BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO

TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ

: 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. CHU XUÂN DIÊN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2002

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào

khác.

Tác giả luận án

NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

MỤC LỤC

0TLỜI CAM ĐOAN0T ................................................................................................ 3

0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 4

0TDẪN LUẬN0T .......................................................................................................... 8

0T1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài0T ............................................................................................. 8

0T2. Lịch sử vấn đề0T ................................................................................................................... 9

0T3. Giới hạn của đề tài0T .......................................................................................................... 15

0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ................................................................................................. 16

0T5. Đóng góp mới của luận án0T .............................................................................................. 17

0T6.Kết cấu của luận án0T .......................................................................................................... 18

0TCHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA

DAO0T .................................................................................................................... 19

0T1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao0T ..................................... 19

0T1.1.1. Khái niệm biểu tượng:0T .......................................................................................... 19

0T1.1.2. Các loại biểu tượng:0T ............................................................................................. 24

0T1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao:0T .................................................................... 26

0T1.2.Biểu tượng ca dao nhin dưới những góc độ khác nhau:0T ................................................ 31

0T1.2.1. Biểu tượng ca dao dưới góc độ ký hiệu học:0T ........................................................ 31

0T1.2.2. Biểu tượng ca dao dưới góc độ tu từ học0T ............................................................. 34

0T1.2.2.1.Dạng thức so sánh :0T ........................................................................................ 36

0T1.2.2.2.Dạng thức ẩn dụ :0T ........................................................................................... 37

0T1.2.2.3.Dạng thức hoán dụ:0T ........................................................................................ 38

0T1.2.3. Biểu tượng ca dao dưới góc độ folklore học:0T ....................................................... 46

0T1.2.4. Biểu tượng ca dao dưới góc độ văn hóa học:0T ....................................................... 49

0T1.3. Biểu tượng ca dao thể hiện đặc trưng ngôn ngữ thể loại:0T ............................................ 52

0TCHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG

CA DAO NGƯỜI VIỆT0T ................................................................................... 57

0T2.1. Những biểu tương xuất phát từ tín ngưỡng- nghi lễ và phong tục, tập quán của người

Việt:0T ..................................................................................................................................... 57

0T2.1.1.Biểu tượng rồng:0T .................................................................................................... 57

0T2.1.2. Biểu tượng trầu cau:0T ............................................................................................. 60

0T2.1.3 Biểu tượng đôi đũa:0T ............................................................................................... 64

0T2.1.4. Biểu tượng cây đa:0T ................................................................................................ 65

0T2.1.5. Biểu tượng vuông - tròn:0T ...................................................................................... 66

0T2.2.Những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc:0T ........................ 67

0T2.2.1. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam:0T ............................................ 67

0T2.2.2. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Trung Quốc:0T......................................... 68

0T2.2.2.1.Biểu tượng chỉ hồng:0T ..................................................................................... 71

0T2.2.2.2.Biểu tượng Ngưu Lang- Chức Nữ:0T ................................................................ 72

0T2.2.2.3.Biểu tượng loan – phượng:0T ............................................................................ 73

0T2.2.2.4. Biểu tượng nhạn – én:0T ................................................................................... 74

0T2.2.2.5.0T

0TBiểu tượng Châu - Trần:0T ............................................................................ 75

0T2.2.2.6.Biểu tượng Tấn- Tần:0T .................................................................................... 75

0T2.2.2.7.Biểu tượng đào thơ:0T ....................................................................................... 75

0T2.2.2.9. Biểu tượng đào- mận:0T ................................................................................... 77

0T2.2.2.10. Biểu tượng trúc- mai:0T .................................................................................. 79

0T2.2.2.11. Biểu tượng rồng - mây:0T ............................................................................... 81

0T2.2.2.12. Biểu tượng chim phượng - cây ngô đồng:0T .................................................. 82

0T2.3. Những biểu tượng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và đời

sống hàng ngày của nhân dân ta:0T ......................................................................................... 83

0T2.3.1. Biểu tượng con cò:0T ............................................................................................... 84

0T2.3.2. Biểu tượng sông:0T .................................................................................................. 85

0T2.3.3.Biểu tượng chiếc cầu:0T ............................................................................................ 86

0T2.3.4.Biểu tượng chiếc thuyền:0T ....................................................................................... 87

0T2.3.5. Biểu tượng bến:0T .................................................................................................... 89

0T2.3.6. Biểu tượng cá:0T ...................................................................................................... 89

0T2.3.7. Biểu tượng cây, hoa, trái:0T ..................................................................................... 91

0T2.3.8. Biểu tượng trăng:0T .................................................................................................. 92

0T2.3.9. Các biểu tượng khác:0T ............................................................................................ 93

0TCHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ BIỂU TƯỢNG NGHÊ THUẬT

TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT0T.................................................................... 97

0T3.1.Một số vấn đề về tiêu chí phân loai và phương thức miêu tả biểu tượng nghệ thuật

trong ca dao người Việt:0T ...................................................................................................... 97

0T3.2. Phân loai và miêu tả biểu tượng nghê thuật trong ca dao người Việt:0T ....................... 107

0T3.2.1. Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiên tượng tư nhiên và môi trường tư nhiên:0T ..... 107

0T3.2.2.Các hiện tượng tự nhiên:0T ..................................................................................... 108

0T3.2.1.2. Thực vật:0T ..................................................................................................... 111

0T3.2.1.3. Động vật:0T .................................................................................................... 116

0T3.2.2. Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo:0T ................................................ 118

0T3.2.2.1. Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh:0T .................................. 118

0T3.2.2.2. Các công cụ sản xuất:0T ................................................................................. 122

0T3.2.2.3. Các công trình kiến trúc:0T............................................................................. 125

0T3.2.3.Hệ thống 3: Biểu tượng là con người:0T ................................................................. 129

0T3.2.3.1. Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học – nghệ thuật:0T ............................... 129

0T3.2.3.2. Các bộ phận trong cơ thể con người:0T .......................................................... 130

0T3.3. Một số đặc trưng của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ....... 132

0TCHƯƠNG 4: CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ

THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT0T .................................................. 139

0T4.1. Cấu tạo của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ..................................... 139

0T4.1.1.Biểu tượng đơn:0T ................................................................................................... 139

0T4.1.2.Biểu tượng đôi:0T .................................................................................................... 139

0T4.1.2.1. Biểu tượng đôi tương đồng:0T ........................................................................ 141

0T4.1.2.2. Biểu tượng đôi đối lập:0T ............................................................................... 142

0T4.2. Chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:0T ................................ 144

0T4.2.1. Biểu tượng và ngôn ngữ ca dao:0T ......................................................................... 145

0T4.2.1.1. Biểu tượng và tính hàm sức của ngôn ngữ ca dao:0T ..................................... 145

0T4.2.1.2. Biểu tượng với tính công thức và tính sáng tạo trong ngôn ngữ ca dao:0T .... 147

0T4.2.2. Biểu tượng và đề tài, chủ đề ca dao:0T ................................................................... 152

0T4.2.2.1. Góp phần triển khai các đề tài, chủ đề:0T ....................................................... 152

0T4.2.2.2. Thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề:0T ........................................................... 156

0T4.2.3.Biểu tượng và kết cấu, cấu tứ ca dao:0T .................................................................. 161

0T4.2.3.1. Là hạt nhân quan trọng trong kết cấu song hành tâm lý0T ............................. 161

0T4.2.3.2. Hỗ trợ đắc lực cho kết cấu đối thoại:0T .......................................................... 164

0T4.2.3.3. Thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thông"0T .......................... 166

0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................... 178

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................. 185

0TPHỤ LỤC0T ......................................................................................................... 199

0TQUI CÁCH TRÌNH BÀY0T ............................................................................... 199

DẪN LUẬN

Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, ca dao - dân ca là những sáng tác

được phổ biến rộng rãi và có sức sống lâu bền vào bậc nhất. Giá trị về nhiều mặt đã

đưa những câu hát dân gian này vượt qua thử thách thời gian hàng ngàn năm. Nhiều

thế hệ các nhà nghiên cứu đã đến với ca dao, phát hiện những cái hay cái đẹp, những

giá trị thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc ẩn chứa trong lớp ngôn từ giản dị mà

súc tích của các câu hát dân gian.

Nghiên cứu ca dao, nhiều người đã nhận thấy các biểu tượng nghệ thuật có vị trí

quan trọng đặc, biệt trong ngôn ngữ của thể loại này. Có thể nói, ngôn ngữ ca dao

phần lớn là ngôn ngữ biểu tượng. Có thâm nhập vào thế giới biểu tượng ca dao, chúng

ta mới hiểu được thấu đáo những nét đặc thù trong nếp cảm, nếp nghĩ, nếp diễn đạt

của người lao động, những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa dân gian Việt Nam, cũng

như mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa các nước khác trong khu

vực, đặc biệt là văn hóa Trung Hoa.

Biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong ca dao không phải với tính chất là những yếu

tố đơn lẻ, rời rạc mà đã hình thành nên một hệ thống hoàn chỉnh với những nội dụng,

ý nghĩa, vai trò, chức năng rõ rệt. Con số 286 biểu tượng (dĩ nhiên đây chưa phải là

con số chính xác tuyệt đối, con số cuối cùng) là con số khàng nhỏ. Với tư cách là một

thành tố trong thi pháp ca dao, biểu tượng có nhiều tác động, thậm chí còn chi phối sự

hình thành cấu trúc chung của các đơn vị tác phẩm.

Do những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Biểu tượng nghệ thuật

trong ca dao truyền thống người Việt" với mong muốn bước đầu phác họa được một

cái nhin tổng quan về hệ thống biểu tượng trong thể loại trữ tình dân gian này.

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

Trên cơ sở xác định tên gọi và số lượng các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao,

chúng tôi bước đầu tiến hành việc phân loại, miêu tả và tìm hiểu hệ thống biểu tượng

đó về nhiều mặt như: các nguồn gốc và con đường hình thành biểu tượng, sự vận động

của biểu tượng trong từng chỉnh thể đơn vị hoặc nhóm đơn vị ca dao. Qua đó, góp

phần nghiên cứu sâu sắc hơn về thi pháp ca dao, đặc trưng thể loại của ca dao. Bởi lẽ,

biểu tượng là yếu tố thi pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong chỉnh thể nghệ thuật

thuộc thể loại này.

Luận án cũng cung cấp tư liệu thống kê một số lượng đáng kể các biểu tượng,

qua đó giới thiệu với người đọc nguồn thi liệu dân gian phong phú làm cơ sở cho việc

tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc, thị hiếu thẩm mỹ dân

gian.

Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp một cách thiết

thực vào việc nghiên cứu, phân tích, giảng dạy tác phẩm ca dao ở nhà trường phổ

thông.

2. Lịch sử vấn đề

Việc nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong ca dao Việt Nam đã và đang là vấn

đề được nhiều người quan tủm. Ngày càng có nhiều hơn những khám phá, phát hiện

mới của các nhà nghiên cứu từ thế giới các biểu tượng. Các tín hiệu thẩm mỹ này

đang dần dần được đánh giá đúng với những giá trị vốn có của chúng. Những tiến bộ

trong lĩnh vực nghiến cứu, phê bình, lý luận văn học dân gian thời gian gần đây đã

ảnh hưởng sâu sắc đến việc giải quyết nhiều vấn đề khoa học, trong đó có vấn đề biểu

tượng ca dao.

Một trong những người đầu tiên đề cập trực tiếp đến vấn đề biểu tượng trong ca

dao là Vũ Ngọc Phan, soạn giả của bộ sách tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Ở đoạn

viết về "Một đặc điểm trong tư dụy hình tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc đời:

đời người với đời con cò và con bống", ông cho rằng trong ca dao, người dân lao động

Việt Nam đã mượn con cò, con bống để biểu hiện đời sống của minh. Ông viết:

"Người dân lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và con bống vào ca dao là đưa

một nhận thức đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của

những con vật trên đây để tượng trứng vài nét đời sống của minh, đồng thời cũng

dùng những hình ảnh ấy để khêu gợi hồn thơ" [123, tr. 79].

Các nhà nghiên cứu khi khảo sát biểu tượng thường xem chúng như là những

yếu tố truyền thống trong ca dao, trong văn học dân gian. Với cách xem xét đó, Đặng

Văn Lung đã viết bài những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, đăng trên tạp chí

Văn học năm 1968. Thuật ngữ "trùng lặp" ở đây được dùng để chỉ những nét đã định

hình, đã thành truyền thống của ca dao. Theo tác giả, trong ca dao có nhiều yếu tố

trùng lặp : hình ảnh, chủ đề, đề tài, kết cấu, ngôn ngữ... tạo nên một đặc điểm quan

trọng, một sắc thái thẩm mỹ của ca dao. Biểu tượng là một trong số những yếu tố đó

(trùng lặp về hình ảnh và ngôn từ). Ông nêu vấn đề:."Khi nghiên cứu thần thoại, anh

hùng ca và truyện cổ tích, nhiều tác giả đã lập được những hệ thống mô-tip trùng lặp

và nhờ đó mà giải quyết được nhiều vấn đề lý thú. Riêng trong lĩnh vực thơ ca dân

gian thi còn ít người-bàn tới vấn đề này. Phải chăng ta có thể bắt đầu từ những yếu tố

trùng lặp trong ca dao mà tìm hiểu được phần nào cái mà chứng ta gọi là "chất ca dao"

[118, tr.306]. Xu hướng khảo sát biểu tượng trong mối liên hệ với đặc trưng thể loại

ca dao đã được đặt ra với bài viết này.

Cùng một suy nghĩ với các nhà nghiên cứu trên, phó giáo sư Chu Xuân Diên

trong bài về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian năm 1981 cho rằng; "Việc

nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp

riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô- tip và cách cấu

tạo cốt truyện... đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và

cuối cùng là việc nêu lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của

thi pháp văn học dân gian nói chung" [17, tr.22]. Ông đã đặt vấn đề nghiên cứu thi

pháp văn học dân gian một cách toàn diện ỏ nhiều cấp độ, trong đó có biểu tượng thơ

ca. Đề xuất việc làm này có nghĩa là nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của văn học dân

gian, hướng sự chú ý vào việc nghiên cứu văn học dân gian trước hết với tính chất là

những tác phẩm nghệ thuật, đồng thời khẳng định những giá trị độc đáo của thi pháp

văn học dân gian (trong so sánh với văn học viết). Như vậy, tìm hiểu biểu tượng ca

dao là công việc có ýtnghĩa quan trọng về nhiều mặt. ở một bài viết khác, ông còn nêu

cụ thể cách hiểu về biểu tượng dưới góc độ là những yếu tố cấu trúc bên trong của tác

phẩm văn học dân gian [119, tr.93].

Năm 1988, Bùi Công Hùng với bài Biểu tượng thơ ca [ 67] và Hà Công Tài với

Biểu tượng trăng trong thơ ca-dân gian [145] đã trình bày những vấn đề về khái niệm

biểu tượng nghệ thuật một cách chi tiết hơn, kết hợp với việc phân tích một số biểu

tượng tiêu biểu trong ca dao.

Năm 1991, trên tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị

biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về

ý nghĩa biểu trưng của các vật thể như : khăn, áo, chăn, chiếu, giường, đũa, mâm, bát,

con thuyền, nhà, đinh,... và kết luận : "Khả năng biểu trưng hóa nghệ thuật của các vật

thể nhân tạo trong ca dao góp phần tạo nên một nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ

thuật ngôn ngữ của ca dao: ngôn ngữ nghệ thuật ca dao mang tính khái quát cao, điển

hình của tính hàm súc và "ý tại ngôn ngoại" trong sáng tác văn học" [109, tr.52].

Tiếp sau đó, năm 1992, Trương Thị Nhàn lại công bố một bài viết về biểu tượng

sông trong ca dao, gợi ra mội hướng tiếp cận đối với các tín hiệu thẩm mỹ dân gian.

Tác giả cho rằng: "Là một yếu tố mang ý nghĩa thẩm mỹ, giàu sức khái quát hóa nghệ

thuật, tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao, sông có giá trị

của một tín hiệu thẩm mỹ. Quan điểm hệ thống mới và cách nhin nhận có tính hệ

thống đối với ngôn ngữ nghệ thuật cho phép tìm ra giá trị của mỗi yếu tố tín hiệu ngôn

ngữ nghệ thuật, qua những mối liên hệ nội tại và ngoại tại của tác phẩm" [110, tr. 21].

Luận án phó tiến sĩ sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian

trong ca dao của Trương Thị Nhàn (năm 1995) đã ứng đụng cách tiếp cận đó để

nghiên cứu một loạt biểu tượng như núi, rừng, sông, biển, bến, ruộng đồng, vườn,

đinh, chùa, cầu, thuyền... [111].

Các công trình trên đây của Trương Thị Nhàn đã góp phần đáng kể trong lĩnh

vực nghiên cứu biểu tượng ca dao trên cả hai phương diện: lý thuyết và ứng dụng thực

hành. Mặc dù tác giả xem xét, giải quyết vấn đề chủ yếu dưới góc độ ngôn ngữ học

nhưng đã đề xuất nhiều hướng nghiên cứu biểu tượng, từ đó, có thể đào xới được

những lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng.

Năm 1992, trong công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân

Kính, một số biểu tượng đã được đề cập đến như trúc, mai, hoa nhài, con cồ, con

bống. Tác giả đã nghiên cứu các biểu tượng về nhiều mặt, đề xuất một số cách hiểu

riêng về ý nghĩa của biểu tượng (chẳng hạn về một nét nghĩa của biểu tượng con cò).

Ông còn so sánh ý nghĩa của cùng một biểu tượng trong hai bộ phận văn'học khác

nhau: văn chương bình dân và văn chương bác học. Từ đó, tác giã gợi lên một vấn đề

cần được quan tâm khi xác định nghĩa của biểu tượng : "... tuy cùng viết về một biểu

tượng nhưng dòng thơ dân gian và bác học đã miêu tả khác nhau, cấp cho nó những ý

nghĩa khác nhau" [81, tr.215].

Việc Nguyễn Xuân Kính sắp xếp phần viết về các biểu tượng thành hẳn một

chương (chương bảy) trong Thi pháp ca dao đã phần nào thể hiện được tầm quan

trọng, sự cần thiết phải nghiên cứu các biểu tượng. Sự tìm hiểu các tín hiệu thẩm mỹ,

mô-tip thơ ca này không còn là thao tác mang tính chất cảm tính, tự phát mà đã trở

thành một yêu cầu không thể thiếu khi phân tích, cảm thụ ca dao.

Bài việt công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao - dân ca trữ

tình đăng trên tạp chí Văn học năm 1997 của Bùi Mạnh Nhị là sự tiếp nối mạch

nghiên cứu về biểu tượng của những người đi trước. Theo tác giả, công thức folklore

là những kiểu mẫu ổn định, điển hình khác nhau của truyền thống. Công thức folklore

đa dạng về hình thái, dụng lượng, nội dụng, ý nghĩa. Công thức truyền thống ở ca dao

có nhiều loại, biểu tượng là một trong số đó. Trong bài viết này, tác giả đã chú trọng

đến việc khảo sát các công thức, các biểu tượng gắn liền với những đặc trưng bản chất

của văn học dân gian. Tác giả lưu ý người đọc tới tầng nền văn hóa, dân tộc học của

các công thức, sự biến hóa, đổi mới của các công thức trong những hoàn cảnh sử dụng

cụ thể. Tính truyền thống và sáng tạo thể hiện trong mỗi công thức là nguyên nhân

dẫn đến sự trường tồn và sức hấp dẫn của công thức folklore. Xét ở phương diện cấu

trúc, tác giả còn cho rằng công thức truyền thống chính là chia khóa mở bí mật đặc

trưng cấu trúc của bài ca trữ tình dân gian. Công thức có chức năng thiết kế văn bản.

Văn bản bài ca phần nhiều được xây dựng từ các công thức.

Kết thúc bài viết, tác giả còn gợi mở một hướng đi mới mẻ, đầy triển vọng cho

những công trình nghiên cứu ở tương lai : "Nếu đối với truyền thuyết, truyện cổ tích

thần kỳ, sử thi chúng ta đã bước đầu thống kê, miêu tả được những mô-tip cốt truyện,

thi đối với ca dao - dân ca trữ tình, chúng ta cũng có thể và cần thống kê, miêu tả các

mẫu đề truyền thống, cũng như các công thức chi tiết của từng mẫu đề. Có thể lập từ

điển và các chương trình vi tính khác nhau cho những vấn đề này, mã hóa hình thức,

ngữ nghĩa nghệ thuật, "cốt" văn hóa, dân tộc học của chúng. Những công trình như thế

rất cần cho folklore học, không chỉ trong việc tìm hiểu cấu tróc các bài ca mà cả trong

việc nghiên cứu các vấn đề nội dụng, ý nghĩa, đặc trưng địa phương, dân tộc và quốc

tế của folklore" [118, tr.326].

Với bài viết này, Bùi Mạnh Nhị đã góp phần đắc lực vào việc xây dựng nền

móng lý luận vững chắc cho công việc nghiên cứu biểu tượng ca dao.

Năm 1997, một luận văn tốt nghiệp đại học của sinh viên Phan Thị Bích Vân về

đề tài "Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình cổ truyền Việt Nam" do 'Bùi

Mạnh Nhị hướng dẫn cũng được hoàn thành [186]. Luận văn đã đi vào khảo sát biểu

tượng dưới nhiều góc độ ( khái niệm, phân loại, nội dụng ý nghĩa, nguồn gốc), có

nhiều lý giải khá thỏa đáng. Luận văn còn bước đầu lập bảng thống kê "Hệ thống

những biểu tượng tiêu biểu và ý nghĩa của chúng ". Tuy nhiên, do sự hạn chế về dụng

lượng của luận văn (42 trang chính văn và 24 trang phụ lục), nhiều vấn đề lý thuyết về

biển tượng đã được đặt ra nhưng giải quyết còn sơ lược.

Năm 1998, tác giả Phạm Thu Yến trong cuốn sách Những thế giới nghệ thuật ca

dao đã dành một số trang thích đáng cho "Vấn đề nghiên cứu hiểu tượng trong thơ ca

trữ tình dân gian" với ba phần :

I. Biểu tượng và ẩn dụ

II. Biểu tượng thơ ca dân gian - yếu tố nghệ thuật đặc thù gắn liền với đặc trưng

thể loại

III. Sự hình thành và phát triển của biểu tượng

So với các công trình trước, Phạm Thu Yến đã cố nhiều nỗ lực để khảo sát biểu

tượng một cách toàn diện hơn (chú ý khái niệm biểu tượng, phân biệt biểu tượng với

ẩn dụ, khẳng định việc sử dụng biểu tượng gắn liền với đặc trưng thể loại, tính đan tộc

của biểu tượng, phân loại biểu tượng, đặc điểm và ý nghĩa của việc sử dụng biểu

tượng trong thơ ca dân gian Việt Nam, sự hình thành và phát triển của biểu tượng...).

Tác giả đã vận dụng nhiều quan điểm lý luận và phương pháp nghiên cứu của các

công trình khảo sát về biểu tượng thi ca ở ngoài nước vào thực tế nghiên cứu biểu

tượng trong ca dao Việt Nam. Tuy nhiên, như tác giả đã viết : "Những điều trình bày

trên vẫn mang ý nghĩa mở, ý nghĩa đặt vấn đề chứ chưa phải là sự giải quyết triệt

để..." [196, tr.101]. Chuyên luận đã đề cập đến hàng loạt vấn đề cần được bàn luận ở

hệ thống biểu tượng ca dao, nhưng chưa đi đến những kiến giải thật cụ thể, chi tiết về

chúng.

Gần đây (năm 2001), một số biểu tượng đã được nghiên cứu khá tỉ mỉ ở bình

diện văn hóa cũng như văn học, đem lại cho người đọc nhiều hiểu biết thú vị và sâu

sắc. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết của Nguyễn Phương Châm [9], chiếc áo

trong bài viết của Nguyễn Thị Ngân Hoa [54].

Nhin chung, đây là đề tài thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học khi tìm

hiểu về thi pháp ca dao. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn diện, hệ

thống, nghiên cứu biểu tượng trong những mối quan hệ phức tạp với các thành tố khác

của thi pháp ca dao, chú ý đến sự vận động của biểu tượng trong cấu trúc bài ca... vẫn

là công việc còn đang chờ được tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Trong nhiều công

trình, cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đã được đặt ra, nhưng việc thực hiện vẫn còn

bỏ ngỏ. Một số biểu tượng đã được phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu một cái

nhin thật sự hệ thống.

Với mục đích tiếp tục công việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài

biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt. Bên cạnh một số thuận

lợi nhất định có được từ việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của những công trình

trước, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn như: đối tượng nghiên cứu phức tạp, khối

lượng tư liệu phải xử lý rất lớn...

Cách đây mấy năm, chúng tôi đã một phần thực hiện đề tài này qua luận án cao

học Hình tượng trầu cau trong ca dao Việt Nam dưới sự hướng dẫn của phó giáo sư

Chu Xuân Diên. Trong luận án, chúng tôi đã dành một chương để tìm hiểu những lớp

nghĩa của biểu tượng trầu cau, vai trò của biểu tượng này trong hệ thống chủ đề và cấu

tứ ca dao. Từ việc nghiên cứu một biểu tượng mở rộng ra toàn bộ hẹ thống các biểu

tượng trong ca dao là điều không dễ dàng. Tuy vậy, chặng đường nghiên cứu đầu tiên

đó đã giúp chúng tôi có thêm được một số nhận thức và kinh nghiệm quí báu để thực

hiện đề tài này.

3. Giới hạn của đề tài

Ở luận án này, chúng tôi khảo sát chủ yếu là các biểu tượng ương ca dao truyền

thống (trước 1945), bộ phận ca dao của người Việt (không khảo sát cạ dao của các dân

tộc ít người). Cụ thể là phần khảo sát của chúng tôi được giới hạn trong các tư liệu sau

đây :

-Tư liệu I: Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng

Nhật chủ biên. Tư liệu này gồm 4 tập, được tuyển chọn từ 37 tư liệu gốc (46 tập) vừa

Hán Nôm, vừa quốc ngữ, chủ yếu tập hợp những lời ca dao ra đời từ trước Cách mạng

tháng Tám. Đây là công trình biên soạn qui mô, công phu, khoa học với số lời ca dao

đạt đến mức kỷ lục : 11.825 lời (chưa kể các dị bản).

-Tư liệu II: Kho tàng ca dao xứ Nghệ do Ninh Viết Giao chủ biên cùng với sự

cộng tác của nhiều người khác, gồm 2 tập.

-Tư liệu III: Ca dao - dẫn ca Nam bộ do Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát,

Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn.

Tư liệu IV: Hát ví đồng bằng Hà Bắc do Mã Giang Lân, Nguyễn Đinh Bưu biên

soạn.

Việc lựa chọn bốn tư liệu này xuất phát từ nhiệm vụ của luận án: khảo sát biểu

tượng ca dao ồ cả hai bình diện dân tộc và địa phương. Tư liệu I tập hợp ca dao ở cả

ba miền đất nước, có tính cách đại diện chung để tìm hiểu biểu tượng ở tính dân tộc.

Ba tư liệu còn lại, mỗi tư liệu tập hợp ca dao của một miền đất, góp phần tô đậm thêm

sắc thái địa phương ở các biểu tượng.

Danh mục biểu tượng, các số liệu thống kê được nêu trong luận án đều là kết quả

nghiên cứu của chúng tôi với bốn tư liệu trên.

• Luân án nhằm định hình, định vị một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca

dao đa dạng và phong phú (286 biểu tượng), cho nên chưa cố điều kiện để miêu tả kỹ

lưỡng từng biểu tượng với đầy đủ những nét nghĩa của nó. Tuy nhiên, chúng tôi cũng

cố gắng trong chừng mực có thể để người đọc tiếp cận với các biểu tượng cụ thể qua,

một số trang viết ở phần nội dụng luận án và phần phụ lục.

Số lượng các đơn vị ca dao mà chúng tôi phải xử lý là rất lớn, cơ sở để xác định

biểu tượng trên lý thuyết khá rõ ràng, nhưng đi vào thực tế lại vô cùng phức tạp, vi

vậy, việc khẳng định một sự vật, hiện tượng có phải là biểu tượng hay không cũng

không dễ dàng, thuận lợi. Chúng tôi đã cố gắng để xây dựng một bảng thống kê về hệ

thống biểu tượng nhưng có lẽ cũng khó tránh khỏi những sai sót. Những nét nghĩa của

biểu tượng mà chúng tôi xác lập được trình bấy trong luận án đều theo nguyên tắc

xuất phát từ các văn bản, lấy văn bản làm gốc, chứ không dựa vào những suy luận chủ

quan của người viết.

Trong luận án, khi chú thích địa chỉ các ví dụ, chúng tôi trình bày theo qui ước

sau: Tư liệu I: TL I; Tư liệu II: TL II; Tư liệu III: TL III; Tư liệu IV: TL IV

Kèm theo tư liệu là số tập, số trang. Ví dụ : TL II (1) - tr.59, có nghĩa là: ví dụ

này nằm ở tư liệu II, tập I, trang 59.

Để tiện theo dõi và kiểm chứng, mỗi khi dẫn các bài ca dao, chúng tôi đều ghi

kèm theo phần điạ chỉ như trên. Các tư liệu I, II, III được sử dụng để trích dẫn khá

nhiều. Còn tư liệu IV thi có hạn chế hơn do ở tư liệu này dụng lượng các bài ca dao -

dân ca thường rất dài, nếu dưa vào luận án nhiều chúng tôi sẽ gặp khó khăn khi xử lý

số trang viết. VI vậy, chúng tôi chỉ trích đẫn một số lượng nhỏ.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biểu tượng nghệ thuật ca dao. Tuy

nhiên, trong đời sống, các biểu tượng này tồn tại luôn luôn gắn rất chặt với môi trường

văn hóa, văn nghệ dân gian, liên quan với rất nhiều những yếu tố về địa lý, lịch sử...

VI vậy, chúng tôi nhận thấy cần phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử

dụng thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau để có thể tìm hiểu

đầy đủ, sâu sắc hơn về biểu tượng.

Ca dao là những văn bản thơ, nên việc nghiên cứu ca dao trước hết là bằng

những cách thức của văn học thành văn. Bằng những cách thức này, luận án xác định

nội dụng và cấu trúc ngôn từ của biểu tượng trong văn cảnh ca dao. Nhưng khi tìm

hiểu sự hình thành những nội dụng và cấu trúc ngôn từ ấy không thể chỉ dựa vào

những văn bản ca dao, mà còn phải dựa vào đời sống sinh động của ca dao (tức sinh

hoạt ca hát dân gian) và nhất là vào đời sống văn hóa của những người sáng tạo và sử

dụng ca dao. Điều này yêu cầu luận án khi sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học

(thi pháp học miêu tả), cần sử dụng phối hợp phương pháp nghiên cứu của văn hóa

học (nghiên cứu một hiện tượng văn hóa). Do vậy, trong luận án, bên cạnh những

phần phân tích biểu tượng thi ca, còn có những dữ kiện dân tộc học cần thiết để xác

định không những nội dụng nghệ thuật mà cả nội dụng văn hóa của biểu tượng trong

ca dao.

Việc sử dụng phương pháp thống kê cho phép chúng tôi tính toán được số lần

xuất hiện của các biểu tượng, qua đó, nhận biết được vị trí của biểu tượng trong thể

loại ca dao, trong tâm thức dân gian, nhận biết đâu là những biểu tượng được ưa thích

nhất, phổ biến nhất. Khi vận dụng phương pháp phân tích định lượng này, chúng tôi

rất tán thành ý kiến của Nguyễn Xuân Kính: "Kết quả của việc thống kê khách quan

cho phép nhà nghiên cứu đi đến những kết luận, những khái quát khoa học, tránh được

những suy luận chủ quan, gò ép..." [191, tr.139].

Bài viết Phương pháp hệ thống và việc nghiên cứu giảng dạy ca dao của Phan

Đăng Nhật [191, tr.142 - 162] cùng một số tài liệu khác bàn về phương pháp trên cũng

là những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng trong đề tài này.

Bên cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mỹ tồn tại ở nhiều

loại hình nghệ thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, nhiều địa

phương, dân tộc khác nhau. VI vậy, khi nghiên cứu, chúng tôi thấy cần thiết phải sử

dụng phương pháp so sánh.

5. Đóng góp mới của luận án

Cùng với việc tiếp thu các thành quả nghiên cứu của những người đi trước,

chúng tôi đã cố gắng để có được những đóng góp mới khi thực hiện đề tài này. Đó là :

Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm khái niệm biểu tượng trong ca dao.

- Xác lập một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.

- Phân loại và miêu tả hệ thống đó.

- Khảo sát biểu tượng về nhiều mặt: nguồn gốc hình thành, cấu lạo và chức năng.

- Bước đầu lập danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.

(Với 286 biểu tượng, mỗi biểu tượng có tần số xuất hiện và những nét nghĩa tiêu

biểu, phổ biến cùng các ví dụ và địa chỉ ví dụ).

6.Kết cấu của luận án

Luận án bao gồm các phần sau đây : Phần thứ nhất (Dẫn luận), gồm :

- Mục đích, ý nghĩa của đề tài

- Lịch sử vấn đề.

- Giới hạn của đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu.

- Đóng góp mới của luận án.

- Kết cấu của luận án.

Phần thứ hai (Nội dụng), gồm 4 chương :

- Chương 1 : Khái niệm về biểu tượng nghệ thuật trong ca dao.

- Chương 2 : Nguồn gốc của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.

- Chương 3 : Phân loại và miêu tả biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người

Việt.

- Chương 4 : cấu tạo và chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người

Việt.

Phần thứ ba (Kết luận). Để tiện theo dõi, ngoài Thư mục tham khảo, luận án còn

dành một số trang cho Phần phụ lục, bao gồm :

- Danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt.

- Bảng thống kê tần số xuất hiện các sự vật, hiện tượng được chọn làm biểu

tượng trong ca dao (theo thứ tự từ cao xuống thấp).

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT

TRONG CA DAO

1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao

1.1.1. Khái niệm biểu tượng:

Nghiên cứu về biểu tượng là lĩnh vực đã và đang được các nhà khoa học thuộc

nhiều ngành khác nhau quan tâm đến. Thế giới các biểu tượng nói chung thực sự đã

đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tình thần của con người từ xưa đến nay ở

khắp mọi miền trên trái đất. Jean Chevalier, nhà biên soạn Từ điển biểu tượng văn hóa

thế giới đã nhận xét: "Nói là chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thi vẫn còn

chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta" [71, tr.XIV]. Còn

Claude Lévi- Strauss, khi nghiên cứu nhân loại học ở các sự kiện văn hóa thi cho rằng:

''Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó

xếp ở hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hổn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật,

khoa học, tôn giáo..."[71, tr.XXIII]. Xét ra, biểu tượng đã được đánh giá đúng với

những giá trị vốn có của chúng trong đời sống con người. Các biểu tượng góp phần

làm nên bộ mặt của mội nền văn hóa ồ những đường nét cơ bản nhất. Đó là một thế

giới có sức hấp dẫn đặc biệt do nó qui tụ nhiều tính chất dường như đối lập nhau: vừa

hiển hiện, vừa. tiềm ẩn, vừa công khai, vừa bí mật, vừa bộc lộ, vừa che giấu, vừa rõ

ràng , vừa mông lung ... Sự tác động, các mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế

giới con người, những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng khơi gợi ra như một qui ước

thẩm mỹ của cộng đồng ... là những vấn đề lý thứ mà người ta vẫn mong muốn có thể

lý giải được nhờ vào những lập luận của tư dụy lôgich.

Để đi sâu vào thế giới hình ảnh có vẻ bí ẩn này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu

khái niệm có tính chất công cụ: biểu tượng là gi?

Trong tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng. Biểu

tượng là một hình ảnh cụ thể nào đó được phô bày ra nhằm thể hiện một ý nghĩa trừu

tượng.

Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole đều có

nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: symbolon (có nghĩa là: ký hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau

là một).

Thời xa xưa, khái niệm biểu tượng được dùng để chỉ một vật được, cắt làm đôi

như: mảnh sứ, gỗ, kim loại ... Hai người (chủ - khách, người cho vay - người vay, hai

kẻ hành hương, hai người sắp chia tay lâu dài ...) mỗi bên giữ một phần. Sau này, ráp

hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây liên hệ ngày trước, ở người Hy Lạp thời

cổ đại, biểu tượng còn là những dấu hiệu để cha mẹ nhận ra con cái bị lưu lạc. Bằng

cách hiểu như thế, dần dần, biểu tượng được mở rộng nghĩa, dùng để chỉ các tấm thẻ,

cầm chúng thi có thể lãnh lương, phụ cấp hay thực phẩm, chỉ mọi dấu hiệu tập họp,

chỉ các qui ước... Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa đựng hai ý tưởng

phân ly và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, một quan hệ tình cảm đã bị chia tách

và có thể tái hình thành: "Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa

của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó đa

bị vỡ ra" [71, tr.XXIII]. Cách hiểu này về biểu tượng có thể tìm thấy trong văn học cổ

Trung Quốc khá nhiều. Biểu tượng được hiểu như là một vật làm tin, một dấu hiệu để

nhận ra nhau. Từ điển văn liệu của Long Điền Nguyễn Văn Minh có chép một câu

chuyện về mảnh gương - khá tiêu biểu cho cách hiểu về biểu tượng như đã nói trên:

"Nguyên về đời Xuân Hiu bên Trung Quốc, Lạc Dương công chúa cùng chồng chạy

loạn, lúc biệt nhau, đập tấm gương soi làm hai mảnh, mỗi người giữ một mảnh, dặn

nhau cứ ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) đem gương vỡ ra chợ để rao bán, nếu

hợp hai mảnh lại mà in như tấm gương thi được gặp nhau.

Đời sau thường dùng điển cố đó để nói lúc phân ly của hai vợ chồng hay hai

tình nhân" [99, tr.285]. Ở đây, chiếc gương là sự vật có chức năng thay thế. Gương

vỡ: sự chia ly, gương lành: sự tái hợp. Hai mảnh gương vỡ (vật chất) chỉ sự chia cắt

(tình thần), đồng thời dự báo trước một tương lai sẽ được đoàn tụ (tình thần). Chiếc

gương là biểu tượng, là một dạng thức dùng cái này để nói cái kia, dùng cái hiện hữu

để nói cái vô hình.

Nhà từ điển Pháp André Lalande định nghĩa: "Biểu tượng là cái biểu hiện một

cái gi khác căn cứ vào một tương ứng loại suy" [14, tr.78], còn từ điển Petit Larousse,

1981 thi cho rằng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh bằng con vật sống động hay

bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh của một sự hay một điều

gi đó" [14, tr.78].

Theo Đoàn Văn Chúc, biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tĩnh cũng

như động (tĩnh: dáng vẻ một ngôi chùa, một pho tượng, một bức tranh; động: một điệu

múa, một cảnh kịch, một đám rước, một chuỗi hành động trong điện ảnh...), tác động

đến tai và mắt, gây ra trong tâm hồn người những lung động khoái trá về chúng, tất

nhiên với các khía cạnh và mức độ khác nhau. Cũng theo ông, để tri giác cái bất khả

tri giác, người ta dùng một vật môi giới, gọi là biểu tượng. Nói cách khác, biểu tượng

là ngôn ngữ của cái bất khả tri giác (không trông thấy, không nghe thấy, không sờ mó

thấy...) [14,tr.66].

Nói tóm lại, biểu tượng là những dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng

một hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Một sự vật, hiện tượng khi

được chọn làm biểu tượng có khả năng biểu hiện tình tế những ý niệm của con người

về cuộc sống, xã hội, thế giới (có khi những ý niệm này đã ăn sâu trong tiềm thức, vô

thức, tâm thức). Giữa sự vật, hiện tượng và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (đước góc

độ biểu tượng) không phải ỉà sự đồng nhất, mà là một sự tương ứng có thể xảy ra ở

nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau, làm nên sự đa nghĩa, đa trị của biểu tượng.

Một đặc điểm nổi bật của biểu tượng là tính qui ước. Tính chất này được thể

hiện ở nhiều mức độ tùy từng loại biểu tượng cụ thể. Từ thấp đến cao, có thể kể đến

tính qui ước trong biểu tượng mang màu sắc cá nhân, rồi đến các biểu tượng của một

nhóm người, một địa phương, một dân tộc, một khu vực, và cuối cùng là biểu tượng

có tính quốc tế. Có khi người ta nói đến biểu tượng trong các sáng tác của một nhà

văn, nhà thơ, nhà họa sĩ ... Các nhà nghệ sĩ này thường xuyên sử dụng trong sáng tác

của minh một số hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng theo cách nhin của tác giả. Công

chúng nhiều lần tiếp xúc với các cổng trình nghệ thuật đó, dần dà quen thuộc với các

hình ảnh và nhận ra những ý nghĩa thẩm mỹ nhất định làm cho tác phẩm có sức sống

lâu bền. Đó là trường hợp xuất hiện các biểu tượng của riêng một tác giả. Tính quy

ước ở đây được bộc lộ ở cấp độ thấp (quy ước của một cá nhân). Nhưng phổ biến hơn

cả là những biểu tượng mang tính cộng đồng (cấp độ cao - quy ước của rất nhiều cá

nhân). Sự vật, hiện tượng nào đó sở dĩ trở thành biểu tượng là do một cộng đồng

người nhất định quy ước sử dụng nó. Biểu tượng chỉ có thể tồn tại và hoạt động, phát

huy tác dụng khi nó được hiểu, được thừa nhận. Nó phải có những ý nghĩa ổn định

tương đối nào đó, trong những thời kỳ lịch sử nhất định, những hệ thống tác phẩm

nhất định ... Nếu ý nghĩa của sự vật, hiện tượng gợi ra luôn luôn biến đổi, nó sẽ tự phủ

nhận giá trị biểu tượng của chính bản thân.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, biểu tượng là dấu hiệu được bày ra bên ngoài để

nhận biết sự sở thuộc cộng đồng, hay nói cách khác, biểu tượng thể hiện rất rõ tính

cộng đồng. Chỉ những hình ảnh (con vật, đồ vật ...) được cộng đồng chấp nhận, cùng

ngầm thỏa thuận thống nhất với- nhau là nó chỉ ra một nghĩa nào đó ở bên ngoài nó,

thi mới có thể trở thành biểu tượng. Và thường thi những hình ảnh này đã trải qua sự

thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian. Nó dần dần được định hình và củng

cố ngày một chắc chắn hơn trong tâm thức dân tộc qua quá trình sử dụng.

Cũng vi biểu tượng mang đậm tính cộng đồng, tính xã hội nên các sự vật, hiện

tượng giống nhau ở các dân tộc không phải bao giờ cũng chứa đựng những ý nghĩa

biểu tượng trùng khớp lên nhau. Chẳng hạn, đối với người Hinđu, thấm nhuần tư

tưởng đạo Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tình thần khác hẳn đối với người

nuôi bò xứ Normandie. Đối với những người dận lao động Nga, trong thi ca dân gian,

chim thiên nga, con tu hú mang những ý nghĩa tượng.trưng sâu sắc mà ở các dân tộc

khác lại không có. Biểu tượng có khả năng lớn lao trong việc tạo nên sự hòa hợp, hòa

nhập giữa những con người trong cùng một cộng đồng. Qua đó, người ta có thể cảm

thông và đoàn kết với nhau hơn. Biểu tượng có sức mạnh liên kết mọi người lại với

nhau vi nó là trung tâm của những quan niệm và tư tưởng chung, từ đó, mọi người

nhận ra minh thuộc về một cộng đồng: "Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu

tượng của minh: rang động trước cái biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người

và thời đại ấy. Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết, xã hội thiếu biểu tượng

là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng' thi sẽ chết; nó chỉ còn

thuộc về lịch sử" [71,tr.XXXIII].

Đương nhiên, chúng ta cũng không loại trừ trường hợp một số các biểu tượng đã

đạt đến tầm vóc quốc tế toàn thể nhân loại đều công nhận chúng mang một nghĩa

tượng trưng chung nào đó (ví dụ: hoa: người con gái; chim bồ câu: hòa bình ...).

Để hiểu rõ hơn về biểu tượng, bên cạnh việc tìm hiểu thuật ngữ, chúng ta cũng

cần phân biệt nó với một số từ ngữ có liên hệ gần gũi.

Từ "symbol" trong tiếng Anh khi được dịch sang tiếng Việt có khi là "biểu

trưng", có khi là "biểu tượng", cách dùng, cách hiểu chưa có sự thống nhất giữa các

nhà nghiên cứu và dịch thuật.

Theo Đoàn Văn Chúc: "Trong trường hợp biểu trưng, người ta nhận thấy các vật

được chọn làm hình ảnh tự thân chúng có ý nghĩa gần gũi hay có khi chồng khớp với

giá trị được diễn đạt, mà người ta có thể lĩnh hội bằng một sự tương ứng loại suy

tương đối dễ dàng, trực tiếp ... Trong khi ấy, sự lĩnh hội ý nghĩa (tức giá trị) của biểu

tượng là gãy khúc và phức tạp hơn nhiều ..." [14, tr.78].

Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả cũng quan niệm biểu

tượng khác với biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, loại suy, triệu chứng, ngụ ngôn luân lý

... Tất cả những lối diễn đạt bằng hình ảnh này đều là những dấu hiệu và không vượt

quá mức độ của sự biểu nghĩa, mà: "Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu

hiệu là một qui ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với

nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu

đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức" [71, tr.XIX]. Mối quan hệ, sự tương hợp,

sự thâm nhập sâu xa giữa ý tưởng và hình thức ở biểu tượng khiến cho ý nghĩa cua

biểu tượng trở nên rộng lớn, sâu sắc hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân

tạo. Nó có một sức vang cối yểu và tự sinh.

Nói tóm lại, sự khác nhau giữa biểu tượng và các khái niệm tương cận chủ yếu là

ở sự phức tạp trong lĩnh hội các ý nghĩa do biểu tượng khơi gợi ra. Nghĩa của biểu

tượng không phải bao giờ cũng tách bạch, rõ ràng. Có những lúc chúng ẩn sâu vào

bên trong, đòi hỏi ở trí não con người một nguồn năng lực lớn lao để khám phá, tìm

tòi. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: "Nghĩa của tượng trưng không thể đem giải

mã bằng nỗ lực suy lý bởi vi nó đa nghĩa, cấu trúc nghĩa hàm của tượng trưng là đa

tầng và nó dự tính đến sự ký thác của người tiếp nhận" [44, tr.320] (khái niệm "tượng

trưng" ở đây được hiểu như "biểu tượng").

Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự phân biệt đứng về mặt lý thuyết. Sự cảm nhận, lĩnh

hội ý nghĩa do các hình ảnh gợi ra tùy vào sự hiểu biết, tùy vào năng lực, trí lực, thiên

hướng của mỗi cá nhân, khó xác định được đó là con đường đơn giản hay phức tạp.

VI vậy, trong thực tế, nhiều trường hợp biểu tượng và biểu trưng được dùng gần như

đồng nghĩa với nhau:

1.1.2. Các loại biểu tượng:

Trong đời sống, các biểu tượng không tồn tại một cách chung chung mà luôn

phụ thuộc vào một lĩnh vực xác định nào đó, dẫn đến sự hình thành nên nhiều loại

biểu tượng: biểu tượng toán học, khoa học, tôn giáo, văn hóa, triết học, nghệ thuật

v.v... Mỗi lĩnh vực có một hệ thống biểu tượng riêng. Một sự vật, hiện tượng có thể

trở thành biểu tượng của nhiều lĩnh vực khác nhau với những nội dụng ý nghĩa khác

nhau. Cùng là hoa sen, nhưng giá trị của biểu tượng này xét về mặt tôn giáo và nghệ

thuật là không trùng lắp, cùng là con rồng nhưng trong lĩnh vực chính trị và nghệ thuật

chúng có những ý nghĩa không giống nhau. Có khi những nội dụng của biểu tượng ở

các lĩnh vực có liên quan xa gần với nhau, những không đồng nhất. VI vậy, khi xác

định nghĩa của một biểu tượng, luôn luôn phải đặt nó trong những mối tương quan với

một lĩnh vực cụ thể.

Các biểu tượng toán học, khoa học là những ký hiệu mà dụng tải qui ước đã

được các Viện tiêu chuẩn hóa xác định chặt chẽ. Ở đây, nghĩa của biểu tượng được chỉ

ra hết sức rõ ràng, rành mạch. Biểu tượng mất đi khả năng khơi gợi, mời gọi tâm trí

con người đi đến những miền đất mới của nhận thức, của cảm xúc. Các nhà nghiên

cứu đã cho rằng: "Không thể có các khoa học chính xác phát biểu bằng biểu tượng,

theo đúng nghĩa của từ này" [71, tr.XIX].

Một số các công thức giáo lý cũng được gọi là các biểu tượng của đức tin, đó là

những tuyên bố trịnh trọng trong lúc thờ cúng, qua đó, những người đã thụ giáo theo,

một đức tin, một nghi lễ, một hội tôn giáo có thể nhận ra nhau. Cũng như loại biểu

tượng đã nêu ở trên, các công thức này mới chỉ là những dấu hiệu chỉ ra các ý nghĩa

đã quá quen thuộc, không chất chứa nguồn năng lực làm trí óc phải hoạt động, không

khơi dậy cho con người sự bức xúc phải tìm tòi, khao khát để hiểu biết về chúng.

Biểu tượng, hiểu theo nghĩa triết học, được Ru-đích định nghĩa như sau: "Biểu

tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng của thế giới bên ngoài và

của các tính chất của chứng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự trực tiếp

tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó. Cơ sở của

biểu tượng là:

- Hình ảnh vật thể, hiện tượng nằm trong ý thức

- Biểu tượng kém rõ ràng, rành mạch hơn tri giác

- Biểu tượng có tính biến dị

- Biểu tượng là hình ảnh có tính chất tổng quát hơn vật thể so với tri giác.

Theo cách hiểu này, biểu tượng cây sồi, cây bạch dương rộng hơn, khái quát hơn

cây sồi cụ thể, cây bạch dương cụ thể".[67, tr.70].

Từ điển triết học do các nhà triết học Liên Xô biên soạn đã định nghĩa biểu

tượng là: "Hình ảnh cảm tính, cụ thể về những hiện tượng của thế giới bên ngoài. Biểu

tượng cùng với cảm giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính hay theo thuật ngữ của

Páp-lốp, tạo nên hệ thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực" [67, tr.71].

Như vậy, hiểu theo triết học, tất cả các sự vật trong thế giới khách quan, khi

được con người tiếp nhận, đều sẽ trở thành biểu tượng. Thế giới khách quan có bao

nhiêu sự vật, hiện tượng thi cũng có bấy nhiêu biểu tượng được hình thành trong nhận

thức của con người. Ở đây, biểu tượng không chỉ ra một nghĩa nào khác ở bên ngoài

nó. Mỗi con người có một thế giới biểu tượng của riêng minh tùy thuộc vào sự trải

nghiệm trong cuộc sống, sự tiếp xúc với thế giới chung quanh.

Các biểu tượng nghệ thuật được tạo nên từ nhiều loại hình khác nhau: hội họa,

điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, văn học ... Điều này cũng có nghĩa là biểu

tượng có thể được hình thành bởi những chất liệu khác nhau: màu sắc, đường nét,

hình khối, động tác, điệu bộ, ngôn ngữ ... của con người. Biểu tượng nghệ thuật tuân

theo qui luật của cái đẹp, thể hiện được cái chân, thiện, mỹ, đem lại những rung động

thẩm mỹ cho con người. Nguyễn Xuân Kính đã nêu một định nghĩa về biểu tượng

thuộc lĩnh vực này: “Biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể

hiện quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng của từng nhóm tác giả (có khi của riêng một tác

giả), từng thời đại, từng dân tộc và từng kim vực cư trú” [81, tr.85].

Phải chăng đã có một sự chuyển đổi theo hướng tiếp nối giữa biểu tượng triết

học và biểu tượng nghệ thuật, biểu tượng thơ ca? Đây không phải là hai cách hiểu

hoàn toàn khác nhau về biểu tượng mà là hai cấp độ của biểu tượng, ở cấp độ thứ

nhất, biểu tượng mang tính chất đại trà, toàn bộ thế giới khách quan đều tồn tại trong

trí não của con người dưới hình thức các biểu tượng. Có sự vật là có biểu tượng.

Nhưng ở cấp độ thứ hai, thế giới biểu tượng thu nhỏ lại, thu hẹp lại, đó là thế giới của

những hình ảnh nghệ thuật, thẩm mỹ. Thế giới này đã được cộng đồng chọn lọc, sử

dụng. Biểu tượng lúc này không còn nguyên sơ nữa mà mang đầy màu sắc của xúc

cảm, không phải là sự miêu tả đơn thuần về thế giới khách quan mà là sự gởi gắm vào

đó thế giới tâm trạng của con người. Biểu tượng trở thành một phưong tiện thẩm mỹ

để con người bày tỏ những tư tưởng, tình cảm của minh. Hà Công Tài viết: "Cần phải

phân biệt trường hợp sau khi tạo ra những biểu tượng sao chép lại nguyên sơ cái hiện

thực, chúng ta có thể tạo ra biểu tượng với một ý nghĩa hơi khác mang tính tượng

trưng. Biểu tượng đất nước - địa vực cư trú và thiên nhiên của người Việt, biểu tượng

Rồng - vương quyền thời phong kiến, biểu tượng Việt Nam - dân tộc anh hùng là

thuộc loại thứ hai này" [145, tr.66]. Hiểu rộng ra, biểu tượng triết học là cơ sở để từ đó

hình thành nên nhiều loại biểu tượng khác, trong đó có biểu tượng nghệ thuật.

1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao:

Biểu tượng trong ca dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, được xây dựng bằng

ngôn từ (ngôn từ nói và ngôn từ viết) với những qui ước của cộng đồng. Thế giới biểu

tượng này vừa mang những đặc điểm của biểu tượng nói chung, vừa mang những nét

riêng đặc thù của nó do nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật thi ca dân gian qui định. Biểu

tượng ca dao là những hình ảnh ẩn dụ được một cộng đồng chấp nhận và sử dụng rộng

rãi, phổ biến, mang đậm tính truyền thống. Biểu tượng ở đây có thể được tạo thành

bởi một từ, một ngữ, một câu, cũng có khi là cả một văn bản. Để tạo nên biểu tượng,

nghĩa đen, nghĩa biểu vật của các từ ngữ sẽ là cơ sơ để từ đó người tiếp nhận khai thác

nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm. Được xây dựng trên cơ sở tính hàm súc, hàm nghĩa của

ngôn ngữ văn chương, hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao đã góp phần làm

cho ngôn ngữ của loại thơ ca dân gian này mang tính đa nghĩa và giàu sức khơi gợi.

Thử đọc câu ca dao: Anh về cuốc đất trồng cau,

Cho em trồng ké dây trầu một bên.

Mai sau trầu nọ lớn lên,

Cau kia ra trái lập nên cửa nhà. (TLI - tr.161)

Rõ ràng ở đây trâu - cau không còn được hiểu như chính nó trong thực tại, mà đã

trở thành hình thức biểu đạt chứa đựng nội dụng cưới xin, nội dụng se kết duyên tình

giữa nam và nữ, một nội dụng mà ta chỉ có thể nắm bắt được khi hiểu sâu sắc về biểu

tượng trầu cau. Nếu là một người nước ngoài hoàn toàn không hiểu biết gi về phong

tục, tập quán, văn hóa Việt Nam, thi đối với họ, có lẽ sẽ rất khó khăn khi cảm thụ

những câu trên.

Ca dao là một loại thơ của dân gian nên tính cộng đồng luôn nổi trội ở các biểu

tượng. Cây trúc, cây mai trong ca dao người Việt tượng trưng cho đôi bạn tình, còn

cây trúc của si, lượn (dân ca trữ tình Tày - Nùng) là cây trúc tầm thường. Con cò là

biểu tượng đẹp đẽ của các nông dân người Việt trong ca dao thi với các dân tộc miền

núi: "con cò chỉ xuất hiện hai lần ở khoảng dăm nghIn bài si, lượn với tư cách là đồ

tầm thường và bẩn thỉu" [65, tr.76]. Tương tự, hoa hồng phổ biến trong thơ ca dân

gian Ucraina, trong khi ở thơ ca dân gian Nga, loại hoa này ít xuất hiện mà thay vào

đó là hình ảnh cây thúy dương.

