tị hiềm với các tướng lĩnh nhiều võ công của đất
Bái và cả với chính bản thân ông” [148, tr.115]. Lê Lợi nhiều lần nghĩ bụng “mấy
ông nhà nho kia chữ nghĩa đầy bụng nhưng liệu họ chịu khấu đầu giúp dập ông
được đến lúc nào?” [148, tr.115]. Lê Lợi từng giam lỏng Nguyễn Trãi trước khi
chiến sự Xương Giang diễn ra. Những sau hai năm đánh thắng giặc Minh, Lê Lợi
cũng thanh trừ nhân sĩ Thăng Long vì nghi ngờ, không tin họ. Còn nhân sĩ Nguyễn
Du được Nguyễn Ánh mời ra phục vụ cho triều Nguyễn nhưng đâu phải lúc nào
cũng tin tưởng. Khi hay tin Nguyễn Du cáo quan về ở ẩn, Nguyễn Ánh liền đặt ra
nhiều chất vấn trong lòng. “Hắn không muốn theo ta… Hắn không phải tay vừa…
Phải kéo hắn ra làm quan, đưa vào triều, theo dõi thật chặt. Nếu có ý phản trắc -
Chém!” [130, tr.74]. Và ngay cả khi đọc tờ tấu bẩm của Tổng trấn Bắc Thành về
các nho sĩ Bắc Hà sẽ vào Huế phụng sự trong triều, Nguyễn Ánh nghe đến sĩ phu
Thăng Long, “lòng đã thấy lo lo”. Nhân sĩ trí thức càng có tài, càng chân thực thì
càng bị cô lập và rơi vào bi kịch thảm khốc trước sự chèn ép của quyền lực. Sử Văn
Hoa cũng bị Hồ Quý Ly tống giam, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia
Phan cũng bị Nguyễn Ánh mượn tay Đặng Trần Thường hãm hại, Ngô Nhân Tĩnh
cũng bị vu oan mà chết đau đớn… Bao người có tâm, có tài, có chí xưa nay đều
nhận kết cục bi thảm.
Kẻ sĩ, trí thức là một biểu tượng vĩnh hằng nhưng bất định. Vĩnh hằng vì tư
chất thông minh, trình độ học vấn, nhân cách cao đẹp của kẻ sĩ là giá trị văn hóa bất
biến đối với mọi thời đại. Nhưng bất định bởi lẽ kẻ sĩ cũng có “năm bảy đường”. Kẻ
sĩ chính danh quân tử, kẻ sĩ ngu trung thủ cựu, kẻ sĩ thức thời cơ hội cá nhân, kẻ sĩ
thức thời canh tân vì nước vì dân. Trong số ấy, nếu kẻ sĩ ngu trung thủ cựu là vật
cản trở sự tiến bộ xã hội, thường dễ bị bỏ rơi trước thời cuộc thì kẻ sĩ chính danh
quân tử, kẻ sĩ thức thời canh tân là nguồn nhân lực vĩnh hằng trong công cuộc kiến
thiết xây dựng đất nước. Tuy nhiên, không phải trên con đường đến với bộ máy
chính trị công quyền, kẻ sĩ không gặp những oan khiên. Kẻ sĩ, nhà cải cách - biểu
tượng bi kịch từ chính trị cũng không ít trường hợp đã diễn ra. Đó là vấn đề cơ bản
mà các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn còn nhiều trăn trở.
82
Vai trò của kẻ sĩ trong công cuộc xây dựng đất nước, trách nhiệm của họ đối
với dân tộc, xã tắc là quan trọng nhưng không phải bao giờ thân phận kẻ sĩ trong
mối quan hệ với thế lực cầm quyền, và bộ máy cai trị xã hội cũng thuận chiều, yên
gió. Trong rất nhiều trường hợp, kẻ sĩ bị bạc đãi, bị xua đuổi trên con đường đến với
chính trị, thậm chí nhận lấy những bi kịch thảm khốc trước thực tại không đoán
biết, đo lường hết được. Qua thân phận của kẻ sĩ Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn
trong mối tương quan với Phạm Vấn, Lê Sát, Lê Ngân và cả Lê Lợi; Sử Văn Hoa,
Phạm Sinh, Hồ Nguyên Trừng với Hồ Quý Ly và triều đại nhà Hồ; hay đó là kẻ sĩ
dòng họ Nguyễn Tiên Điền (Nguyễn Nễ, Nguyễn Du, Nguyễn Trừ, Nguyễn
Thiện…) với triều Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long; là thầy giáo Hiến,
Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm với triều Nguyễn Tây Sơn…
các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã đưa ra nhiều bài học nhân sinh
sâu sắc cho giai tầng xã hội này. Trong muôn vàn kẻ sĩ trí thức tài hoa ấy, chúng tôi
muốn đề cập cụ thể đến Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du - những kẻ sĩ được
các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam khắc hoạ rõ nét về tính cách và con
đường đến với quyền lực chính trị…
Về kẻ sĩ canh tân Hồ Quý Ly, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh chắc không phải
“ngây thơ” chỉ chiêu oan cho nhân vật lịch sử này. Những khái quát về chính sách
canh tân được nêu ra trong tác phẩm đâu chỉ nhằm minh chứng đầy thuyết phục về
tài trí của kẻ sĩ Hồ Quý Ly. Sự thất bại của kẻ sĩ thức thời canh tân Hồ Quý Lý mới
có giá trị biểu tượng xuyên qua thời gian. Cái hơn người luôn đáng được khích lệ,
tán dương nhưng cũng dễ bị gièm pha, bài trừ kịch liệt. Cái mới ra đời, bao giờ buổi
đầu cũng gặp nhiều nghi ngại, cản trở, khó chấp nhận. Sự thất bại của Hồ Quý Ly
không nằm ở chủ trương, chính sách, nội dung, đối tượng đổi mới lòng vòng, từ lạc
hậu đột kích lên trên hiện đại, những lầm đường lạc lối. Xã hội nào cũng không
thiếu những thất bại như thế. Sự thất bại của Hồ Quý Ly xuất phát từ chỗ không phù
hợp thời điểm, hoàn cảnh thực tiễn xã hội, vì chưa tìm được sự đồng thuận xã hội.
Thực hiện đổi mới vội vàng, quyết liệt, thậm chí khốc liệt khi gặp thế lực cản trở.
Sự đổi mới nằm trong tư duy chủ quan, dùng cường quyền ép buộc dân chúng tuân
theo đã vô tình đẩy Hồ Quý Ly đến bại vong. Bi kịch của Hồ Quý Ly và thời đại
83
của ông luôn khiến chúng ta phải suy nghiệm sâu sắc về công cuộc đổi mới của đất
nước. Đổi mới, canh tân luôn xuất phát từ thực tiễn của thời đại và cần có những
con người đủ tài trí, dám làm dám chịu. Nhưng để đổi mới thành công không phải là
bất chấp tất cả, cần đặc biệt chú trọng gìn giữ hồn thiêng sông núi. Nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh rất tinh ý khi để kẻ sĩ Sử Văn Hoa phản biện quan điểm này. “Hồn
nước là giấc mơ của người dân. Dân ta mơ như thế nào, ai đi qua giấc mơ ấy cũng
không được, chậm hơn cũng chẳng xong. Đi chệch, đi chậm, đi nhanh đều phải thất
bại… Hồn nước có cách đi của nó. Có thể vinh quang…tàn lụi…và máu nữa… Nó
chẳng xót thương cho riêng từng người…Ai đi đúng cái đạo của nó vạch ra sẽ
thành công. Nhưng đạo ấy lại ẩn ngầm…phải tự tìm ra. Chẳng ai có thể thông minh
hơn cái hồn của nước mình” [77, tr.607]. Bài học giá trị sâu sắc nhất từ kẻ sĩ thức
thời canh tân Hồ Quý Ly đưa lại cho nhân sinh là vậy.
Nguyễn Trãi là kẻ sĩ tiêu biểu cho khuynh hướng nhân sĩ dấn thân trên con
đường chính trị. Ông chọn con đường chính trị để lập danh và chốn quan trường để
lập thân như một quy luật tất yếu. Ông “duy chỉ có giấc mơ sạch bóng quân thù
trên bờ cõi” [148, tr.34], “lấy lại giang sơn và nền thái hoà vạn cổ mới là việc
trọng” [148, tr.81]. Với lý tưởng Nhân Nghĩa, quan điểm thân dân, yên dân,
Nguyễn Trãi trở thành đối nghịch với phe chủ chiến là Phạm Vấn, Lê Sát, dù nhiều
lần bị hãm hại nhưng ông vẫn dấn thân đến cùng. Thực tế chốn quan trường không
ít lần đẩy ông vào thân cô thế cô, thậm chí cả việc bị thúc ép cáo quan về ở ẩn
nhưng hễ khi có cơ hội được mời ra làm quan ở cái tuổi xế chiều về già ông vẫn
hăng hái, mừng vui đón nhận như là ân sủng. Càng dấn thân càng bị bọn nịnh thần
tâu trình, chèn ép. Càng bị chèn ép thì lại càng dấn thân để chứng minh tấm lòng
khí tiết trong sạch. Ở thân phận chính trị, ông có tâm chất tinh thông nhưng không
có đôi cánh của con phượng hoàng, ông nhìn thấy thực tế phũ phàng nhưng quyền
lực như một mê cung hễ càng dấn thân thì khó lòng mà gỡ cho ra. Ông là kẻ lưu đầy
lạc lõng trong chốn quan trường nên nhận bi kịch oan khiên thảm khốc nhất trong
lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông bị khép tội tru di tam tộc bởi mưu hèn kế bẩn của
tay chân triều đại mà ông suốt đời phụng sự. Có thể nói, Nguyễn Trãi là kiểu nhân
sĩ “vi quân vi liễu, vị vi thân mưu” (bày mưu xong cho quân vương nhưng không
84
bày mưu được cho mình), là minh chứng điển hình cho mẫu nhân sĩ trí thức càng
dấn thân vào chốn quyền lực càng nhận lấy oan khiên thảm khốc.
Nếu Nguyễn Trãi thể hiện thiên hướng dấn thân thì Nguyễn Du bộc lộ khuynh
hướng ẩn sĩ vi thân trong mối quan hệ với thế lực cầm quyền. Khi Quang Trung ra
Bắc, kêu gọi nhân sĩ trí thức chung tay giúp nước, Nguyễn Du chọn thế ẩn danh,
không ra làm quan có lẽ vì trung Lê. Nhưng khi Nguyễn Ánh dẹp yên loạn lạc bè
phái, thống nhất đất nước, Nguyễn Du ra làm quan cũng chỉ là cách chọn lựa không
thể khác được. Ông luôn thấy mình không hợp với chốn quan trường. Nhiều lần ông
thể hiện tâm sự u buồn, chán nản. “Đứng trước bàn thờ Nguyễn Nghiễm, Nguyễn
thắp hương thưa: Phụ thân ơi! Con không muốn ra làm quan dù triều đại nào đi
nữa. Lòng con đã nguội lạnh hai chữ công danh…” [130, tr.17]. Việc Nguyễn Du
không ra làm quan, một mặt vì tạng của người nho sĩ xét thấy mình không phù hợp,
mặt khác bắt nguồn từ nhân sinh quan về chốn quan trường của Nguyễn. Theo
Nguyễn, đến với chốn quan trường lập công danh là “con người rời bỏ tự do để
sống trong vòng nô lệ” [130, tr.53]. Do vậy, dẫu có đói rách, thiếu ăn, Nguyễn Du
cũng quyết giữ khí tiết nho sĩ thanh sạch. Nguyễn Du từng nói với Trần Thắng,
“Tôi không muốn làm quan. Vì miếng cơm manh áo, vì cái danh ảo mà khom lưng
trước kẻ khác, cực lắm…Tôi muốn sống được với chính mình, với thiên nhiên,
không ràng buộc quyền lực của ai cả” [130, tr.54]. Nguyễn Du chạy trốn chốn quan
trường chứ không chạy trốn cuộc đời. Nhân cách của một nhân sĩ không cho phép
ông vùi dập khí tiết thanh nhã chốn quan trường bạo lực và tàn nhẫn nhưng ông có
đủ tài năng và quyền lực trí tuệ để làm được điều mình muốn và giữ được khí tiết.
Nguyễn Du không muốn nát thân với cỏ cây mà không làm gì có ích cho đời, làm
đẹp thêm cho gia tộc. Đường công danh rộng mở nhưng Nguyễn Du không muốn đi
bởi trước khi bước vào chốn quan trường ông muốn làm đẹp cho đời bằng con
đường khác. Nhìn về danh gia vọng tộc của dòng họ Nguyễn, nhìn về cái chết của
bao nhân sĩ mà Nguyễn Du chứng kiến, ông gạt bỏ lập thân bằng lập danh mà chọn
“Lập ngôn cũng là con đường hay giữ được cái thiện trong cảnh nồi da nấu thịt”
[130, tr.58]. Ông chạy trốn quan trường trước khi bị gọi ra làm quan. Nhưng thực
tại mà ông vấp phải quá khắc nghiệt. Khi cáo quan về ở ẩn, dân làng chòm xóm đều
85
dè bĩu. Thêm vào đó, gia cảnh nhà ông quá nghèo nàn, nhiều lúc ông rơi vào chỗ bế
tắc và tự vấn “Đi tìm tự do. Tự do có còn? Tự do có đưa lại cơm áo cho mình?”
[130, tr.56]. Nguyễn Du chợt nghĩ “cái bóng của vạn vật đẹp hơn cái nó có, cái ảo
đẹp hơn cái thực? Tự do cũng là thứ ảo mà mình nhọc công dành cả cuộc đời để
tìm kiếm ư?” [130, tr.55]. Cáo quan để giữ gìn nhân cách nhưng lòng vẫn trĩu nặng
với đời biết bao. Đây là bi kịch lớn của kẻ sĩ trước thời cuộc!
Khổng Tử từng nói, nho sĩ phải có đủ ba tầng nhân cách: (1). Trách nhiệm
tâm: (người quân tử tu thân mình để bảo vệ người và trăm họ); (2) Tự tôn tâm:
(không lo, không sợ, không lầm lẫn); (3) Dũng cảm: (Tâm có thể nguy mà chí
không thể đoạt, chịu chết chứ không chịu nhục) [90, tr.43]. Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du và nhiều kẻ sĩ, trí thức vốn xuất thân từ Cửa Khổng Sân Trình thấu hiểu bản thể
nhân cách của một nhà nho chân chính với những tầng nhân cách ấy và ứng vận vào
cuộc đời của họ dẫu đời sống chính trị - xã hội nhiều thiên biến khôn lường. Cái giá
rất đắt mà mỗi kẻ sĩ phải trả trước thời đại lịch sử sản sinh ra là bài học sâu sắc cho
giai tầng của họ. Kẻ sĩ, trí thức là kiểu nhân cách xã hội bị thế lực cầm quyền lợi
dụng? Bị đẩy đến bước đường cùng của sự thất bại - bị bỏ rơi hay bị chết ép bi
thảm? Dẫu đó là kẻ sĩ ngu trung thủ cựu, cố chấp; kẻ sĩ thức thời cơ hội; kẻ sĩ chính
danh quân tử; kẻ sĩ thức thời canh tân xã hội… cũng đều chung cảnh ngộ bị bóc lột
theo kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” dưới bàn tay cường quyền bạo lực? Chân lí dân gian
mà ông cha ta đúc kết: “Khôn thì sống, mống thì chết!”. Chân lí đương thời là “Biết
cũng chết, không biết cũng chết, giả chết thì sống!”. Ứng vận vào thân phận kẻ sĩ
thì chân lí nào cho họ giữa cuộc đời? Bị bỏ rơi! Bị chết ép! ... là một chân lí hiển
nhiên không thể chối cải cho số phận kẻ sĩ qua các thời đại lịch sử? Liệu rằng đây
có thể là một kết luận giản đơn không?
Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc là hai nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của các
quốc gia, dân tộc, đảng phái cầm quyền. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó đòi
hỏi phải có nhân tố con người tài trí, có tầm nhìn xa, trông rộng, phải là người dũng
cảm, táo bạo, mạnh mẽ và tâm huyết đối với vận mệnh dân tộc. Mẫu hình kẻ sĩ, nhà
cải cách xã hội không chỉ riêng thuộc triều đại lịch sử nào mà trong suốt chiều dài
lịch sử dân tộc Việt Nam từ trung đại đến hiện đại và đổi mới hội nhập, mỗi khi đời
86
sống chính trị - xã hội có dấu sự suy vy, vận mệnh dân tộc trong thế ngàn cân treo
sợi tóc thì chủ trương cải cách đặt ra và gắn liền với những nhân tài đi trước thời
đại. Nếu công - nông - binh là lực lượng thực thi chủ trương, chính sách xã hội thì
kẻ sĩ, trí thức là lực lượng dẫn đường, quản lí và điều hành quá trình thực thi đó.
Trong đời sống xã hội kẻ sĩ trí thức có thể là những nhà tư tưởng, tham mưu cho
nhà cầm quyền hoạch định chính sách đồng thời họ cũng là lực lượng phản biện xã
hội để điều chỉnh những chính sách không phù hợp. Tuy có lúc thất bại, có lúc thành
công, có những cá nhân và thời đại được lịch sử vinh danh nhưng cũng có những người
bị lịch sử vùi dập theo nhiều lẽ. Song, nhân sĩ trí thức luôn là những giá trị vĩnh hằng
xứng đáng được tôn vinh, trân trọng. Lực lượng nhân sĩ trí thức trong xã hội rất đông
đảo, những tác giả tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam viết về những nhân vật lịch
sử trên đây hẳn có dụng ý nghệ thuật gởi đến đời sống đương đại cần xác định đúng
đắn vai trò, bản chất và giá trị đích thực của nhân sĩ trí thức đối với nhà cầm quyền, đối
với xã hội trong thời đại hội nhập và phát triển đất nước.
3.1.3. Biểu tượng liệt nữ
Theo Từ điển mở Wiktionary, “Anh thư” là “người phụ nữ tài giỏi hơn người”.
“Liệt nữ” là “người phụ nữ kiên trinh, không chịu khuất”. Từ điển Soha cũng định
nghĩa “Liệt nữ” là “người phụ nữ có khí tiết hoặc có khí phách anh hùng như Hai
Bà Trưng”. Từ điển tiếng Việt của Phan Canh cũng xác định “Liệt nữ” là “người
con gái có khí tiết anh hùng” … Nhìn chung, những định nghĩa không có sự khác
biệt cơ bản về nghĩa được biểu đạt. Trong quá trình khảo luận, chúng tôi quan niệm
anh thư, liệt nữ là khái niệm dùng để chỉ những người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng
nước nghiêng thành, có tài trí hơn người, dám hi sinh đời sống cá nhân vì mục đích
chung của quốc gia, dân tộc. Đặc biệt trong xã hội nam quyền, trọng nam khinh nữ
như các nước Đông phương, những người phụ nữ ấy có những tác động lớn đến các
bậc vương quyền, làm thay đổi, xoay chiều cục diện chính trị, thời đại, tác động đến
thức nhận lại một giá trị nào đó trong hệ tư tưởng xã hội.
Anh thư, liệt nữ - biểu tượng cho sự hi sinh vì giang sơn xã tắc. Ngay từ xa
xưa, trong các thần thoại, sử thi, truyền thuyết trên thế giới cũng như của Việt Nam,
dân gian đã quan niệm người phụ nữ tài sắc luôn là khởi nguyên của mọi cuộc chiến
87
tranh. Có thể các tác phẩm ấy giải quyết nhiều vấn đề khác đặt ra trong đời sống
ban sơ của họ, nhưng rõ ràng rằng người phụ nữ là “cái cớ” của nghệ thuật phản
ánh. Nàng Helen trong thần thoại Hy Lạp là nguyên nhân của cuộc chiến tranh quân
Hy Lạp đánh thành T’roa kéo dài suốt mười năm. Nàng Sita trong sử thi Ramayana
đã khiến chàng Rama và quỷ vương Ravana chiến đấu giành giật lẫn nhau. Mỵ
Nương chính là nguyên dẫn đến cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Trong tác
phẩm văn học, bao anh hùng khuỵ ngã trước thời cuộc cũng vì người phụ nữ tài sắc
như Kiều… Những tích điển về họ luôn là bài học cho nhân sinh, thế sự. Nguyễn
Trãi từng làm thơ Răn sắc: “Sắc là giặc đam làm chi/ Thủa trọng còn phòng có
thủa suy/ Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ/ Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi”. Trong đời
sống xã hội cổ đại Trung Hoa, biết bao mỹ nhân như Đát Kỷ, Tây Thi… đã từng là
nguyên nhân dẫn đến vương triều sụp đổ. Nhà nước Đại Việt qua mấy nghìn năm
lịch sử hình thành và phát triển cũng không hiếm những mỹ nhân liệt nữ được sử
sách lưu danh như: Quốc Mẫu Âu Cơ, Bà Trưng, Bà Triệu, Thái hậu Dương Vân
Nga, Ỷ Lan Nguyên Phi, Công chúa An Tư, Công chúa Huyền Trân, Công chúa
Ngọc Hân, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương…
Họ đã là biểu tượng cho giới của mình theo ý nghĩa nhân sinh nào đó.
Nguyên Phi Ỷ Lan là một trong những hồng nhan liệt nữ được chính sử ca
tụng. Quyền hành triều Lý một thời do bà toàn quyền quyết định. Công trạng mà bà
để lại cho hậu thế là cùng với Lý Thường Kiệt gánh vác trọng trách Nhà Lý chủ
động tấn công quân Tống sang tận Ung Châu, khiến cho quân Tống phải thất kinh
bát đảo và kế sách quân sự đánh tan quân Tống bằng trận tuyến sông Như Nguyệt.
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ với nhân dân Đại Việt, Nguyên Phi Ỷ Lan được
quần chúng đương thời ca ngợi. Bà cũng là nhân vật folklore qua tín ngưỡng dân
gian và được phong Ỷ Lan Thánh Mẫu, nhân dân lập đền thờ ở đền Yên Thái, đền
thờ ở Gia Lâm và đền thờ ở Hưng Yên. Viết về Ỷ Lan Nguyên Phi Thánh Mẫu, các
nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam không chỉ tập trung ca ngợi công đức
của bà như chính sử từng lưu tụng mà còn ở khía cạnh khuất tất, đời thường nhất.
Xét đến khía cạnh của sự hi sinh cho dân tộc, Công chúa An Tư, Công chúa
Huyền Trân, Công chúa Ngọc Hân và nhiều cung nữ khác là những liệt nữ, biểu
88
tượng cho sự hi sinh cái Riêng vì cái Chung. Huyền Trân công chúa từng phản đối
Thượng hoàng Nhân Tông về việc lấy Chế Mân, nhưng rồi cùng với thời gian và sự
giải thích của Tuyên Từ, “nàng đã hiểu ý nghĩa của sự hi sinh. Có hạnh phúc nào
mà không đánh đổi bằng sự hi sinh. Nàng có cuộc sống ấm êm, hạnh phúc trong
cấm cung như bây giờ cũng là nhờ sự hi sinh của các bậc tiền bối” [152, tr.91].
Nàng có cảm giác mình khôn lớn hơn và trưởng thành lên rất nhiều, nàng nhận thức
được rằng “cuộc hôn nhân giữa nàng và quốc vương Chiêm Thành không chỉ là
hôn sự đơn thuần giữa một người đàn ông và một người đàn bà mà chính là nhịp
cầu hoà hiếu giữa hai dân tộc Việt - Chăm” [100, tr.120]. Trái tim tình yêu mà
nàng dành cho Khắc Chung giờ đây đã lệch quỹ đạo vì nàng gánh vác việc quốc gia
đại sự. Nhận thức sâu sắc về trách nhiệm đối với dân tộc, những tháng năm làm
hoàng hậu bên Chế Mân, nàng không những không buồn đau như trước mà còn cố
gắng thực hiện tốt vai trò của một hoàng hậu, một nữ nghi thiên hạ khiến cho Chế
Mân và dân chúng Champa nể trọng nàng mà qua đó ngợi ca người phụ nữ Đại
Việt. Nàng cảm thấy hãnh diện, hạnh phúc dâng trào trong lòng “khi hoàn thành
xuất sắc vai trò của vị sứ giả hoà bình… Nàng mỉm cười, một nụ cười mãn nguyện
mà chua chát. Hơn ba triệu thần dân Đại Việt sẽ cúi đầu ngưỡng mộ một vị nữ anh
hào có công mở rộng bờ cõi về phương Nam, và biết đâu sau này sử sách sẽ nói đến
nàng, tôn thờ nàng như nàng tôn thờ hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị” [100, tr.400].
Có những lúc, con người đã vượt qua nỗi sợ hãi, hèn nhát, nhẹ nhàng như một làn
gió thoảng. Và như thế, họ trở thành bất tử giữa trần gian.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam,
anh thư, liệt nữ còn là biểu tượng cho thân phận nổi trôi của người phụ nữ trong xã
hội. Điều này hoàn toàn khác với hình tượng người phụ nữ tràn đầy khát vọng trực
tiếp được cống hiến, được tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 như cô Triệu, cô Chí trong
Trùng Quang tâm sử (Phan Bội Châu), Tiết Thị Huệ trong Tiếng sấm đêm đông,
Ngọc Nương trong Việt Thanh chiến sử (Nguyễn Tử Siêu)… Từ hiện đại nhìn về
truyền thống, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn tìm thấy ở đó thân
phận người phụ nữ chưa thoát khỏi kiếp hồng nhan đa truân. Dù họ là mẫu nghi
89
thiên hạ hay những thôn nữ tình cờ được chúa dấu vua yêu trên đường vi hành về
miền quê nào đó cũng chung chịu mệnh bạc. Người phụ nữ bị trói buộc bởi tam
tòng tứ đức, họ chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn cung đình. Họ là tặng phẩm, là
món hàng đổi chác trong quan hệ lịch sử bang giao giữa các lân bang. Họ là vật
trung chuyển ngôi cửu trùng quyền lực từ triều đại này sang triều đại khác trong
mưu đồ chính trị. Họ là món đồ chơi giải trí của bậc vương quyền. Họ là nguyên
nhân đầu tiên của mọi cuộc sụp đổ, tranh loạn… Chúng ta có thể liệt kê ra những
thân phận hồng nhan như thế qua các tiểu thuyết thời kì này.
Trong mưu đồ chính trị, “thân thể đàn bà họ Đông A vốn chả luôn được dùng
để mở nước đó sao” [15, tr.167]. Trần Thủ Độ đã dùng bà Trần Thị Dung gã cho
Lý Huệ Tôn, rồi tiếp tục là Lý Chiêu Hoàng gã cho Trần Cảnh, từ đó nhà Trần lật
đổ triều Lý lập nên triều đại Trần trong lịch sử phong kiến Việt Nam; Trước sức
mạnh quân Nguyên tấn công vào nước ta như xe đổ dốc, Trần Quốc Tuấn bày kế
cầu hòa và gả công chúa An Tư cho Thoát Hoan, dùng sức mạnh ái tình để lung lây
sức mạnh chính trường. Việc lớn hay còn gọi là quốc gia đại sự được bà Tuyên Từ
và Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tính toán kĩ lưỡng. Trong mưu đồ mở rộng
lãnh thổ Đại Việt về phương Nam, cả hai đã sắp đặt cuộc hôn nhân giữa Huyền
Trân với Chế Mân. Chế Mân lấy Huyền Trân làm Hậu và giao hai châu Ô, Lý cho
vua Việt cai quản. Nàng là sứ giả hoà bình hay là vật trao đổi?
