BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO
TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ
: 5.04.33
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. CHU XUÂN DIÊN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2002
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả luận án
NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
MỤC LỤC
0TLỜI CAM ĐOAN0T ................................................................................................ 3
0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 4
0TDẪN LUẬN0T .......................................................................................................... 8
0T1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài0T ............................................................................................. 8
0T2. Lịch sử vấn đề0T ................................................................................................................... 9
0T3. Giới hạn của đề tài0T .......................................................................................................... 15
0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ................................................................................................. 16
0T5. Đóng góp mới của luận án0T .............................................................................................. 17
0T6.Kết cấu của luận án0T .......................................................................................................... 18
0TCHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA
DAO0T .................................................................................................................... 19
0T1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao0T ..................................... 19
0T1.1.1. Khái niệm biểu tượng:0T .......................................................................................... 19
0T1.1.2. Các loại biểu tượng:0T ............................................................................................. 24
0T1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao:0T .................................................................... 26
0T1.2.Biểu tượng ca dao nhin dưới những góc độ khác nhau:0T ................................................ 31
0T1.2.1. Biểu tượng ca dao dưới góc độ ký hiệu học:0T ........................................................ 31
0T1.2.2. Biểu tượng ca dao dưới góc độ tu từ học0T ............................................................. 34
0T1.2.2.1.Dạng thức so sánh :0T ........................................................................................ 36
0T1.2.2.2.Dạng thức ẩn dụ :0T ........................................................................................... 37
0T1.2.2.3.Dạng thức hoán dụ:0T ........................................................................................ 38
0T1.2.3. Biểu tượng ca dao dưới góc độ folklore học:0T ....................................................... 46
0T1.2.4. Biểu tượng ca dao dưới góc độ văn hóa học:0T ....................................................... 49
0T1.3. Biểu tượng ca dao thể hiện đặc trưng ngôn ngữ thể loại:0T ............................................ 52
0TCHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
CA DAO NGƯỜI VIỆT0T ................................................................................... 57
0T2.1. Những biểu tương xuất phát từ tín ngưỡng- nghi lễ và phong tục, tập quán của người
Việt:0T ..................................................................................................................................... 57
0T2.1.1.Biểu tượng rồng:0T .................................................................................................... 57
0T2.1.2. Biểu tượng trầu cau:0T ............................................................................................. 60
0T2.1.3 Biểu tượng đôi đũa:0T ............................................................................................... 64
0T2.1.4. Biểu tượng cây đa:0T ................................................................................................ 65
0T2.1.5. Biểu tượng vuông - tròn:0T ...................................................................................... 66
0T2.2.Những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc:0T ........................ 67
0T2.2.1. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam:0T ............................................ 67
0T2.2.2. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Trung Quốc:0T......................................... 68
0T2.2.2.1.Biểu tượng chỉ hồng:0T ..................................................................................... 71
0T2.2.2.2.Biểu tượng Ngưu Lang- Chức Nữ:0T ................................................................ 72
0T2.2.2.3.Biểu tượng loan – phượng:0T ............................................................................ 73
0T2.2.2.4. Biểu tượng nhạn – én:0T ................................................................................... 74
0T2.2.2.5.0T
0TBiểu tượng Châu - Trần:0T ............................................................................ 75
0T2.2.2.6.Biểu tượng Tấn- Tần:0T .................................................................................... 75
0T2.2.2.7.Biểu tượng đào thơ:0T ....................................................................................... 75
0T2.2.2.9. Biểu tượng đào- mận:0T ................................................................................... 77
0T2.2.2.10. Biểu tượng trúc- mai:0T .................................................................................. 79
0T2.2.2.11. Biểu tượng rồng - mây:0T ............................................................................... 81
0T2.2.2.12. Biểu tượng chim phượng - cây ngô đồng:0T .................................................. 82
0T2.3. Những biểu tượng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và đời
sống hàng ngày của nhân dân ta:0T ......................................................................................... 83
0T2.3.1. Biểu tượng con cò:0T ............................................................................................... 84
0T2.3.2. Biểu tượng sông:0T .................................................................................................. 85
0T2.3.3.Biểu tượng chiếc cầu:0T ............................................................................................ 86
0T2.3.4.Biểu tượng chiếc thuyền:0T ....................................................................................... 87
0T2.3.5. Biểu tượng bến:0T .................................................................................................... 89
0T2.3.6. Biểu tượng cá:0T ...................................................................................................... 89
0T2.3.7. Biểu tượng cây, hoa, trái:0T ..................................................................................... 91
0T2.3.8. Biểu tượng trăng:0T .................................................................................................. 92
0T2.3.9. Các biểu tượng khác:0T ............................................................................................ 93
0TCHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ BIỂU TƯỢNG NGHÊ THUẬT
TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT0T.................................................................... 97
0T3.1.Một số vấn đề về tiêu chí phân loai và phương thức miêu tả biểu tượng nghệ thuật
trong ca dao người Việt:0T ...................................................................................................... 97
0T3.2. Phân loai và miêu tả biểu tượng nghê thuật trong ca dao người Việt:0T ....................... 107
0T3.2.1. Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiên tượng tư nhiên và môi trường tư nhiên:0T ..... 107
0T3.2.2.Các hiện tượng tự nhiên:0T ..................................................................................... 108
0T3.2.1.2. Thực vật:0T ..................................................................................................... 111
0T3.2.1.3. Động vật:0T .................................................................................................... 116
0T3.2.2. Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo:0T ................................................ 118
0T3.2.2.1. Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh:0T .................................. 118
0T3.2.2.2. Các công cụ sản xuất:0T ................................................................................. 122
0T3.2.2.3. Các công trình kiến trúc:0T............................................................................. 125
0T3.2.3.Hệ thống 3: Biểu tượng là con người:0T ................................................................. 129
0T3.2.3.1. Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học – nghệ thuật:0T ............................... 129
0T3.2.3.2. Các bộ phận trong cơ thể con người:0T .......................................................... 130
0T3.3. Một số đặc trưng của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ....... 132
0TCHƯƠNG 4: CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ
THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT0T .................................................. 139
0T4.1. Cấu tạo của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ..................................... 139
0T4.1.1.Biểu tượng đơn:0T ................................................................................................... 139
0T4.1.2.Biểu tượng đôi:0T .................................................................................................... 139
0T4.1.2.1. Biểu tượng đôi tương đồng:0T ........................................................................ 141
0T4.1.2.2. Biểu tượng đôi đối lập:0T ............................................................................... 142
0T4.2. Chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ................................ 144
0T4.2.1. Biểu tượng và ngôn ngữ ca dao:0T ......................................................................... 145
0T4.2.1.1. Biểu tượng và tính hàm sức của ngôn ngữ ca dao:0T ..................................... 145
0T4.2.1.2. Biểu tượng với tính công thức và tính sáng tạo trong ngôn ngữ ca dao:0T .... 147
0T4.2.2. Biểu tượng và đề tài, chủ đề ca dao:0T ................................................................... 152
0T4.2.2.1. Góp phần triển khai các đề tài, chủ đề:0T ....................................................... 152
0T4.2.2.2. Thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề:0T ........................................................... 156
0T4.2.3.Biểu tượng và kết cấu, cấu tứ ca dao:0T .................................................................. 161
0T4.2.3.1. Là hạt nhân quan trọng trong kết cấu song hành tâm lý0T ............................. 161
0T4.2.3.2. Hỗ trợ đắc lực cho kết cấu đối thoại:0T .......................................................... 164
0T4.2.3.3. Thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thông"0T .......................... 166
0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................... 178
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................. 185
0TPHỤ LỤC0T ......................................................................................................... 199
0TQUI CÁCH TRÌNH BÀY0T ............................................................................... 199
DẪN LUẬN
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, ca dao - dân ca là những sáng tác
được phổ biến rộng rãi và có sức sống lâu bền vào bậc nhất. Giá trị về nhiều mặt đã
đưa những câu hát dân gian này vượt qua thử thách thời gian hàng ngàn năm. Nhiều
thế hệ các nhà nghiên cứu đã đến với ca dao, phát hiện những cái hay cái đẹp, những
giá trị thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc ẩn chứa trong lớp ngôn từ giản dị mà
súc tích của các câu hát dân gian.
Nghiên cứu ca dao, nhiều người đã nhận thấy các biểu tượng nghệ thuật có vị trí
quan trọng đặc, biệt trong ngôn ngữ của thể loại này. Có thể nói, ngôn ngữ ca dao
phần lớn là ngôn ngữ biểu tượng. Có thâm nhập vào thế giới biểu tượng ca dao, chúng
ta mới hiểu được thấu đáo những nét đặc thù trong nếp cảm, nếp nghĩ, nếp diễn đạt
của người lao động, những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa dân gian Việt Nam, cũng
như mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa các nước khác trong khu
vực, đặc biệt là văn hóa Trung Hoa.
Biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong ca dao không phải với tính chất là những yếu
tố đơn lẻ, rời rạc mà đã hình thành nên một hệ thống hoàn chỉnh với những nội dụng,
ý nghĩa, vai trò, chức năng rõ rệt. Con số 286 biểu tượng (dĩ nhiên đây chưa phải là
con số chính xác tuyệt đối, con số cuối cùng) là con số khàng nhỏ. Với tư cách là một
thành tố trong thi pháp ca dao, biểu tượng có nhiều tác động, thậm chí còn chi phối sự
hình thành cấu trúc chung của các đơn vị tác phẩm.
Do những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Biểu tượng nghệ thuật
trong ca dao truyền thống người Việt" với mong muốn bước đầu phác họa được một
cái nhin tổng quan về hệ thống biểu tượng trong thể loại trữ tình dân gian này.
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở xác định tên gọi và số lượng các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao,
chúng tôi bước đầu tiến hành việc phân loại, miêu tả và tìm hiểu hệ thống biểu tượng
đó về nhiều mặt như: các nguồn gốc và con đường hình thành biểu tượng, sự vận động
của biểu tượng trong từng chỉnh thể đơn vị hoặc nhóm đơn vị ca dao. Qua đó, góp
phần nghiên cứu sâu sắc hơn về thi pháp ca dao, đặc trưng thể loại của ca dao. Bởi lẽ,
biểu tượng là yếu tố thi pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong chỉnh thể nghệ thuật
thuộc thể loại này.
Luận án cũng cung cấp tư liệu thống kê một số lượng đáng kể các biểu tượng,
qua đó giới thiệu với người đọc nguồn thi liệu dân gian phong phú làm cơ sở cho việc
tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc, thị hiếu thẩm mỹ dân
gian.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp một cách thiết
thực vào việc nghiên cứu, phân tích, giảng dạy tác phẩm ca dao ở nhà trường phổ
thông.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong ca dao Việt Nam đã và đang là vấn
đề được nhiều người quan tủm. Ngày càng có nhiều hơn những khám phá, phát hiện
mới của các nhà nghiên cứu từ thế giới các biểu tượng. Các tín hiệu thẩm mỹ này
đang dần dần được đánh giá đúng với những giá trị vốn có của chúng. Những tiến bộ
trong lĩnh vực nghiến cứu, phê bình, lý luận văn học dân gian thời gian gần đây đã
ảnh hưởng sâu sắc đến việc giải quyết nhiều vấn đề khoa học, trong đó có vấn đề biểu
tượng ca dao.
Một trong những người đầu tiên đề cập trực tiếp đến vấn đề biểu tượng trong ca
dao là Vũ Ngọc Phan, soạn giả của bộ sách tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Ở đoạn
viết về "Một đặc điểm trong tư dụy hình tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc đời:
đời người với đời con cò và con bống", ông cho rằng trong ca dao, người dân lao động
Việt Nam đã mượn con cò, con bống để biểu hiện đời sống của minh. Ông viết:
"Người dân lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và con bống vào ca dao là đưa
một nhận thức đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của
những con vật trên đây để tượng trứng vài nét đời sống của minh, đồng thời cũng
dùng những hình ảnh ấy để khêu gợi hồn thơ" [123, tr. 79].
Các nhà nghiên cứu khi khảo sát biểu tượng thường xem chúng như là những
yếu tố truyền thống trong ca dao, trong văn học dân gian. Với cách xem xét đó, Đặng
Văn Lung đã viết bài những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, đăng trên tạp chí
Văn học năm 1968. Thuật ngữ "trùng lặp" ở đây được dùng để chỉ những nét đã định
hình, đã thành truyền thống của ca dao. Theo tác giả, trong ca dao có nhiều yếu tố
trùng lặp : hình ảnh, chủ đề, đề tài, kết cấu, ngôn ngữ... tạo nên một đặc điểm quan
trọng, một sắc thái thẩm mỹ của ca dao. Biểu tượng là một trong số những yếu tố đó
(trùng lặp về hình ảnh và ngôn từ). Ông nêu vấn đề:."Khi nghiên cứu thần thoại, anh
hùng ca và truyện cổ tích, nhiều tác giả đã lập được những hệ thống mô-tip trùng lặp
và nhờ đó mà giải quyết được nhiều vấn đề lý thú. Riêng trong lĩnh vực thơ ca dân
gian thi còn ít người-bàn tới vấn đề này. Phải chăng ta có thể bắt đầu từ những yếu tố
trùng lặp trong ca dao mà tìm hiểu được phần nào cái mà chứng ta gọi là "chất ca dao"
[118, tr.306]. Xu hướng khảo sát biểu tượng trong mối liên hệ với đặc trưng thể loại
ca dao đã được đặt ra với bài viết này.
Cùng một suy nghĩ với các nhà nghiên cứu trên, phó giáo sư Chu Xuân Diên
trong bài về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian năm 1981 cho rằng; "Việc
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp
riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô- tip và cách cấu
tạo cốt truyện... đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và
cuối cùng là việc nêu lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của
thi pháp văn học dân gian nói chung" [17, tr.22]. Ông đã đặt vấn đề nghiên cứu thi
pháp văn học dân gian một cách toàn diện ỏ nhiều cấp độ, trong đó có biểu tượng thơ
ca. Đề xuất việc làm này có nghĩa là nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của văn học dân
gian, hướng sự chú ý vào việc nghiên cứu văn học dân gian trước hết với tính chất là
những tác phẩm nghệ thuật, đồng thời khẳng định những giá trị độc đáo của thi pháp
văn học dân gian (trong so sánh với văn học viết). Như vậy, tìm hiểu biểu tượng ca
dao là công việc có ýtnghĩa quan trọng về nhiều mặt. ở một bài viết khác, ông còn nêu
cụ thể cách hiểu về biểu tượng dưới góc độ là những yếu tố cấu trúc bên trong của tác
phẩm văn học dân gian [119, tr.93].
Năm 1988, Bùi Công Hùng với bài Biểu tượng thơ ca [ 67] và Hà Công Tài với
Biểu tượng trăng trong thơ ca-dân gian [145] đã trình bày những vấn đề về khái niệm
biểu tượng nghệ thuật một cách chi tiết hơn, kết hợp với việc phân tích một số biểu
tượng tiêu biểu trong ca dao.
Năm 1991, trên tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị
biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về
ý nghĩa biểu trưng của các vật thể như : khăn, áo, chăn, chiếu, giường, đũa, mâm, bát,
con thuyền, nhà, đinh,... và kết luận : "Khả năng biểu trưng hóa nghệ thuật của các vật
thể nhân tạo trong ca dao góp phần tạo nên một nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ
thuật ngôn ngữ của ca dao: ngôn ngữ nghệ thuật ca dao mang tính khái quát cao, điển
hình của tính hàm súc và "ý tại ngôn ngoại" trong sáng tác văn học" [109, tr.52].
Tiếp sau đó, năm 1992, Trương Thị Nhàn lại công bố một bài viết về biểu tượng
sông trong ca dao, gợi ra mội hướng tiếp cận đối với các tín hiệu thẩm mỹ dân gian.
Tác giả cho rằng: "Là một yếu tố mang ý nghĩa thẩm mỹ, giàu sức khái quát hóa nghệ
thuật, tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao, sông có giá trị
của một tín hiệu thẩm mỹ. Quan điểm hệ thống mới và cách nhin nhận có tính hệ
thống đối với ngôn ngữ nghệ thuật cho phép tìm ra giá trị của mỗi yếu tố tín hiệu ngôn
ngữ nghệ thuật, qua những mối liên hệ nội tại và ngoại tại của tác phẩm" [110, tr. 21].
Luận án phó tiến sĩ sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian
trong ca dao của Trương Thị Nhàn (năm 1995) đã ứng đụng cách tiếp cận đó để
nghiên cứu một loạt biểu tượng như núi, rừng, sông, biển, bến, ruộng đồng, vườn,
đinh, chùa, cầu, thuyền... [111].
Các công trình trên đây của Trương Thị Nhàn đã góp phần đáng kể trong lĩnh
vực nghiên cứu biểu tượng ca dao trên cả hai phương diện: lý thuyết và ứng dụng thực
hành. Mặc dù tác giả xem xét, giải quyết vấn đề chủ yếu dưới góc độ ngôn ngữ học
nhưng đã đề xuất nhiều hướng nghiên cứu biểu tượng, từ đó, có thể đào xới được
những lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng.
Năm 1992, trong công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân
Kính, một số biểu tượng đã được đề cập đến như trúc, mai, hoa nhài, con cồ, con
bống. Tác giả đã nghiên cứu các biểu tượng về nhiều mặt, đề xuất một số cách hiểu
riêng về ý nghĩa của biểu tượng (chẳng hạn về một nét nghĩa của biểu tượng con cò).
Ông còn so sánh ý nghĩa của cùng một biểu tượng trong hai bộ phận văn'học khác
nhau: văn chương bình dân và văn chương bác học. Từ đó, tác giã gợi lên một vấn đề
cần được quan tâm khi xác định nghĩa của biểu tượng : "... tuy cùng viết về một biểu
tượng nhưng dòng thơ dân gian và bác học đã miêu tả khác nhau, cấp cho nó những ý
nghĩa khác nhau" [81, tr.215].
Việc Nguyễn Xuân Kính sắp xếp phần viết về các biểu tượng thành hẳn một
chương (chương bảy) trong Thi pháp ca dao đã phần nào thể hiện được tầm quan
trọng, sự cần thiết phải nghiên cứu các biểu tượng. Sự tìm hiểu các tín hiệu thẩm mỹ,
mô-tip thơ ca này không còn là thao tác mang tính chất cảm tính, tự phát mà đã trở
thành một yêu cầu không thể thiếu khi phân tích, cảm thụ ca dao.
Bài việt công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao - dân ca trữ
tình đăng trên tạp chí Văn học năm 1997 của Bùi Mạnh Nhị là sự tiếp nối mạch
nghiên cứu về biểu tượng của những người đi trước. Theo tác giả, công thức folklore
là những kiểu mẫu ổn định, điển hình khác nhau của truyền thống. Công thức folklore
đa dạng về hình thái, dụng lượng, nội dụng, ý nghĩa. Công thức truyền thống ở ca dao
có nhiều loại, biểu tượng là một trong số đó. Trong bài viết này, tác giả đã chú trọng
đến việc khảo sát các công thức, các biểu tượng gắn liền với những đặc trưng bản chất
của văn học dân gian. Tác giả lưu ý người đọc tới tầng nền văn hóa, dân tộc học của
các công thức, sự biến hóa, đổi mới của các công thức trong những hoàn cảnh sử dụng
cụ thể. Tính truyền thống và sáng tạo thể hiện trong mỗi công thức là nguyên nhân
dẫn đến sự trường tồn và sức hấp dẫn của công thức folklore. Xét ở phương diện cấu
trúc, tác giả còn cho rằng công thức truyền thống chính là chia khóa mở bí mật đặc
trưng cấu trúc của bài ca trữ tình dân gian. Công thức có chức năng thiết kế văn bản.
Văn bản bài ca phần nhiều được xây dựng từ các công thức.
Kết thúc bài viết, tác giả còn gợi mở một hướng đi mới mẻ, đầy triển vọng cho
những công trình nghiên cứu ở tương lai : "Nếu đối với truyền thuyết, truyện cổ tích
thần kỳ, sử thi chúng ta đã bước đầu thống kê, miêu tả được những mô-tip cốt truyện,
thi đối với ca dao - dân ca trữ tình, chúng ta cũng có thể và cần thống kê, miêu tả các
mẫu đề truyền thống, cũng như các công thức chi tiết của từng mẫu đề. Có thể lập từ
điển và các chương trình vi tính khác nhau cho những vấn đề này, mã hóa hình thức,
ngữ nghĩa nghệ thuật, "cốt" văn hóa, dân tộc học của chúng. Những công trình như thế
rất cần cho folklore học, không chỉ trong việc tìm hiểu cấu tróc các bài ca mà cả trong
việc nghiên cứu các vấn đề nội dụng, ý nghĩa, đặc trưng địa phương, dân tộc và quốc
tế của folklore" [118, tr.326].
Với bài viết này, Bùi Mạnh Nhị đã góp phần đắc lực vào việc xây dựng nền
móng lý luận vững chắc cho công việc nghiên cứu biểu tượng ca dao.
Năm 1997, một luận văn tốt nghiệp đại học của sinh viên Phan Thị Bích Vân về
đề tài "Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình cổ truyền Việt Nam" do 'Bùi
Mạnh Nhị hướng dẫn cũng được hoàn thành [186]. Luận văn đã đi vào khảo sát biểu
tượng dưới nhiều góc độ ( khái niệm, phân loại, nội dụng ý nghĩa, nguồn gốc), có
nhiều lý giải khá thỏa đáng. Luận văn còn bước đầu lập bảng thống kê "Hệ thống
những biểu tượng tiêu biểu và ý nghĩa của chúng ". Tuy nhiên, do sự hạn chế về dụng
lượng của luận văn (42 trang chính văn và 24 trang phụ lục), nhiều vấn đề lý thuyết về
biển tượng đã được đặt ra nhưng giải quyết còn sơ lược.
Năm 1998, tác giả Phạm Thu Yến trong cuốn sách Những thế giới nghệ thuật ca
dao đã dành một số trang thích đáng cho "Vấn đề nghiên cứu hiểu tượng trong thơ ca
trữ tình dân gian" với ba phần :
I. Biểu tượng và ẩn dụ
II. Biểu tượng thơ ca dân gian - yếu tố nghệ thuật đặc thù gắn liền với đặc trưng
thể loại
III. Sự hình thành và phát triển của biểu tượng
So với các công trình trước, Phạm Thu Yến đã cố nhiều nỗ lực để khảo sát biểu
tượng một cách toàn diện hơn (chú ý khái niệm biểu tượng, phân biệt biểu tượng với
ẩn dụ, khẳng định việc sử dụng biểu tượng gắn liền với đặc trưng thể loại, tính đan tộc
của biểu tượng, phân loại biểu tượng, đặc điểm và ý nghĩa của việc sử dụng biểu
tượng trong thơ ca dân gian Việt Nam, sự hình thành và phát triển của biểu tượng...).
Tác giả đã vận dụng nhiều quan điểm lý luận và phương pháp nghiên cứu của các
công trình khảo sát về biểu tượng thi ca ở ngoài nước vào thực tế nghiên cứu biểu
tượng trong ca dao Việt Nam. Tuy nhiên, như tác giả đã viết : "Những điều trình bày
trên vẫn mang ý nghĩa mở, ý nghĩa đặt vấn đề chứ chưa phải là sự giải quyết triệt
để..." [196, tr.101]. Chuyên luận đã đề cập đến hàng loạt vấn đề cần được bàn luận ở
hệ thống biểu tượng ca dao, nhưng chưa đi đến những kiến giải thật cụ thể, chi tiết về
chúng.
Gần đây (năm 2001), một số biểu tượng đã được nghiên cứu khá tỉ mỉ ở bình
diện văn hóa cũng như văn học, đem lại cho người đọc nhiều hiểu biết thú vị và sâu
sắc. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết của Nguyễn Phương Châm [9], chiếc áo
trong bài viết của Nguyễn Thị Ngân Hoa [54].
Nhin chung, đây là đề tài thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học khi tìm
hiểu về thi pháp ca dao. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn diện, hệ
thống, nghiên cứu biểu tượng trong những mối quan hệ phức tạp với các thành tố khác
của thi pháp ca dao, chú ý đến sự vận động của biểu tượng trong cấu trúc bài ca... vẫn
là công việc còn đang chờ được tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Trong nhiều công
trình, cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đã được đặt ra, nhưng việc thực hiện vẫn còn
bỏ ngỏ. Một số biểu tượng đã được phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu một cái
nhin thật sự hệ thống.
Với mục đích tiếp tục công việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài
biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt. Bên cạnh một số thuận
lợi nhất định có được từ việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của những công trình
trước, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn như: đối tượng nghiên cứu phức tạp, khối
lượng tư liệu phải xử lý rất lớn...
Cách đây mấy năm, chúng tôi đã một phần thực hiện đề tài này qua luận án cao
học Hình tượng trầu cau trong ca dao Việt Nam dưới sự hướng dẫn của phó giáo sư
Chu Xuân Diên. Trong luận án, chúng tôi đã dành một chương để tìm hiểu những lớp
nghĩa của biểu tượng trầu cau, vai trò của biểu tượng này trong hệ thống chủ đề và cấu
tứ ca dao. Từ việc nghiên cứu một biểu tượng mở rộng ra toàn bộ hẹ thống các biểu
tượng trong ca dao là điều không dễ dàng. Tuy vậy, chặng đường nghiên cứu đầu tiên
đó đã giúp chúng tôi có thêm được một số nhận thức và kinh nghiệm quí báu để thực
hiện đề tài này.
3. Giới hạn của đề tài
Ở luận án này, chúng tôi khảo sát chủ yếu là các biểu tượng ương ca dao truyền
thống (trước 1945), bộ phận ca dao của người Việt (không khảo sát cạ dao của các dân
tộc ít người). Cụ thể là phần khảo sát của chúng tôi được giới hạn trong các tư liệu sau
đây :
-Tư liệu I: Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng
Nhật chủ biên. Tư liệu này gồm 4 tập, được tuyển chọn từ 37 tư liệu gốc (46 tập) vừa
Hán Nôm, vừa quốc ngữ, chủ yếu tập hợp những lời ca dao ra đời từ trước Cách mạng
tháng Tám. Đây là công trình biên soạn qui mô, công phu, khoa học với số lời ca dao
đạt đến mức kỷ lục : 11.825 lời (chưa kể các dị bản).
-Tư liệu II: Kho tàng ca dao xứ Nghệ do Ninh Viết Giao chủ biên cùng với sự
cộng tác của nhiều người khác, gồm 2 tập.
-Tư liệu III: Ca dao - dẫn ca Nam bộ do Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát,
Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn.
Tư liệu IV: Hát ví đồng bằng Hà Bắc do Mã Giang Lân, Nguyễn Đinh Bưu biên
soạn.
Việc lựa chọn bốn tư liệu này xuất phát từ nhiệm vụ của luận án: khảo sát biểu
tượng ca dao ồ cả hai bình diện dân tộc và địa phương. Tư liệu I tập hợp ca dao ở cả
ba miền đất nước, có tính cách đại diện chung để tìm hiểu biểu tượng ở tính dân tộc.
Ba tư liệu còn lại, mỗi tư liệu tập hợp ca dao của một miền đất, góp phần tô đậm thêm
sắc thái địa phương ở các biểu tượng.
Danh mục biểu tượng, các số liệu thống kê được nêu trong luận án đều là kết quả
nghiên cứu của chúng tôi với bốn tư liệu trên.
• Luân án nhằm định hình, định vị một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca
dao đa dạng và phong phú (286 biểu tượng), cho nên chưa cố điều kiện để miêu tả kỹ
lưỡng từng biểu tượng với đầy đủ những nét nghĩa của nó. Tuy nhiên, chúng tôi cũng
cố gắng trong chừng mực có thể để người đọc tiếp cận với các biểu tượng cụ thể qua,
một số trang viết ở phần nội dụng luận án và phần phụ lục.
Số lượng các đơn vị ca dao mà chúng tôi phải xử lý là rất lớn, cơ sở để xác định
biểu tượng trên lý thuyết khá rõ ràng, nhưng đi vào thực tế lại vô cùng phức tạp, vi
vậy, việc khẳng định một sự vật, hiện tượng có phải là biểu tượng hay không cũng
không dễ dàng, thuận lợi. Chúng tôi đã cố gắng để xây dựng một bảng thống kê về hệ
thống biểu tượng nhưng có lẽ cũng khó tránh khỏi những sai sót. Những nét nghĩa của
biểu tượng mà chúng tôi xác lập được trình bấy trong luận án đều theo nguyên tắc
xuất phát từ các văn bản, lấy văn bản làm gốc, chứ không dựa vào những suy luận chủ
quan của người viết.
Trong luận án, khi chú thích địa chỉ các ví dụ, chúng tôi trình bày theo qui ước
sau: Tư liệu I: TL I; Tư liệu II: TL II; Tư liệu III: TL III; Tư liệu IV: TL IV
Kèm theo tư liệu là số tập, số trang. Ví dụ : TL II (1) - tr.59, có nghĩa là: ví dụ
này nằm ở tư liệu II, tập I, trang 59.
Để tiện theo dõi và kiểm chứng, mỗi khi dẫn các bài ca dao, chúng tôi đều ghi
kèm theo phần điạ chỉ như trên. Các tư liệu I, II, III được sử dụng để trích dẫn khá
nhiều. Còn tư liệu IV thi có hạn chế hơn do ở tư liệu này dụng lượng các bài ca dao -
dân ca thường rất dài, nếu dưa vào luận án nhiều chúng tôi sẽ gặp khó khăn khi xử lý
số trang viết. VI vậy, chúng tôi chỉ trích đẫn một số lượng nhỏ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biểu tượng nghệ thuật ca dao. Tuy
nhiên, trong đời sống, các biểu tượng này tồn tại luôn luôn gắn rất chặt với môi trường
văn hóa, văn nghệ dân gian, liên quan với rất nhiều những yếu tố về địa lý, lịch sử...
VI vậy, chúng tôi nhận thấy cần phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử
dụng thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau để có thể tìm hiểu
đầy đủ, sâu sắc hơn về biểu tượng.
Ca dao là những văn bản thơ, nên việc nghiên cứu ca dao trước hết là bằng
những cách thức của văn học thành văn. Bằng những cách thức này, luận án xác định
nội dụng và cấu trúc ngôn từ của biểu tượng trong văn cảnh ca dao. Nhưng khi tìm
hiểu sự hình thành những nội dụng và cấu trúc ngôn từ ấy không thể chỉ dựa vào
những văn bản ca dao, mà còn phải dựa vào đời sống sinh động của ca dao (tức sinh
hoạt ca hát dân gian) và nhất là vào đời sống văn hóa của những người sáng tạo và sử
dụng ca dao. Điều này yêu cầu luận án khi sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học
(thi pháp học miêu tả), cần sử dụng phối hợp phương pháp nghiên cứu của văn hóa
học (nghiên cứu một hiện tượng văn hóa). Do vậy, trong luận án, bên cạnh những
phần phân tích biểu tượng thi ca, còn có những dữ kiện dân tộc học cần thiết để xác
định không những nội dụng nghệ thuật mà cả nội dụng văn hóa của biểu tượng trong
ca dao.
Việc sử dụng phương pháp thống kê cho phép chúng tôi tính toán được số lần
xuất hiện của các biểu tượng, qua đó, nhận biết được vị trí của biểu tượng trong thể
loại ca dao, trong tâm thức dân gian, nhận biết đâu là những biểu tượng được ưa thích
nhất, phổ biến nhất. Khi vận dụng phương pháp phân tích định lượng này, chúng tôi
rất tán thành ý kiến của Nguyễn Xuân Kính: "Kết quả của việc thống kê khách quan
cho phép nhà nghiên cứu đi đến những kết luận, những khái quát khoa học, tránh được
những suy luận chủ quan, gò ép..." [191, tr.139].
Bài viết Phương pháp hệ thống và việc nghiên cứu giảng dạy ca dao của Phan
Đăng Nhật [191, tr.142 - 162] cùng một số tài liệu khác bàn về phương pháp trên cũng
là những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng trong đề tài này.
Bên cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mỹ tồn tại ở nhiều
loại hình nghệ thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, nhiều địa
phương, dân tộc khác nhau. VI vậy, khi nghiên cứu, chúng tôi thấy cần thiết phải sử
dụng phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới của luận án
Cùng với việc tiếp thu các thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi đã cố gắng để có được những đóng góp mới khi thực hiện đề tài này. Đó là :
Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm khái niệm biểu tượng trong ca dao.
- Xác lập một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
- Phân loại và miêu tả hệ thống đó.
- Khảo sát biểu tượng về nhiều mặt: nguồn gốc hình thành, cấu lạo và chức năng.
- Bước đầu lập danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
(Với 286 biểu tượng, mỗi biểu tượng có tần số xuất hiện và những nét nghĩa tiêu
biểu, phổ biến cùng các ví dụ và địa chỉ ví dụ).
6.Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm các phần sau đây : Phần thứ nhất (Dẫn luận), gồm :
- Mục đích, ý nghĩa của đề tài
- Lịch sử vấn đề.
- Giới hạn của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Đóng góp mới của luận án.
- Kết cấu của luận án.
Phần thứ hai (Nội dụng), gồm 4 chương :
- Chương 1 : Khái niệm về biểu tượng nghệ thuật trong ca dao.
- Chương 2 : Nguồn gốc của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
- Chương 3 : Phân loại và miêu tả biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người
Việt.
- Chương 4 : cấu tạo và chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người
Việt.
Phần thứ ba (Kết luận). Để tiện theo dõi, ngoài Thư mục tham khảo, luận án còn
dành một số trang cho Phần phụ lục, bao gồm :
- Danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt.
- Bảng thống kê tần số xuất hiện các sự vật, hiện tượng được chọn làm biểu
tượng trong ca dao (theo thứ tự từ cao xuống thấp).
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG CA DAO
1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
1.1.1. Khái niệm biểu tượng:
Nghiên cứu về biểu tượng là lĩnh vực đã và đang được các nhà khoa học thuộc
nhiều ngành khác nhau quan tâm đến. Thế giới các biểu tượng nói chung thực sự đã
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tình thần của con người từ xưa đến nay ở
khắp mọi miền trên trái đất. Jean Chevalier, nhà biên soạn Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới đã nhận xét: "Nói là chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thi vẫn còn
chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta" [71, tr.XIV]. Còn
Claude Lévi- Strauss, khi nghiên cứu nhân loại học ở các sự kiện văn hóa thi cho rằng:
''Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó
xếp ở hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hổn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật,
khoa học, tôn giáo..."[71, tr.XXIII]. Xét ra, biểu tượng đã được đánh giá đúng với
những giá trị vốn có của chúng trong đời sống con người. Các biểu tượng góp phần
làm nên bộ mặt của mội nền văn hóa ồ những đường nét cơ bản nhất. Đó là một thế
giới có sức hấp dẫn đặc biệt do nó qui tụ nhiều tính chất dường như đối lập nhau: vừa
hiển hiện, vừa. tiềm ẩn, vừa công khai, vừa bí mật, vừa bộc lộ, vừa che giấu, vừa rõ
ràng , vừa mông lung ... Sự tác động, các mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế
giới con người, những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng khơi gợi ra như một qui ước
thẩm mỹ của cộng đồng ... là những vấn đề lý thứ mà người ta vẫn mong muốn có thể
lý giải được nhờ vào những lập luận của tư dụy lôgich.
Để đi sâu vào thế giới hình ảnh có vẻ bí ẩn này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu
khái niệm có tính chất công cụ: biểu tượng là gi?
Trong tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng. Biểu
tượng là một hình ảnh cụ thể nào đó được phô bày ra nhằm thể hiện một ý nghĩa trừu
tượng.
Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole đều có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: symbolon (có nghĩa là: ký hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau
là một).
Thời xa xưa, khái niệm biểu tượng được dùng để chỉ một vật được, cắt làm đôi
như: mảnh sứ, gỗ, kim loại ... Hai người (chủ - khách, người cho vay - người vay, hai
kẻ hành hương, hai người sắp chia tay lâu dài ...) mỗi bên giữ một phần. Sau này, ráp
hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây liên hệ ngày trước, ở người Hy Lạp thời
cổ đại, biểu tượng còn là những dấu hiệu để cha mẹ nhận ra con cái bị lưu lạc. Bằng
cách hiểu như thế, dần dần, biểu tượng được mở rộng nghĩa, dùng để chỉ các tấm thẻ,
cầm chúng thi có thể lãnh lương, phụ cấp hay thực phẩm, chỉ mọi dấu hiệu tập họp,
chỉ các qui ước... Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa đựng hai ý tưởng
phân ly và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, một quan hệ tình cảm đã bị chia tách
và có thể tái hình thành: "Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa
của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó đa
bị vỡ ra" [71, tr.XXIII]. Cách hiểu này về biểu tượng có thể tìm thấy trong văn học cổ
Trung Quốc khá nhiều. Biểu tượng được hiểu như là một vật làm tin, một dấu hiệu để
nhận ra nhau. Từ điển văn liệu của Long Điền Nguyễn Văn Minh có chép một câu
chuyện về mảnh gương - khá tiêu biểu cho cách hiểu về biểu tượng như đã nói trên:
"Nguyên về đời Xuân Hiu bên Trung Quốc, Lạc Dương công chúa cùng chồng chạy
loạn, lúc biệt nhau, đập tấm gương soi làm hai mảnh, mỗi người giữ một mảnh, dặn
nhau cứ ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) đem gương vỡ ra chợ để rao bán, nếu
hợp hai mảnh lại mà in như tấm gương thi được gặp nhau.
Đời sau thường dùng điển cố đó để nói lúc phân ly của hai vợ chồng hay hai
tình nhân" [99, tr.285]. Ở đây, chiếc gương là sự vật có chức năng thay thế. Gương
vỡ: sự chia ly, gương lành: sự tái hợp. Hai mảnh gương vỡ (vật chất) chỉ sự chia cắt
(tình thần), đồng thời dự báo trước một tương lai sẽ được đoàn tụ (tình thần). Chiếc
gương là biểu tượng, là một dạng thức dùng cái này để nói cái kia, dùng cái hiện hữu
để nói cái vô hình.
Nhà từ điển Pháp André Lalande định nghĩa: "Biểu tượng là cái biểu hiện một
cái gi khác căn cứ vào một tương ứng loại suy" [14, tr.78], còn từ điển Petit Larousse,
1981 thi cho rằng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh bằng con vật sống động hay
bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh của một sự hay một điều
gi đó" [14, tr.78].
Theo Đoàn Văn Chúc, biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tĩnh cũng
như động (tĩnh: dáng vẻ một ngôi chùa, một pho tượng, một bức tranh; động: một điệu
múa, một cảnh kịch, một đám rước, một chuỗi hành động trong điện ảnh...), tác động
đến tai và mắt, gây ra trong tâm hồn người những lung động khoái trá về chúng, tất
nhiên với các khía cạnh và mức độ khác nhau. Cũng theo ông, để tri giác cái bất khả
tri giác, người ta dùng một vật môi giới, gọi là biểu tượng. Nói cách khác, biểu tượng
là ngôn ngữ của cái bất khả tri giác (không trông thấy, không nghe thấy, không sờ mó
thấy...) [14,tr.66].
Nói tóm lại, biểu tượng là những dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng
một hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Một sự vật, hiện tượng khi
được chọn làm biểu tượng có khả năng biểu hiện tình tế những ý niệm của con người
về cuộc sống, xã hội, thế giới (có khi những ý niệm này đã ăn sâu trong tiềm thức, vô
thức, tâm thức). Giữa sự vật, hiện tượng và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (đước góc
độ biểu tượng) không phải ỉà sự đồng nhất, mà là một sự tương ứng có thể xảy ra ở
nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau, làm nên sự đa nghĩa, đa trị của biểu tượng.
Một đặc điểm nổi bật của biểu tượng là tính qui ước. Tính chất này được thể
hiện ở nhiều mức độ tùy từng loại biểu tượng cụ thể. Từ thấp đến cao, có thể kể đến
tính qui ước trong biểu tượng mang màu sắc cá nhân, rồi đến các biểu tượng của một
nhóm người, một địa phương, một dân tộc, một khu vực, và cuối cùng là biểu tượng
có tính quốc tế. Có khi người ta nói đến biểu tượng trong các sáng tác của một nhà
văn, nhà thơ, nhà họa sĩ ... Các nhà nghệ sĩ này thường xuyên sử dụng trong sáng tác
của minh một số hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng theo cách nhin của tác giả. Công
chúng nhiều lần tiếp xúc với các cổng trình nghệ thuật đó, dần dà quen thuộc với các
hình ảnh và nhận ra những ý nghĩa thẩm mỹ nhất định làm cho tác phẩm có sức sống
lâu bền. Đó là trường hợp xuất hiện các biểu tượng của riêng một tác giả. Tính quy
ước ở đây được bộc lộ ở cấp độ thấp (quy ước của một cá nhân). Nhưng phổ biến hơn
cả là những biểu tượng mang tính cộng đồng (cấp độ cao - quy ước của rất nhiều cá
nhân). Sự vật, hiện tượng nào đó sở dĩ trở thành biểu tượng là do một cộng đồng
người nhất định quy ước sử dụng nó. Biểu tượng chỉ có thể tồn tại và hoạt động, phát
huy tác dụng khi nó được hiểu, được thừa nhận. Nó phải có những ý nghĩa ổn định
tương đối nào đó, trong những thời kỳ lịch sử nhất định, những hệ thống tác phẩm
nhất định ... Nếu ý nghĩa của sự vật, hiện tượng gợi ra luôn luôn biến đổi, nó sẽ tự phủ
nhận giá trị biểu tượng của chính bản thân.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, biểu tượng là dấu hiệu được bày ra bên ngoài để
nhận biết sự sở thuộc cộng đồng, hay nói cách khác, biểu tượng thể hiện rất rõ tính
cộng đồng. Chỉ những hình ảnh (con vật, đồ vật ...) được cộng đồng chấp nhận, cùng
ngầm thỏa thuận thống nhất với- nhau là nó chỉ ra một nghĩa nào đó ở bên ngoài nó,
thi mới có thể trở thành biểu tượng. Và thường thi những hình ảnh này đã trải qua sự
thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian. Nó dần dần được định hình và củng
cố ngày một chắc chắn hơn trong tâm thức dân tộc qua quá trình sử dụng.
Cũng vi biểu tượng mang đậm tính cộng đồng, tính xã hội nên các sự vật, hiện
tượng giống nhau ở các dân tộc không phải bao giờ cũng chứa đựng những ý nghĩa
biểu tượng trùng khớp lên nhau. Chẳng hạn, đối với người Hinđu, thấm nhuần tư
tưởng đạo Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tình thần khác hẳn đối với người
nuôi bò xứ Normandie. Đối với những người dận lao động Nga, trong thi ca dân gian,
chim thiên nga, con tu hú mang những ý nghĩa tượng.trưng sâu sắc mà ở các dân tộc
khác lại không có. Biểu tượng có khả năng lớn lao trong việc tạo nên sự hòa hợp, hòa
nhập giữa những con người trong cùng một cộng đồng. Qua đó, người ta có thể cảm
thông và đoàn kết với nhau hơn. Biểu tượng có sức mạnh liên kết mọi người lại với
nhau vi nó là trung tâm của những quan niệm và tư tưởng chung, từ đó, mọi người
nhận ra minh thuộc về một cộng đồng: "Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu
tượng của minh: rang động trước cái biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người
và thời đại ấy. Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết, xã hội thiếu biểu tượng
là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng' thi sẽ chết; nó chỉ còn
thuộc về lịch sử" [71,tr.XXXIII].
Đương nhiên, chúng ta cũng không loại trừ trường hợp một số các biểu tượng đã
đạt đến tầm vóc quốc tế toàn thể nhân loại đều công nhận chúng mang một nghĩa
tượng trưng chung nào đó (ví dụ: hoa: người con gái; chim bồ câu: hòa bình ...).
Để hiểu rõ hơn về biểu tượng, bên cạnh việc tìm hiểu thuật ngữ, chúng ta cũng
cần phân biệt nó với một số từ ngữ có liên hệ gần gũi.
Từ "symbol" trong tiếng Anh khi được dịch sang tiếng Việt có khi là "biểu
trưng", có khi là "biểu tượng", cách dùng, cách hiểu chưa có sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu và dịch thuật.
Theo Đoàn Văn Chúc: "Trong trường hợp biểu trưng, người ta nhận thấy các vật
được chọn làm hình ảnh tự thân chúng có ý nghĩa gần gũi hay có khi chồng khớp với
giá trị được diễn đạt, mà người ta có thể lĩnh hội bằng một sự tương ứng loại suy
tương đối dễ dàng, trực tiếp ... Trong khi ấy, sự lĩnh hội ý nghĩa (tức giá trị) của biểu
tượng là gãy khúc và phức tạp hơn nhiều ..." [14, tr.78].
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả cũng quan niệm biểu
tượng khác với biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, loại suy, triệu chứng, ngụ ngôn luân lý
... Tất cả những lối diễn đạt bằng hình ảnh này đều là những dấu hiệu và không vượt
quá mức độ của sự biểu nghĩa, mà: "Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu
hiệu là một qui ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với
nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức" [71, tr.XIX]. Mối quan hệ, sự tương hợp,
sự thâm nhập sâu xa giữa ý tưởng và hình thức ở biểu tượng khiến cho ý nghĩa cua
biểu tượng trở nên rộng lớn, sâu sắc hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân
tạo. Nó có một sức vang cối yểu và tự sinh.
Nói tóm lại, sự khác nhau giữa biểu tượng và các khái niệm tương cận chủ yếu là
ở sự phức tạp trong lĩnh hội các ý nghĩa do biểu tượng khơi gợi ra. Nghĩa của biểu
tượng không phải bao giờ cũng tách bạch, rõ ràng. Có những lúc chúng ẩn sâu vào
bên trong, đòi hỏi ở trí não con người một nguồn năng lực lớn lao để khám phá, tìm
tòi. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: "Nghĩa của tượng trưng không thể đem giải
mã bằng nỗ lực suy lý bởi vi nó đa nghĩa, cấu trúc nghĩa hàm của tượng trưng là đa
tầng và nó dự tính đến sự ký thác của người tiếp nhận" [44, tr.320] (khái niệm "tượng
trưng" ở đây được hiểu như "biểu tượng").
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự phân biệt đứng về mặt lý thuyết. Sự cảm nhận, lĩnh
hội ý nghĩa do các hình ảnh gợi ra tùy vào sự hiểu biết, tùy vào năng lực, trí lực, thiên
hướng của mỗi cá nhân, khó xác định được đó là con đường đơn giản hay phức tạp.
VI vậy, trong thực tế, nhiều trường hợp biểu tượng và biểu trưng được dùng gần như
đồng nghĩa với nhau:
1.1.2. Các loại biểu tượng:
Trong đời sống, các biểu tượng không tồn tại một cách chung chung mà luôn
phụ thuộc vào một lĩnh vực xác định nào đó, dẫn đến sự hình thành nên nhiều loại
biểu tượng: biểu tượng toán học, khoa học, tôn giáo, văn hóa, triết học, nghệ thuật
v.v... Mỗi lĩnh vực có một hệ thống biểu tượng riêng. Một sự vật, hiện tượng có thể
trở thành biểu tượng của nhiều lĩnh vực khác nhau với những nội dụng ý nghĩa khác
nhau. Cùng là hoa sen, nhưng giá trị của biểu tượng này xét về mặt tôn giáo và nghệ
thuật là không trùng lắp, cùng là con rồng nhưng trong lĩnh vực chính trị và nghệ thuật
chúng có những ý nghĩa không giống nhau. Có khi những nội dụng của biểu tượng ở
các lĩnh vực có liên quan xa gần với nhau, những không đồng nhất. VI vậy, khi xác
định nghĩa của một biểu tượng, luôn luôn phải đặt nó trong những mối tương quan với
một lĩnh vực cụ thể.
Các biểu tượng toán học, khoa học là những ký hiệu mà dụng tải qui ước đã
được các Viện tiêu chuẩn hóa xác định chặt chẽ. Ở đây, nghĩa của biểu tượng được chỉ
ra hết sức rõ ràng, rành mạch. Biểu tượng mất đi khả năng khơi gợi, mời gọi tâm trí
con người đi đến những miền đất mới của nhận thức, của cảm xúc. Các nhà nghiên
cứu đã cho rằng: "Không thể có các khoa học chính xác phát biểu bằng biểu tượng,
theo đúng nghĩa của từ này" [71, tr.XIX].
Một số các công thức giáo lý cũng được gọi là các biểu tượng của đức tin, đó là
những tuyên bố trịnh trọng trong lúc thờ cúng, qua đó, những người đã thụ giáo theo,
một đức tin, một nghi lễ, một hội tôn giáo có thể nhận ra nhau. Cũng như loại biểu
tượng đã nêu ở trên, các công thức này mới chỉ là những dấu hiệu chỉ ra các ý nghĩa
đã quá quen thuộc, không chất chứa nguồn năng lực làm trí óc phải hoạt động, không
khơi dậy cho con người sự bức xúc phải tìm tòi, khao khát để hiểu biết về chúng.
Biểu tượng, hiểu theo nghĩa triết học, được Ru-đích định nghĩa như sau: "Biểu
tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng của thế giới bên ngoài và
của các tính chất của chứng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự trực tiếp
tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó. Cơ sở của
biểu tượng là:
- Hình ảnh vật thể, hiện tượng nằm trong ý thức
- Biểu tượng kém rõ ràng, rành mạch hơn tri giác
- Biểu tượng có tính biến dị
- Biểu tượng là hình ảnh có tính chất tổng quát hơn vật thể so với tri giác.
Theo cách hiểu này, biểu tượng cây sồi, cây bạch dương rộng hơn, khái quát hơn
cây sồi cụ thể, cây bạch dương cụ thể".[67, tr.70].
Từ điển triết học do các nhà triết học Liên Xô biên soạn đã định nghĩa biểu
tượng là: "Hình ảnh cảm tính, cụ thể về những hiện tượng của thế giới bên ngoài. Biểu
tượng cùng với cảm giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính hay theo thuật ngữ của
Páp-lốp, tạo nên hệ thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực" [67, tr.71].
Như vậy, hiểu theo triết học, tất cả các sự vật trong thế giới khách quan, khi
được con người tiếp nhận, đều sẽ trở thành biểu tượng. Thế giới khách quan có bao
nhiêu sự vật, hiện tượng thi cũng có bấy nhiêu biểu tượng được hình thành trong nhận
thức của con người. Ở đây, biểu tượng không chỉ ra một nghĩa nào khác ở bên ngoài
nó. Mỗi con người có một thế giới biểu tượng của riêng minh tùy thuộc vào sự trải
nghiệm trong cuộc sống, sự tiếp xúc với thế giới chung quanh.
Các biểu tượng nghệ thuật được tạo nên từ nhiều loại hình khác nhau: hội họa,
điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, văn học ... Điều này cũng có nghĩa là biểu
tượng có thể được hình thành bởi những chất liệu khác nhau: màu sắc, đường nét,
hình khối, động tác, điệu bộ, ngôn ngữ ... của con người. Biểu tượng nghệ thuật tuân
theo qui luật của cái đẹp, thể hiện được cái chân, thiện, mỹ, đem lại những rung động
thẩm mỹ cho con người. Nguyễn Xuân Kính đã nêu một định nghĩa về biểu tượng
thuộc lĩnh vực này: “Biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể
hiện quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng của từng nhóm tác giả (có khi của riêng một tác
giả), từng thời đại, từng dân tộc và từng kim vực cư trú” [81, tr.85].
Phải chăng đã có một sự chuyển đổi theo hướng tiếp nối giữa biểu tượng triết
học và biểu tượng nghệ thuật, biểu tượng thơ ca? Đây không phải là hai cách hiểu
hoàn toàn khác nhau về biểu tượng mà là hai cấp độ của biểu tượng, ở cấp độ thứ
nhất, biểu tượng mang tính chất đại trà, toàn bộ thế giới khách quan đều tồn tại trong
trí não của con người dưới hình thức các biểu tượng. Có sự vật là có biểu tượng.
Nhưng ở cấp độ thứ hai, thế giới biểu tượng thu nhỏ lại, thu hẹp lại, đó là thế giới của
những hình ảnh nghệ thuật, thẩm mỹ. Thế giới này đã được cộng đồng chọn lọc, sử
dụng. Biểu tượng lúc này không còn nguyên sơ nữa mà mang đầy màu sắc của xúc
cảm, không phải là sự miêu tả đơn thuần về thế giới khách quan mà là sự gởi gắm vào
đó thế giới tâm trạng của con người. Biểu tượng trở thành một phưong tiện thẩm mỹ
để con người bày tỏ những tư tưởng, tình cảm của minh. Hà Công Tài viết: "Cần phải
phân biệt trường hợp sau khi tạo ra những biểu tượng sao chép lại nguyên sơ cái hiện
thực, chúng ta có thể tạo ra biểu tượng với một ý nghĩa hơi khác mang tính tượng
trưng. Biểu tượng đất nước - địa vực cư trú và thiên nhiên của người Việt, biểu tượng
Rồng - vương quyền thời phong kiến, biểu tượng Việt Nam - dân tộc anh hùng là
thuộc loại thứ hai này" [145, tr.66]. Hiểu rộng ra, biểu tượng triết học là cơ sở để từ đó
hình thành nên nhiều loại biểu tượng khác, trong đó có biểu tượng nghệ thuật.
1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao:
Biểu tượng trong ca dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, được xây dựng bằng
ngôn từ (ngôn từ nói và ngôn từ viết) với những qui ước của cộng đồng. Thế giới biểu
tượng này vừa mang những đặc điểm của biểu tượng nói chung, vừa mang những nét
riêng đặc thù của nó do nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật thi ca dân gian qui định. Biểu
tượng ca dao là những hình ảnh ẩn dụ được một cộng đồng chấp nhận và sử dụng rộng
rãi, phổ biến, mang đậm tính truyền thống. Biểu tượng ở đây có thể được tạo thành
bởi một từ, một ngữ, một câu, cũng có khi là cả một văn bản. Để tạo nên biểu tượng,
nghĩa đen, nghĩa biểu vật của các từ ngữ sẽ là cơ sơ để từ đó người tiếp nhận khai thác
nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm. Được xây dựng trên cơ sở tính hàm súc, hàm nghĩa của
ngôn ngữ văn chương, hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao đã góp phần làm
cho ngôn ngữ của loại thơ ca dân gian này mang tính đa nghĩa và giàu sức khơi gợi.
Thử đọc câu ca dao: Anh về cuốc đất trồng cau,
Cho em trồng ké dây trầu một bên.
Mai sau trầu nọ lớn lên,
Cau kia ra trái lập nên cửa nhà. (TLI - tr.161)
Rõ ràng ở đây trâu - cau không còn được hiểu như chính nó trong thực tại, mà đã
trở thành hình thức biểu đạt chứa đựng nội dụng cưới xin, nội dụng se kết duyên tình
giữa nam và nữ, một nội dụng mà ta chỉ có thể nắm bắt được khi hiểu sâu sắc về biểu
tượng trầu cau. Nếu là một người nước ngoài hoàn toàn không hiểu biết gi về phong
tục, tập quán, văn hóa Việt Nam, thi đối với họ, có lẽ sẽ rất khó khăn khi cảm thụ
những câu trên.
Ca dao là một loại thơ của dân gian nên tính cộng đồng luôn nổi trội ở các biểu
tượng. Cây trúc, cây mai trong ca dao người Việt tượng trưng cho đôi bạn tình, còn
cây trúc của si, lượn (dân ca trữ tình Tày - Nùng) là cây trúc tầm thường. Con cò là
biểu tượng đẹp đẽ của các nông dân người Việt trong ca dao thi với các dân tộc miền
núi: "con cò chỉ xuất hiện hai lần ở khoảng dăm nghIn bài si, lượn với tư cách là đồ
tầm thường và bẩn thỉu" [65, tr.76]. Tương tự, hoa hồng phổ biến trong thơ ca dân
gian Ucraina, trong khi ở thơ ca dân gian Nga, loại hoa này ít xuất hiện mà thay vào
đó là hình ảnh cây thúy dương.
