BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------------------------------- NGUYỄN ANH TUẤN

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM Chuyên ngành: Khoa học quản lý Mã số: 9310110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Văn Bưu

HÀ NỘI - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 2020

Tác giả

Nguyễn Anh Tuấn

ii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ v DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH .............................................................................vi DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ .......................................................................... viii MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Sự cần thiết của nghiên cứu ................................................................................... 1 2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ......................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4 5. Kết cấu của luận án................................................................................................. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY KHỞI SỰ KINH DOANH ........................................... 6 1.1. Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh ....................................................................................... 6 1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước ............................................................................... 6 1.1.2. Các nghiên cứu trong nước ............................................................................. 12 1.2. Tổng quan nghiên cứu về chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ............. 14 1.2.1. Hướng nghiên cứu về cơ chế, chính sách thúc đẩy KSKD ở Việt Nam ......... 14 1.2.2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh .... 17 1.3. Khoảng trống nghiên cứu .................................................................................. 23 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH .......... 27 2.1 Các khái niệm liên quan đến khởi sự kinh doanh của thanh niên ................. 27 2.1.1 Thanh niên ........................................................................................................ 27 2.1.2 Khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên ................ 28 2.1.3 Vai trò khởi sự kinh doanh của thanh niên ...................................................... 33 2.2 Các lý thuyết cơ bản liên quan đến dự định và khởi sự kinh doanh ............. 35 2.2.1. Lý thuyết hành động hợp lí (Theory of Reasoned Action - TRA) .................. 35 2.2.2 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB) ............. 36 2.2.3 Lý thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event - SEE) ..... 39 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh .............................. 42 2.3.1 Nhóm các nhân tố thuộc bản thân thanh niên .................................................. 42 2.3.2 Nhóm các nhân tố từ môi trường bên ngoài ..................................................... 49

iii

2.4. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết ............................................................. 54 2.4.1 Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 54 2.4.2 Giả thuyết nghiên cứu ...................................................................................... 55 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 57 3.1. Quy trình nghiên cứu ......................................................................................... 57 3.2 Phát triển thang đo và phiếu điều tra ............................................................... 58 3.2.1. Thang đo Dự định khởi sự kinh doanh ........................................................... 58 3.2.2. Thang đo Thái độ đối với tiền bạc .................................................................. 58 3.2.3. Thang đo Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ................................................ 59 3.2.4. Thang đo chuẩn mực chủ quan ....................................................................... 59 3.2.5. Thang đo Nhận thức kiểm soát hành vi .......................................................... 60 3.2.6. Thang đo Giáo dục khởi sự kinh doanh .......................................................... 60 3.2.7. Thang đo Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh .................................................... 60 3.2.8. Thang đo Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh ....... 61 3.2.9. Thang đo Nhu cầu thành tích .......................................................................... 62 3.3 Điều tra sơ bộ ...................................................................................................... 63 3.4 Nghiên cứu chính thức ........................................................................................ 63 3.4.1. Thiết kế phiếu điều tra..................................................................................... 64 3.4.2. Xác định mẫu điều tra ..................................................................................... 65 3.4.3 Phân tích dữ liệu .............................................................................................. 67 CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC TRẠNG DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM ........................ 73 4.1 Thực trạng khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam ............................. 73 4.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam .................................................................................................................... 79 4.2.1 Đặc điểm của mẫu nghiên cứu ......................................................................... 79 4.2.2 Kiểm định thang đo .......................................................................................... 81 4.2.3 Phân tích thống kê mô tả các thang đo trong mô hình ..................................... 89 4.2.4. Phân tích sự khác biệt về dự định khởi sự kinh doanh theo một số đặc điểm cơ bản của thanh niên Việt Nam ............................................................................... 93 4.2.5 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam ......................................................................................................... 100 CHƯƠNG 5 BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THANH NIÊN VIỆT NAM KHỞI SỰ KINH DOANH ..... 114 5.1. Bình luận kết quả nghiên cứu ......................................................................... 114 5.1.1 Các giả thuyết chưa được khẳng định ............................................................ 114

iv

5.1.2 Các giả thuyết được ủng hộ ............................................................................ 118 5.2. Đề xuất các giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh 121 5.2.1 Nâng cao nhận thức, thái độ của thanh niên về KSKD, hình thành thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD, giúp thanh niên nuôi dưỡng và phát triển ý định KSKD. .......................................................................................................... 122 5.2.2 Nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TNVN ........................................ 125 5.2.3 Quan tâm, đầu tư vào hoạt động giáo dục KSKD cho thanh niên, phát triển mô hình giáo dục khởi nghiệp từ trong hệ thống giáo dục phổ thông. ......................... 126 5.2.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy KSKD phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu hỗ trợ của các đối tường thanh niên tham gia KSKD. ................................................................................................................................. 127 5.3 Một số đóng góp và hạn chế của nghiên cứu .................................................. 130 5.3.1 Những đóng góp mới của luận án .................................................................. 130 5.3.2 Những hạn chế của luận án ............................................................................ 131 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 132 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN ......................................................................................................... 135 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 136 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 149

v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Ý nghĩa

1 CFA Phân tích nhân tố khám phá

2 DN Doanh nghiệp

3 DNNN Doanh nghiệp nhà nước

4 DNTN Doanh nghiệp tư nhân

5 DNKN Doanh nghiệp khởi nghiệp

6 DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ

7 DDK Dự định khởi sự kinh doanh

8 ĐMST Đổi mới sáng tạo

9 EFA Phân tích nhân tố ảnh hưởng

10 KD Kinh doanh

11 KSKD Khởi sự kinh doanh

12 GDP Tổng sản phẩm quốc nội

13 GEM Hiệp hội khởi nghiệp toàn cầu

14 OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

15 R&D Nghiên cứu và phát triển

16 TNVN Thanh niên Việt Nam

17 TNCS Thanh niên Cộng sản

18 UNFPA Quỹ dân số Liên hợp quốc

vi

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH Bảng 2.1: Tổng hợp nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD ........... 52 Bảng 2.2: Các giả thuyết nghiên cứu ......................................................................... 55 Bảng 3.1: Giải thích Giá trị Hệ số Alpha của Cronbach ............................................ 68

Bảng 4.1: Mức độ sẵn sàng khởi nghiệp của Việt Nam ............................................ 78 Bảng 4.2. Đặc trưng của mẫu khảo sát ...................................................................... 79 Bảng 4.3. Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Dự định khởi sự kinh doanh –

DDK” dựa vào Cronbach’s Alpha ............................................................. 81 Bảng 4.4. Tổng hợp kết quả phân tích độ tin cậy thang đo các nhân tố trong mô hình . 82 Bảng 4.5. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của biến phụ thuộc DDK .................. 83 Bảng 4.6. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của các biến độc lập .......................... 83

Bảng 4.7. Ma trận nhân tố xoay cho tất cả các biến quan sát .................................... 85 Bảng 4.8. Bảng ma trận nhân tố đã xoay ................................................................... 87 Bảng 4.9. Kết quả tính Độ tin cậy tổng hợp và Tổng phương sai trích ..................... 89

Bảng 4.10. Tổng hợp kết quả thống kê mô tả các biến quan sát của thang đo yếu tố trong mô hình nghiên cứu.......................................................................... 90 Bảng 4.11. Thống kê mô tả với các biến quan sát của thang đo dự định khởi sự kinh doanh (DDK) ............................................................................................. 92

Bảng 4.12. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo đặc điểm giới tính .............................................................................. 93 Bảng 4.13. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên

theo trạng thái nghề nghiệp ....................................................................... 94 Bảng 4.14. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nhóm trình độ chuyên môn ................................................................ 95 Bảng 4.15. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên

theo các nhóm kinh nghiệm làm việc ........................................................ 96 Bảng 4.16 Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo vùng miền .......................................................................................... 98

Bảng 4.17. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nghề nghiệp của bố, mẹ ..................................................................... 99 Bảng 4.18. Kết quả ước lượng mô hình SEM (mô hình ban đầu) ............................. 101 Bảng 4.19. Bảng hệ số hồi quy của mô hình SEM điều chỉnh .................................. 102

Bảng 4.20. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình bất biến và khả biến . 104 Bảng 4.21. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm tình trạng nghề nghiệp ............................................................................................. 106

vii

Bảng 4.22. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm trình độ

chuyên môn ............................................................................................. 108 Bảng 4.23. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo các nhóm nghề nghiệp của bố ........................................................................................... 110 Bảng 4.24. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm nghề nghiệp của mẹ ...................................................................................................... 112

viii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

Biểu đồ: Biểu đồ 1.1: Tỉ lệ GDP hàng năm chi cho R&D của một số quốc gia trong OECD ... 21 Biểu đồ 4.1. So sánh điểm trung bình biến dự định KSKD theo vùng miền ............... 97 Biểu đồ 4.2. So sánh đánh giá về giá trung bình biến Dự định KSKD chung của thanh niên theo các nhóm nghề nghiệp của Bố và Mẹ ...................................... 99

Hình vẽ: Hình 2.1: Thuyết Hành động Hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA) ............. 36 Hình 2.2: Thuyết hành vi có kế hoạch (Theeory of Planned Behavior - TPB) ......... 37 Hình 2.3: Thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event - SEE) .. 39 Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu của Luận án .............................................................. 55 Hình 3.1: Khái quát hóa quy trình nghiên cứu .......................................................... 57 Hình 4.1. Kết quả phân tích mô hình ước lượng chuẩn hóa ...................................... 88 Hình 4.2. Kết quả phân tích mô hình SEM đã chuẩn hóa (mô hình ban đầu)......... 100 Hình 4.3. Kết quả phân tích mô hình SEM (điều chỉnh) đã chuẩn hóa ................... 102 Hình 4.4. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm nam ...................................... 104 Hình 4.5. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm nữ ......................................... 105 Hình 4.6. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến với nhóm là sinh viên ...................... 106 Hình 4.7. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến - nhóm đã đi làm ............................. 107 Hình 4.8. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm trung cấp .............................. 108 Hình 4.9. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm cao đẳng ............................... 109 Hình 4.10. Kết quả mô hình bất biến - nhóm trình độ Đại học và sau Đại học ........ 109 Hình 4.11. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có bố tự kinh doanh ............. 110 Hình 4.12. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có bố làm nhân viên KD trong doanh nghiệp ........................................................................................... 111 Hình 4.13. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến- nhóm có bố hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác ..................................................................................... 111 Hình 4.14. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ tự kinh doanh ............ 112 Hình 4.15. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ làm nhân viên hoặc quản lý trong doanh nghiệp .............................................................................. 113 Hình 4.16. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác ..................................................................................... 113

ix

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 2: Kết quả phân tích độ tin cậy các thang đo bằng hệ số Cronbach’s alpha.......... 153 Phụ lục 3: Kết quả phân tích EFA với tập biến quan sát ............................................. 158

Phụ lục 4: Kết quả phân tích CFA ............................................................................... 165 Phụ lục 5: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm trình độ chuyên môn ................... 171 Phụ lục 6: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm vùng/miền ................................... 171 Phụ lục 7: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Bố .................... 172

Phụ lục 8: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Mẹ ................... 172 Phụ lục 9: Mô hình cấu trúc (SEM) ban đầu ............................................................... 173 Phụ lục 10: Mô hình SEM điều chỉnh ......................................................................... 175

Phụ lục 11: Phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm – Theo trạng thái nghề nghiệp ....... 177

1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu

Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc, điều chỉnh phạm vi hoạt động của DNNN. DNTN đóng góp 43,22% GDP và 39% vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế (Cục Phát triển Doanh nghiệp, 2017). Bên cạnh đó, thể

chế đối với kinh tế tư nhân ở nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt với những văn bản chính sách quan trọng (Nghị quyết 5/NQ-TƯ ngày 1/11/2016, Nghị quyết 10/NQ- TƯ ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết 24/2016/ QH14 ngày

8/11/2016 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, một loại nghị quyết của Chính phủ: 19-2017/NQ-CP ngày 6/2/2017, Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Nghị quyết 98-2017/NQ-CP ban hành chương trình hành

động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TƯ, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,…). Đặc biệt, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành trung ương Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đề ra ba mục tiêu: thứ nhất, gia tăng số

lượng doanh nghiệp, phấn đấu có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020, 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 và 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030; thứ hai, kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng GDP. Đến năm 2021, khu vực kinh tế này sẽ đóng góp 50 - 60% GDP; thứ ba, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh.