Biểu tượng ca dao mang tính cụ thể. Nhờ biểu tượng, thế giới vô hình của tình

cảm, tâm trạng trở nên hữu hình; những đặc điểm, thuộc tính của các sự vật, hiện

tượng, các mối quan hệ trở nên cụ thể hơn. Xét ở phương tiện biểu đạt, các biểu tượng

đều sử dụng những hình ảnh cụ thể, sinh động của đời sống hàng ngày. Thân phận

người phụ nữ được thể hiện qua con cò lặn lội, con chim mắc lưới, con cá trong lờ,

bông hóa tươi thắm, ngát hương nhưng chóng phai tẳn, tẩm lụa đào giữa chợ đời...

Những lứa đôi xứng hợp với tình yêu thắm thiết mượn chim phượng hoàng -ngô đồng,

rồng -mây, trúc -mai, loan -phượng, kim -chỉ, khóa -chia... để tự biểu hiện minh. Có

thể nói, các biểu tượng đã góp phần làm tăng tính tượng hình nghệ thuật cho ngôn ngữ

ca dao, đồng thời giúp ích rất nhiều cho việc cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng,

những đối tượng khó miêu tả, khó nắm bắt.

Nhưng đi liền với tính cụ thể không thể không nhắc đến tính khái quát của biểu

tượng. Thuyền, bến, cá, cò... là hình ảnh cụ ,thể nhưng không cụ thể đến mức độ khiến

ta hình dụng được con thuyền này, cái bến này, con cá này, con cò này,... Những hình

ảnh đó thường được xây dựng theo tính chất chung của từng loại sự vật, vi vậy, mang

tính khái quát cao (thuyền đi muôn nơi, bến nằm một chỗ", con cá bị nhiều người chài

lưới, con cò vất vả kiếm ăn...) Tính khái quát còn thể hiện ở nội dụng biểu đạt của

biểu tượng. Từ hàng trăm, hàng ngàn những thân phận nổi trôi, những cuộc đời đau

khổ của người phụ nữ, dân gian đã đúc kết lại trong hình ảnh con cò, con cá, cánh

bèo... Từ bao nhiêu cuộc chia tay của các lứa đôi, bao nhiêu chờ đợi, thủy chung của

những nàng Tô Thị, biểu tượng thuyền -bến được hình thành. Tiếng nói từ biểu tượng

ca dao vi vậy không phải của cá nhân, mà là của tập thể, hướng về tập thể, mang tính

triết lý cao. Trong diễn xướng, nội dụng biểu đạt của biểu tượng có thể hướng về một

chàng trai, cô gái cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, nhưng trong sự cảm nhận chung

của người tiếp nhận ca dao, sự biểu đạt ấy là đúng với tâm trạng, hoàn cảnh, nỗi niềm

của biết bao con người trong xã hội cũ. Từ một biểu tượng, mỗi người có thể liên

tưởng đến những tình huống khác nhau trong cuộc đời, nhận ra cái mà họ đã trải qua,

đã chiêm nghiệm.

Sự kết hợp giữa tính cụ thể và khái quát - chính xác hơn phải gọi là tính cụ thể -

khái quát, đã mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể cho các biểu tượng. Khi các tín

hiệu thẩm mỹ này được sử dụng trong văn bản ca dao, chúng làm cho sự diễn đạt vừa

mang tính hình tượng, vừa mang tính hàm súc, vừa sinh động, vừa sâu sắc.

Biểu tượng ca dao mang tính nhận thức, đồng thời còn mang đậm tính biểu cảm.

Qua các biểu tượng, có thể nhận ra ý khen chê, lòng yêu ghét, thái độ khẳng định hay

phủ định, trân trọng hay rẻ khình... của tác giả dân gian đối với đối tượng được biểu

hiện. Tùy thuộc vào sự lựa chọn hình ảnh cụ thể, lựa chọn nét tương đồng, ta hiểu

được những tình cảm, cảm xúc mà người nghệ sĩ dân gian gửi gắm trong biểu tượng.

Việc người phụ nữ xưa dùng hàng loạt sự vật đẹp đẽ để thể hiện bản thân như: hoa

thơm, hoa tươi, hoa hồng, hoa đào, hoa lý, hoa nhài, hoa sen, cây quế, cây trầm, hạt

gạo trắng, tấm lụa đào, vàng ,ngọc, ánh trăng rằm... cho thấy họ rất tự hào về vẻ đẹp

hình thức lẫn bản chất của minh. Có xót xa, tủi hờn, đớn đau trong hình ảnh cánh bèo

mặt nước, bông hoa tàn héo, cá chậu, chim lồng... Có thủy chung trong bến nước,

Tấn- Tần, vàng -đá, Châu -Trần... Còn khi dân gian gọi những người có tính cách

không tốt là gương mờ (đối sánh với gương trong), dòng nước đục (dòng nước trong),

cú (tiên), thau (vàng), chI (bạc)... ,thái độ phê phán cũng hiện lên rất rõ.Vậy, để tạo

nên một biểu tượng, người ta không chỉ đặt vào đó những nhận thức của minh, mà còn

gởi gắm cả những tình cảm mãnh liệt.

Biểu tượng là sự gắn bó khắng khít giữa bai yếu tố lý trí và tình cảm, nên cũng

đòi hỏi được tiếp nhận bằng toàn bộ tâm trí con người. Thế giới biểu tượng ca dao

tràn đầy cảm xúc, những ai đến với chúng phải biết "tổng hợp và đồng cảm hết mực,

nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cách nhin nào đó về thế giới" [71 ,tr. XXVII].

Biểu tượng vừa thể hiện tình cảm, vừa tác động đến tình cảm con người. Bằng con

đường này, chúng dẫn dắt người thưởng thức ca dao từ chỗ đứng nhin đến chỗ nhập

cuộc, và chỉ khi ấy, việc hiểu biểu tượng mới thực sự sâu sắc,

Nghĩa của biểu tượng nói chung, biểu tượng ca dao nói riêng, mang tính ổn định

,nhưng là sự ổn định tương đối. Nếu ý nghĩa biểu đạt của một hình ảnh thường xuyên

thay đổi, hình ảnh đó không thể trở thành biểu tượng. Nếu một hình ảnh luôn được

đóng khung với vài ba ý nghĩa sẵn có, cũ mòn, bất di bất dịch, thi đó cũng chưa phải

là biểu tượng theo cách hiểu đầy đủ nhất về thuật ngữ này. Xét về đại thể, nghĩa của

biểu tượng là ổn định. Nhưng trong từng thời đại, từng địa phương, hay với từng nghệ

sĩ dân gian, người ta có thể sử dụng, tiếp nhận biểu tượng với những nét nghĩa phái

sinh trên cơ sở những nét nghĩa đã ổn định.

Đó là sự thay đổi có chừng mực dựa trên nền nghĩa ổn định mà dân gian đã cấp

cho biểu tượng. Nghĩa của biểu tượng vi vậy được sinh sôi, biến hóa xoay quanh trục

ý nghĩa đã được định hướng lúc ban đầu "Câu chuyện hay hình ảnh vẫn nguyên vậy,

nhưng chúng rung động theo những cấp độ ý thức và tri giác, trong những môi trường

nhận cảm nhiều hay ít hơn, và các sắc thái của biểu tượng biến đổi cùng với chính các

vế của mối liên hệ đã tạcrnên nó.Các mối quan hệ đó, tuy vậy vẫn là đồng hình. Một

lực có định hướng nằm trong lòng cấu trúc sâu thẳm tiếp tục điều khiển các cách giải

thích khác nhau, tiến triển qua các thế kỷ chung quanh cùng một trục biểu tượng" [ 71

,tr. XLV]. Một ví dụ cụ thể cho vấn đề này là "Người phương Tây thường phát hiện ra

những ý nghĩa tượng trưng có ý nghĩa nhân bản, ý nghĩa triết học trong thần thoại Hy

Lạp. Người Việt Nam thường chú ý đến ý nghĩa tượng trưng nói về lịch sử dân tộc "

[94, tr. 22]. Cũng vậy, trong ca dao người Việt, cách hiểu về một biểu tượng ở các văn

bản khác nhau có thể có những nét nghĩa không hoàn toàn trùng lắp. Điều này sẽ

được chúng tôi minh họa kỹ ở chương bốn của luận án.

Cùng với sự nhận thức về tính ổn định tương đối trong ý nghĩa biểu tượng,

chúng ta thấy được sự phong phú về nghĩa mà một biểu tượng có thể mang lại, cũng

như sự phức tạp, khó khăn khi giải mã nó. Việc làm này, chỉ nên xem là một sự gợi

mở, chứ không phải phô bày tất cả các ý nghĩa của biểu tượng (phần Phụ lục được

chúng tôi tiến hành theo định hướng này).

Trong nền thơ ca dân gian của mỗi dân tộc, do bản chất trữ tình của thể loại này,

sự tồn tại thành hệ thống của biểu tượng nghệ thuật là một hiện tượng phổ biến, một

thực tế khách quan.

Thơ ca dân gian Nga hàm chứa nhiều biểu tượng. Các cô gái hoặc các vị hôn thê

được biểu hiện bằng hình ảnh thiên nga trắng, chim cun cút, chim bồ câu, cây-bạch

dương, cây táo. cây lê, cây liễu, cây tiểu anh, cây dâu ... Còn các chàng trai, các vị hôn

phu thường là: chim ưng chói lọi, đại bàng xanh, bồ câu xám, vừng trăng sáng tỏ, cây

sồi ... Đôi tình nhân là chim câu trống, chim câu mái, vợ chồng là vịt đực - vịt cái, mẹ

chồng là cây tầm ma bỏng rát, bà con nhà chồng là những con ngỗng xám ... [121,

tr.106 - 107].

Trong ca dao người Việt, trầu - cau là biểu tượng của tình yêu, hôn nhân, tình

nghĩa sắt son; trúc - mai: lứa đôi gắn bó khăng khít; phượng hoàng - ngô đồng: lứa đôi

xứng hợp. Mận - đào, thuyền - bến, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa ... là

những biểu tượng sóng đôi biểu thị cho đôi bạn tình ở nhiều khía cạnh khác nhau. Con

cò: người nông dân một nắng hai sương, tuy sống đời vất vả nhưng vô cùng trong

sạch. Con bống: người phụ nữ lành hiền, đảm đang .,.

Các hệ thống biểu tượng trên cần được nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm

túc, đầy đủ với những phương pháp khảo sát phù hợp. Qua việc nghiên cứu biểu

tượng, có thể hiểu được sâu sắc về một cộng đồng dân tộc. Ca dao Việt Nam là sáng

tác nghệ thuật của toàn dân Việt Nam, từ Bắc chí Nam, trải qua biết bao giai đoạn

thăng trầm của lịch sử. Ca dao Việt Nam in đậm tâm hồn, cốt cách Việt Nam, là nơi

lưu giữ đầy đủ nhất cách sống, cách cảm, cách nghĩ của con người Việt Nam. Tìm

hiểu biểu tượng ca dao là tìm hiểu những tín hiệu thẩm mỹ mà dân tộc ta qua bốn

ngàn năm đã tạo lập ra, đã sử dụng chúng để tự biểu hiện-minh. Qua các biểu tượng,

ta có thể cảm nhận được tâm hồn Việt Nam ở tầng sâu kín nhất.

1.2.Biểu tượng ca dao nhin dưới những góc độ khác nhau:

1.2.1. Biểu tượng ca dao dưới góc độ ký hiệu học:

Ở góc độ này, biểu tượng ca dao chính là những ký hiệu hay nói đúng hơn, là

những siêu ký hiệu (tức là ký hiệu của ký hiệu).

Ký hiệu là một sự vật, do sự tồn tại tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra theo

ước lệ, có tác dụng chỉ ra một hiện thực ở bên ngoài nó và được tập thể xã hội thừa

nhận. Một ký hiệu có hai mặt: cái biểu đạt (signifiant) và cái được biểu đạt (signifié)

kết hợp với nhau theo quan hệ võ đoán. Sự gắn bó giữa cái biểu đạt (CBĐ) và cái

được biểu đạt (CĐBĐ) trong một ký hiệu có thể so sánh với hai mại của một tờ giây,

hễ có một là có cả hai, không thể tách rời được: "Một ký hiệu bao giờ cũng bao gồm

hai vế, sinh ra cùng một lúc, như: "hai anh em dính lưng nhau" [174, tr.35], CBĐ là

mặt vật chất của ký hiệu, nghe được, nhin được và CĐBĐ là mặt tình thần, im lặng ở

bên trong. CBĐ đóng vai trò biểu hiện (cũng như hình thức), qua đó, CĐBĐ bộc lộ ra

ngoài, tự truyền đạt ra ngoài (cũng như nội dụng). Không thể xem nhẹ cái nào vi cả

hai đều góp phần tạo nên nghĩa -giá trị cơ bản của một ký hiệu.

Ngôn ngữ thông thường của một dân tộc là một hệ thống ký hiệu biểu thị

(dénotatif). Thời xa xưa, khi các ký hiệu ngôn ngữ ra đời, đã được cả một cộng đồnng

chấp nhận và sử dụng như một "khế ước xã hội" bất khả xâm phạm, một quy luật nhất

nhất phải tuân theo. Vào thời đó, không ai giải thích được tại sao cái bàn lại được thể

hiện qua âm "bàn", tại sao khái niệm bàn nhất thiết phải yêu cầu âm "bàn". Rõ ràng,

đây là mối quan hệ tự phát, tự tiện, không có nguyên do, chưa thể giải thích được.

Từ trong hệ thống ký hiệu vừa nêu lại có những thành tố được dùng làm ký hiệu

lần thứ hai để chỉ ra một nghĩa nào đó ở bên ngoài nó (mà mọi người đã qui ước với

nhau). Lúc này, ta có những biểu tượng văn học, biểu tượng ca dao. Bản thân ký hiệu

(biểu thị) là một hệ thống mà nội dụng của nó đã được vận dụng để tạo ra một hệ

thống thứ hai gọi là hệ thống ký hiệu hàm nghĩa (connotatif). Toàn bộ tổ hợp này - hệ

thống ký hiệu học biểu thị và hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa tạo nên hệ thống đôi,

tức hệ thống trong hệ thống.

Ở đây, nghĩa đã sinh ra nghĩa. Hệ thống nghĩa thứ nhất (nghĩa đen) đã nhường

chỗ cho hệ thống nghĩa thứ hai (nghĩa bóng), do nó sinh ra từ ưong cơ chế của nó.

Nghĩa chính chuyển hóa thành nghĩa thứ hai, thứ ba tức không mất đi nhưng cũng

không còn vị thế như cũ.

Với hệ thống ký hiệu hàm nghĩa, quan hệ giữa CBĐ' và CĐBĐ' là như thế nào?

Có ý kiến cho rằng đó là quan hệ võ đoán: "Công lý thường được biểu trưng bằng cái

cân. Giữa ý niệm công lý - một cái trừu tượng, tình thần và cái cân, một cái-có tính vật

thể, chẳng có một mối quan hệ máu thịt, bản chất gi cả. Người ta mượn cái cân có hai

đĩa để nói công lý phải công bằng, không thiên và nặng về đĩa nào. Đây là một quan

hệ vay mượn, liên tưởng, tự đặt ra và cùng công nhận vi thấy "ổn" [174, tr.85]". Tuy

nhiên, cũng cần thấy rằng ở đây đã có một yếu tố tương quan thô sơ nào đó giữa CBĐ'

và CĐBĐ'. "Các đối tượng bên ngoài đã chứa đựng trong bản thân chúng ý nghĩa biểu

tượng mà nó được dùng để biểu thị. Đó không phải là một ký hiệu tùy tiện và phiếm

định, mà là một ký hiệu ngay ở tính bên ngoài của nó đã bao hàm nội dụng của biểu

tượng mà nó biểu thị" [48, tr.43]. Saussure cũng khẳng định: "Biểu trưng (symbole)

có một đặc tính là không bao giờ hoàn toàn võ đoán ... Biểu trưng của công lý là cái

cân không phải muốn lấy gi thay thế cũng được, chẳng hạn, không thể lấy một cái xe

để biểu trưng công lý" [136, tr.124]. Điều này cũng phần nào giải thích tại sao chỉ có

một số ký hiệu biểu thị được một cộng đồng lựa chọn để trở thành ký hiệu hàm nghĩa,

mà không phải là tất cả.

Quan hệ giữa CBĐ' (cá) và CĐBĐ' (người con gái trong tình yêu) có lý do

không? Hẳn là người Việt Nam xưa kia đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa hai

sự vật này. Trong sinh hoạt ca hát, khi muốn nói về thân phận người con gái trong xã

hội phong kiến xưa với quan hệ tình yêu, thi họ liên tưởng ngay đến con cá (cá cắn

câu, cá mắc lưới, ca'trong chậu, cá ở ao, cá trong lờ...) và dùng con cá để nói lên

những suy nghĩ, cảm nhận của minh một cách ý nhị, kín đáo. Quan hệ giữa CBĐ' và

CĐBĐ' ở đây là hoàn toàn có lý do, có thể giải thích được. Tuy nhiên đây không phải

là mối quan hệ có tính tất yếu, bắt buộc. Ngoài hình ảnh con cá, người ta có thể dùng

nhiều hình ảnh khác để thể hiện cùng một ý niệm, ý tưởng ban đầu: chim trong lồng,

chim mắc lưới; hoa có chủ, thuyền có lái, thuyền ghé bến... Dĩ nhiên, mỗi hình ảnh khi

sử dụng sẽ tạo nên những giá trị nghệ thuật có phần khác biệt nhau, nhưng nhin

chung, trong ca dao, người ta có cả một kho thi liệu phong phú, và các hình ảnh biểu

tượng cố thể thay thế lẫn cho nhau trong quá trình ứng tác. Trong phạm vi dân tộc là

như vậy,còn trên toàn thế giới, để nói về người con gái trong tình yêu, mỗi dân tộc,

mỗi cộng đồng người lại sử dụng những nhóm biểu tượng khác nhau trong thơ ca dân

gian.

Như vậy, giữa CBĐ' và CĐBĐ, hay giữa hình ảnh biểu tượng và ý nghĩa biểu

tượng luôn tồn tại quan hệ võ đoán không hoàn toàn.

Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi nhận thấy khảo sát biểu tượng ca dao dưới

góc độ ký hiệu học cần lưu ý mấy điều sau:

- Biểu tượng - ký hiệu thẩm mỹ, ký hiệu hàm nghĩa, cần được nghiên cứu kỹ ở

cả hai bình diện: CBĐ' và CĐBĐ', cùng mối quan hệ giữa chúng. Với tất cả các biểu

tượng, đây đều là mối quan hệ võ đoán không hoàn toàn, có cơ sở là những quan hệ

liên tưởng, vay mượn mang tính ước lệ mà nội dụng gắn liền với những đặc điểm văn

hóa - xã hội nhất định của từng cộng đồng. VI vậy, cần nghiên cứu căn cứ trên những

lý do, nguyên nhân nào mà một vật được chọn để làm biểu tượng cho một giá trị, tức

là vấn đề nguồn gốc của biểu tượng, tầng lịch sử - văn hóa - xã hội của biểu tượng.

- Hegel nhận xét: "Xét về bản chất, tượng trưng về căn bản là mơ hồ" [48, tr.44].

Một CBĐ' có thể chứa đựng nhiều CĐBĐ. Và một CĐBĐ' cũng có thể được biểu thị

bổi nhiều CBĐ' khác nhau. Khi một ký hiệu xuất hiện trước mắt chúng ta, liệu nó sẽ

được hiểu theo nghĩa biểu thị, hay cả nghĩa biểu thị lẫn nội hàm, hay chỉ theo nghĩa

nội hàm? Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố (văn cảnh, người tiếp nhận ...). Do đó,

cần thận trọng khi tìm hiểu các ký hiệu.

- Mỗi biểu tượng là một hệ thống đối, hệ thống nội hàm. Toàn bộ các biểu tượng

ca dao - tức rất nhiều hệ thống đôi - đã góp phần làm ngôn ngữ ca dao trở nên giàu

sức biểu hiện. Nhờ biểu tượng, việc "tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa" (theo cách

dùng từ của Nguyễn Phan Cảnh [8, tr.84]) trong văn bản ca dao càng thuận lợi hơn.

1.2.2. Biểu tượng ca dao dưới góc độ tu từ học

Biểu tượng trong ca dao chủ yếu được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ

liên tưởng. Đặc điểm chung của các cách tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng là trong

một văn cảnh cụ thể, từ ngữ có hiện tượng lâm thời chuyển đổi ý nghĩa, ở đây nghĩa

của từ ngữ vốn biểu thị đối tượng này (theo từ điển) nay được lâm thời chuyển sang

biểu thị đối tượng khác dựa trên cơ sở một quan hệ liên tưởng nhất định. Quan hệ liên

tưởng này có thể là:

-Liên tưởng nét tương đồng (khía cạnh giống nhau)

- Liên tưởng có tính logich khách quan về mối quan hệ có thực xảy ra giữa hai

đối tượng

Có thể nêu định lý tổng quát về cấu tạo của các phép tu từ thuộc loại này như

sau: "Nếu như có thể phát hiện ra một mối quan hệ liên tưởng nào đó giữa A và B, thi

về nguyên tắc có thể lấy A để lâm thời biểu thị B hoặc ngược lại lấy B để lâm thời

biểu thị A" [178, tr.270]. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng đối tượng A,B, tùy thuộc

vào đặc trưng của mối quan hệ liên tưởng giữa A và B mà ta có những cách tu từ như:

so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hóa ...

Cù Đinh Tú đã định nghĩa về tượng trưng: "Có những ẩn dụ, hoán dụ tu từ được

dùng một lần rồi qua đi, không ai dùng lại nữa. Người ta thừa nhận nhưng không dùng

theo. Cũng lại có những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ sau khi được một cá nhân sử dụng

mọi người chẳng những thừa nhận mà còn dùng theo, dùng lại tới mức độ hễ nhắc đến

nó không cần phải có văn cảnh, người ta vẫn hiểu thống nhất về nội dụng biểu hiện

của nó" [178, tr.303].

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa biểu tượng là "hình ảnh tượng

trưng. Chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình". Còn về tượng trưng thi được giải

thích như sau:

"Tượng trưng - (động từ): dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất

thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó. Chim bồ câu tượng

trưng cho hoa bình.

- (danh từ): Sự vật cụ thể được dùng để tượng trưng cho cái trừu tượng nào đó.

Xiềng xích là tượng trưng của sự nô lệ." [124, ti".1118].

Theo các cách hiểu trên, biểu tượng ca dao chính là những hình ảnh được hình

thành từ nghệ thuật tượng trưng. Xét ở bình diện ngôn ngữ, về nguyên tắc, sự vật chỉ

được xem là biểu tượng khi nó xuất hiện nhiều lần trong các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ

với những nét nghĩa nhất định.

Trong tổng thể ca dao, biểu tượng tồn tại dưới những dạng thức nào? Nếu chiếu

đúng theo định nghĩa về biểu tượng, thi chỉ có các ẩn dụ, hoán dụ được sử dụng với

tần suất cao là hội đủ điều kiện để được khảo sát (chỉ xuất hiện CBĐ’, còn CĐBĐ’ ẩn

kín đi) Các so sánh được lặp lại nhiều lần tuy mang nghĩa biểu tượng nhưng trên văn

bản CBĐ’ và CĐBĐ' cùng xuất hiện, điều này chưa thật phù hợp với cách hiểu của

chúng ta về biểu tượng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khảo sát biểu tượng ca dao là

khảo sát cả một'hệ thống, tiến hành không phải trên một văn bản riêng lẻ, mà là trên

kho tàng đồ sộ của ca dao người Việt, nên việc đưa các so sánh nói trên vào đối tượng,

khảo sát là cần thiết để có thể đem lại một cái nhin toàn diện, sâu sắc hơn về biểu

tượng ca dao cùng với các dạng thức tồn tại khác nhau của chúng (so sánh, ẩn dụ,

hoán dụ).

Đứng về phía người tiếp nhận, ở mỗi dạng thức, nghĩa của biểu tượng cũng được

bộc lộ ra theo những cách khác nhau.

1.2.2.1.Dạng thức so sánh :

Nếu cho rằng các sự vật, hiện tượng xuất hiện trong phép tu từ này là biểu tượng

(hiểu một cách chặt chẽ như khái niệm chúng tôi đã trình bày ) thi có vẻ như chưa

chính xác. Một biểu tượng phải bao gồm CBĐ' (phần ngôn từ, vật chất) và CĐBĐ'

(phần nội dụng, tình thần), hai mặt này gắn chặt với nhau, cái này biểu hiện cái kia.

Trong khi đó, ở phép so sánh, người ta thấy sự xuất hiện cùng lúc, đồng thời của CBĐ'

(cái dùng để so sánh) và CĐBĐ' (cái được so sánh). Cả hai tách rời thành hai vế của

phép tu từ, cùng được biểu hiện bằng ngôn từ trên văn bản, nối kết với nhau bằng các

từ so sánh .

Một số ví dụ:

_Thân em như tấm lụa đào,

Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai? (TL I -tr. 2029)

_Thiếp như một cụm hoa hường,

Thấy xinh rờ đến mắc đường chông gai. (TL III -tr. 383)

_Em như cá lượn đầu cầu,

Anh về lấy lưới người câu mất rồi.

Nước trong cá chẳng cắn mồi

Càng câu càng mất, càng ngồi càng khuya (TL I-tr.965)

Vai trò của sự vật, hiện tượng với tư cách là biểu tượng trong các bài ca này phải

chăng không quan trọng lắm ? CĐBĐ' lẽ ra ẩn đi, để người ta phải dùng tư dụy, trí

tưởng tượng cảm nhận, thi ở đây nó lại hiển hiện, tự bộc lộ, tự xác định trên văn bản.

Tấm lụa đào, cụm hoa hường, cá lượn đầu cầu là những hình ảnh mang dấu hiệu của

loài cho nên có ý nghĩa khái quát. Các phép so sánh đã triển khai cụ thể một đặc tính

nào đấy của sự vật theo dấu hiệu tương đồng: tấm lụa đào còn nguyên hay xé lẻ, cụm

hoa hường xinh nhưng nhiều gai, cá lượn đầu cầu bị nhiều người đuổi bắt..., đồng

thời còn đặt bên cạnh hình ảnh so sánh các chủ thể: thân em, thiếp, em... Các đặc điểm

này dường như đã khiến cho người đọc tiếp nhận biểu tượng theo những định hướng

rõ rệt, trường liên tưởng bị thu hẹp lại (hướng về một đối tượng cụ thể, một hoàn cảnh

cụ thể).

Tuy nhiên, do nhân vật trữ tình trong ca dao là phi cá thể hóa , hoàn cảnh được

nói đến thường chung cho nhiều con người, ngôn từ ca dao lại rất tiết kiệm, gợi nhiều

hơn tả, nên cho dù các thuộc tính, trạng thái (nét giống nhau) và chủ thể so sánh được

triển khai là bất biển thể thi cũng vẫn còn nhiều chỗ cho trí tưởng tượng của con

người hoạt động. Nói cách khác, các phép so sánh đã triển khai biểu tượng, nhưng chỉ

đi nửa đoạn đường (triển khai không hoàn toàn), đoạn còn lại sẽ là phần việc của

người tiếp nhận.

1.2.2.2.Dạng thức ẩn dụ :

Nếu như ở so sánh, CBĐ' và CĐBĐ' của biểu tượng còn đứng tách rời nhau, thi

ở đây, trong các ẩn dụ đã có sự hoa nhập. CBĐ' hiện lên trên văn bản, còn CĐBĐ' ẩn

kín đi, để cho người tiếp nhận tự suy nghĩ, liên tưởng, khám phá.

Một số ví dụ:

-Tiếc thay cái tấm lụa đào,

Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi.

Trời kia có thấu chăng trời,

Lụa đào mà vá áo tơi sao đành (TL I —tr. 1915)

-Hoa hồng sắp hái đến tay,

Để người hái mất đứng ngây mà nhin. (TL I-tr. 1093)

-Ngồi buồn xe chỉ uốn cần,

Chỉ xe chưa đặng cá lần ra khơi. (TLI-tt.1591)

Trong các ví dụ trên, tấm lụa đào, hoa hồng, con cá biểu thị cho ai? Không có

chủ thể so sánh, không có từ ngữ so sánh. Chỉ có các hoàn cảnh mà sự vật được àặt

vào là một trong những dấu hiệu tương đồng (cơ sở của sự so sánh), mách bảo cho

người tiếp nhận nét nghĩa biểu tượng mà dân gian đang muốn hướng đến (tấm lụa đào

vá vào áo tơi, chỉ xe chưa đặng cá lần ra khơi, hoa hồng sắp hái đến tay thi bị người

ta hái mất). Tuy nhiên, cũng như ở dạng so sánh, các hoàn cảnh này thường mang tính

khái quát chung. Với những đặc điểm trên, dạng thức ẩn dụ luôn tạo điều kiện cho sự

liên tưởng được rộng rãi hơn, kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn.

Trong sự liên hội của người thưởng thức, các nhân tố hoàn cảnh (văn cảnh), hợp

lôgich (nét tương đồng giữa hai đối tượng phải hợp lý), thói quen thẩm mỹ (dân gian

quen dùng một số nét tương đồng làm cơ sở để tạo nên một số ẩn dụ) của biểu tượng

được sử dụng trong văn bản ca dao đóng vai trò dẫn dắt để người nghe có thể tự xác

định cho minh một hướng hiểu phù hợp nhất hoặc nhiều hướng hiểu nhưng không loại

trừ nhau.

1.2.2.3.Dạng thức hoán dụ:

Cùng với so sánh, ẩn dụ, còn có các biểu tượng được định hình qua các phép

hoán dụ tu từ. Giữa CBĐ' và CĐBĐ' ở đây không phải là mối quan hệ liên tưởng

tương đồng mà là mối quan hệ liên tưởng logich khách quan giữa hai đối tượng. Trên

văn bản, chỉ hiện diện CBĐ', vi vậy biểu tượng thuộc dạng này cũng tạo được trường

liên tưởng rộng rãi nơi người tiếp nhận giống như ẩn dụ.

Một số ví dụ:

-Hôm nay gặp buổi êm trời,

Má đào lại được sánh người trượng phu. (TL I - tr. 1115)

-Anh xa em chưa đầy một tháng

Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày... (TL III - tr.175)

-Anh quen em năm ngoái lại giữ (giờ)

Cơi trầu anh mang đến đó, em chối từ không ăn.

-Cơi trầu anh mang đến, hãy chịu khó mang về,

Em đang còn theo chân thầy, gót mẹ cho trọn bề hiếu trung.

(TL II(1) - tr.229)

Trong các bài trên, má đào biểu hiện người con gái trẻ, đẹp (quan hệ lôgich

khách quan giữa bộ phận - toàn thể), nước mắt biểu hiện tâm trạng nhớ thương, đau

khổ (quan hệ giữa cái cụ thể - cái trừu tượng), cơi trầu - sính lễ cưới xin (quan hệ bộ

phận -toàn thể), ... Các hoán dụ này được sử dụng nhiều lần, trở thành công thức, hàm

chứa nghĩa biểu tượng.

Nếu đem so sánh, biểu tượng được tạo thành từ các ẩn dụ và hoán dụ cũng có

những điểm khác biệt: "Cái lôgich trong ẩn dụ tu từ là cái lôgich mang tính chủ quan

do con người tạo ra, trái lại cái lôgich trong hoán dụ tu từ là cái lôgich có thực, mang

tính khách quan, do con người nhận thức và phản ánh lại. Bởi vậy hoán dụ tu từ mang

tính chân thực khách quan, nó có khả năng khắc họa, nhấn mạnh một đặc điểm có

thực nào đó của đối tượng định miêu tả" [178, tr.300]. Cùng thực hiện chức năng thay

thế CĐBĐ', nhưng mỗi bên, sự thay thế mang những tính chất không giống nhau.

Như vậy, trong ca dao, biểu tượng được xác định thông qua ba phép tu từ: so

sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Có những biểu tượng tồn tại ở một dạng thức nhất định, cũng có

những biểu tượng được dân gian sử dụng linh hoạt hơn, chẳng hạn như: Dạng so sánh

và ẩn dụ:

Biểu tượng bướm -hoa:

-Say em như bướm say hoa,

Như ong say mật, như ta say minh. (TLI-tr. 1829)

-Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng,

Hoa chưa nở nhụy, bướm đừng lao xao (TLI tr. 1808)

Biểu tượng quế- cú;

-Em như cây quế giữa đồng,

Để cho cú đậu cực lòng quế thay... (TLI tr.965)

-Tiếc thay cây quế giữa rừng,

Để cho cú đỗ chán chường quế thay... (TLI tr. 1916)

Biểu tượng trầm hương:

-Tới đây gặp bạn sướng thay,

Cũng bằng lên nùi gặp cây hương trầm. (TLIII-tr.398)

-Mẹ ơi, son điểm phấn dồi,

Trầm hương không gặp, găp chồi cỏ may. (TLI -tr. 1349)

Dạng so sánh, ẩn dụ và hoán dụ:

Biểu tượng trầu-cau:

-Răng em không nói khi đầu,

Giữ em như thể lá trầu đã têm. (TLII-tr.386)

-Đôi ta rày được gặp nhau,

Như bếp gặp lả (lửa), như cau gặp trầu. (TLII-tr.291)

-Bây giờ trầu lại gặp cau,

Cũng mong ta ở với nhau một nhà... (TLI-tr.259).

-Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng ,

Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không?... (TLI-tr.774)

-Thương ai chẳng nói khi đầu,

Để cho thầy mẹ ăn trầu người ta. (TLI-tr.2107)

-Con cu nó gáy cu cù,

Thương em nên phải bưng trù (trầu) hai tay. (TLI-tr.432)

Biểu tượng thuyền :

-Lóng tai nghe con ve ve kêu, con chèo beo kể

Lóng tai nghe hai bên bụi bờ tiếng dế khóc than

Thiếp nằm thiếp ngủ răng an,

Một minh đây tựa hồ như chiếc đò đầy sóng lượn, biết thở than với ai

chừ? (TLI-tr. 1286)

-Nhất cao là núi Chóp Chài,

Nhất rộng là bể, nhất dài là sông.

Nhất giang hồ là kẻ đàn ông,

Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà. (TL I-tr.1644)

-Chưa chồng đậy đậy, che che

Có chồng giao cả thuyền bè cho ai. (TLI-tr.674)

-Anh về cho nhớ mai sang,

Đừng có bỏ chiếc thuyền vàng lênh đênh. (TLII(l)-tr.226)

-Thuyền ai trôi trước đợi tôi bước đến cùng,

Chiều đã về trời đất mông lung,

Phải duyên thi xích lại cho đỡ não nùng tuyết sương.

(TLIII-tr.386)

-Gió thổi lao xao khúc sông nào sóng nấy,

Thuyền em đi giữa dòng anh thấy anh thương. (TLIII-tr.289)

Sự phong phú trong các dạng tồn tại đã góp phần tạo nên nét hấp dẫn, sống động

cho biểu tượng ca dao nói riêng, cho văn bản ca dao nói chung. Khi ứng tác, dân gian

có điều kiện để lựa chọn dạng thức phù hợp nhất với nhu cầu biểu đạt tâm tư, tình

cảm của minh.

Vấn đề cần nói thêm ở đây là: trong kho tàng ca dao, có những so sánh, ẩn dụ,

hoán dụ trở thành biểu tượng, và cũng có những phép tu từ như trên không phải là

biểu tượng. Vậy, làm thế nào để phân biệt?

Cơ sở của sự phân biệt, theo sự nghiên cứu bước đầu của chúng tôi là:

- Các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ mang những nét nghĩa thẩm mỹ tương đối ổn định

trong một hệ thống chủ đề, đề tài nhất định.

- Những nét nghĩa đó được cộng đồng chấp nhận, sử dụng rộng rãi trong nhiều

bài,ca dao.

Những so sánh, ẩn dự, hoán dụ nào đáp ứng được cả hai điều kiện trên thi trở

thành biểu tượng ca dao.

Đến với kho tàng ca dao phong phú của người Việt, chúng tôi nhận thấy có một

số trường hợp đáng chú ý sau đây :

*U Có những hình ánh xuất hiên trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ nhưng tần số thấp,

nghĩa không ổn định:

-Ăn rươi chịu bão cho cam

Không ăn chịu bão thế gian cũng nhiều. (TL I - tr. 191)

-Bánh gai ruột mất vỏ còn,

Tiếc cái công anh phá rẫy để đường mòn ai đi.(TL I - t.r.224)

- Còn duyên như tượng tô vàng

Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa. (TLI - tr. 476)

Trong các câu ca dao trên, rươi, bão, bánh gai, rẫy, đường mòn, tượng tô vàng,

tổ ong tàn ... đều là những hình ảnh xuất hiện trong một văn cảnh nhất định, có ý

nghĩa nghệ thuật nhất định trong văn cảnh đó. Tách rời khỏi văn cảnh, các hình ảnh

không còn ý nghĩa. Nếu đi vào văn cảnh khác, nghĩa của chúng cũng hoàn toàn khác.

Những hình ảnh này có tần số xuất hiện thấp, nghĩa không ổn định nên không thể xem

là biểu tượng. Trường hợp này đã được các nhà nghiên cứu chú ý và phân biệt: "Ẩn dụ

là thơ ca dân gian được sinh ra tức thời và mất đi kha nhanh. Biểu tượng được hình

thành trong quá trình lâu dài và sau đó sống hàng trăm năm. Ẩn dụ là yếu tố biến đổi

còn biểu tượng không đổi, bền vững. Ẩn dụ là một phạm trù thẩm mỹ và phân lớn tự

do tách khỏi phong cách ước lệ. Biểu tượng thi ngược lại được giới hạn nghiêm túc

bởi hệ thống thi ca xác định" [196, tr.85].

Theo sự phân biệt trên thi ẩn dụ có thể biến đổi hoặc mất đi, mang tính chất lâm

thời. Biểu tượng thi bền vững cùng với thời gian. Ẩn dụ cần được giải mã bởi các yếu

tố nằm trong văn cảnh của bài ca dao, trong khi biểu tượng không cần điều đó, do

hình ảnh biểu tượng được hiểu theo những qui ước thẩm mỹ của dân gian, đã ăn sâu

vào tâm thức dân gian, khi CBĐ' xuất hiện thi dân gian đã cảm nhận được CĐBĐ'.

Phạm Thu Yên còn cho rằng: "Ần dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu

tượng, số lượng nhiều hơn nhưng không bền vững bằng biểu tượng" [196, tr.86].

Tuy nhiên, cũng cần chú ý sự phân biệt ẩn dụ và biểu tượng cũng chỉ là tương

đối mà thôi, vi biểu tượng chính là ấn dụ được sử dụng với tần số cao.

* UCó những hình ảnh xuất hiên trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với tẳn số cao

nhưng nghĩa không ổn định:

Hình ảnh cây bần, cây mù u xuất hiện khá nhiều trong ca dao Nam bộ. Có nhà

nghiên cứu đã nhận xét rất tình tế: "Cây bần gie nơi bến sông, tỏa bóng mát thơ mộng

trên các mối tình diễm lệ của các chàng trai, cô gái Nam bộ, đem lại một hình ảnh mới

mẻ cho ca dao tiu tình của người Việt" [154, tr.45]:

-Bần gie con hạc đậu cánh xòe,

Tưởng anh vô gá duyên chồng vợ, hổng dè gạt em. (TL III - tr. 182)

-Bần gie đóm đậu sáng ngời,

Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên? (TL I - tr.247)

Hay hình ảnh cây mù u:

-Mù u bông trắng lá quấn nhụy huỳnh

Anh thương em vậy biết phụ mẫu có nhin hay không? (TL III - tr.323)

-Bướm vàng đậu đọt mù u,

Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn. (TL III - tr.426)

Cùng với cây bần, cây mù li còn có cây trâm bầu, lá khổ qua ... Chúng đã trở

thành những hình ảnh nghệ thuật không thể thiếu được của bức tranh thiên nhiên Nam

bộ giàu màu sắc, góp phần làm cho ca dao Nam bộ mang đậm sắc thái địa phương.

Tuy nhiên, chúng chưa trở thành biểu tượng vi chưa mang những nét nghĩa biểu trưng

ổn định bên cạnh lớp nghĩa đen thuần túy.

* UCó những hình ảnh xuất hiện trong so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với tần số cao,

nghĩa ổn định:

Hình ảnh con cá với nghĩa biểu tượng xuất hiện đến 500 lần trong bốn tư liệu

thông kê. Ở hình thức so sánh, dân gian thường phát hiện nhiều điểm tương đồng giữa

con cá và người phụ nữ:

-... Em như cá đã mắc mồi còn đâu.

-... Em như cá nọ mắc rày lưới giăng.

-Minh em như con cá trong thùng ...

-Bậu có chồng như cá vô lờ ...

-... Em đây năm bảy người giành,

Như cá ở chợ, dạ ai đành nấy mua.

-Minh em như cá giữa rào ...

-Em có chồng như cá ở ao ...

Ở hình thức ẩn dụ, con cá được đặt trong mối liên hệ với người câu cá. Người

tiếp nhận văn bản hiểu đó là cô gái và chàng trai đang đeo đuổi cô. Nét nghĩa này ổn

định trong hàng loạt bài ca dao về cá:

- Tiếc công anh xe sợi nhợ, uốn cây cần,

Xe rồi sợi nhợ, con cá lần ra khơi. (TL I - tr. 1910)

- Anh ngồi bậc lở anh câu,

Khen ai khéo mách, cá sầu chẳng ăn. (TL I - tr.136)

- Đợi lâu cá chẳng ăn mồi,

Anh móc vào con tôm bạc, con cá lần hồi cũng mắc câu. (TL I - tr.899)

Tương tự, hình ảnh hoa với tần suất 615 lần thường được so sánh với người con

gái (người con gái tươi trẻ hoặc tàn tạ, chưa có chồng hoặc đã có chồng ...):

- Thân em như bông bưởi trắng ròng ...

- Minh em như nụ huê đào ...

- ... Thiếp như hoa đã nở rồi...

- ... Chị thời tan tác như hoa giữa đường.

Trong các phép ẩn dụ, nét nghĩa này tiếp tục được nhấn mạnh;

- Ra về cầm bút đề thơ,

Dầu hoa có nở cũng chờ mùa xuân. (TL I - tr. 1767)

- Thiếu gi hoa nở giữa trời,

Mà anh lại nhặt hoa rơi bên đường. (TL I - tr,1918)

- Đi ngang thấy búp hoa đào,

Muốn vào mà bẻ sợ bờ rào lắm gai. (TL I - tr.826)

Áo, quần (tần suất 427) thường được nhắc đến dưới hình thức hoán dụ với

những nét nghĩa quen thuộc:

Áo rách biểu thị sự nghèo khó:

- Cha đời cái áo rách này

Mất chúng, mất bạn vi mày áo ơi ! (TL I - tr.528)

Áo gấm: sự giàu sang:

- Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (TL I - tr.645)

Áo tặng: sự trao gởi tình yêu:

- Chàng về em chẳng dám nài,

Áo trong chàng mặc, áo ngoài em xin. (TL IV - tr.206)

Có thể nói, ở trường hợp này, trong khi sử dụng lặp lại các hình ảnh so sánh, ẩn

dụ, hoán dụ, mạch cảm xúc, suy tưởng của người xưa về chúng là ổn định (và được

tiếp nối trên cơ sở những nét nghĩa đã ổn định đó). Do vậy, những hình ảnh này đều

được xem là biểu tượng trong ca dao.

Như vậy, khác với biểu tượng thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác, do được

xây dựng bằng chất liệu ngôn từ, biểu tượng ca dao mang trong nó những đặc trưng

riêng mà việc khảo sát dưới góc độ tu từ học đã góp phần làm sáng rõ. Ở cả ba dạng

thức tồn tại, biểu tượng đều khơi gợi được những liên tưởng thấm mỹ phong phú nơi

người tiếp nhận. Việc các hình ảnh xuất hiện với tần số cao và mang những nét nghĩa

nhất định đã phản ánh quá trình tư duy của dân gian về các sự vật trên con đường hình

thành biểu tượng, sự chấp nhận của cộng đồng đối với khả năng tồn tại của chúng.

Trong nghiên cứu, việc lưu ý đúng mức đến những đặc trưng riêng này là cần thiết để

có thể lựa chọn được những phương pháp tiếp, cận phù hợp nhất với biểu tượng ca

dao.

1.2.3. Biểu tượng ca dao dưới góc độ folklore học:

Dưới góc độ này, biểu tượng ca dao được xem như những công thức truyền

thống.

Từ năm 1968, trong một bài viết, Đặng Văn Lung đã chú ý đến những yếu tố

trùng lặp trong ca dao, trong đó có biểu tượng. Ông nhận xét: "...Riêng trong văn học

dân gian, những yếu tố trùng lặp chiếm một tỉ lệ lớn và có một vai trò quan trọng. Nó

gắn liền với những đặc điểm tư tưởng và nghệ thuật của sáng tác dân gian; nó trực tiếp

liên hệ với tài năng văn nghệ của nhân dân, với kinh nghiệm sống và thế giới quan của

nhân dân". [118, tr.294].

Trong Từ điển văn học, Chu Xuân Diên xem biểu tượng là một loại mô-tip:

"Nhiều biểu tượng thơ ca trong ca dao có ý nghĩa và vai trò trong cấu tạo đề tài và cốt

truyện của tác phẩm tự sự. Thí dụ các biểu tượng trầu - cau, thuyền - bến, v.v.... trong

ca dao Việt Nam. Do đó cũng có thể coi những biểu tượng như vậy là những mô-típ

trong sáng tác thơ ca trữ tình dân gian" [119, tr.466].

Trong luận án tiên sĩ Thi pháp ca dao - dân ca trữ tình Việí Nam nhin từ góc độ

lý luận của Folklore học Nga, Bùi Mạnh Nhị gọi biểu tượng là một trong nhiều hại

"công thức truyền thống" của sáng tác dân gian: "Công thức folklore là những kiểu

mẫu ổn định điển hình khác nhau của truyền thống" [118, tr.308]. A. Đauy, khi nghiên

cứu công thức của dân ca Đức, viết: "Về thực chất, cần phải đưa" vào khái niệm công

thức tất cả những gi thường được lặp lại, công thức bao hàm khái niệm về cái tiêu

biểu, điển hình đối với thể loại" [118, tr.308].

Các nhận xét trên cho thấy biểu tượng đã được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến,

đặc biệt là ở khía cạnh một thành tố chi phối cách thức cấu trúc, kết cấu của bài ca

dao, dù là dưới những tên gọi chưa thống nhất (yếu tố trâng lặp, mô-típ, công thức

truyền thống)

Để dễ xem xét, trình bày biểu tượng ở góc độ này chúng tôi xin được gọi biểu

tượng là những “công thức truyền thống”

Công thức truyền thống là đơn vị tế bào cơ bản phản ánh tập trung bản chất, đặc

trưng folklore, mỹ học folklore trong ca dao. Công thức truyền thống đã được nhiều

nhà nghiên cứu trên thế giới như A.Đauy, G.Pôikert, O.Khônsaphen, Ia.Grim (Đức),

A.N.Aphanaxép, P.LBuxlaep, A.N.Vêxêlôpxki, A.T.Khrôlenkô (Nga) v.v... đề cập

đến, từ các quan điểm, góc độ khác nhau của ngữ văn học, dân tộc học, folklore học.

Công thức folklore đa dạng về hình thái, dung lượng, nội dung, ý nghĩa. Công

thức có thể là một từ, nhóm từ, dòng thơ hoặc nhóm dòng thơ. Có công thức thời gian,

không gian. Có công thức mẫu đề, biểu tượng ... Dấu hiệu chung của công thức là ỏ sự

lặp lại, tiêu biểu, điển hình. Công thức folkore là những yếu tố hình thức mang tính

nội dụng cao. Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị nhận xét: "Công thức folklore là sự chọn lọc, kết

tình và điển hình hóa kinh nghiệm văn hóa, xã hội, nghệ thuật truyền thống, thể hiện

quan điểm mỹ học của nhân dân ... Đối với lĩnh vực folklore, nhân dân sáng tác theo

truyền thống và cảm thụ cũng theo truyền thống, một truyền thống có bề dày lịch sử,

văn hóa, xã hội và đã được thử thách" [118, tr.309]. Biểu tượng ca dao là những ký

hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần, có tần số xuất hiện đáng kể, có khả năng

biểu hiện những ý nghĩa sâu xa. Biểu tượng ca dao là những hình ảnh đã được dân

gian chọn lọc trong sử dụng và được thử thách qua nhiều năm tháng. Biểu tượng còn

có vai trò quan trọng trong việc thể hiện những đặc trưng truyền thống của folklore.

Do đó, nó hoàn toàn đủ tư cách để được xem là những công thức truyền thống.

Qua thực tế khảo sát biểu tượng nghệ thuật trong ca dao, chúng tôi nhận thấy có

thể tập hợp biểu tượng thành những nhóm khác nhau, mỗi nhóm bao gồm các biểu

tượng có liên hệ gần gũi với nhau (được tạo thành từ cùng một sự vật hiện tượng).

Các biểu tượng cùng nhóm được phân biệt bằng những khía cạnh, sắc thái, quan hệ

khác nhau ở cái biểu đạt, dẫn đến sự khác nhau trong cái được biểu đạt, hoặc được

phân biệt bởi những kết cấu sóng hợp không giống nhau từ một sự vật, hiện tượng

trung tâm.

Ví dụ:

- Nhóm biểu tượng hoa có các biểu tượng: hoa tươi, hoa thơm, hoa tàn, ...

- Nhóm biểu tượng rồng có các biểu tượng: rồng-phượng, rồng- mây, rồng-tiên

...

- Nhóm biểu tượng tằm có các biểu tượng: tằm-dâu, tằm-tơ, tằm-nhện, ...

- Nhóm biểu tượng ngọn đèn có các biểu tượng: đèn không tắt, đèn mờ, đèn treo

trước gió,...

Từ một công thức biểu tượng có thể tìm thấy nhiều biển thể khác nhau. Trong

từng văn cảnh cụ thể, cấu trúc ngôn ngữ của biểu tượng có thể biến đổi nhưng ý nghĩa

biểu đạt thi không đổi, mà chỉ được bổ sung bằng các nét nghĩa phụ làm phong phú

thêm cho nét nghĩa cơ bản. Ví dụ:

- Biểu tượng chỉ hồng có các biến thể: chỉ đào, chỉ thắm, chỉ vàng, ...

- Biểu tượng hoa tàn có các biến thể: hoa héo, hoa xâu nhị ùa, hoa lia ...

- Biểu tượng cá trong lờ có các biến thể: cá trong chậu, cá trong ao ...

- Biểu tượng gan - ruột có các biến thể: bầm gan tím ruột, ruột thắt gan bào, ruột

nát gan bầm, ruột cháy gan khô ...

Như vậy, khảo sát biểu tượng ca dao cần lưu ý đến ba cấp độ: nhóm biểu tượng;

biểu tượng, các biến thể của biểu tượng. Cả ba cấp độ này, trong quá trình ứng tác,

diễn xướng ca dao không ngừng được bổ sung. VI vậy, tuy gọi là "công thức truyền

thống" nhưng biểu tượng không bị khô cứng, sáo mòn mà luôn được biến đổi một

cách linh hoạt. Nói khác đi, ở mỗi biểu tượng vừa có những yếu tố bất biến vừa có

những yếu tố khả biến. Các yếu tố bất biến khiến biểu tượng mang giá trị của công

thức. Các yếu tố khả biến đem lại cho biểu tượng sự tươi mới, đa dạng. Công thức

biểu tượng tồn tại được là nhờ vào sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố trên.

Xét về cấu trúc, công thức biểu tượng bao gồm hai loại: biểu tượng đơn, biểu

tượng đôi (với nhiều dạng sóng đôi khác nhau), vấn đề này chúng tôi sẽ làm rõ ở một

chương khác của luận án. Hai loại biểu tượng (đơn, đôi) cũng góp phần không nhỏ

trong việc làm phong phú thêm khả năng sử dụng biểu tượng, đáp ứng được trọn vẹn

nhu cầu biểu đạt tư tưởng, tình cảm của nhân dân.

Biểu tượng xét dưới góc độ là những công thức truyền thống đã gợi mở cho

chúng tôi nhiều vần đề quan trọng. Nghiên cứu biểu tượng ở góc độ này có thể giúp

chúng ta tìm hiểu được những đặc trưng truyền thống của ca dao nói riêng, của văn

học dân gian nói chung, hiểu được những qui luật, qui tắc thẩm mỹ trong sáng tác và

tiếp nhận tác phẩm folklore. Khảo sát công thức biểu tượng còn trợ giúp đắc lực cho

việc tháo dỡ cấu trúc phức tạp của tác phẩm ca dao, tìm hiểu được sự vận hành của

các nguồn cảm hứng, thi hứng khi ứng tác của nghệ sĩ dân gian.

1.2.4. Biểu tượng ca dao dưới góc độ văn hóa học:

Hệ thống biểu tượng ca dao có thể xem-là một hiện tượng của văn hóa học. Biểu

tượng thuộc ca dao, thuộc văn học (đặc biệt lại là văn học dân gian, văn học của người

bình dân Việt Nam, một tầng lớp đông đảo trong cộng đồng dân tộc), nên thuộc về

văn hóa cũng là điều tất yếu. Cũng như biểu tượng trong các lĩnh vực khác, biểu tượng

ca dao đóng vai trò là những đơn vị cơ bản, góp phần tạo nên một khuôn mặt riêng,

một bản sắc riêng cho văn hóa Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại của một hệ thống biểu

tượng phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn của cộng đồng. Sự lựa chọn này lại xuất

phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, văn hóa là nguyên nhân quan trọng. Gốc rễ của

biểu tượng cắm sâu vào mảnh đất văn hóa. Biểu tượng được sinh ra và nuôi dưỡng từ

đó. Mối quan hệ giữa văn hóa và biểu tượng là mối quan hệ sinh thành, gắn bó hữu

cơ, không thể phủ nhận. Vấn đề biểu tượng của văn hóa và văn hóa của biểu tượng

cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa để làm sáng tỏ thêm mối quan hệ này.

Từ những hiểu biết về văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa dân gian nói riêng,

chúng ta sẽ có cơ sở để nắm bắt tốt hơn tầng ngữ nghĩa thẳm sâu của biểu tượng.

Hegel cho rằng: "Khi chúng ta đứng giữa cái thế giới của những biểu tượng và những

hình ảnh tượng trưng của Ba Tư, Ân Độ, Ai Cập cổ xưa ấy, mọi cái hiện lên xa lạ với

chúng ta, chúng ta cảm thấy minh đang len lỏi giữa các vấn đề" [48, tr.46]. Thật vậy,

nếu thiếu kiến thức về văn hóa của một cộng đồng, đối với người tiếp nhận, biểu

tượng trong văn bản chỉ được tri giác ở tầng nghĩa đen thông thường. Tầng nghĩa biểu

cảm chỉ xuất hiện khi người đọc có chia khóa giải mã biểu tượng. Chia khóa đó chính

là văn hóa. Nhưng ngay cả khi đã được trang bị chiếc chia khóa này, sự cảm nhận về

biểu tượng cũng không phải luôn luôn dễ dàng, vi: "Biểu tượng báo hiệu một bình

diện ý thức khác với cái hiển nhiên lý tính; nó là mật mã của một bí ẩn, là cách duy

nhất để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác; nó không bao giờ có

thể được cắt nghĩa một lần là xong, mà cứ phải giải mã lại mãi; cũng giống như một

bản nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi một lối biểu diễn luôn luôn

mới" [71, tr.XVIII]. Các ý nghĩa sâu sắc tiềm ẩn trong biểu tượng luôn chờ đợi những

nỗ lực tư dụy thật sự của con người. Tất nhiên kiến thức văn hóa càng phong phú thi

việc "đọc" biểu tượng càng thuận lợi hơn.