Biểu tượng ca dao mang tính cụ thể. Nhờ biểu tượng, thế giới vô hình của tình
cảm, tâm trạng trở nên hữu hình; những đặc điểm, thuộc tính của các sự vật, hiện
tượng, các mối quan hệ trở nên cụ thể hơn. Xét ở phương tiện biểu đạt, các biểu tượng
đều sử dụng những hình ảnh cụ thể, sinh động của đời sống hàng ngày. Thân phận
người phụ nữ được thể hiện qua con cò lặn lội, con chim mắc lưới, con cá trong lờ,
bông hóa tươi thắm, ngát hương nhưng chóng phai tẳn, tẩm lụa đào giữa chợ đời...
Những lứa đôi xứng hợp với tình yêu thắm thiết mượn chim phượng hoàng -ngô đồng,
rồng -mây, trúc -mai, loan -phượng, kim -chỉ, khóa -chia... để tự biểu hiện minh. Có
thể nói, các biểu tượng đã góp phần làm tăng tính tượng hình nghệ thuật cho ngôn ngữ
ca dao, đồng thời giúp ích rất nhiều cho việc cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng,
những đối tượng khó miêu tả, khó nắm bắt.
Nhưng đi liền với tính cụ thể không thể không nhắc đến tính khái quát của biểu
tượng. Thuyền, bến, cá, cò... là hình ảnh cụ ,thể nhưng không cụ thể đến mức độ khiến
ta hình dụng được con thuyền này, cái bến này, con cá này, con cò này,... Những hình
ảnh đó thường được xây dựng theo tính chất chung của từng loại sự vật, vi vậy, mang
tính khái quát cao (thuyền đi muôn nơi, bến nằm một chỗ", con cá bị nhiều người chài
lưới, con cò vất vả kiếm ăn...) Tính khái quát còn thể hiện ở nội dụng biểu đạt của
biểu tượng. Từ hàng trăm, hàng ngàn những thân phận nổi trôi, những cuộc đời đau
khổ của người phụ nữ, dân gian đã đúc kết lại trong hình ảnh con cò, con cá, cánh
bèo... Từ bao nhiêu cuộc chia tay của các lứa đôi, bao nhiêu chờ đợi, thủy chung của
những nàng Tô Thị, biểu tượng thuyền -bến được hình thành. Tiếng nói từ biểu tượng
ca dao vi vậy không phải của cá nhân, mà là của tập thể, hướng về tập thể, mang tính
triết lý cao. Trong diễn xướng, nội dụng biểu đạt của biểu tượng có thể hướng về một
chàng trai, cô gái cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, nhưng trong sự cảm nhận chung
của người tiếp nhận ca dao, sự biểu đạt ấy là đúng với tâm trạng, hoàn cảnh, nỗi niềm
của biết bao con người trong xã hội cũ. Từ một biểu tượng, mỗi người có thể liên
tưởng đến những tình huống khác nhau trong cuộc đời, nhận ra cái mà họ đã trải qua,
đã chiêm nghiệm.
Sự kết hợp giữa tính cụ thể và khái quát - chính xác hơn phải gọi là tính cụ thể -
khái quát, đã mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể cho các biểu tượng. Khi các tín
hiệu thẩm mỹ này được sử dụng trong văn bản ca dao, chúng làm cho sự diễn đạt vừa
mang tính hình tượng, vừa mang tính hàm súc, vừa sinh động, vừa sâu sắc.
Biểu tượng ca dao mang tính nhận thức, đồng thời còn mang đậm tính biểu cảm.
Qua các biểu tượng, có thể nhận ra ý khen chê, lòng yêu ghét, thái độ khẳng định hay
phủ định, trân trọng hay rẻ khình... của tác giả dân gian đối với đối tượng được biểu
hiện. Tùy thuộc vào sự lựa chọn hình ảnh cụ thể, lựa chọn nét tương đồng, ta hiểu
được những tình cảm, cảm xúc mà người nghệ sĩ dân gian gửi gắm trong biểu tượng.
Việc người phụ nữ xưa dùng hàng loạt sự vật đẹp đẽ để thể hiện bản thân như: hoa
thơm, hoa tươi, hoa hồng, hoa đào, hoa lý, hoa nhài, hoa sen, cây quế, cây trầm, hạt
gạo trắng, tấm lụa đào, vàng ,ngọc, ánh trăng rằm... cho thấy họ rất tự hào về vẻ đẹp
hình thức lẫn bản chất của minh. Có xót xa, tủi hờn, đớn đau trong hình ảnh cánh bèo
mặt nước, bông hoa tàn héo, cá chậu, chim lồng... Có thủy chung trong bến nước,
Tấn- Tần, vàng -đá, Châu -Trần... Còn khi dân gian gọi những người có tính cách
không tốt là gương mờ (đối sánh với gương trong), dòng nước đục (dòng nước trong),
cú (tiên), thau (vàng), chI (bạc)... ,thái độ phê phán cũng hiện lên rất rõ.Vậy, để tạo
nên một biểu tượng, người ta không chỉ đặt vào đó những nhận thức của minh, mà còn
gởi gắm cả những tình cảm mãnh liệt.
Biểu tượng là sự gắn bó khắng khít giữa bai yếu tố lý trí và tình cảm, nên cũng
đòi hỏi được tiếp nhận bằng toàn bộ tâm trí con người. Thế giới biểu tượng ca dao
tràn đầy cảm xúc, những ai đến với chúng phải biết "tổng hợp và đồng cảm hết mực,
nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cách nhin nào đó về thế giới" [71 ,tr. XXVII].
Biểu tượng vừa thể hiện tình cảm, vừa tác động đến tình cảm con người. Bằng con
đường này, chúng dẫn dắt người thưởng thức ca dao từ chỗ đứng nhin đến chỗ nhập
cuộc, và chỉ khi ấy, việc hiểu biểu tượng mới thực sự sâu sắc,
Nghĩa của biểu tượng nói chung, biểu tượng ca dao nói riêng, mang tính ổn định
,nhưng là sự ổn định tương đối. Nếu ý nghĩa biểu đạt của một hình ảnh thường xuyên
thay đổi, hình ảnh đó không thể trở thành biểu tượng. Nếu một hình ảnh luôn được
đóng khung với vài ba ý nghĩa sẵn có, cũ mòn, bất di bất dịch, thi đó cũng chưa phải
là biểu tượng theo cách hiểu đầy đủ nhất về thuật ngữ này. Xét về đại thể, nghĩa của
biểu tượng là ổn định. Nhưng trong từng thời đại, từng địa phương, hay với từng nghệ
sĩ dân gian, người ta có thể sử dụng, tiếp nhận biểu tượng với những nét nghĩa phái
sinh trên cơ sở những nét nghĩa đã ổn định.
Đó là sự thay đổi có chừng mực dựa trên nền nghĩa ổn định mà dân gian đã cấp
cho biểu tượng. Nghĩa của biểu tượng vi vậy được sinh sôi, biến hóa xoay quanh trục
ý nghĩa đã được định hướng lúc ban đầu "Câu chuyện hay hình ảnh vẫn nguyên vậy,
nhưng chúng rung động theo những cấp độ ý thức và tri giác, trong những môi trường
nhận cảm nhiều hay ít hơn, và các sắc thái của biểu tượng biến đổi cùng với chính các
vế của mối liên hệ đã tạcrnên nó.Các mối quan hệ đó, tuy vậy vẫn là đồng hình. Một
lực có định hướng nằm trong lòng cấu trúc sâu thẳm tiếp tục điều khiển các cách giải
thích khác nhau, tiến triển qua các thế kỷ chung quanh cùng một trục biểu tượng" [ 71
,tr. XLV]. Một ví dụ cụ thể cho vấn đề này là "Người phương Tây thường phát hiện ra
những ý nghĩa tượng trưng có ý nghĩa nhân bản, ý nghĩa triết học trong thần thoại Hy
Lạp. Người Việt Nam thường chú ý đến ý nghĩa tượng trưng nói về lịch sử dân tộc "
[94, tr. 22]. Cũng vậy, trong ca dao người Việt, cách hiểu về một biểu tượng ở các văn
bản khác nhau có thể có những nét nghĩa không hoàn toàn trùng lắp. Điều này sẽ
được chúng tôi minh họa kỹ ở chương bốn của luận án.
Cùng với sự nhận thức về tính ổn định tương đối trong ý nghĩa biểu tượng,
chúng ta thấy được sự phong phú về nghĩa mà một biểu tượng có thể mang lại, cũng
như sự phức tạp, khó khăn khi giải mã nó. Việc làm này, chỉ nên xem là một sự gợi
mở, chứ không phải phô bày tất cả các ý nghĩa của biểu tượng (phần Phụ lục được
chúng tôi tiến hành theo định hướng này).
Trong nền thơ ca dân gian của mỗi dân tộc, do bản chất trữ tình của thể loại này,
sự tồn tại thành hệ thống của biểu tượng nghệ thuật là một hiện tượng phổ biến, một
thực tế khách quan.
Thơ ca dân gian Nga hàm chứa nhiều biểu tượng. Các cô gái hoặc các vị hôn thê
được biểu hiện bằng hình ảnh thiên nga trắng, chim cun cút, chim bồ câu, cây-bạch
dương, cây táo. cây lê, cây liễu, cây tiểu anh, cây dâu ... Còn các chàng trai, các vị hôn
phu thường là: chim ưng chói lọi, đại bàng xanh, bồ câu xám, vừng trăng sáng tỏ, cây
sồi ... Đôi tình nhân là chim câu trống, chim câu mái, vợ chồng là vịt đực - vịt cái, mẹ
chồng là cây tầm ma bỏng rát, bà con nhà chồng là những con ngỗng xám ... [121,
tr.106 - 107].
Trong ca dao người Việt, trầu - cau là biểu tượng của tình yêu, hôn nhân, tình
nghĩa sắt son; trúc - mai: lứa đôi gắn bó khăng khít; phượng hoàng - ngô đồng: lứa đôi
xứng hợp. Mận - đào, thuyền - bến, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa ... là
những biểu tượng sóng đôi biểu thị cho đôi bạn tình ở nhiều khía cạnh khác nhau. Con
cò: người nông dân một nắng hai sương, tuy sống đời vất vả nhưng vô cùng trong
sạch. Con bống: người phụ nữ lành hiền, đảm đang .,.
Các hệ thống biểu tượng trên cần được nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm
túc, đầy đủ với những phương pháp khảo sát phù hợp. Qua việc nghiên cứu biểu
tượng, có thể hiểu được sâu sắc về một cộng đồng dân tộc. Ca dao Việt Nam là sáng
tác nghệ thuật của toàn dân Việt Nam, từ Bắc chí Nam, trải qua biết bao giai đoạn
thăng trầm của lịch sử. Ca dao Việt Nam in đậm tâm hồn, cốt cách Việt Nam, là nơi
lưu giữ đầy đủ nhất cách sống, cách cảm, cách nghĩ của con người Việt Nam. Tìm
hiểu biểu tượng ca dao là tìm hiểu những tín hiệu thẩm mỹ mà dân tộc ta qua bốn
ngàn năm đã tạo lập ra, đã sử dụng chúng để tự biểu hiện-minh. Qua các biểu tượng,
ta có thể cảm nhận được tâm hồn Việt Nam ở tầng sâu kín nhất.
1.2.Biểu tượng ca dao nhin dưới những góc độ khác nhau:
1.2.1. Biểu tượng ca dao dưới góc độ ký hiệu học:
Ở góc độ này, biểu tượng ca dao chính là những ký hiệu hay nói đúng hơn, là
những siêu ký hiệu (tức là ký hiệu của ký hiệu).
Ký hiệu là một sự vật, do sự tồn tại tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra theo
ước lệ, có tác dụng chỉ ra một hiện thực ở bên ngoài nó và được tập thể xã hội thừa
nhận. Một ký hiệu có hai mặt: cái biểu đạt (signifiant) và cái được biểu đạt (signifié)
kết hợp với nhau theo quan hệ võ đoán. Sự gắn bó giữa cái biểu đạt (CBĐ) và cái
được biểu đạt (CĐBĐ) trong một ký hiệu có thể so sánh với hai mại của một tờ giây,
hễ có một là có cả hai, không thể tách rời được: "Một ký hiệu bao giờ cũng bao gồm
hai vế, sinh ra cùng một lúc, như: "hai anh em dính lưng nhau" [174, tr.35], CBĐ là
mặt vật chất của ký hiệu, nghe được, nhin được và CĐBĐ là mặt tình thần, im lặng ở
bên trong. CBĐ đóng vai trò biểu hiện (cũng như hình thức), qua đó, CĐBĐ bộc lộ ra
ngoài, tự truyền đạt ra ngoài (cũng như nội dụng). Không thể xem nhẹ cái nào vi cả
hai đều góp phần tạo nên nghĩa -giá trị cơ bản của một ký hiệu.
Ngôn ngữ thông thường của một dân tộc là một hệ thống ký hiệu biểu thị
(dénotatif). Thời xa xưa, khi các ký hiệu ngôn ngữ ra đời, đã được cả một cộng đồnng
chấp nhận và sử dụng như một "khế ước xã hội" bất khả xâm phạm, một quy luật nhất
nhất phải tuân theo. Vào thời đó, không ai giải thích được tại sao cái bàn lại được thể
hiện qua âm "bàn", tại sao khái niệm bàn nhất thiết phải yêu cầu âm "bàn". Rõ ràng,
đây là mối quan hệ tự phát, tự tiện, không có nguyên do, chưa thể giải thích được.
Từ trong hệ thống ký hiệu vừa nêu lại có những thành tố được dùng làm ký hiệu
lần thứ hai để chỉ ra một nghĩa nào đó ở bên ngoài nó (mà mọi người đã qui ước với
nhau). Lúc này, ta có những biểu tượng văn học, biểu tượng ca dao. Bản thân ký hiệu
(biểu thị) là một hệ thống mà nội dụng của nó đã được vận dụng để tạo ra một hệ
thống thứ hai gọi là hệ thống ký hiệu hàm nghĩa (connotatif). Toàn bộ tổ hợp này - hệ
thống ký hiệu học biểu thị và hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa tạo nên hệ thống đôi,
tức hệ thống trong hệ thống.
Ở đây, nghĩa đã sinh ra nghĩa. Hệ thống nghĩa thứ nhất (nghĩa đen) đã nhường
chỗ cho hệ thống nghĩa thứ hai (nghĩa bóng), do nó sinh ra từ ưong cơ chế của nó.
Nghĩa chính chuyển hóa thành nghĩa thứ hai, thứ ba tức không mất đi nhưng cũng
không còn vị thế như cũ.
Với hệ thống ký hiệu hàm nghĩa, quan hệ giữa CBĐ' và CĐBĐ' là như thế nào?
Có ý kiến cho rằng đó là quan hệ võ đoán: "Công lý thường được biểu trưng bằng cái
cân. Giữa ý niệm công lý - một cái trừu tượng, tình thần và cái cân, một cái-có tính vật
thể, chẳng có một mối quan hệ máu thịt, bản chất gi cả. Người ta mượn cái cân có hai
đĩa để nói công lý phải công bằng, không thiên và nặng về đĩa nào. Đây là một quan
hệ vay mượn, liên tưởng, tự đặt ra và cùng công nhận vi thấy "ổn" [174, tr.85]". Tuy
nhiên, cũng cần thấy rằng ở đây đã có một yếu tố tương quan thô sơ nào đó giữa CBĐ'
và CĐBĐ'. "Các đối tượng bên ngoài đã chứa đựng trong bản thân chúng ý nghĩa biểu
tượng mà nó được dùng để biểu thị. Đó không phải là một ký hiệu tùy tiện và phiếm
định, mà là một ký hiệu ngay ở tính bên ngoài của nó đã bao hàm nội dụng của biểu
tượng mà nó biểu thị" [48, tr.43]. Saussure cũng khẳng định: "Biểu trưng (symbole)
có một đặc tính là không bao giờ hoàn toàn võ đoán ... Biểu trưng của công lý là cái
cân không phải muốn lấy gi thay thế cũng được, chẳng hạn, không thể lấy một cái xe
để biểu trưng công lý" [136, tr.124]. Điều này cũng phần nào giải thích tại sao chỉ có
một số ký hiệu biểu thị được một cộng đồng lựa chọn để trở thành ký hiệu hàm nghĩa,
mà không phải là tất cả.
Quan hệ giữa CBĐ' (cá) và CĐBĐ' (người con gái trong tình yêu) có lý do
không? Hẳn là người Việt Nam xưa kia đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa hai
sự vật này. Trong sinh hoạt ca hát, khi muốn nói về thân phận người con gái trong xã
hội phong kiến xưa với quan hệ tình yêu, thi họ liên tưởng ngay đến con cá (cá cắn
câu, cá mắc lưới, ca'trong chậu, cá ở ao, cá trong lờ...) và dùng con cá để nói lên
những suy nghĩ, cảm nhận của minh một cách ý nhị, kín đáo. Quan hệ giữa CBĐ' và
CĐBĐ' ở đây là hoàn toàn có lý do, có thể giải thích được. Tuy nhiên đây không phải
là mối quan hệ có tính tất yếu, bắt buộc. Ngoài hình ảnh con cá, người ta có thể dùng
nhiều hình ảnh khác để thể hiện cùng một ý niệm, ý tưởng ban đầu: chim trong lồng,
chim mắc lưới; hoa có chủ, thuyền có lái, thuyền ghé bến... Dĩ nhiên, mỗi hình ảnh khi
sử dụng sẽ tạo nên những giá trị nghệ thuật có phần khác biệt nhau, nhưng nhin
chung, trong ca dao, người ta có cả một kho thi liệu phong phú, và các hình ảnh biểu
tượng cố thể thay thế lẫn cho nhau trong quá trình ứng tác. Trong phạm vi dân tộc là
như vậy,còn trên toàn thế giới, để nói về người con gái trong tình yêu, mỗi dân tộc,
mỗi cộng đồng người lại sử dụng những nhóm biểu tượng khác nhau trong thơ ca dân
gian.
Như vậy, giữa CBĐ' và CĐBĐ, hay giữa hình ảnh biểu tượng và ý nghĩa biểu
tượng luôn tồn tại quan hệ võ đoán không hoàn toàn.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi nhận thấy khảo sát biểu tượng ca dao dưới
góc độ ký hiệu học cần lưu ý mấy điều sau:
- Biểu tượng - ký hiệu thẩm mỹ, ký hiệu hàm nghĩa, cần được nghiên cứu kỹ ở
cả hai bình diện: CBĐ' và CĐBĐ', cùng mối quan hệ giữa chúng. Với tất cả các biểu
tượng, đây đều là mối quan hệ võ đoán không hoàn toàn, có cơ sở là những quan hệ
liên tưởng, vay mượn mang tính ước lệ mà nội dụng gắn liền với những đặc điểm văn
hóa - xã hội nhất định của từng cộng đồng. VI vậy, cần nghiên cứu căn cứ trên những
lý do, nguyên nhân nào mà một vật được chọn để làm biểu tượng cho một giá trị, tức
là vấn đề nguồn gốc của biểu tượng, tầng lịch sử - văn hóa - xã hội của biểu tượng.
- Hegel nhận xét: "Xét về bản chất, tượng trưng về căn bản là mơ hồ" [48, tr.44].
Một CBĐ' có thể chứa đựng nhiều CĐBĐ. Và một CĐBĐ' cũng có thể được biểu thị
bổi nhiều CBĐ' khác nhau. Khi một ký hiệu xuất hiện trước mắt chúng ta, liệu nó sẽ
được hiểu theo nghĩa biểu thị, hay cả nghĩa biểu thị lẫn nội hàm, hay chỉ theo nghĩa
nội hàm? Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố (văn cảnh, người tiếp nhận ...). Do đó,
cần thận trọng khi tìm hiểu các ký hiệu.
- Mỗi biểu tượng là một hệ thống đối, hệ thống nội hàm. Toàn bộ các biểu tượng
ca dao - tức rất nhiều hệ thống đôi - đã góp phần làm ngôn ngữ ca dao trở nên giàu
sức biểu hiện. Nhờ biểu tượng, việc "tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa" (theo cách
dùng từ của Nguyễn Phan Cảnh [8, tr.84]) trong văn bản ca dao càng thuận lợi hơn.
1.2.2. Biểu tượng ca dao dưới góc độ tu từ học
Biểu tượng trong ca dao chủ yếu được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ
liên tưởng. Đặc điểm chung của các cách tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng là trong
một văn cảnh cụ thể, từ ngữ có hiện tượng lâm thời chuyển đổi ý nghĩa, ở đây nghĩa
của từ ngữ vốn biểu thị đối tượng này (theo từ điển) nay được lâm thời chuyển sang
biểu thị đối tượng khác dựa trên cơ sở một quan hệ liên tưởng nhất định. Quan hệ liên
tưởng này có thể là:
-Liên tưởng nét tương đồng (khía cạnh giống nhau)
- Liên tưởng có tính logich khách quan về mối quan hệ có thực xảy ra giữa hai
đối tượng
Có thể nêu định lý tổng quát về cấu tạo của các phép tu từ thuộc loại này như
sau: "Nếu như có thể phát hiện ra một mối quan hệ liên tưởng nào đó giữa A và B, thi
về nguyên tắc có thể lấy A để lâm thời biểu thị B hoặc ngược lại lấy B để lâm thời
biểu thị A" [178, tr.270]. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng đối tượng A,B, tùy thuộc
vào đặc trưng của mối quan hệ liên tưởng giữa A và B mà ta có những cách tu từ như:
so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hóa ...
Cù Đinh Tú đã định nghĩa về tượng trưng: "Có những ẩn dụ, hoán dụ tu từ được
dùng một lần rồi qua đi, không ai dùng lại nữa. Người ta thừa nhận nhưng không dùng
theo. Cũng lại có những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ sau khi được một cá nhân sử dụng
mọi người chẳng những thừa nhận mà còn dùng theo, dùng lại tới mức độ hễ nhắc đến
nó không cần phải có văn cảnh, người ta vẫn hiểu thống nhất về nội dụng biểu hiện
của nó" [178, tr.303].
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa biểu tượng là "hình ảnh tượng
trưng. Chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình". Còn về tượng trưng thi được giải
thích như sau:
"Tượng trưng - (động từ): dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất
thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó. Chim bồ câu tượng
trưng cho hoa bình.
- (danh từ): Sự vật cụ thể được dùng để tượng trưng cho cái trừu tượng nào đó.
Xiềng xích là tượng trưng của sự nô lệ." [124, ti".1118].
Theo các cách hiểu trên, biểu tượng ca dao chính là những hình ảnh được hình
thành từ nghệ thuật tượng trưng. Xét ở bình diện ngôn ngữ, về nguyên tắc, sự vật chỉ
được xem là biểu tượng khi nó xuất hiện nhiều lần trong các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ
với những nét nghĩa nhất định.
Trong tổng thể ca dao, biểu tượng tồn tại dưới những dạng thức nào? Nếu chiếu
đúng theo định nghĩa về biểu tượng, thi chỉ có các ẩn dụ, hoán dụ được sử dụng với
tần suất cao là hội đủ điều kiện để được khảo sát (chỉ xuất hiện CBĐ’, còn CĐBĐ’ ẩn
kín đi) Các so sánh được lặp lại nhiều lần tuy mang nghĩa biểu tượng nhưng trên văn
bản CBĐ’ và CĐBĐ' cùng xuất hiện, điều này chưa thật phù hợp với cách hiểu của
chúng ta về biểu tượng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khảo sát biểu tượng ca dao là
khảo sát cả một'hệ thống, tiến hành không phải trên một văn bản riêng lẻ, mà là trên
kho tàng đồ sộ của ca dao người Việt, nên việc đưa các so sánh nói trên vào đối tượng,
khảo sát là cần thiết để có thể đem lại một cái nhin toàn diện, sâu sắc hơn về biểu
tượng ca dao cùng với các dạng thức tồn tại khác nhau của chúng (so sánh, ẩn dụ,
hoán dụ).
Đứng về phía người tiếp nhận, ở mỗi dạng thức, nghĩa của biểu tượng cũng được
bộc lộ ra theo những cách khác nhau.
1.2.2.1.Dạng thức so sánh :
Nếu cho rằng các sự vật, hiện tượng xuất hiện trong phép tu từ này là biểu tượng
(hiểu một cách chặt chẽ như khái niệm chúng tôi đã trình bày ) thi có vẻ như chưa
chính xác. Một biểu tượng phải bao gồm CBĐ' (phần ngôn từ, vật chất) và CĐBĐ'
(phần nội dụng, tình thần), hai mặt này gắn chặt với nhau, cái này biểu hiện cái kia.
Trong khi đó, ở phép so sánh, người ta thấy sự xuất hiện cùng lúc, đồng thời của CBĐ'
(cái dùng để so sánh) và CĐBĐ' (cái được so sánh). Cả hai tách rời thành hai vế của
phép tu từ, cùng được biểu hiện bằng ngôn từ trên văn bản, nối kết với nhau bằng các
từ so sánh .
Một số ví dụ:
_Thân em như tấm lụa đào,
Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai? (TL I -tr. 2029)
_Thiếp như một cụm hoa hường,
Thấy xinh rờ đến mắc đường chông gai. (TL III -tr. 383)
_Em như cá lượn đầu cầu,
Anh về lấy lưới người câu mất rồi.
Nước trong cá chẳng cắn mồi
Càng câu càng mất, càng ngồi càng khuya (TL I-tr.965)
Vai trò của sự vật, hiện tượng với tư cách là biểu tượng trong các bài ca này phải
chăng không quan trọng lắm ? CĐBĐ' lẽ ra ẩn đi, để người ta phải dùng tư dụy, trí
tưởng tượng cảm nhận, thi ở đây nó lại hiển hiện, tự bộc lộ, tự xác định trên văn bản.
Tấm lụa đào, cụm hoa hường, cá lượn đầu cầu là những hình ảnh mang dấu hiệu của
loài cho nên có ý nghĩa khái quát. Các phép so sánh đã triển khai cụ thể một đặc tính
nào đấy của sự vật theo dấu hiệu tương đồng: tấm lụa đào còn nguyên hay xé lẻ, cụm
hoa hường xinh nhưng nhiều gai, cá lượn đầu cầu bị nhiều người đuổi bắt..., đồng
thời còn đặt bên cạnh hình ảnh so sánh các chủ thể: thân em, thiếp, em... Các đặc điểm
này dường như đã khiến cho người đọc tiếp nhận biểu tượng theo những định hướng
rõ rệt, trường liên tưởng bị thu hẹp lại (hướng về một đối tượng cụ thể, một hoàn cảnh
cụ thể).
Tuy nhiên, do nhân vật trữ tình trong ca dao là phi cá thể hóa , hoàn cảnh được
nói đến thường chung cho nhiều con người, ngôn từ ca dao lại rất tiết kiệm, gợi nhiều
hơn tả, nên cho dù các thuộc tính, trạng thái (nét giống nhau) và chủ thể so sánh được
triển khai là bất biển thể thi cũng vẫn còn nhiều chỗ cho trí tưởng tượng của con
người hoạt động. Nói cách khác, các phép so sánh đã triển khai biểu tượng, nhưng chỉ
đi nửa đoạn đường (triển khai không hoàn toàn), đoạn còn lại sẽ là phần việc của
người tiếp nhận.
1.2.2.2.Dạng thức ẩn dụ :
Nếu như ở so sánh, CBĐ' và CĐBĐ' của biểu tượng còn đứng tách rời nhau, thi
ở đây, trong các ẩn dụ đã có sự hoa nhập. CBĐ' hiện lên trên văn bản, còn CĐBĐ' ẩn
kín đi, để cho người tiếp nhận tự suy nghĩ, liên tưởng, khám phá.
Một số ví dụ:
-Tiếc thay cái tấm lụa đào,
Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi.
Trời kia có thấu chăng trời,
Lụa đào mà vá áo tơi sao đành (TL I —tr. 1915)
-Hoa hồng sắp hái đến tay,
Để người hái mất đứng ngây mà nhin. (TL I-tr. 1093)
-Ngồi buồn xe chỉ uốn cần,
Chỉ xe chưa đặng cá lần ra khơi. (TLI-tt.1591)
Trong các ví dụ trên, tấm lụa đào, hoa hồng, con cá biểu thị cho ai? Không có
chủ thể so sánh, không có từ ngữ so sánh. Chỉ có các hoàn cảnh mà sự vật được àặt
vào là một trong những dấu hiệu tương đồng (cơ sở của sự so sánh), mách bảo cho
người tiếp nhận nét nghĩa biểu tượng mà dân gian đang muốn hướng đến (tấm lụa đào
vá vào áo tơi, chỉ xe chưa đặng cá lần ra khơi, hoa hồng sắp hái đến tay thi bị người
ta hái mất). Tuy nhiên, cũng như ở dạng so sánh, các hoàn cảnh này thường mang tính
khái quát chung. Với những đặc điểm trên, dạng thức ẩn dụ luôn tạo điều kiện cho sự
liên tưởng được rộng rãi hơn, kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn.
Trong sự liên hội của người thưởng thức, các nhân tố hoàn cảnh (văn cảnh), hợp
lôgich (nét tương đồng giữa hai đối tượng phải hợp lý), thói quen thẩm mỹ (dân gian
quen dùng một số nét tương đồng làm cơ sở để tạo nên một số ẩn dụ) của biểu tượng
được sử dụng trong văn bản ca dao đóng vai trò dẫn dắt để người nghe có thể tự xác
định cho minh một hướng hiểu phù hợp nhất hoặc nhiều hướng hiểu nhưng không loại
trừ nhau.
1.2.2.3.Dạng thức hoán dụ:
Cùng với so sánh, ẩn dụ, còn có các biểu tượng được định hình qua các phép
hoán dụ tu từ. Giữa CBĐ' và CĐBĐ' ở đây không phải là mối quan hệ liên tưởng
tương đồng mà là mối quan hệ liên tưởng logich khách quan giữa hai đối tượng. Trên
văn bản, chỉ hiện diện CBĐ', vi vậy biểu tượng thuộc dạng này cũng tạo được trường
liên tưởng rộng rãi nơi người tiếp nhận giống như ẩn dụ.
Một số ví dụ:
-Hôm nay gặp buổi êm trời,
Má đào lại được sánh người trượng phu. (TL I - tr. 1115)
-Anh xa em chưa đầy một tháng
Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày... (TL III - tr.175)
-Anh quen em năm ngoái lại giữ (giờ)
Cơi trầu anh mang đến đó, em chối từ không ăn.
-Cơi trầu anh mang đến, hãy chịu khó mang về,
Em đang còn theo chân thầy, gót mẹ cho trọn bề hiếu trung.
(TL II(1) - tr.229)
Trong các bài trên, má đào biểu hiện người con gái trẻ, đẹp (quan hệ lôgich
khách quan giữa bộ phận - toàn thể), nước mắt biểu hiện tâm trạng nhớ thương, đau
khổ (quan hệ giữa cái cụ thể - cái trừu tượng), cơi trầu - sính lễ cưới xin (quan hệ bộ
phận -toàn thể), ... Các hoán dụ này được sử dụng nhiều lần, trở thành công thức, hàm
chứa nghĩa biểu tượng.
Nếu đem so sánh, biểu tượng được tạo thành từ các ẩn dụ và hoán dụ cũng có
những điểm khác biệt: "Cái lôgich trong ẩn dụ tu từ là cái lôgich mang tính chủ quan
do con người tạo ra, trái lại cái lôgich trong hoán dụ tu từ là cái lôgich có thực, mang
tính khách quan, do con người nhận thức và phản ánh lại. Bởi vậy hoán dụ tu từ mang
tính chân thực khách quan, nó có khả năng khắc họa, nhấn mạnh một đặc điểm có
thực nào đó của đối tượng định miêu tả" [178, tr.300]. Cùng thực hiện chức năng thay
thế CĐBĐ', nhưng mỗi bên, sự thay thế mang những tính chất không giống nhau.
Như vậy, trong ca dao, biểu tượng được xác định thông qua ba phép tu từ: so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Có những biểu tượng tồn tại ở một dạng thức nhất định, cũng có
những biểu tượng được dân gian sử dụng linh hoạt hơn, chẳng hạn như: Dạng so sánh
và ẩn dụ:
Biểu tượng bướm -hoa:
-Say em như bướm say hoa,
Như ong say mật, như ta say minh. (TLI-tr. 1829)
-Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng,
Hoa chưa nở nhụy, bướm đừng lao xao (TLI tr. 1808)
Biểu tượng quế- cú;
-Em như cây quế giữa đồng,
Để cho cú đậu cực lòng quế thay... (TLI tr.965)
-Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho cú đỗ chán chường quế thay... (TLI tr. 1916)
Biểu tượng trầm hương:
-Tới đây gặp bạn sướng thay,
Cũng bằng lên nùi gặp cây hương trầm. (TLIII-tr.398)
-Mẹ ơi, son điểm phấn dồi,
Trầm hương không gặp, găp chồi cỏ may. (TLI -tr. 1349)
Dạng so sánh, ẩn dụ và hoán dụ:
Biểu tượng trầu-cau:
-Răng em không nói khi đầu,
Giữ em như thể lá trầu đã têm. (TLII-tr.386)
-Đôi ta rày được gặp nhau,
Như bếp gặp lả (lửa), như cau gặp trầu. (TLII-tr.291)
-Bây giờ trầu lại gặp cau,
Cũng mong ta ở với nhau một nhà... (TLI-tr.259).
-Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng ,
Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không?... (TLI-tr.774)
-Thương ai chẳng nói khi đầu,
Để cho thầy mẹ ăn trầu người ta. (TLI-tr.2107)
-Con cu nó gáy cu cù,
Thương em nên phải bưng trù (trầu) hai tay. (TLI-tr.432)
Biểu tượng thuyền :
-Lóng tai nghe con ve ve kêu, con chèo beo kể
Lóng tai nghe hai bên bụi bờ tiếng dế khóc than
Thiếp nằm thiếp ngủ răng an,
Một minh đây tựa hồ như chiếc đò đầy sóng lượn, biết thở than với ai
chừ? (TLI-tr. 1286)
-Nhất cao là núi Chóp Chài,
Nhất rộng là bể, nhất dài là sông.
Nhất giang hồ là kẻ đàn ông,
Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà. (TL I-tr.1644)
-Chưa chồng đậy đậy, che che
Có chồng giao cả thuyền bè cho ai. (TLI-tr.674)
-Anh về cho nhớ mai sang,
Đừng có bỏ chiếc thuyền vàng lênh đênh. (TLII(l)-tr.226)
-Thuyền ai trôi trước đợi tôi bước đến cùng,
Chiều đã về trời đất mông lung,
Phải duyên thi xích lại cho đỡ não nùng tuyết sương.
(TLIII-tr.386)
-Gió thổi lao xao khúc sông nào sóng nấy,
Thuyền em đi giữa dòng anh thấy anh thương. (TLIII-tr.289)
Sự phong phú trong các dạng tồn tại đã góp phần tạo nên nét hấp dẫn, sống động
cho biểu tượng ca dao nói riêng, cho văn bản ca dao nói chung. Khi ứng tác, dân gian
có điều kiện để lựa chọn dạng thức phù hợp nhất với nhu cầu biểu đạt tâm tư, tình
cảm của minh.
Vấn đề cần nói thêm ở đây là: trong kho tàng ca dao, có những so sánh, ẩn dụ,
hoán dụ trở thành biểu tượng, và cũng có những phép tu từ như trên không phải là
biểu tượng. Vậy, làm thế nào để phân biệt?
Cơ sở của sự phân biệt, theo sự nghiên cứu bước đầu của chúng tôi là:
- Các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ mang những nét nghĩa thẩm mỹ tương đối ổn định
trong một hệ thống chủ đề, đề tài nhất định.
- Những nét nghĩa đó được cộng đồng chấp nhận, sử dụng rộng rãi trong nhiều
bài,ca dao.
Những so sánh, ẩn dự, hoán dụ nào đáp ứng được cả hai điều kiện trên thi trở
thành biểu tượng ca dao.
Đến với kho tàng ca dao phong phú của người Việt, chúng tôi nhận thấy có một
số trường hợp đáng chú ý sau đây :
*U Có những hình ánh xuất hiên trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ nhưng tần số thấp,
nghĩa không ổn định:
-Ăn rươi chịu bão cho cam
Không ăn chịu bão thế gian cũng nhiều. (TL I - tr. 191)
-Bánh gai ruột mất vỏ còn,
Tiếc cái công anh phá rẫy để đường mòn ai đi.(TL I - t.r.224)
- Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa. (TLI - tr. 476)
Trong các câu ca dao trên, rươi, bão, bánh gai, rẫy, đường mòn, tượng tô vàng,
tổ ong tàn ... đều là những hình ảnh xuất hiện trong một văn cảnh nhất định, có ý
nghĩa nghệ thuật nhất định trong văn cảnh đó. Tách rời khỏi văn cảnh, các hình ảnh
không còn ý nghĩa. Nếu đi vào văn cảnh khác, nghĩa của chúng cũng hoàn toàn khác.
Những hình ảnh này có tần số xuất hiện thấp, nghĩa không ổn định nên không thể xem
là biểu tượng. Trường hợp này đã được các nhà nghiên cứu chú ý và phân biệt: "Ẩn dụ
là thơ ca dân gian được sinh ra tức thời và mất đi kha nhanh. Biểu tượng được hình
thành trong quá trình lâu dài và sau đó sống hàng trăm năm. Ẩn dụ là yếu tố biến đổi
còn biểu tượng không đổi, bền vững. Ẩn dụ là một phạm trù thẩm mỹ và phân lớn tự
do tách khỏi phong cách ước lệ. Biểu tượng thi ngược lại được giới hạn nghiêm túc
bởi hệ thống thi ca xác định" [196, tr.85].
Theo sự phân biệt trên thi ẩn dụ có thể biến đổi hoặc mất đi, mang tính chất lâm
thời. Biểu tượng thi bền vững cùng với thời gian. Ẩn dụ cần được giải mã bởi các yếu
tố nằm trong văn cảnh của bài ca dao, trong khi biểu tượng không cần điều đó, do
hình ảnh biểu tượng được hiểu theo những qui ước thẩm mỹ của dân gian, đã ăn sâu
vào tâm thức dân gian, khi CBĐ' xuất hiện thi dân gian đã cảm nhận được CĐBĐ'.
Phạm Thu Yên còn cho rằng: "Ần dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu
tượng, số lượng nhiều hơn nhưng không bền vững bằng biểu tượng" [196, tr.86].
Tuy nhiên, cũng cần chú ý sự phân biệt ẩn dụ và biểu tượng cũng chỉ là tương
đối mà thôi, vi biểu tượng chính là ấn dụ được sử dụng với tần số cao.
* UCó những hình ảnh xuất hiên trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với tẳn số cao
nhưng nghĩa không ổn định:
Hình ảnh cây bần, cây mù u xuất hiện khá nhiều trong ca dao Nam bộ. Có nhà
nghiên cứu đã nhận xét rất tình tế: "Cây bần gie nơi bến sông, tỏa bóng mát thơ mộng
trên các mối tình diễm lệ của các chàng trai, cô gái Nam bộ, đem lại một hình ảnh mới
mẻ cho ca dao tiu tình của người Việt" [154, tr.45]:
-Bần gie con hạc đậu cánh xòe,
Tưởng anh vô gá duyên chồng vợ, hổng dè gạt em. (TL III - tr. 182)
-Bần gie đóm đậu sáng ngời,
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên? (TL I - tr.247)
Hay hình ảnh cây mù u:
-Mù u bông trắng lá quấn nhụy huỳnh
Anh thương em vậy biết phụ mẫu có nhin hay không? (TL III - tr.323)
-Bướm vàng đậu đọt mù u,
Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn. (TL III - tr.426)
Cùng với cây bần, cây mù li còn có cây trâm bầu, lá khổ qua ... Chúng đã trở
thành những hình ảnh nghệ thuật không thể thiếu được của bức tranh thiên nhiên Nam
bộ giàu màu sắc, góp phần làm cho ca dao Nam bộ mang đậm sắc thái địa phương.
Tuy nhiên, chúng chưa trở thành biểu tượng vi chưa mang những nét nghĩa biểu trưng
ổn định bên cạnh lớp nghĩa đen thuần túy.
* UCó những hình ảnh xuất hiện trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với tần số cao,
nghĩa ổn định:
Hình ảnh con cá với nghĩa biểu tượng xuất hiện đến 500 lần trong bốn tư liệu
thông kê. Ở hình thức so sánh, dân gian thường phát hiện nhiều điểm tương đồng giữa
con cá và người phụ nữ:
-... Em như cá đã mắc mồi còn đâu.
-... Em như cá nọ mắc rày lưới giăng.
-Minh em như con cá trong thùng ...
-Bậu có chồng như cá vô lờ ...
-... Em đây năm bảy người giành,
Như cá ở chợ, dạ ai đành nấy mua.
-Minh em như cá giữa rào ...
-Em có chồng như cá ở ao ...
Ở hình thức ẩn dụ, con cá được đặt trong mối liên hệ với người câu cá. Người
tiếp nhận văn bản hiểu đó là cô gái và chàng trai đang đeo đuổi cô. Nét nghĩa này ổn
định trong hàng loạt bài ca dao về cá:
- Tiếc công anh xe sợi nhợ, uốn cây cần,
Xe rồi sợi nhợ, con cá lần ra khơi. (TL I - tr. 1910)
- Anh ngồi bậc lở anh câu,
Khen ai khéo mách, cá sầu chẳng ăn. (TL I - tr.136)
- Đợi lâu cá chẳng ăn mồi,
Anh móc vào con tôm bạc, con cá lần hồi cũng mắc câu. (TL I - tr.899)
Tương tự, hình ảnh hoa với tần suất 615 lần thường được so sánh với người con
gái (người con gái tươi trẻ hoặc tàn tạ, chưa có chồng hoặc đã có chồng ...):
- Thân em như bông bưởi trắng ròng ...
- Minh em như nụ huê đào ...
- ... Thiếp như hoa đã nở rồi...
- ... Chị thời tan tác như hoa giữa đường.
Trong các phép ẩn dụ, nét nghĩa này tiếp tục được nhấn mạnh;
- Ra về cầm bút đề thơ,
Dầu hoa có nở cũng chờ mùa xuân. (TL I - tr. 1767)
- Thiếu gi hoa nở giữa trời,
Mà anh lại nhặt hoa rơi bên đường. (TL I - tr,1918)
- Đi ngang thấy búp hoa đào,
Muốn vào mà bẻ sợ bờ rào lắm gai. (TL I - tr.826)
Áo, quần (tần suất 427) thường được nhắc đến dưới hình thức hoán dụ với
những nét nghĩa quen thuộc:
Áo rách biểu thị sự nghèo khó:
- Cha đời cái áo rách này
Mất chúng, mất bạn vi mày áo ơi ! (TL I - tr.528)
Áo gấm: sự giàu sang:
- Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (TL I - tr.645)
Áo tặng: sự trao gởi tình yêu:
- Chàng về em chẳng dám nài,
Áo trong chàng mặc, áo ngoài em xin. (TL IV - tr.206)
Có thể nói, ở trường hợp này, trong khi sử dụng lặp lại các hình ảnh so sánh, ẩn
dụ, hoán dụ, mạch cảm xúc, suy tưởng của người xưa về chúng là ổn định (và được
tiếp nối trên cơ sở những nét nghĩa đã ổn định đó). Do vậy, những hình ảnh này đều
được xem là biểu tượng trong ca dao.
Như vậy, khác với biểu tượng thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác, do được
xây dựng bằng chất liệu ngôn từ, biểu tượng ca dao mang trong nó những đặc trưng
riêng mà việc khảo sát dưới góc độ tu từ học đã góp phần làm sáng rõ. Ở cả ba dạng
thức tồn tại, biểu tượng đều khơi gợi được những liên tưởng thấm mỹ phong phú nơi
người tiếp nhận. Việc các hình ảnh xuất hiện với tần số cao và mang những nét nghĩa
nhất định đã phản ánh quá trình tư duy của dân gian về các sự vật trên con đường hình
thành biểu tượng, sự chấp nhận của cộng đồng đối với khả năng tồn tại của chúng.
Trong nghiên cứu, việc lưu ý đúng mức đến những đặc trưng riêng này là cần thiết để
có thể lựa chọn được những phương pháp tiếp, cận phù hợp nhất với biểu tượng ca
dao.
1.2.3. Biểu tượng ca dao dưới góc độ folklore học:
Dưới góc độ này, biểu tượng ca dao được xem như những công thức truyền
thống.
Từ năm 1968, trong một bài viết, Đặng Văn Lung đã chú ý đến những yếu tố
trùng lặp trong ca dao, trong đó có biểu tượng. Ông nhận xét: "...Riêng trong văn học
dân gian, những yếu tố trùng lặp chiếm một tỉ lệ lớn và có một vai trò quan trọng. Nó
gắn liền với những đặc điểm tư tưởng và nghệ thuật của sáng tác dân gian; nó trực tiếp
liên hệ với tài năng văn nghệ của nhân dân, với kinh nghiệm sống và thế giới quan của
nhân dân". [118, tr.294].
Trong Từ điển văn học, Chu Xuân Diên xem biểu tượng là một loại mô-tip:
"Nhiều biểu tượng thơ ca trong ca dao có ý nghĩa và vai trò trong cấu tạo đề tài và cốt
truyện của tác phẩm tự sự. Thí dụ các biểu tượng trầu - cau, thuyền - bến, v.v.... trong
ca dao Việt Nam. Do đó cũng có thể coi những biểu tượng như vậy là những mô-típ
trong sáng tác thơ ca trữ tình dân gian" [119, tr.466].
Trong luận án tiên sĩ Thi pháp ca dao - dân ca trữ tình Việí Nam nhin từ góc độ
lý luận của Folklore học Nga, Bùi Mạnh Nhị gọi biểu tượng là một trong nhiều hại
"công thức truyền thống" của sáng tác dân gian: "Công thức folklore là những kiểu
mẫu ổn định điển hình khác nhau của truyền thống" [118, tr.308]. A. Đauy, khi nghiên
cứu công thức của dân ca Đức, viết: "Về thực chất, cần phải đưa" vào khái niệm công
thức tất cả những gi thường được lặp lại, công thức bao hàm khái niệm về cái tiêu
biểu, điển hình đối với thể loại" [118, tr.308].
Các nhận xét trên cho thấy biểu tượng đã được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến,
đặc biệt là ở khía cạnh một thành tố chi phối cách thức cấu trúc, kết cấu của bài ca
dao, dù là dưới những tên gọi chưa thống nhất (yếu tố trâng lặp, mô-típ, công thức
truyền thống)
Để dễ xem xét, trình bày biểu tượng ở góc độ này chúng tôi xin được gọi biểu
tượng là những “công thức truyền thống”
Công thức truyền thống là đơn vị tế bào cơ bản phản ánh tập trung bản chất, đặc
trưng folklore, mỹ học folklore trong ca dao. Công thức truyền thống đã được nhiều
nhà nghiên cứu trên thế giới như A.Đauy, G.Pôikert, O.Khônsaphen, Ia.Grim (Đức),
A.N.Aphanaxép, P.LBuxlaep, A.N.Vêxêlôpxki, A.T.Khrôlenkô (Nga) v.v... đề cập
đến, từ các quan điểm, góc độ khác nhau của ngữ văn học, dân tộc học, folklore học.
Công thức folklore đa dạng về hình thái, dung lượng, nội dung, ý nghĩa. Công
thức có thể là một từ, nhóm từ, dòng thơ hoặc nhóm dòng thơ. Có công thức thời gian,
không gian. Có công thức mẫu đề, biểu tượng ... Dấu hiệu chung của công thức là ỏ sự
lặp lại, tiêu biểu, điển hình. Công thức folkore là những yếu tố hình thức mang tính
nội dụng cao. Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị nhận xét: "Công thức folklore là sự chọn lọc, kết
tình và điển hình hóa kinh nghiệm văn hóa, xã hội, nghệ thuật truyền thống, thể hiện
quan điểm mỹ học của nhân dân ... Đối với lĩnh vực folklore, nhân dân sáng tác theo
truyền thống và cảm thụ cũng theo truyền thống, một truyền thống có bề dày lịch sử,
văn hóa, xã hội và đã được thử thách" [118, tr.309]. Biểu tượng ca dao là những ký
hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần, có tần số xuất hiện đáng kể, có khả năng
biểu hiện những ý nghĩa sâu xa. Biểu tượng ca dao là những hình ảnh đã được dân
gian chọn lọc trong sử dụng và được thử thách qua nhiều năm tháng. Biểu tượng còn
có vai trò quan trọng trong việc thể hiện những đặc trưng truyền thống của folklore.
Do đó, nó hoàn toàn đủ tư cách để được xem là những công thức truyền thống.
Qua thực tế khảo sát biểu tượng nghệ thuật trong ca dao, chúng tôi nhận thấy có
thể tập hợp biểu tượng thành những nhóm khác nhau, mỗi nhóm bao gồm các biểu
tượng có liên hệ gần gũi với nhau (được tạo thành từ cùng một sự vật hiện tượng).
Các biểu tượng cùng nhóm được phân biệt bằng những khía cạnh, sắc thái, quan hệ
khác nhau ở cái biểu đạt, dẫn đến sự khác nhau trong cái được biểu đạt, hoặc được
phân biệt bởi những kết cấu sóng hợp không giống nhau từ một sự vật, hiện tượng
trung tâm.
Ví dụ:
- Nhóm biểu tượng hoa có các biểu tượng: hoa tươi, hoa thơm, hoa tàn, ...
- Nhóm biểu tượng rồng có các biểu tượng: rồng-phượng, rồng- mây, rồng-tiên
...
- Nhóm biểu tượng tằm có các biểu tượng: tằm-dâu, tằm-tơ, tằm-nhện, ...
- Nhóm biểu tượng ngọn đèn có các biểu tượng: đèn không tắt, đèn mờ, đèn treo
trước gió,...
Từ một công thức biểu tượng có thể tìm thấy nhiều biển thể khác nhau. Trong
từng văn cảnh cụ thể, cấu trúc ngôn ngữ của biểu tượng có thể biến đổi nhưng ý nghĩa
biểu đạt thi không đổi, mà chỉ được bổ sung bằng các nét nghĩa phụ làm phong phú
thêm cho nét nghĩa cơ bản. Ví dụ:
- Biểu tượng chỉ hồng có các biến thể: chỉ đào, chỉ thắm, chỉ vàng, ...
- Biểu tượng hoa tàn có các biến thể: hoa héo, hoa xâu nhị ùa, hoa lia ...
- Biểu tượng cá trong lờ có các biến thể: cá trong chậu, cá trong ao ...
- Biểu tượng gan - ruột có các biến thể: bầm gan tím ruột, ruột thắt gan bào, ruột
nát gan bầm, ruột cháy gan khô ...
Như vậy, khảo sát biểu tượng ca dao cần lưu ý đến ba cấp độ: nhóm biểu tượng;
biểu tượng, các biến thể của biểu tượng. Cả ba cấp độ này, trong quá trình ứng tác,
diễn xướng ca dao không ngừng được bổ sung. VI vậy, tuy gọi là "công thức truyền
thống" nhưng biểu tượng không bị khô cứng, sáo mòn mà luôn được biến đổi một
cách linh hoạt. Nói khác đi, ở mỗi biểu tượng vừa có những yếu tố bất biến vừa có
những yếu tố khả biến. Các yếu tố bất biến khiến biểu tượng mang giá trị của công
thức. Các yếu tố khả biến đem lại cho biểu tượng sự tươi mới, đa dạng. Công thức
biểu tượng tồn tại được là nhờ vào sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố trên.
Xét về cấu trúc, công thức biểu tượng bao gồm hai loại: biểu tượng đơn, biểu
tượng đôi (với nhiều dạng sóng đôi khác nhau), vấn đề này chúng tôi sẽ làm rõ ở một
chương khác của luận án. Hai loại biểu tượng (đơn, đôi) cũng góp phần không nhỏ
trong việc làm phong phú thêm khả năng sử dụng biểu tượng, đáp ứng được trọn vẹn
nhu cầu biểu đạt tư tưởng, tình cảm của nhân dân.
Biểu tượng xét dưới góc độ là những công thức truyền thống đã gợi mở cho
chúng tôi nhiều vần đề quan trọng. Nghiên cứu biểu tượng ở góc độ này có thể giúp
chúng ta tìm hiểu được những đặc trưng truyền thống của ca dao nói riêng, của văn
học dân gian nói chung, hiểu được những qui luật, qui tắc thẩm mỹ trong sáng tác và
tiếp nhận tác phẩm folklore. Khảo sát công thức biểu tượng còn trợ giúp đắc lực cho
việc tháo dỡ cấu trúc phức tạp của tác phẩm ca dao, tìm hiểu được sự vận hành của
các nguồn cảm hứng, thi hứng khi ứng tác của nghệ sĩ dân gian.
1.2.4. Biểu tượng ca dao dưới góc độ văn hóa học:
Hệ thống biểu tượng ca dao có thể xem-là một hiện tượng của văn hóa học. Biểu
tượng thuộc ca dao, thuộc văn học (đặc biệt lại là văn học dân gian, văn học của người
bình dân Việt Nam, một tầng lớp đông đảo trong cộng đồng dân tộc), nên thuộc về
văn hóa cũng là điều tất yếu. Cũng như biểu tượng trong các lĩnh vực khác, biểu tượng
ca dao đóng vai trò là những đơn vị cơ bản, góp phần tạo nên một khuôn mặt riêng,
một bản sắc riêng cho văn hóa Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại của một hệ thống biểu
tượng phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn của cộng đồng. Sự lựa chọn này lại xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, văn hóa là nguyên nhân quan trọng. Gốc rễ của
biểu tượng cắm sâu vào mảnh đất văn hóa. Biểu tượng được sinh ra và nuôi dưỡng từ
đó. Mối quan hệ giữa văn hóa và biểu tượng là mối quan hệ sinh thành, gắn bó hữu
cơ, không thể phủ nhận. Vấn đề biểu tượng của văn hóa và văn hóa của biểu tượng
cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa để làm sáng tỏ thêm mối quan hệ này.
Từ những hiểu biết về văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa dân gian nói riêng,
chúng ta sẽ có cơ sở để nắm bắt tốt hơn tầng ngữ nghĩa thẳm sâu của biểu tượng.
Hegel cho rằng: "Khi chúng ta đứng giữa cái thế giới của những biểu tượng và những
hình ảnh tượng trưng của Ba Tư, Ân Độ, Ai Cập cổ xưa ấy, mọi cái hiện lên xa lạ với
chúng ta, chúng ta cảm thấy minh đang len lỏi giữa các vấn đề" [48, tr.46]. Thật vậy,
nếu thiếu kiến thức về văn hóa của một cộng đồng, đối với người tiếp nhận, biểu
tượng trong văn bản chỉ được tri giác ở tầng nghĩa đen thông thường. Tầng nghĩa biểu
cảm chỉ xuất hiện khi người đọc có chia khóa giải mã biểu tượng. Chia khóa đó chính
là văn hóa. Nhưng ngay cả khi đã được trang bị chiếc chia khóa này, sự cảm nhận về
biểu tượng cũng không phải luôn luôn dễ dàng, vi: "Biểu tượng báo hiệu một bình
diện ý thức khác với cái hiển nhiên lý tính; nó là mật mã của một bí ẩn, là cách duy
nhất để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác; nó không bao giờ có
thể được cắt nghĩa một lần là xong, mà cứ phải giải mã lại mãi; cũng giống như một
bản nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi một lối biểu diễn luôn luôn
mới" [71, tr.XVIII]. Các ý nghĩa sâu sắc tiềm ẩn trong biểu tượng luôn chờ đợi những
nỗ lực tư dụy thật sự của con người. Tất nhiên kiến thức văn hóa càng phong phú thi
việc "đọc" biểu tượng càng thuận lợi hơn.
