BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ TUYẾT

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỐ THU THUẾ

CỦA CÁC NƢỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH THẤP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ TUYẾT

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỐ THU THUẾ

CỦA CÁC NƢỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH THẤP

Chuyên ngành: Tài Chính- Ngân Hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. LÊ QUANG CƢỜNG

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn: “Các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc

thu nhập trung bình thấp” là công trình nghiên cứu riêng cá nhân tôi.

Các thông tin đƣợc sử dụng trong luận văn đƣợc trích dẫn rõ ràng, nội dung tài liệu

trích dẫn đều đƣợc ghi nhận đầy đủ ở phần Tài liệu tham khảo. Số liệu sử dụng

trong bài nghiên cứu đƣợc chính tác giả thu thập là hoàn toàn trung thực và kết quả

của bài nghiên cứu chƣa từng đƣợc công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào

khác.

TP.HCM, tháng 7 năm 2017

Học viên

Bùi Thị Tuyết

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC HÌNH

DANH MỤC CÁC BẢNG

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

MỤC LỤC ................................................................................................................... 4

CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1.1 Giới thiệu lý do chọn đề tài ............................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2

1.3 Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu ........................................... 2

1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 2

1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu ...................................................................... 3

1.6 Cấu trúc nghiên cứu ........................................................................................... 3

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

THỰC NGHIỆM ......................................................................................................... 4

2.1 Mô hình và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây .......................................... 4

2.2 Một số yếu tố ảnh hƣởng đến số thu thuế ........................................................ 12

2.2.1 Các yếu tố kinh tế ...................................................................................... 12

2.2.2 Các yếu tố về thể chế ................................................................................. 14

2.2.3 Các yếu tố về nhân khẩu học và xã hội ..................................................... 18

2.2.4 Các yếu tố khác ......................................................................................... 20

CHƢƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................................. 22

3.1 Dữ liệu ............................................................................................................. 22

3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 23

3.2.1 Tổng quan phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................... 23

3.2.2 Mô hình nghiên cứu .................................................................................. 25

3.3 Trình tự tiến hành phƣơng pháp định lƣợng .................................................... 30

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 32

4.1 Thống kê mô tả ................................................................................................ 32

4.2 Phân tích bằng đồ thị ....................................................................................... 35

4.3 Phân tích ma trận hệ số tƣơng quan ................................................................. 44

4.4 Hồi quy theo các phƣơng pháp OLS, FE, RE .................................................. 46

4.5 Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến ................................................................. 48

4.6 Kiểm tra hiện tƣợng tự tƣơng quan ................................................................. 49

4.7 Kiểm tra hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi trong mô hình RE .......................... 50

4.8 Kết quả hồi quy bằng phƣơng pháp DGMM ................................................... 50

CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN ........................................................................................ 60

5.1 Kết luận ............................................................................................................ 60

5.2 Một số giải pháp và kiến nghị .......................................................................... 60

5.3 Những hạn chế và hƣớng phát triển của đề tài ................................................ 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 65

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1: Số thu thuế/GDP trung bình theo quốc gia giai đoạn 2002 - 2014 ........... 32

Hình 4.2: Số thu thuế/GDP trung bình theo năm trong giai đoạn 2002 - 2014 ........ 33

Hình 4.3: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và thu nhập bình quân đầu ngƣời ..... 36

Hình 4.4: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và độ mở thƣơng mại ....................... 37

Hình 4.5: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ......... 37

Hình 4.6: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nông nghiệp ................................. 38

Hình 4.7: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và công nghiệp ................................. 38

Hình 4.8: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và lạm phát ....................................... 39

Hình 4.9: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền tự do dân sự ...................... 39

Hình 4.10: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền chính trị ........................... 40

Hình 4.11: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ đi học ................................. 40

Hình 4.12: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tuổi thọ ...................................... 41

Hình 4.13: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ tử vong ở trẻ em ................ 41

Hình 4.14: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và giá trị trễ một kì của thuế .......... 42

Hình 4.15: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và viện trợ ...................................... 42

Hình 4.16: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nợ công ...................................... 43

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Danh sách các quốc gia đƣợc lấy dữ liệu phân theo vùng địa lý ............. 22

Bảng 3.2: Tóm tắt các biến ....................................................................................... 27

Bảng 3.3: Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu............................................................ 29

Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến ............................................................................ 35

Bảng 4.2: Ma trận hệ số tƣơng quan ......................................................................... 44

Bảng 4.3 Kết quả ƣớc lƣợng bằng phƣơng pháp OLS, FE, RE ................................ 47

Bảng 4.4: Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến .......................................................... 49

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy DGMM ........................................................................... 51

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này đƣợc thực hiện để tìm hiểu về các yếu tố tác động đến phần trăm số

thuế thu đƣợc trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các quốc gia nhóm thu nhập

trung bình thấp giai đoạn 2002-2014. Các yếu tố đƣợc tác giả đƣa vào mô hình để

kiểm tra mối tƣơng quan với biến phụ thuộc bao gồm giá trị trễ của biến phụ thuộc,

GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tỷ trọng

giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công

nghiệp trong GDP, lạm phát, quyền chính trị, quyền tự do dân sự, tỷ lệ đi học, tuổi

thọ trung bình, tỷ lệ tử vong ở trẻ em, viện trợ, nợ công. Bộ dữ liệu thỏa tất cả các

kiểm định để áp dụng phƣơng pháp DGMM. Kết quả hồi quy cho thấy giá trị trễ của

biến phụ thuộc, GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, đầu tƣ trực tiếp nƣớc

ngoài, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP, quyền tự do dân sự,

tỷ lệ đi học, nợ công có tác động đồng biến với biến phụ thuộc. Ngƣợc lại, tỷ trọng

giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, lạm phát, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử

vong ở trẻ em, viện trợ có tác động nghịch biến với biến phụ thuộc. Nghiên cứu

không những khẳng định lại tác động của các biến truyền thống mà còn mở rộng mô

hình của Castro và Camarillo (2014) bằng việc thêm vào các yếu tố lạm phát, viện

trợ và nợ công. Các biến này đều có tác động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ

thuộc.

1

CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU

1.1 Giới thiệu lý do chọn đề tài

Đối với các thể chế Nhà nƣớc, thuế luôn đóng vai trò là nguồn thu chính cho ngân

sách các quốc gia để tài trợ cho hoạt động các cơ quan chính quyền, các chƣơng

trình chi tiêu của đất nƣớc nhƣ quốc phòng, phúc lợi xã hội, đầu tƣ phát triển…

Làm thế nào để tăng số thu thuế, phát triển dựa vào nguồn lực trong nƣớc nƣớc thay

vì nguồn viện trợ và nợ nƣớc ngoài là một đề tài đã đƣợc các nhà kinh tế nghiên cứu

từ lâu. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đã đƣợc tiến hành để xác định

các yếu tố có tác động đến số thu thuế đối với các nƣớc đang phát triển, trong đó dữ

liệu đƣợc chia thành các mẫu con gồm các nƣớc thu nhập thấp, thu nhập trung bình

và thu nhập cao để xem xét. Trải qua vài thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã tìm ra

nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy tác động của các yếu tố kinh tế, thể chế, xã

hội và các yếu tố khác đến số thu thuế/GDP. Nhƣ vậy, đề tài xác định các yếu tố tác

động tới nguồn thu từ thuế và tăng năng lực thuế của các quốc gia vẫn luôn dành

đƣợc sự quan tâm của các nhà kinh tế, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển.

Hầu hết giai đoạn thu thập mẫu của các nghiên cứu này đều trƣớc năm 2007, từ đó

đến nay đã có một số quốc gia bƣớc từ nhóm các nƣớc thu nhập thấp sang nhóm các

nƣớc thu nhập trung bình nhƣ Bangladesh, Bhutan, Cambodia, Cameroon, Cote

d’ivoire, Ghana, India, Kenya, Laos, Mongolia, Moldova, Myanmar, Nigeria, São

Tomé and Príncipe, Tajikistan, Uzbekistan, Việt Nam… Vấn đề trên có thể tạo ra

những thay đổi nhất định liên quan đến kết quả nghiên cứu.

Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả thực hiện đề tài: “Các yếu tố tác động đến số

thu thuế của các nƣớc thu nhập trung bình thấp” với kì vọng xác định đƣợc chiều

hƣớng tác động của các yếu tố đƣợc xem xét đến phần trăm số thu thuế trong tổng

sản phẩm nội địa của các quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp nói chung

và Việt Nam nói riêng. Từ đó, tác giả cũng kì vọng tạo đƣợc nền tảng cho việc ra

quyết định liên quan đến chính sách thuế của các cơ quan quản lý các quốc gia

nhằm tăng thu ngân sách.

2

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

- Xác định các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập

trung bình thấp giai đoạn 2002-2014.

- Xác định chiều hƣớng tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập

trung bình thấp giai đoạn 2002-2014.

- Từ kết quả nghiên cứu, góp phần đƣa ra một số gợi ý và khuyến nghị nhằm cải

thiện số thu thuế cho các quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp nói chung

và Việt Nam nói riêng.

1.3 Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu

- Đối tƣợng nghiên cứu: Các quốc gia trong nhóm có thu nhập trung bình thấp theo

phân loại của World Bank năm 2017.

- Khung thời gian nghiên cứu: Xét trong giai đoạn 2002-2014.

- Phạm vi thu thập dữ liệu: Các quốc gia thu nhập trung bình thấp có đầy đủ dữ liệu

trên cơ sở dữ liệu của World Bank, Asian Development Bank, Freedomhouse trong

giai đoạn 2002-2014.

1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phƣơng pháp định lƣợng để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.

- Phƣơng pháp thống kê mô tả: so sánh kết hợp với các bảng biểu đồ thị để mô tả

bộ dữ liệu nghiên cứu.

- Phƣơng pháp hồi quy bội đƣợc sử dụng để xác định các yếu tố tác động đến số

thu thuế/GDP. Các tham số của mô hình hồi quy đƣợc ƣớc lƣợng bằng phƣơng

pháp DGMM (Difference Generalized Method of Moments) thực hiện trên phần

mềm STATA 12. Các bƣớc tiến hành nhƣ sau:

3

+ Hồi quy theo phƣơng pháp OLS, FE, RE, trong đó biến phụ thuộc là số thu

thuế/GDP, các biến độc lập là GDP bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại,

đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong

GDP, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP, lạm phát, quyền

chính trị, quyền tự do dân sự, tỷ lệ đi học, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong ở

trẻ em, viện trợ, nợ công.

+ Tiến hành kiểm định hiện tƣợng đa cộng tuyến, tự tƣơng quan, phƣơng sai

thay đổi sau khi hồi quy theo phƣơng pháp OLS, FE, RE.

+ Để khắc phục khiếm khuyết của mô hình, dữ liệu đƣợc hồi quy theo phƣơng

pháp DGMM, bổ sung biến giá trị trễ một kì của biến phụ thuộc.

+ Xem xét kiểm định AR, Sargan, Hansen và số biến công cụ để kết luận mức

độ phù hợp của mô hình.

1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu

Đƣa ra các yếu tố tác động đến số thu thuế của các nƣớc trong nhóm thu nhập trung

bình thấp giai đoạn 2002-2014, từ đó xác định đƣợc chiều hƣớng và mức độ tác

động của các yếu tố này, làm cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nƣớc đƣa ra các

giải pháp phù hợp để nâng cao số thu thuế.

1.6 Cấu trúc nghiên cứu

CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

THỰC NGHIỆM

CHƢƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN

4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

THỰC NGHIỆM

2.1 Mô hình và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây

Từ đầu những năm 70 của thế kỷ trƣớc, các nhà kinh tế đã đƣa ra các mô hình nhằm

xác định các yếu tố tác động đến số thu thuế theo phần trăm trong GDP (hoặc GNP)

của quốc gia. Mô hình cơ bản thƣờng đƣợc các nhà nghiên cứu sử dụng có dạng:

T/Y = f(Xi ... Xn, U)

Trong đó T là tổng số thu thuế, Y đại diện cho thu nhập (tổng sản phẩm nội địa

GDP hoặc tổng sản phẩm quốc dân GNP), T/Y là tỷ lệ phần trăm tổng số thu thuế

trong thu nhập. Xi (i = 1...n) đại diện cho các biến độc lập khác nhau dự kiến có ảnh

hƣởng đến tỷ lệ phần trăm tổng số thu thuế trong thu nhập và U là sai số.

Từ đó đến nay, đã có nhiều nghiên cứu mở rộng và phát hiện thêm nhiều yếu tố mới

về kinh tế, thể chế, xã hội có tƣơng quan với biến số T/Y. Đặc biệt trong hơn một

thập kỷ gần đây, hàng loạt các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình nghiên cứu sử

dụng các phƣơng pháp đem lại hiệu quả ƣớc lƣợng cao hơn nhƣ GMM, đào sâu vào

các khía cạnh chính trị, xã hội, đạo đức thuế cũng nhƣ so sánh nỗ lực thu thuế của

nhiều khu vực địa lý và nhóm thu nhập khác nhau trên thế giới.

Các nhà nghiên cứu này đã phát hiện các yếu tố chính có mối tƣơng quan với nỗ lực

thu thuế là trình độ phát triển, thƣờng đƣợc đại diện bằng tổng sản phẩm trong nƣớc

bình quân đầu ngƣời (Gupta, 2007; Pessino và Fenochietto, 2010), chuyên môn hóa

sản xuất, hoặc cấu trúc của nền kinh tế, có thể đƣợc phát hiện thông qua các thành

phần cấu thành của GDP (Piancastelli, 2001; Karagöz, 2013), các yếu tố bên ngoài

nhƣ mức độ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) và thƣơng mại (Cassou, 1997; Gupta,

2007; Bird et al, 2008.). Các yếu tố khác gồm có mức độ nợ công (Teera và

Hudson, 2004) và chính sách công, bao gồm tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát và

chính sách tài chính (Tanzi, 1988). Hiệu quả của chính phủ và các yếu tố thể chế

5

nhƣ sự ổn định chính trị, quyền tự do ngôn luận, dân chủ và quyền lực chính trị

cũng đƣợc coi là yếu tố quyết định số thu thuế (Bird et al, 2008; Martin-Mayoral và

Uribe, 2010). Một số nghiên cứu đã tìm hiểu tác động của biến xã hội nhƣ trình độ

học vấn - đƣợc đo theo chi tiêu công cho giáo dục hay tỷ lệ mù chữ (Pessino và

Fenochietto, 2010; Piancastelli, 2001) và tăng trƣởng dân số (Bahl và Wallace,

2005). Một số nghiên cứu nổi bật đƣợc trình bày tóm tắt nhƣ dƣới đây.

Piancastelli (2001) ƣớc lƣợng nỗ lực thu thuế ở 75 quốc gia bao gồm cả các quốc

gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1985/95. Các quốc gia lấy mẫu

đƣợc chia làm ba nhóm: 31 quốc gia thu nhập thấp, 19 quốc gia thu nhập trung bình

và 25 quốc gia thu nhập cao. Tác giả đề xuất biến phụ thuộc là phần trăm tổng số

thu thuế trong GDP, các biến độc lập gồm tổng sản phẩm quốc dân GNP bình quân

đầu ngƣời, thƣơng mại/GDP, nông nghiệp/GDP, công nghiệp/GDP, dịch vụ/GDP.

Ƣớc lƣợng thông qua Fixed effects và Random effects, kết quả đƣa ra gợi ý: thu

nhập bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng thƣơng mại trên GDP và tỷ trọng nông nghiệp

trong GDP là những biến phù hợp nhất để giải thích tỷ trọng thuế trên GDP. Trong

bài viết này, chỉ số nỗ lực về thuế cho bất kỳ quốc gia nào thƣờng đƣợc tính bằng tỉ

số của tỷ lệ thuế thực tế so với tỷ lệ dự đoán. Điều này chủ yếu phản ánh sự chênh

lệch về khả năng thu thuế của một quốc gia. Chỉ số nỗ lực thuế cao cho thấy một

quốc gia cụ thể đang thu thuế nhiều hơn dự đoán, với cơ cấu thuế và các điều kiện

kinh tế xã hội hiện tại. Việc so sánh tỷ trọng thuế trên GDP và nỗ lực thuế đƣợc

thực hiện giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển theo các nhóm thu nhập và các

châu lục khác nhau. Từ đó tác giả chỉ ra rằng hiệu suất thu thuế ở các nƣớc có thu

nhập trung bình thấp hơn ở các nƣớc thu nhập cao và các nƣớc thu nhập thấp.

Eltony (2002) sử dụng dữ liệu giai đoạn 1994 – 2000 của 16 nƣớc Arab. Biến đƣợc

giải thích là tỷ trọng thuế trong GDP, các biến giải thích đƣợc xem xét là thu nhập

bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng ngành nông nghiệp, khai thác mỏ, ngành sản xuất

trong GDP, tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu trong GDP và nợ nƣớc ngoài. Nghiên

cứu đã sử dụng mô hình Fixed effects và xác định các yếu tố tác động đến số thu

6

thuế là thu nhập bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng

khai thác mỏ trong GDP. Một số biến khác cũng khá quan trọng nhƣ tỷ trọng xuất

khẩu, nhập khẩu và nợ nƣớc ngoài. Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh rằng mô hình

đã thiếu sót khi không xét đến các yếu tố đặc biệt đặc trƣng cho từng quốc gia nhƣ

hệ thống chính trị, thái độ đối với chính phủ, chất lƣợng quản lý thuế và các yếu tố

thể chế khác. Qua quan sát chỉ số nỗ lực thuế, tác giả kết luận một số nƣớc Ả Rập

đã tăng đáng kể nỗ lực thu thuế trong các năm gần đây trong khi một số nƣớc khác

có dấu hiệu suy giảm. Các biện pháp tăng nỗ lực thuế sẽ ảnh hƣởng đến chính sách

tài khóa trong trƣờng hợp ngân sách bị mất cân bằng.