Khởi sự kinh doanh đã và đang được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, với nhiều các doanh nghiệp mới được thành lập, cùng với đó là các công việc mới được tạo ra và thu nhập, đời sống của người dân ngày

càng tốt hơn (Drucker, 1985; Gorman và cộng sự, 1997). KSKD thường gắn liền với việc tạo ra các doanh nghiệp mới, các sản phẩm/ dịch vụ mới, hoặc quy trình hoạt động mới của một công ty, điều đó phần nào giúp nâng cao năng lực đổi mới, năng lực

cạnh tranh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia (Thurik và Wennekers, 2004; Urbano và Aparicio, 2015). Lee và cộng sự (2006) cũng cho rằng tinh thần KSKD được chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Sobel và King (2008) tiếp tục khẳng định KSKD là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế.

Trước bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, kỷ nguyên công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển

2

nhưng cũng tạo ra không ít thách thức, chính vì vậy quan tâm đến KSKD, hình thành

đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh, xây dựng thương hiệu quốc gia toàn cầu chính là con đường để Việt Nam có thể bắt nhịp và phát triển nhanh, bền vững trong thị trường kinh tế quốc tế sâu rộng và bền vững. Năm 2017, đánh dấu sự tăng trưởng nhanh về số lượng DN thành lập mới với khoảng 126.859 DN. Lũy kế hiện nay có khoảng 688 nghìn DN đang hoạt động (Trần Kim Chung và Tô Ngọc Phan, 2019). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp, phấn đấu có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020, 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 và 2 triệu doanh nghiệp vào

năm 2030 thì việc tập trung thúc đẩy khởi sự kinh doanh ở thanh niên (độ tuổi từ 16-30 tuổi - ước tính năm 2018 là 23,3 triệu người, chiếm 24,6% dân số cả nước (Viện Nghiên cứu Thanh niên, 2018)) chính là một trong những hướng đi quan trọng để hoàn thành

mục tiêu đó.

Vấn đề đặt ra đối với mục tiêu trên là làm sao để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp nói chung và với thanh niên nói riêng? Câu trả lời là đa dạng vì có nhiều yếu tố tác động đến việc quyết định thực hiện khởi nghiệp của một cá nhân. Tuy nhiên, một

trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi đó chính là dự định của cá nhân (Ajen, 2015). Điều này cũng đã được chứng minh ở một số nghiên cứu trong lĩnh vực khởi sự kinh doanh (Krueger & Brazeal, 1994; Krueger và cộng sự, 2000). Không những thế, theo Ajzen (1991) thì về bản chất, KSKD hay lựa chọn nghề nghiệp là kết

quả của nhận thức. Hành động KSKD diễn ra nếu một cá nhân có thái độ tích cực, có suy nghĩ, dự định về hành động đó. Một dự định mạnh mẽ sẽ luôn dẫn tới nỗ lực để bắt đầu khởi sự công việc kinh doanh mới, mặc dù việc KSKD có thể nhanh hay chậm lại

do điều kiện hoàn cảnh môi trường xung quanh. Do vậy, dự định KSKD có khả năng dự báo chính xác các hành vi KSKD trong tương lai. Nghiên cứu về dự định KSKD có thể phản ánh được hành vi KSKD. Do đó, để thúc đẩy KSKD ở thanh niên thì hướng nghiên cứu các yếu tố tác động tới dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt

Nam là phù hợp.

Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Các yếu tố tác động tới dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam” hy vọng sẽ đem lại một số điểm mới cho lý

thuyết liên quan đến dự định khởi sự kinh doanh. Đồng thời, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm đẩy mạnh các dự án KSKD của thanh niên ở Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

3

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu cơ bản của Luận án là xác định rõ các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy của TNVN khởi sự kinh doanh.

2.2. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, Luận án sẽ tìm ra giải đáp cho các câu

hỏi nghiên cứu chính yếu sau:

Thứ nhất, nhóm các câu hỏi liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến

dự định KSKD của thanh niên:

(1) Thái độ đối với tiền bạc ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?

(2) Thái độ đối với KSKD của bản thân có ảnh hưởng như thế nào đến dự định

KSKD của TNVN?

(3) Chuẩn mực chủ quan ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?

(4) Nhận thức kiểm soát hành vi ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của

TNVN?

(5) Nhu cầu thành tích ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?

(6) Kinh nghiệm KSKD của bản thân tác động như thế nào tới dự định KSKD của

TNVN?

(7) Giáo dục khởi sự kinh doanh tác động như thế nào tới dự định KSKD của

TNVN?

(8) Hỗ trợ của chính phủ ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?

Thứ hai, nhóm các câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa các nhân tố trong

đo lường ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên:

(9) Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa kinh nghiệm về

KSKD và dự định KSKD của TNVN.

(10) Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa giáo dục về

KSKD và dự định KSKD của TNVN.

2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng

đến dự định KSKD của TNVN.

4

- Đo lường mức độ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố đến dự

định KSKD của TNVN.

- Phân tích và đề xuất khuyến nghị, giải pháp thúc đẩy dự định KSKD của

TNVN.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố tác động (bản thân, giáo dục

KSKD, môi trường) đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của thanh niên trong độ tuổi từ 18 – 30; tại thành thị (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh – là trung tâm kinh tế của 3 miền Bắc, Trung, Nam; tập trung đông thanh niên sinh sống, làm việc; có hoạt động khởi sự kinh doanh sôi động trong những năm vừa qua, có một số chính sách cụ thể ở cấp địa phương hỗ trợ thanh niên khởi sự kinh doanh) và nông thôn (Hải Dương, Bắc Giang, Nghệ An, Bình Định, Đồng Tháp, Bến Tre – là các địa phương có đông thanh niên nông thôn, tiêu biểu cho các vùng kinh tế, thổ nhưỡng của vùng đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung bộ, đồng bằng sông Tiền và đồng bằng sông Hậu; đây cũng là những địa phương mà hoạt động khởi sự kinh doanh của thanh niên trong thời gian qua diễn ra khá sôi động) để đảm bảo tính đại diện vùng, miền, đô thị, nông thôn; tương đương 9 tỉnh, thành phố ở 3 miền Bắc, Trung, Nam.

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của TNVN từ năm 2011 cho đến năm 2018. Dữ liệu sơ cấp thông qua điều tra được thu thập trong năm 2018 và xử lý trong năm 2019, dữ liệu thứ cấp được thu thập trong khoảng thời gian từ 2011- 2018.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp cả hai phương pháp

nghiên cứu định tính và định lượng; và theo quy trình cơ bản gồm 2 bước chính là nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, trong đó:

- Nghiên cứu sơ bộ bằng tổng quan tài liệu và phỏng vấn ý kiến chuyên gia để từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu và thang đo, tiếp đến tiến hành khảo sát thử để hoàn

thiện phiếu điều tra;

5

- Nghiên cứu chính thức thông qua điều tra bằng bảng hỏi và xử lý dữ liệu để

tiến hành kiểm định đối với các giả thuyết nghiên cứu đã được đề xuất trong mô hình nghiên cứu.

5. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 5 chương gồm:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh. Chương này tập trung vào tổng quan các nghiên cứu trong và

ngoài nước liên quan đến khởi sự kinh doanh. Ngoài ra, Chương 1 cũng tổng quan các nghiên cứu liên quan đến các chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó nghiên cứu đã chỉ ra khoảng trống của nghiên cứu đã thực hiện và làm cơ sở để thực hiện nghiên cứu này.

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về dự định khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh. Chương 2 chủ yếu phân tích lý thuyết cơ bản và phân tích các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh.

Trên cơ sở đó đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương này tập trung vào thiết kế nghiên cứu, gồm các nội dung về quy trình nghiên cứu, các bước thiết kế điều tra, xây dựng thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên và phân tích số liệu

khảo sát.

Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thực trạng dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Chương 4 tập trung phân tích thực trạng và các nhân

tố tác động đến khởi sự kinh doanh của Thanh niên từ kết quả khảo sát qui mô lớn trên 9 tỉnh đại diện ba Miền ở Việt Nam. Một số giải thiết được ủng hộ, nhưng một số khác thì chưa được ủng hộ từ kết quả của nghiên cứu này.

Chương 5: Bàn luận về kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thúc đẩy thanh

niên Việt Nam khởi sự kinh doanh.

6

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY KHỞI SỰ KINH DOANH

1.1. Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh

Khởi sự kinh doanh đã và đang trở nên quan trọng và được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, với nhiều các doanh nghiệp mới được thành lập, cùng với đó là các công việc mới được tạo ra và thu nhập, đời sống của người dân ngày càng tốt hơn (Drucker, 1985; Gorman và cộng sự, 1997). KSKD thường gắn liền với việc tạo ra các doanh nghiệp mới, các sản phẩm/dịch vụ mới, hoặc quy trình

hoạt động mới của một công ty, điều đó phần nào giúp nâng cao năng lực đổi mới, năng lực cạnh tranh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia (Thurik và Wennekers, 2004). Abdullah Azhar và cộng sự (2010) tiếp tục khẳng định sự phát triển các hoạt động KSKD góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, giảm bớt tỉ lệ thất

nghiệp ở nhiều quốc gia. Đồng quan điểm đó, Nafukho và Helen Muyia (2010) chứng minh rằng KSKD là điều sống còn trong việc tạo ra và hoàn thiện một nền kinh tế mạnh khỏe. Cũng chính về thế, hướng nghiên cứu về khởi sự kinh doanh nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước

Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2006) cho rằng tinh thần khởi nghiệp được

chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Nghiên cứu của Sobel & King (2008) nhận định khởi nghiệp là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy việc thúc đẩy giới trẻ khởi nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nhà chính sách. Để khơi dậy tinh

thần khởi nghiệp thì chương trình giáo dục có tác động hết sức quan trọng. Astebro và cộng sự (2012) cung cấp bằng chứng ở Mỹ cho thấy đào tạo về khởi nghiệp không chỉ là chương trình dành riêng cho sinh viên ngành kinh doanh mà nó còn là chương

trình hết sức quan trọng đối với sinh viên thuộc khối khoa học tự nhiên, kỹ thuật và cả trong lĩnh vực nghệ thuật. Rae & Woodier-Harris (2013) cho rằng muốn doanh nghiệp có một nền tảng kiến thức tốt và quản lý doanh nghiệp thành công thì cần phải xây dựng chương trình học khởi nghiệp rộng rãi cho sinh viên, cung cấp cho họ

kiến thức cần thiết để khởi nghiệp thành công và định hướng con đường sự nghiệp đúng đắn. Huber và công sự (2014) phân tích hiệu quả của việc giáo dục khởi nghiệp

7

sớm cho các trẻ em tiểu học ở Hà Lan và chứng minh rằng việc đầu tư sớm giáo dục

khởi nghiệp cho trẻ em 11 hoặc 12 tuổi mang đến hiệu quả trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp. Ở mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét đặc trưng riêng về văn hóa, kinh tế, chính trị, vì thế nghiên cứu giáo dục khởi nghiệp dựa trên những nét đặc trưng này sẽ góp phần đóng góp quan trọng cho lý thuyết và thực tiễn giáo dục đại học hướng đến thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh.

Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về dự định KSKD cho rằng cá nhân với mong muốn tự làm chủ bản thân thường nhận thức được rằng

khởi sự kinh doanh là một hướng phát triển nghề nghiệp phù hợp với mình (Daviddson, 1995) và là con đường để theo đuổi ý tưởng, đạt được những mục tiêu cá nhân và thành tựu tài chính của mình (Barringer và Ireland, 2010). Wong và Choo

(2009) cũng cho rằng việc bắt đầu một doanh nghiệp không phải là một sự kiện, mà là một quá trình có thể mất nhiều năm suy nghĩ, học hỏi và tạo dựng doanh nghiệp. Một người sẽ không trở thành doanh nhân một cách đột ngột, mà họ sẽ trở thành doanh nhân bởi do ảnh hưởng bởi một số yếu tố và quan trọng nhất chính là dự định KSKD

của bản thân người đó (Krueger và các cộng sự, 2000). Dự định về KSKD có thể được coi là bước đầu tiên trong quá trình KSKD (Mazzarol và cộng sự, 1999; Mohammad Ismail và cộng sự, 2009) bởi vì dự định là tiền đề trực tiếp của hành vi (Ajzen, 1991) và hành vi KSKD không được thực hiện một cách vô thức mà là một hoạt động có chủ

đích (Henley, 2007). Như vậy, dự định KSKD là tiền đề trực tiếp của hành vi KSKD.

Nhiều tác giả đã tìm hiểu động cơ thúc đẩy thanh niên khởi nghiệp, điển hình như:

Nghiên cứu của Reynolds (1997) cho rằng trình độ học vấn và nhu cầu thành

đạt, khả năng chấp nhận rủi ro và có xu hướng đổi mới là những yếu tố quyết định đến việc khởi nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 25-40. Hai tác giả Kruerger và Brazeal (1994) chỉ ra tiềm năng khởi sự của cá nhân chính là yếu tố quyết định hành vi khởi sự kinh doanh.

Ajzen (1991) đề cập tới thái độ đối với hành vi ở một mức độ mà cá nhân có đánh giá tiêu cực hay tích cực với hành vi đó. Armitage và Conner (2001) cũng cho rằng, thái độ đối với hành vi phản ánh các đánh giá tích cực hoặc tiêu cực của cá nhân

về việc thực hiện một hành vi cụ thể. Ở một góc độ khác, thì Li (2007) định nghĩa trong nghiên cứu của mình về thái độ đối với hành vi như là sự hấp dẫn đối với tự làm chủ. Florin và các đồng nghiệp (2007), tóm tắt từ các kết quả nghiên cứu trước (Gasse, 1985; Robinson và cộng sự, 1991) đã kết luận, thái độ với hành vi có thể được hiểu là

khi thái độ của cá nhân tạo thành một mô hình toàn diện và có trật tự cho biết sự thống

8

nhất trong định hướng của người đó đối với hoạt động kinh doanh. Xavier và cộng sự

(2009) định nghĩa thái độ đối với hành vi là mức độ mà cá nhân nhận thức rằng có những cơ hội tốt để khởi sự kinh doanh, hoặc có mối liên kết gắn với vị thế xã hội cao của người làm chủ.

Thái độ đối với hành vi KSKD có thể được phát triển và củng cố thông qua các tín hiệu thông tin từ những kinh nghiệm và mô hình mẫu trước đó. Các tín hiệu thông tin bên ngoài (sự sẵn có của các nguồn lực) và bên trong (nhận thức của cá nhân về năng lực và kiến thức nhiệm vụ cụ thể) có thể thúc đẩy sự hiệu quả khởi sự

kinh doanh và ngược lại, củng cố thái độ đối với khởi sự kinh doanh (Dell, 2008). Đồng quan điểm đó, Leong (2008) đã tiến hành một nghiên cứu tương tự tại Đại học Mở Malaysia và cho thấy sinh viên càng đánh giá con đường nghề nghiệp tự làm chủ

cao bao nhiêu thì dự định trở thành người làm chủ càng cao bấy nhiêu. Như vậy, cá nhân có thái độ tích cực đối với tự làm chủ, xem khởi sự kinh doanh là phù hợp với mục tiêu tổng thể trong cuộc sống của mình và nhìn thấy cơ hội thực hiện hành động khởi sự kinh doanh, thì rất có khả năng cá nhân đó sẽ hình thành dự định khởi sự

kinh doanh (Elfving và cộng sự, 2009).

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ đối với hành vi và dự định khởi sự kinh doanh được nhiều tác giả thực hiện, hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định thái độ đối với hành vi của một cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến dự định

khởi sự kinh doanh của cá nhân đó (Kolvereid và Tkachev, 1999; Krueger và cộng sự, 2000; Dohse và Walter, 2010; Paco và cộng sự, 2011). Hay như, Indirti và cộng sự (2010) nhận thấy rằng thái độ, hành vi và kiến thức của sinh viên có xu hướng

kích thích ý định của họ và sẵn sàng để bắt đầu một doanh nghiệp mới trong tương lai. Tương tự, Ferreira và cộng sự, (2012) đã chỉ ra rằng mong muốn đạt thành tích cao, sự tự tin, thái độ cá nhân ảnh hưởng đến mục đích kinh doanh giữa các học sinh trung học.

Ở khía cạnh cấu thành thái độ, Shariff và Saud (2009) cho rằng thái độ của cá nhân liên quan đến dự định KSKD được tạo bởi các yếu tố thúc đẩy và các yếu tố kìm hãm. Họ nhận thấy rằng, các nhân tố như sự thất vọng do không có nhiều cơ hội, sự

suy giảm về tình hình kinh tế và sự không hài lòng là các yếu tố thúc đẩy thái độ của cá nhân liên quan đến dự định KSKD. Trong khi đó, các yếu tố kìm hãm thái độ của cá nhân bao gồm các yếu tố như tâm lý ngại thay đổi, thu nhập từ việc làm, khó khăn về thay đổi việc làm trong xã hội… (Kirkwood, 2009). Một nghiên cứu thú vị khác

(Nordin, 2005) về điều tra động lực thúc đẩy doanh nhân nữ cho thấy nguồn tài chính là một yếu tố thúc đẩy để bắt đầu một doanh nghiệp. Ngoài ra, thái độ về tiền bạc và

9

thay đổi của môi trường kinh doanh là những yếu tố quan trọng tác động đến dự định

KSKD của sinh viên (Schwarz và cộng sự, 2009). Theo Lim & Teo (2003) thái độ đối với tiền bạc là khi một cá nhân nhìn nhận thu nhập cao sẽ giúp họ có được quyền tự trị, tự do và quyền lực và họ cho rằng thu nhập cao như là thước đo của sự thành công.

Ở chiều cạnh khác, chuẩn mực chủ quan đã được nhiều nhà nghiên cứu tranh luận nhằm tìm ra mối liên quan trong việc dự đoán dự định khởi sự kinh doanh. Một số nhà nghiên cứu cho rằng chuẩn mực chủ quan ảnh hưởng rất ít/ hầu như không có ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh (Autio và cộng sự, (2001); Krueger và

cộng sự, 2000; Reynolds và cộng sự, 2004; Linan, 2005; Linan và Chen, 2009) và một số tác giả thì hoàn toàn bỏ qua biến số này khi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh (Peterman và Kennedy, 2003; Veciana và cộng sự, 2005).

Ngược lại, một số khác lại thấy chuẩn mực chủ quan các tác động quan trọng đến dự định KSKD (Kolvereid và Isaksen, 2006; Yordanova và Tarrazon, 2010,…). Kolvereid (1996a) bằng việc điều tra sinh viên chuyên ngành kinh doanh năm thứ nhất của Na Uy đã cho thấy chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ quan trọng trực tiếp với dự định tự

làm chủ. Kolvereid đã tái hiện lại nghiên cứu của mình vào năm 1999 cùng với Tkachev bằng việc kiểm tra mẫu sinh viên đại học Nga từ các khóa học khác nhau và tìm ra chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ tích cực với dự định tự làm chủ (Kolvereid và Tkachev, 1999). Kolvereid và Isaksen (2006) đã nghiên cứu chuẩn mực chủ quan từ

những người sáng lập doanh nghiệp Na Uy và tìm thấy chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ quan trọng với dự định tự làm chủ. Đồng quan điểm đó, Yordanova và Tarrazon (2010) cũng tìm thấy càng có nhiều chuẩn mực chủ quan khích lệ hành vi

khởi sự kinh doanh thì ý định khởi sự kinh doanh của cá nhân đó càng tăng lên.

Kolvereid (1996b); Chen và cộng sự (1998); Kristiansen và Indarti (2004); Basu và Virick (2008); Zaidatol (2009); Ruhle và các cộng sự (2010); Paco và cộng sự (2011) đều cho rằng nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực tới dự

định khởi sự kinh doanh của sinh viên. Trong đó, Kolvereid (1996b); Basu & Virick (2008); Ruhle và cộng sự (2010) khẳng định rằng nhận thức kiểm soát hành vi có mối liên hệ quan trọng với dự định KSKD. Ruhle và cộng sự (2010) sau đó còn chỉ

ra rằng tự đánh giá về nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng lớn tới dự định KSKD của sinh viên do mức độ hỗ trợ của nhận thức khả thi có thể khích lệ dự định khởi sự kinh doanh.

Ngoài ra, Elfving và cộng sự (2009); Paco và cộng sự, (2011) đã có sự tranh

luận rằng nhận thức kiểm soát hành vi không có tác động trực tiếp và quan trọng với dự định khởi sự kinh doanh. Elfving và cộng sự (2009) sau đó giải thích rằng khi cá

10

nhân có mức nhận thức kiểm soát hành vi cao sẽ tăng cam kết của mình với khởi sự

kinh doanh và dẫn tới động lực mạnh mẽ hơn để khởi sự kinh doanh.

Popescu và Pohoata (2007) cho rằng giáo dục ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi và nhận thức của các cá nhân. Các tác giả như Gasse (1985), Do Paco và Ferreira (2011), Johansen và Schanke (2013) đều cho rằng giáo dục KSKD có ảnh hưởng đến sự lựa chọn (dự định) của những người trẻ về KSKD. Hay như Turker và Selcuk (2009) trong một nghiên cứu tiến hành giữa các sinh viên đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ đã kết luận rằng giáo dục về KSKD có tác động tích cực đến dự định KSKD. Nghiên cứu

tương tự đã được tiến hành ở Malaysia cho thấy tiếp xúc với giáo dục KSKD thích hợp sẽ ảnh hưởng đến dự định trở thành một doanh nhân của sinh viên (Mumtaz và cộng sự, 2012). Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu không tìm thấy sự liên kết rõ ràng

giữa giáo dục kinh doanh và dự định KSKD (Alberti, 1999; Matthews, 1996; Gorman và cộng sự, 1997).

Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây cho thấy mối liên hệ của giáo dục KSKD với thái độ với KSKD và dự định KSKD (Dell, 2008; Tam, 2009). Giáo dục

KSKD và thay đổi thái độ với KSKD có mối liên hệ với nhau. Việc tham gia vào giáo dục KSKD làm tăng thái độ của sinh viên đối với KSKD một cách tích cực; do giáo dục khởi sự kinh doanh cung cấp những kỹ năng và kiến thức của thế giới thực, nên sinh viên cảm thấy việc theo đuổi con đường KSKD là hợp lý. Vì thế, cũng làm tăng

dự định KSKD. Điều này dẫn đến một khác biệt rõ rệt về dự định KSKD giữa sinh viên tham gia và sinh viên không tham gia KSKD (Miller và cộng sự 2009; Zain và cộng sự, 2010). Đồng thời, những sinh viên năm cuối có thiên hướng KSKD cao hơn

các sinh viên mới vào trường do những kinh nghiệm thực tế và sự cọ xát của họ với thế giới kinh doanh nhiều hơn (Vazquez và cộng sự, 2009; Ahmed và cộng sự, 2010).

Ngược lại, một số nghiên cứu lại có kết quả khác biệt, những sinh viên có quan điểm trở thành người làm chủ sẽ thực tế hơn sau khi tham gia khóa học KSKD, nhận

thức của họ đối với KSKD có thể thay đổi và có thể làm giảm đi mối quan tâm hay dự định KSKD (Oosterbeek và cộng sự, 2008).

Sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu trên có thể được nhìn nhận: giáo dục

KSKD có tác động đến dự định KSKD, tuy nhiên mối quan hệ này còn phụ thuộc vào thái độ; nếu giáo dục KSKD tác động tích cực đến thái độ đối với KSKD thì sẽ làm tăng dự định KSKD; ngược lại, nếu giáo dục về KSKD làm giảm thái độ tích cực, thậm chí là tiêu cực đối với KSKD thì sẽ làm giảm dự định KSKD.

11

Các nghiên cứu cũng nhấn mạnh ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân đến dự

định KSKD. McClelland (1961) cho rằng cá nhân sở hữu Nhu cầu thành tích mạnh mẽ thường có nhiều khả năng tự giải quyết vấn đề của bản thân, đặt ra mục tiêu thách thức và nỗ lực để đạt mục tiêu bằng những cố gắng của chính mình. Theo Sagie và Elizur (1999), những cá nhân có Nhu cầu thành tích cao thường có khao khát mãnh liệt trở nên thành công và có nhiều khả năng trở thành người làm chủ. Những cá nhân có Nhu cầu thành tích mạnh mẽ sẽ đóng góp nhiều hơn vào những hoạt động khởi sự kinh doanh (Tong và cộng sự, 2011). Họ có năng lực thực hiện những nhiệm vụ thử thách

tốt hơn và khám phá ra những cách thức mới để thúc đẩy hành động của mình (Littunen, 2000).

Một số nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các kinh nghiệm trước đây về KSKD có

thể có ảnh hưởng đến những ý tưởng kinh doanh của cá nhân (Krueger, 1993). Kinh nghiệm trước khi kinh doanh của họ không chỉ giúp phát triển dự định KSKD của cá nhân, mà còn có thể tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng cho các hoạt động kinh doanh trong tương lai. Bên cạnh đó, Basu và Virick (2008) cũng chỉ ra rằng kinh nghiệm mở

công ty riêng từ trước có mối liên hệ tới sự tự tin và thái độ tích cực với khởi sự kinh doanh của cá nhân. Những cá nhân có kinh nghiệm về thành công thường sẽ tự tin hơn với năng lực của mình và có xu hướng tái hiện hành vi đó nhiều hơn nếu so sánh với những người không có những kinh nghiệm trước đó. Tuy nhiên, Davidsson (1995) thì

cho rằng những kinh nghiệm KSKD trước đây có ảnh hưởng không lớn đến kiến thức về kinh doanh của cá nhân và không có ảnh hưởng đáng kể đến thái độ và dự định KSKD của họ.

Marques và cộng sự (2014) cho rằng có mối quan hệ giữa nền tảng gia đình và dự định KSKD, cụ thể nghiên cứu đã chỉ ra các cá nhân trong gia đình sở hữu hoặc có thành viên thuộc gia đình đang điều hành các doanh nghiệp thường có xu hướng cao về dự định KSKD. Kết quả này bước đầu giải thích các tác động của gia đình đối với

dự định KSKD của cá nhân chủ yếu từ quan điểm đúc khuôn mẫu và tin rằng cha mẹ đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của các con. Tuy nhiên, một số nghiên cứu không nghĩ rằng các hành vi của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến dự định

KSKD của các con của họ (Churchill và cộng sự, 1987). Con của nhiều doanh nhân đã không trở thành doanh nhân (Krueger và Dickson, 1993).

Stephen và các cộng sự (2005) cũng đồng quan điểm đó khi cho rằng Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD như luật pháp, hỗ trợ của chính phủ…là một

yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động khởi sự. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố môi trường kinh doanh là một biến điều chỉnh tác động đến dự định KSKD của

12

cá nhân thông qua tương tác với thái độ của cá nhân (Shapero và Sokol, 1982). Yếu tố

môi trường, tuy nhiên, vừa thúc đẩy vừa cản trở đến dự định KSKD của cá nhân (Lüthje và Frank, 2003).

Kết quả của các nghiên cứu trước đã chỉ ra ảnh hưởng của giới tính đối với dự định KSKD. Nói chung, nam giới tham gia nhiều vào kinh doanh hơn phụ nữ, đặc biệt là trong trường hợp các nước đang phát triển (Kelley và cộng sự, 2012). Tình trạng này cũng có thể xảy ra ở một số nước phát triển (Shinnar và Giacomin,2012) những người đàn ông trẻ tuổi thường có xu hướng kinh doanh hơn là phụ nữ trẻ (Chen và

Greene, 1998). Kết luận tương tự có thể tìm thấy ở BarNir và Watson (2011) và Shinnar và Giacomin (2012). Theo Becker (1962) trình độ giáo dục của cá nhân có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng đổi mới. Nó cũng có thể nâng cao kiến thức và kỹ

năng cần thiết để phát triển kinh doanh (Schultz, 1961). Như vậy, dự định KSKD của thanh niên, có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ, giữa các nhóm tuổi và giữa các cấp học.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu về khởi sự doanh nghiệp còn là một chủ đề thu hút các học giả

Việt Nam trong những năm gần đây.

Đề cập đến vai trò của các nhân tố đến quyết dịnh khởi nghiệp của người trẻ,

Lê Quân (2007) đã tìm hiểu tư duy doanh nhân của thanh niên Việt Nam trong từng giai đoạn ra quyết định khởi nghiệp và những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình hình thành, phát triển tư duy doanh nhân của doanh nhân trẻ Việt Nam. Kết quả

nghiên cứu của tác giả cho thấy giai đoạn quyết định khởi nghiệp là một giai đoạn rất quan trọng, đặc biệt với những thanh niên có dự định khởi nghiệp. Để đi đến bước quyết định khởi nghiệp thì họ phải trải qua giai đoạn “yên tĩnh” – thanh niên ít quan tâm đến khởi nghiệp; giai đoạn “chuyển biến tích cực” – sau khi có nhận thức về

khởi nghiệp, thanh niên sẽ có những động thái tích cực đề tìm kiếm kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm, nguồn lực để khởi nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Thanh niên sẽ đi đến quyết định khởi nghiệp khi hội tụ đủ ba nhóm yếu tố là phẩm chất cá

nhân, khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vai trò của gia đình, bạn bè, nhà trường rất quan trọng với quá trình hình thành và phát triển tư duy doanh nhân trẻ. Tuy nhiên, không phải bạn trẻ nào cũng có thể đi đến bước cuối cùng trong quá trình quyết định khởi nghiệp, chính vì

vậy rất cần có sự hỗ trợ từ các phía như cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở giáo dục đào tạo, gia đình, bạn bè để định hướng và cung cấp nguồn lực cho họ.

13

Nghiên cứu của (Nguyễn Thu Thủy, 2015) cho rằng các yếu tố như môi trường

cảm xúc và các yếu tố thuộc trải nghiệm cá nhân được coi là có ảnh hưởng đến tiềm năng khởi sự doanh nghiệp của thanh niên. Mặt khác các hoạt động định hướng khởi sự kinh doanh trong và ngoài chương trình đào tạo của trường đại học đều tác động tích cực tới hai khía cạnh là tự tin và mong muốn khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học ở Việt Nam.

Tác giả Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên (2015) xác định thứ tự ảnh hưởng theo mức độ quan trọng giảm dần của các nhân tố đến ý định khởi nghiệp của sinh

viên bao gồm: (1) Thái độ và sự hiệu quả, (2) giáo dục và thời cơ khởi nghiệp, (3) nguồn vốn, (4) quy chuẩn chủ quan, (5) nhận thức kiểm soát hành vi thuộc trải nghiệm cá nhân tới tiềm năng khởi sự kinh doanh.

Các tác giả Nguyễn Quốc Nghi, Lê Thị Diệu Hiền, Mai Võ Ngọc Thanh (2016) cũng đề xuất mô hình nghiên cứu về ý định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên dựa trên 7 yếu tố gồm: thái độ, quy chuẩn chủ quan, giáo dục, kinh nghiệm làm việc, sự đam mê kinh doanh, sự sẵn sàng kinh doanh và nguồn vốn. Kết quả khảo sát 400 sinh

viên ngành quản trị kinh doanh tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn thành phố Cần Thơ tìm thấy 4 yếu tố tác động đến ý định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên đó là: Thái độ và sự đam mê, sự sẵn sàng kinh doanh, quy chuẩn chủ quan và nhân tố giáo dục. Trong các yếu tố kể trên, thái độ và sự đam mê là yếu tố then chốt, có ảnh hưởng

lớn nhất đến dự định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên.

Nguyễn Hải Đăng và cộng sự (2015) lại nhìn nhận trong số các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên, bên cạnh các yếu tố chủ quan về bản

thân thanh niên, có tác động của các yếu tố khách quan đó chính là chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa phân tích sâu mức độ tác động của từng yếu tố đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên nông thôn.

Hoàng Văn Hoa (2010) qua nghiên cứu “Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt

Nam trong giai đoạn 2011-2020” đã đánh giá vai trò, vị thế, thực trạng đội ngũ doanh nhân và các yếu tố tác động tới sự phát triển đội ngũ doanh nhân sau hơn 20 năm đổi mới, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển đội ngũ doanh nhân giai

đoạn 2011-2020. Đề tài đã nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân gắn liền với hoạt động hỗ trợ họ từ giai đoạn khởi nghiệp.

Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về chủ đề “Hệ sinh thái cho Khởi sự kinh doanh xã hội và sáng tạo xã hội” do Đại học Kinh tế quốc dân và Hội đồng Anh đồng tổ chức tháng 3/2016. Tuy không trực tiếp đề cập trực tiếp tới hỗ trợ khởi nghiệp của thanh

14

niên, các bài viết của kỷ yếu đã gợi ý rất nhiều sáng kiến có giá trị liên quan tới việc

hỗ trợ và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và kinh doanh xã hội như kinh nghiệm hỗ trợ khởi nghiệp xã hội từ các quốc gia trên thế giới như Israel, Anh Quốc, Scotland, Indonesia và Nga (của các tác giả Benjamin Gidron, Richard Hazenber, Aluisius Hery Pratono, Vladimir Vainer, Natalia Gladkikh); các bài viết về phát triển chính sách thuế và chính sách bằng sáng chế hỗ trợ khởi nghiệp xã hội (Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh và Đỗ Thị Hải Hà; Nguyễn Trọng Hiếu và Nguyễn Hồng Diệp); và các bài viết liên quan tới việc lồng ghép tinh thần kinh doanh xã hội vào trường Đại học (Rahul Singh and Abha Rishi; Do Thi Dong; Nguyen Thu Thuy) với gợi ý trường Đại học và các hoạt động đào tạo là bộ phận quan trọng trong hệ sinh thái hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp.