Theo con đường ngược lại, từ hệ thống biểu tượng ca dao, chúng ta cũng có thể
hiểu biết nhiều hơn về nền văn hóa đã sinh ra chúng, bởi lẽ, biểu tượng chính là nơi
kết tụ đầy đủ nhất những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Việt. Hình
ảnh trầu - cau trong ca dao là sự giới thiệu cô đọng về nền văn hóa trầu cau của đất
nước ta; biểu tượng cò, cá, bống, rồng, thuyền, bến nước, dòng sông, chiếc cầu ... giúp
ta hình dụng đầy đủ hơn về nền văn hóa sông nước; dải yếm đào, áo gấm, áo xông
hương, chiếc nón, chiếc khăn ... gắn với văn hóa trang phục; đũa ngọc, mâm vàng,
đũa mun, đũa tre ... cho ta hiểu thêm về văn hóa ẩm thực ... Khảo sát sơ bộ các biểu
tượng ca dao, có thể nói nền văn hóa nông nghiệp như một mạch nước ngầm đã chi
phối toàn bộ quá trình lựa chọn, sử dụng các biểu tượng. Đó là hệ biểu tượng của nhân
sinh quan, thế giới quan, của đời sống và văn hóa nông dân. số lượng phong phú các
biểu tượng về người phụ nữ, người nông dân, về lứa đôi và tình yêu ... khẳng định
người Việt có nền văn hóa trọng đạo lý, nghĩa tình, giàu tính nhân đạo.
Qua biểu tượng ca dao, ta còn hiểu được nền văn hóa Việt Nam trong quan hệ
với văn hóa khu vực Đông Nam Á và văn hóa nhân loại nói chung. Biểu tượng trầu -
cau là một ví dụ. Văn hóa trầu cau của người Việt Nam vừa mang những nét chung
của khu vực Đông Nam Á, vừa mang những nét đặc sắc riêng của Việt Nam. Mặt
khác, các biểu tượng tuy mang đậm tính dân tộc nhưng cũng thể hiện rõ tính nhân bản,
nhân văn, nhân loại. Mỗi quốc gia, dân tộc có một nền thơ ca dân gian riêng, một hệ
thống biểu tượng riêng. Nhưng cái được biểu đạt qua các hệ thống biểu tượng đó đều
là tâm tư, tình cảm của con người lao động đối với cuộc sống thường ngày. Cái được
biểu tượng trong ca dao thường là hướng về con người với khát vọng được sống trong
yêu thương và hạnh phúc.
Nghiên cứu biểu tượng trong ca dao còn là dịp để chúng ta nhin thấy được mối
giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Nhóm các biểu tượng có nguồn gốc từ
văn học cổ Trung Quốc chiếm số lượng lớn trong hệ thống biểu tượng phản ánh quá
trình giao lưu văn hóa lâu đời giữa hai dân tộc, ảnh hưởng của Nho học, của văn học
Trung Quốc đối với văn học Việt Nam. Quá trình các điển tích, điển cố văn học Trung
Quốc trở thành biểu tượng trong ca dao Việt Nam có thể là đối tượng của một sự khảo
sát tỉ mỉ. Ở luận án này, do dung lượng có hạn, chúng tôi chỉ có điều kiện nêu lên một
vài nhận xét sơ bộ.
Ở góc độ văn hóa học, biểu tượng ca dao còn có liên quan mật thiêt với trình độ
nhận thức, tư duy của con người. Tư duy bằng biểu tượng là năng lực chỉ có ở con
người, đúng như E.Cassirer đã nhận định: "Tư duy và hành vi biểu tượng hóa là đặc
trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại và toàn bộ văn hóa nhân loại phát triển đều
dựa vào những điều kiện này ... Chúng ta nên định nghĩa con người là những động vật
biểu trưng (animal symbolicum) ...Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ
độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai phóng cho
con người - con đường hướng về văn hóa" [97, tr.148]. Một số nhà nhân học đã gọi
con người là động vật sử dụng biểu trưng (Homo-Symbolling). Thế giới biểu tượng
hàm chứa trong nó những giá trị mang bản chất người. Sự xuất hiện của hàng loạt biểu
tượng, trong đó có biểu tượng thơ ca dân gian là dấu ấn quan trọng trong các nền văn
hóa, cho thấy trình độ tư dụy của con người đã phát triển, năng lực tư dụy trừu tượng
đã ở mức cao, văn hóa nhận thức chắc rằng đã có nhiều tiến bộ. Biểu tượng tồn tại với
tần suất cao trong ca dao chứng tỏ năng lực tượng trưng hóa đã trở thành phổ biến
trong tầng lớp bình dân.
Biểu tượng ca dao còn có những đóng góp cụ thể quan trọng cho nền văn hóa
dân tộc. Hệ thống biểu tượng là hệ thống các khuôn mẫu văn hóa cổ truyền. Chúng
qui định mọi hành vi ứng xử và có vai trò họa kiểu cho lối sống cộng đồng. Những giá
trị tình thần được tôn vinh qua các biểu tượng đã được ông cha ta chấp nhận, trở thành
truyền thống, và sẽ còn tồn tại dài lâu. Chúng sẽ dẫn dắt, điều tiết, định hướng cho đời
sống xã hội, hay nói cách khác, đó là những hạt nhân di truyền của một nền văn hóa,
giúp nền văn hóa đó đứng vững trên đôi chân của truyền thống, phát triển trong khuôn
khổ của những chuẩn mực truyền thống. Có ý kiến cho rằng: "Có thể xem thế giới
biểu tượng, hệ thống các ký hiệu hàm nghĩa, là hình thái ngoại hiện của văn hóa, còn
hệ thống giá trị xã hội nằm trong lòng mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Do
vậy, "đơn vị cơ bản" của văn hóa chính là biểu tượng - vật hàm chứa những thông tin -
xã hội ..."[47.tr.29].
Tóm lại, biểu tượng ca dao là các đơn vị cơ bản của nền văn hóa Việt, kết tụ
những giá trị tình thần đẹp đẽ của dân tộc trong trường kỳ lịch sử trên khắp các miền
đất nước. Nghiên cứu biểu tượng không thể không gắn liền với văn hóa dân tộc. Văn
hóa là cơ sở, là xuất phát điểm quan trọng cho việc tìm hiểu kỹ, sâu, đúng về biểu
tượng. Đồng thời, cần nhận thức được rằng: khảo sát hệ thống biểu tượng ca dao cũng
chính là hành trình tìm về với cội nguồn văn hóa dân tộc, là công việc tìm hiểu vốn cũ
của cha ông, từ đó, có cái nhin toàn diện hơn về nền văn hóa đương đại.
1.3. Biểu tượng ca dao thể hiện đặc trưng ngôn ngữ thể loại:
Lối nói bằng biểu tượng là một lối nói đặc trưng của ca dao trong tương quan so
sánh với các thể loại khác của văn học dân gian.
Các thể loại tự sự ít dùng ngôn ngữ biểu tượng. Do đặc trưng thể loại là kể
chuyện nên các tác phẩm chủ yếu hướng vào sự miêu tả trực tiếp. Ngôn ngữ kể
chuyện của thần thoại, truyền thuyết rất gần với ngôn ngữ đời thường, ít bóng gió, xa
gần, ít sử dụng những ẩn dụ và vi vậy nên cũng ít các biểu tượng. Biểu tượng trong
thần thoại, truyền thuyết thường là hình thành qua cả một văn bản, một câu chuyện kể
... chứ ít khi là một từ, một ngữ, một câu như trong ca dao. Mặt khác dường như người
nghệ sĩ dân gian khi sáng tác những câu chuyện đó chưa hoàn toàn ý thức là họ đang
xây dựng, đang sử dụng những biểu tượng. Biểu tượng thần thoại, truyền thuyết được
hình thành gần như tự phát. Đối với người đương thời, đó là những câu chuyện kể cụ
thể, nhưng đối với người đời sau, trong sự cảm nhận, lại nhận ra ỏ đó những ý nghĩa
tượng trưng theo cách hiểu của minh. Một nhà nghiên cứu đã kết luận: "Một sự vật,
một hiện tượng cụ thể trỏ thành có ý nghĩa tượng trưng khi nó có hình thức hoặc tính
chất thích hợp để gợi ra một sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó . Những hiện
tượng cụ thể, tức những câu chuyện cụ thể được kể lại trong thần thoại cũng có thể trở
thành những hình tượng có ý nghĩa tượng trưng theo cách như vậy" [94, tr.22]. Người
ta thường nhắc đến chuyện Một bọc trăm trứng hay truyện Quả bầu mẹ trong thần
thoại Việt Nam. Chúng đã trở thành biểu tượng cho khối đoàn kết dân tộc. Biểu tượng
bọc thai chung là đề tài luận án phó tiến sĩ của nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật [113].
Khi sáng tác các câu chuyện dân gian, người bình dân chưa thực sự có ý thức sử dụng
biểu tượng như là một phương tiện thẩm mỹ để làm cho lối diễn đạt của minh thêm
hiệu quả. Ngược lại, trong ca dao, có cả một hệ thống biểu tượng phong phú và trong
quá trình ứng tác, người bình dân luôn có ý thức trong việc lựa chọn, sử dụng biểu
tượng cho phù hợp với nhu cầu thể hiện thế giới nội tâm của minh. Nguyên nhân của
sự khác biệt này có thể giải thích được nếu chúng ta chú ý đến thời kỳ ra đời và những
đặc trưng riêng biệt về mặt thể loại của thần thoại, truyền thuyết và ca dao.
Cũng như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích và truyện cười chưa chú trọng
nhiều tới việc hình thành các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và hệ thống ngôn ngữ đa
tầng, đa nghĩa như trong ca dao.
Ở truyện ngụ ngôn, mỗi tác phẩm là một ẩn dụ. Trong quá trình tiếp nhận. có
những cốt truyện ngụ ngôn có thể được xem là những biểu tượng, tượng trưng (do
được nhắc đến nhiều lần trong sinh hoạt, nói năng), nhưng đứng ở gốc độ sáng tác, đó
là những ẩn dụ chỉ được xuất hiện một lần trong một tác phẩm cụ thể mà thôi, không
có tần suất đáng kể trong các sáng tác khác của thể loại. Có một số loài vật trong
truyện ngụ ngôn đã trở thành biểu tượng: thỏ (thông minh, hiền lành), rùa (chậm
chạp), sư tử và hổ (sức mạnh, hung dữ), cáo (xảo quyệt, tình ranh), kiến (chăm chỉ,
siêng năng, đoàn kết) nhưng những trường hợp như thế không nhiều lắm, chưa trở
thành một hiện tượng phổ biến của thi pháp thể loại.
Tục ngữ thiên về lý trí, thường dùng cái cụ thể để nói cái khái quát, trừu tượng,
cho nên phần nhiều cũng là các ẩn dụ. Song những ẩn dụ này, cũng như trong truyện
ngụ ngôn, không được lặp lại nhiều lần trong các đơn vị tục ngữ khác. Tuy nhiên, cần
chú ý rằng: có một số ít biểu tượng đã được sử dụng trong tục ngữ: hoa, cá, trầu, cau
... Từ trong tâm thức dân gian, các biểu tượng hình thành và được đưa vào các sáng
tác dân gian thuộc các thể loại khác nhau. Sự xuất hiện. của các biểu tượng trong tục
ngữ có thể được lý giải theo hướng này. Nhưng nói chung, tục ngữ không nhiều
những trường hợp như vậy.
Câu đố hầu như hoàn toàn không sử dụng biểu tượng. Đặc trưng của câu đố là
lối nói chệch (nói một đàng, hiểu một nẻo), có thể xem như là những ẩn dụ, nhưng chủ
thể mà các ẩn dụ này hướng tới trong nhiều trường hợp không phải là con người mà
có thể là đồ vật, con vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên ... Mỗi câu đố đều hướng
vào một sự vật cụ thể. Người sáng tác câu đố luôn cố gắng tìm ra những đặc điểm
riêng biệt của sự vật và diễn đạt bổng gió thành lời thơ, làm thế nào để sự vật được
miêu tả một cách nửa kín, nửa hở và người giải câu đố phải trầy trật, khó khăn lắm
mới tìm được lời giải đáp. Quá trình này không cần đến biểu tượng, vi biểu tượng là
một qui ước diễn đạt đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, còn ngôn ngữ của câu đố thi
thường đi từ một cái cụ thể này đến cái cụ thể khác (tức là từ sự vật trong câu đố đến
sự vật trong lời giải câu đố).
Ca dao là thể loại được sáng tác chủ yếu theo phương thức trữ tình. Nội dung
của ca dao là thế giới tâm trạng của con người. Đây là thế giới không đường nét, màu
sắc, hình khối, âm thanh ... nhưng lại nhiều cung bậc, sắc thái, đa dạng và phức tạp ...
Miêu tả, biểu hiện một thế giới như thế quả là khó. Và để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ
đó, ca dao đã dùng lối nối bằng biểu tượng một cách có ý thức. Người bình dân xưa
đã rất khôn khéo và tình tế khi mượn một số hình ảnh trong thế giới khách quan để
biểu hiện cái thế giới tình thần khó định hình trong bản thân mỗi con người. Nhu cầu
sử dụng biểu tượng trong thơ ca nói chung là lớn, trong ca dao lại càng lớn vi ca dao
là loại thơ của người bình dân, những người ưa chuộng cách nói so sánh, ví von, cách
nói theo những công thức quen thuộc.
Như vậy có nghĩa là biểu tượng thể hiện đặc trưng ngôn ngữ của thể loại ca dao,
một thể loại lấy tư tưởng, tình cảm, tâm trạng con người làm đối tượng phản ánh.
Ngôn ngữ biểu tượng đã nói lên bản chất trữ tình của ca dao: "Tác phẩm trữ tình đích
thực trình bày cuộc sống như một bức tranh. Ý nghĩa chính không phải là bức tranh
mà ở tình cảm mà nó gợi lên" [196, tr.89].
Xét trong tổng thể ca dao, biểu tượng không tồn tại đều khắp ở các chủ đề, đề
tài, mà thường tập trung vào một số đề tài nhất định, Chúng xuất hiện với mật độ dày
đặc trong đề tài tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đinh, tình yêu quê hương, đất nước.
Hiện tượng này cũng không khó lý giải bởi nội dung của các đề tài trên cần thiết phải
được chuyển tải bằng một lớp ngôn ngữ biểu tượng. Không có biểu tượng, ngôn ngữ
ca dao thuộc các đề tài này sẽ trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Như vậy, biểu tượng
không chỉ góp phần kim biệt ngôn ngữ ca dao với ngôn ngữ các thể loại khác của văn
học dân gian, mà còn tô đậm thêm sự khác biệt về thi pháp giữa các bài ca dao thuộc
các đề tài khác nhau.
Nói rộng hơn, biểu tượng còn thể hiện đặc trưng thi pháp của văn học dân gian,
đó là ở tính chất công thức. Nếu như văn học viết tối kỵ sự lặp lại thi văn học dân gian
lại ưa chuộng điều đó. Sự lặp lại này không phải là tuy tiện, mà dựa trên cơ sở chọn
lọc những giá trị thẩm mỹ truyền thống. Sự lặp lại này được qui định bởi phương thức
sáng tác truyền miệng, bởi hoàn cảnh ứng tác, diễn xướng tác phẩm, bởi thị hiếu thẩm
mỹ của người bình dân ..., tạo nên những giá trị mỹ học độc đáo trong văn học dân
gian. Hệ thống biểu tượng ca dao phô bày cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của tác
phẩm văn học dân gian, đó là vẻ đẹp trong sự gắn kết với truyền thống và đổi mới trên
cơ sở của truyền thống.
Trên đây chúng tôi đã trình bày các vấn đề có liên quan đến khái niệm biểu
tượng nghệ thuật trong ca dao. Trong hệ thống lớn các biểu tượng của nền văn hóa
dân tộc, biểu tượng ca dao có một vị trí đáng kể. Chúng tôi đã đặt thuật ngữ biểu
tượng dưới nhiều góc độ khác nhau để xem xét với mong muốn gợi ra một cách hiểu
thật đầy đủ, sâu sắc về các tín hiệu thẩm mỹ này, đồng thời, bước đầu tạo cơ sở lý
luận cần thiết để có thể sử dụng những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học
hữu quan cho việc tìm hiểu-biểu tượng ca dao. Thực ra đây cũng chính là quá trình
xác định những đặc trưng riêng biệt của biểu tượng ca dao. Vai trò của biểu tượng
trong nhiều khía cạnh văn hóa đời sống đã giải thích rõ nguyên nhân vi sao chúng có
sức sống lâu bền, có sức lan tỏa mạnh mẽ như vậy trong cộng đồng. Thực tế sử dụng
biểu tượng trong ca dao giúp ta hiểu sâu hơn về năng lực trí tuệ, về tài năng nghệ
thuật của người bình dân. Nền văn học, văn hóa đương đại cũng được soi sáng thêm
khi chúng ta nhận ra những "hạt nhân di truyền", những "đơn vị cơ bản" của văn học,
văn hóa truyền thống. Ngôn ngữ ca dao với sự có mặt của hệ thống biểu tượng đã hình
thành nên một nét phong cách riêng, một sức hấp dẫn riêng đối với người tiếp nhận,
đồng thời, là sự thể hiên nổi bật bản chất trữ tình của thể loại.
CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ
THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
Xét ở chiều sâu, các biểu tượng nói chung đều có một tầng nền lịch sử -văn hóa
- xã hội. Tìm hiểu cho thật cặn kẽ nguồn gốc từng biểu tượng là điều khống đơn giản.
Mỗi biểu tượng như một sinh thể sống động, được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên
nhiều khi không chỉ trên mảnh đất của thơ ca dân gian mà còn trên cả những mảnh đất
của các loại hình văn hóa. văn nghệ dân dan khác của dân tộc. Sự tồn tại của một biểu
tượng trong dân gian thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện, lĩnh vực. Ý nghĩa
của biểu tượng không phải bao giờ cũng có tính đơn nhất trong môi trường văn hóa
dân gian đó: trên một nền nghĩa chung, nhiều nét nghĩa mới được phát sinh, được tái
tạo"... Và cũng chính vi vậy, sự lĩnh hội nghĩa của biểu tượng trong ca dao không phải
bao giờ cũng là một việc làm đơn giản.
Theo sự tìm hiểu bước đầu của chúng tôi, biểu tượng ca dao đã được hình thành
từ các nguồn mạch sau:
2.1. Những biểu tương xuất phát từ tín ngưỡng- nghi lễ và phong tục, tập
quán của người Việt:
Thuộc về nhóm này, có thể kể đến các biểu tượng: rồng, trầu - cau, đôi đũa, cây
đa, vuông - tròn ...
2.1.1.Biểu tượng rồng:
Biểu tượng có nguồn gốc từ thần thoại, truyền thuyết, từ phong tục, tín ngưỡng
của người Việt nổi bật nhất là rồng. Rồng là con vật tưởng tượng, đứng đầu trong bộ
tứ linh "long, ly, quy, phụng". Theo nhiều nhà nghiên cứu, nguyên mẫu của con rồng
là con cá sấu, rắn, thuồng luồng. Trước đây, người ta cho rằng nguồn gốc của rồng
bắt nguồn từ Trung Quốc, sau đó, hình ảnh con vật này mới lan sang các quốc gia
khác, sang tận các nước xa xôi ở Châu Âu. Và trên con đường lan tỏa đó, hình ảnh
con vật huyền thoại này đã có nhiều thay đổi. Nếu như người phương Đông coi rồng
là con vật linh thiêng, tượng trưng cho vẻ đẹp hoàn mỹ và sức mạnh phi thường, thi
với người phương Tây, rồng là con vật đầu chó, cánh dơi, vuốt sư tử, đuôi rắn, tượng
trưng cho sức mạnh ma quỉ, chuyên quấy rối, hại người [176, tr.38]. VI là con vật
không có thực, nên tùy theo lối tư dụy và thị hiếu thẩm mỹ của từng dân tộc, từng khu
vực mà hình ảnh rồng cũng được thay đổi cho phù hợp.
Vần đề đặt ra ở đây là: biểu tượng rồng của người Việt có thật sự mang gốc tích
từ Trung Quốc hay không? Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng: có nhiều cơ sở
để khẳng định con rồng có nguồn gốc từ Đông Nam Á, từ Việt Nam.
Trên đất nước ta từ lâu đời đã truyền tụng câu chuyên Con Rồng, cháu Tiên. Lạc
Long Quân (nòi rồng, minh rồng) và Âu Cơ (dòng dõi tiên) được tôn là tổ tiên của
người Việt Nam. Một số chứng cứ về phong tục học, khảo cổ học cũng góp phần
khẳng định thêm nguồn gốc Việt Nam của con rồng. Thời xưa, người Việt cổ có tục
xăm minh để chống lại các loài thủy quái những khi họ lao động trên sông nước, đầm
lầy, mà thường là xăm hình rồng, hình giao long. Đến đời Trần, tục vẽ minh vẫn phổ
biến từ vua đến dân như lời nói của Trần Nhân Tông: "Nhà ta vốn là người ở vùng hạ
lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, nếp nhà theo nghề võ nên xăm minh rồng vào đùi
để tỏ lòng là không quên gốc" [176, tr.38].
Trên một lưỡi qua Đông Sơn tìm thấy ở núi Voi (Kiến An, Hải Phòng) có khắc
hình một con cá sấu mõm dài, minh dài, chân ngắn, rất gần với hình ảnh những con
rồng đầu tiên trong lịch sử nước ta. Trên các mũi giáo đồng, các tấm đồng che ngực,
các trống đồng Đông Sơn, cũng nhiều lần xuất hiện hình ảnh rồng ở dạng nguyên sơ
(giống hình cá sấu).
Theo Trần Ngọc Thêm: "Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở
Vùng sông nước, và do vậy thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu.... Tiên -
Rồng là một cặp đôi ...trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim (cho nên mẹ
Âu Cơ đẻ trứng), còn Rồng được trừu tượng hóa từ hai loài bò sát rắn và cá sấu có rất
nhiều ở vùng sông nước Đông Nam Á" [156, tr.160]. Vật tổ tô-tem của người Việt
Nam là Rồng - Tiên và theo cách giải thích trên, việc thờ cúng vật tể đều dựa trên cơ
sở thực tế của đời sống cư dân người Việt cổ.
Đến thời phong kiến, con rồng trở thành biểu tượng của vương quyền, của vua
chúa. Ý nghĩa tượng trưng này chắc rằng từ Trung Quốc dụ nhập sang ta. Tứ linh (bốn
con vật linh) là những biểu tượng phổ biến của các chế độ quân chủ Trung Quốc.
Đứng hàng đầu trong bộ tứ linh, lại được gắn với uy quyền của vua, chúa, con
rồng trở thành vật thiêng liêng, được mọi người tôn sùng, không dám xúc phạm đến.
Những gi có liên quan đến nhà vua thường được gắn với từ "rồng", "long": long nhan,
long thể, long bào, long sàng, long xa, sân rồng, bệ rồng ... Rồng là biểu tượng của
nhà vua, cho nên cũng nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của cả một triều đại. Nhin
lại lịch sử, chúng ta sẽ thấy ở mỗi triều đại dáng vẻ của rồng có nhiều biến đổi. Rồng
thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn mang những nết đặc-thù riêng biệt,, cho thấy nghệ sĩ dân
gian khi điêu khắc đã chú ý rất kỹ đến ý nghĩa biểu tượng của rồng [156, tr.206-207].
Ở nước ta, rồng trở thành một môtíp trang trí phổ biến trong cung điện, đinh,
chùa, đền, miếu ... Rồng thường được chạm khắc với những tư thế đẹp đẽ, phóng
khoáng, uy nghi: lường long triều nguyệt, lưỡng long tranh châu, ngư long hí thủy,
rồng ăn chữ thọ ... Khi con rồng đã được định hình thật sự trong thế giới loài vật (bằng
những đặc trưng riêng) như là những con vật tự nhiên khác, việc trang trí hình rồng ở
khắp nơi như trên đã tác động không nhỏ đến tâm thức dân gian.
Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhân dân ta cũng thường xuyên dùng hình ảnh
rồng để diễn đạt những suy nghĩ, những tư tưởng của minh: đầu rồng, đuôi tôm, vẽ
rồng điểm mắt, long bàn hổ cứ, mả táng hàm rồng, mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền
rồng, rồng đến nhà tôm, rồng bay phượng múa, rồng tranh hổ chọi, trứng rồng lại nở
ra rồng ...
Một số địa danh trên đất nước ta cũng gắn chặt với hình tượng rồng: Thăng
Long, Hạ Long, Hàm Rồng, Bạch Long Vĩ, Long Hải, Cửu Long Giang, Bái Tử Long
...
Nói tóm lại, xét ở nhiều góc độ, hình ảnh con rồng quả là đã ăn rất sâu, đã sống
rất lâu bền trong tâm thức người Việt. Đương nhiên, ở từng loại hình nghệ thuật, biểu
tượng cũng mang nhữns đặc trưng riêng biệt. Biểu tượng rồng trong ca dao- cũng
không phải là ngoại lệ. Trong ca dao có nhiều trường hợp ý nghĩa của biểu tượng rồng
không nhằm hướng đến tầng lớp vua chúa phong kiến, mà ngược lại, hướng đến tầng
lớp lao động bình dân.
Vào thời phong kiến, nhắc đến rồng là phải cẩn trọng để tránh xúc phạm đến nhà
vua, tránh bị khép vào tội coi thường uy quyền của triều đinh. Ở Trung Quốc, thời
Minh, có nghệ nhân chỉ vẽ tranh "Con sứa cưỡi rồng" mà đã bị nhà vua qui tội chết.
Thế mà trong sinh hoạt ca hát dân gian, nhiều câu hát trong đó người bình dân đã tự
so sánh, ví von minh với con vật tượng trưng cho quyền uy tối thượng đó. Các chàng
trai, cô gái đã dùng hình ảnh rồng để biểu thị cho những người lao động có phẩm chất
tốt đẹp. Qua xu hướng bình dân hóa biểu tượng này. có thể hiểu thêm nhiều về thế
giới quan, nhân sinh quan của người bình dân ngày trước.
- Anh nói với em sơn cùng thủy tận
Em nói với anh nguyệt khuyết sao băng
Đôi ta như rồng lượn trông trăng
Dầu mà xa nhau đi nữa cũng khăng khăng đợi chờ. (TL II (1) - tr.222)
Nếu như Rồng - Tiên đã từng được tôn là một cặp đôi vật tổ của người Việt Nam
thời xa xưa, thi trong ca dao, rồng - tiên trổ thành biểu tượng của lứa đôi xứng hợp:
- Mấy lâu vắng mặt đeo phiền
Bây giờ kháp (gặp) mặt bằng tiên kháp rồng (TL II (1) - tr.331)
Cần chú ý trong ca dao, bên cạnh biểu tượng rồng có nguồn gốc từ văn hóa dân
tộc, còn có một số biểu tượng cùng nhóm rồng được vay mượn từ các điển tích, điển
cố của Trung Quốc: rồng - mây, rồng - phụng, cá hóa rồng ... Có lẽ phải công bằng mà
nói rằng: nguồn gốc dân tộc của con rồng trong ca dao đã tạo điều kiện thuận lợi để
rồng - mây, rồng - phụng của Trung Quốc dễ dàng bén rễ, xanh cây trong tâm thức
người Việt Nam.
2.1.2. Biểu tượng trầu cau:
Cũng như rồng, trầu - cau là biểu tượng có nguồn gốc lâu đời từ trong nền văn
hóa dân tộc.
Ăn trầu là một tập tục có từ lâu đời của dân tộc ta cùng với tục nhuộm răng. Ở
Việt Nam, sử liệu cổ nhất cho đến nay có lẽ là những chiếc bình vôi và cối giã trầu,
khám phá thấy trong các cổ mộ ở Thanh Hóa. Những chiếc bình vôi ấy cố chiếc thuộc
đời Tống (Bắc Tống: 960 - 1127, Nam Tống: 1127 - 1280), có chiếc thuộc đời Minh
(1368 - 1644).
Niên kỷ những chiếc bình vôi này ứng với một sử liệu khác: sách "Văn hiến
thông khảo" chép: "Năm Thuần Hóa thứ nhất (990), vua Tống sai sứ sang phong cho
Lê Hoàn chức đặc tiến. Sứ thần là Tống Cảo thuật lại rằng "Lê Hoàn cầm cương ngựa,
với sứ giả cùng đi, rồi lấy trầu mời trên minh ngựa, đấy là tục mời khách rất quý ..."
[132, tr.117]. Câu chuyện này chứng tỏ thời ấy ở Việt Nam đã có tục ăn trầu, còn bên
Trung Hoa thi mãi đến thế kỷ XII, trong sách "Lĩnh Nam ngoại đáp" của Chu Khứ Phi
mới nói đến tục ăn trầu ở mấy tỉnh phía đông nam nước Tàu và Giao Chỉ [132, tr.117].
Theo Tạ Đức, với người Việt, rất có cơ sỏ để tin tục ăn trầu có từ thời vua Hùng. Tại
di chỉ Gò Mun (Vĩnh Phú), trung tâm của cố đô Văn Lang, các nhà khảo cổ đã tìm
thấy nhiều miếng cau khô có tuổi khoảng 3000 năm. Tục ăn trầu xa xưa như thế, nên
sức lan tỏa của nó cũng rất mạnh, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nhiều lĩnh vực của
văn hóa Việt Nam.
Ở Việt Nam có rất nhiều dân tộc ăn trầu:.Mường, Thái, Sơ-rê, Chăm, Co, La-ha,
Xinh-mun, Chơ-Ro, Xtiêng, Mơ-nông ...Đối với xã hội truyền thống của người Việt
xưa, miếng trầu là vật không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Tầng lớp nào trong
xã hội cũng ăn trầu, từ già đến trẻ, từ vua chúa đến dân thường, từ sang trọng đến hèn
mọn ... Nhất Thanh trong Đất lề quê thói nhận xét: "Năm sáu mươi năm trước đây,
đàn ông, đàn bà, người nào cũng nhai trầu, trừ trẻ nhỏ, có người nhai suốt ngày, tối lên
giường ngủ còn nhai" [152, tr.149]. Nối về tục ăn trầu ở Thăng Long vào thế kỷ XVII,
A. de Rhodes kể: "Người ta nói có tới năm mươi ngàn người bán buôn và bán lẻ ỏ
nhiều địa điểm trong thành phố. VI thế có thể kết luận là số người tới mua thi đông vô
lường" [156, tr.225].
Trầu sở dĩ được nhiều người ưa thích cũng vi nó có nhiều tác dụng: thơm ngon,
hạ khí, tiêu cơm, môi đỏ, má hồng tự nhiên, làm tôn thêm sắc đẹp.
Cũng như trà đạo của người Nhật Bản, tục ăn trầu của người Việt cũng đòi hỏi
lắm công phu. Dường như tất cả cái tình hoa của tục ăn trầu đã được kết đọng lại
trong cách têm ưầu. Têm trầu là cả một nghệ thuật. Khi mời trầu, miếng trầu không
chI gói gọn trong nó tình cảm nồng thắm mà còn thể hiện cái nết khéo tay hay mắt của
người têm. Trong các hội làng, bên cạnh trò thi nấu cơm, làm bánh, dệt cửi, còn có cả
thi têm trầu. Đọc truyện "Tấm Cám", mấy ai quên được miếng trầu cánh phượng của
nàng Tấm. Nhờ có chiếc giày, nàng Tấm được gặp nhà vua và trở thành hoàng hậu,
nhưng rồi nàng phải chịu nhiều lần chết đi sống lại do sự bức hại của mẹ con Cám.
Cuối cùng, nhờ miếng trầu têm khéo léo của Tấm, nhà vua và nàng đã tái hợp với
nhau.
Trong dân gian, một cơi trầu têm khéo có thể nói lên tài hoa của một cô gái," qua
đó, còn phần nào thấy được cả nề nếp giáo dục của gia đinh. Chỉ là têm một miếng
trầu mà dân gian đã tình tế sáng tạo ra rất nhiều kiểu dáng khác nhau: trầu cánh
phượng, trầu cánh kiếm, trầu mũi mác, trầu cánh quế, trầu cánh dơi, trầu miếng chả ...
Tùy hoàn cảnh, tình huống, miếng trầu được têm theo những cách khác nhau và ý
nghĩa tượng trưng của tông kiểu dáng cũng thật rõ ràng.
Trong mọi quan hệ giao tế của người Việt Nam, miếng trầu chiếm vị trí vô cùng
quan trọng, Tục ngữ ta có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Tiếp khách có thể
thiếu mọi thứ, nhưng nếu thiếu cả trầu cau thi quả là một điều bất đắc dĩ, một sự khó
chấp nhận. Người bình dân gặp nhau ngoài đường thường lấy miếng trầu để chào
nhau, để cho tình nghĩa láng giềng, xóm làng càng thêm thân thiết. Khi làm việc nơi
ruộng đồng, giữa giờ nghỉ ngơi, họ cùng ngồi lại với nhau, bày trầu ra ăn, rồi chuyện
trò, tâm sự.
Để đem biểu ai hay cầu xin một việc gi, miếng trầu lại càng không thể thiếu.
Muốn xin học chữ, phải có cơi trầu đến nhà thầy đồ. Muốn xin chữ để khắc lên cây xà
chính trong lễ thượng lương, phải có cơi trầu để đến mời bậc khoa bảng. Muốn xin
câu đối để thờ, phải có cơi trầu để nhờ những ông đồ văn hay chữ tốt. Cơi trầu là một
chiếc mâm đựng nhiều lễ vật, mà trầu cau là thứ quan trọng nhất. Dân lên gặp quan,
cũng phải có cơi trầu.
Trong bất cứ mâm cỗ cúng nào (thờ cúng thần, Phật, tổ tiên), bên cạnh các thứ
khác, bao giờ cũng có trầu cau. Sách Tìm hiểu phong tục Việt Nam của Toan Ánh trình
bày rất chi tiết các lễ cúng của người Việt Nam. Trong lễ cúng giao thừa, cúng thổ
công, cúng gia tiên, lễ động thổ, lễ thượng nguyên hay lễ rằm tháng giêng, lễ tết trung
nguyên ... đều có phẩm vật bắt buộc là trầu cau. Đây là loại lễ vật đơn sơ, tình khiết,
giản dị mà quý báu vô cùng.
Trong đời sống hàng ngày, miếng trầu còn là vật giao duyên. Nam nữ gặp nhau
thường mời trầu, thăm hỏi nhau để tạo nên ấn tượng tốt đẹp ban đầu. Đã nhận miếng
trầu của nhau thi nghĩa tình gắn bó "Miếng trầu ăn nặng bằng chI", cho nên cô gái đi
hái dâu gặp chàng trai "ngả nón đưa trầu cho ăn" thi khước từ mà đáp rằng: -
Thưa rằng: bác mẹ em răn:
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Trong hôn nhân, miếng trầu, quả cau là nền tảng. Tục ngữ có câu "Miếng trầu
nên dâu nhà người". Trong mâm cỗ cúng tơ hồng, vị thần của hôn nhân, bao giờ cũng
có buồng cau và tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp không, cuống lá trầu có
tươi không mà ước đoán rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không, có được bách niên giai
lão không.
Tục ăn trầu ở Việt Nam, theo ước đoán của các nhà nghiên cứu, có từ thời rất xa
xưa. Nhưng cho đến khi có truyện cổ tích Trầu cau, nó lại được khoác thêm một nét
đẹp văn hóa mới, một ý nghĩa mới. Các nhân vật trong câu chuyện thương tâm (người
anh, vợ người anh, người em) tuy chết đi, nhưng không mất hẳn. Chính tình thương
yêu đã giữ họ lại bên nhau. Họ cùng hóa thân trong miếng trầu thắm đỏ môi người,
nhắc nhở mọi người trong cuộc sống phải lấy nghĩa tình làm trọng.
Thật đúng như Đinh Gia Khánh có lần đã nhận định: "Ở Nhật Bản việc uống chè
đã được nâng lên thành sinh hoạt văn hóa tình tế và cầu kỳ gọi là "trà đạo". Nhưng
nếu như "trà đạo" là sinh hoạt văn hóa cao cấp chủ yếu thịnh hành trong các tầng lớp
trên ở Nhật Bản thi trầu cau lại hiện diện trong mọi sinh hoạt văn hóa của mọi tầng
lớp xã hội nước ta ngày trước" [75, tr.199], một nền văn hóa trầu cau đã được hình
thành trên đất nước ta. Tục ăn trầu, mời trầu, dùng trầu khiến cho trầu cau trỏ thành
hình ảnh quen thuộc, phổ biến đối với mọi tầng lớp người Việt Nam. Cùng với nhiều
nước có tục ăn trầu trong khu vực Đông Nam Á, người Việt đã nâng tục ăn trầu của
dân tộc minh lên thành một nét văn hóa đặc sắc. Tất cả những ý nghĩa sâu sắc được
biểu trưng bởi trầu cau đều là những giá trị tình thần truyền thống đẹp đẽ của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Trên nền tảng chung của văn hóa trầu cau, biểu tượng
trầu cau trong ca dao đã được hình thành và phát triển. Đây là biểu tượng xuất hiện
với tần số cao đặc biệt, được dân gian yêu thích và sử dụng để nhắc nhở, khơi gợi cho
mọi người hướng về một cuộc sống đạo lý, nghĩa tình, thủy chung son sắt:
- Miếng trầu ăn nặng bằng chI,
Ăn rồi em biết lấy gi đền ơn?
- Miếng trầu ăn nặng là bao,
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn. (TL I - tr. 1354)
2.1.3 Biểu tượng đôi đũa:
Từ tập quán dùng đũa lâu đời của dân tộc ta, đôi đũa trở thành biểu tượng thi ca
quen thuộc với người Việt Nam. Trần Ngọc Thêm nhận xét: "Trong khi người phương
Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm ít nhất là thia, đĩa, dao, mỗi thứ thực hiện một chức
năng riêng rẽ và chặt chẽ (sản phẩm của tư duy phân tích) thi đôi đũa của người Việt
Nam thực hiện một cách cực kỳ linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp và xé,
xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét và nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa!" [156, tr.232].
Đôi đũa từ rất lâu đà gắn bó với bữa ăn truyền thống của người Việt Nam, đến mức
được dân gian chọn lựa để đưa vào kho thi liệu của nền thơ ca bình dân.
Nếu không nhờ vào sự quan sát tình tế, có lẽ khó mà phát hiện được những khía
cạnh vừa độc đáo, vừa tương hợp lạ lùng với đời sống con người từ một sự vật giản
đơn, nhỏ bé, bình thường như đôi đũa.
Dân gian đã tìm thấy ở đôi đũa nhiều thuộc tính:
- UTính cặp đôiU: Đũa phải luôn luôn có đủ hai chiếc thi mới dùng được. Đây là
tính chất đặc biệt nổi bật của đôi đũa, cũng là nguyên nhân khiến cho đôi đũa thường
được dùng để nói về quan hệ lứa đôi, chồng vợ (quan sát các cặp biểu tượng sóng đôi
trong ca dao, ta thấy chúng thường được tạo nên do sự kết hợp của hai loại sự vật khác
nhau: hoa - bướm, thuyền - bến, chim phượng - ngô đồng, mận - đào riêng đôi đũa có
sự kết hợp gắn bó không rời giữa hai thực thể giống nhau như đúc thuộc cùng một loại
sự vật). Vào thời Lê, bẻ gãy đôi đũa là dấu hiệu của sự ly hôn.
- UTính cân bằngU: Đũa chẳng những phải có đôi, mà còn cần phải bằng nhau thi
mới dùng được. Đũa lệch, đũa so le, đũa vênh ... bị xem như thứ vô giá trị, đáng vứt
bỏ đi.
- UTính xứng hợpU: Trong bữa ăn, đũa được dọn chung với mâm, bát, chén, đĩa ...
Những thứ này đều phải tương xứng với nhau thi mới làm tôn giá trị của nhau lên: đũa
mốc không thể đi với mâm son, đũa ngọc phải đi với mâm vàng, bát bạc phải sánh với
đũa vàng ...
- UTính giai cấpU: Tự bản thân đôi đũa làm bằng chất liệu gi cũng góp phần phản
ánh giá trị cao sang hay nghèo hèn của nó: đũa tre, đũa mốc là đôi đũa của con nhà
nghèo khó, đũa ngà, đũa ngọc, đũa mun ... là đôi đũa của những gia đinh phong lưu
quý tộc.
Những thuộc tính trên của đôi đũa có nhiều điểm gần gũi với các quan niệm về
cuộc sống lứa đôi. Đôi đũa dường như đã gói gọn trong nó cả một triết lý về tình yêu,
hôn nhân: sự kết hợp của hai chiếc đũa giống như sự kết hợp của lứa đôi (tuy hai mà
một, tuy một mà hai), vợ chồng phải cân xứng với nhau về nhiều mặt thi mới có hạnh
phúc, giàu - nghèo, môn đăng hộ đối trong hôn nhân cũng là vấn đề cần chú ý đến ...
- Đôi ta như đũa trong kho,
Không tề không tiện, không so cũng bằng. (TL I-tr.864)
2.1.4. Biểu tượng cây đa:
Biểu tượng cây đa gắn liền với tục thờ Thành Hoàng ỏ mỗi làng thời xưa.
Thường thi làng nào cũng có thờ một vị thần để cầu mong vị thần này phù trợ cho dân
làng chống lại mọi điều không may (giặc giã, đói kém, bệnh tật, thiên tai ...) và đem
đến sự sung túc cho dân làng (thịnh người, thịnh của...). Vị thần này được thờ trong
các đinh, đền, miếu của làng. Trước các nơi này, thường có trồng cây đa. Đinh, miếu
là chốn thiêng liêng, cây đa nơi đó cũng trở thành thiêng liêng. Tục ngữ ta có câu "Sợ
thần, sợ cả cây đa" và "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề" là vi vậy. Tín ngưỡng
về cây đa còn có nguồn gốc sâu xa từ tục thờ cây, một biểu hiện của tín ngưỡng sùng-
bái tự nhiên: "Thực vật thi đước tôn sùng nhất là cây Lúa - dù là vùng người Việt hay
vùng các dân tộc - đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa ... Thứ đến là
các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu ..."
[156, tr.161]. Người trong làng có tục đem các bình vôi sau khi đã dùng hết đặt ở gốc
đa như một hình thức thờ cúng (người xưa gọi bình vôi là Ông bình vôi, cho rằng nếu
đem vứt các bình vôi đi thi gia đinh sẽ không được bình yên). Cây đa mọc um tùm,
nhiều bóng mát nên dưới gốc cây cũng lại thường có nhiều quán nước, nơi dân làng
gặp nhau và chuyện trò, trai gái gặp gỡ, hẹn hò, trao tình yểu cho nhau ... Qua tháng
năm, cây đa trỏ thành chứng nhân của biết bao kỷ niệm thiêng liêng đối với mỗi con
người. Từ sự gắn bó của cây đa với đời sống dân tộc như vậy, loại cây này đã trỏ
thành biểu tượng trong ca dao:
- Cây đa cũ, bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ. (TL I - tr.299)
2.1.5. Biểu tượng vuông - tròn:
Vuông - tròn cũng là cặp biểu tượng xuất hiện với tần số cao trong ca dao có
nguồn gốc từ triết lý âm dương. Đây là triết lý hình thành rất sớm tại các nước nông
nghiệp Nam Á, từ khi chưa có chữ viết. Mối quan tâm hàng đầu của những cư dân
nông nghiệp là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Hoa màu phát triển tốt
thi đời sống người dân được ấm no. Gia đinh con cháu đông đúc là một thuận lợi lớn
vi sẽ có nhiều nhân lực phục vụ cho nghề nông. Mà sự sinh sản của hoa màu thi do đất
và trời (đất sinh, trời dưỡng), sự sinh sản của con người cũng do hai yếu tố: cha và
mẹ, nữ và nam: "Hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: đất được đồng nhất
với mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp "mẹ cha" và "đất
trời" chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lý âm dương"
[156, tr.57]. Từ hai cặp đối lập gốc này, người ta dân dân suy ra vô sô những cặp đôi
lập khác, trong đó có vuông và tròn. Hình vuông thuộc âm (vi khối vuông ổn định,
vững chãi), còn hình tròn thuộc dương (vi có dạng khối cầu, dễ chuyển động). Hình
vuông còn có tỉ lệ giữa cạnh và chu vi là 1:4, số 4 chẩn là âm, còn hình tròn có tỉ lệ
giữa đường kính và chu vi là 1:3 (số 71), số 3 lẻ, thuộc dương. Nói tóm lại, vuông là
âm, tròn là dương. Có vuông, có tròn tức có âm có dương. Nói vuông - tròn là nói đến
sự hoàn thiện, hoàn mỹ.
Trong ca dao, khi muốn thể hiện ước mong về một cuộc sống hạnh phúc, một
tình yêu đẹp đẽ, dân gian thường nhắc đến biểu tượng vuông - tròn:
- Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng. (TL III - tr.413)
Nói tóm lại, các biểu tượng thuộc nhóm này đều có cái cốt lịch sử - văn hóa - xã
hội lâu đời. Mỗi biểu tượng là sự tập hợp của nhiều giá trị tình túy từ trong nền văn
hóa dân tộc. Được hình thành từ trong cõi thẳm sâu của cội nguồn dân tộc, của tâm
thức dân gian, các biểu tượng ấy chất chứa sâu đậm ưong chúng cả hồn quê, hồn
nước, có sức khơi gợi mạnh mẽ và âm vang dài lâu trong lòng người.
2.2.Những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc:
2.2.1. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam:
Đối với người Việt Nam, có lẽ không mấy ai là không biết về Truyện Kiều của
Nguyễn Dụ, về Lục Vân Tiên của Nguyễn Đinh Chiểu, và một số truyện thơ bình dân
như: Tống Trân - Cúc Hoa, Lưu Bình - Dương Lễ ... Đặc biệt, ảnh hưởng của Truyện
Kiều đối với văn học dân gian đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến, .cho thấy sức
phổ biến sâu rộng trong quảng đại quần chúng của tác phẩm này.
Các nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt
Nga, Lưu Bình, Dương Lễ, Châu Long, Cúc Hoa ... đã từ trang sách bước ra cuộc đời,
nhập thân vào những con người Việt Nam hồn hậu, trở thành những chàng trai, cô gái
rất cụ thể:
- Dầu ai gieo tiếng ngọc,
Dầu ai đọc lời vàng
Bông sen hết nhụy bông tàn,
Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga. (TL III - tr.244)
-... Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi.
(TLI-tr.1833)
Những nhân vật trên đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng chung thủy, của
cốt cách, phẩm hạnh Việt Nam. Cũng có lúc, lại được dùng để nói về những đôi lứa
phải sống xa cách, gặp bất trắc trong tình yêu:
- Hai ta như Kim Trọng, Thúy Kiều,
Đã lắm lúc đắng, còn nhiều lúc cay. (TL I - tr.1081)
2.2.2. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Trung Quốc:
Không chỉ bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam, một số biểu tượng còn có nguồn
gốc xa xôi hơn, đó là văn học cổ Trung Quốc. Nhiều biểu tượng thuộc nhóm này đã
trở nên rất gần gũi, quen thuộc với người Việt Nam. Nói đến tình yêu, người bình dân
Việt Nam đã thuộc nằm lòng những hình ảnh: dây tơ hồng, chỉ thắm, trăng già, ông
Tơ bà Nguyệt ... Nói đến sự xứng đôi vừa lứa thi có loan - phụng, rồng - mây, phượng
hoàng - ngô đồng ... Tình yêu trắc trở, xa cách, nhớ thương thi dùng chuyện Ngưu
Lang - Chức Nữ mà tượng trưng.
Văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc vốn có mối quan hệ lâu đời và mật
thiết. Mối quan hệ này phát sinh từ thực tế bang giao giữa hai đất nước đã có hơn hai
ngàn năm lịch sử. Trải qua hơn hai mươi thế kỷ, với nhiều thời kỳ lịch sử, mà đằng
đẵng nhất là thời Bắc thuộc, văn hóa Việt Nam đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của văn
hóa Trung Quốc. Phần lớn các khái niệm trừu tượng trong lĩnh vực nhận thức về tự
nhiên và xã hội của chúng ta, trong thời kỳ đầu, đều vay mượn ở tiếng Hán. Trong
tiếng Việt ngày nay, tuy có khá nhiều từ ngữ gốc từ tiếng Môn - Khơme, tiếng Thái,
tiếng Pháp, nhưng phần vay mượn ở tiếng Hán vẫn chiếm khối lượng lớn hơn cả. Về
chữ viết, trong một thời gian khá lâu, chúng ta đã sử dụng chữ Hán. Sau đó, người
Việt Nam mới dùng phương pháp hài âm và hội ý để sáng tạo ra chừ Nôm. Chúng ta
cũng đã vay mượn của Trung Quốc cái cách khắc bản gỗ để in sách, một phương pháp
khá thông dụng mãi cho đến đầu thế kỷ này. Và cuối cùng chúng ta còn vay mượn của
văn học cổ điển Trung Quốc khá nhiều: từ tư liệu, điển cố, điển tích văn chương cho
đến thể văn.
Trong bối cảnh lịch sử - xã hội như đã trình bày trên, nhiều điển tích, điển cố từ
trong văn học Trung Quốc đã đi vào văn học Việt Nam. Đối với các nhà trí thức thời
xưa, các điển tích, điển cố như: đào viên kết nghĩa, tái ông thất mã, tam cố thảo lư,
Trình nhi sát thiếp, Hàn Tín - Bành Việt, Chiêu quân cống Hồ, bảng vàng bia đá, ngựa
Hồ - chim Việt, Ngưu Lang'- Chức Nữ ... là vô cùng quen thuộc. Họ rất yêu thích, tâm
đắc các điển cố này, xem chúng như là những mẫu mực của cách diễn đạt giàu ý nghĩa
biểu hiện. VI vậy, đến lượt họ sáng tác, họ thường xuyên đưa vào trong văn chương
của minh các điển cố ấy. Cái hay của việc làm này chính là với một số từ ngữ rất ít, có
thể nhắc đến và gợi lại trong trí óc người đọc cả một câu chuyện, một sự việc, mà nếu
kể ra có khi phải viết đến hàng trang giấy mới xong. Cách làm này góp phần nâng cao
tính hàm súc của hình tượng văn học và ngôn ngữ dân tộc, nhưng cũng không phải là
không có những mặt hạn chế của nó.
Các điển cố được sử dụng rộng rãi trong văn học thời trước như là những văn
liệu, thi liệu. Trong lời nói đầu của tập sách Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh viết:
"Sách này giải thích những điển cố Hán học trong văn học viết bằng chữ Nôm, tức là
văn học thời trước mà sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, một số không nhỏ những
điển cố ấy lại được sử dụng cả ở những bồ phận khác của văn học Việt Nam, ỏ văn
học truyền miệng dân gian, ở văn học viết bằng chữ Hán thời xưa, cũng như văn học
viết bằng chữ quốc ngữ ngày nay" [73,tr.7]. Như vậy, trong cả ba bộ phận văn học
Việt Nam: văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm, văn học chữ Quốc ngữ, ở cả văn học
dân gian và văn học viết, các điển cố Trung Quốc đều có mặt. Từ trong văn học cổ
Trung Quốc, các điển cố này đi vào văn học Việt Nam, đầu tiên, có lẽ là ở bộ phận
văn học bằng chữ Hán, với lực lượng sáng tác thuộc tầng lớp trí thức. Sự am tường,
uyên bác về chữ Hán và văn học Trung Quốc khiến họ dễ dàng tiếp thu và sử dụng các
văn liệu này. Với văn học chữ Nôm, tình hình cũng tương tự. Các nhà trí thức sử dụng
chữ Nôm trong sáng tác văn thơ là một biểu hiện của tình thần xây dựng và bảo vệ
văn hóa dân tộc. Nhưng ngay cả khi đã có ý thức như vậy, họ vẫn không từ bỏ thói
quen đưa vào trong tác phẩm của minh những văn liệu đã được khai sinh từ nền văn
hóa ấy. Còn với văn học dân gian, có lẽ đây là bộ phận văn học sau cùng có sự thâm
nhập của các điển cố. Ở đây, phải kể đến công lao của các nho sĩ bình dân, lực lượng
đã tham gia tích cực vào việc sáng tác nên các tác phẩm truyền miệng dân gian, đặc
biệt là ca dao. Phải chăng họ là những người đầu tiên đã đưa các văn liệu của nền văn
chương bác học vào trong dòng văn học bình dân? (xem thêm [70,tr.25])
Bên cạnh đó, còn phải kể đến một số truyện thơ Nôm hay được đông đảo quần
chúng nhân dân biết đến và yêu thích: Truyện Kiều, Phan - Trần, Phạm Tải - Ngọc
Hoa, Nhị Độ Mai, Trình thử, Bích câu kỳ ngộ ... Khi ngâm ngợi những tác phẩm này,
người bình dân cũng làm quen và thưởng thức luôn cả những điển cố Trung Quốc
được sử dụng rất nhiều trong đó. Dần dà, họ cảm thấy quen thuộc và đến lượt minh,
trong các sinh hoạt ca hát dân gian, họ đã đưa chúng vào trong ứng tác. Nổi bật ở đây,
phải nhắc đến tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du với tần số xuất hiện các điển cố
rất cao. Hầu khắp các tập tự điển về điển cố, về văn liệu đều trích dẫn rất nhiều ví dụ
sử dụng điển cố trong văn học Việt Nam từ tác phẩm của nhà đại thi hào dân tộc này.
Tuy nhiên, không phải tất cả các điển cố khi sử dụng trong văn học dân tộc đều
trở thành biểu tượng. Chỉ một số được sử dụng phổ biến nhất, xuất hiện với tần số
cao, mang ý nghĩa ổn định mới trở thành biểu tượng. Trong phạm vi nghiên cứu biểu
tượng trong ca dao, chúng tôi đặc biệt chú ý đến các điển cố có mặt thường xuyên
trong các bài ca, mang những nội dung ý nghĩa và giá trị nghệ thuật nhất định.
Về quá trình hình thành các điển cố - biểu tượng này, có lẽ cũng khó mà lý giải
và xác định được một điển cố đã trở thành biểu tượng từ khi nào: từ trong văn học cổ
Trung Quốc, văn học chữ Hán Việt Nam, văn học chữ Nôm, hay văn học truyền
miệng dân gian? Chỉ biết rằng ca dao của dân tộc ta đã tiếp nhận nhiều điển cố Trung
Quốc và trong nhiều trường hợp, đã sử dụng chúng như là những biểu tượng nghệ
thuật. Các biểu tượng này mang những ý nghĩa đặc biệt nhất định trong tâm thức,
trong sự cảm thụ văn học của người Việt Nam.
Cùng là tiếp nhận, vay mượn các điển cố của văn học Trung Quốc, nhưng văn
chương bác học và văn chương bình dân nước ta có những khuynh hướng khác nhau.
Dòng văn học chữ Hán thời xưa chú ý nhiều đến những mẫu mực văn chương thể hiện
các phẩm chất trung, hiếu, tiết, nghĩa của người quân tử, ít chú ý đến những điển cố
thể hiện tình yêu lứa đôi. Còn ca dao của người bình dân thi ngược lại. Ca dao - dân
ca là những sáng tác trữ tình tập trung vào việc thể hiện thế giới tình cảm con người,
trong đó, tình cảm gia đinh, tình yêu lứa đôi là khía cạnh được chú ý hơn cả. Chế độ
phong kiến với những ràng buộc đạo lý khắt khe kiềm chế, ngăn cấm tự do nam nữ
trong tình yêu bao nhiêu thi ca dao đề cao tình cảm tự nhiên bấy nhiêu. Các điển cố -
biểu tượng trong ca dao vi vậy, phần lớn là thể hiện tình yêu: ông Tơ - bà Nguyệt,
loan-phụng, rồng-mây, phượng hoàng-ngô đồng, Châu-Trần, Ngưu Lang-Chức Nữ,
tơ" hồng, liễu Chương Đài, cầu Ô Thước, sông Ngân, ...