Agbeyegbe, Stotsky và WoldeMariam (2004) tìm bằng chứng thực nghiệm về

mối quan hệ giữa tự do hoá thƣơng mại, tỷ giá hối đoái và số thu thuế. Sử dụng dữ

liệu bảng của 22 quốc gia ở Châu Phi vùng hạ Sahara, trong giai đoạn 1980-1996,

các tác giả thực hiện phƣơng pháp Generalized Method of Moments (GMM) để

kiểm tra mối quan hệ này. Kết quả tìm thấy bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa

tự do hóa thƣơng mại (hay các cách đo lƣờng khác đƣợc sử dụng để đại diện cho tự

do hóa thƣơng mại) và số thu thuế là khá nhạy cảm, nhƣng nói chung, tự do hóa

thƣơng mại không liên quan chặt chẽ đến tổng số thu thuế hoặc các thành phần

trong tổng số thu thuế. Sự tăng giá tiền tệ và lạm phát cao hơn dẫn số thu thuế hoặc

thành phần của số thu thuế thấp hơn. Các kết quả này cho thấy sự nhất quán một

phần với những phát hiện trƣớc đây và ủng hộ quan điểm cho rằng tự do hóa thƣơng

mại kèm theo các chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp có thể đƣợc thực hiện theo

cách bảo toàn tổng thu nhập.

Gupta (2007) sử dụng dữ liệu bảng cho 105 quốc gia đang phát triển qua 25 năm.

Dự liệu các biến đƣợc lấy từ các nguồn nhƣ Government Financial Statistics (GFS),

WEO Economic Trends in Africa (WETA), International Financial Statistics (IFS)

và World Development Indicators (WDI). Trong đó, biến phụ thuộc thu ngân sách

của chính phủ trung ƣơng (% GDP) đƣợc phân tích thành các biến cụ thể hơn nhƣ

thuế từ hàng hóa và dịch vụ, thuế từ thu nhập, lợi tức và chuyển nhƣợng vốn, thuế

7

từ thƣơng mại, thuế từ xuất khẩu. Các biến độc lập bao gồm GDP bình quân đầu

ngƣời, % trong GDP của giá trị gia tăng ngành nông nghiệp, xuất khẩu, % trong

GNI của viện trợ và nợ, độ ổn định chính trị, ổn định kinh tế, tham nhũng, luật

pháp, ổn định của chính phủ và thuế suất trung bình. Bằng các phƣơng pháp

Difference - Generalized Method of Moments (Difference-GMM) và System -

Generalized Method of Moments (System-GMM), nghiên cứu xác định rằng các

biến cấu trúc nhƣ GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng nông nghiệp/GDP, độ mở

thƣơng mại và viện trợ nƣớc ngoài tác động mạnh tới số thu thuế. Nợ nƣớc ngoài

không có tác động đáng kể tới số thu thuế trong khi tham nhũng tác động mạnh tới

số thu thuế. Ngoài ra, nghiên cứu còn phát hiện ra rằng các quốc gia phụ thuộc vào

thuế hàng hóa và dịch vụ có số thu thuế khá thấp, trong khi các quốc gia dựa vào

thuế thu nhập, thuế lợi tức có số thu thuế tốt hơn rất nhiều. Báo cáo cũng sử dụng

chỉ số hiệu quả thu thuế và nhận thấy rằng trong khi một số quốc gia châu Phi thuộc

Tiểu vùng Sahara đang hoạt động tốt hơn tiềm năng của mình trong việc thu thuế thì

một số nền kinh tế Mỹ Latinh lại thiếu khả năng thu thuế.

Bird, Martínez-Vázquez và Torgler (2008), tiến hành nghiên cứu để trả lời câu

hỏi “Các quốc gia kém phát triển có thể học hỏi cách đánh thuế không?”. Nền tảng

của câu hỏi này là giả định rằng nếu một nƣớc muốn trở thành “phát triển”, nó cần

thu thuế ở mức gần 25-30% GDP so với 10-15% ở nhiều nƣớc đang phát triển. Sử

dụng mô hình OLS, 2SLS với biến phụ thuộc thể hiện nỗ lực thu thuế của các quốc

gia đƣợc đo lƣờng bằng tỷ trọng số thu thuế trong GDP, biến độc lập gồm các yếu

tố GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ trọng các ngành không phải nông nghiệp trong

GDP, các chỉ số đo lƣờng tiếng nói/ trách nhiệm giải trình và tham nhũng, biến

dummy để phân biệt các nƣớc Mỹ Latinh và các nƣớc đang phát triển khác. Báo cáo

chỉ ra rằng để cải thiện khả năng thu thuế, việc cải thiện tham nhũng, tiếng nói của

chính quyền và trách nhiệm giải trình có thể không mất nhiều thời gian và cũng

không khó khăn hơn là thay đổi cơ hội để xử lý thuế và cơ cấu kinh tế. Báo cáo

cũng kết luận các nƣớc có thu nhập cao có tiềm năng cải thiện hiệu quả thuế thông

qua cải thiện thể chế của mình. Sự đóng góp quan trọng của bài báo này là mở rộng

8

mô hình áp dụng thuế thông thƣờng bằng cách cho thấy rằng các yếu tố tham

nhũng, tiếng nói của chính quyền và trách nhiệm giải trình cũng xác định nỗ lực về

thuế ở mức độ đáng kể.

Mahdavi (2008) lập luận rằng cải cách thuế ở các nƣớc đang phát triển nhất thiết

phải bao gồm việc thay đổi mức thu nhập và/hoặc thành phần thuế. Theo lập luận

này, tác giả áp dụng các mô hình cho tổng số thu thuế và các thành phần của nó và

sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng của các nƣớc đang phát triển trong giai đoạn

1973-2002. Phát hiện chung cho thấy một số biến số ảnh hƣởng đến cả mức độ và

thành phần của tổng số thu thuế nhƣ quy mô của khu vực thƣơng mại quốc tế, tỷ lệ

dân số đô thị, tỷ lệ ngƣời lớn biết đọc biết viết, thu nhập bình quân đầu ngƣời, sự

gia tăng dòng chảy viện trợ, phần trăm dân số “già”, mật độ dân số, mức độ tiền tệ

hóa và tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, một số biến khác nhƣ phạm vi hoạt động kinh

tế của phụ nữ, mức độ bất ổn về kinh tế, cấp độ dân chủ và mức độ tham nhũng ảnh

hƣởng đến các thành phần của số thu thuế theo các hƣớng ngƣợc lại, làm cho hiệu

quả thuần của các biến này lên số thu không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt này

nhấn mạnh sự cần thiết trong việc lựa chọn các công cụ chính sách có thể ảnh

hƣởng đến các loại thuế riêng lẻ.

Pessino và Fenochietto (2010) trình bày một mô hình để xác định nỗ lực thuế và

khả năng thu thuế của 96 quốc gia và các yếu tố chính mà hai biến này phụ thuộc

vào. Tác giả sử dụng phƣơng pháp Maximum Likelihood Method cho 96 quốc gia

qua 16 năm, từ 1991 đến 2006. Biến đƣợc giải thích là tổng số thu thuế tính theo

phần trăm GDP đƣợc lấy từ World Bank. Các biến giải thích đƣợc lấy dữ liệu từ

World Bank và các nguồn đáng tin cậy khác, bao gồm: mức độ phát triển (GDP

bình quân đầu ngƣời), độ mở thƣơng mại (nhập khẩu và xuất khẩu theo phần trăm

GDP), tính dễ dàng trong việc thu thuế (giá trị gia tăng của nông nghiệp so với

GDP), trình độ giáo dục (chi tiêu công cho giáo dục theo phần trăm GDP), phân

phối thu nhập (hệ số GINI), lạm phát (chỉ số tiêu dùng CPI), tính không hiệu quả

trong việc thu thuế (chỉ số nhận thức tham nhũng TICPI). Kết quả nghiên cứu cho

9

phép các tác giả xác định rõ các quốc gia nào đang ở gần khả năng thu thuế và quốc

gia nào đang có khoảng cách xa so với tiềm năng thu thuế của mình và do đó vẫn

còn cơ hội tăng số thu thuế trong tƣơng lai. Nghiên cứu cũng chứng minh đƣợc các

phân tích trƣớc đây về mối quan hệ tích cực và quan trọng giữa số thu thuế tính theo

phần trăm trên GDP và mức độ phát triển, thƣơng mại và giáo dục. Nghiên cứu

cũng cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa thuế và lạm phát, phân phối thu nhập, tính

dễ thu thuế và tham nhũng.

Dioda (2012) nghiên cứu với mục đích là để mở rộng phạm vi thực nghiệm tìm

hiểu các nhân tố cấu trúc và dài hạn của số thu thuế bằng cách áp dụng mô hình

chuẩn cho các nƣớc Mỹ Latinh và Caribbean. Thông qua các phƣơng pháp kinh tế

lƣợng trên dữ liệu bảng, bài viết đánh giá ý nghĩa thống kê của một số nhân tố tiềm

năng tác động đến số thu thuế trên GDP, sử dụng dữ liệu từ 32 nƣớc Mỹ Latinh

trong giai đoạn 1990-2009. Phân tích định lƣợng tập trung chủ yếu vào việc kiểm

định các biến liên quan đến chính trị và lịch sử để hiểu đƣợc sự khác nhau trong số

thu thuế giữa các vùng. Biến phụ thuộc của mô hình bao gồm tổng số thu thuế theo

% của GDP, số thuế trực thu theo % GDP, số thuế gián thu theo % GDP. Các biến

độc lập gồm các biến kinh tế nhƣ GDP bình quân đầu ngƣời, tỷ lệ tăng trƣởng GDP

bình quân đầu ngƣời, % nông nghiệp trong GDP, độ mở thƣơng mại, thâm hụt các

năm trƣớc; các biến xã hội và nhân khẩu học nhƣ giáo dục trung học, % dân số trên

65 tuổi, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lƣợng lao động, tỷ lệ thành thị, mật độ dân số, tốc

độ tăng dân số, kinh tế ngầm; các biến thể chế nhƣ quyền tự do dân sự, quyền chính

trị, độ bền của chế độ, xung đột bên trong và xung đột bên ngoài, biến dummy xác

định liệu quốc gia có phải thuộc địa cũ của Anh và Hà Lan không. Kết quả chỉ ra

rằng các biến GDP bình quân đầu ngƣời và độ mở thƣơng mại có tác động đồng

biến đến số thu thuế và có ý nghĩa thống kê. Trong khi biến % nông nghiệp trong

GDP và quy mô kinh tế ngầm có tác động nghịch biến có ý nghĩa. Các biến nhân

khẩu học và xã hội có ý nghĩa thống kê bao gồm sự tham gia của lực lƣợng lao động

nữ, thành phần độ tuổi của dân số, trình độ học vấn cũng nhƣ mật độ dân số. Với

yếu tố thể chế, độ bền của chế độ và tự do công dân có tác động đồng biến với tổng

10

số thu thuế/GDP, trong khi quyền chính trị lại có tƣơng quan thuận mạnh với thuế

trực thu. Hơn nữa, tác giả cũng phát hiện ra rằng các yếu tố lịch sử và thể chế có thể

giải thích đƣợc sự khác nhau về thuế giữa các vùng.

Nguyễn Phi Khanh (2013) sử dụng dữ liệu bảng cho 7 quốc gia Đông Nam Á giai

đoạn từ 2000 đến 2012. Biến phụ thuộc đƣợc xem xét là số thu thuế/GDP, các biến

giải thích bao gồm thu nhập bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, tỷ trọng

ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành công nghiệp và lạm phát. Thông qua ƣớc lƣợng

OLS, Fixed effects và Random effects, tác giả đƣa ra kết luận: biến thu nhập bình

quân đầu ngƣời và độ mở thƣơng mại có ý nghĩa thống kê và là các nhân tố có ảnh

hƣởng đáng kể đến tổng số thu thuế. Tỷ trọng ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành

công nghiệp và lạm phát không tác động đến tổng số thu thuế/GDP.

Castro và Camarillo (2014) bằng cách sử dụng kỹ thuật dữ liệu bảng tĩnh và bảng

động, các tác giả phân tích tác động của kinh tế, cơ cấu sản xuất, thể chế và các yếu

tố xã hội đến số thu thuế, nghiên cứu trên 34 quốc gia thuộc tổ chức Hợp tác và phát

triển kinh tế OECD, giai đoạn 2001-2011. Biến phụ thuộc trong mô hình là số thu

thuế theo % GDP, các biến giải thích bao gồm: giá trị trễ một kì của số thu thuế

theo % GDP, mức độ phát triển (GDP bình quân đầu ngƣời), độ mở thƣơng mại

(nhập khẩu và xuất khẩu theo phần trăm GDP), đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (đầu tƣ

trực tiếp nƣớc ngoài trên tổng vốn cố định), % giá trị gia tăng ngành công nghiệp

trong GDP, % giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP, quyền chính trị và các

quyền tự do cơ bản của công dân (nguồn dữ liệu từ Freedom House), tuổi thọ trung

bình, tỷ lệ đi học gộp, tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Thông qua phƣơng pháp DGMM và

System-GMM, kết quả cho thấy thu nhập bình quân đầu ngƣời, khu vực công

nghiệp, dân chủ và các quyền tự do cơ bản của công dân có tác động tích cực lên

biến phụ thuộc, trong khi khu vực nông nghiệp và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài lại có

tác động tiêu cực. Độ trễ của biến phụ thuộc cho thấy mối quan hệ đồng biến và ảnh

hƣởng của nó lớn hơn ở các nƣớc có thu nhập cao. Tác giả cũng nghiên cứu nỗ lực

thu thuế và khoảng cách về thuế và nhận thấy các chỉ số này ổn định theo thời gian

11

nhƣng khác nhau giữa các quốc gia bất kể trình độ phát triển của các nền kinh tế.

Bùi Thị Mai Hoài và Nguyễn Thanh Hùng (2016) với mục tiêu đánh giá tác động

của các yếu tố kinh tế, cấu trúc, thể chế và xã hội đến số thu thuế ở các quốc gia có

thu nhập trung bình, tác giả sử dụng dữ liệu của 50 quốc gia có thu nhập trung bình

trong giai đoạn 2000-2013 và ƣớc lƣợng bằng phƣơng pháp GMM sai phân. Kết

quả ƣớc lƣợng phát hiện trình độ phát triển của quốc gia, độ mở thƣơng mại, chỉ số

về quyền chính trị có tác động tích cực đến số thu thuế, trong khi giá trị gia tăng của

khu vực nông nghiệp và chỉ số về quyền tự do dân chủ lại có tác động tiêu cực. Kết

quả này có ý nghĩa đối với việc thiết kế chính sách tài khóa ở các quốc gia có thu

nhập trung bình.

Mặc dù nghiên cứu của tác giả chủ yếu dựa trên nghiên cứu của Castro và

Camarillo (2014) và có sự tƣơng đồng với nghiên cứu của các tác giả Bùi Thị Mai

Hoài và Nguyễn Thanh Hùng (2016), tuy nhiên, vẫn có một số điểm khác biệt.

Trƣớc tiên, nghiên cứu đƣợc tiến hành riêng cho các quốc gia có thu nhập trung

bình thấp, một số biến độc lập đƣợc thêm vào mô hình nhƣ lạm phát, viện trợ và nợ

công. Tiếp theo, kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, giá trị gia

tăng ngành công nghiệp trong GDP, các biến về xã hội và các biến đƣợc thêm vào

đều có tác động đến biến phụ thuộc. Trong khi các biến này lại không có ý nghĩa

thống kê trong mẫu 50 nƣớc thu nhập trung bình của các tác giả Bùi Thị Mai Hoài

và Nguyễn Thanh Hùng (2016).

Nhƣ vậy đa phần các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đều tìm ra các bằng chứng

chứng minh mối quan hệ giữa số thu thuế của các quốc gia và các yếu tố mức độ

phát triển, độ mở thƣơng mại và tự do hóa tài chính, sự dễ dàng trong việc thu thuế,

thể chế chính trị và tham nhũng, các yếu tố thuộc về an sinh xã hội,… Ngoài ra, các

nhà nghiên cứu trƣớc đây cũng khám phá nỗ lực thu thuế và tiềm năng thuế của các

quốc gia, kết hợp các hiểu biết này để đề xuất các biện pháp giúp tăng thu thuế cho

cơ quan quản lý các quốc gia.

12

2.2 Một số yếu tố ảnh hƣởng đến số thu thuế

Thông qua xem xét các nghiên cứu thực nghiệm đã đƣợc tiến hành trong giai đoạn

trƣớc đây, có thể tóm tắt và phân loại lại các yếu tố có tác động đến số thu

thuế/GDP vào các nhóm: nhóm các yếu tố kinh tế, nhóm các yếu tố thể chế, nhóm

các yếu tố xã hội và nhân khẩu học và các yếu tố khác.