Đứng trước cơn “thập tử nhất sinh” của triều Trần, Nghệ Hoàng biết người
duy nhất có thể chèo lái con thuyền nhà Trần đang đắm lúc bấy giờ là Hồ Quý Ly,
nhưng cũng sợ Hồ Quý Ly tiếm ngôi, Nghệ Hoàng dùng hôn nhân buộc Hồ Quý Ly
phải trung thành với vương triều Trần. Ông gã bà Huy Ninh cho Hồ Quý Ly, rồi
tiếp theo là cuộc hôn nhân giữa Hồ Thánh Ngẫu (con gái Hồ Quý Ly và bà Huy
Ninh) với Trần Thuận Tông (con trai Nghệ Hoàng). Những cuộc hôn nhân ấy như
“mọi thứ dây nhợ” để kiềm chế Hồ Quý Ly. Trong mớ quan hệ nhùng nhằng Vua -
Tôi, sui gia, Hồ Quý Ly cũng tận dụng triệt để vì mưu đồ chính trị của mình. Vị
Thái sư từng nói “và con cũng hiểu đấy, việc lấy vợ cho con không chỉ đơn thuần là
việc lấy vợ” [77, tr.59]. Hồ Nguyên Trừng đã nhìn thấy rõ ý đồ của cha mình “ở
một thời điểm chính trị có thể gọi là nước sôi lửa bỏng, trong một hoàn cảnh, vị thế
90
như cha tôi, thì bất cứ chuyện gì cũng không thể tách rời khỏi những mưu toan
chính trị” [76, tr.58], anh hiểu rằng trong cuộc hôn nhân của mình với Quỳnh Hoa,
con gái Thái Bảo Nguyên Hàng, anh chỉ là “một con mồi mà cha tôi quăng ra giữa
dòng nước, họ nhà Trần như một con cá lớn đớp lấy tôi, và cha tôi cầm chiếc cần
câu. Tôi là kẻ đứng giữa và hai bên cùng kéo” [77, tr.63]. Có thể thấy, những cuộc
hôn nhân như cánh tay nối dài mưu đồ của các bậc đế vương. Nguyễn Huệ, khi đưa
quân tấn đánh bè lũ Trịnh và quân Thanh, để chính danh thu phục giang sơn Đại
Việt, phù Lê diệt Trịnh, ông cưới công chúa Ngọc Hân. Ông ý thức rất rõ “nếu
không làm thế thì lấy cái danh gì để chen vào việc nhà việc nước của người ta…Nếu
không làm thế, bọn hủ nho Bắc Hà sẽ được dịp nói nhăng nói cuội” [36, tr.994]. Đi
sâu vào bản chất của lịch sử, tham vọng chính trị đã thể hiện rõ qua các cuộc hôn
nhân, mà thân phận hồng nhan là quân cờ trên nghị trường chính trị. Họ là nạn nhân
của cuộc chơi quyền lực, “là hiện thân của sự đau khổ tột cùng, là nạn nhân của
một thứ số phận cay nghiệt” [36, tr.868], họ không được phép lựa chọn tình yêu,
hạnh phúc cho riêng cuộc đời mình. Họ là hiện thân của bi kịch đời thường của
người phụ nữ trong xã hội.
Viết về đời sống phi tần trong cung vua phủ chúa, các nhà văn chú ý khai thác
cuộc chiến quyền lực chốn hậu cung giữa các bà phi diễn ra ác liệt, không kém phần
tàn nhẫn như một lời cảnh tỉnh về lối sống đa thê. Bản chất của đời sống tình cảm
gia đình, chồng vợ từ cổ chí kim là không thể san sẻ. Không một người đàn bà nào,
dù địa vị xã hội ra sao chăng nữa cũng không dễ cam chịu chấp chận nhường nhịn
hạnh phúc cả đời mình cho một người đàn bà khác. Vậy nên, cuộc chiến chốn hậu
cung diễn ra dù ồn ào hay âm ỉ cũng quyết liệt, cũng sân si không kém. Đó là cuộc
chiến về quyền yêu và được yêu đấng tôn quân quyền lực bậc nhất thiên hạ. Cảnh
đơn chiếc, góa bụa “một tháng đôi lần có như không” là bi kịch kinh hoàng mà các
cung nữ phải chịu, vậy nên họ giành giật đấng tôn quân bằng mọi cách, kể cả tàn
bạo giết hại lẫn nhau. Tuyên Phi Đặng Thị Huệ khi còn được Trịnh Sâm yêu quý đã
tung tác, quyết lập Trịnh Cán lên ngôi Thái Tử mà phế bỏ Trịnh Tông, hãm hại Thái
Phi Dương Ngọc Hoan. Nhưng khi Trịnh Sâm chết, ván cờ bị đảo thế, Đặng Thị
Huệ đã một lòng giải bày “cả đời, được gặp một người như Tiên chúa, có chết
91
xuống suối vàng, con cũng chẳng hổ thẹn nhìn thấy mặt người” [125, tr.259]. Trong
lễ Đại tường Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ vẫn tranh Chánh cung Thái Phi với Dương
Ngọc Hoan và sau đó bà quyên sinh và “tự hoá thân bay lên trời cùng thiên truyện
tình yêu nàng đã sống trọn vẹn trong suốt cuộc đời” [125, tr.279].
Sự tồn tại của mỗi con người trong đời sống xã hội là không thể tách rời “tính
hiện thực” và bản thể tự nhiên của họ. Chúng ta không thể luận xét phong thánh cho
con người bằng mối quan hệ chủ quan nào đó mà cần phải suy xét đa chiều. Đặt ra
vấn đề này để chúng ta có cái nhìn khách quan hơn về các nguyên mẫu nhân vật lịch
sử từng ca ngợi hay bài xích. Chẳng hạn, mẫu hình nhân cách Nguyên Phi Ỷ Lan
trong các tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam sẽ được soi chiếu nhiều khía cạnh.
Nếu nhà văn Bùi Anh Tấn đề cập đến việc nhà Lý bị Dương Đức Hùng, Dương Đức
Vệ báo thù sau khi gia đình họ Dương tan tác bởi Ỷ Lan thì nhà văn Võ Thị Hảo đã
xét xử lại vụ án này theo luật nhân qủa, báo ứng, ác nhân gặp ác báo. Oan hồn của
Dương Thái Phi và bảy sáu cung nữ với những lời chất vấn đã khiến Ỷ Lan phải lộ
nguyên hình là người đàn bà muốn ở ngôi vị tột đỉnh duy nhất buông rèm chính sự.
Cùng với nhãn quan xét lại nhân vật và sự kiện lịch sử này, nhà văn Hoàng Quốc
Hải đã phân tích khá sâu sắc những chuyển biến tâm trạng, dã tâm của Nguyên Phi
Ỷ Lan sau khi vua Lý Thánh Tông băng hà. Bà than thở “Ôi chao, mẹ con ta bây
giờ góa bụa, cút côi; con còn thơ dại, mới sáu tuổi đầu, mẹ cũng chưa tới ba chục
tuổi, chẳng có thế lực nào mà tựa, chỉ tin vào những cái miệng mỏng dính của mấy
tên thái giám. Chẳng biết chúng nó có đưa được con ta lên ngai vàng hay lại để các
hoàng đệ tranh giành với cháu rồi đưa mẹ con ta lên đoạn đầu đài?” [44, tr.22].
Sau khi giết chết Dương Thái hậu cùng bảy sáu cung nữ, bà sợ hãi, luôn gặp ác
mộng. Văng vẳng bên tai bà là lời của Dương Phi rằng “Nếu để cho vật dục làm mờ
nhòa đầu óc khiến cho nước mất nhà tan thời lịch sử sẽ coi ngươi như một tên phản
phúc, tội ác ấy, vết nhơ ấy nghìn đời cũng không gỡ bỏ được đâu” [44, tr.288-289].
Tiếng của bảy mươi sáu oan hồn cung nữ vô tội réo gọi đòi mạng người. “Dương
Thái hậu vô tội! Dương Thái hậu vô tội! Trả mạng chúng ta đây! Trả mạng chúng
ta đây!” [44, tr.289] … đã khiến cho Ỷ Lan phải run sợ. Bà thú nhận “Chị Thượng
Dương ơi, chị đã vạch đúng tim đen của em thời em xin nhận” [44, tr.289]. Như
92
vậy, từ biểu tượng là Mẫu nghi thiên hạ, che chở cho bách tính, được dân gian hóa
Thánh Mẫu, Ỷ Lan Nguyên Phi qua cái nhìn của các nhà văn đương đại cũng ghen
tuông, sân si tranh chấp quyền lực, tàn nhẫn đối với những phi tần cung nữ khác.
Phải chăng xóa bỏ khoảng cách sử thi ngợi ca, các nhà tiểu thuyết đưa những
nguyên mẫu lịch sử trở về với đời thường, gần gũi chân thật hơn như muốn nói đến
sự tồn tại của con người luôn có tính lưỡng diện, cái cao cả và cái thấp hèn cần đặt
vào từng hoàn cảnh cụ thể để phán xét bởi những giềng mối xã hội, hạnh phúc của
người này là nỗi đau của người khác và ngược lại.
Mầm mống của sự tao loạn nội các xuất phát từ quyền lực của các phi tần, sự
thù hận cá nhân và đó là mối hiểm hoạ khó lường hết hậu quả đắng cay. Lê Lợi là
đấng minh quân nhưng không tránh khỏi nỗi lao tâm vì quyền lợi của phi tần đưa
đẩy, việc lựa chọn ngôi Thái Tử để nối dõi triều Lê bỗng chốc trở thành khó khăn
đối với ông. Lê Tư Thành là con trưởng, theo lệ sẽ lên ngôi Thái Tử. Nhưng trên đường
tiến quân ra Bắc, Phạm Thị Ngọc Trần đã trầm mình xuống sông tuẫn tiết. “Đó là một
phu nhân ghê gớm, một hiền mẫu tiết liệt, biết tuẫn tiết đúng lúc để kiếm ngai vàng cho
đứa con trai còn tuổi đái dầm!... Từ thuở Đông Chu đến nay, bao nhiêu vương triều đã
sụp đổ vì những người đàn bà ghê gớm như vậy” [148, tr.226]. Nội triều nhà Lê sau
khi đánh thắng giặc Minh cũng xáo trộn từ đây. Cuộc chiến giữa Nguyễn Trãi với
Phạm Vấn, Lê Sát không đơn thuần là cuộc chiến giữa kẻ sĩ với đám võ biền, mà sâu
xa hơn là cuộc chiến quyền lực theo một trật tự vốn dĩ với dã tâm cưỡng đoạt quyền lực
mà cái chết của Phạm Thị Ngọc Trần đã gián tiếp gây ra.
Dù muốn hay không, bằng con đường vô thức hay ý thức, tư duy nghệ thuật
của người nghệ sĩ sẽ tạo tác lại hình tượng những cá thể lịch sử làm thành mã nghệ
thuật để thức nhận xã hội đương thời. Phảng phất tinh thần thời đại mới, Tài và Sắc
của bậc hồng nhan, liệt nữ là một giá trị quyền lực. Quyền lực ấy có thể xô đổ nhân
tâm của một con người, xô đổ một triều đại hùng mạnh. Hãy cẩn trọng đối với họ
nếu không sẽ gặp tai hoạ do tài sắc ấy gây nên. Xét khía cạnh chính sự, bà Trần Thị
Dung, vợ vua Lý Huệ Tông là cánh tay nối dài cho những mưu đồ lật đổ nhà Lý lập
nên nhà Trần của Thái sư Trần Thủ Độ. Huyền Trân công chúa là nguyên nhân đầu
tiên làm suy yếu nhà nước Champa bởi từ khi Huyền Trân làm vợ Chế Mân, các
93
Hoàng thân đã bắt đầu chia bè phái, Chế Mân mất cảnh giác, hai châu Ô, Lý giao
cho Đại Việt nắm giữ đã gián tiếp làm mất phên dậu che chắn, quân Đại Việt áp sát
kinh đô Champa. Xét khía cạnh dục vọng, tài sắc của người đàn bà đã khêu gợi con
người bản năng, cùng với sự buông lỏng tam cương ngũ thường là nguyên nhân dẫn
đến tai hoạ cho một con người, một dòng họ, một triều đại. Nguyễn Thị Lộ dưới cái
nhìn của các nhà tiểu thuyết Hà Văn Thuỳ, Võ Khắc Nghiêm… là ví dụ điển hình.
Nguyễn Thị Lộ là một người đàn bà tài sắc nghiêng thành. Nàng Chiếu Gon ấy
không chỉ thông lầu kinh sử, thi hoạ mà còn có sắc đẹp đầy mê hoặc khiến cho bao
kẻ đối diện phải trỗi dậy những khát khao bạo liệt. Viết về anh thư, liệt nữ này, các
nhà văn đều chú ý khai thác vẻ đẹp ngoại thể gợi đến niềm đê mê bản năng. Nếu
Nguyễn Quang Thân viết về Thị Lộ trong mối gắn kết với Lê Thái Tổ và vẻ đẹp của
bà Lộ đánh thức niềm khát khao bản năng của một con người bị lịch sử lựa chọn
làm minh vương, gánh vác sứ mệnh dân tộc. “Bình Định Vương liếc xéo bà, lòng
nhói lên một chút ghen tức. Sao nước cứ chảy mãi về chỗ trũng” [148, tr.11] thì các
nhà văn khác viết về mối quan hệ giữa Nữ Nghi Học Sĩ với vua Lê Thái Tông. Các
nhà văn chú ý miêu tả vẻ đẹp “Bà Lộ khoảng ba mươi tuổi, cao ráo, nhan sắc đậm
đà. Đôi mắt nồng nàn, sáng sủa của người có học. Nhưng trong chiếc áo tứ thân bó
chặt vai và bộ ngực nở nang, bà lại có dáng một phụ nữ quen việc đồng áng, tươi
mát, mạnh bạo, hơi thô nhưng quyến rũ nhờ tuổi thanh xuân thôn nữ. Đứng gần bà,
thơm nứt mùi rơm mới hay mùi gì tương tự như thế” [148, tr.10]. Đấy là vẻ đẹp
khiến vua Lê Thái Tông “bất chợt nhìn sững người đàn bà” [154, tr.35] lớn hơn
nhà vua trẻ hai mươi tuổi với niềm “ao ước có một hoàng hậu như nàng” [104,
tr.446]. Bất chấp ngũ thường, nhà vua cho phép bà hầu hạ, ái ân hoan lạc. Lê
Nguyên Long sai Bộ Lễ soạn tờ chiếu tấn phong Nguyễn Thị Lộ vào cung giữ chức
Lễ Nghi Học Sĩ, vị vua trẻ đã nói thật lòng mình “Nàng là cuộc sống của ta!” [104,
tr.58]. Nhưng cũng chính vị vua trẻ này linh cảm “Nàng biết không, trước hạnh
phúc lớn lao được gặp nàng, ta bỗng sợ. Ta linh cảm thấy một điều gì ghê gớm: tai
hoạ sẽ đến theo hạnh phúc tròn đầy!” [104, tr.58]. Hậu hoạ do vẻ đẹp của bà Nữ
Nghi gây ra đã từng được Nguyễn Trãi nghĩ đến và thấy lo sợ: “Nàng vẫn đẹp, quá
đẹp ở cái tuổi của nàng. Không hiểu sao ông bỗng thấy âm thầm một nỗi lo xa xôi.
94
Tinh hoa phát tiết đến vậy liệu có bền lâu?” [154, tr.11]. Vụ án Lệ Chi Viên vẫn
nằm trong màn che đầy bí ẩn, những gì đã diễn ra, người đời sau chỉ phỏng đoán.
Từ những giả thuyết, nhà văn lí giải nguyên nhân dẫn đến cái chết của vua Lê Thái
Tông là do đam mê sắc dục với bà Nữ Nghi Học Sĩ, từ đó dẫn đến hoạ Lệ Chi Viên,
tru di tam tộc dòng họ Nguyễn Trãi cũng là một cái cớ để hình thành cốt truyện. Và
sâu xa hơn, nhà văn nhấn mạnh đến cái họa do sắc dục gây ra không có khoảng
cách, phân biệt địa vị xã hội nếu ai đó bị “nhúng chàm”.
Mỗi cá thể tồn tại trong xã hội đều vừa là sản phẩm kết tinh của một nền văn
hoá vừa là chứng nhân cho lịch sử nhiều biến động. Thật không thể nói hết được
những tai ương trong cuộc đời hồng nhan bằng lời. Đời người lắm lúc xinh đẹp và
thông minh, tưởng phúc nhưng là hoạ. Đấy là chân giá trị mà các nhà văn nhắm đến
khi viết về những hồng nhan, liệt nữ.
3.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch
sử đương đại Việt Nam
Trong tác phẩm văn học, biểu tượng lại là một phương tiện đặc thù vì tự thân
nó đã có sức sống độc lập tương đối với tư duy của nhà văn. Việc nhà văn sử dụng
phương tiện biểu hiện này không đơn giản là việc tổ chức sắp xếp nó như những
thành tố ngôn ngữ khác mà còn liên quan đến quá trình kiến tạo sao cho bản thân
biểu tượng ấy không đơn giản về mặt giá trị, không bị hao mòn ý nghĩa mà phải làm
cho nó sống động hơn, cụ thể hơn trong đời sống văn hóa - xã hội và tư duy. Tuy
nhiên, cách nghĩ, lối viết của nhà văn vẫn căn bản chịu sự tác động (có thể thụ động
dù đã cố ý vượt qua tâm thức thời đại) của những nguyên tắc sáng tạo. Trong tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các nhà văn đã sử dụng bút pháp nghệ thuật để
kiến tạo biểu tượng con người vừa mang tính truyền thống vừa mang tinh thần thời
đại như bút pháp sử thi, bút pháp huyền thoại hoá, bút pháp giải thiêng, phi tâm hoá
với những giá trị kiến tạo biểu tượng khác nhau. Nếu bút pháp sử thi, huyền thoại sẽ
làm nên giá trị thiêng của biểu tượng thì bút pháp giải thiêng, phi tâm hoá sẽ làm
nên giá trị đời thường, bình dị của biểu tượng.
3.2.1. Bút pháp huyền thoại hoá
95
Huyền thoại theo nghĩa truyền thống, là những câu chuyện, sự vật mang tính
chất thần thoại, hoang đường, cần được giải mã, là “câu chuyện huyền hoặc, kì lạ,
hoàn toàn do tưởng tượng” [123, tr.454]. Như nguyên lí sơ khai ban đầu của nhận
thức, “Huyền thoại là khái niệm chỉ một hình thức tư duy đặc thù của con người
thời nguyên thuỷ, trong đó cái kì ảo che dấu những sự thật, được bảo lưu dưới nhiều
dạng thức của đời sống tinh thần nhiều nhóm cư dân trên thế giới và đi vào văn học
nghệ thuật. Huyền thoại lấp lánh nhiều nghĩa bí ẩn, do đó, nó thường mang tính đa
âm, phát sáng nhiều thông điệp; nó xuất phát từ vô thức tập thể ngày cổ xưa. Nó trở
thành những mẫu cổ từ đó nhà văn sau này khai thác và sáng tạo theo vô thức cá
nhân” [55, tr.668-669]. Cùng với sự phát triển và nhiều biến động của đời sống xã
hội, khái niệm huyền thoại rộng mở về biên độ, không chỉ giải thích về nguồn gốc,
sự ra đời của những điều linh thiêng, huyền bí tự nhiên, các vị thần mà còn bao quát
những vấn đề lịch sử, xã hội và con người. Huyền thoại “là những câu chuyện có ý
nghĩa sâu thẳm, vĩnh cửu toàn nhân loại, thường gặp dưới dạng biểu tượng và có
chức năng biểu đạt thân phận con người (truyện Kafka). Nhân vật lịch sử cũng có
thể trở thành nhân vật huyền thoại; truyện pha trộn cái thực với cái hoang đường,
cái hư ảo, cái kì diệu, thường bằng phương pháp phóng đại các kích cỡ…, nhằm
mục đích giải thích một nhân vật kì vĩ hoặc tuyên truyền trong đại chúng một tư
tưởng nào đó” [55, tr.568-569]. Dù thông hiểu huyền thoại như thế nào chăng nữa
thì huyền thoại vẫn là một hệ thống thông báo, đó là một thông điệp, một phương
thức biểu đạt, một hình thức của quá trình tri nhận. Thực thể của huyền thoại đó là
những câu chuyện, chi tiết, yếu tố kì lạ, hoang đường, hư ảo, cái kì diệu vượt lên
trên thực tế hiện sinh. Đó có thể là những cái cổ xưa đã xảy ra trong tiềm thức cộng
động, cũng có thể là cái do nhà văn sáng tạo ra trong quá trình sáng tác. Ở đây,
chúng tôi quan niệm bút pháp huyền thoại hoá chính là việc nhà văn tổ chức các
thực thể huyền thoại như là một phương thức biểu đạt theo mã thẩm mĩ nghệ thuật
ngôn từ nhằm hướng đến đối tượng nghệ thuật nào đó.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các nhà văn sử dụng những
huyền tích mẫu hoặc sáng tạo nên những huyền tích mới làm thành “kiểu sáng tác
huyền thoại” nhằm làm mới phương diện cách tân nghệ thuật nói chung, làm cho
96
thế giới biểu tượng thêm lung linh, giàu sức biểu đạt. Con đường huyền thoại hóa
các nhân vật lịch sử thường được các nhà tiểu thuyết chọn cách phản chiếu qua mối
tương tác với hệ biểu tượng tự nhiên. Những huyền tích về vua Lê Đại Hành và
tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, thế trận giằng co, hai
bên đồn luỹ cầm cự nhau bất phân thắng bại, một đêm vua Lê Đại Hành nằm mộng
thấy hai thần nhân ở trên sông, bèn vái lạy “Nếu thần nhân có thể giúp ta làm nên
công nghiệp này, thì xin bao phong để được huyết thực muôn đời” [142, tr.322].
Đoạn Vua Lê Đại Hành cho giết súc vật tế lễ, đốt mũ áo, vua ngựa giấy, tiền giấy,
“Đêm sau lại thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng, từ phía Nam sông Bình
Giang tới, một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt qua,
cùng xông vào trại giặc mà đánh… Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở
trên không” [142, tr.322]; Huyền tích về Hồ Gươm với anh hùng Lê Lợi được thần
Kim Quy trao thanh kiếm Thuận Thiên để làm nên sức mạnh đánh thắng giặc Minh.
Hay đó là chuyện Đoan quận công Nguyễn Hoàng đốt đuốc ngồi buồn trên sông, lo
lắng cho việc chống giặc giữ, thì có tiếng dòng nước chảy dưới mạn thuyền kêu
“trảo trảo”, ông bèn khấn rằng: “Trên sông nếu có thần linh, xin giúp ta đánh giặc,
trừ hại cho dân. Việc xong xin lập miếu thờ, bốn mùa hương khói” [87, tr.305]. Quả
nhiên, Nguyễn Hoàng được báo mộng, bày kế mĩ nhân nên đánh thắng Lập Bạo…
Yếu tố thần kì với sự xuất hiện của linh thần giúp đỡ những bậc vĩ nhân khi gặp khó
khăn, trắc trở trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm hay mở mang bờ cõi
đã làm nên màu sắc huyền nhiệm của đấng minh quân, anh hùng dân tộc. Việc các
linh thần giúp Lý Thường Kiệt trong cuộc chống Tống, thần Kim Quy và thanh bảo
kiếm gắn liền với người anh hùng Lê Lợi trong công cuộc chống giặc Minh, việc
Nguyễn Trãi bày mưu khắc chữ “Lê Lợi vi quân bách tính vi thần” trên lá thả trôi
theo dòng nước, hay đó là tiếng kêu “trảo trảo” dưới mạn thuyền bày mưu cho
Nguyễn Hoàng giết Lập Bạo trên hành trình mở cõi… đã nói lên được vẻ đẹp tài
đức của họ đối với đại thể nhân dân đã chạm đến cõi linh thiêng mà lực lượng thần
linh tối cao phò giúp, chính điều ấy đã tạo nên sức sống huyền bí cho biểu tượng
đấng minh quân, anh hùng dân tộc trong đời sống tâm linh đậm chất folklore dân
tộc Việt. Những huyền tích được nhà văn sử dụng trong tác phẩm gắn liền với thế
97
giới đa tầng của sông nước vừa là chứng nhân lịch sử vừa dẫn dắt hành động của các
anh hùng dân tộc trước những biến cố có ý nghĩa thành bại trên chiến trận chống giặc
ngoại xâm hay chống lại các thế lực bạo tàn, vừa thực vừa hư ảo mang sức mạnh siêu
nhiên và tâm linh đã phản chiếu tâm thức của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc Việt
Nam là lịch sử của quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của bao
thế hệ con dân đất Việt, “tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau nhưng hào kiệt đời nào
cũng có”. Các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã khai thác các huyền tích
này nhằm đưa đến những thông điệp thời đại, khơi dậy niềm tin chiến thắng của nhân
dân Việt Nam trước các thế lực bạo tàn, thể hiện khát vọng về đất nước hùng mạnh,
vẹn tròn thống nhất và thái bình luôn cháy bỏng trong tâm thức dân tộc.
Sử dụng motip giấc mơ để tạo nên màu sắc huyền hoặc cho các biểu tượng là
thủ pháp được các nhà văn sử dụng khá phổ biến trong quá trình kiến tạo hệ biểu
tượng con người. Các giấc mơ được tưởng tượng riêng trong văn hoá dân gian, đó
là thế giới của các biểu tượng. “Giấc mơ là sự thực hiện ước vọng” [134, tr.18], nội
dung của giấc mơ là diễn trình của một ước nguyện, một nỗi sợ hãi nào đó mà con
người thường nhật đã từng lo nghĩ đến. Thông qua giấc mơ, chúng ta cảm thức
được bản thể bên trong của các biểu tượng, nhất là biểu tượng con người. Đó là giấc
mơ của Nguyễn Trãi về Nguyễn Thị Lộ, hồng nhan liệt nữ làm khuynh đảo bậc
chân nho Nguyễn Trãi, làm rung chuyển triều Lê. Bà xuất hiện nhiều lần trong giấc
mơ của Nguyễn Trãi. “Trên bầu trời mờ ảo xuất hiện nàng tiên mặc áo tứ thân ngũ
sắc, mặt trái xoan rạng ngời cặp mắt to đen huyền, có giọng nói du dương nhẹ
nhàng đọc bài thơ Hoa cúc của mình, trầm bỗng như hát…Hình bóng nàng tiên ấy
chập chờn trong nhiều giấc ngủ của Ức Trai” [104, tr.21]. Đó là giấc mơ của Trần
Nguyên Hãn về đấng minh quân Lê Lợi khi Nguyên Hãn ngủ nhờ Am Mẫu Thanh
Sơn. “Đang mơ màng thì nghe có tiếng trò chuyện của các thần rằng thượng đế
chọn Lê Lợi làm An Nam Quốc Vương, Nguyễn Trãi ở Nhị Khê phụ tá” [104, tr.74].
Giấc mơ của Nguyễn Thị Lộ toàn ác mộng đã tiên báo về số phận oan khiên của bà
cùng Nguyễn Trãi. Có lúc bà mơ thấy chồng bị trói thả trôi sông cùng hàng tướng
Thái Phúc, giấc mơ nào của bà cũng có màu máu. Phải chăng đấy là nỗi sợ từ trong
tiềm thức của bậc tài sắc trước chốn quan trường thị phi? Hồ Quý Ly, một kẻ sĩ,
98
một nhà cải cách lỗi lạc của thời đại ông cũng từng mơ gặp Nghệ Hoàng. Trần
Nghệ Tông biết rõ âm mưu tạo phản lập nên triều đại mới, Trần Nghệ Tông bóp cổ
Hồ Quý Ly, và hai người đánh nhau, dìm nhau xuống cái ao màu đỏ như là sự tiên
báo về con người có tài nhưng gặp bi kịch lịch sử. Giấc mơ phản chiếu đời sống
tinh thần của con người. Motip giấc mơ được các nhà văn sử dụng nhiều trong tác
phẩm là một thủ pháp nghệ thuật làm nên màu sắc huyền thoại cho các biểu tượng.