2.2.2.1.Biểu tượng chỉ hồng:
Về xuất xứ của biểu tượng này, Ngữ liệu văn học của Đặng Đức Siêu viết: Vi Cố
người đời Đường đi dạo gặp một cụ già ngồi đọc sách dưới trăng (Nguyệt lão), bên
cạnh cái túi lớn đựng đầy những sợi dây nhỏ màu đỏ (xích thằng). Cụ già nói cuốn
sách ấy ghi việc hôn nhân và những sợi dây đỏ dùng để buộc chân các đôi nam nữ sẽ
thành vợ chồng. Dù hai bên có oán thù hay ở xa nhau nhưng đã lấy dây đỏ buộc chân
lại thi thế tất phải lấy nhau [137, tr.95]. Trong một tài liệu khác, câu chuyện còn có
thêm đoạn sau: Một hôm Vi cố vào chợ gặp bà già chột mắt ấm đứa bé lên ba đi qua.
ông lão bảo đứa bé ấy sẽ là vợ chàng. Vi cố giận, bảo đầy tớ tìm giết đứa bé đó. Nhiều
năm sau chàng lấy vợ, thật lạ lùng, khi gạn hỏi, chàng mới biết vợ chàng chính là đứa
bé năm xưa, vết dao đâm giữa chân mày bây giờ được đính trang điểm một đoa hoa
vàng. Vi cố kể lại việc trước cho vợ nghe. Hai người càng kính yếu nhau bội phần [41,
tr.693]. Xuất xứ thứ hai của biểu tượng chỉ hồng là: Quách Nguyên Chấn đời Đường
xin hỏi con gái quan tể tướng Trương Gia Trình. Vị này có năm người con gái. Ông
cho cả năm cô đứng sau một tấm màn, mỗi cô cầm một sợi chỉ tơ màu đỏ (hồng ti),
một đầu sợi chỉ để chia ra ngoài màn rồi bảo Quách Nguyên Chấn chọn lấy một sợi
mà kéo. Họ Quách làm theo, được cô em thứ ba xỉnh đẹp nhất [137, tr.95].
Từ hai câu chuyện trên đã hình thành nên một số hình ảnh được người Việt sử
dụng trong cách nói năng quen thuộc của minh:
- Chỉ hồng (xích thằng, hồng ti): biểu tượng cho việc hôn nhân, thường có các
biến thể như: tơ hồng, dây tơ (hồng), chỉ hồng, chỉ hường, chỉ đào, chỉ thắm, chỉ vàng
...
- Trăng già (Nguyệt lão): biểu tượng cho người định đoạt chuyện hôn nhân, biểu
tượng cho định mệnh, thường có các biến thể như ông Tơ, ông Nguyệt, ông Tơ - bà
Nguyệt...
Theo nguyên tắc cân đối, hài hoa âm - dương, biểu tượng Nguyệt lão của Trung
Quốc khi vào Việt Nam đã được Việt hóa thành ông Tơ - bà Nguyệt. Đây là đối tượng
để những người đang yêu thở than, trách móc, nhiều khi họ có thái độ phản ứng quyết
liệt để giải tỏa những ấm ức trong lòng:
- Oanh ông Tơ cái trót,
Ông nhảy thót lên ngọn trâm bầu,
Ông xe đâu đó, sao chỗ nghèo ông không xe? (TL III - tr. 351)
2.2.2.2.Biểu tượng Ngưu Lang- Chức Nữ:
Người bình dân Việt Nam cũng rất quen thuộc với những tên gọi: ả Chức (hay
Chức Nữ), chàng Ngưu (hay Ngưu Lang), cầu Ô Thước (hay cầu Ô), sông Ngân Hà
(hay sông Ngân), vợ chồng Ngầu ... đò cũng là những biểu tượng xuất phát từ câu
chuyện tình cảm động giữa một người con gái tên Chức Nữ, và một người con trai tên
Ngưu Lang. Truyện kể rằng: Phía đông Thiên Hà có Chức Nữ là con của Thiên đế,
năm năm lo việc dệt cửi, dệt thành những vân cẩm thiên y. Thiên đế thương cảnh nàng
cô đơn bèn gả cho Khiên Ngưu là chàng chăn trâu ở phía tây Thiên Hà. Từ đó, Chức
Nữ bỏ việc dệt cửi. Thiên đế nổi giận, bắt buộc Chức Nữ phải về lại bên phía đông,
chỉ cho phép một nám được một lần gặp nhau vào đêm thất tịch (đêm mồng bảy tháng
bảy). Tương truyền có chim Ô Thước làm cầu cho Chức Nữ sang sông gặp Ngưu
Lang" [41, tr.224]. Họ gặp nhau, thở than, khóc lóc, nên đêm ấy thường có gió mưa rả
rích, người đời gọi là mưa ngầu.
Trong ca dao, Ngưu -Chức trở thành biểu tượng của tình yêu trong xa cách, nhớ
thướng, cầu ô là hình ảnh của sự gặp gỡ, nối kết tình yêu:
- Ai làm Ngưu Chức đôi đàng,
Để cho quân tử đa mang nặng tình. (TL I - tr. 65)
- Hồi xưa ai biết ai đâu,
Bởi con chim Ô Thước bắc cầu sông Ngân. (TL I - tr.l 114)
2.2.2.3.Biểu tượng loan – phượng:
Về biểu tượng loan -phượng (hay loan - phụng), thư tịch cổ Trung Quốc cho
rằng đây là giống chim quí hiếm, lại bay với nhau thành đôi. Phượng (còn gọi là
phượng hoàng) là giống chim báo điềm lành, xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Theo
Kinh Thư: "Tiêu thiều cửu thành, phượng hoàng lai nghi" (Nhạc thiều tấu xong chín
lần thi chim phượng hoàng bay đến, rất có dung nghi). Khổng truyện chép "Hùng viết
phượng, thư viết hoàng" (con đực gọi là phượng, con cái gọi là hoàng). Loan - người
xưa cho là cũng thuộc giống chim phượng, lông có năm sắc mà trội về sắc xanh.
Văn học cổ thường dùng loan, phượng để chỉ người anh tài hay tình vợ chồng
hòa hợp. Tiếng Hán có câu: "Loan tương phượng tập" chỉ việc các hiền tài tụ họp, câu
"Loan tiêu phượng bạc" chỉ cảnh vợ chồng ly tán. Trong hai nét nghĩa này, ca dao của
người Việt chú ý nhiều hơn đến nét nghĩa thứ hai. Một số các loài chim có đặc tính
thường bay đôi với nhau đã được người xưa dùng để ví von với tình vợ chồng: loan -
phượng, phượng - hoàng, uyên- thúy, uyên - ương ... Trong số này, có lẽ hình ảnh
chim loan - phượng đi vào ca dao Việt Nam nhiều hơn cả, phải chăng vi chúng quí,
hiếm, báo điềm lành và chim phượng là một trong bộ tứ linh (long, lân, quy, phượng)
từ lâu đã được nhân dân ta yêu mến, coi đó là một con vật thiêng liêng? Dùng loan -
phượng để biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân, vợ chồng vừa đẹp, trang trọng, phù hợp
với thị hiếu thẩm mỹ của dân tộc ta, lại vừa thể hiện được tình cảm bền chặt, sắt son.
- Thân anh như con phụng lạc bầy,
Thấy em lẻ bạn, anh muốn gầy duyên loan. (TL III - tr.376)
Hàng loạt từ ngữ trong ca dao được mỹ hóa gắn rất chặt với hình ảnh loan-
phượng: chăn loan, gối loan, màn loan, trướng loan, chiếu loan, giường loan, phòng
loan, buồng loan, thuyền loan, bạn loan, gót loan, xe loan, gối phượng, chiếu phượng
... cho thấy biểu tượng loan - phượng đã có một sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhu cầu
biểu hiện tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta. Có lẽ vi chim loan được quan niệm là
loài chim mái nên những sự vật nào gắn với người phụ nữ thường được dùng kèm với
chữ loan.
2.2.2.4. Biểu tượng nhạn – én:
Én nhạn rẽ nhau, tin nhạn cũng là những biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ
Trung Quốc. Chim én mùa xuân đến, mùa thu đi. Chim nhạn thi ngược lại. Hoàn cảnh
én và nhạn giống như cảnh vợ chồng mỗi người một ngả, kẻ nam, người bắc. Trong ca
dao, én - nhạn thường được dùng sóng đôi biểu thị cho cảnh lứa đôi xa cách, nhớ
thương:
- Nhạn về biển bắc nhạn ôi,
Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông? (TLI - tr. 1638)
Hình ảnh mượn nhạn đưa thư được sử dụng trong ca dao khi các chàng trai, cô
gái mong ngóng người yêu, xuất phát từ điển tích: Năm Thiên Hán - niên hiệu Hán Vũ
Đế năm đầu (100 năm trước CN), Tô Vũ đi sứ Hung Nô, vi không chịu hàng phục nên
bị chúa Hung Nô đày đi chăn dê ở Bắc Hải, nơi xa xôi, thiếu thốn mọi bề. Ròng rã
mười chín năm trời, Tô Vũ vẫn giữ một lòng trung với nước. Đến đời Hán Chiêu Đế,
Hung - Hán hòa thân với nhau. Vua Hán mới sai sứ sang xin cho Tô Vũ về. Chúa
Hung Nô nói dối Tô Vũ đã chết. Vua Hán không tin, lại cho sứ sang lần nữa. Lần này
Thường Huệ lập kế, dặn sứ giả nói với chúa Hung Nô rằng: Vua Hán đi săn vừa bắn
được một con chim nhạn, chân có buộc lá thư nói rõ Tô Vũ hiện vẫn còn sống. Chúa
Hung Nô kinh ngạc, tưởng thật, đành trả cho Tô Vũ về Hán. Chim nhạn từ đó được
dùng để chỉ tin tức [41, tr.947].
Hình ảnh chim nhạn đưa thư đã trở thành phổ biến trong thi ca bình dân, biểu thị
cho tin tức của người yêu:
- Đã cam quấn quýt má đào,
Những mong chim nhạn mai trao chỉn (chỉ) hồng.
(TL 11(1)-tr. 272)
Chim nhạn được hiểu như sứ giả tình yêu, là chiếc cầu tưởng tượng nối tình cảm
của những lứa đôi: - Nhạn ơi, trăm sự nhờ mày,
Gửi thư đem tới tận tay cho chàng. (TL I - tr. 2221)
2.2.2.5.
Biểu tượng Châu - Trần:
Châu - Trần là tên của hai họ thời xưa ở Trung Quốc đời đời kết làm thông gia
với nhau, đã trở thành biểu tượng cho việc kết duyên vợ chồng trong ca dao. Thơ
Bạch Cư Dị có câu: "Từ Châu cổ Phong huyện, hữu thôn viết Châu - Trần. Nhất thôn
dụy lưỡng tính, thế thế vị hôn nhân" (xưa huyện Phong Từ Châu, có thôn gọi là Châu
Trần, một thôn chỉ hai họ, đời đời gả cho nhau). Châu Trần thường được dùng để chỉ
tình nghĩa sắn bó, thủy chung:
- Minh đừng ham phú phụ bần,
Tiền tài ăn hết, nghĩa Châu - Trần còn thương. (TL I - tr. 1360)
2.2.2.6.Biểu tượng Tấn- Tần:
Tấn, Tần là tên hai nước thời Xuân Thu ở Trung Quốc. Theo Tả truyện, Huệ
Công nước Tấn phụ ước nước Tần, bị nước Tần đánh bắt được, đem thái tử Ngữ gửi
làm con tin ở nước Tần. Mục Công ở nước Tần gả con gái là Hoài Danh cho thái tử
Ngữ. Từ đó, năm đời liền con cháu hai họ cưới gả cho nhau, đối xử hòa thuận. Tấn -
Tần là biểu tượng của nhân duyên đẹp đẽ, nồng thắm:
- Nghe anh phân, gan ruột như dần,
Đành nào chia rẽ Tấn Tần.
Sống dương gian em chẳng đặng gần
Thà em liều thác một lần cho an. (TL I - tr. 1548)
Sách Từ ngữ điển cố văn học còn chú thích thêm một cách hiểu thứ hai về điển
cố này: "Tấn ở vào kim vực miền nam tỉnh Sơn Tây đến miền nam tĩnh Hà Bắc; Tần ở
miền Trường An tỉnh Thiểm Tây. Như vậy, Tấn ở phía đông, Tần ở phía tây. Tấn -
Tần chỉ sự xa cách nhau, mỗi người một ngả" [41, tr.859]. Chúng tôi nhận thấy rằng
ca dao vẫn thiên về cách hiểu thứ nhất nhiều hơn.
2.2.2.7.Biểu tượng đào thơ:
Văn học cổ thường dùng các loài cây, hoa đẹp để ví với người con gái: lê, lan,
huệ, trà mi, mẫu đơn, hải đường, phù dụng, đào, liễu ... trong số này, hình ảnh cây đào
đi vào ca dao ta nhiều hơn cả. Có khi là đào non, đào tơ, đào thơ, có khi là đào yêu
(hay yêu đào), đào hoa ...
Biểu tượng này có nguồn gốc từ một bài thơ trong Kinh Thi tên là Đào yêu. Bài
thơ gồm ba chương nói về việc người con gái đến tuổi lấy chồng, trong có đoạn: "Đào
chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân" (Cây đào mơn mởn,
cành lá rườm rà, gái về nhà chồng, hoa thuận trong nhà). Các áng thơ văn cổ thường
dùng các từ đào non, đào yêu, đào thơ... để chỉ người con gái đến tuổi lấy chồng.
Cùng với bài thơ này, có lẽ hình ảnh rừng hoa đào thơ mộng trong câu chuyện về
động Đào Nguyên, hoa đào trong bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ "Đào hoa y cựu tiếu
đông phong" đã để lại trong tâm hồn người Việt Nam một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp
của hoa đào. Đến với văn hóa Việt Nam, "đào yêu" còn được tiếp nhận nồng nhiệt bởi
sự tương cảm trong nền văn hóa giữa hai dân tộc. Người Việt Nam cũng rất ưa chuộng
hoa đào, ngày Tết cổ truyền miền Bắc không thể vắng bóng hoa đào. Bông hoa có
màu sắc phơn phớt hồng, gợi sự thanh tân, tươi trẻ, duyên dáng đáng yêu.
- Từ ngày vắng khách đào thơ,
Chiếu đắp nửa chiếu, chăn chờ nửa chăn. (TL I - tr. 1979)
2.2.2.8. Biểu tượng liễu:
Đi đôi với đào là liễu. Liễu có khi được dùng riêng lẻ, có khi được dùng chung
trong kết hợp liễu - đào, đào thơ - liễu yếu để chỉ người con gái với thân phận yếu ớt,
muốn được nương tựa, chở che. Cũng có khi đào - liễu được dùng như một cặp biểu
tượng sóng đôi biểu thị cho đôi lứa. Liễu là thứ cây yếu ớt, ẻo lả, đến mùa thu thi rụng
héo nên các nhà văn thường ví với người con gái. Trong văn học cổ Trung Quốc còn
có điển tích về liễu Chương Đài: Hàn Hoành người đời Đường, kết duyên với người
con gái ở phố Chương Đài trong thành Trường An tên là Liễu Thị. Họ Hàn về quê
thăm nhà, để Liễu Thị ở lại Trường An. Không may kinh đô có biến, Liễu Thị bị
tướng giặc cướp mất. Khi loạn được dẹp yên, Hàn, Hoành cho người đem vàng bạc và
bài thơ "Chương Đài liễu" để dò thăm Liễu Thị. Liễu Thi đề thơ trả lời. về sau, họ
được đoàn tụ với nhau [41, tr.563]. Liễu Chương Đài là hình ảnh người con gái trong
xa cách, nhổ thương. Với ca dao, liễu, liễu Chương Đài đều là những tín hiệu thẩm mỹ
dùng để biểu thị cho người phụ nữ trong tình yêu:
- ...Ai về nhắn liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay ... (TL I - tr.791)
- Ra về dặn liễu, liễu ơi
Liễu đừng tơ tưởng những nơi phong trần. (TL 11(1) - tr. 383)
2.2.2.9. Biểu tượng đào- mận:
Đào - mận là cặp biểu tượng có quá trình tái tạo nghĩa khá lý thú khi đi vào ca
dao. Trong thư tịch cổ Trung Quốc, đào - mận liên quan đến hai điển cố sau:
1) Tục Thông chí viết : Địch Nhân Kiệt thường lo tiến cử những người hiền tài
trong thiên hạ ra giúp việc nước. Trong số đó, có những người trở thành danh thần
như Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Kính Huy, Diêu Sùng ... VI vậy, có người
bảo Nhân Kiệt rằng: "Thiên hạ đào lý tất tại công môn" (Người hiền tài trong thiên hạ
đều ở cửa nhà ngài). VI vậy, người đời gọi kẻ sĩ được tiến cử là đào lý cốt gốc ỏ đây.
Từ điển này mà có các từ đào lý , cửa mận tường .đào, tường đào ngõ mận ... [41,
tr.310]
2) Kinh thi có câu: "Đào ngã dĩ đào, báo chi dĩ lý" (Ném cho ta quả đào, báo lại
ta cho quả mận) [41, tr.397], ý nói quà biểu tặng có đi có lại, tình nghĩa báo đền trong
quan hệ nam nữ. Từ đây ta có các từ: gieo đào trả lý, gieo đào trả mận, trả mận gieo
đào ...
Xét ở điển cố thứ nhất, văn thơ Nôm của ta cũng đã sử dụng điển này với nét
nghĩa vừa nêu:
- Đến trường đào mận ngặt chẳng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông. (Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập)
- Sân đào lý mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)
Trường đào mận, sân đào lý, ... đều được dùng để chỉ chung chốn quan trường.
Đào - lý là biểu tượng của kẻ hiền tài, công thành danh toại.
Trong ca dao, khi nói đến mận - đào, người ta chỉ nghĩ đến hình ảnh của đôi lứa
trong tình yêu. Rõ ràng ở đây đã có sự thay đổi về cách dùng điển cố, Từ chỗ đào -
mận biểu thị cho kẻ hiền tài, chuyển sang, biểu thị cho những chàng trai, cô gái quê
mùa, chân chất trong tình yêu. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người bình dân xưa, nếu
như đã có nhiều lúc họ tự xứng minh là rồng, phượng, trúc, mai sinh hoạt thi dùng
những đũa ngà, mâm son, chiếu gấm, màn là, thuyền rồng ... thi việc họ tự cho minh
là mận, là đào (ngang với người hiền tài) cũng không có gi là quá đáng, đặc biệt là
ưong thế giới tình yêu, nơi mà họ có nhu cầu được nâng minh lên cho xứng đáng,
trang trọng cùng với người yêu, cũng là nơi họ có thể sống với những mơ mộng và
tưởng tượng đẹp đẽ của minh.
Theo điển thứ hai, gieo đào trả mận chỉ quan hệ tình cảm nam nữ. Đào -mận
được đặt trong vị trí ngang bằng, tương xứng (về vật thể lẫn về tình cảm). Người gieo
mận, người trả đào là hai kẻ có tình cảm với nhau. VI vậy, ca dao đã mượn hai vật thể
đó để làm biểu tượng cho lứa đôi.
Tuy nhiên cũng cần chú ý một cách hiểu hơi khác với cách trên. Từ điển văn liệu
có ghi: "Trả mận gieo đào" do câu: "Đầu đào báo lý". Tục bên Trung Quốc trai gái
hay dùng mận đào tặng nhau làm quen. Nghĩa bóng nói sự đi lại giao tình của trai gái,
cũng như "gió sở mây Tần" hay "mây mưa".
- Lẽ rồi khôn biết làm sao,
Chứ con trả mận, gieo đào với ai? (Quan Âm Thị Kính)" [99, tr.458] Cách hiểu
này cũng được thể hiện trong ca dao, nhưng chiếm số ít, không phổ biến:
- Anh nguyền thưởng bậu một dao,
Răn người lòng mận, dạ đào líu lăng. (TLI - tr. 138)
Đa số các bài ca dao của ta dùng mận - đào với nét nghĩa khác: lứa đôi tự xưng
minh là mận, đào có quan hệ tình cảm trong sáng, thanh cao:
- Muốn cho đào mận vợ chồng,
Đào yêu, mận nhớ não nùng thương thay. (TL II (1) - tr.351)
- Đám cỏ héo gặp trộ (trận) mưa ráp,
Duyên ba sinh kỳ ngộ, mận với đào gặp nhau. (TL II (1) - tr271)
Như vậy, từ cách hiểu ban đầu về mận - đào trong văn học Trung Quốc đến cách
hiểu về mận - đào trong ca đao quả là đã có những thay đổi đáng kể. So sánh với văn
chương bác học ở ta, cũng thấy hai cách dùng điển khác nhau. Một bên rập khuôn
theo nghĩa gốc. Một bên đã có sự tái tạo, sáng tạo. Phải chăng biểu tượng mận - đào
trong ca dao bên cạnh nguồn gốc vay mượn còn có xuất phát điểm từ những quan sát
về thế giới tự nhiên quen thuộc của người Việt?
Trong một bài viết về ẩn dụ ca dao, Hà Quang Năng cho rằng :" Để nói về tình
yêu nam nữ và điều tế nhị nhất trong đó là việc tỏ tình, dân gian đã chọn đào mận. Đó
là hai loại cây thường nở hoa vào mùa xuân -mùa đẹp nhất trong năm, mùa của hội hè,
của lễ tết, mùa của những cuộc gặp gỡ, hẹn hò và nên duyên của những đôi trai tài, gái
sắc nhân dịp các lễ hội.Vậy có gi đẹp hơn, hợp lỵ hơn là lấy mận đào, vườn hồng để tỏ
tình, để nói về hạnh phúc lứa đôi" [102,tr.9].
2.2.2.10. Biểu tượng trúc- mai:
Trong văn học cổ Trung Quốc, trúc và mai là hai loại cây phổ biến, hợp với
tùng, tạo thành một bộ ba gọi là "tuế hàn tam hữu". Ba thứ cây này thường được trồng
hoặc vẽ quanh nơi ỏ, tượng trưng cho đức tính cao thượng, trong sạch, giữ gin khí tiết
của người quân tử, bởi vi trong ngày đông, tháng giá, khi các loại cây khác đều rụng
lá, khô cằn, tàn tạ, thi tùng, trúc vẫn xanh tươi, còn mai thi lại nở hoa.
Riêng cây trúc và cây mai thường được trồng hoặc vẽ xen nhau, cho nên còn
được dùng để chỉ tình bạn cao khiết, khăng khít. Tiếng Hán có chữ "thanh mai trúc
mã" để chỉ sự gần gũi, quấn quýt nhau giữa con trai, con gái thuở còn bé.
Trúc, mai được người xưa biết đến nhiều qua các điển cố quen thuộc: trúc Tưởng
Hủ, mai Lâm Bô, quân tử trúc, tam hữu ... Nếu như trúc mai có mặt trong bộ "tam
hữu" thi chúng cũng lại có mặt trong bộ "tứ quý": mai, lan, cúc, trúc, cho thấy sự yêu
mến của người xưa hướng về hai loại cây này.
Cần chú ý có đến hai loại mai:
a) Một thứ cũng cùng loại tre như trúc, ở vùng thượng dụ Bắc Việt, nhưng to và
cứng, thân rất thẳng, nên hay dùng làm cột buồm.
b) Một thứ cây như cây mơ, hoa nhỏ trắng (cũng có thứ hoa đỏ: hồng mai). Hoa
nỏ cuối mùa đông giá lạnh. [99, tr.468]
Nhưng dù là loại nào, cây mai (trúc) hay cây mai (hoa) đều vẫn thường được
văn chương bác học sử dụng làm biểu tượng cho người quân tử cùng với cây trúc.
Ở Việt Nam dưới triều Nguyên, để tỏ lòng trọng kẻ sĩ, sau mỗi khoa thi đinh,
triều đinh mời các vị tân khoa vào vườn Thượng Uyển, mỗi vị sẽ hái một bông hoa để
triều đinh thêu lên mũ. Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925) đã chọn một hoa mai. Có ý
kiến cho rằng cũng từ đó ông lấy bứt danh là Mai Sơn. Còn Cao Bá Quát (1808-1855)
thi tuyên bố "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (Một đời ta chỉ chịu cúi thấp đầu trước
hoa mai).
Bông hoa mai trong tâm tưởng của các nhà nho xưa thật đẹp đẽ và ý vị. Họ đã
không ít lần đưa mai, trúc vào thơ để tỏ bày tâm sự của minh:
- Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng
Mai Lẫm Bô đâm được câu thần. (Nguyễn Trãi)
Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán, cũng dùng trúc, mai với nét nghĩa trên. Nhưng
trong Truyện Kiều, ông lại dùng trúc, mai để tượng trưng cho đôi bạn tình, một cách
dùng rất gần gũi với văn chương bình dân:
- Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông. (Truyện Kiều)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính đã rất tình tế khi nhận xét: "Tác giả dân gian
không mấy khi tả thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc đến "mai", "trúc" là nhằm để thể
hiện con người. Hiện tượng này có mặt giống với thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Khuyến. Nhưng còn mặt khác biệt rất rõ là con người trong ca dao
không phải là Tưởng Hủ, Lâm Bô nói riêng, những trí thức phong kiến nói chung như
các tác giả văn học viết đã thể hiện" [81, ÍT. 191]. Mai, trúc trong ca dao được dùng
để chỉ những chàng trai, cô gái trong tình yêu. Có khi trúc được dùng một minh để chỉ
người con gái xinh xắn:
- Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh. (TL I - tr.2280)
Có khi trúc - mai được dùng sóng đôi để biểu hiện tình cảm lứa đôi thắm thiết.
Nam thanh, nữ tú tự xưng minh là trúc, mai:
- Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngán,
Mai trở về, mai nhớ trúc chăng? (TL I - tr.2280)
- Trúc xa mai thi hoài lứa trúc
Anh hỏi mai rằng đã có nơi mô nương tựa hay chưa? ... (TL I - tr.2280)
Nói tóm lại, nguồn gốc của biểu tượng mai - trúc trong ca dao là bắt nguồn từ
các điển cố Trung Quốc, tuy nhiên, dân gian 'đã sử dụng chúng với những nét nghĩa
khác so với ý nghĩa ban đầu. Với biểu tượng trúc - mai và các biểu tượng khác tương
tự trong ca dao, ta có điều kiện để hiểu rõ hơn về quá trình dân tộc hóa, dân gian hóa
những yếu tố văn học vay mượn từ nước ngoài.
2.2.2.11. Biểu tượng rồng - mây:
Biểu tượng rồng mây trong ca dao bắt nguồn từ câu "Vân tòng long, phong tòng
hổ" (mây theo rồng, gió theo hổ) trong Kinh dịch, biểu thị cho việc gặp thời cơ thuận
lợi, có thể thỏa sức bay nhảy, tung hoành như rồng mây gặp nhau, hổ gió gặp nhau (hổ
nhảy, vồ, chạy ... thuận gió như được chắp cánh). Những vật cùng khí loại thường
cảm ứng mà tìm đến nhau. Lời sổ của Khổng Đĩnh Đạc (Đường) nói: "Mây theo rồng,
gió theo hổ là bởi tại rồng là vật do nước nuôi nên, mây là khí nước, vi lẽ đó rồng gầm
thi mây lành xuất hiện. Thế là mây theo rồng vậy. Hổ là loài mãnh thú, gió là khí chấn
động. Đó là sự tương cảm của vật đồng loại cho nên hổ gầm thi gió nổi. Thế là gió
theo hổ" [41, tr.466].
Văn học cổ Việt Nam đã sử dụng điển cố này rất nhiều với các tên gọi quen
thuộc: hội rồng mây. hội mây rồng, hội gió mây, hội long vân ... để chỉ khi vua tôi gặp
nhau, khi thi đậu, khi gặp may mắn, công danh hiển đạt ..., nói chung là chỉ việc gặp
thời cơ tốt có liên quan đến công danh, sự nghiệp. Với chế độ học hành, thi cử và tiến
thân bằng con đường hoạn lộ như thời xưa thi việc sử dụng phổ biến điển cố này cũng
là điều dễ hiểu. Muốn tiến thân không chỉ cần sôi kinh nấu sử ngày đêm, mà còn cần
phải gặp được thời cơ thuận lợi (Thiên thời, địa lợi, nhân hòa). VI vậy, trong văn
chương, khi bàn đến chuyện lập thân của đấng nam nhi, nhiều tác giả đã nhắc đến "hội
rồng mây".
- Duyên ngư thủy, hội long vân còn đó,
Miếng đỉnh chung cho biết mùi đời. (Nguyễn Công Trứ)
Trong ca dao, rồng - mây biểu thị cho sự xứng hợp, sự gắn bó quấn quýt giữa
các đôi lứa trong tình yêu (rồng gặp mây, rồng ấp lấy mây, rồng ngược mây xuôi, lời
rông mây ...). ơ đây, điên cô long vân cũng được dùng đê chỉ thời cơ thuận lợi nhưng
không phải ở chốn trường thi, chốn quan trường, mà là ở chốn vườn đào, vườn hồng,
vườn xuân - nơi những đôi lứa gặp gỡ, yêu nhau, đổi trao lời ca tiếng hát với nhau.
Rồng - mây bây giờ được cụ thể hóa thành chàng trai, cô gái:
- Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời ... (TL I - tr.256)
Cùng xuất phát từ một điển cố, nhưng hai dòng văn học có hai cách sử dụng
khác nhau, hướng về hai trường nghĩa khác nhau.
2.2.2.12. Biểu tượng chim phượng - cây ngô đồng:
Nằm trong trường hợp trên còn có biểu. tượng chim phượng - cây ngô đồng.
Theo Kinh Thi - Đại Nhã: "Chim phượng hoàng hòa vang tiếng hót trên ngọn đồi cao
kia, cây ngô đồng mọc hướng về mặt trời, cành lá sum suê, tiếng hót hòa vang". Lời
chú thích nếu đại ý: Chim phượng hoàng không gặp cây ngô đồng thi không chịu đậu,
không gặp quả tróc thi không ăn. Điển cố này có nghĩa:
người hiền tài gặp minh chúa thi đắc dụng, minh chúa dùng người hiền tài thi
được nhiều phúc lộc" [137, tr.192].
Cách dùng điển cố theo nét nghĩa này có thể thấy trong một số tác phẩm văn thơ
Nôm: - Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. (Nguyễn Đinh Chiểu)
Người bình dân Việt Nam khi sử dụng điển cố này đã ngầm thỏa thuận hiểu theo
một hướng khác: linh phụng - ngô đồng là hình ảnh của một lứa đôi
xứng hợp, đẹp đẽ: - Bây giờ ta lại gặp ta,
Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây.
Xe vào như gió, như mây,
Như chim loan phụng đỗ cây ngô đồng. (TL I - tr.257)
Qua phần trình bày trên, có thể kết luận: một số điển cố khi đi vào ca dao đã
được hiểu theo những nét nghĩa khác với khi chúng được sử dụng trong văn chương
bác học. Điều này chủ yếu có nguyên nhân từ thế giới tâm hồn, thế giới tình yêu mà
ca dao luôn hướng tới để phản ánh. Trường nghĩa của một số các điển cố - biểu tượng
thay đổi theo sự chi phối của hệ thống chủ đề, đề tài ca dao mà chúng phụ thuộc vào.
Chủ đề lớn nhất trong ca dao là tình yêu đôi lứa. Các điển cố - biểu tượng cũng theo
đó mà được hiểu cho phù hợp. Rồng - mây, trúc -mai, linh phụng - ngô đồng, mận -
đào khi đi vào ca dao đã trở thành những biểu tượng sóng đôi tô điểm cho mối quan
hệ tình yêu của các chàng trai, cô gái nông dân mộc mạc, chất phác thời xưa một màu
sắc trang trọng, cao quý thường thấy trong văn chương bác học.
2.3. Những biểu tượng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự
nhiên và đời sống hàng ngày của nhân dân ta:
Rất nhiều biểu tượng trong ca dao Việt Nam đã hình thành từ sự quan sát đời
sống thiên nhiên, đời sống xã hội của nhân dân ta. Những biểu tượng thuộc nhóm này
chiếm số lượng lớn nhất so với các nhóm khác. Đây cũng là lẽ tự nhiên vi cái nôi lớn
nhất của nghệ thuật vẫn là hiện thực, thực tế đời sống. Qua việc tìm hiểu nguồn gốc
của các biểu tượng trong nhóm này, có thể phần nào hình dụng được con đường hình
thành biểu tượng trong ca dao.
Trong một số công trình nghiên cứu, nhiều biểu tượng đã được tìm hiểu, phân
tích theo hướng này như: con cò, con bống, hoa nhài, trăng, sông ... Các tác giả đều
thống nhất cho rằng xuất phát từ đời sống Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam, từ sự quan
sát hàng ngày của người bình dân xưa mà các biểu tượng này đã dần được hình thành.
2.3.1. Biểu tượng con cò:
Bàn về con cò, Vũ Ngọc Phan cho rằng: "Dưới con mắt người lao động ở nông
thôn, trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng chỉ có con cò thường gần người nông
dân hơn cả ... Những lúc người dân lao động Việt Nam xúc cảm, tâm trí muốn vươn
lên, muốn ca hát cho tâm hồn bay bổng, thoải mái trong khi làm lụng, thi chỉ có con
cò gợi hứng cho họ nhiều" [123, tr.72-73]. Nhận xét này đã góp phần nhấn mạnh
nguồn gốc của biểu tượng con cò trong ca dao: sự quan sát thiên nhiên của người nông
dân. Đời sống của loài chim này có nhiều điểm gần gũi với cuộc đời người nông dân
nơi đồng mộng:"'Con cò trắng bệch kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay
lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc nó
vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc đời mà người dân lao động nước ta thời xưa
hằng mong ước [123, tr.73]. VI vậy người nông dân xưa đã mượn cánh cò trắng kia để
biểu hiện minh.
Trở về với thời kỳ khuyết sử, theo truyền thuyết thi tổ tiên người Việt Nam
thuộc họ Hồng Bàng và là giống Rồng - Tiên (con Hồng, cháu Lạc; con Rồng, cháu
Tiên). Hồng Bàng (hồng: loài chim nước; bàng: lớn) là một loài chim nước lớn. Còn
Tiên - Rồng là một cặp đôi, trong đó có thể Tiên đã được nhân dân ta trừu tượng hóa
từ giống chim, còn Rồng được trừu tượng hóa từ rắn và cá sấu, đó là những loài vật có
rất nhiều ở vùng sông nước và do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu.
Như vậy từ thời xa xưa, người Việt Nam đã xem rồng và chim là vật tổ của minh.
Giữa con cò trong ca dao và loài chim nước lớn trong Hồng Bàng, Rồng - Tiên có lẽ
đã có một mối liên hệ gần gũi. Nếu trước kia người Việt Nam đã từng cho loài chim
nước là vật tổ của minh, thi đến đời sau họ chọn con cò (cũng là loài chim nước) làm
biểu tượng cho minh, cũng không có gi khó hiểu. Đoàn Văn Chúc đã lý giải điều này
bằng sự tham gia của vô thức, tiềm thức, tâm thức cộng đồng vào sự hình thành biểu
tượng: "Hoàn toàn có thể nghĩ được rằng: một mặt ký ức tập thể lưu lại từ ngàn xưa
trong vô thức của mỗi thành viên xã hội những hình ảnh quen thuộc của dân tộc; một
mặt khác, chính môi trường tự nhiên họ đang sống cũng còn đông đúc những hình ảnh
quen thuộc ấy, quen thuộc trong cả mấy tầng của ý thức" [14, tr.72 - 73].
Rõ ràng, từ sự quan sát đời sống hàng ngày của người nông dân đến việc hình
thành biểu tượng là con đường không đơn giản và ngắn ngủi chút nào. Sự quan sát
không phải tiến hành trong ngày một ngày hai mà đằng đang, dằng dặc trong không
gian và thời gian. Quan sát rồi tích lũy, tích lũy rồi quan sát, đó là quá trình diễn ra
không ngừng, để rồi như những lớp phù sa bồi tụ thành vùng đất mới, thành phẩm
cuối cùng của quá trình quan sát và cảm nhận đó là các biểu tượng.
2.3.2. Biểu tượng sông:
Cuộc sống người Việt gắn bó chặt chẽ với môi trường sông nước, cho nên trong
ca dao, sông đã trở thành biểu tượng cho nhiều giá trị có liên quan đến con người. Môi
trường sống tác động đến con người về nhiều mặt. Nhất là vào thời xa xưa, khi khoa
học kỹ thuật chưa phát triển, con người còn phải lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, bị
thiên nhiên chi phối. Con người phải tìm mọi cách để thích nghi, thích ứng với môi
trường tự nhiên thi mới tồn tại được. Con sông chảy qua các xóm ấp, làng xã suốt bốn
mùa, khi thi hiền hòa, lúc lại hung dữ, khiến người ta liên tưởng sông như có linh hồn.
Con sông khi thi nuôi sống con người, có lúc lại gây ra thảm họa ... khiến cho con
người luôn phải chú tâm về cách sống của minh để hòa hợp được với môi trường thiên
nhiên ấy. Sông trở thành mối quan tâm hàng đầu của cư dân vùng sông nước trước hết
vi sự sống còn của chính họ.
Trong đời sống hàng ngày, khi lao động, sinh hoạt, đi lại trên sông, người nông
dân đã thường xuyên tiếp xúc và quan sát, cho nên, hơn ai hết, họ có một sự hiểu biết
sâu sắc, tường tận về sông: sông có nhiều thác, ghềnh, vực sông có nhiều khúc sâu,
cạn khác nhau; thủy triều khi xuống, khi lên; dòng chảy khi mạnh, khi yếu; bờ sông
bên lở, bên bồi ... Sông là nơi khó khăn, thử thách lòng dũng cảm, ý chí của con người
... Tất cả những đặc điểm này đều được dân gian chú ý đến khi họ liên tưởng sự giống
nhau giữa sông và con người:
- Sông bao nhiêu nước cho vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng. (TL I - tr. 1840)
- Sông dài thi lắm đò ngang,
Anh nhiều nhân ngãi, thi mang oán thù. (TL I - tr. 1842)
Bắt đầu có lẽ chỉ là những câu ca dao so sánh theo phép đối ngẫu tâm lý như thế.
Lâu dần, sự tích tụ của nhiều câu hát dân gian để lại trong tâm trí con người một mối
quan hệ sông - con người. Sông cũng là con người với những tính cách, trạng thái,
cảnh đời ...
Đặc biệt ở vùng quê Nam bộ, hệ thống sông ngòi, kênh rạch vô cùng phong phú
thi sức sống của biểu tượng này trong tâm thức con người càng mãnh liệt hơn. Miêu tả
vùng này, đầu thế kỷ XIX, trong một cuốn sách Trịnh Hoài Đức đã ba lần nhắc tới đặc
điểm trên: "Đất Gia Định nhiều sông, kênh, cù lao và bãi cát,-trong mười người đã có
chín người quen việc chèo thuyền, biết nghề bơi lội", [36,tr.l2]. Với cảnh quan thiên
nhiên như thế, sự hình thành biểu tượng sông trong tâm thức con người là điều tất yếu.
2.3.3.Biểu tượng chiếc cầu:
Một biểu tượng nữa cũng cố nguồn gốc từ sự quan sát của nhân dân về môi
trường sông nước là chiếc cầu. Đây là vật thể rất quen thuộc trong đời sống người
Việt. Sông ngòi, kênh rạch, mương xáng đan dệt như mạng nhện là những trở ngại đối
với sự đi lại của con người khi họ không dùng thuyền. Chiếc cầu giúp họ nối đôi bờ
gần lại. Giao thông vi thế mà không bị ách tắc. Mọi sinh hoạt của con người trở nên
thuận lợi hơn. Chiếc cầu có thể dài hoặc ngắn, mới hoặc cũ, lớn hoặc nhỏ. đẹp hoặc
xấu, kiên cố hoặc không kiên cố, cầu đúc hoặc cầu gỗ ... nhưng dù là thế nào đi nữa
thi giá trị cơ bản của nó vẫn là nối liền hai đầu xa cách. Từ vai trò quan trọng của
chiếc cầu trong đời sống hàng ngày, dân gian đã liên tưởng đến những chiếc cầu như
thế trong tình yêu đôi lứa:
- Ước gi sông hẹp một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. (TL I - tr. 2292)
Trong câu hát dân gian, chiếc cầu của đời thường trở thành hình ảnh biểu hiện
ước mơ được sống bên nhau, không còn ngăn cách. Từ chiếc cầu của hiện thực đến
chiếc cầu của nghệ thuật, đó là cả một quá trình quan sát, tưởng tượng, liên tưởng của
người xưa, gói ghém trong đó cả những nỗi niềm, khao khát của tuổi thanh xuân.
2.3.4.Biểu tượng chiếc thuyền:
Nhắc đến môi trường sông nước, ta không thể không nói đến biểu tượng thuyền.
Từ thời xa xưa, phương tiện đi lại chủ yếu của người Việt là giao thông đường thủy.
Đi lại trên sông nước tuy khó khăn, phức tạp, trắc trở, nhiều nguy hiểm hơn đường bộ
nhưng đó lại là phương tiện đi lại phổ biến ở nước ta. Để việc sinh hoạt được thuận
lợi, tổ tiên ta đã sáng tạo ra chiếc thuyền. Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu sử
dụng thuyền của con người ngày càng tăng, nhiều hình thức khác nhau của con thuyền
được ra đời cùng với các tên gọi riêng: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phá, tàu ...
Thuyền có rất nhiều loại: thuyền thúng, thuyền thoi, thuyền mành, thuyền lươn,
thuyền đinh, thuyền cóc, thuyền chài, thuỵền rồng, thuyền độc mộc, thuyền tam bản ...
Ghe Nam bộ thi có: ghe bầu, ghe cửa, ghe lồng, ghe giàn, ghe be, ghe bè, ghe chài,
ghe lưới, ghe ngó, ghe đò ...
Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng người Việt cổ "lặn giỏi, bơi tài, thạo thủy
chiến, giỏi dùng thuyền". Nói về sự khác biệt truyền thống trong cách thức đi lại của
người phương Nam và phương Bắc, các sách Trung Hoa đời Hán thường diễn đạt
ngắn gọn là: “Nam di chu, Bắc di mã” (Nam đi thuyền, Bắc đi ngựa). Người phương
Tây đến Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước cũng đặc biệt chú ý đến kỹ thuật đóng thuyền
của nước ta. Năm 1820, đại tá hải quân Mỹ là White đã phải thốt lên: "Người Việt
Nam quả là những nhà đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một
kỹ thuật hết sức chính xác" [156, tr.252].
Không chỉ là phương tiện giao thông quan trọng, con thuyền còn là phương tiện
sinh sống của người Việt xưa. Người ta dùng thuyền để đánh bắt tôm, cá, cua, ốc
..dùng ghe xuồng để đi bẻ bông, bẻ trái ..., để buôn bán, trao đổi hàng hóa với nhau.
Môi trường sông nước thiên nhiên đã trở thành nơi để con người hội họp, gặp gỡ, mua
bán ... Cuộc đời của biết bao con người đã gắn bó với chiếc thuyền bồng bềnh trên
mặt nước, năm này qua tháng nọ, với nhiều kỷ niệm buồn vui. Hình ảnh con thuyền đã
ăn sâu vào tâm khảm người Việt Nam đến mức nhiều mặt hoạt động của con người
đều lấy con thuyền làm chuẩn mực để so sánh: chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo;
thuyền theo lái, gái theo chồng; buôn tàu, buôn bè không bằng ăn dè hà tiện ...
Con thuyền từ trong đời sống hàng ngày đã đi vào văn hóa nghệ thuật dân gian,
để lại những dấu ấn khó phai mờ trong tâm thức người Việt: "Trên mặt trống đồng và
tang trống đồng, hiện vật tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn, giai đoạn cực
thịnh của thời đại đồng thau trên đất nước Việt Nam, chúng ta thấy dưới ánh mặt ười
tỏa sáng là những chiếc thuyền, có những người chèo thuyền như đang thi tài" [185,
tr.55].
Ngày nay, nhin lại mỹ thuật điêu khắc ở các đinh, chùa, ta thường gặp những
cảỉứi sinh hoạt đóng thuyền, chèo thuyền ... rất linh hoạt. Bức Dựng cột buồm được
chạm trổ ở đinh Ngọc Canh (Vĩnh Phú) là một ví dụ. Cảnh đóng thuyền buồm của một
nhóm thợ đã được miêu tả bằng những đường nét rất tình tế[139,tr.201].
Con thuyền còn được chạm trổ hay in hoa văn rõ nét trên những đồ gốm đủ kiểu,
trên nhiều đồ dùng gia đinh như tủ, giường, ghế v.v... Con thuyền thật sự đã trở thành
mội môtip trang trí phổ biến trong dân gian.
Trong sinh hoạt ca hát dân gian, con thuyền đã từng làm nảy sinh ra một số hình
thức thể loại, trong đó con thuyền đóng vai trò là hình tượng trung tâm: hò chèo
thuyền, hò đẩy thuyền, hò mắc cạn ...
Trên mặt nước mênh mông, với khung cảnh nên thơ, trữ tình, chiếc thuyền còn
là phương tiện để nam nữ thanh niên gặp gỡ, làm quen, tìm hiểu... Hát chèo ghe là loại
hát của người Nam bộ xưa, khi chèo ghe xuôi theo dòng nước, đứng trước cảnh trời
cao, sông rộng, tức cảnh sinh tình mà hát lên. Có khi họ hát một minh, có khi là hát
đưa duyên cùng với các đối.tượng khác giới. Miền Nam với hệ thống sông ngòi, kênh
rạch dày đặc là nơi ghe xuồng qua lại tấp nập để mua bán, trao đổi, đi lại ... cho nên
lối hát chèo ghe rất thịnh hành, cũng như ở miền Trung và miền Bắc có lối hát đò đưa
vậy.
Con thuyền còn đi vào dân ca nghi lễ với hò đưa linh, hát dô (ở Quốc Oai, Hà
Sơn Bình), hát bả ữạo (ỏ Quảng Nam - Đà Nấng), hát dậm (Hà Nam Ninh), chèo chãi
hô (ở Tiên Sơn - Hà Bắc). Hò đưa linh được diễn xướng trong, khi tiến hành nghi lễ
tiễn đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng. Chiếc quan tài mô phỏng theo hình con
thuyền, cái thế giới bên kia được quan niệm là một vùng sông nước (chín suối) nên
đến đố phải đi bằng thuyền. Trong hò đưa linh, một đoàn gồm khoảng 14, 16 hoặc 18
người sẽ giữ nhiệm vụ chèo lái con thuyền (tưởng tượng) để đưa linh cữu người chết
tới miền cực lạc.
Rõ ràng, hình ảnh con thuyền đã chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức
người Việt Nam. Trong đời sống vật chất hàng ngày, sự vật nào đối với họ là quan
trọng thi trong đời sống văn hóa tình thần, sự vật đó cũng được đặc biệt chú ý. Sự hiện
diện của hình ảnh con thuyền trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân gian là một bằng
chứng. Cũng từ đây, con thuyền đi vào ca dao - với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng -
nhưng nghĩa bóng nổi trội hơn. Từ cuộc sống bồng bềnh, xuôi ngược trên chiếc
thuyền, người xưa đã phát hiện ra nhiều kliía cạnh, đặc điểm của chiếc thuyền tương
ứng với đời sống tình cảm của con người. VI vậy, con thuyền đã dần trở thành biểu
tượng. Mảnh ván đã đóng thuyền giống như người con gái đã có chồng, thuyền không
lái như cô gái không chồng (hoặc chàng traikhông vợ), thuyền gắn bó vđi bến như đôi
lứa trong tình yêu gắn bó với nhau, thuyền nghiêng, thuyền tròng ưành giống như
những cuộc đời, những số phận bấp bênh, bất hạnh ...
2.3.5. Biểu tượng bến:
Cùng với thuyền là biểu tượng bến. Thuyền di động - bến cố định, thuyền chủ
động - bến bị động. Thuyền là hình ảnh của những chàng trai rong ruổi nơi xa, còn
bến là thân phận của người con gái ở lại đợi chờ, chung thủy. Những cô gái, những
người vợ, cố lẽ ngày xưa đã từng nhiều lần ra nơi bến sông để ngóng đợi, mong mỏi
người yêu, người chồng trở về trên các con thuyền sau những ngày xuôi ngược làm ăn
đây đó. Họ thấy tình cảm của họ đối với người đi xa thật giống như nỗi nhớ mong
giữa bến với thuyền.
- Thuyền dời nào bến có dời,
Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn. (TL I - tr.2089)
2.3.6. Biểu tượng cá:
Trong ca dao, cá là hình ảnh quen thuộc khi giới thiệu về sản vật địa phương,
nhưng không chỉ có thế, cá còn được dân gian đưa vào câu hát của họ để biểu hiện
những số phận con người, đó là người phụ nữ.
Địa hình sông nước là môi trường sống lý tưởng cho các loài tôm cá. Người
nông dân xưa rất tự hào khi nhắc đến những sản vật của quê hương: cá rô Đầm Sét; cá
sông Giăng, cá Hồ Tây, cá Bàu Nậy ... Các cụm từ "nhiều cá", "lắm cá" được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần, gây ấn tượng khó quên cho người thưởng thức ca dao về xứ sở trù
phú này.
Với người nông dân một nắng, hai sương, cá là loại thức ăn có thể tìm được
không mấy khó khăn, lại có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, thông dụng. Cá trê
nổi tiếng với món canh bầu, cá nục nấu dưa hồng, bông súng cá kho, canh chua điên
điển cá linh, cá bống kho gừng, cơm trắng cá chim, cá lóc nướng trui ... Những món
ăn đậm đà hương vị quê hương này đã đi vào ca dao, góp phần khẳng định thêm sự
phổ biến của loài vật hiền lành này trong đời sống thường ngày của dân gian.
Nghề chài cá, lưới cá, câu cá ... cũng là những nghề phổ biến thời xưa. Cá tôm
nhiều tất người đánh bắt cũng phải nhiều. Ca dao đã ghi lại nhiều trường hợp cả gia
đinh đều sống bằng nghề cá:
- Chồng chài, vợ lái (lưới), con câu
Cha xúc, mẹ nhủi, nàng dâu đi mò. (TL II (2) - tr.24)
Đánh bắt cá đã trở thành nghề nghiệp nuôi sống được một bộ phận dân cư, tạo
cho họ có cuộc sống ổn định.
Từ đời sống hàng ngày, loài vật này đã đi vào thế giới của văn hóa dân gian.
Nam nữ gặp nhau, đố nhau cũng hướng về con cá:
Đố anh mấy thứ cá đồng,
Một câu nói trọn mới hòng đáng khen?
- Rô, trê, sặc, dầy dầy
Ròng ròng, hửng hỉnh lộn bầy lia thia. (TL II - tr. 138)
Nghệ thuật chơi chữ tạo nhiều câu đố thú vị về cá:
Con mèo không rách sao kêu mèo vá,
Con cá không thờ sao gọi cá linh?
Thành ngữ, tục ngữ cũng dành một vị trí đáng kể cho loài vật này tham gia vào
nếp nghĩ, nếp diễn đạt của dân gian: cá gặp nước, cá nước chim trời, bóng chim tăm
cá, chim sa cá lặn, cá chậu chim lồng, cá vượt Vũ Môn, cá hóa rồng, cá mè một lứa,
kén cá chọn canh, được cá quên nơm, ăn cá bỏ lờ, cá lớn nuốt cá bé, cá nằm trên
thớt...
Quan sát đời sống, sinh hoạt của con cá, người ta thấy có nhiều khía cạnh tương
đồng với đời sống con người, nhất là người phụ nữ. Nhiều câu hát được ra đời trong
sự so sánh, ẩn dụ dưa người và cá:
- Thân em như cá lội tránh mồi,
Tìm nơi sông lớn, vịnh bồi ẩn thân. (TL III - tr.377)
Lâu dần, cứ hễ muốn nói đến thân phận người con gái, người ta nghĩ ngay đến
con cá mắc lưới, mắc câu, cá trong chậu, cá trong ao, cá trong lờ..muốn chỉ việc chàng
trai đeo đuổi cô gái thi dùng hình ảnh người đi câu cá, tâm trạng buồn thi liên tưởng
"cá sầu cá chẳng quẫy đuôi", gặp người yêu xứng hợp thi ví như cá gặp nước ... Con
cá đã đi vào hệ thống biểu tượng của ca dao, trở thành một tín hiệu thẩm mỹ trong lối
diễn đạt của người Việt. Cá - thân phận chịu nhiều ràng buộc, thường là sống trong
cảnh thiếu tự do..., đời sống ấy thật gần gũi với cuộc đời của những người con gái thời
xưa phải chịu nhiều tầng áp bức bất công, không đước sống tự do như khát vọng của
minh. Hình ảnh con cá thường được nhắc đến với sự cảm thương, cảm thông sâu sắc.
2.3.7. Biểu tượng cây, hoa, trái:
Cùng với thế giới động vật, thế giới thực vật trong môi trường thiên nhiên Việt
Nam cũng là nguồn gốc quan trọng của các biểu tượng . Thực vật trong ca dao phong
phú, đa dạng vô cùng. Tuy nhiên, không phải tất cả đều trở thành biểu tượng. Có khi
dân gian dùng cây, hoa, trái, kiểng nói chung để biểu thị cho con người, tính cách,
hoàn cảnh. Cố khi người ta dùng một số loại cụ thể như: trúc, mai, liễu, tùng, lan, huệ,
sen, lê, lựu, đào, cam, chanh, khế... Những sự vật này được'đặc biệt chú ý và sử dụng
phổ biến trong ca dao trước hết vi trong đời sống hàng ngày chúng rất quen thuộc và
hữu dụng đối với mọi người, sau nữa là do ảnh hưởng một phần của văn chương bác
học.
Nếu trong thiên nhiên không có những vườn cây đầy hoa thơm, quả ngọt thi
cũng sẽ vắng bóng các biểu tượng cây, hoa, quả trong ca dao. Người bình dân nhận ra
ở các loại cây, hoa, quả nhiều điểm tương đồng với chu trình sống của con người. Hoa
thơm, hoa tươi, hoa nở, trái chín mọng ... gợi liên tưởng đến người con gái thanh tân;
hoa tàn, hoa héo, cây héo ... gợi liên tưởng người con gái tàn tạ; người trồng cây,
trồng hoa, hái hoa, hái trái giống như người con trai trong tình yêu; những loài cây,
hoa, quả khác nhau về phẩm chất, hình dáng dễ khiến ta nghĩ đến những loại người
khác nhau trong xã hội ... Đối với người nông dân xưa, thiên nhiên là môi trường lao
động, môi trường sinh hoạt ca hát dân gian, đồng thời, thiên nhiên cũng là phương
tiện thẩm mỹ để con người thể hiện những tâm tư, tình cảm của minh.
Thiên nhiên đã ùa vào ca dao là vi thế. Cây trái, hoa quả Việt Nam được mến
yêu, trân trọng, được dùng làm biểu tượng cho tâm hồn, tính cách, đời sống của con
người Việt Nam:
- Khế rụng bờ ao thanh thao anh lượm,
Ngọt như cam sành héo cuống anh cũng chê. (TL I - tr. 1181)
- Anh về mắc võng ru con,
Đừng nên tơ tưởng trái chanh non trái mùa. (TL I - tr. 169)
2.3.8. Biểu tượng trăng:
Trăng là hiện tượng tự nhiên được nhắc đến rất nhiều trong ca dao với cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa biểu vật lẫn nghĩa biểu cảm, biểu tượng. Hoàng Trình cho
rằng: "Trong tư cách một hành tình, nó chẳng có chút gi là thơ. Nhưng ở một nước
nông nghiệp mà cuộc sống con người gắn bó với thiên nhiên, từ lao động sản xuất đến
môi sinh và thế giới tình cảm thi trăng là một vật vô tri có linh hồn cứ "quấn lấy linh
hồn chúng ta và buộc nó phải yêu" [173, tr.64]. Thật vậy, thời xưa, khi chưa có ánh
điện thi trên bầu trời bao la về đêm chỉ một minh vầng trăng ngự tri, ban ánh sáng cho
khắp nhân gian. vầng trăng đó đã thu hút được sự chú ý của con người do hình dáng
đẹp đẽ, thanh tú, ánh sáng dịu dàng, và còn do cả sự có mặt thường xuyên, liên tục của
nó trên bầu trời suốt đếm, suốt tháng, suốt năm, suốt đời ... Người xưa đã chú ý đến
nhiều khía cạnh của trăng và đem chúng gắn kết với thế giới tình cảm con người:
trăng tròn, trăng khuyết, trăng non, trăng già, trăng tỏ, trăng mờ, trăng lu, trăng mọc,
trăng lặn, trăng vàng, trăng thanh, trăng bạc ... Với ca dao, trăng đã trở thành biểu
tượng của nhiều giá trị.