2.2.1 Các yếu tố kinh tế

GDP bình quân đầu ngƣời đại diện cho mức độ phát triển của một quốc gia và

đƣợc kì vọng là một chỉ báo tốt về mức độ phát triển kinh tế tổng thể và tính phức

tạp của cấu trúc kinh tế. Mức độ phát triển cao hơn đi kèm với khả năng chi trả và

thu thuế cao hơn (Chelliah, 1971; Bahl, 1971). Hơn nữa, nhu cầu về các dịch vụ của

chính phủ có tính đàn hồi, do đó, tỷ trọng hàng hoá và dịch vụ do chính phủ cung

cấp sẽ tăng cùng với thu nhập (Gupta, 2007). Nhìn chung, chúng ta mong đợi mối

quan hệ thuận chiều hay tích cực giữa thu nhập bình quân đầu ngƣời và mức độ nỗ

lực về thuế hay số thu thuế. Tuy nhiên, một số nghiên cứu trƣớc đây cũng tìm ra

mối quan hệ ngƣợc chiều giữa biến này và nỗ lực thuế (Teera, 2002; Alm và

Martinez-Vazquez, 2003b).

Độ mở thƣơng mại đƣợc đo bằng tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu - cũng là một

yếu tố tác động tới hiệu suất thu. Nhập khẩu và xuất khẩu có thể chịu thuế khi

chúng đƣợc thực hiện tại các địa điểm cụ thể. Tác động của tự do hoá thƣơng mại

đối với việc huy động nguồn thu có thể không rõ ràng. Việc mở cửa thị trƣờng đòi

hỏi phải giảm thuế và các rào cản thƣơng mại và thực tế này có thể có tác động tiêu

cực đến việc thu thuế (Baunsgaard và Keen, 2010). Tuy nhiên trái lại, nó có thể có

tác động tích cực do việc áp dụng thuế nhập khẩu, ngoài ra, khi mở rộng thƣơng

mại, thì tính chính thức và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng lên và do đó,

tăng khả năng thu thuế. Mặt khác, doanh thu có thể tăng lên nếu tự do hóa thƣơng

mại xảy ra thông qua việc hạn chế miễn thuế, giảm thuế quan và cải cách thủ tục hải

quan (Keen và Simone, 2004). Sự tƣơng quan tích cực mạnh mẽ giữa sự mở cửa

thƣơng mại với quy mô của chính phủ cũng đƣợc phát hiện, vì xã hội dƣờng nhƣ

13

đòi hỏi (và nhận) một vai trò mở rộng hơn của chính phủ trong việc cung cấp bảo

hiểm xã hội ở các nền kinh tế mở phụ thuộc vào các rủi ro bên ngoài (Rodrik,

1998).

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có thể tác động tới nỗ lực thuế theo hai chiều hƣớng.

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đƣợc kỳ vọng là có tác động tiêu cực, vì các quốc gia

có thể tạo ra các ƣu đãi tài chính để thu hút nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (Cassou,

1997; Martin-Mayoral và Uribe, 2010). Từ một góc nhìn khác, yếu tố này có thể có

tác động tích cực, nhƣ là dòng vốn FDI làm tăng khả năng cạnh tranh và tính chính

thức của nền kinh tế (Gugler và Brunner, 2007).

Chuyên môn hóa sản xuất bao gồm tỷ trọng giá trị gia tăng của nông nghiệp

trong GDP và tỷ trọng giá trị gia tăng của công nghiệp trong GDP. Thành phần

ngành của sản phẩm trong nƣớc cũng có thể ảnh hƣởng đến khả năng thuế vì một số

lĩnh vực nhất định của nền kinh tế dễ dàng nộp thuế hơn các ngành khác. Ví dụ,

ngành nông nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thu thuế, đặc biệt là nếu nó bị chi

phối bởi một số lƣợng lớn nông dân tự cung tự cấp. Một số ngƣời cho rằng ngành

nông nghiệp không khó khăn về thuế (Bahl, 2003), nhƣng tầm quan trọng tƣơng đối

lớn của nó trong nền kinh tế của một quốc gia càng làm giảm nhu cầu chi tiêu cho

các hoạt động và dịch vụ của chính phủ, vì nhiều hoạt động của khu vực công là ở

thành phố (Tanzi, 1992). Ngoài ra, vì lý do chính trị, một số nƣớc đƣợc miễn thuế

một phần lớn các hoạt động nông nghiệp.

Ngƣợc lại, chuyên môn hóa sản xuất các ngành công nghiệp thì đƣợc kỳ vọng là có

tác động tích cực trong việc thu thuế vì các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp

thƣờng dễ dàng thu thuế và sản xuất tạo ra mức thu nhập chịu thuế lớn hơn so với

ngành nông nghiệp (Eltony, 2002).

Tỷ giá hối đoái: Một số giả thuyết rộng rãi về mối quan hệ giữa các biến số kinh tế

vĩ mô, bao gồm lạm phát, tỷ giá và số thu thuế cho rằng có mối quan hệ nghịch biến

giữa số thu thuế của một quốc gia và tỷ giá thực chính thức. Đồng nội tệ bị định giá

quá cao có ảnh hƣởng trực tiếp vì nó thu hẹp cơ sở đánh thuế xuất nhập khẩu dựa

14

trên các điều khoản quy định bằng đồng nội tệ. Điều này làm giảm thu thuế trên

hoạt động thƣơng mại quốc tế, thuế trên doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt, thƣờng

đƣợc đánh vào tiêu dùng trong nƣớc và nhập khẩu. Việc định giá quá mức cũng có

những tác động gián tiếp vì nó giảm bớt sự khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,

khuyến khích đầu tƣ vốn và thay thế đồng tiền, làm suy yếu cán cân thanh toán,

khuyến khích thị trƣờng chợ đen và khuyến khích các hạn chế thƣơng mại (Tanzi,

1989).

Lạm phát thƣờng đƣợc sử dụng làm đại diện cho chính sách tiền tệ và tài khóa mở

rộng. Những thay đổi trong môi trƣờng chính sách kinh tế vĩ mô đóng một vai trò

quan trọng trong việc nâng cao thu nhập từ thuế, lạm phát là một minh chứng tốt

đƣợc sử dụng để đo lƣờng môi trƣờng chính sách kinh tế vì nó nắm bắt đƣợc tác

động của chính sách kinh tế vĩ mô. Có khá nhiều các tài liệu liên quan đến tác động

của lạm phát đối với thuế. Một số tài liệu trƣớc đây cho thấy rằng lạm phát cao làm

tăng tỷ lệ thuế trên GDP, nhƣng các tài liệu gần đây cho thấy lạm phát có tác động

đồng biến hoặc nghịch biến còn phụ thuộc vào độ trễ. Sự kết hợp của lạm phát cao,

độ trễ trung bình trong thu thuế và độ co dãn thấp của hệ thống thuế dẫn đến sự sụt

giảm mạnh về doanh thu thực tế khi lạm phát xảy ra (Tanzi, 1977).

2.2.2 Các yếu tố về thể chế

Tham nhũng: Để giải thích những khác biệt về tỷ lệ thuế, chúng ta cũng cần tính

đến các yếu tố nhƣ quản trị và mức độ tham nhũng. Nếu ngƣời nộp thuế tin rằng họ

đang sống trong một quốc gia mà tham nhũng tràn lan và ít có lòng tin vào cơ quan

có thẩm quyền thì sự sẵn sàng bỏ phiếu cho mức thuế cao hơn và tuân thủ nghĩa vụ

thuế của họ sẽ giảm xuống (Bird et al, 2008).

Quyền tự do dân sự: Chỉ số tự do dân sự đo lƣờng mức độ tự do ngôn luận và tín

ngƣỡng của tổ chức, cộng đồng. Nó có thể đƣợc xem nhƣ là một thƣớc đo cả về luật

pháp, và cũng có thể là quyền tự trị cá nhân mà không bị can thiệp từ nhà nƣớc. Nó

cũng đại diện cho mức độ tham nhũng vì việc cải thiện tự do dân sự của một quốc

15

gia nên gắn liền với việc giảm tham nhũng, tăng sự minh bạch và trách nhiệm giải

trình trong khu vực công (Mahdavi, 2008).

Quyền chính trị: Chỉ số quyền chính trị thể hiện các đặc quyền pháp lý cho phép

công dân tham gia tự do vào chính trị thông qua quyền bỏ phiếu và quyền đƣợc ứng

cử cho văn phòng chính phủ và các quyền chính trị.

Hai chỉ số trên đƣợc kỳ vọng là có tác động tích cực đến nguồn thu thuế bởi vì ở

những quốc gia có chỉ số cao về quyền dân chủ và tự do, ngƣời nộp thuế có nhận

thức tốt hơn về chính phủ của họ và do đó, họ thiện chí chấp hành các quy định nộp

thuế, tuân thủ tốt hơn và trốn thuế ít hơn. Ngoài ra, sự ổn định trong chính sách và

sự tin tƣởng vào một môi trƣờng xã hội tốt tạo ra một môi trƣờng tốt hơn cho các

hoạt động của nền kinh tế và sự sáng tạo trong kinh doanh (Castro và Camarillo,

2014).

Tiếng nói của chính quyền: Nếu ngƣời đóng thuế nhận thức rằng quyền lợi của họ

đƣợc thể hiện đúng đắn trong các thể chế chính trị có tiếng nói có ý nghĩa trong việc

ảnh hƣởng đến nhà nƣớc, họ sẵn sàng đóng góp vào tăng trƣởng (Bird et al, 2008).

Chỉ số độ bền của chế độ cho thấy số năm mà một chế độ lên nắm quyền hoặc kết

thúc một giai đoạn chuyển tiếp không có thể chế chính trị ổn định. Chỉ số bắt đầu

đƣợc xác định kể từ năm đầu tiên có một chính quyền mới lên nắm quyền và mỗi

năm sau đó sẽ tiếp tục đƣợc đếm nếu chính quyền này còn tồn tại. Chỉ số này càng

cao thì khả năng thu thuế càng cao vì thể chế có thời gian kéo dài là thể chế đáng tin

cậy (Dioda, 2012)

Chỉ số chất lƣợng quản lý (Kaufmann et al, 2003) thể hiện giá trị trung bình của

sáu khía cạnh quản lý. Chỉ số dựa trên hàng trăm biến số đo nhận thức về quản lý và

lấy từ 25 nguồn dữ liệu khác nhau. Sáu tiêu chí quản trị đƣợc phân loại thành ba

nhóm nhƣ sau:

16

i) Quá trình theo đó các chính phủ đƣợc lựa chọn, theo dõi và thay thế:

- Tiếng nói và trách nhiệm: đo lƣờng tiến trình chính trị, tự do dân sự, và các

quyền chính trị.

- Ổn định chính trị và vấn đề bạo hành: đánh giá các khả năng chính phủ sẽ bị mất

ổn định / lật đổ.

ii) Năng lực của chính phủ để có thể xây dựng và thực hiện các chính sách lành

mạnh một cách hiệu quả:

- Tính hiệu quả của chính phủ: các đầu vào cần thiết cho chính phủ để có thể thiết

lập và thực hiện tốt chính sách và cung cấp hàng hóa công.

- Chất lƣợng điều hành: tập trung nhiều hơn vào các chính sách, chẳng hạn nhƣ tỷ

lệ các chính sách thân thiện / không thân thiện với thị trƣờng, nhận thức về gánh

nặng do việc áp đặt các quy định quá mức.

iii) Sự tôn trọng của công dân và nhà nƣớc đối với các thể chế chi phối các tƣơng

tác kinh tế và xã hội:

- Luật pháp: một số chỉ số đo mức độ tự tin của một cá nhân trong việc tuân thủ

các quy tắc của xã hội. Các chỉ số này đo sự thành công của một xã hội trong

việc phát triển một môi trƣờng, trong đó các quy tắc công bằng và có thể dự

đoán đƣợc tạo thành nền tảng cho các tƣơng tác kinh tế và xã hội (Kaufmann et

al, 2003).

- Kiểm soát tham nhũng: đánh giá tham nhũng (thực thi quyền lực công cộng vì

lợi ích cá nhân).

Tất cả các chỉ số trên có giá trị từ -2.5 đến 2.5, với giá trị cao hơn tƣơng đƣơng thể

chế tốt hơn và thuế thu đƣợc nhiều hơn.

17

Hƣớng dẫn Quốc tế về Rủi ro Quốc gia (ICRG) (Knack, 1999). ICRG cung cấp

một bộ dữ liệu thay thế cho Chỉ số chất lƣợng quản lý, đặc biệt chú trọng vào các

khía cạnh ảnh hƣởng đến các quyết định đầu tƣ nƣớc ngoài. Dữ liệu chứa các giá trị

hàng năm cho các chỉ số về chất lƣợng quản lý, đƣợc xây dựng bởi Stephen Societal

và IRIS Centre, Đại học Maryland và The PRS Group. Đáng quan tâm nhất trong bộ

dữ liệu này là Các Thành phần Rủi ro Chính trị. Các yếu tố cấu thành nên Các

Thành phần Rủi ro Chính trị bao gồm Tham nhũng trong chính phủ, Luật pháp,

Mức độ quan liêu, Căng thẳng sắc tộc, Sự từ chối các yêu cầu của chính phủ, Rủi ro

quốc hữu hóa. Số điểm cao hơn cho thấy nguy cơ tiềm ẩn thấp hơn. Hầu hết các giá

trị nằm trong khoảng từ 1 đến 6 (ngoại trừ: Rủi ro quốc hữu hóa và Sự từ chối các

yêu cầu của chính phủ nằm trong khoảng từ 1 đến 10).

Hai yếu tố Chỉ số chất lƣợng quản lý và ICRG đã đo lƣờng phần nào “tiếng nói”

của chính quyền và nói chung là chất lƣợng phản hồi của chính phủ đối với yêu cầu

của ngƣời dân. Hai yếu tố này đều có tác động tới nỗ lực thu thuế và có thể đƣợc sử

dụng thay thế cho nhau (Bird et al, 2004).

Phân cấp tài khóa: mức độ nỗ lực về thuế cũng có thể phụ thuộc vào cơ cấu theo

chiều dọc của chính phủ, đặc biệt là mức độ phân cấp về tài chính. Thứ nhất, một hệ

thống phân quyền của chính phủ có xu hƣớng đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong

muốn của ngƣời đóng thuế (Oates, 1972). Một chính phủ có hiệu quả và đáp ứng tốt

ở tất cả các cấp có thể dẫn đến sự sẵn sàng đóng góp, sự gia tăng nhu cầu về chi tiêu

công và mức độ tự nguyện cao hơn về thuế. Mặt khác, một hệ thống phân cấp buộc

chính phủ phải hạn chế khai thác cơ sở thuế và cắt giảm chi tiêu công vì ngƣời nộp

thuế có thể lựa chọn sinh sống ở các khu vực có mức chi tiêu và thuế thấp hơn và

các khu vực này có thể phải cạnh tranh với nhau để giữ thuế và chi tiêu thấp

(Brennan và Buchanan, 1980). Một số bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng mức

độ phân cấp cao hơn dẫn đến mức chi tiêu công thấp hơn (Arze et al, 2004.). Hơn

nữa, việc phân quyền có thể khuyến khích các chính phủ dựa nhiều vào phí, lệ phí

của ngƣời sử dụng (Feld et al, 2003), và phí, lệ phí nhƣ vậy có thể không đƣợc ghi

18

nhận là thu ngân sách từ thuế của chính phủ. Mức phân cấp và quyền tự chủ ở cấp

địa phƣơng càng cao có thể làm giảm nỗ lực thu thuế mặc dù tác động này không rõ

ràng.

2.2.3 Các yếu tố về nhân khẩu học và xã hội

Tỷ lệ đi học: Nền giáo dục phát triển ở trình độ cao trong một quốc gia tạo ra tính

chuyên môn hóa cao và do đó sẽ có những phƣơng pháp sản xuất kỹ thuật cao hơn

hoặc những hoạt động kinh tế có thể tăng nguồn thu thuế. Hơn nữa, một hệ thống

giáo dục thống nhất sẽ thúc đẩy những cam kết của ngƣời dân đối với xã hội, dẫn

đến việc hình thành một ý thức tốt trong ngƣời dân về những lợi ích từ việc đóng

thuế (Dioda, 2009; Castro và Camarillo, 2014).

Tỷ lệ tử vong ở trẻ em và Tuổi thọ trung bình cũng đƣợc kỳ vọng là có quan hệ

đồng biến với nỗ lực thuế khi chúng đƣợc kết hợp với trình độ phát triển và an sinh

xã hội. Để một quốc gia có thể giảm tỷ lệ trẻ em tử vong thì quốc gia đó phải tăng

chi tiêu cho y tế và nguồn này thƣờng đƣợc tài trợ bằng số thu thuế tăng lên

(Birchenall, 2004). Ngoài ra, những ngƣời đƣợc hƣởng chế độ an sinh xã hội cao và

tiếp cận nhiều hơn các dịch vụ y tế thì có khả năng nâng cao hiệu suất làm việc và

các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh khác, tuổi thọ có thể là một tác

động bất lợi bởi vì dân số có tuổi thọ trung bình cao thì lƣợng ngƣời nghỉ hƣu càng

lớn và do đó, sẽ làm giảm khả năng thu thuế từ những ngƣời thuộc đối tƣợng về hƣu

này (Svejnar, 2002).