Theo con đường ngược lại, từ hệ thống biểu tượng ca dao, chúng ta cũng có thể

hiểu biết nhiều hơn về nền văn hóa đã sinh ra chúng, bởi lẽ, biểu tượng chính là nơi

kết tụ đầy đủ nhất những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Việt. Hình

ảnh trầu - cau trong ca dao là sự giới thiệu cô đọng về nền văn hóa trầu cau của đất

nước ta; biểu tượng cò, cá, bống, rồng, thuyền, bến nước, dòng sông, chiếc cầu ... giúp

ta hình dụng đầy đủ hơn về nền văn hóa sông nước; dải yếm đào, áo gấm, áo xông

hương, chiếc nón, chiếc khăn ... gắn với văn hóa trang phục; đũa ngọc, mâm vàng,

đũa mun, đũa tre ... cho ta hiểu thêm về văn hóa ẩm thực ... Khảo sát sơ bộ các biểu

tượng ca dao, có thể nói nền văn hóa nông nghiệp như một mạch nước ngầm đã chi

phối toàn bộ quá trình lựa chọn, sử dụng các biểu tượng. Đó là hệ biểu tượng của nhân

sinh quan, thế giới quan, của đời sống và văn hóa nông dân. số lượng phong phú các

biểu tượng về người phụ nữ, người nông dân, về lứa đôi và tình yêu ... khẳng định

người Việt có nền văn hóa trọng đạo lý, nghĩa tình, giàu tính nhân đạo.

Qua biểu tượng ca dao, ta còn hiểu được nền văn hóa Việt Nam trong quan hệ

với văn hóa khu vực Đông Nam Á và văn hóa nhân loại nói chung. Biểu tượng trầu -

cau là một ví dụ. Văn hóa trầu cau của người Việt Nam vừa mang những nét chung

của khu vực Đông Nam Á, vừa mang những nét đặc sắc riêng của Việt Nam. Mặt

khác, các biểu tượng tuy mang đậm tính dân tộc nhưng cũng thể hiện rõ tính nhân bản,

nhân văn, nhân loại. Mỗi quốc gia, dân tộc có một nền thơ ca dân gian riêng, một hệ

thống biểu tượng riêng. Nhưng cái được biểu đạt qua các hệ thống biểu tượng đó đều

là tâm tư, tình cảm của con người lao động đối với cuộc sống thường ngày. Cái được

biểu tượng trong ca dao thường là hướng về con người với khát vọng được sống trong

yêu thương và hạnh phúc.

Nghiên cứu biểu tượng trong ca dao còn là dịp để chúng ta nhin thấy được mối

giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Nhóm các biểu tượng có nguồn gốc từ

văn học cổ Trung Quốc chiếm số lượng lớn trong hệ thống biểu tượng phản ánh quá

trình giao lưu văn hóa lâu đời giữa hai dân tộc, ảnh hưởng của Nho học, của văn học

Trung Quốc đối với văn học Việt Nam. Quá trình các điển tích, điển cố văn học Trung

Quốc trở thành biểu tượng trong ca dao Việt Nam có thể là đối tượng của một sự khảo

sát tỉ mỉ. Ở luận án này, do dung lượng có hạn, chúng tôi chỉ có điều kiện nêu lên một

vài nhận xét sơ bộ.

Ở góc độ văn hóa học, biểu tượng ca dao còn có liên quan mật thiêt với trình độ

nhận thức, tư duy của con người. Tư duy bằng biểu tượng là năng lực chỉ có ở con

người, đúng như E.Cassirer đã nhận định: "Tư duy và hành vi biểu tượng hóa là đặc

trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại và toàn bộ văn hóa nhân loại phát triển đều

dựa vào những điều kiện này ... Chúng ta nên định nghĩa con người là những động vật

biểu trưng (animal symbolicum) ...Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ

độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai phóng cho

con người - con đường hướng về văn hóa" [97, tr.148]. Một số nhà nhân học đã gọi

con người là động vật sử dụng biểu trưng (Homo-Symbolling). Thế giới biểu tượng

hàm chứa trong nó những giá trị mang bản chất người. Sự xuất hiện của hàng loạt biểu

tượng, trong đó có biểu tượng thơ ca dân gian là dấu ấn quan trọng trong các nền văn

hóa, cho thấy trình độ tư dụy của con người đã phát triển, năng lực tư dụy trừu tượng

đã ở mức cao, văn hóa nhận thức chắc rằng đã có nhiều tiến bộ. Biểu tượng tồn tại với

tần suất cao trong ca dao chứng tỏ năng lực tượng trưng hóa đã trở thành phổ biến

trong tầng lớp bình dân.

Biểu tượng ca dao còn có những đóng góp cụ thể quan trọng cho nền văn hóa

dân tộc. Hệ thống biểu tượng là hệ thống các khuôn mẫu văn hóa cổ truyền. Chúng

qui định mọi hành vi ứng xử và có vai trò họa kiểu cho lối sống cộng đồng. Những giá

trị tình thần được tôn vinh qua các biểu tượng đã được ông cha ta chấp nhận, trở thành

truyền thống, và sẽ còn tồn tại dài lâu. Chúng sẽ dẫn dắt, điều tiết, định hướng cho đời

sống xã hội, hay nói cách khác, đó là những hạt nhân di truyền của một nền văn hóa,

giúp nền văn hóa đó đứng vững trên đôi chân của truyền thống, phát triển trong khuôn

khổ của những chuẩn mực truyền thống. Có ý kiến cho rằng: "Có thể xem thế giới

biểu tượng, hệ thống các ký hiệu hàm nghĩa, là hình thái ngoại hiện của văn hóa, còn

hệ thống giá trị xã hội nằm trong lòng mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Do

vậy, "đơn vị cơ bản" của văn hóa chính là biểu tượng - vật hàm chứa những thông tin -

xã hội ..."[47.tr.29].

Tóm lại, biểu tượng ca dao là các đơn vị cơ bản của nền văn hóa Việt, kết tụ

những giá trị tình thần đẹp đẽ của dân tộc trong trường kỳ lịch sử trên khắp các miền

đất nước. Nghiên cứu biểu tượng không thể không gắn liền với văn hóa dân tộc. Văn

hóa là cơ sở, là xuất phát điểm quan trọng cho việc tìm hiểu kỹ, sâu, đúng về biểu

tượng. Đồng thời, cần nhận thức được rằng: khảo sát hệ thống biểu tượng ca dao cũng

chính là hành trình tìm về với cội nguồn văn hóa dân tộc, là công việc tìm hiểu vốn cũ

của cha ông, từ đó, có cái nhin toàn diện hơn về nền văn hóa đương đại.

1.3. Biểu tượng ca dao thể hiện đặc trưng ngôn ngữ thể loại:

Lối nói bằng biểu tượng là một lối nói đặc trưng của ca dao trong tương quan so

sánh với các thể loại khác của văn học dân gian.

Các thể loại tự sự ít dùng ngôn ngữ biểu tượng. Do đặc trưng thể loại là kể

chuyện nên các tác phẩm chủ yếu hướng vào sự miêu tả trực tiếp. Ngôn ngữ kể

chuyện của thần thoại, truyền thuyết rất gần với ngôn ngữ đời thường, ít bóng gió, xa

gần, ít sử dụng những ẩn dụ và vi vậy nên cũng ít các biểu tượng. Biểu tượng trong

thần thoại, truyền thuyết thường là hình thành qua cả một văn bản, một câu chuyện kể

... chứ ít khi là một từ, một ngữ, một câu như trong ca dao. Mặt khác dường như người

nghệ sĩ dân gian khi sáng tác những câu chuyện đó chưa hoàn toàn ý thức là họ đang

xây dựng, đang sử dụng những biểu tượng. Biểu tượng thần thoại, truyền thuyết được

hình thành gần như tự phát. Đối với người đương thời, đó là những câu chuyện kể cụ

thể, nhưng đối với người đời sau, trong sự cảm nhận, lại nhận ra ỏ đó những ý nghĩa

tượng trưng theo cách hiểu của minh. Một nhà nghiên cứu đã kết luận: "Một sự vật,

một hiện tượng cụ thể trỏ thành có ý nghĩa tượng trưng khi nó có hình thức hoặc tính

chất thích hợp để gợi ra một sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó . Những hiện

tượng cụ thể, tức những câu chuyện cụ thể được kể lại trong thần thoại cũng có thể trở

thành những hình tượng có ý nghĩa tượng trưng theo cách như vậy" [94, tr.22]. Người

ta thường nhắc đến chuyện Một bọc trăm trứng hay truyện Quả bầu mẹ trong thần

thoại Việt Nam. Chúng đã trở thành biểu tượng cho khối đoàn kết dân tộc. Biểu tượng

bọc thai chung là đề tài luận án phó tiến sĩ của nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật [113].

Khi sáng tác các câu chuyện dân gian, người bình dân chưa thực sự có ý thức sử dụng

biểu tượng như là một phương tiện thẩm mỹ để làm cho lối diễn đạt của minh thêm

hiệu quả. Ngược lại, trong ca dao, có cả một hệ thống biểu tượng phong phú và trong

quá trình ứng tác, người bình dân luôn có ý thức trong việc lựa chọn, sử dụng biểu

tượng cho phù hợp với nhu cầu thể hiện thế giới nội tâm của minh. Nguyên nhân của

sự khác biệt này có thể giải thích được nếu chúng ta chú ý đến thời kỳ ra đời và những

đặc trưng riêng biệt về mặt thể loại của thần thoại, truyền thuyết và ca dao.

Cũng như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích và truyện cười chưa chú trọng

nhiều tới việc hình thành các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và hệ thống ngôn ngữ đa

tầng, đa nghĩa như trong ca dao.

Ở truyện ngụ ngôn, mỗi tác phẩm là một ẩn dụ. Trong quá trình tiếp nhận. có

những cốt truyện ngụ ngôn có thể được xem là những biểu tượng, tượng trưng (do

được nhắc đến nhiều lần trong sinh hoạt, nói năng), nhưng đứng ở gốc độ sáng tác, đó

là những ẩn dụ chỉ được xuất hiện một lần trong một tác phẩm cụ thể mà thôi, không

có tần suất đáng kể trong các sáng tác khác của thể loại. Có một số loài vật trong

truyện ngụ ngôn đã trở thành biểu tượng: thỏ (thông minh, hiền lành), rùa (chậm

chạp), sư tử và hổ (sức mạnh, hung dữ), cáo (xảo quyệt, tình ranh), kiến (chăm chỉ,

siêng năng, đoàn kết) nhưng những trường hợp như thế không nhiều lắm, chưa trở

thành một hiện tượng phổ biến của thi pháp thể loại.

Tục ngữ thiên về lý trí, thường dùng cái cụ thể để nói cái khái quát, trừu tượng,

cho nên phần nhiều cũng là các ẩn dụ. Song những ẩn dụ này, cũng như trong truyện

ngụ ngôn, không được lặp lại nhiều lần trong các đơn vị tục ngữ khác. Tuy nhiên, cần

chú ý rằng: có một số ít biểu tượng đã được sử dụng trong tục ngữ: hoa, cá, trầu, cau

... Từ trong tâm thức dân gian, các biểu tượng hình thành và được đưa vào các sáng

tác dân gian thuộc các thể loại khác nhau. Sự xuất hiện. của các biểu tượng trong tục

ngữ có thể được lý giải theo hướng này. Nhưng nói chung, tục ngữ không nhiều

những trường hợp như vậy.

Câu đố hầu như hoàn toàn không sử dụng biểu tượng. Đặc trưng của câu đố là

lối nói chệch (nói một đàng, hiểu một nẻo), có thể xem như là những ẩn dụ, nhưng chủ

thể mà các ẩn dụ này hướng tới trong nhiều trường hợp không phải là con người mà

có thể là đồ vật, con vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên ... Mỗi câu đố đều hướng

vào một sự vật cụ thể. Người sáng tác câu đố luôn cố gắng tìm ra những đặc điểm

riêng biệt của sự vật và diễn đạt bổng gió thành lời thơ, làm thế nào để sự vật được

miêu tả một cách nửa kín, nửa hở và người giải câu đố phải trầy trật, khó khăn lắm

mới tìm được lời giải đáp. Quá trình này không cần đến biểu tượng, vi biểu tượng là

một qui ước diễn đạt đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, còn ngôn ngữ của câu đố thi

thường đi từ một cái cụ thể này đến cái cụ thể khác (tức là từ sự vật trong câu đố đến

sự vật trong lời giải câu đố).

Ca dao là thể loại được sáng tác chủ yếu theo phương thức trữ tình. Nội dung

của ca dao là thế giới tâm trạng của con người. Đây là thế giới không đường nét, màu

sắc, hình khối, âm thanh ... nhưng lại nhiều cung bậc, sắc thái, đa dạng và phức tạp ...

Miêu tả, biểu hiện một thế giới như thế quả là khó. Và để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ

đó, ca dao đã dùng lối nối bằng biểu tượng một cách có ý thức. Người bình dân xưa

đã rất khôn khéo và tình tế khi mượn một số hình ảnh trong thế giới khách quan để

biểu hiện cái thế giới tình thần khó định hình trong bản thân mỗi con người. Nhu cầu

sử dụng biểu tượng trong thơ ca nói chung là lớn, trong ca dao lại càng lớn vi ca dao

là loại thơ của người bình dân, những người ưa chuộng cách nói so sánh, ví von, cách

nói theo những công thức quen thuộc.

Như vậy có nghĩa là biểu tượng thể hiện đặc trưng ngôn ngữ của thể loại ca dao,

một thể loại lấy tư tưởng, tình cảm, tâm trạng con người làm đối tượng phản ánh.

Ngôn ngữ biểu tượng đã nói lên bản chất trữ tình của ca dao: "Tác phẩm trữ tình đích

thực trình bày cuộc sống như một bức tranh. Ý nghĩa chính không phải là bức tranh

mà ở tình cảm mà nó gợi lên" [196, tr.89].

Xét trong tổng thể ca dao, biểu tượng không tồn tại đều khắp ở các chủ đề, đề

tài, mà thường tập trung vào một số đề tài nhất định, Chúng xuất hiện với mật độ dày

đặc trong đề tài tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đinh, tình yêu quê hương, đất nước.

Hiện tượng này cũng không khó lý giải bởi nội dung của các đề tài trên cần thiết phải

được chuyển tải bằng một lớp ngôn ngữ biểu tượng. Không có biểu tượng, ngôn ngữ

ca dao thuộc các đề tài này sẽ trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Như vậy, biểu tượng

không chỉ góp phần kim biệt ngôn ngữ ca dao với ngôn ngữ các thể loại khác của văn

học dân gian, mà còn tô đậm thêm sự khác biệt về thi pháp giữa các bài ca dao thuộc

các đề tài khác nhau.

Nói rộng hơn, biểu tượng còn thể hiện đặc trưng thi pháp của văn học dân gian,

đó là ở tính chất công thức. Nếu như văn học viết tối kỵ sự lặp lại thi văn học dân gian

lại ưa chuộng điều đó. Sự lặp lại này không phải là tuy tiện, mà dựa trên cơ sở chọn

lọc những giá trị thẩm mỹ truyền thống. Sự lặp lại này được qui định bởi phương thức

sáng tác truyền miệng, bởi hoàn cảnh ứng tác, diễn xướng tác phẩm, bởi thị hiếu thẩm

mỹ của người bình dân ..., tạo nên những giá trị mỹ học độc đáo trong văn học dân

gian. Hệ thống biểu tượng ca dao phô bày cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của tác

phẩm văn học dân gian, đó là vẻ đẹp trong sự gắn kết với truyền thống và đổi mới trên

cơ sở của truyền thống.

Trên đây chúng tôi đã trình bày các vấn đề có liên quan đến khái niệm biểu

tượng nghệ thuật trong ca dao. Trong hệ thống lớn các biểu tượng của nền văn hóa

dân tộc, biểu tượng ca dao có một vị trí đáng kể. Chúng tôi đã đặt thuật ngữ biểu

tượng dưới nhiều góc độ khác nhau để xem xét với mong muốn gợi ra một cách hiểu

thật đầy đủ, sâu sắc về các tín hiệu thẩm mỹ này, đồng thời, bước đầu tạo cơ sở lý

luận cần thiết để có thể sử dụng những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học

hữu quan cho việc tìm hiểu-biểu tượng ca dao. Thực ra đây cũng chính là quá trình

xác định những đặc trưng riêng biệt của biểu tượng ca dao. Vai trò của biểu tượng

trong nhiều khía cạnh văn hóa đời sống đã giải thích rõ nguyên nhân vi sao chúng có

sức sống lâu bền, có sức lan tỏa mạnh mẽ như vậy trong cộng đồng. Thực tế sử dụng

biểu tượng trong ca dao giúp ta hiểu sâu hơn về năng lực trí tuệ, về tài năng nghệ

thuật của người bình dân. Nền văn học, văn hóa đương đại cũng được soi sáng thêm

khi chúng ta nhận ra những "hạt nhân di truyền", những "đơn vị cơ bản" của văn học,

văn hóa truyền thống. Ngôn ngữ ca dao với sự có mặt của hệ thống biểu tượng đã hình

thành nên một nét phong cách riêng, một sức hấp dẫn riêng đối với người tiếp nhận,

đồng thời, là sự thể hiên nổi bật bản chất trữ tình của thể loại.

CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ

THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT

Xét ở chiều sâu, các biểu tượng nói chung đều có một tầng nền lịch sử -văn hóa

- xã hội. Tìm hiểu cho thật cặn kẽ nguồn gốc từng biểu tượng là điều khống đơn giản.

Mỗi biểu tượng như một sinh thể sống động, được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên

nhiều khi không chỉ trên mảnh đất của thơ ca dân gian mà còn trên cả những mảnh đất

của các loại hình văn hóa. văn nghệ dân dan khác của dân tộc. Sự tồn tại của một biểu

tượng trong dân gian thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện, lĩnh vực. Ý nghĩa

của biểu tượng không phải bao giờ cũng có tính đơn nhất trong môi trường văn hóa

dân gian đó: trên một nền nghĩa chung, nhiều nét nghĩa mới được phát sinh, được tái

tạo"... Và cũng chính vi vậy, sự lĩnh hội nghĩa của biểu tượng trong ca dao không phải

bao giờ cũng là một việc làm đơn giản.

Theo sự tìm hiểu bước đầu của chúng tôi, biểu tượng ca dao đã được hình thành

từ các nguồn mạch sau:

2.1. Những biểu tương xuất phát từ tín ngưỡng- nghi lễ và phong tục, tập

quán của người Việt:

Thuộc về nhóm này, có thể kể đến các biểu tượng: rồng, trầu - cau, đôi đũa, cây

đa, vuông - tròn ...

2.1.1.Biểu tượng rồng:

Biểu tượng có nguồn gốc từ thần thoại, truyền thuyết, từ phong tục, tín ngưỡng

của người Việt nổi bật nhất là rồng. Rồng là con vật tưởng tượng, đứng đầu trong bộ

tứ linh "long, ly, quy, phụng". Theo nhiều nhà nghiên cứu, nguyên mẫu của con rồng

là con cá sấu, rắn, thuồng luồng. Trước đây, người ta cho rằng nguồn gốc của rồng

bắt nguồn từ Trung Quốc, sau đó, hình ảnh con vật này mới lan sang các quốc gia

khác, sang tận các nước xa xôi ở Châu Âu. Và trên con đường lan tỏa đó, hình ảnh

con vật huyền thoại này đã có nhiều thay đổi. Nếu như người phương Đông coi rồng

là con vật linh thiêng, tượng trưng cho vẻ đẹp hoàn mỹ và sức mạnh phi thường, thi

với người phương Tây, rồng là con vật đầu chó, cánh dơi, vuốt sư tử, đuôi rắn, tượng

trưng cho sức mạnh ma quỉ, chuyên quấy rối, hại người [176, tr.38]. VI là con vật

không có thực, nên tùy theo lối tư dụy và thị hiếu thẩm mỹ của từng dân tộc, từng khu

vực mà hình ảnh rồng cũng được thay đổi cho phù hợp.

Vần đề đặt ra ở đây là: biểu tượng rồng của người Việt có thật sự mang gốc tích

từ Trung Quốc hay không? Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng: có nhiều cơ sở

để khẳng định con rồng có nguồn gốc từ Đông Nam Á, từ Việt Nam.

Trên đất nước ta từ lâu đời đã truyền tụng câu chuyên Con Rồng, cháu Tiên. Lạc

Long Quân (nòi rồng, minh rồng) và Âu Cơ (dòng dõi tiên) được tôn là tổ tiên của

người Việt Nam. Một số chứng cứ về phong tục học, khảo cổ học cũng góp phần

khẳng định thêm nguồn gốc Việt Nam của con rồng. Thời xưa, người Việt cổ có tục

xăm minh để chống lại các loài thủy quái những khi họ lao động trên sông nước, đầm

lầy, mà thường là xăm hình rồng, hình giao long. Đến đời Trần, tục vẽ minh vẫn phổ

biến từ vua đến dân như lời nói của Trần Nhân Tông: "Nhà ta vốn là người ở vùng hạ

lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, nếp nhà theo nghề võ nên xăm minh rồng vào đùi

để tỏ lòng là không quên gốc" [176, tr.38].

Trên một lưỡi qua Đông Sơn tìm thấy ở núi Voi (Kiến An, Hải Phòng) có khắc

hình một con cá sấu mõm dài, minh dài, chân ngắn, rất gần với hình ảnh những con

rồng đầu tiên trong lịch sử nước ta. Trên các mũi giáo đồng, các tấm đồng che ngực,

các trống đồng Đông Sơn, cũng nhiều lần xuất hiện hình ảnh rồng ở dạng nguyên sơ

(giống hình cá sấu).

Theo Trần Ngọc Thêm: "Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở

Vùng sông nước, và do vậy thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu.... Tiên -

Rồng là một cặp đôi ...trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim (cho nên mẹ

Âu Cơ đẻ trứng), còn Rồng được trừu tượng hóa từ hai loài bò sát rắn và cá sấu có rất

nhiều ở vùng sông nước Đông Nam Á" [156, tr.160]. Vật tổ tô-tem của người Việt

Nam là Rồng - Tiên và theo cách giải thích trên, việc thờ cúng vật tể đều dựa trên cơ

sở thực tế của đời sống cư dân người Việt cổ.

Đến thời phong kiến, con rồng trở thành biểu tượng của vương quyền, của vua

chúa. Ý nghĩa tượng trưng này chắc rằng từ Trung Quốc dụ nhập sang ta. Tứ linh (bốn

con vật linh) là những biểu tượng phổ biến của các chế độ quân chủ Trung Quốc.

Đứng hàng đầu trong bộ tứ linh, lại được gắn với uy quyền của vua, chúa, con

rồng trở thành vật thiêng liêng, được mọi người tôn sùng, không dám xúc phạm đến.

Những gi có liên quan đến nhà vua thường được gắn với từ "rồng", "long": long nhan,

long thể, long bào, long sàng, long xa, sân rồng, bệ rồng ... Rồng là biểu tượng của

nhà vua, cho nên cũng nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của cả một triều đại. Nhin

lại lịch sử, chúng ta sẽ thấy ở mỗi triều đại dáng vẻ của rồng có nhiều biến đổi. Rồng

thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn mang những nết đặc-thù riêng biệt,, cho thấy nghệ sĩ dân

gian khi điêu khắc đã chú ý rất kỹ đến ý nghĩa biểu tượng của rồng [156, tr.206-207].

Ở nước ta, rồng trở thành một môtíp trang trí phổ biến trong cung điện, đinh,

chùa, đền, miếu ... Rồng thường được chạm khắc với những tư thế đẹp đẽ, phóng

khoáng, uy nghi: lường long triều nguyệt, lưỡng long tranh châu, ngư long hí thủy,

rồng ăn chữ thọ ... Khi con rồng đã được định hình thật sự trong thế giới loài vật (bằng

những đặc trưng riêng) như là những con vật tự nhiên khác, việc trang trí hình rồng ở

khắp nơi như trên đã tác động không nhỏ đến tâm thức dân gian.

Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhân dân ta cũng thường xuyên dùng hình ảnh

rồng để diễn đạt những suy nghĩ, những tư tưởng của minh: đầu rồng, đuôi tôm, vẽ

rồng điểm mắt, long bàn hổ cứ, mả táng hàm rồng, mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền

rồng, rồng đến nhà tôm, rồng bay phượng múa, rồng tranh hổ chọi, trứng rồng lại nở

ra rồng ...

Một số địa danh trên đất nước ta cũng gắn chặt với hình tượng rồng: Thăng

Long, Hạ Long, Hàm Rồng, Bạch Long Vĩ, Long Hải, Cửu Long Giang, Bái Tử Long

...

Nói tóm lại, xét ở nhiều góc độ, hình ảnh con rồng quả là đã ăn rất sâu, đã sống

rất lâu bền trong tâm thức người Việt. Đương nhiên, ở từng loại hình nghệ thuật, biểu

tượng cũng mang nhữns đặc trưng riêng biệt. Biểu tượng rồng trong ca dao- cũng

không phải là ngoại lệ. Trong ca dao có nhiều trường hợp ý nghĩa của biểu tượng rồng

không nhằm hướng đến tầng lớp vua chúa phong kiến, mà ngược lại, hướng đến tầng

lớp lao động bình dân.

Vào thời phong kiến, nhắc đến rồng là phải cẩn trọng để tránh xúc phạm đến nhà

vua, tránh bị khép vào tội coi thường uy quyền của triều đinh. Ở Trung Quốc, thời

Minh, có nghệ nhân chỉ vẽ tranh "Con sứa cưỡi rồng" mà đã bị nhà vua qui tội chết.

Thế mà trong sinh hoạt ca hát dân gian, nhiều câu hát trong đó người bình dân đã tự

so sánh, ví von minh với con vật tượng trưng cho quyền uy tối thượng đó. Các chàng

trai, cô gái đã dùng hình ảnh rồng để biểu thị cho những người lao động có phẩm chất

tốt đẹp. Qua xu hướng bình dân hóa biểu tượng này. có thể hiểu thêm nhiều về thế

giới quan, nhân sinh quan của người bình dân ngày trước.

- Anh nói với em sơn cùng thủy tận

Em nói với anh nguyệt khuyết sao băng

Đôi ta như rồng lượn trông trăng

Dầu mà xa nhau đi nữa cũng khăng khăng đợi chờ. (TL II (1) - tr.222)

Nếu như Rồng - Tiên đã từng được tôn là một cặp đôi vật tổ của người Việt Nam

thời xa xưa, thi trong ca dao, rồng - tiên trổ thành biểu tượng của lứa đôi xứng hợp:

- Mấy lâu vắng mặt đeo phiền

Bây giờ kháp (gặp) mặt bằng tiên kháp rồng (TL II (1) - tr.331)

Cần chú ý trong ca dao, bên cạnh biểu tượng rồng có nguồn gốc từ văn hóa dân

tộc, còn có một số biểu tượng cùng nhóm rồng được vay mượn từ các điển tích, điển

cố của Trung Quốc: rồng - mây, rồng - phụng, cá hóa rồng ... Có lẽ phải công bằng mà

nói rằng: nguồn gốc dân tộc của con rồng trong ca dao đã tạo điều kiện thuận lợi để

rồng - mây, rồng - phụng của Trung Quốc dễ dàng bén rễ, xanh cây trong tâm thức

người Việt Nam.

2.1.2. Biểu tượng trầu cau:

Cũng như rồng, trầu - cau là biểu tượng có nguồn gốc lâu đời từ trong nền văn

hóa dân tộc.

Ăn trầu là một tập tục có từ lâu đời của dân tộc ta cùng với tục nhuộm răng. Ở

Việt Nam, sử liệu cổ nhất cho đến nay có lẽ là những chiếc bình vôi và cối giã trầu,

khám phá thấy trong các cổ mộ ở Thanh Hóa. Những chiếc bình vôi ấy cố chiếc thuộc

đời Tống (Bắc Tống: 960 - 1127, Nam Tống: 1127 - 1280), có chiếc thuộc đời Minh

(1368 - 1644).

Niên kỷ những chiếc bình vôi này ứng với một sử liệu khác: sách "Văn hiến

thông khảo" chép: "Năm Thuần Hóa thứ nhất (990), vua Tống sai sứ sang phong cho

Lê Hoàn chức đặc tiến. Sứ thần là Tống Cảo thuật lại rằng "Lê Hoàn cầm cương ngựa,

với sứ giả cùng đi, rồi lấy trầu mời trên minh ngựa, đấy là tục mời khách rất quý ..."

[132, tr.117]. Câu chuyện này chứng tỏ thời ấy ở Việt Nam đã có tục ăn trầu, còn bên

Trung Hoa thi mãi đến thế kỷ XII, trong sách "Lĩnh Nam ngoại đáp" của Chu Khứ Phi

mới nói đến tục ăn trầu ở mấy tỉnh phía đông nam nước Tàu và Giao Chỉ [132, tr.117].

Theo Tạ Đức, với người Việt, rất có cơ sỏ để tin tục ăn trầu có từ thời vua Hùng. Tại

di chỉ Gò Mun (Vĩnh Phú), trung tâm của cố đô Văn Lang, các nhà khảo cổ đã tìm

thấy nhiều miếng cau khô có tuổi khoảng 3000 năm. Tục ăn trầu xa xưa như thế, nên

sức lan tỏa của nó cũng rất mạnh, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nhiều lĩnh vực của

văn hóa Việt Nam.

Ở Việt Nam có rất nhiều dân tộc ăn trầu:.Mường, Thái, Sơ-rê, Chăm, Co, La-ha,

Xinh-mun, Chơ-Ro, Xtiêng, Mơ-nông ...Đối với xã hội truyền thống của người Việt

xưa, miếng trầu là vật không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Tầng lớp nào trong

xã hội cũng ăn trầu, từ già đến trẻ, từ vua chúa đến dân thường, từ sang trọng đến hèn

mọn ... Nhất Thanh trong Đất lề quê thói nhận xét: "Năm sáu mươi năm trước đây,

đàn ông, đàn bà, người nào cũng nhai trầu, trừ trẻ nhỏ, có người nhai suốt ngày, tối lên

giường ngủ còn nhai" [152, tr.149]. Nối về tục ăn trầu ở Thăng Long vào thế kỷ XVII,

A. de Rhodes kể: "Người ta nói có tới năm mươi ngàn người bán buôn và bán lẻ ỏ

nhiều địa điểm trong thành phố. VI thế có thể kết luận là số người tới mua thi đông vô

lường" [156, tr.225].

Trầu sở dĩ được nhiều người ưa thích cũng vi nó có nhiều tác dụng: thơm ngon,

hạ khí, tiêu cơm, môi đỏ, má hồng tự nhiên, làm tôn thêm sắc đẹp.

Cũng như trà đạo của người Nhật Bản, tục ăn trầu của người Việt cũng đòi hỏi

lắm công phu. Dường như tất cả cái tình hoa của tục ăn trầu đã được kết đọng lại

trong cách têm ưầu. Têm trầu là cả một nghệ thuật. Khi mời trầu, miếng trầu không

chI gói gọn trong nó tình cảm nồng thắm mà còn thể hiện cái nết khéo tay hay mắt của

người têm. Trong các hội làng, bên cạnh trò thi nấu cơm, làm bánh, dệt cửi, còn có cả

thi têm trầu. Đọc truyện "Tấm Cám", mấy ai quên được miếng trầu cánh phượng của

nàng Tấm. Nhờ có chiếc giày, nàng Tấm được gặp nhà vua và trở thành hoàng hậu,

nhưng rồi nàng phải chịu nhiều lần chết đi sống lại do sự bức hại của mẹ con Cám.

Cuối cùng, nhờ miếng trầu têm khéo léo của Tấm, nhà vua và nàng đã tái hợp với

nhau.

Trong dân gian, một cơi trầu têm khéo có thể nói lên tài hoa của một cô gái," qua

đó, còn phần nào thấy được cả nề nếp giáo dục của gia đinh. Chỉ là têm một miếng

trầu mà dân gian đã tình tế sáng tạo ra rất nhiều kiểu dáng khác nhau: trầu cánh

phượng, trầu cánh kiếm, trầu mũi mác, trầu cánh quế, trầu cánh dơi, trầu miếng chả ...

Tùy hoàn cảnh, tình huống, miếng trầu được têm theo những cách khác nhau và ý

nghĩa tượng trưng của tông kiểu dáng cũng thật rõ ràng.

Trong mọi quan hệ giao tế của người Việt Nam, miếng trầu chiếm vị trí vô cùng

quan trọng, Tục ngữ ta có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Tiếp khách có thể

thiếu mọi thứ, nhưng nếu thiếu cả trầu cau thi quả là một điều bất đắc dĩ, một sự khó

chấp nhận. Người bình dân gặp nhau ngoài đường thường lấy miếng trầu để chào

nhau, để cho tình nghĩa láng giềng, xóm làng càng thêm thân thiết. Khi làm việc nơi

ruộng đồng, giữa giờ nghỉ ngơi, họ cùng ngồi lại với nhau, bày trầu ra ăn, rồi chuyện

trò, tâm sự.

Để đem biểu ai hay cầu xin một việc gi, miếng trầu lại càng không thể thiếu.

Muốn xin học chữ, phải có cơi trầu đến nhà thầy đồ. Muốn xin chữ để khắc lên cây xà

chính trong lễ thượng lương, phải có cơi trầu để đến mời bậc khoa bảng. Muốn xin

câu đối để thờ, phải có cơi trầu để nhờ những ông đồ văn hay chữ tốt. Cơi trầu là một

chiếc mâm đựng nhiều lễ vật, mà trầu cau là thứ quan trọng nhất. Dân lên gặp quan,

cũng phải có cơi trầu.

Trong bất cứ mâm cỗ cúng nào (thờ cúng thần, Phật, tổ tiên), bên cạnh các thứ

khác, bao giờ cũng có trầu cau. Sách Tìm hiểu phong tục Việt Nam của Toan Ánh trình

bày rất chi tiết các lễ cúng của người Việt Nam. Trong lễ cúng giao thừa, cúng thổ

công, cúng gia tiên, lễ động thổ, lễ thượng nguyên hay lễ rằm tháng giêng, lễ tết trung

nguyên ... đều có phẩm vật bắt buộc là trầu cau. Đây là loại lễ vật đơn sơ, tình khiết,

giản dị mà quý báu vô cùng.

Trong đời sống hàng ngày, miếng trầu còn là vật giao duyên. Nam nữ gặp nhau

thường mời trầu, thăm hỏi nhau để tạo nên ấn tượng tốt đẹp ban đầu. Đã nhận miếng

trầu của nhau thi nghĩa tình gắn bó "Miếng trầu ăn nặng bằng chI", cho nên cô gái đi

hái dâu gặp chàng trai "ngả nón đưa trầu cho ăn" thi khước từ mà đáp rằng: -

Thưa rằng: bác mẹ em răn:

Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

Trong hôn nhân, miếng trầu, quả cau là nền tảng. Tục ngữ có câu "Miếng trầu

nên dâu nhà người". Trong mâm cỗ cúng tơ hồng, vị thần của hôn nhân, bao giờ cũng

có buồng cau và tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp không, cuống lá trầu có

tươi không mà ước đoán rằng đôi lứa ấy có đẹp duyên không, có được bách niên giai

lão không.

Tục ăn trầu ở Việt Nam, theo ước đoán của các nhà nghiên cứu, có từ thời rất xa

xưa. Nhưng cho đến khi có truyện cổ tích Trầu cau, nó lại được khoác thêm một nét

đẹp văn hóa mới, một ý nghĩa mới. Các nhân vật trong câu chuyện thương tâm (người

anh, vợ người anh, người em) tuy chết đi, nhưng không mất hẳn. Chính tình thương

yêu đã giữ họ lại bên nhau. Họ cùng hóa thân trong miếng trầu thắm đỏ môi người,

nhắc nhở mọi người trong cuộc sống phải lấy nghĩa tình làm trọng.

Thật đúng như Đinh Gia Khánh có lần đã nhận định: "Ở Nhật Bản việc uống chè

đã được nâng lên thành sinh hoạt văn hóa tình tế và cầu kỳ gọi là "trà đạo". Nhưng

nếu như "trà đạo" là sinh hoạt văn hóa cao cấp chủ yếu thịnh hành trong các tầng lớp

trên ở Nhật Bản thi trầu cau lại hiện diện trong mọi sinh hoạt văn hóa của mọi tầng

lớp xã hội nước ta ngày trước" [75, tr.199], một nền văn hóa trầu cau đã được hình

thành trên đất nước ta. Tục ăn trầu, mời trầu, dùng trầu khiến cho trầu cau trỏ thành

hình ảnh quen thuộc, phổ biến đối với mọi tầng lớp người Việt Nam. Cùng với nhiều

nước có tục ăn trầu trong khu vực Đông Nam Á, người Việt đã nâng tục ăn trầu của

dân tộc minh lên thành một nét văn hóa đặc sắc. Tất cả những ý nghĩa sâu sắc được

biểu trưng bởi trầu cau đều là những giá trị tình thần truyền thống đẹp đẽ của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam. Trên nền tảng chung của văn hóa trầu cau, biểu tượng

trầu cau trong ca dao đã được hình thành và phát triển. Đây là biểu tượng xuất hiện

với tần số cao đặc biệt, được dân gian yêu thích và sử dụng để nhắc nhở, khơi gợi cho

mọi người hướng về một cuộc sống đạo lý, nghĩa tình, thủy chung son sắt:

- Miếng trầu ăn nặng bằng chI,

Ăn rồi em biết lấy gi đền ơn?

- Miếng trầu ăn nặng là bao,

Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn. (TL I - tr. 1354)

2.1.3 Biểu tượng đôi đũa:

Từ tập quán dùng đũa lâu đời của dân tộc ta, đôi đũa trở thành biểu tượng thi ca

quen thuộc với người Việt Nam. Trần Ngọc Thêm nhận xét: "Trong khi người phương

Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm ít nhất là thia, đĩa, dao, mỗi thứ thực hiện một chức

năng riêng rẽ và chặt chẽ (sản phẩm của tư duy phân tích) thi đôi đũa của người Việt

Nam thực hiện một cách cực kỳ linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp và xé,

xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét và nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa!" [156, tr.232].

Đôi đũa từ rất lâu đà gắn bó với bữa ăn truyền thống của người Việt Nam, đến mức

được dân gian chọn lựa để đưa vào kho thi liệu của nền thơ ca bình dân.

Nếu không nhờ vào sự quan sát tình tế, có lẽ khó mà phát hiện được những khía

cạnh vừa độc đáo, vừa tương hợp lạ lùng với đời sống con người từ một sự vật giản

đơn, nhỏ bé, bình thường như đôi đũa.

Dân gian đã tìm thấy ở đôi đũa nhiều thuộc tính:

- UTính cặp đôiU: Đũa phải luôn luôn có đủ hai chiếc thi mới dùng được. Đây là

tính chất đặc biệt nổi bật của đôi đũa, cũng là nguyên nhân khiến cho đôi đũa thường

được dùng để nói về quan hệ lứa đôi, chồng vợ (quan sát các cặp biểu tượng sóng đôi

trong ca dao, ta thấy chúng thường được tạo nên do sự kết hợp của hai loại sự vật khác

nhau: hoa - bướm, thuyền - bến, chim phượng - ngô đồng, mận - đào riêng đôi đũa có

sự kết hợp gắn bó không rời giữa hai thực thể giống nhau như đúc thuộc cùng một loại

sự vật). Vào thời Lê, bẻ gãy đôi đũa là dấu hiệu của sự ly hôn.

- UTính cân bằngU: Đũa chẳng những phải có đôi, mà còn cần phải bằng nhau thi

mới dùng được. Đũa lệch, đũa so le, đũa vênh ... bị xem như thứ vô giá trị, đáng vứt

bỏ đi.

- UTính xứng hợpU: Trong bữa ăn, đũa được dọn chung với mâm, bát, chén, đĩa ...

Những thứ này đều phải tương xứng với nhau thi mới làm tôn giá trị của nhau lên: đũa

mốc không thể đi với mâm son, đũa ngọc phải đi với mâm vàng, bát bạc phải sánh với

đũa vàng ...

- UTính giai cấpU: Tự bản thân đôi đũa làm bằng chất liệu gi cũng góp phần phản

ánh giá trị cao sang hay nghèo hèn của nó: đũa tre, đũa mốc là đôi đũa của con nhà

nghèo khó, đũa ngà, đũa ngọc, đũa mun ... là đôi đũa của những gia đinh phong lưu

quý tộc.

Những thuộc tính trên của đôi đũa có nhiều điểm gần gũi với các quan niệm về

cuộc sống lứa đôi. Đôi đũa dường như đã gói gọn trong nó cả một triết lý về tình yêu,

hôn nhân: sự kết hợp của hai chiếc đũa giống như sự kết hợp của lứa đôi (tuy hai mà

một, tuy một mà hai), vợ chồng phải cân xứng với nhau về nhiều mặt thi mới có hạnh

phúc, giàu - nghèo, môn đăng hộ đối trong hôn nhân cũng là vấn đề cần chú ý đến ...

- Đôi ta như đũa trong kho,

Không tề không tiện, không so cũng bằng. (TL I-tr.864)

2.1.4. Biểu tượng cây đa:

Biểu tượng cây đa gắn liền với tục thờ Thành Hoàng ỏ mỗi làng thời xưa.

Thường thi làng nào cũng có thờ một vị thần để cầu mong vị thần này phù trợ cho dân

làng chống lại mọi điều không may (giặc giã, đói kém, bệnh tật, thiên tai ...) và đem

đến sự sung túc cho dân làng (thịnh người, thịnh của...). Vị thần này được thờ trong

các đinh, đền, miếu của làng. Trước các nơi này, thường có trồng cây đa. Đinh, miếu

là chốn thiêng liêng, cây đa nơi đó cũng trở thành thiêng liêng. Tục ngữ ta có câu "Sợ

thần, sợ cả cây đa" và "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề" là vi vậy. Tín ngưỡng

về cây đa còn có nguồn gốc sâu xa từ tục thờ cây, một biểu hiện của tín ngưỡng sùng-

bái tự nhiên: "Thực vật thi đước tôn sùng nhất là cây Lúa - dù là vùng người Việt hay

vùng các dân tộc - đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa ... Thứ đến là

các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu ..."

[156, tr.161]. Người trong làng có tục đem các bình vôi sau khi đã dùng hết đặt ở gốc

đa như một hình thức thờ cúng (người xưa gọi bình vôi là Ông bình vôi, cho rằng nếu

đem vứt các bình vôi đi thi gia đinh sẽ không được bình yên). Cây đa mọc um tùm,

nhiều bóng mát nên dưới gốc cây cũng lại thường có nhiều quán nước, nơi dân làng

gặp nhau và chuyện trò, trai gái gặp gỡ, hẹn hò, trao tình yểu cho nhau ... Qua tháng

năm, cây đa trỏ thành chứng nhân của biết bao kỷ niệm thiêng liêng đối với mỗi con

người. Từ sự gắn bó của cây đa với đời sống dân tộc như vậy, loại cây này đã trỏ

thành biểu tượng trong ca dao:

- Cây đa cũ, bến đò xưa,

Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ. (TL I - tr.299)

2.1.5. Biểu tượng vuông - tròn:

Vuông - tròn cũng là cặp biểu tượng xuất hiện với tần số cao trong ca dao có

nguồn gốc từ triết lý âm dương. Đây là triết lý hình thành rất sớm tại các nước nông

nghiệp Nam Á, từ khi chưa có chữ viết. Mối quan tâm hàng đầu của những cư dân

nông nghiệp là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Hoa màu phát triển tốt

thi đời sống người dân được ấm no. Gia đinh con cháu đông đúc là một thuận lợi lớn

vi sẽ có nhiều nhân lực phục vụ cho nghề nông. Mà sự sinh sản của hoa màu thi do đất

và trời (đất sinh, trời dưỡng), sự sinh sản của con người cũng do hai yếu tố: cha và

mẹ, nữ và nam: "Hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: đất được đồng nhất

với mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp "mẹ cha" và "đất

trời" chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lý âm dương"

[156, tr.57]. Từ hai cặp đối lập gốc này, người ta dân dân suy ra vô sô những cặp đôi

lập khác, trong đó có vuông và tròn. Hình vuông thuộc âm (vi khối vuông ổn định,

vững chãi), còn hình tròn thuộc dương (vi có dạng khối cầu, dễ chuyển động). Hình

vuông còn có tỉ lệ giữa cạnh và chu vi là 1:4, số 4 chẩn là âm, còn hình tròn có tỉ lệ

giữa đường kính và chu vi là 1:3 (số 71), số 3 lẻ, thuộc dương. Nói tóm lại, vuông là

âm, tròn là dương. Có vuông, có tròn tức có âm có dương. Nói vuông - tròn là nói đến

sự hoàn thiện, hoàn mỹ.

Trong ca dao, khi muốn thể hiện ước mong về một cuộc sống hạnh phúc, một

tình yêu đẹp đẽ, dân gian thường nhắc đến biểu tượng vuông - tròn:

- Vái trời cho đặng vuông tròn,

Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng. (TL III - tr.413)

Nói tóm lại, các biểu tượng thuộc nhóm này đều có cái cốt lịch sử - văn hóa - xã

hội lâu đời. Mỗi biểu tượng là sự tập hợp của nhiều giá trị tình túy từ trong nền văn

hóa dân tộc. Được hình thành từ trong cõi thẳm sâu của cội nguồn dân tộc, của tâm

thức dân gian, các biểu tượng ấy chất chứa sâu đậm ưong chúng cả hồn quê, hồn

nước, có sức khơi gợi mạnh mẽ và âm vang dài lâu trong lòng người.

2.2.Những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc:

2.2.1. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam:

Đối với người Việt Nam, có lẽ không mấy ai là không biết về Truyện Kiều của

Nguyễn Dụ, về Lục Vân Tiên của Nguyễn Đinh Chiểu, và một số truyện thơ bình dân

như: Tống Trân - Cúc Hoa, Lưu Bình - Dương Lễ ... Đặc biệt, ảnh hưởng của Truyện

Kiều đối với văn học dân gian đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến, .cho thấy sức

phổ biến sâu rộng trong quảng đại quần chúng của tác phẩm này.

Các nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt

Nga, Lưu Bình, Dương Lễ, Châu Long, Cúc Hoa ... đã từ trang sách bước ra cuộc đời,

nhập thân vào những con người Việt Nam hồn hậu, trở thành những chàng trai, cô gái

rất cụ thể:

- Dầu ai gieo tiếng ngọc,

Dầu ai đọc lời vàng

Bông sen hết nhụy bông tàn,

Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga. (TL III - tr.244)

-... Anh xa em như bến xa thuyền

Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi.

(TLI-tr.1833)

Những nhân vật trên đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng chung thủy, của

cốt cách, phẩm hạnh Việt Nam. Cũng có lúc, lại được dùng để nói về những đôi lứa

phải sống xa cách, gặp bất trắc trong tình yêu:

- Hai ta như Kim Trọng, Thúy Kiều,

Đã lắm lúc đắng, còn nhiều lúc cay. (TL I - tr.1081)

2.2.2. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Trung Quốc:

Không chỉ bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam, một số biểu tượng còn có nguồn

gốc xa xôi hơn, đó là văn học cổ Trung Quốc. Nhiều biểu tượng thuộc nhóm này đã

trở nên rất gần gũi, quen thuộc với người Việt Nam. Nói đến tình yêu, người bình dân

Việt Nam đã thuộc nằm lòng những hình ảnh: dây tơ hồng, chỉ thắm, trăng già, ông

Tơ bà Nguyệt ... Nói đến sự xứng đôi vừa lứa thi có loan - phụng, rồng - mây, phượng

hoàng - ngô đồng ... Tình yêu trắc trở, xa cách, nhớ thương thi dùng chuyện Ngưu

Lang - Chức Nữ mà tượng trưng.

Văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc vốn có mối quan hệ lâu đời và mật

thiết. Mối quan hệ này phát sinh từ thực tế bang giao giữa hai đất nước đã có hơn hai

ngàn năm lịch sử. Trải qua hơn hai mươi thế kỷ, với nhiều thời kỳ lịch sử, mà đằng

đẵng nhất là thời Bắc thuộc, văn hóa Việt Nam đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của văn

hóa Trung Quốc. Phần lớn các khái niệm trừu tượng trong lĩnh vực nhận thức về tự

nhiên và xã hội của chúng ta, trong thời kỳ đầu, đều vay mượn ở tiếng Hán. Trong

tiếng Việt ngày nay, tuy có khá nhiều từ ngữ gốc từ tiếng Môn - Khơme, tiếng Thái,

tiếng Pháp, nhưng phần vay mượn ở tiếng Hán vẫn chiếm khối lượng lớn hơn cả. Về

chữ viết, trong một thời gian khá lâu, chúng ta đã sử dụng chữ Hán. Sau đó, người

Việt Nam mới dùng phương pháp hài âm và hội ý để sáng tạo ra chừ Nôm. Chúng ta

cũng đã vay mượn của Trung Quốc cái cách khắc bản gỗ để in sách, một phương pháp

khá thông dụng mãi cho đến đầu thế kỷ này. Và cuối cùng chúng ta còn vay mượn của

văn học cổ điển Trung Quốc khá nhiều: từ tư liệu, điển cố, điển tích văn chương cho

đến thể văn.

Trong bối cảnh lịch sử - xã hội như đã trình bày trên, nhiều điển tích, điển cố từ

trong văn học Trung Quốc đã đi vào văn học Việt Nam. Đối với các nhà trí thức thời

xưa, các điển tích, điển cố như: đào viên kết nghĩa, tái ông thất mã, tam cố thảo lư,

Trình nhi sát thiếp, Hàn Tín - Bành Việt, Chiêu quân cống Hồ, bảng vàng bia đá, ngựa

Hồ - chim Việt, Ngưu Lang'- Chức Nữ ... là vô cùng quen thuộc. Họ rất yêu thích, tâm

đắc các điển cố này, xem chúng như là những mẫu mực của cách diễn đạt giàu ý nghĩa

biểu hiện. VI vậy, đến lượt họ sáng tác, họ thường xuyên đưa vào trong văn chương

của minh các điển cố ấy. Cái hay của việc làm này chính là với một số từ ngữ rất ít, có

thể nhắc đến và gợi lại trong trí óc người đọc cả một câu chuyện, một sự việc, mà nếu

kể ra có khi phải viết đến hàng trang giấy mới xong. Cách làm này góp phần nâng cao

tính hàm súc của hình tượng văn học và ngôn ngữ dân tộc, nhưng cũng không phải là

không có những mặt hạn chế của nó.

Các điển cố được sử dụng rộng rãi trong văn học thời trước như là những văn

liệu, thi liệu. Trong lời nói đầu của tập sách Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh viết:

"Sách này giải thích những điển cố Hán học trong văn học viết bằng chữ Nôm, tức là

văn học thời trước mà sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, một số không nhỏ những

điển cố ấy lại được sử dụng cả ở những bồ phận khác của văn học Việt Nam, ỏ văn

học truyền miệng dân gian, ở văn học viết bằng chữ Hán thời xưa, cũng như văn học

viết bằng chữ quốc ngữ ngày nay" [73,tr.7]. Như vậy, trong cả ba bộ phận văn học

Việt Nam: văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm, văn học chữ Quốc ngữ, ở cả văn học

dân gian và văn học viết, các điển cố Trung Quốc đều có mặt. Từ trong văn học cổ

Trung Quốc, các điển cố này đi vào văn học Việt Nam, đầu tiên, có lẽ là ở bộ phận

văn học bằng chữ Hán, với lực lượng sáng tác thuộc tầng lớp trí thức. Sự am tường,

uyên bác về chữ Hán và văn học Trung Quốc khiến họ dễ dàng tiếp thu và sử dụng các

văn liệu này. Với văn học chữ Nôm, tình hình cũng tương tự. Các nhà trí thức sử dụng

chữ Nôm trong sáng tác văn thơ là một biểu hiện của tình thần xây dựng và bảo vệ

văn hóa dân tộc. Nhưng ngay cả khi đã có ý thức như vậy, họ vẫn không từ bỏ thói

quen đưa vào trong tác phẩm của minh những văn liệu đã được khai sinh từ nền văn

hóa ấy. Còn với văn học dân gian, có lẽ đây là bộ phận văn học sau cùng có sự thâm

nhập của các điển cố. Ở đây, phải kể đến công lao của các nho sĩ bình dân, lực lượng

đã tham gia tích cực vào việc sáng tác nên các tác phẩm truyền miệng dân gian, đặc

biệt là ca dao. Phải chăng họ là những người đầu tiên đã đưa các văn liệu của nền văn

chương bác học vào trong dòng văn học bình dân? (xem thêm [70,tr.25])

Bên cạnh đó, còn phải kể đến một số truyện thơ Nôm hay được đông đảo quần

chúng nhân dân biết đến và yêu thích: Truyện Kiều, Phan - Trần, Phạm Tải - Ngọc

Hoa, Nhị Độ Mai, Trình thử, Bích câu kỳ ngộ ... Khi ngâm ngợi những tác phẩm này,

người bình dân cũng làm quen và thưởng thức luôn cả những điển cố Trung Quốc

được sử dụng rất nhiều trong đó. Dần dà, họ cảm thấy quen thuộc và đến lượt minh,

trong các sinh hoạt ca hát dân gian, họ đã đưa chúng vào trong ứng tác. Nổi bật ở đây,

phải nhắc đến tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du với tần số xuất hiện các điển cố

rất cao. Hầu khắp các tập tự điển về điển cố, về văn liệu đều trích dẫn rất nhiều ví dụ

sử dụng điển cố trong văn học Việt Nam từ tác phẩm của nhà đại thi hào dân tộc này.

Tuy nhiên, không phải tất cả các điển cố khi sử dụng trong văn học dân tộc đều

trở thành biểu tượng. Chỉ một số được sử dụng phổ biến nhất, xuất hiện với tần số

cao, mang ý nghĩa ổn định mới trở thành biểu tượng. Trong phạm vi nghiên cứu biểu

tượng trong ca dao, chúng tôi đặc biệt chú ý đến các điển cố có mặt thường xuyên

trong các bài ca, mang những nội dung ý nghĩa và giá trị nghệ thuật nhất định.

Về quá trình hình thành các điển cố - biểu tượng này, có lẽ cũng khó mà lý giải

và xác định được một điển cố đã trở thành biểu tượng từ khi nào: từ trong văn học cổ

Trung Quốc, văn học chữ Hán Việt Nam, văn học chữ Nôm, hay văn học truyền

miệng dân gian? Chỉ biết rằng ca dao của dân tộc ta đã tiếp nhận nhiều điển cố Trung

Quốc và trong nhiều trường hợp, đã sử dụng chúng như là những biểu tượng nghệ

thuật. Các biểu tượng này mang những ý nghĩa đặc biệt nhất định trong tâm thức,

trong sự cảm thụ văn học của người Việt Nam.

Cùng là tiếp nhận, vay mượn các điển cố của văn học Trung Quốc, nhưng văn

chương bác học và văn chương bình dân nước ta có những khuynh hướng khác nhau.

Dòng văn học chữ Hán thời xưa chú ý nhiều đến những mẫu mực văn chương thể hiện

các phẩm chất trung, hiếu, tiết, nghĩa của người quân tử, ít chú ý đến những điển cố

thể hiện tình yêu lứa đôi. Còn ca dao của người bình dân thi ngược lại. Ca dao - dân

ca là những sáng tác trữ tình tập trung vào việc thể hiện thế giới tình cảm con người,

trong đó, tình cảm gia đinh, tình yêu lứa đôi là khía cạnh được chú ý hơn cả. Chế độ

phong kiến với những ràng buộc đạo lý khắt khe kiềm chế, ngăn cấm tự do nam nữ

trong tình yêu bao nhiêu thi ca dao đề cao tình cảm tự nhiên bấy nhiêu. Các điển cố -

biểu tượng trong ca dao vi vậy, phần lớn là thể hiện tình yêu: ông Tơ - bà Nguyệt,

loan-phụng, rồng-mây, phượng hoàng-ngô đồng, Châu-Trần, Ngưu Lang-Chức Nữ,

tơ" hồng, liễu Chương Đài, cầu Ô Thước, sông Ngân, ...

2.2.2.1.Biểu tượng chỉ hồng:

Về xuất xứ của biểu tượng này, Ngữ liệu văn học của Đặng Đức Siêu viết: Vi Cố

người đời Đường đi dạo gặp một cụ già ngồi đọc sách dưới trăng (Nguyệt lão), bên

cạnh cái túi lớn đựng đầy những sợi dây nhỏ màu đỏ (xích thằng). Cụ già nói cuốn

sách ấy ghi việc hôn nhân và những sợi dây đỏ dùng để buộc chân các đôi nam nữ sẽ

thành vợ chồng. Dù hai bên có oán thù hay ở xa nhau nhưng đã lấy dây đỏ buộc chân

lại thi thế tất phải lấy nhau [137, tr.95]. Trong một tài liệu khác, câu chuyện còn có

thêm đoạn sau: Một hôm Vi cố vào chợ gặp bà già chột mắt ấm đứa bé lên ba đi qua.