Thân em như thể trăng rằm,
Mây đen có phủ chẳng lầm giá trong. (TL I - tr.2031)
2.3.9. Các biểu tượng khác:
Các biểu tượng ruột tằm, tằm - dâu, tằm - nhện gắn liền với cuộc sống lao động
trồng dâu, nuôi tằm của nhân dân ta ngày trước. Biểu tượng yếm đỏ, khăn, nón, áo gắn
với cách trang sức, ăn mặc quen thuộc của người bình dân. Biển, rừng, núi, mái đinh,
nhà ngói, nhà tranh ... là những biểu tượng gắn chặt với không gian sinh hoạt, lao
động của nhân dân tả. Biểu tượng ngọn đèn, giường, chiếu, mâm, bát, khóa, chia, kim,
chỉ, gương, lược ... gắn với thế giới vật thể nhân tạo mà dân gian tiếp xúc, quan sát
hàng ngày.
Nhin vào nhóm biểu tượng thứ ba này có thể thấy rõ rằng những sự vật, cho dù
là xấu xí nhất, bình thường nhất cũng đều có khả năng đi vào ca dao và trở thành biểu
tượng, không hề có một giới hạn nào (chiếc áo rách, cánh bèo, gương tróc thủy, bông
hoa tàn, cây kiểng héo ...). Phải chăng cũng chính vi điều này, cho nên ca dao rất gần
với đời sống, có khả năng thể hiện phong phú và tình tế mọi khía cạnh, cung bậc trong
đời sống tình cảm của con người?
Nói tóm lại, con đường hình thành của nhiều biểu tượng trong nhóm này là: từ
thực tế cuộc sống đến với tâm thức dân gian, rồi đi vào ca dao. Ý tưởng sử dụng một
sự vật nào đó để làm biểu tượng nếu đã là của dân gian thi nó sẽ được nuôi dưỡng,
thấm nhuần và lan tỏa trong mọi hình thức, thể loại của văn hóa, văn nghệ dân gian.
Các phương thức thể hiện biểu tượng thi muôn hình muôn vẻ nhưng tâm thức dân gian
chỉ là một. VI vậy, tìm hiểu tâm thức dân gian, ta có điều kiện để hiểu sâu sắc hơn
tầng nền, tầng lịch sử - văn hóa - xã hội của một biểu tượng. Gốc rễ của các biểu
tượng được cắm trên mảnh đất của văn hóa, văn nghệ dân gian, cho nên tìm hiểu biểu
tượng cần phải chú ý đến mảnh đất sinh thành ra nó là vi vậy.
Thực ra, việc trình bày nguồn gốc các biểu tượng theo lối phân chia như trên chỉ
mang tính chất tương đối mà thôi. Một số biểu tượng có nguồn gốc khá phức tạp, đó
là sự đan xen của nhiều quan niệm, nhiều ảnh hưởng khác nhau. Biểu tượng trầu - cau
vừa xuất phát từ phong tục, tập quán của dân tộc, vừa là kết quả của sự quan sát thiên
nhiên tình tế. Biểu tượng cây đa cũng vậy. Còn biểu tượng rồng thi vừa có lai lịch từ
các quan niệm thần thoại, vừa có lai lịch từ văn học cổ Trung Quốc và Việt Nam. Mận
- đào, trúc - mai, nhạn - én là những biểu tượng được hình thành từ các điển cố Trung
.Quốc kết hợp với quá trình quan sát thực tế hàng ngày của người bình dân Việt Nam
...
Qua việc tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng ca dao, có thể nhận ra vai trò quan trọng
của thao tác quan sát thế giới khách quan chung quanh con người. Từ quan sát thực
tế, rồi phát hiện ra những mối dây liên hệ, những điểm tương đồng giữa các sự vật, sự
việc, dẫn đến hình thành biểu tượng là con đường chung của mọi công thức biểu
tượng ca dao, dù đó là biểu tượng được bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam hay Trung
quốc, từ thần thoại, truyền thuyết hay phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian. Để
hình thành biểu tượng tùng, trúc, mai người Trung Quốc xưa cũng phải tiến hành quan
sát thiên nhiên qua bốn mùa trong năm. Để hình thành biểu tượng rồng, người xưa đã
quan sát các động vật rắn, cá sấu, thuồng luồng trong một thời gian dài rồi tích lũy
những đặc điểm của chúng lại trong hình ảnh một con vật tưởng tượng là rồng.
Việc quan sát còn trở thành cơ sở cần thiết cho quá trình tiếp nhận các biểu
tượng không có nguồn gốc trực tiếp từ thực tế cuộc sống của những người sáng tạo
nên ca dao. Người lao động Việt Nam sẽ khó chấp nhận cây liễu Chương Đài, cây
tùng, cây trúc, cây mai, cây đào. cây mận, con nhạn, con én ... nếu như thiên nhiên ở
nước ta không có những loài cây, loài vật ấy. Sự quan sát đời sống, quá trình khám
phá, phát hiện những đặc điểm, tính chất của các sự vật chung quanh minh sẽ tạo nên
một lực cộng hưởng lớn khi người bình dân được tiếp xúc với các biểu tượng, văn
liệu, thi liệu co liên quan của nước ngoài. Có thể nói cụ thể hơn rằng: các biểu tượng
đã được họ cảm nhận từ hai hướng: văn chương và cuộc sống. Nếu thiếu hướng thứ
hai, biểu tượng không thể "bén rễ xanh cây” trong nguồn thi hứng của cả một cộng
đồng được.
Các biểu tượng được hình thành từ nhiều con đường khác nhau tạo nên sự đa
dạng, phong phú cho biểu tượng, cho hệ thống mã thẩm mỹ ca dao. Đáng chú ý nhất
là hiện tượng nhiều biểu tượng sóng đôi được hình thành, cho thấy nhu cầu thể hiện,
giãi bày tâm tư, tình cảm lứa đôi trong nhân dân là cực kỳ lớn. Điều này hoàn toàn
hợp lý và dễ hiểu, vi trong hoàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa, với nhiều ràng buộc,
cấm đoán khắt khe, người dân luôn khao khát sự tự do trong yêu đương, mà trước hết
là được tỏ bày tình yêu trong lời ca tiếng hát của minh. Qua các cặp biểu tượng này,
các chàng trai, cô gái muốn khẳng định tình yêu của họ là sự kết hợp tự nhiên, hợp
quy luật... Các bài ca dao với sự xuất hiện của những biểu tượng sóng đôi - nhiều bài
là lời tâm tình của nữ giới - cho thấy trái tìm họ dạt dào tình cảm, muốn bộc lộ và
khẳng định tình yêu cùng quyền được hạnh phúc của minh.
Biểu tượng được xây dựng bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn chương bình dân lại
rất gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta. VI vậy, nhiều biểu tượng được
sử dụng trong ngôn ngữ thường ngày, trong khẩu ngữ đã được đưa vào ca dao một
cách tự nhiên, hoặc một số biểu tượng đã được hình thành từ trong các-thể loại khác
của văn học dân gian, các loại hình khác của nghệ thuật dân gian cũng đi vào ca dao
không hề có sự phân biệt. Có thể lý giải điều này bằng một cái nhin chung về tâm thức
dân gian, mỹ học dân gian. Văn hóa dân gian bao gồm nhiều loại hình khác nhau, văn
học dân gian có nhiều thể loại khác nhau, nhưng tựu trung lại chỉ có một loại mỹ học
dân gian. một cái nhin thống nhất về chân, thiện, mỹ, một quan niệm về cái đẹp nhất
quán, không hề thay đổi. VI vậy, các biểu tượng nghệ thuật được hình thành từ trên
những mảnh đất khác nhau của văn hóa, văn học dân gian, có thể xâm nhập, di chuyển
và phát triển trong các thể loại khác là điều có thể hiểu được. Biểu tượng trầu cau,
rồng, thuyền, cá, hoa... là những ví dụ.
Bàn về các công thức truyền thống trong ca dao, Bùi Mạnh Nhị cho rằng:
"Nghiên cứu các công thức folklore cần phải tìm hiểu "cốt" văn hóa, dân tộc học và sự
hình thành nghĩa của chúng. Chính đây là cuộc sống bề sâu của các công thức, cũng
như của tác phẩm folklore" [118, tr.310]. "Cốt" văn hóa dân tộc học của biểu tượng
chính là nguồn gốc của chúng. Tìm hiểu lai lịch các biểu tượng là vấn đề không dễ
dàng, nhưng nếu cố gắng, có thể từ đây chúng ta sẽ mở được nhiều cánh cửa diệu kỳ
để nghiên cứu và thưởng thức ca dao.
CHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ BIỂU TƯỢNG NGHÊ
THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
Thế giới biểu tượng trong ca dao người Việt đa dạng, phong phú như chính bản
thân cuộc sống - nơi cội nguồn đã sinh ra biểu tượng. Để tìm hiểu thật tường tận các
biểu tượng, cần tiến hành việc phân loại, hệ thống hóa để bước đầu có được một cái
nhin bao quát về các đối tượng được chọn làm biểu tượng, các nội dụng biểu đạt và
những đặc điểm riêng của biểu tượng trong ca dao truyền thống người Việt.
3.1.Một số vấn đề về tiêu chí phân loai và phương thức miêu tả biểu tượng
nghệ thuật trong ca dao người Việt:
Phân loại biểu tượng có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Ở đây, chúng tôi
chọn tiêu chí là cái biểu đạt ở biểu tượng. Như đã trình bày ở chương một, biểu tượng
là một siêu ký hiệu được hình thành với hai yếu tố: cái biểu đạt (CBĐ') và cái được
biểu đạt (CĐBĐ'). CBĐ' chính là phần hình ảnh của thế giới khách quàn và tên gọi
của nó được dân gian sử dụng một cách chọn lọc để thể hiện một nội dụng nào đó
(CĐBĐ'), CBĐ' là phần vật chất cụ thể, có thể sờ mó, nhin ngắm được, còn CĐBĐ' là
phần tình thần, mang tính chất trừu tượng, khó cảm nhận hơn. Có nhiều lý do để
chúng tôi chọn CBĐ' làm tiêu chí phân loại biểu tượng:
- Cái biểu đạt chỉ ra những sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm cơ
sở ban đầu để hình thành biểu tượng.
- Cái biểu đạt là phần vật chất cụ thể của biểu tượng mà từ đó, chúng ta có thể
khảo sát một cách thuận lợi.
- Tên gọi phổ biến của các biểu tượng cũng chính là tên của cái biểu đạt.
Giữa sự vật, hiện tượng và ý nghĩa biểu tượng của nó có một mối quan hệ nhất
định. Bản thân sự vật tự thân nó chưa có ý nghĩa tượng trưng. Ý nghĩa này chỉ có khi
con người khoác lên cho nó dựa trên những mối quan hệ mật thiết với tên gọi, hình
dáng, thuộc tính hoặc phẩm chất nào đó của sự vật. Như vậy, ý nghĩa của biểu tượng
không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà hoàn toàn có lý do. Điều này cũng cố nghĩa
là một sự vật có thể có nhiều khía cạnh, phương diện có khả năng khơi gợi những liên
tưởng thơ ca. Khi xây dựng biểu tượng, nghệ nhân dân gian đã qua sự chọn lựa, sàng
lọc từ sự vật một hoặc một số khả năng liên tưởng nào đó, tạo ra cho sự vật những ý
nghĩa mới. Những nét nghĩa này được sử dụng nhiều lần, được tập thể công nhận và
trở thành nghĩa biểu tượng. Khi ấy, người ta hiểu ý nghĩa của biểu tượng theo một
phản xạ có điều kiện. Đây không phải là phản xạ sinh học mà là phản xạ được xây
dựng bằng thói quen, bằng qui ước văn hóa của cộng đồng. Việc lĩnh hội ý nghĩa của
biểu tượng vi vậy không phải là một thao tác đơn giản, dễ dàng. Muốn hiểu được trọn
vẹn, đầy đủ ý nghĩa của biểu tượng cần có vốn sống, vốn văn hóa, vi mỗi biểu tượng
đều có một tầng nền lịch sử - xã hội - văn hóa riêng của nó. Trần Đinh Sử đã nhận xét
rất đúng rằng "Hình ảnh tượng trưng là mơ hồ nhất, bởi vi ở đó, cái cá biệt biểu thị
một cái chung lớn hơn hẳn. Tượng trưng bao gồm hình ảnh tượng trưng và ý nghĩa
tượng trưng, nhưng trong tác phẩm chỉ xuất hiện hình ảnh tượng trưng như một cái
biểu đạt, mà ý nghĩa tượng trưng vắng mặt, người ta hiểu hình ảnh tượng trưng theo
một thứ phản xạ có điều kiện ..." [144, tr.33].
Bản thân hình ảnh hạt mưa chưa có ý nghĩa biểu tượng. Nó chỉ là một hiện
tượng của tự nhiên, vũ trụ. Nhưng chính cái nhỏ nhoi, vô định của nó (hạt mưa không
định được cho minh chỗ rơi, chỗ đậu) khiến người ta liên tưởng đến cuộc đời, số phận
của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến ngày xưa [186 ,tr.22]. Thời đó,
việc hôn nhân của nam nữ thanh niên chủ yếu do cha mẹ định đoạt "Áo mặc sao qua
khỏi đầu", "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Luân lý phong kiến ràng buộc con người
trong quan hệ hôn nhân. Người phụ nữ phải cúi đầu vâng chịu sự xếp đặt mà cha mẹ
đã dành sẩn cho minh, không biết tương lai sẽ ra sao. Đây cũng chính là cơ sở để ý
nghĩa biểu tượng của hạt mưa được hình thành:
- Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. (TL I - tr. 2027)
Cũng như vậy, bản thân cái chợ chưa có ý nghĩa tượng trưng. Chợ là nơi để mua
bán, đổi chác, đông đúc và ồn ào. Đây cũng là nơi tập trung nhiều tầng lớp người
trong xã hội: giàu, nghèo, sang, hèn, thanh, tục, tốt, xấu v.v... Chính đặc điểm ấy là cơ
sở thực tế để trí tưởng tượng dân gian khoác lên cho không gian ấy một ý nghĩa biểu
tượng sâu sắc: chợ - xã hội nhiễu nhương phức tạp, không lường trước được mọi rủi
ro, không phải là nơi tốt đẹp [186,tr.23] :
- Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (TL I - tr.2029)
Đôi đũa tự thân nó cũng chưa là biểu tượng.Ở một cộng đông không có thói
quen dùng đũa thi hình ảnh đôi đũa chẳng có ý nghĩa gi đặc biệt. Nhưng với người
Việt Nam, nó đã trở thành biểu tượng cho lứa đôi, chồng vợ. Liên quan đến nét nghĩa
này là tính chất luôn luôn có đôi, có cặp của đũa. Bên cạnh đó, xét về chất liệu, có đũa
tre, đũa mun, đũa ngọc ... những loại đũa này gợi liên tưởng đến sự giàu nghèo, sự
xứng hợp trong hôn nhân. Sự cân bằng của đôi đũa cũng biểu thị cho lứa đôi được kết
hợp hài hòa ...
- Đôi ta như đũa trong kho,
Không tề, không tiện, không so cũng bằng. (TL I - tr. 864)
Bông hoa sen với hương thơm thanh thoát, màu sắc tươi sáng thật tương phản
với chốn bùn lầy nước đọng mà nó hiện diện, đã được dùng để nói về những con
người có phẩm cách cao quí, đẹp đẽ: -
Trong đầm gi đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (TL I - tr. 2227)
Sự phát hiện, khám phá ra những mối dây liên hệ giữa các đặc điểm của sự vật,
hiện tượng với những trạng thái tâm tư, tình cảm của con người không phải ngày một
ngày hai mà có được. Những liên tưởng thơ ca độc đáo, bất ngờ, đầy lý thú ương sinh
hoạt ca hát dân gian là kết quả của một quá trình tiếp xúc, quan sát, suy tưởng lâu dài
của người xưa đối với các sự vật, hiện tượng trong đời sống lao động và sinh hoạt
hàng ngày. Cùng là- loài vật nhưng ong, bướm, cò, bống, tằm, én, nhạn, dã tràng ...
biểu tượng cho những loại người, những hoàn cảnh khác nhau. Cùng là thực vật
nhưng cam sành, hồng ngâm, đào tiên có nghĩa biểu tượng không giống với chanh,
khế ...
Nói tóm lại, giữa sự vật và ý nghĩa biểu tượng của nó có mối liên hệ rất chặt chẽ.
Ý nghĩa biểu tượng được xây dựng trên cơ sở những đặc điểm, thuộc tính của sự vật
và những liên tưởng của một cộng đồng xã hội - văn hóa. Đây cũng là cơ sở để tạo
nên các mạch ngầm, những khoảng vô ngôn mang nhiều giá trị của tác phẩm ca dao.
Như vậy, biểu tượng ca dao không phải là cái biểu đạt, cũng không phải là cái
được biểu đạt. Thực chất biểu tượng là mối quan hệ giữa CBĐ' và CĐBĐ'. Mối quan
hệ này chính là các liên tưởng thơ ca. Các liên tưởng này làm nhiệm vụ bắc cầu giữa
CBĐ' và CĐBĐ', gắn chúng lại với nhau thành một thực thể thống nhất. Nền tảng của
những liên tưởng này lại chính là các phạm trù tồn tại ở CBĐ'
và CĐBĐ:
Ví dụ: *Hoa thơm -----► người tốt
(CBĐ' -----► CĐBĐ')
phạm trù phẩm chất
*Chim khôn —► người khôn
(CBĐ' ------ ► CĐBĐ')
phạm trù phẩm chất
*Sông-----► không gian cách trở
(CBĐ* ------► CĐBĐ')
phạm trù khoảng cách
Các phạm trù này thường có gốc từ CBĐ'. Cơ sở, chất liệu của các liên tưởng thơ
ca là các phạm trù ở CBĐ' vi CBĐ' là hữu hình, là tác nhân khơi gợi những tư tưởng
và xúc cảm ở con người. Để miêu tả hệ thống phân loại đã nêu trên, chúng tôi cho
rằng phương pháp thích hợp ỉa có thể dựa vào các phạm trù ở CBĐ’
Số lượng các phạm trù ở CBĐ' nhiều hay ít? CBĐ' là một thực thể hình thành
biểu tượng nhưng khi thi được đề cập đến với sắc thái ý nghĩa này, khi thi được đề cập
đến với sắc thái ý nghĩa kia, tùy thuộc vào sự nhấn mạnh một khía cạnh nào đó của
thực thể hoặc nhấn mạnh một mối quan hệ nào đó giữa thực thể với thế giới xung
quanh. Sự vật trong đời sống thường được đặt ở nhiều góc độ để xem xét, từ đó, dân
gian mới phát hiện được hết những khả năng tiềm ẩn ý nghĩa của chúng. Cũng từ đây,
chúng ta thấy được sự sinh thành, vận động không ngừng của các biểu tượng. Từ một
sự vật trong thế giới khách quan có thể hình thành nên một nhóm biểu tượng, mỗi biểu
tượng trong nhóm lại có nhiều biến thể khác nhau. Sự tồn tại của cả ba cấp độ này ở
biểu tượng ca dao có nguyên nhân từ sự phong phú của các phạm trù khơi gợi những
liên tưởng thỉ ca thuộc CBĐ’
Ví dụ 1: Nhóm biểu tượng trầu cau
Sự phong phú của những nét nghĩa trong nhóm biểu tượng trầu cau trước hết là
do sự phong phú của việc quan sát sự vật và tập quán chế biến, sử dụng sự vật ữong
đời sống. Từ những điều quan sát được, dân gian đã diễn đạt dưới các góc độ sau:
* Màu sắc: cau xanh, cau hồng, cau phơn phớt lòng đào, trầu xanh, trầu vàng ...
* Sự tươi - héo: cau tươi, cau khô, cau héo, cau sâu, cau ôi, trầu héo ..'.
* Sự non - già: cau non, cau già, cau già quá lứa, cau cuối mùa, trầu lộc ...
* Hình dáng miếng trầu têm: trầu cánh kiếm, trầu cánh phượng, trầu cánh quế,
trầu mũi mác, trầu miếng chả ...
* Cách thức têm: cau sáu bổ ba, cau sáu bổ ra làm mười, cau già dao sắc lại non,
miếng chũm quệt vôi, trầu têm lá lốt...
* Vật mang, vật đựng: trầu dải yếm, trầu chéo áo, trầu túi, trầu khăn, trầu khay xà
cừ ...
* Người sử dụng: người trao trầu, người nhận trầu, người gửi trầu, người xin trầu,
người mời trầu, người têm trầu, người ăn trầu ...
* Các kiểu kết hợp trong tự nhiên và trong sử dụng: trầu - cau, trầu - rượu, trầu -
thuốc, lá trầu - trái cau, dây trầu - thân cau, mâm trầu - buồng cau, vườn trầu - vườn
cau...
Ví dụ 2: Nhóm biểu tượng cá
Nhóm biểu tượng này cũng hình thành trên cơ sở các góc nhin về nhiều mối
quan hệ khác nhau:
* Cá với môi trường sống của nó: cá ở sông, biển, ao, đia, vực ...
- Em gặp anh đây phân giải đôi lời,
Kẻo mai đây con cá về sông rộng, con chim nọ đổi dời núi cao.
(TL III - tr.234)
* Cá với những phương tiện đánh bắt và giam giữ nó: lưới, mồi, cần câu, nơm,
lờ, đó, chậu, thùng ...
- Từ ngày thiếp bén duyên chàng,
Dạ như con cá trích mắc vào lưới xưa. (TL I - tr. 1979)
* Cá với người đánh bắt: người câu, người chài lưới ...
- Minh em như cá giữa. rào,
Kẻ chài, người lái (lưới) biết vào tay ai. (TLII(l) - tr. 341)
* Cá với hoạt động đổi chác, mua bán;
- Em như cá lẹp sút xương,
Gặp người quân tử giữa đường hỏi mua. (TL I - tr.965)
* Cá với các loài khác: cá - chim, cá- tôm ...
- Qua như chim nọ đang bay,
Em như cá nọ mắc rày lưới giăng. (TL III - tr.358)
* Cá thuộc nhiều loại khác nhau: cá lớn - cá nhỏ, cá câu được - cá ở chợ, cá rô
thia - cá vượt Vũ Môn ...
- Anh ơi, anh câu làm chi cho hao chỉ tốn chi,
Anh về xách một quan ăn sáu ra ngoài chơ mua con cá gi thi mua.
(TLI-tr. 143)
* Cá với hoại động chế biến thức ăn: cá - muối, cá- canh, cá- cơm, cá- đĩa
- Cá chẳng ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. (TL I - tr.315)
* Cá với các hiện tượng tư nhiên: cá - mưa, cá- sao ...
- Trông anh như bấc trông dầu,
Như con cá cạn trông chầu trời mưa. (TL 11(1) - tr.426)
* Cá với các hoạt động của nó: bơi lội, ẩn nấp, cắn câu, no mồi...
- Anh về cất lễ tam sanh,
Con cá đang còn lẩn cội, nấp ghềnh khó câu, (TL I - tr.161)
Ví dụ 3: Nhóm biểu tượng hoa.
* Hoa trong quan hệ với con người:
Hoa - người cầm:
Nghĩ ngán cho ai nhành mai đang thắm
Chẳng xứng tay cầm, uổng nhánh mai tươi. (TL I - tr. 1556)
Hoa - người đi đường: Ra đường thấy cánh hoa rơi,
Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta. (TL I - tr. 1765)
Hoa - người trồng: Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng,
Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm. (TL I - tr.1098)
Hoa - người hái: Lạ lùng anh mới tới đây,
Thấy hoa liền hái biết cây ai trồng. (TL 11(1) - tr.321)
Hoa - người thưởng thức: Chơi hoa cho biết mùi hoa,
Cầm cân cho biết cân già cân non. (TL I - tr.660)
Hoa - người bán: Thôi thôi buông áo em ra,
Để em đi bán kẻo hoa em tàn ... (TL I - tr.2075)
Hoa - người mua: Phiên rằm chợ chính Yên Quang
Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua. (TL I - tr.2207)
Hoa - người tìm hoa: " Chào chàng quốc sĩ vố song,
Đã đi đến cảnh có lòng tìm huê. (TL 11(1) - tr.254)
Hoa - người đeo hoa: Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thi đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (TL I - tr.70)
*Hoa trong quan hệ với môi trường tự nhiên:
- Hoa - đất: Minh em như cây quế hồng hoa,
Trồng nơi đất xấu chẳng ra được chồi. (TL I - tr. 1361)
- Hoa - nơi trồng: Tiếc đám phù dung mọc chung cỏ dại,
Cũng tỉ như hoa lài cặm phải chỗ dơ. (TL III - tr.391)
- Hoa - sương: Hoa tàn mà lại gặp sương
Tôi rầu gặp được người thương hết rầu. (TL I - tr. 1096)
- Hoa - nắng: Nắng hạn khô nên huệ mới tấn,
Đừng nghe ai phân rẽ để đôi đàng bơ vơ. (TL I - tr. 1477)
Hoa - mưa: Vi ai nên giấc không an,
Để cây khô vi hạn, để hoa tàn vi mưa. (TL I - tr.2321)
Hoa - trăng: Ra về dặn nguyệt, thề hoa,
Hoa cười, nguyệt tỏ tình ta càng nồng. (TL I - tr.1770)
* Hoa với vật chứa đựng:
Hoa - lá gói: Hoa sói mà gói xương sông,
Thầy mẹ gả phải người chồng bất nhân. (TL I - tr. 1095)
Hoa - chậu: Thiếp gặp chàng như ba (hoa) gặp chậu,
Chàng gặp thiếp như hạc đậu lưng qui... (TL I- tr.2059)
Hoa - bình: Em đừng khoe nhan sắc em tài,
Độc bình em để trống, nhành mai anh cắm vào. (TL I - tr.1752)
* Hoa với các bộ phận khác của cây:
Hoa - cây: Một cây mà trổ hai bồng,
Gái nuôi hai chồng xấu lắm ai ơi. (TL I - lĩ.122)
Hoa - cội: Bông ngẫu rụng xuống cội ngầu,
Em còn phụ mẫu dám đâu tự minh. (TL IU - tr. 192)
Hoa - trái: Anh ơi, đã vít thi vin,
Đã chơi bông trắng thi nhin trái xanh. (TL I - tr. 145)
Hoa - gai: Thiếp như một cụm hoa hường,
Thấy xinh rờ đến mắc đường chông gai. (TL IU - tr.383)
* Hoa với những đặc điểm tự thân vốn có:
Hoa - màu sắc: Hoa sen sao khéo giữ màu,
Nắng hồng không lạt, mưa dầu không phai. (TL 11(2) - tr. 115)
Hoa - hương thơm: Hoa thơm trồng dựa cạnh rào,
Gió Nam, gió chướng hướng nào cũng thơm. (TL I - tr. 1099)
* Hoa với những giai đoạn sinh trưởng và héo tàn của nó:
Hoa búp: Em như cái búp hoa hồng
Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu. (TL II (1) - tr.301)
Hoa nở: Ra về dặn bạn khoan chân
Dặn hoa khoan nở, mùa xuân đang dài. (TL 11(1) - tr.382)
Hoa đang thi: Có răng (sao) nối thật đi nha (nhé),
Lúc trăng đang tỏ, lúc hoa đang thi. (TL II (1) – tr.241)
Hoa tàn: Chơi trăng kẻo nhỡ trăng già,
Chơi hoa kẻo nhỡ rồi hoa lại tàn. (TLIV-tr.81)
Hoa hết nhụy: Tiếng là ngày rằm nhưng trăng đã méo
Vi em nói khéo anh tưởng trạng tròn,
Hoa kia đã hết nhụy, anh nói còn ngậm sương.
(TLII(2)-tr.l92)
Hoa rơi: Ra đường thấy nụ hoa rơi,
Lấy chân mà gạt, đừng chơi hoa thừa. (TL II (2) - tr. 127)
* Hoa với ong, bướm:
- Chiều chiều bóng bổ qua cầu
Con ong say vi mật, con bướm sầu vi hoa. (TL I - tr.593)
- Say em như bướm say hoa
Như ong say mật, như ta say minh. (TLI - tr. 1829)
* Hoa thuộc cấc loài khác nhau:
- Hoa lý - hoa sen: Đấy vàng đây cũng đồng đen,
Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ... (TLI - tr.754)
- Hoa lý - hoa đào: vắng trăng thi đã có sao,
Vắng hoa thiên lý, có đào nhị tiên. (TLI - tr.2317)
Từ các góc nhin sự vật trong một số ví dụ đã trình bày trên, có thể khái quát
được thành một số phạm trù làm nền tảng cho các mối liên tưởng thơ ca. Đó là các
phạm trù: màu sắc, hương vị, môi trường sinh trưởng, tập tính, phẩm chất, tính chất,
trạng thái, giá trị sử dụng ... Các phạm trù ở từng hệ thống nhỏ các biểu tượng có thể
không giống nhau (số lượng phạm trù nhiều hoặc ít, tên gọi các phạm trù khác nhau,
từng phạm trù được khai thác ở các mức độ đậm nhạt, sâu nông khác nhau ...). Ở đây,
chúng tôi chỉ chọn giới thiệu một số phạm trù cơ bản thuộc từng hệ thống biểu tượng
trong bảng phân loại mà thôi.
3.2. Phân loai và miêu tả biểu tượng nghê thuật trong ca dao người Việt:
Xét trên cơ sở cái biểu đạt, tập hợp các biểu tượng ca dao như là một thế giới thu
nhỏ của hiện thực khách quan. VI vậy, có thể phân chia thành các hệ thống nhỏ sau
đây:
- Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiện tượng tự nhiên và môi trường tự nhiên, bao
gồm:
■ Các hiện tượng tự nhiên: trời, đất, núi, sông, biển ...
■ Thực vật: cây, hoa, trái...
■ Động vật: rồng, phụng, chim, cò, cá ...
- Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo bao gồm:
■ Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh: áo, khăn, gương,
lược, chăn, chiếu, giường, mâm, bát...
■ Các công cụ sản xuất: thuyền, lưới, lờ, cần câu ...
■ Các công tành kiến trúc: nhà, đinh, cầu, chùa ...
- Hệ thống 3: Biểu tượng là con người bao gồm:
■ Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học - nghệ thuật: Kim Trọng, Thúy
Kiều, Ngưu Lang, Chức Nữ, Bá Nha, Tử kỳ ...
■ Các bộ phận trong cơ thể con người: má hồng, răng đen, gan - ruột...
Đây là cách phân loại mà Nguyễn Xuân Kính và Trương Thị Nhàn đã đưa ra và sử
đụng khi nghiên cứu về một số biểu tượng trong ca dao [81,tr.l86], [109, tr.46-52].
Xét thấy hệ thống này bao quát được hầu hết các biểu tượng, nên chứng tôi kế thừa
cách phân loại này (có bổ sung thêm mục số 3).
3.2.1. Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiên tượng tư nhiên và môi trường
tư nhiên:
Nhân dân ta ngày trước chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề trồng lúa nước. Mà
đã trồng trọt thi phải phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, không phải chỉ phụ thuộc
vào một, hai hiện tượng riêng lẻ, mà là cùng lúc phụ thuộc vào tất cả: trời, đất, nắng,
mưa ... Vi vậy, trong tầm mắt của cư dân nông nghiệp, thiên nhiên trở thành mối quan
tâm hàng đầu. Hơn ai hết, họ ý thức được rằng con người là một phần của thiên nhiên
hơn là một cái gi cách biệt với thiên nhiên. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên, coi đó
như thể ngôi nhà lớn của minh.
Trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt hàng ngày, con người đều
phải tiếp xúc nhiều với thiên nhiên. Đó là môi trường sinh hoạt, lao động cua con
người. Nhiều cuộc gặp gỡ của các chàng trai, cô gái, nhiều cuộc ca hát, đối đáp đã
diễn ra giữa chốn ruộng đồng, khi trời trong, nắng đẹp, khi gió mát, trăng thanh ... Tức
cảnh sinh tình, con người muốn được ca hát, ngâm ngợi để bày tỏ tâm tư, tình cảm của
minh.
Từ quan hệ tiếp xúc đó, thiên nhiên đã trở thành phương tiện thẩm mỹ để con
người qua đó bộc lộ thế giới nội tâm phong phú. Nhiều sự vật trong thiên nhiên được
con người sử dụng như những hình ảnh so sánh, ẩn dụ để miêu tả tư tưởng, tâm trạng,
con người, cảnh đời... Đặc trưng của ca dao là hướng nội, là đi vào khám phá, biểu
hiện thế giới nội tâm của con người. Nhưng đồng thời, phần lớn các bài ca dao đều có
sự xuất hiện của thiên nhiên, và ở nhiều bài, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng trong
việc xây dựng hình tượng, cấu tạo tứ thơ . . . nên tính hướng nội trữ tình ấy lại không
có tính chất khép kín, không cô lập hóa con người với thế giới tự nhiên bao quanh.
Nhiều hình ảnh thiên nhiên được chọn lọc, sử dụng nhiều lần với nét nghĩa ổn định đã
trở thành những tín hiệu thẩm mỹ thể hiện tâm tư, tình cảm của nhiều con người,
nhiều thế hệ, tạo nên một lối nói chung của cộng đồng, mang tính truyền thống lâu
đời.
Các biểu tượng ca dao thuộc hệ thống này bao gồm:
3.2.2.Các hiện tượng tự nhiên:
Có thể kể đến các biểu tượng: trời, đất, trăng, sao, núi, sông, biển, mưa, nắng ...
Nhiều thể loại của văn học dân gian đã chọn tự nhiên làm đối tượng, nhưng chỉ
trong ca đao, các hiện tượng đó mới thực sự mang tâm trạng con người, gắn với đời
sống tình cảm con người.
Do những đặc điểm riêng của các sự vật, hiện tượng trên, một số phạm trù đã
được dân gian sử dụng thường xuyên làm cơ sở cho những mối liên tưởng giữa CBĐ'
và CĐBĐ'.
- UPhạm trù kích thước, khoảng cách:
Trời, đất, núi, sông, biển ... là những sự vật, hiện tượng vô cùng to lớn ttong tầm
quan sát của người nông dân xưa. Họ đã dùng các sự vật này để biểu hiện ý niệm về
sự lớn lao, vô tận. Phổ biến trong ca dao là trời cao, đất rộng, núi cao, sông dài, sông
sâu, biển rộng ... Công lao cha mẹ thường được nói đến qua các biểu tượng này.
- Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ... (TL I - tr.498)
- Công cha như núi ngất trời •
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông ... (TLI - tr.498)
Bắc - nam, đông - tây, Hồ - Việt, Hán - Hồ ... cũng là những biểu tượng thuộc
phạm trù này. Khoảng cách địa lý gợi liên tưởng về sự ngăn cách của lứa đôi:
- Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc,
Trách ai làm phụng bắc, rồng nam. (TL I - tr.385)
- UPhạm trù tính chất, trạng thái:
Trăng mờ, trăng tỏ, trăng non, trăng già, trăng tròn, trăng khuyết, nước sông khi
đầy khi vơi, khi trong, khi đục, sóng gió dữ dội, thác ghềnh hiểm trở, hạt mưa vô định,
trời, đất, sông, núi trường tồn, vàng ngọc quí giá ... Đó là những trạng thái, tính chất
của sự vật được dân gian khai thác ở các bài ca dao.
Khi yêu nhau các lứa đôi thường thề thốt. Họ đã lấy trời, đất, núi, sông, biển,
rừng…lấy cái vĩnh hằng của thiên nhiên để đảm bảo cho lời thề của minh, đem lại cho
lời thề một giá trị bền vững:
- Trời cao, đất rộng em vọng lời nguyền,
Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung. (TL III - tr.405)
- Nắng lên hòn đá nẻ tư,
Sông Gianh có cạn, anh mới từ giã em. (TL I - tr.1477)
Sông là biểu tượng xuất hiện với tần số đáng kể trong ca dao, ý nghĩa vô cùng
phong phú. Sông tượng trưng cho những cảnh đời khác nhau. Dòng nước đục lờ đờ
gợi lên những hoàn cảnh hẩm hiu, bất hạnh:
- Sông sâu nước đục lờ đờ,
Cắm sào mà đợi bao giờ cho trong. (TL I - tr. 1851)
Sự thay đổi của dòng nước khi trong, khi đục gợi liên tưởng đến cuộc đời lúc
thịnh, lúc suy: -Nước dưới sông có khi trong, khi đục
Trang anh hùng có khi nhục, khi vinh. (TL I - tr. 1512)
Con sông khúc lở, khúc bồi làm ta nghĩ đến "người có lúc":
- Sông kia khúc lở, khúc bồi,
Con người khổ mãi thi rồi có vinh. (TL 11(2) - tr.128)
Trăng, trong nhiều trường hợp, được dùng để chỉ người con gái, nhất là trăng
rằm, trăng tròn, trăng tỏ - gợi lên vẻ đẹp, sự thanh tân, tuổi xuân, sức trẻ:
- Thân em như thể trăng rằm,
Mây đen có phủ chẳng lầm giá trong. (TL I - tr. 2031)
Nhiều cảnh đời cũng mượn trăng mà thế hiện. Sự thay đổi khi tròn, khi khuyết,
khi mờ, khi tỏ của trăng cũng giống như những thăng trầm trong cuộc sống:
- Trăng kia khi khuyết khi tròn,
Người kia khi nhục, lại còn khi vinh. (TL 11(2) - tr.365)
hay: - Trăng mờ có lúc trăng trong,
Sớm khuya chịu khó đỉnh chung có ngày. (TL 11(2) - tr.82)
Sóng, gió, thác, ghềnh, núi, sông, rừng, biển với sự dữ dội, hiểm trở, hiểm nguy
của chúng đã trỏ thành biểu tượng của sự khó khăn, thử thách:
- Chàng đâu thiếp đó cho rồi,
Hiểm nguy thiếp chịu, sóng dồi thiếp theo. (TL I - tr.535)
- Chàng lên non, thiếp cũng lên non,
Chàng lên trời, vượt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.
(TLI-tr.539)
Vàng, ngọc là những chất liệu quí giá thường biểu tượng cho bản chất thực sự tốt
đẹp của con người:
- Ngọc lành còn đợi giá cao,
Chờ người quân tử em giao nghĩa tình. (TL III - tr. 335)
3.2.1.2. Thực vật:
Thực vật trở thành biểu tượng trong ca dao có khi ở dưới dạng chung của từng
loại lớn: cây, kiểng, hoa, trái có khi dưới dạng cụ thể của từng sự vật: về cây có quế,
trầm, trúc, mai, đào, liễu, đa, ngô đồng, trầu, cau về hoa có lan, huệ, nhài, bưởi, sen,
hồng về trái có mận, đào, lê, lựu, hồng ngâm, chanh, khế, cam sành ...
Các phạm trù sau đây của thế giới thực vật đã được khai thác để hình thành biểu
tượng:
- UPhạm trù kích thướcU:
Được chú ý nhiều nhất là chiều cao của cây: cây cao lá dài, cây cao chẳng sợ gió
rung, cây cao cả gió khó trèo, cây cao gió vật gió vờ, cây cao gió đập đùng đùng, cây
cao thi gió càng lay, cây cao bóng ngả sum sê, cây cao mấy trượng cũng trèo, cây cao
bóng mát chẳng ngồi, cây cao có trái chín muồi ... Chiều cao này biểu đạt nhiều ý
nghĩa khác nhau: nơi tốt đẹp, thuận lợi, nơi khó khăn, thử thách, phẩm chất kiên định
của con người...
- Cây cao mấy trượng cũng trèo,
Đường xa mấy dặm cũng theo anh về. (TL I - tr.380)
- Cây cao đứng giữa đại ngàn,
Gió rung không sợ, sợ chi tàn lửa rơm. (TL 11(2) - tr.98)
- UPhạm trù tính chất, trạng tháiU:
Các loại thực vật ở những trạng thái khác nhau biểu hiện những ý nghĩa khác
nhau:
Cây vàng úa, cây khô, cây sâu, cây ngã, cây xa rừng ... gợi lên những bất hạnh
của đời người:
... Ví dầu lòng thầy, dạ mẹ không thương,
Tấm thân anh đây như cây khô chết đứng giữa chặng đường đợi em.
(TL I - tr. 919)
- Cây xa rừng, cây khô, rừng trụi
Người xa người, tội lắm người ơi... (TL I - tr.389)
Kiểng hư, kiểng héo, kiểng không xanh, kiểng xa bồn ... là những hình ảnh tượng
trưng xuất hiện phổ biến trong ca dao Nam bộ:
- Kiểng hư để vậy sao đành,
Ra tay sửa kiểng không thành thi thôi. (TL III - tr.305)
- Kiểng xa bồn, kiểng rũ héo queo,
Anh xa người ngãi như đèn treo hết dầu. (TL III - tr.306)
Trầu héo, cau khô, cau non, cau già, chanh non, trái đào non mới tượng, trái cam
sành héo cuống, trái đào tiên ruột mất vỏ còn, hoa tươi, hoa tàn, hoa búp, hoa nở, hoa
rơi, hoa gãy cành ... biểu thị cho những đánh giá khác nhau về con người:
- Khế rụng bờ ao thanh thao anh lượm,
Ngọt như cam sành héo cuống anh cũng chê. (TL I - tr. 1181)
- Anh về mắc võng ru con,
Đừng nên tơ tưởng trái chanh non trái mùa. (TL I - tr. 169)
Người con gái tàn tạ và bông hoa héo ùa thật giống nhau:
- Hoa tàn, hoa héo không tươi
Đoái nhin bạn cũ hổ ngươi mười phần. (TL I - tr. 1096)
- UPhạm trù hương vị:
Hương thơm của các loài hoa, vị ngọt, chua của các loại trái cũng là khía cạnh
tạo ùên nhiều liên tưởng thơ ca.
Theo thị hiếu thẩm mỹ của người bình đẵn xưa, hoa nhài là một thứ hoa đẹp, quí.
Qua bộ phận ca dao về hoa nhài, có thể thấy rõ quan niệm thẩm mỹ,
đạo đức của quần chúng cần lao: "Họ ca ngợi những gi là thủy chung, tình nghĩa,
thích cái đẹp, cái duyên bên ữong hơn là những gi ồn ào chốc lát, phô trương bên
ngoài (Trong những lời về hoa nhài, số lời nhắc đến hương của loài hoa này chiếm
gần một nửa: 44%)" [81, tr.198-199].
- Anh đừng ham bông quế mà bỏ phế bông lài,
Mai sau quế rụng, bông lài thơm lâu. (TL III - tr. 162)
- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. (TLI-tr.565)
Người phụ nữ với phẩm cách cao quý thường tự ví minh với cây quế, cây
trầm: - Em như cây que'trong rừng,
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay ... (TL I - tr, 966)
Hàng loạt bài ca dao bắt đầu bằng công thức "hoa thơm ..." với ý nghĩa biểu cảm
rõ rệt: - Hoa thơm ai chẳng nâng niu ...
- Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi...
- Hoa thơm, thơm lửng thơm lừng,
Dặn con ong kia đừng chơi nhởi,
Dặn con bướm đừng xôn xao. (TL I - tr.1099)
Bên cạnh hoa còn có biểu tượng trái. Hương vị của từng loại trái biểu hiện cho
những con người với tính cách, phẩm chất khác nhau. Những loại trái quý, ngọt ngon
như cam sành, đào tiên, hồng ngâm, hồng đào, hồng rim tượng trưng cho những giá trị
cao quý, đẹp đẽ:
- Ra đường lạt miệng thèm chanh
Ở nhà quýt ngọt, cam sành thiếu chi. (TL 11(2) - tr. 127)
Khế, chanh, sung ... là những thứ trái chát chua, ít được ưa thích, thường chỉ
những giá trị bình thường hoặc tầm thường:
- Cam sen, quýt ngọt người chê,
Người ăn khế rụng, tôi ghê thay người. (TL I - tr.351)
- UPhạm trù màu sắcU:
Thế giới thực vật với màu sắc phong phú cũng góp phần vào sự hình thành
những liên tưởng thơ ca, biểu thị cho những giá trị khác nhau. Đó là: trầu xanh, trầu
vàng, cau xanh, cau phơn phớt lòng đào, cây kiểng xanh, bông bưởi trắng, hoa sen
hồng, vườn hồng ...
- Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? (TLI -tr.774)
- Anh ơi đã vít thi vin,
Đã chơi bông trắng thì nhìn trái xanh (TL I - tr. 145)
- UPhạm trù đặc điểm và môi trường sinh trưởngU:
Mỗi loài cây trong thực tế đều cố những đặc điểm và môi trường sinh trưởng
không giống nhau. Hoa sen sống nơi chốn bùn lầy, nước đọng nhưng mùi hương
thanh thoát, được coi là loại hoa quý. Bèo là thứ dễ sống nhưng ít giá trị sử dụng, bị
coi là thấp kém, tầm thường. Bèo, sen thường được dùng trong thế tương phản với
nhau để chỉ những loại người trong xã hội:
- Thân chị như cánh hoa sen,..
Chúng em như bèo, như bọt chẳng chen được vào ...
Nhưng cũng có lúc, sự đổi đời xảy ra:
- Lạy trời cho cả mưa rào
Cho sấm, cho chớp cho bão to, gió lớn
Cho sen chim xuống, bèo trèo lên trên. (TL I - tr.2021)
Cánh bèo, khi dùng đơn lẻ, là hình ảnh của người con gái đáng thương sống đời
chIm nổi, vô định:
- Thân em như thể cánh bèo,
Ngược xuôi, xuôi ngược theo chiều nước trôi. (TL I - tr2030)
Dân gian còn chú ý nhiều đến các mối quan hệ trong quá trình sinh trưởng, môi
trường sinh trưởng của cây, kiểng, hoa. Đó là cây với đất, với rừng; cây với gió, nước;
cây với rễ, chồi, lá, cành, hoa; cây với người trồng, người chăm sóc, người hái quả;,
cây với bóng mát; cây với vật đậu (phượng hoàng, cú, thỏ ...); hoa với nắng, mưa,
sương, gió; hoa với chậu, với hồ; hoa với mùa xuân ...
- Ra về cầm bứt đề thơ,
Dầu hoa có nỏ cũng chờ mùa xuân. (TL II (1) - tr.377)
- Một cây tùng năm bảy con thỏ bạch nó leo chung,
Biết làm sao đặng, chung cùng với em? (TL I - tr. 1384)
Trong số biểu tượng thực vật này, trầu - cau luôn nhận được sự chú trọng đặc
biệt của dân gian. Đó là biểu tượng có thể xếp vào hàng tiêu biểu, điển hình trong hệ
thống giá trị của văn hóa Việt Nam nói chung và hệ thống biểu tượng ca dao nói riêng.
Trong tư duy liên tưởng của người xưa, cây cau có thân tròn, chắc, thẳng, cao
được coi là hình ảnh đẹp đẽ của người đàn ông. Còn lá trầu hình tam giác, bầu bĩnh
xoè ngang trên đất, lại bóng bẩy thơm tho như đôi má người con gái, được coi là biểu
tượng của người phụ nữ. Trầu cau lại có sự cộng sinh, có "mối tình cây cỏ" với nhau.
Trầu ưa bóng mát, cần cột để leo quấn, trồng cạnh gốc cau rất hợp. Đất có bóng trầu
che ẩm ướt cũng rất tốt đối với cau, nhất là ở giai đoạn cau mới lớn. Vi vậy, trầu cau
thường được trồng quấn quýt, xanh tươi bên nhau. Sự sóng đôi này gợi liên tưởng đến
tình yêu, hạnh phúc, hôn nhân:
- Ai về cuốc đất, trồng cau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên,
Cau kia bén trái lập nên cửa nhà. (TL III - tr. 156)
Tương tự, trúc với mai, lựu với đào, lựu với lê, lan với huệ, liễu với mai ... là
những loại cây thường được trồng cạnh bên nhau, cũng đi vào thơ ca dân gian để biểu
tượng cho các đôi lứa:
- Trúc mai trồng lộn một bồn,
Hai ta chồng vợ ai đồn mặc ai. (TL III - tr.455)
Các biểu tượng cây, kiểng, hoa, trái thực sự đã làm nên một khuôn mặt rất riêng
cho ca dao với số lượng phạm trù phong phú. Dân gian đã phát hiện nhiều nét tương
đồng tình tế giữa thế giới cỏ cây và thế giới con người nhờ vào sự quan sát trực tiếp
và thường xuyên trong đời sống hàng ngày.
3.2.1.3. Động vật:
Các loài vật được dùng làm biểu tượng trong ca dao cũng rất nhiều: cò, bống,
bướm, ong, nhạn, én, loan, phụng, rồng, tằm, cá, dã ưàng ...
Các phạm trù sau đây ương thế giới động vật thường được khai thác để hình
thành biểu tượng:
- UPhạm trù tập tính và môi trường sinh trưởngU:
Với địa hình nhiều sông ngòi, kênh rạch như ở nước ta, từ xưa, người nông dân
đã rất quen thuộc với cảnh "chim trời, cá nước", với cách thức quan sát "Nhin lên trời
thấy ...", "Ngó xuống nước thấy ...". Trong môi trường đó, chim và cá là hai đối tượng
nổi bật, được đưa vào ca dao rất nhiều, có khi ở dạng nghĩa đen, có khi ở dạng nghĩa
bóng. Qua quá trình thống kê, chúng tôi nhận thấy dạng nghĩa bóng nổi trội hơn. Cá,
chim đáng được ghi nhận như là những hình tượng thẩm mỹ, những tín hiệu nghệ
thuật.
Biểu tượng chim có khi ở dạng chỉ loại chung, có khi ở dạng cụ thể hơn: cò,
nhạn - én, loan - phụng ...
Con cò là biểu tượng của người nông dân Việt Nam ở nhiều khía cạnh. Sự chăm
chỉ, cần cù của loài chim này đã được người bình dân xưa chú ý, từ đó mà có những
liên tưởng đến cuộc đời người nông dân chân lấm, tay bùn nơi đồng ruộng:
- Con cò lội bãi rau xanh,
Đắng cay chịu vậy, than rằng cùng ai. (TL I - tr. 428)
- Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non ... (TL I - tr.335)
Hình ảnh chim nhạn xuất hiện với tần số lớn trong ca dao, một phần cố lẽ từ điển
tích "Tin nhạn" gắn liền với việc Tô Vũ chăn dê, một phần do đây là loài chim xuất
hiện nhiều vào mùa thu, đất trời buồn bã, dễ gợi cảm giác âu sầu cho con người. Chim
nhạn kêu sương, nhạn lạc bầy thường được đưa vào những bài ca dao có nội dụng
buồn, thở than, trách móc, nhớ nhung:
- Nhạc lạc bầy kêu sương nơi biển bắc,
Em tìm anh mọi nẻo tắt đường quanh
Em vái cho chồng gặp vợ, dầu có tử sanh cũng không nề. (TL III - tr.445)
Chim nhạn mùa thu tới, mùa xuân đi. Chim én mùa xuân tới, mùa thu bay
đi. Hoàn cảnh sống không bao giờ gặp nhau của hai loài chim này gợi cảnh lứa
đôi ly biệt: - Dế kêu sầu thảm bớ nường,
Cam đành én khốc bạn, nhạn kêu sương từ rày... (TL I - tr.696) Chim loan -
phụng, do tập tính thường bay đôi, đã trở thành biểu tượng cho lứa đôi gắn bó: -
Chờ phượng với ơi loan,
Dần dần đợi phượng để ta kết đoàn ta đi. (TL li (1) - tr.264) Dân gian còn phân
biệt rất rõ giữa phượng hoàng và gà do hoàn cảnh sống của chúng không giống nhau:
- Nơi gần không có, phải ngó nơi xa,
Tham giàu để phượng sánh gà sao nên. (TL I - tr. 1495)
Cá, chim trong môi trường sống tự nhiên của chúng thật phóng khoáng, tự do,
trái ngược hoàn toàn với khi ỏ trong lưới, lờ, chậu, ao, lồng ... Phạm trù này được dân
gian chú ý khai thác rất nhiều để biểu thị cho những cảnh đời của người phụ nữ: -
Bậu có chồng rồi như con cá vô lờ,
Tôi tương tư nhớ bạn, dật dờ đêm thanh. (TLI-tr.250)
Ong, bướm luôn bay lượn quấn quýt bên hoa, con tằm thường ăn chỉ một loại là
lá dâu, con nhện giăng tơ, con dã tràng xe cát ..những đặc đếm này đều là cơ sở của
các liên tưởng tương đồng hình thành nên biểu tượng ong, bướm, tằm
- dâu. dã tràng ...
- Phạm trù phẩm chất;
Hình ảnh chim khôn, cá khôn gợi liên tưởng người khôn. Khôn ngoan, thông
minh là phẩm chất trí tuệ được dân gian xem trọng. Nếu như trong thể loại cổ tích,
những truyện kể về các nhân vật trí xảo, ứng xử tài tình là phổ biến, thể hiện niềm mơ
ước vươn tới đỉnh cao trí tuệ của nhân dân, thi trong ca dao chúng ta cũng lại bắt gặp
thái độ nâng niu, trân trọng đó của dân gian:
- Chim khôn chưa bắt đã bay,
Người khôn chưa nói dang tay đỡ lời. (TL I - tr.616)
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. (TL I - tr.618)
Có chim khôn, cá khôn thi cũng có bướm khôn, có cá bống đảm đang, con tằm
bạc nghĩa ...: - Trách minh chẳng trách ai đâu,
Trách con tằm bạc nghĩa bỏ nương dâu không nhin. (TL I - tr.2145)
3.2.2. Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo:
3.2.2.1. Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh:
Biểu tượng là những đồ vật liên quan đến đời sống cá nhân và gia đinh của con
người trong sinh hoạt hàng ngày như khăn, nón, áo, gương, lược, đàn, đèn, khóa, chia,
rương, kim, chỉ, mâm, bát, đũa ... chiếm số lượng khá lớn. Các vật thể nhân tạo đã
tham gia tích cực vào việc biểu hiện thế giới nội tâm của con người.