Phân phối thu nhập cũng đƣợc xem là một yếu tố có tác động đến thuế. Một hệ

thống phân phối thu nhập tốt hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thuế cũng

nhƣ tăng cƣờng tính tự nguyện tuân thủ của ngƣời nộp thuế. Yếu tố này thƣờng

đƣợc đại diện bằng hệ số GINI – hệ số đo lƣờng xem mức độ phân phối thu nhập

giữa các cá nhân có lệch khỏi mức phân phối bình đẳng hay không.

19

Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lƣợng lao động đƣợc kì vọng có tác động thuận

chiều với số thu thuế vì nhiều phụ nữ tham gia vào thị trƣờng lao động chính thức

sẽ mở rộng cơ sở thuế (Dioda, 2012).

Đô thị hóa thƣờng đƣợc kì vọng có quan hệ đồng biến với số thu thuế vì nó làm

tăng nhu cầu của cƣ dân đối với hàng hóa và dịch vụ công. Mặt khác, đô thị hóa

cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thuế (Tanzi, 1987).

Mật độ dân số cao có xu hƣớng làm giảm chi phí quản lý thu thuế và kiểm soát

việc trốn thuế (Ansari, 1982), do đó, mật độ dân số tăng lên thƣờng đƣợc kì vọng

làm tăng số thu thuế.

Tăng trƣởng dân số cũng là một yếu tố có thể giải thích cho số thu thuế theo các

nhà nghiên cứu trƣớc đây. Tăng trƣởng dân số nhanh chóng tạo áp lực lên hệ thống

thuế trong khâu đăng kí và quản lý những ngƣời nộp thuế mới (Bahl, 2003). Do đó,

một mối quan hệ nghịch biến đƣợc kì vọng giữa tăng trƣởng dân số và số thu thuế.

Đạo đức thuế và kinh tế ngầm. Một hệ thống thuế bền vững dựa trên một hệ thống

thuế công bằng và chính phủ có khả năng đáp ứng, đạt đƣợc sự kết nối chặt chẽ

giữa nộp thuế và cung cấp hàng hoá công. Nếu ngƣời đóng thuế nhận thấy rằng sở

thích của họ đƣợc đại diện và đáp ứng đầy đủ bởi hàng hoá công, mức độ sẵn sàng

đóng góp của họ tăng lên. Với sự gia tăng độ nhận diện của nhà nƣớc, sự sẵn sàng

nộp thuế tăng lên. Đạo đức thuế thấp (đạo đức thuế đƣợc định nghĩa là động lực nội

tại để nộp thuế) sẽ làm giảm nỗ lực về thuế ở một quốc gia. Mức độ nỗ lực về thuế

cũng đƣợc kỳ vọng sẽ liên kết chặt chẽ với “lựa chọn thoái vốn” - quyết định tiến

hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh tế trong khu vực kinh tế phi chính thức

(kinh tế ngầm). Nếu ngƣời nộp thuế càng tin rằng những ngƣời khác làm việc trong

nền kinh tế ngầm, họ càng hành xử không trung thực và trốn thuế bằng cách dịch

chuyển các hoạt động của mình vào nền kinh tế ngầm. Theo hƣớng này, động lực

nội tại tiềm năng để tuân thủ và đóng góp vào các hoạt động của khu vực công sẽ bị

giảm đi. Do đó, giả thuyết đƣợc đƣa ra là một nền kinh tế ngầm lớn hơn sẽ dẫn đến

20

mức độ nỗ lực về thuế thấp hơn. Đạo đức thuế và nền kinh tế ngầm cũng có khuynh

hƣớng có tƣơng quan cao. Một số nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng đạo đức thuế

thấp có thể là nguyên nhân của sự tăng trƣởng của nền kinh tế ngầm (Torgler, 2001,

2004; Alm và Torgler, 2004; Alm et al, 2004).

2.2.4 Các yếu tố khác

Độ trễ của số thu thuế có thể đƣợc giải thích theo hai hƣớng chính:

Theo cách tiếp cận của Keynes, tỷ lệ thuế thu cao hơn sẽ khuyến khích việc chi tiêu

công và tăng trƣởng kinh tế và tiếp tục tạo ra nguồn thu nhiều hơn. Ngƣợc lại, tỷ lệ

thuế các năm trƣớc thấp dẫn đến sự sụt giảm nguồn thu của các năm sau đó.

Trƣờng phái cận đại cho rằng tỷ lệ thuế thu cao hơn sẽ không khuyên khích những

hoạt động trong nền kinh tế và từ đó làm giảm nguồn thu thuế, do đó, mức thuế suất

thấp có liên quan đến hiệu quả hoạt động của nền kinh tế (Cooley và Ohanin, 1997).

Hệ số tƣơng quan gần bằng 1 là bằng chứng cho thấy biến phụ thuộc thay đổi chậm

hơn và ít bị tác động bởi các biến giải thích nhƣng phụ thuộc nhiều hơn vào độ trễ

của biến phụ thuộc (Ángeles-Castro, 2006).

Nợ công: Mức độ nợ nần bên ngoài của một quốc gia cũng có thể ảnh hƣởng đến

hiệu suất thu thuế. Để tạo ra sự trao đổi ngoại hối cần thiết để phục vụ cho khoản

nợ, một quốc gia có thể chọn giảm hàng nhập khẩu. Trong bối cảnh nhƣ vậy, thuế

nhập khẩu sẽ thấp hơn. Ngoài ra, nƣớc này có thể lựa chọn tăng thuế nhập khẩu

hoặc các loại thuế khác nhằm tạo ra thặng dƣ ngân sách để phục vụ cho khoản nợ

(Gupta, 2007).

Viện trợ: Viện trợ nƣớc ngoài cũng đƣợc xác định là một yếu tố có thể ảnh hƣởng

đến hiệu suất thu thuế. Điều khác biệt quan trọng tạo nên hai chiều hƣớng tác động

của viện trợ chính là mục đích nhận viện trợ. Viện trợ nếu đƣợc sử dụng có hiệu quả

sẽ có khả năng tăng thu thuế, nếu đơn giản để tài trợ cho chi tiêu tiêu dùng hiện tại

thì viện trợ không có tác dụng hoặc thậm chí tác dụng ngƣợc lại. Hơn nữa, thành

21

phần viện trợ có ảnh hƣởng quan trọng đến hiệu suất thu. Ví dụ, Gupta et al. (2004)

nhận thấy rằng các khoản cho vay ƣu đãi sẽ dẫn đến việc huy động nguồn thu nội

địa cao hơn, trong khi các khoản tài trợ có ảnh hƣởng ngƣợc lại.

Tóm tắt chƣơng 2

Nhƣ vậy, ở chƣơng này tác giả đã trình bày những lý thuyết cơ bản về các yếu tố tác

động đến số thu thuế của các quốc gia. Các yếu tố này bao gồm yếu tố kinh tế nhƣ

thu nhập bình quân đầu ngƣời, độ mở thƣơng mại, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, cơ

cấu ngành kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát; các yếu tố thể chế nhƣ tham nhũng,

quyền chính trị, quyền tự do dân sự, tiếng nói của chính quyền, chỉ số độ bền của

chế độ, chỉ số chất lƣợng quản lý, hƣớng dẫn quốc tế về rủi ro quốc gia, phân cấp tài

khóa; các yếu tố xã hội nhƣ tỷ lệ tử vong ở trẻ em, tỷ lệ đi học, tuổi thọ trung bình

phân phối thu nhập, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lƣợng lao động, đô thị hóa, mật

độ dân số, tăng trƣởng dân số, đạo đức thuế và kinh tế ngầm cùng một vài yếu tố

khác nhƣ độ trễ của số thu thuế, nợ công, viện trợ. Đồng thời tác giả cũng đã trình

bày các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nƣớc để dẫn chứng cho các lý

thuyết. Dựa trên cơ sở lý thuyết đƣa ra và nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đã chỉ ra

đƣợc các yếu tố tác động đến số thu thuế của một quốc gia và xu hƣớng tác động

của từng yếu tố đến số thu.

22

CHƢƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1 Dữ liệu

Mẫu dữ liệu của tác giả bao gồm 35 quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp

(lower-middle-income economies - theo phân loại của World Bank năm 2017) từ

năm 2002 đến năm 2014. Các quốc gia này đƣợc phân loại dựa vào tiêu chí: thu

nhập bình quân đầu ngƣời từ 1,026 đô la Mỹ đến 4,035 đô la Mỹ.

Các số liệu cần thiết đƣợc lấy từ những nguồn cơ sở dữ liệu đáng tin cậy nhƣ World

Bank, Asian Development Bank, Freedomhouse. Từ nguồn trên, tác giả đã xây

dựng một bảng dữ liệu cân đối bao gồm 455 quan sát. Danh sách các quốc gia theo

vùng đƣợc mô tả qua Bảng 3.1.

Bảng 3.1: Danh sách các quốc gia đƣợc lấy dữ liệu phân theo vùng địa lý

Châu Á Châu Phi Châu Âu Châu Mỹ- Latinh Châu Đại Dƣơng

Armenia Cabo verde Bolivia Moldova Samoa

Bangladesh Cameroon El Salvador Ukraine Tonga

Bhutan Cote d'ivoire Guatemala

Honduras Cambodia Egypt

Nicaragua India Ghana

Indonesia Kenya

Morocco

Kyrgyz republic Laos Nigeria

Mongolia

Myanmar São Tomé and Príncipe Swaziland

Pakistan Tunisia

Phillipines

Tajikistan

Uzbekistan

Việt Nam

23

Nhiều nghiên cứu trƣớc đây đã đƣợc tiến hành trên các nƣớc thu nhập trung bình.

Tuy nhiên, trong giai đoạn lấy mẫu của các nghiên cứu này thì một số quốc gia vẫn

còn nằm trong nhóm thu nhập thấp và đến thời điểm hiện tại đã chuyển sang nhóm

thu nhập trung bình nhƣ Bangladesh, Bhutan, Cambodia, Cameroon, Cote d’ivoire,

Ghana, India, Kenya, Kyrgyz republic, Laos, Mongolia, Moldova, Myanmar,

Nigeria, São Tomé and Príncipe, Tajikistan, Uzbekistan, Việt Nam.

3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu

3.2.1 Tổng quan phƣơng pháp nghiên cứu

Bài viết này chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu thực nghiệm dựa trên mô

hình gốc của Castro và Camarillo (2014). Thông qua xem xét các nghiên cứu thực

nghiệm trƣớc đây, tác giả đƣa thêm vào mô hình này một số biến đƣợc nhiều nhà

nghiên cứu trƣớc đây sử dụng mà tác giả Castro và Camarillo đã bỏ qua trong

nghiên cứu của mình. Sau khi lựa chọn các biến giải thích và biến công cụ, dữ liệu

đƣợc thu thập, sàng lọc, tính toán và đƣợc đƣa vào phần mềm STATA 12 để thực

hiện phân tích hồi quy tuyến tính đa biến nhằm kiểm tra tác động của các yếu tố đối

với phần trăm số thu thuế trong GDP của các quốc gia trong nhóm thu nhập trung

bình thấp.

Bài nghiên cứu đƣợc tiến hành trên cơ sở mô hình dữ liệu bảng động. Trong dữ liệu

của tác giả có thể xảy ra các vấn đề sau:

(1) Bảng dữ liệu đƣợc thiết lập với chuỗi thời gian T ngắn và số lƣợng quốc gia N

lớn cho nên các phƣơng pháp nhƣ tác động cố định (FE) hay phƣơng pháp sai

phân bậc một là không phù hợp;

(2) Do sự hiện diện của biến trễ của biến phụ thuộc nên dữ liệu của tác giả có thể

có hiện tƣợng tự tƣơng quan;

(3) Các biến trong mô hình có thể đƣợc xem là nội sinh vì quan hệ nhân quả có thể

xảy ra theo hai chiều hƣớng: từ các biến giải thích đến các biến đƣợc giải thích

24

và ngƣợc lại. Việc hồi quy các biến này có thể dẫn đến sự tự tƣơng quan với sai

số, tức xảy ra hiện tƣợng nội sinh làm chệch kết quả.

(4) Một số hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi hay đa cộng tuyến có thể xảy ra mà

phƣơng pháp ƣớc lƣợng OLS không thể xử lý đƣợc.

Để khắc phục các điểm yếu của dữ liệu khi xảy ra hiện tƣợng nội sinh, tự tƣơng

quan và phƣơng sai thay đổi, mô hình DGMM đã đƣợc sử dụng trong bài nghiên

cứu này. Phƣơng pháp GMM đƣợc trình bày lần đầu tiên vào năm 1982 bởi Lars

Peter Hasen. GMM là phƣơng pháp tổng quát của rất nhiều phƣơng pháp ƣớc lƣợng

phổ biến nhƣ OLS, GLS, MLE,... Ngay cả trong điều kiện nội sinh bị vi phạm, thì

phƣơng pháp GMM vẫn cho ra các hệ số ƣớc lƣợng vững, không chệch, phân phối

chuẩn và hiệu quả. Vì thế, trong bài nghiên cứu này, phƣơng pháp GMM đƣợc đề

xuất sử dụng theo nghiên cứu của Arellano và Bond (1991) phù hợp với nghiên cứu

của tác giả khi sử dụng số lƣợng lớn quốc gia với chuỗi thời gian ngắn để khắc phục

sự ảnh hƣởng của các vấn đề trên trong xem xét tác động của một số yếu tố đến

phần trăm số thu thuế trong GDP.

Tính hợp lý của các công cụ đƣợc sử dụng trong phƣơng pháp GMM đƣợc đánh giá

qua các thống kê Sagan, Hansen và Arellano-Bond (AR). Trong đó, kiểm định

Sargan và Hansen xác định tính chất phù hợp của các biến công cụ trong mô hình

GMM. Đây là kiểm định giới hạn về nội sinh của mô hình. Kiểm định Sargan và

Hansen với giả thuyết H0 biến công cụ là ngoại sinh, nghĩa là không tƣơng quan với

sai số của mô hình. Vì thế, giá trị p của thống kê Sargan và Hansen càng lớn càng

tốt. Ngoài ra, để kiểm định Sargan và Hansen không bị yếu thì số lƣợng các biến

công cụ đƣợc lựa chọn phải nhỏ hơn hoặc bằng số lƣợng các nhóm đƣợc quan sát.

Kiểm định Arellano-Bond về tự tƣơng quan có giả thuyết H0: không tồn tại tƣơng

quan chuỗi. Kiểm định AR(2) quan trọng hơn AR(1) vì nó kiểm tra tự tƣơng quan ở

các cấp độ.

25

3.2.2 Mô hình nghiên cứu

Dựa theo nghiên cứu của Castro và Camarillo (2014), mô hình đầu tiên đƣợc áp

dụng là một phƣơng trình hồi quy tổng quát nhƣ sau:

k=1 βk Xkit + ηi + uit (1)

TAXRE it = αi + ∑n

Trong đó:

TAXRE hay còn gọi là biến phụ thuộc Y là tỷ lệ % số thu thuế trong GDP (số thu

thuế/GDP).

X là một vector của các biến độc lập bao gồm các yếu tố kinh tế, chuyên môn hóa

sản xuất, thể chế, xã hội và yếu tố khác.

β là một vector của hệ số ƣớc lƣợng.

η là các ảnh hƣởng riêng biệt không quan sát đƣợc, đặc thù đối với mỗi quốc gia

u là các sai số đƣợc giả định là có tính nhiễu trắng, đƣợc phân phối độc lập và

không có tƣơng quan chuỗi.

αi tạo nên điểm chặn khác nhau đối với mỗi quốc gia và ghi nhận những đặc thù

quốc gia.

i là ký hiệu cho quốc gia.

t ký hiệu cho năm.

Mô hình (1) đƣợc mở rộng thành mô hình (2) bằng việc đƣa vào biến trễ của biến

phụ thuộc TAXREit-1. Việc đƣa biến trễ của biến phụ thuộc vào mô hình là cần thiết

để xem xét những ảnh hƣởng của tỉ lệ % số thu thuế trong GDP trong quá khứ đến

giá trị hiện tại, tức là kiểm tra xem liệu biến phụ thuộc có đƣợc giải thích bởi chính

bản thân nó.

k=1 βk Xkit + ηi + uit (2)

TAXRE it = αi + γTAXREit-1 ∑n

26

Bảng 3.2 dƣới đây trình bày cụ thể về kí hiệu, tên biến, cách đo lƣờng và nguồn lấy

dữ liệu của biến phụ thuộc và các biến độc lập bao gồm trong mô hình của tác giả.

Trong đó hầu hết các biến độc lập là các biến đã đƣợc kiểm định trong nghiên cứu

của Castro và Camarillo (2014), ngoại trừ các biến lạm phát (CPI), viện trợ (AID)

và nợ công (DEBT) đƣợc tác giả thêm vào để xem xét tác động tới biến phụ thuộc.

Do nhận thấy các nƣớc thu nhập trung bình thấp có chung những đặc điểm nhất

định về kinh tế, xã hội nên tác giả đã đề xuất đƣa thêm các biến này vào mô hình.