Motip hoá thân của các nhân vật trong truyện cổ tích thần kì được nhà văn sử
dụng trong tác phẩm như là mạch nguồn kết cấu các thiên truyện đồng thời gia tăng
tính huyền bí, sắc thái huyền thoại cho các biểu tượng nhân hình. Cuộc đời của các
nhân vật Nhuệ Anh hoá thành sư bà động Trầm, Dã Nhân; Từ Lộ hoá thành chàng
Cá Bơn, Dương Hoán như một lẽ tất yếu nói về sức sống vĩnh hằng của tình yêu và
lòng nhân trước sự vùi dập của cái ác. Nhưng, tác nhân tạo nên sự hoá thân ấy chính
là biểu tượng nước, đất và các biến thể của nó đang cài vào yếu tố kì ảo đẹp đẽ.
Nước đã cứu vớt Nhuệ Anh khi Từ Lộ chối bỏ nàng trên thác Oán. Và cũng chính
nước - dòng sữa Dã Nhân (do Nhuệ Anh biến thành) cứu sống Từ Lộ, và nước mắt
của sư bà động Trầm đã hoá kiếp hổ thành kiếp người của Từ Lộ - Dương Hoán
Thần Tông. Quá trình hóa kiếp của các nhân vật lịch sử không chỉ là thủ pháp kết
cấu nghệ thuật mà còn gia tạo sắc màu huyền hoặc cho các nhân vật lịch sử, qua đó
nhà văn khơi sâu hơn bản thể của con người với những nung nấu khát vọng không
thôi trong hành trình nhân thế trầm luân. Có thể thấy, với tư cách là một phương
thức nghệ thuật, biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân
thật, bút pháp huyền thoại hoá đã thổi hồn sinh khí mới mẻ vào các biểu tượng nhân
hình làm cho các biểu tượng huyền ảo, giàu giá trị biểu đạt hơn.
3.2.2. Bút pháp giải thiêng, phi tâm hoá
Dẫu biết rằng xoá bỏ khoảng cách lịch sử và tâm lí tiếp nhận đương đại luôn là
một việc làm khó khăn trong quá trình sáng tác của các nhà tiểu thuyết lịch sử hiện
nay bởi một khi xoá bỏ khoảng cách ấy, điều dễ xảy ra là phủ nhận lịch sử, bịa đặt
lịch sử, nhưng nếu không xoá bỏ được khoảng cách thì cuốn tiểu thuyết viết ra
chẳng khác nào cuốn biên niên sử về quá khứ, lại nhọc nhằng chữ nghĩa lê thê.
Trước rào cản này, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã sử dụng bút
99
pháp giải thiêng, phi tâm hoá lịch sử bằng điểm nhìn tự sự đa chiều phản biện để
“rộng đường dư luận” về các biểu tượng qua đó, tác động đến tâm lí tiếp nhận cũng
như việc rút ra các bài học nhân sinh cho hiện tại và hậu thế.
Đặc trưng vốn dĩ biểu tượng thuộc về “vô thức tập thể”, tâm thức cộng đồng.
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam với lối tự sự đa điểm nhìn đã tạo ra cộng
đồng diễn giải về hệ biểu tượng con người. Nếu trong những thời kì văn học qua,
các nhân vật lịch sử thường được viết với thái độ ngưỡng vọng từ phía người cầm
bút cũng như người tiếp nhận, với cái nhìn toàn tri của các chủ thể, hình tượng lịch
sử là trung tâm ngợi ca, là mẫu hình lí tưởng sống động, không có tì vết... thì nay,
trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các nhân vật lịch sử đã trở thành
huyền thoại ấy tiếp tục là biểu tượng nghệ thuật được soi chiếu bởi nhiều điểm nhìn
trần thuật khác nhau từ hệ thống nhân vật trong tác phẩm và quan trọng hơn các
điểm nhìn ấy luôn đối lập phản biện chứ không ngợi ca một chiều như điểm nhìn
chính sử. Họ được nhìn bởi cái nhìn đa chiều kích hơn từ những người cùng chiến
tuyến và kể cả kẻ thù không đội trời chung. Mỗi nhân vật lịch sử trở thành biểu
tượng, làm khuôn mẫu tính cách văn hoá của thời đại được soi rọi bởi nhiều điểm
nhìn của con người thời đại. Trong cái nhìn của Lý Huệ Tôn, Trần Thủ Độ là kẻ
thoáng nghịch, bành trướng. Với Nguyễn Nộn thì “Trần Thủ Độ là một tên táo tợn,
không khác gì Tề Hoàn Công - ấy là nói về thủ đoạn xảo trá” [40, tr.121]. Nhưng
với quan quân nhà Trần, “Trần Thủ Độ là người có nhân cách lớn. Ông luôn luôn
đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết” [40, tr.197], đến ngay việc giết chết Huệ
Tôn, Trần Thủ Độ cũng nhận được sự chiêu tuyết: “Nếu lúc ấy thái sư cứ khư khư
giữ lấy điều thiện nhỏ, chắc chắn ông sẽ phạm vào tội ác lớn. Một đằng là hại một
người để cứu muôn người. Đây là sự lựa chọn dứt khoát. Thái sư chọn con đường
cứu muôn người” [40, tr.192]. Lê Tần, một vị tướng trẻ đã có nhận xét làm nổi bậc
vẻ đẹp Trần Thủ Độ: “Ông xét đoán công việc như thần, tiên lượng được cả những
điều nhỏ nhặt và bất ngờ có thể xảy ra. Đấy là đức quý nhất của người làm tướng.
Quý hơn cả là thái sư rất trọng hậu đối với người hiền tài. Và không có lòng đố kị”
[40, tr.230]. Trần thuật đa điểm nhìn từ nhiều nhân vật khác nhau trong tác phẩm
vừa có ưu điểm vừa có hạn chế nhất định nếu đó là điểm nhìn nhiều chiều đa tuyến
100
hay điểm nhìn một chiều đơn tuyến. Trong trường hợp điểm nhìn từ một tuyến nhân
vật và đơn trị cùng hướng về cái đích đã được xác định nó sẽ làm nên dàn hợp
xướng đồng ca mang giọng điệu sử thi ngợi ca các đấng minh quân, các anh hùng
dân tộc. Nếu đó là điểm nhìn đa trị từ nhiều tuyến nhân vật khác nhau sẽ đưa đến
cái nhìn đối chất, so sánh làm cho đối tượng được soi rọi nhiều chiều. Khi chân
dung lịch sử Trần Thủ Độ được tạo lập từ cái nhìn thiện cảm, ngợi ca tài đức chủ
yếu từ phía tôn thất nhà Trần thì kẻ sĩ Hồ Quý Ly trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh đón nhận điểm nhìn phản biện đa chiều hơn, làm nổi rõ tài năng và
khát vọng canh tân đất nước của con người này trước lịch sử. Khi viết về nhân vật
Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đặt nhân vật vào thế giằng co giữa các thế lực có
chủ trương khác nhau, một bên thực hiện biến pháp cải cách do Hồ Quý Ly dẫn đầu
với một bên là phe thủ cựu bảo thủ do tôn thất nhà Trần cầm chịch. Các phe phái
không ngừng đưa ra bàn luận nhận xét về nhau. Nếu Hồ Quý Ly luôn nhận được sự
cảm thông của Hồ Nguyên Trừng, cái nhìn phấn khích của Hồ Hán Thương và
Nguyễn Cẩn: “Minh đạo” là “Đường sáng!”, Đạo sáng! “là đường đi của minh
chủ” thì các tôn thất nhà Trần đánh giá Hồ Quý Ly là một con người thực tài nhưng
không thực tâm với nhà Trần. Hồ Quý Ly là kẻ gian tâm, chủ mưu chiếm ngôi, xoá
bỏ nhà Trần lập nên nhà Hồ. Trần Nguyên Hàng, Trần Nguyên Uyên, Trần Khát
Chân đều xem Hồ Quý Ly là loạn thần, phản bội, tàn bạo. Các khanh tướng nhà
Trần đều xem Hồ Quý Ly là “Tần Thuỷ Hoàng của nước Việt”. Trong khi các tôn
thất tỏ rõ nghi ngờ và chống đối, thì Nghệ hoàng, người mà Hồ Quý Ly từng nhận
thấy là kẻ hiểu mình hơn cả. Sau khi đọc cuốn Minh Đạo của quan Bình Chương
Hồ Quý Ly ông đã “thấy ngay được tinh thần riêng một cõi” [77, tr.461]. Ông nhận
xét “chỉ có Hồ Quý Ly lúc này mới đủ tầm vóc trí lực để giữ con thuyền xã tắc
trong giông bão” [77, tr.352]. Trong bối cảnh này, chỉ có Nghệ hoàng là người có
thể dùng thực quyền của mình để ngăn trở Hồ Quý Ly nhưng nhà văn đã đặt ông
vào tình thế chẳng đặng đừng, hoặc do vô tình hoặc do bất tài, bất lực mà Nghệ
Hoàng làm “bà đỡ” bất đắc dĩ cho Hồ Quý Ly. Vì vậy, hình tượng Hồ Quý Ly trở
nên nổi bật trên chính trường lúc bấy giờ. Bên cạnh điểm nhìn của phe thủ cựu, tác
giả cũng đặt Hồ Quý Ly trong cái nhìn trung dung của kẻ sỉ đương thời. Dưới cái
101
nhìn của kẻ sĩ Sử Văn Hoa và Phạm Sinh, Hồ Quý Ly là người đầy táo bạo “Ông ta
là người dám trên đầu nào biết có ai” [77, tr.636]. “Ông ta thông minh, có thể nói
sâu sắc đến tinh tế, nhưng đầy tham vọng… tham vọng đến ngạo mạn…Vừa tàn bạo
đến cùng cực nhưng lại vĩ đại đến vô cùng. Vừa đáng căm giận lại vừa đáng
thương, đáng kính” [77, tr.727]. Và “lúc này còn quá sớm để khen chê ông ta. Chỉ
biết rằng đất nước mình đang cần lột xác” [77, tr.636]. Không phải ngẫu nhiên mà
mọi cái nhìn đều đổ dồn về Hồ Quý Ly, đó là “thuyết âm mưu” mà nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh sử dụng để làm nổi rõ vai trò, vị trí của Hồ Quý Ly trong bối cảnh lịch
sử xã hội bấy giờ.
Lê Lợi, một đấng bậc anh quân từng được huyền thoại hoá bằng các truyền
thuyết dân gian, nhưng để khắc tạo rõ hơn về con người này, các nhà văn tạo ra
trường điểm nhìn nghệ thuật đối lập nhau. Với Nguyễn Trãi, có lúc xem Lê Lợi “là
một con người lỗi lạc, ít học nhưng biết trọng dụng người có học…một con người vĩ
đại như núi Thái Sơn” [148, tr.155], nhưng sau hai năm lên ngôi cửu trùng, trị vì
đất nước, đấng minh quân Lê Lợi vẫn không giữ được tâm tịnh trước thói đời xu
nịnh. Nguyễn Trãi hoài nghi chính con người mà ông hết mực tụng ca một thời.
Ông “không thể hiểu vì đâu mà một bậc đế vương anh hùng, nhân từ, sáng suốt như
Lê Lợi mà chỉ sau hơn hai năm làm vua lại trở nên nghi kị, thiển cận, hẹp hòi, hiếu
sát đến mù quáng thế này? Lẽ nào đó mới là con người thực của Lê Lợi?...” [104,
tr.212]. Qua điểm nhìn của Trần Nguyên Hãn, “vua ta là người sáng nhưng không
hiền. Người có thể chia hoạn nạn chứ không thể chia phú quý” [104, tr.254]. Trong
cái nhìn của đại chúng, “họ bảo ông dựng cờ vì muốn báo thù nợ nước mất nhà tan,
có kẻ bảo ông muốn mưu đồ vương bá, người ta còn nói ông có thiêng mệnh trao
phó trong vầng hào quang sáng loè quanh chiếc nôi bện cỏ, ông giáng trần là để
cứu nguy con cháu rồng tiên Đại Việt” [104, tr.124]. Cách thức tạo ra nhiều điểm
nhìn trần thuật để soi chiếu vào nhân vật trung tâm là cách nhà văn gửi gắm dụng ý
giải huyền thoại, phi tâm hoá nhưng lại cài vào đó tâm thức của cộng đồng để cho
biểu tượng trở nên sống động, chân thực hơn trước lịch sử.
Nếu bút pháp huyền thoại, sử thi kiến tạo nên biểu tượng thiêng thì bút pháp
giải thiêng, phi tâm hoá lại kiến tạo nên biểu tượng đời thường. Đây là đặc điểm
102
khác biệt khi viết về nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1986
và sau 1986. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1985 chịu sự chi phối của
cảm hứng chiêm bái và ngưỡng vọng, các nhân vật lịch sử dù nhà văn không né
tránh nói đến cái mất mát, đau thương nhưng chủ yếu là bi tráng, bi hùng. Khép lại
những trang sách Bóng Nước Hồ Gươm (Chu Thiên), hình ảnh Tổng đốc Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu vẫn làm xúc động người đọc nhưng đồng thời cũng thấy tự
hào về họ. Trong Quận He Khởi nghĩa (Hà Ân) hiện lên là một con người đẹp về
đạo đưc, tài năng về quân sự. Đọc xong tác phẩm, nhân vật Quận He hiện lên thật
kiêu hùng, trở thành bức tượng đài bi tráng về hình ảnh người nông dân trong tâm
thức dân tộc. Trong khi đó, sự kết hợp giữa cái thiêng và cái đời thường là nét đặc
trưng của tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Những hình tượng lịch sử được
khai thác sâu ở góc nhìn nội tâm, chiều sâu của những suy nghĩ. Họ chất vấn lịch sử
là để bảo vệ chính danh cho hành động lịch sử của họ như trường hợp Trần Thủ Độ
chất vấn Lý Huệ Tôn rằng “Chúng ta là những người làm ra lịch sử, bệ hạ thử xem
xét, trước bệ hạ đã có triều đại nào, chỉ hai cha con kế tiếp trị vì thiên hạ, đã biến
đổi được một dân tộc anh hùng như Đại Việt này thành một lũ ăn mày. Cũng trong
vòng mấy chục năm, cha con bệ hạ đã triệt tiêu huỷ diệt tới nửa số dân của mình
bằng đói kém, bệnh dịch…với tài năng và tài trí của bệ hạ, chẳng bao lâu bệ hạ sẽ
hoàn thành sứ mệnh diệt chủng!” [40, tr.30]. Họ chất vấn lịch sử bởi họ nhận ra sự
cô đơn trong tâm hồn họ khi lịch sử chọn họ làm người vĩ đại mà tước đoạt bản thể
tự nhiên của một con người. Từ tận đáy lòng, Lê Lợi biết “mình cũng chỉ là một con
người bình thường như ai, khi cao cả khi thấp hèn” [148, tr.125], nhiều khi ông tự
vấn “Tại sao xã tắc Đại Việt lại chọn ta mà không phải ai khác? Ta đang là ông
vua trên chót vót đỉnh cao quyền lực hay chỉ là một kẻ khốn khổ bị tước đoạt mất
cuộc đời thú vị, sung sướng, tự do mà ta luôn nuối tiếc” [148, tr.125]. Những tháng
năm chinh chiến, ông đã sống một cuộc đời khác, mất hẳn cuộc đời thanh xuân cũ
khi còn sống với những trang trại núi đồi trùng điệp cùng thân phụ, thân mẫu với
bao nhiêu lạc thú “tự nhiên nhi nhiên” tuyệt vời. Nguyễn Huệ cũng vậy, với các
chiến công liên tiếp đã tạo cho ông một thứ quyền lực vô hình gần giống với quyền
lực của thần linh đối với kẻ chiêm bái. Nhiều người đang thèm khát điều ấy, nhưng
103
hơn ai hết, ông thấm thía nỗi cô đơn, thèm muốn một cuộc sống giản dị bởi xung
quanh ông giờ đây có những khoảng cách với mọi người, kể cả Lãng người bạn
thân luôn được ông để theo bên mình. Với Ngọc Hân công chúa, “cái ý thống nhất”
ở trong cuộc hôn nhân với Nguyễn Huệ được sử sách và hậu thế vinh danh nàng
như một liệt nữ vì xã tắc giang sơn, nhưng nàng cũng không tránh khỏi những lo
toan “Hư hay thực đây?... Trời hỡi! Làm sao tôi gánh nổi hạnh phúc và trách nhiệm
to tát như vậy!... Tại sao không ai dạy cho ta biết trên đời sẽ gặp những cảnh huống
này, những tâm trạng mù mờ không phải là hạnh phúc mà cũng không phải là đau
khổ, không phải là một tai hoạ đáng sợ hãi, lại càng không phải là một diễm phúc
đáng mơ ước! Nó là cái gì? Ngọc Hân không trả lời được” [36, tr.997-1001]. Công
chúa cảm thấy cô đơn và bàng hoàng… Có thể thấy rằng, các nhân vật lịch sử được
chọn làm biểu tượng luôn tự ý thức về giá trị của mình trước thời đại. Giá trị của
biểu tượng vì vậy không đơn thuần là sự quy ước rõ nghĩa của các điểm nhìn bên
ngoài mà bản thân nó có khả năng tạo nghĩa. Lịch sử không đơn thuần là bài học
giáo huấn luân lý, là tấm gương soi mà lịch sử còn có tính thời sự. Việc các nhà văn
để cho các nhân vật lịch sử chất vấn thời đại và bản thân làm cho chính những con
người lỗi lạc ấy mang vẻ đẹp đời tư, họ trở nên gần gũi và bình dị hơn. Đấy là vẻ
đẹp tự thân mà lịch sử thời đại đã cuốn đi, bị khuất lấp ít được đề cập đến.
Tiểu kết Chương 3
Đặc trưng cho mỗi hệ thống kinh tế - xã hội luôn bao hàm một kiểu tính cách
văn hoá nào đó tương ứng với những ứng xử, thái độ, chuẩn mực và giá trị do hệ
thống ấy đạt được để nó vận hành và tái sản xuất, ở các cá nhân tham gia nó. “Để
đảm bảo cho sự vận hành suôn sẻ của một xã hội nhất định, các thành viên của nó
phải đạt tới một kiểu tính cách khiến cho họ muốn hành động với tư cách thành viên
của xã hội ấy hay của một giai cấp của nó” [116, tr.22]. Kiểu tính cách này mỗi khi
được gọi tên, nó gợi ra, làm liên tưởng đến những giá trị văn hóa của thời đại mà nó
được sản sinh, nó là biểu tượng phản ánh thuộc tính tư tưởng, văn hóa của cộng
đồng xã hội đó.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, hệ biểu tượng con người được
các nhà văn xây dựng với phần lớn là những nhân vật lịch sử có thật. Đó là những
104
hình tượng lịch sử đạt đến mẫu hình văn hóa cho giai tầng của họ. Quá trình tái
dựng chân dung lịch sử văn hóa này, một mặt các nhà văn bám giữ cái lõi đã tồn tại
trong chính sử và tâm thức cộng đồng bấy lâu, đồng thời cũng mở rộng biên độ tồn
tại phù hợp với mĩ học tiếp nhận đương đại bởi nếu không đạt được điều đó thì tác
phẩm văn học không khác mấy sao chép lịch sử. Các nhân vật lịch sử đã sống, nhà
tiểu thuyết ngày nay cung cấp sự sống cho họ nhưng sự sống đó giá trị đến đâu còn
tùy thuộc vào điểm nhìn của mĩ học sáng tạo và tiếp nhận. Có những nhân vật lịch
sử là biểu tượng văn hóa theo nghĩa thành công cho một tư tưởng dấn thân nào đó
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Lợi, Quang Trung… Cũng có những nhân vật
lịch sử mang nghĩa ngược lại thất bại như Hồ Quý Ly. Nhưng đó là những ghi chép
lịch sử. Giá trị của một nhân cách văn hóa không xét đến sự tồn tại nhất thời, đồng
ca cổ xúy mà cần có sự thanh lọc của thời gian với tiến trình vận động của lịch sử
nhân loại. Đa dạng và đa nghĩa là thuộc tính đặc trưng của biểu tượng. Xét lại các
nhân cách văn hóa một thời từ cái nhìn đa chiều của hậu thế thời kì đổi mới để sự
hiểu sâu sắc hơn cũng là cách thức đem lại sự sống mới cho các nhân cách văn hóa
đó trước dòng chảy của lịch sử.
105
CHƯƠNG 4
HỆ BIỂU TƯỢNG VĂN HOÁ CỘNG ĐỒNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Văn hóa và văn học nghệ thuật là những thành tố làm nền tảng tinh thần của xã
hội. Như một lẽ tồn tại tự nhiên xuyên thấu qua nhau giữa văn hoá và văn học nghệ
thuật, các biểu hiện và giá trị văn hoá đã ngấm vào mạch nguồn văn học không ranh
giới. Viết về văn hóa đòi hỏi người nghệ sĩ phải có những hiểu biết sâu sắc về văn
hóa dân tộc, phải tỉ mỉ hơn trong việc truy tầm, nghiên cứu sử liệu. Qua lăng kính
và cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn, văn hóa không chỉ phản ánh tâm hồn dân tộc mà
hướng đến sự làm giàu thêm bản sắc. Những biểu hiện của nền văn hóa dân tộc rất
đa dạng, phong phú trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, đó là những tín
ngưỡng văn hóa tâm linh, những phong tục tập quán, những lễ hội sinh hoạt được
các nhà văn tái hiện làm thành hệ những biểu tượng nghệ thuật nhằm gởi gắm
những ý niệm, những thông điệp thức nhận lịch sử và văn hoá dân tộc trong bối
cảnh mới của đất nước.
4.1. Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội
4.1.1. Biểu tượng tín ngưỡng đạo Mẫu
Đạo Mẫu của người Việt trước tiên là một tín ngưỡng cộng đồng thể hiện sự
sùng bái tự nhiên diễn tiến như là một giai đoạn tất yếu của loài người trong quá
trình phát triển nói chung. Đối với dân tộc Việt Nam - một dân tộc gắn liền với nền
văn minh nông nghiệp lúa nước, phần lớn phụ thuộc vào đất trời, thổ nhưỡng và khí
hậu, vậy nên việc gắn kết bền chặt với thế giới tự nhiên, sùng bái thế giới tự nhiên
là một nét đặc trưng trong tín ngưỡng văn hóa người Việt. Trong đời sống dân gian,
việc thờ cúng thế giới tự nhiên của người Việt theo dạng tín ngưỡng Tam Phủ với
ba bà cai quản ba vùng Trời, Đất, Nước và được gọi là đạo Mẫu gồm có Mẫu
Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải. Người Việt lấy Mẫu làm biểu tượng
cho tín ngưỡng của mình xuất phát từ tâm thức nông nghiệp, coi trọng tình cảm.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia, tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt
Nam là tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo lấy việc
tôn thờ người Mẹ làm thần tượng. Tín ngưỡng mà ở đó được giới tính hóa mang
106
khuôn hình người mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những
ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho
giáo phong kiến, thể hiện thiên chức sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người.
Với sắc thái văn hóa đặc trưng và giá trị nhân văn to lớn, ngày 01/12/2016, tại Phiên
họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11
của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang
Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21
tỉnh thành của Việt Nam (các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra và thành phố Hồ Chí
Minh) đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại.
Viết về đạo Mẫu với ý nghĩa ngợi ca văn hóa bản địa, đồng thời đáp trả sự
cưỡng đoạt văn hóa từ các nền văn hóa khác thì tác phẩm Mẫu thượng ngàn của nhà
văn Nguyễn Xuân Khánh là tiêu biểu hơn cả. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử, văn
hóa phong tục. Là tiểu thuyết lịch sử vì nó viết về xã hội Hà Nội cuối thế kỉ 19, gắn
với việc người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2. Đó là thời điểm lịch sử mà người
Pháp ra tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu với bốn yêu cầu: 1- Nước Nam phải
nhận cho nước Pháp bảo hộ. 2- Phải nhường thành phố Hà Nội cho nước Pháp. 3-
Đặt thương chính ở Bắc Kỳ. 4- Sửa lại việc thương chính ở các tỉnh và giao quyền
cho người Pháp cai quản” [78, tr.88-89]. Và đáp lại các yêu cầu ấy, Tổng đốc
Hoàng Diệu dấy binh chống trả và thất bại. Tiếp sau sự kiện ấy là cuộc chiến của
người Pháp với quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu. Rồi người Pháp tiếp tục
truyền bá Thiên chúa giáo và cho xây dựng Nhà Thờ Lớn… Là tiểu thuyết văn hóa
phong tục vì Nguyễn Xuân Khánh dựa vào thế giới văn hoá tâm linh đạo Mẫu của
người Việt để sáng tạo nên tác phẩm.
Cùng với những sự kiện lịch sử diễn ra, Mẫu bao trùm cả không gian làng Cổ
Đình. Mẫu hiện diện trong mỗi nết nhà, nếp nghĩ của dân làng. Mẫu hiển linh và
luôn giúp đỡ dân làng, dung chứa khát vọng của dân làng Cổ Đình. Với tâm thức
“Phúc đức tại Mẫu”, mỗi khi con người đến với Mẫu thường hướng đến cầu phúc,
cầu an như cầu con, cầu sức khỏe; cầu tài, cầu lộc. Chúng ta không ngạc nhiên khi
chị cả Cỏn khấn xin cầu tự với lòng thành kính. Chị cầm lấy gói lộc, “cung kính giơ
107
thật cao trên đầu, chị cảm thấy lòng mình như rúng động” [78, tr.534]. Chị “rước
chân nhang ở đền Mẫu về thờ vào đầu năm, cuối năm linh nghiệm liền. Bà sinh con
trai thứ hai, đặt tên là Ly” [78, tr.534]; Rồi Nhụ bị cưỡng đoạt bởi người Tây, sau
thời gian mất tích, cô trở về, bà Mùi động viên “Mẫu đã hiển hiện cứu con…Mẫu
đã thương xót đưa dắt con trở về đây, tức là Người sẽ che chở cho con. Sống với
Mẫu, con sẽ thấy thảnh thơi, vơi nhẹ” [78, tr.798]. Sau bao biến cố được Mẫu che
chở, Nhụ nhận ra “đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của Mẫu” [78, tr.807].
Ẩn hiện lung linh trong tác phẩm Mẫu thượng ngàn là biểu tượng Mẫu ăn sâu, gắn
kết dân làng Cổ Đình. “Nếu thiên tính nữ là biểu hiện của các vẻ đẹp sánh ngang
với thượng đế” (Chevalier) thì đạo Mẫu chính là sự thánh hoá cho những phẩm chất
cao đẹp ấy. Trong niềm tin tuyệt đối, “có sông, có núi, cỏ cây hoa lá, lại thêm cái
hồn của con người thành kính toả vào đó, các ngôi đền thành nơi dung chứa những
khát vọng và nỗi niềm của mọi người dân nghèo khổ, nơi ấy trở thành chốn linh
địa… Cái tôn giáo dân gian ấy đã an ủi bao tâm hồn cay cực của nông dân” [78,
tr.421]. Từ trong tâm thức, hành động của người trẻ đến người già, từ con gái, đàn
bà đến con trai, đàn ông, từ người dân cùng đinh đến những người có chức sắc trong
làng, từ người dân bản địa đến kẻ đi chinh phục, khai minh văn hóa đều bị chi phối
bởi Mẫu.
Sức sống huyền diệu của văn hóa dân tộc - tâm thức Mẫu và tín ngưỡng thờ
Mẫu được nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lí giải qua hình tượng đầy nữ tính của
những người đàn bà làng Cổ Đình. Mẫu hiện tồn trong làng Cổ Đình, che chở, bao
bọc dân làng, đó là Địa Mẫu, Thiên Mẫu, Mẫu Rừng và đặc biệt hơn cả đó là Mẫu
Mẹ gắn liền với những người đàn bà của làng này qua đời sống phồn thực của họ.