Các phạm trù sau đây thuộc thế giới vật thể nhân tạo đã trở thành cơ sở cho các
liên tưởng thơ ca:
- UPhạm trù chất liệuU:
Thế giới các vật thể nhân tạo là do con người tạo nên, sự vật vi thế có phạm trù
chất liệu. Qua việc người nông dân sử dụng các đồ vật làm từ chất liệu nào có thể biết
được nhiều điều về họ. Trong ca dao, các vật dụng thường được dùng với sự phân biệt
rõ rệt về chất liệu chỉ ra sự đối lập giữa giàu - nghèo, sang -hèn ... Chốn giàu sang thi
nệm gấm, mền gấm, gối lụa, đệm quế, sập vàng, áo gấm, áo vóc, áo lụa, áo nhiễu, đũa
ngọc, đũa ngà, đũa mun, mâm vàng, mâm son, bát sứ, nồi đồng ... Chốn nghèo hèn thi
chiếu lác, chiếu rơm, chăn rạ, gối rơm, áo vải bô, đũa tre, bát đàn, nồi đất ... Có thể
nói phạm trù này đã được khai thác một cách triệt để. Các chất liệu đi kèm giúp thể
hiện rõ nghĩa biểu tượng của sự vật trong bài ca:
- Ai ơi chớ phụ bát đàn,
Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày ... (TL II (2) - tr.93)
- Đũa mun bịt bạc anh chê,
Đũa tre lau cạnh anh mê nỗi gi? (TL III - tr.268)
Có khi chất liệu để tạo thành sự vật được miêu tả ở mức độ thấp nhất, hoặc
không có chất liệu nữa, mà là sự sử dụng những cái có sấn trong tự nhiên thay thế cho
đồ vật nhân tạo, nhằm nhấn mạnh ý tưởng về cái nghèo:
- Đêm nằm tàu chuối xé đôi,
Hơn nằm chiếu miến lẻ loi một minh. (TL III - tr.260)
- Phạm trừ trạng thái, tính chất:
Bên cạnh chất liệu, trạng thái, tính chất cũng là khía cạnh đáng chú ý ở các vật
thể nhân tạo. Áo rách, áo vá vai, áo vá quàng, áo không tay, áo sứt chỉ đường tà, nón
rách, chiếu rách, gương tróc thủy, gương mờ, gương trong, đua so le, đũa bằng, ngọn
đèn không tắt, tấm lụa đào còn nguyên hay đã xé lẻ... là những hình ảnh xuất hiện phổ
biến trong ca dao. Trạng thái, tính chất không bình thường, không hoàn mỹ ở sự vật
gợi nghĩ về những cảnh đời bất hạnh, không như ý của con người, ngược lại, khi sự
vật hiện lên với trạng thái tốt đẹp nhất, hạnh phức và niềm vui của con người cũng ẩn
tàng trong đó:
- Trăm năm mà soi gương mờ,
Không bằng một chốc soi nhờ gương trong. (TL II (2) - tr. 134)
- ... Vi dầu chồng thấp vợ cao,
Như đôi đũa lệch biết bao giờ bằng. (TL I - tr.2333)
Ngọn đèn không tắt là hình ảnh của sự chờ đợi mỏi mòn:
- Đêm nằm thổn thức ngồi khêu đèn phụng,
Canh sang năm gần lụn khúc- rồng ... (TL I - tr. 804)
Gặp những cảnh ngộ không may thi dân gian dùng ngọn đèn lu li, ngọn đèn tàn,
đèn tắt: - Đèn lu li nửa nước nửa dầu,
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu nợ duyên. (TL I - tr.758)
Đèn hai tìm: chàng trai đã có vợ mà còn muốn đèo bòng; đèn treo trước gió, con
người trước những trở ngại của cuộc sống ...
- UPhạm trù giá trí sử dụngU:
Các vật thể do con người tạo ra đều có những giá trị sử dụng khác nhau. Mỗi sự
vật có một giá trị thiết thực. Các giá trị thường không trùng lắp nhưng lại có liên hệ
gắn bó , bổ sung cho nhau. Kim và chỉ, nút và khuy, khóa và chia, khóa và rương,
gương - lược, mâm - bát, mâm - đũa, đá - dao ... là những sự vật thường được dùng
kèm với nhau, không thể thiếu nhau, không thể thay thế được. Sự gắn bó đó giống như
sự gắn bó lứa đôi:
- Đôi ta như cúc với khuy,
Như kim với chỉn (chỉ) may đi cho rồi. (TL II (1) - tr.286)
- Đôi ta như đá với dao,
Năng liếc, năng sắc, năng chào thời quen. (TL I - tr.863)
Chiếc áo là vật che thân, mang hơi thở, hơi ấm, mùi hương, dáng dấp, sở thích
của con người. Đó là một phần đời sống cá nhân của con người. Người bình dân xưa
đã rất ý nhị và tình tế khi thể hiện tình yêu qua hình ảnh chiếc áo.
Chiếc áo trở thành vật làm tin, thành minh chứng của tình yêu. Hành động "để
áo" khi ra về, lúc chia tay xuất hiện với tần số cao trong ca dao, biểu hiện một tình yêu
mãnh liệt mà kín đáo của người xưa:
- Anh về để áo lại đây ...
- Anh về cởi áo em ôm ...
Đề thơ trên áo cho thấy đôi bên đã có những ràng buộc tình cảm sâu sắc:
- .,. Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ ...
- Minh đưa bâu áo tôi viết tháo vài hàng ...
- Ra về xé áo làm tư,
Cắn ngón tay làm bút để trao thư cho chàng (TL II (1) - tr.385).
May áo, cử chỉ săn sóc đặc biệt, là một cách thổ lộ tình yêu:
- May cho minh áo lá châu xá bông tây.
Tại minh ở bạc ngồi xuống đây lột trần (TL I - tr. 1313)
Đắp áo chung là một cách nói bóng gió về cuộc sống lứa đôi:
- Yêu nhau kéo áo đắp chung ...
- Đêm qua gió lạnh sương lùng,
Hỏi người có áo đập cùng lấy hơi ...
Chiếc áo quả là đã chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong việc biểu hiện
những tâm trạng, mơ ước tình yêu. Gắn bó thiết thân với con người, chiếc áo là biểu
tượng thiêng liêng của tình yêu, của sự trao gởi yêu thương. Chỉ có thể hiểu một cách
sâu sắc những hành động mà thoạt nhin người ta có thể nghĩ rằng đó là sự miếu tả trực
tiếp: để áo, cởi áo, đề thơ trên áo, may áo, đắp áo chung ... nếu như tiếp nhận chúng
với tư cách biểu tượng. Dân gian đã cấp cho chiếc áo một tầng ngữ nghĩa phong phú
nên khi tìm hiểu hình ảnh này trong ca dao không thể không chú ý đến nền tảng nghệ
thuật đó.
Cùng với chiếc áo, trang phục của người xưa còn có khăn, nón, yếm ... Chiếc
nón, chiếc khăn được trao, chiếc yếm được dùng để đắp ... đều là sự biểu hiện tình
yêu: - Trời mưa gió rét kin kin,
Đắp đôi dải yếm hơn nghin chăn bông. (TL I - tr.2263)
- Tay bắt tay hai ngả anh đưa khăn rằn miếng chả cho em cầm,
Mai sau anh về trển, em lót đầu nằm cho bớt nhớ thương.
(TL III - tr.372)
Chăn, gối, giường, chiếu ... cũng đã trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi.
Mơ ước về một cuộc sống hoa hợp vợ chồng, dân gian có nhiều cách thể hiện: chung
chăn, chung gối, chung giường, sắm giường, sắm chiểu, may chăn ...
- Ai ơi cố biết cho không,
Chăn loan còn đợi, gối huê phong còn chờ. (TL I —tr.71)
3.2.2.2. Các công cụ sản xuất:
Các biểu tượng: thuyền, lưới, lờ, cần câu ... đều thuộc về nghề sông nước. Với
môi trường thiên nhiên nhiệt đổi biển rộng, sông dài, kênh rạch chằng chịt như ở nước
ta, sự xuất hiện của những biểu tượng đó trong ca dao cũng là điều dễ hiểu. Nổi bật
nhất trong nhóm này là con thuyền.
- UPhạm trù giá trị sử dụngU:
Trong đời sống, con thuyền được dùng vào nhiều mục đích khác nhau. Ca dao
nói đến nhiều loại thuyền: thuyền than, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền câu, thuyền
buôn ... Mục đích sử dụng thông báo một công việc, một nghề nghiệp, một điều kiện
kinh tế vi vậy các loại thuyền là biểu tượng của những loại người trong xã hội:
- Thuyền than mà đậu bến than,
Thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa. (TL I - tr.2098)
- Một ngày dựa mạn thuyền rồng,
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài. (TL I - Tr. 1407)
Khi sử dụng, con thuyền còn liên quan gắn bó với nhiều thực thể khác: thuyền -
bến, thuyền - khách, thuyền - sông, thuyền - thuyền ... Các kết hợp này cũng mang ý
nghĩa biểu tượng cho lứa đôi.
Khi hạnh phúc thi có: thuyền cặp bến, một thuyền một bến, một thuyền một lái,
gần bến gần thuyền ...
- Thuyền về tới bến khuya canh,
Còn câu tình nghĩa để dành đêm sau. (TL I - tr.2099)
Khi xa cách, tan vỡ thi có: thuyền ngái bến, thuyền bỏ bến, thuyền dời bến khác,
đò đưa bến khác, khách không đợi thuyền:
- Thuyền đà bỏ bến thuyền đi,
Ta trau bến lại có khi thuyền về. (TL I – tr.2089)
Khi chung thủy thi có: thuyền dời nhưng bến không dời, thuyền mong đợi khách,
khách mong đợi thuyền, bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền, bến thi chực tiết thu
đông đợi đò ...
Tùy theo sự vật được kết hợp mà thuyền được hiểu với những nét nghĩa biểu
trưng khác nhau:
- Thuyền - bến: thuyền là người con trai do tương quan giữa cái di động và cái
cố định.
- Thuyền - lái: thuyền là người con gái do tương quan giữa cái bị động, phục
tùng và cái chủ động.
- Thuyền - khách: thuyền là người con gái do tương quan giữa cái cố định, thủy
chung và cái thay đổi, chuyển dời.
Con thuyền đi trên sông, biển phải vượt nhiều ghềnh thác, trải qua nhiều sóng
gió, bão bùng, nên còn là biểu tượng của sự thử thách:
- Mong cho nên đạo vợ chồng,
Đò xuôi nước ngược mấy dòng cũng qua. (TL II (1) - tr.343)
Những chiếc thuyền đi và về trên sông nước cũng là hình ảnh lứa đôi cách
biệt: - Lênh đênh thuyền giã ra vời,
Thuyền mành vô cửa biết mấy đời gặp nhau.(TL II (2) - tr.52)
- UPhạm trù trạng thái, tính chấtU:
Trong quan hệ thuyền - bến, thuyền được hiểu là người con trai do tính chất di
động, thường xuyên thay đổi vị trí của thuyền. Nhưng khi được dùng đơn lẻ, phần
nhiều hình ảnh này nghiêng về phía biểu hiện cho người con gái. Dân gian đã liên
tưởng sự trôi nổi, bấp bênh, lênh đênh của chiếc thuyền với thân phận người con gái.
Đó là chiếc thuyền be, thuyền không lái, chiếc đò nghiêng, chiếc bách lênh đênh,
chiếc đò đầy sóng lượn, chiếc thuyền trôi nổi như bèo, chiếc giã giữa dòng, chiếc
thuyền vàng lênh đênh...
- Anh về cho nhớ mai sang
Đừng có bỏ chiếc thuyền vàng lênh đênh. (TL II (1) - tr.226)
Cùng với con thuyền, các vật dụng khác gắn bó với nghề sông nước như lưới,
đó, cần câu ... cũng đã trở thành biểu tượng quen thuộc trong ca dao và thường được
khai thác ỏ phạm trù tính chất: lưới thưa, lưới bén, đó thưa, cần câu nhân, cần câu
ngãi:..- Lưới thưa mà bủa cá kim
Lòng qua thương bậu, bậu tìm nơi nao. (TL III - tr.313)
- Cá không ăn câu thật là con cái dại,
Bởi câu anh cầm, câu ngãi câu nhân. (TL III - tr.200)
- UPhạm trù chất liệuU:
Được quan tâm nhiều ở khía cạnh chất liệu trong nhóm biểu tượng này là chiếc
cần câu. Đây là vật dụng đơn sơ, kích thước bé nhỏ nhưng dân gian lại có khuynh
hướng miêu tả kỹ đến từng chi tiết nhỏ. Trong nhiều trường hợp, các chất liệu được
chọn lọc đã góp phần đắc lực trong việc chỉ ra ý nghĩa biểu tượng của sự vật này:
- ... Cái cần câu trúc
Cái ống câu trắc
Cái lưỡi câu vàng
Cái đàn chỉ tơ
Sáng trăng anh câu nhởi, ai ngờ bén duyên. (TL I - tr.316)
- Cần chắc, ống trúc, chỉ bạc, tơ Tàu,
Sao không câu con cá rô biển, lại câu con cá rô bàu làm chi?
(TL I - tr.370)
Thuyền thúng hay thuyền ván cũng biểu thị những cảnh đời khác nhau:
- Anh chê thuyền thúng chẳng đi,
Anh đi thuyền ván có khi gập ghềnh
Ba chim bảy nổi lênh đênh !
- Em chê thuyền ván chẳng đi,
Em đi thuyền thúng có khi trùng triềng
Có khi đổ ngả, đổ nghiêng. (TL I - tr. 100)
3.2.2.3. Các công trình kiến trúc:
Nhóm này bao gồm các biểu tượng: nhà, chợ, cầu, đinh, chùa, giếng...
Các phạm trù làm nền tảng cho quá trình hình thành biểu tượng là:
- UPhạm trù không gian xã hội và văn hóaU:
Ngày trước, chùa ỉa nơi thờ Phật và diễn ra các hội lễ của Phật giáo. Còn đinh là
nơi sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa chủ yếu của làng quê. Trong một bài nghiên
cứu về ngôi đinh làng, Đinh Gia Khánh cho biết "...bên cạnh việc cúng tế có tính chất
Nho giáo, thi các sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa đều tập trung ở đinh. Lễ hội dân
gian có một số lấy chùa hoặc đền làm trung tâm, nhưng phần lớn thi lấy đinh làm
trung tâm" [74, tr.62]. Trong tâm thức dân gian, ngôi đinh chiếm một vị trí quan trọng,
thiêng liêng (nơi thờ Thành hoàng, họp bàn việc làng, lễ hội, phạt vạ ...)
Đi vào ca dao, đinh không chỉ mang những nét nghĩa như thế. Ở đây, đinh còn
được hiểu là nơi hẹn hò, gặp gỡ của lứa đôi, là không gian của những mối tình hạnh
phúc hay đau khổ. Nhắc đến đinh, người ta nghĩ đến một điểm hẹn tình yêu hơn là
một trung tâm tín ngưỡng và hành chính:
- Ngày ngày ra đứng đầu đinh,
Chuyện trò to nhỏ, có minh có ta. (TL I - tr.1543)
"... Tiễn minh đến trước cửa đinh
Để ta than thở với minh vài câu. (TL I - tr. 1368)
Chùa là nơi thờ cúng thiêng liêng, nhưng đây cũng là nơi gặp gỡ của nhiều con
người, vi vậy, đã trở thành không gian của tình yêu. Trong ca dao, nhắc đến chùa,
phần nhiều là gợi ra một không gian của lứa đôi tình tự:
- Ra về anh đứng cửa chùa,
Như chuốc lấy nhớ, như mua lấy sầu.
Trông em chẳng thấy em đâu,
Thấy cô sư bác thêm sầu tương tư. (TL I - tr. 1766)
Đó là nơi trai gái gặp gỡ, yêu thương, thề thốt gắn bó với nhau. Trong ca dao còn
phổ biến lối nói tu chung một chùa của các đôi lứa:
- Dẫu mà không lấy được em,
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu.
- Tu mô cho em tu cùng,
May ra thành phật thờ chung một chùa ... (TL II (1) - tr.267)
Do trong thực tế, đinh và chợ, giếng và chùa thường tồn tại gắn bó bên nhau, nên
ca dao cũng có lối nói quen thuộc:
- Muốn cho trước giếng, sau chùa
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu. (TL II (1) - tr.352)
- Anh chưa có vợ như chợ chưa có đinh
Trời mưa dông đôi ba trộ, biết ẩn minh vô mô? (TL I - tr. 102)
Chiếc cầu, một loại công trình công cộng dành cho nhiều người sử dụng, cũng
được khai thác ở phạm trù này:
- Anh đang cỡi ngựa qua kiều (cầu)
Thấy em đứng đó lỡ chiều anh thương. (TL II (1) - tr.223)
- Nhổ khi gánh nặng anh chờ,
Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên. (TL I - tr. 1667)
Chiếc cầu, đó là không gian của những mối tình, những kỷ niệm yêu đương ...
- UPhạm trù chức năngU:
Chùa, miếu với công việc thắp hương, dâng hương, đóng oản ... cũng được dùng
để nói chuyện yêu đương của đời thường:
- Công em gánh gạch xây tường,
Mà em chẳng được thắp hương chùa này. (TL I - tr.501)
- Miếu thiêng chẳng có ai thờ,
Tay ai thanh tịnh xin nhờ thắp hương. (TL I - tr. 1358)
Nếu như sông với chiều dài dằng dặc, chiều rộng mênh mông, chiều sâu thăm
thẳm là biểu tượng của sự ngăn cách, cách trở trong tình yêu, thi chiếc cầu bắc qua
sông là hình ảnh của sự nối kết tình yêu, xóa nhòa ranh giới chia cách:
- Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông Cái đón thầy mẹ sang
Thầy mẹ sang trước, anh em ta rày sang sau. (TL I - tr. 175)
- UPhạm trù trang thái, tính chấtU:
Trạng thái, tính chất của các công trình kiến trúc cũng là khía cạnh khơi gợi
nhiều liên tưởng nghệ thuật. Các biểu hiện-cụ thể là: nhà dột cột xiêu, nhà rách nát,
nhà ngói rung rinh, chùa rách, cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh, cầu mỏng ván gió rung, cầu
cao ván mỏng cong vòng, cầu không tay vịn ...
- Chùa này rách nát, bụt ngã sư sầu
Còn tình nhân chi anh nữa để dựng lầu đúc chuông. (TL II (1) - tr.265)
- Cầu kiều ván mỏng gió rung
Bạn về sửa lại cho ta đi chung một cầu. (TL I - tr.372)
Chợ khi họp, khi tan, khi đông, khi vắng trở thành biểu tượng cho những thời
điểm khác nhau trong cuộc đời, trong tình yêu:
- Buổi chợ đông, sao em chẳng bán hàng,
Để tan buổi chợ, em dạo làng bán duyên. (TL I - tr.298)
Giếng sâu, giếng cạn được dân gian dùng biểu thị cho lòng người:
- Tưởng giếng sâu, nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây. (TL I - tr. 1982)
- UPhạm trừ chất liệuU:
Nhà là không gian quen thuộc, thiết yếu của mỗi gia đinh. Tự chúng đã phản
ánh nhiều khía cạnh có liên quan đến chủ nhân. Vi vậy, trong ca dao, nhà cũng tham
gia vào việc biểu hiện đời sống con người. Nhà lim, nhà ngói ba tòa, nhà ngói năm tòa
... là thể hiện của sự giàu sang. Còn nhà tranh, lều tranh, nhà lá ... là thể hiện của cuộc
sống cơ cực, thiếu thốn về vật chất.
- Phải căn duyên nhà lá cột chà là,
Không phải căn duyên nhà ngói đôi ba tòa cũng không ham.
(TLIII-tr.353)
Nhiều chiếc cầu tưởng tượng đã được dân gian thêu dệt bằng những chất liệu đặc
biệt tượng trưng cho khát vọng được hòa hợp với người minh yêu: cầu cành hồng, cầu
mồng tơi, cầu đòn gánh, cầu sợi chỉ, cầu dải yểm, cầu Ô thước ...
- Sông cách sông, thủy cách thủy
Anh thương em, anh xe sợi chỉ, anh bắc cây cầu
Để em qua lại giải sầu với anh. (TL III - tr.366)
Các chất liệu trên đã tô đậm thêm ý nghĩa biểu tượng của chiếc cầu, bên cạnh
những cầu tre, cầu ván.
- Muốn đi cầu ván đóng đinh
Cầu tre vắt vẻo dưới minh thiếu chi. (TL I - tr. 1439)
3.2.3.Hệ thống 3: Biểu tượng là con người:
3.2.3.1. Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học – nghệ thuật:
Kim Trọng, Thúy Kiều, Ngưu Lang, Chức Nữ, Bá Nha, Tử Kỳ ...
Các biểu tượng này có tần số xuất hiện thấp, nhưng đã tạo nên nhiều bất ngờ thú
vị cho người thưởng thức do sự nối kết giữa bài ca với những tác phẩm văn học cổ,
những điển tích, điển cố của cả văn học Việt Nam và Trung Quốc.
Dân gian đã khai thác các phạm trù sau ồ thế giới con người để tạo thành biểu
tượng:
- UPhạm trù nhân cáchU:
Các nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Lưu Bình, Dương Lễ, Bá Nha,
Tử Kỳ, Nghiêu, Thuấn ... là những con người đẹp đẽ về nhân cách. Dân gian yêu thích
họ, coi họ là những tấm gương cho hậu thế soi chung. Trong ca dao, người xưa
thường so sánh những con người cụ thể với các nhân vật đó. Dần dần, hình thành nên
một loạt các biểu tượng thuộc thế giới con người:
- Dầu ai gieo tiếng ngọc,
Dầu ai đọc lời vàng,
Bông sen hết nhụy bông tàn
Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga. (TL III - tr.244)
Mối tình đẹp đẽ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều trong tác phẩm của Nguyễn Du
khiến cho các chàng trai, cô gái ngày trước ước ao minh cũng có một tình yêu như thế.
Không ít lần, họ tự nhận minh là Kim, Kiều:
- Nhin lên Sơn Lâm nhớ nguồn nước suối,
Ăn gạo bên bắc nhớ buổi Đường, Nghiêu.
Nhón chân lên vang tiếng: ơ Kiều
Trước có quen Kim Trọng, giừ có nhớ ít nhiều chi không?
(TLI-tr.1655)
- UPhạm trù hoàn cảnh sốngU:
Hoàn cảnh sống của các nhân vật, đặc biệt là những cảnh trái ngang, bất hạnh:
Vân Tiên xa Nguyệt Nga, Kim xa Kiều, Ngưu Lang xa Chức Nữ ... có những nét thật
gần gũi với các nghịch cảnh của đời thường:
- Hai đứa minh dứt điệu tình thương
Giả như Kim Trọng dứt tình thương Thúy Kiều. (TL I - tr.1077)
- Ai làm Ngưu Chức đôi đàng,
Để cho quân tử đa mang nặng tình. (TL I - tr.65)
- UPhạm trù chức năngU:
Ông Tơ là nhân vật xuất phát từ một điển cố Trung Quốc, khi đi vào văn hóa
Việt Nam đã trở thành có đôi: ông Tơ - bà Nguyệt. Biểu tượng này thể hiện sâu sắc
cách nhin, cách nghĩ của dân gian về tình yêu.
Trong ca dao, khi các nhân vật này xuất hiện, họ luôn đi kèm với chức năng: xe,
kết, buộc chỉ hồng, tơ hồng với nghĩa biểu tượng là xe kết tình duyên đôi lứa:
- Tơ hồng nay đã về tay,
Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa minh. (TL III, tr.327)
Khi ông Tơ, bà Nguyệt thực hiện chức năng không tròn (theo ý các lứa đôi) thi
bị trách, giận, oanh, kiện ...
- Bắt ông Tơ mà đánh ba hèo
Duyên người ta xe cả, phận em đối nghèo không xe. (TL I - tr.246)
3.2.3.2. Các bộ phận trong cơ thể con người:
UPhạm trù màu sắcU:
má hồng, răng đen, gan - ruột ...
Má hồng, răng đen là biểu tượng của sắc đẹp, tuổi trẻ người phụ nữ. Những cách
dùng cụ thể là: má hồng, má hường, má đào, má đỏ, má phấn, má xanh, răng đen
nhưng nhức, răng đen nhánh ...
- Anh đi ngang qua cửa sao không vào,
Hay là anh có chỗ má đào, phụ em? (TL I - tr. 112)
Giọt nước mắt biểu tượng cho tâm trạng cũng được khai thác ở khía cạnh này,
đó là giọt nước mắt hồng (tức nước mắt hòa với máu. Nàng Tiết Linh Vân, đời Ngụy
Văn Đế được kén vào cung. Trước khi đi, Linh Vân từ biệt cha mẹ, đau đớn khóc đến
máu chảy nhòa đỏ cả nước mắt. Nước mắt hồng là biểu tượng của sự đau khổ cực độ)
[39, tr.436].
- Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh,
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Đạo nào thâm bằng đạo vợ chồng,
Đêm năm canh hoài vọng, nước mắt hồng đầy vơi. (TL III - tr.436)
- UPhạm trù trạng tháiU:
Nước mắt và gan, ruột là những biểu tượng được thể hiện ở nhiều trạng thái
nhằm diễn tả tâm trạng đau đớn, buồn khổ, nhớ thương với các mức độ khác nhau:
nước mất rây đầy đường, nước mắt nhỏ giọt như mưa tháng mười, nước mắt rơi lai
láng hai mươi tám đêm ngày, ruột héo gan khô, ruột bầm như dưa, ruột đau chín tầng,
ruột xót như muối, ruột nát gan bầm, ruột thắt gan bào, bầm gan tím ruột, gan ruột bào
nhào, gan thắt một đau, gan phế tả tơi, ruột đứt từng chặng, gan bầm tới tìm, ruột
cháy gan khô ...
- Ra về em một ngó theo,
Ruột đứt đi từng đoạn, gan em teo nửa chừng. (TL I - tr. 1771)
-Sầu em gan phế tả tơi
Anh than hết lời sao đó chẳng xiêu? (TL I - tr. 1831)
* * *
Theo thông kê của chúng tôi, biểu tượng thuộc hệ thống 1 chiếm số lượng nhiều
nhất (166/286 biểu tượng), hệ thống 2 thấp hơn (102/ 286 biểu tượng) và cuối cùng là
hệ thống 3 (18/286 biểu tượng). Qua các con số này, vai trò quan trọng của thiên
nhiên đối với quá trình hình thành biểu tượng đã được bộc lộ rõ.
Với cách phân loại dựa vào tiêu chí cái biểu đạt, chúng ta có thể bao quát được
một số lượng lớn các biểu tượng, hình dụng được hầu như toàn bộ những biểu tượng
nổi bật, phổ biến, tiêu biểu của ca dao truyền thống người Việt. Cũng với.cách phân
loại này, từng hệ thống biểu tượng nhỏ được định hình, định vị rõ ràng với những
phạm trù làm cơ sở cho các liên tưởng thi ca hình thành biểu tượng, tạo sự nắm bắt
đối tượng dễ dàng cho người nghiên cứu, thưởng thức ca dao (việc'phân chia các
phạm trù để khảo sát như chứng tôi đã tiến hành trên đây cũng chỉ có tính chất tương
đối, vi trong thực tế, những phạm trù này tồn tại ở cùng một sự vật luôn có những liên
hệ gắn bó hữu cơ với nhau ...).
Do sự giới hạn về dung lượng của luận án, chúng tôi không thể miêu tả chi tiết, tỉ
mỉ toàn bộ các biểu tượng trong từng hệ thống nhỏ. Sự miêu tả ở đây chỉ mang tính
chất khái quát chung, có dừng lại ỏ một số biểu tượng cụ thể cũng chỉ nhằm để minh
họa cho cái chung, cái toàn thể. ở từng biểu tượng, chúng tôi cũng không miêu tả thật
kỹ lưỡng mà chỉ chú ý đi vào giới thiệu một vài nội dung cơ bản, vài nét nghĩa nổi bật.
Vi vậy, để bù đắp thêm cho phần trình bày này, chúng tôi xin được giới thiệu thêm
phần phụ lục ở cuối luận án. Trong phần đó, các biểu tượng sẽ được chúng tôi sắp xếp
và giới thiệu một cách đầy đủ; toàn diện hơn (tên gọi, ý nghĩa, các biến thể, tần suất).
3.3. Một số đặc trưng của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
người Việt:
Qua phần trình bày trên, chúng ta thấy rằng các liên tưởng thơ ca tạo thành biểu
tượng phần nhiều bắt nguồn từ các phạm trù thuộc cái biểu đạt. Thế nhưng các hiện
tượng tự nhiên và mội trường tự nhiên, các vật thể nhân tạo và con người ở mỗi địa
phương, dân tộc lại có những khác biệt nên hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ
ca trữ tình dân gian ở từng vùng, miền, từng khu vực cư trú cũng có những đặc trưng
riêng. Ngoài ra, còn phải kể đến sự chi phối của các quan niệm thẩm mỹ, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng ... ở từng cộng đồng khác nhau trong quá trình hình thành biểu
tượng. Tính địa phương, tính nghề nghiệp, tính dân tộc của một hệ thống biểu tượng
thi ca, vi vậy, là biểu hiện mang tính quy luật, tạo nên những nét riêng trong bản sắc
văn hóa của từng cộng đồng.
Mỗi vùng quê trên đất nước ta đều có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh địa lý,
lịch sử, xã hội, môi trường, cảnh quan thiên nhiên cho nên sự sử dụng các biểu tượng
trong thơ ca cũng không hoàn toàn giống nhau. Khảo sát các tập ca dao ở từng vùng
đất, chúng tôi nhận thấy tính địa phương nổi lên rất rõ. Bên cạnh hệ thống biểu tượng
chung mà nhân dân ở địa phương nào cũng sử dụng, mỗi miền đất còn có những biểu
tượng đặc biệt của riêng minh. Dĩ nhiên, tính địa phương ở đây cũng cần được hiểu
một cách tương đối, vi ca dao là những tác phẩm nghệ thuật của dân gian, thuộc về
dân gian, sự lưu truyền, di chuyển tác phẩm từ địa phương này qua địa phương khác
đã trở thành một quy luật tất yếu. Xét từng đơn vị ca dao riêng lẻ, có lẽ chúng ta cũng
khó mà xác định được địa bàn gốc mà tác phẩm ra đời. Theo đó, đi tìm nguồn gốc địa
phương cụ thể của một biểu tượng là không dễ dàng. vấn đề chỉ có thể giải quyết được
khi chúng ta điểm qua từng hệ thống ca dao địa phương. Một số biểu tượng được nổi
trội, xuất hiện với tần số cao, chứng tỏ chúng đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm
thức dân gian. Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị đã nhận xét rất đúng: "Ở Bắc bộ, những hình ảnh
làm nên bộ mặt tiêu biểu của nông thôn cổ truyền - cây đa, bến nước, sân đinh, nhịp
cầu, lũy tre ... rất hay được nhắc tới trong các bài ca. Câu hát Trung bộ trùng điệp hình
ảnh của núi, rừng. Trong ca dao - dân ca Nam bộ, hình ảnh ghe xuồng, kinh rạch xuất
hiện với tần số cao ..." [40, tr.80]. Theo sự nghiên cứu của chúng tôi, ca dao Nam bộ
còn chú ý đặc biệt đến các biểu tượng sông, nước, con cá và người câu cá, kiểng ...
Màu sắc địa phương này thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa biểu tượng với tầng nền lịch
sử - xã hội - văn hóa của nó. Dân gian luôn có khuynh hướng muốn lựa chọn những
hình ảnh, sự vật quen thuộc chung quanh minh để giãi bày tâm trạng. Hệ thống biểu
tượng chung trong ca dao Việt Nam, nhờ vậy, càng trở nên giàu có, đa dạng hơn vi đó
là sự tích hợp những giá trị thẩm mỹ đẹp đẽ, độc đáo nhất của từng miền đất nước.
Bên cạnh màu sắc địa phương, biểu tượng trong ca dao người Việt còn mang
tính nghề nghiệp. Những ngành nghề tin yêu thống của dân tộc như trồng dâu, nuôi
tằm, dệt vải, đánh bắt cá (chài, lưới, câu), chèo thuyền, làm mộng, làm vườn, trồng
trầu cau ... đã để lại dấu ấn đậm nét trong hệ thống biểu tượng. Các biểu tượng có tần
suất cao thường là gắn bó với những nghề nghiệp cụ thể. Công việc lao động lặp đi
lặp lại, sự vật được quan sát ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ dẫn đến việc hình
thành nên nhiều biểu tượng cùng nhóm. Nhóm biểu tượng thuyền có: thuyền, thuyền -
bến, thuyền - khách, thuyền - sông, thuyền - lái, thuyền lênh đênh, thuyền rồng,
thuyền thúng - thuyền ván, thuyền - thuyền, thuyền tình ... Nhóm biểu tượng cá có: cá,
cá - chim, cá giữa bàu, cá hóa rồng, cá - lưới, cá - mưa, cá - người câu, cá - nước, cá
trích - cá sòng, cá trong ao, cá ươn ... Biểu tượng ca dao ra đời, tồn tại, phát triển,
được sử dụng và tiếp nhận gắn chặt với những con người đeo đuổi những nghề nghiệp
nhất định, cho nên tính nghề nghiệp là một biểu hiện tất yếu của hệ thống này.
Do đặc trưng của thể loại, có lẽ trên khắp thế giới này, nền thơ ca dân gian của
bất kỳ một dân tộc nào cũng đều có một hệ thống biểu tượng. Việc nghiên cứu so sánh
sẽ phát hiện được nhiều điều khác biệt giữa các hệ thống này.
Trong thơ ca dân gian Nga, biểu tượng cho chàng trai trẻ thường là chim họa mi,
chim ưng, vịt đực, bồ câu đực ..., biểu tượng cho cô gái thường là thiên nga trắng, vịt
cái, chim công, bồ câu xám người phụ nữ buồn, đau khổ thường là con chim tu hú.
Ngoài ra các cô gái còn được biểu thị bằng cây bạch dương, kim ngân hoa, cây đùm
hương, cây anh đào, người phụ nữ thi là cây lê, cây thong đuôi ngựa, cây thanh lương
trà, cây liễu diệp hoàn. Tuổi trẻ thường được biểu thị bằng cây sồi, cây hoa bia, cây
nho ... [196, tr.89 -90].
Các biểu tượng trên rõ ràng rất xa lạ với người Việt Nam. Mỗi dân tộc có một
thói quen, sở thích khác nhau trong việc lựa chọn các sự vật làm biểu tượng. Hình ảnh
cây bạch dương phổ biến trong thơ ca dân gian Nga, còn hình ảnh trầu cau lại phổ
biến trong thơ ca dân gian Việt Nam.
Đọc lại ca dao với hàng loạt biểu tượng, ta có cảm giác như đang sống cuộc
sống của người Việt xưa với những đặc điểm của một thế giới riêng. Thiên nhiên,
cảnh vật Việt Nam hiện lên với những đường nét thân thương: bến nước, dòng sông,
con đò, chiếc cầu, cái giếng, mái đinh, cây đa, chanh, khế, lựu, đào, con cò, con cá ...
Người con gái xưa đẹp đẽ với hàm răng đen, dải yếm đào, với chiếc khăn, chiếc nón
đội đầu, với miếng trầu têm khéo léo. Đời sống hàng ngày với những nhà tranh, mái
ngói, ngọn đèn, với công việc hái dâu, chăn tằm ...vô cùng quen thuộc. Một số biểu
tượng tuy có nguồn gốc vay mượn từ nước ngoài nhưng đã được dân tộc hóa, dân gian
hóa về nhiều mặt. Đi vào ca dao, rồng -mây, trúc - mai, mận - đào, ông Tơ... đều
mang màu sắc Việt Nam, có khả năng biểu hiện đa dạng những khía cạnh tình cảm
của cộng đồng người Việt.
Hệ thống biểu tượng ca dao còn là nơi bộc lộ rõ rệt những giá trị tình thần đẹp đẽ
của người Việt Nam. Đức cần cù, nhẫn nại, phẩm chất thanh cao của người nông dân
được kết đọng trong hình ảnh con cò. Người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó
tìm thấy minh trong con bống. Lòng thủy chung được nhắc đến thường xuyên qua cây
đa, bến cũ, trầu cau, ngọn đèn không tắt... Dân tộc ta có truyền thống coi trọng đạo lý,
nghĩa tình hơn tất cả mọi thứ của cải, vật chất trên đời. Khi cần lựa chọn giữa hai
phạm trù giá trị, thi gia trị tình thần luôn được xếp cao hơn vật chất.
Ví dụ: - Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (TL I - tr.645)
Có hai phạm trù được đưa ra so sánh:
- áo rách >< áo gấm xông hương (vật chất)
- (tình cảm với) chồng ta >< (tình cảm với) chồng người (tình thần)
Lựa chọn cuối cùng:
Chồng ta (ta thương) > chồng người (mặc người)
Tức là: tình thần > vật chất
Truyền thống này đã khiến dân gian luôn có cái nhin linh hoạt khi sử dụng các
biểu tượng. Áo rách, nhà tranh, chiếu lác ... biểu thị sự nghèo khổ nhưng ữong thế đối
lập với áo gấm, nhà ngói, chăn gấm ... nhiều lúc lại thắng thế nến như chúng đi kèm
với tình, nghĩa.
- Yêu nhau chẳng quản chi nhà,
Lều tre quét sạch hơn tòa ngói cao. (TL I - tr.2388)
Tình thần lạc quan yêu đời cùng với óc thực tế của dân tộc ta cũng được thể hiện
sâu sắc qua biểu tượng ca dao. Trong sự kềm tỏa khắc nghiệt của luân lý phong kiến,
các lứa đôi vẫn hồn nhiên ca hát về tình yêu. Nhiều biểu tượng sóng đôi trang trọng
có, dân dã có đã khẳng định nét đẹp tâm hồn đó. Trong những hoàn cảnh sống nghèo
khổ, bất hạnh, người bình dân vẫn mơ tới một tương lai tươi sáng:
- Đừng lo phận áo không tay
Trời kia ngó lại anh may mấy hồi. (TL II -tr.223)
Sự lạc quan đó xuất phát từ cách nhin cuộc sống trong thế đi lên, trong sự phát
triển. Bèo có khi ngồi đầu sen, trăng mờ sẽ -có lúc tỏ, nước đục rồi sẽ có lúc trong...
Tóm lại, ở cả hai bình diện CBĐ’ lẫn CĐBĐ’ hệ thống biểu tượng ca dao đều
thể hiện đậm đà tính dân tộc. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói hệ thống này
đã góp phần nuôi dưỡng và phát triển tình thần dân tộc. Nhiều biểu tượng từ ca dao đã
đi vào thơ ca của văn học viết, để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng người đọc (thơ
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính ...).
Biểu tượng ca dao mang tính dân tộc đậm nét, nhưng điều này không có nghĩa là
giữa các dân tộc khác nhau, các hệ biểu tượng hoàn toàn không có những điểm chung.
Xét về đại thể, biểu tượng ca dao cũng chính là những biểu tượng văn hóa. Nền văn
hóa của toàn nhân loại chắc chắn phải hướng về những giá trị đẹp đẽ trong đời sống
con người. Như vậy, sự tương đồng ở một số biểu tượng trong các nền văn hóa khác
nhau cũng là điều tất yếu.
Theo Phạm Thu Yến: "Các nhà nghiên cứu thi pháp thơ ca dân gian Nga chỉ ra
rằng xuất hiện tương đối nhiều trong thơ ca dân gian là biểu tượng chim" [196, tr.89],
đây là một điểm rất giống với thơ ca dân gian Việt Nam, nơi mà các loài chim như cò,
loan, phượng hoàng, nhạn, én ... đã ưỏ thành biểu tượng. Các loài cây cũng là biểu
tượng phổ biến trong thơ ca dân gian các dân tộc. Cây bạch dương, táo, lê, tiểu anh,
liễu, dâu, sồi, tầm ma bỏng rát, ngải đắng ... là những hình ảnh quen thuộc trong thơ
ca dân gian Nga. Còn ỏ Việt Nam, đó là cây trúc, mai, đào, tùng, lựu, cau, trầu, đa ...
Và có lẽ ở khắp mọi nơi trên thế giới này, đâu đâu bông hoa thắm tươi cũng được
dùng biểu thị cho người phụ nữ. Đó là những điểm gặp gỡ, những vùng giao thoa thú
vị giữa các nền văn hóa, giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn giá trị của các biểu tượng.
Trầu - cau thể hiện sự hòa hợp nghĩa tình là một biểu tượng rất đẹp trong ca dao
người Việt, đồng thời còn là biểu tượng mang tính quốc tế, tính nhân loại nhin từ góc
độ văn hóa. Những câu chuyện hoang đường kể về cây mọc cạnh nhau, cây liền cành,
cây leo quấn bên cây thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới đã chứng minh
điều đó. Văn học Trung Quốc có chuyện kể: Hàn Bằng là quan tể tướng, có vợ là Hà
Thị, sắc đẹp hơn người. Nàng bị hôn quân Tống Khang Vương cướp làm vợ. Hàn
Bằng bị vua cầm tù và tự sát. Hà Thị muốn thoát khỏi tay vua và tiết liệt với chồng
nên đã tự tử, có để thư lại xin được chôn chung với Hàn Bằng. Tên hôn quân căm
giận, sai chôn Hà Thị ở chỗ khác đối diện với mộ Hàn Bằng. Qua một đêm, bỗng
nhiên mộ nào cũng có cây tử mọc lên, rễ liền nhau ở dưới, ngọn cành liền nhau ở trên.
Nhân dân thương xót đặt tên cho cây ấy là cây tình yêu chung thủy [164,tr.l]. Cũng từ
điển tích này mà văn học Trung Quốc thường dùng hình ảnh cây liền cành để biểu
hiện cho tình nghĩa vợ chồng bền chặt. Trong thiên tình ca Tơ-ri-xtăng và I-zơn của
Pháp, hai cây vạn niên thanh mọc lên từ nấm mồ của hai người tình đã kết lại với
nhau. Trong truyện của I-răn, nhà vua Công-sô-ca chia rẽ lứa đôi của chàng Đai-đre
và nàng Nai-si. Từ nấm mồ hai người mọc lên hai'cây trắc sát cạnh nhau. Dân ca Thụy
Sĩ có bài nói về cây sồi có hai gốc mọc quyện vào nhau ở một nhà thờ. Một bài dân ca
ư-crai-na hát rằng: có bà mẹ chồng cư xử rất tàn tệ với con dâu. Người con dâu buồn
rầu uống thuốc độc chết, người chồng cũng uống rồi chết theo. Bà chôn xác hai người
cạnh nhau. Từ mộ họ mọc lên hai cây bim bim, vươn đến nhau và giao nhau từng đôi
lá một. Ở Bùn-ga-ri cũng có chuyện tương tự: cây anh đào trên mộ người con trai và
cây nho trên mộ người con gái ... [164, tr.1-4]. Các câu chuyện trên có nhiều điểm
tương đồng. Các loài cây đều mọc lên từ hai nấm mồ của đôi tình nhân phải chia lia
vĩnh viễn vi những thể lực xấu xa của con người. Chúng luôn mọc cạnh nhau, quấn
quýt bên nhau. Hình ảnh đó đã trở thành biểu tượng của tình yêu chung thủy. Mọi dân
tộc đều muốn hướng đến những giá trị tình thần cao đẹp. Tình yêu lứa đôi bền chặt,
sắt son, vĩnh cửu, bất diệt là mọt ừong số những giá trị đó. Hòa cùng với tình hoa của
văn học các dân tộc trên thế giới, chúng ta tự hào vi đã đóng góp vào kho trí tuệ nhân
loại những biểu tượng đẹp đẽ. Chính những điểm tương đồng gần gũi giữa các hệ biểu
tượng giúp ta có điều kiện thuận lợi hơn khi tìm hiểu nền văn hóa của các dân tộc.
* * *
Trên đây là một số vấn đề về phân loại và miêu tả biểu tượng nghệ thuật ương ca
dao truyền thống người Việt. Khi thực hiện hai thao tác này, chúng tôi gặp không ít
khó khăn do số lượng biểu tượng lớn, đa dạng; các phạm trù gợi liên tưởng ở sự vật
phong phú, giá trị mỗi biểu tượng không dễ nắm bắt đầy đủ, tức thời... Vừa bao quát
toàn hệ thống, vừa tìm hiểu cụ thể từng biểu tượng là cần thiết vi việc làm này sẽ
mang lại những hiểu biết sâu rộng hơn về biểu tượng ca dao, tuy nhiên, nó cũng đòi
hỏi nhiều thời gian, công sức từ phía người nghiên cứu.
Từ thế giới khách quan (với muôn ngàn sự vật, hiện tượng) đến thế giới biểu
tượng ca dao (với 286 biểu tượng) là con đường của thao tác lựa chọn, tư duy liên
tưởng, sáng tạo nghệ thuật. Con đường này tồn tại trên mảnh đất Việt nên mọi biểu
tượng được hình thành đều mang đậm hồn quê, đất Việt (tính địa phương, tính nghề
nghiệp, tính dân tộc). Một số biểu tượng đạt đến tầm vóc quốc tế đã góp phần khẳng
định những giá trị nhân văn sâu sắc của hệ thống biểu tượng ca dao.
CHƯƠNG 4: CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG
NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
4.1. Cấu tạo của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:
Để đáp ứng nhu cầu biểu hiện tình cảm đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ của con
người, các biểu tượng cũng được hình thành theo những cách cấu tạo khác nhau. Phổ
biến trong ca dao là hai loại: biểu tượng đơn và biểu tượng đôi.
4.1.1.Biểu tượng đơn:
Biểu tượng đơn là những biểu tượng chỉ bao gồm một sự vật, một hình ảnh duy
nhất. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, nhiều bài chỉ có một biểu tượng, hoặc tuy một
bài có nhiều biểu tượng, song các biểu tượng đó chỉ gắn bó lâm thời với nhau trong
bài ca dao, nghĩa là chúng không xuất hiện theo dạng cặp đôi nhiều lần như là những
liên kết truyền thống, lúc đó, ta có những biểu tượng đơn. Con cò, con bống, hạt mưa,
trăng, ngọn đèn, tấm lụa đào, cánh bèo, chiếc khăn, cái nón, cái áo ... là những biểu
tượng đơn.
Ví dụ: - Đàn bà như hạt mưa sa,
Hạt vào gác tía, hạt ra luống cày. (TL I – tr.2027)..
- Đi ngang thấy búp hoa sen,
Muốn vào mà bẻ sợ không quen chúa nhà. (TL I - tr.826)
4.1.2.Biểu tượng đôi:
Biểu tượng đôi còn gọi là biểu tượng sóng đôi, biểu tượng cặp đôi, xuất hiện với
tần số cao, rất phổ biến trong ca dao. Như tên gọi của chúng, biểu tượng đôi được tạo
thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh đi song song với nhau, liên kết bền vững trong
nhiều bài ca dao. Cá - nước, rồng - mây, loan - phụng, bèo - sen, củi - trầm, tiên - cú,
trầu - cau, mận - đào, thuyền - bến, vàng - đá, vàng - thau, hoa - bướm, ông Tơ - bà
Nguyệt, Châu - Trần, Tấn - Tần, Hán - Hồ, vuông -tròn... đều là những biểu tượng
sóng đôi.
Ở các biểu tượng đôi, biểu tượng này gợi biểu tượng kia, chúng tác động lẫn
nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau. Nhiều biểu tượng đôi mang ý nghĩa là những liên kết
bền vững và duy nhất: kim - chỉ, nút - khuy, khóa - chia, gương - lược, cá - nước,
phượng hoàng - ngô đồng ...
- Đôi ta như cúc với khuy,
Như kim với chỉ may đi cho rồi. (TL I - tr.862)
- Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây,
Như con chèo béo xa cây măng vòi. (TL I - tr.2067)
Phần lớn các biểu tượng đôi được hình thành trên cơ sở của những biểu tượng
đơn. Bèo - sen được hình thành từ biểu tượng bèo và biểu tượng hoa sen, thuyền - bến,
loan - phụng, trúc - mai... đều được hình thành theo cách như thế. Quá trình kết hợp
các biểu tượng đơn để tạo nên biểu tượng đôi không ngừng diễn ra trong các sinh hoạt
ca hát dân gian, vi vậy sự kết hợp này cũng không phải là hoàn toàn cố định. Rồng có
khi kết hợp với tiên thành rồng - tiên, có khi kết hợp với mây thành rồng - mây, có khi
kết hợp với phụng thành rồng - phụng, có khi kết hợp với cá thành rồng - cá, biểu
tượng hoa kết hợp với ong thành hoa - ong, có khi kết hợp với bướm thành hoa -
bướm, biểu tượng sen có khi kết hợp với bèo thành sen- bèo, có khi kết hợp với hồ
thành sen - hồ ...
Biểu tượng đôi là sự kết hợp các biểu tượng đơn hoặc các sự vật, hình ảnh đơn lẻ
lại với nhau theo những quan hệ ý nghĩa tương đồng hoặc tương phản, Có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau, các biểu tượng đôi đã được hình thành:
- Do chúng có nguồn gốc từ những điển tích, điển cố, những tác phẩm văn học
cổ: Châu - Trần, Tấn - Tần, Nghiêu - Thuấn, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên -
Nguyệt Nga, Lưu Bình - Dương Lễ ... Từ trong nguồn cội ban đầu này, các thành tố
của biểu tượng đôi đã tồn tại bên nhau không tách rời, cho nên khi đi vào ca dao,
chúng vẫn giữ nguyên trạng thái liên kết chặt chẽ đó.
- Do trong đời sống thực tế, chúng luôn tồn tại hữu cơ với nhau: nút -khuy, khóa
- rương, khóa - chia, rượu - nem, trầu - cau, cá - nước, hoa - bướm, thuyền - bến ...
Đồng thời, trong nói năng, dân gian lại luôn hướng tới sự hài hòa, cân xứng, nên các
sự vật thường được xuất hiện sóng đôi với nhau. Trần Ngọc Thêm đã có lần nhận xét
về lối nói năng này: "Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương
hài hòa: ông Đồng, bà Cốt, đồng Cô đồng Cậu, đồng Đức Ông, đồng Đức Bà ... Ngay
cả những khái niệm vay mượn đơn độc, khi nhập vào Việt Nam chúng cũng được
nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối chỉ là ông Tơ Hồng thi vào Việt Nam
được biến thành ông Tơ, bà Nguyệt, ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thi vào Việt Nam xuất
hiện Phật ông, Phật bà..." [156, tr.63].
- Do hình thức hát đối đáp trong dân gian: trong ca dao, ta thường quen thuộc
với những cách xưng hô: anh - em, thiếp - chàng, minh - ta, qua - bậu, tôi - người, tính
- tình, đó - đây ... và cũng không lạ khi các chàng trai, cô gái xưng hô với nhau bằng
những đại từ - biểu tượng (biểu tượng đóng vai trò là đại từ nhân xưng): trúc - mai,
thuyền - bến, rồng - mây, mận - đào,...
- Bây giờ rồng mới gặp mây,
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời... (TLI-tr.256)
Trong nhóm các biểu tượng đôi này, nếu xét về mặt ý nghĩa, lại có thể chia thành
hai nhóm nhỏ hơn: biểu tượng đôi tương đồng và biểu tượng đôi đối lập.
4.1.2.1. Biểu tượng đôi tương đồng:
Là những biểu tượng trong đó hai thành tố tạo nên chúng tương xứng với nhau
về phẩm chất, thuộc tính, cùng kết hợp với nhau tạo nên một tín hiệu thẩm mỹ, một
nội dung cảm xúc nhất định. Thành tố này bổ sung, nhấn mạnh, khơi gợi thành tố kia.
Các thành tố nương nhau, nâng nhau lên, làm thành một cặp biểu tượng hoàn chỉnh
"tuy hai mà một, tuy một mà hai". Gạo trắng - nước trong, trúc - mai, mận - đào, rồng
- mây, đá — dao, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên -Nguyệt Nga ... đều là những cặp
biểu tượng tương đồng.
Loại biểu tượng này thường xuất hiện trong những bài ca dao thể hiện niềm vui,
niềm hạnh phúc, sự xứng đôi vừa lứa: loan - phụng, phượng hoàng -ngô đồng, lựu -
đào, bướm - hoa, vàng - ngọc, đũa ngọc - mâm vàng ...
-... Đầu ai gối cánh tay này,
Như chim loan phượng đậu cây ngô đồng. (TL I - tr.2253)
- Vợ nên rồng, chồng nên tiên,
Quí lại gặp quí, bạn hiền gặp nhau. (TL I - tr.2347)
Hoặc là chúng xuất hiện trong những bài ca dao thể hiện sự gắn bó, thủy chung:
cá - nước, rồng - mây, trầu - cau, kim - chỉ, gương - lược, khóa - chia, nút - khuy,
Châu - Trần, Tấn - Tần ...
- Đôi ta như khóa với chia,
Trọn niềm chung thủy, đừng lia mới hay. (TL I - tr.865)
- Em như nút, anh như khuy,
Như Thúy Kiều - Kim Trọng, biệt ly sao đành. (TL III - tr.211)
4.1.2.2. Biểu tượng đôi đối lập:
Trong các biểu tượng đôi đối lập, các sự vật, hình ảnh hợp thành đối lập, mâu
thuẫn, tương phản nhau về phẩm chất, thuộc tính, không tương xứng nhau về nội dung
hoặc hình thức: củi - trầm, bèo - sen, trăng - đèn, phượng hoàng - gà, bát đàn - bát sứ,
nhà ngói - nhà ưanh, vàng - thau ...
Loại biểu tượng này thường được sử dụng trong những bài ca dao thể hiện nỗi
đau khổ, bất hạnh, tâm trạng xót xa, đắng cay, ngậm ngùi, nuối tiếc...
- Trách cha, trách mẹ nhà chàng,
Cầm cân không biết là vàng, hay thau.
Thực vàng chẳng phải thau đâu,
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng. (TL I - tr.2141)
- Có bát sứ, tình phụ bát đàn,
Nâng niu bát sứ, vỡ tan có ngày. (TL I - tr.394)
Trong biểu tượng đôi đối lập thường có sự kết hợp những hình ảnh có giá trị
tương phản cao để chỉ ra sự không xứng hợp của đôi lứa: tiên - cú, phượng hoàng -
gà, đũa mốc - mâm son, trầu vàng - cau sâu sự đối lập giữa hai chàng trai (hay hai cô
gái) trong tình yêu: trăng - đèn, bát đàn - bát sứ, chùa -miếu, đũa tre - đũa mun, nước
sông - nước bàu, nước trong - nước đục, vàng -thau hầy những hoàn cảnh trái ngược
nhau: nhà ngói - nhà tranh, áo rách - áo lành, thuyền thúng - thuyền ván, cầu ván - cầu
tre, chợ đông - chợ tan ...
Ở đây, ta có điều kiện để tìm hiểu thêm sự hình thành của biểu tượng đôi từ các
biểu tượng đơn. Các biểu tượng đơn cùng nhóm (hình thành từ cùng một loại sự vật)
cũng có thể kết hợp với nhau thành những cặp biểu tượng: nhà ngói -nhà tranh, chiếu
hoa - chiếu lác, áo rách - áo lành, nón rách - nón lành, nước trong - nước đục, cầu ván
- cần tre ... Như vậy, khả năng để hình thành nên các biểu tượng đôi đối lập thật là
phong phú, có thể từ hai biểu tượng đơn khác nhóm, cũng có thể từ các biểu tượng
đơn cùng nhóm với nhau.
Trong nhiều trường hợp, từ một biểu tượng đơn ban đầu có thể kết hợp với các
biểu tượng đơn khác nhau làm thành các biểu tượng đôi mang giá trị đối lập: quế -
phượng hoàng > < quế - cú; trầu vàng - cau xanh > < trầu vàng - cau sâu; phượng -
loan > < phượng - gà; quế - trầm >< củi - trầm; tiên - rồng >< tiên -cú; vàng - ngọc >
< vàng - thau ...
- Thôi thôi đừng nói mà phiền,
Đầu rồng đã ấp tay tiên đi rồi. (TL II (1) - tr.406)
- Cú đã biết thân cú hôi,
Cú sao lại dám đến ngồi cùng tiên. (TL II (2) - tr.213)
Hay: - Nấu chè van vái Phật bà,
Khiến cho chung hiệp một nhà phụng loan. (TL III - Tr.328)
- Nơi gần không có phải ngó nơi xa,
Tham giàu để phượng sánh gà sao nên. (TL I - tr. 1495)
Trong môi trường diễn xướng dân gian, các biểu tượng sóng đôi tương đồng hay
đối lập thường được hình thành từ các biểu tượng đơn mà bản thân luôn tiềm ẩn một
khả năng tạo nghĩa, khả năng kết hợp đa dạng, uyển chuyển.
Các biểu tượng sóng đôi này không tồn tại với tính chất đơn lẻ, riêng biệt, cô lập.
Chúng được dân gian sử dụng cùng với các biểu tượng đơn trong nhiều bài ca dao: ...
Đôi ta như chiếc thuyền rồng,
Như đôi đũa ngọc so trong mâm vàng,
Không nên bởi vi chúng bạn nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.
Tại chàng chẳng tại thiếp đâu,
Chàng xe chỉ mảnh, thiếp khâu không bền. (TLIV - tr.157)
Cũng có khi trong một bài ca dao xuất hiện nhiều cặp biểu tượng, hòa hợp với
nhau về ý nghĩa, cùng hướng về một nét nghĩa chung nào đó:
- Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng,
Anh xa em như bến xa thuyền,
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi.