ông lão bảo đứa bé ấy sẽ là vợ chàng. Vi cố giận, bảo đầy tớ tìm giết đứa bé đó. Nhiều

năm sau chàng lấy vợ, thật lạ lùng, khi gạn hỏi, chàng mới biết vợ chàng chính là đứa

bé năm xưa, vết dao đâm giữa chân mày bây giờ được đính trang điểm một đoa hoa

vàng. Vi cố kể lại việc trước cho vợ nghe. Hai người càng kính yếu nhau bội phần [41,

tr.693]. Xuất xứ thứ hai của biểu tượng chỉ hồng là: Quách Nguyên Chấn đời Đường

xin hỏi con gái quan tể tướng Trương Gia Trình. Vị này có năm người con gái. Ông

cho cả năm cô đứng sau một tấm màn, mỗi cô cầm một sợi chỉ tơ màu đỏ (hồng ti),

một đầu sợi chỉ để chia ra ngoài màn rồi bảo Quách Nguyên Chấn chọn lấy một sợi

mà kéo. Họ Quách làm theo, được cô em thứ ba xỉnh đẹp nhất [137, tr.95].

Từ hai câu chuyện trên đã hình thành nên một số hình ảnh được người Việt sử

dụng trong cách nói năng quen thuộc của minh:

- Chỉ hồng (xích thằng, hồng ti): biểu tượng cho việc hôn nhân, thường có các

biến thể như: tơ hồng, dây tơ (hồng), chỉ hồng, chỉ hường, chỉ đào, chỉ thắm, chỉ vàng

...

- Trăng già (Nguyệt lão): biểu tượng cho người định đoạt chuyện hôn nhân, biểu

tượng cho định mệnh, thường có các biến thể như ông Tơ, ông Nguyệt, ông Tơ - bà

Nguyệt...

Theo nguyên tắc cân đối, hài hoa âm - dương, biểu tượng Nguyệt lão của Trung

Quốc khi vào Việt Nam đã được Việt hóa thành ông Tơ - bà Nguyệt. Đây là đối tượng

để những người đang yêu thở than, trách móc, nhiều khi họ có thái độ phản ứng quyết

liệt để giải tỏa những ấm ức trong lòng:

- Oanh ông Tơ cái trót,

Ông nhảy thót lên ngọn trâm bầu,

Ông xe đâu đó, sao chỗ nghèo ông không xe? (TL III - tr. 351)

2.2.2.2.Biểu tượng Ngưu Lang- Chức Nữ:

Người bình dân Việt Nam cũng rất quen thuộc với những tên gọi: ả Chức (hay

Chức Nữ), chàng Ngưu (hay Ngưu Lang), cầu Ô Thước (hay cầu Ô), sông Ngân Hà

(hay sông Ngân), vợ chồng Ngầu ... đò cũng là những biểu tượng xuất phát từ câu

chuyện tình cảm động giữa một người con gái tên Chức Nữ, và một người con trai tên

Ngưu Lang. Truyện kể rằng: Phía đông Thiên Hà có Chức Nữ là con của Thiên đế,

năm năm lo việc dệt cửi, dệt thành những vân cẩm thiên y. Thiên đế thương cảnh nàng

cô đơn bèn gả cho Khiên Ngưu là chàng chăn trâu ở phía tây Thiên Hà. Từ đó, Chức

Nữ bỏ việc dệt cửi. Thiên đế nổi giận, bắt buộc Chức Nữ phải về lại bên phía đông,

chỉ cho phép một nám được một lần gặp nhau vào đêm thất tịch (đêm mồng bảy tháng

bảy). Tương truyền có chim Ô Thước làm cầu cho Chức Nữ sang sông gặp Ngưu

Lang" [41, tr.224]. Họ gặp nhau, thở than, khóc lóc, nên đêm ấy thường có gió mưa rả

rích, người đời gọi là mưa ngầu.

Trong ca dao, Ngưu -Chức trở thành biểu tượng của tình yêu trong xa cách, nhớ

thướng, cầu ô là hình ảnh của sự gặp gỡ, nối kết tình yêu:

- Ai làm Ngưu Chức đôi đàng,

Để cho quân tử đa mang nặng tình. (TL I - tr. 65)

- Hồi xưa ai biết ai đâu,

Bởi con chim Ô Thước bắc cầu sông Ngân. (TL I - tr.l 114)

2.2.2.3.Biểu tượng loan – phượng:

Về biểu tượng loan -phượng (hay loan - phụng), thư tịch cổ Trung Quốc cho

rằng đây là giống chim quí hiếm, lại bay với nhau thành đôi. Phượng (còn gọi là

phượng hoàng) là giống chim báo điềm lành, xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Theo

Kinh Thư: "Tiêu thiều cửu thành, phượng hoàng lai nghi" (Nhạc thiều tấu xong chín

lần thi chim phượng hoàng bay đến, rất có dung nghi). Khổng truyện chép "Hùng viết

phượng, thư viết hoàng" (con đực gọi là phượng, con cái gọi là hoàng). Loan - người

xưa cho là cũng thuộc giống chim phượng, lông có năm sắc mà trội về sắc xanh.

Văn học cổ thường dùng loan, phượng để chỉ người anh tài hay tình vợ chồng

hòa hợp. Tiếng Hán có câu: "Loan tương phượng tập" chỉ việc các hiền tài tụ họp, câu

"Loan tiêu phượng bạc" chỉ cảnh vợ chồng ly tán. Trong hai nét nghĩa này, ca dao của

người Việt chú ý nhiều hơn đến nét nghĩa thứ hai. Một số các loài chim có đặc tính

thường bay đôi với nhau đã được người xưa dùng để ví von với tình vợ chồng: loan -

phượng, phượng - hoàng, uyên- thúy, uyên - ương ... Trong số này, có lẽ hình ảnh

chim loan - phượng đi vào ca dao Việt Nam nhiều hơn cả, phải chăng vi chúng quí,

hiếm, báo điềm lành và chim phượng là một trong bộ tứ linh (long, lân, quy, phượng)

từ lâu đã được nhân dân ta yêu mến, coi đó là một con vật thiêng liêng? Dùng loan -

phượng để biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân, vợ chồng vừa đẹp, trang trọng, phù hợp

với thị hiếu thẩm mỹ của dân tộc ta, lại vừa thể hiện được tình cảm bền chặt, sắt son.

- Thân anh như con phụng lạc bầy,

Thấy em lẻ bạn, anh muốn gầy duyên loan. (TL III - tr.376)

Hàng loạt từ ngữ trong ca dao được mỹ hóa gắn rất chặt với hình ảnh loan-

phượng: chăn loan, gối loan, màn loan, trướng loan, chiếu loan, giường loan, phòng

loan, buồng loan, thuyền loan, bạn loan, gót loan, xe loan, gối phượng, chiếu phượng

... cho thấy biểu tượng loan - phượng đã có một sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhu cầu

biểu hiện tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta. Có lẽ vi chim loan được quan niệm là

loài chim mái nên những sự vật nào gắn với người phụ nữ thường được dùng kèm với

chữ loan.

2.2.2.4. Biểu tượng nhạn – én:

Én nhạn rẽ nhau, tin nhạn cũng là những biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ

Trung Quốc. Chim én mùa xuân đến, mùa thu đi. Chim nhạn thi ngược lại. Hoàn cảnh

én và nhạn giống như cảnh vợ chồng mỗi người một ngả, kẻ nam, người bắc. Trong ca

dao, én - nhạn thường được dùng sóng đôi biểu thị cho cảnh lứa đôi xa cách, nhớ

thương:

- Nhạn về biển bắc nhạn ôi,

Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông? (TLI - tr. 1638)

Hình ảnh mượn nhạn đưa thư được sử dụng trong ca dao khi các chàng trai, cô

gái mong ngóng người yêu, xuất phát từ điển tích: Năm Thiên Hán - niên hiệu Hán Vũ

Đế năm đầu (100 năm trước CN), Tô Vũ đi sứ Hung Nô, vi không chịu hàng phục nên

bị chúa Hung Nô đày đi chăn dê ở Bắc Hải, nơi xa xôi, thiếu thốn mọi bề. Ròng rã

mười chín năm trời, Tô Vũ vẫn giữ một lòng trung với nước. Đến đời Hán Chiêu Đế,

Hung - Hán hòa thân với nhau. Vua Hán mới sai sứ sang xin cho Tô Vũ về. Chúa

Hung Nô nói dối Tô Vũ đã chết. Vua Hán không tin, lại cho sứ sang lần nữa. Lần này

Thường Huệ lập kế, dặn sứ giả nói với chúa Hung Nô rằng: Vua Hán đi săn vừa bắn

được một con chim nhạn, chân có buộc lá thư nói rõ Tô Vũ hiện vẫn còn sống. Chúa

Hung Nô kinh ngạc, tưởng thật, đành trả cho Tô Vũ về Hán. Chim nhạn từ đó được

dùng để chỉ tin tức [41, tr.947].

Hình ảnh chim nhạn đưa thư đã trở thành phổ biến trong thi ca bình dân, biểu thị

cho tin tức của người yêu:

- Đã cam quấn quýt má đào,

Những mong chim nhạn mai trao chỉn (chỉ) hồng.

(TL 11(1)-tr. 272)

Chim nhạn được hiểu như sứ giả tình yêu, là chiếc cầu tưởng tượng nối tình cảm

của những lứa đôi: - Nhạn ơi, trăm sự nhờ mày,

Gửi thư đem tới tận tay cho chàng. (TL I - tr. 2221)

2.2.2.5.

Biểu tượng Châu - Trần:

Châu - Trần là tên của hai họ thời xưa ở Trung Quốc đời đời kết làm thông gia

với nhau, đã trở thành biểu tượng cho việc kết duyên vợ chồng trong ca dao. Thơ

Bạch Cư Dị có câu: "Từ Châu cổ Phong huyện, hữu thôn viết Châu - Trần. Nhất thôn

dụy lưỡng tính, thế thế vị hôn nhân" (xưa huyện Phong Từ Châu, có thôn gọi là Châu

Trần, một thôn chỉ hai họ, đời đời gả cho nhau). Châu Trần thường được dùng để chỉ

tình nghĩa sắn bó, thủy chung:

- Minh đừng ham phú phụ bần,

Tiền tài ăn hết, nghĩa Châu - Trần còn thương. (TL I - tr. 1360)

2.2.2.6.Biểu tượng Tấn- Tần:

Tấn, Tần là tên hai nước thời Xuân Thu ở Trung Quốc. Theo Tả truyện, Huệ

Công nước Tấn phụ ước nước Tần, bị nước Tần đánh bắt được, đem thái tử Ngữ gửi

làm con tin ở nước Tần. Mục Công ở nước Tần gả con gái là Hoài Danh cho thái tử

Ngữ. Từ đó, năm đời liền con cháu hai họ cưới gả cho nhau, đối xử hòa thuận. Tấn -

Tần là biểu tượng của nhân duyên đẹp đẽ, nồng thắm:

- Nghe anh phân, gan ruột như dần,

Đành nào chia rẽ Tấn Tần.

Sống dương gian em chẳng đặng gần

Thà em liều thác một lần cho an. (TL I - tr. 1548)

Sách Từ ngữ điển cố văn học còn chú thích thêm một cách hiểu thứ hai về điển

cố này: "Tấn ở vào kim vực miền nam tỉnh Sơn Tây đến miền nam tĩnh Hà Bắc; Tần ở

miền Trường An tỉnh Thiểm Tây. Như vậy, Tấn ở phía đông, Tần ở phía tây. Tấn -

Tần chỉ sự xa cách nhau, mỗi người một ngả" [41, tr.859]. Chúng tôi nhận thấy rằng

ca dao vẫn thiên về cách hiểu thứ nhất nhiều hơn.

2.2.2.7.Biểu tượng đào thơ:

Văn học cổ thường dùng các loài cây, hoa đẹp để ví với người con gái: lê, lan,

huệ, trà mi, mẫu đơn, hải đường, phù dụng, đào, liễu ... trong số này, hình ảnh cây đào

đi vào ca dao ta nhiều hơn cả. Có khi là đào non, đào tơ, đào thơ, có khi là đào yêu

(hay yêu đào), đào hoa ...

Biểu tượng này có nguồn gốc từ một bài thơ trong Kinh Thi tên là Đào yêu. Bài

thơ gồm ba chương nói về việc người con gái đến tuổi lấy chồng, trong có đoạn: "Đào

chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân" (Cây đào mơn mởn,

cành lá rườm rà, gái về nhà chồng, hoa thuận trong nhà). Các áng thơ văn cổ thường

dùng các từ đào non, đào yêu, đào thơ... để chỉ người con gái đến tuổi lấy chồng.

Cùng với bài thơ này, có lẽ hình ảnh rừng hoa đào thơ mộng trong câu chuyện về

động Đào Nguyên, hoa đào trong bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ "Đào hoa y cựu tiếu

đông phong" đã để lại trong tâm hồn người Việt Nam một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp

của hoa đào. Đến với văn hóa Việt Nam, "đào yêu" còn được tiếp nhận nồng nhiệt bởi

sự tương cảm trong nền văn hóa giữa hai dân tộc. Người Việt Nam cũng rất ưa chuộng

hoa đào, ngày Tết cổ truyền miền Bắc không thể vắng bóng hoa đào. Bông hoa có

màu sắc phơn phớt hồng, gợi sự thanh tân, tươi trẻ, duyên dáng đáng yêu.

- Từ ngày vắng khách đào thơ,

Chiếu đắp nửa chiếu, chăn chờ nửa chăn. (TL I - tr. 1979)

2.2.2.8. Biểu tượng liễu:

Đi đôi với đào là liễu. Liễu có khi được dùng riêng lẻ, có khi được dùng chung

trong kết hợp liễu - đào, đào thơ - liễu yếu để chỉ người con gái với thân phận yếu ớt,

muốn được nương tựa, chở che. Cũng có khi đào - liễu được dùng như một cặp biểu

tượng sóng đôi biểu thị cho đôi lứa. Liễu là thứ cây yếu ớt, ẻo lả, đến mùa thu thi rụng

héo nên các nhà văn thường ví với người con gái. Trong văn học cổ Trung Quốc còn

có điển tích về liễu Chương Đài: Hàn Hoành người đời Đường, kết duyên với người

con gái ở phố Chương Đài trong thành Trường An tên là Liễu Thị. Họ Hàn về quê

thăm nhà, để Liễu Thị ở lại Trường An. Không may kinh đô có biến, Liễu Thị bị

tướng giặc cướp mất. Khi loạn được dẹp yên, Hàn, Hoành cho người đem vàng bạc và

bài thơ "Chương Đài liễu" để dò thăm Liễu Thị. Liễu Thi đề thơ trả lời. về sau, họ

được đoàn tụ với nhau [41, tr.563]. Liễu Chương Đài là hình ảnh người con gái trong

xa cách, nhổ thương. Với ca dao, liễu, liễu Chương Đài đều là những tín hiệu thẩm mỹ

dùng để biểu thị cho người phụ nữ trong tình yêu:

- ...Ai về nhắn liễu Chương Đài

Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay ... (TL I - tr.791)

- Ra về dặn liễu, liễu ơi

Liễu đừng tơ tưởng những nơi phong trần. (TL 11(1) - tr. 383)

2.2.2.9. Biểu tượng đào- mận:

Đào - mận là cặp biểu tượng có quá trình tái tạo nghĩa khá lý thú khi đi vào ca

dao. Trong thư tịch cổ Trung Quốc, đào - mận liên quan đến hai điển cố sau:

1) Tục Thông chí viết : Địch Nhân Kiệt thường lo tiến cử những người hiền tài

trong thiên hạ ra giúp việc nước. Trong số đó, có những người trở thành danh thần

như Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Kính Huy, Diêu Sùng ... VI vậy, có người

bảo Nhân Kiệt rằng: "Thiên hạ đào lý tất tại công môn" (Người hiền tài trong thiên hạ

đều ở cửa nhà ngài). VI vậy, người đời gọi kẻ sĩ được tiến cử là đào lý cốt gốc ỏ đây.

Từ điển này mà có các từ đào lý , cửa mận tường .đào, tường đào ngõ mận ... [41,

tr.310]

2) Kinh thi có câu: "Đào ngã dĩ đào, báo chi dĩ lý" (Ném cho ta quả đào, báo lại

ta cho quả mận) [41, tr.397], ý nói quà biểu tặng có đi có lại, tình nghĩa báo đền trong

quan hệ nam nữ. Từ đây ta có các từ: gieo đào trả lý, gieo đào trả mận, trả mận gieo

đào ...

Xét ở điển cố thứ nhất, văn thơ Nôm của ta cũng đã sử dụng điển này với nét

nghĩa vừa nêu:

- Đến trường đào mận ngặt chẳng thông,

Quê cũ ưa làm chủ cúc thông. (Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập)

- Sân đào lý mây lồng man mác,

Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.

(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

Trường đào mận, sân đào lý, ... đều được dùng để chỉ chung chốn quan trường.

Đào - lý là biểu tượng của kẻ hiền tài, công thành danh toại.

Trong ca dao, khi nói đến mận - đào, người ta chỉ nghĩ đến hình ảnh của đôi lứa

trong tình yêu. Rõ ràng ở đây đã có sự thay đổi về cách dùng điển cố, Từ chỗ đào -

mận biểu thị cho kẻ hiền tài, chuyển sang, biểu thị cho những chàng trai, cô gái quê

mùa, chân chất trong tình yêu. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người bình dân xưa, nếu

như đã có nhiều lúc họ tự xứng minh là rồng, phượng, trúc, mai sinh hoạt thi dùng

những đũa ngà, mâm son, chiếu gấm, màn là, thuyền rồng ... thi việc họ tự cho minh

là mận, là đào (ngang với người hiền tài) cũng không có gi là quá đáng, đặc biệt là

ưong thế giới tình yêu, nơi mà họ có nhu cầu được nâng minh lên cho xứng đáng,

trang trọng cùng với người yêu, cũng là nơi họ có thể sống với những mơ mộng và

tưởng tượng đẹp đẽ của minh.

Theo điển thứ hai, gieo đào trả mận chỉ quan hệ tình cảm nam nữ. Đào -mận

được đặt trong vị trí ngang bằng, tương xứng (về vật thể lẫn về tình cảm). Người gieo

mận, người trả đào là hai kẻ có tình cảm với nhau. VI vậy, ca dao đã mượn hai vật thể

đó để làm biểu tượng cho lứa đôi.

Tuy nhiên cũng cần chú ý một cách hiểu hơi khác với cách trên. Từ điển văn liệu

có ghi: "Trả mận gieo đào" do câu: "Đầu đào báo lý". Tục bên Trung Quốc trai gái

hay dùng mận đào tặng nhau làm quen. Nghĩa bóng nói sự đi lại giao tình của trai gái,

cũng như "gió sở mây Tần" hay "mây mưa".

- Lẽ rồi khôn biết làm sao,

Chứ con trả mận, gieo đào với ai? (Quan Âm Thị Kính)" [99, tr.458] Cách hiểu

này cũng được thể hiện trong ca dao, nhưng chiếm số ít, không phổ biến:

- Anh nguyền thưởng bậu một dao,

Răn người lòng mận, dạ đào líu lăng. (TLI - tr. 138)

Đa số các bài ca dao của ta dùng mận - đào với nét nghĩa khác: lứa đôi tự xưng

minh là mận, đào có quan hệ tình cảm trong sáng, thanh cao:

- Muốn cho đào mận vợ chồng,

Đào yêu, mận nhớ não nùng thương thay. (TL II (1) - tr.351)

- Đám cỏ héo gặp trộ (trận) mưa ráp,

Duyên ba sinh kỳ ngộ, mận với đào gặp nhau. (TL II (1) - tr271)

Như vậy, từ cách hiểu ban đầu về mận - đào trong văn học Trung Quốc đến cách

hiểu về mận - đào trong ca đao quả là đã có những thay đổi đáng kể. So sánh với văn

chương bác học ở ta, cũng thấy hai cách dùng điển khác nhau. Một bên rập khuôn

theo nghĩa gốc. Một bên đã có sự tái tạo, sáng tạo. Phải chăng biểu tượng mận - đào

trong ca dao bên cạnh nguồn gốc vay mượn còn có xuất phát điểm từ những quan sát

về thế giới tự nhiên quen thuộc của người Việt?

Trong một bài viết về ẩn dụ ca dao, Hà Quang Năng cho rằng :" Để nói về tình

yêu nam nữ và điều tế nhị nhất trong đó là việc tỏ tình, dân gian đã chọn đào mận. Đó

là hai loại cây thường nở hoa vào mùa xuân -mùa đẹp nhất trong năm, mùa của hội hè,

của lễ tết, mùa của những cuộc gặp gỡ, hẹn hò và nên duyên của những đôi trai tài, gái

sắc nhân dịp các lễ hội.Vậy có gi đẹp hơn, hợp lỵ hơn là lấy mận đào, vườn hồng để tỏ

tình, để nói về hạnh phúc lứa đôi" [102,tr.9].

2.2.2.10. Biểu tượng trúc- mai:

Trong văn học cổ Trung Quốc, trúc và mai là hai loại cây phổ biến, hợp với

tùng, tạo thành một bộ ba gọi là "tuế hàn tam hữu". Ba thứ cây này thường được trồng

hoặc vẽ quanh nơi ỏ, tượng trưng cho đức tính cao thượng, trong sạch, giữ gin khí tiết

của người quân tử, bởi vi trong ngày đông, tháng giá, khi các loại cây khác đều rụng

lá, khô cằn, tàn tạ, thi tùng, trúc vẫn xanh tươi, còn mai thi lại nở hoa.

Riêng cây trúc và cây mai thường được trồng hoặc vẽ xen nhau, cho nên còn

được dùng để chỉ tình bạn cao khiết, khăng khít. Tiếng Hán có chữ "thanh mai trúc

mã" để chỉ sự gần gũi, quấn quýt nhau giữa con trai, con gái thuở còn bé.

Trúc, mai được người xưa biết đến nhiều qua các điển cố quen thuộc: trúc Tưởng

Hủ, mai Lâm Bô, quân tử trúc, tam hữu ... Nếu như trúc mai có mặt trong bộ "tam

hữu" thi chúng cũng lại có mặt trong bộ "tứ quý": mai, lan, cúc, trúc, cho thấy sự yêu

mến của người xưa hướng về hai loại cây này.

Cần chú ý có đến hai loại mai:

a) Một thứ cũng cùng loại tre như trúc, ở vùng thượng dụ Bắc Việt, nhưng to và

cứng, thân rất thẳng, nên hay dùng làm cột buồm.

b) Một thứ cây như cây mơ, hoa nhỏ trắng (cũng có thứ hoa đỏ: hồng mai). Hoa

nỏ cuối mùa đông giá lạnh. [99, tr.468]

Nhưng dù là loại nào, cây mai (trúc) hay cây mai (hoa) đều vẫn thường được

văn chương bác học sử dụng làm biểu tượng cho người quân tử cùng với cây trúc.

Ở Việt Nam dưới triều Nguyên, để tỏ lòng trọng kẻ sĩ, sau mỗi khoa thi đinh,

triều đinh mời các vị tân khoa vào vườn Thượng Uyển, mỗi vị sẽ hái một bông hoa để

triều đinh thêu lên mũ. Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925) đã chọn một hoa mai. Có ý

kiến cho rằng cũng từ đó ông lấy bứt danh là Mai Sơn. Còn Cao Bá Quát (1808-1855)

thi tuyên bố "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (Một đời ta chỉ chịu cúi thấp đầu trước

hoa mai).

Bông hoa mai trong tâm tưởng của các nhà nho xưa thật đẹp đẽ và ý vị. Họ đã

không ít lần đưa mai, trúc vào thơ để tỏ bày tâm sự của minh:

- Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng

Mai Lẫm Bô đâm được câu thần. (Nguyễn Trãi)

Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán, cũng dùng trúc, mai với nét nghĩa trên. Nhưng

trong Truyện Kiều, ông lại dùng trúc, mai để tượng trưng cho đôi bạn tình, một cách

dùng rất gần gũi với văn chương bình dân:

- Một nhà sum họp trúc mai,

Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông. (Truyện Kiều)

Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính đã rất tình tế khi nhận xét: "Tác giả dân gian

không mấy khi tả thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc đến "mai", "trúc" là nhằm để thể

hiện con người. Hiện tượng này có mặt giống với thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Nguyễn Khuyến. Nhưng còn mặt khác biệt rất rõ là con người trong ca dao

không phải là Tưởng Hủ, Lâm Bô nói riêng, những trí thức phong kiến nói chung như

các tác giả văn học viết đã thể hiện" [81, ÍT. 191]. Mai, trúc trong ca dao được dùng

để chỉ những chàng trai, cô gái trong tình yêu. Có khi trúc được dùng một minh để chỉ

người con gái xinh xắn:

- Trúc xinh trúc mọc bờ ao

Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh. (TL I - tr.2280)

Có khi trúc - mai được dùng sóng đôi để biểu hiện tình cảm lứa đôi thắm thiết.

Nam thanh, nữ tú tự xưng minh là trúc, mai:

- Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngán,

Mai trở về, mai nhớ trúc chăng? (TL I - tr.2280)

- Trúc xa mai thi hoài lứa trúc

Anh hỏi mai rằng đã có nơi mô nương tựa hay chưa? ... (TL I - tr.2280)

Nói tóm lại, nguồn gốc của biểu tượng mai - trúc trong ca dao là bắt nguồn từ

các điển cố Trung Quốc, tuy nhiên, dân gian 'đã sử dụng chúng với những nét nghĩa

khác so với ý nghĩa ban đầu. Với biểu tượng trúc - mai và các biểu tượng khác tương

tự trong ca dao, ta có điều kiện để hiểu rõ hơn về quá trình dân tộc hóa, dân gian hóa

những yếu tố văn học vay mượn từ nước ngoài.

2.2.2.11. Biểu tượng rồng - mây:

Biểu tượng rồng mây trong ca dao bắt nguồn từ câu "Vân tòng long, phong tòng

hổ" (mây theo rồng, gió theo hổ) trong Kinh dịch, biểu thị cho việc gặp thời cơ thuận

lợi, có thể thỏa sức bay nhảy, tung hoành như rồng mây gặp nhau, hổ gió gặp nhau (hổ

nhảy, vồ, chạy ... thuận gió như được chắp cánh). Những vật cùng khí loại thường

cảm ứng mà tìm đến nhau. Lời sổ của Khổng Đĩnh Đạc (Đường) nói: "Mây theo rồng,

gió theo hổ là bởi tại rồng là vật do nước nuôi nên, mây là khí nước, vi lẽ đó rồng gầm

thi mây lành xuất hiện. Thế là mây theo rồng vậy. Hổ là loài mãnh thú, gió là khí chấn

động. Đó là sự tương cảm của vật đồng loại cho nên hổ gầm thi gió nổi. Thế là gió

theo hổ" [41, tr.466].

Văn học cổ Việt Nam đã sử dụng điển cố này rất nhiều với các tên gọi quen

thuộc: hội rồng mây. hội mây rồng, hội gió mây, hội long vân ... để chỉ khi vua tôi gặp

nhau, khi thi đậu, khi gặp may mắn, công danh hiển đạt ..., nói chung là chỉ việc gặp

thời cơ tốt có liên quan đến công danh, sự nghiệp. Với chế độ học hành, thi cử và tiến

thân bằng con đường hoạn lộ như thời xưa thi việc sử dụng phổ biến điển cố này cũng

là điều dễ hiểu. Muốn tiến thân không chỉ cần sôi kinh nấu sử ngày đêm, mà còn cần

phải gặp được thời cơ thuận lợi (Thiên thời, địa lợi, nhân hòa). VI vậy, trong văn

chương, khi bàn đến chuyện lập thân của đấng nam nhi, nhiều tác giả đã nhắc đến "hội

rồng mây".

- Duyên ngư thủy, hội long vân còn đó,

Miếng đỉnh chung cho biết mùi đời. (Nguyễn Công Trứ)

Trong ca dao, rồng - mây biểu thị cho sự xứng hợp, sự gắn bó quấn quýt giữa

các đôi lứa trong tình yêu (rồng gặp mây, rồng ấp lấy mây, rồng ngược mây xuôi, lời

rông mây ...). ơ đây, điên cô long vân cũng được dùng đê chỉ thời cơ thuận lợi nhưng

không phải ở chốn trường thi, chốn quan trường, mà là ở chốn vườn đào, vườn hồng,

vườn xuân - nơi những đôi lứa gặp gỡ, yêu nhau, đổi trao lời ca tiếng hát với nhau.

Rồng - mây bây giờ được cụ thể hóa thành chàng trai, cô gái:

- Bây giờ rồng mới gặp mây

Sao rồng chẳng thở với mây vài lời ... (TL I - tr.256)

Cùng xuất phát từ một điển cố, nhưng hai dòng văn học có hai cách sử dụng

khác nhau, hướng về hai trường nghĩa khác nhau.

2.2.2.12. Biểu tượng chim phượng - cây ngô đồng:

Nằm trong trường hợp trên còn có biểu. tượng chim phượng - cây ngô đồng.

Theo Kinh Thi - Đại Nhã: "Chim phượng hoàng hòa vang tiếng hót trên ngọn đồi cao

kia, cây ngô đồng mọc hướng về mặt trời, cành lá sum suê, tiếng hót hòa vang". Lời

chú thích nếu đại ý: Chim phượng hoàng không gặp cây ngô đồng thi không chịu đậu,

không gặp quả tróc thi không ăn. Điển cố này có nghĩa:

người hiền tài gặp minh chúa thi đắc dụng, minh chúa dùng người hiền tài thi

được nhiều phúc lộc" [137, tr.192].

Cách dùng điển cố theo nét nghĩa này có thể thấy trong một số tác phẩm văn thơ

Nôm: - Ngày nay thánh chúa trị đời,

Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. (Nguyễn Đinh Chiểu)

Người bình dân Việt Nam khi sử dụng điển cố này đã ngầm thỏa thuận hiểu theo

một hướng khác: linh phụng - ngô đồng là hình ảnh của một lứa đôi

xứng hợp, đẹp đẽ: - Bây giờ ta lại gặp ta,

Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây.

Xe vào như gió, như mây,

Như chim loan phụng đỗ cây ngô đồng. (TL I - tr.257)

Qua phần trình bày trên, có thể kết luận: một số điển cố khi đi vào ca dao đã

được hiểu theo những nét nghĩa khác với khi chúng được sử dụng trong văn chương

bác học. Điều này chủ yếu có nguyên nhân từ thế giới tâm hồn, thế giới tình yêu mà

ca dao luôn hướng tới để phản ánh. Trường nghĩa của một số các điển cố - biểu tượng

thay đổi theo sự chi phối của hệ thống chủ đề, đề tài ca dao mà chúng phụ thuộc vào.

Chủ đề lớn nhất trong ca dao là tình yêu đôi lứa. Các điển cố - biểu tượng cũng theo

đó mà được hiểu cho phù hợp. Rồng - mây, trúc -mai, linh phụng - ngô đồng, mận -

đào khi đi vào ca dao đã trở thành những biểu tượng sóng đôi tô điểm cho mối quan

hệ tình yêu của các chàng trai, cô gái nông dân mộc mạc, chất phác thời xưa một màu

sắc trang trọng, cao quý thường thấy trong văn chương bác học.

2.3. Những biểu tượng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự

nhiên và đời sống hàng ngày của nhân dân ta:

Rất nhiều biểu tượng trong ca dao Việt Nam đã hình thành từ sự quan sát đời

sống thiên nhiên, đời sống xã hội của nhân dân ta. Những biểu tượng thuộc nhóm này

chiếm số lượng lớn nhất so với các nhóm khác. Đây cũng là lẽ tự nhiên vi cái nôi lớn

nhất của nghệ thuật vẫn là hiện thực, thực tế đời sống. Qua việc tìm hiểu nguồn gốc

của các biểu tượng trong nhóm này, có thể phần nào hình dụng được con đường hình

thành biểu tượng trong ca dao.

Trong một số công trình nghiên cứu, nhiều biểu tượng đã được tìm hiểu, phân

tích theo hướng này như: con cò, con bống, hoa nhài, trăng, sông ... Các tác giả đều

thống nhất cho rằng xuất phát từ đời sống Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam, từ sự quan

sát hàng ngày của người bình dân xưa mà các biểu tượng này đã dần được hình thành.

2.3.1. Biểu tượng con cò:

Bàn về con cò, Vũ Ngọc Phan cho rằng: "Dưới con mắt người lao động ở nông

thôn, trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng chỉ có con cò thường gần người nông

dân hơn cả ... Những lúc người dân lao động Việt Nam xúc cảm, tâm trí muốn vươn

lên, muốn ca hát cho tâm hồn bay bổng, thoải mái trong khi làm lụng, thi chỉ có con

cò gợi hứng cho họ nhiều" [123, tr.72-73]. Nhận xét này đã góp phần nhấn mạnh

nguồn gốc của biểu tượng con cò trong ca dao: sự quan sát thiên nhiên của người nông

dân. Đời sống của loài chim này có nhiều điểm gần gũi với cuộc đời người nông dân

nơi đồng mộng:"'Con cò trắng bệch kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay

lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc nó

vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc đời mà người dân lao động nước ta thời xưa

hằng mong ước [123, tr.73]. VI vậy người nông dân xưa đã mượn cánh cò trắng kia để

biểu hiện minh.

Trở về với thời kỳ khuyết sử, theo truyền thuyết thi tổ tiên người Việt Nam

thuộc họ Hồng Bàng và là giống Rồng - Tiên (con Hồng, cháu Lạc; con Rồng, cháu

Tiên). Hồng Bàng (hồng: loài chim nước; bàng: lớn) là một loài chim nước lớn. Còn

Tiên - Rồng là một cặp đôi, trong đó có thể Tiên đã được nhân dân ta trừu tượng hóa

từ giống chim, còn Rồng được trừu tượng hóa từ rắn và cá sấu, đó là những loài vật có

rất nhiều ở vùng sông nước và do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu.

Như vậy từ thời xa xưa, người Việt Nam đã xem rồng và chim là vật tổ của minh.

Giữa con cò trong ca dao và loài chim nước lớn trong Hồng Bàng, Rồng - Tiên có lẽ

đã có một mối liên hệ gần gũi. Nếu trước kia người Việt Nam đã từng cho loài chim

nước là vật tổ của minh, thi đến đời sau họ chọn con cò (cũng là loài chim nước) làm

biểu tượng cho minh, cũng không có gi khó hiểu. Đoàn Văn Chúc đã lý giải điều này

bằng sự tham gia của vô thức, tiềm thức, tâm thức cộng đồng vào sự hình thành biểu

tượng: "Hoàn toàn có thể nghĩ được rằng: một mặt ký ức tập thể lưu lại từ ngàn xưa

trong vô thức của mỗi thành viên xã hội những hình ảnh quen thuộc của dân tộc; một

mặt khác, chính môi trường tự nhiên họ đang sống cũng còn đông đúc những hình ảnh

quen thuộc ấy, quen thuộc trong cả mấy tầng của ý thức" [14, tr.72 - 73].

Rõ ràng, từ sự quan sát đời sống hàng ngày của người nông dân đến việc hình

thành biểu tượng là con đường không đơn giản và ngắn ngủi chút nào. Sự quan sát

không phải tiến hành trong ngày một ngày hai mà đằng đang, dằng dặc trong không

gian và thời gian. Quan sát rồi tích lũy, tích lũy rồi quan sát, đó là quá trình diễn ra

không ngừng, để rồi như những lớp phù sa bồi tụ thành vùng đất mới, thành phẩm

cuối cùng của quá trình quan sát và cảm nhận đó là các biểu tượng.

2.3.2. Biểu tượng sông:

Cuộc sống người Việt gắn bó chặt chẽ với môi trường sông nước, cho nên trong

ca dao, sông đã trở thành biểu tượng cho nhiều giá trị có liên quan đến con người. Môi

trường sống tác động đến con người về nhiều mặt. Nhất là vào thời xa xưa, khi khoa

học kỹ thuật chưa phát triển, con người còn phải lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, bị

thiên nhiên chi phối. Con người phải tìm mọi cách để thích nghi, thích ứng với môi

trường tự nhiên thi mới tồn tại được. Con sông chảy qua các xóm ấp, làng xã suốt bốn

mùa, khi thi hiền hòa, lúc lại hung dữ, khiến người ta liên tưởng sông như có linh hồn.

Con sông khi thi nuôi sống con người, có lúc lại gây ra thảm họa ... khiến cho con

người luôn phải chú tâm về cách sống của minh để hòa hợp được với môi trường thiên

nhiên ấy. Sông trở thành mối quan tâm hàng đầu của cư dân vùng sông nước trước hết

vi sự sống còn của chính họ.

Trong đời sống hàng ngày, khi lao động, sinh hoạt, đi lại trên sông, người nông

dân đã thường xuyên tiếp xúc và quan sát, cho nên, hơn ai hết, họ có một sự hiểu biết

sâu sắc, tường tận về sông: sông có nhiều thác, ghềnh, vực sông có nhiều khúc sâu,

cạn khác nhau; thủy triều khi xuống, khi lên; dòng chảy khi mạnh, khi yếu; bờ sông

bên lở, bên bồi ... Sông là nơi khó khăn, thử thách lòng dũng cảm, ý chí của con người

... Tất cả những đặc điểm này đều được dân gian chú ý đến khi họ liên tưởng sự giống

nhau giữa sông và con người:

- Sông bao nhiêu nước cho vừa,

Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng. (TL I - tr. 1840)

- Sông dài thi lắm đò ngang,

Anh nhiều nhân ngãi, thi mang oán thù. (TL I - tr. 1842)

Bắt đầu có lẽ chỉ là những câu ca dao so sánh theo phép đối ngẫu tâm lý như thế.

Lâu dần, sự tích tụ của nhiều câu hát dân gian để lại trong tâm trí con người một mối

quan hệ sông - con người. Sông cũng là con người với những tính cách, trạng thái,

cảnh đời ...

Đặc biệt ở vùng quê Nam bộ, hệ thống sông ngòi, kênh rạch vô cùng phong phú

thi sức sống của biểu tượng này trong tâm thức con người càng mãnh liệt hơn. Miêu tả

vùng này, đầu thế kỷ XIX, trong một cuốn sách Trịnh Hoài Đức đã ba lần nhắc tới đặc

điểm trên: "Đất Gia Định nhiều sông, kênh, cù lao và bãi cát,-trong mười người đã có

chín người quen việc chèo thuyền, biết nghề bơi lội", [36,tr.l2]. Với cảnh quan thiên

nhiên như thế, sự hình thành biểu tượng sông trong tâm thức con người là điều tất yếu.

2.3.3.Biểu tượng chiếc cầu:

Một biểu tượng nữa cũng cố nguồn gốc từ sự quan sát của nhân dân về môi

trường sông nước là chiếc cầu. Đây là vật thể rất quen thuộc trong đời sống người

Việt. Sông ngòi, kênh rạch, mương xáng đan dệt như mạng nhện là những trở ngại đối

với sự đi lại của con người khi họ không dùng thuyền. Chiếc cầu giúp họ nối đôi bờ

gần lại. Giao thông vi thế mà không bị ách tắc. Mọi sinh hoạt của con người trở nên

thuận lợi hơn. Chiếc cầu có thể dài hoặc ngắn, mới hoặc cũ, lớn hoặc nhỏ. đẹp hoặc

xấu, kiên cố hoặc không kiên cố, cầu đúc hoặc cầu gỗ ... nhưng dù là thế nào đi nữa

thi giá trị cơ bản của nó vẫn là nối liền hai đầu xa cách. Từ vai trò quan trọng của

chiếc cầu trong đời sống hàng ngày, dân gian đã liên tưởng đến những chiếc cầu như

thế trong tình yêu đôi lứa:

- Ước gi sông hẹp một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. (TL I - tr. 2292)

Trong câu hát dân gian, chiếc cầu của đời thường trở thành hình ảnh biểu hiện

ước mơ được sống bên nhau, không còn ngăn cách. Từ chiếc cầu của hiện thực đến

chiếc cầu của nghệ thuật, đó là cả một quá trình quan sát, tưởng tượng, liên tưởng của

người xưa, gói ghém trong đó cả những nỗi niềm, khao khát của tuổi thanh xuân.

2.3.4.Biểu tượng chiếc thuyền:

Nhắc đến môi trường sông nước, ta không thể không nói đến biểu tượng thuyền.

Từ thời xa xưa, phương tiện đi lại chủ yếu của người Việt là giao thông đường thủy.

Đi lại trên sông nước tuy khó khăn, phức tạp, trắc trở, nhiều nguy hiểm hơn đường bộ

nhưng đó lại là phương tiện đi lại phổ biến ở nước ta. Để việc sinh hoạt được thuận

lợi, tổ tiên ta đã sáng tạo ra chiếc thuyền. Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu sử

dụng thuyền của con người ngày càng tăng, nhiều hình thức khác nhau của con thuyền

được ra đời cùng với các tên gọi riêng: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phá, tàu ...

Thuyền có rất nhiều loại: thuyền thúng, thuyền thoi, thuyền mành, thuyền lươn,

thuyền đinh, thuyền cóc, thuyền chài, thuỵền rồng, thuyền độc mộc, thuyền tam bản ...

Ghe Nam bộ thi có: ghe bầu, ghe cửa, ghe lồng, ghe giàn, ghe be, ghe bè, ghe chài,

ghe lưới, ghe ngó, ghe đò ...

Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng người Việt cổ "lặn giỏi, bơi tài, thạo thủy

chiến, giỏi dùng thuyền". Nói về sự khác biệt truyền thống trong cách thức đi lại của

người phương Nam và phương Bắc, các sách Trung Hoa đời Hán thường diễn đạt

ngắn gọn là: “Nam di chu, Bắc di mã” (Nam đi thuyền, Bắc đi ngựa). Người phương

Tây đến Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước cũng đặc biệt chú ý đến kỹ thuật đóng thuyền

của nước ta. Năm 1820, đại tá hải quân Mỹ là White đã phải thốt lên: "Người Việt

Nam quả là những nhà đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một

kỹ thuật hết sức chính xác" [156, tr.252].

Không chỉ là phương tiện giao thông quan trọng, con thuyền còn là phương tiện

sinh sống của người Việt xưa. Người ta dùng thuyền để đánh bắt tôm, cá, cua, ốc

..dùng ghe xuồng để đi bẻ bông, bẻ trái ..., để buôn bán, trao đổi hàng hóa với nhau.

Môi trường sông nước thiên nhiên đã trở thành nơi để con người hội họp, gặp gỡ, mua

bán ... Cuộc đời của biết bao con người đã gắn bó với chiếc thuyền bồng bềnh trên

mặt nước, năm này qua tháng nọ, với nhiều kỷ niệm buồn vui. Hình ảnh con thuyền đã

ăn sâu vào tâm khảm người Việt Nam đến mức nhiều mặt hoạt động của con người

đều lấy con thuyền làm chuẩn mực để so sánh: chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo;

thuyền theo lái, gái theo chồng; buôn tàu, buôn bè không bằng ăn dè hà tiện ...

Con thuyền từ trong đời sống hàng ngày đã đi vào văn hóa nghệ thuật dân gian,

để lại những dấu ấn khó phai mờ trong tâm thức người Việt: "Trên mặt trống đồng và

tang trống đồng, hiện vật tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn, giai đoạn cực

thịnh của thời đại đồng thau trên đất nước Việt Nam, chúng ta thấy dưới ánh mặt ười

tỏa sáng là những chiếc thuyền, có những người chèo thuyền như đang thi tài" [185,

tr.55].

Ngày nay, nhin lại mỹ thuật điêu khắc ở các đinh, chùa, ta thường gặp những

cảỉứi sinh hoạt đóng thuyền, chèo thuyền ... rất linh hoạt. Bức Dựng cột buồm được

chạm trổ ở đinh Ngọc Canh (Vĩnh Phú) là một ví dụ. Cảnh đóng thuyền buồm của một

nhóm thợ đã được miêu tả bằng những đường nét rất tình tế[139,tr.201].

Con thuyền còn được chạm trổ hay in hoa văn rõ nét trên những đồ gốm đủ kiểu,

trên nhiều đồ dùng gia đinh như tủ, giường, ghế v.v... Con thuyền thật sự đã trở thành

mội môtip trang trí phổ biến trong dân gian.

Trong sinh hoạt ca hát dân gian, con thuyền đã từng làm nảy sinh ra một số hình

thức thể loại, trong đó con thuyền đóng vai trò là hình tượng trung tâm: hò chèo

thuyền, hò đẩy thuyền, hò mắc cạn ...

Trên mặt nước mênh mông, với khung cảnh nên thơ, trữ tình, chiếc thuyền còn

là phương tiện để nam nữ thanh niên gặp gỡ, làm quen, tìm hiểu... Hát chèo ghe là loại

hát của người Nam bộ xưa, khi chèo ghe xuôi theo dòng nước, đứng trước cảnh trời

cao, sông rộng, tức cảnh sinh tình mà hát lên. Có khi họ hát một minh, có khi là hát

đưa duyên cùng với các đối.tượng khác giới. Miền Nam với hệ thống sông ngòi, kênh

rạch dày đặc là nơi ghe xuồng qua lại tấp nập để mua bán, trao đổi, đi lại ... cho nên

lối hát chèo ghe rất thịnh hành, cũng như ở miền Trung và miền Bắc có lối hát đò đưa

vậy.

Con thuyền còn đi vào dân ca nghi lễ với hò đưa linh, hát dô (ở Quốc Oai, Hà

Sơn Bình), hát bả ữạo (ỏ Quảng Nam - Đà Nấng), hát dậm (Hà Nam Ninh), chèo chãi

hô (ở Tiên Sơn - Hà Bắc). Hò đưa linh được diễn xướng trong, khi tiến hành nghi lễ

tiễn đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng. Chiếc quan tài mô phỏng theo hình con

thuyền, cái thế giới bên kia được quan niệm là một vùng sông nước (chín suối) nên

đến đố phải đi bằng thuyền. Trong hò đưa linh, một đoàn gồm khoảng 14, 16 hoặc 18

người sẽ giữ nhiệm vụ chèo lái con thuyền (tưởng tượng) để đưa linh cữu người chết

tới miền cực lạc.

Rõ ràng, hình ảnh con thuyền đã chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức

người Việt Nam. Trong đời sống vật chất hàng ngày, sự vật nào đối với họ là quan

trọng thi trong đời sống văn hóa tình thần, sự vật đó cũng được đặc biệt chú ý. Sự hiện

diện của hình ảnh con thuyền trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân gian là một bằng

chứng. Cũng từ đây, con thuyền đi vào ca dao - với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng -

nhưng nghĩa bóng nổi trội hơn. Từ cuộc sống bồng bềnh, xuôi ngược trên chiếc

thuyền, người xưa đã phát hiện ra nhiều kliía cạnh, đặc điểm của chiếc thuyền tương

ứng với đời sống tình cảm của con người. VI vậy, con thuyền đã dần trở thành biểu

tượng. Mảnh ván đã đóng thuyền giống như người con gái đã có chồng, thuyền không

lái như cô gái không chồng (hoặc chàng traikhông vợ), thuyền gắn bó vđi bến như đôi

lứa trong tình yêu gắn bó với nhau, thuyền nghiêng, thuyền tròng ưành giống như

những cuộc đời, những số phận bấp bênh, bất hạnh ...

2.3.5. Biểu tượng bến:

Cùng với thuyền là biểu tượng bến. Thuyền di động - bến cố định, thuyền chủ

động - bến bị động. Thuyền là hình ảnh của những chàng trai rong ruổi nơi xa, còn

bến là thân phận của người con gái ở lại đợi chờ, chung thủy. Những cô gái, những

người vợ, cố lẽ ngày xưa đã từng nhiều lần ra nơi bến sông để ngóng đợi, mong mỏi

người yêu, người chồng trở về trên các con thuyền sau những ngày xuôi ngược làm ăn

đây đó. Họ thấy tình cảm của họ đối với người đi xa thật giống như nỗi nhớ mong

giữa bến với thuyền.

- Thuyền dời nào bến có dời,

Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn. (TL I - tr.2089)

2.3.6. Biểu tượng cá:

Trong ca dao, cá là hình ảnh quen thuộc khi giới thiệu về sản vật địa phương,

nhưng không chỉ có thế, cá còn được dân gian đưa vào câu hát của họ để biểu hiện

những số phận con người, đó là người phụ nữ.

Địa hình sông nước là môi trường sống lý tưởng cho các loài tôm cá. Người

nông dân xưa rất tự hào khi nhắc đến những sản vật của quê hương: cá rô Đầm Sét; cá

sông Giăng, cá Hồ Tây, cá Bàu Nậy ... Các cụm từ "nhiều cá", "lắm cá" được nhắc đi

nhắc lại nhiều lần, gây ấn tượng khó quên cho người thưởng thức ca dao về xứ sở trù

phú này.

Với người nông dân một nắng, hai sương, cá là loại thức ăn có thể tìm được

không mấy khó khăn, lại có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, thông dụng. Cá trê

nổi tiếng với món canh bầu, cá nục nấu dưa hồng, bông súng cá kho, canh chua điên

điển cá linh, cá bống kho gừng, cơm trắng cá chim, cá lóc nướng trui ... Những món

ăn đậm đà hương vị quê hương này đã đi vào ca dao, góp phần khẳng định thêm sự

phổ biến của loài vật hiền lành này trong đời sống thường ngày của dân gian.

Nghề chài cá, lưới cá, câu cá ... cũng là những nghề phổ biến thời xưa. Cá tôm

nhiều tất người đánh bắt cũng phải nhiều. Ca dao đã ghi lại nhiều trường hợp cả gia

đinh đều sống bằng nghề cá:

- Chồng chài, vợ lái (lưới), con câu

Cha xúc, mẹ nhủi, nàng dâu đi mò. (TL II (2) - tr.24)

Đánh bắt cá đã trở thành nghề nghiệp nuôi sống được một bộ phận dân cư, tạo

cho họ có cuộc sống ổn định.

Từ đời sống hàng ngày, loài vật này đã đi vào thế giới của văn hóa dân gian.

Nam nữ gặp nhau, đố nhau cũng hướng về con cá:

Đố anh mấy thứ cá đồng,

Một câu nói trọn mới hòng đáng khen?

- Rô, trê, sặc, dầy dầy

Ròng ròng, hửng hỉnh lộn bầy lia thia. (TL II - tr. 138)

Nghệ thuật chơi chữ tạo nhiều câu đố thú vị về cá:

Con mèo không rách sao kêu mèo vá,

Con cá không thờ sao gọi cá linh?

Thành ngữ, tục ngữ cũng dành một vị trí đáng kể cho loài vật này tham gia vào

nếp nghĩ, nếp diễn đạt của dân gian: cá gặp nước, cá nước chim trời, bóng chim tăm

cá, chim sa cá lặn, cá chậu chim lồng, cá vượt Vũ Môn, cá hóa rồng, cá mè một lứa,

kén cá chọn canh, được cá quên nơm, ăn cá bỏ lờ, cá lớn nuốt cá bé, cá nằm trên

thớt...

Quan sát đời sống, sinh hoạt của con cá, người ta thấy có nhiều khía cạnh tương

đồng với đời sống con người, nhất là người phụ nữ. Nhiều câu hát được ra đời trong

sự so sánh, ẩn dụ dưa người và cá:

- Thân em như cá lội tránh mồi,

Tìm nơi sông lớn, vịnh bồi ẩn thân. (TL III - tr.377)

Lâu dần, cứ hễ muốn nói đến thân phận người con gái, người ta nghĩ ngay đến

con cá mắc lưới, mắc câu, cá trong chậu, cá trong ao, cá trong lờ..muốn chỉ việc chàng

trai đeo đuổi cô gái thi dùng hình ảnh người đi câu cá, tâm trạng buồn thi liên tưởng

"cá sầu cá chẳng quẫy đuôi", gặp người yêu xứng hợp thi ví như cá gặp nước ... Con

cá đã đi vào hệ thống biểu tượng của ca dao, trở thành một tín hiệu thẩm mỹ trong lối

diễn đạt của người Việt. Cá - thân phận chịu nhiều ràng buộc, thường là sống trong

cảnh thiếu tự do..., đời sống ấy thật gần gũi với cuộc đời của những người con gái thời

xưa phải chịu nhiều tầng áp bức bất công, không đước sống tự do như khát vọng của

minh. Hình ảnh con cá thường được nhắc đến với sự cảm thương, cảm thông sâu sắc.

2.3.7. Biểu tượng cây, hoa, trái:

Cùng với thế giới động vật, thế giới thực vật trong môi trường thiên nhiên Việt

Nam cũng là nguồn gốc quan trọng của các biểu tượng . Thực vật trong ca dao phong

phú, đa dạng vô cùng. Tuy nhiên, không phải tất cả đều trở thành biểu tượng. Có khi

dân gian dùng cây, hoa, trái, kiểng nói chung để biểu thị cho con người, tính cách,

hoàn cảnh. Cố khi người ta dùng một số loại cụ thể như: trúc, mai, liễu, tùng, lan, huệ,

sen, lê, lựu, đào, cam, chanh, khế... Những sự vật này được'đặc biệt chú ý và sử dụng

phổ biến trong ca dao trước hết vi trong đời sống hàng ngày chúng rất quen thuộc và

hữu dụng đối với mọi người, sau nữa là do ảnh hưởng một phần của văn chương bác

học.

Nếu trong thiên nhiên không có những vườn cây đầy hoa thơm, quả ngọt thi

cũng sẽ vắng bóng các biểu tượng cây, hoa, quả trong ca dao. Người bình dân nhận ra

ở các loại cây, hoa, quả nhiều điểm tương đồng với chu trình sống của con người. Hoa

thơm, hoa tươi, hoa nở, trái chín mọng ... gợi liên tưởng đến người con gái thanh tân;

hoa tàn, hoa héo, cây héo ... gợi liên tưởng người con gái tàn tạ; người trồng cây,

trồng hoa, hái hoa, hái trái giống như người con trai trong tình yêu; những loài cây,

hoa, quả khác nhau về phẩm chất, hình dáng dễ khiến ta nghĩ đến những loại người

khác nhau trong xã hội ... Đối với người nông dân xưa, thiên nhiên là môi trường lao

động, môi trường sinh hoạt ca hát dân gian, đồng thời, thiên nhiên cũng là phương

tiện thẩm mỹ để con người thể hiện những tâm tư, tình cảm của minh.

Thiên nhiên đã ùa vào ca dao là vi thế. Cây trái, hoa quả Việt Nam được mến

yêu, trân trọng, được dùng làm biểu tượng cho tâm hồn, tính cách, đời sống của con

người Việt Nam:

- Khế rụng bờ ao thanh thao anh lượm,

Ngọt như cam sành héo cuống anh cũng chê. (TL I - tr. 1181)

- Anh về mắc võng ru con,

Đừng nên tơ tưởng trái chanh non trái mùa. (TL I - tr. 169)

2.3.8. Biểu tượng trăng:

Trăng là hiện tượng tự nhiên được nhắc đến rất nhiều trong ca dao với cả nghĩa

đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa biểu vật lẫn nghĩa biểu cảm, biểu tượng. Hoàng Trình cho

rằng: "Trong tư cách một hành tình, nó chẳng có chút gi là thơ. Nhưng ở một nước

nông nghiệp mà cuộc sống con người gắn bó với thiên nhiên, từ lao động sản xuất đến

môi sinh và thế giới tình cảm thi trăng là một vật vô tri có linh hồn cứ "quấn lấy linh

hồn chúng ta và buộc nó phải yêu" [173, tr.64]. Thật vậy, thời xưa, khi chưa có ánh

điện thi trên bầu trời bao la về đêm chỉ một minh vầng trăng ngự tri, ban ánh sáng cho

khắp nhân gian. vầng trăng đó đã thu hút được sự chú ý của con người do hình dáng

đẹp đẽ, thanh tú, ánh sáng dịu dàng, và còn do cả sự có mặt thường xuyên, liên tục của

nó trên bầu trời suốt đếm, suốt tháng, suốt năm, suốt đời ... Người xưa đã chú ý đến

nhiều khía cạnh của trăng và đem chúng gắn kết với thế giới tình cảm con người:

trăng tròn, trăng khuyết, trăng non, trăng già, trăng tỏ, trăng mờ, trăng lu, trăng mọc,

trăng lặn, trăng vàng, trăng thanh, trăng bạc ... Với ca dao, trăng đã trở thành biểu

tượng của nhiều giá trị.