Chính “Người đàn bà là Mẫu, là Mẹ - người đàn bà là Đất xứ sở. Người đàn bà là
văn hiến” [78, tr.806]. Dường như mỗi một người đàn ông trong làng này chí ít
thuộc về người đàn bà nào đó, rồi bị họ mê hoặc, bị họ chi phối và được tái sinh
cuộc đời. Nhà thực dân Philippe bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của Mùi ngay từ lần gặp đầu
tiên. Khi chiếm được Mùi, Philippe bị thôi miên, bị hút chết bởi đời sống hoan lạc
đầy nữ tính. Càng truy hoan bên Mùi, Philippe càng bị chinh phục. Càng theo chân
Mùi đến núi Mẫu, Philippe càng sợ cái vẻ đẹp lộ phát đầy huyền bí khi Mùi ngồi đồng.
108
Trong trường hợp này, tâm thức Mẫu phản ánh “nguyên lí mẹ” gắn với những người phụ
nữ, biểu đạt giá trị Mẫu tính của văn hóa Việt đã chống lại phần dương tính của văn hóa
phương Tây theo chân những kẻ xâm lược, muốn đồng hóa văn hóa bản địa.
Mẫu là hồn của đất, bí ẩn đến khó lí giải. Cuộc đối thoại giữa nhà dân tộc học
René, cha đạo Colombert, ông chủ đồn điền Philippe về Đất thật thú vị. Thú vị bởi
nhà khoa học giải thích sự huyền bí của đất bản địa bằng siêu hình, còn cha đạo lại
giải thích bằng khoa học, nhưng rồi chẳng thể có lí giải nào trọn vẹn. Chỉ biết rằng
“Người dân xứ sở này tin rằng mỗi vùng địa lí đều có cái thần riêng của nó, cái
hồn riêng của nó: đó là Hồn đất…Mỗi dòng sông, mỗi cánh rừng, mỗi tấc đất của
họ đều đã chôn vùi bao nhiêu thân xác của tổ tiên họ. Tất cả những thứ đó hợp lại
tạo ra hồn đất” [78, tr.215-216]. Chính hồn đất ấy khiến cho bao kẻ xâm chiếm Đại
Việt cứ ngỡ mình là chúa tể chẳng thể huênh hoang được mà sợ hãi sự trả thù. Nhà
dân tộc học Reneé càng nghiên cứu sâu về văn hóa bản địa, càng nhận ra “hồn đất
thâm hiểm lắm, nó sẽ trả thù, nhưng đường đi nước bước rất ngoắc ngoéo” [78,
tr.216] bởi hồn đất là “tổng hợp của những hồn người, hồn ma, hồn cây cỏ, ao hồ,
cả hòn đá nữa” [78, tr.193]. Sự huyền bí và quyến rũ của Mẫu như một cung cách
đáp trả sự cưỡng đoạt văn hóa, “đều như chẳng chịu hòa hợp, chúng đều mang
những tố chất loại trừ” [78, tr.374], khắc chế lại bản sắc văn hóa của các dân tộc
khác khi áp đặt lên nền văn hóa bản địa Đại Việt.
Từ thực tiễn xã hội đến sáng tác văn học, ý thức về văn hóa dân tộc luôn được
tôn trọng, gìn giữ. Đất nước Việt Nam với sự giàu có, đa dạng, phong phú về truyền
thống văn hóa đã linh hoạt thuần phục, chắt lọc bao tinh hoa văn hóa từ các nền văn
hóa khác nhau để làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trường tồn cho
đến tận mai sau. Chính những người cho mình quyền khai minh khai sáng dân tộc
thuộc địa đã phải khép mình lại trước sức mạnh, và sự mê hoặc của văn hóa Đại
Việt. Đặc biệt, ý thức mẫu quyền thấm sâu vào trong tiềm thức văn hóa tộc người
đã làm nên sức sống vĩnh hằng của đạo Mẫu trước sự xâm thực văn hóa của người
phương Bắc, của thực dân Pháp cũng như nhiều nền văn hóa khác sau này. Với tiểu
thuyết Mẫu thượng ngàn, nhân vật chính cho tiểu thuyết này “thì hẳn có thể nói
nhân vật chính đó là nền văn hoá Việt, cái thực tại vừa vô cùng hiện thực, vừa rất
109
hư ảo, bền chặt, xuyên suốt mà cũng là biến hoá khôn lường, rất thiêng và cũng rất
chung, rất bản địa và cũng rất nhân loại” [105]. Lấp lánh trong tác phẩm này là hệ
thống các biểu tượng tín ngưỡng dân gian, phong tục dân gian, lễ hội dân gian đan
xen, nối tiếp, cộng sinh làm thành sợi dây kết nối các nhân vật và cấu trúc tác phẩm.
Trong đó, tinh thần của đạo Mẫu không chỉ hiển hiện trong đời sống người dân bản
địa Việt Nam mà nó trở thành mầu nhiệm khó hiểu đối với người Trung Hoa khi
xâm lược xứ sở này mấy nghìn năm qua, hay người phương Tây với ý thức khai
sáng văn minh trong quá trình thuộc địa hóa các dân tộc phương Đông. Những kẻ đi
xâm lược luôn có xu hướng đồng hóa văn hóa đã cảm thức được sức mạnh thần bí
nào đấy của Đất và Người xứ sở Đông phương này để rồi họ thốt lên không biết rồi
đây ai sẽ đồng hoá ai, dân tộc nào khai sáng cho dân tộc nào. Qua bao năm sống với
Đất và Người dân Việt, những kẻ chinh phục chợt nhận ra tục thờ đạo Mẫu là “đạo
thờ khí thiêng của thiên nhiên, thờ người mẹ đã sinh ra thế gian này. Thờ như vậy
tức là thờ những điều cao quý nhất” [78, tr.427]. Mẹ Đất, Mẹ Rừng là Mẫu “sinh ra
mọi vật, nuôi dưỡng muôn loài để rồi tiếp nhận lại từ chúng cái mầm đầy sức sinh
nở” [67, tr.288]. Mẫu Mẹ linh thiêng khi tâm hồn, tư tưởng của con người thành kính
toả vào đó để rồi chính Mẫu Mẹ bao dung che chở cho những khát vọng và nỗi niềm
của muôn người. Với tính thiêng liêng, với vai trò của người mẹ, “đất can thiệp vào
đời sống xã hội như là một đảm bảo cho các lời thề. Nếu lời thề là một mối ràng buộc
cốt tử của cộng đồng thì đất là mẹ, là vú nuôi của toàn xã hội [67, tr.289].
Văn hóa là phương thức con người thể hiện những tri thức bản địa đã được
đúc kết qua nhiều thế hệ. Tri thức bản địa là nền tảng cơ bản, nguồn nuôi dưỡng cho
sự phong phú và sức sống của nền văn hóa dân tộc. Trong định hướng bảo tồn văn
hóa bản địa, tiếp cận văn hóa thế giới, bên cạnh sự sàng lọc chọn lấy những giá trị
tinh hoa văn hóa nhân loại cũng cần đến khả năng thích nghi và biết phát huy thế
mạnh văn hóa bản địa để không những bị che khuất mà còn tăng thêm sự phong
phú, hấp dẫn riêng của văn hóa Việt. Để thực hiện được điều đó, không chỉ bắt đầu
bằng cơ chế, chính sách về văn hóa mà còn gắn với sự tự nhận thức bảo tồn văn hóa
truyền thống dân tộc của mỗi người dân Việt trong thế giới phẳng ngày nay. Đạo
Mẫu với những giá trị tri thức địa phương mà bao hàm ở đó là đời sống tâm linh,
110
không gian văn hóa, thực hành văn hóa vốn dĩ được xác lập ngay từ buổi sơ khai và
dần được bổ sung sâu sắc qua trình phát triển gắn với căn tính dân tộc Việt - biểu
tượng văn hóa thuần Việt được các nhà văn tái hiện, khắc họa sâu sắc trong các tác
phẩm nhằm gởi gắm về sự uyển chuyển của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập
và phát triển hiện nay, là cội gốc cấu thành bản chất của xã hội, cấu thành phẩm
chất của mỗi con người trong thời đại mới.
4.1.2. Biểu tượng tôn giáo đạo Phật
Đạo Phật là tôn giáo ăn sâu trong đời sống văn hóa dân tộc Việt, có sức sống
mãnh liệt, vượt lên trên các tín ngưỡng khác bởi hệ thống giáo lý, giáo luật đạt tính
minh triết, cùng với đó là số lượng lớn về chùa chiền, tín đồ trải khắp các vùng
miền. Nếu xét riêng, đạo Phật sẽ có hệ biểu tượng độc lập như bánh xa luân hồi,
chùa chiền, sư sải, các quy luật nhân sinh… Trong trường hợp này, chúng tôi phân
tích những giá trị tiêu biểu của đạo Phật từ điểm nhìn biểu tượng văn hóa - nghệ
thuật từ những nét nghĩa khái quát của các biểu tượng riêng lẻ như chùa làng, đất
Phật, triết lý nghiệp duyên, từ bi hỉ xả… trong mối gắn kết với cuộc đời, số phận
các biểu tượng nhân hình - các nhân vật làm thành biểu tượng trong tác phẩm nghệ
thuật. Thông qua giá trị thiêng của đạo Phật chi phối đến hành vi, căn tính con
người, chúng tôi hướng đên tìm thấy thông điệp nhân sinh mà các nhà tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đương đại như nhắn gửi chúng sinh về thời đại mà phần dương
tính tranh chấp nổi trội sẽ gây ra nhiều hậu quả khôn lường trong đời sống xã hội,
mặt khác các nhà văn hướng đến lên án, phê phán mọi hành vi thương mại hóa đạo
Phật đang diễn ra khắp nơi trong đời sống nhân sinh hiện nay.
Trong mối quan hệ giữa văn hóa và văn học nghệ thuật, những tác phẩm văn
học viết về Phật giáo, đặc biệt là các tiểu thuyết lịch sử viết về thời Lý Trần, vấn đề
Phật giáo với những chùa chiền, các sư sãi xuất hiện nhiều trong tác phẩm như là
dụng ý nghệ thuật của nhà văn nhằm phản ánh đời sống văn hóa dân tộc. Bảng lảng
trong không khí Thiền với tiếng kinh tụng, khói hương trầm toả mùi thơm ngát là
lòng người thành tâm đi vào thế giới hư vô, tẩy trần. Từ không gian núi rừng, chùa
chiền Yên Tử đến không gian mỗi ngôi nhà, không gian sống của cá nhân đều thấp
thoáng bóng Phật từ bi. Con người cảm nhận được “trên đầu chúng ta luôn có tàn
111
lọng của đức Phật che chở. Dù có hiểm nguy nào, núp dưới bóng râm của Người,
thì cũng qua khỏi. Chẳng có ma chướng nào, chẳng có loài ngạ quỷ súc sinh nào
đụng chạm được tới” [79, tr.28]. Trong tâm thức của người Việt, “Phật, chủ về cả
thế tục lẫn tâm linh. Nên nhớ rằng nếu khờ dại mà tước đi của con người phần tâm
linh, thì họ sẽ bơ vơ không nơi an trụ thân tâm, sẽ cô đơn hoang dã như loài thú.
Nói cho đúng thì Phật liên kết chúng sinh lại...” [40, tr.98]. Vậy nên, con người đến
với cõi Phật không nhằm chạy trốn cuộc đời, tìm nơi cứu rỗi mà để thanh tẩy tâm
hồn cho trong sạch, cao quý hơn. Từ Trần Thủ Độ- vị kiến trúc sư của nhà Trần, sau
khi kiến thiết xong thời đại của mình, ông lập đàn cầu siêu trong cả nước là muốn
tìm sự thanh tẩy cho tâm hồn và gột rửa nợ máu của thời đại do thời cuộc lịch sử
đưa đẩy hoặc do chủ tâm của ông. Hay bậc đế vương Đức Thánh Trần lập Thiền
phái Trúc Lâm đâu phải chăng chạy trốn cuộc đời thăng trầm mà nhân tâm của Ngài
hướng đến sự an yên cho bao người và dân tộc, được che chở dưới bóng Phật từ bi.
Một Hồ Quý Ly không thích đạo Phật, không thích chùa chiền vì nó làm mềm yếu
tư tưởng con người trước trần thế, nhưng chính trong không gian uy nghi của ông
lại hiện hữu gian thờ Phật của bà Huy Ninh, chẳng những thế mà hàng ngày sau khi
làm xong mọi việc, ông đều đến đây thắp hương khẩn cầu. Một trong những nội
dung cơ bản mà Sử Văn Hoa viết trong Minh Đạo luận để phản lại Minh Đạo của
Hồ Quý Ly đó chính là vấn đề bảo vệ Phật giáo. Sử Văn Hoa đã viết “Hồn nước ở
ngôi chùa làng. Ngôi chùa làng giáo hóa, vơi nỗi khổ của người dân hèn. Nay nếu
ta bỏ hoang ngôi chùa làng thì hồn nước biết trú ngụ nơi đâu và Thái sư lấy ai làm
người ủng hộ cho Minh Đạo” [77, tr.519]. Có thể, điều chúng ta nhận ra qua mỗi
trang văn viết về đạo Phật là duyên nghiệp của mỗi con người khi đến với Phật
giáo, nhằm đi tìm sự thánh thiện, bình an. Nhưng đạo Phật và chùa chiền không
phải là nơi kinh doanh nỗi sợ hãi, nỗi bất an vì lòng tham vô đáy bất kể đó là
thượng đế hay thứ dân. Các nhà văn viết về đạo Phật đề cập đến sự cứu rỗi con
người từ triết lí tái sinh, luân hồi của nhà Phật để qua đó hướng thiện cho mỗi ý
nghĩ, hành vi, cảnh tỉnh sự phàm tục hóa đức tin của con người đương thời trước
hoàn cảnh. Trong tác phẩm Giàn thiêu, đức Phật từ bi giữ vai trò cứu rỗi và chuyển
kiếp của con người. Khi Nhuệ Anh buông mình xuống thác Oán tự vẫn thì được đức
112
Phật nơi Động Trầm cứu vớt và che chở. Khi Từ Lộ - Lý Thần Tông với lông vằn
vện như hổ thì nước mắt của sư bà Động Trầm (là Nhuệ Anh hóa thân) tắm gội
thanh sạch, hóa kiếp thành người. Trong tác phẩm Mẫu thượng ngàn, sau ba lần
chạy trốn càn của giặc Pháp, rồi cha mẹ chết, Nguyệt và An phải chạy trốn tay lý
trưởng định cưới Nguyệt làm bà Năm của hắn, chị em Nguyệt đói rách đã tìm đến
chùa Sọ, họ được đón nhận, chở che. Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh phân tích khá sâu sắc tư tưởng từ bi hỉ xả của Phật giáo thông
qua cuộc đời mỗi nhà sư và các nhân vật đại chúng. Nói đến từ bi hỉ xả là nói đến
chữ Nhẫn. “Chữ Nhẫn của đạo Phật không có nghĩa là sự yếu hèn, cam chịu… mà
cuộc đời lắm lúc cần phải biết dừng lại để suy ngẫm, để tích tụ sức mạnh” [79,
tr.256]. Cốt lõi của vấn đề là nhà văn tìm thấy bản thể từ bi trong mỗi con người.
“Tất cả mọi người đều có Phật tính, mặc dù vẫn mang trong mình tham sân si. Vậy
nên con người có thể hướng tới cái cao thượng… Cái cao thượng đó là cái tâm của
Phật. Đó là tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả. Tâm từ thương yêu tất cả chúng sinh.
Tâm bi thương xót người đương gặp đau khổ. Tâm hỉ cùng vui với những người
đang có niềm vui, điều thành công. Người đạt đạo xa lạ với lòng ghen ghét, ganh tỵ.
Tâm xả không dính chấp với những được thua ở đời” [79, tr.74]. Bóng Phật từ bi
che mát cuộc đời của mỗi người, răn dạy con người biết sống nhân văn hơn trước sự
vần vũ của thực tại khắc nghiệt. “Biểu tượng chùa làng Sọ là biểu hiện những giá trị
được chứa và tất cả những gì to lớn bao bọc, che chở, nương náu nuôi dưỡng cho
những gì bé nhỏ, bất hạnh, yếu đuối… Mái chùa làng Sọ không phải là một biểu
tượng vật lý cụ thể mà như một thực thể tinh thần, một ngôi đền ẩn náu trong tâm
thức cộng đồng - dung chứa những khát vọng, nỗi niềm, hóa giải mọi tục lụy trần ai,
là điểm tựa, cõi về” [164]. Khi dục vọng của con người càng lớn, xã hội ngày càng
phát triển, địa vị của quyền lực chính trị và đồng tiền càng lên ngôi cửu trùng chót
vót sẽ kéo theo những hệ lụy khó lường về văn hóa và lòng nhân. Nếu phần dương
tính của xã hội nổi trội cần phải được kiểm soát thì Phật giáo với lòng từ bi hỉ xả
như cân bằng những điều đó. Nếu Nho giáo với thuyết cai trị thiên hạ là phần dương
tính của xã hội thì Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. “Đạo Phật giữ phần linh
thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn
113
ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre, dưới mái rạ,
để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong lúc nhiễu nhương loạn lạc, trong
những năm lụt hạn đói khát, đem lại cho người dân ta sức chịu đựng dẻo dai để chờ
đến bình minh sẽ tới” [77, tr.495]. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh ngợi ca phật tính
tốt lành ấy bằng sự thức nhận của thầy giáo Hải, một con người được đào tạo chỉnh
chu trong trường Tây học. Sau bao cuộc dâu bể, thầy giáo Hải ngộ ra “Không có từ
bi, thế gian này sẽ rơi vào mông muội…Ta luôn phải tìm Phật trong bản thân ta.
Thế gian này rất cần đến cái tâm cao thượng. Có được cái vô ngã từ bi hỉ xả của
Đức Phật thì mới mong thế gian được an lành” [79, tr.333]. Quả thực, xã hội đương
đại hậu công nghiệp đang xáo trộn, đảo lộn mọi giá trị. Mối quan hệ giữa con người
và bản thể xã hội không rạch ròi, khó phân biệt. Sự giàu có về kinh tế, quyền lực
chính trị, địa vị cá nhân, tham vọng bá chủ làm nên bản thể xã hội bạo lực, vô nhân
tính. Là nhà văn phải nói được những tầng sâu ẩn ngầm của tâm thức xã hội và tìm
ra giải pháp hóa giải những nỗi đau của cuộc đời, Nguyễn Xuân Khánh đã lí giải nỗi
đau trần thế thông qua hình tượng các ngôi chùa. “Chùa luôn là điểm cất giữ những
gì sâu thẳm nhất của văn hóa Việt, đồng thời, chùa mang chức năng thuần hóa và
giáo hóa, có khả năng làm vơi nỗi khổ của người dân hèn. Thậm chí, chùa là nơi chứng
kiến và độ lượng trước những hoan lạc si mê, khai mở những hạnh phúc trần thế cao
đẹp và tinh khiết” [27]. Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đề cao tâm từ bi hỉ xả
của đạo Phật như là một thông điệp kêu gọi thế gian trở về với chính tâm để thoát khỏi
những đau khổ. Đạo Phật - biểu tượng của sự giải thoát và thức tĩnh lương tri.
Không chỉ có các trường phái triết học mới tập trung lí giải những vấn đề đời
sống xã hội và con người. Phật giáo với triết lý nhân quả, duyên nghiệp như là một
phương thức cắt nghĩa nguồn gốc xã hội và căn nguyên tồn tại của con người và vạn
vật. Phật giáo quan niệm mọi sự tồn tại, vạn vật cũng như con người đều có nhân
duyên hòa hợp mà thành. Vạn vật vô thường nên vạn pháp vô ngã. Đời người là bể
khổ mà căn nguyên của mọi nỗi khổ đau triền miên là do vô minh và dục vọng của
con người. Phật giáo quan niệm kiếp sống hiện tại là “tạm” và là quả của nhân
duyên kiếp trước. Kiếp sống ở tương lai mới là vĩnh viễn, cực lạc. Để loại bỏ nỗi
đau khổ ấy, Phật giáo hướng chúng sinh diệt dục, chú tâm thiền định, tu luyện đạo
114
đức theo giới luật để kiếp sau siêu thoát đến miền tịnh thổ cực lạc - cõi Niết Bàn.
Vậy nên Phật giáo hướng chúng sinh thực hiện những ý nghĩ, hành động, thái độ
nhân từ thời hiện sinh để tạo nghiệp quả tốt đẹp cho kiếp sau.
Trên cơ sở triết lí nhân quả, duyên nghiệp nhà Phật, các nhà tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam lý giải lịch sử và con người của thời đại đã qua nhằm hướng
đến soi sáng bản thể của con người, xã hội thời hiện tại và tương lai khi xuất hiện
ngày càng nhiều những chấn thương tinh thần, những đổ vỡ các thang bậc giá trị
nhân văn. Quan niệm tùy duyên đã chi phối việc xây dựng các nhân vật trong tác
phẩm. Duyên nghiệp không chỉ đến với người xuất gia đi tu mà còn nói đến con
người đại chúng phổ quát với số phận, thân phận của họ trong xã hội rộng lớn.
Duyên nghiệp không chỉ là cái duyên đến với Phật, nhà chùa của mỗi người mà tùy
duyên hành đạo, tùy duyên vui với đạo, tùy duyên mà xuất đạo về với đời. “Đứng
về mặt tuyệt đối tất cả chúng sinh đều rơi vào luật nhân quả, bậc đại tu hành thì
hiểu rõ luật nhân quả, không bị mê lầm che mờ, cái tâm không sai biệt, nên không
chấp có chấp không” [79, tr.253].
Nếu thiền sư Vô Úy đã đi trọn con đường duyên nghiệp với nhà Phật thì sư Vô
Trần lại từ cửa Phật thành nhà cách mạng, một chỉ huy quân sự lẫy lừng trong cuộc
chiến chống Pháp xâm chiếm Hà Nội. An có duyên đến với chùa Sọ, một lòng xuất
gia nhập đạo tu thiền sau chấn thương tinh thần của “một đứa bé mà trái tim bị một
vết thương sâu thẳm” [79, tr.32] nhưng khi cuộc đời kêu gọi, An vẫn thực hiện
trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, An tham gia lực lượng bộ đội vừa tôn “thờ
Đức thế tôn. Và cũng thờ dân tộc” [79, tr.847]. Rồi cũng tùy duyên, An trở về cuộc
đời trần thế với người bạn gái thuở ấu thơ cứu sinh độ thế. Bà Thu, mẹ của Bernard
muốn xuất gia theo Phật nhưng sư thầy Diệu Tâm thấy bà chưa có duyên với Phật
nên khuyên “Con là gái hồng nhan. Khó tu lắm con ơi! Đi tu mà nửa đời nửa đoạn,
không trọn kiếp thì chỉ mang thêm tội. Đàn bà đẹp đi tu bọn đàn ông nó cũng không
tha đâu… Thôi thì sống ở đời cũng được. Chỉ cốt có cái tâm. Tâm là Phật con ơi!”
[79, tr.46-47] … Rất nhiều nhân vật trong tác phẩm này có sợi dây liên kết chặt chẽ
với chùa Sọ, nhưng duyên nghiệp của họ lại khác nhau. Tuy vậy, dù thế nào chăng
nữa thì điều quan trọng nhất là con người ta đều một lòng hướng thiện. Thông qua
115
duyên nghiệp của các nhân vật, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh muốn nói đến tinh
thần “Cư trần lạc đạo tùy duyên” rất khai phóng, không chấp trước của đạo Phật
Việt Nam. Trong tác phẩm Đội gạo lên chùa, sư Vô Chấp dạy rằng “Nhân quả hiểu
theo nghĩa thường là Nghiệp. Giữa người mê và người ngộ Nghiệp tác động không
giống nhau. Người mê coi Nghiệp là tai ách, gặp hoàn cảnh khó khăn đau khổ, họ
buồn tủi than vãn. Còn với người ngộ, khi đã vô phân biệt giữa khách và ta, giữa
ngoài và trong, họ biết mình vẫn có Nghiệp như ai. Không cảm thấy Nghiệp là nặng.
Ngộ không hề có nghĩa là vứt bỏ Nghiệp, mà là vô ngại đối với Nghiệp và cả đối với
phi Nghiệp, được như thế sẽ tự do tự tại ở bất cứ hoàn cảnh nào” [79, tr.253].
Xét về Duyên-Nghiệp, cuộc đời của Từ Lộ và Nhuệ Anh trong tiểu thuyết
Giàn thiêu rất ứng hợp. Nghiệp kiếp đầu tiên của Nhuệ Anh là một cô gái đẹp, là
người tình chung thủy. Nàng và Từ Lộ đã hứa hôn và chờ đợi một hạnh phúc viên
mãn nhưng Lý Câu muốn chiếm đoạt nàng nên hắn đã đẩy gia đình Từ Lộ vào bước
đường cùng, khiến cho nàng và Từ Lộ chia lìa. Tuy nhiên, với tình yêu sâu sắc, thuỷ
chung, nàng vẫn giữ trọn thề chữ tình, đi tìm Từ Lộ và hiến dâng cuộc đời thiếu nữ
cho tình yêu sau đó nàng dứt lìa cõi trần khi bị Từ Lộ bỏ rơi trên sông Gâm. Nghiệp
kiếp thứ hai của Nhuệ Anh là sau khi buông mình xuống thác Oán được chàng Cá
Bơn cứu vớt. Nàng đến với cửa chùa và là sư bà Động Trầm sau này. Nàng đã ngộ
về Nghiệp của mình chưa thể thoát khỏi kiếp trần thế, nhưng không vì thế mà nàng
đau khổ. Ngược lại nàng vui vẻ hóa giải kiếp hổ cho vua Lý Thần Tông và răn dạy
đạo lý cho nhà vua. Xét về duyên, nàng chưa thể dứt duyên gặp gỡ Từ Lộ khi cả hai
trải qua nhiều kiếp nạn biến hóa, nhưng về Nghiệp, nàng không còn nặng nợ với
tình yêu chung thủy dành cho Từ Lộ mà chuyển hóa thành tình cảm thiêng liêng đó
là lòng từ bi hỉ xả của đạo Phật để đối xử với Từ Lộ - Dương Hoán - Lý Thần Tông,
một người đã vì thù hận mà bỏ rơi nàng khi còn trẻ, một người sau này trên đỉnh tột
cùng quyền lực vẫn không thôi từ bỏ tham mê dục sắc. Nhưng lần theo cuộc đời của
Từ Lộ trong Giàn thiêu, con người vì mê lầm mà nghiệp duyên kéo dài trầm luân
khổ hận. Nỗi khổ của một con người đang sống trong nhung lụa với tình yêu đẹp bị
quyền lực và sức mạnh tướt đoạt. Từ một chàng thư sinh nho nhã, đưa người yêu
Nhuệ Anh đi chơi hội với niềm vui say hưởng thụ vinh hoa phú quý đến một con
116
người đầy thù hận sau khi biết cha và mẹ chết oan do Diên Thành hầu và pháp sư
Đại Điên gây ra. Nỗi khổ của một con người ôm hận thù mê muội khiến chàng sẵn
sàng chối bỏ tất cả. Từ Lộ chối bỏ người tình chung thủy Nhuệ Anh để trả thù.