Cụ thể, lạm phát ở các nƣớc này là một trong những vấn đề nổi cộm với mức lạm

phát trung bình khá cao, gần 8%, cá biệt, một số nƣớc lạm phát cao ở mức hai con

số (Ghana, Myanmar). Lạm phát cao không chỉ ảnh hƣởng đến GDP thực mà còn

tạo ra khó khăn cho đời sống xã hội của ngƣời dân, dẫn đến một bộ phận dân nhân

bất mãn và làm giảm tinh thần tự nguyện đóng góp cho ngân sách. Các nƣớc trong

mẫu, đặc biệt là các nƣớc vừa bƣớc từ nhóm thu nhập thấp sang nhóm thu nhập

trung bình thƣờng bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tại đây, các nƣớc này bị cắt

giảm viện trợ, cắt giảm các khoản vay ƣu đãi trong khi trình độ phát triển kinh tế

chƣa bắt kịp đà giảm của nguồn vốn. Thêm vào đó, với quy trình và khung quản lý

vĩ mô còn non kém, nhu cầu xây dựng cơ bản và phúc lợi xã hội cao, các nƣớc rất

dễ rơi vào tình trạng vay nợ công quá nhiều. Nếu không có các chính sách thích

hợp, các nƣớc trong nhóm rất khó bứt phá để bƣớc lên nhóm thu nhập cao hơn khi

mà nợ công ngày càng trở thành gánh nặng. Chính vì vậy, các biến độc lập lạm

phát, viện trợ và nợ công nên đƣợc xem xét đối với mẫu các quốc gia thu nhập trung

bình thấp.

27

Bảng 3.2: Tóm tắt các biến

Tên biến Đo lƣờng Nguồn dữ liệu

Kí hiệu biến

TAXRE Số thu thuế % số thu thuế trong GDP World Bank,

Asian

Development Bank

Lấy biến trễ một kì của biến LTAXRE Biến trễ của

biến phụ thuộc % số thu thuế trong GDP

Thu nhập bình Thu nhập bình quân đầu ngƣời World Bank GDPpc

quân đầu ngƣời tính theo USD với năm 2010

là năm gốc

Độ mở thƣơng % tổng kim ngạch xuất khẩu World Bank, TRA

mại và nhập khẩu hàng hóa dịch Asian

vụ trên GDP Development Bank

Đầu tƣ trực tiếp % dòng vốn đầu tƣ trực tiếp World Bank FDI

nƣớc ngoài nƣớc ngoài chảy vào trên

GDP

AGR Nông nghiệp % giá trị gia tăng của nông World Bank,

nghiệp trên GDP Asian

Development Bank

IND Công nghiệp % giá trị gia tăng của công World Bank,

nghiệp trên GDP Asian

Development Bank

28

CPI Lạm phát % tăng chỉ số giá tiêu dùng World Bank

CIVLIB Quyền tự do Đo trên thang điểm từ một (1) Freedomhouse

dân sự đến bảy (7), với (1) đại diện

cho mức độ cao nhất của tự do

và (7) là mức độ thấp nhất

POLRIG Quyền chính trị Đo trên thang điểm từ một (1) Freedomhouse

đến bảy (7), với (1) đại diện

cho mức độ cao nhất của tự do

và (7) là mức độ thấp nhất

SCHTER Tỷ lệ đi học Số lƣợng nữ/nam đƣợc đi học World Bank

đến bậc sau trung học

LIFEEXP Tuổi thọ Tuổi thọ trung bình World Bank

INFMOR Tỷ lệ tử vong ở Số trẻ em dƣới 5 tuổi tử vong World Bank

trẻ em trong số 1000 trẻ em

AID Viện trợ % khoản viện trợ phát triển World Bank

chính thức trong GNI

DEBT Nợ công % nợ công và nợ đƣợc đảm World Bank

bảo bởi khu vực công trong

GNI

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

29

Dựa trên lý thuyết cũng nhƣ các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đƣợc tiến hành

để xác định các yếu tố tác động đến số thu thuế, tác giả nêu vắn tắt tác động đƣợc kì

vọng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc trong Bảng 3.3. Trong đó, dấu (+) thể

hiện biến độc lập có tác động thuận chiều (tích cực, đồng biến) đến biến phụ thuộc,

dấu (-) thể hiện biến độc lập có tác động ngƣợc chiều (tiêu cực, nghịch biến) đến

biến phụ thuộc. Một số biến có thể có tác động thuận chiều hoặc ngƣợc chiều tùy

theo dữ liệu đƣợc lựa chọn để nghiên cứu (đã đƣợc phân tích trong Chƣơng 2) sẽ có

kí hiệu +/-.

Bảng 3.3: Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu

Ký hiệu biến Kỳ vọng tƣơng quan Lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm

+/- +/- LTAXRE

+ + GDPpc

+/- +/- TRA

+/- +/- FDI

- - AGR

+ + IND

+/- +/- CPI

- - CIVLIB

- - POLRIG

+ + SCHTER

+/- +/- LIFEEXP

- - INFMOR

+/- +/- AID

+/- +/- DEBT

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

30

3.3 Trình tự tiến hành phƣơng pháp định lƣợng

Bƣớc 1: Thống kê mô tả

Phần này mô tả sơ lƣợc về các thông số chung của biến phụ thuộc và các biến độc

lập để có cái nhìn tổng quan nhất về bộ dữ liệu đã thu thập.

Bƣớc 2: Phân tích bằng đồ thị tƣơng quan

Trƣớc khi sử dụng các phƣơng pháp ƣớc lƣợng phức tạp hơn, tác giả tiến hành vẽ

đồ thị điểm và đƣờng thể hiện sự tƣơng quan giữa các biến độc lập và biến phụ

thuộc. Đây cũng là bƣớc sơ khởi để kiểm tra mối quan hệ cũng nhƣ chiều hƣớng tác

động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc.

Bƣớc 3: Tính tƣơng quan giữa các biến

Bƣớc này sẽ phân tích ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến và giúp tác giả đoán

biết đƣợc các biến nào có tƣơng quan mạnh với nhau, liệu có tồn tại hiện tƣợng đa

cộng tuyến trong bộ dữ liệu hay không.

Bƣớc 4: Hồi quy theo phƣơng pháp OLS, FE, RE

Tác giả tiến hành hồi quy mô hình (1) theo phƣơng pháp OLS, FE, RE. Mô hình

ban đầu khi chƣa xuất hiện biến trễ của biến phụ thuộc rất có thể đƣợc ƣớc lƣợng

một cách phù hợp bằng phƣơng pháp OLS, FE, RE.

Bƣớc 5: Kiểm tra hiện tƣợng tự tƣơng quan, phƣơng sai thay đổi, đa cộng

tuyến

Để kiểm tra xem phƣơng pháp OLS, FE, RE có thể sử dụng với bộ dữ liệu theo

phƣơng trình (1) hay không, tác giả cần tiến hành các kiểm định hiện tƣợng tự

tƣơng quan, phƣơng sai thay đổi, đa cộng tuyến. Nếu phát hiện các hiện tƣợng này,

các phƣơng pháp trên không phù hợp và một mô hình phù hợp hơn sẽ đƣợc áp dụng

trong bƣớc tiếp theo.

31

Bƣớc 6: Hồi quy theo mô hình DGMM

Với bộ dữ liệu có hiện tƣợng tự tƣơng quan, nội sinh, bao gồm biến trễ của biến phụ

thuộc và có chuỗi thời gian T ngắn trong khi số quốc gia N lớn thì DGMM đƣợc coi

là phƣơng pháp phù hợp để ƣớc lƣợng cho bộ dữ liệu này.

Bƣớc 7: Kiểm định mô hình DGMM

Sau khi có kết quả từ bƣớc 6, tác giả tiến hành xem xét kiểm định Sargan, kiểm

định Hansen, kiểm định AR và so sánh số lƣợng biến công cụ với số lƣợng nhóm

quan sát để đánh giá khả chấp nhận mô hình.

Bƣớc 8: Kết luận

Bƣớc này tác giả tiến hành giải thích ý nghĩa các hệ số hồi quy và đối chiếu với các

lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây.

Tóm tắt chƣơng 3

Chƣơng này trình bày phƣơng pháp nghiên cứu tác giả sử dụng bao gồm dữ liệu và

nguồn dữ liệu, phƣơng pháp định lƣợng, mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên

cứu. Tác giả sử dụng phƣơng pháp DGMM cho mẫu dữ liệu gồm 35 quốc gia trong

nhóm thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn 2002-2014. Dựa vào các lý thuyết và

nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đƣợc trình bày ở Chƣơng 2, tác giả tiến hành đƣa

ra mô hình và các giả thuyết nghiên cứu cho bài nghiên cứu này. Số liệu sau khi

đƣợc sàng lọc và tính toán đƣợc tác giả đƣa vào phần mềm STATA 12, áp dụng

phƣơng pháp DGMM để cho ra kết quả hồi quy sẽ đƣợc trình bày ở Chƣơng 4.

32

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Thống kê mô tả

Biến phụ thuộc đƣợc xem xét là tổng số thu thuế theo tỷ lệ phần trăm trên GDP.

Qua Hình 4.1, có thể thấy rằng đa số các quốc gia trong mẫu có số thu thuế/GDP

trung bình nằm trong khoảng từ 10% đế 20%. Một số nƣớc có số thu thuế theo tỷ lệ

phần trăm trên GDP rất lớn, vƣợt trên 20% nhƣ Mongolia, Swaziland, Morocco. Ở

một số nƣớc khác, con số này lại khá thấp ở mức dƣới 5% nhƣ Nigeria, Myanmar.

Số thu thuế/GDP trung bình theo quốc gia giai đoạn 2002-2014 có khoảng dao động

khá lớn, từ giá trị thấp nhất là 2.46% của Nigeria đến giá trị cao nhất là 25.72% của

Mongolia.

Hình 4.1: Số thu thuế/GDP trung bình theo quốc gia giai đoạn 2002 - 2014

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

33

Ngoài số thu thuế/GDP trung bình theo quốc gia, số thu thuế/GDP cũng đƣợc xem

xét qua con số trung bình từng năm. Hình 4.2 cho thấy tổng số thu thuế theo tỷ lệ

phần trăm trên GDP của các quốc gia tăng rất nhanh trong giai đoạn từ 2002 đến

2008 và bất ngờ sụt giảm mạnh trong năm 2009. Từ 2010 đến 2014, số liệu có chiều

hƣớng phục hồi, tuy không tăng mạnh và liên tục nhƣ giai đoạn trƣớc. Một trong

những nguyên nhân của hiện tƣợng này có thể là do cuộc khủng hoảng kinh tế thế

giới xảy ra năm 2008 đã khiến cho nền kinh tế kiệt quệ trong các năm sau đó. Sản

xuất, thƣơng mại, dịch vụ đều bị đình trệ dẫn đến sự giảm đi đáng kể trong nguồn

thu từ thuế của các quốc gia mà các nƣớc có thu nhập trung bình thấp không phải là

16.50

16.00

15.50

15.00

14.50

14.00

13.50

13.00

12.50

12.00

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014

một ngoại lệ.

Hình 4.2: Số thu thuế/GDP trung bình theo năm trong giai đoạn 2002 - 2014

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

Bảng 4.1 tóm tắt kết quả thống kê mô tả cho các yếu tố tác động đến số thu

thuế/GDP của 35 nƣớc thu nhập trung bình thấp giai đoạn 2002-2014. Từ bảng này,

có thể thấy số thu thuế/GDP trung bình của các nƣớc ở mức gần 14.866% tƣơng

đƣơng với trung vị, điều này chứng tỏ đa số các quốc gia trong mẫu có số thu

thuế/GDP phân bố ở quanh mức gần 15% với giá trị lớn nhất đạt 32.061% và giá trị

nhỏ nhất đạt 0.905%.

34

Thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt trung bình 1960.053 đô la Mỹ, trong khi trung vị

đạt 1720.088 đô la Mỹ, giá trị thu nhập bình quân đầu ngƣời cao nhất đạt 4329.253

đô la Mỹ, giá trị nhỏ nhất chỉ đạt 409.496 đô la Mỹ.

Độ mở thƣơng mại đạt trung bình 80.068% trong khi đầu tƣ nƣớc ngoài/GDP có giá

trị trung bình khá nhỏ, vào khoảng 3.962%.

Giá trị gia tăng ngành nông nghiệp/GDP có giá trị trung bình là 19.474%, dao động

từ 6.123% đến 54.528%. Mặc dù đa phần các nƣớc đang phát triển, đặc biệt là các

nƣớc thu nhập trung bình thấp còn dựa khá nhiều vào kinh tế nông nghiệp nhƣng

giá trị gia tăng lại chƣa cao do họ duy trì nền nông nghiệp lạc hậu, thâm dụng lao

động và chƣa có sự đầu tƣ đúng mực trong việc phát triển khoa học công nghệ.

Trong khi đó, giá trị gia tăng ngành công nghiệp/GDP khả quan hơn, đạt trung bình

29.707%.

Lạm phát trung bình giai đoạn nghiên cứu ở mức 7.694%, một mức khá thách thức

đối với các quốc gia nhóm thu nhập trung bình thấp.

Quyền chính trị và quyền tự do dân sự có mức trung bình gần sát với trung vị tại

mức 4 điểm cho thấy công dân ở các quốc gia trong mẫu có quyền chính trị và các

quyền tự do cơ bản không quá cao cũng không quá thấp.

Tỷ lệ đi học đo bằng số nữ/ số nam học hết bậc trung học đạt trung bình ở mức

0.963 chứng tỏ nữ giới vẫn chƣa đƣợc coi trọng và bất bình đẳng là có tồn tại. Tuổi

thọ trung bình đạt 66 và số trẻ em dƣới 5 tuổi tử vong là 52.

Nguồn viện trợ phát triển chính thức cho các quốc gia thu nhập trung bình thấp ở

vào mức trung bình 5.337% trên GNI, trong khi đó, nợ công trung bình ở mức

2.02% trên GNI.

35

Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến

Biến Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn

Số quan sát 455 TAXRE 14.86551 14.70415 5.703558 0.905462 32.06068

GDPpc 1960.053 1720.088 1026.14 409.4962 4329.253 455

TRA 80.06768 76.19874 33.31745 0.167418 172.5312 455

FDI 3.96237 2.666048 4.727601 -4.89491 43.91211 455

AGR 19.47358 18.59666 8.666293 6.122514 54.52833 455

IND 29.70661 28.72592 8.692123 13.0069 57.27883 455

CPI 7.694414 6.369997 6.547318 -18.1086 57.07451 455

CIVLIB 3.991209 4 1.420403 1 7 455

POLRIG 4.232967 4 1.887418 1 7 455

SCHTER 0.962699 0.959515 0.280365 0.3952 1.78085 455

LIFEEXP 66.1572 67.9561 7.135988 45.759 75.62912 455

INFMOR 51.92132 41.3 33.71313 9.5 175.6 455

AID 5.337248 3.211773 5.965846 -0.06837 40.47917 455

DEBT 2.019593 1.527347 1.659501 0.002633 17.52036 455

(Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm STATA 12)

4.2 Phân tích bằng đồ thị

Trƣớc khi chuyển sang xem xét các kết quả hồi quy, chúng ta sẽ chỉ ra mối quan hệ

quan sát đƣợc giữa số thu thuế/GDP và các biến giải thích thông qua các đồ thị

tƣơng quan (xem Hình 4.3 đến Hình 4.16).

Đầu tiên là với thu nhập bình quân đầu ngƣời, chúng ta có thể thấy đƣợc một mối

quan hệ thuận chiều với số thu thuế/GDP. Tƣơng tự nhƣ vậy, đồ thị phân tán cũng

cho thấy độ mở thƣơng mại và tỷ lệ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài/GDP có mối tƣơng

36

quan thuận khá rõ ràng với biến phụ thuộc. Mặc dù vậy, dữ liệu đầu tƣ trực tiếp

nƣớc ngoài/GDP không phân tán đều mà tập trung chủ yếu ở khu vực từ 0 đến 10.

Trong khi đó, giá trị gia tăng ngành nông nghiệp/GDP và giá trị gia tăng ngành

công nghiệp/GDP lại có mối tƣơng quan nghịch với biến phụ thuộc. Tuy nhiên,

tƣơng quan này quan sát rõ hơn trên biến AGR, biến IND có tƣơng quan khá yếu.

Đồ thị tƣơng quan giữa thuế và lạm phát cho thấy mối quan hệ nghịch chiều, tuy tác

động khá yếu. Với các biến đại diện cho thể chế chính trị, chúng ta cũng thấy thông

qua đồ thị một mối quan hệ nghịch biến của các chỉ số này với biến phụ thuộc, đặc

biệt thể hiện rõ hơn ở chỉ số CIVLIB. Trong số các biến xã hội, có hai biến tƣơng

quan thuận là tỷ lệ đi học và tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong ở trẻ em có tƣơng

quan nghịch biến khá mạnh. Mặc dù theo lý thuyết thì giá trị trễ của biến phụ thuộc

có thể có tƣơng quan đồng biến hoặc nghịch biến với chính biến phụ thuộc, chúng

ta có thể quan sát thấy mối tƣơng quan đồng biến rõ nét thông qua đồ thị tƣơng

quan giữa hai biến này. Viện trợ và nợ công đều có tƣơng quan thuận chiều với biến

phụ thuộc theo nhƣ quan sát ghi nhận trên đồ thị tƣơng quan.