Gần đây nhất, nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Trang (2018) về “Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khối ngành kỹ thuật”. Nghiên cứu sử dụng 06 yếu tố nhận thức cá nhân trên cơ sở Lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991), đồng thời bổ sung 01 yếu

tố nhận thức cá nhân (cảm nhận về may mắn) trên cơ sở lý thuyết Locus of Control và thực tế tình hình khởi nghiệp ở Việt Nam để phát triển mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam. Bên cạnh đó, 02 yếu tố môi trường gồm đặc trưng nhân khẩu học và chương trình đào tạo khởi

nghiệp được đưa vào mô hình nghiên cứu dưới dạng nhóm biến điều khiển nhằm xem xét sự khác biệt về mức độ tác động của các yếu tố nhận thức cá nhân lên ý định khởi nghiệp của các nhóm sinh viên kỹ thuật khác nhau và so sánh mức độ sẵn sàng khởi

nghiệp của các nhóm sinh viên. So với các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu đề cập tới hình thức khởi nghiệp hay khởi sự doanh nghiệp chung, nghiên cứu này làm rõ bức tranh tổng thể về thực trạng hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và tình hình phát triển phong trào khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên các đại học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.

1.2. Tổng quan nghiên cứu về chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh

1.2.1. Hướng nghiên cứu về cơ chế, chính sách thúc đẩy KSKD ở Việt Nam

Những năm gần đây hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam được nhà nước và xã hội quan tâm. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích tinh thần khởi nghiệp đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động KSKD của người trẻ. Tuy nhiên,

hệ thống chính sách cho hoạt động khởi nghiệp của thanh niên nói riêng và khởi nghiệp nói chung vẫn còn những mặt hạn chế. Nhận định này phù hợp với kết quả nghiên cứu

15

của một số tác giả trong khi nghiên cứu về vấn đề môi trường, cơ chế, chính sách thúc đẩy

hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam như:

Bích Hạnh (2009) đề cập tới chủ đề thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại Việt Nam (Setting up enterprise and doing business in Vietnam), trong đó, tác giả làm rõ những vấn đề về môi trường đầu tư, pháp luật liên quan đến kinh doanh tại Việt Nam như luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường, pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích đầu tư, pháp luật về lao động, hợp đồng chuyển giao công nghệ, thuế, báo cáo tài chính. Mặc dù không

đề cập tới tới chủ đề hỗ trợ khởi nghiệp, những phân tích của tác giả cũng gợi ý các vấn đề về pháp lý có liên quan tới khởi nghiệp và các yếu tố của môi trường pháp lý cần tính tới để tạo thuận lợi cho người dân/thanh niên khởi nghiệp.

Hồ Sỹ Hùng (2010) đề cập tới chủ đề “Vườn ươm doanh nghiệp” (Business incubator). Đây một cách thức hỗ trợ rất hiệu quả cho các dự án khởi sự doanh nghiệp. Vườn ươm doanh nghiệp là một tổ chức liên kết giữa Trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học, chính quyền và các doanh nghiệp khởi sự (hay các

nhóm, cá nhân có ý định thành lập doanh nghiệp). Tổ chức này có mục đích tạo một "lồng ấp", một môi trường "nuôi dưỡng" các doanh nghiệp khởi sự trong một thời gian nhất định để các đối tượng này có thể vượt qua những khó khăn ban đầu, khẳng định sự tồn tại và phát triển như những doanh nghiệp độc lập. Sự hình thành

các doanh nghiệp mới và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thông qua hình thức ươm tạo doanh nghiệp dẫn trở thành công cụ phổ biến và hiệu quả ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đã phát triển. Tuy nhiên, ươm tạo doanh nghiệp ở

Việt Nam còn tương đối mới cả trong nhận thức và thực tiễn.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế chủ đề “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia” do Học viện Tài chính tổ chức năm 2018. Với nội dung nghiên cứu của chủ đề rộng và bao quát, hội thảo đã tập hợp được rất nhiều bài nghiên cứu có chất lượng về các vấn

đề trọng tâm của khởi nghiệp – đổi mới, sáng tạo. Trong đó, một số bài viết có giá trị tham khảo cao với đề tài như: The effect of internal and external barriers on Vietnamese students’ entrepreneurial intention của tác giả Dương Công Doanh, bài nghiên cứu dựa trên việc điều tra 437 sinh viên ở Việt Nam và cho ra kết quả nhân tố “Chính sách hỗ trợ” là nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên. Về kinh nghiệm hỗ trợ khởi nghiệp của các quốc gia trên thế giới thì có tác giả Nguyễn Minh Hạnh với bài viết “International experience on education training to promote startups” trình bày về kinh nghiệm đào tạo đối với người khởi sự kinh doanh trẻ của các quốc gia Mỹ, Phần Lan và Israel.

16

Hội thảo cũng tập hợp rất nhiều bài nghiên cứu liên quan đến nội dung hỗ trợ khởi nghiệp đối với các doanh nghiệp Việt nam như “Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam” - Trần Thị PhươngMai, Vũ Việt Ninh và “Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực trạng và giải pháp” – Nguyễn Đoàn Thảo Linh, Nguyễn Thị Thanh. Những nghiên cứu này chủ yếu trình bày và đánh giá thực trạng hỗ trợ đối với các loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup) và doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trên góc độ quản lý Nhà nước thông qua các tổ chức hỗ trợ kinh doanh (Accelerators); Các quỹ/ nhà đầu tư giai đoạn

sơ khởi (Re-seed, seed, investors); Các quỹ nhà đầu tư giai đoạn series A, B; Quỹ/ vườn ươm của Chính phủ (incubators);.... Tuy nhiên, những bài viết liên quan đến thanh niên và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp còn rất hạn chế, chỉ có duy nhất nghiên cứu “Bàn thêm về việc hình thành quỹ hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp trong các trường đại học” của tác giả Trần Xuân Hải trao đổi về đề xuất chính sách hỗ trợ tài chính ở các trường đại học cho đối tượng sinh viên.

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia chủ đề “Khởi nghiệp và đổi mới trong kinh doanh” do Khoa Quản trị kinh doanh và Khoa Đào tạo quốc tế, trường Đại học Thương mại tổ chức năm 2018. Một trong những chủ đề của Hội thảo là hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp nên có khá nhiều bài viết tập trung vào nội dung này như Vườn ươm doanh nghiệp và các chính sách liên quan đến tạo lập môi trường pháp lý cho các vườn ươm doanh

nghiệp ở Việt Nam hiện nay; Hỗ trợ từ gia đình và ý định khởi nghiệp của sinh viên; Thúc đẩy khởi nghiệp thông qua phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia; Bàn về chính sách hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp của các tác giả Vũ Văn Hùng, Vũ Thị

Như Quỳnh, Trần Thị Hoàng Hà Và Đỗ Hạnh Nguyên. Mặc dù các tác giả đã trình bày được thực trạng và giải pháp liên quan hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam nhưng phạm vi mới chỉ hướng đến đối tượng là sinh viên hoặc các doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung mà không tập trung vào thanh niên.

Bùi Nhật Quang và cộng sự (2018) trong nghiên cứu về “Chính sách khuyến khích khởi nghiệp doanh nghiệp của Việt Nam” đã làm sáng tỏ và cụ thể hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động khởi nghiệp. Bên cạnh việc tổng kết,

đánh giá về các mô hình khởi nghiệp và khả năng vận dụng, nhân rộng các mô hình này ở Việt Nam, nhóm tác giả còn làm rõ về các cơ chế, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về khởi nghiệp, từ đó đề xuất các quan điểm, định hướng, mục tiêu đẩy mạnh khởi nghiệp của doanh nghiệp. Công trình nghiên cứu này có thể coi là tài liệu

đầu tiên hệ thống hóa các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, các tác giả cũng nhấn mạnh sự thiếu

17

hụt về hệ thống chính sách cụ thể hỗ trợ khởi nghiệp hiện nay, chủ yếu chỉ tiếp cận

được ở góc độ những chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và thúc đẩy khởi nghiệp.

Nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp” của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2018). Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, những rào cản trong quá trình khởi nghiệp của thanh niên hiện nay chủ yếu do hạn chế về năng lực bản thân gồm các yếu tố về tri thức, kinh nghiệm và nguồn tài chính. Ngoài ra chính sách hỗ trợ về khởi nghiệp trong thanh niên cũng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình khởi

nghiệp của thanh niên hiện nay. Có từ 37,7% đến 55,4% ý kiến cho rằng các chính sách hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn kém hiệu quả. Kết quả mô tả xu hướng đánh giá của thanh niên về mức độ tác động của một số chính

sách trong lĩnh vực nghề nghiệp, việc làm cũng cho thấy các chính sách được đánh giá ở mức trung bình thấp. Các chính sách liên quan nhằm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp chưa được thanh niên đánh giá cao về mức độ triển khai cũng như hiệu quả đạt được, nhất là trong việc đáp ứng nhu cầu khởi nghiệp của thanh niên. Hai nội dung được

đánh giá là hạn chế trong việc triển khai chính sách hỗ trợ khởi nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất số người tham gia khảo sát đồng tình đó là: Động lực của chính sách (53%) và hiệu quả triển khai chính sách (51,7%). Các nội dung đánh giá hiện nay “thiếu chính sách” hoặc “chính sách đưa ra chưa cụ thể” chiếm khoảng 43% ý kiến đồng tình.

1.2.2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tham gia của Chính phủ thông qua các chính

sách hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng, nhất là giai đoạn đầu hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp.

* Kinh nghiệm của Mỹ

Cộng đồng khởi nghiệp của Mỹ ra đời từ sớm, tiêu biểu nhất là Thung lũng

Silicon, nơi đã hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu thế giới như Google, Apple, eBay,… Ngoài ra, sự hiện diện của các doanh nghiệp công nghệ lớn, các trường đại học danh tiếng và nguồn đầu tư dồi dào, hệ sinh thái khởi nghiệp ở

Thung lũng này đã trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia học tập.

Tinh thần khởi nghiệp ở Mỹ xuất phát từ nền tảng văn hóa kinh doanh lâu đời, tạo nên những đặc trưng khi nhìn nhận về môi trường khởi nghiệp ở Mỹ đó là: (i) vùng đất của cơ hội với việc đề cao năng lực sáng tạo của cá nhân hơn là những mối quan

hệ, truyền thống gia đình hay địa vị xã hội; (ii) xã hội chấp nhận rủi ro, thất bại với tinh thần dám chấp nhận thất bại và lạc quan sau thất bại; (iii) xã hội mở và tự do với

18

việc sẵn sàng đón nhận các ý tưởng mới; (iv) chấp nhận rủi ro nghề nghiệp (Bùi Nhật

Quang, 2018:62-63).

Mỹ rất chú trọng đến việc nỗ lực tạo lập một hệ sinh thái khởi nghiệp lý tưởng với sự hài hòa, đồng bộ giữa môi trường kinh tế, pháp luật và môi trường văn hóa-xã hội. Nhờ mạng lưới rộng lớn các quỹ đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư thiên thần, các nguồn vốn từ cộng đồng và nguồn vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển,… đã giúp cho việc huy động nguồn lực tài chính đa dạng phục vụ khởi nghiệp.

Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Mỹ có sự tương tác chặt chẽ, gắn kết giữa các

trường đại học danh tiếng, những phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu hàng đầu với khối doanh nghiệp, là môi trường kết nối tri thức, kinh nghiệm giữa đội ngũ sinh viên, giảng viên và tầng lớp doanh nhân.