Chàng tìm đến cửa chùa Thập Quang thiền viện trên núi Yên Tử không nhằm tu
nhân tích đức mà học phép thuật để trả thù nhà. Thập Quang Đại sư biết “nỗi đau
đớn oan khiên khôn cùng mà con (Từ Lộ) đã phải gánh chịu. Âu cũng là nghiệp
chướng buộc chân con người nơi trần thế… Mà con đường đến với đức Phật ngắn
nhất không phải đi trên đống xương thù hận” [52, tr.199], nhà sư đành chỉ đường
cho Từ Lộ sang Thiên Trúc để học huyền thuật. Đường sang Thiên Trúc cheo leo,
hiểm trở, vượt nhiều thác gềnh. Từ xăm xăm nhằm hướng núi Thập Vạn Đại Sơn
mờ xa tít tắp luyện pháp thuật, luyện thần đạo để nhanh chóng báo thù. Nỗi khổ của
một con người sau khi học được phép thuật, đủ sức mạnh để trả thù thì kẻ thù của
chàng đã già nua, yếu đuối, điên dại không còn tranh chấp quyền lực, “Từ Lộ rã
rời, nhìn thấy kẻ thù mà chàng đã dành cả nửa đời để căm hận, để nuôi chí, nay đã
tự kiệt quệ, tự huỷ hoại. Những phép thuật phải chịu khổ nhục mới luyện được trong
mười mấy năm trời chẳng để dùng vào việc gì nữa. Người chàng trống rỗng” [52,
tr.394]. Xem như đã trả thù nhà, chàng dứt bỏ kiếp sống hận thù để sống cho mình,
Từ Lộ ngược sông Tô đến thác sông Gâm, chàng tìm người yêu Nhuệ Anh, định
quyên sinh theo nàng. Nhưng nghiệp duyên trần gian vẫn nặng nợ luân hồi lạc kiếp.
Từ Lộ tìm đến ngôi chùa trên núi Sài, tu thân, lấy pháp danh Từ Đạo Hạnh. Trong
khi chàng phủ dụ tín đồ, cứu khổ cứu nạn được nhân dân tôn thờ, kính trọng thì
chàng nhận ra “Càng thấy đám đông sùng bái, Từ càng ngạc nhiên thay cho sự quá
dễ dàng trong việc thao túng lòng tin của họ… Càng khuyên đám người dưới kia
coi khinh vật dục, chịu khổ nạn kiếp này để hưởng sung sướng nơi Niết Bàn, Từ
càng băn khoăn tự hỏi: Ta có thật lòng tin rằng có Niết Bàn? Dường như càng đi,
đường đến Niết Bàn càng xa… Từ nhận thấy cuộc đời như ngọn bấc cháy sắp cạn
đĩa dầu mà ta vẫn chưa có một ngày sống cho mình” [52, tr.427-428]. Rồi Từ nhận
ra “Đức Phật không chìa tay đón những kẻ hay xét đoán và nghi hoặc” [52, tr.433],
nhận ra việc tu hành bấy lâu nay là “Ta đã lừa dối họ! Ta đã bỏ rơi họ! Cả đời họ
đã theo ta để bị ta lừa dối ư? Họ sẽ sống ra sao với sự lừa dối của ta? ... Túc nhân
117
của ta chưa hết, còn phải trở lại với thế gian này” [52, tr.451]. Từ Lộ đầu thai làm
con trai Sùng Hiền hầu là Dương Hoán và sau này làm vua là Lý Thần Tông. Khi
còn nhỏ, Dương Hoán gầy ốm, quặt quẹo, lông vằn vện đầy thân như hổ rồi được sư
bà Động Trầm xót thương, nước mắt của bà chảy đến đâu, đám lông vằn vện trụi
sạch đến đó. Đam mê dục sắc vẫn chi phối đến thần thái của vị vua trẻ này, Lý Thần
Tông vẫn muốn khát khao chiếm được màu đỏ huyền bí, đẹp nhất cõi tục: rốn chu
sa của cung nữ Ngạn La. Đau đớn thay, khi nhà vua cận kề chiếc rốn chu sa, bỗng
nhiên thấy ánh mắt nghiêm nghị của vua cha Nhân Tông. Dương Hoán Thần Tông
thoáng run sợ nhận ra Tiên đế “chưa từng chiếm được nàng nhưng cũng không cho
nàng thuộc về ai”. Vậy là “Thần Tông ngã vật xuống đất, còn kịp nhìn thấy mép
của cái miệng đẹp đẽ của tiên hoàng nhếch lên mỉm cười ma quái trước khi tan
biến” [52, tr.492]. Như vậy, cuộc đời của Từ Lộ có thể chia thành ba nghiệp kiếp.
Đầu tiên Từ Lộ là một người sống trong cảnh xa hoa, hưởng thụ lạc thú của con nhà
quan quyền. Khi biến cố xảy ra, tham vọng của chàng là học pháp thuật, đạo thuật
để trở thành người tài giỏi nhất, trả được mối thù nhà. Thù được trả xong, chàng
cảm thấy vô nghĩa. Tiếp theo, Từ Lộ đến với chùa và tu thành sư Đạo Hạnh. Ở
nghiệp kiếp này, cứ nghĩ Từ Lộ sẽ tu nhân, tích đức để đến với cõi Niết Bàn nhưng
Từ Lộ vẫn chưa dứt nợ trần vì dẫu có được công trạng giáo hóa chúng sinh thành
những người tốt, được chúng tăng tôn thờ, kính trọng thì Từ Lộ vẫn còn sân si, lừa
dối chúng tăng. Nghiệp kiếp thứ ba của Từ Lộ là đầu thai vào nhà Sùng Hiền hầu:
Dương Hoán- Lý Thần Tông. Ở nghiệp kiếp này, Từ Lộ có được quyền lực tối cao
nhưng cũng chẳng giúp rập nhân dân được điều gì, mà bộc lộ những khát vọng dục
tính không thôi của kiếp đầu tiên. Trước những giọt sữa của Dã Nhân, trong vòng
tay chăm sóc của sư bà Động Trầm, Từ Lộ khát nhớ về cảm giác nhục thể với Nhuệ
Anh kiếp trước. Đỉnh điểm của khát vọng nhục cảm là muốn sở hữu vẻ đẹp của
Ngạn La. Dẫu trải qua nhiều kiếp nạn nhưng Từ Lộ vẫn không từ bỏ chứng tật, vẫn
theo đuổi tham vọng sống trong quyền lực, thoả mãn khát vọng cao sang, quyền
quý. Đây là bệnh căn từ kiếp trước, không thể chữa khỏi. Ngay cả khi chết rồi, các
đệ tử của đại sư Ðạo Hạnh trên hang núi Thầy vào xem vẫn thấy nhục thân ngài
chưa hề hư hoại, họ tự hỏi: chẳng lẽ đến bây giờ đức thầy của họ vẫn còn lơ lửng
118
trong cõi trầm luân này sao? Đấy phải chăng là sự ham hố cõi trần vẫn là nét tính
cách bất biến ở của con người? Với Từ Lộ, điều đau đớn nhất là sư bà Động Trầm
nhận ra là con đường đi của hai người quá khác xa nhau, nàng đã tự huyễn hoặc, đã
phí hoài ràng buộc cho một tình yêu sai lầm. Nàng lên án “trước mặt ta chẳng phải
Từ Lộ năm xưa… mà chỉ là một ông vua chưa thông thạo phép tắc trị nước” [52,
tr.469]. Còn Minh Không đại sư, người bạn của Từ Lộ bất lực tuyên bố: “Ta chỉ
chữa được bệnh chứ không cắt được căn” [58, tr.473]. Có thể nói, thông qua cuộc
đời Từ Lộ, nhà văn lên án bản thể xã hội và con người cứ chạy mãi, theo đuổi mãi
dục quyền và dục sắc sẽ là mầm họa cho bao cuộc biến thiên trong đời sống xã hội.
Nếu Nho giáo và Thiên chúa giáo đi vào Việt Nam cùng với quá trình đô hộ,
xâm lăng từ các thế lực bành trướng phương Bắc và phương Tây thì Phật giáo thâm
nhập Việt Nam bằng con đường hòa bình “tự nhiên nhi nhiên” thông qua giao lưu
văn hóa và kinh tế với Ấn Độ vào khoảng đầu công nguyên. Tư tưởng từ bi hỉ xả
của Phật giáo đã hòa mục dễ dàng với văn hóa bản địa Đại Việt vốn coi trọng sự hài
hòa, thanh nhã, giàu tình cảm và yêu chuộng hòa bình. Nét riêng của Đạo Phật Việt
là gắn kết hài hoà giữa Đạo và Đời. Lịch sử thăng trầm của đạo Phật có sinh mệnh
chính trị thăng trầm cùng lịch sử các triều đại phong kiến Đại Việt. Ngoại trừ nhà
Hồ, nhà Lê đề cao Nho giáo, các triều đại phong kiến Đại Việt đều đề cao Phật giáo.
Có thể nhận thấy rằng, bất cứ người dân Việt nào dù tin theo hay không theo Phật
giáo cũng đều có tâm lý nhà Phật. Nếu Nho giáo là phần nổi, dương tính thì Phật
giáo là phần chìm, âm tính, ẩn sâu trong tâm hồn, tính cách của con người Việt.
Phật giáo vì thế trường tồn cùng với tính cách văn hoá Việt. Những biểu hiện rõ
nhất là qua nếp sinh hoạt tâm linh thờ Phật trong mỗi nhà, các chùa chiền chốn kinh
thành đến rừng núi xa xôi, rồi làng nào cũng có ngôi chùa để nhân dân gắn bó tâm
tính của mình. Qua gần mấy nghìn năm du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có những
ảnh hưởng chi phối rõ nét lên đời sống văn hóa tâm linh người Việt và góp phần làm
nên bản sắc văn hóa Việt trong tiến trình vận động và hội nhập văn hóa thế giới.
Người Việt quan niệm “về Bồ Tát, những Phật chưa chịu về yên hưởng miền Cực lạc
mà còn ở lại với chúng sinh, đã đem lại cho Phật giáo một hình ảnh tôn giáo cứu rỗi
119
hấp dẫn với quần chúng” [159, tr.196]. Đấy chính là vẻ đẹp hướng thiện của Phật
giáo, sự hài hòa giữa Đạo và Đời cùng song song tồn tại qua bao biến thiên lịch sử.
4.1.3. Biểu tượng lễ hội
Là một dân tộc gắn với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, phụ thuộc vào tự
nhiên nên việc nông trang, lễ hội đều diễn ra theo mùa. Thường vào những lúc nông
nhàn, người Việt tổ chức lễ hội để sinh hoạt vui chơi bù lại những tháng ngày nhọc
nhằn, vất vả. Lễ tết và lễ hội của người Việt được tổ chức khá nhiều, khá phong phú
theo thời gian, không gian vùng miền, nghề nghiệp, tín ngưỡng. Nếu lễ tết được
phân bố theo diễn tiến thời gian gồm có tết Nguyên Đán, tết Nguyên Tiêu, tết Hàn
thực, tết Đoan Ngọ, tết Ông Táo, lệ tế Xuân, tế Thu… thì lễ hội được phân bố theo
không gian làng xã, vùng miền trải dài trên dãi đất Việt. Nếu lễ tết thiên về ăn chơi,
sinh hoạt vật chất, “khép kín”, thể hiện tôn ti trật tự gia đình thì lễ hội thiên về sinh
hoạt tinh thần, với tính chất mở, rộng khắp, mọi đối tượng tham gia dân chủ, công
bằng với nhau qua các trò chơi hội. Bản chất của lễ hội là thỏa mãn nhu cầu cá nhân
và tập thể trong môi trường sinh sống của con người.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, lễ hội có hai phần: Lễ và Hội.
1/ Phần Lễ: “Mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn: tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho
cuộc sống của mình” [151, tr.303]. Lễ hội được phân biệt thành ba loại: “Lễ hội liên
quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên là các lễ hội nghề
nghiệp… Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường xã hội
là những lễ hội kỉ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước… Lễ hội liên quan đến
đời sống cộng đồng là các lễ hội tôn giáo và văn hóa như lễ hội Phật giáo, các lễ hội tín
gưỡng dân gian” [151, tr.304-305]. 2/Phần Hội gồm các trò chơi giải trí hết sức phong
phú, xuất phát từ ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp. Nhìn chung, “lễ tết
và lễ hội đều là sự tổng hợp uyển chuyển của cái linh thiêng (lễ) và cái trần thế (tết,
hội) … Sự phân bố lễ tết và lễ hội theo hai trục dọc - ngang kết hợp với nhau làm nên
nhịp sống âm dương hài hòa suốt bao đời của người dân đất Việt” [151, tr.306].
Những lễ hội, sinh hoạt dân gian Việt Nam rất đa dạng, phong phú tùy thuộc
vào ước nguyện của con người. Có những lễ hội gắn với ngành nghề như lễ tịch
điền, lễ cầu mưa, lễ khai mở cửa rừng, lễ hội mừng được mùa; có những lễ hội gắn
120
với các nhân vật lịch sử, các đấng minh quân, anh hùng dân tộc được nhân dân
thánh hóa, linh thiêng hóa như Lễ hội Đền Hùng, Hội Gióng, Hội Đồng Cổ, Hội
Đông Quan, Hội Đống Đa, hội mừng vua mới lên ngôi, hội quân, hội thề… Tất cả
những hội lễ ấy đã hàm ẩn những giá trị văn hóa, chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần, ý
chí của cộng đồng người Việt trong đời sống hằng ngày và trước những sự kiện lịch
sử trọng đại liên quan đến vận mệnh dân tộc. Là một dân tộc có nền văn minh nông
nghiệp lúa nước phát triển, đa số nhân dân làm nông, bám đất bám làng nên từ trong
tâm thức, quân thần đều rất coi trọng nông nghiệp. Những lễ tịch điền, lễ cầu mưa,
lễ mừng được mùa mới… phản ánh rõ bản sắc văn minh nông nghiệp. Trong hệ
thống tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam viết về các triều đại phong kiến Việt
Nam, các nhà văn chú trọng đến việc miêu tả các lễ hội này với ý nghĩa sâu xa của
nó không hoàn toàn đơn thuần là tín ngưỡng của nhân dân về thế giới siêu nhiên, hư
ảo bên ngoài trình độ nhận thức còn thấp của con người mà quan trọng hơn cả là
chính sách của bộ máy nhà nước đối với nông nghiệp và nông dân. Đó không chỉ là
khát vọng của nhân dân về mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no,
giàu đủ do thiên nhiên ban tặng mà còn biểu hiện niềm tin của nhân dân vào trách
nhiệm, tài đức của đấng minh quân. Chẳng hạn với lễ hội tịch điền, bắt đầu từ nhà
Lý, hằng năm, nhà vua tổ chức lễ hội tịch điền để khuyến khích nhân dân tăng gia
sản xuất với ý nghĩa về cuộc sống ấm no, giàu đủ. Kết thúc nghi thức lễ tế, nhà vua
là người mở những đường cày đầu tiên để bắt đầu cho một mùa vụ của năm. Những
vị vua anh minh không chỉ biết chăn dân bằng chính sách “khuyến nông”, “luật bình
điền” mà còn thực hiện nêu gương qua hành động, việc làm cụ thể để khuyến khích
nhân dân hăng say thi đua lao động. Lý Thái Tông từng nói trước sự can ngăn của
đám quan thần “nếu trẫm không tự cày ruộng thì lúa gạo đâu mà làm xôi cúng tổ
tiên. Nếu trẫm không cày thì lấy gì làm gương cho con dân trong nước chuyên cần
nông tang” [44, tr.150]. Kết thúc buổi lễ tế, vua cùng các quan ra về, dân làng ở lại
bày biện xôi thịt làm cỗ, quay quần ăn uống vui vẻ. Mọi người ngắm nhìn bầu trời
tìm lấy dấu hiệu an yên, đặt niềm tin tốt đẹp vào ngày mới. Đấy chính là niềm tin
vào vị vua anh minh, thay trời chăn dân, là khát vọng của nhân dân về cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đất nước được thái bình, thịnh vượng. Có thể thấy rằng, ngày nay,
121
cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, quá trình đô thị hóa diễn ra khắp nơi,
diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, tính chất của một nền nông nghiệp hiện đại
dần thay thế nền nông nghiệp thủ công thuần túy đã phần nào xóa đi những lễ hội
với nghĩa tốt đẹp như lễ tịch điền, lễ mừng được mùa, lễ cầu mưa… Sự mất mát ấy
chưa thể khẳng định rằng tính chất của lễ hội bị lạc hậu nhưng điều quan trọng cho
chúng ta thấy được sự dịch chuyển, mai một các giá trị truyền thống của một nền
văn minh nông nghiệp. “Có thể nói trong xã hội nông nghiệp, mỗi lễ - tết - hội là
một dịp để người ta vươn lên tạo nên một đời sống không tự nhiên, một đời sống do
con người làm nên, một đời sống có văn hóa cao. Như thế lễ - tết - hội là hình ảnh
văn hóa kết tinh của cư dân nông nghiệp; hay nói lễ - tết - hội có thể được xem như
động lực của văn hóa nông nghiệp. Điều này cũng cho thấy chừng nào một xã hội
còn là nông nghiệp thủ công thì lễ - tết - hội ở đó còn được thực hành với tư cách là
sự thỏa mãn một nhu cầu văn hóa toàn diện” [17, tr.138]. Từ không gian văn hóa
lịch sử đến không gian văn học thời kì mới, các lễ hội dân gian Đại Việt có thể được
lưu giữ nguyên vẹn nhưng cũng có khi dịch chuyển về hình thức, biến thể về ý
nghĩa theo cảm quan nghệ thuật của người cầm bút. Trong các tiểu thuyết Thiền sư
dựng nước, Giàn thiêu, Mẫu thượng ngàn, Đức Thánh Trần…, các nhà văn tái hiện
lễ hội vừa lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc vừa gởi thông điệp cho
thời đại với nhiều biến động văn hóa như hiện nay. Thực tế xã hội đương đại cho
thấy nhiều lễ hội (hội quốc gia, hội vùng, hội làng) đã được quy hoạch hóa, quan
phương hóa, hướng đến quãng bá du lịch, thương mại và dịch vụ như là một nghề
để gia tăng thu nhập. Trong khi cấu trúc lễ hội truyền thống người Việt từ nội dung
và hình thức thường xuất phát từ nhu cầu và khát vọng của nhân dân trong mối quan
hệ với thế giới tự nhiên và xã hội. Những lễ hội ấy vừa đậm tính phồn thực, biểu thị
khát vọng cộng đồng cư dân cuộc sống ấm no, sinh sôi, nảy nở vừa phản ánh đời
sống tâm linh, tín ngưỡng nhiên thần của cư dân nông nghiệp.
Nếu trí tuệ của các nhà khoa học tìm ra các quy luật vận hành của đời sống tự
nhiên và xã hội, tạo nên nền văn minh công nghiệp hiện đại thì trí tuệ của người
bình dân lại tìm thấy vẻ đẹp bản thể tự nhiên đầy tính nhân văn trong mỗi con người
và xã hội để rồi thánh hóa vẻ đẹp ấy bằng tín ngưỡng dân gian biểu đạt qua các lễ
122
hội. Trước đời sống xã hội ngày càng dấn sâu vào lý thuyết khoa học, “công nghiệp
hóa con người” không chỉ ở sức lao động mà ngay cả chức năng sinh sản tự nhiên,
vấn đề truy tầm bản thể con người và xã hội trở nên nhức nhối hơn cả. Tín ngưỡng
phồn thực tồn tại suốt chiều dài lịch sử và được hiện hữu hóa bởi nhiều hình thức
khác nhau như tục thờ cúng sinh thực khí cơ quan sinh dục của nam và nữ linga -
yoni, hoặc thông qua các vật dụng dùng trong sinh hoạt hằng ngày của nền văn
minh lúa nước như Nõ và Nường, Chày và Cối, những trò diễn ông Đùng bà Đà, hội
Trải ổ, lễ hội khai mở cửa rừng, hội Chen, hội Mo nang…được các nhà văn tái hiện
qua các trang tiểu thuyết rất sinh động và đậm tính nhân văn. Viết về tín ngưỡng
phồn thực không phải các nhà văn muốn đào sâu bản năng dục tính mà ý nghĩa sâu
sắc là muốn bảo tồn sự phát triển con người tự nhiên. Mỗi một cá thể ra đời là kết
quả của tính giao tự nhiên, của tình yêu, tự do và khát vọng chứ không phải là sự
cưỡng đoạt, chọn lựa của kẻ được quyền sinh ra. Giá trị của hội Chen, hội Trải ổ,
hội Mo nang, lễ rước ông Đùng bà Đà cùng nhiều lễ hội tín ngưỡng phồn thực khác
trong các tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã vượt lên trên thế giới hiện thực,
trần tục của đời sống thường ngày. Dưới ngòi bút của các nhà văn, trò diễn nõ -
nường và hội Chen toát lên được khát vọng tự do lựa chọn ý trung nhân và hiến
dâng tình yêu của con người. Có thể nói, hội Chen là một phần hết sức đặc biệt như
chống lại luật định xã hội khắc nghiệt. Lệ tục trai gái tự do giao hoan trong cuộc
chen không phải là hiện tượng dâm tục mà có ý nghĩa hệ trọng trong tâm thức cộng
đồng về sự sinh sôi, nảy nở, no cơm ấm áo. Những đứa trẻ ra đời từ hội chen được
dân làng trân quý, xem đó là điềm lành, đem lại sự may mắn, phồn vinh cho cộng
đồng dân cư. Lễ hội là sản phẩm văn hóa cộng đồng, được lưu truyền bảo tồn từ đời
này sang đời khác. Với hệ thống nghi thức, trò diễn và các biểu hiện, lễ hội sẽ làm
thành biểu tượng liên kết xã hội. Đằng sau cái linh thiêng, huyền bí bao phủ lên mọi
lễ hội, phản ánh đời sống tâm linh của cộng đồng hướng đến thế giới siêu thực, thần
thánh hiển linh là cái ngoài lễ hội, những sinh hoạt, trò diễn làm cứu cánh trần tục của
nó, gắn kết cộng đồng với nhau. Viết về khía cạnh này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
đã đem đến cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc, sự tinh tế qua Hội làng Cổ Đình.
123
Hội Kẻ Đình bắt đầu từ ngày mười một tháng ba. Người ta đến để lễ Mẫu và
xem hội ông Đùng. Không khí của lễ hội thật tưng bừng, náo nhiệt. “Dòng người đổ
về Cổ Đình càng lúc càng đông. Đủ các loại người: Cả sang lẫn hèn, cả già lẫn trẻ.
Đủ các màu sắc. Chỗ thì quần nâu áo vải, chỗ thì váy lĩnh váy sồi. Kẻ thì mớ ba mớ
bảy, kẻ thì mộc mạc nâu non. Thấp thoáng nổi lên cả áo xanh áo đỏ của những ông
đồng bà bóng” [78, tr.691]. Đến với lễ hội, mỗi người có mục đích riêng cho nên
giá trị của biểu tượng lễ hội cũng rất phong phú, tùy thuộc vào ước vọng cộng đồng
và mỗi người tham gia. “Có người thuần túy đi xem hội, đến hội để tìm vui. Cũng
có kẻ đến hội để bắt mối giao duyên. Không thiếu người trẩy hội cốt tìm về với
Mẫu, xin Mẫu chữa bệnh; có người chỉ đơn giản xin một lá bùa, nhưng cũng có
người xin cả một niềm vui lớn, cầu Mẫu ban cho một đứa con” [78, tr.691]. Lễ hội
luôn tạo ra trạng thái tâm lí đặc biệt, khác thường trong cộng đồng và mỗi cá nhân.
“Trong quan hệ xã hội, mỗi lễ hội là dịp để người ta thực hiện tình thân thiện đặc
biệt giữa con người với nhau. Người ta tránh những khách sáo, những thô lỗ cộc
cằn, những hẹp hòi, những ý nghĩ u ám về nhau” [17, tr.138]. Đến với lễ hội, “chỉ
thấy những gương mặt nghiêm trang tươi tỉnh, chỉ thấy người chắp tay vái chào
thân thiện. Thấy vắng hẳn những nét nhăn nhó hoặc tức giận thường ngày. Chẳng
ai cải lộn. Chẳng ai nói lời thù hận” [78, tr.692]. Trong tính chỉnh thể, lễ hội là một
biểu thị văn hóa bao trùm hơn, toàn vẹn hơn của đời sống xã hội.
Nếu phần lễ là phần nghi thức thực hiện bổn phận đối với cái linh thiêng thì
phần hội xác định các mối quan hệ cộng đồng và cá thể xã hội với nhau. Thiếu phần
hội là thiếu bước hoàn tất sự khách thể hóa, trần tục hóa cái ý tưởng, khát vọng của
cộng đồng. Vậy nên, sau khi viếng Mẫu linh thiêng, “Người ta bảo nhau rằng, đi
xem hội Kẻ Đình mà không dự ngày cuối, tức là không đi xem rước ông Đùng bà
Đà, thì coi như chưa được đi xem hội” [78, tr.723]. Sự hấp dẫn của hội này đã thu
hút vô kể người đến tham dự. Đám trai thanh, gái lịch háo hức và phấp phỏng “ai ai
cũng tủm tỉm cười, có người đỏ ửng đôi gò má” [78, tr.724] vì sự tự do ở những tục
lệ sau hội, sau đám rước. Đám rước đối với các bà sồn sồn nạ dòng thì “Lòng vả
cũng như lòng sung. Trẻ có cái vui của trẻ. Già có cái vui của già” [78, tr.724]. Các
cụ già sáu, bảy mươi thì “các cụ nghe hỏi đều sáng mắt lên…ý chừng nhớ lại những
124
kỉ niệm xưa” [78, tr.725]. Khung cảnh rước hình nhân ông Đùng bà Đà thật náo
nhiệt, đủ các loại cờ, quạt, lọng, trống to, trống nhỏ tùng rinh. Tính chất phồn thực,
sinh sôi, nảy nở của hội rước thể hiện rõ trong tiếng reo hò của đoàn người đi rước.
“Ông Đùng mà lấy bà Đà/ Đẻ con, cái vú bằng ba quả dừa” [78, tr.729]. Nếu trò
rước ông Đùng bà Đà đánh thức ý nghĩ của con người về tình yêu tự do thì hội Trải
ổ tiếp theo sau đó, tạo cho người tham gia hội có một không gian thực hiện khát
vọng rất nhân bản kia. Trải ổ là gì? Đó là tục lệ “cho phép trai gái yêu nhau, dù
chưa cưới xin, được phép tạo một chiếc giường tình, được phép tạo một chiếc ổ
thơm tho, êm ái cho cuộc yêu đương của mình, trong một hang đá hoặc dưới một
vòm cây nào đó ở trong rừng, cạnh núi Đùng…Điều ấy được dân làng cho phép
trong tháng ba, tháng tư. Cô gái nào có mang lúc trải ổ trong thời kì ấy, được coi là
rất may mắn” [78, tr.725]. Hội Trải ổ vì thế trở thành biểu tượng cho khát vọng tình
yêu tự do đậm tính nhân văn. Một mặt vì nó được “dân làng cho phép”, mặt khác
dân làng đã thổi vào đó sự huyền bí với niềm tin những đứa con được sinh ra từ hội
này sẽ “rất thông minh sáng láng. Lại nhiều phúc lộc” [78, tr.727] càng khiến cho
hội Trải ổ thêm ý nghĩa, giàu sắc thái tự nhiên, thiêng liêng hơn. Viết về các lễ hội
phồn thực, nhà văn không ngấm ngầm cổ vũ cho lối sống ăn chơi, buông thả của
con người mà sâu xa hơn, nhà văn muốn “bằng đích cái vô trật tự, cái thái quá ấy, lễ
hội nhắc nhở người ta sự trật tự, sự mực thước hằng ngày… lễ hội là điều kiện cho
sự tái sáng tạo của mỗi người trong lĩnh vực hoạt động của mình” [17, tr.136].