Hình 4.3: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và thu nhập bình quân đầu ngƣời

37

Hình 4.4: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và độ mở thƣơng mại

Hình 4.5: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

38

Hình 4.6: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nông nghiệp

Hình 4.7: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và công nghiệp

39

Hình 4.8: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và lạm phát

Hình 4.9: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền tự do dân sự

40

Hình 4.10: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và quyền chính trị

Hình 4.11: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ đi học

41

Hình 4.12: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tuổi thọ

Hình 4.13: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và tỷ lệ tử vong ở trẻ em

42

Hình 4.14: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và giá trị trễ một kì của thuế

Hình 4.15: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và viện trợ

43

Hình 4.16: Đồ thị tƣơng quan giữa số thu thuế và nợ công

Trên đây là những quan sát đầu tiên thu đƣợc về sự tƣơng quan giữa các biến. Tuy

nhiên chúng ta mới chỉ nhìn nhận đƣợc tác động của các biến độc lập tới biến phụ

thuộc. Để có cái nhìn tổng quan hơn về quan hệ giữa các biến độc lập với nhau

thông qua những con số cụ thể nhằm đoán biết hiện tƣợng đa cộng tuyến, tác giả

tiến hành tính toán ma trận hệ số tƣơng quan đƣợc trình bày trong Bảng 4.3 dƣới

đây.

44

4.3 Phân tích ma trận hệ số tƣơng quan

TAXRE

LTAXRE GDPpc

TRA

FDI

AGR

IND

CPI

CIVLIB POLRIG SCHTER LIFEEXP INFMOR AID

DEBT

TAXRE

1

LTAXRE

0.9701

1

***

GDPpc

0.4355

0.4409

1

***

***

TRA

0.5467

0.5266

0.1082

1

***

***

**

FDI

0.2673

0.2529

0.0084

0.2953

1

***

***

***

AGR

-0.432

-0.4369

-0.6731

-0.2222

1

-0.0888 *

***

***

***

***

IND

-0.0593

-0.0697

0.2048

0.0043

-0.131

-0.1908

1

***

***

***

CPI

-0.0229

0.0013

-0.2607

-0.0956

0.2088

0.3264

-0.164

1

***

**

***

***

***

CIVLIB

-0.246

-0.2462

-0.3953

-0.122

-0.2748

0.451

0.2587

0.1086

1

***

***

***

***

***

***

***

**

POLRIG

-0.0255

-0.0326

-0.2705

0.0572

-0.1912

0.3738

0.2194

0.0628

0.8914

1

***

***

***

***

***

SCHTER

0.3716

0.3632

0.5004

0.2178

0.2664

-0.4206

-0.0234

-0.0741

-0.4331

-0.3132

1

***

***

***

***

***

***

***

***

LIFEEXP

0.2699

0.2623

0.2791

0.1175

0.1633

-0.3549

-0.1812

-0.2605

-0.213

0.4279

1

-0.081 *

***

***

***

**

***

***

***

***

***

***

INFMOR

-0.4396

-0.4348

-0.4383

-0.251

-0.1785

0.4925

0.1383

0.1151

0.3659

0.2792

-0.5233

-0.9007

1

***

***

***

***

***

***

***

**

***

***

***

***

AID

0.1284

0.1234

-0.1156

0.2006

0.31

0.0794

-0.3586

0.0006

-0.3565

-0.2483

0.0688

0.0606

-0.0355

1

*

***

**

**

***

***

***

***

***

DEBT

0.1634

0.1479

0.1652

0.1025

-0.0552

-0.1886

0.0366

-0.0538

-0.1143

-0.1438

0.1426

0.1014

-0.0896

0.1226

1

***

***

***

**

***

**

***

***

**

*

***

Bảng 4.2: Ma trận hệ số tƣơng quan

45

Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến đƣợc trình bày trong Bảng 4.2. Mức ý nghĩa

của các hệ số tƣơng quan nhỏ hơn hoặc bằng 10% đƣợc thể hiện bằng ký hiệu *,

mức ý nghĩa nhỏ hơn hoặc bằng 5% đƣợc thể hiện bằng ** và mức ý nghĩa nhỏ hơn

hoặc bằng 1% đƣợc thể hiện bằng ***. Hệ số tƣơng quan giữa biến độc lập và biến

phụ thuộc càng cao thì mối tƣơng quan giữa các biến này càng lớn và có thể đạt tối

đa ở mức bằng 1.

Thông qua phân tích ma trận hệ số tƣơng quan Bảng 4.2, chúng ta thấy rằng hệ số

tƣơng quan giữa biến trễ của biến phụ thuộc (LTAXRE) và biến phụ thuộc

(TAXRE) rất cao, vào khoảng 0.9701 ở mức ý nghĩa 1%. Con số này cho thấy một

thực tế tồn tại ở các nƣớc thu nhập trung bình thấp: số thu thuế năm sau phụ thuộc

rất nhiều vào số thu thuế năm trƣớc đó. Biến thu nhập bình quân đầu ngƣời

(GDPpc) và độ mở thƣơng mại (TRA) có tƣơng quan thuận với biến phụ thuộc, hệ

số khá cao ở mức 0.4355 và 0.5467. Tƣơng tự nhƣ vậy, các biến đầu tƣ trực tiếp

nƣớc ngoài (FDI), tỷ lệ đi học gộp (SCHTER) và tuổi thọ trung bình (LIFEEXP),

viện trợ (AID), nợ công (DEBT) cũng có mối tƣơng quan thuận chiều, tuy nhiên

mức độ tƣơng quan thấp hơn biến GDPpc và TRA. Ngƣợc lại, các biến giá trị gia

tăng ngành nông nghiệp/GDP (AGR), giá trị gia tăng ngành công nghiệp/GDP

(IND), lạm phát (CPI), quyền chính trị (POLRIG), tự do dân sự (CIVLIB), tỷ lệ tử

vong ở trẻ em (INFMOR) có tƣơng quan ngƣợc chiều với biến phụ thuộc.

Nhìn chung, sự tƣơng quan giữa các biến giải thích là không cao nhƣng hiện tƣợng

đa cộng tuyến vẫn có khả năng xảy ra. Một số cặp biến có tƣơng quan mạnh với

nhau nhƣ CIVLIB và POLRIG, LIFEEXP và INFMOR. Có thể thấy rằng CIVLIB

và POLRIG cùng nằm trong nhóm biến thể chế, LIFEEXP và INFMOR cùng nằm

trong nhóm biến xã hội nên hệ số tƣơng quan cao của chúng là điều dễ hiểu. Quốc

gia mà ngƣời dân có đầy đủ các quyền tự do dân sự thì cũng sẽ có quyền chính trị

đầy đủ, có an sinh xã hội tốt thì tuổi thọ trung bình cao hơn và số trẻ tử vong ít hơn.

Đây chỉ là các phân tích đơn biến nên các kết quả có đƣợc vẫn chƣa thể xác định, để

phân tích sâu hơn tác giả sẽ tiến hành các phân tích đa biến ở phần sau.

46

4.4 Hồi quy theo các phƣơng pháp OLS, FE, RE

Nhắc lại mô hình (1) ban đầu có dạng nhƣ sau:

k=1 βk Xkit + ηi + uit

TAXRE it = αi + ∑n

Trƣớc tiên, tác giả bắt đầu với phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất OLS tổng hợp

tất cả các quan sát và giả định rằng αi = α. Kết quả thu đƣợc đƣợc trình bày ở Bảng

4.3, cột (1). Theo phƣơng pháp ƣớc lƣợng này, các biến GDPpc, TRA, FDI, CPI,

POLRIG, DEBT có hệ số hồi quy dƣơng. Các biến AGR, IND, CIVLIB, LIFEEXP,

INFMOR có hệ số hồi quy âm ở mức ý nghĩa 1% và biến SCHTER và AID không

có tác động.

Cách tiếp cận OLS truyền thống có hai nhƣợc điểm lớn: OLS giả sử rằng giá trị hệ

số chặn của các quốc gia là nhƣ nhau và không kiểm soát các yếu tố đặc thù quốc

gia. Vì vậy để kiểm tra xem liệu có tồn tại những đặc điểm không hợp lý hay không

thì phƣơng pháp ƣớc lƣợng hiệu ứng cố định đƣợc sử dụng để tính đến các yếu tố

đặc thù quốc gia.

Mô hình hiệu ứng cố định (FE) giả định rằng các đặc điểm riêng của các quốc gia

có tƣơng quan với các biến độc lập, do đó mô hình thêm biến giả để kiểm soát yếu

tố đặc thù quốc gia. Kết quả đƣợc trình bày trong Bảng 4.3, cột (2). Qua phƣơng

pháp FE, các biến GDPpc, TRA, POLRIG, DEBT có hệ số hồi quy dƣơng. Biến

CIVLIB, AID và INFMOR có hệ số hồi quy âm với mức ý nghĩa 1% và 5%. Các

biến còn lại không có tác động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ thuộc. Sau đó kiểm

định F đƣợc thực hiện để biết đƣợc liệu biến giả có thuộc mô hình này không. Giả

thuyết H0 trong kiểm định này là các hệ số của các biến giả bằng 0. Kết quả kiểm

định cho thấy F (34, 407) = 54.64, Prob > F = 0.0000 nên giả thuyết H0 bị bác bỏ,

do đó phƣơng pháp FE thích hợp hơn OLS trong việc ƣớc lƣợng bộ dữ liệu.

47

Bảng 4.3 Kết quả ƣớc lƣợng bằng phƣơng pháp OLS, FE, RE

Biến OLS (1) FE (2) RE (3)

0.00118 *** 0.00027 0.05213 *** 0.00659 0.10606 ** 0.04485 -0.11877 *** 0.03235 -0.07555 *** 0.02453 0.10582 *** 0.0304

-1.45556 ***

0.0017 *** 0.0004 0.0244 *** 0.0076 0.0292 0.0245 0.0232 0.0314 -0.012 0.028 0.0137 0.017 -0.732 *** 0.2544 0.5948 ***

0.3579 1.56576 *** 0.23789 -0.14644 0.8431

-0.25439 *** 0.06404 -0.0772 *** 0.01516 0.02682 0.03741 0.34687 *** 0.1149 31.0283 *** 5.33687 GDPpc TRA FDI AGR IND CPI CIVLIB POLRIG SCHTER LIFEEXP INFMOR AID DEBT _cons 0.164 0.4555 1.1708 -0.058 0.1301 -0.042 ** 0.0174 -0.104 *** 0.0328 0.1477 ** 0.0665 15.559 * 8.996 0.0017 *** 0.0004 0.0308 *** 0.007 0.0335 0.0243 0.0147 0.0305 -0.029 0.0264 0.0137 0.0168 -0.766 *** 0.2431 0.6656 *** 0.1595 0.4367 1.0954 -0.106 0.1027 -0.051 *** 0.016 -0.086 *** 0.0318 0.1549 ** 0.0654 19.124 ** 7.4469

(Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ phần mềm STATA 12)

Trong mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE), sự khác biệt giữa các quốc gia đƣợc ghi

lại thông qua phƣơng trình ωit = ԑi + uit, với ԑi là phần không quan sát đƣợc đại diện

cho thành phần sai số riêng biệt; uit là kết hợp các thành phần sai số của chuỗi thời

gian và dữ liệu chéo. RE giả sử rằng ԑi không tƣơng quan với bất kỳ một biến giải

48

thích Xkit nào trong phƣơng trình. Kết quả ƣớc lƣợng trình bày trong Bảng 4.3, cột

(3) cho thấy các biến GDPpc, TRA, POLRIG, DEBT có hệ số hồi quy dƣơng. Biến

CIVLIB, INFMOR và AID có hệ số hồi quy âm với mức ý nghĩa 1%. Các biến còn

lại gồm FDI, AGR, IND, CPI, SCHTER, LIFEEXP không có tác động có ý nghĩa

thống kê đến biến phụ thuộc.

Cả mô hình FE và RE đều có ƣu điểm hơn sử dụng OLS. Để xác định xem phƣơng

pháp FE hay phƣơng pháp RE phù hợp hơn, tác giả tiến hành kiểm định Hausman.

Giả thuyết H0 trong kiểm định này là các biến hồi quy Xkit và thành phần sai số

không có tƣơng quan với nhau. Nếu kiểm định bác bỏ H0 thì ƣớc lƣợng hiệu ứng

ngẫu nhiên bị chệch và mô hình hiệu ứng cố định hợp lý hơn. Kết quả từ kiểm định

Hausman cho thấy Prob>chi2 = 0.0679 (>0.05) nên chƣa đủ cơ sở để bác bỏ giả

thuyết H0. Do đó, mô hình RE sử dụng cho bộ dữ liệu nghiên cứu sẽ cho kết quả

vững hơn mô hình FE.

4.5 Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến

Kết quả ma trận tƣơng quan ở Bảng 4.2 cho thấy khả năng xảy ra hiện tƣợng đa

cộng tuyến trong mô hình là không cao do mối tƣơng quan giữa các biến giải thích

khá yếu. Để xác định rõ hơn về sự tồn của hiện tƣợng đa cộng tuyến trong mô hình,

kiểm định đa cộng tuyến đã đƣợc tiến hành và cho kết quả tại Bảng 4.4.

Sau khi nghiên cứu kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến của mô hình thì kết quả cho

thấy tất cả các hệ số nhân tử phóng đại phƣơng sai VIF đều nhỏ hơn 10, đồng thời

giá trị VIF trung bình của các biến trong mô hình là 3.43 cũng nhỏ hơn 10. Do đó

mô hình không có hiện tƣợng đa cộng tuyến.

49

Bảng 4.4: Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến

Biến VIF

INFMOR CIVLIB LIFEEXP POLRIG AGR GDPpc SCHTER AID TRA IND FDI CPI DEBT VIF trung bình 8.27 8.19 6.62 6.39 2.49 2.47 1.77 1.58 1.53 1.44 1.42 1.25 1.15 3.43

(Nguồn: Tổng hợp tính toán của tác giả từ phần mềm STATA 12)

4.6 Kiểm tra hiện tƣợng tự tƣơng quan

Hiện tƣợng tự tƣơng quan cũng là một trong những vấn đề có thể dẫn đến kết quả

ƣớc lƣợng bị chệch. Khi xuất hiện tự tƣơng quan, cả phƣơng sai và độ lệch chuẩn

của sai số có khả năng bị ƣớc tính thấp và bị chệch, dẫn đến kết luận sai lầm về ý

nghĩa thống kê của hệ số hồi quy. Do đó, tác giả tiến hành kiểm định tự tƣơng quan

theo phƣơng pháp kiểm định Wooldridge. Với giả thuyết:

 Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tƣợng tự tƣơng quan

 Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tƣợng tự tƣơng quan

Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

F (1, 34) = 39.730

Prob > F = 0.0000

Do P-value < 0.05 nên bác bỏ giả thuyết H0, dữ liệu nghiên cứu có hiện tƣợng tự

tƣơng quan.

50

4.7 Kiểm tra hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi trong mô hình RE

Trong mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên, sự khác biệt giữa các thực thể đƣợc ghi lại

thông qua phƣơng trình ωit = ԑi + uit, với ԑi là phần không quan sát đƣợc đại diện cho

thành phần sai số riêng biệt; uit là kết hợp các thành phần sai số của chuỗi thời gian

và dữ liệu chéo. Mô hình RE giả sử rằng ԑi không tƣơng quan với bất kỳ một biến

giải thích Xkit nào trong phƣơng trình. Kiểm định Breusch-Pagan đƣợc thiết lập để

kiểm định xem phƣơng sai của sai số qua các thực thể có thay đổi hay không, tức là

kiểm định giả thuyết var (ω) = 0.

 Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi

 Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi

Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

chibar2 (01) = 1488.56

Prob > chibar2 = 0.0000

Giá trị P-value < 0.05, điều này cho thấy kiểm định đã bác bỏ giả thuyết Ho hay nói

cách khác là mô hình tác động ảnh hƣởng ngẫu nhiên trong bài nghiên cứu có hiện

tƣợng phƣơng sai thay đổi.

4.8 Kết quả hồi quy bằng phƣơng pháp DGMM

Nhƣ đã trình bày ở Chƣơng 3, phƣơng pháp uớc luợng DGMM có khả năng khắc

phục các nhƣợc điểm của các mô hình OLS, FE, RE. Do đó, tác giả tiến hành ƣớc

lƣợng dữ liệu nghiên cứu theo phƣơng pháp DGMM và kết quả ƣớc lƣợng đƣợc

trình bày trong Bảng 4.5.

51

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy DGMM

Biến LTAXRE DGMM 0.1845421 ** 0.0749449

GDPpc 0.0042005 *** 0.0016162

TRA 0.0578632 *** 0.0095744

FDI 0.0300484 * 0.0154042

-0.2515048 ** 0.0977129 AGR

IND CPI 0.1394321 * 0.0718349 -0.0323936 * 0.0181418

CIVLIB -0.8105822 * 0.4644748

0.4261561 0.4589188

4.522616 ** 1.906893 POLRIG SCHTER

-1.606698 ** 0.7306002 LIFEEXP

-0.2266554 *** 0.0770424

-0.1357723 ** 0.0674335 INFMOR AID

DEBT 0.7381908 *** 0.1713911

Kiểm định AR(2) Kiểm định Sargan Kiểm định Hansen Số biến công cụ 0.554 0.574 0.887 35

(Nguồn: tổng hợp tính toán của tác giả từ phần mềm STATA 12)

52

Phƣơng pháp GMM có một giả định quan trọng là phần dƣ không có tƣơng quan

chuỗi. Để đảm bảo giả định này, kiểm định tƣơng quan chuỗi bậc hai - kiểm định

AR(2) (Arellano và Bond) đƣợc tiến hành. Giả thuyết H0: không tồn tại mối tƣơng

quan chuỗi bậc 2. Theo kết quả kiểm định, giá trị p-value = 0.554 (>0.05) nên chấp

nhận giả thuyết H0. Điều đó cho thấy rằng mô hình trong bài nghiên cứu của tác giả

không tồn tại hiện tƣợng tƣơng quan chuỗi bậc 2.