Thân em như thể trăng rằm,

Mây đen có phủ chẳng lầm giá trong. (TL I - tr.2031)

2.3.9. Các biểu tượng khác:

Các biểu tượng ruột tằm, tằm - dâu, tằm - nhện gắn liền với cuộc sống lao động

trồng dâu, nuôi tằm của nhân dân ta ngày trước. Biểu tượng yếm đỏ, khăn, nón, áo gắn

với cách trang sức, ăn mặc quen thuộc của người bình dân. Biển, rừng, núi, mái đinh,

nhà ngói, nhà tranh ... là những biểu tượng gắn chặt với không gian sinh hoạt, lao

động của nhân dân tả. Biểu tượng ngọn đèn, giường, chiếu, mâm, bát, khóa, chia, kim,

chỉ, gương, lược ... gắn với thế giới vật thể nhân tạo mà dân gian tiếp xúc, quan sát

hàng ngày.

Nhin vào nhóm biểu tượng thứ ba này có thể thấy rõ rằng những sự vật, cho dù

là xấu xí nhất, bình thường nhất cũng đều có khả năng đi vào ca dao và trở thành biểu

tượng, không hề có một giới hạn nào (chiếc áo rách, cánh bèo, gương tróc thủy, bông

hoa tàn, cây kiểng héo ...). Phải chăng cũng chính vi điều này, cho nên ca dao rất gần

với đời sống, có khả năng thể hiện phong phú và tình tế mọi khía cạnh, cung bậc trong

đời sống tình cảm của con người?

Nói tóm lại, con đường hình thành của nhiều biểu tượng trong nhóm này là: từ

thực tế cuộc sống đến với tâm thức dân gian, rồi đi vào ca dao. Ý tưởng sử dụng một

sự vật nào đó để làm biểu tượng nếu đã là của dân gian thi nó sẽ được nuôi dưỡng,

thấm nhuần và lan tỏa trong mọi hình thức, thể loại của văn hóa, văn nghệ dân gian.

Các phương thức thể hiện biểu tượng thi muôn hình muôn vẻ nhưng tâm thức dân gian

chỉ là một. VI vậy, tìm hiểu tâm thức dân gian, ta có điều kiện để hiểu sâu sắc hơn

tầng nền, tầng lịch sử - văn hóa - xã hội của một biểu tượng. Gốc rễ của các biểu

tượng được cắm trên mảnh đất của văn hóa, văn nghệ dân gian, cho nên tìm hiểu biểu

tượng cần phải chú ý đến mảnh đất sinh thành ra nó là vi vậy.

Thực ra, việc trình bày nguồn gốc các biểu tượng theo lối phân chia như trên chỉ

mang tính chất tương đối mà thôi. Một số biểu tượng có nguồn gốc khá phức tạp, đó

là sự đan xen của nhiều quan niệm, nhiều ảnh hưởng khác nhau. Biểu tượng trầu - cau

vừa xuất phát từ phong tục, tập quán của dân tộc, vừa là kết quả của sự quan sát thiên

nhiên tình tế. Biểu tượng cây đa cũng vậy. Còn biểu tượng rồng thi vừa có lai lịch từ

các quan niệm thần thoại, vừa có lai lịch từ văn học cổ Trung Quốc và Việt Nam. Mận

- đào, trúc - mai, nhạn - én là những biểu tượng được hình thành từ các điển cố Trung

.Quốc kết hợp với quá trình quan sát thực tế hàng ngày của người bình dân Việt Nam

...

Qua việc tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng ca dao, có thể nhận ra vai trò quan trọng

của thao tác quan sát thế giới khách quan chung quanh con người. Từ quan sát thực

tế, rồi phát hiện ra những mối dây liên hệ, những điểm tương đồng giữa các sự vật, sự

việc, dẫn đến hình thành biểu tượng là con đường chung của mọi công thức biểu

tượng ca dao, dù đó là biểu tượng được bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam hay Trung

quốc, từ thần thoại, truyền thuyết hay phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian. Để

hình thành biểu tượng tùng, trúc, mai người Trung Quốc xưa cũng phải tiến hành quan

sát thiên nhiên qua bốn mùa trong năm. Để hình thành biểu tượng rồng, người xưa đã

quan sát các động vật rắn, cá sấu, thuồng luồng trong một thời gian dài rồi tích lũy

những đặc điểm của chúng lại trong hình ảnh một con vật tưởng tượng là rồng.

Việc quan sát còn trở thành cơ sở cần thiết cho quá trình tiếp nhận các biểu

tượng không có nguồn gốc trực tiếp từ thực tế cuộc sống của những người sáng tạo

nên ca dao. Người lao động Việt Nam sẽ khó chấp nhận cây liễu Chương Đài, cây

tùng, cây trúc, cây mai, cây đào. cây mận, con nhạn, con én ... nếu như thiên nhiên ở

nước ta không có những loài cây, loài vật ấy. Sự quan sát đời sống, quá trình khám

phá, phát hiện những đặc điểm, tính chất của các sự vật chung quanh minh sẽ tạo nên

một lực cộng hưởng lớn khi người bình dân được tiếp xúc với các biểu tượng, văn

liệu, thi liệu co liên quan của nước ngoài. Có thể nói cụ thể hơn rằng: các biểu tượng

đã được họ cảm nhận từ hai hướng: văn chương và cuộc sống. Nếu thiếu hướng thứ

hai, biểu tượng không thể "bén rễ xanh cây” trong nguồn thi hứng của cả một cộng

đồng được.

Các biểu tượng được hình thành từ nhiều con đường khác nhau tạo nên sự đa

dạng, phong phú cho biểu tượng, cho hệ thống mã thẩm mỹ ca dao. Đáng chú ý nhất

là hiện tượng nhiều biểu tượng sóng đôi được hình thành, cho thấy nhu cầu thể hiện,

giãi bày tâm tư, tình cảm lứa đôi trong nhân dân là cực kỳ lớn. Điều này hoàn toàn

hợp lý và dễ hiểu, vi trong hoàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa, với nhiều ràng buộc,

cấm đoán khắt khe, người dân luôn khao khát sự tự do trong yêu đương, mà trước hết

là được tỏ bày tình yêu trong lời ca tiếng hát của minh. Qua các cặp biểu tượng này,

các chàng trai, cô gái muốn khẳng định tình yêu của họ là sự kết hợp tự nhiên, hợp

quy luật... Các bài ca dao với sự xuất hiện của những biểu tượng sóng đôi - nhiều bài

là lời tâm tình của nữ giới - cho thấy trái tìm họ dạt dào tình cảm, muốn bộc lộ và

khẳng định tình yêu cùng quyền được hạnh phúc của minh.

Biểu tượng được xây dựng bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn chương bình dân lại

rất gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta. VI vậy, nhiều biểu tượng được

sử dụng trong ngôn ngữ thường ngày, trong khẩu ngữ đã được đưa vào ca dao một

cách tự nhiên, hoặc một số biểu tượng đã được hình thành từ trong các-thể loại khác

của văn học dân gian, các loại hình khác của nghệ thuật dân gian cũng đi vào ca dao

không hề có sự phân biệt. Có thể lý giải điều này bằng một cái nhin chung về tâm thức

dân gian, mỹ học dân gian. Văn hóa dân gian bao gồm nhiều loại hình khác nhau, văn

học dân gian có nhiều thể loại khác nhau, nhưng tựu trung lại chỉ có một loại mỹ học

dân gian. một cái nhin thống nhất về chân, thiện, mỹ, một quan niệm về cái đẹp nhất

quán, không hề thay đổi. VI vậy, các biểu tượng nghệ thuật được hình thành từ trên

những mảnh đất khác nhau của văn hóa, văn học dân gian, có thể xâm nhập, di chuyển

và phát triển trong các thể loại khác là điều có thể hiểu được. Biểu tượng trầu cau,

rồng, thuyền, cá, hoa... là những ví dụ.

Bàn về các công thức truyền thống trong ca dao, Bùi Mạnh Nhị cho rằng:

"Nghiên cứu các công thức folklore cần phải tìm hiểu "cốt" văn hóa, dân tộc học và sự

hình thành nghĩa của chúng. Chính đây là cuộc sống bề sâu của các công thức, cũng

như của tác phẩm folklore" [118, tr.310]. "Cốt" văn hóa dân tộc học của biểu tượng

chính là nguồn gốc của chúng. Tìm hiểu lai lịch các biểu tượng là vấn đề không dễ

dàng, nhưng nếu cố gắng, có thể từ đây chúng ta sẽ mở được nhiều cánh cửa diệu kỳ

để nghiên cứu và thưởng thức ca dao.

CHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ BIỂU TƯỢNG NGHÊ

THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT

Thế giới biểu tượng trong ca dao người Việt đa dạng, phong phú như chính bản

thân cuộc sống - nơi cội nguồn đã sinh ra biểu tượng. Để tìm hiểu thật tường tận các

biểu tượng, cần tiến hành việc phân loại, hệ thống hóa để bước đầu có được một cái

nhin bao quát về các đối tượng được chọn làm biểu tượng, các nội dụng biểu đạt và

những đặc điểm riêng của biểu tượng trong ca dao truyền thống người Việt.

3.1.Một số vấn đề về tiêu chí phân loai và phương thức miêu tả biểu tượng

nghệ thuật trong ca dao người Việt:

Phân loại biểu tượng có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Ở đây, chúng tôi

chọn tiêu chí là cái biểu đạt ở biểu tượng. Như đã trình bày ở chương một, biểu tượng

là một siêu ký hiệu được hình thành với hai yếu tố: cái biểu đạt (CBĐ') và cái được

biểu đạt (CĐBĐ'). CBĐ' chính là phần hình ảnh của thế giới khách quàn và tên gọi

của nó được dân gian sử dụng một cách chọn lọc để thể hiện một nội dụng nào đó

(CĐBĐ'), CBĐ' là phần vật chất cụ thể, có thể sờ mó, nhin ngắm được, còn CĐBĐ' là

phần tình thần, mang tính chất trừu tượng, khó cảm nhận hơn. Có nhiều lý do để

chúng tôi chọn CBĐ' làm tiêu chí phân loại biểu tượng:

- Cái biểu đạt chỉ ra những sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm cơ

sở ban đầu để hình thành biểu tượng.

- Cái biểu đạt là phần vật chất cụ thể của biểu tượng mà từ đó, chúng ta có thể

khảo sát một cách thuận lợi.

- Tên gọi phổ biến của các biểu tượng cũng chính là tên của cái biểu đạt.

Giữa sự vật, hiện tượng và ý nghĩa biểu tượng của nó có một mối quan hệ nhất

định. Bản thân sự vật tự thân nó chưa có ý nghĩa tượng trưng. Ý nghĩa này chỉ có khi

con người khoác lên cho nó dựa trên những mối quan hệ mật thiết với tên gọi, hình

dáng, thuộc tính hoặc phẩm chất nào đó của sự vật. Như vậy, ý nghĩa của biểu tượng

không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà hoàn toàn có lý do. Điều này cũng cố nghĩa

là một sự vật có thể có nhiều khía cạnh, phương diện có khả năng khơi gợi những liên

tưởng thơ ca. Khi xây dựng biểu tượng, nghệ nhân dân gian đã qua sự chọn lựa, sàng

lọc từ sự vật một hoặc một số khả năng liên tưởng nào đó, tạo ra cho sự vật những ý

nghĩa mới. Những nét nghĩa này được sử dụng nhiều lần, được tập thể công nhận và

trở thành nghĩa biểu tượng. Khi ấy, người ta hiểu ý nghĩa của biểu tượng theo một

phản xạ có điều kiện. Đây không phải là phản xạ sinh học mà là phản xạ được xây

dựng bằng thói quen, bằng qui ước văn hóa của cộng đồng. Việc lĩnh hội ý nghĩa của

biểu tượng vi vậy không phải là một thao tác đơn giản, dễ dàng. Muốn hiểu được trọn

vẹn, đầy đủ ý nghĩa của biểu tượng cần có vốn sống, vốn văn hóa, vi mỗi biểu tượng

đều có một tầng nền lịch sử - xã hội - văn hóa riêng của nó. Trần Đinh Sử đã nhận xét

rất đúng rằng "Hình ảnh tượng trưng là mơ hồ nhất, bởi vi ở đó, cái cá biệt biểu thị

một cái chung lớn hơn hẳn. Tượng trưng bao gồm hình ảnh tượng trưng và ý nghĩa

tượng trưng, nhưng trong tác phẩm chỉ xuất hiện hình ảnh tượng trưng như một cái

biểu đạt, mà ý nghĩa tượng trưng vắng mặt, người ta hiểu hình ảnh tượng trưng theo

một thứ phản xạ có điều kiện ..." [144, tr.33].

Bản thân hình ảnh hạt mưa chưa có ý nghĩa biểu tượng. Nó chỉ là một hiện

tượng của tự nhiên, vũ trụ. Nhưng chính cái nhỏ nhoi, vô định của nó (hạt mưa không

định được cho minh chỗ rơi, chỗ đậu) khiến người ta liên tưởng đến cuộc đời, số phận

của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến ngày xưa [186 ,tr.22]. Thời đó,

việc hôn nhân của nam nữ thanh niên chủ yếu do cha mẹ định đoạt "Áo mặc sao qua

khỏi đầu", "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Luân lý phong kiến ràng buộc con người

trong quan hệ hôn nhân. Người phụ nữ phải cúi đầu vâng chịu sự xếp đặt mà cha mẹ

đã dành sẩn cho minh, không biết tương lai sẽ ra sao. Đây cũng chính là cơ sở để ý

nghĩa biểu tượng của hạt mưa được hình thành:

- Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. (TL I - tr. 2027)

Cũng như vậy, bản thân cái chợ chưa có ý nghĩa tượng trưng. Chợ là nơi để mua

bán, đổi chác, đông đúc và ồn ào. Đây cũng là nơi tập trung nhiều tầng lớp người

trong xã hội: giàu, nghèo, sang, hèn, thanh, tục, tốt, xấu v.v... Chính đặc điểm ấy là cơ

sở thực tế để trí tưởng tượng dân gian khoác lên cho không gian ấy một ý nghĩa biểu

tượng sâu sắc: chợ - xã hội nhiễu nhương phức tạp, không lường trước được mọi rủi

ro, không phải là nơi tốt đẹp [186,tr.23] :

- Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (TL I - tr.2029)

Đôi đũa tự thân nó cũng chưa là biểu tượng.Ở một cộng đông không có thói

quen dùng đũa thi hình ảnh đôi đũa chẳng có ý nghĩa gi đặc biệt. Nhưng với người

Việt Nam, nó đã trở thành biểu tượng cho lứa đôi, chồng vợ. Liên quan đến nét nghĩa

này là tính chất luôn luôn có đôi, có cặp của đũa. Bên cạnh đó, xét về chất liệu, có đũa

tre, đũa mun, đũa ngọc ... những loại đũa này gợi liên tưởng đến sự giàu nghèo, sự

xứng hợp trong hôn nhân. Sự cân bằng của đôi đũa cũng biểu thị cho lứa đôi được kết

hợp hài hòa ...

- Đôi ta như đũa trong kho,

Không tề, không tiện, không so cũng bằng. (TL I - tr. 864)

Bông hoa sen với hương thơm thanh thoát, màu sắc tươi sáng thật tương phản

với chốn bùn lầy nước đọng mà nó hiện diện, đã được dùng để nói về những con

người có phẩm cách cao quí, đẹp đẽ: -

Trong đầm gi đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (TL I - tr. 2227)

Sự phát hiện, khám phá ra những mối dây liên hệ giữa các đặc điểm của sự vật,

hiện tượng với những trạng thái tâm tư, tình cảm của con người không phải ngày một

ngày hai mà có được. Những liên tưởng thơ ca độc đáo, bất ngờ, đầy lý thú ương sinh

hoạt ca hát dân gian là kết quả của một quá trình tiếp xúc, quan sát, suy tưởng lâu dài

của người xưa đối với các sự vật, hiện tượng trong đời sống lao động và sinh hoạt

hàng ngày. Cùng là- loài vật nhưng ong, bướm, cò, bống, tằm, én, nhạn, dã tràng ...

biểu tượng cho những loại người, những hoàn cảnh khác nhau. Cùng là thực vật

nhưng cam sành, hồng ngâm, đào tiên có nghĩa biểu tượng không giống với chanh,

khế ...

Nói tóm lại, giữa sự vật và ý nghĩa biểu tượng của nó có mối liên hệ rất chặt chẽ.

Ý nghĩa biểu tượng được xây dựng trên cơ sở những đặc điểm, thuộc tính của sự vật

và những liên tưởng của một cộng đồng xã hội - văn hóa. Đây cũng là cơ sở để tạo

nên các mạch ngầm, những khoảng vô ngôn mang nhiều giá trị của tác phẩm ca dao.

Như vậy, biểu tượng ca dao không phải là cái biểu đạt, cũng không phải là cái

được biểu đạt. Thực chất biểu tượng là mối quan hệ giữa CBĐ' và CĐBĐ'. Mối quan

hệ này chính là các liên tưởng thơ ca. Các liên tưởng này làm nhiệm vụ bắc cầu giữa

CBĐ' và CĐBĐ', gắn chúng lại với nhau thành một thực thể thống nhất. Nền tảng của

những liên tưởng này lại chính là các phạm trù tồn tại ở CBĐ'

và CĐBĐ:

Ví dụ: *Hoa thơm -----► người tốt

(CBĐ' -----► CĐBĐ')

phạm trù phẩm chất

*Chim khôn —► người khôn

(CBĐ' ------ ► CĐBĐ')

phạm trù phẩm chất

*Sông-----► không gian cách trở

(CBĐ* ------► CĐBĐ')

phạm trù khoảng cách

Các phạm trù này thường có gốc từ CBĐ'. Cơ sở, chất liệu của các liên tưởng thơ

ca là các phạm trù ở CBĐ' vi CBĐ' là hữu hình, là tác nhân khơi gợi những tư tưởng

và xúc cảm ở con người. Để miêu tả hệ thống phân loại đã nêu trên, chúng tôi cho

rằng phương pháp thích hợp ỉa có thể dựa vào các phạm trù ở CBĐ’

Số lượng các phạm trù ở CBĐ' nhiều hay ít? CBĐ' là một thực thể hình thành

biểu tượng nhưng khi thi được đề cập đến với sắc thái ý nghĩa này, khi thi được đề cập

đến với sắc thái ý nghĩa kia, tùy thuộc vào sự nhấn mạnh một khía cạnh nào đó của

thực thể hoặc nhấn mạnh một mối quan hệ nào đó giữa thực thể với thế giới xung

quanh. Sự vật trong đời sống thường được đặt ở nhiều góc độ để xem xét, từ đó, dân

gian mới phát hiện được hết những khả năng tiềm ẩn ý nghĩa của chúng. Cũng từ đây,

chúng ta thấy được sự sinh thành, vận động không ngừng của các biểu tượng. Từ một

sự vật trong thế giới khách quan có thể hình thành nên một nhóm biểu tượng, mỗi biểu

tượng trong nhóm lại có nhiều biến thể khác nhau. Sự tồn tại của cả ba cấp độ này ở

biểu tượng ca dao có nguyên nhân từ sự phong phú của các phạm trù khơi gợi những

liên tưởng thỉ ca thuộc CBĐ’

Ví dụ 1: Nhóm biểu tượng trầu cau

Sự phong phú của những nét nghĩa trong nhóm biểu tượng trầu cau trước hết là

do sự phong phú của việc quan sát sự vật và tập quán chế biến, sử dụng sự vật ữong

đời sống. Từ những điều quan sát được, dân gian đã diễn đạt dưới các góc độ sau:

* Màu sắc: cau xanh, cau hồng, cau phơn phớt lòng đào, trầu xanh, trầu vàng ...

* Sự tươi - héo: cau tươi, cau khô, cau héo, cau sâu, cau ôi, trầu héo ..'.

* Sự non - già: cau non, cau già, cau già quá lứa, cau cuối mùa, trầu lộc ...

* Hình dáng miếng trầu têm: trầu cánh kiếm, trầu cánh phượng, trầu cánh quế,

trầu mũi mác, trầu miếng chả ...

* Cách thức têm: cau sáu bổ ba, cau sáu bổ ra làm mười, cau già dao sắc lại non,

miếng chũm quệt vôi, trầu têm lá lốt...

* Vật mang, vật đựng: trầu dải yếm, trầu chéo áo, trầu túi, trầu khăn, trầu khay xà

cừ ...

* Người sử dụng: người trao trầu, người nhận trầu, người gửi trầu, người xin trầu,

người mời trầu, người têm trầu, người ăn trầu ...

* Các kiểu kết hợp trong tự nhiên và trong sử dụng: trầu - cau, trầu - rượu, trầu -

thuốc, lá trầu - trái cau, dây trầu - thân cau, mâm trầu - buồng cau, vườn trầu - vườn

cau...

Ví dụ 2: Nhóm biểu tượng cá

Nhóm biểu tượng này cũng hình thành trên cơ sở các góc nhin về nhiều mối

quan hệ khác nhau:

* Cá với môi trường sống của nó: cá ở sông, biển, ao, đia, vực ...

- Em gặp anh đây phân giải đôi lời,

Kẻo mai đây con cá về sông rộng, con chim nọ đổi dời núi cao.

(TL III - tr.234)

* Cá với những phương tiện đánh bắt và giam giữ nó: lưới, mồi, cần câu, nơm,

lờ, đó, chậu, thùng ...

- Từ ngày thiếp bén duyên chàng,

Dạ như con cá trích mắc vào lưới xưa. (TL I - tr. 1979)

* Cá với người đánh bắt: người câu, người chài lưới ...

- Minh em như cá giữa. rào,

Kẻ chài, người lái (lưới) biết vào tay ai. (TLII(l) - tr. 341)

* Cá với hoạt động đổi chác, mua bán;

- Em như cá lẹp sút xương,

Gặp người quân tử giữa đường hỏi mua. (TL I - tr.965)

* Cá với các loài khác: cá - chim, cá- tôm ...

- Qua như chim nọ đang bay,

Em như cá nọ mắc rày lưới giăng. (TL III - tr.358)

* Cá thuộc nhiều loại khác nhau: cá lớn - cá nhỏ, cá câu được - cá ở chợ, cá rô

thia - cá vượt Vũ Môn ...

- Anh ơi, anh câu làm chi cho hao chỉ tốn chi,

Anh về xách một quan ăn sáu ra ngoài chơ mua con cá gi thi mua.

(TLI-tr. 143)

* Cá với hoại động chế biến thức ăn: cá - muối, cá- canh, cá- cơm, cá- đĩa

- Cá chẳng ăn muối cá ươn,

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. (TL I - tr.315)

* Cá với các hiện tượng tư nhiên: cá - mưa, cá- sao ...

- Trông anh như bấc trông dầu,

Như con cá cạn trông chầu trời mưa. (TL 11(1) - tr.426)

* Cá với các hoạt động của nó: bơi lội, ẩn nấp, cắn câu, no mồi...

- Anh về cất lễ tam sanh,

Con cá đang còn lẩn cội, nấp ghềnh khó câu, (TL I - tr.161)

Ví dụ 3: Nhóm biểu tượng hoa.

* Hoa trong quan hệ với con người:

Hoa - người cầm:

Nghĩ ngán cho ai nhành mai đang thắm

Chẳng xứng tay cầm, uổng nhánh mai tươi. (TL I - tr. 1556)

Hoa - người đi đường: Ra đường thấy cánh hoa rơi,

Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta. (TL I - tr. 1765)

Hoa - người trồng: Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng,

Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm. (TL I - tr.1098)

Hoa - người hái: Lạ lùng anh mới tới đây,

Thấy hoa liền hái biết cây ai trồng. (TL 11(1) - tr.321)

Hoa - người thưởng thức: Chơi hoa cho biết mùi hoa,

Cầm cân cho biết cân già cân non. (TL I - tr.660)

Hoa - người bán: Thôi thôi buông áo em ra,

Để em đi bán kẻo hoa em tàn ... (TL I - tr.2075)

Hoa - người mua: Phiên rằm chợ chính Yên Quang

Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua. (TL I - tr.2207)

Hoa - người tìm hoa: " Chào chàng quốc sĩ vố song,

Đã đi đến cảnh có lòng tìm huê. (TL 11(1) - tr.254)

Hoa - người đeo hoa: Ai mà phụ nghĩa quên công,

Thi đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (TL I - tr.70)

*Hoa trong quan hệ với môi trường tự nhiên:

- Hoa - đất: Minh em như cây quế hồng hoa,

Trồng nơi đất xấu chẳng ra được chồi. (TL I - tr. 1361)

- Hoa - nơi trồng: Tiếc đám phù dung mọc chung cỏ dại,

Cũng tỉ như hoa lài cặm phải chỗ dơ. (TL III - tr.391)

- Hoa - sương: Hoa tàn mà lại gặp sương

Tôi rầu gặp được người thương hết rầu. (TL I - tr. 1096)

- Hoa - nắng: Nắng hạn khô nên huệ mới tấn,

Đừng nghe ai phân rẽ để đôi đàng bơ vơ. (TL I - tr. 1477)

Hoa - mưa: Vi ai nên giấc không an,

Để cây khô vi hạn, để hoa tàn vi mưa. (TL I - tr.2321)

Hoa - trăng: Ra về dặn nguyệt, thề hoa,

Hoa cười, nguyệt tỏ tình ta càng nồng. (TL I - tr.1770)

* Hoa với vật chứa đựng:

Hoa - lá gói: Hoa sói mà gói xương sông,

Thầy mẹ gả phải người chồng bất nhân. (TL I - tr. 1095)

Hoa - chậu: Thiếp gặp chàng như ba (hoa) gặp chậu,

Chàng gặp thiếp như hạc đậu lưng qui... (TL I- tr.2059)

Hoa - bình: Em đừng khoe nhan sắc em tài,

Độc bình em để trống, nhành mai anh cắm vào. (TL I - tr.1752)

* Hoa với các bộ phận khác của cây:

Hoa - cây: Một cây mà trổ hai bồng,

Gái nuôi hai chồng xấu lắm ai ơi. (TL I - lĩ.122)

Hoa - cội: Bông ngẫu rụng xuống cội ngầu,

Em còn phụ mẫu dám đâu tự minh. (TL IU - tr. 192)

Hoa - trái: Anh ơi, đã vít thi vin,

Đã chơi bông trắng thi nhin trái xanh. (TL I - tr. 145)

Hoa - gai: Thiếp như một cụm hoa hường,

Thấy xinh rờ đến mắc đường chông gai. (TL IU - tr.383)

* Hoa với những đặc điểm tự thân vốn có:

Hoa - màu sắc: Hoa sen sao khéo giữ màu,

Nắng hồng không lạt, mưa dầu không phai. (TL 11(2) - tr. 115)

Hoa - hương thơm: Hoa thơm trồng dựa cạnh rào,

Gió Nam, gió chướng hướng nào cũng thơm. (TL I - tr. 1099)

* Hoa với những giai đoạn sinh trưởng và héo tàn của nó:

Hoa búp: Em như cái búp hoa hồng

Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu. (TL II (1) - tr.301)

Hoa nở: Ra về dặn bạn khoan chân

Dặn hoa khoan nở, mùa xuân đang dài. (TL 11(1) - tr.382)

Hoa đang thi: Có răng (sao) nối thật đi nha (nhé),

Lúc trăng đang tỏ, lúc hoa đang thi. (TL II (1) – tr.241)

Hoa tàn: Chơi trăng kẻo nhỡ trăng già,

Chơi hoa kẻo nhỡ rồi hoa lại tàn. (TLIV-tr.81)

Hoa hết nhụy: Tiếng là ngày rằm nhưng trăng đã méo

Vi em nói khéo anh tưởng trạng tròn,

Hoa kia đã hết nhụy, anh nói còn ngậm sương.

(TLII(2)-tr.l92)

Hoa rơi: Ra đường thấy nụ hoa rơi,

Lấy chân mà gạt, đừng chơi hoa thừa. (TL II (2) - tr. 127)

* Hoa với ong, bướm:

- Chiều chiều bóng bổ qua cầu

Con ong say vi mật, con bướm sầu vi hoa. (TL I - tr.593)

- Say em như bướm say hoa

Như ong say mật, như ta say minh. (TLI - tr. 1829)

* Hoa thuộc cấc loài khác nhau:

- Hoa lý - hoa sen: Đấy vàng đây cũng đồng đen,

Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ... (TLI - tr.754)

- Hoa lý - hoa đào: vắng trăng thi đã có sao,

Vắng hoa thiên lý, có đào nhị tiên. (TLI - tr.2317)

Từ các góc nhin sự vật trong một số ví dụ đã trình bày trên, có thể khái quát

được thành một số phạm trù làm nền tảng cho các mối liên tưởng thơ ca. Đó là các

phạm trù: màu sắc, hương vị, môi trường sinh trưởng, tập tính, phẩm chất, tính chất,

trạng thái, giá trị sử dụng ... Các phạm trù ở từng hệ thống nhỏ các biểu tượng có thể

không giống nhau (số lượng phạm trù nhiều hoặc ít, tên gọi các phạm trù khác nhau,

từng phạm trù được khai thác ở các mức độ đậm nhạt, sâu nông khác nhau ...). Ở đây,

chúng tôi chỉ chọn giới thiệu một số phạm trù cơ bản thuộc từng hệ thống biểu tượng

trong bảng phân loại mà thôi.

3.2. Phân loai và miêu tả biểu tượng nghê thuật trong ca dao người Việt:

Xét trên cơ sở cái biểu đạt, tập hợp các biểu tượng ca dao như là một thế giới thu

nhỏ của hiện thực khách quan. VI vậy, có thể phân chia thành các hệ thống nhỏ sau

đây:

- Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiện tượng tự nhiên và môi trường tự nhiên, bao

gồm:

■ Các hiện tượng tự nhiên: trời, đất, núi, sông, biển ...

■ Thực vật: cây, hoa, trái...

■ Động vật: rồng, phụng, chim, cò, cá ...

- Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo bao gồm:

■ Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh: áo, khăn, gương,

lược, chăn, chiếu, giường, mâm, bát...

■ Các công cụ sản xuất: thuyền, lưới, lờ, cần câu ...

■ Các công tành kiến trúc: nhà, đinh, cầu, chùa ...

- Hệ thống 3: Biểu tượng là con người bao gồm:

■ Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học - nghệ thuật: Kim Trọng, Thúy

Kiều, Ngưu Lang, Chức Nữ, Bá Nha, Tử kỳ ...

■ Các bộ phận trong cơ thể con người: má hồng, răng đen, gan - ruột...

Đây là cách phân loại mà Nguyễn Xuân Kính và Trương Thị Nhàn đã đưa ra và sử

đụng khi nghiên cứu về một số biểu tượng trong ca dao [81,tr.l86], [109, tr.46-52].

Xét thấy hệ thống này bao quát được hầu hết các biểu tượng, nên chứng tôi kế thừa

cách phân loại này (có bổ sung thêm mục số 3).

3.2.1. Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiên tượng tư nhiên và môi trường

tư nhiên:

Nhân dân ta ngày trước chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề trồng lúa nước. Mà

đã trồng trọt thi phải phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, không phải chỉ phụ thuộc

vào một, hai hiện tượng riêng lẻ, mà là cùng lúc phụ thuộc vào tất cả: trời, đất, nắng,

mưa ... Vi vậy, trong tầm mắt của cư dân nông nghiệp, thiên nhiên trở thành mối quan

tâm hàng đầu. Hơn ai hết, họ ý thức được rằng con người là một phần của thiên nhiên

hơn là một cái gi cách biệt với thiên nhiên. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên, coi đó

như thể ngôi nhà lớn của minh.

Trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt hàng ngày, con người đều

phải tiếp xúc nhiều với thiên nhiên. Đó là môi trường sinh hoạt, lao động cua con

người. Nhiều cuộc gặp gỡ của các chàng trai, cô gái, nhiều cuộc ca hát, đối đáp đã

diễn ra giữa chốn ruộng đồng, khi trời trong, nắng đẹp, khi gió mát, trăng thanh ... Tức

cảnh sinh tình, con người muốn được ca hát, ngâm ngợi để bày tỏ tâm tư, tình cảm của

minh.

Từ quan hệ tiếp xúc đó, thiên nhiên đã trở thành phương tiện thẩm mỹ để con

người qua đó bộc lộ thế giới nội tâm phong phú. Nhiều sự vật trong thiên nhiên được

con người sử dụng như những hình ảnh so sánh, ẩn dụ để miêu tả tư tưởng, tâm trạng,

con người, cảnh đời... Đặc trưng của ca dao là hướng nội, là đi vào khám phá, biểu

hiện thế giới nội tâm của con người. Nhưng đồng thời, phần lớn các bài ca dao đều có

sự xuất hiện của thiên nhiên, và ở nhiều bài, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng trong

việc xây dựng hình tượng, cấu tạo tứ thơ . . . nên tính hướng nội trữ tình ấy lại không

có tính chất khép kín, không cô lập hóa con người với thế giới tự nhiên bao quanh.

Nhiều hình ảnh thiên nhiên được chọn lọc, sử dụng nhiều lần với nét nghĩa ổn định đã

trở thành những tín hiệu thẩm mỹ thể hiện tâm tư, tình cảm của nhiều con người,

nhiều thế hệ, tạo nên một lối nói chung của cộng đồng, mang tính truyền thống lâu

đời.

Các biểu tượng ca dao thuộc hệ thống này bao gồm:

3.2.2.Các hiện tượng tự nhiên:

Có thể kể đến các biểu tượng: trời, đất, trăng, sao, núi, sông, biển, mưa, nắng ...

Nhiều thể loại của văn học dân gian đã chọn tự nhiên làm đối tượng, nhưng chỉ

trong ca đao, các hiện tượng đó mới thực sự mang tâm trạng con người, gắn với đời

sống tình cảm con người.

Do những đặc điểm riêng của các sự vật, hiện tượng trên, một số phạm trù đã

được dân gian sử dụng thường xuyên làm cơ sở cho những mối liên tưởng giữa CBĐ'

và CĐBĐ'.

- UPhạm trù kích thước, khoảng cách:

Trời, đất, núi, sông, biển ... là những sự vật, hiện tượng vô cùng to lớn ttong tầm

quan sát của người nông dân xưa. Họ đã dùng các sự vật này để biểu hiện ý niệm về

sự lớn lao, vô tận. Phổ biến trong ca dao là trời cao, đất rộng, núi cao, sông dài, sông

sâu, biển rộng ... Công lao cha mẹ thường được nói đến qua các biểu tượng này.

- Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ... (TL I - tr.498)

- Công cha như núi ngất trời •

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông ... (TLI - tr.498)

Bắc - nam, đông - tây, Hồ - Việt, Hán - Hồ ... cũng là những biểu tượng thuộc

phạm trù này. Khoảng cách địa lý gợi liên tưởng về sự ngăn cách của lứa đôi:

- Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc,

Trách ai làm phụng bắc, rồng nam. (TL I - tr.385)

- UPhạm trù tính chất, trạng thái:

Trăng mờ, trăng tỏ, trăng non, trăng già, trăng tròn, trăng khuyết, nước sông khi

đầy khi vơi, khi trong, khi đục, sóng gió dữ dội, thác ghềnh hiểm trở, hạt mưa vô định,

trời, đất, sông, núi trường tồn, vàng ngọc quí giá ... Đó là những trạng thái, tính chất

của sự vật được dân gian khai thác ở các bài ca dao.

Khi yêu nhau các lứa đôi thường thề thốt. Họ đã lấy trời, đất, núi, sông, biển,

rừng…lấy cái vĩnh hằng của thiên nhiên để đảm bảo cho lời thề của minh, đem lại cho

lời thề một giá trị bền vững:

- Trời cao, đất rộng em vọng lời nguyền,

Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung. (TL III - tr.405)

- Nắng lên hòn đá nẻ tư,

Sông Gianh có cạn, anh mới từ giã em. (TL I - tr.1477)

Sông là biểu tượng xuất hiện với tần số đáng kể trong ca dao, ý nghĩa vô cùng

phong phú. Sông tượng trưng cho những cảnh đời khác nhau. Dòng nước đục lờ đờ

gợi lên những hoàn cảnh hẩm hiu, bất hạnh:

- Sông sâu nước đục lờ đờ,

Cắm sào mà đợi bao giờ cho trong. (TL I - tr. 1851)

Sự thay đổi của dòng nước khi trong, khi đục gợi liên tưởng đến cuộc đời lúc

thịnh, lúc suy: -Nước dưới sông có khi trong, khi đục

Trang anh hùng có khi nhục, khi vinh. (TL I - tr. 1512)

Con sông khúc lở, khúc bồi làm ta nghĩ đến "người có lúc":

- Sông kia khúc lở, khúc bồi,

Con người khổ mãi thi rồi có vinh. (TL 11(2) - tr.128)

Trăng, trong nhiều trường hợp, được dùng để chỉ người con gái, nhất là trăng

rằm, trăng tròn, trăng tỏ - gợi lên vẻ đẹp, sự thanh tân, tuổi xuân, sức trẻ:

- Thân em như thể trăng rằm,

Mây đen có phủ chẳng lầm giá trong. (TL I - tr. 2031)

Nhiều cảnh đời cũng mượn trăng mà thế hiện. Sự thay đổi khi tròn, khi khuyết,

khi mờ, khi tỏ của trăng cũng giống như những thăng trầm trong cuộc sống:

- Trăng kia khi khuyết khi tròn,

Người kia khi nhục, lại còn khi vinh. (TL 11(2) - tr.365)

hay: - Trăng mờ có lúc trăng trong,

Sớm khuya chịu khó đỉnh chung có ngày. (TL 11(2) - tr.82)

Sóng, gió, thác, ghềnh, núi, sông, rừng, biển với sự dữ dội, hiểm trở, hiểm nguy

của chúng đã trỏ thành biểu tượng của sự khó khăn, thử thách:

- Chàng đâu thiếp đó cho rồi,

Hiểm nguy thiếp chịu, sóng dồi thiếp theo. (TL I - tr.535)

- Chàng lên non, thiếp cũng lên non,

Chàng lên trời, vượt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.

(TLI-tr.539)

Vàng, ngọc là những chất liệu quí giá thường biểu tượng cho bản chất thực sự tốt

đẹp của con người:

- Ngọc lành còn đợi giá cao,

Chờ người quân tử em giao nghĩa tình. (TL III - tr. 335)

3.2.1.2. Thực vật:

Thực vật trở thành biểu tượng trong ca dao có khi ở dưới dạng chung của từng

loại lớn: cây, kiểng, hoa, trái có khi dưới dạng cụ thể của từng sự vật: về cây có quế,

trầm, trúc, mai, đào, liễu, đa, ngô đồng, trầu, cau về hoa có lan, huệ, nhài, bưởi, sen,

hồng về trái có mận, đào, lê, lựu, hồng ngâm, chanh, khế, cam sành ...

Các phạm trù sau đây của thế giới thực vật đã được khai thác để hình thành biểu

tượng:

- UPhạm trù kích thướcU:

Được chú ý nhiều nhất là chiều cao của cây: cây cao lá dài, cây cao chẳng sợ gió

rung, cây cao cả gió khó trèo, cây cao gió vật gió vờ, cây cao gió đập đùng đùng, cây

cao thi gió càng lay, cây cao bóng ngả sum sê, cây cao mấy trượng cũng trèo, cây cao

bóng mát chẳng ngồi, cây cao có trái chín muồi ... Chiều cao này biểu đạt nhiều ý

nghĩa khác nhau: nơi tốt đẹp, thuận lợi, nơi khó khăn, thử thách, phẩm chất kiên định

của con người...

- Cây cao mấy trượng cũng trèo,

Đường xa mấy dặm cũng theo anh về. (TL I - tr.380)

- Cây cao đứng giữa đại ngàn,

Gió rung không sợ, sợ chi tàn lửa rơm. (TL 11(2) - tr.98)

- UPhạm trù tính chất, trạng tháiU:

Các loại thực vật ở những trạng thái khác nhau biểu hiện những ý nghĩa khác

nhau:

Cây vàng úa, cây khô, cây sâu, cây ngã, cây xa rừng ... gợi lên những bất hạnh

của đời người:

... Ví dầu lòng thầy, dạ mẹ không thương,

Tấm thân anh đây như cây khô chết đứng giữa chặng đường đợi em.

(TL I - tr. 919)

- Cây xa rừng, cây khô, rừng trụi

Người xa người, tội lắm người ơi... (TL I - tr.389)

Kiểng hư, kiểng héo, kiểng không xanh, kiểng xa bồn ... là những hình ảnh tượng

trưng xuất hiện phổ biến trong ca dao Nam bộ:

- Kiểng hư để vậy sao đành,

Ra tay sửa kiểng không thành thi thôi. (TL III - tr.305)

- Kiểng xa bồn, kiểng rũ héo queo,

Anh xa người ngãi như đèn treo hết dầu. (TL III - tr.306)

Trầu héo, cau khô, cau non, cau già, chanh non, trái đào non mới tượng, trái cam

sành héo cuống, trái đào tiên ruột mất vỏ còn, hoa tươi, hoa tàn, hoa búp, hoa nở, hoa

rơi, hoa gãy cành ... biểu thị cho những đánh giá khác nhau về con người:

- Khế rụng bờ ao thanh thao anh lượm,

Ngọt như cam sành héo cuống anh cũng chê. (TL I - tr. 1181)

- Anh về mắc võng ru con,

Đừng nên tơ tưởng trái chanh non trái mùa. (TL I - tr. 169)

Người con gái tàn tạ và bông hoa héo ùa thật giống nhau:

- Hoa tàn, hoa héo không tươi

Đoái nhin bạn cũ hổ ngươi mười phần. (TL I - tr. 1096)

- UPhạm trù hương vị:

Hương thơm của các loài hoa, vị ngọt, chua của các loại trái cũng là khía cạnh

tạo ùên nhiều liên tưởng thơ ca.

Theo thị hiếu thẩm mỹ của người bình đẵn xưa, hoa nhài là một thứ hoa đẹp, quí.

Qua bộ phận ca dao về hoa nhài, có thể thấy rõ quan niệm thẩm mỹ,

đạo đức của quần chúng cần lao: "Họ ca ngợi những gi là thủy chung, tình nghĩa,

thích cái đẹp, cái duyên bên ữong hơn là những gi ồn ào chốc lát, phô trương bên

ngoài (Trong những lời về hoa nhài, số lời nhắc đến hương của loài hoa này chiếm

gần một nửa: 44%)" [81, tr.198-199].

- Anh đừng ham bông quế mà bỏ phế bông lài,

Mai sau quế rụng, bông lài thơm lâu. (TL III - tr. 162)

- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. (TLI-tr.565)

Người phụ nữ với phẩm cách cao quý thường tự ví minh với cây quế, cây

trầm: - Em như cây que'trong rừng,

Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay ... (TL I - tr, 966)

Hàng loạt bài ca dao bắt đầu bằng công thức "hoa thơm ..." với ý nghĩa biểu cảm

rõ rệt: - Hoa thơm ai chẳng nâng niu ...

- Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi...

- Hoa thơm, thơm lửng thơm lừng,

Dặn con ong kia đừng chơi nhởi,

Dặn con bướm đừng xôn xao. (TL I - tr.1099)

Bên cạnh hoa còn có biểu tượng trái. Hương vị của từng loại trái biểu hiện cho

những con người với tính cách, phẩm chất khác nhau. Những loại trái quý, ngọt ngon

như cam sành, đào tiên, hồng ngâm, hồng đào, hồng rim tượng trưng cho những giá trị

cao quý, đẹp đẽ:

- Ra đường lạt miệng thèm chanh

Ở nhà quýt ngọt, cam sành thiếu chi. (TL 11(2) - tr. 127)

Khế, chanh, sung ... là những thứ trái chát chua, ít được ưa thích, thường chỉ

những giá trị bình thường hoặc tầm thường:

- Cam sen, quýt ngọt người chê,

Người ăn khế rụng, tôi ghê thay người. (TL I - tr.351)

- UPhạm trù màu sắcU:

Thế giới thực vật với màu sắc phong phú cũng góp phần vào sự hình thành

những liên tưởng thơ ca, biểu thị cho những giá trị khác nhau. Đó là: trầu xanh, trầu

vàng, cau xanh, cau phơn phớt lòng đào, cây kiểng xanh, bông bưởi trắng, hoa sen

hồng, vườn hồng ...

- Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng

Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? (TLI -tr.774)

- Anh ơi đã vít thi vin,

Đã chơi bông trắng thì nhìn trái xanh (TL I - tr. 145)

- UPhạm trù đặc điểm và môi trường sinh trưởngU:

Mỗi loài cây trong thực tế đều cố những đặc điểm và môi trường sinh trưởng

không giống nhau. Hoa sen sống nơi chốn bùn lầy, nước đọng nhưng mùi hương

thanh thoát, được coi là loại hoa quý. Bèo là thứ dễ sống nhưng ít giá trị sử dụng, bị

coi là thấp kém, tầm thường. Bèo, sen thường được dùng trong thế tương phản với

nhau để chỉ những loại người trong xã hội:

- Thân chị như cánh hoa sen,..

Chúng em như bèo, như bọt chẳng chen được vào ...

Nhưng cũng có lúc, sự đổi đời xảy ra:

- Lạy trời cho cả mưa rào

Cho sấm, cho chớp cho bão to, gió lớn

Cho sen chim xuống, bèo trèo lên trên. (TL I - tr.2021)

Cánh bèo, khi dùng đơn lẻ, là hình ảnh của người con gái đáng thương sống đời

chIm nổi, vô định:

- Thân em như thể cánh bèo,

Ngược xuôi, xuôi ngược theo chiều nước trôi. (TL I - tr2030)

Dân gian còn chú ý nhiều đến các mối quan hệ trong quá trình sinh trưởng, môi

trường sinh trưởng của cây, kiểng, hoa. Đó là cây với đất, với rừng; cây với gió, nước;

cây với rễ, chồi, lá, cành, hoa; cây với người trồng, người chăm sóc, người hái quả;,

cây với bóng mát; cây với vật đậu (phượng hoàng, cú, thỏ ...); hoa với nắng, mưa,

sương, gió; hoa với chậu, với hồ; hoa với mùa xuân ...

- Ra về cầm bứt đề thơ,

Dầu hoa có nỏ cũng chờ mùa xuân. (TL II (1) - tr.377)

- Một cây tùng năm bảy con thỏ bạch nó leo chung,

Biết làm sao đặng, chung cùng với em? (TL I - tr. 1384)

Trong số biểu tượng thực vật này, trầu - cau luôn nhận được sự chú trọng đặc

biệt của dân gian. Đó là biểu tượng có thể xếp vào hàng tiêu biểu, điển hình trong hệ

thống giá trị của văn hóa Việt Nam nói chung và hệ thống biểu tượng ca dao nói riêng.

Trong tư duy liên tưởng của người xưa, cây cau có thân tròn, chắc, thẳng, cao

được coi là hình ảnh đẹp đẽ của người đàn ông. Còn lá trầu hình tam giác, bầu bĩnh

xoè ngang trên đất, lại bóng bẩy thơm tho như đôi má người con gái, được coi là biểu

tượng của người phụ nữ. Trầu cau lại có sự cộng sinh, có "mối tình cây cỏ" với nhau.

Trầu ưa bóng mát, cần cột để leo quấn, trồng cạnh gốc cau rất hợp. Đất có bóng trầu

che ẩm ướt cũng rất tốt đối với cau, nhất là ở giai đoạn cau mới lớn. Vi vậy, trầu cau

thường được trồng quấn quýt, xanh tươi bên nhau. Sự sóng đôi này gợi liên tưởng đến

tình yêu, hạnh phúc, hôn nhân:

- Ai về cuốc đất, trồng cau

Cho em vun ké dây trầu một bên

Chừng nào trầu nọ bén lên,

Cau kia bén trái lập nên cửa nhà. (TL III - tr. 156)

Tương tự, trúc với mai, lựu với đào, lựu với lê, lan với huệ, liễu với mai ... là

những loại cây thường được trồng cạnh bên nhau, cũng đi vào thơ ca dân gian để biểu

tượng cho các đôi lứa:

- Trúc mai trồng lộn một bồn,

Hai ta chồng vợ ai đồn mặc ai. (TL III - tr.455)

Các biểu tượng cây, kiểng, hoa, trái thực sự đã làm nên một khuôn mặt rất riêng

cho ca dao với số lượng phạm trù phong phú. Dân gian đã phát hiện nhiều nét tương

đồng tình tế giữa thế giới cỏ cây và thế giới con người nhờ vào sự quan sát trực tiếp

và thường xuyên trong đời sống hàng ngày.

3.2.1.3. Động vật:

Các loài vật được dùng làm biểu tượng trong ca dao cũng rất nhiều: cò, bống,

bướm, ong, nhạn, én, loan, phụng, rồng, tằm, cá, dã ưàng ...

Các phạm trù sau đây ương thế giới động vật thường được khai thác để hình

thành biểu tượng:

- UPhạm trù tập tính và môi trường sinh trưởngU:

Với địa hình nhiều sông ngòi, kênh rạch như ở nước ta, từ xưa, người nông dân

đã rất quen thuộc với cảnh "chim trời, cá nước", với cách thức quan sát "Nhin lên trời

thấy ...", "Ngó xuống nước thấy ...". Trong môi trường đó, chim và cá là hai đối tượng

nổi bật, được đưa vào ca dao rất nhiều, có khi ở dạng nghĩa đen, có khi ở dạng nghĩa

bóng. Qua quá trình thống kê, chúng tôi nhận thấy dạng nghĩa bóng nổi trội hơn. Cá,

chim đáng được ghi nhận như là những hình tượng thẩm mỹ, những tín hiệu nghệ

thuật.

Biểu tượng chim có khi ở dạng chỉ loại chung, có khi ở dạng cụ thể hơn: cò,

nhạn - én, loan - phụng ...

Con cò là biểu tượng của người nông dân Việt Nam ở nhiều khía cạnh. Sự chăm

chỉ, cần cù của loài chim này đã được người bình dân xưa chú ý, từ đó mà có những

liên tưởng đến cuộc đời người nông dân chân lấm, tay bùn nơi đồng ruộng:

- Con cò lội bãi rau xanh,

Đắng cay chịu vậy, than rằng cùng ai. (TL I - tr. 428)

- Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non ... (TL I - tr.335)

Hình ảnh chim nhạn xuất hiện với tần số lớn trong ca dao, một phần cố lẽ từ điển

tích "Tin nhạn" gắn liền với việc Tô Vũ chăn dê, một phần do đây là loài chim xuất

hiện nhiều vào mùa thu, đất trời buồn bã, dễ gợi cảm giác âu sầu cho con người. Chim

nhạn kêu sương, nhạn lạc bầy thường được đưa vào những bài ca dao có nội dụng

buồn, thở than, trách móc, nhớ nhung:

- Nhạc lạc bầy kêu sương nơi biển bắc,

Em tìm anh mọi nẻo tắt đường quanh

Em vái cho chồng gặp vợ, dầu có tử sanh cũng không nề. (TL III - tr.445)

Chim nhạn mùa thu tới, mùa xuân đi. Chim én mùa xuân tới, mùa thu bay

đi. Hoàn cảnh sống không bao giờ gặp nhau của hai loài chim này gợi cảnh lứa

đôi ly biệt: - Dế kêu sầu thảm bớ nường,

Cam đành én khốc bạn, nhạn kêu sương từ rày... (TL I - tr.696) Chim loan -

phụng, do tập tính thường bay đôi, đã trở thành biểu tượng cho lứa đôi gắn bó: -

Chờ phượng với ơi loan,

Dần dần đợi phượng để ta kết đoàn ta đi. (TL li (1) - tr.264) Dân gian còn phân

biệt rất rõ giữa phượng hoàng và gà do hoàn cảnh sống của chúng không giống nhau:

- Nơi gần không có, phải ngó nơi xa,

Tham giàu để phượng sánh gà sao nên. (TL I - tr. 1495)

Cá, chim trong môi trường sống tự nhiên của chúng thật phóng khoáng, tự do,

trái ngược hoàn toàn với khi ỏ trong lưới, lờ, chậu, ao, lồng ... Phạm trù này được dân

gian chú ý khai thác rất nhiều để biểu thị cho những cảnh đời của người phụ nữ: -

Bậu có chồng rồi như con cá vô lờ,

Tôi tương tư nhớ bạn, dật dờ đêm thanh. (TLI-tr.250)

Ong, bướm luôn bay lượn quấn quýt bên hoa, con tằm thường ăn chỉ một loại là

lá dâu, con nhện giăng tơ, con dã tràng xe cát ..những đặc đếm này đều là cơ sở của

các liên tưởng tương đồng hình thành nên biểu tượng ong, bướm, tằm

- dâu. dã tràng ...

- Phạm trù phẩm chất;

Hình ảnh chim khôn, cá khôn gợi liên tưởng người khôn. Khôn ngoan, thông

minh là phẩm chất trí tuệ được dân gian xem trọng. Nếu như trong thể loại cổ tích,

những truyện kể về các nhân vật trí xảo, ứng xử tài tình là phổ biến, thể hiện niềm mơ

ước vươn tới đỉnh cao trí tuệ của nhân dân, thi trong ca dao chúng ta cũng lại bắt gặp

thái độ nâng niu, trân trọng đó của dân gian:

- Chim khôn chưa bắt đã bay,

Người khôn chưa nói dang tay đỡ lời. (TL I - tr.616)

- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. (TL I - tr.618)

Có chim khôn, cá khôn thi cũng có bướm khôn, có cá bống đảm đang, con tằm

bạc nghĩa ...: - Trách minh chẳng trách ai đâu,

Trách con tằm bạc nghĩa bỏ nương dâu không nhin. (TL I - tr.2145)

3.2.2. Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo:

3.2.2.1. Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh:

Biểu tượng là những đồ vật liên quan đến đời sống cá nhân và gia đinh của con

người trong sinh hoạt hàng ngày như khăn, nón, áo, gương, lược, đàn, đèn, khóa, chia,

rương, kim, chỉ, mâm, bát, đũa ... chiếm số lượng khá lớn. Các vật thể nhân tạo đã

tham gia tích cực vào việc biểu hiện thế giới nội tâm của con người.

Các phạm trù sau đây thuộc thế giới vật thể nhân tạo đã trở thành cơ sở cho các

liên tưởng thơ ca:

- UPhạm trù chất liệuU:

Thế giới các vật thể nhân tạo là do con người tạo nên, sự vật vi thế có phạm trù

chất liệu. Qua việc người nông dân sử dụng các đồ vật làm từ chất liệu nào có thể biết

được nhiều điều về họ. Trong ca dao, các vật dụng thường được dùng với sự phân biệt

rõ rệt về chất liệu chỉ ra sự đối lập giữa giàu - nghèo, sang -hèn ... Chốn giàu sang thi

nệm gấm, mền gấm, gối lụa, đệm quế, sập vàng, áo gấm, áo vóc, áo lụa, áo nhiễu, đũa

ngọc, đũa ngà, đũa mun, mâm vàng, mâm son, bát sứ, nồi đồng ... Chốn nghèo hèn thi

chiếu lác, chiếu rơm, chăn rạ, gối rơm, áo vải bô, đũa tre, bát đàn, nồi đất ... Có thể

nói phạm trù này đã được khai thác một cách triệt để. Các chất liệu đi kèm giúp thể

hiện rõ nghĩa biểu tượng của sự vật trong bài ca:

- Ai ơi chớ phụ bát đàn,

Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày ... (TL II (2) - tr.93)

- Đũa mun bịt bạc anh chê,

Đũa tre lau cạnh anh mê nỗi gi? (TL III - tr.268)

Có khi chất liệu để tạo thành sự vật được miêu tả ở mức độ thấp nhất, hoặc

không có chất liệu nữa, mà là sự sử dụng những cái có sấn trong tự nhiên thay thế cho

đồ vật nhân tạo, nhằm nhấn mạnh ý tưởng về cái nghèo:

- Đêm nằm tàu chuối xé đôi,

Hơn nằm chiếu miến lẻ loi một minh. (TL III - tr.260)

- Phạm trừ trạng thái, tính chất:

Bên cạnh chất liệu, trạng thái, tính chất cũng là khía cạnh đáng chú ý ở các vật

thể nhân tạo. Áo rách, áo vá vai, áo vá quàng, áo không tay, áo sứt chỉ đường tà, nón

rách, chiếu rách, gương tróc thủy, gương mờ, gương trong, đua so le, đũa bằng, ngọn

đèn không tắt, tấm lụa đào còn nguyên hay đã xé lẻ... là những hình ảnh xuất hiện phổ

biến trong ca dao. Trạng thái, tính chất không bình thường, không hoàn mỹ ở sự vật

gợi nghĩ về những cảnh đời bất hạnh, không như ý của con người, ngược lại, khi sự

vật hiện lên với trạng thái tốt đẹp nhất, hạnh phức và niềm vui của con người cũng ẩn

tàng trong đó:

- Trăm năm mà soi gương mờ,

Không bằng một chốc soi nhờ gương trong. (TL II (2) - tr. 134)

- ... Vi dầu chồng thấp vợ cao,

Như đôi đũa lệch biết bao giờ bằng. (TL I - tr.2333)

Ngọn đèn không tắt là hình ảnh của sự chờ đợi mỏi mòn:

- Đêm nằm thổn thức ngồi khêu đèn phụng,

Canh sang năm gần lụn khúc- rồng ... (TL I - tr. 804)

Gặp những cảnh ngộ không may thi dân gian dùng ngọn đèn lu li, ngọn đèn tàn,

đèn tắt: - Đèn lu li nửa nước nửa dầu,

Nửa thương cha mẹ, nửa sầu nợ duyên. (TL I - tr.758)

Đèn hai tìm: chàng trai đã có vợ mà còn muốn đèo bòng; đèn treo trước gió, con

người trước những trở ngại của cuộc sống ...