Trong một xã hội quá chật chội vì các lễ nghi ràng buộc, chằng chịt các quan niệm
hà khắc bóp chết phần tự do, dân chủ của con người thì tránh sao không có những
phần hội thực hiện chức năng “giải phóng những xung cảm bị kìm hãm trong đời
sống đơn điệu hằng ngày” [17, tr.136]. Từ nhãn quan này, chúng ta sẽ thấy được giá
trị nhân văn của biểu tượng lễ hội. Tuy nhiên, vẻ đẹp nhân văn của lễ hội sẽ mất đi
khi quyền lực, sự mưu toan, thủ đoạn đê hèn xen vào. Lễ hội thành nơi để cho
những manh tâm xấu xa lợi dụng, biến thành các cuộc chơi cá nhân, là nơi để kinh
doanh nỗi sợ hãi để đoạt lấy bỗng lộc từ người tham gia hội. Đau đáu niềm đau trên
các trang văn của Võ Thị Hảo là thế thái nhân tình bị vạch trần phần xấu xa, những
giá trị cốt lõi của lễ hội bị đảo lộn. Dường như lễ hội nào dưới ngòi bút của Võ Thị
125
Hảo cũng nhuốm màu bi kịch, sự bất an của con người khi tham gia. Lễ hội hoa
đăng trong đêm nguyên tiêu bị xé toang bởi quyền lực nhà Diên Thành hầu. Lễ mở
cửa rừng và hội Chen sau đó đã không trọn vẹn ý nghĩa thiêng liêng. “Tổ tiên người
Quý Vũ đã dặn lại con cháu, mức hào phóng của Linh Sơn Đại Vương tùy thuộc
vào sự đông đúc của hội Chen trong những ngày mở cửa rừng… Những đứa trẻ
sinh ra từ những cuộc ái ân trong đêm Chen sẽ được dân làng tôn sùng, góp công
nuôi nấng và gọi là con của Linh Sơn Đại Vương” [52, tr.154-155]. Nhưng ý nghĩa
thiêng liêng của lễ hội đã bị dục vọng của Đại Điên phá hỏng. Đại Điên cướp cô
con gái của tù trưởng lôi xềnh xệch về phía cửa rừng. “Đám đông há mồn kinh sợ.
Tiếng kêu bị giam chặt trong những đôi hàm đã khóa cứng…Mặt trời chìm dần về
phía tây. Bóng âm u đổ xuống thảm cỏ mịn đang nhuộm màu sẫm tối. Tiếng xao xác
của đàn chim rừng bay về tổ xáo động không trung. Xa hơn, thẳm sâu trong cánh
rừng, hồ gầm dài của những chúa sơn lâm tỉnh giấc ngày, bắt đầu vào cuộc kiếm
mồi trong đêm tối” [52, tr.158-159], và cô gái đã cắn lưỡi tự tử. Năm ấy, những đứa
trẻ ra đời sau đêm ân ái hội Chen không có vẻ gì là con của Sơn Thần. “Những đứa
trẻ từ lúc lột lòng mẹ đã có vần trán dô, đôi mày dài và cặp mắt đỏ nhìn lâu không
chớp” [52, tr.171], đời sống nhân dân Quý Vũ gặp nhiều bất trắc, đói kém.
Bên cạnh các lễ hội làng mang tính dân gian cộng đồng phổ quát còn có những
lễ hội liên quan trực tiếp đến các sự kiện, nhân vật lịch sử. Những lễ hội như lễ hội
mừng vua mới lên ngôi, hay mừng vua vi hành trở về an toàn…biểu thị cho ý chí và
định vị giá trị đời sống nhân sinh, phản ánh thái độ của bề tôi, dân chúng đối với
đấng quân vương, có ý nghĩa xác định giá trị của đấng minh quân trong cộng đồng
dân cư. Trong tiểu thuyết Thiền sư dựng nước, nhà văn Hoàng Quốc Hải đã tái hiện
lễ hội mừng vua Lý Công Uẩn lên ngôi với thái độ “Dân chúng hoan hỉ đón chào vị
vua mới của làng mình. Từ các cụ già đầu tóc bạc phơ, vận quần áo đỏ, chống gậy
trúc đến các trẻ nhỏ mới lẫm chẫm bước đi, đều ra khỏi làng tới hơn một nghìn dặm
để cung nghinh. Họ đem theo tất cả các thứ cờ quạt, tàn lọng hiện có trong các đền
chùa, và cả trống đồng cùng chiêng, mõ khiêng vác hàng đàn. Thỉnh thoảng các
nhạc công dừng lại đánh bài nhã tụng thật tưng bừng, khiến không khí làng quê sôi
động hẳn lên chẳng khác gì ngày hội” [47, tr.67]. Đó là những biểu hiện niềm tôn
126
kính mà nhân dân dành cho một vị vua anh minh, những tín hiệu khởi đầu cho một
triều đại mới lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt, khi Lý Thái Tổ quyết định dời
đô từ Hoa Lư về Đại La, dân chúng nghênh đón nhà vua và triều đình bằng những
trò chơi đậm sắc thái dân gian. Năm ấy, kinh thành mở hội thả chim, “cùng lúc mở
tới mấy trăm lồng, tung cả ngàn cánh chim bồ câu lên bầu trời cao trong trẻo…
Dân chúng kinh kì năm ấy khâm phục nhất đàn chim đông đảo của một chủ chim
phường Thái Hòa khi vừa vút thẳng lên trời cao, cả đàn đều xếp thành hai chữ
“Thuận Thiên” cứ bay liệng mãi trên bầu trời Đại La” [47, tr.142]. Có thể thấy
rằng, thông qua lễ hội, nhân dân gởi gắm vào đó tất cả khát vọng về triều đại, nhà
nước hòa bình, cường thịnh, thuận lòng trời hợp ý dân. Lễ hội với các thành tố của
nó là thước đo lòng dân đối với bậc đế vương đang trị vì thiên hạ, xác tín sự phồn
thịnh của triều đại, sự đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình dựng nước và dựng xây
đất nước. Những biểu hiện của sinh hoạt lễ hội sẽ cho chúng ta thấy được giá trị của
đời sống xã hội dưới mỗi triều đại, đó là sự thịnh vượng, hạnh phúc trong đời sống
nhân dân. Việc các nhà văn viết nhiều về lễ hội trong tác phẩm vừa bảo tồn, lưu
truyền bản sắc văn hóa dân tộc vừa phản ánh tinh thần thời đại.
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam có những bộ trường thiên tiểu thuyết
khái quát đầy đủ, trọn vẹn về các triều đại phong kiến Đại Việt như Tám triều vua
Lý, Bão Táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Nam quốc sơn hà của Yên Tử cư sĩ,
Hào kiệt Lam Sơn của Vũ Ngọc Đĩnh, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác…
nhưng cũng có những bộ tiểu thuyết chỉ chọn lựa khoảnh khắc lịch sử nhất định để
làm nổi bậc vai trò, sức mạnh của thời đại lịch sử hay các yếu nhân lịch sử cụ thể
nào đó như Hội thề của Nguyễn Quang Thân chọn bối cảnh lịch sử Hội thề Đống
Đa, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh chọn Hội thề Đồng Cổ để mở đầu, Hội thề
Đốn Sơn để kết thúc tác phẩm. Trong nhiều sự kiện lịch sử khác nhau, những hội quân,
hội thề giữ vai trò trung tâm, thể hiện tinh thần thời đại. Qua quá trình tiếp cận các tác
phẩm, chúng tôi nhận ra rằng lý giải sự thành công hay thất bại của một vĩ nhân, đấng
minh quân trị vì thiên hạ không chỉ thông qua các chính sách, chiến lược xây dựng đất
nước mà quan trọng là đức tin của nhân dân đối với họ. Với những lễ hội như hội quân,
127
hội thề mà tính chất và biểu hiện của nó cùng với sự tham gia của đông đảo nhân dân
sẽ phản ánh niềm tin của họ vào những yếu nhân lịch sử.
Hào khí Đông A qua ngòi bút của nhà văn Hoàng Quốc Hải không chỉ biểu
hiện ngoài trận tuyến giáp mặt quân thù mà còn được nhà văn tái hiện rõ qua khung
cảnh Hội nghị Bình Than, Hội nghị Diên Hồng. Sau khi vua tôi nhà Trần chuẩn bị
các kế sách từ việc binh, việc lương, đến việc bố phòng binh lực thì để động viên
tinh thần, tập hợp toàn dân xây dựng thế trận chống giặc, nhà Trần truyền hịch
khích lệ đám sĩ tốt và trai trẻ. Triều đình lấy danh nghĩa vấn kế sách của các bô lão,
triệu tập các bô lão tại Hội nghị Diên Hồng. Kỳ thực, hội nghị này là siết chặt mối
rường từ thứ dân đến bậc quân trưởng đều đồng lòng giết giặc, cứu nước. Nhìn vào
đoàn người bô lão kéo về Thăng Long dự hội nghị càng ngày càng đông, “cụ nào
cụ ấy đều râu tóc bạc phơ, lông mi trắng xóa, da nhám đồi mồi, tay chống gậy trúc,
tay xánh nải thâm” [41, tr.353]; Nhìn vào thái độ quyết liệt đánh giặc, “Muôn
người như một vút lên tiếng thét - Xin bệ hạ cho đánh! Tiếng hô ầm vang thống thiết
như sóng cồn bão tố” [41, tr.359] thì chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của Hội nghị
này là thước đo lòng dân, ý chí vua tôi đồng lòng làm nên hào khí thời đại.
Chọn Hội thề Đông Quan - sự kiện lịch sử diễn ra ngày 22 tháng 11 năm Đinh
Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm 1427) giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn - Lê
Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông, nhà văn Nguyễn Quang Thân viết
tiểu thuyết Hội thề. Về phương diện lịch sử chính thống, đạo quân của Lê Lợi đã
đánh quân nhà Minh tan tác, Trần Trí, Sơn Thọ, Phương Chính “nghe hơi mà mất
vía”, “nín thở cầu thoát thân”. Tướng nhà Minh là Vương Thông cùng tàn quân bị
bao vây, co cụm trong thành Đông Quan như “kiến bò miệng chén”. Tuy nhiên, với
chủ trương tạo nền hòa hiếu lâu dài, tránh đổ máu cho nhân dân, Lê Lợi sai người
đưa thư cho Vương Thông giải hòa. Hai bên thống nhất, quân Minh do Vương
Thông làm chủ tướng lập tức dẫn quân trở về nước, còn nghĩa quân Lam Sơn không
được hãm hại quân Minh. Sau sự kiện này, cả hai bên đều làm đúng theo lời thề,
nước Đại Việt lập lại hòa bình sau 20 năm bị quân Minh đô hộ. Về phương diện hư
cấu, từ sự kiện chính sử ấy, nhà văn Nguyễn Quang Thân khắc sâu sự mâu thuẫn
trong nội bộ triều Lê, mà cơ bản là mâu thuẫn không đội trời chung giữa đám võ
128
biền tâm phúc theo Lê Lợi từ những ngày đầu khởi nghĩa như Phạm Vấn, Lê Sát, Lê
Ngân…và trí thức nho sĩ Đông Quan như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Lập
doanh trại Bồ Đề, Lê Lợi mở hội nghị bàn cách đánh thành Đông Quan. Phái võ
biền muốn đánh một trận sống mái đẫm máu với Vương Thông và đám tàn binh.
Trong khi đó, Nguyễn Trãi tham mưu cho Lê Lợi dùng lí lẽ “mưu phạt tâm công”
để Thăng Long là đất Thái Bình chứ không phải thành chiến địa. Mấu chốt vấn đề
tác giả nêu ra là vai trò thủ lĩnh của Lê Lợi và tài năng của Nguyễn Trãi cần được
ngợi ca và thông diễn cho những đổ vỡ của nhà Lê sau này. Vậy nên, dưới ngòi bút
của Nguyễn Quang Thân, Hội thề Đông Quan có giá trị định vị tầm quan trọng của
các yếu nhân lịch sử như Lê Lợi, Nguyễn Trãi trong lòng nhân dân. Sự thông sáng
của Lê Lợi, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được nhà văn khắc họa rõ nét.
Không ít lần nhà văn để cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi tự soi sáng nhau. Với Lê Lợi,
“bốn nho sĩ Bắc Hà không hẹn mà gặp, không vời mà có khác nào con mắt của ông
vậy” [148, tr.136]. Với Nguyễn Trãi, Lê Lợi “là một con người lỗi lạc, ít học nhưng
biết trọng dụng người có học” [148, tr.155]. Lê Lợi biết mình không làm mấy kẻ sĩ
Bắc Hà thán phục liên tài về thi thư chữ nghĩa nhưng ông “đủ bản lĩnh để cho họ
chẳng những không dám coi thường mà còn coi ông như một minh chủ huyền thoại
đáp ứng được niềm tin mà họ đã đánh mất” [148, tr.133]. Lê Lợi am hiểu sâu sắc
tính cách, tài năng của từng con người mà ông sử dụng. “Ông hơn bọn họ ở chỗ
thấu hiểu và biết dùng cái giá trị và cả cái vô gí trị của kẻ thất học” [148, tr.155].
Có thể còn nhiều bàn luận về sự kiện lịch sử này, song chúng ta nhận thấy vai trò rất
quan trọng của Hội thề Đông Quan khi soi sáng giá trị biểu tượng đấng minh quân
trong việc trọng dụng kẻ sĩ, còn nhân sĩ trí thức với tài năng và lòng nhân nghĩa đã
góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng đời sống lịch sử xã hội trong thời chiến
cũng như thời bình.
Cũng chọn hội thề làm điểm tựa, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lấy bối cảnh
Hội thề Đồng Cổ và Hội thề Đốn Sơn làm mạch nguồn kết cấu cho tác phẩm Hồ
Quý Ly, qua đó thể hiện điểm nhìn trần thuật về lịch sử nhà Trần và nhà Hồ trong
buổi chuyển giao quyền lực. Về mặt lịch sử - văn hóa, Hội thề Đồng Cổ là một lễ
hội thuần Việt được nhân dân Thăng Long thời Lý Trần rất xem trọng. Theo nguồn
129
tư liệu Từ điển bách khoa toàn thư mở WikipediA, đây là hội thề được vua Lý Thái
Tông lập lệ bắt đầu từ năm 1028 sau sự kiện loạn Tam Vương. Hội thề được tổ chức
hàng năm vào ngày 25 tháng 3 âm lịch tại đền Đồng Cổ ở làng Đông Xã-Thăng
Long (nay là số 353 đường Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội). Sang
đời Lý Thánh Tông, vì trùng ngày kỵ của vua cha nên chuyển hội thề sang ngày 4
tháng 4 âm lịch. Tục lệ đó được giữ suốt hai thế kỷ triều Lý. Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, thời Lý có lời thề “Làm tôi bất trung. Làm con bất hiếu. Thần minh tru
diệt”. Lời thề này mang ý nghĩa đạo đức, chính trị để củng cố Vương triều, các quan
ai trốn không đến thì phải phạt đánh 50 trượng. Những năm đầu triều Trần, Hội thề
Đồng Cổ bị gián đoạn. Nhưng chỉ ba năm sau khi lên ngôi, vào năm 1228, vua Trần
Thái Tông đã khôi phục hội thề ở đền Đồng Cổ vào ngày 4 tháng 4 âm lịch hàng
năm giống nhà Lý nhưng sửa đổi lại lời thề. Tục lệ này được giữ suốt đời Trần.
Cũng theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Kỷ nhà Trần có mô tả, hàng năm vào ngày 4
tháng 4, tại đền thờ thần Đồng Cổ, theo lệnh Vua, Tể tướng và quan lại họp nhau lại
uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng “Làm tôi tận
trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết”. Đọc xong, Tể
tướng sai đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan tiền. Ngày hôm ấy,
con trai, con gái đứng ở bốn phương ở cạnh đường để xem, cho là hội lớn. Nhưng,
sau khi Hồ Quý Ly phế truất nhà Trần, lên ngôi cửu trùng lập nên nhà Hồ, chuyển
đô vào Thanh Hóa thì hội thề tổ chức ở núi Đún, tức Đốn Sơn nằm phía ngoài
Chính môn của thành Tây Đô (Tây Giai), gọi là hội thề Đốn Sơn. Năm 1399, Trần
Khát Chân cùng Thái bảo Trần Nguyên Hàng và một số vương hầu nhà Trần mưu
sát Hồ Quý Ly trong hội thề này nhưng không thành. Sau vụ biến, Hồ Quý Ly cho
rằng thần Đồng Cổ không còn thiêng nữa nên bãi bỏ hội thề. Khi viết về hội thề này
trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đưa đến cái nhìn mới về
hội thề Đồng Cổ và hội thề Đốn Sơn. Thần Đồng Cổ là vị thần hộ quốc. Trong tâm
thức của dân tộc Việt, thần Đồng Cổ có vai trò to lớn trong công cuộc bảo vệ đất
nước Đại Việt. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của nghệ thuật tiểu thuyết đương đại, hội
thề Đồng Cổ khơi mở ra sự yếu hèn của thời Trần mạt, sự sụp đổ tất yếu của một
triều đại đồng thời đánh dấu cho sự manh mún tiếm ngôi nhà Trần của Hồ Quý Ly.
130
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã mượn hội thề này để định vị lại niềm tin của nhân
dân, sự trung trinh của quan quân đối với nhà Trần lúc bấy giờ. Mở đầu cho tiểu
thuyết là hình ảnh ông vua già Trần Nghệ Tông bày vẽ lễ hội thật linh đình nhằm
“để cứu vãn một tình huống chẳng thể cứu vãn nổi chăng? Để tự đánh lừa mình,
sau đó để đánh lừa toàn dân, rằng triều đại nhà Trần vẫn còn đang thịnh vượng,
vẫn còn đầy nét vàng son chăng? Để thăm dò lòng dân còn hướng về nhà Trần tời
mức nào? Để thăm dò trăm quan xem còn trung thành với triều đại nhà Trần đến
mức nào?” [77, tr.19-20]. Đáng lẽ quan thủ lễ, quan thái sư phải là người đọc lời
thề để mọi người cùng ứng vọng, đáng lẽ theo nghi lễ, nhà vua không phải nói một
lời, nhưng ông vua già Nghệ Tông nói rất to và dõng dạc như ngầm nhắn gởi đến
quan Thái sư “Kẻ làm tôi bất trung thì thần minh tru diệt” [77, tr.21]. Mọi biểu
hiện của hội thề đã bày ra trước mắt “sự tiếc nuối, sự giãy giụa tuyệt vọng” [77,
tr.20] không phải của một con người mà của một triều đại đến thời mạt vận bởi
những con người bất tài, vô dụng, đục khoét, sa đọa, trụy lạc trong lối sống, bất
chấp hồn nước, hồn dân tộc đang ngồi trên ngôi cửu trùng trị vì thiên hạ. Ông vua
già Trần Nghệ Tông đã đau đớn thốt lên trong hội thề Đồng Cổ rằng “Hội thề này
là cái gì?... Một lời kêu cứu…Một lời động viên…Một sắc dụ kêu gọi sự trung
trinh…” [77, tr.20]. Đáp lại lời của ông là tướng Trần Khát Chân đứng bên cạnh hai
vua quỳ gối tung hô: “Thượng hoàng vạn tuế!” [77, tr.21] còn quan thái sư Hồ Quý
Ly “nét mặt vẫn lạnh tanh như mọi lúc. Quan thái sư chỉ đỡ lấy cái chén mà ông
vua già đang giơ ra trước mặt” [77, tr.21]. Khi Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lập nên
nhà Hồ, kinh đô chuyển về Thanh Hóa, hội thề được tổ chức ở núi Đún. Hội thề
Đốn Sơn lại là cơ hội để cho Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng và tôn thất nhà
Trần mưu sát Hồ Quý Ly. Không những không khôi phục được nhà Trần mà Trần
Khát Chân cùng đám thủ hạ bị Hồ Quý Ly giết chết. Cuộc mưu sát Đốn Sơn phá tan
ý nghĩa thiêng liêng của lễ hội, làm lung lay triều đình Đại Việt và niềm tin của
nhân dân đối với nhà Hồ lúc bấy giờ. Từ chỗ biểu thị niềm tin của nhân dân, sự
trung trinh của quan quân, sự thái bình thịnh vượng của đất nước, các hội thề xuất
hiện trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đôi khi lại biểu thị cho những cơ
131
hội, mưu toan, bất ổn về mặt chính sự và đức tin. Hay nói một cách khác, con người
đang lợi dụng lễ hội để trục lợi theo một nghĩa nào đó và hậu quả là sự thất bại.
Lễ là đức tin nguyện cầu. Hội là tập hợp đoàn kết làm nên sức mạnh. Mỗi nhà
văn viết về lễ hội với suy ngẫm riêng của mình. Lễ hội trên mỗi trang văn của Võ
Thị Hảo luôn tiềm ẩn những hận thù, những tai ương sẵn sàn quàng vào phận người.
Lễ hội trong cái nhìn của Nguyễn Quang Thân lại vạch ra những giới hạn trong
nhận thức và mối quan hệ giữa các nhân vật lịch sử. Trong khi đó, lễ hội qua các bộ
trường thiên tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Quốc Hải chủ yếu ngợi ca công đức của
đấng minh quân và thời đại cực thịnh của các triều đại Lý, Trần. Lễ hội trong các bộ
tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh hướng đến giá trị tri thức địa phương, sức sống
vững bền của văn hoá dân tộc trước sự xâm thực văn hoá từ bên ngoài… Tuy nhiên,
mấu chốt chung chúng ta dễ nhận thấy chính là các nhà văn viết về lễ hội khi nhận
thức được những giá trị văn hóa đó đang mai một mất đi trước dòng thời đại cuộn
chảy, qua đó dóng lên hồi chuông cảnh báo việc tổ chức lễ hội đang diễn ra trong
đời sống đương đại. Nó là đức tin hướng đến sự đoàn kết quốc dân hay là những dự
án, kế hoạch được vạch ra nhằm trục lợi vật chất? Con người đến với lễ hội là dịp
tìm về gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc hay nguyện cầu tha thứ, giải tỏa nỗi sợ vì đã
làm những việc bất chính mỗi ngày? Sẽ chẳng còn ý nghĩa chân chính khi phá vỡ
tính cộng đồng, áp đặt quyền lợi cá nhân lên các lễ hội là thông điệp sâu sắc cần
nhận thức đầy đủ mà nhà văn hướng đến con người đương đại. Xã hội do con người
tạo ra với những biểu hiện về phong tục, tập quán, văn hoá, tín ngưỡng… Trong tác
phẩm văn học, con người giữ vai trò trung tâm. Ý niệm của nhà văn về con người
như thế nào sẽ chi phối đến quan niệm của nhà văn về các thành tố xung quanh nó
như văn hoá, đạo đức, chính trị… và các phương tiện phản ánh như ngôn ngữ, biểu
tượng, biểu trưng cũng thay đổi. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, hệ
thống biểu tượng văn hóa cộng đồng cũng được các nhà văn thiết tạo như là một
đơn vị ngôn ngữ tiếp nối phản ánh những khát vọng của con người thời đại và dân
tộc trên các chặng đường phát triển.
132
4.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng trong tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Trong tiến trình vận động và phát triển của xã hội, các thành tố văn hóa luôn
có sự giao thoa, chuyển hóa cho nhau, có những thành tố văn hóa bản địa mất đi,
cũng có những thành tố cộng sinh và tiếp biến trong các nền văn hóa khác khi hội
nhập, có những thành tố văn hóa với sức sống vững bền tồn tại độc lập như nó vốn
dĩ trước đó. Quá trình khuếch tán văn hoá và sinh thái văn hoá đã làm nên sự giàu
có, phong phú cho các nền văn hoá khác nhau trong sự giao thoa và phát triển.
Trong tiến trình đó, nền văn hoá Việt Nam rất phong phú, đa dạng bởi sự tổng hoà,
đan xen của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Thiên chúa giáo cùng với văn hoá bản
địa như đạo Mẫu và nhiều loại hình lễ hội, sinh hoạt dân gian khác, làm nền tảng cơ
bản của nền văn hoá dân tộc Việt. Vậy nên, mỗi một biểu tượng văn hoá xuất hiện
trong tác phẩm nghệ thuật lại có con đường kiến tạo đặc trưng riêng. Phương thức
kiến tạo biểu tượng lễ hội chủ yếu từ không gian sinh hoạt cộng đồng và nghi thức
thực hành lễ, hội. Phương thức kiến tạo biểu tượng đạo Phật, đạo Mẫu lại thiên về
không gian thiêng hoá, siêu thoát cùng với lớp ngôn ngữ, giọng điệu triết lý.
4.2.1. Các tầng bậc không gian với khả năng kiến tạo hệ biểu tượng văn hoá
cộng đồng
Trong đời sống xã hội cũng như trong tác phẩm nghệ thuật, không một cái gì
tồn tại ngoài không gian, bởi không gian là hình thức tồn tại của vạn vật và con
người cùng với những sản phẩm do con người tạo ra trong hoạt động sống. Tuy
nhiên, không gian của những hình thức tồn tại luôn có sự khác biệt nhau, không
gian vật lí diễn tiến theo sự vận động của tạo hoá vốn dĩ, còn không gian nghệ thuật
gắn liền với tuy duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Đó là những lớp không gian cảm
tính, chủ quan biểu hiện tư tưởng, thẩm mĩ, tình cảm hay là một phương thức chiếm
lĩnh thực tại bằng cảm xúc của người nghệ sĩ. Có thể nói, mỗi tác phẩm văn học là
“một không gian được khu biệt theo một cách nào đó, phản ánh trong cái hữu hạn
của mình một đối tượng vô hạn là thế giới ngoài tác phẩm” [63, tr.376] cho nên, các
nhà văn rất chú ý thủ pháp nghệ thuật xây dựng không gian trong tác phẩm, nhằm
biểu đạt thế giới bên ngoài rộng lớn kia.
133
Đối với các lễ hội văn hoá dân gian, nếu phần lễ là nghi thức hiến dâng, cầu
xin, thể hiện sự tôn kính của con người đến nhân vật trung tâm được linh hóa,
thường là các vị thần hoặc là con người được nhân dân thánh hóa, huyền thoại
hóa… thì phần hội chủ yếu thực thi các trò chơi, diễn xướng. Chính phần hội là chất
keo kết dính cộng đồng. Để làm sáng tỏ ý nghĩa của phần hội, các nhà văn chú ý
miêu tả không gian sinh hoạt thật sống động với nhiều trò chơi, diễn xướng. Chẳng
hạn, nhân dịp Thượng hoàng Trần Nhân Tông tuần du phương Nam trở về bình an,
nhà vua mở hội vui mừng với nhiều trò chơi, tích tuồng tạo tác đời sống nhân dân,
thể hiện vượng khí đang lớn mạnh của triều đại nhà Trần. “Hết trò nhà múa, lại đến
trò pháo bông… Các trò chơi đang ngoạn mục thì tích trò tầng hai chợt xuất hiện”
[43, tr.116-117]. Mỗi tích trò tái hiện lại khung cảnh sinh hoạt rất đỗi quen thuộc
trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những ngư ông quăng chài, những tiều phu
gánh củi, bác nông dân cày ruộng, cảnh chăn tằm, se tơ, dệt lụa, cảnh nho sinh nằm
đọc sách, cảnh vua cày ruộng tịch điền, cảnh quan quân đánh giặc, rồi các trò chơi
đấu vật, diễn võ, chọi gà, đua thuyền, thổi cơm, ném cầu cứ thế diễn ra khắp kinh
thành, lộ phủ. Hay đó là không gian “Thăng Long vào hội. Kinh thành rực rỡ hẳn
lên. Từ phố phường tới cung cấm, đình tạ đâu đâu cũng giăng mắc cờ hội. Các giáo
phường múa hát thâu đêm, người xem chen chúc như nêm. Góc phố này có một bãi
thả diều…góc phố kia là một cụm tới ba bốn cây đu…và biết bao nhiêu trò chơi
khác như đua thuyền, kéo co, vật, đấu võ, múa khiên, múa trống, chọi gà, chọi trâu,
đua ngựa… Từ xa đã nhìn thấy những dải yếm hồng, những tà áo nâu quấn quýt
tung bay trên nền trời” [43, tr.373-374]. Những trò chơi dân gian được các nhà văn
tìm hiểu kĩ càng, miêu tả sinh động, gợi lên ý nghĩa về đời sống tinh thần của nhân
dân thật phong phú, đời sống vật chất của nhân dân thật ấm no, đất nước đang kỳ
thái bình, thịnh vượng. Mặt khác, chính không gian trần thế xã hội ấy đã làm sáng
tỏ bản chất của phần hội là vui vẻ, sung túc, gắn kết cộng đồng, định vị các giá trị
trong xã hội. Trong tiểu thuyết Huyền Trân, nhà văn Nguyễn Hữu Nam tái hiện lại
không gian lễ hội mừng được mùa và mừng Thượng hoàng tuần du phương Nam
bình an trở về với các tầng bậc không gian đậm nét văn hóa Việt. Không gian lễ hội
đậm màu sắc quý tộc, hoàng cung được trang hoàng bên ngoài điện Long Trì với
134
bục dài trải thảm đỏ, ngai vàng chạm rồng sơn ánh vàng, lọng che màu hoàng kim,
quan văn quan võ hầu hai bên tả hữu. Lễ hội dân gian diễn ra khắp kinh thành với
các trò chơi dân gian đánh chuyền, rồng rắn lên mây, mèo rượt chuột, chơi ô quan,
nhảy ngựa, bịt mắt bắt dê, rải ranh… Xen lẫn vào các trò chơi là các bài đồng dao
như “Giã cò, cò bay/ Sang sông, trồng cây cải/ Vãi hạt vàng/ Xin cô nàng/ Mười
cái lẻ/ Lẻ một/ Lẻ hai…, những điệu nhạc réo rắt. Tiếng trống ếch, tiếng đàn bầu,
đàn nhị giục giã cả người chơi lẫn người xem…” [100, tr. 59-60].