Để đánh giá giá trị của các biến công cụ, tác giả thực hiện kiểm định Sargan và

kiểm định Hansen. Giả thuyết H0: Các biến công cụ không tƣơng quan với phần dƣ

(hay biến công cụ là có giá trị). Kết quả kiểm định Sargan cho thấy giá trị p-value =

0.574 (>0.05) và kiểm định Hansen cho thấy giá trị p-value = 0.887. Do đó, cả hai

kiểm định trên đều chấp nhận giả thuyết H0, tức là mô hình nghiên cứu mà tác giả

đề xuất cho dữ liệu nghiên cứu này là có hiệu lực. Ngoài ra, để kiểm định Sargan và

kiểm định Hansen không bị yếu thì số lƣợng các biến công cụ đƣợc lựa chọn phải

nhỏ hơn hoặc bằng số lƣợng các nhóm đƣợc quan sát. Theo kết quả tại Bảng 4.5, số

biến công cụ và số quốc gia đƣợc lấy mẫu đều là 35, do đó, mô hình đáp ứng đƣợc

điều kiện sử dụng phƣơng pháp GMM.

Từ các kết quả trên cho thấy mô hình của tác giả là có hiệu lực và tất cả các kết quả

trong GMM đều có ý nghĩa. Bằng các kết quả này, mô hình hồi quy đƣợc sử dụng

để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế, yếu tố thể chế, xã hội và các yếu tố

khác đến số thu thuế/GDP, bao gồm 14 nhân tố: giá trị trễ một kì của biến số thu

thuế/GDP (LTAXRE), thu nhập bình quân đầu ngƣời (GDPpc), độ mở thƣơng mại

(TRA), đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI), tỷ lệ % giá trị gia tăng ngành nông

nghiệp trong GDP (AGR), tỷ lệ % giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP

(IND), lạm phát (CPI), quyền chính trị (POLRIG), quyền tự do dân sự (CIVLIB), tỷ

lệ đi học gộp (SCHTER), tuổi thọ trung bình (LIFEEXP), tỷ lệ tử vong ở trẻ em

(INFMOR), viện trợ (AID), nợ công (DEBT).

53

Kết quả hồi quy cho thấy các yếu tố LTAXRE, GDPpc, TRA, FDI, AGR, IND, CPI

CIVLIB, SCHTER, LIFEEXP, INFMOR, AID, DEBT có tác động có ý nghĩa thống

kê đến biến phụ thuộc. Dƣới đây tác giả trình bày ý nghĩa, chiều hƣớng tác động

cũng nhƣ sự đối chiếu so sánh với lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc

đây.

Giá trị trễ một kì của biến số thu thuế/GDP (LTAXRE): kết quả cho thấy số thu

thuế/GDP chịu tác động của chính nó ở kỳ trƣớc theo hƣớng đồng biến. Khi số thu

thuế/GDP kì trƣớc tăng thì số thu thuế/GDP kì này cũng tăng với mức ý nghĩa 5%.

Kết quả này phù hợp với lý thuyết theo cách tiếp cận của Keynes, tức là tỷ lệ thuế

thu cao hơn sẽ khuyến khích việc chi tiêu công và tăng trƣởng kinh tế và tiếp tục tạo

ra nguồn thu nhiều hơn. Ngoài ra, đa số các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây cũng

có cùng quan điểm này nhƣ các nghiên cứu của Agbeyegbe et al (2004), Gupta

(2007), Castro và Camarillo (2014).

Thu nhập bình quân đầu ngƣời (GDPpc): yếu tố này có tác động thuận chiều với

biến phụ thuộc ở mức ý nghĩa 1%. Nhƣ vậy ở các nƣớc thu nhập trung bình thấp,

cũng giống nhƣ các nƣớc đang phát triển, các nƣớc thu nhập cao, các nƣớc OECD

hay các nƣớc Mỹ Latinh, yếu tố đại diện cho mức độ phát triển của một quốc gia có

tác động thuận chiều với số thu thuế/GDP. Nói một cách khác, kết quả nghiên cứu

này phù hợp với những nghiên cứu trƣớc đây của các tác giả Eltony (2002), Gupta

(2007), Mahdavi (2008), Dioda (2012), Nguyễn Phi Khanh (2013), Castro và

Camarillo (2014).

Độ mở thƣơng mại (TRA): tỷ trọng giá trị nhập khẩu và xuất khẩu trong GDP có

tƣơng quan thuận chiều với biến phụ thuộc ở mức ý nghĩa 1%. Có thể diễn giải kết

quả nhƣ sau: với các yếu tố khác không đổi, khi độ mở thƣơng mại tăng 1% thì tỷ

trọng số thu thuế trong GDP tăng 0.0579%. Nhƣ vậy kết quả phù hợp với lập luận

đầu tiên cho rằng độ mở thƣơng mại có tác động tích cực do việc áp dụng thuế nhập

khẩu, ngoài ra, khi mở rộng thƣơng mại thì tính chính thức và khả năng cạnh tranh

của nền kinh tế sẽ tăng lên và do đó, tăng khả năng thu thuế. Một số tác giả nhƣ

54

Eltony (2002), Gupta (2007), Bird et al (2008) cũng có kết luận tƣơng tự trong các

nghiên cứu của mình. Với các nƣớc đang phát triển nói chung và các nƣớc thu nhập

trung bình thấp nói riêng, mở rộng thƣơng mại vừa đem lại cơ hội vừa đem lại thách

thức. Tuy nhiên, tựu trung lại thì lợi ích mang lại cho các quốc gia vẫn nhiều hơn

những bất lợi. Thuế trên hàng hóa xuất/nhập khẩu có thể giảm đi do các chính sách

đẩy mạnh thƣơng mại hóa nhƣng bù lại, nền kinh tế đƣợc tạo động lực phát triển

mạnh mẽ, khơi thông dòng tiền và đem lại thu nhập lớn hơn cho các cá nhân, doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc lĩnh vực liên quan nhƣ dịch

vụ vận tải, logistic, kho bãi…

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) trong kết quả nghiên cứu của tác giả có tác

động đồng biến với biến phụ thuộc. Hệ số hồi quy 0.03 có nghĩa: khi các yếu tố

khác không đổi, tỷ lệ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trong GDP tăng 1% thì số thu

thuế/GDP tăng 0.03% với mức ý nghĩa 10%. Trong nghiên cứu của mình về tác

động của dòng vốn FDI đến khả năng cạnh tranh của quốc gia, Gugler và Brunner

(2007) cho rằng với những chính sách đúng đắn, dòng vốn FDI sẽ làm tăng khả

năng cạnh tranh và tính chính thức của nền kinh tế. Quốc gia làm tốt khâu chuẩn bị

cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đầu tƣ sớm vào nguồn vốn con ngƣời có khả năng hấp thụ tốt

nhất dòng vốn đầu tƣ FDI thông qua việc tiếp thu bí quyết công nghệ và quyền sở

hữu trí tuệ, tăng số lƣợng việc làm chất lƣợng cao. Từ đó, quốc gia sẽ cải thiện đƣợc

năng lực sản xuất, tiếp tục thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài và mở rộng cơ sở thuế. Bƣớc

từ nhóm các quốc gia thu nhập thấp lên nhóm thu nhập trung bình đồng nghĩa với

việc sẽ không còn đƣợc nhận các ƣu đãi về vốn vay nhƣ trƣớc đây nữa. Do đó, một

trong những giải pháp thay thế tƣơng đối toàn diện trên các khía cạnh chính là thu

hút nguồn vốn FDI. Quốc gia nào càng sớm nhận ra điều này thì càng rút ngắn

khoảng cách thu nhập với các nƣớc phát triển và sẽ tạo ra nguồn thu càng lớn cho

ngân sách.

55

Tỷ lệ % giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP (AGR) có tƣơng quan

ngƣợc chiều với số thu thuế/GDP với mức ý nghĩa 5%. Cụ thể khi tỷ lệ % giá trị gia

tăng ngành nông nghiệp trong GDP (AGR) tăng 1% thì số thu thuế/GDP giảm

0.2515% với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả nghiên cứu này phù hợp

với phát hiện của các tác giả trƣớc đây nhƣ Piancastelli (2001), Bird et al (2008),

Castro và Camarillo (2014). Mặc dù chính phủ các nƣớc có nhiều biện pháp khuyến

khích phát triển nông nghiệp nhƣng kết quả nghiên cứu ở các nƣớc trung bình thấp

lại cho thấy nông nghiệp càng chiếm tỷ trọng lớn, số thuế thu đƣợc càng ít. Điều

này chính là do đặc thù ngành nông nghiệp của các quốc gia trong mẫu. Cụ thể, nền

kinh tế ở các nƣớc có thu nhập trung bình thấp còn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và

đa phần lại theo mô hình hộ gia đình nhỏ lẻ, trình độ canh tác thấp, chƣa có nhiều

ứng dụng khoa học công nghệ cao. Điều này có hai tác động, thứ nhất là canh tác

với quy mô nhỏ, chƣa đồng bộ công nghệ kĩ thuật tiên tiến sẽ cho ra năng suất thấp,

giá trị gia tăng không cao; thứ hai là với số lƣợng lớn nông dân tự cung tự cấp, cơ

quan thuế sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý kê khai và thu thuế. Cả hai tác động

này đều khiến cho số thu thuế/GDP giảm đi.

Tỷ lệ % giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP (IND) có tƣơng quan

thuận chiều với biến phụ thuộc ở mức ý nghĩa 10%. Khi tỷ lệ % giá trị gia tăng

ngành công nghiệp trong GDP tăng 1% thì số thu thuế/GDP tăng 0.1394% với điều

kiện các yếu tố khác không đổi. Castro và Camarillo (2014), trong nghiên cứu của

mình, cũng cho thấy kết quả tƣơng tự. Các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp

thƣờng dễ dàng thu thuế và sản xuất tạo ra mức thu nhập chịu thuế lớn hơn so với

ngành nông nghiệp (Eltony, 2002). Đa phần các nƣớc thu nhập trung bình thấp có

nền kinh tế dựa vào nông nghiệp. Mặc dù vậy, các quốc gia cũng đang dần dần thực

hiện chiến lƣợc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bằng chứng thực nghiệm cũng cho

thấy ngành công nghiệp tạo ra thu nhập chịu thuế lớn hơn nhiều so với ngành nông

nghiệp.

56

Lạm phát (CPI) có tƣơng quan ngƣợc chiều với tỷ lệ % số thu thuế trong GDP với

mức ý nghĩa 10%. Hệ số hồi quy có thể đƣợc diễn giải nhƣ sau: với các điều kiện

khác không đổi, khi lạm phát tăng 1% thì số thu thuế/GDP sẽ giảm 0.0323%. Đồng

thuận với kết quả nghiên cứu này còn có các tác giả Agbeyegbe et al (2004),

Pessino và Fenochietto (2010). Lạm phát ở các nƣớc thu nhập trung bình thấp khá

cao, thậm chí ở mức hai con số. Lạm phát cao không chỉ ảnh hƣởng đến GDP thực,

tức là ảnh hƣởng gián tiếp đến thu ngân sách, mà còn tạo ra nhiều khó khăn cho đời

sống xã hội của ngƣời dân, dẫn đến một bộ phận dân nhân bất mãn và làm giảm tinh

thần tự nguyện đóng góp cho ngân sách.

Quyền tự do dân sự (CIVLIB) tuy có hệ số hồi quy âm nhƣng về mặt ý nghĩa lại

có tác động đồng biến với biến phụ thuộc, tức là quốc gia nào có mức độ tự do của

công dân càng cao thì số thuế/GDP càng cao. Tự do dân sự đƣợc đo lƣờng bằng

thang đo từ 1 đến 7 với 1 là mức độ cao nhất và 7 là mức độ thấp nhất của các

quyền tự do của công dân. Do đó, chỉ số này càng thấp hoặc càng gần 1 tức là

quyền tự do càng cao thì số thu thuế/GDP càng cao. Đây cũng chính là ý nghĩa của

dấu (-) trong hệ số hồi quy của biến CIVLIB. Các nghiên cứu trƣớc đây của các tác

giả Mahdavi (2008), Dioda (2012), Martin-Mayoral và Uribe (2010) cũng đồng

thuận với quan điểm cho rằng quyền tự do của công dân càng cao thì quốc gia càng

có khả năng thu đƣợc nhiều thuế.

Tỷ lệ đi học gộp (SCHTER): giống nhƣ kì vọng ban đầu, tỷ lệ nữ/nam đƣợc tham

gia vào hệ thống giáo dục trung học có tƣơng quan thuận chiều với biến phụ thuộc.

Kết quả này khẳng định lại lý thuyết ban đầu cho rằng một hệ thống giáo dục thống

nhất sẽ thúc đẩy những cam kết của ngƣời dân đối với xã hội, dẫn đến việc hình

thành một ý thức tốt trong ngƣời dân về những lợi ích từ việc đóng thuế. Một số

nghiên cứu trƣớc đây của các tác giả Pessino và Fenochietto (2010), Dioda (2012)

cũng cho thấy kết quả tƣơng tự. Đa phần các nƣớc thu nhập trung bình thấp nằm ở

châu Á và châu Phi thƣờng có tỷ lệ đi học khá thấp, đặc biệt là ở nữ giới. Một phần

do văn hóa trọng nam khinh nữ, một phần do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nữ

57

giới buộc phải ở nhà chăm sóc gia đình. Hậu quả là các quốc gia mất đi một nguồn

đáng kể số thuế thu đƣợc từ lao động nữ giới. Hơn nữa, nghèo nàn cộng với trình độ

dân trí thấp khiến cho ngƣời dân không có nỗ lực tuân thủ thuế.

Tuổi thọ trung bình (LIFEEXP): dựa vào bảng kết quả hồi quy, chúng ta có thể

thấy một mối quan hệ nghịch biến giữa tuổi thọ trung bình và số thu thuế/GDP ở

mức ý nghĩa 5%. Điều này phù hợp với lập luận cho rằng yếu tố tuổi thọ trung bình

có thể là một tác động bất lợi đối với biến phụ thuộc bởi vì tuổi thọ trung bình càng

cao thì lƣợng ngƣời nghỉ hƣu càng lớn và do đó, sẽ làm giảm khả năng thu thuế từ

những ngƣời thuộc đối tƣợng về hƣu này. Nghiên cứu của Castro và Camarillo

(2014) cũng đồng thuận với những phát hiện trên.

Tỷ lệ tử vong ở trẻ em (INFMOR) có tác động nghịch biến với biến phụ thuộc

trong mô hình với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này cũng phù hợp với những nghiên

cứu thực nghiệm của Birchenall (2004), Castro và Camarillo (2014). Nhƣ đã đề cập

trong Chƣơng 2, tỷ lệ tử vong thấp ở trẻ em có thể đại diện phần nào cho trình độ

phát triển và an sinh xã hội của một quốc gia. Các nƣớc thu nhập trung bình thấp

vẫn còn tỷ lệ tử vong ở trẻ em khá cao, đồng nghĩa với trình độ phát triển và an sinh

xã hội thấp tƣơng ứng. Ngƣời dân sống trong một quốc gia kinh tế tăng trƣởng

chậm, mức sống thấp, trình độ dân trí thấp, xã hội nhiều tệ nạn, bệnh tật nhiều

nhƣng ngành y tế non kém thì không thể đạt đƣợc năng suất lao động cao, không

tạo đƣợc nhiều giá trị gia tăng cho xã hội dẫn đến số thuế thu đƣợc thấp hơn nhiều

lần so với các nƣớc phát triển có tỷ lệ tử vong thấp.

Viện trợ (AID) có tác động nghịch biến với tỷ lệ % số thu thuế trong GDP ở mức ý

nghĩa 5%. Theo Gupta et al. (2004) các khoản cho vay ƣu đãi sẽ dẫn đến việc huy

động nguồn thu nội địa cao hơn, trong khi các khoản tài trợ có ảnh hƣởng ngƣợc lại.

Madavi (2008), Baunsgaard và Keen (2009) cũng phát hiện mối quan hệ ngƣợc

chiều giữa nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và số thu thuế/GDP. Trong mẫu

nghiên cứu có nhiều quốc gia vừa đƣợc phân loại lại từ nhóm thu nhập thấp sang

nhóm thu nhập trung bình trong những năm gần đây. Do đó, các nguồn viện trợ phát

58

triển vẫn chƣa mất hẳn mà chỉ giảm dần theo lộ trình. Các nƣớc càng nghèo, nguồn

viện trợ càng lớn cộng với tâm lý dựa dẫm viện trợ, trình độ quản lý thấp, không có

kế hoạch sử dụng vốn một cách hiệu quả dẫn đến sử dụng lãng phí nguồn viện trợ,

kinh tế không tăng trƣởng kéo theo số thu ngân sách thấp.