- UPhạm trù giá trí sử dụngU:

Các vật thể do con người tạo ra đều có những giá trị sử dụng khác nhau. Mỗi sự

vật có một giá trị thiết thực. Các giá trị thường không trùng lắp nhưng lại có liên hệ

gắn bó , bổ sung cho nhau. Kim và chỉ, nút và khuy, khóa và chia, khóa và rương,

gương - lược, mâm - bát, mâm - đũa, đá - dao ... là những sự vật thường được dùng

kèm với nhau, không thể thiếu nhau, không thể thay thế được. Sự gắn bó đó giống như

sự gắn bó lứa đôi:

- Đôi ta như cúc với khuy,

Như kim với chỉn (chỉ) may đi cho rồi. (TL II (1) - tr.286)

- Đôi ta như đá với dao,

Năng liếc, năng sắc, năng chào thời quen. (TL I - tr.863)

Chiếc áo là vật che thân, mang hơi thở, hơi ấm, mùi hương, dáng dấp, sở thích

của con người. Đó là một phần đời sống cá nhân của con người. Người bình dân xưa

đã rất ý nhị và tình tế khi thể hiện tình yêu qua hình ảnh chiếc áo.

Chiếc áo trở thành vật làm tin, thành minh chứng của tình yêu. Hành động "để

áo" khi ra về, lúc chia tay xuất hiện với tần số cao trong ca dao, biểu hiện một tình yêu

mãnh liệt mà kín đáo của người xưa:

- Anh về để áo lại đây ...

- Anh về cởi áo em ôm ...

Đề thơ trên áo cho thấy đôi bên đã có những ràng buộc tình cảm sâu sắc:

- .,. Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ ...

- Minh đưa bâu áo tôi viết tháo vài hàng ...

- Ra về xé áo làm tư,

Cắn ngón tay làm bút để trao thư cho chàng (TL II (1) - tr.385).

May áo, cử chỉ săn sóc đặc biệt, là một cách thổ lộ tình yêu:

- May cho minh áo lá châu xá bông tây.

Tại minh ở bạc ngồi xuống đây lột trần (TL I - tr. 1313)

Đắp áo chung là một cách nói bóng gió về cuộc sống lứa đôi:

- Yêu nhau kéo áo đắp chung ...

- Đêm qua gió lạnh sương lùng,

Hỏi người có áo đập cùng lấy hơi ...

Chiếc áo quả là đã chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong việc biểu hiện

những tâm trạng, mơ ước tình yêu. Gắn bó thiết thân với con người, chiếc áo là biểu

tượng thiêng liêng của tình yêu, của sự trao gởi yêu thương. Chỉ có thể hiểu một cách

sâu sắc những hành động mà thoạt nhin người ta có thể nghĩ rằng đó là sự miếu tả trực

tiếp: để áo, cởi áo, đề thơ trên áo, may áo, đắp áo chung ... nếu như tiếp nhận chúng

với tư cách biểu tượng. Dân gian đã cấp cho chiếc áo một tầng ngữ nghĩa phong phú

nên khi tìm hiểu hình ảnh này trong ca dao không thể không chú ý đến nền tảng nghệ

thuật đó.

Cùng với chiếc áo, trang phục của người xưa còn có khăn, nón, yếm ... Chiếc

nón, chiếc khăn được trao, chiếc yếm được dùng để đắp ... đều là sự biểu hiện tình

yêu: - Trời mưa gió rét kin kin,

Đắp đôi dải yếm hơn nghin chăn bông. (TL I - tr.2263)

- Tay bắt tay hai ngả anh đưa khăn rằn miếng chả cho em cầm,

Mai sau anh về trển, em lót đầu nằm cho bớt nhớ thương.

(TL III - tr.372)

Chăn, gối, giường, chiếu ... cũng đã trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi.

Mơ ước về một cuộc sống hoa hợp vợ chồng, dân gian có nhiều cách thể hiện: chung

chăn, chung gối, chung giường, sắm giường, sắm chiểu, may chăn ...

- Ai ơi cố biết cho không,

Chăn loan còn đợi, gối huê phong còn chờ. (TL I —tr.71)

3.2.2.2. Các công cụ sản xuất:

Các biểu tượng: thuyền, lưới, lờ, cần câu ... đều thuộc về nghề sông nước. Với

môi trường thiên nhiên nhiệt đổi biển rộng, sông dài, kênh rạch chằng chịt như ở nước

ta, sự xuất hiện của những biểu tượng đó trong ca dao cũng là điều dễ hiểu. Nổi bật

nhất trong nhóm này là con thuyền.

- UPhạm trù giá trị sử dụngU:

Trong đời sống, con thuyền được dùng vào nhiều mục đích khác nhau. Ca dao

nói đến nhiều loại thuyền: thuyền than, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền câu, thuyền

buôn ... Mục đích sử dụng thông báo một công việc, một nghề nghiệp, một điều kiện

kinh tế vi vậy các loại thuyền là biểu tượng của những loại người trong xã hội:

- Thuyền than mà đậu bến than,

Thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa. (TL I - tr.2098)

- Một ngày dựa mạn thuyền rồng,

Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài. (TL I - Tr. 1407)

Khi sử dụng, con thuyền còn liên quan gắn bó với nhiều thực thể khác: thuyền -

bến, thuyền - khách, thuyền - sông, thuyền - thuyền ... Các kết hợp này cũng mang ý

nghĩa biểu tượng cho lứa đôi.

Khi hạnh phúc thi có: thuyền cặp bến, một thuyền một bến, một thuyền một lái,

gần bến gần thuyền ...

- Thuyền về tới bến khuya canh,

Còn câu tình nghĩa để dành đêm sau. (TL I - tr.2099)

Khi xa cách, tan vỡ thi có: thuyền ngái bến, thuyền bỏ bến, thuyền dời bến khác,

đò đưa bến khác, khách không đợi thuyền:

- Thuyền đà bỏ bến thuyền đi,

Ta trau bến lại có khi thuyền về. (TL I – tr.2089)

Khi chung thủy thi có: thuyền dời nhưng bến không dời, thuyền mong đợi khách,

khách mong đợi thuyền, bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền, bến thi chực tiết thu

đông đợi đò ...

Tùy theo sự vật được kết hợp mà thuyền được hiểu với những nét nghĩa biểu

trưng khác nhau:

- Thuyền - bến: thuyền là người con trai do tương quan giữa cái di động và cái

cố định.

- Thuyền - lái: thuyền là người con gái do tương quan giữa cái bị động, phục

tùng và cái chủ động.

- Thuyền - khách: thuyền là người con gái do tương quan giữa cái cố định, thủy

chung và cái thay đổi, chuyển dời.

Con thuyền đi trên sông, biển phải vượt nhiều ghềnh thác, trải qua nhiều sóng

gió, bão bùng, nên còn là biểu tượng của sự thử thách:

- Mong cho nên đạo vợ chồng,

Đò xuôi nước ngược mấy dòng cũng qua. (TL II (1) - tr.343)

Những chiếc thuyền đi và về trên sông nước cũng là hình ảnh lứa đôi cách

biệt: - Lênh đênh thuyền giã ra vời,

Thuyền mành vô cửa biết mấy đời gặp nhau.(TL II (2) - tr.52)

- UPhạm trù trạng thái, tính chấtU:

Trong quan hệ thuyền - bến, thuyền được hiểu là người con trai do tính chất di

động, thường xuyên thay đổi vị trí của thuyền. Nhưng khi được dùng đơn lẻ, phần

nhiều hình ảnh này nghiêng về phía biểu hiện cho người con gái. Dân gian đã liên

tưởng sự trôi nổi, bấp bênh, lênh đênh của chiếc thuyền với thân phận người con gái.

Đó là chiếc thuyền be, thuyền không lái, chiếc đò nghiêng, chiếc bách lênh đênh,

chiếc đò đầy sóng lượn, chiếc thuyền trôi nổi như bèo, chiếc giã giữa dòng, chiếc

thuyền vàng lênh đênh...

- Anh về cho nhớ mai sang

Đừng có bỏ chiếc thuyền vàng lênh đênh. (TL II (1) - tr.226)

Cùng với con thuyền, các vật dụng khác gắn bó với nghề sông nước như lưới,

đó, cần câu ... cũng đã trở thành biểu tượng quen thuộc trong ca dao và thường được

khai thác ỏ phạm trù tính chất: lưới thưa, lưới bén, đó thưa, cần câu nhân, cần câu

ngãi:..- Lưới thưa mà bủa cá kim

Lòng qua thương bậu, bậu tìm nơi nao. (TL III - tr.313)

- Cá không ăn câu thật là con cái dại,

Bởi câu anh cầm, câu ngãi câu nhân. (TL III - tr.200)

- UPhạm trù chất liệuU:

Được quan tâm nhiều ở khía cạnh chất liệu trong nhóm biểu tượng này là chiếc

cần câu. Đây là vật dụng đơn sơ, kích thước bé nhỏ nhưng dân gian lại có khuynh

hướng miêu tả kỹ đến từng chi tiết nhỏ. Trong nhiều trường hợp, các chất liệu được

chọn lọc đã góp phần đắc lực trong việc chỉ ra ý nghĩa biểu tượng của sự vật này:

- ... Cái cần câu trúc

Cái ống câu trắc

Cái lưỡi câu vàng

Cái đàn chỉ tơ

Sáng trăng anh câu nhởi, ai ngờ bén duyên. (TL I - tr.316)

- Cần chắc, ống trúc, chỉ bạc, tơ Tàu,

Sao không câu con cá rô biển, lại câu con cá rô bàu làm chi?

(TL I - tr.370)

Thuyền thúng hay thuyền ván cũng biểu thị những cảnh đời khác nhau:

- Anh chê thuyền thúng chẳng đi,

Anh đi thuyền ván có khi gập ghềnh

Ba chim bảy nổi lênh đênh !

- Em chê thuyền ván chẳng đi,

Em đi thuyền thúng có khi trùng triềng

Có khi đổ ngả, đổ nghiêng. (TL I - tr. 100)

3.2.2.3. Các công trình kiến trúc:

Nhóm này bao gồm các biểu tượng: nhà, chợ, cầu, đinh, chùa, giếng...

Các phạm trù làm nền tảng cho quá trình hình thành biểu tượng là:

- UPhạm trù không gian xã hội và văn hóaU:

Ngày trước, chùa ỉa nơi thờ Phật và diễn ra các hội lễ của Phật giáo. Còn đinh là

nơi sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa chủ yếu của làng quê. Trong một bài nghiên

cứu về ngôi đinh làng, Đinh Gia Khánh cho biết "...bên cạnh việc cúng tế có tính chất

Nho giáo, thi các sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa đều tập trung ở đinh. Lễ hội dân

gian có một số lấy chùa hoặc đền làm trung tâm, nhưng phần lớn thi lấy đinh làm

trung tâm" [74, tr.62]. Trong tâm thức dân gian, ngôi đinh chiếm một vị trí quan trọng,

thiêng liêng (nơi thờ Thành hoàng, họp bàn việc làng, lễ hội, phạt vạ ...)

Đi vào ca dao, đinh không chỉ mang những nét nghĩa như thế. Ở đây, đinh còn

được hiểu là nơi hẹn hò, gặp gỡ của lứa đôi, là không gian của những mối tình hạnh

phúc hay đau khổ. Nhắc đến đinh, người ta nghĩ đến một điểm hẹn tình yêu hơn là

một trung tâm tín ngưỡng và hành chính:

- Ngày ngày ra đứng đầu đinh,

Chuyện trò to nhỏ, có minh có ta. (TL I - tr.1543)

"... Tiễn minh đến trước cửa đinh

Để ta than thở với minh vài câu. (TL I - tr. 1368)

Chùa là nơi thờ cúng thiêng liêng, nhưng đây cũng là nơi gặp gỡ của nhiều con

người, vi vậy, đã trở thành không gian của tình yêu. Trong ca dao, nhắc đến chùa,

phần nhiều là gợi ra một không gian của lứa đôi tình tự:

- Ra về anh đứng cửa chùa,

Như chuốc lấy nhớ, như mua lấy sầu.

Trông em chẳng thấy em đâu,

Thấy cô sư bác thêm sầu tương tư. (TL I - tr. 1766)

Đó là nơi trai gái gặp gỡ, yêu thương, thề thốt gắn bó với nhau. Trong ca dao còn

phổ biến lối nói tu chung một chùa của các đôi lứa:

- Dẫu mà không lấy được em,

Anh về đóng cửa cài rèm đi tu.

- Tu mô cho em tu cùng,

May ra thành phật thờ chung một chùa ... (TL II (1) - tr.267)

Do trong thực tế, đinh và chợ, giếng và chùa thường tồn tại gắn bó bên nhau, nên

ca dao cũng có lối nói quen thuộc:

- Muốn cho trước giếng, sau chùa

Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu. (TL II (1) - tr.352)

- Anh chưa có vợ như chợ chưa có đinh

Trời mưa dông đôi ba trộ, biết ẩn minh vô mô? (TL I - tr. 102)

Chiếc cầu, một loại công trình công cộng dành cho nhiều người sử dụng, cũng

được khai thác ở phạm trù này:

- Anh đang cỡi ngựa qua kiều (cầu)

Thấy em đứng đó lỡ chiều anh thương. (TL II (1) - tr.223)

- Nhổ khi gánh nặng anh chờ,

Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên. (TL I - tr. 1667)

Chiếc cầu, đó là không gian của những mối tình, những kỷ niệm yêu đương ...

- UPhạm trù chức năngU:

Chùa, miếu với công việc thắp hương, dâng hương, đóng oản ... cũng được dùng

để nói chuyện yêu đương của đời thường:

- Công em gánh gạch xây tường,

Mà em chẳng được thắp hương chùa này. (TL I - tr.501)

- Miếu thiêng chẳng có ai thờ,

Tay ai thanh tịnh xin nhờ thắp hương. (TL I - tr. 1358)

Nếu như sông với chiều dài dằng dặc, chiều rộng mênh mông, chiều sâu thăm

thẳm là biểu tượng của sự ngăn cách, cách trở trong tình yêu, thi chiếc cầu bắc qua

sông là hình ảnh của sự nối kết tình yêu, xóa nhòa ranh giới chia cách:

- Anh về xẻ ván cho dày,

Bắc cầu sông Cái đón thầy mẹ sang

Thầy mẹ sang trước, anh em ta rày sang sau. (TL I - tr. 175)

- UPhạm trù trang thái, tính chấtU:

Trạng thái, tính chất của các công trình kiến trúc cũng là khía cạnh khơi gợi

nhiều liên tưởng nghệ thuật. Các biểu hiện-cụ thể là: nhà dột cột xiêu, nhà rách nát,

nhà ngói rung rinh, chùa rách, cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh, cầu mỏng ván gió rung, cầu

cao ván mỏng cong vòng, cầu không tay vịn ...

- Chùa này rách nát, bụt ngã sư sầu

Còn tình nhân chi anh nữa để dựng lầu đúc chuông. (TL II (1) - tr.265)

- Cầu kiều ván mỏng gió rung

Bạn về sửa lại cho ta đi chung một cầu. (TL I - tr.372)

Chợ khi họp, khi tan, khi đông, khi vắng trở thành biểu tượng cho những thời

điểm khác nhau trong cuộc đời, trong tình yêu:

- Buổi chợ đông, sao em chẳng bán hàng,

Để tan buổi chợ, em dạo làng bán duyên. (TL I - tr.298)

Giếng sâu, giếng cạn được dân gian dùng biểu thị cho lòng người:

- Tưởng giếng sâu, nối sợi dây dài

Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây. (TL I - tr. 1982)

- UPhạm trừ chất liệuU:

Nhà là không gian quen thuộc, thiết yếu của mỗi gia đinh. Tự chúng đã phản

ánh nhiều khía cạnh có liên quan đến chủ nhân. Vi vậy, trong ca dao, nhà cũng tham

gia vào việc biểu hiện đời sống con người. Nhà lim, nhà ngói ba tòa, nhà ngói năm tòa

... là thể hiện của sự giàu sang. Còn nhà tranh, lều tranh, nhà lá ... là thể hiện của cuộc

sống cơ cực, thiếu thốn về vật chất.

- Phải căn duyên nhà lá cột chà là,

Không phải căn duyên nhà ngói đôi ba tòa cũng không ham.

(TLIII-tr.353)

Nhiều chiếc cầu tưởng tượng đã được dân gian thêu dệt bằng những chất liệu đặc

biệt tượng trưng cho khát vọng được hòa hợp với người minh yêu: cầu cành hồng, cầu

mồng tơi, cầu đòn gánh, cầu sợi chỉ, cầu dải yểm, cầu Ô thước ...

- Sông cách sông, thủy cách thủy

Anh thương em, anh xe sợi chỉ, anh bắc cây cầu

Để em qua lại giải sầu với anh. (TL III - tr.366)

Các chất liệu trên đã tô đậm thêm ý nghĩa biểu tượng của chiếc cầu, bên cạnh

những cầu tre, cầu ván.

- Muốn đi cầu ván đóng đinh

Cầu tre vắt vẻo dưới minh thiếu chi. (TL I - tr. 1439)

3.2.3.Hệ thống 3: Biểu tượng là con người:

3.2.3.1. Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học – nghệ thuật:

Kim Trọng, Thúy Kiều, Ngưu Lang, Chức Nữ, Bá Nha, Tử Kỳ ...

Các biểu tượng này có tần số xuất hiện thấp, nhưng đã tạo nên nhiều bất ngờ thú

vị cho người thưởng thức do sự nối kết giữa bài ca với những tác phẩm văn học cổ,

những điển tích, điển cố của cả văn học Việt Nam và Trung Quốc.

Dân gian đã khai thác các phạm trù sau ồ thế giới con người để tạo thành biểu

tượng:

- UPhạm trù nhân cáchU:

Các nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Lưu Bình, Dương Lễ, Bá Nha,

Tử Kỳ, Nghiêu, Thuấn ... là những con người đẹp đẽ về nhân cách. Dân gian yêu thích

họ, coi họ là những tấm gương cho hậu thế soi chung. Trong ca dao, người xưa

thường so sánh những con người cụ thể với các nhân vật đó. Dần dần, hình thành nên

một loạt các biểu tượng thuộc thế giới con người:

- Dầu ai gieo tiếng ngọc,

Dầu ai đọc lời vàng,

Bông sen hết nhụy bông tàn

Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga. (TL III - tr.244)

Mối tình đẹp đẽ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều trong tác phẩm của Nguyễn Du

khiến cho các chàng trai, cô gái ngày trước ước ao minh cũng có một tình yêu như thế.

Không ít lần, họ tự nhận minh là Kim, Kiều:

- Nhin lên Sơn Lâm nhớ nguồn nước suối,

Ăn gạo bên bắc nhớ buổi Đường, Nghiêu.

Nhón chân lên vang tiếng: ơ Kiều

Trước có quen Kim Trọng, giừ có nhớ ít nhiều chi không?

(TLI-tr.1655)

- UPhạm trù hoàn cảnh sốngU:

Hoàn cảnh sống của các nhân vật, đặc biệt là những cảnh trái ngang, bất hạnh:

Vân Tiên xa Nguyệt Nga, Kim xa Kiều, Ngưu Lang xa Chức Nữ ... có những nét thật

gần gũi với các nghịch cảnh của đời thường:

- Hai đứa minh dứt điệu tình thương

Giả như Kim Trọng dứt tình thương Thúy Kiều. (TL I - tr.1077)

- Ai làm Ngưu Chức đôi đàng,

Để cho quân tử đa mang nặng tình. (TL I - tr.65)

- UPhạm trù chức năngU:

Ông Tơ là nhân vật xuất phát từ một điển cố Trung Quốc, khi đi vào văn hóa

Việt Nam đã trở thành có đôi: ông Tơ - bà Nguyệt. Biểu tượng này thể hiện sâu sắc

cách nhin, cách nghĩ của dân gian về tình yêu.

Trong ca dao, khi các nhân vật này xuất hiện, họ luôn đi kèm với chức năng: xe,

kết, buộc chỉ hồng, tơ hồng với nghĩa biểu tượng là xe kết tình duyên đôi lứa:

- Tơ hồng nay đã về tay,

Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa minh. (TL III, tr.327)

Khi ông Tơ, bà Nguyệt thực hiện chức năng không tròn (theo ý các lứa đôi) thi

bị trách, giận, oanh, kiện ...

- Bắt ông Tơ mà đánh ba hèo

Duyên người ta xe cả, phận em đối nghèo không xe. (TL I - tr.246)

3.2.3.2. Các bộ phận trong cơ thể con người:

UPhạm trù màu sắcU:

má hồng, răng đen, gan - ruột ...

Má hồng, răng đen là biểu tượng của sắc đẹp, tuổi trẻ người phụ nữ. Những cách

dùng cụ thể là: má hồng, má hường, má đào, má đỏ, má phấn, má xanh, răng đen

nhưng nhức, răng đen nhánh ...

- Anh đi ngang qua cửa sao không vào,

Hay là anh có chỗ má đào, phụ em? (TL I - tr. 112)

Giọt nước mắt biểu tượng cho tâm trạng cũng được khai thác ở khía cạnh này,

đó là giọt nước mắt hồng (tức nước mắt hòa với máu. Nàng Tiết Linh Vân, đời Ngụy

Văn Đế được kén vào cung. Trước khi đi, Linh Vân từ biệt cha mẹ, đau đớn khóc đến

máu chảy nhòa đỏ cả nước mắt. Nước mắt hồng là biểu tượng của sự đau khổ cực độ)

[39, tr.436].

- Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh,

Bánh nào trắng bằng bánh bò bông

Đạo nào thâm bằng đạo vợ chồng,

Đêm năm canh hoài vọng, nước mắt hồng đầy vơi. (TL III - tr.436)

- UPhạm trù trạng tháiU:

Nước mắt và gan, ruột là những biểu tượng được thể hiện ở nhiều trạng thái

nhằm diễn tả tâm trạng đau đớn, buồn khổ, nhớ thương với các mức độ khác nhau:

nước mất rây đầy đường, nước mắt nhỏ giọt như mưa tháng mười, nước mắt rơi lai

láng hai mươi tám đêm ngày, ruột héo gan khô, ruột bầm như dưa, ruột đau chín tầng,

ruột xót như muối, ruột nát gan bầm, ruột thắt gan bào, bầm gan tím ruột, gan ruột bào

nhào, gan thắt một đau, gan phế tả tơi, ruột đứt từng chặng, gan bầm tới tìm, ruột

cháy gan khô ...

- Ra về em một ngó theo,

Ruột đứt đi từng đoạn, gan em teo nửa chừng. (TL I - tr. 1771)

-Sầu em gan phế tả tơi

Anh than hết lời sao đó chẳng xiêu? (TL I - tr. 1831)

* * *

Theo thông kê của chúng tôi, biểu tượng thuộc hệ thống 1 chiếm số lượng nhiều

nhất (166/286 biểu tượng), hệ thống 2 thấp hơn (102/ 286 biểu tượng) và cuối cùng là

hệ thống 3 (18/286 biểu tượng). Qua các con số này, vai trò quan trọng của thiên

nhiên đối với quá trình hình thành biểu tượng đã được bộc lộ rõ.

Với cách phân loại dựa vào tiêu chí cái biểu đạt, chúng ta có thể bao quát được

một số lượng lớn các biểu tượng, hình dụng được hầu như toàn bộ những biểu tượng

nổi bật, phổ biến, tiêu biểu của ca dao truyền thống người Việt. Cũng với.cách phân

loại này, từng hệ thống biểu tượng nhỏ được định hình, định vị rõ ràng với những

phạm trù làm cơ sở cho các liên tưởng thi ca hình thành biểu tượng, tạo sự nắm bắt

đối tượng dễ dàng cho người nghiên cứu, thưởng thức ca dao (việc'phân chia các

phạm trù để khảo sát như chứng tôi đã tiến hành trên đây cũng chỉ có tính chất tương

đối, vi trong thực tế, những phạm trù này tồn tại ở cùng một sự vật luôn có những liên

hệ gắn bó hữu cơ với nhau ...).

Do sự giới hạn về dung lượng của luận án, chúng tôi không thể miêu tả chi tiết, tỉ

mỉ toàn bộ các biểu tượng trong từng hệ thống nhỏ. Sự miêu tả ở đây chỉ mang tính

chất khái quát chung, có dừng lại ỏ một số biểu tượng cụ thể cũng chỉ nhằm để minh

họa cho cái chung, cái toàn thể. ở từng biểu tượng, chúng tôi cũng không miêu tả thật

kỹ lưỡng mà chỉ chú ý đi vào giới thiệu một vài nội dung cơ bản, vài nét nghĩa nổi bật.

Vi vậy, để bù đắp thêm cho phần trình bày này, chúng tôi xin được giới thiệu thêm

phần phụ lục ở cuối luận án. Trong phần đó, các biểu tượng sẽ được chúng tôi sắp xếp

và giới thiệu một cách đầy đủ; toàn diện hơn (tên gọi, ý nghĩa, các biến thể, tần suất).

3.3. Một số đặc trưng của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao

người Việt:

Qua phần trình bày trên, chúng ta thấy rằng các liên tưởng thơ ca tạo thành biểu

tượng phần nhiều bắt nguồn từ các phạm trù thuộc cái biểu đạt. Thế nhưng các hiện

tượng tự nhiên và mội trường tự nhiên, các vật thể nhân tạo và con người ở mỗi địa

phương, dân tộc lại có những khác biệt nên hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ

ca trữ tình dân gian ở từng vùng, miền, từng khu vực cư trú cũng có những đặc trưng

riêng. Ngoài ra, còn phải kể đến sự chi phối của các quan niệm thẩm mỹ, phong tục,

tập quán, tín ngưỡng ... ở từng cộng đồng khác nhau trong quá trình hình thành biểu

tượng. Tính địa phương, tính nghề nghiệp, tính dân tộc của một hệ thống biểu tượng

thi ca, vi vậy, là biểu hiện mang tính quy luật, tạo nên những nét riêng trong bản sắc

văn hóa của từng cộng đồng.

Mỗi vùng quê trên đất nước ta đều có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh địa lý,

lịch sử, xã hội, môi trường, cảnh quan thiên nhiên cho nên sự sử dụng các biểu tượng

trong thơ ca cũng không hoàn toàn giống nhau. Khảo sát các tập ca dao ở từng vùng

đất, chúng tôi nhận thấy tính địa phương nổi lên rất rõ. Bên cạnh hệ thống biểu tượng

chung mà nhân dân ở địa phương nào cũng sử dụng, mỗi miền đất còn có những biểu

tượng đặc biệt của riêng minh. Dĩ nhiên, tính địa phương ở đây cũng cần được hiểu

một cách tương đối, vi ca dao là những tác phẩm nghệ thuật của dân gian, thuộc về

dân gian, sự lưu truyền, di chuyển tác phẩm từ địa phương này qua địa phương khác

đã trở thành một quy luật tất yếu. Xét từng đơn vị ca dao riêng lẻ, có lẽ chúng ta cũng

khó mà xác định được địa bàn gốc mà tác phẩm ra đời. Theo đó, đi tìm nguồn gốc địa

phương cụ thể của một biểu tượng là không dễ dàng. vấn đề chỉ có thể giải quyết được

khi chúng ta điểm qua từng hệ thống ca dao địa phương. Một số biểu tượng được nổi

trội, xuất hiện với tần số cao, chứng tỏ chúng đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm

thức dân gian. Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị đã nhận xét rất đúng: "Ở Bắc bộ, những hình ảnh

làm nên bộ mặt tiêu biểu của nông thôn cổ truyền - cây đa, bến nước, sân đinh, nhịp

cầu, lũy tre ... rất hay được nhắc tới trong các bài ca. Câu hát Trung bộ trùng điệp hình

ảnh của núi, rừng. Trong ca dao - dân ca Nam bộ, hình ảnh ghe xuồng, kinh rạch xuất

hiện với tần số cao ..." [40, tr.80]. Theo sự nghiên cứu của chúng tôi, ca dao Nam bộ

còn chú ý đặc biệt đến các biểu tượng sông, nước, con cá và người câu cá, kiểng ...

Màu sắc địa phương này thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa biểu tượng với tầng nền lịch

sử - xã hội - văn hóa của nó. Dân gian luôn có khuynh hướng muốn lựa chọn những

hình ảnh, sự vật quen thuộc chung quanh minh để giãi bày tâm trạng. Hệ thống biểu

tượng chung trong ca dao Việt Nam, nhờ vậy, càng trở nên giàu có, đa dạng hơn vi đó

là sự tích hợp những giá trị thẩm mỹ đẹp đẽ, độc đáo nhất của từng miền đất nước.

Bên cạnh màu sắc địa phương, biểu tượng trong ca dao người Việt còn mang

tính nghề nghiệp. Những ngành nghề tin yêu thống của dân tộc như trồng dâu, nuôi

tằm, dệt vải, đánh bắt cá (chài, lưới, câu), chèo thuyền, làm mộng, làm vườn, trồng

trầu cau ... đã để lại dấu ấn đậm nét trong hệ thống biểu tượng. Các biểu tượng có tần

suất cao thường là gắn bó với những nghề nghiệp cụ thể. Công việc lao động lặp đi

lặp lại, sự vật được quan sát ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ dẫn đến việc hình

thành nên nhiều biểu tượng cùng nhóm. Nhóm biểu tượng thuyền có: thuyền, thuyền -

bến, thuyền - khách, thuyền - sông, thuyền - lái, thuyền lênh đênh, thuyền rồng,

thuyền thúng - thuyền ván, thuyền - thuyền, thuyền tình ... Nhóm biểu tượng cá có: cá,

cá - chim, cá giữa bàu, cá hóa rồng, cá - lưới, cá - mưa, cá - người câu, cá - nước, cá

trích - cá sòng, cá trong ao, cá ươn ... Biểu tượng ca dao ra đời, tồn tại, phát triển,

được sử dụng và tiếp nhận gắn chặt với những con người đeo đuổi những nghề nghiệp

nhất định, cho nên tính nghề nghiệp là một biểu hiện tất yếu của hệ thống này.

Do đặc trưng của thể loại, có lẽ trên khắp thế giới này, nền thơ ca dân gian của

bất kỳ một dân tộc nào cũng đều có một hệ thống biểu tượng. Việc nghiên cứu so sánh

sẽ phát hiện được nhiều điều khác biệt giữa các hệ thống này.

Trong thơ ca dân gian Nga, biểu tượng cho chàng trai trẻ thường là chim họa mi,

chim ưng, vịt đực, bồ câu đực ..., biểu tượng cho cô gái thường là thiên nga trắng, vịt

cái, chim công, bồ câu xám người phụ nữ buồn, đau khổ thường là con chim tu hú.

Ngoài ra các cô gái còn được biểu thị bằng cây bạch dương, kim ngân hoa, cây đùm

hương, cây anh đào, người phụ nữ thi là cây lê, cây thong đuôi ngựa, cây thanh lương

trà, cây liễu diệp hoàn. Tuổi trẻ thường được biểu thị bằng cây sồi, cây hoa bia, cây

nho ... [196, tr.89 -90].

Các biểu tượng trên rõ ràng rất xa lạ với người Việt Nam. Mỗi dân tộc có một

thói quen, sở thích khác nhau trong việc lựa chọn các sự vật làm biểu tượng. Hình ảnh

cây bạch dương phổ biến trong thơ ca dân gian Nga, còn hình ảnh trầu cau lại phổ

biến trong thơ ca dân gian Việt Nam.

Đọc lại ca dao với hàng loạt biểu tượng, ta có cảm giác như đang sống cuộc

sống của người Việt xưa với những đặc điểm của một thế giới riêng. Thiên nhiên,

cảnh vật Việt Nam hiện lên với những đường nét thân thương: bến nước, dòng sông,

con đò, chiếc cầu, cái giếng, mái đinh, cây đa, chanh, khế, lựu, đào, con cò, con cá ...

Người con gái xưa đẹp đẽ với hàm răng đen, dải yếm đào, với chiếc khăn, chiếc nón

đội đầu, với miếng trầu têm khéo léo. Đời sống hàng ngày với những nhà tranh, mái

ngói, ngọn đèn, với công việc hái dâu, chăn tằm ...vô cùng quen thuộc. Một số biểu

tượng tuy có nguồn gốc vay mượn từ nước ngoài nhưng đã được dân tộc hóa, dân gian

hóa về nhiều mặt. Đi vào ca dao, rồng -mây, trúc - mai, mận - đào, ông Tơ... đều

mang màu sắc Việt Nam, có khả năng biểu hiện đa dạng những khía cạnh tình cảm

của cộng đồng người Việt.

Hệ thống biểu tượng ca dao còn là nơi bộc lộ rõ rệt những giá trị tình thần đẹp đẽ

của người Việt Nam. Đức cần cù, nhẫn nại, phẩm chất thanh cao của người nông dân

được kết đọng trong hình ảnh con cò. Người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó

tìm thấy minh trong con bống. Lòng thủy chung được nhắc đến thường xuyên qua cây

đa, bến cũ, trầu cau, ngọn đèn không tắt... Dân tộc ta có truyền thống coi trọng đạo lý,

nghĩa tình hơn tất cả mọi thứ của cải, vật chất trên đời. Khi cần lựa chọn giữa hai

phạm trù giá trị, thi gia trị tình thần luôn được xếp cao hơn vật chất.

Ví dụ: - Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (TL I - tr.645)

Có hai phạm trù được đưa ra so sánh:

- áo rách >< áo gấm xông hương (vật chất)

- (tình cảm với) chồng ta >< (tình cảm với) chồng người (tình thần)

Lựa chọn cuối cùng:

Chồng ta (ta thương) > chồng người (mặc người)

Tức là: tình thần > vật chất

Truyền thống này đã khiến dân gian luôn có cái nhin linh hoạt khi sử dụng các

biểu tượng. Áo rách, nhà tranh, chiếu lác ... biểu thị sự nghèo khổ nhưng ữong thế đối

lập với áo gấm, nhà ngói, chăn gấm ... nhiều lúc lại thắng thế nến như chúng đi kèm

với tình, nghĩa.

- Yêu nhau chẳng quản chi nhà,

Lều tre quét sạch hơn tòa ngói cao. (TL I - tr.2388)

Tình thần lạc quan yêu đời cùng với óc thực tế của dân tộc ta cũng được thể hiện

sâu sắc qua biểu tượng ca dao. Trong sự kềm tỏa khắc nghiệt của luân lý phong kiến,

các lứa đôi vẫn hồn nhiên ca hát về tình yêu. Nhiều biểu tượng sóng đôi trang trọng

có, dân dã có đã khẳng định nét đẹp tâm hồn đó. Trong những hoàn cảnh sống nghèo

khổ, bất hạnh, người bình dân vẫn mơ tới một tương lai tươi sáng:

- Đừng lo phận áo không tay

Trời kia ngó lại anh may mấy hồi. (TL II -tr.223)

Sự lạc quan đó xuất phát từ cách nhin cuộc sống trong thế đi lên, trong sự phát

triển. Bèo có khi ngồi đầu sen, trăng mờ sẽ -có lúc tỏ, nước đục rồi sẽ có lúc trong...

Tóm lại, ở cả hai bình diện CBĐ’ lẫn CĐBĐ’ hệ thống biểu tượng ca dao đều

thể hiện đậm đà tính dân tộc. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói hệ thống này

đã góp phần nuôi dưỡng và phát triển tình thần dân tộc. Nhiều biểu tượng từ ca dao đã

đi vào thơ ca của văn học viết, để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng người đọc (thơ

Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính ...).

Biểu tượng ca dao mang tính dân tộc đậm nét, nhưng điều này không có nghĩa là

giữa các dân tộc khác nhau, các hệ biểu tượng hoàn toàn không có những điểm chung.

Xét về đại thể, biểu tượng ca dao cũng chính là những biểu tượng văn hóa. Nền văn

hóa của toàn nhân loại chắc chắn phải hướng về những giá trị đẹp đẽ trong đời sống

con người. Như vậy, sự tương đồng ở một số biểu tượng trong các nền văn hóa khác

nhau cũng là điều tất yếu.

Theo Phạm Thu Yến: "Các nhà nghiên cứu thi pháp thơ ca dân gian Nga chỉ ra

rằng xuất hiện tương đối nhiều trong thơ ca dân gian là biểu tượng chim" [196, tr.89],

đây là một điểm rất giống với thơ ca dân gian Việt Nam, nơi mà các loài chim như cò,

loan, phượng hoàng, nhạn, én ... đã ưỏ thành biểu tượng. Các loài cây cũng là biểu

tượng phổ biến trong thơ ca dân gian các dân tộc. Cây bạch dương, táo, lê, tiểu anh,

liễu, dâu, sồi, tầm ma bỏng rát, ngải đắng ... là những hình ảnh quen thuộc trong thơ

ca dân gian Nga. Còn ỏ Việt Nam, đó là cây trúc, mai, đào, tùng, lựu, cau, trầu, đa ...

Và có lẽ ở khắp mọi nơi trên thế giới này, đâu đâu bông hoa thắm tươi cũng được

dùng biểu thị cho người phụ nữ. Đó là những điểm gặp gỡ, những vùng giao thoa thú

vị giữa các nền văn hóa, giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn giá trị của các biểu tượng.

Trầu - cau thể hiện sự hòa hợp nghĩa tình là một biểu tượng rất đẹp trong ca dao

người Việt, đồng thời còn là biểu tượng mang tính quốc tế, tính nhân loại nhin từ góc

độ văn hóa. Những câu chuyện hoang đường kể về cây mọc cạnh nhau, cây liền cành,

cây leo quấn bên cây thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới đã chứng minh

điều đó. Văn học Trung Quốc có chuyện kể: Hàn Bằng là quan tể tướng, có vợ là Hà

Thị, sắc đẹp hơn người. Nàng bị hôn quân Tống Khang Vương cướp làm vợ. Hàn

Bằng bị vua cầm tù và tự sát. Hà Thị muốn thoát khỏi tay vua và tiết liệt với chồng

nên đã tự tử, có để thư lại xin được chôn chung với Hàn Bằng. Tên hôn quân căm

giận, sai chôn Hà Thị ở chỗ khác đối diện với mộ Hàn Bằng. Qua một đêm, bỗng

nhiên mộ nào cũng có cây tử mọc lên, rễ liền nhau ở dưới, ngọn cành liền nhau ở trên.

Nhân dân thương xót đặt tên cho cây ấy là cây tình yêu chung thủy [164,tr.l]. Cũng từ

điển tích này mà văn học Trung Quốc thường dùng hình ảnh cây liền cành để biểu

hiện cho tình nghĩa vợ chồng bền chặt. Trong thiên tình ca Tơ-ri-xtăng và I-zơn của

Pháp, hai cây vạn niên thanh mọc lên từ nấm mồ của hai người tình đã kết lại với

nhau. Trong truyện của I-răn, nhà vua Công-sô-ca chia rẽ lứa đôi của chàng Đai-đre

và nàng Nai-si. Từ nấm mồ hai người mọc lên hai'cây trắc sát cạnh nhau. Dân ca Thụy

Sĩ có bài nói về cây sồi có hai gốc mọc quyện vào nhau ở một nhà thờ. Một bài dân ca

ư-crai-na hát rằng: có bà mẹ chồng cư xử rất tàn tệ với con dâu. Người con dâu buồn

rầu uống thuốc độc chết, người chồng cũng uống rồi chết theo. Bà chôn xác hai người

cạnh nhau. Từ mộ họ mọc lên hai cây bim bim, vươn đến nhau và giao nhau từng đôi

lá một. Ở Bùn-ga-ri cũng có chuyện tương tự: cây anh đào trên mộ người con trai và

cây nho trên mộ người con gái ... [164, tr.1-4]. Các câu chuyện trên có nhiều điểm

tương đồng. Các loài cây đều mọc lên từ hai nấm mồ của đôi tình nhân phải chia lia

vĩnh viễn vi những thể lực xấu xa của con người. Chúng luôn mọc cạnh nhau, quấn

quýt bên nhau. Hình ảnh đó đã trở thành biểu tượng của tình yêu chung thủy. Mọi dân

tộc đều muốn hướng đến những giá trị tình thần cao đẹp. Tình yêu lứa đôi bền chặt,

sắt son, vĩnh cửu, bất diệt là mọt ừong số những giá trị đó. Hòa cùng với tình hoa của

văn học các dân tộc trên thế giới, chúng ta tự hào vi đã đóng góp vào kho trí tuệ nhân

loại những biểu tượng đẹp đẽ. Chính những điểm tương đồng gần gũi giữa các hệ biểu

tượng giúp ta có điều kiện thuận lợi hơn khi tìm hiểu nền văn hóa của các dân tộc.

* * *

Trên đây là một số vấn đề về phân loại và miêu tả biểu tượng nghệ thuật ương ca

dao truyền thống người Việt. Khi thực hiện hai thao tác này, chúng tôi gặp không ít

khó khăn do số lượng biểu tượng lớn, đa dạng; các phạm trù gợi liên tưởng ở sự vật

phong phú, giá trị mỗi biểu tượng không dễ nắm bắt đầy đủ, tức thời... Vừa bao quát

toàn hệ thống, vừa tìm hiểu cụ thể từng biểu tượng là cần thiết vi việc làm này sẽ

mang lại những hiểu biết sâu rộng hơn về biểu tượng ca dao, tuy nhiên, nó cũng đòi

hỏi nhiều thời gian, công sức từ phía người nghiên cứu.

Từ thế giới khách quan (với muôn ngàn sự vật, hiện tượng) đến thế giới biểu

tượng ca dao (với 286 biểu tượng) là con đường của thao tác lựa chọn, tư duy liên

tưởng, sáng tạo nghệ thuật. Con đường này tồn tại trên mảnh đất Việt nên mọi biểu

tượng được hình thành đều mang đậm hồn quê, đất Việt (tính địa phương, tính nghề

nghiệp, tính dân tộc). Một số biểu tượng đạt đến tầm vóc quốc tế đã góp phần khẳng

định những giá trị nhân văn sâu sắc của hệ thống biểu tượng ca dao.

CHƯƠNG 4: CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG

NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT

4.1. Cấu tạo của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:

Để đáp ứng nhu cầu biểu hiện tình cảm đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ của con

người, các biểu tượng cũng được hình thành theo những cách cấu tạo khác nhau. Phổ

biến trong ca dao là hai loại: biểu tượng đơn và biểu tượng đôi.

4.1.1.Biểu tượng đơn:

Biểu tượng đơn là những biểu tượng chỉ bao gồm một sự vật, một hình ảnh duy

nhất. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, nhiều bài chỉ có một biểu tượng, hoặc tuy một

bài có nhiều biểu tượng, song các biểu tượng đó chỉ gắn bó lâm thời với nhau trong

bài ca dao, nghĩa là chúng không xuất hiện theo dạng cặp đôi nhiều lần như là những

liên kết truyền thống, lúc đó, ta có những biểu tượng đơn. Con cò, con bống, hạt mưa,

trăng, ngọn đèn, tấm lụa đào, cánh bèo, chiếc khăn, cái nón, cái áo ... là những biểu

tượng đơn.

Ví dụ: - Đàn bà như hạt mưa sa,

Hạt vào gác tía, hạt ra luống cày. (TL I – tr.2027)..

- Đi ngang thấy búp hoa sen,

Muốn vào mà bẻ sợ không quen chúa nhà. (TL I - tr.826)

4.1.2.Biểu tượng đôi:

Biểu tượng đôi còn gọi là biểu tượng sóng đôi, biểu tượng cặp đôi, xuất hiện với

tần số cao, rất phổ biến trong ca dao. Như tên gọi của chúng, biểu tượng đôi được tạo

thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh đi song song với nhau, liên kết bền vững trong

nhiều bài ca dao. Cá - nước, rồng - mây, loan - phụng, bèo - sen, củi - trầm, tiên - cú,

trầu - cau, mận - đào, thuyền - bến, vàng - đá, vàng - thau, hoa - bướm, ông Tơ - bà

Nguyệt, Châu - Trần, Tấn - Tần, Hán - Hồ, vuông -tròn... đều là những biểu tượng

sóng đôi.

Ở các biểu tượng đôi, biểu tượng này gợi biểu tượng kia, chúng tác động lẫn

nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau. Nhiều biểu tượng đôi mang ý nghĩa là những liên kết

bền vững và duy nhất: kim - chỉ, nút - khuy, khóa - chia, gương - lược, cá - nước,

phượng hoàng - ngô đồng ...

- Đôi ta như cúc với khuy,

Như kim với chỉ may đi cho rồi. (TL I - tr.862)

- Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây,

Như con chèo béo xa cây măng vòi. (TL I - tr.2067)

Phần lớn các biểu tượng đôi được hình thành trên cơ sở của những biểu tượng

đơn. Bèo - sen được hình thành từ biểu tượng bèo và biểu tượng hoa sen, thuyền - bến,

loan - phụng, trúc - mai... đều được hình thành theo cách như thế. Quá trình kết hợp

các biểu tượng đơn để tạo nên biểu tượng đôi không ngừng diễn ra trong các sinh hoạt

ca hát dân gian, vi vậy sự kết hợp này cũng không phải là hoàn toàn cố định. Rồng có

khi kết hợp với tiên thành rồng - tiên, có khi kết hợp với mây thành rồng - mây, có khi

kết hợp với phụng thành rồng - phụng, có khi kết hợp với cá thành rồng - cá, biểu

tượng hoa kết hợp với ong thành hoa - ong, có khi kết hợp với bướm thành hoa -

bướm, biểu tượng sen có khi kết hợp với bèo thành sen- bèo, có khi kết hợp với hồ

thành sen - hồ ...

Biểu tượng đôi là sự kết hợp các biểu tượng đơn hoặc các sự vật, hình ảnh đơn lẻ

lại với nhau theo những quan hệ ý nghĩa tương đồng hoặc tương phản, Có thể do

nhiều nguyên nhân khác nhau, các biểu tượng đôi đã được hình thành:

- Do chúng có nguồn gốc từ những điển tích, điển cố, những tác phẩm văn học

cổ: Châu - Trần, Tấn - Tần, Nghiêu - Thuấn, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên -

Nguyệt Nga, Lưu Bình - Dương Lễ ... Từ trong nguồn cội ban đầu này, các thành tố

của biểu tượng đôi đã tồn tại bên nhau không tách rời, cho nên khi đi vào ca dao,

chúng vẫn giữ nguyên trạng thái liên kết chặt chẽ đó.

- Do trong đời sống thực tế, chúng luôn tồn tại hữu cơ với nhau: nút -khuy, khóa

- rương, khóa - chia, rượu - nem, trầu - cau, cá - nước, hoa - bướm, thuyền - bến ...

Đồng thời, trong nói năng, dân gian lại luôn hướng tới sự hài hòa, cân xứng, nên các

sự vật thường được xuất hiện sóng đôi với nhau. Trần Ngọc Thêm đã có lần nhận xét

về lối nói năng này: "Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương

hài hòa: ông Đồng, bà Cốt, đồng Cô đồng Cậu, đồng Đức Ông, đồng Đức Bà ... Ngay

cả những khái niệm vay mượn đơn độc, khi nhập vào Việt Nam chúng cũng được

nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối chỉ là ông Tơ Hồng thi vào Việt Nam

được biến thành ông Tơ, bà Nguyệt, ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thi vào Việt Nam xuất

hiện Phật ông, Phật bà..." [156, tr.63].

- Do hình thức hát đối đáp trong dân gian: trong ca dao, ta thường quen thuộc

với những cách xưng hô: anh - em, thiếp - chàng, minh - ta, qua - bậu, tôi - người, tính

- tình, đó - đây ... và cũng không lạ khi các chàng trai, cô gái xưng hô với nhau bằng

những đại từ - biểu tượng (biểu tượng đóng vai trò là đại từ nhân xưng): trúc - mai,

thuyền - bến, rồng - mây, mận - đào,...

- Bây giờ rồng mới gặp mây,

Sao rồng chẳng thở với mây vài lời... (TLI-tr.256)

Trong nhóm các biểu tượng đôi này, nếu xét về mặt ý nghĩa, lại có thể chia thành

hai nhóm nhỏ hơn: biểu tượng đôi tương đồng và biểu tượng đôi đối lập.

4.1.2.1. Biểu tượng đôi tương đồng:

Là những biểu tượng trong đó hai thành tố tạo nên chúng tương xứng với nhau

về phẩm chất, thuộc tính, cùng kết hợp với nhau tạo nên một tín hiệu thẩm mỹ, một

nội dung cảm xúc nhất định. Thành tố này bổ sung, nhấn mạnh, khơi gợi thành tố kia.

Các thành tố nương nhau, nâng nhau lên, làm thành một cặp biểu tượng hoàn chỉnh

"tuy hai mà một, tuy một mà hai". Gạo trắng - nước trong, trúc - mai, mận - đào, rồng

- mây, đá — dao, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên -Nguyệt Nga ... đều là những cặp

biểu tượng tương đồng.

Loại biểu tượng này thường xuất hiện trong những bài ca dao thể hiện niềm vui,

niềm hạnh phúc, sự xứng đôi vừa lứa: loan - phụng, phượng hoàng -ngô đồng, lựu -

đào, bướm - hoa, vàng - ngọc, đũa ngọc - mâm vàng ...

-... Đầu ai gối cánh tay này,

Như chim loan phượng đậu cây ngô đồng. (TL I - tr.2253)

- Vợ nên rồng, chồng nên tiên,

Quí lại gặp quí, bạn hiền gặp nhau. (TL I - tr.2347)

Hoặc là chúng xuất hiện trong những bài ca dao thể hiện sự gắn bó, thủy chung:

cá - nước, rồng - mây, trầu - cau, kim - chỉ, gương - lược, khóa - chia, nút - khuy,

Châu - Trần, Tấn - Tần ...

- Đôi ta như khóa với chia,

Trọn niềm chung thủy, đừng lia mới hay. (TL I - tr.865)

- Em như nút, anh như khuy,

Như Thúy Kiều - Kim Trọng, biệt ly sao đành. (TL III - tr.211)

4.1.2.2. Biểu tượng đôi đối lập:

Trong các biểu tượng đôi đối lập, các sự vật, hình ảnh hợp thành đối lập, mâu

thuẫn, tương phản nhau về phẩm chất, thuộc tính, không tương xứng nhau về nội dung

hoặc hình thức: củi - trầm, bèo - sen, trăng - đèn, phượng hoàng - gà, bát đàn - bát sứ,

nhà ngói - nhà ưanh, vàng - thau ...

Loại biểu tượng này thường được sử dụng trong những bài ca dao thể hiện nỗi

đau khổ, bất hạnh, tâm trạng xót xa, đắng cay, ngậm ngùi, nuối tiếc...

- Trách cha, trách mẹ nhà chàng,

Cầm cân không biết là vàng, hay thau.

Thực vàng chẳng phải thau đâu,

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng. (TL I - tr.2141)

- Có bát sứ, tình phụ bát đàn,

Nâng niu bát sứ, vỡ tan có ngày. (TL I - tr.394)

Trong biểu tượng đôi đối lập thường có sự kết hợp những hình ảnh có giá trị

tương phản cao để chỉ ra sự không xứng hợp của đôi lứa: tiên - cú, phượng hoàng -

gà, đũa mốc - mâm son, trầu vàng - cau sâu sự đối lập giữa hai chàng trai (hay hai cô

gái) trong tình yêu: trăng - đèn, bát đàn - bát sứ, chùa -miếu, đũa tre - đũa mun, nước

sông - nước bàu, nước trong - nước đục, vàng -thau hầy những hoàn cảnh trái ngược

nhau: nhà ngói - nhà tranh, áo rách - áo lành, thuyền thúng - thuyền ván, cầu ván - cầu

tre, chợ đông - chợ tan ...

Ở đây, ta có điều kiện để tìm hiểu thêm sự hình thành của biểu tượng đôi từ các

biểu tượng đơn. Các biểu tượng đơn cùng nhóm (hình thành từ cùng một loại sự vật)

cũng có thể kết hợp với nhau thành những cặp biểu tượng: nhà ngói -nhà tranh, chiếu

hoa - chiếu lác, áo rách - áo lành, nón rách - nón lành, nước trong - nước đục, cầu ván

- cần tre ... Như vậy, khả năng để hình thành nên các biểu tượng đôi đối lập thật là

phong phú, có thể từ hai biểu tượng đơn khác nhóm, cũng có thể từ các biểu tượng

đơn cùng nhóm với nhau.

Trong nhiều trường hợp, từ một biểu tượng đơn ban đầu có thể kết hợp với các

biểu tượng đơn khác nhau làm thành các biểu tượng đôi mang giá trị đối lập: quế -

phượng hoàng > < quế - cú; trầu vàng - cau xanh > < trầu vàng - cau sâu; phượng -

loan > < phượng - gà; quế - trầm >< củi - trầm; tiên - rồng >< tiên -cú; vàng - ngọc >

< vàng - thau ...

- Thôi thôi đừng nói mà phiền,

Đầu rồng đã ấp tay tiên đi rồi. (TL II (1) - tr.406)

- Cú đã biết thân cú hôi,

Cú sao lại dám đến ngồi cùng tiên. (TL II (2) - tr.213)

Hay: - Nấu chè van vái Phật bà,

Khiến cho chung hiệp một nhà phụng loan. (TL III - Tr.328)

- Nơi gần không có phải ngó nơi xa,

Tham giàu để phượng sánh gà sao nên. (TL I - tr. 1495)

Trong môi trường diễn xướng dân gian, các biểu tượng sóng đôi tương đồng hay

đối lập thường được hình thành từ các biểu tượng đơn mà bản thân luôn tiềm ẩn một

khả năng tạo nghĩa, khả năng kết hợp đa dạng, uyển chuyển.

Các biểu tượng sóng đôi này không tồn tại với tính chất đơn lẻ, riêng biệt, cô lập.

Chúng được dân gian sử dụng cùng với các biểu tượng đơn trong nhiều bài ca dao: ...

Đôi ta như chiếc thuyền rồng,

Như đôi đũa ngọc so trong mâm vàng,

Không nên bởi vi chúng bạn nói ngang

Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.

Tại chàng chẳng tại thiếp đâu,

Chàng xe chỉ mảnh, thiếp khâu không bền. (TLIV - tr.157)

Cũng có khi trong một bài ca dao xuất hiện nhiều cặp biểu tượng, hòa hợp với

nhau về ý nghĩa, cùng hướng về một nét nghĩa chung nào đó:

- Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,

Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng,

Anh xa em như bến xa thuyền,

Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi.

(TL I-tr.1834)

Điểm qua các cách cấu tạo trên, chúng ta phần nào thấy được sự tồn tại đa dạng

của biểu tượng trong ca dao người Việt. Giữa biểu tượng đơn và biểu tượng đôi có

mối liên hệ gắn bó với nhau. Tùy theo nhu cầu biểu đạt mà dân gian tiến hành lựa

chọn dạng biểu tượng cho phù hợp, Sự tồn tại của biểu tượng trong thế giới ca dao qua

những bước thăng trầm của lịch sử có phần đóng góp của các cách cấu tạo đa dạng

trên.