Bên cạnh lớp không gian trần tục còn có lớp không gian siêu thực. Đó là kiểu
không gian thiêng hóa, siêu thoát, không gian ma mị liêu trai, mơ hoang, không
gian của linh hồn, hay đó là những nghịch dị, nhiệm màu phi lí. Là một dạng thức
của không gian siêu thực, không gian thiêng hoá, siêu thoát là môi sinh cho sự tồn
tại của hệ biểu tượng văn hoá, tín ngưỡng tâm linh. Kiểu loại không gian này
thường gắn với nơi toạ lạc của các ngôi chùa, các gian thờ Phật, các đình, đền, các
hình thức sinh hoạt văn hoá tâm linh đã ăn sâu vào trong tâm hồn, tính cách người
Việt. Kiểu không gian này được các nhà văn miêu tả đậm đặc trên các trang tiểu
thuyết viết về đạo Phật, đạo Mẫu, các ngôi đền, chùa… Chẳng hạn những ngôi đền
thờ Mẫu dù được xây dựng rất đơn sơ, bình dị hay uy nghi cũng đều gần gũi thân
thuộc với đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân bản xứ Việt Nam. Không
gian của các đền Mẫu thường là nơi phong cảnh hữu tình, kỳ thú. Có những “ngôi
điện thờ hầu như nằm giữa trời đất, dưới những gốc cây đại cổ thụ. Những ngôi
điện vô cùng sơ sài. Chỉ vẩy ra một cái mái che bằng vài tàu lá gồi. Bên dưới là một
hòn đá to trên để bát hương và bình hoa giấy. Phía trên bát hương treo lơ lửng mấy
cái nón quai xanh, quai đỏ. Lại rủ xuống mấy cái thao ngũ sắc sặc sỡ…Người ta
bảo đó là nơi trú ngụ của các nàng, các cô, những người hầu cận của Mẹ Đất, Mẹ
Rừng, Mẹ Suối” [78, tr.372,373]. Cũng có những ngôi đền thờ Mẫu nằm trên đỉnh
núi. Thường những ngôi đền như vậy sẽ có lối đi đến đền chẳng khác nào con
đường hành hương. “Qua cổng đến lối lên dốc. Người ta xếp đá thành những bậc
dẫn lên đỉnh núi. Đặc biệt trên đầu lối đi là một vòm cuốn toàn lá… Lối đi trong
vòm mát rượi. Nắng rọi qua vòm lá, đổ những vệt lốm đốm trên những bậc đá…Hết
rừng thông, đến rừng trám. Hết rừng trám ta kết thúc đường hành hương” [78,
135
tr.418]. Nhìn từ bên ngoài, không gian đền Mẫu rất hài hòa, thanh sạch. “Ngôi đền
Mẫu hiện ra uy nghi, ngói phủ rêu phong, nằm chính giữa đỉnh núi, giữa những cây
giẻ. Một cây ngọc lan cổ thụ ở đầu hồi bên phải tỏa hương thơm ngát” [78, tr.418].
Khám phá bên trong đền Mẫu, người ta nhận ra vẻ trang nghiêm, linh thiêng của
đền Mẫu sau khi đi qua chiếc sân rộng, leo lên ba bậc thềm vào gian chính điện, tòa
thánh điện lộng lẫy hiện ra. Qua khả năng quan sát và miêu tả tỉ mỉ của nhà văn về
hai bức tranh lớn được vẽ lên tường ở đền Mẫu, bên trái là tranh ngũ hổ, bên phải là
tranh Thánh Mẫu, chúng ta phát hiện ra vẻ đẹp linh thiêng nhưng hài hòa, gần gũi,
thân thiện của Mẫu với đời sống con người bản địa. “Mẫu đang ngự trên chiếc võng
điều được chăng giữa cây táo và cây sung. Chim họa mi đậu trên vai Mẫu. Trên
cành sung phía bên phải, con vượn nhỏ nghịch ngợm đánh đu. Mười hai cô nàng
đứng hầu. Cô cầm quạt, cô cầm hương, cô đánh đàn, cô cầm khay cầm chén… Phía
dưới bức tranh là cảnh núi rừng bao la. Và trên rừng là một đôi hài đang bay…”
[78, tr.420]. Vẻ đẹp của Đạo Mẫu là hướng con người đến khả tính phồn thực, che
chở cho con người, “cầu được ước thấy” trong khả năng tái tạo, sinh tồn cho nên
không gian của đền Mẫu đã toát lên vẻ đẹp linh thiêng đậm tính phồn thực đó.
Một trong những nét đẹp đặc sắc của Đạo Phật là hướng chúng sinh “diệt
dục”, tạo Nhân tốt đẹp thời hiện tại để Quả vui an lạc thời tương lai. Trên hành trình
ấy, con người phải trải nghiệm không ít những gian khó, khắc nghiệt, phải có đủ
lòng dũng cảm, kiên định, lòng nhân hậu bao la mới chiến thắng được hoàn cảnh và
chính mình. Viết về giá trị này của biểu tượng Đạo Phật, các nhà tiểu thuyết đã
miêu tả tỉ mỉ lớp không gian hành hương trên con đường đến với đạo Phật. Có thể
mỗi thân phận, kiếp người đến với đạo Phật ứng với duyên nghiệp khác nhau. Có
người vì thực tại khắc nghiệt xô đẩy họ đến với cửa chùa nhằm tìm chốn dung thân,
rồi tu luyện, học Phật nhằm cứu rỗi cuộc đời mình và chúng sinh. Cũng có người đến
với đạo Phật vì chán ngán thực tại dơ bẩn, tranh giành thiệt hơn. Cũng có người đến
với đạo Phật nhằm tìm lại bản thể thanh tịnh của tâm hồn sau bao biến cố, xâu xé…
Nhưng chung quy ở họ gặp nhau trên con đường hành hương đến với cửa Phật.
Không gian con đường hành hương ấy luôn có nhiều hiểm nguy rình rập vừa đặt ra sự
thách đố lòng kiên trì, nhẫn nại vừa mở ra cánh cửa đến với đức Phật. Vượt qua con
136
đường hành hương gián khó ấy cũng chính là vượt qua nghịc cảnh và chính mình để
đạt đến chân lý “sắc sắc không không”, con người rủ bỏ những tham, sân, si, hỉ nộ, ái
ố… chỉ khi ấy con người mới đủ lòng bao dung, vị tha đến được với chúng sinh.
Từ gian thờ Phật trong mỗi nhà, đến chùa làng, chùa nơi kinh thành đế đô hay
chùa nơi thâm sơn cùng cốc đều ẩn hiện không gian thiêng hoá, siêu thoát luôn, đó
là nơi khí hạo con người và tự nhiên giao hoà với nhau, nhân tính của con người
qua đó phát lộ chân thật nhất. Trong không gian ấy, “tiếng mõ là tiếng nói của đức
Phật. Tiếng mõ đánh thức sự tốt lành, đánh thức cái tâm Phật trong mỗi con người”
[79, tr.25]; “Hình như tiếng chuông, tiếng mõ, cả mùi hương nữa…tất cả đều mang
một triết lí sâu thẳm rất cần cho những tâm hồn từng trải u uẩn” [79, tr.32]. Trong
không gian ấy, âm thanh của tiếng mõ, tiếng tụng kinh cầu nguyện hoà cùng khói trầm
hương thơm ngát đánh thức phần âm tính tốt lành của mỗi con người, níu kéo lòng
người dẫu từng lung lạc trở về chính tâm hoặc ở đó “tâm hồn ta như được cởi mở,
nâng cao lên, khoáng đạt hơn, rộng lượng hơn, tầm mắt nhìn được xa hơn”[77, tr.742].
Đấy là lớp không gian thiêng hoá siêu thoát đặc trưng của Đạo Phật hễ khi con người
chìm đắm vào không gian ấy thì chỉ còn cái hư không, tĩnh tại, an nhiên.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, không gian của hệ biểu tượng
văn hóa không đơn thuần là không gian vật lí vũ trụ, là tầng không, là nơi chốn, là
ranh giới vùng miền gắn với tộc người một cách giản đơn mà đó là không gian lịch
sử, văn hoá, không gian tâm lí. Những tầng bậc không gian từ không gian sinh hoạt
trần thế đến không gian siêu thực được nhà văn tạo dựng, miêu tả sinh động, in đậm
tính chất văn hóa truyền thống người Việt, phản ánh những giá trị cốt lõi của đời
sống tinh thần xã hội, gắn liền với từng biểu tượng văn hóa khác nhau. Sự tồn tại
của hai dạng thức trong không gian này trong tác phẩm như hai mặt cơ bản vừa
thống nhất vừa đối lập nhau, soi tỏ, thức nhận sâu sắc hơn về bản thể đời sống xã
hội và con người. Trong khi biểu hiện tập trung của không gian trần tục gắn với các
sự kiện lịch sử thì biểu hiện của không gian siêu thực, hư ảo trong tiểu thuyết lịch
sử đương đại Việt Nam gắn liền với đời sống văn hoá tín ngưỡng tâm linh.
137
4.2.2. Nghi thức thực hành lễ hội với khả năng kiến tạo hệ biểu tượng văn
hoá cộng đồng
Nếu biểu tượng là đơn vị ngôn ngữ kiến tạo tác phẩm nghệ thuật hướng đến
chiều sâu văn hoá và lịch sử thì nghi thức thực hành lễ hội là ngôn ngữ kiến tạo hệ
biểu tượng văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội dân gian. Cùng với không gian sinh
hoạt cộng đồng, nghi thức thực hành, diễn xướng lễ hội không chỉ phản ảnh bề mặt
của đời sống xã hội mà còn thể hiện những khát vọng nhân văn chân chính của con
người.
Nếu xã hội văn minh đã công nghệ hóa, công nghiệp hóa các trò chơi phản ánh
đời sống tinh thần của con người theo tính hiện đại thì ngược lại, xã hội truyền
thống, các trò chơi diễn ra rất dân dã, thể hiện giá trị cố kết tinh thần nhiều hơn.
Chính các thành tố trong lễ hội truyền thống của người Việt đã vật chất hóa vẻ đẹp
của thời đại và đời sống tinh thần nhân dân Việt. Ở đó, các lễ hội Mo nang, Nõ -
nường, hội Chen, hội Trải ổ mang đậm sắc thái phồn thực thể hiện vẻ đẹp nhân văn
cao cả như muốn chống lại các luật định khắc khe, những ràng buộc kìm hãm bản
thể vốn có của con người. Tính chất của lễ hội thể hiện rõ qua nghi thức trò diễn
như rước ông Đùng bà Đà, Nõ-nường, mô phỏng tính giao của nhân loại qua các vật
dụng gắn với đời sống sinh hoạt hằng ngày của họ, tái hiện hoạt động tính giao tự
nhiên của con người với vẻ đẹp nhân bản nhất. “Các chàng trai, các cô gái cầm nõ
của nam, cầm nường của nữ được chọn thuần những người to khỏe, đẹp gái, đẹp
trai… Họ nhảy từng bước theo nhịp trống và miệng đọc lời thiêng Tinh! Tinh
Phọoc!... Từ cổ xưa, sau cuộc Nõ - Nường là tiếp đến cuộc chen. Trai gái ùa vào
chen thích cánh nhau cho đến lúc toát mồ hôi, áo, khổ, yếm, váy bật tung, cũng là
lúc đèn đuốc tắt phụt. Trống, chiêng ngừng bặt. Trời tối ôm. Ấy là lúc trai gái thỏa
sức tự do” [47, tr.518]. Sự chân thật, gần gũi của nghi thức được nhà văn miêu tả đã
góp phần làm sáng tỏ giá trị của các lễ hội này qua mỗi trang tiểu thuyết không phải
là gợi lên dục tính tầm thường mà nhằm khẳng định quy luật tự nhiên vốn có của
con người cần được tôn trọng. Mỗi một sinh linh ra đời là kết quả của khát vọng và
tình yêu tự nhiên chứ không phải là sự lựa chọn của người được quyền sinh ra sinh
linh đó.
138
Lồng ghép cốt truyện văn hoá, miêu tả tỉ mỉ các nghi thức đặc trưng của mỗi
lễ hội vào cốt truyện lịch sử là sự tìm tòi đáng trân trọng của các nhà văn. Qua sự
lồng ghép, miêu tả tái hiện này, nhà văn muốn nhấn mạnh văn hoá gắn liền với lịch
sử dân tộc, có sức sống vững bền, cần được gìn giữ, lưu truyền như là bảo tàng sống
động và giàu có về đời sống tinh thần dân tộc. Ở đó, “mỗi lớp phù sa văn hóa - tín
ngưỡng trong lễ hội cổ truyền là một thông điệp của các thế hệ tiền nhân để lại cho
thế hệ hôm nay. Những thông điệp ấy tồn tại trong tất cả các thành tố: từ thần tích,
sắc phong đến trò diễn, văn tế, từ nghi thức thờ cúng đến điện thần của các thiết chế
thờ cúng” [10, tr.14]. Vậy nên, khi tái hiện các lễ hội văn hoá dân gian, các nhà văn
rất chú trọng miêu tả nghi thức thực hành. Chẳng hạn, lễ hội tịch điền, cầu khấn
thần Nông ban cho mưa thuận gió hòa được tổ chức trang trọng. Nghi thức lễ theo
thông lệ được chuẩn bị chu đáo như lập đàn tế trời cầu mưa và các linh thần, đặc
biệt là Thần nông. “Đàn cao bảy thước, rộng ba mươi thước, bốn bề đắp tường đất
để làm chỗ tế” [44, tr.147]. Vật lễ tế là tam sinh nhưng sau này có lượt bớt chỉ còn
nhất sinh là lợn. Để buổi lễ diễn ra trang nghiêm và linh nghiệm, đất trời và lòng
người hòa hợp với nhau chung một ước nguyện, chủ tế là nhà vua - Thiên tử. Chủ lễ
là nhà vua - Thiên Tử. “Nhà vua phải ăn chay và tiết dục trước lễ ba ngày” [44,
tr.147]. Sáng sớm hành lễ, “quan đàn sứ đã bày đồ tế khí và lễ vật. Một chiếu làm
vị thượng hương và một chiếu làm vị bái ở trên đàn...Hai thự Đồng văn, Nhã nhạc
đã bày nhạc khí ở bên đông đàn. Các quan đều mặc phẩm phục đứng chờ ở đàn
sở…” [44, tr.148]. Sau khi dâng hương, quỳ lễ Thần nông, nhà vua đọc chiếu thư
cầu xin. “Thần là chủ tế của muôn phương. Chức trách của thần lớn lắm. Thần nắm
giữ vận mệnh của loài người…Cầu thần năm nay lại cho hòa cốc phong đăng, mùa
màng bội thu, dân lành đươc no ấm. Đức của thần thật lớn. Dân chúng toàn cõi
trong nước Việt đội ơn thần…” [44, tr.149]. hay, nhân dịp vua quan nhà Lý đánh
thắng giặc Chiêm Thành, bắt được Chế Củ, nhà vua mở tiệc hiến phù tế cáo tổ tiên
bằng nghi thức thuần Việt rất trang nghiêm. Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã tái hiện
nghi thức hiến tế phù cáo tổ tiên với nghi thức dân gian quen thuộc. “Ba tiếng trống
đánh thông báo cho các quan tế chuẩn bị. Các quan ra hàng chậu thau làm việc
“quán tẩy”. Lại ba hồi chín tiếng trống, chiêng vừa dứt, cuộc tế lễ bắt đầu. Các
139
quan đứng ra hai hàng, chiếu giữa chỉ có nhà vua đứng. Quan chấp sự hô: Cúc
cung!Nhà vua vòng hai tay. Quan chấp sự hô: Bái! Nhà vua liền cúi lạy tổ tiên năm
lạy. Quan chấp sự hô: Lễ tất. Sau một tuần tế lễ là lễ dẫn tù. Dâng tù xong đến lượt
tế tam sinh…” [46, tr.828-830]. Trong đời sống văn hoá bản địa dân tộc Việt, thờ tổ
tiên là tín ngưỡng văn hoá tâm linh hết sức đặc biệt, có đầy đủ ý niệm về nhân sinh
quan, thế giới quan, nghi thức thực hành lễ, chi phối đời sống nhân sinh mỗi người,
chỉ tiếc rằng phong tục thờ tổ tiên, hiến tế phù cáo chưa được người dân bản địa
Việt quan tâm xây dựng hệ thống triết lý, triết luật nền tảng để nâng tầm phong tục
tập quán ấy thành Đạo - Con đường như Đạo Phật, Đạo Nho, Đạo Lão… Trong đời
sống tín ngưỡng hôm nay, dù mục đích nguyện cầu khác nhau nhưng nghi thức thực
hành lễ hiến tế phù cáo tổ tiên với vẻ đẹp thiêng liêng vẫn được duy trì và khôi phục
ngày một hoàn thiện phù hợp thực tế mới.
Cùng với tục thờ tổ tiên, Đạo Mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành biểu
tượng tinh thần của người dân đất Việt và nay là di sản văn hóa phi vật thể của thế
giới. Tín ngưỡng dân gian này được phủ bóng huyền nhiệm đến mê hoặc với ý
nghĩa văn hóa tinh thần của con dân đất Việt đã phả vào trong đó, đặc biệt nghi thức
thực hành ngồi đồng với những yêu cầu tôn nghiêm từ người hầu đến chân nhang đệ
tử, người tham gia lễ hầu. Ban đầu, ở đạo mẫu chỉ có Mẫu Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu
Thượng Ngàn, đến thời Lê Trung Hưng, dân ta thêm mẫu Liều. Đối với đạo Mẫu có
khoảng 60 vị thánh gồm các Mẫu, các chầu bà, các vị tôn ông, các ông Hoàng, các
cô, các cậu, các vị anh hùng có thực và các anh hùng văn hoá. Hầu đồng hay Hầu
bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh và người ngồi giá hầu,
vậy nên, người hầu đồng phải là người có nhân cách đức độ, “có căn cốt, đã lâu
ngày hầu cận bên Mẫu, mới dám ngồi hầu giá Mẫu. Những kẻ đức mỏng bóng yếu,
cậy của, cậy sang kết quả ngồi hầu sẽ trở thành kẻ ốm lửng ốm lơ vì hồn vía yếu
quá, hồn phách nhỏ tí xíu, thân xác chẳng thanh sạch, nhơ bẩn thì không sao chứa
đựng nổi đức tôn nghiêm oai linh của Mẫu” [78, tr. 708]. Bên cạnh ông đồng, bà
đồng còn có các Hầu dâng và Cung văn giúp ông đồng, bà đồng hầu Thánh như
thắp hương, dâng thuốc lá, rượu, trầu, thay lễ phục từ giá đồng này sang giá đồng
khác. Trong đó, Cung văn giữ vai trò quan trọng xướng nhạc và hát cho việc trình
140
diễn của ông đồng, bà đồng. Giá hầu đầu tiên là giá Mẫu với không khí trang
nghiêm, huyền diệu. “Mẫu hiền từ nhưng là bậc chí thánh, bà đồng bắt ghế hầu
Mẫu bao giờ cũng có cử chỉ khoan thai, đĩnh đạc… Mẫu ngự đồng uy nghi, trang
trọng, không nói lời nhiều. Mẫu chỉ hiền từ nhìn khắp chung quanh, nhìn khắp mặt
những người can dự, đám đệ tử ai ai cũng được hưởng phúc lành toà ra” [78,
tr.707-709] thì cũng là lúc Cung văn kéo tiếng đàn tiễn biệt ríu rít dồn dập, “cứ như
những bước chân hối hả hấp tấp của đám các cô ba cô bốn… cô bảy, cô chín…
theo hầu đang lục tục sao cho kịp xe loan của Mẫu” [78, tr.709]. Sau giá hầu đồng
Mẫu là các giá hầu đồng các vị thần linh khác tuỳ theo dịp hầu, ước nguyện của mỗi
chân nhang đệ tử đến cầu xin. Thói thường con người ta chưa hiểu thì cho hầu đồng
là mê tín, đồng bóng quàng xiên, nhưng chiều sâu của nghi thức lễ hầu đồng là tâm
thức văn hóa tín ngưỡng bản địa khuyến thiện. Trong cốt, ngoài đồng. Cốt là cái
linh thiêng của Mẫu, còn đồng là cái bên ngoài, là ta, là cái ghế để cho thánh ngự.
Ta càng thanh sạch bao nhiêu, càng thánh biện bao nhiêu, càng rủ bỏ tục luỵ bao
nhiêu, thì Mẫu càng gần ta bấy nhiêu. Nghi thức ngồi đồng giúp con người thăng
hoa hướng thiện, tìm đến chân lí hài hòa giữa lòng nhân và thánh nhân, chính nghi
thức ấy đã làm nên sự khác biệt giữa tín ngưỡng Đạo Mẫu với Đạo Phật và các tôn
giáo khác.
Tóm lại, các thành tố trong lễ hội truyền thống của người Việt “có một vị thế
đặc biệt, bởi các thành tố này là sự vật chất hóa niềm tin tín ngưỡng, là không gian
vật chất của lễ hội cổ truyền” [10, tr.205]. Nghi thức thực hành lễ là một thành tố
quan trọng, làm nên bản sắc và ý nghĩa của các tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân
gian. Các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã có sự chọn lựa khá tinh tế
các thành tố ấy để làm nổi rõ giá trị đặc sắc của mỗi biểu tượng tín ngưỡng, tôn
giáo, lễ hội, qua đó hướng đến việc phục dựng và bảo bảo tồn giá trị văn hoá dân
gian của dân tộc.
Tiểu kết Chương 4
Văn hóa thuộc về cộng đồng gắn với lịch sử hình thành, tái tạo và phát triển
các mối quan hệ xã hội của loài người trong phạm vi vùng miền, dân tộc, quốc gia,
quốc tế. Những biểu hiện của văn hóa có thể quy về các lĩnh vực phong tục tập
141
quán, tín ngưỡng và tôn giáo, lễ hội sinh hoạt, ngôn ngữ, triết học và tư tưởng, văn
học và nghệ thuật. Đặc trưng phổ quát của văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội,
phản chiếu đời sống tinh thần con người trong xã hội đó. Vậy nên, khi nói đến văn
hóa của mỗi dân tộc, quốc gia là nói đến đặc trưng riêng, hệ thống giá trị văn hóa
riêng của dân tộc, quốc gia đó đã được tích lũy, trao truyền, bổ sung qua các thế hệ.
Cấu trúc của “bất kỳ nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, đều có hai dòng chảy:
một là dòng chảy văn hóa của các thế hệ tiền nhân đến với thế hệ đương đại; hai là
những sáng tạo văn hóa của thế hệ đương đại [10, tr.11]. Trong dòng chảy của văn
hóa các thế hệ tiền nhân đến với thế hệ hôm nay, những tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội
là những thành tố văn hóa đặc biệt lắng đọng tâm thức của cộng đồng dân cư bản
địa với những quan niệm về triết lí nhân sinh, về thế giới quan của con người. Việc
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của những tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội truyền
thống có ý nghĩa quan trọng chống lại sự xâm thực văn hóa bởi các nền văn hóa
khác. Trước làn sóng văn minh hiện đại, giao lưu văn hóa ồ ạt của thời đại mở cửa,
hội nhập toàn cầu ngày nay, một số tín ngưỡng, lễ hội chỉ còn là dĩ vãng, một số tín
ngưỡng, lễ hội được thế giới tôn vinh là di sản văn hóa của thế giới. Trong tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội được các nhà
văn tái hiện vừa phảng phất vẻ đẹp văn hóa truyền thống dân tộc Việt, vừa biểu thị
niềm khắc khoải của nhà văn về bản chất của nó khi con người đương đại với manh
tâm buôn bán thánh thần. Đó không chỉ là niềm khắc khoải về vẻ đẹp truyền thống
đang bị hao mòn, bị đánh mất giá trị bởi kế hoạch hóa, hành chính hóa, bội thực hóa
các tín ngưỡng, lễ hội diễn ra khắp nơi giống nhau mà còn là thông điệp cho con
người, xã hội đương đại và tương lai khi tổ chức, tham gia lễ hội bằng tinh thần xây
dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
142
KẾT LUẬN
1. Có thể xem hoạt động sáng tạo của nhà văn là quá trình cụ thể hoá quan
niệm về hiện thực và con người. Bên cạnh ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên làm
phương tiện biểu đạt thì biểu tượng và các dạng thức tương cận của nó cũng là
phương tiện ký thác chiều sâu tư tưởng văn hoá nhân loại mà nhà văn hướng đến.
Trong tác phẩm văn học, biểu tượng không chỉ là đơn vị hạt nhân của văn hoá mà
còn được coi là đơn vị ngôn ngữ, phương tiện tư duy nghệ thuật của nhà văn. Biểu
tượng mang tâm thức cộng đồng khi nó đi qua những giai đoạn lịch sử và các hệ
hình văn hoá khác nhau. Giá trị của biểu tượng không phải là bất biến mà luôn tái
sinh trong nhận thức mỗi thời đại nhằm biểu đạt tư duy xã hội. Trong tác phẩm văn
học, biểu tượng vừa mang nghĩa phổ quát vừa mang nghĩa ý niệm của chủ thể sáng
tạo và tiếp nhận. Sự thay đổi hệ hình văn hoá sẽ bồi đắp thêm giá trị cho biểu tượng
trong hệ trục quy chiếu sáng tạo và tiếp nhận các giá trị văn hoá của nhân loại. Dù
là sản phẩm của “vô thức cá nhân” hay “vô thức tập thể” thì về bản chất, biểu
tượng luôn mang tính đa nghĩa, cổ xưa, huyền bí qua tâm thức cộng đồng. Nó luôn
được bồi đắp để tạo nên những trữ lượng ngữ nghĩa nghệ thuật mới.
2. Hệ biểu tượng tự nhiên phần lớn là các cổ mẫu Nước, Lửa, Đất, Trời và các
biến thể xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Hệ biểu
tượng này vừa mang những giá trị phổ quát do tâm thức cộng đồng quy ước vừa
mang tính ý niệm của nhà văn. Thế giới biểu tượng tự nhiên ấy phát huy trọn vẹn
giá trị của nó khi nhà văn tri nhận và sử dụng nó để cắt nghĩa các mặt đời sống xã
hội. Nó vừa là những tín hiệu thẩm mĩ, là mã khóa để bạn đọc lần mở những giá trị
tư tưởng, tình cảm, thái độ mà nhà văn gởi gắm, đồng thời là đơn vị ngôn ngữ phản
chiếu mọi góc cạnh xã hội và cá thể lịch sử mà nhà văn hướng đến. Như bản thể
vốn có nước, lửa, đất, trời có tính chất nhị nguyên về nghĩa, vừa biểu hiện những
mặt của sự sống, sinh sôi, thanh tẩy vừa biểu hiện cái thiêu đốt, hủy diệt, tàn phá.