Chính phủ Mỹ đưa ra nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

trong đó bao gồm:

Chính sách hỗ trợ tài chính được thực hiện dưới hình thức: chính sách chi tiêu công và hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, các vườn ươm

công nghệ và các chương trình tăng tốc khởi nghiệp, chính sách thuế và ưu đãi tài chính dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhà đầu tư;

Chính sách hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau, tháo gỡ những thủ tục về luật pháp, xây dựng cầu nối giữa nhà nước,

nhà tư vấn và doanh nhân khởi nghiệp;

Chính sách thu hút vốn đầu tư và nhân tài khởi nghiệp tại Mỹ. Điển hình cho chính sách này là chương trình visa khởi nghiệp với ưu đãi cấp visa tạm thời 2-5 năm

cho các doanh nhân có tiềm năng đến Mỹ khởi nghiệp. Đặc biệt, môi trường đầu tư ở Mỹ rất năng động, thân thiện với nhà đầu tư nhất là dịch vụ pháp lý minh bạch, rõ ràng, thủ tục đơn giản, nhanh chóng.

Tại Mỹ, ngoài tham gia dưới vai trò chính sách, Chính phủ Mỹ đã trực tiếp

tham gia vào việc đầu tư. Chính phủ Mỹ đã đầu tư 25% tổng số vốn của hai quỹ Huron River Ventures và Michigan Accelerator Fund ngay từ khi mới thành lập, đồng thời chấp nhận giới hạn lợi nhuận của mình ở mức 1,5 lần. Việc này giúp quỹ nhanh chóng

được thành lập và đi vào hoạt động.

* Kinh nghiệm của Israel

Israel là một quốc gia nhỏ về diện tích, ít về dân số nhưng được coi là quốc gia có mật độ các DNKN lớn nhất trên thế giới. Quốc gia này cũng là quê hương của các

19

công ty khởi nghiệp thành công như: Houzz, Mobileye, Waze, Wix... Những thành quả

này xuất phát từ những chính sách đi đầu trong việc đầu tư và nuôi dưỡng một hệ sinh thái khởi nghiệp thịnh vượng bằng cách phân bổ thời gian và nguồn lực để hỗ trợ hệ sinh thái của Chính phủ Israel. Quốc gia này đầu tư nhiều vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo điều kiện cho sự đổi mới, sáng tạo, tiến bộ công nghệ và phát triển văn hóa khởi nghiệp. Israel cũng quản lý các chương trình vườn ươm khởi nghiệp nhằm khuyến khích, hỗ trợ các ý tưởng sáng tạo trở thành sản phẩm thật sự và có thể phổ biến rộng rãi. Mặt khác, tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ và có tính lan tỏa rộng rãi

được coi là động lực quan trọng giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Israel thành công.

Từ những năm 1980, Chính phủ Israel đã tích cực khám phá tiềm năng của khu

vực tư nhân. Để hỗ trợ các DNKN, Chính phủ Israel đứng ra thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời giao cho tư nhân quản lý hoạt động, bộ phận tư nhân sẽ giám sát và điều phối việc đầu tư các quỹ này. Trong trường hợp hoạt động đầu tư có hiệu quả, tư nhân sẽ mua lại các quỹ đầu tư này còn nếu thua lỗ, nhà nước sẽ gánh phần rủi ro.

Đến cuối thập niên 1990, Chính phủ Israel đã không phải làm gì vì toàn bộ các hoạt động đầu tư mạo hiểm đã được các tổ chức bên ngoài vận hành đầy đủ. Mọi quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay tại Israel đều của tư nhân hoặc của các tổ chức đa quốc gia. Chính phủ không quyết định sẽ đầu tư vào dự án nào và cũng không can thiệp vào hoạt

động của các dự án này mà để các cấp quản lý tư nhân quyết định dựa vào nhu cầu của thị trường.

Israel dành nhiều ngân sách cho hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) với

khoảng 4,5% GDP, cao hơn so với bình quân 2,2% của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và các quốc gia có cùng mức GDP trên toàn cầu. Nguồn ngân sách trên được sử dụng chủ yếu để chính phủ chia sẻ các rủi ro về tài chính với những startup.

* Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Tại châu Á, quốc gia điển hình cho sự đầu tư rất lớn của Chính phủ cho hệ sinh thái khởi nghiệp là Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đầu tư 2,91 tỷ USD để phát triển

startup. Phần lớn số tiền này sẽ được sử dụng để đầu tư vào các startup thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân ở các giai đoạn khác nhau; gỡ bỏ một số các loại thuế từ bán cổ phần công ty; cho phép nhà đầu tư miễn giảm thuế (với điều kiện họ tái đầu tư khoản lãi từ bán cổ phần của mình). Điều này cho thấy Hàn Quốc đang chuẩn bị cho

các startup của mình một cơ chế dễ dàng huy động vốn ở mọi giai đoạn.

20

Ở giai đoạn vốn mồi và trước sàn KONEX, startup Hàn Quốc có thể huy động

vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm được đồng đầu tư bởi Chính phủ. Các giai đoạn sau, startup có thể lần lượt huy động vốn ở sàn KONEX, KOSDAQ và KOSPI.

Ngoài ra, các cơ chế đồng đầu tư của Chính phủ cũng như miễn giảm thuế thu từ bán cổ phần cũng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp thường xuyên thực hiện mua bán sáp nhập hơn, qua đó tạo thanh khoản cho các nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm.

Chính Phủ Hàn Quốc từ năm 2005 đã thành lập “Quỹ Mẹ” (Fund of Funds)

được quản lý bởi công ty nhà nước KVIC (Korea Venture Investment Corporation). Công ty này quản lý nguồn vốn góp từ 8 cơ quan chính phủ khác nhau và góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc nhằm tạo vốn mồi cho các quỹ đầu tư mạo

hiểm này đi kêu gọi thêm vốn đầu tư từ tư nhân.

Tính đến thời điểm năm 2016, 66,6% số quỹ đầu tư mạo hiểm và 81,1% số tiền đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc đều được tạo ra từ các khoản vốn mồi của KVIC vào các quỹ đầu tư.

Ngoài công cụ là KVIC, Chính phủ Hàn Quốc còn sử dụng Ngân hàng phát triển Hàn Quốc (Korea Developemt Bank – KDB) để đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Trong giai đoạn 2012 – 2015, có 12,5% số vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc đều xuất phát từ KDB.

Công cụ thứ 3 của Chính phủ Hàn Quốc là Growth Ladder Fund (GLF). Tổ chức này có nhiệm vụ huy động và quản lý vốn từ các ngân hàng quốc doanh của Hàn Quốc để đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. GLF cũng được quyền đầu tư vào các

doanh nghiệp startup ở giai đoạn phát triển và mở rộng.

Công cụ thứ 4 Chính phủ Hàn Quốc sử dụng là việc cho phép các quỹ hưu trí đầu tư tới 10% tổng số tiền của họ vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Với các công cụ này, Hàn Quốc đã tăng tổng số quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước từ 54 lên tới 279 quỹ.

Thời gian này cũng là thời gian mà các công ty công nghệ “tỷ đô” của Hàn Quốc được xây dựng như KaKao, Naver, Coupang... Thị trường đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc bắt đầu cất cánh vào năm 2014. Từ 71 triệu USD đầu tư trong năm 2013, tới

năm 2014, số tiền đầu tư mạo hiểm đã tăng lên 949 triệu USD. Sau đó, nó đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 1,8 tỷ USD trong năm 2015.

Các quy định của pháp luật Hàn Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Chính phủ tạo hỗ trợ pháp lý tối đa

21

cho doanh nghiệp bằng việc tối giản thủ tục thành lập doanh nghiệp, đồng thời chỉ yêu

cầu 2 thủ tục đăng ký kinh doanh và không yêu cầu vốn góp tối thiểu.

Hàn Quốc cũng là quốc gia chú trọng đến việc đầu tư cho R&D, với kinh phí chi tiêu cho R&D từ năm 2012 luôn duy trì ở mức trên 4%. Năm 2017, kinh phí GDP chi cho R&D của nước này đạt 4,6%, vượt lên cả Isarel.

Biểu đồ 1.1: Tỉ lệ GDP hàng năm chi cho R&D của một số quốc gia trong OECD

Nguồn: OECD Science, Technology and R&D Statistics: Main Science and Technology Indicators, Tác giả truy xuất dữ liệu (2017)

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nội dung được chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm thông qua việc đầu tư cho các trường đại học và các viện nghiên cứu lớn, có uy tín. Ngoài đào tạo tại chỗ, Hàn Quốc cũng có chính sách “xuất khẩu chất xám” kết hợp với chính sách “hồi hương” đối với các nhà khoa học ở nước ngoài.

Chính phủ Hàn Quốc quan tâm đến việc đầu tư hệ sinh thái khởi nghiệp, phát triển các khu công nghệ cao thông qua việc áp dụng các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế thu nhập, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, xây dựng các chương trình ươm tạo khởi nghiệp, tăng cường kết nối các trường đại học, viện nghiên cứu với khối doanh nghiệp.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Xuất phát từ kinh nghiệm của các quốc gia khởi nghiệp thành công, bài học

kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong việc đưa ra các chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp đó là:

22

Thứ nhất, cần chú trọng xây dựng tinh thần khởi nghiệp. Ở các quốc gia khởi nghiệp thành công, tinh thần khởi nghiệp được nhấn mạnh như là yếu tố quan trọng thúc đẩy cá nhân biến dự định khởi sự kinh doanh thành hành động thực tiễn, đồng thời xây dựng văn hóa khởi nghiệp với việc chấp nhận thất bại, không ngại vượt khó, vươn lên. Để xây dựng được văn hóa khởi nghiệp, nhất là trong giới trẻ, Nhà nước cần ban hành và thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp.

Thứ hai, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, nâng cao vai trò đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp. Kinh nghiệm ở các quốc gia khởi nghiệp tiêu biểu cho

thấy họ rất chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp. Ở Việt Nam, Nhà nước cần tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp hiệu quả, bền vững, đồng thời giữ vai trò kết nối, điều phối các chủ thể trong đó mạng lưới liên kết gồm các DN khởi

nghiệp, các nhà đầu tư thiên thần, các viện nghiên cứu, trường đại học, các quỹ đầu tư, các cơ sở ươm tạo, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp,... Ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng quốc gia khởi nghiệp, Nhà nước cần nắm giữa vai trò then chốt trong việc đồng hành, huy động các nguồn lực xã hội, thúc đẩy doanh

nghiệp khởi nghiệp. Nhà nước tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển bền vững thông qua các chính sách ưu đãi cụ thể ở từng lĩnh vực về thuế, tài chính, xây dựng các quỹ đầu tư, thu hút các nhà đầu tư thiên thần,… chú trọng, ưu tiên cho lĩnh vực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, phát huy vai trò tích cực của khu vực kinh tế tư nhân. Kinh nghiệm từ Israel cho thấy, khu vực tư nhân hoạt động rất hiệu quả và có khả năng giúp Chính phủ giải quyết rất nhiều vấn đề xã hội và việc làm cho nền kinh tế. Bản thân các DNKN

khi mới khởi nghiệp cũng rất cần sự hỗ trợ về chuyên môn, kinh nghiệm và nguồn lực để tiến hành sản xuất kinh doanh hiệu quả; đồng thời những người làm chủ các DN tư nhân cũng chính là những người khởi nghiệp thành công. Do vậy, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và tư nhân thông qua hình thức hợp tác đầu tư, để cùng nhau chia

sẻ trách nhiệm, phát huy lợi thế, năng lực của mỗi bên để thành lập và phát triển các công ty khởi nghiệp.