4.2. Chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt:

Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu biểu tượng trong thế tạm thời tách rời khỏi các

yếu tố thi pháp ca dao. Biểu tượng ca dao cố những giá tri nội tại của chúng, nhưng

khi xuất hiện hàng loạt trong ca dao, chúng tồn tại như những thành tố có mối quan hệ

với các thành tố khác của thi pháp thể loại. Phải nhin biểu tượng trong các mối liên hệ

phức tạp để nhận ra sự vận hành ngấm ngầm của nguồn thi hứng hình thành nên tác

phẩm. Biểu tượng với tư cách là mô-tip, công thức truyền thống, đã trở thành những

yếu tố nội dụng - hình thức tiêu biểu, những tế bào hạt nhân có vai trò quan trọng

ương toàn bộ chỉnh thể ca dao. Biểu tượng cùng với ngôn ngữ, kết cấu, đề tài, nhân

vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghẹ thuật... có liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự gắn

kết ở đây mang tính chất liên hoàn. Các thành tố thi pháp dựa vào nhau, tương hỗ

nhau một cách đắc lực để cùng thể hiện tác phẩm. Sau đây chúng tôi xin lần lượt trình

bày chức năng của biểu tượng trong mối quan hệ với ngôn ngữ, đề tài, chủ đề, và kết

cấu, cấu tứ của ca dao.

4.2.1. Biểu tượng và ngôn ngữ ca dao:

4.2.1.1. Biểu tượng và tính hàm sức của ngôn ngữ ca dao:

Biểu tượng ca dao là những biểu tượng nghệ thuật được xây dựng bởi chất liệu

ngôn ngữ. Sau khi được hình thành, hệ thống biểu tượng này quay trở lại tác động vào

ngôn ngữ, khiến cho ngôn ngữ thể loại trở nên giàu ý nghĩa hơn. Sự xuất hiện với mật

độ dày đặc các biểu tượng khiến cho văn bản ca dao mang đậm tính biểu hiện. Khi

người ta hát:

- Anh nói em cũng nghe anh,

Bát cơm đã trót chan canh mất rồi.

Nuốt đi đắng lắm anh ơi,

Bỏ ra thi để tội trời ai mang.

Thi ý nghĩa của bài ca dao không phải là phép cộng đơn thuần của các từ ngữ

theo nghĩa đen, nghĩa biểu vật bình thường, mà phải hiểu đó là một hoàn cảnh khó xử

trong hôn nhân. Theo cách diễn đạt của Nguyễn Phan Cảnh, người ta có thể hiểu

nghĩa của, bài ca dao như thế này:

- Anh nói em cũng nghe anh

Đời em đã trót chồng con mất rồi.

Sống thi cực lắm anh ơi,

Ly dị thi để tội trời ai mang. [8, tr.37]

Trong các văn bản ca dao, phần nhiều nghĩa đen, chức năng định danh của các từ

bị xóa nhòa. Hệ thống biểu tượng đã góp phần hướng người đọc cảm nhận văn bản ca

dao như là những văn bản biểu hiện.

Cần tránh khuynh hướng cực đoan cho rằng tất cả các văn bản ca dao đều là

những Văn bản biểu hiện, nhưng cũng cần thấy rằng văn bản biểu hiện chiếm phần

lớn trong ca dao, và chính ở đây, chức năng thẩm mỹ của các biểu tượng đã được bộc

lộ. Khả năng khơi gợi những liên tưởng thơ ca ở các biểu tượng là rất lớn. Một tín

hiệu thẩm mỹ chứa đựng nhiều nội dung, một cái biểu đạt thể hiện nhiều cái được biểu

đạt. Ngôn từ trở nên giàu có về khả năng biểu hiện, sức chứa đựng, sức nén của ngôn

từ khiến tác phẩm trở nên cô đọng, hàm súc . Hệ thống các biểu tượng khiến ngôn ngữ

ca dao lời ít, ý nhiều, lời chật, ý rộng. Đơn vị tác phẩm nhiều khi chỉ vỏn vẹn có hai

dòng nhưng ý tình phong phú, nhiều tầng bậc. Có những biểu tượng gắn với bài ca

dao được người ta cảm nhận nhiều lần trong cuộc đời với mức độ sâu sắc ngày càng

tăng tiến. Đặc biệt với những biểu tượng được hình thành từ điển tích, điển cố, các lớp

ý nghĩa tiềm ẩn trong ngôn từ càng lớn. Những câu chuyện đời xưa viết ra có khi phải

đến hàng trang giấy thi bây giờ cô đọng lại trong hình ảnh một sự vật, nhân vật. Biểu

tượng điển cố nối bài ca dao với cả một giai đoạn văn hóa, một thời kỳ lịch sử, một

truyền thống thẩm mỹ. Tùy theo vốn sống, vốn văn hóa của mỗi con người mà bài ca

dao được cảm nhận theo những mức độ sâu nông khác nhau.

Ví dụ: - Phượng hoàng vỗ cánh cao bay

Quyết tìm cho thấy được cây ngô đồng. (TL I - tr. 1737)

Trong thông báo ngắn gọn này chỉ hiện lên câu chuyện giữa một loài chim với

một loài cây. Nhưng thật ra "Các câu, chữ đó đã không được sử dụng trong chức năng

thông tin của chúng mà chỉ mang giá trị làm phát sinh một cấu trúc ngữ nghĩa đồng

nghĩa, và với cấu trúc mới này, ý thơ mới xuất hiện" [8, tr.84]. Hình ảnh chim phượng

- ngô đồng gợi nhớ đến một điển tích trong văn học cổ điển Trung Quốc, cùng với nền

tảng ngữ nghĩa mà người bình dân xưa cấp cho nó, đã khiến người tiếp nhận hình

dụng đến chuyện tình yêu lứa đôi xứng hợp, hài hòa. Nhờ vào phương thức liên

tưởng, các đơn vị ngôn ngữ riêng lẻ trong bài ca dao trên đã mang đến cho người đọc

một nội dung khác (nói về con người), ẩn ngầm trong chiều dày của chất liệu ngôn

ngữ. Tầng ngữ nghĩa này tồn tại ở dạng tiềm năng. Nó sẽ trở thành hiện thực nếu

chúng ta có sự hiểu biết về biểu tượng phượng hoàng - ngô đồng. Ngược lại, thiếu

kiến thức về cách mã hóa này, người đọc sẽ kết thúc việc tri giác văn bản ở tầng nghĩa

thứ nhất (nghĩa đen). Bài ca dao trên không nhằm mục đích tạo hình (miêu tả thực tế

chim và cây) mà hướng đến biểu hiện (ý tưởng của chàng trai hoặc cô gái quyết tìm

người xứng hợp với minh). Chỉ hai câu thơ với mười bốn tiếng đã trình bày cô đọng

một quan niệm về tình yêu. Biểu tượng phượng hoàng - ngô đồng quen thuộc trong

truyền thống ứng tác và tiếp nhận của dân gian đã góp phần làm cho quá trình trí giác

văn bản ở tầng nghĩa biểu cảm trở nên thuận lợi, nhanh chóng hơn (ngay cả khi văn

bản được lút gọn đến mức tối đa).

Biểu tượng là một hệ thống mã thẩm mỹ được xây dựng bởi những qui ước

ngầm giữa người sáng tác và người tiếp nhận ca dao. Chia khóa để mở ra những bí ẩn

của bài ca dao có sử dụng biểu tượng chính là sự hiểu biết và trí tưởng tượng của

người tiếp nhận. Thiếu nó, việc cảm nhận văn bản sẽ trở nên rối rắm, tắc tị hoặc nông

cạn, hời hợi Biểu tượng khi được đưa vào bài ca dao luôn có dự tính đến sự am tường

của người tiếp nhận. Điều này cho phép tác phẩm nói ít mà vẫn được hiểu nhiều.

4.2.1.2. Biểu tượng với tính công thức và tính sáng tạo trong ngôn

ngữ ca dao:

Như nhiều nhà nghiên cứu về ca dao đã khẳng định, ngôn ngữ thể loại này mang

tính công thức (hay tính định thức, tính mô thức). Sự lặp lại của nhiều từ, ngữ, câu

trong các bài ca dao dễ tạo ấn tượng về những tác phẩm có cùng khuôn mẫu, kiểu

dạng. Biểu tượng đã có đóng góp không nhỏ vào việc hình thành thuộc tính này.

Có khi ở dạng từ: trầu, cau, bướm, hoa, loan, phụng, chỉ, kim, thuyền, bến, áo,

khăn, nón, giếng, gàu, cầu, Kim, Kiều, Châu - Trần ... Ví dụ:

-... Thăm em đôi chữ Châu - Trần định chưa.

"... Trước thời cân sắc sau kết duyên Châu Trần.

-... Tình xuân lại gặp nghĩa xuân,

Châu Trần biết có Châu Trần nào hơn ...

Có khi ở dạng ngữ:

Ví dụ: - Trầu này, trầu ...

- Trầu này, trầu tính, trầu tình ...

- Trầu này, trầu quế cùng vôi ...

- Trầu này, trầu quế,trầu hồi...

- Trầu này, trầu túi, trầu khăn ...

- Trầu này, trầu của đôi ta ...

- Trầu này, trầu mẹ, trầu cha ...

Từ "này" xuất hiện ương cấu trúc như muốn chỉ rõ bản sắc cá nhân của miếng

trầu mời. Gần với cấu trúc trên, còn có "Trầu này...":

- Trầu này têm tối hôm qua ...

- Trầu này không phải trầu hàng ...

- Trầu này têm những vôi Tàu ...

- Trầu này ăn thật là say ...

- Trầu này thực tay em têm ...

- Trầu này bọc khăn tơ hồng ...

- Trầu này cúc, trúc, mai, đào ...

Ngoài ra còn có cấu trúc "Miếng trầu ..

- Miếng trầu là miếng trầu đời ...

- Miếng trầu là miếng trầu cay ...

- Miếng trầu nghĩa nặng ngàn cân ...

- Miếng trầu lá trúc, lá đào ...

- Miếng trầu ai rọc, ai têm ...

- Miếng trầu là nghĩa tơ đào ...

Với các công thức ngôn ngữ trên, người bình dân xưa dễ dàng lắp vào phía sau

những định ngữ làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của miếng trầu. Miếng trầu nhờ đó trồ

nên đa màu sắc, đa phong cách, vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ.

Cấu trúc "Cầm đàn mà gảy ..." cũng là công thức ngôn ngữ quen thuộc với người

bình dân: - cầm đàn mà gảy cho liên

Cho tình thắm thiết cho duyên mặn mà. (TL I - tr.368)

- Cầm đàn mà gảy nhặt thưa

Gảy câu lưu thủy nhẹ đưa loan phòng. (TL 11(1) - tr.245)

- Cầm đàn mà gảy năm cung

Đàn ai mà gầy não nùng rứa ai? (TL 11(1) - tr.244)

- Cầm đàn mà gảy tính tình,

Năm giây năm giọt như hình mưa-sa. (TL 11(1) - tr.245)

Có khi biểu tượng kết hợp với một số từ ngữ hình thành nên những cấu trúc cố

định ở dạng câu, thể hiện những nội dụng mang tính khái quát cao:

- Thương em răng nỏ muốn thương,

Nước kia muốn chảy mà mương không đào. (TL I - tr.408)

- Thương em anh cũng muốn thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào ... (TL I – tr.2118)

- Thầy thương mà mẹ không thương,

Nước kia muốn chảy mà mương không đào ... (TL 11(2) - tr. 189)

Những công thức như vậy rất phổ biến trong văn bản ca dao. Trần Đức Ngôn có

lần đã nhận xét: "Tính định thức là một trong những đặc điểm nổi bật của văn bản văn

học dân gian. Nghiên cứu văn bản văn học dân gian, chúng ta thấy tính hình thức thể

hiện ở nhiều cấp độ khác nhau: ngôn từ, hình tượng, nhân vật và cấu trúc" [63, tr.191].

Nhận xét này rất phù hợp với hiện tượng chúng tôi vừa trình bày trên. Các định thức

được lưu giữ trong nhiều tác phẩm và nối kết các tác phẩm thành một chuỗi, nhóm, hệ

thống các bài ca có liên quan với nhau về hình thức thể hiện lẫn nội dụng. Khi nhớ

đến một biểu tượng, trước hết, người ta nhớ đến các định thức ngôn ngữ đó.

Công thức biểu tượng ở dạng từ, ngữ hay câu đều có tác dụng hỗ trợ tích cực cho

quá trình ứng tác ca dao. Có thể hình dụng chúng như những khối bê-tông đúc sẵn, có

khả năng được lắp ghép vào các bài-ca dao khác nhau tùy theo hoàn cảnh cụ thể.

Người ứng tác có thể sáng tác nhanh mà vẫn dựa trên nền tảng của truyền thống.

Người tiếp nhận nhờ các công thức đó cũng dễ đồng cảm, dễ nhớ và lưu truyền. Các

công thức được tồn tại trong sự sàng lọc khắt khe của dân gian. Chúng thể hiện rõ thị

hiểu thẩm mỹ của người bình dân xưa cũng như đặc trưng thẩm mỹ của văn học dân

gian. Tính công thức trong ngôn ngữ ca dao vi vậy cần được xem xét, đánh giá dưới

góc độ mỹ học. Nó tạo nên vẻ đẹp riêng cho tác phẩm văn học dân gian.

Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao vừa là yếu tố thuộc về một văn bản, vừa là

yếu tố liên văn bản. Biểu tượng nối văn bản cụ thể với truyền thống, vừa đưa văn bản

vào một kiểu công thức sẩn có, vừa là sự thể hiện sáng tạo công thức đó. Chính điều

này tạo nên sức sống cho biểu tượng. Cùng một hình ảnh, nhưng trong nhiều văn bản

khác nhau, chúng không phải là sự lặp lại thuần túy, đơn điệu về cách thức thể hiện.

Công thức loan - phượng xuất hiện trong ca dao với những biến thể:

- Ngày nay loan phụng lề bầy,

Nam Vang kia xa xứ, khó vầy yến anh. (TL I - tr. 1540)

- Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm Chết ngủm rồi đời

Sống chi đây chịu chữ mồ côi

Loan xa phụng cách, biết đứng ngồi với ai? (TL I - tr.562)

- Mấy lâu tiên giáng cõi trần

Mấy khi chim phượng tới gần chim loan (TL 11(1) - tr.330)

- ... Ước gi anh được vô phòng

Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan (TL I - tr.788)

- Muốn cho phượng múa, loan đờn

Muốn cho tiếng nhị, tiếng đơn hòa chung. (TLII(l) - tr.352)

Tương tự, hình ảnh cặp đôi quen thuộc tằm- dâu luôn đem lại ấn tượng mới mẻ

nơi người tiếp nhận vi được đề cập đến với nhiều cách diễn đạt khác nhau:

- Trách minh dám trách ai đâu,

Trách con tằm bạc nghĩa, bỏ nương dâu không nhin. (TL 11(1) - tr.420)

- Đôi ta thương mãi nhớ lâu,

Như sông nhớ nước, như ngành dâu nhớ tằm. (TL I - tr.871)

- Bấy lâu vắng tiếng, vắng tăm

Như đàn vắng nhị, như tằm vắng dâu. (TL I - tr.264)

- ...Hỏi em gia thất đã đành nơi nao?

Không, không chưa có chi đâu,

Con tầm đang đợi nương dâu nhà người. (TLII(l) - tr.403)

Công thức trúc - mai cũng được thể hiện một cách sinh động: trúc nhớ mai, trúc

làm bạn với mai một cành, trúc mai một nhà, sum vầy trúc mai, trúc xa mai, trúc

nguyền đến mai, trúc gầy mòn có nhớ dạng ngành mai, trúc mai trồng lộn một bồn,

trúc ở với mai, trúc hiệp cùng mai cho tài xứng sắc, phân chia mai trúc, rầu trúc mai

trúc muốn ghẹo mai ...

Qua các ví dụ trên, có thể thấy khi đi vào từng văn bản cụ thể, mỗi biểu tượng lại

có những cách thể hiện khác nhau. Nếu tập hợp các biến thể trên sẽ hình thành nên

một hệ thống con cho từng biểu tượng, nơi mà các yếu tố truyền thống và sáng tạo

được kết hợp với nhau một cách hài hoa. Nhờ biểu tượng, ngôn ngữ ca dao vừa mang

tính công thức lại vừa mang tính sáng tạo. Người nghệ sĩ dân gian xưa khi sáng tác

vừa bám theo công thức, vừa vượt khỏi công thức, làm sống động, giàu có thêm cho

công thức. Cùng là những biểu tượng quen thuộc mà ngôn ngữ của hàng ngàn bài ca

dao vẫn tươi tắn, hồn nhiên, không sáo mòn, cũ kỹ. Nhờ vào trí tưởng tượng phong

phú, vốn sống dồi dào, nhờ vào cảnh thực, việc thực, tình thực nên dân gian đã làm

được điều đó. Cùng dùng biểu tượng ruột -gan để diễn tả tâm trạng người đang yêu,

nhưng nếu người thứ nhất nói "Ruột đứt từng chặng, gan bầm tới tìm", thi người thứ

hai có thể nói "Ruột đứt đi từng đoạn, gan em teo nửa chừng", và người thứ ba sẽ là

'Ta thương minh ruột cháy gan khô..."... Ngôn ngữ ca dao một mặt tuân thủ theo

khuôn mẫu, một mặt lại mềm mại, uyển chuyển, tạo ấn tượng vừa cũ vừa mới. vừa

bình dị vừa lạ lẫm, vừa mộc mạc. vừa luns linh màu sắc.

4.2.2. Biểu tượng và đề tài, chủ đề ca dao:

4.2.2.1. Góp phần triển khai các đề tài, chủ đề:

Đề tài, chủ đề thường là rất rộng, trừu tượng, bao quát cả một phạm vi rộng lớn

các vấn đề, nhưng với các biểu tượng, chúng Mồ nên cụ thể, sống động. Nói một cách

chính xác hơn, biểu tượng đã góp phần tích cực vào việc triển khai các đề tài, chủ đề.

Biểu tượng là những mã nghệ thuật có thể thông báo cho người tiếp nhận khá nhiều

thông tin về đề tài, chủ đề của tác phẩm. Thử đọc một bài ca dao:

Ước gi cho phượng hợp loan,

Để cho đây đấy giao hoan một phòng.

Ước gi lòng được như lòng,

Ước gi quân tử bạn cùng thuyền quyên.

Ước gi nguyền được nhời nguyền,

Ước gi lá thắm xe duyên tơ đào.

Ước gi cầu được bán rao,

Ước gi lan huệ sánh vào trúc mai.

Ước gi một đấy với đây,

Ước gi chỉ thắm xe đây tơ hồng.

Ước gi đấy vợ đây chồng,

Ước gi Tần Tấn giao thông một nhà

Ước gi bướm được gần hoa

Ước gi Hồ Việt giao hòa với nhau

Ước gi trầu bám được cau

Ước gi ta ở với nhau một nhà

Ước gi minh sánh với ta

Ước gi minh đứng bên ta hỡi minh

Ước gi Tấn sánh với Tần

Ước gi ta sánh với minh, minh ơi

Ước gi quế sánh với hồi

ước gi thục nữ sánh người văn nhân. (TLIV-tr.59)

Trong bài này, các biểu tượng nối nhau xuất hiện, dẫn dắt người tiếp nhận đến

với chủ đề chính của bài ca: phượng - loan, lá thắm, tơ đào, lan - huệ, trúc - mai, chỉ

thắm, tơ hồng, Tấn - Tần, bướm - hoa, Hồ - Việt, trầu - cau, quế - hồi...

Ước mơ về hạnh phúc lứa đôi đã được diễn đạt một cách hình ảnh, ấn tượng với

hàng loạt biểu tượng đôi tương đồng.

Với chức năng triển khai đề tài, một số biểu tượng đã trở thành những đại diện

tiêu biểu cho các đề tài, gắn liền với đề tài như hình với bóng. Chim phượng hoàng -

ngô đồng, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa, cá - nước, mận - đào, trúc - mai,

lan - huệ, liễu - đào, lựu - đào, sen - hồ, Kim Trọng - Thúy Kiều, ông Tơ - bà Nguyệt,

tơ hồng, ngọn đèn không tắt ... là những biểu tượng được dùng để triển khai đề tài về

tình yêu lứa đôi. Chiếc áo rách, áo gấm, nhà ngói ba tòa, nhà- ưanh, con cò, con bống

... là những biểu tượng của ca dao thuộc về đề tài gia đinh - xã hội. Tình yêu quê

hương đất nước được cụ thể hóa bằng các biểu tượng gạo trắng - nước trong, dòng

sông tắm mát, cây đa ...

Ở đây có hiện tượng đáng chú ý là một số các biểu tượng xét về đại thể có cùng

ý nghĩa biểu đạt.

Ví dụ:

- Kim - Kiều, Vân Tiên - Nguyệt Nga, kim - chỉ, nút - khuy, Tấn - Tần, đào -

liễu, mận - đào, trúc - mai, bướm - hoa, quế - hồi... đều chỉ lứa đôi yêu thương gắn bó,

xứng hợp.

- Củi - trầm, tiên - cú, phượng hoàng - gà ... đều chỉ lứa đôi không xứng hợp.

- Ruộng đồng, vườn xuân, vườn đào, động Đào, non Bồng ... đều chỉ không gian

tình yêu, nơi hò hẹn, thề nguyền.

Chính vi vậy, khi sáng tác ca dao, người xưa có điều kiện để chọn lựa, thay đổi

các biểu tượng mà ý nghĩa muốn thể hiện vẫn được giữ nguyên. Hệ thống biểu tượng

càng phong phú, các biểu tượng có cùng nghĩa càng nhiều, thi dân gian càng có nhiều

thuận lợi hơn khi sử dụng nguồn thi liệu này trong sáng tác của minh.

Tuy nhiên, nếu khảo sát tỉ mỉ hơn, chúng ta sẽ thấy tự thân mỗi biểu tượng có

những giá trị riêng của nó, khó mà thay thế trọn vẹn được bằng một biểu tượng khác.

Cùng là người con gái đã có chồng nhưng thuyền có lái, cá trong lờ, cá cắn câu,

chim trong lồng, hoa nở, ruộng có bờ, mộng đã bán ... mang những sắc thái ý nghĩa

khác biệt nhau.

Cùng là chỉ về con người có phẩm cách cao quý nhưng rồng, tiên, cây quế, cây

cao, hoa thơm, chim khôn, cá khôn ... mang những sắc thái ý nghĩa không trùng lắp.

Giàu nghèo, sang hèn cũng là vấn đề thu hút được khá nhiều sự chú ý của các

nghệ .sĩ dân gian. Biểu tượng cho cái nghèo cũng muôn hình muôn vẻ. Nón rách, áo

rách, quần rách, yếm rách ... thể hiện cái nghèo của chính chủ nhân. Đũa mốc, đũa tre,

mâm nan, bát đá, giường tre, nhà tranh, nhà dột cột xiêu ... là cái nghèo của gia cảnh.

Thuyền than, thuyền chài, thuyền thúng... là cái nghèo của công việc làm ăn ...

Trong nhiều trường hợp, các quan niệm, các cách nhin nhận, đánh giá đa dạng

của dân gian về một vấn đề trong cuộc sống được thể hiện rất rõ qua các biểu tượng có

cùng cái được biểu đạt (xét về đại thể), vẻ độc đáo ở từng biểu tượng giúp cho các đề

tài, chủ đề của ca dao được triển khai mội cách tình tế, thể hiện được trọn vẹn những

tư tưởng, tình cảm của dân gian.

Ngoài ra, tham gia triển khai các đề tài, chủ đề của ca dao còn phải kể đến các

biểu tượng biểu thị hạnh phúc và đau khổ. Chức năng của ca dao là khám phá, thể

hiện thế giới nội tâm con người. Dù là ở đề tài tình yêu quê hương đất nước, tình yêu

lứa đôi hay tình cảm gia đinh, cái chủ đích mà bài ca hướng đến luôn luôn là vẽ lên

bức tranh tâm trạng con người. Bức tranh ấy đa dạng, phong phú, nhiều đường nét,

màu sắc, nhưng chung quy lại có thể thấy nổi bật lên hai găm màu chính: hạnh phúc

hoặc đau khổ. Để thể hiện sâu sắc, tế nhị hai .thái cực tâm trạng đó, hàng loạt biểu

tượng đã được vận dụng một cách hợp lý trong quá trình ứng tác ca dao.

Ở những bài ca dao nói về hạnh phúc (sự giàu có, phong lưu, tuổi trẻ, sắc đẹp,

tình yêu xứng hợp, gắn bó thắm thiết...), dân gian thường đưa vào tác phẩm các biểu

tượng: gạo trắng- nước trong, hoa thơm, hoa đang thi, trăng tròn, má hồng - răng đen,

ngọc lành đợi giá, trúc-mai, liễu-đào, mận-đào, quế-hồi, quế-trầm, bướm-hoa, chim

phượng hoàng-ngô đồng, rồng-tiên, rồng-mây, rồng-phụng, kim-chỉ, khóa-chia, khóa-

rương, gương-lược, đũa ngọc-mâm vàng, đũa trong so, vuông-tròn...

- Thiếp gặp chàng như rồng mây gặp hội,

Chàng gặp thiếp như phượng hoàng gặp cội cây ngô.

Mấy lâu ni kẻ Hán người Hồ,

Bữa ni thiên lý ngộ, quyết phân phô cho tận tình. (TL I - tr.2060)

Ở những bài thể hiện sự đau khổ, bất hạnh (nghèo nàn, già nua, xấu xí, tàn tạ, cô

đơn, tình yêu không xứng hợp, lứa đôi cách biệt, nhớ thương, thân phận lênh đênh,

chIm nổi...) thường có các biểu tượng: áo vải, áo rách, hoa tàn héo, hoa thơm mất nhị,

kiểng sầu, đũa một chiếc, đũa so le, trăng méo, trăng mờ, nước mắt hồng, gan-ruột,

tiên-cú, phượng hoàng-gà, nhạn-én, sao Hôm-sao Mai, bạc-chi, đàn đứt dây, bèo cạn

nước ...

- Biết đâu trong đục mà chờ,

Hoa thơm mất nhị nương nhờ vào đâu. (TL I - tr.273)

Một số biểu tượng sóng đôi hạnh phúc được dùng ở trạng thái cách biệt nhau

cũng góp phần bộc lộ nỗi đau khổ lớn lao: thuyền xa bến, trúc xa mai, liễu xa đào, sen

xa hồ, Kim xa Kiều, bướm xa hoa, loan xa phụng cách, rồng ngược mây xuôi, quế xa

trầm, chỉ lIa kim ...

- Đôi ta làm bạn thong dong

Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.

Bởi chưng thầy mẹ nói ngang

Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau. (TL I - tr.859)

Cùng là đũa ngọc - mâm vàng, nhưng ở hai câu đầu thi biểu thị hạnh phúc, hai

câu sau biểu thị sự bất hạnh, đó là do cách dùng biểu tượng ở những trạng thái khác

nhau (kết hợp hay chia tách). Dân gian đã khéo dùng một biểu tượng lẽ ra biểu tỉIị

hạnh phúc (ở dạng kết hợp tự nhiên) để thể hiện sự đau khổ (ở dạng phân ly trái tự

nhiên, không hợp qui luật). Bài ca dao vẽ nên hai thái cực tâm trạng: cực kỳ hạnh

phúc và cực kỳ đau khổ. Chỉ với một biểu tượng mà thế giới nội tâm của nhân vật trữ

tình đã hiện lên đầy đủ, và đề tài tình yêu lứa đôi trong xã hội cũ cũng được thể hiện

thật sâu sắc. Qua phần tành bày trên, có thể kết luận rằng những đề tài, chủ đề mang

tính tâm trạng của ca dao phần nhiều được cụ thể hóa bởi các biểu tượng. Vui hay

buồn, hạnh phúc hay đau khổ ... tất cả đều được "nói" bằng biểu tượng, được mã hóa,

công thức hóa qua các biểu tượng.

4.2.2.2. Thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề:

Không chỉ góp phần triển khai, biểu tượng còn thể hiện độc đáo các đề tài, chủ

đề trong ca dao. Sự gắn bó của các biểu tượng với từng đề tài riêng biệt phần nào đã

nói lên điều đó. Thêm nữa, biểu tượng là một loại công thức truyền thống, nhưng

trong mọi quá trình sử dụng các công thức này luôn có một khoảng trống dành cho sự

sáng tạo. Biểu tượng không ngừng được đổi mới bằng các biến thể, các mối quan hệ,

kết cấu sóng hợp ... trong từng văn bản ca dao cụ thể. Một đề tài có thể được triển khai

trong hàng loạt bài ca dao với cùng một biểu tượng nhưng không bị trùng lắp là nhờ

vào sự sáng tạo của dân gian khi đưa biểu tượng vào chỉnh thể tác phẩm. Đề tài vi thế

luôn được thể hiện một cách mới mẻ và độc đáo.

Bàn về vấn đề này, cũng cần chú ý đến trường hợp một sự vật được chọn làm

biểu tượng xuất hiện cùng lúc trong nhiều đề tài khác nhau. Lúc đó, sự vật được khai

thác ở những phạm trù, khía cạnh không giống nhau, tạo nên các biểu tượng cùng

nhóm nhưng thể hiện những ý nghĩa khác biệt nhau.

Trong các bài ca dao về đề tài xã hội, chúng ta thường bắt gặp chiếc áo rách.

Dân gian đã khai thác chủ yếu ở khíu cạnh trạng thái "rách - lành" của chiếc áo để

biểu hiện những vấn đề xã hội, những nỗi niềm đắng cay, phẫn uất của người lao dộng

trước cái nghèo và thói đời:

- Áo rách chi lắm áo ơi,

Rách chi thất nhơn ác nghiệt không có nơi cho rận bò. (TL I-tr.182)

- Cha đời cái áo rách này,

Mất chúng, mất bạn vi mày áo ơi. (TL I - tr.528)

Trong những bài ca về tình yêu lứa đôi, chiếc áo ít được khai thác ở khía cạnh

này, có chăng, cũng chỉ là để khơi gợi nỗi niềm thương cảm trong giai đoạn tỏ tình. Ở

đề tài này, chiếc áo thường mang hơi ấm của tình thương nỗi nhớ, của những giận

hờn, nhớ mong, nũng nịu, trách móc ... Chiếc áo thường được chú trọng ở khía cạnh

là kỷ vật tình yêu, là vật trao gởi tình cảm (giá trị sử dụng)

- Chàng về cởi áo lại đây,

Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn. (TL I - tr.545)

- Anh về để áo lại đây,

Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng. (TL I - tr. 164)

Trong các ví dụ trên đây, hình ảnh chiếc áo tuy có phần mang ý nghĩa như những

đối tượng được miêu tả trực tiếp, song đồng thời cũng đã mang ý nghĩa biểu tượng.

Để hiểu được mục đích của việc miêu tả trực tiếp ấy, cần tiếp thu chúng như là những

biểu tượng.

Cũng như vậy, ở đề tài tình yêu quê hương, đất nước, hình ảnh ruộng đồng

thường được miêu tả trực tiếp như là một phương thức chủ yếu để thể hiện sự trù phú,

giàu đẹp của xứ sở, quê hương. Dân gian hay chú ý đến cái mênh mông, bát ngát, bao

la của ruộng đồng :

- Ai đi Bình Thới, Trà Ôn,

Ruộng đồng lai láng, gái khôn trai hiền. (TL III - tr. 126)

- Quê em Đồng Tháp mênh mông,

Xanh tươi bát ngát ruộng đồng bao la ... (TL III - tr. 147)

Trong các bài ca về tình yêu lứa đôi, hình ảnh ruộng đồng lại được miêu tả trực

tiếp như là một phương thức chủ yếu để thể hiện không gian của tình yêu, là nơi gặp

gỡ, giao duyên, nơi hẹn hò, tình tự :

- Gặp em giữa đám ruộng vuông,

Anh phân chưa hết, nước mắt tuôn hai hàng. (TL III - tr.283)

- Gặp nhau ở quãng đồng vàng,

Bác mẹ thi vắng, họ hàng thi xa.

Lấy ai định liệu đôi ta,

Mặt lại nhin mặt, tay đà cầm tay. (TL IV - tr. 115)

Ruộng đồng còn được khai thác ở các trạng thái, tính chất (ruộng mắc bờ, ruộng

hoang, ruộng thuộc, ruộng sâu), giá trị sử dụng (ruộng đã bán), sở hữu (ruộng người,

ruộng nhà ) ....để thể hiện những con người, cảnh đời khác nhau trong tình yêu:

- Còn không cho chúng anh chờ,

Hay là như ruộng mắc bờ thi thôi! (TL I - tr.478)

- Em có chồng rồi hết đợi hết trông,

Giả như ruộng mãi chuộc không thấy về. (TL HI - tr.437)

Với tính cách là một đối tượng miêu tả trực tiếp, hạt gạo trong bài ca dao dưới

đây cũng chỉ có thể được hiểu đầy đủ khi người nghe tiếp nhận nó đồng thời như một

biểu tượng về vùng quê trù phú "dễ bề làm ăn":

- Bến Tre phong cảnh hữu tình,

Nước trong, gạo trắng, gái xinh, trai tài. (TL III - tr. 132)

- Xứ Cần Thơ gạo trắng nước trong,

Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời. (TL III - tr. 130)

Ở một chủ đề khác, hạt gạo lại thực sự là biểu tượng về người phụ nữ với những

hoàn cảnh đắng cay:

- Tiếc thay hạt gạo tám xoan,

Đem vo nước đục, lại chan nước cà. (TL I - tr. 1918)

- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,

Đã vo nước đục, lại vần than rơm. (TL I - tr. 1918)

Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy rằng một nhóm biểu tượng có thể đi vào nhiều

đề tài khác nhau với sự "phân công " khá rõ ràng cho từng biểu tượng. Trong điều

kiện đó, phạm trù, khía cạnh được khai thác ở biểu tượng là hoàn toàn thuận lợi để tạo

liên tưởng đầy đủ nhất đến đề tài mà nó thể hiện. Phạm vi sử dụng càng hẹp, biểu

tượng càng có khả năng phục vụ tốt nhất cho đề tài.

Tuy nhiên, cũng cần chứ ý thêm, trong các bài ca dao khác nhau thuộc cùng một

chủ đề, nghĩa của biểu tượng là ổn định song không phải hoàn toàn bất biến. Đây

cũng là nguyên nhân tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ ca dao và sự đặc sắc của các

văn bản có cùng đề tài, cùng biểu tượng.

Ví dụ:

- Biểu tượng hoa sen chỉ người con gái đẹp:

-Búp hoa sen lai láng giữa hồ,

Giơ tay muốn bẻ sợ trong chùa có sư... (TL 11(1) - tr. 240)

Nhưng cũng dùng để biểu thị cho những người cao quý nói chung:

-Hoa sen sao khéo giữ màu,

Nắng nồng không nhạt, mưa dầu không phai. (TL I - tr. 1095)

- Biểu tượng má hồng chỉ người con gái trẻ, đẹp:

-Anh đi ngang qua cửa sao không vào,

Hay là anh có chỗ má đào, phụ em? (TL I - tr. 112)

Ngoài ra, còn được dùng để chỉ người phụ nữ nói chung:

-Hôm nay gặp buổi êm trời,

Má đào lại được sánh người trượng phu. (TL I - tr. 1115)

- Trong đề tài sinh hoạt gia đinh, biểu tượng biển thường được dùng chỉ công ơn

cha mẹ: - Ơn cha như biển nghĩa mẹ như trời

Thương mừng ghét sợ, không đám trao lời thở than. (TL I - tr.1716)

-Ơn cha rộng thênh thênh tựa biển,

Nghĩa mẹ dài dặc dặc bằng sông ... (TL I - tr. 1716)

Không gian thử thách cũng được biểu thị bằng biểu tượng này:

- Chàng lên non, thiếp cũng lên non,

Chàng lên trời, vượt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.

(TLI-tr.539)

- Tuổi trẻ thường được nói đến qua biểu tượng xuân:

- Tiếc xuân nghoảnh lại mong xuân,

Than ôi, bóng đã vân vân xế chiều. (TL I - tr.1919)

- Chơi xuân kẻo hết xuân đi,

Cái già sòng sọc nó thi theo sau. (TL I - tr.662)

Xuân cũng biểu tượng cho tuổi tác nói chung:

- Gẫm minh chưa mấy xuân thu,

Sầu vương đã chịu, oán thù đã mang. (TL I - tr.1014)

Những nét nghĩa ở cùng một biểu tượng thường là có liên hệ gần gũi với nhau.

Cùng một cái biểu đạt thể hiện nhiều cái được biểu đạt cũng phản ánh quá trình dân

gian không ngừng mở rộng đối tượng nhận thức ở từng biểu tượng. Đặc điểm này

khiến cho khả năng sử dụng biểu tượng cũng trở nên phong phú hơn. Nghĩa của biểu

tượng có thể chuyển dịch trong một biên độ nhất định nào đó, chứ không phải là một

sự cố định hoàn toàn. Biểu tượng nào càng được sử dụng nhiều càng có khả năng

được mở rộng nghĩa. Đề tài ca. dao vi vậy không bị đóng khung với các biểu tượng

khô cứng, nghèo nàn về ý nghĩa mà luôn được thể hiện một cách sống động, sáng tạo

với những nét nghĩa mới được phát sinh.

Nói tóm lại, giữa biểu tượng và đề tài, chủ đề có mối liên hệ tác động qua lại

chặt chẽ với nhau. Đề tài chi phối sự tồn tại của các biểu tượng. Các biểu tượng giúp

cho đề tài được triển khai và thể hiện một cách hoàn hảo (nhờ vào vẻ độc đáo ở tòng

biểu tượng, các biến thể và sự đa nghĩa của biểu tượng ... ). Việc xác định nghĩa của

biểu tượng vi vậy không thể tách rời đề tài, chủ đề mà nó phụ thuộc.

4.2.3.Biểu tượng và kết cấu, cấu tứ ca dao:

Như đã trình bày ở chương một, biểu tượng nghệ thuật ca dao mang tính chất là

những công thức truyền thống, những mô-típ trong văn bản văn học dân gian. Vi vậy

trong phần này, chúng tôi chủ yếu dựa vào sự định vị trên để tìm hiểu mối quan hệ, tác

động qua lại giữa biểu tượng và cấu trúc bài ca dao. Ca dao có nhiều loại kết cấu, một

phần trong số đó chịu sự chi phối khá lớn từ phía các biểu tượng.

4.2.3.1. Là hạt nhân quan trọng trong kết cấu song hành tâm lý

Loại kết cấu này còn có tên gọi là phép đối ngẫu tâm lý. Trong văn bản sẽ hiện

lên hai bức tranh: trước nhất là bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tiếp sau là bức

tranh tâm trạng con người. Hai bức tranh này không tồn tại riêng biệt, độc lập, tách rời

mà có liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau một cách gián tiếp, cái này khơi gợi cái kia, và

cái đích miêu tả cuối cùng là tư tưởng, tình cảm của con người, trọng tâm hướng tới

luôn luôn là con người. Đây là loại kết cấu được sử dụng phổ biến trong thơ ca dân

gian của nhiều dân tộc khác nhau. Bài thơ đầu tiên trong Kinh Thi của Trung Quốc là

một ví dụ:

Quan quan kia tiếng thư cưu,

Bên cồn hót họa cùng nhau vang đầy

U nhàn thục nữ thế này,

Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.

Hai nửa bài thơ có vẻ như không gắn gi với nhau nhưng chính ở đây: "... lại tạo

ra tính chất lạ lùng của thủ pháp hứng, các sự vật dường như rời rạc với nhau, như các

bộ lạc sống ở các miền đối lập nhau của Trung Quốc là Hồ và Việt, bỗng gần gũi

nhau, kết hợp với nhau như các bộ phận ngũ tạng của con người" [92, tr.161]. Nửa sau

của bài thơ được xây dựng trên nửa trước giống như ngôi nhà xây trên móng nhà.

Hình ảnh của đôi chim thư cưu cùng nhau hót họa vui vầy và hình ảnh thục nữ - quân

tử đẹp duyên có mối liên hệ kín đáo bên trong, chúng đối ứng với nhau, khơi gợi

những suy nghĩ trên cơ sở liên tưởng tương đồng.

Trong ca dao Việt Nam, kiểu kết cấu này có giá tri độc đáo nếu đặt trong tương

quan so sánh với kết cấu văn bản thơ của văn học viết. Cơ sở chính để gắn kết hai bức

tranh trong văn bản là những dấu hiệu gần gũi, tương hợp giữa thiên nhiên, cuộc sống

và con người.

Trong kết cấu này, ở bức tranh thứ nhất, thường có sự xuất hiện của những hình

ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, trầu - cau, núi - sông, sen - hồ, đào – liễu, giếng - gàu,

cây, hoa, trái...

- Con tằm bối rối vì tơ

Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình. (TL I - tr. 467)

- Nước dưới sông có khi trong khi đục,

Trang anh hùng có khi nhục, khi vinh (TL I - tr. 1512)

- Sông bao nhiêu nước cũng vừa,

Trai bao nhiêu vợ cũng chưa thỏa lòng. (TL III - tr. 418)

- Bướm xa hoa, bướm khô, hoa tẻ,

Liễu xa đào, liễu ngẩn đào ngây.

Đôi ta tình nặng, nghĩa dày,

Dẫu xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.

(TL II (1) - tr. 242)

- Cải tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai,

Ham chi bóng sắc, hành hài tấm thân. (TL I - tr. 518)

Dĩ nhiên không phải tất cả những hình ảnh xuất hiện trong bức tranh thứ nhất

này đều là biểu tượng nghệ thuật, nhưng có thể nhận thấy phần nhiều là như vậy. Cốt

lõi của kết cấu này là phép so sánh. Bức tranh trên là cái dùng để so sánh, bức tranh

dưới là cái được so sánh. Bức tranh trên là cái biểu đạt, bức tranh dưới là cái được

biểu đạt. Với những bài ca dao mang lối kết cấu náy, hình ảnh biểu tượng ở bức tranh

thứ nhất cố vị trí khá quan trọng trong toàn bài. Nét tương đồng giữa thiên nhiên,

cuộc sống và tư tưởng, tình cảm con người khiến cho các bài ca dao trở nên đẹp đẽ,

hài hòa hơn bởi sự kết hợp giữa tính chất trí tuệ và sắc thái tình cảm. Những phát hiện

nghệ thuật của dân gian về sự tương đồng giữa bướm xa hoa, liễu xa đào và anh xa

em, giữa nước sông trong, đục và đời người vinh nhục, giữa con sông nhiều nước và

chàng trai đa mang, đa tình... là những sáng tạo thể hiện trí tuệ sắc sảo của dân gian.

Trong các bài ca dao này, bức tranh được tạo nên từ các biểu tượng giúp cho kết

cấu tác phẩm trở nên sáng rõ, cân đối. Tác phẩm dường như được chia thành hai phần

đối xứng với nhau, vừa độc lập lại vừa phụ thuộc. Bức tranh thứ nhất giúp ta cảm

nhận bức tranh thứ hai một cách sâu sắc, thi vị hơn. Giữa thiên nhiên, cuộc sống và

con người như không còn khoảng cách. Sông và con người, bướm và chàng trai, hoa

và cô gái, củi tre và người chồng xấu, con tằm và người con gái đang yêu là các thực

thể mang những giá tri nội tại giống nhau. Bức tranh thứ nhất còn làm cho bài ca dao

trở nên tươi tắn, giàu hình ảnh, màu sắc. Nó tạo nên một nền tảng, bệ phóng cho bức

tranh thứ hai đến với người tiếp nhận một cách tự nhiên. Kết cấu song hành tâm lý ở

bài ca dao có thành công hay không phần lớn nhờ vào bức tranh biểu tượng. Khi nào

sự tương đồng càng lớn thì sự gắn kết, phối hợp giữa hai bức tranh càng bền vững, và

hiệu quả thẩm mỹ của chỉnh thể nghệ thuật càng cao.

Kiểu kết cấu song hành tâm lý này đã được nhà folklore học nổi tiếng người Nga

A.N.Vexelôpxki chỉ ra khi nghiên cứu về các bài ca trữ tình dân gian. Đây là kiểu kết

cấu mang tính phổ biến, tính quốc tế. Nó phản ánh dấu vết của lối tư duy cổ xưa, xuất

phát từ sự gần gũi, tương đồng giữa các hiện tượng của thiên nhiên và cuộc sống con

người. Trong đời sống, khi sinh hoạt, lao động, người nông dân có nhiều điều kiện để

quan sát cây cối, hoa, quả, chim muông, cầm thú, sông suối, núi rừng ... Thiên nhiên

thường gợi những liên tưởng về thế giới con người. Chính từ đây, phép song hành đã

hình thành.

Xét chung, trong kho tàng ca dao người Việt, loại kết cấu này chưa phải đã chi

phối tất cả các tác phẩm. Nhưng có thể nói đây là loại kẹt cấu xuất hiện phổ biến và

tạo được hiệu quả thẩm mỹ cao, cho nên việc nghiên cứu kết cấu này, cũng như chức

năng của các biểu tượng được phát huy như thế nào trong kết cấu này là điều rất cần

thiết.

4.2.3.2. Hỗ trợ đắc lực cho kết cấu đối thoại:

Hiện nay, trong các công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao, có nhiều ý kiến

cho rằng hình thức kết cấu nổi bật trong ca dao là kết cấu đối thoại: đối thoại một vế,

đối thoại hai vế. Kiểu kết cấu này nảy sinh do môi trường, hoàn cảnh diễn xướng, ứng

tác ca dao.

Dù ở dạng lời nói của một người hay hai người, một vế hay hai vế, bài ca vẫn in

đậm dấu ấn của lối trò chuyện, giãi bày giữa nhân vật trữ tình với đối tượng trữ tình.

Văn bản ca dao thường hướng về một đối tượng cụ thể. Bài ca có thể là lời của chàng

trai nói với cô gái, mẹ nói với con, chồng nói với vợ ... Loại kết cấu này là một biểu

hiện cụ thể về mối liên hệ, ảnh hưởng của những yếu tố ngoài văn bản đối với văn bản

văn học dân gian. Hình thức hát đối đáp ca dao -dân ca là những yếu tố ngoài văn bản

đã trở thành nguyên nhân chính của việc hình thành nên kết cấu đối thoại, một yếu tố

thuộc cấu trúc của văn bản ca dao.

Với lối kết cấu này, không thể không nhắc đến vai trò của các biểu tượng. Nhiều

biểu tượng được sử dụng để thay thế cho con người. Nhân vật trữ tình, đối tượng trữ

tình ẩn minh trong các biểu tượng, mang những đặc điểm, giá trị, phẩm chất của các

biểu tượng. Chàng trai, cô gái tự xưng minh là rồng, mây, trúc, mai, liễu, đào, loan,

phượng, bướm, hoa ... Các nhân vật đã được hóa thân trong những hình ảnh đó.

- Thuyền ơi, có nhớ bến chăng,

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. (TL I - tr.2093)

- Tằm ơi, say đắm nơi đâu,

Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn? (TL I - tr.1902)

- Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc,

Trách ai làm phụng bắc, rồng nam. (TL III - tr. 358)

Nhân vật ca dao chủ yếu được xây dựng trên các biểu tượng, nên thường là phi

cá thể hóa, đại diện chung cho một nhóm người, một giai tầng, giai cấp... Chàng trai

nào cũng có thể là ong, bướm, cô gái nào cũng có thể là hoa, trăng, cá, lứa đôi nào

cũng có thể là chim phượng hoàng - ngô đồng, lựu - đào, lan -huệ, mận - đào, trầu -

cau ... Bên cạnh hệ thống đại từ nhân xưng quen thuộc, phong phú của ca dao như:

anh - em, thiếp - chàng, minh - ta, qua - bậu, tui - minh ... còn cần phải kể đến hàng

loạt các biểu tượng có giá trị sử dụng như các đại từ trên:

- Tấn với Tần đường xa chả ngại,

Tấn với Tần là nghĩa phu thê,

Tần còn đây sao Tấn vội về,

Tấn Tần ỏ lại ta về cùng nhau. (TLIV - tr.212)

- Ước gì đào vợ, mận chồng,

Đào thương, mận nhổ, não nùng đôi bên

VI đào nên mận chẳng quên,

VI đào nên mận ngậm phiền nhớ mòng.

VI đào nên mận long đong,

Xin đào chớ ở ra lòng bắc, nam. (TL I - tr.2291)

Trong kết cấu này, các biểu tượng không chỉ có chức năng thể hiện tính cách,

hoàn cảnh, đặc điểm của nhân vật và đối tượng trữ tình mà còn trở thành những đê tài

để lứa đôi trò chuyện. Ca dao phổ biến lối nối chuyện bằng biểu tượng, hỏi và đáp

bằng biểu tượng:

- Lạ lùng anh muốn hỏi thăm,

Trăng kia đã đến hôm rằm hay chưa?

- Trăng đang mười bốn chưa rằm,

Lá dâu non đang đợi con tằm mới băng. (TL I - tr. 1223)

- Bấy lâu còn lạ chưa quen,

Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ?

- Hồ còn leo lẻo nước trong,

Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen. (TL I - tr.260)

Lối nói bằng biểu tượng phù hợp với nếp diễn đạt của người Việt Nam vì nó kín

đáo, ý nhị, đậm chất thơ, giàu sức biểu cảm. Đặc biệt là trong những câu chuyện tình

yêu lứa đôi, lối nói này thực sự cần thiết khi các chàng trai, cô gái muốn tỏ bày tình

cảm sâu kín, tế nhị của minh. Đối thoại bằng biểu tượng còn giúp tác phẩm ngắn gọn

nhưng ý tình sâu sắc. Đặc điểm ngắn gọn của ca dao trong kết cấu có phần đóng góp

của biểu tượng:

- Tiếng là ngày rằm nhưng trăng đã méo,

Vì em nói khéo anh tưởng trăng tròn,

Hoa kia đã hết nhụy, anh nói còn ngậm sương.

(TLII-tr.192)

Ba dòng ca dao với các biểu tuợng trăng và hoa là lời giãi bày, phân trần của

chàng trai ở một cảnh ngộ thật trớ trêu.

Nhìn chung, biểu tượng đã có những tác động đáng kể đến kết cấu đối thoại của

ca dao. Thật khó hình dung được kết cấu đó sẽ ra sao, nếu như trong ca dao không tồn

tại hệ thống biểu tượng nghệ thuật.

4.2.3.3. Thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thông"

Để tìm hiểu cấu trúc ca dao, Bùi Mạnh Nhị đã dựa vào các công thức truyền

thống - đơn vị tế bào phản ánh tập trung bản chất, đặc trưng folklore trong thể loại

này. Ca dao có nhiều loại công thức truyền thống, biểu tượng là một trong số đó. Theo

Bùi Mạnh Nhị: "Công thức là biểu hiện trực tiếp của tính truyền thống trong folklore.

Nó phản ánh suy nghĩ, thị hiếu của truyền thống, đồng thời, nó cũng biểu hiện quy

luật, quy tắc thẩm mỹ trong sáng tác và tiếp nhận tác phẩm folklore. Công thức truyền

thống sẽ là chìa khóa giúp chúng ta mở ra những bí mật cấu trúc của bài ca trữ tình

dân gian" [118, tr.322].

Biểu tượng thực sự có chức năng thiết kế văn bản. Ở nhiều mức độ khác nhau,

loại công thức này đã tham gia tích cực vào việc hình thành kết cấu của bài ca.

Trong nhiều bài ca dao ngắn, từ biểu tượng nghệ thuật đã hình thành nên cấu tứ

chính của tác phẩm. Biểu tượng chi phối toàn bộ cấu tứ bài ca. Lúc này, biểu tượng

được đặt trong những ngữ cảnh nhất định, thể hiện những nét nghĩa nhất định. Đối với

những bài này, tháo dỡ cấu trúc chủ yếu là tìm và phân tích biểu tượng trong ngữ cảnh

cụ thể, qua đó thấy được truyền thống và sáng tạo, nội dung tư tưởng và giá trị nghệ

thuật của tác phẩm qua lối nói năng giàu hình ảnh rất quen thuộc của dân gian.

Ca dao có nhiều chủ đề, nhưng biểu tượng trầu cau xuất hiện nhiều nhất là ở chủ

đề tình yêu lứa đôi. Vì trong đời sống thực tế, trầu cau đã gắn liền với các cuộc hát

mời trầu, các đêm trăng hò hẹn, các phong tục cưới xin..., cho nên bàn đến chuyện lứa

đôi, trong tâm thức người bình dân xưa luôn sống động một biểu tượng trầu - cau. Nếu

so sánh với một số cặp biểu tượng tình yêu khác trong ca dao như: mận - đào, thuyền -

bến, rồng - mây, loan - phượng, bướm - hoa, trúc -mai, đào - liễu ... thì có thể thấy

trầu - cau là một trong những biểu tượng được dân gian sử dụng nhiều nhất để xây

dựng nên cấu tứ tác phẩm.

- Trầu vàng góp bến sông Bung,

Chờ cau Đại Mỹ đặng cùng về xuôi. (TL I - tr.2191)

- Minh về ngoài ấy mau vô,

Cho anh sắm sửa cau khô để dành.

- Cau khô anh bổ để dành,

Bao giờ cau cố trầu xanh mới về. (TL I - ti". 1369)

Có thể tìm thêm nhiều ví dụ ở các biểu tượng khác:

- Trúc với mai đêm ngày rầu rĩ,

Mai với trúc biết nghĩ nào khuây,

Mai về mai bỏ trúc đây,

Thuốc thang nào giải cho khuây mối sầu. (TL IV- tr. 211)

- Cá vàng lơ lửng giếng xanh

Thong dong chốn ấy một minh thảnh thơi,

Ai ngờ cá lại ham mồi,

Bỏ nơi mát mẻ, tìm nơi lạnh lùng. (TL ĩ - tr.319)

Trong các ví dụ trên, biểu tượng đã trở thành trung tâm, hạt nhân của bài ca

dao. Chúng là những yếu tố nòng cốt, giữ vai trò gắn kết các thành tố khác trong văn

bản để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật hoàn mỹ.

Các tứ thơ được xây dựng từ cùng một biểu tượng có tạo nên sự đơn điệu

không? Thật ra, dân gian có nhiều cách thức để hình thành cấu tứ từ một biểu tượng.

UVí dụ 1U:

Hãy thử đọc một số bài cụ thể:

a. - Thương em có biết không em,

Lẽ nào có rượu mà nem để dành? (TL 11(1) - tr.407)

b. - Mẹ già chặt đũa từ em,

Không cho ve rượu, gói nem mặn nồng. (TL I - tr. 1341)

c. - Rượu nằm trong nhạo chờ nem,

Anh nằm phòng vắng chờ em lâu về. (TL I - tr. 1810)

Cả ba bài đều được hình thành từ hạt nhân là biểu tượng rượu - nem, nhưng là ba

cấu tứ khác nhau:

a. Tình yêu một phía và ước mong được kết hôn như rượu - nem.

b. Lứa đôi yêu nhau nhưng mẹ già không cho phép đến với nhau như rượu -nem

mặn nồng.

c. Chàng trai chờ đợi người yêu như rượu chờ nem.

Và ba cách nói cũng khác nhau:

a. ... Có rượu mà nem để dành.

b. ... Ve rượu, gói nem mặn nồng.

c. Rượu nằm trong nhạo chờ nem ...

Mỗi bài ca dao triển khai công thức biểu tượng theo những hướng cụ thể khác

biệt. Cấu tứ ca dao luôn phong phú do hoàn cảnh, quan hệ, góc nhìn... ở các bài ca

UVí dụ 2U:

luôn thay đổi trong từng thời điểm sáng tác, với từng người sáng tác.

a. - Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? (TL I - tr.2029)

b. - Tiếc thay cái tấm lụa đào,

Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi

Trời kia có thấu chăng ười,

Lụa đào mà vá áo tơi sao đành. • (TL I - tr. 1915)

c. - Thân em như thước lụa điều,

Đã đông nơi chuộng, lại nhiều nơi thương. (TL I - tr.2031)

Cùng là biểu tượng tấm lụa dào, nhưng ba văn bản có ba kiểu cấu tứ khác nhau:

a. Người con gái đẹp trong hôn nhân như tấm lụa đào giữa chợ

b. Người con gái đẹp và cuộc hôn nhân không xứng hợp như tấm lụa đào vá vào

áo tơi.

c. Người con gái đẹp như tấm lụa đào được nhiều người mến chuộng.

Biểu tượng được đặt trong những mối quan hệ khác nhau ở từng văn bản:

a. Tấm lụa đào - chợ đời

b. Tấm lụa đào - áo tơi.

c. Tấm lụa đào - nơi mến chuộng.