Khi nhà văn nhìn về lịch sử không hoàn nguyên, những cá thể lịch sử đa tính cách
thì giá trị biểu đạt của hệ biểu tượng tự nhiên cũng phong phú và đa dạng hơn so
với những gì nó đã có trong kết nối tương tác giữa các hệ biểu tượng khác. Phương
thức nghệ thuật được nhiều nhà văn sử dụng để kiến tạo nên hệ biểu tượng tự nhiên
143
trong tác phẩm là khai thác triệt để giá trị nguyên khôi của hệ biểu tượng tự nhiên từ
góc nhìn văn hoá và chuyển mã các giá trị ấy trên nền tảng tư duy nghệ thuật, đồng
thời các nhà văn cũng sử dụng điểm nhìn lí thuyết sinh thái học để tái hiện các giá
trị của hệ biểu tượng tự nhiên trong mối liên hệ gắn kết hài hoà với các hệ biểu
tượng con người và văn hoá trong bối cảnh lịch sử thời đại mới.
3. Trong thời đại ngày nay, khi các nhà tiểu thuyết lịch sử không còn quá “nệ
sử” mà dám đi chênh vênh trên bờ vực trung tâm- ngoại vi; chính sử - dã sử để thụ
hưởng lịch sử nhằm “làm mới” nội hàm thể loại thì tiểu thuyết lịch sử đã vượt qua
các giới hạn tưởng chừng đã nhất thành bất biến. Theo đó, lịch sử là đối tượng để
thiêng hóa, ngưỡng vọng hay là đối tượng để nhà văn trải nghiệm nhằm truy tìm
chân lý cho thời đại luôn đặt ra trong tư duy nghệ thuật mỗi nhà văn. Đây thực chất
cũng là câu chuyện về mối quan hệ “thiêng” - “phàm” khi nghĩ về lịch sử. Từ mẫu
hình về đấng minh quân, anh hùng hào kiệt ăn sâu vào trong tiềm thức văn hóa,
được nhân dân sùng bái, thánh hóa đến nhân vật tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam là một hành trình mang tính lịch sử của hệ hình tư duy nghệ thuật mới. Tiểu
thuyết không bao giờ cũ. Tiểu thuyết lịch sử là chiếc la bàn định vị những giá trị
lịch sử đã qua trong bối cảnh xã hội mới. Những nhân vật, sự kiện và góc khuất lịch
sử được các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam “viết lại” trên tinh thần của
thời đại hội nhập với độ mở về giá trị tư tưởng và thẩm mỹ rõ nét. Những nhân vật
lịch sử như: Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, những
mỹ nhân chốn cung đình… được các nhà tiểu thuyết định vị lại chân giá trị như là
những biểu tượng trong đời sống chính trị - xã hội của dân tộc. Quay về với lịch sử
mấy nghìn năm của dân tộc không hề là sự bế tắc của nhà văn đương đại trước cuộc
sống hiện nay mà từ những thành công và thất bại của các vương triều hay cá thể
lịch sử nhà văn hướng tìm chân lí trước thực tại đang diễn ra. Nếu như trong văn
học Việt Nam trước đổi mới, thế giới biểu tượng con người trong tiểu thuyết của
Chu Thiên, Hoa Bằng, Nguyễn Huy Tưởng,.. mang tính đại chúng, gắn kết cộng
đồng, thể hiện tư tưởng chính trị, giai cấp thì trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam biểu tượng gắn với văn hóa, tâm thức dân tộc. Bởi lẽ quá trình hình thành
và vận động của tiểu thuyết lịch sử vừa mang tính loại hình khu biệt vừa chịu sự tác
144
động bởi các yếu tố của thời đại sản sinh ra nó. Mỗi nhà tiểu thuyết lịch sử sẽ chọn
cho mình một điểm tựa nào đấy từ lịch sử để dấn thân trên con đường nghệ thuật, để
tường giải hiện tại và hướng đến tương lai. Có tác giả tái hiện rộng rãi, dằng dặc cả
mấy trăm năm lịch sử của một triều đại bằng các bộ trường thiên tiểu thuyết nhưng
cũng có nhà văn chỉ chọn một thời khắc lịch sử, một sự kiện diễn ra để viết nên tác
phẩm. Không ai quy ước tỉ lệ hiện thực lịch sử được phép hư cấu trong mỗi tác
phẩm là bao nhiêu phần trăm nhưng hư cấu nghệ thuật ở đây không phải là sự tùy
tiện phóng đại, bịa đặt, thêm bớt cho nhân vật, sự kiện lịch sử những tâm tư tình
cảm, những tư tưởng ý nghĩ ngược lại với thời đại. Nhà văn có quyền chất vấn lịch
sử, phản biện lịch sử để thấy được sự tiến bộ hay tụt hậu của lịch sử nhưng không vì
thế mà gán ghép, chắp vá lịch sử. Các nhà văn, hoặc xem tiểu thuyết lịch sử là tấm
gương phản chiếu trung thực thời đại đã qua hoặc xem mỗi tác phẩm là một diễn
ngôn thời đại mới... Dù tìm về lịch sử từ điểm nhìn nào chăng nữa thì nguyên lý của
sáng tạo nghệ thuật không bao giờ hướng đến bạn đọc đã tồn tại trong quá khứ mà
hướng đến con người đương đại và tương lai, các nhà văn thường chọn điểm tựa từ
nguyên tắc “dĩ cổ vi kim” khi viết về lịch sử trong bối cảnh thời đại mới. Hơn nữa,
nền tảng làm nên sự đổi mới ấy có thể bắt đầu từ nội lực nhu cầu cần đổi mới của
văn học nước nhà, cũng có thể luồng gió mới của thời đại hội nhập, giao thoa văn
hóa đã cuốn theo sự đổi mới tư duy nghệ thuật về con người trong quá trình sáng tác
đã chi phối mạnh mẽ đến bút pháp sáng tạo của nhà văn nói chung, đến việc xây
dựng hệ biểu tượng con người với nguyên mẫu từ các nhân vật lịch sử nói riêng. Hệ
biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vì thế cũng trở
nên sinh động, chân thực, có “đời sống mới”, gần gũi hơn với thời đại hôm nay.
Nhân vật lịch sử, nhất là các vĩ nhân đã từng được phong thánh trở nên thân thiện
hơn với đại chúng nhân dân. Đằng sau con người lịch sử là con người tự nhiên nhi
nhiên, những khuất lấp phía sau các thánh nhân lịch sử được khơi sâu, mô tả thế nào
đó để cho họ không sụp đổ về mặt hình tượng. Mục đích của giải thiêng là để lịch
sử và hiện tại càng gần nhau thì những bài học lịch sử được con người đương đại dễ
dàng tiếp cận với ý nghĩa sâu sắc, nếu dân tộc nào biết rút ra từ lịch sử của mình
những bài học, thì dân tộc đó có trí khôn và sức mạnh gấp đôi.
145
4. Thành tựu quý giá nhất của sự phát triển xã hội là văn hoá. Chỉ có văn hóa
mới xuyên thấm qua các thiết chế xã hội. Biểu tượng thuộc về văn hóa. Do vậy, ở
cấp độ phản ánh cao hơn, biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật sẽ phản ánh được
thuộc tính văn hóa tộc người. Sự đồng hóa văn hóa tộc người diễn ra rất khó, nhưng
hễ đồng hóa được văn hóa nghĩa là sự tồn vong của dân tộc lại bị xâm hại tột đỉnh.
Từ góc nhìn này, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại không chỉ tái dựng lại thời
đại đã qua bằng các nhân vật, sự kiện lịch sử mà quan trọng lồng xen vào đó bản sắc
văn hóa dân tộc Việt với các lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, tập quán... Những bộ
tiểu thuyết như Giàn thiêu, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn, Đức Thánh Trần…
không hẳn gọi tên rành mạch như tên thể tài lịch sử mà liền sau đó phải thêm danh
xưng văn hóa, phong tục bởi thấm đẫm trên mỗi trang viết là sự lồng ghép đan xen
các lễ hội văn hoá dân gian truyền thống người Việt. Trong tất cả các khía cạnh đa
dạng của văn hoá truyền thống dân tộc, có thể thấy tri thức địa phương là nền tảng
cơ bản nuôi dưỡng đời sống tinh thần xã hội Việt Nam, đáp trả sự cưỡng đoạt văn
hoá, xâm thực văn hoá từ bên ngoài trong quá trình giao lưu, mở cửa của đất nước.
Nếu thuyết luận tiến hoá xem xét nền văn hoá châu Âu là chuẩn mực của sự tiến bộ
và phát triển thì thuyết luận tương đối văn hoá nhấn mạnh tính bình đẳng, độc đáo
của mỗi nền văn hoá. Khi viết về văn hoá truyền thống dân tộc Việt, các nhà tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đề cao, ngợi ca sức sống bền bỉ của văn hoá
truyền thống dân tộc nhằm bác bỏ khái niệm cao - thấp, tiến bộ - lạc hậu, phi lí -
duy lí trong việc nhìn nhận về sự đa dạng của các nền văn hoá. Mặt khác, các nhà
văn cũng cảnh tỉnh con người đương đại đang hiện đại hoá, quan phương hoá, kế
hoạch hoá các lễ hội văn hoá truyền thống người Việt bằng tính hiện đại của khoa
học công nghệ sẽ giết chết tri thức bản địa, giết chết nền văn hoá dân tộc. Nhằm
khôi phục hoàn nguyên giá trị vốn dĩ của lễ hội văn hoá dân tộc với tính cố kết cộng
đồng, thướt đo của sự đồng thuận xã hội, tinh thần quốc dân Đại Việt trong đời sống
mới, các nhà văn đã miêu tả tỉ mỉ, tái hiện chân thực, sinh động các tầng bậc không
gian văn hoá cộng đồng, hồi sinh các nghi thức thực hành lễ hội với vẻ đẹp vừa
trang trọng, thiêng liêng vừa gần gũi, thân thiết với con người trong đời sống xã hội
146
đương đại. Đó là sự thành công đáng trân trọng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật
của người nghệ sĩ trước vận mệnh đất nước.
5. Thế giới biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam khá phong
phú, mang hơi thở thời đại mới. Thế giới biểu tượng ấy làm thành đơn vị ngôn ngữ
đặc trưng trong hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học. Trong giới hạn khả dĩ,
chúng tôi đã nghiên cứu hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người và hệ biểu
tượng văn hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, thông qua
các hệ biểu tượng ấy, chúng tôi nhận thấy được sự vận động của tư duy nghệ thuật,
sự thay đổi phương thức phản ánh hiện thực của văn học thời đại mới.
6. Với tư duy nghệ thuật hiện đại, hiện thực lịch sử luôn rộng mở trước khả
năng tri nhận của con người. Qua quá trình khảo sát, phân tích tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận diện được khuynh hướng “dĩ cổ vi kim” ở mỗi
nhà văn. Tri nhận của nhà văn về lịch sử không chỉ để làm giàu vốn hiểu biết mà để
phản biện, thức tĩnh công chúng văn học trên con đường đến với giá trị Chân -
Thiện - Mỹ. Bên cạnh ngôn ngữ thì thế giới biểu tượng cũng là đơn vị ngôn ngữ đặc
biệt - ngôn ngữ biểu tượng thực hiện chức năng tri nhận ấy. Nghiên cứu hệ biểu
tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam nói riêng, nghiên cứu biểu
tượng nói chung là rất cần thiết, góp phần khám phá giá trị văn hóa của nhân loại và
dân tộc trong tiến trình hội nhập và phát triển đa dạng về văn hóa. Tuy nhiên, vẫn
còn đó nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi sự chuyên sâu và cần có thời gian để dấn
thân nhiều hơn.
147
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐUỢC CÔNG BỐ
1. Đoàn Thanh Liêm (2017), Biểu tượng Đấng minh quân qua một số tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 273/
tháng 10 năm 2017.
2. Đoàn Thanh Liêm (2017), Nguyễn Hoàng - hành trình mở cõi qua tiểu
thuyết Minh Sư của Thái Bá Lợi, tạp chí Khoa học và công nghệ, Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế, số 2 tháng 11 năm 2017.
3. Đoàn Thanh Liêm (2019), Lễ hội biểu tượng văn hóa Việt Nam qua tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Học viện khoa
học xã hội Việt Nam, số 4 tháng 4 năm 2019.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội.
2. Toan Ánh (2005), Khúc ca diệt thù, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
3. Đào Tuấn Ảnh (2003), Văn học hậu - hiện đại thế giới, những vấn đề lý
thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2005), Tiểu thuyết và lịch sử, Vietnam.net, 31/10.
5. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
6. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học, số 6, tr. 66-67.
7. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn - lý luận, tác gia và tác phẩm, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Huy Bắc (2008), Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số
7, tr.34 - 43.
9. Hoa Bằng (2015), Quang Trung, Nxb Dân trí, Hà Nội.
10. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành
tố, Nxb Khoa học xã hội.
11. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hoá
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt
Nam từ cuối thập kỷ 80 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11/2005.
13. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay (Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp bộ), Đại học Sư
phạm Hà Nội.
14. Carl Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, Vũ Đình Lưu dịch, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
15. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
149
16. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
17. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
18. Lương Minh Chung (2012), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa, Luận án
tiến sĩ, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Dân (2012), Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử
Việt nam đương đại, Tạp chí Nhà văn, số 1/2012.
21. Trương Đăng Dung (1994), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của
G. Lucas, Tạp chí Văn học số 5.
22. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
23. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
24. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân.
25. Hàn Thế Dũng (2005), Một thời để nhớ, Nxb Công an Nhân dân.
26. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Điệp (2012), “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh - một diễn
ngôn về lịch sử văn hóa”, Nghiên cứu Văn học số 10/2012.
28. Nguyễn Đăng Điệp (2012), Lịch sử và Văn hóa - cái nhìn nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nôi.
29. Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên 2016), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội.
30. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền
thống người Việt, Luận án tiến sĩ, TP. Hồ Chí Minh.
31. Trịnh Bá Đĩnh (Chủ biên, 2017), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Khoa học
xã hội.
32. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 1,2), Nxb Văn học, Hà Nội.
150
33. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 1,2), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Erich Fromm (2012), Phân tâm học và tôn giáo, Lưu Văn Hy dịch, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
35. Francois Jullien (2007), Các biểu tượng của nội giới hay cách đọc triết học
về Kinh dịch, Lê Nguyên Cẩn, Đinh Thy Reo dịch, Nxb Đà Nẵng.
36. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 1,2), Nxb Văn học, Hà
Nội.
37. Minh Giang (2005), Cuộc thăng trầm, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
38. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng - một số hướng tiếp cận lý
thuyết, Nxb Thế giới, Hà Nội.
39. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, tập 1, Nxb Tri thức, Hà Nội.
40. Hoàng Quốc Hải (1996), Bão táp cung đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
41. Hoàng Quốc Hải (2005), Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
42. Hoàng Quốc Hải (2005), Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
43. Hoàng Quốc Hải (2006), Huyền Trân công chúa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
44. Hoàng Quốc Hải (2010), Con ngựa nhà phật, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
45. Hoàng Quốc Hải (2010), Con đường định mệnh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
46. Hoàng Quốc Hải (2010), Bình Bắc dẹp Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
47. Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
48. Siêu Hải (2004), Nắng kinh thành, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
49. Siêu Hải (2004), Mảnh trăng Tô Lịch, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới
biểu tượng, Nghiên cứu văn học, 9/2006.
51. Trần Mai Hạnh (2015), Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
52. Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Hậu (2000), Biểu tượng như là đơn vị cơ bản của văn hóa, Tạp
chí Văn hóa và nghệ thuật, (7), tr.24-30.
151
54. Nguyễn Đức Hiền (1999), Sao khuê lấp lánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên, 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
56. Bùi Công Hùng (1988), Biểu tượng thơ ca, Tạp chí văn học, 1/1988.
57. Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc
nhìn tự sự học, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
58. Phạm Văn Hưng (2015), Lược khảo các vụ án văn chương ở Việt nam thế kỷ
X-XIX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM, số 4(69) năm
2015.
60. Tử Đinh Hương (2014), Biểu tượng (tập 1,2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
61. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
62. Itamar Even - Zohar (2014), Lý thuyết đa hệ thống trong nghiên cứu văn
hoá, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, Nxb Thế giới.
63. I.P Ilin - E.A Tzurganova (2018), Các trường phái nghiên cứu văn học Âu
Mỹ thế kỷ XX - khái niệm và thuật ngữ, Nhiều người dịch, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
64. Iu Lotman (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
65. Iu Lotman (2012), Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, Trần Đình Sử dịch,
Nghiên cứu văn học số 10/2012.
66. Iu Lotman (2014), Ký hiệu học văn hóa, Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần
Đình Sử dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
67. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, Nhiều người dịch, Nxb Đà Nẵng.
68. Jean Francois Frocer, Jean Fierre Durand (2012), Biểu tượng và ý nghĩa của
các loài thú trong Thánh kinh, Lê Thành dịch, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí
Minh.
69. Jean Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu - hiện đại, Ngân Xuyên dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
152
70. Karl Popper (2012), Sự nghèo nàn của thuyết sử luận, Chu Lan Đình dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
71. Phạm Minh Kiên (2015), Lê Triều Lý Thị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Phùng Quang Khai (2015), Phùng Vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
74. Đỗ Văn Khang (2013), Giáo trình Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
75. Vũ Ngọc Khánh (2005), Nữ thần và thánh mẫu, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
76. Nguyễn Xuân Khánh (2005), “Trả lời phóng viên Báo Văn nghệ trẻ”,
10/2005.
77. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
78. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
79. Nguyễn Xuân Khánh (2014), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
80. Lucien Lesvy Bruhl (2008), Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người
nguyên thủy, Ngô Bình Lâm dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
81. Liviu Petrescu (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Lê Nguyên Cẩn
dịch, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
82. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 Phương tiện và Biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
83. Đoàn Thanh Liêm (2012), Phi lý - hậu hiện đại - trò chơi qua nghiên cứu
tiểu thuyết Tạ Duy Anh (in chung), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
84. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Biểu tượng Đấng minh quân qua một số tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”, tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số
273/ tháng 10 năm 2017.
85. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Nguyễn Hoàng - hành trình mở cõi qua tiểu
thuyết Minh Sư của Thái Bá Lợi”, tạp chí Khoa học và công nghệ, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Huế, số 2 tháng 11 năm 2017.
86. Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
87. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
153
88. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 -
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
89. Hoàng Đình Long (2014), Tam hùng tranh thiên hạ, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
90. Nguyễn Triệu Luật (2013), Tiểu thuyết lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
91. Vũ Tài Lực (1973), Những quy luật chính trị trong sử Việt, Việt Chiến xuất
bản.
92. Vũ Tài Lực (1969), Thân phận trí thức, Việt Chiến xuất bản.
93. M. Cagan (2014), Hình thái học của nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
94. M. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
95. Melainie Barnum (2017), Cuốn sách về các biểu tượng tâm linh, Thế Anh
dịch, Nxb Hồng Đức.
96. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
97. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
98. Hữu Mai (2014), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
99. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
(chuyên luận), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
100. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
101. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
102. Nguyễn Thị Ninh (2012), Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận án
tiến sĩ, Hà Nội.
103. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Folklore và văn học Viết - Nghiên cứu từ góc
độ “dịch chuyển không gian” trong truyện Cổ tích và truyện Truyền kỳ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
104. Võ Khắc Nghiêm (2015), Thị Lộ chính danh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
105. Lã Nguyên (2018), Phê Bình kí hiệu học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
154
106. Lã Nguyên (2018), Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
107. Nguyên Ngọc (2006), “Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hoá Việt”, Báo Tuổi
trẻ, ngày 12/7/2006.
108. Phan Ngọc (2013), Nền văn hóa mới của Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
109. Nhiều tác giả (1997), Điển tích văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
110. Nhiều tác giả (1998), Freud đã thực sự nói gì, Lê Văn Luyện và Huyền
Giang dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
111. Nhiều tác giả (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa.
112. Nhiều tác giả (2002), Giáo trình Triết học Mac – Lênin, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
113. Nhiều tác giả (2003), Phân tâm học và tình yêu, Đỗ Lai Thuý dịch, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
114. Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, Đỗ Lai Thuý
dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
115. Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Đỗ Lai Thuý dịch,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
116. Nhiều tác giả (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, Đỗ Lai Thuý dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
117. Nhiều tác giả (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí
Minh.
118. Nhiều tác giả (2014), Biểu tượng văn hóa ở làng quê Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
119. Nhiều tác giả (2016), Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong nghiên cứu văn
học, Trần Hải Yến tổ chức bản thảo và biên tập, Nxb Khoa học xã hội.
120. Nhiều tác giả (?), Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ Mát - xcơ - Va.
121. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
Phạm, Hà Nội.
155
122. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại giai đoạn 1986 - 2006, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
123. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
124. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 1,2,3), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
125. Ngô Văn Phú (2010), Tuyên Phi Đặng Thị Huệ, Nxb Dân trí, Hà Nội.
126. Nguyễn Khắc Phục (2015), Hỗn độn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
127. Diêu Vĩnh Quân, Diêu Chu Huy (2004), Bí ẩn của chiêm mộng và Vu thuật,
Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội.
128. Nguyễn Thế Quang (2013), Khúc hát những dòng sông, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
129. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
130. Nguyễn Thế Quang (2015), Nguyễn Du, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
131. Rachel Storm (2003), Huyền thoại phương Đông, Chương Ngọc dịch, Nxb
Mỹ Thuật.
132. Sigmund Freud (2001), Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo, Lương Văn Kế
dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
133. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, Nguyễn Xuân Hiến dịch,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
134. Sigmund Freud (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nguỵ
Hữu Tâm dịch, Nxb Thế giới.
135. Nguyễn Thơ Sinh (2007), Các học thuyết tâm lý nhân cách, Nxb Lao Động,
TP Hồ Chí Minh.
136. Lưu Minh Sơn (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.
137. Nguyễn Bắc Sơn (2011), Lửa đắng, Nxb Lao Động, Hà Nội.
138. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, (tập 1,2), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
139. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 1,2), Nxb Trẻ.
140. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 1- Oan Khuất), Nxb Thanh Niên,
TP. Hồ Chí Minh.
156
141. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 2- Bức huyết thư), Nxb Thanh
Niên, TP. Hồ Chí Minh.
142. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
143. Vũ Ngọc Tiến (2016), Quỷ vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
144. Vũ Ngọc Tiến (2007), Ba nhà cải cách, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
145. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
146. Phạm Xuân Thạch (2005), Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch
sử, Vietnam.net 9/10.
147. Nguyễn Quang Thân (2000), Con ngựa Mãn Châu, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
148. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
149. Bùi Quang Thắng (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá, Nxb Khoa học
Xã hội.
150. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
151. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí
Minh.
152. Bùi Thiết (1993), Từ điển Hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
153. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
154. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
155. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
156. Khuất Quang Thụy (2015), Đối chiến, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
157. Hoàng Trinh (1979), Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà
Nội.
158. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
159. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần người và đất việt, Nxb Tri thức, Hà Nội.
160. Hoàng Minh Tường (2008), Thời của thánh thần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
157
161. V.N. Voloshinov (2015), Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, Ngô Tự
Lập dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
162. Kiều Văn (2002), Giai thoại lịch sử Việt Nam (tập 1,2), Nxb Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
163. Võ Quốc Việt (2013), Từ biểu tượng tâm lý đến biểu tượng thẩm mỹ, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TPHCM.
164. Nguyễn Quốc Vượng (2015), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
165. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2007), Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam,
Nghiên cứu Văn học, số 1/2007.
166. Phạm Thu Yến (1999), Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian, Tạp
chí Văn học, số 4/1999.
B. TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
167. Hoàng Thị Huế (2012), “Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong “Đội
gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh”, nguồn: vietvan.vn.
168. Trần Đình Sử (2013), Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử, nguồn:
vanhoanghean.vn.
169. Nguyễn Thành (2016), Tiểu thuyết VN sau 1986: sự mở rộng biên độ tư duy
nghệ thuật và những nỗ lực dung hợp về thể loại,
nguồn http://khoavanhue.husc.edu.vn/tieu-thuyet-viet-nam-sau-1986-dau-an-
doi-moi-qua-de-tai-chu-de-va-phuong-thuc-the-hien
C. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
170. J. E. Cirlot (1990), A dictionary of symbols, New York, America.
171. Michael Ferber (1999), A dictionary of Literary Symbols, Cambridge
University Press, Cambridge.
158
DANH MỤC
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐÃ KHẢO SÁT
172. Toan Ánh (2005), Khúc ca diệt thù, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
173. Hoa Bằng (2015), Quang Trung, Nxb Dân trí, Hà Nội.
174. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
175. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân.
176. Hàn Thế Dũng (2005), Một thời để nhớ, Nxb Công an Nhân dân.
177. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
178. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
179. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 1), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
180. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 2), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
181. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
182. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
183. Minh Giang (2005), Cuộc thăng trầm, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
184. Hoàng Quốc Hải (1996), Bão táp cung đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
185. Hoàng Quốc Hải (2005), Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
186. Hoàng Quốc Hải (2005), Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
187. Hoàng Quốc Hải (2006), Huyền Trân công chúa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
188. Hoàng Quốc Hải (2010), Con ngựa nhà phật, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
189. Hoàng Quốc Hải (2010), Con đường định mệnh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
190. Hoàng Quốc Hải (2010), Bình Bắc dẹp Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
191. Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
192. Siêu Hải (2004), Nắng kinh thành, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
193. Siêu Hải (2004), Mảnh trăng Tô Lịch, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
194. Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
195. Nguyễn Đức Hiền (1999), Sao khuê lấp lánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
196. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
197. Phạm Minh Kiên (2015), Lê Triều Lý Thị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
159
198. Phùng Quang Khai (2015), Phùng Vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
199. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
200. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
201. Nguyễn Xuân Khánh (2014), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
202. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
203. Hoàng Đình Long (2014), Tam hùng tranh thiên hạ, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
204. Hữu Mai (2014), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
205. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
206. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
207. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
208. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
209. Võ Khắc Nghiêm (2015), Thị Lộ chính danh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
210. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 1), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
211. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 2), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
212. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 3), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
213. Ngô Văn Phú (2010), Tuyên Phi Đặng Thị Huệ, Nxb Dân trí, Hà Nội.
214. Nguyễn Khắc Phục (2015), Hỗn độn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
215. Nguyễn Thế Quang (2013), Khúc hát những dòng sông, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
216. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
217. Nguyễn Thế Quang (2015), Nguyễn Du, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
218. Lưu Minh Sơn (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.
219. Nguyễn Bắc Sơn (2011), Lửa đắng, Nxb Lao Động, Hà Nội.
220. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 1), Nxb Trẻ.
221. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 2), Nxb Trẻ.
160
222. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 1- Oan Khuất), Nxb Thanh Niên,
TP. Hồ Chí Minh.
223. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 2- Bức huyết thư), Nxb Thanh
Niên, TP. Hồ Chí Minh.
224. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
225. Vũ Ngọc Tiến (2007), Ba nhà cải cách, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
226. Vũ Ngọc Tiến (2016), Quỷ vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
227. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
228. Nguyễn Quang Thân (2000), Con ngựa Mãn Châu, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
229. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
230. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
231. Khuất Quang Thụy (2015), Đối chiến, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
232. Hoàng Minh Tường (2008), Thời của thánh thần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
233. Nguyễn Quốc Vượng (2015), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.