Thứ tư, phát triển các chương trình hỗ trợ và vườn ươm khởi nghiệp. Các quốc gia khởi nghiệp thành công đều quan tâm đến việc xây dựng nền tảng môi trường khởi nghiệp thông qua việc phát triển và nhân rộng các mô hình vườn ươm và có các chính sách hỗ trợ cho hoạt động khởi sự doanh nghiệp tại các vườn ươm này. Việt Nam cũng cần phát triển các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, đầu tư cho các trung tâm nghiên

cứu và hợp tác nhằm thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu R&D ở các trường đại học,

23

các viện nghiên cứu và đào tạo sinh viên có kinh nghiệm làm việc thực tiễn, tăng

cường hợp tác quốc tế trong phát triển khởi nghiệp.

Thứ năm, áp dụng các chính sách hỗ trợ về pháp lý, thủ tục hành chính và thuế cho hoạt động liên quan đến khởi nghiệp. Việt Nam cần xây dựng chính sách cho hoạt động khởi nghiệp, trong đó, các điều kiện, chính sách của Nhà nước cần giảm bớt các rào cản về vốn, rút ngắn thời gian để hình thành DN, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo sự thông thoáng trong cơ chế và chính sách đầu tư; có chính sách ưu đãi về thuế cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, có các cơ chế thu hút vốn đầu tư, thu

hút các quỹ đầu tư rót vốn vào các dự án khởi nghiệp tạo điều kiện cho các DNKN được tiếp cận đa dạng nguồn vốn đầu tư.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Kết quả tổng quan các nghiên cứu của quốc tế và trong nước cho thấy dự định khởi sự kinh doanh bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó, tập trung vào các nhân tố như: thái độ khởi sự kinh doanh, chuẩn chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi, giáo dục khởi sự kinh doanh, các đặc điểm cá nhân, kinh nghiệm khởi sự, các yếu tố thuộc môi trường. Bên cạnh những yếu tố có tính đồng nhất về kết quả nghiên cứu như thái độ và nhận thức (Elfving và cộng sự, 2009; Shariff và Saud, 2009), chuẩn chủ quan (Linan và Chen, 2009); thì các yếu tố khác vẫn chưa có sự thống nhất về kết quả

nghiên cứu như: nhận thức kiểm soát hành vi (Ruhle và cộng sự, 2010; Paco và cộng sự, 2011), giáo dục khởi sự kinh doanh (Johansen và Schanke, 2013; Gorman và cộng sự, 1997), đặc điểm cá nhân (Tong và cộng sự, 2011), kinh nghiệm khởi sự kinh doanh

(Basu và Virick, 2008; Davidsson, 1995), Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh (Lüthje và Frank, 2003), giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn (BarNir và Watson, 2011; và Shinnar và Giacomin, 2012). Sự khác biệt này cũng có thể do yếu tố bối cảnh như sự khác biệt về văn hóa của từng quốc gia (Okamuro và cộng sự, 2011;

Saeed và cộng sự, 2014). Với những mối quan hệ chưa được kết luận thống nhất thì nên tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu thêm nguyên nhân.

Mặt khác, kết quả tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy chưa có

nghiên cứu nào thực hiện một cách có hệ thống để đánh giá tác động của các yếu tố thuộc về bản thân, yếu tố liên quan đến giáo dục KSKD, yếu tố thuộc về môi trường (Hệ thống pháp luật, hỗ trợ từ chính phủ, truyền thống kinh doanh của gia đình) đến dự định KSKD trong môi trường văn hóa, kinh tế, xã hội có nhiều nét đặc thù như ở

Việt Nam. Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, do đó, những đặc điểm khởi nghiệp ở thanh niên Việt Nam chắc hẳn sẽ bị chi phối bởi các yếu tố trên ở mức độ

24

khác nhau. Điều này chưa được kiểm chứng đầy đủ trong các nghiên cứu học thuật ở

trong nước.

Với đặc điểm là những người trẻ năng động, sống trong môi trường xã hội có đang có nhiều thay đổi và chịu ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thái độ đối với khởi sự kinh doanh của thanh niên sẽ có ảnh hưởng nhất định đến quyết định KSKD của họ. Mặt khác, ở Việt Nam, tính cộng đồng được đánh giá cao, bên cạnh những điểm thuận lợi, nó đồng thời cũng mang đến những trở ngại nhất định cho người có ý định KSKD nhất là đối với việc dám chấp nhận thử thách, chấp nhận thất

bại hay thay đổi bản thân để bắt đầu hoạt động KSKD. Nói cách khác, thái độ đối với KSKD hay thái độ đối với tiền bạc trong suy nghĩ của TNVN chắc hẳn có sự khác biệt so với thanh niên ở các nước phương Tây và các nước phương Đông có nền văn hóa

không tương đồng. Điều đó giúp dự báo rằng thái độ đối với KSKD hay đối với tiền bạc có thể mang lại hiệu ứng nhất định đến dự định KSKD của TNVN.

Từ đặc điểm môi trường văn hóa, con người Việt Nam, có thể nhấn mạnh sức ảnh hưởng, chi phối của chuẩn chủ quan đến dự định KSKD của TNVN. Xã hội Việt

Nam đã thay đổi khá nhiều, nhất là về mặt quan niệm, nhận thức trong việc định hướng nghề nghiệp cho con cái. Các nghiên cứu trong nước cũng đã chỉ ra sự thay đổi lựa chọn nghề nghiệp từ các cơ quan nhà nước sang lĩnh vực tư nhân nhiều hơn, cùng với thái độ cởi mở hơn của xã hội với doanh nhân, thậm chí, những người thành đạt

trong kinh doanh được xã hội tôn vinh ngày càng nhiều. Những điều đó cho thấy sự khác biệt rất lớn trong quan niệm của người Việt đối với hoạt động KSKD so với quan niệm truyền thống. Tuy vậy, tính cách “ăn chắc, mặc bền” cũng có thể trở thành rào

cản trong tâm lý của người Việt khi lựa chọn việc KSKD. Liệu rằng điều này sẽ tạo nên sự khác biệt gì trong chuẩn chủ quan của TNVN và sự khác biệt ấy có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của họ hay không?

Các nghiên cứu nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi

đến dự định KSKD ở cả hai chiều tích cực hoặc tiêu cực, tuy nhiên, ở khách thể nghiên cứu là TNVN với những đặc điểm khu vực sinh sống khác nhau (nông thôn và thành thị) và tình trạng việc làm khác nhau (sinh viên và người đi làm), điều này

chưa được kiểm chứng trong các nghiên cứu đi trước. Mặt khác, bối cảnh khởi nghiệp ở Việt Nam có xuất phát điểm khác với so với các quốc gia đã khởi nghiệp thành công trên thế giới, sức lan tỏa từ thông điệp xây dựng quốc gia khởi nghiệp của chính phủ cùng hệ thống các chính sách liên quan tạo hành lang pháp lý hỗ trợ hoạt

động khởi nghiệp vẫn còn chưa hoàn thiện, điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến nhận thức của thanh niên đối với hoạt động KSKD. Do vậy, liệu rằng nhận thức kiểm soát hành

25

vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của TNVN hay không? Đây là vấn đề

cần được làm sáng tỏ về mặt khoa học.

Về yếu tố nhu cầu thành tích, các nghiên cứu ngoài nước đều khẳng định vai trò tích cực của yếu tố này đối với dự định KSKD. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào nhấn mạnh nhu cầu thành tích của thanh niên có ảnh hưởng đến dự định KSKD khác so với các nhóm xã hội khác hay không? Đặc biệt đối với TNVN, các nghiên cứu hiện nay chưa đề cập vấn đề này một cách rõ ràng, trong khi trên thực tế khảo sát những người trong độ tuổi thanh niên thường có xu hướng mong muốn khởi nghiệp cao hơn

so với các đối tượng khác. Do vậy, việc kiểm chứng vấn đề ảnh hưởng của nhu cầu thành tích đến dự định KSKD của TNVN là điều phù hợp.

Trong đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến dự định KSKD, một số tác giả đề cập

đến yếu tố kinh nghiệm KSKD. Ở Việt Nam, ngoài bằng cấp, yếu tố kinh nghiệm làm việc luôn là một trong các yếu tố được các nhà tuyển dụng ưu tiên. Vì vậy, dễ dàng thấy thực trạng ở các trường đại học hiện nay, sinh viên tham gia làm thêm khá nhiều, ngoài mục đích về kinh tế, việc tích lũy kinh nghiệm cũng là mục đích của họ trong

quá trình làm thêm. Vậy đối với hoạt động KSKD, liệu rằng dự định KSKD của TNVN có chịu ảnh của kinh nghiệm KSKD hay không? Với câu hỏi này, ở Việt Nam chưa có minh chứng nào rõ ràng trong các nghiên cứu học thuật. Đó cũng là cơ sở để đặt ra vấn đề kiểm định trong nghiên cứu này.

Một yếu tố không kém phần quan trọng trong mô hình nghiên cứu về dự định KSKD đó là giáo dục KSKD. Ở Việt Nam, hoạt động này còn khá mờ nhạt, thậm chí cả ở trong các trường đại học. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thúc đẩy

giáo dục KSKD lại là chìa khóa mở ra cơ hội thúc đẩy hoạt động KSKD trong xã hội. Do đó, vai trò của giáo dục KSKD đối với dự định KSKD của TNVN được thể hiện như thế nào là điều rất cần được kiểm chứng.

Ngoài ra, kết quả tổng quan nghiên cứu cho thấy, yếu tố sự hỗ trợ của chính

phủ ít được đưa vào kiểm chứng trong các mô hình nghiên cứu trước đây. Một số nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng trong các bối cảnh xã hội khác nhau, dẫn đến những kết luận khoa học mang tính riêng biệt phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Ở Việt

Nam, chính phủ rất quan tâm đến vấn đề khởi nghiệp thông qua việc lan truyền thông điệp xây dựng quốc gia khởi nghiệp qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, về mặt chính sách cụ thể cho hoạt động khởi nghiệp, Việt Nam cần một thời gian nhất định để hoàn thiện cơ chế, chính sách. Điều này liệu rằng có tác động như

thế nào đến dự định KSKD của TNVN? Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, xem xét với

26

kỳ vọng mang đến những khuyến nghị phù hợp để tăng cường niềm tin, thái độ tích

cực của TNVN đối với hoạt động KSKD trong nước.

* Tiểu kết chương 1

Vấn đề thúc đẩy khởi nghiệp hướng đến xây dựng quốc gia khởi nghiệp ở Việt Nam đang là vấn đề thời sự, được nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính học thuật ở trong nước còn rất hạn chế về mặt số lượng cũng như bị giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu. Các nhà khoa học từ kết quả nghiên cứu của mình đã đi đến sự thống nhất rằng dự định KSKD là tiền đề trực tiếp của hành vi KSKD, đây

chính cơ sở để tiếp cận thiết kế nghiên cứu về dự định KSKD của TNVN. Mặt khác, kết quả tổng quan nghiên cứu chỉ ra khá nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau đề cập đến ảnh hưởng của các yếu tố đến dự định KSKD, tuy nhiên, việc lựa chọn mô hình

nghiên cứu phù hợp với TNVN chưa được nghiên cứu nào đề cập đến.

Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi cần nghiên cứu, làm rõ về mặt khoa học để cung cấp luận cứ chính xác nhất về các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên hiện nay, đồng thời có những giải pháp can thiệp để thúc đẩy

hoạt động khởi sự kinh doanh của thanh niên trong bối cảnh hiện nay.