Nợ công (DEBT) tăng lên có ảnh hƣởng khiến số thu thuế/GDP tăng lên nhanh

chóng, hay nói cách khác, biến này có tác động thuận chiều với biến phụ thuộc ở

mức ý nghĩa 1%. Một số nghiên cứu trƣớc đây của các tác giả Gupta (2007),

Madavi (2008) cũng đồng thuận với quan điểm cho rằng các nƣớc có nợ công và nợ

đƣợc đảm bảo bởi khu vực công lớn sẽ tạo áp lực tăng thuế nhằm tạo ra thặng dƣ

ngân sách để phục vụ cho việc thanh toán khoản nợ. Với quy trình và khung quản lý

vĩ mô còn non kém trong khi nhu cầu xây dựng cơ bản và tài trợ cho các dự án phúc

lợi xã hội cao, các nƣớc thu nhập trung bình thấp rất dễ rơi vào tình trạng vay nợ

công quá nhiều. Hơn nữa, do chính sách còn lỏng lẻo, các nƣớc chƣa sử dụng nợ

làm đòn bẩy phát triển kinh tế và làm nguồn trả nợ mà thay vào đó lại tiếp tục vay

nợ mới để trả nợ cũ. Áp lực nợ công khiến nhiều nƣớc tìm cách tăng thu thuế, điều

đó giải thích vì sao ở các nƣớc thu nhập trung bình thấp nợ công càng cao thì số thu

thuế càng lớn.

59

Tóm tắt chƣơng 4

Ở đầu chƣơng 4, tác giả tiến hành thống kê, mô tả cho biến phụ thuộc số thu

thuế/GDP (TAXRE) để có cái nhìn tổng quan về tỷ lệ % thuế trong GDP trung bình

của các quốc gia thu nhập trung bình thấp giai đoạn 2002-2014. Tiếp theo, đồ thị

tƣơng quan điểm và đƣờng đƣợc vẽ để xem xét trực quan tác động của từng biến

độc lập đến biến phụ thuộc. Sau đó, tác giả tiến hành hồi quy theo các phƣơng pháp

OLS, FE, RE và kiểm định hiện tƣợng đa cộng tuyến, hiện tƣợng tự tƣơng quan và

hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi cho mô hình. Để khắc phục các khiếm khuyết của

mô hình, phƣơng pháp DGMM đƣợc áp dụng để xem xét tác động của các biến độc

lập bao gồm cả giá trị trễ của biến phụ thuộc. Hệ số hồi quy từ phƣơng pháp

DGMM đƣợc so sánh và đối chiếu dấu với giả thuyết nghiên cứu mà tác giả kỳ

vọng ở Chƣơng 3.

60

CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN

5.1 Kết luận

Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm làm rõ tác động của một số yếu tố đến tỷ lệ %

số thu thuế trên GDP của 35 nƣớc thu nhập trung bình thấp theo phân loại của

World Bank trong giai đoạn 2002-2014. Trong số 14 yếu tố đƣợc đƣa vào để kiểm

tra mối tƣơng quan với biến phụ thuộc, có 13 yếu tố có tác động có ý nghĩa thống

kê. Cụ thể, các yếu tố giá trị trễ của biến phụ thuộc (LTAXRE), GDP bình quân đầu

ngƣời (GDPpc), độ mở thƣơng mại (TRA), đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI), tỷ

trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong GDP (IND), quyền tự do dân sự

(CIVLIB), tỷ lệ đi học (SCHTER), nợ công (DEBT) có tác động đồng biến với biến

phụ thuộc. Ngƣợc lại, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trong GDP

(AGR), lạm phát (CPI), tuổi thọ trung bình (LIFEEXP), tỷ lệ tử vong ở trẻ em

(INFMOR) và viện trợ (AID) có tác động nghịch biến với biến phụ thuộc.

5.2 Một số giải pháp và kiến nghị

Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả kỳ vọng sẽ góp phần giúp các cơ quan quản

lý thuế ở các nƣớc thu nhập trung bình thấp có thể xây dựng một hệ thống thuế tối

ƣu cùng với các biện pháp nâng cao số thu thuế, phục vụ cho việc phát triển kinh tế

và cải thiện phúc lợi xã hội. Dƣới đây là một số kiến nghị chính sách cho các quốc

gia trong mẫu nói chung và cho Việt Nam nói riêng, dựa trên kết quả nghiên cứu

của tác giả.

Số thu thuế năm trƣớc và số thu thuế các năm sau có mối tƣơng quan chặt chẽ với

nhau. Vì vậy, việc đặt mục tiêu thu ngân sách và triển khai kế hoạch hành động để

hoàn thành mục tiêu là một vấn đề quan trọng mà các nƣớc phải quan tâm chú

trọng. Số thu mục tiêu cần hợp lý, phù hợp với tình hình kinh tế, năng lực thực hiện

của quốc gia và cân đối với chi phí hành thu. Điều quan trọng hơn cả là làm thế nào

để sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn thu năm nay để tạo nền tảng tốt cho việc tăng

nguồn thu các năm sau. Để làm đƣợc điều này, chính phủ các nƣớc không chỉ tìm ra

chiến lƣợc thu hiệu quả mà cần phối hợp với kế hoạch chi tiêu hợp lý, tiết kiệm,

61

không để lãng phí vào những dự án không đem lại hiệu suất kinh tế cao hay phúc

lợi cho ngƣời dân.

Độ mở thƣơng mại có tác động thuận chiều với số thu thuế. Do đó, các cơ quan

quản lý cần đƣa ra các biện pháp khuyến khích, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập

khẩu, nhất là các mặt hàng có giá trị cao. Hành động này không chỉ có tác động trực

tiếp là làm tăng nguồn thu thuế từ thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu mà còn có tác

động gián tiếp là thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, tăng thu nhập, từ đó tạo ra nguồn thu

lớn hơn cho ngân sách. Tuy nhiên, các quốc gia cũng cần cân nhắc khi thực hiện

chính sách mở cửa bởi ở một khía cạnh nào đó độ mở thƣơng mại cũng có thể có

những tác động tiêu cực.

Yếu tố đầu tƣ nƣớc ngoài là một trong những yếu tố có tác động đến số thu thuế của

các quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp đƣợc lấy mẫu. Do đó, cần tập

trung vận động thu hút các dự án đầu tƣ đối với những lĩnh vực có nguồn thu ngân

sách lớn, thực hiện có hiệu quả các chính sách ƣu đãi. Song song với việc thu hút

đầu tƣ nƣớc ngoài, cơ quan quản lý cũng phải thành lập các tổ chức để xử lý các

doanh nghiệp FDI có hành vi chuyển giá và không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ

làm việc thực tiễn cho đội ngũ này. Ngoài ra, các nƣớc nên tham gia vào các hiệp

định, chƣơng trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận ra nƣớc ngoài để

liên kết với các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ nguồn thu ngân sách.

Theo lý thuyết cũng nhƣ kết quả nghiên cứu thực nghiệm thì các quốc gia có tỷ

trọng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp trên GDP càng cao thì tỷ trọng thuế trên

GDP lại càng thấp. Để cải thiện số thu thuế trong trƣờng hợp này, cơ quan quản lý

cấp quốc gia cần định hƣớng nền kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

chú trọng công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc

gia, các nƣớc vẫn cần đầu tƣ cho nông nghiệp thông qua phát triển nông nghiệp

công nghệ cao để nâng cao năng suất và chất lƣợng sản phẩm nông nghiệp. Thêm

vào đó, nông nghiệp cần hƣớng ra xuất khẩu, thiết lập những khu nông nghiệp tập

trung, đồng bộ, xây dựng các chuỗi nông sản sạch để ngành nông nghiệp dù giảm

62

về lƣợng nhƣng tăng lên về chất. Đây cũng là những giải pháp để ngành nông

nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, tạo ra nguồn thu lớn hơn và việc thu thuế

trong ngành nông nghiệp sẽ không còn gặp khó khăn. Song song với phát triển nông

nghiệp công nghệ cao, các nƣớc cũng cần cải thiện nền công nghiệp, đẩy mạnh đầu

tƣ phát triển khoa học công nghệ, gắn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật với sản xuất kinh doanh, với nhu cầu của thị trƣờng.

Những thay đổi trong môi trƣờng chính sách kinh tế vĩ mô đóng một vai trò quan

trọng trong việc nâng cao số thu thuế, lạm phát là một công cụ tốt đƣợc sử dụng để

đo lƣờng môi trƣờng chính sách kinh tế vì nó nắm bắt đƣợc tác động của chính sách

kinh tế vĩ mô. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi lạm phát càng tăng thì nguồn thu

của các quốc gia càng giảm. Do đó, các quốc gia cần có các biện pháp kiềm chế lạm

phát để, việc này không chỉ giúp ổn định nền kinh tế vĩ mô mà còn có tác dụng nâng

cao nguồn thu từ thuế.

Nghiên cứu cho thấy các yếu tố về thể chế nhƣ các quyền tự do cơ bản của công dân

có tác động tích cực đến số thu thuế của các quốc gia. Do đó, để tăng cƣờng số thu

ngân sách các nƣớc cần xây dựng nhà nƣớc pháp quyền hiện đại, trong đó có hệ

thống luật pháp theo thông lệ quốc tế, quy tắc ứng xử công khai, minh bạch và bộ

máy công quyền có trách nhiệm giải trình, có sự tham gia kiểm soát rộng rãi của

ngƣời dân và các tổ chức xã hội.

Các yếu tố về mặt xã hội cũng có tác động đến số thu thuế/GDP theo kết quả nghiên

cứu của tác giả. Giáo dục và y tế là hai trong những khoản chi của chính phủ các

nƣớc sẽ đem lại hiệu quả rất lớn về tăng trƣởng kinh tế trong dài hạn. Đối với

những quốc gia có nguồn ngân sách eo hẹp, việc khuyến khích tƣ nhân cùng tham

gia với chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công là một giải pháp phù hợp, đặc

biệt là hoạt động giáo dục. Ngoài ra, các nƣớc phải có biện pháp đẩy mạnh ứng

dụng khoa học công nghệ cao trong việc khám chữa bệnh, chú trọng vào giáo dục

trong ngành y tế.

63

Các nƣớc nhóm trung bình thấp nhận khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA)

khá lớn từ các nƣớc phát triển. Do đó, chính phủ các nƣớc cần có các biện pháp

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Đồng thời, các nƣớc cũng cần nghiên

cứu kế hoạch và chiến lƣợc giảm dần nguồn vốn ODA, đặc biệt là vốn ODA có điều

kiện, tăng cƣờng thu hút các nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài khác nhƣ FDI.

Nợ công có tác động đồng biến đối với số thu thuế. Mặc dù nợ công sẽ tạo áp lực

cho chính phủ nƣớc vay nợ tăng nguồn thu nội địa để chi trả cho khoản nợ công, và

ở một khía cạnh nào đó, thúc đẩy phát triển kinh tế trong nƣớc nhƣng chính phủ vẫn

cần có những giải pháp đối phó với những rủi ro của nợ công.

5.3 Những hạn chế và hƣớng phát triển của đề tài

Đề tài nghiên cứu có một số hạn chế nhƣ sau:

- Số lƣợng quan sát của bài nghiên cứu có giới hạn do đối tƣợng nghiên cứu là

nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và nhiều quốc gia không có sẵn dữ

liệu cần thiết cho giai đoạn nghiên cứu trên các nguồn dữ liệu đáng tin cậy.

- Tác giả chủ yếu dựa trên bài nghiên cứu của Castro và Camarillo (2014), và đƣa

thêm các biến lạm phát, viện trợ và nợ công. Điều này làm giảm độ tin cậy của kết

quả nghiên cứu do có nhiều biến giải thích đƣợc xem xét và một số biến chỉ có tác

động nhỏ đến biến phụ thuộc.

- Tác giả chƣa đi sâu nghiên cứu tác động của các biến độc lập trên từng loại thuế

riêng lẻ cấu thành nên tổng số thu thuế.

Với những hạn chế của đề tài và kết quả đạt đƣợc từ nghiên cứu của tác giả, tác giả

mong muốn sẽ khắc phục đƣợc hạn chế này cho bài nghiên cứu tiếp theo.

Đề tài có thể đƣợc mở rộng theo hƣớng đƣa vào mô hình các yếu tố khác nhƣ tỷ giá

hối đoái, quy mô và chất lƣợng chính phủ, đạo đức thuế… để thể hiện đầy đủ và

toàn diện hơn các yếu tố tác động đến số thu thuế. Hơn nữa, biến phụ thuộc có thể

đƣợc phát triển sâu hơn bằng cách nghiên cứu dữ liệu của từng loại thuế: thuế thu

64

nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế trên tài sản, thuế trên doanh thu bán

hàng hóa dịch vụ, thuế trên các hoạt động xuất nhập khẩu và ngoại thƣơng…

Ngoài ra, theo các nhà nghiên cứu kinh tế, một quốc gia thu đƣợc nhiều thuế không

có nghĩa là quốc gia đó có nền kinh tế phát triển, an sinh xã hội tốt. Từng quốc gia

với những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau cần áp dụng các mô hình

thuế khác nhau. Vấn đề quan trọng là các quốc gia phải tìm ra đƣợc mô hình thích

hợp cho mình và cải cách hệ thống thuế sao cho hiệu quả, bền vững. Làm đƣợc nhƣ

vậy tức là các quốc gia sẽ xây dựng đƣợc phƣơng án thu tối ƣu, phù hợp với điều

kiện nội tại, đồng thời cũng có kế hoạch chi tiêu hiệu quả để tiếp tục tạo cơ sở tốt

cho nguồn thu trong dài hạn. Đó cũng chính là một vấn đề nghiên cứu mà tác giả

muốn hƣớng tới sau bài nghiên cứu này.

Tác giả mong rằng với các hƣớng nghiên cứu mở rộng trên, đề tài sẽ đóng góp thêm

các phát hiện mới cũng nhƣ bổ trợ cho các quyết định liên quan đến chính sách thuế

của cơ quan quản lý thuế các quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Agbeyegbe, T., Stotsky, J.G., and WoldeMariam, A., 2004. Trade

Liberalization, Exchange Rate Changes, and Tax Revenue in Sub-Saharan Africa.

Working Paper 04/178. International Monetary Fund.

Arnold, J.M., Brys, B., Heady, C., Johansson, A., Schwellnus, C., and Vartia,

L., 2011. Tax Policy for Economic Recovery and Growth*. The Economic Journal,

121 (February), F59–F80.

Asian Development Bank, 2016. Key Indicators for Asia and the Pacific

2016, Last updated through SDBS on 30 September 2016.

Baunsgaard T., Keen M., 2009. Tax revenue and (or?) trade liberalization.

Journal of Public Economics 94 (2010) 563–577.

Bird, R.M., Martinez-Vazquez, J. and Torgler, B., 2004. Societal Institutions

and Tax Effort in Developing Countries. SSRN Electronic Journal.

Bird, R.M., Martinez-Vazquez, J. and Torgler, B., 2008. Tax Effort in

Developing Countries and High Income Countries: The Impact of Corruption,

Voice and Accountability. Economic Analysis & Policy, Vol. 38, No. 1.

Bùi Thị Mai Hoài và Nguyễn Thanh Hùng, 2016. Các yếu tố quyết định số

thu thuế ở quốc gia có thu nhập trung bình. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 27(1), 69-83.

Castro, G.A. and Camarillo D.B.R., 2014. Determinants of tax revenue in

OECD countries over the period 2001-2011. National Autonomous University of

Mexico.

Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, Niên khóa 2011-2013, Chương

16: Các mô hình hồi quy dữ liệu bảng.

Dioda, L., 2012. Structural determinants of tax revenue in Latin America and

the Caribbean, 1990-2009. Economic Commission for Latin America and the

Caribbean (ECLAC). Subregional Headquarters in Mexico.

Eltony, M.N., 2002. Measuring tax effort in Arab countries. Working Paper

Series 0229. Economic Research Forum for the Arab Countries. Iran and Turky.

Freedom House (1973-2014). Freedom in the World Scores.

Gupta, A.S., 2007. Determinants of tax revenue efforts in developing

countries. Working Paper 07/184. International Monetary Fund.

Mahdavi, S., 2008. The level and composition of tax revenue in developing

countries: Evidence from unbalanced panel data. International Review of

Economics and Finance 17 (2008) 607–617.

Nguyễn Minh Tiến, 2014. Hồi quy DGMM và PMG với dữ liệu bảng trong

Stata. Chuyên san Kinh Tế Đối Ngoại, kỳ 11, trang 40-41.

Nguyễn Phi Khanh, 2013. Các yếu tố tác động đến tổng số thu thuế - Nghiên

cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh.

Pessino, C., Fenochietto, R., 2010. Determining Countries' Tax Effort.

Hacienda Publica Espanola.

Piancastelli, M., 2001. Measuring tax effort of developed and developing

countries: cross country panel data analysis 1985-1995. Working Paper 818.

Institute of Applied Economic Research.

World Bank, 2017. World Bank Country and Lending Groups. Available at:

< datahelpdesk.worldbank.org/knowledgebase/articles/906519-world-bank-country-

and-lending-groups> [Accessed 1 April 2017]

World Bank, 2017. World Development Indicators. Washington, DC: World

Bank.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Kết quả hồi quy theo phƣơng pháp OLS

Phụ lục 2: Kết quả hồi quy theo phƣơng pháp FE

Phụ lục 3: Kết quả hồi quy theo phƣơng pháp RE

Phụ lục 4: Kiểm định Hausman

Phụ lục 5: Bảng kết quả kiểm tra đa cộng tuyến

Phụ lục 6: Kiểm tra hiện tƣợng tự tƣơng quan

Phụ lục 7: Kiểm tra hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi cho mô hình RE

Phụ lục 8: Kết quả hồi quy theo phƣơng pháp DGMM