(TL I-tr.1834)
Điểm qua các cách cấu tạo trên, chúng ta phần nào thấy được sự tồn tại đa dạng
của biểu tượng trong ca dao người Việt. Giữa biểu tượng đơn và biểu tượng đôi có
mối liên hệ gắn bó với nhau. Tùy theo nhu cầu biểu đạt mà dân gian tiến hành lựa
chọn dạng biểu tượng cho phù hợp, Sự tồn tại của biểu tượng trong thế giới ca dao qua
những bước thăng trầm của lịch sử có phần đóng góp của các cách cấu tạo đa dạng
trên.
4.2. Chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:
Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu biểu tượng trong thế tạm thời tách rời khỏi các
yếu tố thi pháp ca dao. Biểu tượng ca dao cố những giá tri nội tại của chúng, nhưng
khi xuất hiện hàng loạt trong ca dao, chúng tồn tại như những thành tố có mối quan hệ
với các thành tố khác của thi pháp thể loại. Phải nhin biểu tượng trong các mối liên hệ
phức tạp để nhận ra sự vận hành ngấm ngầm của nguồn thi hứng hình thành nên tác
phẩm. Biểu tượng với tư cách là mô-tip, công thức truyền thống, đã trở thành những
yếu tố nội dụng - hình thức tiêu biểu, những tế bào hạt nhân có vai trò quan trọng
ương toàn bộ chỉnh thể ca dao. Biểu tượng cùng với ngôn ngữ, kết cấu, đề tài, nhân
vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghẹ thuật... có liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự gắn
kết ở đây mang tính chất liên hoàn. Các thành tố thi pháp dựa vào nhau, tương hỗ
nhau một cách đắc lực để cùng thể hiện tác phẩm. Sau đây chúng tôi xin lần lượt trình
bày chức năng của biểu tượng trong mối quan hệ với ngôn ngữ, đề tài, chủ đề, và kết
cấu, cấu tứ của ca dao.
4.2.1. Biểu tượng và ngôn ngữ ca dao:
4.2.1.1. Biểu tượng và tính hàm sức của ngôn ngữ ca dao:
Biểu tượng ca dao là những biểu tượng nghệ thuật được xây dựng bởi chất liệu
ngôn ngữ. Sau khi được hình thành, hệ thống biểu tượng này quay trở lại tác động vào
ngôn ngữ, khiến cho ngôn ngữ thể loại trở nên giàu ý nghĩa hơn. Sự xuất hiện với mật
độ dày đặc các biểu tượng khiến cho văn bản ca dao mang đậm tính biểu hiện. Khi
người ta hát:
- Anh nói em cũng nghe anh,
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi.
Nuốt đi đắng lắm anh ơi,
Bỏ ra thi để tội trời ai mang.
Thi ý nghĩa của bài ca dao không phải là phép cộng đơn thuần của các từ ngữ
theo nghĩa đen, nghĩa biểu vật bình thường, mà phải hiểu đó là một hoàn cảnh khó xử
trong hôn nhân. Theo cách diễn đạt của Nguyễn Phan Cảnh, người ta có thể hiểu
nghĩa của, bài ca dao như thế này:
- Anh nói em cũng nghe anh
Đời em đã trót chồng con mất rồi.
Sống thi cực lắm anh ơi,
Ly dị thi để tội trời ai mang. [8, tr.37]
Trong các văn bản ca dao, phần nhiều nghĩa đen, chức năng định danh của các từ
bị xóa nhòa. Hệ thống biểu tượng đã góp phần hướng người đọc cảm nhận văn bản ca
dao như là những văn bản biểu hiện.
Cần tránh khuynh hướng cực đoan cho rằng tất cả các văn bản ca dao đều là
những Văn bản biểu hiện, nhưng cũng cần thấy rằng văn bản biểu hiện chiếm phần
lớn trong ca dao, và chính ở đây, chức năng thẩm mỹ của các biểu tượng đã được bộc
lộ. Khả năng khơi gợi những liên tưởng thơ ca ở các biểu tượng là rất lớn. Một tín
hiệu thẩm mỹ chứa đựng nhiều nội dung, một cái biểu đạt thể hiện nhiều cái được biểu
đạt. Ngôn từ trở nên giàu có về khả năng biểu hiện, sức chứa đựng, sức nén của ngôn
từ khiến tác phẩm trở nên cô đọng, hàm súc . Hệ thống các biểu tượng khiến ngôn ngữ
ca dao lời ít, ý nhiều, lời chật, ý rộng. Đơn vị tác phẩm nhiều khi chỉ vỏn vẹn có hai
dòng nhưng ý tình phong phú, nhiều tầng bậc. Có những biểu tượng gắn với bài ca
dao được người ta cảm nhận nhiều lần trong cuộc đời với mức độ sâu sắc ngày càng
tăng tiến. Đặc biệt với những biểu tượng được hình thành từ điển tích, điển cố, các lớp
ý nghĩa tiềm ẩn trong ngôn từ càng lớn. Những câu chuyện đời xưa viết ra có khi phải
đến hàng trang giấy thi bây giờ cô đọng lại trong hình ảnh một sự vật, nhân vật. Biểu
tượng điển cố nối bài ca dao với cả một giai đoạn văn hóa, một thời kỳ lịch sử, một
truyền thống thẩm mỹ. Tùy theo vốn sống, vốn văn hóa của mỗi con người mà bài ca
dao được cảm nhận theo những mức độ sâu nông khác nhau.
Ví dụ: - Phượng hoàng vỗ cánh cao bay
Quyết tìm cho thấy được cây ngô đồng. (TL I - tr. 1737)
Trong thông báo ngắn gọn này chỉ hiện lên câu chuyện giữa một loài chim với
một loài cây. Nhưng thật ra "Các câu, chữ đó đã không được sử dụng trong chức năng
thông tin của chúng mà chỉ mang giá trị làm phát sinh một cấu trúc ngữ nghĩa đồng
nghĩa, và với cấu trúc mới này, ý thơ mới xuất hiện" [8, tr.84]. Hình ảnh chim phượng
- ngô đồng gợi nhớ đến một điển tích trong văn học cổ điển Trung Quốc, cùng với nền
tảng ngữ nghĩa mà người bình dân xưa cấp cho nó, đã khiến người tiếp nhận hình
dụng đến chuyện tình yêu lứa đôi xứng hợp, hài hòa. Nhờ vào phương thức liên
tưởng, các đơn vị ngôn ngữ riêng lẻ trong bài ca dao trên đã mang đến cho người đọc
một nội dung khác (nói về con người), ẩn ngầm trong chiều dày của chất liệu ngôn
ngữ. Tầng ngữ nghĩa này tồn tại ở dạng tiềm năng. Nó sẽ trở thành hiện thực nếu
chúng ta có sự hiểu biết về biểu tượng phượng hoàng - ngô đồng. Ngược lại, thiếu
kiến thức về cách mã hóa này, người đọc sẽ kết thúc việc tri giác văn bản ở tầng nghĩa
thứ nhất (nghĩa đen). Bài ca dao trên không nhằm mục đích tạo hình (miêu tả thực tế
chim và cây) mà hướng đến biểu hiện (ý tưởng của chàng trai hoặc cô gái quyết tìm
người xứng hợp với minh). Chỉ hai câu thơ với mười bốn tiếng đã trình bày cô đọng
một quan niệm về tình yêu. Biểu tượng phượng hoàng - ngô đồng quen thuộc trong
truyền thống ứng tác và tiếp nhận của dân gian đã góp phần làm cho quá trình trí giác
văn bản ở tầng nghĩa biểu cảm trở nên thuận lợi, nhanh chóng hơn (ngay cả khi văn
bản được lút gọn đến mức tối đa).
Biểu tượng là một hệ thống mã thẩm mỹ được xây dựng bởi những qui ước
ngầm giữa người sáng tác và người tiếp nhận ca dao. Chia khóa để mở ra những bí ẩn
của bài ca dao có sử dụng biểu tượng chính là sự hiểu biết và trí tưởng tượng của
người tiếp nhận. Thiếu nó, việc cảm nhận văn bản sẽ trở nên rối rắm, tắc tị hoặc nông
cạn, hời hợi Biểu tượng khi được đưa vào bài ca dao luôn có dự tính đến sự am tường
của người tiếp nhận. Điều này cho phép tác phẩm nói ít mà vẫn được hiểu nhiều.
4.2.1.2. Biểu tượng với tính công thức và tính sáng tạo trong ngôn
ngữ ca dao:
Như nhiều nhà nghiên cứu về ca dao đã khẳng định, ngôn ngữ thể loại này mang
tính công thức (hay tính định thức, tính mô thức). Sự lặp lại của nhiều từ, ngữ, câu
trong các bài ca dao dễ tạo ấn tượng về những tác phẩm có cùng khuôn mẫu, kiểu
dạng. Biểu tượng đã có đóng góp không nhỏ vào việc hình thành thuộc tính này.
Có khi ở dạng từ: trầu, cau, bướm, hoa, loan, phụng, chỉ, kim, thuyền, bến, áo,
khăn, nón, giếng, gàu, cầu, Kim, Kiều, Châu - Trần ... Ví dụ:
-... Thăm em đôi chữ Châu - Trần định chưa.
"... Trước thời cân sắc sau kết duyên Châu Trần.
-... Tình xuân lại gặp nghĩa xuân,
Châu Trần biết có Châu Trần nào hơn ...
Có khi ở dạng ngữ:
Ví dụ: - Trầu này, trầu ...
- Trầu này, trầu tính, trầu tình ...
- Trầu này, trầu quế cùng vôi ...
- Trầu này, trầu quế,trầu hồi...
- Trầu này, trầu túi, trầu khăn ...
- Trầu này, trầu của đôi ta ...
- Trầu này, trầu mẹ, trầu cha ...
Từ "này" xuất hiện ương cấu trúc như muốn chỉ rõ bản sắc cá nhân của miếng
trầu mời. Gần với cấu trúc trên, còn có "Trầu này...":
- Trầu này têm tối hôm qua ...
- Trầu này không phải trầu hàng ...
- Trầu này têm những vôi Tàu ...
- Trầu này ăn thật là say ...
- Trầu này thực tay em têm ...
- Trầu này bọc khăn tơ hồng ...
- Trầu này cúc, trúc, mai, đào ...
Ngoài ra còn có cấu trúc "Miếng trầu ..
- Miếng trầu là miếng trầu đời ...
- Miếng trầu là miếng trầu cay ...
- Miếng trầu nghĩa nặng ngàn cân ...
- Miếng trầu lá trúc, lá đào ...
- Miếng trầu ai rọc, ai têm ...
- Miếng trầu là nghĩa tơ đào ...
Với các công thức ngôn ngữ trên, người bình dân xưa dễ dàng lắp vào phía sau
những định ngữ làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của miếng trầu. Miếng trầu nhờ đó trồ
nên đa màu sắc, đa phong cách, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ.
Cấu trúc "Cầm đàn mà gảy ..." cũng là công thức ngôn ngữ quen thuộc với người
bình dân: - cầm đàn mà gảy cho liên
Cho tình thắm thiết cho duyên mặn mà. (TL I - tr.368)
- Cầm đàn mà gảy nhặt thưa
Gảy câu lưu thủy nhẹ đưa loan phòng. (TL 11(1) - tr.245)
- Cầm đàn mà gảy năm cung
Đàn ai mà gầy não nùng rứa ai? (TL 11(1) - tr.244)
- Cầm đàn mà gảy tính tình,
Năm giây năm giọt như hình mưa-sa. (TL 11(1) - tr.245)
Có khi biểu tượng kết hợp với một số từ ngữ hình thành nên những cấu trúc cố
định ở dạng câu, thể hiện những nội dụng mang tính khái quát cao:
- Thương em răng nỏ muốn thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào. (TL I - tr.408)
- Thương em anh cũng muốn thương,
Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào ... (TL I – tr.2118)
- Thầy thương mà mẹ không thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào ... (TL 11(2) - tr. 189)
Những công thức như vậy rất phổ biến trong văn bản ca dao. Trần Đức Ngôn có
lần đã nhận xét: "Tính định thức là một trong những đặc điểm nổi bật của văn bản văn
học dân gian. Nghiên cứu văn bản văn học dân gian, chúng ta thấy tính hình thức thể
hiện ở nhiều cấp độ khác nhau: ngôn từ, hình tượng, nhân vật và cấu trúc" [63, tr.191].
Nhận xét này rất phù hợp với hiện tượng chúng tôi vừa trình bày trên. Các định thức
được lưu giữ trong nhiều tác phẩm và nối kết các tác phẩm thành một chuỗi, nhóm, hệ
thống các bài ca có liên quan với nhau về hình thức thể hiện lẫn nội dụng. Khi nhớ
đến một biểu tượng, trước hết, người ta nhớ đến các định thức ngôn ngữ đó.
Công thức biểu tượng ở dạng từ, ngữ hay câu đều có tác dụng hỗ trợ tích cực cho
quá trình ứng tác ca dao. Có thể hình dụng chúng như những khối bê-tông đúc sẵn, có
khả năng được lắp ghép vào các bài-ca dao khác nhau tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
Người ứng tác có thể sáng tác nhanh mà vẫn dựa trên nền tảng của truyền thống.
Người tiếp nhận nhờ các công thức đó cũng dễ đồng cảm, dễ nhớ và lưu truyền. Các
công thức được tồn tại trong sự sàng lọc khắt khe của dân gian. Chúng thể hiện rõ thị
hiểu thẩm mỹ của người bình dân xưa cũng như đặc trưng thẩm mỹ của văn học dân
gian. Tính công thức trong ngôn ngữ ca dao vi vậy cần được xem xét, đánh giá dưới
góc độ mỹ học. Nó tạo nên vẻ đẹp riêng cho tác phẩm văn học dân gian.
Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao vừa là yếu tố thuộc về một văn bản, vừa là
yếu tố liên văn bản. Biểu tượng nối văn bản cụ thể với truyền thống, vừa đưa văn bản
vào một kiểu công thức sẩn có, vừa là sự thể hiện sáng tạo công thức đó. Chính điều
này tạo nên sức sống cho biểu tượng. Cùng một hình ảnh, nhưng trong nhiều văn bản
khác nhau, chúng không phải là sự lặp lại thuần túy, đơn điệu về cách thức thể hiện.
Công thức loan - phượng xuất hiện trong ca dao với những biến thể:
- Ngày nay loan phụng lề bầy,
Nam Vang kia xa xứ, khó vầy yến anh. (TL I - tr. 1540)
- Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phụng cách, biết đứng ngồi với ai? (TL I - tr.562)
- Mấy lâu tiên giáng cõi trần
Mấy khi chim phượng tới gần chim loan (TL 11(1) - tr.330)
- ... Ước gi anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan (TL I - tr.788)
- Muốn cho phượng múa, loan đờn
Muốn cho tiếng nhị, tiếng đơn hòa chung. (TLII(l) - tr.352)
Tương tự, hình ảnh cặp đôi quen thuộc tằm- dâu luôn đem lại ấn tượng mới mẻ
nơi người tiếp nhận vi được đề cập đến với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
- Trách minh dám trách ai đâu,
Trách con tằm bạc nghĩa, bỏ nương dâu không nhin. (TL 11(1) - tr.420)
- Đôi ta thương mãi nhớ lâu,
Như sông nhớ nước, như ngành dâu nhớ tằm. (TL I - tr.871)
- Bấy lâu vắng tiếng, vắng tăm
Như đàn vắng nhị, như tằm vắng dâu. (TL I - tr.264)
- ...Hỏi em gia thất đã đành nơi nao?
Không, không chưa có chi đâu,
Con tầm đang đợi nương dâu nhà người. (TLII(l) - tr.403)
Công thức trúc - mai cũng được thể hiện một cách sinh động: trúc nhớ mai, trúc
làm bạn với mai một cành, trúc mai một nhà, sum vầy trúc mai, trúc xa mai, trúc
nguyền đến mai, trúc gầy mòn có nhớ dạng ngành mai, trúc mai trồng lộn một bồn,
trúc ở với mai, trúc hiệp cùng mai cho tài xứng sắc, phân chia mai trúc, rầu trúc mai
trúc muốn ghẹo mai ...
Qua các ví dụ trên, có thể thấy khi đi vào từng văn bản cụ thể, mỗi biểu tượng lại
có những cách thể hiện khác nhau. Nếu tập hợp các biến thể trên sẽ hình thành nên
một hệ thống con cho từng biểu tượng, nơi mà các yếu tố truyền thống và sáng tạo
được kết hợp với nhau một cách hài hoa. Nhờ biểu tượng, ngôn ngữ ca dao vừa mang
tính công thức lại vừa mang tính sáng tạo. Người nghệ sĩ dân gian xưa khi sáng tác
vừa bám theo công thức, vừa vượt khỏi công thức, làm sống động, giàu có thêm cho
công thức. Cùng là những biểu tượng quen thuộc mà ngôn ngữ của hàng ngàn bài ca
dao vẫn tươi tắn, hồn nhiên, không sáo mòn, cũ kỹ. Nhờ vào trí tưởng tượng phong
phú, vốn sống dồi dào, nhờ vào cảnh thực, việc thực, tình thực nên dân gian đã làm
được điều đó. Cùng dùng biểu tượng ruột -gan để diễn tả tâm trạng người đang yêu,
nhưng nếu người thứ nhất nói "Ruột đứt từng chặng, gan bầm tới tìm", thi người thứ
hai có thể nói "Ruột đứt đi từng đoạn, gan em teo nửa chừng", và người thứ ba sẽ là
'Ta thương minh ruột cháy gan khô..."... Ngôn ngữ ca dao một mặt tuân thủ theo
khuôn mẫu, một mặt lại mềm mại, uyển chuyển, tạo ấn tượng vừa cũ vừa mới. vừa
bình dị vừa lạ lẫm, vừa mộc mạc. vừa luns linh màu sắc.
4.2.2. Biểu tượng và đề tài, chủ đề ca dao:
4.2.2.1. Góp phần triển khai các đề tài, chủ đề:
Đề tài, chủ đề thường là rất rộng, trừu tượng, bao quát cả một phạm vi rộng lớn
các vấn đề, nhưng với các biểu tượng, chúng Mồ nên cụ thể, sống động. Nói một cách
chính xác hơn, biểu tượng đã góp phần tích cực vào việc triển khai các đề tài, chủ đề.
Biểu tượng là những mã nghệ thuật có thể thông báo cho người tiếp nhận khá nhiều
thông tin về đề tài, chủ đề của tác phẩm. Thử đọc một bài ca dao:
Ước gi cho phượng hợp loan,
Để cho đây đấy giao hoan một phòng.
Ước gi lòng được như lòng,
Ước gi quân tử bạn cùng thuyền quyên.
Ước gi nguyền được nhời nguyền,
Ước gi lá thắm xe duyên tơ đào.
Ước gi cầu được bán rao,
Ước gi lan huệ sánh vào trúc mai.
Ước gi một đấy với đây,
Ước gi chỉ thắm xe đây tơ hồng.
Ước gi đấy vợ đây chồng,
Ước gi Tần Tấn giao thông một nhà
Ước gi bướm được gần hoa
Ước gi Hồ Việt giao hòa với nhau
Ước gi trầu bám được cau
Ước gi ta ở với nhau một nhà
Ước gi minh sánh với ta
Ước gi minh đứng bên ta hỡi minh
Ước gi Tấn sánh với Tần
Ước gi ta sánh với minh, minh ơi
Ước gi quế sánh với hồi
ước gi thục nữ sánh người văn nhân. (TLIV-tr.59)
Trong bài này, các biểu tượng nối nhau xuất hiện, dẫn dắt người tiếp nhận đến
với chủ đề chính của bài ca: phượng - loan, lá thắm, tơ đào, lan - huệ, trúc - mai, chỉ
thắm, tơ hồng, Tấn - Tần, bướm - hoa, Hồ - Việt, trầu - cau, quế - hồi...
Ước mơ về hạnh phúc lứa đôi đã được diễn đạt một cách hình ảnh, ấn tượng với
hàng loạt biểu tượng đôi tương đồng.
Với chức năng triển khai đề tài, một số biểu tượng đã trở thành những đại diện
tiêu biểu cho các đề tài, gắn liền với đề tài như hình với bóng. Chim phượng hoàng -
ngô đồng, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa, cá - nước, mận - đào, trúc - mai,
lan - huệ, liễu - đào, lựu - đào, sen - hồ, Kim Trọng - Thúy Kiều, ông Tơ - bà Nguyệt,
tơ hồng, ngọn đèn không tắt ... là những biểu tượng được dùng để triển khai đề tài về
tình yêu lứa đôi. Chiếc áo rách, áo gấm, nhà ngói ba tòa, nhà- ưanh, con cò, con bống
... là những biểu tượng của ca dao thuộc về đề tài gia đinh - xã hội. Tình yêu quê
hương đất nước được cụ thể hóa bằng các biểu tượng gạo trắng - nước trong, dòng
sông tắm mát, cây đa ...
Ở đây có hiện tượng đáng chú ý là một số các biểu tượng xét về đại thể có cùng
ý nghĩa biểu đạt.
Ví dụ:
- Kim - Kiều, Vân Tiên - Nguyệt Nga, kim - chỉ, nút - khuy, Tấn - Tần, đào -
liễu, mận - đào, trúc - mai, bướm - hoa, quế - hồi... đều chỉ lứa đôi yêu thương gắn bó,
xứng hợp.
- Củi - trầm, tiên - cú, phượng hoàng - gà ... đều chỉ lứa đôi không xứng hợp.
- Ruộng đồng, vườn xuân, vườn đào, động Đào, non Bồng ... đều chỉ không gian
tình yêu, nơi hò hẹn, thề nguyền.
Chính vi vậy, khi sáng tác ca dao, người xưa có điều kiện để chọn lựa, thay đổi
các biểu tượng mà ý nghĩa muốn thể hiện vẫn được giữ nguyên. Hệ thống biểu tượng
càng phong phú, các biểu tượng có cùng nghĩa càng nhiều, thi dân gian càng có nhiều
thuận lợi hơn khi sử dụng nguồn thi liệu này trong sáng tác của minh.
Tuy nhiên, nếu khảo sát tỉ mỉ hơn, chúng ta sẽ thấy tự thân mỗi biểu tượng có
những giá trị riêng của nó, khó mà thay thế trọn vẹn được bằng một biểu tượng khác.
Cùng là người con gái đã có chồng nhưng thuyền có lái, cá trong lờ, cá cắn câu,
chim trong lồng, hoa nở, ruộng có bờ, mộng đã bán ... mang những sắc thái ý nghĩa
khác biệt nhau.
Cùng là chỉ về con người có phẩm cách cao quý nhưng rồng, tiên, cây quế, cây
cao, hoa thơm, chim khôn, cá khôn ... mang những sắc thái ý nghĩa không trùng lắp.
Giàu nghèo, sang hèn cũng là vấn đề thu hút được khá nhiều sự chú ý của các
nghệ .sĩ dân gian. Biểu tượng cho cái nghèo cũng muôn hình muôn vẻ. Nón rách, áo
rách, quần rách, yếm rách ... thể hiện cái nghèo của chính chủ nhân. Đũa mốc, đũa tre,
mâm nan, bát đá, giường tre, nhà tranh, nhà dột cột xiêu ... là cái nghèo của gia cảnh.
Thuyền than, thuyền chài, thuyền thúng... là cái nghèo của công việc làm ăn ...
Trong nhiều trường hợp, các quan niệm, các cách nhin nhận, đánh giá đa dạng
của dân gian về một vấn đề trong cuộc sống được thể hiện rất rõ qua các biểu tượng có
cùng cái được biểu đạt (xét về đại thể), vẻ độc đáo ở từng biểu tượng giúp cho các đề
tài, chủ đề của ca dao được triển khai mội cách tình tế, thể hiện được trọn vẹn những
tư tưởng, tình cảm của dân gian.
Ngoài ra, tham gia triển khai các đề tài, chủ đề của ca dao còn phải kể đến các
biểu tượng biểu thị hạnh phúc và đau khổ. Chức năng của ca dao là khám phá, thể
hiện thế giới nội tâm con người. Dù là ở đề tài tình yêu quê hương đất nước, tình yêu
lứa đôi hay tình cảm gia đinh, cái chủ đích mà bài ca hướng đến luôn luôn là vẽ lên
bức tranh tâm trạng con người. Bức tranh ấy đa dạng, phong phú, nhiều đường nét,
màu sắc, nhưng chung quy lại có thể thấy nổi bật lên hai găm màu chính: hạnh phúc
hoặc đau khổ. Để thể hiện sâu sắc, tế nhị hai .thái cực tâm trạng đó, hàng loạt biểu
tượng đã được vận dụng một cách hợp lý trong quá trình ứng tác ca dao.
Ở những bài ca dao nói về hạnh phúc (sự giàu có, phong lưu, tuổi trẻ, sắc đẹp,
tình yêu xứng hợp, gắn bó thắm thiết...), dân gian thường đưa vào tác phẩm các biểu
tượng: gạo trắng- nước trong, hoa thơm, hoa đang thi, trăng tròn, má hồng - răng đen,
ngọc lành đợi giá, trúc-mai, liễu-đào, mận-đào, quế-hồi, quế-trầm, bướm-hoa, chim
phượng hoàng-ngô đồng, rồng-tiên, rồng-mây, rồng-phụng, kim-chỉ, khóa-chia, khóa-
rương, gương-lược, đũa ngọc-mâm vàng, đũa trong so, vuông-tròn...
- Thiếp gặp chàng như rồng mây gặp hội,
Chàng gặp thiếp như phượng hoàng gặp cội cây ngô.
Mấy lâu ni kẻ Hán người Hồ,
Bữa ni thiên lý ngộ, quyết phân phô cho tận tình. (TL I - tr.2060)
Ở những bài thể hiện sự đau khổ, bất hạnh (nghèo nàn, già nua, xấu xí, tàn tạ, cô
đơn, tình yêu không xứng hợp, lứa đôi cách biệt, nhớ thương, thân phận lênh đênh,
chIm nổi...) thường có các biểu tượng: áo vải, áo rách, hoa tàn héo, hoa thơm mất nhị,
kiểng sầu, đũa một chiếc, đũa so le, trăng méo, trăng mờ, nước mắt hồng, gan-ruột,
tiên-cú, phượng hoàng-gà, nhạn-én, sao Hôm-sao Mai, bạc-chi, đàn đứt dây, bèo cạn
nước ...
- Biết đâu trong đục mà chờ,
Hoa thơm mất nhị nương nhờ vào đâu. (TL I - tr.273)
Một số biểu tượng sóng đôi hạnh phúc được dùng ở trạng thái cách biệt nhau
cũng góp phần bộc lộ nỗi đau khổ lớn lao: thuyền xa bến, trúc xa mai, liễu xa đào, sen
xa hồ, Kim xa Kiều, bướm xa hoa, loan xa phụng cách, rồng ngược mây xuôi, quế xa
trầm, chỉ lIa kim ...
- Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.
Bởi chưng thầy mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau. (TL I - tr.859)
Cùng là đũa ngọc - mâm vàng, nhưng ở hai câu đầu thi biểu thị hạnh phúc, hai
câu sau biểu thị sự bất hạnh, đó là do cách dùng biểu tượng ở những trạng thái khác
nhau (kết hợp hay chia tách). Dân gian đã khéo dùng một biểu tượng lẽ ra biểu tỉIị
hạnh phúc (ở dạng kết hợp tự nhiên) để thể hiện sự đau khổ (ở dạng phân ly trái tự
nhiên, không hợp qui luật). Bài ca dao vẽ nên hai thái cực tâm trạng: cực kỳ hạnh
phúc và cực kỳ đau khổ. Chỉ với một biểu tượng mà thế giới nội tâm của nhân vật trữ
tình đã hiện lên đầy đủ, và đề tài tình yêu lứa đôi trong xã hội cũ cũng được thể hiện
thật sâu sắc. Qua phần tành bày trên, có thể kết luận rằng những đề tài, chủ đề mang
tính tâm trạng của ca dao phần nhiều được cụ thể hóa bởi các biểu tượng. Vui hay
buồn, hạnh phúc hay đau khổ ... tất cả đều được "nói" bằng biểu tượng, được mã hóa,
công thức hóa qua các biểu tượng.
4.2.2.2. Thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề:
Không chỉ góp phần triển khai, biểu tượng còn thể hiện độc đáo các đề tài, chủ
đề trong ca dao. Sự gắn bó của các biểu tượng với từng đề tài riêng biệt phần nào đã
nói lên điều đó. Thêm nữa, biểu tượng là một loại công thức truyền thống, nhưng
trong mọi quá trình sử dụng các công thức này luôn có một khoảng trống dành cho sự
sáng tạo. Biểu tượng không ngừng được đổi mới bằng các biến thể, các mối quan hệ,
kết cấu sóng hợp ... trong từng văn bản ca dao cụ thể. Một đề tài có thể được triển khai
trong hàng loạt bài ca dao với cùng một biểu tượng nhưng không bị trùng lắp là nhờ
vào sự sáng tạo của dân gian khi đưa biểu tượng vào chỉnh thể tác phẩm. Đề tài vi thế
luôn được thể hiện một cách mới mẻ và độc đáo.
Bàn về vấn đề này, cũng cần chú ý đến trường hợp một sự vật được chọn làm
biểu tượng xuất hiện cùng lúc trong nhiều đề tài khác nhau. Lúc đó, sự vật được khai
thác ở những phạm trù, khía cạnh không giống nhau, tạo nên các biểu tượng cùng
nhóm nhưng thể hiện những ý nghĩa khác biệt nhau.
Trong các bài ca dao về đề tài xã hội, chúng ta thường bắt gặp chiếc áo rách.
Dân gian đã khai thác chủ yếu ở khíu cạnh trạng thái "rách - lành" của chiếc áo để
biểu hiện những vấn đề xã hội, những nỗi niềm đắng cay, phẫn uất của người lao dộng
trước cái nghèo và thói đời:
- Áo rách chi lắm áo ơi,
Rách chi thất nhơn ác nghiệt không có nơi cho rận bò. (TL I-tr.182)
- Cha đời cái áo rách này,
Mất chúng, mất bạn vi mày áo ơi. (TL I - tr.528)
Trong những bài ca về tình yêu lứa đôi, chiếc áo ít được khai thác ở khía cạnh
này, có chăng, cũng chỉ là để khơi gợi nỗi niềm thương cảm trong giai đoạn tỏ tình. Ở
đề tài này, chiếc áo thường mang hơi ấm của tình thương nỗi nhớ, của những giận
hờn, nhớ mong, nũng nịu, trách móc ... Chiếc áo thường được chú trọng ở khía cạnh
là kỷ vật tình yêu, là vật trao gởi tình cảm (giá trị sử dụng)
- Chàng về cởi áo lại đây,
Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn. (TL I - tr.545)
- Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng. (TL I - tr. 164)
Trong các ví dụ trên đây, hình ảnh chiếc áo tuy có phần mang ý nghĩa như những
đối tượng được miêu tả trực tiếp, song đồng thời cũng đã mang ý nghĩa biểu tượng.
Để hiểu được mục đích của việc miêu tả trực tiếp ấy, cần tiếp thu chúng như là những
biểu tượng.
Cũng như vậy, ở đề tài tình yêu quê hương, đất nước, hình ảnh ruộng đồng
thường được miêu tả trực tiếp như là một phương thức chủ yếu để thể hiện sự trù phú,
giàu đẹp của xứ sở, quê hương. Dân gian hay chú ý đến cái mênh mông, bát ngát, bao
la của ruộng đồng :
- Ai đi Bình Thới, Trà Ôn,
Ruộng đồng lai láng, gái khôn trai hiền. (TL III - tr. 126)
- Quê em Đồng Tháp mênh mông,
Xanh tươi bát ngát ruộng đồng bao la ... (TL III - tr. 147)
Trong các bài ca về tình yêu lứa đôi, hình ảnh ruộng đồng lại được miêu tả trực
tiếp như là một phương thức chủ yếu để thể hiện không gian của tình yêu, là nơi gặp
gỡ, giao duyên, nơi hẹn hò, tình tự :
- Gặp em giữa đám ruộng vuông,
Anh phân chưa hết, nước mắt tuôn hai hàng. (TL III - tr.283)
- Gặp nhau ở quãng đồng vàng,
Bác mẹ thi vắng, họ hàng thi xa.
Lấy ai định liệu đôi ta,
Mặt lại nhin mặt, tay đà cầm tay. (TL IV - tr. 115)
Ruộng đồng còn được khai thác ở các trạng thái, tính chất (ruộng mắc bờ, ruộng
hoang, ruộng thuộc, ruộng sâu), giá trị sử dụng (ruộng đã bán), sở hữu (ruộng người,
ruộng nhà ) ....để thể hiện những con người, cảnh đời khác nhau trong tình yêu:
- Còn không cho chúng anh chờ,
Hay là như ruộng mắc bờ thi thôi! (TL I - tr.478)
- Em có chồng rồi hết đợi hết trông,
Giả như ruộng mãi chuộc không thấy về. (TL HI - tr.437)
Với tính cách là một đối tượng miêu tả trực tiếp, hạt gạo trong bài ca dao dưới
đây cũng chỉ có thể được hiểu đầy đủ khi người nghe tiếp nhận nó đồng thời như một
biểu tượng về vùng quê trù phú "dễ bề làm ăn":
- Bến Tre phong cảnh hữu tình,
Nước trong, gạo trắng, gái xinh, trai tài. (TL III - tr. 132)
- Xứ Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời. (TL III - tr. 130)
Ở một chủ đề khác, hạt gạo lại thực sự là biểu tượng về người phụ nữ với những
hoàn cảnh đắng cay:
- Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Đem vo nước đục, lại chan nước cà. (TL I - tr. 1918)
- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục, lại vần than rơm. (TL I - tr. 1918)
Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy rằng một nhóm biểu tượng có thể đi vào nhiều
đề tài khác nhau với sự "phân công " khá rõ ràng cho từng biểu tượng. Trong điều
kiện đó, phạm trù, khía cạnh được khai thác ở biểu tượng là hoàn toàn thuận lợi để tạo
liên tưởng đầy đủ nhất đến đề tài mà nó thể hiện. Phạm vi sử dụng càng hẹp, biểu
tượng càng có khả năng phục vụ tốt nhất cho đề tài.
Tuy nhiên, cũng cần chứ ý thêm, trong các bài ca dao khác nhau thuộc cùng một
chủ đề, nghĩa của biểu tượng là ổn định song không phải hoàn toàn bất biến. Đây
cũng là nguyên nhân tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ ca dao và sự đặc sắc của các
văn bản có cùng đề tài, cùng biểu tượng.
Ví dụ:
- Biểu tượng hoa sen chỉ người con gái đẹp:
-Búp hoa sen lai láng giữa hồ,
Giơ tay muốn bẻ sợ trong chùa có sư... (TL 11(1) - tr. 240)
Nhưng cũng dùng để biểu thị cho những người cao quý nói chung:
-Hoa sen sao khéo giữ màu,
Nắng nồng không nhạt, mưa dầu không phai. (TL I - tr. 1095)
- Biểu tượng má hồng chỉ người con gái trẻ, đẹp:
-Anh đi ngang qua cửa sao không vào,
Hay là anh có chỗ má đào, phụ em? (TL I - tr. 112)
Ngoài ra, còn được dùng để chỉ người phụ nữ nói chung:
-Hôm nay gặp buổi êm trời,
Má đào lại được sánh người trượng phu. (TL I - tr. 1115)
- Trong đề tài sinh hoạt gia đinh, biểu tượng biển thường được dùng chỉ công ơn
cha mẹ: - Ơn cha như biển nghĩa mẹ như trời
Thương mừng ghét sợ, không đám trao lời thở than. (TL I - tr.1716)
-Ơn cha rộng thênh thênh tựa biển,
Nghĩa mẹ dài dặc dặc bằng sông ... (TL I - tr. 1716)
Không gian thử thách cũng được biểu thị bằng biểu tượng này:
- Chàng lên non, thiếp cũng lên non,
Chàng lên trời, vượt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.
(TLI-tr.539)
- Tuổi trẻ thường được nói đến qua biểu tượng xuân:
- Tiếc xuân nghoảnh lại mong xuân,
Than ôi, bóng đã vân vân xế chiều. (TL I - tr.1919)
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sòng sọc nó thi theo sau. (TL I - tr.662)
Xuân cũng biểu tượng cho tuổi tác nói chung:
- Gẫm minh chưa mấy xuân thu,
Sầu vương đã chịu, oán thù đã mang. (TL I - tr.1014)
Những nét nghĩa ở cùng một biểu tượng thường là có liên hệ gần gũi với nhau.
Cùng một cái biểu đạt thể hiện nhiều cái được biểu đạt cũng phản ánh quá trình dân
gian không ngừng mở rộng đối tượng nhận thức ở từng biểu tượng. Đặc điểm này
khiến cho khả năng sử dụng biểu tượng cũng trở nên phong phú hơn. Nghĩa của biểu
tượng có thể chuyển dịch trong một biên độ nhất định nào đó, chứ không phải là một
sự cố định hoàn toàn. Biểu tượng nào càng được sử dụng nhiều càng có khả năng
được mở rộng nghĩa. Đề tài ca. dao vi vậy không bị đóng khung với các biểu tượng
khô cứng, nghèo nàn về ý nghĩa mà luôn được thể hiện một cách sống động, sáng tạo
với những nét nghĩa mới được phát sinh.
Nói tóm lại, giữa biểu tượng và đề tài, chủ đề có mối liên hệ tác động qua lại
chặt chẽ với nhau. Đề tài chi phối sự tồn tại của các biểu tượng. Các biểu tượng giúp
cho đề tài được triển khai và thể hiện một cách hoàn hảo (nhờ vào vẻ độc đáo ở tòng
biểu tượng, các biến thể và sự đa nghĩa của biểu tượng ... ). Việc xác định nghĩa của
biểu tượng vi vậy không thể tách rời đề tài, chủ đề mà nó phụ thuộc.
4.2.3.Biểu tượng và kết cấu, cấu tứ ca dao:
Như đã trình bày ở chương một, biểu tượng nghệ thuật ca dao mang tính chất là
những công thức truyền thống, những mô-típ trong văn bản văn học dân gian. Vi vậy
trong phần này, chúng tôi chủ yếu dựa vào sự định vị trên để tìm hiểu mối quan hệ, tác
động qua lại giữa biểu tượng và cấu trúc bài ca dao. Ca dao có nhiều loại kết cấu, một
phần trong số đó chịu sự chi phối khá lớn từ phía các biểu tượng.
4.2.3.1. Là hạt nhân quan trọng trong kết cấu song hành tâm lý
Loại kết cấu này còn có tên gọi là phép đối ngẫu tâm lý. Trong văn bản sẽ hiện
lên hai bức tranh: trước nhất là bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tiếp sau là bức
tranh tâm trạng con người. Hai bức tranh này không tồn tại riêng biệt, độc lập, tách rời
mà có liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau một cách gián tiếp, cái này khơi gợi cái kia, và
cái đích miêu tả cuối cùng là tư tưởng, tình cảm của con người, trọng tâm hướng tới
luôn luôn là con người. Đây là loại kết cấu được sử dụng phổ biến trong thơ ca dân
gian của nhiều dân tộc khác nhau. Bài thơ đầu tiên trong Kinh Thi của Trung Quốc là
một ví dụ:
Quan quan kia tiếng thư cưu,
Bên cồn hót họa cùng nhau vang đầy
U nhàn thục nữ thế này,
Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.
Hai nửa bài thơ có vẻ như không gắn gi với nhau nhưng chính ở đây: "... lại tạo
ra tính chất lạ lùng của thủ pháp hứng, các sự vật dường như rời rạc với nhau, như các
bộ lạc sống ở các miền đối lập nhau của Trung Quốc là Hồ và Việt, bỗng gần gũi
nhau, kết hợp với nhau như các bộ phận ngũ tạng của con người" [92, tr.161]. Nửa sau
của bài thơ được xây dựng trên nửa trước giống như ngôi nhà xây trên móng nhà.
Hình ảnh của đôi chim thư cưu cùng nhau hót họa vui vầy và hình ảnh thục nữ - quân
tử đẹp duyên có mối liên hệ kín đáo bên trong, chúng đối ứng với nhau, khơi gợi
những suy nghĩ trên cơ sở liên tưởng tương đồng.
Trong ca dao Việt Nam, kiểu kết cấu này có giá tri độc đáo nếu đặt trong tương
quan so sánh với kết cấu văn bản thơ của văn học viết. Cơ sở chính để gắn kết hai bức
tranh trong văn bản là những dấu hiệu gần gũi, tương hợp giữa thiên nhiên, cuộc sống
và con người.
Trong kết cấu này, ở bức tranh thứ nhất, thường có sự xuất hiện của những hình
ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, trầu - cau, núi - sông, sen - hồ, đào – liễu, giếng - gàu,
cây, hoa, trái...
- Con tằm bối rối vì tơ
Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình. (TL I - tr. 467)
- Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục, khi vinh (TL I - tr. 1512)
- Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa thỏa lòng. (TL III - tr. 418)
- Bướm xa hoa, bướm khô, hoa tẻ,
Liễu xa đào, liễu ngẩn đào ngây.
Đôi ta tình nặng, nghĩa dày,
Dẫu xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
(TL II (1) - tr. 242)
- Cải tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai,
Ham chi bóng sắc, hành hài tấm thân. (TL I - tr. 518)
Dĩ nhiên không phải tất cả những hình ảnh xuất hiện trong bức tranh thứ nhất
này đều là biểu tượng nghệ thuật, nhưng có thể nhận thấy phần nhiều là như vậy. Cốt
lõi của kết cấu này là phép so sánh. Bức tranh trên là cái dùng để so sánh, bức tranh
dưới là cái được so sánh. Bức tranh trên là cái biểu đạt, bức tranh dưới là cái được
biểu đạt. Với những bài ca dao mang lối kết cấu náy, hình ảnh biểu tượng ở bức tranh
thứ nhất cố vị trí khá quan trọng trong toàn bài. Nét tương đồng giữa thiên nhiên,
cuộc sống và tư tưởng, tình cảm con người khiến cho các bài ca dao trở nên đẹp đẽ,
hài hòa hơn bởi sự kết hợp giữa tính chất trí tuệ và sắc thái tình cảm. Những phát hiện
nghệ thuật của dân gian về sự tương đồng giữa bướm xa hoa, liễu xa đào và anh xa
em, giữa nước sông trong, đục và đời người vinh nhục, giữa con sông nhiều nước và
chàng trai đa mang, đa tình... là những sáng tạo thể hiện trí tuệ sắc sảo của dân gian.
Trong các bài ca dao này, bức tranh được tạo nên từ các biểu tượng giúp cho kết
cấu tác phẩm trở nên sáng rõ, cân đối. Tác phẩm dường như được chia thành hai phần
đối xứng với nhau, vừa độc lập lại vừa phụ thuộc. Bức tranh thứ nhất giúp ta cảm
nhận bức tranh thứ hai một cách sâu sắc, thi vị hơn. Giữa thiên nhiên, cuộc sống và
con người như không còn khoảng cách. Sông và con người, bướm và chàng trai, hoa
và cô gái, củi tre và người chồng xấu, con tằm và người con gái đang yêu là các thực
thể mang những giá tri nội tại giống nhau. Bức tranh thứ nhất còn làm cho bài ca dao
trở nên tươi tắn, giàu hình ảnh, màu sắc. Nó tạo nên một nền tảng, bệ phóng cho bức
tranh thứ hai đến với người tiếp nhận một cách tự nhiên. Kết cấu song hành tâm lý ở
bài ca dao có thành công hay không phần lớn nhờ vào bức tranh biểu tượng. Khi nào
sự tương đồng càng lớn thì sự gắn kết, phối hợp giữa hai bức tranh càng bền vững, và
hiệu quả thẩm mỹ của chỉnh thể nghệ thuật càng cao.
Kiểu kết cấu song hành tâm lý này đã được nhà folklore học nổi tiếng người Nga
A.N.Vexelôpxki chỉ ra khi nghiên cứu về các bài ca trữ tình dân gian. Đây là kiểu kết
cấu mang tính phổ biến, tính quốc tế. Nó phản ánh dấu vết của lối tư duy cổ xưa, xuất
phát từ sự gần gũi, tương đồng giữa các hiện tượng của thiên nhiên và cuộc sống con
người. Trong đời sống, khi sinh hoạt, lao động, người nông dân có nhiều điều kiện để
quan sát cây cối, hoa, quả, chim muông, cầm thú, sông suối, núi rừng ... Thiên nhiên
thường gợi những liên tưởng về thế giới con người. Chính từ đây, phép song hành đã
hình thành.
Xét chung, trong kho tàng ca dao người Việt, loại kết cấu này chưa phải đã chi
phối tất cả các tác phẩm. Nhưng có thể nói đây là loại kẹt cấu xuất hiện phổ biến và
tạo được hiệu quả thẩm mỹ cao, cho nên việc nghiên cứu kết cấu này, cũng như chức
năng của các biểu tượng được phát huy như thế nào trong kết cấu này là điều rất cần
thiết.
4.2.3.2. Hỗ trợ đắc lực cho kết cấu đối thoại:
Hiện nay, trong các công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao, có nhiều ý kiến
cho rằng hình thức kết cấu nổi bật trong ca dao là kết cấu đối thoại: đối thoại một vế,
đối thoại hai vế. Kiểu kết cấu này nảy sinh do môi trường, hoàn cảnh diễn xướng, ứng
tác ca dao.
Dù ở dạng lời nói của một người hay hai người, một vế hay hai vế, bài ca vẫn in
đậm dấu ấn của lối trò chuyện, giãi bày giữa nhân vật trữ tình với đối tượng trữ tình.
Văn bản ca dao thường hướng về một đối tượng cụ thể. Bài ca có thể là lời của chàng
trai nói với cô gái, mẹ nói với con, chồng nói với vợ ... Loại kết cấu này là một biểu
hiện cụ thể về mối liên hệ, ảnh hưởng của những yếu tố ngoài văn bản đối với văn bản
văn học dân gian. Hình thức hát đối đáp ca dao -dân ca là những yếu tố ngoài văn bản
đã trở thành nguyên nhân chính của việc hình thành nên kết cấu đối thoại, một yếu tố
thuộc cấu trúc của văn bản ca dao.
Với lối kết cấu này, không thể không nhắc đến vai trò của các biểu tượng. Nhiều
biểu tượng được sử dụng để thay thế cho con người. Nhân vật trữ tình, đối tượng trữ
tình ẩn minh trong các biểu tượng, mang những đặc điểm, giá trị, phẩm chất của các
biểu tượng. Chàng trai, cô gái tự xưng minh là rồng, mây, trúc, mai, liễu, đào, loan,
phượng, bướm, hoa ... Các nhân vật đã được hóa thân trong những hình ảnh đó.
- Thuyền ơi, có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. (TL I - tr.2093)
- Tằm ơi, say đắm nơi đâu,
Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn? (TL I - tr.1902)
- Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc,
Trách ai làm phụng bắc, rồng nam. (TL III - tr. 358)
Nhân vật ca dao chủ yếu được xây dựng trên các biểu tượng, nên thường là phi
cá thể hóa, đại diện chung cho một nhóm người, một giai tầng, giai cấp... Chàng trai
nào cũng có thể là ong, bướm, cô gái nào cũng có thể là hoa, trăng, cá, lứa đôi nào
cũng có thể là chim phượng hoàng - ngô đồng, lựu - đào, lan -huệ, mận - đào, trầu -
cau ... Bên cạnh hệ thống đại từ nhân xưng quen thuộc, phong phú của ca dao như:
anh - em, thiếp - chàng, minh - ta, qua - bậu, tui - minh ... còn cần phải kể đến hàng
loạt các biểu tượng có giá trị sử dụng như các đại từ trên:
- Tấn với Tần đường xa chả ngại,
Tấn với Tần là nghĩa phu thê,
Tần còn đây sao Tấn vội về,
Tấn Tần ỏ lại ta về cùng nhau. (TLIV - tr.212)
- Ước gì đào vợ, mận chồng,
Đào thương, mận nhổ, não nùng đôi bên
VI đào nên mận chẳng quên,
VI đào nên mận ngậm phiền nhớ mòng.
VI đào nên mận long đong,
Xin đào chớ ở ra lòng bắc, nam. (TL I - tr.2291)
Trong kết cấu này, các biểu tượng không chỉ có chức năng thể hiện tính cách,
hoàn cảnh, đặc điểm của nhân vật và đối tượng trữ tình mà còn trở thành những đê tài
để lứa đôi trò chuyện. Ca dao phổ biến lối nối chuyện bằng biểu tượng, hỏi và đáp
bằng biểu tượng:
- Lạ lùng anh muốn hỏi thăm,
Trăng kia đã đến hôm rằm hay chưa?
- Trăng đang mười bốn chưa rằm,
Lá dâu non đang đợi con tằm mới băng. (TL I - tr. 1223)
- Bấy lâu còn lạ chưa quen,
Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ?
- Hồ còn leo lẻo nước trong,
Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen. (TL I - tr.260)
Lối nói bằng biểu tượng phù hợp với nếp diễn đạt của người Việt Nam vì nó kín
đáo, ý nhị, đậm chất thơ, giàu sức biểu cảm. Đặc biệt là trong những câu chuyện tình
yêu lứa đôi, lối nói này thực sự cần thiết khi các chàng trai, cô gái muốn tỏ bày tình
cảm sâu kín, tế nhị của minh. Đối thoại bằng biểu tượng còn giúp tác phẩm ngắn gọn
nhưng ý tình sâu sắc. Đặc điểm ngắn gọn của ca dao trong kết cấu có phần đóng góp
của biểu tượng:
- Tiếng là ngày rằm nhưng trăng đã méo,
Vì em nói khéo anh tưởng trăng tròn,
Hoa kia đã hết nhụy, anh nói còn ngậm sương.
(TLII-tr.192)
Ba dòng ca dao với các biểu tuợng trăng và hoa là lời giãi bày, phân trần của
chàng trai ở một cảnh ngộ thật trớ trêu.
Nhìn chung, biểu tượng đã có những tác động đáng kể đến kết cấu đối thoại của
ca dao. Thật khó hình dung được kết cấu đó sẽ ra sao, nếu như trong ca dao không tồn
tại hệ thống biểu tượng nghệ thuật.
4.2.3.3. Thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thông"
Để tìm hiểu cấu trúc ca dao, Bùi Mạnh Nhị đã dựa vào các công thức truyền
thống - đơn vị tế bào phản ánh tập trung bản chất, đặc trưng folklore trong thể loại
này. Ca dao có nhiều loại công thức truyền thống, biểu tượng là một trong số đó. Theo
Bùi Mạnh Nhị: "Công thức là biểu hiện trực tiếp của tính truyền thống trong folklore.
Nó phản ánh suy nghĩ, thị hiếu của truyền thống, đồng thời, nó cũng biểu hiện quy
luật, quy tắc thẩm mỹ trong sáng tác và tiếp nhận tác phẩm folklore. Công thức truyền
thống sẽ là chìa khóa giúp chúng ta mở ra những bí mật cấu trúc của bài ca trữ tình
dân gian" [118, tr.322].
Biểu tượng thực sự có chức năng thiết kế văn bản. Ở nhiều mức độ khác nhau,
loại công thức này đã tham gia tích cực vào việc hình thành kết cấu của bài ca.
Trong nhiều bài ca dao ngắn, từ biểu tượng nghệ thuật đã hình thành nên cấu tứ
chính của tác phẩm. Biểu tượng chi phối toàn bộ cấu tứ bài ca. Lúc này, biểu tượng
được đặt trong những ngữ cảnh nhất định, thể hiện những nét nghĩa nhất định. Đối với
những bài này, tháo dỡ cấu trúc chủ yếu là tìm và phân tích biểu tượng trong ngữ cảnh
cụ thể, qua đó thấy được truyền thống và sáng tạo, nội dung tư tưởng và giá trị nghệ
thuật của tác phẩm qua lối nói năng giàu hình ảnh rất quen thuộc của dân gian.
Ca dao có nhiều chủ đề, nhưng biểu tượng trầu cau xuất hiện nhiều nhất là ở chủ
đề tình yêu lứa đôi. Vì trong đời sống thực tế, trầu cau đã gắn liền với các cuộc hát
mời trầu, các đêm trăng hò hẹn, các phong tục cưới xin..., cho nên bàn đến chuyện lứa
đôi, trong tâm thức người bình dân xưa luôn sống động một biểu tượng trầu - cau. Nếu
so sánh với một số cặp biểu tượng tình yêu khác trong ca dao như: mận - đào, thuyền -
bến, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa, trúc -mai, đào - liễu ... thì có thể thấy
trầu - cau là một trong những biểu tượng được dân gian sử dụng nhiều nhất để xây
dựng nên cấu tứ tác phẩm.
- Trầu vàng góp bến sông Bung,
Chờ cau Đại Mỹ đặng cùng về xuôi. (TL I - tr.2191)
- Minh về ngoài ấy mau vô,
Cho anh sắm sửa cau khô để dành.
- Cau khô anh bổ để dành,
Bao giờ cau cố trầu xanh mới về. (TL I - ti". 1369)
Có thể tìm thêm nhiều ví dụ ở các biểu tượng khác:
- Trúc với mai đêm ngày rầu rĩ,
Mai với trúc biết nghĩ nào khuây,
Mai về mai bỏ trúc đây,
Thuốc thang nào giải cho khuây mối sầu. (TL IV- tr. 211)
- Cá vàng lơ lửng giếng xanh
Thong dong chốn ấy một minh thảnh thơi,
Ai ngờ cá lại ham mồi,
Bỏ nơi mát mẻ, tìm nơi lạnh lùng. (TL ĩ - tr.319)
Trong các ví dụ trên, biểu tượng đã trở thành trung tâm, hạt nhân của bài ca
dao. Chúng là những yếu tố nòng cốt, giữ vai trò gắn kết các thành tố khác trong văn
bản để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật hoàn mỹ.
Các tứ thơ được xây dựng từ cùng một biểu tượng có tạo nên sự đơn điệu
không? Thật ra, dân gian có nhiều cách thức để hình thành cấu tứ từ một biểu tượng.
UVí dụ 1U:
Hãy thử đọc một số bài cụ thể:
a. - Thương em có biết không em,
Lẽ nào có rượu mà nem để dành? (TL 11(1) - tr.407)
b. - Mẹ già chặt đũa từ em,
Không cho ve rượu, gói nem mặn nồng. (TL I - tr. 1341)
c. - Rượu nằm trong nhạo chờ nem,
Anh nằm phòng vắng chờ em lâu về. (TL I - tr. 1810)
Cả ba bài đều được hình thành từ hạt nhân là biểu tượng rượu - nem, nhưng là ba
cấu tứ khác nhau:
a. Tình yêu một phía và ước mong được kết hôn như rượu - nem.
b. Lứa đôi yêu nhau nhưng mẹ già không cho phép đến với nhau như rượu -nem
mặn nồng.
c. Chàng trai chờ đợi người yêu như rượu chờ nem.
Và ba cách nói cũng khác nhau:
a. ... Có rượu mà nem để dành.
b. ... Ve rượu, gói nem mặn nồng.
c. Rượu nằm trong nhạo chờ nem ...
Mỗi bài ca dao triển khai công thức biểu tượng theo những hướng cụ thể khác
biệt. Cấu tứ ca dao luôn phong phú do hoàn cảnh, quan hệ, góc nhìn... ở các bài ca
UVí dụ 2U:
luôn thay đổi trong từng thời điểm sáng tác, với từng người sáng tác.
a. - Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? (TL I - tr.2029)
b. - Tiếc thay cái tấm lụa đào,
Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi
Trời kia có thấu chăng ười,
Lụa đào mà vá áo tơi sao đành. • (TL I - tr. 1915)
c. - Thân em như thước lụa điều,
Đã đông nơi chuộng, lại nhiều nơi thương. (TL I - tr.2031)
Cùng là biểu tượng tấm lụa dào, nhưng ba văn bản có ba kiểu cấu tứ khác nhau:
a. Người con gái đẹp trong hôn nhân như tấm lụa đào giữa chợ
b. Người con gái đẹp và cuộc hôn nhân không xứng hợp như tấm lụa đào vá vào
áo tơi.
c. Người con gái đẹp như tấm lụa đào được nhiều người mến chuộng.