Cấu tứ các bài ca dao rõ ràng không trùng lắp với nhau. Từ các văn bản loại này,

chúng ta còn có thể tìm hiểu được truyền thống và cách tân trong câu tứ của một bài

ca dao cụ thể.

Xét đến những bài ca dao dài, trong nhiều trường hợp, chúng tôi nhận thấy cấu

tứ của tác phẩm được xây dựng trên cơ sở phát triển những nét nghĩa của công thức

biểu tượng. Bài ca sau đây là một ví dụ tiêu biểu:

- Vào vườn hái quả cau xanh

Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu,

Trầu này têm những vôi Tàu,

Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.

Trầu này ăn thật là say,

Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng,

Dù chẳng nên vợ nên chồng,

Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương. (TL I - tr.2307)

Mở đầu là lời mời trầu mang ý nghĩa giao tiếp xã hội phổ biến. Tiếp đó, cô gái

trình bày về các thành phần của miếng trầu: trầu, vôi Tàu, cát cánh, quế cay..., ngỏ cho

chàng trai hiểu được đó là một miếng trầu rất quý được têm một cách công phu, chất

chứa bên trong tình cảm sâu nặng của người têm. Đến khi cô gái .hát: "Trầu này ăn

thật là say..." thi ý nghĩa của miếng trầu mời đã rõ ràng. Cái say có thực của miếng

trầu thường dễ khiến người ta liên tưởng đến cái say vương vất, vân mòng của đôi lứa

đang yêu. Cuối bài ca dao, lời mời trầu bình thường đã thực sự chuyển thành lời tỏ

bày tình yêu.

Như vậy, cấu tứ trầu cau đã được phát triển từ tứ thơ về một nét sinh hoạt của

đời sống văn hóa đến tứ thơ về một ước mơ hạnh phúc gia đình.

Một số bài khác cũng có cách phát triển cấu tứ tương tự:

- Một đàn cò trắng bay tung,

Bên nam bên nữ ta cùng hát lên

Hát lên một tiếng mà chơi,

Hát lên hai tiếng, xơi cơi trầu này.

Trầu đã có đây, cau đã có đây,

Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?

Trầu này trầu túi, trầu khăn,

Cùng trầu dải yếm, anh ăn trầu nào?

Trầu này, trầu quế, trầu hồi,

Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu minh.

Trầu này, trầu tính, trầu tình,.

Trầu nhân, trầu ngãi, trầu minh lấy ta.

Trầu này têm tối hôm qua,

Trầu cha, trầu mẹ, đem ra cho chàng.

Trầu này không phải trầu hàng,

Không bùa không thuốc, sao chàng không ăn?

Hay là chê khó, chê khăn

Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu. (TL I - tr. 1387)

Đây là một bài mời trầu có kết cấu hoàn chỉnh, có phần mở đầu, phát triển, kết

thúc khá rõ ràng. Sau lời mở đầu mang tính chất giới thiệu về một sinh hoạt văn hóa,

văn nghệ dân gian, lời mời trầu bắt đầu chuyển sang nhịp điệu tâm tình:

- Trầu đã có đây, cau đã có đây,

Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?

Miếng trầu được gắn kết với chuyện nhân duyên.

Rồi hàng loạt lời tường giải cho ý nghĩa của miếng trầu được hát lên, chỉ ra cái ý

nghĩa giao duyên sâu đậm: trầu túi, trầu khăn, trầu dải yếm, trầu quế, trầu hồi, trầu

loan, trầu phượng, trầu nhân, trầu nghĩa ... Toàn là những từ ngữ khơi gợi chuyện tình

duyên. Trong thực tế làm gi có trầu tôi, trầu minh, trầu tính, trầu tình? Và nếu là

miếng trầu giao tiếp bình thường thi trầu hàng hay không phải là trầu hàng có gi quan

trọng? Cuối bài, lời mời trầu được nhắc lại lần nữa:

Hay là chê khó chê khăn?

Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.

Lúc này, miếng trầu đã thực sự là hóa thân của những tình cảm mà cô gái muốn

trao gởi.

Thường là trong quá trình phát triển cấu tứ như vậy, các lớp nghĩa của ngôn từ

được bóc tách dần dần. Lúc đầu là nghĩa biểu vật, sau đó là nghĩa biểu tượng. Chỉ

trong phạm vi một bài ca dao, các ý nghĩa văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, tinh thần,

nghĩa biểu tượng đan xen vào nhau, hòa lẫn và thống nhất với nhau trong biểu tượng

miếng trầu.

Từ cách cấu tứ chuyển tiếp giữa miếng trầu giao tiếp xã hội và miếng trầu giao

duyên cá nhân, nhiều bài ca dao cổ truyền được hình thành và đã để lại cho người

thưởng thức những ấn tượng sâu sắc.

Một số ví dụ từ các biểu tượng khác trong ca dao:

- Công anh lên lừng đốn trúc,

Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài

Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ

Đêm hôm lọ mọ, xe sợi chỉ săn

Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức

Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi

Thả câu xuống rồi, miệng anh thầm vái

Đây cần câu nhân, cần câu ngãi

Đây cần câu phải, cần câu khôn

Vái ông Nguyệt Lão se sợi chỉ hồng

Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu.

- Con cá anh đẹp, nó đã có cặp

Dẫu anh thả hoài, chẳng gặp nó đâu

Anh về sửa lại lưỡi câu,

Tìm sang chốn khác, duyên hầu nên chăng? (TL I - tr.496)

Cấu tứ bài ca này được hình thành từ sự phát triển của biểu tượng cá và người

câu cá. Ở đây, biểu tượng đóng vai trò tổ chức văn bản, là cốt lõi của văn bản. Từ chỗ

chàng trai chuẩn bị cần câu, đi câu với lời khấn vái thành tâm mong cá ăn mồi đến khi

biết cá đã có cặp và lời đề nghị nên câu chốn khác ... là một sự phát triển, dẫn dắt ý tứ

lôgic, có tình có lý, hấp dẫn người tiếp nhận văn bản như một câu chuyện kể hoàn

chỉnh. Cá và người câu cá từ bình diện nghĩa biểu vật được chuyển sang nghĩa biểu

tượng (ở cuối bài) một cách khéo léo.

Biểu tượng khăn cũng đi vào ca dao với những hình thức diễn đạt tinh tế:

- Khăn em, em đang đội đầu,

Chàng mà giật lấy bỏ đầu bơ vơ

Mang khăn em về, chàng nhớ chàng thêu

Thêu sao cho được cây cau đôi buồng

Thêu sao cho được buồng hương,

Thêu sao cho được đôi đường chỉ xanh

Thêu sao cho được hoa chanh,

Thêu sao cho được trăm cành quế chi

Thêu sao cho được chữ quỳ

Thêu sao cho được bướm thì cành hoa.

Thêu sao cho được giăng già,

Thêu sao cho được trăm ba cành hồng

Khăn em mua ở tỉnh Đông,

Chạy tàu em xuống Hải Phòng mua kim

Chạy tàu xuống tỉnh Hưng Yên,

Mua con chỉ thắm kết duyên cùng chàng

Khăn em có bốn chữ vàng,

Chữ trung, chữ hiếu, chữ hoan, chữ húy.

Chàng mà giật lấy khăn đi

Rồi mai em lại có khi nên gần

Khăn em có chữ ái ân,

Chữ ái là vợ, chữ ân là chồng.

Khăn em chả đáng mấy đồng,

Có phải vợ chồng thì cho nhau xin

Muốn xin thì nói là xin

Sao chàng lại cứ giữ gìn khăn em? (TLIV - tr. 124,125)

Từ chỗ là một chiếc khăn đội đầu bình thường chuyển tiếp thành chiếc khăn kỷ

vật tình yêu (với những đặc điểm: khăn đẹp, khăn quý, khăn nghĩa tình...). Từ chỗ là

một đối tượng miêu tả trực tiếp trở thành một biểu tượng. Lớp nghĩa biểu vật và lớp

nghĩa biểu cảm như đan xen hòa lẫn vào nhau. Xuyên suốt bài ca là biểu tượng chiếc

khăn. Hình ảnh này đã quy định toàn bộ sự phát triển cấu tứ của tác phẩm.

Góp phần vào việc thiết kế văn bản, biểu tượng còn giữ vai trò là một trong các

yếu tố hợp thành cấu tứ. Trong một tác phẩm (ngắn hoặc dài), có thể xuất hiện một

hoặc nhiều biểu tượng. Mỗi biểu tượng đóng góp một phần giá trị của minh vào cấu tứ

chung. Giá trị của từng biểu tượng cũng có nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào

mối liên hệ của nó với cấu tứ của toàn bài. Bài Tát nước đầu đình là một ví dụ. Mượn

cớ để quên chiếc áo trên cành hoa sen, chàng trai từ chỗ xin lại áo tiến đến chỗ nhờ

khâu áo giùm, và cuối cùng hứa hẹn sẽ giúp cho cô gái tốt bụng kia thật nhiều thứ

trong ngày cưới của cô. Sao lại có chàng trai kỳ lạ đến thế! Khâu giúp một cái áo sứt

chỉ đường tà, công lênh có đáng là bao, mà chàng trả công nhiều vậy? Xôi vò, lợn béo,

rượu tăm, chiếu, chăn, trầm, tiền cheo, tiền cưới.... Và kết thúc bài ca dao là cả một

buồng cau. Chính buồng cau là cái tín hiệu khiến cô gái nhận ra người đến hỏi cưới

minh sẽ không ai khác hơn là chàng trai xin áo. Chàng trai đã không vô tư chút nào

khi đề nghị được giúp cô những sính lễ ấy. Trong cấu tứ: mất áo, nhờ khâu áo, hứa trả

công thì buồng cau là yếu tố cuối cùng nhưng cũng là yếu tố quan trọng biến bài ca

xin áo trở thành lời tỏ tình duyên dáng. Bởi lẽ trong ngày cưới, buồng cau là lễ vật bắt

buộc mà đàng trai phải mang sang đàng gái, chàng trai là ai mà có thể giúp được

buồng cau? Giúp như thế thì chàng rể nào còn mặt mũi bước sang nhà cô dâu, trừ khi

chàng trai xin áo là nhân vật chính trong đám cưới đó.

Bài ca là sự xâu chuỗi của nhiều chi tiết, trầu cau là một trong số đó. Biểu tượng

trầu cau nằm ở mắt xích cuối cùng trong hệ thống chi tiết của bài ca, nhưng đã có vị

trí quan trọng trong cấu tứ chung của toàn tác phẩm.

Biểu tượng cá chậu, chim lồng trong Trèo lên cây bưởi hái hoa... cũng là những

thành tố góp phần hình thành nên cấu tứ tác phẩm. Biểu tượng chim trong bài ca dao

sau đây có vai trò tương tự:

- Lên xe dầu phải xuống xe

Hai bên nam nữ đứng nghe tôi chào

Trước tôi chào cây lê, cây lựu

Sau tôi chào bạn cựu, bạn tân

Chào luôn tiếng nữa ngoài sân trong nhà

Chào rồi, hỏi thật chủ gia

Cặp chim đứng đó, chim nhà hay chim ai.

Chim nhà tôi xuống ná hạ tay

Chim đồng tôi lên ná, một hai bắn liền. (TL I - tr. 1274)

Cần chú ý thêm một hiện tượng nữa cũng rất đặc biệt, đó là có một số bài ca dao,

biểu tượng xuất hiện hàng loạt nối tiếp nhau, kề sát nhau, giúp cho câu tứ trở nên

sáng rõ, ấn tượng:

- Hôm nay lan huệ sánh bày,

Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời,

Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi,

Một mai cá nước, chim trời gặp nhau. (TL I - tr. 1115)

- Gặp đây hỏi khách má đào

Còn không hay đã nơi nào xứng cân?

Gặp đây hỏi khách Châu Trần,

Còn không hay đã Tấn Tần cùng- ai?

Gặp đây hỏi khách Chương Đài,

Còn không hay đã có ai vin cành?

Gặp đây hỏi khách xuân xanh,

Có nên thi nói cho tình được hay. (TL I - tr. 1606)

Sự sử dụng các biểu tượng liên tiếp nhau, phối hợp hài hoa giữa biểu tượng đơn

và đôi, có dụng ý nhấn mạnh vào nội dung chính của bài ca. Kết cấu tác phẩm như là

sự nối đuôi của các biểu tượng. Các nhân vật, sự việc, ý niệm đều được thể hiện thông

qua biểu tượng. Có khi cùng lúc nhiều biểu tượng thay thế cho nhau để biểu thị một

con người, một đôi lứa .... Sự tập hợp các biểu tượng như vậy đã góp phần mở rộng

không gian của bài ca dao, truyền cho nó những giá trị thẩm mỹ truyền thống và tô

đậm cấu tứ .

Qua các phần đã trình bày trên, có thể thấy được vai trò năng động của biểu

tượng trong cấu trúc văn bản ca dao. Bằng nhiều cách thức và mức độ khác nhau, các

biểu tượng đã thâm nhập vào cốt lõi chính của bài ca dao, trở thành những tế bào hạt

nhân hình thành nên tác phẩm. Sự chi phối của biểu tượng trong cấu trúc ca dao là

hiện tượng đáng quan tâm, cần được khảo sát tỉ mỉ hơn nữa. Ở trường hợp là những

yếu tố hợp thành cấu tứ, biểu tượng đã có đóng góp ít nhiều trong việc rút ngắn văn

bản, giúp cấu tứ được thể hiện một cách sáng tạo.

* * *

Tóm lại, cùng với vẻ đẹp riêng ở từng biểu tượng, tính đa nghĩa, cấu tạo đa dạng

và các biến thể của biểu tượng đã làm cho tổng thể ca dao trở nên hấp dẫn, sống động,

giàu sức biểu hiện, đồng thời, phủ nhận ý kiến sai lầm cho rằng công thức truyền

thống là khiếm khuyết thẩm mỹ, là dấu trừ về mặt thẩm mỹ của folklore. Sáng tác

theo công thức là kiểu sáng tác quen thuộc của dân gian, xuất phát từ những yêu cầu

của loại hình văn học truyền miệng. Các công thức đã mang lại giá trị phong phú cho

văn học dân gian, mà biểu tượng trong ca dao là một ví dụ thuyết phục.

Sự vận động của biểu tượng trong quá trình ứng tác ca dao đã dẫn đến việc hình

thành hàng loạt tác phẩm có cùng biểu tượng, tạo nên những nhóm, những chuỗi ca

dao mà tính hệ thống được thể hiện nổi bật. Thực tế này đã khẳng định sự cần thiết

của phương pháp nghiên cứu hệ thống đối với các văn bản ca dao. Sự hiểu biết chung

về hệ thống ca dao trầu cau sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng cho việc khảo sát một đơn vị

ca dao trầu cau cụ thể. Việc sử dụng phổ biến các biểu tượng trong ca dao cũng bộc lộ

rõ quan niệm về cái đẹp trong nghệ thuật của tác giả dân gian. Đó là cái đẹp trong sự

lặp lại, lặp lại những giá trị đã được chọn lọc và lặp lại một cách thông minh. Sử dụng

sáng tạo các khuôn mẫu có sẩn là thói quen thẩm mỹ, tài năng nghệ thuật của người

xưa (nếu như trong truyện dân gian, đó là sự lặp lại của các tip, mô-úp, thì ở đây là

các biểu tượng).

Qua chương này, ta còn có điều kiện để thấy được biểu tượng ca dao chính là

những, đơn vị tế bào phản ánh đầy đủ đặc trưng, bản chất thẩm mỹ của folklore. Biểu

tượng với giá trị về nhiều mặt như vậy xứng đáng được chúng ta khảo sát toàn diện

hơn nữa.

Sự tham gia tích cực của biểu tượng vào hệ thống thi pháp ca dao còn góp phần

tạo nên những khác biệt cơ bản giữa thi pháp ca dao và thi pháp thơ, giữa thi pháp văn

học dân gian và thi pháp văn học viết.

KẾT LUẬN

1. Biểu tượng trong ca dao là những biểu tượng nghệ thuật được xây dựng bằng

chất liệu ngôn từ. Đó là những từ ngữ chỉ hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, được

một cộng đồng người nhất định cùng chấp nhận và sử dụng trong một thời gian lâu

dài. Những từ ngữ này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ca dao với những nét nghĩa

biểu trưng tương đối ổn định.

Đặc điểm nổi bật ở biểu tượng là tính cộng đồng xã hội. Một hình ảnh là biểu

tượng ở cộng đồng này có thể không phải là biểu tượng ở cộng đồng khác, hoặc cùng

một biểu tượng nhưng ở các cộng đồng khác nhau chúng có những nét nghĩa khác

nhau. Vì vậy, nghiên cứu biểu tượng cần phải đặt chúng trong môi trường văn hóa, xã

hội, địa lý, lịch sử... của cộng đồng nơi mà chúng được hình thành thi mới hiểu thấu

đáo được những tầng ý nghĩa tiềm ẩn trong biểu tượng. Đồng thời, qua biểu tượng,

cũng có thể hiểu thêm nhiều về chính cộng đồng đó.

Biểu tượng ca dao mang tính cụ thể- khái quát, khiến cho sự diễn đạt trong văn

bản vừa mang tính hình tượng, vừa mang tính hàm súc, vừa sinh động, vừa sâu sắc.

Biểu tượng mang tính nhận thức đồng thời còn mang đậm tính biểu cảm. Sự gắn bó

khăng khít giữa hai yếu tố lý trí và tình cảm đó ở biểu tượng đòi hỏi người đọc phải

tiếp nhận chúng bằng toàn bộ tâm trí của minh.

Trong ca dao người Việt, các biểu tượng được sử dụng với tần số rất cao. Một

hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ bằng ngôn ngữ đã được hình thành cùng với sự phát

triển của ca dao trong tiến trình lịch sử. Hệ thống này có những đặc điểm, tính chất,

nội dung, chức năng riêng biệt, cần được khảo sát ở nhiều bình diện. Tìm hiểu hệ

thống này sẽ đem lại những hiểu biết phong phú về bản chất thẩm mỹ của ca dao.

2. Ở góc độ ký hiệu học, biểu tượng ca dao chính là những siêu ký hiệu, bao gồm

cái biểu đạt (CBĐ') và cái được biểu đạt (CĐBĐ'), gắn kết với nhau bằng những mối

liên hệ nhất định. Mỗi biểu tượng là một hệ thống ký hiệu hàm nghĩa, hệ thống đôi, vì

vậy, ngôn ngữ ca dao trở nên cô đọng, nén chặt, giàu sức biểu hiện.

Ở góc độ tu từ học, biểu tượng ca dao chủ yếu được hình thành trên cơ sở các

mối quan hệ liên tưởng (liên tưởng tương đồng, liên tưởng lôgich khách quan về mối

quan hệ có thực xảy ra giữa hai đối tượng). Thông qua hình thức diễn đạt ở các văn

bản, có thể nhận thấy biểu tượng tồn tại ở ba dạng: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Ở mỗi

dạng thức, nghĩa của biểu tượng được bộc lộ ra theo những cách khác nhau. Sự phong

phú trong các dạng tồn tại đã góp phần tạo nên nét hấp dẫn, sống động cho biểu

tượng, cho văn bản ca dao, tạo điều kiện thuận lợi để dân gian có thể lựa chọn dạng

thức phù hợp nhất với việc thể hiện thế giới nội tâm trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Ở góc độ folklore học, biểu tượng ca dao là một loại yếu tố trùng lặp, một loại

mô - tip, công thức truyền thống. Đây là những đơn vị tế bào quan trọng, năng động

có khả năng thiết kế văn bản, đồng thời, phản ánh tập trang bản chất, đặc trưng, mỹ

học folklore trong ca dao. Công thức biểu tượng bao gồm ba cấp độ: nhóm biểu tượng,

biểu tượng, biến thể của biểu tượng, đáp ứng được nhu cầu biểu đạt tư tưởng, tình cảm

phong phú của dân gian.

Ở góc độ văn hóa học, hệ thống biểu tượng ca dao là một hiện tượng văn hóa.

Biểu tượng được sinh ra và nuôi dưỡng từ mảnh đất văn hóa cộng đồng, vì vậy, qua

văn hóa hiểu được biểu tượng, qua biểu tượng hiểu được văn hóa là một thực tế hiển

nhiên. Sự giao lưu, gặp gỡ, tiếp thu lẫn nhau giữa các nền văn hóa cũng đọng lại trong

các biểu tượng. Biểu tượng còn có liên hệ mật thiết với trình độ nhận thức, tư duy của

con người. Sự tồn tại với tần suất cao của biểu tượng trong ca dao chứng tỏ năng lực

tượng trưng hóa đã trở thành phổ biến trong tầng lớp bình dân. Với vai trò là những

khuôn mẫu văn hóa cổ truyền, những hạt nhân di truyền, những đơn vị cơ bản của văn

hóa, biểu tượng ca dao đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn hóa dân tộc.

Biểu tượng còn thể hiện đặc trưng ngôn ngữ của thể loại. Ngôn ngữ ca dao phần

lớn là ngôn ngữ biểu tượng. Ngôn ngữ đặc thù này thể hiện một cách hiệu quả bản

chất trữ tình của thể loại, đồng thời, tạo nên một nét phong cách riêng -một sức hấp

dẫn riêng cho ca dao.

3. Các biểu tượng trong ca dao có nhiều nguồn gốc khác nhau. Có thể chia thành

ba nhóm: những biểu tượng xuất phát từ tín ngưỡng - nghi lễ và phong tục, tập quán

của người Việt, những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc,

những biểu tượng bắt nguồn từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và đời

sống hàng ngày của nhân dân ta. Thực ra, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương

đối mà thôi. Trong mỗi nhóm đã nêu, các biểu tượng cụ thể đều có một tầng nền lịch

sử - xã hội, một "cốt" văn hóa riêng. Đồng thời, một số biểu tượng có nguồn gốc khá

phức tạp, đó là sự đan xen của nhiều quan niệm, ảnh hưởng, truyền thống văn hóa

khác nhau (trầu cau, cây đa, rồng...). Phát hiện được các lớp lịch sử - văn hóa trong

một biểu tượng là vấn đề không dễ dàng. Vì vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng

cần được tiến hành một cách thận trọng để tránh những nhận định chủ quan, sai lệch.

Ở cả ba nguồn gốc, việc quan sát thế giới khách quan đều đóng vai trò quan trọng

(trong khâu hình thành biểu tượng cũng như tiếp nhận các biểu tượng của văn học cổ

Trung Quốc ).

Một số biểu tượng có nguồn gốc từ các điển tích, điển cố Trung Quốc phản ánh

khá rõ nét quá trình giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc. Người Việt Nam đã sử dụng

các yếu tố văn hóa vay mượn đó một cách sáng tạo, đã dân tộc hóa, dân gian hóa,

biến những yếu tố văn hóa xa lạ từ bên ngoài trở thành những yếu tố thật sự gắn bó

với nền văn hóa Việt Nam, thể hiện được bản sắc văn hóa Việt Nam.

Việc sử dụng điển cố trong ca dao có nhiều khác biệt so với văn chương bác học.

Ca dao sử dụng điển cố ít hơn, nhưng phần nhiều trong số đó đã trở thành biểu tượng.

Nhiều trường hợp cùng một điển cố nhưng văn chương bác học và văn chương bình

dân sử dụng với những nét nghĩa khác nhau. Xác định nguồn gốc của các điển cố -

biểu tượng, chỉ ra thực tế ngữ nghĩa mà hai bộ phận văn học cấp cho chúng là việc

làm cần thiết để khu biệt được nội dung của biểu tượng ca dao.

4. Biểu tượng tồn tại trong ca dao với số lượng lớn, phong phú, đa dạng. Trong

luận án này, chúng tôi đã tiến hành phân loại biểu tượng dựa trên tiêu chí cái biểu đạt,

xuất phát từ vai trò quan trọng của sự vật, hiện tượng thuộc thế giới khách quan trong

quá trình hình thành biểu tượng. Chúng tôi cũng đã miêu tả hệ thống biểu tượng ca

dao dựa vào các phạm trù ở cái biểu đạt làm cơ sở cho những liên tưởng thơ ca định

hình biểu tượng. Đó là các phạm trù về kích thước, khoảng cách, tính chất, trạng thái,

màu sắc, hương vị, chất liệu, đặc điểm và môi trường sinh trưởng, tập tính, giá trị sử

dụng, không gian xã hội và văn hóa, hoàn cảnh sống, chức năng... Từ việc miêu tả

này, có thể hiểu được biểu tượng trong cơ chế hình thành, trong chiều sâu bản chất,

đồng thời, đây cũng là phương thức thích hợp cho việc giới thiệu một số lượng lớn các

biểu tượng ca dao (286 biểu tượng).

Biểu tượng ca dao có thể chia thành ba hệ thống nhỏ: biểu tượng là các hiện

tượng tự nhiên và môi trường tự nhiên (hệ thống 1), biểu tượng là các vật thể nhân tạo

(hệ thống 2), biểu tượng là con người (hệ thống 3). Mỗi hệ thống có những đặc điểm

riêng nên cũng được dân gian chú ý khai thác ở những phạm trù tạo liên tưởng không

giống nhau. Vai trò quan trọng của thiên nhiên đối với sự hình thành biểu tượng cũng

được thể hiện rõ qua số lượng biểu tượng ở hệ thống 1: 166/286 biểu tượng. Thế giới

vật thể nhân tạo cũng góp phần không nhỏ trong kho thi liệu dân gian này : 102/286

biểu tượng.

Biểu tượng trong ca dao người Việt vừa thể hiện tính địa phương, tính nghề

nghiệp độc đáo, vừa mang tính dân tộc, tính quốc tế sâu sắc. Khi nghiên cứu cần đặt

chúng trong nhiều mối tương quan để so sánh, đối chiếu nhằm có thể phát hiện được

trọn vẹn cái đẹp bản chất tồn tại trong từng biểu tượng. Thế giới biểu tượng với những

đặc trưng trên được tạo nên bởi thao tác lựa chọn, tư duy liên tưởng, năng lực sáng

tạo nghệ thuật của con người. Việc khảo sát biểu tượng không thể tách rời quá trình

tìm hiểu về những chủ thể đã sáng tạo ra chúng.

5. Xét về mặt cấu tạo, biểu tượng ca dao được chia làm hai loại : biểu tượng đơn

và biểu tượng đôi. Tùy vào mối liên hệ giữa các thành tố tạo thành biểu tượng đôi mà

chúng ta có biểu tượng đôi tương đồng hay biểu tượng đôi đối lập. Trong nhiều

trường hợp, biểu tượng đơn chính là cơ sở để từ đó hình thành các-biểu tượng đôi.

Các dạng cấu tạo này đã tạo nên sự phong phú cho biểu tượng ca dao ỏ từng văn bản

cụ thể.

Về mặt chức năng, biểu tượng có những tác động, chi phối trực tiếp đến các

thành tố thi pháp khác của ca dao như: ngôn ngữ, đề tài, chủ đề, kết cấu, cấu tứ, nhân

vật...

Ngôn ngữ ca dao mang đậm tính hàm súc phần lớn nhờ vào biểu tượng. Đặc biệt

với các biểu tượng được hình thành từ điển tích, điển cố, các lớp nghĩa tiềm ẩn trong

ngôn từ ca dao càng lớn. Sự lĩnh hội ý nghĩa của văn bản vi vậy tùy thuộc rất nhiều

vào tầm hiểu biết của người tiếp nhận.

Sự vận động của biểu tượng còn khiến cho ngôn ngữ thể loại này vừa mang tính

công thức, khuôn mẫu, vừa mang tính sáng tạo. Ca dao thường xuyên sử dụng các

biểu tượng như là những công thức ngôn ngữ thuộc nhiều mức độ : từ, ngữ, câu...

Đồng thời trong từng văn bản cụ thể, dân gian lại sử dụng một cách sáng tạo các công

thức đó (biểu hiện qua các biến thể). Đặc điểm này dẫn đèn sự kết hợp hài hòa giữa

yếu tố truyền thống và sáng tạo, đem lại vẻ đẹp riêng cho tác phẩm ca dao.

Biểu tượng còn góp phần triển khai và thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề. Hiện

tượng mỗi đề tài, chủ đề có một hệ thống biểu tượng riêng và các biểu tượng cùng

nhóm lại được "phân công" vào những đề tài khác nhau đều có nguyên nhân từ phía

người sử dụng biểu tượng: muốn thể hiện đề tài, chủ đề một cách tốt nhất, độc đáo

nhất, Việc xác định nghĩa của biểu tượng, vì vậy, cần gắn chặt với đề tài. Trong các

bài ca dao khác nhau thuộc cùng một đề tài, nghĩa của biểu tượng là ổn định, song

không phải hoàn toàn bất biến. Biểu tượng có thể mang nhiều nghĩa có liên hệ gần gũi

với nhau. Đây cũng là nguyên nhân tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ ca dao và sự

đặc sắc của các văn bản có cùng đề tài, cùng biểu tượng. Đề tài được thể hiện sống

động, sáng tạo nhờ vào quá trình phát sinh nghĩa mới ở biểu tượng.

Với kết cấu, cấu tứ ca dao, chúng tôi cũng tìm thấy sự chi phối của các biểu

tượng. Ở kết cấu song hành tâm lý, biểu tượng là những tế bào hạt nhân không thể

thiếu. Biểu tượng nằm trong bức tranh thứ nhất, tạo một bệ phóng cần thiết để bức

tranh thứ hai đến với người tiếp nhận một cách tự nhiên, thuyết phục hơn. Trong kết

cấu đối thoại, biểu tượng hỗ trợ đắc lực cho việc xây dựng, tổ chức văn bản (về hệ

thống nhân vật, đại từ nhân xưng, đề tài đối thoại...)- Biểu tượng còn có chức năng

thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thống". Trong nhiều bài ca dao, từ

biểu tượng đã hình thành nên cấu tứ chính của tác phẩm, hoặc cũng có khi biểu tượng

giữ vai trò là một yếu tố hợp thành cấu tứ.

Nói tóm lại, các biểu tượng, bằng nhiều cách thức, ở nhiều mức độ, đã thâm

nhập vào cốt lõi chính của bài ca dao, góp phần tổ chức các yếu lố nội dung và hình

thức trong tác phẩm. Các công thức thực sự đã mang lại giá trị phong phú cho văn học

dân gian, mà biểu tượng trong ca dao là một bằng chứng thuyết phục.

6.Với bảng danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người

Việt, chúng tôi đã giới thiệu 286 biểu tượng cùng với các nhóm, các biến thể của biểu

tượng. Đây là một thể nghiệm bước đầu trong loại công trình nghiên cứu này. VI vậy,

số lượng các biểu tượng, các nét nghĩa cơ bản của biểu tượng có thể còn cần phải điều

chỉnh, bổ sung thêm. Bảng thống kê tần số xuất hiện của sự vật, hiện tượng được dân

gian chọn làm biểu tượng nhằm bước đầu phác họa một bức tranh chung về thực tế sử

dụng biểu tượng trong ca dao. Các biểu tượng có tần suất cao được chúng tôi đặc biệt

chú ý và dành cho sự nghiên cứu thích đáng.

7.Trong thời đại ngày nay, toàn cầu đang rất quan tâm đến vấn đề hội nhập giữa

các nền văn hóa. Hội nhập, hòa nhập nhưng không hòa tan. Tìm đến với cái chung

nhưng không xóa bỏ bản sắc riêng trong nền văn hóa của mỗi dân tộc. Tìm về thế giới

biểu tượng ca dao là tìm về với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt

Nam. Hiện nay, khi mà quá trình sáng tác, diễn xướng ca dao ngày càng bị thu hẹp

dần, các biểu tượng cũng theo đó mà ít có dịp được "sống" thực sự. Sự tồn tại của biểu

tượng ca dao hiện tại chủ yếu là bằng ngôn từ viết trên các văn bản đã được ghi chép.

Trong tình hình đó, việc khảo sát và giới thiệu một cách có hệ thống các biểu tượng

nghệ thuật ca dao của luận án này có thể có những đóng góp thiết thực đối với sự

nghiệp gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta.

Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận thấy có nhiều vấn đề cần được tiếp tục

nghiên cứu thấu đáo hơn nữa. Đó là: tìm hiểu từng nhóm biểu tượng, từng biểu tượng

cụ thể về nhiều mặt (nguồn gốc, cơ chế hình thành, nội dụng ý nghĩa, chức năng ...);

tìm hiểu hệ thống biểu tượng ca dao ở từng địa phương; tìm hiểu những biểu tượng về

tình yêu lứa đôi, về người phụ nữ, người nông dân tìm hiểu sự vận động, phát triển

của biểu tượng ca dao trong các tác phẩm văn học viết hiện đại... Những công trình

này rất cần thiết trong việc khẳng định giá tri mỹ học của biểu tượng, nhấn mạnh bản

chất nghệ thuật của ca dao, bổ sung thêm những nét đẹp độc đáo cho thi pháp ca dao

và thi pháp văn học dân gian, tô đậm mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học

viết. Với một đối tượng nghiên cứu phức tạp như biểu tượng ca dao, phương pháp tiếp

cận liên ngành cũng cần được chú trọng đặc biệt để nâng cao hiệu quả của các công

trình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trần Thị An (1990), "về một phương diện nghệ thuật của ca dao tình yêu", Tạp

chí Văn học, (6), tr.54-59.

2.Toan Ánh (1968), Làng xóm Việt Nam, Sài Gòn xuất bản.

3.Toan Ánh (1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội.

4.Nhan Bảo, "Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt

Nam", Tạp chí Văn học, (9), tr.37-43.

5.Trương Duy Bích (1986), "Từ hình tượng con rồng nghĩ về sự tiếp nối giữa

truyền thống và hiện đại", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.38-40.

6.Duy Bình (1983), Dạy văn, dạy cái hay cái đẹp, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7.Phan Kế Bính (1974), Việt Nam phong tục, Phong trào Văn hóa xuất bản, Sài

Gòn.

8.Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Giáo dục chuyên

nghiệp, Hà Nội.

9.Nguyễn Phương Châm (2001), "Hoa hồng trong ca dao", Tạp chí Nguồn sáng

dân gian (1), tr.30-34.

10.Hà Châu (1974), "Tục ăn trầu và sinh hoạt tình thần của người Việt", Tạp chí

Dân tộc học, (2), tr.7-19.

11.Hà Châu (1984), "Về một số quan điểm thẩm mỹ dân gian Việt Nam", Tạp

chí Văn hóa dân gian, (1), tr.53-54.

12.Ngọc Châu (2000), "Triết lý trong huyền thoại",.Tạp chí Nguồn sáng (số

Xuân Canh Thìn), tr. 12-25.

13.Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao,Võ Văn Trực (1996), Kho tàng ca dao xứ

Nghệ, NXB Nghệ An.

14.Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

15.Mai Ngọc Chừ (1991) "Ngôn ngữ ca dao Việt Nam", Tạp chí Văn học, (2),

tr.24-28.

16. Nguyễn Ngọc Chương (1990), Trầu cau Việt điện thư, Sở Văn hóa thông tin

Hà Nam Ninh xuất bản.

17.Chu Xuân Diên (1981), "về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian", Tạp

chí Văn học, (5), tr. 19-26.

18.Chu Xuân Diên , Lương Văn Đang, Phương Trí (1993), Tục ngữ Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

19.Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian và phương pháp nghiên cứu liên

ngành. Tủ sách Đại học Tổng hợp Tp.HCM xuất bản.

20.Chu Xuân Diên (1997), "Các thể loại trữ tình dân gian", Văn học dân gian

Việt Nam, tr.410-499.

21.Chu Xuân Diên (1997), "Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa

dân gian", Tạp chí Văn học, (9), tr.22-30.

22.Xuân Diệu (1967), "Các nhà thơ học tập những gì ở ca dao?", Tạp chí Văn

học, (1),tr.49-59.

23.Ngô Văn Doanh, Vũ Quang Thiện (1997), Phong tục các dân tộc Đông Nam

Á, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

24.Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và tục

ngữ Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.

25.Phan Huy Dũng (1991), "Hình thức lấp lửng của lời tỏ tình trong bài ca Xin

áo", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.53-54.

26.Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, NXB Hà Nội.

27.Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

28.Triệu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu hà (1972), Ca dao, ngạn ngữ Hà

Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản.

29.Cao Huy Đỉnh (1966), "Lối đối đáp trong ca dao trữ tình", Tạp chí Văn học,

(9), tr.10-14.

30.Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

31.Nguyễn Kim Đính (1985), "Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn

từ", Tạp chí Văn học, (5, 6), tr. 102-112.

32.Kim Định (1967), Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, Thanh Bình xuất

bản, Sài Gòn.

33.Kim Định (1971), Triết lý cái đình, Nguồn Sáng xuất bản, Sài Gòn.

34.Kim Định (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Nguồn Sáng xuất bản, Sài

Gòn.

35.Lê Quý Đôn (1973), Việt Nam bách khoa toàn thư- Vân Đài loại ngữ, NXB.

Miền Nam.

36.Trình Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc

trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.

37.Tạ Đức (1989), Tình yêu trai gái Việt xưa, NXB Thanh niên, Hà Nội.

38.Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc, biểu tượng và ngôn

ngữ Đông Sơn, Hội Dân tộc học Việt Nam xuất bản, Hà Nội.

39.Nguyễn Thị Đức (1998), Văn hóa trang phục từ truyền thống đến hiện đại,

NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

40.Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị, Trần Tấn Vĩnh (1984),

Ca dao- dân ca Nam bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

41.Nguyễn Thạch Giang, Lữ Huy Nguyên (1999), Từ ngữ điển cố văn học, NXB

Văn học, Hà Nội.

42.Ninh Viết Giao (1997), Câu đố Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

43.V.E. Guxev (1998), Mỹ học folklore, NXB Đà Nẵng.

44.Lê Bá Hán, Trần Đinh Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật

ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

45.Nguyễn Đức Hạnh (2001), "Một số biểu tượng thơ dân gian trong thơ Việt

Nam hiện đại", Tạp chí Văn học, (3), tr.71-78.

46.Vũ Tố Hảo (1986), "Tìm hiểu một số trường hợp dùng chữ Hán và điển tích

trong ca dao - dân ca", Tạp chí Văn hóa dân gian(2), tr. 13-18.

47.Nguyễn Văn Hậu (2000), "Biểu tượng như là "đơn vị cơ bản" của văn hóa",

Tạp chí Văn hóa và nghệ thuật, (7), tr.24-30.

48.G.W.Hegel (1996), Mỹ học - Những văn bản chọn lọc, NXB Khoa học xã

hội, TP.HCM.

49.G.W.Hegel (1999), Mỹ học , 2 tập, NXB Văn học , Hà Nội.

50.Lưu Hiệp (1997), Văn tâm điêu long, NXB Văn học, Hà Nội.

51.Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Ca dao - tục ngữ, NXB Văn nghệ

Tp.HCM.

52.Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên (1993), Ca dao - dân ca tình yêu, NXB Thành

phố Hồ Chí Minh.

53.Nguyễn Thị Cúc Hoa (1996), Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Bính, Luận

án thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.

54.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), "Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tình thần

người Việt qua thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr. 15-21.

55.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), "Biểu tượng đôi giày trong văn hoa và ngôn

ngữ thơ ca" Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr. 52-59,

56.Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu

thuyết cổ Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.

57.Kiều Thu Hoạch (2001), "So sánh tip truyện Trầu Cau ở Trung Quốc với tip

truyện cùng loại ở Việt Nam và Campuchia bàn về tục ăn trầu và văn hóa quyển trầu

cau Đông Nam Á", Tạp chí Văn học, (4), tr.33-40.

58.Nguyễn Trọng Hoàn (199), "Vẻ đẹp của bài ca dao sông nước", Tạp chí Văn

hóa dân gian, (2), tr.62.

59.Trần Hoàng và các tác giả khác (1988), Văn học dân gian Bình Trị Thiên : ca

dao - dân ca, NXB Thuận Hóa, Huế.

60.Đặng Trọng Hộ (1997), Hồn thơ Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính, Luận án

thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.

61.Đào Văn Hội (1961), Phong tục Miền Nam qua mấy vần ca dao, NXB Khai

Trí, Sài Gòn.

62.Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (1986), Nguyễn Bính thơ,

NXB Văn học, Hà Nội.

63.Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1996), Góp phần nâng cao chất lượng sưu

tầm, nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

64.Nguyễn Thúy Hồng (1997), "Việc sử dụng điển cố Hán học trong Chinh phụ

ngâm nguyên tác và bản dịch hiện hành", Tạp chí Văn học, (1), tr.44-47.

65.Vi Hồng (1992), "Dạy và học văn ỏ miền núi", Tạp chí Văn học, (2), tr.74-77.

66.Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB Khoa học

xã hội, HàNội. "

67.Bùi Công Hùng (1988), "Biểu tượng thơ ca", Tạp chí Văn học, (1), tr.69-74.

68.Nguyễn Văn Hùng (1990), "Thử phân tích một câu ca dao", Tạp chí Văn hóa

dân gian, (3), tr.28. .

69.Nguyễn Văn Hùng (1991), Hình tượng khăn, nón, áo trong ca dao - dân ca

Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.

70.Nguyễn Văn Huyên (1995-1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

71.Jean Chévalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, NXB Đà Nẵng.

72.V.N.K (1989), "Bác Hồ với trầu cau", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.32.

73.Đinh Gia Khánh chủ biên (1977), Điển cố văn học, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

74.Đinh Gia Khánh (1990), "Ngôi đình làng với mối quan hệ giữa Nho giáo và

văn hóa dân gian", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.61-65.

75.Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa

Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

76.Trúc Khê (1944), "Ba thể phú, tỉ, hứng trong ca dao Việt Nam", Tạp chí Tri

Tân, (147), tr. 14-15.

77.Khoa Ngữ văn Đại học cần Thơ (1997), Văn học dân gian đồng bằng sông

Cửu Long, NXB Giáo dục, TP.HCM.

78.M.B. Khraptrenkô (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

79.Lê Minh Kiệp (1991), Con thuyền trong ca dao - dân ca Việt Nam, Luận văn

tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.

80.Nguyễn Xuân Kính (1990), "Qua tục ngữ, ca dao tìm hiểu sự sành ăn khéo

mặc của người Thăng Long Hà Nội", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.27-29.

81.Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

82.Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên(1995), Kho tàng ca dao

người Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

83.Nguyễn Xuân Lạc (1990), "Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng

Bác Hồ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.23-29.

84.Nguyễn Xuân Lạc (1992), "Suy nghĩ về cách tiếp cận một bài ca dao", Tạp

chí Văn hóa dân gian, (4), tr. 11-17.

85.Nguyễn Xuân Lạc (1994), "Môtip nghệ thuật dân gian: Cái cầu trong ca dao",

Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.74-75.

86.Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường,

NXB Giáo dục, TP.HỒ Chí Minh.

87.Nguyễn Thị Hương Lài (2000), Màu sắc địa phương trong ngôn ngữ ca dao -

dân ca Nam bộ, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.

88.Mã Giang Lân, Nguyễn Đinh Bưu (1976), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty Văn

hóa Hà Bắc xuất bản.

89.Mã Giang Lân (2000), "Chữ và nghĩa trong thơ" , Tạp chí Văn học, (4), tr.25-

30.

90.Nguyễn Lân (1989), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Tp.Hồ Chí Minh.

91.Duy Lập (1985), "Thử vận dụng ký hiệu học vào việc phân tích một bài thơ

của Hồ Chủ tịch", Tạp chí Văn học, (3), tr.20-24.

92.I.s. Lisevich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trần Đình Sử

dịch,Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM xuất bản.

93.Đoàn Anh Loan (2000), "Ảnh hưởng của quan niệm thâm mỹ cô phương

Đông trong việc sử dụng điển cố", Tạp chí Văn học, (3), tr.70-74.

94.Nguyễn Lộc (chủ biên) (1990), Văn học 10- tập I - Sách giáo viên, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

95.Nguyễn Lộc (1997), "Văn hóa Trung Hoa và ca dao - dân ca Việt Nam". Tạp

chí Văn học, (9), tr. 15-21.

96.Ưng Luận (1995-1996), Ca dao xứ Huế bình giải, Sở Văn hóa thông tin Thừa

Thiên - Huế xuất bản.

97.Phương Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây

hiện đại, NXB. Giáo dục.

98.Đặng Thai Mai (1994), Xã hội sử Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

99.Long Điền Nguyễn Văn Minh (1999), Từ điển văn liệu, NXB Hà Nội.

100.Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của' hình tượng thiên nhiên

trong ca dao Nam Bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (2), tr.72-75.

101.Trần Văn Nam (1999), "Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao

– dân ca Nam bộ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.65-70

102.Hà Quang Năng (2001), "Đặc trưng của phép ẩn dụ trong ca dao Việt Nam",

Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr. 8-16.

103.Tăng Kim Ngân (1984), "Qua tục ăn trầu và truyện Trầu cau của người Việt

bàn về mối quan hệ anh em, vợ chồng", Tạp chí Văn hóa dân gian, (1), tr.67-71.

104.Trần Công Nghị (1964), "Tình yêu qua miếng trầu", Tạp chí Phổ thông,

(129), tr.66-69.

105.Hữu Ngọc chủ biên (1995), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế

giới, Hà Nội.

106.Nguyễn Văn Ngọc (1928), Tục ngữ phong dao, NXB Vĩnh Hưng Long.

107.Trần Đức Ngôn (1990), "Một số vấn đề lý luận'chung quanh việc nghiên cứu

văn bản văn học dân gian", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr. 16-19.

108.Nguyễn Trần Hạnh Nguyên (1998), So sánh nghệ thuật trong ca dao - dân

ca trữ tình Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư phạm

Tp.HCM.

109.Trương Thị Nhàn (1991), "Giá trị biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể

nhân tạo trong ca dao cổ truyền Việt Nam", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.46-52.

110.Trương Thị Nhàn (1992), "Tìm hiểu ngồn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín

hiệu thẩm mỹ", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr. 18-21.

111.Trương Thị Nhàn (1995), “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ

không gian trong ca dao”, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.

112.Phùng Quý Nhâm (1996), "Vấn đề bản sắc dân tộc trong văn học", Kỷ yếu

khoa học khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tr.175-183.

113.Phan Đăng Nhật (1981), Quá trình hình thành biểu tượng bọc thai chung,

Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.

114.Phan Đăng Nhật, Tô Đông Hải (1987), "Con thuyền trong ca dao Việt

Nam", Báo Văn nghệ, Hà Nội, (6), tr. 15.

115.Bùi Mạnh Nhị (1984), "Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao - dân ca Nam

bộ", Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr.26-32.

116.Bùi Mạnh Nhị (1988), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo dục

An Giang xuất bản.

117.Bùi Mạnh Nhị (1998), "Thời gian nghệ thuật trong ca dao - dân ca trữ tình",

Tạp chí Văn học, (4), tr.30-36.

118.Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (1999), Văn học dân

gian - Những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

119.Nhiều tác giả (1985), Từ điển văn học, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

120.Nhóm Lam Sơn (1963), Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa, NXB Văn học, Hà

Nội.

121.A.M. Nôvicôva (1983), Sáng tác thơ ca dân gian Ngư, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

122.Vũ Ngọc Phan (1976), Qua những trang văn, NXB Văn học, Hà Nội.

123.Vũ Ngọc Phan (1992), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Hội Nghiên cứu

và giảng dạy văn học Tp.HCM xuất bản.

124.Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

125.Đông Phong (1998), về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Mũi Cà

Mau.

126.Thuần Phong (1957), Ca dao giảng luận, NXB Á Châu, Sài Gòn.

127.Thuần Phong (1957), "Đất nước trong ca dao", Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn,

(17), tr.34-35, (18), tr.36-41, (19), tr.40-48.

128.Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Ca dao Nam Trung bộ, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

129.Lê Thị Hồ Quang (2001), "Mùa thu còn là một biểu tượng thời gian trong

con mắt Xuân Diệu", Tạp chí Ngôn ngữ, (15), tr.48-51.

130.Nguyên Tử Quang, (1993), Điển hay tích lạ, NXB Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.

131.Lê Chí Quế (1990), "Các thể loại trữ tình dân gian", Văn học dân gian Việt

Nam của Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ biên soạn, tr.260-295.

132.Hoàng Sỹ Quý (1980), "Tục ăn trầu trên thế giới", Tạp chí Phương Đông,

Sài Gòn, (8 và 9), tr. 109- 121.

133.Hoàng Sỹ Quý (1980), "Về một số phong tục chung có ở các dân tộc miền

Đông Nam Á", Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.77-80.

134.Vũ Tiến Quỳnh (1995), Ca dao - Tục ngữ, NXB Văn nghệ, Tp.Hồ Chí

Minh.

135.Rô-lăng Bác-tơ (1997), Trí tưởng tượng của tín hiệu, Tài liệu dịch và đánh

máy, Thư viện Khoa học xã hội, Hà Nội,

136.F;D.Saụssure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

137.Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

138.Lê Văn Siêu (1993), Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, NXB Mũi Cà

Mau.

139.Sở Văn hóa và thông tin Vĩnh phú (1986), Văn hóa dân gian vùng đất tổ.

140. Phạm Côn Sơn (1994), Cau trầu đầu chuyện, NXB Đồng Tháp.

141.Trần Đình Sử, Phương Lựu (1986 - 1987), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

142.Trần Đình Sử (1993), "Những tìm tòi mới về thi pháp ca dao", Tạp chí Văn

hóa dân gian, (2), tr.43-45.

143.Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm

Tp.HCM xuất bản.

144.Trần Đình Sử (1996), "Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học", Tạp chí Văn học,

(1), tr.31-35.

145.Hà Công Tài (1988), "Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian", Tạp chí Văn

học, (5-6), tr.65-68.

146.Hà Công Tài (1991), "Hiện tượng ca dao trong lịch sử thơ ca tiếng Việt",

Tạp chí Văn học, (1), tr.30-33.

147.Hà Công Tài (1994), "Hình tượng ẩn dụ - một dạng thức độc đáo của hình

tượng thơ ca", Tạp chí Văn học, (4), tr.41-42.

148.Hà Công Tài (1997), "Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ", Tạp chí Văn học, (5),

tr.44- 47.

149.Đỗ Văn Tân (1984), Ca dao Đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa thông tin Đồng

Tháp xuất bản.

150.Vũ Mạnh Tần (1991), "Không - thời gian nghệ thuật trong một bài ca dao",

Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.55-56.

151.Hoài Thanh (1970, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

152.Nhất Thanh (1970), Đất lề quê thói, Cơ sở ấn loát Đường Sáng, Sài Gòn.

153.Phan Xuân Thành (1990), "Tính biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt", Tạp

chí Văn hóa dân gian, (3), tr.36-37.

154.Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam bộ - Những phác

thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.

155.Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

156.Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Đại học Tổng hợp

Tp.HCM xuất bản.

157.Hồng Thiên (1959), "Tục trầu cau đối với người Việt Nam", Văn hóa

Nguyệt san, Sài Gòn, (38), tr.110-111.

158.Huệ Thiên (2000), "Con rồng chẳng qua là con cá sấu lên đời", Kiến thức

ngày nay, (số Xuân Canh Thìn), tr.44-48.

159.Phan Thiều, Nguyễn Quốc Túy, Nguyễn Thanh Tùng (1983), Giảng dạy từ

ngữ ở trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.

160.Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1990), Quan niệm về folklore, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

161.Nguyễn Đăng Thục (1961), Văn hóa Việt Nam với Đông Nam Á, Văn hóa Á

Châu xuất bản, Sài Gòn.

162.Nguyễn Đăng Thục (1964), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, NXB Khai Trí,

Sài Gòn.

163.Nguyễn Bích Thúy (1998), "Thủ pháp tượng trưng, một trong những đặc

trưng thi pháp thơ tình R. Tagore", Kỷ yếu khoa học khoa Ngữ văn, Trường Đại học

Sư phạm Tp.HCM xuất bản, tr. 187-192.

164.Thư viện Viện Văn hóa dân gian, Chuyện hoang đường về cây mọc cạnh

nhau, Tài liệu dịch lưu trữ.

165.Lê Huy Tiêu (1993), Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

166.Trương Xuân Tiếu (1992), "Tìm hiểu định hướng thẩm mỹ trong một bài ca

dao", Tạp chí Văn hóa dân gian, (3), tr.76-78.

167.Tổ Văn học dân gian (Viện Văn học) (1964), Truyện cổ dân gian các dân

tộc Việt Nam, tập in, NXB Văn học, Hà Nội.

168.Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

169.Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

170.Đỗ Bình Trị (1997), Văn bản văn học dân gian và việc phân tích tác phẩm

văn học dân gian trong nhà trường phổ thông, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM

xuất bản.

171.Hà Bình Trị (1990), "Bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính", Tạp chí Văn

hóa dân gian, (3), tr. 13-14.

172.Hoàng Trình (1973), "Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học", NXB Văn học,

Hà Nội.

173.Hoàng Trình (1986), Đối thoại văn học, NXB Hà Nội.

174.Hoàng Trình (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.

175.Hoàng Trình (1997), "Từ hỗn mang đến trật tự: Vai trò liên ngành của ký

hiệu học", Tạp chí Văn học, (I), tr.9-10.

176. Nguyễn Viết Trung (2000), "Gốc tích rồng Việt", Báo Tuổi trẻ, (số Xuân

Canh Thìn), tr.38.

177. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I (1982), Giảng văn, tập I.

178.Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại

học và Trang học chuyên nghiệp, Hà Nội.

179.Nguyễn Quảng Tuân (2000), "Con rồng trong mỹ thuật Việt Nam", Kiến

thức ngày nay, (số Xuân Canh Thìn), tr.28-30.

180.Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn văn học dân gian Việt

Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

181.Nguyễn Quốc Túy (1992), "Thử tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian

đối với thơ mới", Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.33-39.

182. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy nghiên cứu

văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

183. Hoàng Tiến Tựu (1992), Bình giảng ca dao, NXB Giáo dục, Hà Nội.

184. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

185.Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

186.Phan Thị Bích Vân (1997), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ

tình cổ truyền Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư Phạm

TP.HCM.

187.Chế Lan Viên (1984), "Hồn nhiên và công thức", Tạp chí Văn học, (1),

tr.94-103.

188.Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

189.Lê Trí Viễn (1998), "Đôi nét về thẩm mỹ Việt Nam", Tạp chí Văn học, (4),

tr.5-13.

190.Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian - Những lĩnh vực nghiên

cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

191.Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian - Những phương pháp

nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

192.Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

193.Nguyễn Khắc xương (1999), "Chợ phong tục trong văn hóa làng", Tạp chí

Nguồn Sáng, tr.23.

94.Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1994), Từ điển giãi

thích thành ngữ gốc Hán, NXB Văn hóa, Hà Nội.

195.Phạm Thu Yến (1996), "Tính dân tộc và phép "đối ngẫu tâm lý" trong thơ ca

trữ tình dân gian", Tạp chí Văn học, (3), tr.57-59.

196.Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

197.Phạm Thu Yến (1999), "Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian",

Tạp chí Văn học, (4), tr.35-40

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO

TRUYỀN THONG NGƯỜI VIỆT

QUI CÁCH TRÌNH BÀY

Danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt được

chúng tôi sắp xếp theo trật tự chữ cái của tiếng đầu trong tên gọi biểu tượng, đánh số

theo thứ tự từ đầu đến cuối. Để người đọc tiện theo dõi, chúng tôi cố gắng xếp các

biểu tượng cùng nhóm đi gần với nhau. Tất nhiên cũng có một số ít trường hợp không

thể làm như vậy do tên gọi của biểu tượng chi phối. Mỗi biểu tượng chúng tôi lựa

chọn hai hoặc ba ví dụ, qua đó, các biến thể cũng được thể hiện rõ. Thành lập bảng

danh mục này, chúng tôi chủ yếu giới thiệu với người đọc số lượng phong phú của các

nhóm biểu tượng, các biểu tượng, các biến thể cùng với các phạm trù, các mối quan hệ

được khai thác ở cái biểu đạt của biểu tượng. Phần nội dung ý nghĩa của biểu tượng

chúng tôi chỉ bước đầu phác họa, có thể chưa thật đầy đủ, chính xác vì điều kiện thời

gian có hạn.

Danh mục này chưa phải là toàn bộ hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao

truyền thống người Việt mà chỉ mới bao gồm những biểu tượng tiêu biểu nhất. Do

phải bao quát một khối lượng tư liệu lớn nên có lẽ chúng tôi khó tránh khỏi những sai

sót. Rất mong được quý thầy cô, quý bạn đọc góp ý để bảng danh mục ngày càng

hoàn chỉnh hơn .