Biểu tượng được đặt trong những mối quan hệ khác nhau ở từng văn bản:
a. Tấm lụa đào - chợ đời
b. Tấm lụa đào - áo tơi.
c. Tấm lụa đào - nơi mến chuộng.
Cấu tứ các bài ca dao rõ ràng không trùng lắp với nhau. Từ các văn bản loại này,
chúng ta còn có thể tìm hiểu được truyền thống và cách tân trong câu tứ của một bài
ca dao cụ thể.
Xét đến những bài ca dao dài, trong nhiều trường hợp, chúng tôi nhận thấy cấu
tứ của tác phẩm được xây dựng trên cơ sở phát triển những nét nghĩa của công thức
biểu tượng. Bài ca sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
- Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu,
Trầu này têm những vôi Tàu,
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thật là say,
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng,
Dù chẳng nên vợ nên chồng,
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương. (TL I - tr.2307)
Mở đầu là lời mời trầu mang ý nghĩa giao tiếp xã hội phổ biến. Tiếp đó, cô gái
trình bày về các thành phần của miếng trầu: trầu, vôi Tàu, cát cánh, quế cay..., ngỏ cho
chàng trai hiểu được đó là một miếng trầu rất quý được têm một cách công phu, chất
chứa bên trong tình cảm sâu nặng của người têm. Đến khi cô gái .hát: "Trầu này ăn
thật là say..." thi ý nghĩa của miếng trầu mời đã rõ ràng. Cái say có thực của miếng
trầu thường dễ khiến người ta liên tưởng đến cái say vương vất, vân mòng của đôi lứa
đang yêu. Cuối bài ca dao, lời mời trầu bình thường đã thực sự chuyển thành lời tỏ
bày tình yêu.
Như vậy, cấu tứ trầu cau đã được phát triển từ tứ thơ về một nét sinh hoạt của
đời sống văn hóa đến tứ thơ về một ước mơ hạnh phúc gia đình.
Một số bài khác cũng có cách phát triển cấu tứ tương tự:
- Một đàn cò trắng bay tung,
Bên nam bên nữ ta cùng hát lên
Hát lên một tiếng mà chơi,
Hát lên hai tiếng, xơi cơi trầu này.
Trầu đã có đây, cau đã có đây,
Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?
Trầu này trầu túi, trầu khăn,
Cùng trầu dải yếm, anh ăn trầu nào?
Trầu này, trầu quế, trầu hồi,
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu minh.
Trầu này, trầu tính, trầu tình,.
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu minh lấy ta.
Trầu này têm tối hôm qua,
Trầu cha, trầu mẹ, đem ra cho chàng.
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc, sao chàng không ăn?
Hay là chê khó, chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu. (TL I - tr. 1387)
Đây là một bài mời trầu có kết cấu hoàn chỉnh, có phần mở đầu, phát triển, kết
thúc khá rõ ràng. Sau lời mở đầu mang tính chất giới thiệu về một sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ dân gian, lời mời trầu bắt đầu chuyển sang nhịp điệu tâm tình:
- Trầu đã có đây, cau đã có đây,
Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?
Miếng trầu được gắn kết với chuyện nhân duyên.
Rồi hàng loạt lời tường giải cho ý nghĩa của miếng trầu được hát lên, chỉ ra cái ý
nghĩa giao duyên sâu đậm: trầu túi, trầu khăn, trầu dải yếm, trầu quế, trầu hồi, trầu
loan, trầu phượng, trầu nhân, trầu nghĩa ... Toàn là những từ ngữ khơi gợi chuyện tình
duyên. Trong thực tế làm gi có trầu tôi, trầu minh, trầu tính, trầu tình? Và nếu là
miếng trầu giao tiếp bình thường thi trầu hàng hay không phải là trầu hàng có gi quan
trọng? Cuối bài, lời mời trầu được nhắc lại lần nữa:
Hay là chê khó chê khăn?
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
Lúc này, miếng trầu đã thực sự là hóa thân của những tình cảm mà cô gái muốn
trao gởi.
Thường là trong quá trình phát triển cấu tứ như vậy, các lớp nghĩa của ngôn từ
được bóc tách dần dần. Lúc đầu là nghĩa biểu vật, sau đó là nghĩa biểu tượng. Chỉ
trong phạm vi một bài ca dao, các ý nghĩa văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, tinh thần,
nghĩa biểu tượng đan xen vào nhau, hòa lẫn và thống nhất với nhau trong biểu tượng
miếng trầu.
Từ cách cấu tứ chuyển tiếp giữa miếng trầu giao tiếp xã hội và miếng trầu giao
duyên cá nhân, nhiều bài ca dao cổ truyền được hình thành và đã để lại cho người
thưởng thức những ấn tượng sâu sắc.
Một số ví dụ từ các biểu tượng khác trong ca dao:
- Công anh lên lừng đốn trúc,
Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài
Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ
Đêm hôm lọ mọ, xe sợi chỉ săn
Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức
Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi
Thả câu xuống rồi, miệng anh thầm vái
Đây cần câu nhân, cần câu ngãi
Đây cần câu phải, cần câu khôn
Vái ông Nguyệt Lão se sợi chỉ hồng
Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu.
- Con cá anh đẹp, nó đã có cặp
Dẫu anh thả hoài, chẳng gặp nó đâu
Anh về sửa lại lưỡi câu,
Tìm sang chốn khác, duyên hầu nên chăng? (TL I - tr.496)
Cấu tứ bài ca này được hình thành từ sự phát triển của biểu tượng cá và người
câu cá. Ở đây, biểu tượng đóng vai trò tổ chức văn bản, là cốt lõi của văn bản. Từ chỗ
chàng trai chuẩn bị cần câu, đi câu với lời khấn vái thành tâm mong cá ăn mồi đến khi
biết cá đã có cặp và lời đề nghị nên câu chốn khác ... là một sự phát triển, dẫn dắt ý tứ
lôgic, có tình có lý, hấp dẫn người tiếp nhận văn bản như một câu chuyện kể hoàn
chỉnh. Cá và người câu cá từ bình diện nghĩa biểu vật được chuyển sang nghĩa biểu
tượng (ở cuối bài) một cách khéo léo.
Biểu tượng khăn cũng đi vào ca dao với những hình thức diễn đạt tinh tế:
- Khăn em, em đang đội đầu,
Chàng mà giật lấy bỏ đầu bơ vơ
Mang khăn em về, chàng nhớ chàng thêu
Thêu sao cho được cây cau đôi buồng
Thêu sao cho được buồng hương,
Thêu sao cho được đôi đường chỉ xanh
Thêu sao cho được hoa chanh,
Thêu sao cho được trăm cành quế chi
Thêu sao cho được chữ quỳ
Thêu sao cho được bướm thì cành hoa.
Thêu sao cho được giăng già,
Thêu sao cho được trăm ba cành hồng
Khăn em mua ở tỉnh Đông,
Chạy tàu em xuống Hải Phòng mua kim
Chạy tàu xuống tỉnh Hưng Yên,
Mua con chỉ thắm kết duyên cùng chàng
Khăn em có bốn chữ vàng,
Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoan, chữ húy.
Chàng mà giật lấy khăn đi
Rồi mai em lại có khi nên gần
Khăn em có chữ ái ân,
Chữ ái là vợ, chữ ân là chồng.
Khăn em chả đáng mấy đồng,
Có phải vợ chồng thì cho nhau xin
Muốn xin thì nói là xin
Sao chàng lại cứ giữ gìn khăn em? (TLIV - tr. 124,125)
Từ chỗ là một chiếc khăn đội đầu bình thường chuyển tiếp thành chiếc khăn kỷ
vật tình yêu (với những đặc điểm: khăn đẹp, khăn quý, khăn nghĩa tình...). Từ chỗ là
một đối tượng miêu tả trực tiếp trở thành một biểu tượng. Lớp nghĩa biểu vật và lớp
nghĩa biểu cảm như đan xen hòa lẫn vào nhau. Xuyên suốt bài ca là biểu tượng chiếc
khăn. Hình ảnh này đã quy định toàn bộ sự phát triển cấu tứ của tác phẩm.
Góp phần vào việc thiết kế văn bản, biểu tượng còn giữ vai trò là một trong các
yếu tố hợp thành cấu tứ. Trong một tác phẩm (ngắn hoặc dài), có thể xuất hiện một
hoặc nhiều biểu tượng. Mỗi biểu tượng đóng góp một phần giá trị của minh vào cấu tứ
chung. Giá trị của từng biểu tượng cũng có nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào
mối liên hệ của nó với cấu tứ của toàn bài. Bài Tát nước đầu đình là một ví dụ. Mượn
cớ để quên chiếc áo trên cành hoa sen, chàng trai từ chỗ xin lại áo tiến đến chỗ nhờ
khâu áo giùm, và cuối cùng hứa hẹn sẽ giúp cho cô gái tốt bụng kia thật nhiều thứ
trong ngày cưới của cô. Sao lại có chàng trai kỳ lạ đến thế! Khâu giúp một cái áo sứt
chỉ đường tà, công lênh có đáng là bao, mà chàng trả công nhiều vậy? Xôi vò, lợn béo,
rượu tăm, chiếu, chăn, trầm, tiền cheo, tiền cưới.... Và kết thúc bài ca dao là cả một
buồng cau. Chính buồng cau là cái tín hiệu khiến cô gái nhận ra người đến hỏi cưới
minh sẽ không ai khác hơn là chàng trai xin áo. Chàng trai đã không vô tư chút nào
khi đề nghị được giúp cô những sính lễ ấy. Trong cấu tứ: mất áo, nhờ khâu áo, hứa trả
công thì buồng cau là yếu tố cuối cùng nhưng cũng là yếu tố quan trọng biến bài ca
xin áo trở thành lời tỏ tình duyên dáng. Bởi lẽ trong ngày cưới, buồng cau là lễ vật bắt
buộc mà đàng trai phải mang sang đàng gái, chàng trai là ai mà có thể giúp được
buồng cau? Giúp như thế thì chàng rể nào còn mặt mũi bước sang nhà cô dâu, trừ khi
chàng trai xin áo là nhân vật chính trong đám cưới đó.
Bài ca là sự xâu chuỗi của nhiều chi tiết, trầu cau là một trong số đó. Biểu tượng
trầu cau nằm ở mắt xích cuối cùng trong hệ thống chi tiết của bài ca, nhưng đã có vị
trí quan trọng trong cấu tứ chung của toàn tác phẩm.
Biểu tượng cá chậu, chim lồng trong Trèo lên cây bưởi hái hoa... cũng là những
thành tố góp phần hình thành nên cấu tứ tác phẩm. Biểu tượng chim trong bài ca dao
sau đây có vai trò tương tự:
- Lên xe dầu phải xuống xe
Hai bên nam nữ đứng nghe tôi chào
Trước tôi chào cây lê, cây lựu
Sau tôi chào bạn cựu, bạn tân
Chào luôn tiếng nữa ngoài sân trong nhà
Chào rồi, hỏi thật chủ gia
Cặp chim đứng đó, chim nhà hay chim ai.
Chim nhà tôi xuống ná hạ tay
Chim đồng tôi lên ná, một hai bắn liền. (TL I - tr. 1274)
Cần chú ý thêm một hiện tượng nữa cũng rất đặc biệt, đó là có một số bài ca dao,
biểu tượng xuất hiện hàng loạt nối tiếp nhau, kề sát nhau, giúp cho câu tứ trở nên
sáng rõ, ấn tượng:
- Hôm nay lan huệ sánh bày,
Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời,
Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi,
Một mai cá nước, chim trời gặp nhau. (TL I - tr. 1115)
- Gặp đây hỏi khách má đào
Còn không hay đã nơi nào xứng cân?
Gặp đây hỏi khách Châu Trần,
Còn không hay đã Tấn Tần cùng- ai?
Gặp đây hỏi khách Chương Đài,
Còn không hay đã có ai vin cành?
Gặp đây hỏi khách xuân xanh,
Có nên thi nói cho tình được hay. (TL I - tr. 1606)
Sự sử dụng các biểu tượng liên tiếp nhau, phối hợp hài hoa giữa biểu tượng đơn
và đôi, có dụng ý nhấn mạnh vào nội dung chính của bài ca. Kết cấu tác phẩm như là
sự nối đuôi của các biểu tượng. Các nhân vật, sự việc, ý niệm đều được thể hiện thông
qua biểu tượng. Có khi cùng lúc nhiều biểu tượng thay thế cho nhau để biểu thị một
con người, một đôi lứa .... Sự tập hợp các biểu tượng như vậy đã góp phần mở rộng
không gian của bài ca dao, truyền cho nó những giá trị thẩm mỹ truyền thống và tô
đậm cấu tứ .
Qua các phần đã trình bày trên, có thể thấy được vai trò năng động của biểu
tượng trong cấu trúc văn bản ca dao. Bằng nhiều cách thức và mức độ khác nhau, các
biểu tượng đã thâm nhập vào cốt lõi chính của bài ca dao, trở thành những tế bào hạt
nhân hình thành nên tác phẩm. Sự chi phối của biểu tượng trong cấu trúc ca dao là
hiện tượng đáng quan tâm, cần được khảo sát tỉ mỉ hơn nữa. Ở trường hợp là những
yếu tố hợp thành cấu tứ, biểu tượng đã có đóng góp ít nhiều trong việc rút ngắn văn
bản, giúp cấu tứ được thể hiện một cách sáng tạo.
* * *
Tóm lại, cùng với vẻ đẹp riêng ở từng biểu tượng, tính đa nghĩa, cấu tạo đa dạng
và các biến thể của biểu tượng đã làm cho tổng thể ca dao trở nên hấp dẫn, sống động,
giàu sức biểu hiện, đồng thời, phủ nhận ý kiến sai lầm cho rằng công thức truyền
thống là khiếm khuyết thẩm mỹ, là dấu trừ về mặt thẩm mỹ của folklore. Sáng tác
theo công thức là kiểu sáng tác quen thuộc của dân gian, xuất phát từ những yêu cầu
của loại hình văn học truyền miệng. Các công thức đã mang lại giá trị phong phú cho
văn học dân gian, mà biểu tượng trong ca dao là một ví dụ thuyết phục.
Sự vận động của biểu tượng trong quá trình ứng tác ca dao đã dẫn đến việc hình
thành hàng loạt tác phẩm có cùng biểu tượng, tạo nên những nhóm, những chuỗi ca
dao mà tính hệ thống được thể hiện nổi bật. Thực tế này đã khẳng định sự cần thiết
của phương pháp nghiên cứu hệ thống đối với các văn bản ca dao. Sự hiểu biết chung
về hệ thống ca dao trầu cau sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng cho việc khảo sát một đơn vị
ca dao trầu cau cụ thể. Việc sử dụng phổ biến các biểu tượng trong ca dao cũng bộc lộ
rõ quan niệm về cái đẹp trong nghệ thuật của tác giả dân gian. Đó là cái đẹp trong sự
lặp lại, lặp lại những giá trị đã được chọn lọc và lặp lại một cách thông minh. Sử dụng
sáng tạo các khuôn mẫu có sẩn là thói quen thẩm mỹ, tài năng nghệ thuật của người
xưa (nếu như trong truyện dân gian, đó là sự lặp lại của các tip, mô-úp, thì ở đây là
các biểu tượng).
Qua chương này, ta còn có điều kiện để thấy được biểu tượng ca dao chính là
những, đơn vị tế bào phản ánh đầy đủ đặc trưng, bản chất thẩm mỹ của folklore. Biểu
tượng với giá trị về nhiều mặt như vậy xứng đáng được chúng ta khảo sát toàn diện
hơn nữa.
Sự tham gia tích cực của biểu tượng vào hệ thống thi pháp ca dao còn góp phần
tạo nên những khác biệt cơ bản giữa thi pháp ca dao và thi pháp thơ, giữa thi pháp văn
học dân gian và thi pháp văn học viết.
KẾT LUẬN
1. Biểu tượng trong ca dao là những biểu tượng nghệ thuật được xây dựng bằng
chất liệu ngôn từ. Đó là những từ ngữ chỉ hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, được
một cộng đồng người nhất định cùng chấp nhận và sử dụng trong một thời gian lâu
dài. Những từ ngữ này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ca dao với những nét nghĩa
biểu trưng tương đối ổn định.
Đặc điểm nổi bật ở biểu tượng là tính cộng đồng xã hội. Một hình ảnh là biểu
tượng ở cộng đồng này có thể không phải là biểu tượng ở cộng đồng khác, hoặc cùng
một biểu tượng nhưng ở các cộng đồng khác nhau chúng có những nét nghĩa khác
nhau. Vì vậy, nghiên cứu biểu tượng cần phải đặt chúng trong môi trường văn hóa, xã
hội, địa lý, lịch sử... của cộng đồng nơi mà chúng được hình thành thi mới hiểu thấu
đáo được những tầng ý nghĩa tiềm ẩn trong biểu tượng. Đồng thời, qua biểu tượng,
cũng có thể hiểu thêm nhiều về chính cộng đồng đó.
Biểu tượng ca dao mang tính cụ thể- khái quát, khiến cho sự diễn đạt trong văn
bản vừa mang tính hình tượng, vừa mang tính hàm súc, vừa sinh động, vừa sâu sắc.
Biểu tượng mang tính nhận thức đồng thời còn mang đậm tính biểu cảm. Sự gắn bó
khăng khít giữa hai yếu tố lý trí và tình cảm đó ở biểu tượng đòi hỏi người đọc phải
tiếp nhận chúng bằng toàn bộ tâm trí của minh.
Trong ca dao người Việt, các biểu tượng được sử dụng với tần số rất cao. Một
hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ bằng ngôn ngữ đã được hình thành cùng với sự phát
triển của ca dao trong tiến trình lịch sử. Hệ thống này có những đặc điểm, tính chất,
nội dung, chức năng riêng biệt, cần được khảo sát ở nhiều bình diện. Tìm hiểu hệ
thống này sẽ đem lại những hiểu biết phong phú về bản chất thẩm mỹ của ca dao.
2. Ở góc độ ký hiệu học, biểu tượng ca dao chính là những siêu ký hiệu, bao gồm
cái biểu đạt (CBĐ') và cái được biểu đạt (CĐBĐ'), gắn kết với nhau bằng những mối
liên hệ nhất định. Mỗi biểu tượng là một hệ thống ký hiệu hàm nghĩa, hệ thống đôi, vì
vậy, ngôn ngữ ca dao trở nên cô đọng, nén chặt, giàu sức biểu hiện.
Ở góc độ tu từ học, biểu tượng ca dao chủ yếu được hình thành trên cơ sở các
mối quan hệ liên tưởng (liên tưởng tương đồng, liên tưởng lôgich khách quan về mối
quan hệ có thực xảy ra giữa hai đối tượng). Thông qua hình thức diễn đạt ở các văn
bản, có thể nhận thấy biểu tượng tồn tại ở ba dạng: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Ở mỗi
dạng thức, nghĩa của biểu tượng được bộc lộ ra theo những cách khác nhau. Sự phong
phú trong các dạng tồn tại đã góp phần tạo nên nét hấp dẫn, sống động cho biểu
tượng, cho văn bản ca dao, tạo điều kiện thuận lợi để dân gian có thể lựa chọn dạng
thức phù hợp nhất với việc thể hiện thế giới nội tâm trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Ở góc độ folklore học, biểu tượng ca dao là một loại yếu tố trùng lặp, một loại
mô - tip, công thức truyền thống. Đây là những đơn vị tế bào quan trọng, năng động
có khả năng thiết kế văn bản, đồng thời, phản ánh tập trang bản chất, đặc trưng, mỹ
học folklore trong ca dao. Công thức biểu tượng bao gồm ba cấp độ: nhóm biểu tượng,
biểu tượng, biến thể của biểu tượng, đáp ứng được nhu cầu biểu đạt tư tưởng, tình cảm
phong phú của dân gian.
Ở góc độ văn hóa học, hệ thống biểu tượng ca dao là một hiện tượng văn hóa.
Biểu tượng được sinh ra và nuôi dưỡng từ mảnh đất văn hóa cộng đồng, vì vậy, qua
văn hóa hiểu được biểu tượng, qua biểu tượng hiểu được văn hóa là một thực tế hiển
nhiên. Sự giao lưu, gặp gỡ, tiếp thu lẫn nhau giữa các nền văn hóa cũng đọng lại trong
các biểu tượng. Biểu tượng còn có liên hệ mật thiết với trình độ nhận thức, tư duy của
con người. Sự tồn tại với tần suất cao của biểu tượng trong ca dao chứng tỏ năng lực
tượng trưng hóa đã trở thành phổ biến trong tầng lớp bình dân. Với vai trò là những
khuôn mẫu văn hóa cổ truyền, những hạt nhân di truyền, những đơn vị cơ bản của văn
hóa, biểu tượng ca dao đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn hóa dân tộc.
Biểu tượng còn thể hiện đặc trưng ngôn ngữ của thể loại. Ngôn ngữ ca dao phần
lớn là ngôn ngữ biểu tượng. Ngôn ngữ đặc thù này thể hiện một cách hiệu quả bản
chất trữ tình của thể loại, đồng thời, tạo nên một nét phong cách riêng -một sức hấp
dẫn riêng cho ca dao.
3. Các biểu tượng trong ca dao có nhiều nguồn gốc khác nhau. Có thể chia thành
ba nhóm: những biểu tượng xuất phát từ tín ngưỡng - nghi lễ và phong tục, tập quán
của người Việt, những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc,
những biểu tượng bắt nguồn từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và đời
sống hàng ngày của nhân dân ta. Thực ra, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương
đối mà thôi. Trong mỗi nhóm đã nêu, các biểu tượng cụ thể đều có một tầng nền lịch
sử - xã hội, một "cốt" văn hóa riêng. Đồng thời, một số biểu tượng có nguồn gốc khá
phức tạp, đó là sự đan xen của nhiều quan niệm, ảnh hưởng, truyền thống văn hóa
khác nhau (trầu cau, cây đa, rồng...). Phát hiện được các lớp lịch sử - văn hóa trong
một biểu tượng là vấn đề không dễ dàng. Vì vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng
cần được tiến hành một cách thận trọng để tránh những nhận định chủ quan, sai lệch.
Ở cả ba nguồn gốc, việc quan sát thế giới khách quan đều đóng vai trò quan trọng
(trong khâu hình thành biểu tượng cũng như tiếp nhận các biểu tượng của văn học cổ
Trung Quốc ).
Một số biểu tượng có nguồn gốc từ các điển tích, điển cố Trung Quốc phản ánh
khá rõ nét quá trình giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc. Người Việt Nam đã sử dụng
các yếu tố văn hóa vay mượn đó một cách sáng tạo, đã dân tộc hóa, dân gian hóa,
biến những yếu tố văn hóa xa lạ từ bên ngoài trở thành những yếu tố thật sự gắn bó
với nền văn hóa Việt Nam, thể hiện được bản sắc văn hóa Việt Nam.
Việc sử dụng điển cố trong ca dao có nhiều khác biệt so với văn chương bác học.
Ca dao sử dụng điển cố ít hơn, nhưng phần nhiều trong số đó đã trở thành biểu tượng.
Nhiều trường hợp cùng một điển cố nhưng văn chương bác học và văn chương bình
dân sử dụng với những nét nghĩa khác nhau. Xác định nguồn gốc của các điển cố -
biểu tượng, chỉ ra thực tế ngữ nghĩa mà hai bộ phận văn học cấp cho chúng là việc
làm cần thiết để khu biệt được nội dung của biểu tượng ca dao.
4. Biểu tượng tồn tại trong ca dao với số lượng lớn, phong phú, đa dạng. Trong
luận án này, chúng tôi đã tiến hành phân loại biểu tượng dựa trên tiêu chí cái biểu đạt,
xuất phát từ vai trò quan trọng của sự vật, hiện tượng thuộc thế giới khách quan trong
quá trình hình thành biểu tượng. Chúng tôi cũng đã miêu tả hệ thống biểu tượng ca
dao dựa vào các phạm trù ở cái biểu đạt làm cơ sở cho những liên tưởng thơ ca định
hình biểu tượng. Đó là các phạm trù về kích thước, khoảng cách, tính chất, trạng thái,
màu sắc, hương vị, chất liệu, đặc điểm và môi trường sinh trưởng, tập tính, giá trị sử
dụng, không gian xã hội và văn hóa, hoàn cảnh sống, chức năng... Từ việc miêu tả
này, có thể hiểu được biểu tượng trong cơ chế hình thành, trong chiều sâu bản chất,
đồng thời, đây cũng là phương thức thích hợp cho việc giới thiệu một số lượng lớn các
biểu tượng ca dao (286 biểu tượng).
Biểu tượng ca dao có thể chia thành ba hệ thống nhỏ: biểu tượng là các hiện
tượng tự nhiên và môi trường tự nhiên (hệ thống 1), biểu tượng là các vật thể nhân tạo
(hệ thống 2), biểu tượng là con người (hệ thống 3). Mỗi hệ thống có những đặc điểm
riêng nên cũng được dân gian chú ý khai thác ở những phạm trù tạo liên tưởng không
giống nhau. Vai trò quan trọng của thiên nhiên đối với sự hình thành biểu tượng cũng
được thể hiện rõ qua số lượng biểu tượng ở hệ thống 1: 166/286 biểu tượng. Thế giới
vật thể nhân tạo cũng góp phần không nhỏ trong kho thi liệu dân gian này : 102/286
biểu tượng.
Biểu tượng trong ca dao người Việt vừa thể hiện tính địa phương, tính nghề
nghiệp độc đáo, vừa mang tính dân tộc, tính quốc tế sâu sắc. Khi nghiên cứu cần đặt
chúng trong nhiều mối tương quan để so sánh, đối chiếu nhằm có thể phát hiện được
trọn vẹn cái đẹp bản chất tồn tại trong từng biểu tượng. Thế giới biểu tượng với những
đặc trưng trên được tạo nên bởi thao tác lựa chọn, tư duy liên tưởng, năng lực sáng
tạo nghệ thuật của con người. Việc khảo sát biểu tượng không thể tách rời quá trình
tìm hiểu về những chủ thể đã sáng tạo ra chúng.
5. Xét về mặt cấu tạo, biểu tượng ca dao được chia làm hai loại : biểu tượng đơn
và biểu tượng đôi. Tùy vào mối liên hệ giữa các thành tố tạo thành biểu tượng đôi mà
chúng ta có biểu tượng đôi tương đồng hay biểu tượng đôi đối lập. Trong nhiều
trường hợp, biểu tượng đơn chính là cơ sở để từ đó hình thành các-biểu tượng đôi.
Các dạng cấu tạo này đã tạo nên sự phong phú cho biểu tượng ca dao ỏ từng văn bản
cụ thể.
Về mặt chức năng, biểu tượng có những tác động, chi phối trực tiếp đến các
thành tố thi pháp khác của ca dao như: ngôn ngữ, đề tài, chủ đề, kết cấu, cấu tứ, nhân
vật...
Ngôn ngữ ca dao mang đậm tính hàm súc phần lớn nhờ vào biểu tượng. Đặc biệt
với các biểu tượng được hình thành từ điển tích, điển cố, các lớp nghĩa tiềm ẩn trong
ngôn từ ca dao càng lớn. Sự lĩnh hội ý nghĩa của văn bản vi vậy tùy thuộc rất nhiều
vào tầm hiểu biết của người tiếp nhận.
Sự vận động của biểu tượng còn khiến cho ngôn ngữ thể loại này vừa mang tính
công thức, khuôn mẫu, vừa mang tính sáng tạo. Ca dao thường xuyên sử dụng các
biểu tượng như là những công thức ngôn ngữ thuộc nhiều mức độ : từ, ngữ, câu...
Đồng thời trong từng văn bản cụ thể, dân gian lại sử dụng một cách sáng tạo các công
thức đó (biểu hiện qua các biến thể). Đặc điểm này dẫn đèn sự kết hợp hài hòa giữa
yếu tố truyền thống và sáng tạo, đem lại vẻ đẹp riêng cho tác phẩm ca dao.
Biểu tượng còn góp phần triển khai và thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề. Hiện
tượng mỗi đề tài, chủ đề có một hệ thống biểu tượng riêng và các biểu tượng cùng
nhóm lại được "phân công" vào những đề tài khác nhau đều có nguyên nhân từ phía
người sử dụng biểu tượng: muốn thể hiện đề tài, chủ đề một cách tốt nhất, độc đáo
nhất, Việc xác định nghĩa của biểu tượng, vì vậy, cần gắn chặt với đề tài. Trong các
bài ca dao khác nhau thuộc cùng một đề tài, nghĩa của biểu tượng là ổn định, song
không phải hoàn toàn bất biến. Biểu tượng có thể mang nhiều nghĩa có liên hệ gần gũi
với nhau. Đây cũng là nguyên nhân tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ ca dao và sự
đặc sắc của các văn bản có cùng đề tài, cùng biểu tượng. Đề tài được thể hiện sống
động, sáng tạo nhờ vào quá trình phát sinh nghĩa mới ở biểu tượng.
Với kết cấu, cấu tứ ca dao, chúng tôi cũng tìm thấy sự chi phối của các biểu
tượng. Ở kết cấu song hành tâm lý, biểu tượng là những tế bào hạt nhân không thể
thiếu. Biểu tượng nằm trong bức tranh thứ nhất, tạo một bệ phóng cần thiết để bức
tranh thứ hai đến với người tiếp nhận một cách tự nhiên, thuyết phục hơn. Trong kết
cấu đối thoại, biểu tượng hỗ trợ đắc lực cho việc xây dựng, tổ chức văn bản (về hệ
thống nhân vật, đại từ nhân xưng, đề tài đối thoại...)- Biểu tượng còn có chức năng
thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thống". Trong nhiều bài ca dao, từ
biểu tượng đã hình thành nên cấu tứ chính của tác phẩm, hoặc cũng có khi biểu tượng
giữ vai trò là một yếu tố hợp thành cấu tứ.
Nói tóm lại, các biểu tượng, bằng nhiều cách thức, ở nhiều mức độ, đã thâm
nhập vào cốt lõi chính của bài ca dao, góp phần tổ chức các yếu lố nội dung và hình
thức trong tác phẩm. Các công thức thực sự đã mang lại giá trị phong phú cho văn học
dân gian, mà biểu tượng trong ca dao là một bằng chứng thuyết phục.
6.Với bảng danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người
Việt, chúng tôi đã giới thiệu 286 biểu tượng cùng với các nhóm, các biến thể của biểu
tượng. Đây là một thể nghiệm bước đầu trong loại công trình nghiên cứu này. VI vậy,
số lượng các biểu tượng, các nét nghĩa cơ bản của biểu tượng có thể còn cần phải điều
chỉnh, bổ sung thêm. Bảng thống kê tần số xuất hiện của sự vật, hiện tượng được dân
gian chọn làm biểu tượng nhằm bước đầu phác họa một bức tranh chung về thực tế sử
dụng biểu tượng trong ca dao. Các biểu tượng có tần suất cao được chúng tôi đặc biệt
chú ý và dành cho sự nghiên cứu thích đáng.
7.Trong thời đại ngày nay, toàn cầu đang rất quan tâm đến vấn đề hội nhập giữa
các nền văn hóa. Hội nhập, hòa nhập nhưng không hòa tan. Tìm đến với cái chung
nhưng không xóa bỏ bản sắc riêng trong nền văn hóa của mỗi dân tộc. Tìm về thế giới
biểu tượng ca dao là tìm về với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt
Nam. Hiện nay, khi mà quá trình sáng tác, diễn xướng ca dao ngày càng bị thu hẹp
dần, các biểu tượng cũng theo đó mà ít có dịp được "sống" thực sự. Sự tồn tại của biểu
tượng ca dao hiện tại chủ yếu là bằng ngôn từ viết trên các văn bản đã được ghi chép.
Trong tình hình đó, việc khảo sát và giới thiệu một cách có hệ thống các biểu tượng
nghệ thuật ca dao của luận án này có thể có những đóng góp thiết thực đối với sự
nghiệp gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận thấy có nhiều vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu thấu đáo hơn nữa. Đó là: tìm hiểu từng nhóm biểu tượng, từng biểu tượng
cụ thể về nhiều mặt (nguồn gốc, cơ chế hình thành, nội dụng ý nghĩa, chức năng ...);
tìm hiểu hệ thống biểu tượng ca dao ở từng địa phương; tìm hiểu những biểu tượng về
tình yêu lứa đôi, về người phụ nữ, người nông dân tìm hiểu sự vận động, phát triển
của biểu tượng ca dao trong các tác phẩm văn học viết hiện đại... Những công trình
này rất cần thiết trong việc khẳng định giá tri mỹ học của biểu tượng, nhấn mạnh bản
chất nghệ thuật của ca dao, bổ sung thêm những nét đẹp độc đáo cho thi pháp ca dao
và thi pháp văn học dân gian, tô đậm mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học
viết. Với một đối tượng nghiên cứu phức tạp như biểu tượng ca dao, phương pháp tiếp
cận liên ngành cũng cần được chú trọng đặc biệt để nâng cao hiệu quả của các công
trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Thị An (1990), "về một phương diện nghệ thuật của ca dao tình yêu", Tạp
chí Văn học, (6), tr.54-59.
2.Toan Ánh (1968), Làng xóm Việt Nam, Sài Gòn xuất bản.
3.Toan Ánh (1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội.
4.Nhan Bảo, "Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt
Nam", Tạp chí Văn học, (9), tr.37-43.
5.Trương Duy Bích (1986), "Từ hình tượng con rồng nghĩ về sự tiếp nối giữa
truyền thống và hiện đại", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.38-40.
6.Duy Bình (1983), Dạy văn, dạy cái hay cái đẹp, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7.Phan Kế Bính (1974), Việt Nam phong tục, Phong trào Văn hóa xuất bản, Sài
Gòn.
8.Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
9.Nguyễn Phương Châm (2001), "Hoa hồng trong ca dao", Tạp chí Nguồn sáng
dân gian (1), tr.30-34.
10.Hà Châu (1974), "Tục ăn trầu và sinh hoạt tình thần của người Việt", Tạp chí
Dân tộc học, (2), tr.7-19.
11.Hà Châu (1984), "Về một số quan điểm thẩm mỹ dân gian Việt Nam", Tạp
chí Văn hóa dân gian, (1), tr.53-54.
12.Ngọc Châu (2000), "Triết lý trong huyền thoại",.Tạp chí Nguồn sáng (số
Xuân Canh Thìn), tr. 12-25.
13.Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao,Võ Văn Trực (1996), Kho tàng ca dao xứ
Nghệ, NXB Nghệ An.
14.Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
15.Mai Ngọc Chừ (1991) "Ngôn ngữ ca dao Việt Nam", Tạp chí Văn học, (2),
tr.24-28.
16. Nguyễn Ngọc Chương (1990), Trầu cau Việt điện thư, Sở Văn hóa thông tin
Hà Nam Ninh xuất bản.
17.Chu Xuân Diên (1981), "về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian", Tạp
chí Văn học, (5), tr. 19-26.
18.Chu Xuân Diên , Lương Văn Đang, Phương Trí (1993), Tục ngữ Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
19.Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian và phương pháp nghiên cứu liên
ngành. Tủ sách Đại học Tổng hợp Tp.HCM xuất bản.
20.Chu Xuân Diên (1997), "Các thể loại trữ tình dân gian", Văn học dân gian
Việt Nam, tr.410-499.
21.Chu Xuân Diên (1997), "Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa
dân gian", Tạp chí Văn học, (9), tr.22-30.
22.Xuân Diệu (1967), "Các nhà thơ học tập những gì ở ca dao?", Tạp chí Văn
học, (1),tr.49-59.
23.Ngô Văn Doanh, Vũ Quang Thiện (1997), Phong tục các dân tộc Đông Nam
Á, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
24.Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và tục
ngữ Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
25.Phan Huy Dũng (1991), "Hình thức lấp lửng của lời tỏ tình trong bài ca Xin
áo", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.53-54.
26.Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, NXB Hà Nội.
27.Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
28.Triệu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu hà (1972), Ca dao, ngạn ngữ Hà
Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản.
29.Cao Huy Đỉnh (1966), "Lối đối đáp trong ca dao trữ tình", Tạp chí Văn học,
(9), tr.10-14.
30.Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
31.Nguyễn Kim Đính (1985), "Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn
từ", Tạp chí Văn học, (5, 6), tr. 102-112.
32.Kim Định (1967), Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, Thanh Bình xuất
bản, Sài Gòn.
33.Kim Định (1971), Triết lý cái đình, Nguồn Sáng xuất bản, Sài Gòn.
34.Kim Định (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nguồn Sáng xuất bản, Sài
Gòn.
35.Lê Quý Đôn (1973), Việt Nam bách khoa toàn thư- Vân Đài loại ngữ, NXB.
Miền Nam.
36.Trình Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc
trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
37.Tạ Đức (1989), Tình yêu trai gái Việt xưa, NXB Thanh niên, Hà Nội.
38.Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc, biểu tượng và ngôn
ngữ Đông Sơn, Hội Dân tộc học Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
39.Nguyễn Thị Đức (1998), Văn hóa trang phục từ truyền thống đến hiện đại,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
40.Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị, Trần Tấn Vĩnh (1984),
Ca dao- dân ca Nam bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
41.Nguyễn Thạch Giang, Lữ Huy Nguyên (1999), Từ ngữ điển cố văn học, NXB
Văn học, Hà Nội.
42.Ninh Viết Giao (1997), Câu đố Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
43.V.E. Guxev (1998), Mỹ học folklore, NXB Đà Nẵng.
44.Lê Bá Hán, Trần Đinh Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
45.Nguyễn Đức Hạnh (2001), "Một số biểu tượng thơ dân gian trong thơ Việt
Nam hiện đại", Tạp chí Văn học, (3), tr.71-78.
46.Vũ Tố Hảo (1986), "Tìm hiểu một số trường hợp dùng chữ Hán và điển tích
trong ca dao - dân ca", Tạp chí Văn hóa dân gian(2), tr. 13-18.
47.Nguyễn Văn Hậu (2000), "Biểu tượng như là "đơn vị cơ bản" của văn hóa",
Tạp chí Văn hóa và nghệ thuật, (7), tr.24-30.
48.G.W.Hegel (1996), Mỹ học - Những văn bản chọn lọc, NXB Khoa học xã
hội, TP.HCM.
49.G.W.Hegel (1999), Mỹ học , 2 tập, NXB Văn học , Hà Nội.
50.Lưu Hiệp (1997), Văn tâm điêu long, NXB Văn học, Hà Nội.
51.Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Ca dao - tục ngữ, NXB Văn nghệ
Tp.HCM.
52.Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên (1993), Ca dao - dân ca tình yêu, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh.
53.Nguyễn Thị Cúc Hoa (1996), Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Bính, Luận
án thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.
54.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), "Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tình thần
người Việt qua thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr. 15-21.
55.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), "Biểu tượng đôi giày trong văn hoa và ngôn
ngữ thơ ca" Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr. 52-59,
56.Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu
thuyết cổ Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.
57.Kiều Thu Hoạch (2001), "So sánh tip truyện Trầu Cau ở Trung Quốc với tip
truyện cùng loại ở Việt Nam và Campuchia bàn về tục ăn trầu và văn hóa quyển trầu
cau Đông Nam Á", Tạp chí Văn học, (4), tr.33-40.
58.Nguyễn Trọng Hoàn (199), "Vẻ đẹp của bài ca dao sông nước", Tạp chí Văn
hóa dân gian, (2), tr.62.
59.Trần Hoàng và các tác giả khác (1988), Văn học dân gian Bình Trị Thiên : ca
dao - dân ca, NXB Thuận Hóa, Huế.
60.Đặng Trọng Hộ (1997), Hồn thơ Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính, Luận án
thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
61.Đào Văn Hội (1961), Phong tục Miền Nam qua mấy vần ca dao, NXB Khai
Trí, Sài Gòn.
62.Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (1986), Nguyễn Bính thơ,
NXB Văn học, Hà Nội.
63.Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1996), Góp phần nâng cao chất lượng sưu
tầm, nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
64.Nguyễn Thúy Hồng (1997), "Việc sử dụng điển cố Hán học trong Chinh phụ
ngâm nguyên tác và bản dịch hiện hành", Tạp chí Văn học, (1), tr.44-47.
65.Vi Hồng (1992), "Dạy và học văn ỏ miền núi", Tạp chí Văn học, (2), tr.74-77.
66.Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB Khoa học
xã hội, HàNội. "
67.Bùi Công Hùng (1988), "Biểu tượng thơ ca", Tạp chí Văn học, (1), tr.69-74.
68.Nguyễn Văn Hùng (1990), "Thử phân tích một câu ca dao", Tạp chí Văn hóa
dân gian, (3), tr.28. .
69.Nguyễn Văn Hùng (1991), Hình tượng khăn, nón, áo trong ca dao - dân ca
Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.
70.Nguyễn Văn Huyên (1995-1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
71.Jean Chévalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, NXB Đà Nẵng.
72.V.N.K (1989), "Bác Hồ với trầu cau", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.32.
73.Đinh Gia Khánh chủ biên (1977), Điển cố văn học, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
74.Đinh Gia Khánh (1990), "Ngôi đình làng với mối quan hệ giữa Nho giáo và
văn hóa dân gian", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.61-65.
75.Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa
Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
76.Trúc Khê (1944), "Ba thể phú, tỉ, hứng trong ca dao Việt Nam", Tạp chí Tri
Tân, (147), tr. 14-15.
77.Khoa Ngữ văn Đại học cần Thơ (1997), Văn học dân gian đồng bằng sông
Cửu Long, NXB Giáo dục, TP.HCM.
78.M.B. Khraptrenkô (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
79.Lê Minh Kiệp (1991), Con thuyền trong ca dao - dân ca Việt Nam, Luận văn
tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.
80.Nguyễn Xuân Kính (1990), "Qua tục ngữ, ca dao tìm hiểu sự sành ăn khéo
mặc của người Thăng Long Hà Nội", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.27-29.
81.Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
82.Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên(1995), Kho tàng ca dao
người Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
83.Nguyễn Xuân Lạc (1990), "Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng
Bác Hồ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.23-29.
84.Nguyễn Xuân Lạc (1992), "Suy nghĩ về cách tiếp cận một bài ca dao", Tạp
chí Văn hóa dân gian, (4), tr. 11-17.
85.Nguyễn Xuân Lạc (1994), "Môtip nghệ thuật dân gian: Cái cầu trong ca dao",
Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.74-75.
86.Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường,
NXB Giáo dục, TP.HỒ Chí Minh.
87.Nguyễn Thị Hương Lài (2000), Màu sắc địa phương trong ngôn ngữ ca dao -
dân ca Nam bộ, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
88.Mã Giang Lân, Nguyễn Đinh Bưu (1976), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty Văn
hóa Hà Bắc xuất bản.
89.Mã Giang Lân (2000), "Chữ và nghĩa trong thơ" , Tạp chí Văn học, (4), tr.25-
30.
90.Nguyễn Lân (1989), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Tp.Hồ Chí Minh.
91.Duy Lập (1985), "Thử vận dụng ký hiệu học vào việc phân tích một bài thơ
của Hồ Chủ tịch", Tạp chí Văn học, (3), tr.20-24.
92.I.s. Lisevich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trần Đình Sử
dịch,Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM xuất bản.
93.Đoàn Anh Loan (2000), "Ảnh hưởng của quan niệm thâm mỹ cô phương
Đông trong việc sử dụng điển cố", Tạp chí Văn học, (3), tr.70-74.
94.Nguyễn Lộc (chủ biên) (1990), Văn học 10- tập I - Sách giáo viên, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
95.Nguyễn Lộc (1997), "Văn hóa Trung Hoa và ca dao - dân ca Việt Nam". Tạp
chí Văn học, (9), tr. 15-21.
96.Ưng Luận (1995-1996), Ca dao xứ Huế bình giải, Sở Văn hóa thông tin Thừa
Thiên - Huế xuất bản.
97.Phương Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây
hiện đại, NXB. Giáo dục.
98.Đặng Thai Mai (1994), Xã hội sử Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
99.Long Điền Nguyễn Văn Minh (1999), Từ điển văn liệu, NXB Hà Nội.
100.Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của' hình tượng thiên nhiên
trong ca dao Nam Bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.72-75.
101.Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao
– dân ca Nam bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.65-70
102.Hà Quang Năng (2001), "Đặc trưng của phép ẩn dụ trong ca dao Việt Nam",
Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr. 8-16.
103.Tăng Kim Ngân (1984), "Qua tục ăn trầu và truyện Trầu cau của người Việt
bàn về mối quan hệ anh em, vợ chồng", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.67-71.
104.Trần Công Nghị (1964), "Tình yêu qua miếng trầu", Tạp chí Phổ thông,
(129), tr.66-69.
105.Hữu Ngọc chủ biên (1995), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế
giới, Hà Nội.
106.Nguyễn Văn Ngọc (1928), Tục ngữ phong dao, NXB Vĩnh Hưng Long.
107.Trần Đức Ngôn (1990), "Một số vấn đề lý luận'chung quanh việc nghiên cứu
văn bản văn học dân gian", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr. 16-19.
108.Nguyễn Trần Hạnh Nguyên (1998), So sánh nghệ thuật trong ca dao - dân
ca trữ tình Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư phạm
Tp.HCM.
109.Trương Thị Nhàn (1991), "Giá trị biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể
nhân tạo trong ca dao cổ truyền Việt Nam", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.46-52.
110.Trương Thị Nhàn (1992), "Tìm hiểu ngồn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín
hiệu thẩm mỹ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr. 18-21.
111.Trương Thị Nhàn (1995), “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ
không gian trong ca dao”, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
112.Phùng Quý Nhâm (1996), "Vấn đề bản sắc dân tộc trong văn học", Kỷ yếu
khoa học khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tr.175-183.
113.Phan Đăng Nhật (1981), Quá trình hình thành biểu tượng bọc thai chung,
Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
114.Phan Đăng Nhật, Tô Đông Hải (1987), "Con thuyền trong ca dao Việt
Nam", Báo Văn nghệ, Hà Nội, (6), tr. 15.
115.Bùi Mạnh Nhị (1984), "Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao - dân ca Nam
bộ", Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr.26-32.
116.Bùi Mạnh Nhị (1988), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo dục
An Giang xuất bản.
117.Bùi Mạnh Nhị (1998), "Thời gian nghệ thuật trong ca dao - dân ca trữ tình",
Tạp chí Văn học, (4), tr.30-36.
118.Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (1999), Văn học dân
gian - Những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
119.Nhiều tác giả (1985), Từ điển văn học, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
120.Nhóm Lam Sơn (1963), Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa, NXB Văn học, Hà
Nội.
121.A.M. Nôvicôva (1983), Sáng tác thơ ca dân gian Ngư, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
122.Vũ Ngọc Phan (1976), Qua những trang văn, NXB Văn học, Hà Nội.
123.Vũ Ngọc Phan (1992), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Hội Nghiên cứu
và giảng dạy văn học Tp.HCM xuất bản.
124.Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
125.Đông Phong (1998), về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Mũi Cà
Mau.
126.Thuần Phong (1957), Ca dao giảng luận, NXB Á Châu, Sài Gòn.
127.Thuần Phong (1957), "Đất nước trong ca dao", Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn,
(17), tr.34-35, (18), tr.36-41, (19), tr.40-48.
128.Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Ca dao Nam Trung bộ, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
129.Lê Thị Hồ Quang (2001), "Mùa thu còn là một biểu tượng thời gian trong
con mắt Xuân Diệu", Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr.48-51.
130.Nguyên Tử Quang, (1993), Điển hay tích lạ, NXB Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
131.Lê Chí Quế (1990), "Các thể loại trữ tình dân gian", Văn học dân gian Việt
Nam của Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ biên soạn, tr.260-295.
132.Hoàng Sỹ Quý (1980), "Tục ăn trầu trên thế giới", Tạp chí Phương Đông,
Sài Gòn, (8 và 9), tr. 109- 121.
133.Hoàng Sỹ Quý (1980), "Về một số phong tục chung có ở các dân tộc miền
Đông Nam Á", Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.77-80.
134.Vũ Tiến Quỳnh (1995), Ca dao - Tục ngữ, NXB Văn nghệ, Tp.Hồ Chí
Minh.
135.Rô-lăng Bác-tơ (1997), Trí tưởng tượng của tín hiệu, Tài liệu dịch và đánh
máy, Thư viện Khoa học xã hội, Hà Nội,
136.F;D.Saụssure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
137.Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
138.Lê Văn Siêu (1993), Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, NXB Mũi Cà
Mau.
139.Sở Văn hóa và thông tin Vĩnh phú (1986), Văn hóa dân gian vùng đất tổ.
140. Phạm Côn Sơn (1994), Cau trầu đầu chuyện, NXB Đồng Tháp.
141.Trần Đình Sử, Phương Lựu (1986 - 1987), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
142.Trần Đình Sử (1993), "Những tìm tòi mới về thi pháp ca dao", Tạp chí Văn
hóa dân gian, (2), tr.43-45.
143.Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm
Tp.HCM xuất bản.
144.Trần Đình Sử (1996), "Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học", Tạp chí Văn học,
(1), tr.31-35.
145.Hà Công Tài (1988), "Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian", Tạp chí Văn
học, (5-6), tr.65-68.
146.Hà Công Tài (1991), "Hiện tượng ca dao trong lịch sử thơ ca tiếng Việt",
Tạp chí Văn học, (1), tr.30-33.
147.Hà Công Tài (1994), "Hình tượng ẩn dụ - một dạng thức độc đáo của hình
tượng thơ ca", Tạp chí Văn học, (4), tr.41-42.
148.Hà Công Tài (1997), "Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ", Tạp chí Văn học, (5),
tr.44- 47.
149.Đỗ Văn Tân (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa thông tin Đồng
Tháp xuất bản.
150.Vũ Mạnh Tần (1991), "Không - thời gian nghệ thuật trong một bài ca dao",
Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.55-56.
151.Hoài Thanh (1970, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
152.Nhất Thanh (1970), Đất lề quê thói, Cơ sở ấn loát Đường Sáng, Sài Gòn.
153.Phan Xuân Thành (1990), "Tính biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt", Tạp
chí Văn hóa dân gian, (3), tr.36-37.
154.Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam bộ - Những phác
thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.
155.Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
156.Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Đại học Tổng hợp
Tp.HCM xuất bản.
157.Hồng Thiên (1959), "Tục trầu cau đối với người Việt Nam", Văn hóa
Nguyệt san, Sài Gòn, (38), tr.110-111.
158.Huệ Thiên (2000), "Con rồng chẳng qua là con cá sấu lên đời", Kiến thức
ngày nay, (số Xuân Canh Thìn), tr.44-48.
159.Phan Thiều, Nguyễn Quốc Túy, Nguyễn Thanh Tùng (1983), Giảng dạy từ
ngữ ở trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.
160.Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1990), Quan niệm về folklore, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
161.Nguyễn Đăng Thục (1961), Văn hóa Việt Nam với Đông Nam Á, Văn hóa Á
Châu xuất bản, Sài Gòn.
162.Nguyễn Đăng Thục (1964), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, NXB Khai Trí,
Sài Gòn.
163.Nguyễn Bích Thúy (1998), "Thủ pháp tượng trưng, một trong những đặc
trưng thi pháp thơ tình R. Tagore", Kỷ yếu khoa học khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Tp.HCM xuất bản, tr. 187-192.
164.Thư viện Viện Văn hóa dân gian, Chuyện hoang đường về cây mọc cạnh
nhau, Tài liệu dịch lưu trữ.
165.Lê Huy Tiêu (1993), Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
166.Trương Xuân Tiếu (1992), "Tìm hiểu định hướng thẩm mỹ trong một bài ca
dao", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.76-78.
167.Tổ Văn học dân gian (Viện Văn học) (1964), Truyện cổ dân gian các dân
tộc Việt Nam, tập in, NXB Văn học, Hà Nội.
168.Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
169.Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
170.Đỗ Bình Trị (1997), Văn bản văn học dân gian và việc phân tích tác phẩm
văn học dân gian trong nhà trường phổ thông, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM
xuất bản.
171.Hà Bình Trị (1990), "Bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính", Tạp chí Văn
hóa dân gian, (3), tr. 13-14.
172.Hoàng Trình (1973), "Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học", NXB Văn học,
Hà Nội.
173.Hoàng Trình (1986), Đối thoại văn học, NXB Hà Nội.
174.Hoàng Trình (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.
175.Hoàng Trình (1997), "Từ hỗn mang đến trật tự: Vai trò liên ngành của ký
hiệu học", Tạp chí Văn học, (I), tr.9-10.
176. Nguyễn Viết Trung (2000), "Gốc tích rồng Việt", Báo Tuổi trẻ, (số Xuân
Canh Thìn), tr.38.
177. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I (1982), Giảng văn, tập I.
178.Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại
học và Trang học chuyên nghiệp, Hà Nội.
179.Nguyễn Quảng Tuân (2000), "Con rồng trong mỹ thuật Việt Nam", Kiến
thức ngày nay, (số Xuân Canh Thìn), tr.28-30.
180.Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn văn học dân gian Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
181.Nguyễn Quốc Túy (1992), "Thử tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian
đối với thơ mới", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.33-39.
182. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy nghiên cứu
văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
183. Hoàng Tiến Tựu (1992), Bình giảng ca dao, NXB Giáo dục, Hà Nội.
184. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
185.Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
186.Phan Thị Bích Vân (1997), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ
tình cổ truyền Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư Phạm
TP.HCM.
187.Chế Lan Viên (1984), "Hồn nhiên và công thức", Tạp chí Văn học, (1),
tr.94-103.
188.Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
189.Lê Trí Viễn (1998), "Đôi nét về thẩm mỹ Việt Nam", Tạp chí Văn học, (4),
tr.5-13.
190.Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian - Những lĩnh vực nghiên
cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
191.Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian - Những phương pháp
nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
192.Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
193.Nguyễn Khắc xương (1999), "Chợ phong tục trong văn hóa làng", Tạp chí
Nguồn Sáng, tr.23.
94.Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1994), Từ điển giãi
thích thành ngữ gốc Hán, NXB Văn hóa, Hà Nội.
195.Phạm Thu Yến (1996), "Tính dân tộc và phép "đối ngẫu tâm lý" trong thơ ca
trữ tình dân gian", Tạp chí Văn học, (3), tr.57-59.
196.Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
197.Phạm Thu Yến (1999), "Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian",
Tạp chí Văn học, (4), tr.35-40
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO
TRUYỀN THONG NGƯỜI VIỆT
QUI CÁCH TRÌNH BÀY
Danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt được
chúng tôi sắp xếp theo trật tự chữ cái của tiếng đầu trong tên gọi biểu tượng, đánh số
theo thứ tự từ đầu đến cuối. Để người đọc tiện theo dõi, chúng tôi cố gắng xếp các
biểu tượng cùng nhóm đi gần với nhau. Tất nhiên cũng có một số ít trường hợp không
thể làm như vậy do tên gọi của biểu tượng chi phối. Mỗi biểu tượng chúng tôi lựa
chọn hai hoặc ba ví dụ, qua đó, các biến thể cũng được thể hiện rõ. Thành lập bảng
danh mục này, chúng tôi chủ yếu giới thiệu với người đọc số lượng phong phú của các
nhóm biểu tượng, các biểu tượng, các biến thể cùng với các phạm trù, các mối quan hệ
được khai thác ở cái biểu đạt của biểu tượng. Phần nội dung ý nghĩa của biểu tượng
chúng tôi chỉ bước đầu phác họa, có thể chưa thật đầy đủ, chính xác vì điều kiện thời
gian có hạn.
Danh mục này chưa phải là toàn bộ hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt mà chỉ mới bao gồm những biểu tượng tiêu biểu nhất. Do
phải bao quát một khối lượng tư liệu lớn nên có lẽ chúng tôi khó tránh khỏi những sai
sót. Rất mong được quý thầy cô, quý bạn đọc góp ý để bảng danh mục ngày càng
hoàn chỉnh hơn .