27

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH

2.1 Các khái niệm liên quan đến khởi sự kinh doanh của thanh niên

2.1.1 Thanh niên

Cách hiểu về “thanh niên” Theo điều 1 của Luật thanh niên 2015 của Việt Nam, thanh niên được định nghĩa là “công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số điều luật liên quan khác như Điều 32,

33, 34 của Luật thanh niên 2005 quy định các tổ chức của thanh niên bao gồm “Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam và các tổ chức khác của thanh niên được tổ chức và hoạt động theo điều lệ

của tổ chức và trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật”. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, giữ vai trò nồng cốt trong phong trào thanh niên; tổ chức, hướng dẫn hoạt động của thiếu niên, nhi đồng, phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Theo Điều lệ Đoàn thanh

niên, “Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn”. Như

vậy thanh niên cơ bản được hiểu giống như Luật thanh niên, có tuổi từ 16 đến 30 tuổi. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ chức thanh niên, nhằm đoàn kết tập hợp mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của thanh niên. Và theo điều lệ của Hội Liên hiệp Thanh niên (LHTN) Việt Nam điều 5 quy định rằng “công dân Việt Nam từ 15 đến 35 tuổi tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện gia nhập Hội thì được xét công nhận là hội viên Hội LHTN Việt Nam”. Như vậy, đối với Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, khái niệm

thanh niên được mở rộng hơn, là những người có độ tuổi từ 15 (vị thành niên) tới 35 tuổi. Theo nghiên cứu Chỉ số khởi sự doanh nghiệp toàn cầu (GEM), những người trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) là đối tượng điều tra của khởi nghiệp vì họ có đủ năng

lực hành vi cần thiết và có thể tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nghiên cứu này cũng quan niệm có 02 đối tượng người trưởng thành là thanh niên - từ 18 đến 34 tuổi và trung niên từ 35 đến 64 tuổi. Từ các căn cứ nêu trên, trong nghiên cứu này, thống nhất cách hiểu thanh niên là những người trưởng thành, có tuổi từ 18 tới 34 tuổi. Nhu cầu khởi nghiệp của thanh niên Theo Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt Nam

28

2014 (Lương Minh Huân, 2015), thanh niên từ 18-34 tuổi là nhóm có tỷ lệ khởi sự

kinh doanh cao hơn hẳn so với trung niên (35-64 tuổi). Thanh niên (18-34 tuổi) tuy nhận thức về khả năng kinh doanh thấp hơn trung niên (35-64 tuổi), nhưng họ lại là nhóm nhạy bén hơn về cơ hội kinh doanh, mạo hiểm hơn và có ý định khởi sự cao hơn và thực tế họ là nhóm người có tỷ lệ khởi sự doanh nghiệp cao hơn trung niên. Báo cáo về khởi nghiệp của người trẻ của OECD2 (Green, 2015) cũng cho rằng thanh niên là nhóm có tỷ lệ khởi nghiệp cao trong số những người trưởng thành. Mặc dù khởi nghiệp ở độ tuổi dưới 30 được xem là gặp nhiều khó khăn và có nhiều khả năng thất

bại hơn so với những người khởi nghiệp ở độ tuổi trên 30. Tuy nhiên, nhiều học giả, lại tin rằng giới trẻ có khả năng đặt biệt để tạo dựng nên những công ty mới thành công nhất. Jones và các cộng sự (2012) chỉ ra rằng những người trẻ có khả năng đưa ra

những ý tưởng táo bạo - dù trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, sáng chế, hay khởi nghiệp. Các trường hợp cá nhân nổi tiếng như Bill Gates, Steve Jobs và Mark Zuckerberg cho thấy rằng những người ở độ tuổi 20 có thể tạo ra những công ty hàng đầu thế giới. Các học giả nhận định rằng những người trẻ có cái nhìn sắc nét hơn, ít bị

phân tâm bởi gia đình hay các trách nhiệm khác, và có nhiều ý tưởng linh hoạt, táo bạo, dám phá vỡ những nguyên tắc, lối đi thông thường (Weinberg, 2007). Như vậy, thanh niên là nhóm đối tượng có tiềm năng và nhu cầu khởi nghiệp rất lớn, xứng đáng được nghiên cứu đầy đủ về quá trình khởi sự doanh nghiệp và cách thức hỗ trợ họ để

thành công. Khái niệm thanh niên thường được xác định theo khía cạnh lứa tuổi và tính chất của nhóm tuổi. Về nhóm tuổi, thanh niên là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi (Liên Hợp Quốc), hoặc thanh niên có nghĩa là tất cả mọi người trong độ

tuổi từ 15 đến 35 tuổi (UNESCO). Do sự khác biệt này, UNESCO cho rằng, độ tuổi thanh niên được hiểu linh hoạt hơn và sử dụng phù hợp với từng hoạt động và vùng lãnh thổ. Về tính chất, thanh niên là giai giai đoạn chuyển đổi giữa sống phụ thuộc thời ấu thơ tới tuổi trưởng thành sống độc lập, và có nhận thức về sự tương tác như một

thành viên của cộng đồng; đây là thời kỳ sung sức nhất của con người về thể chất, có sự phát triển mạnh về trí tuệ, nhạy bén, năng động, sáng tạo, nhiều ước mơ hoài bão (Trần Văn Trang, 2019).

2.1.2 Khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên

2.1.2.1 Khởi sự kinh doanh

Thuật ngữ “khởi sự kinh doanh” xuất phát từ khái niệm “entrepreneur” (người khởi sự kinh doanh) trong tiếng Pháp. Tuy nhiên, chưa thực sự có định nghĩa về

29

KSKD được chấp nhận rộng rãi. Theo quá trình tổng quan tài liệu cho thấy KSKD

được định nghĩa trên các góc độ tiếp cận, bối cảnh và chủ đích nghiên cứu khác nhau:

- Dưới góc độ hình thành/bắt đầu một cái gì mới, thì khởi sự kinh doanh bao gồm các hoạt động cần thiết để tạo ra hoặc hình thành một doanh nghiệp mới (Leibenstein, 1968 & 1979) hoặc tạo ra một tổ chức mới (Gartner, 1988; Cromie, 2000).

- Dưới góc độ doanh nhân/người chủ tổ chức (doanh nghiệp) mới, khởi sự kinh doanh là việc một cá nhân chấp nhận rủi ro để tạo lập doanh nghiệp mới và tự làm chủ nhằm mục đích làm giàu (Wortman, 1987), hoặc KSKD là việc bắt đầu tạo lập

một công việc kinh doanh mới bằng đầu tư vốn kinh doanh, hay mở cửa hàng kinh doanh (Macmillan, 1993). "Khởi sự kinh doanh là một sự lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân giữa việc đi làm thuê hoặc tự tạo việc làm cho mình" hoặc “Khởi sự kinh doanh là lựa chọn nghề nghiệp của những người không sợ rủi ro tự làm chủ công việc kinh

doanh của chính mình. Hơn nữa, Hisrich và Peters (2002) tuyên bố rằng KSKD có liên quan nhiều đến một số đặc điểm của cá nhân như khả năng sáng tạo, năng lực làm việc độc lập và khả năng đối mặt với rủi ro.

- Dưới góc độ khai thác các cơ hội kinh doanh, KSKD là một quá trình một cá nhân nhìn nhận và đánh giá các cơ hội kinh doanh, thu thập các nguồn lực cần thiết và bắt đầu các hành động thích hợp để khai thác hiệu quả các cơ hội kinh doanh (Nwachukwu, 1990). KSKD cũng có thể hiểu là việc phát hiện ra cơ hội và tạo ra các

hoạt động kinh tế mới, thường thông qua việc thành lập một tổ chức mới (Reynolds, 1995). Tương tự KSKD là việc xác định và khai thác có hiệu quả cơ hội kinh doanh (Shane và Venkataraman, 2000), Khởi sự kinh doanh là một quá trình một cá nhân tìm

kiếm cơ hội không cần xét đến những nguồn lực mà họ hiện đang kiểm soát (Baringer & Ireland, 2010); hay KSKD là sự sẵn lòng và khả năng của một cá nhân trong việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư; và có thể thành lập, điều hành một doanh nghiệp thành công dựa trên việc nhận biết cơ hội trong một môi trường kinh doanh (Okpara, 2000).

Khởi sự kinh doanh là một quá trình một cá nhân tìm kiếm cơ hội không cần xét đến những nguồn lực mà họ hiện đang kiểm soát (Baringer và Ireland, 2010).

- Dưới góc độ trách nhiệm xã hội, KSKD là quá trình làm mới và tạo ra sự khác biệt với mục đích đem lại sự giàu có cho cá nhân và tạo ra các giá trị mới cho xã

hội. Sự hiểu biết này phản ánh chức năng xã hội của kinh doanh là mang lại lợi ích cho công chúng chứ không chỉ đơn thuần theo đuổi lợi nhuận cá nhân (Kao, 1993). Điều này liên quan đến khái niệm về doanh nghiệp xã hội, đề cập đến hoạt động sáng tạo

với mục tiêu xã hội trong khu vực lợi nhuận hoặc trong khu vực phi lợi nhuận, hoặc

30

trong các hình thức cấu trúc kết hợp hai ngành này (Dees, 1998). Đồng quan điểm đó,

Tan và cộng sự (2005), cho rằng cần nhận thức KSKD từ khía cạnh xã hội, cụ thể KSKD không chỉ với mục đích tạo ra sự giàu có cho cá nhân và mà cần nhìn nhận KSKD ở những giá trị đem lại cho xã hội.

- Theo quan điểm của Hiệp hội khởi nghiệp toàn cầu GEM (Global Entrepreneurship Monitor), khởi sự doanh nghiệp không phải là hành động bột phát, hay là hành động nay nghĩ mai làm ngay. Đó là quá trình ấp ủ ý định khởi nghiệp, tìm kiếm ý tưởng/cơ hội kinh doanh, khảo sát thị trường, xem xét điều kiện của bản thân,

tính toán khả năng huy động các nguồn lực,… trước khi thực sự bắt tay vào kinh doanh (Trần Văn Trang, 2019). Theo nghiên cứu GEM, quá trình khởi nghiệp bao gồm 3 giai đoạn cơ bản là hình thành ý tưởng kinh doanh, khởi sự kinh doanh (dưới 3 tháng) và làm chủ/quản lý hoạt động kinh doanh mới (dưới 3,5 năm). Dù tiếp cận theo

cách nào, quá trình khởi sự doanh nghiệp cũng được mô tả qua một số từ khoá bao gồm: (1) “ý tưởng/cơ hội kinh doanh”, “nguồn lực”, “giá trị” và “sáng tạo”. Đây là những thuật ngữ cơ bản mô tả đặc điểm của quá trình khởi nghiệp. Xác định ý tưởng

hoặc/và tận dụng cơ hội kinh doanh Công việc kinh doanh thành công thường bắt đầu từ một ý tưởng kinh doanh tốt (thực tế và khả thi). Một ý tưởng kinh doanh tốt thường bao gồm hai yêu cầu cơ bản: có cơ hội kinh doanh tức là có nhu cầu thị trường và doanh nhân phải có đủ các kỹ năng và nguồn lực để tận dụng cơ hội. Tuy nhiên, ý

tưởng kinh doanh luôn tồn tại xung quanh chúng ta. Điều quan trọng hơn là doanh nhân dám làm và dám dấn thân để biến ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Đôi khi tính toán kỹ quá sẽ dẫn đến việc chần chừ triển khai và đánh mất cơ hội; (2) Huy động

nguồn lực cần thiết Quá trình khởi sự doanh nghiệp gắn với việc huy động các nguồn lực, trong đó hai nguồn lực quan trọng khi khởi nghiệp là tiền bạc và con người. Người khởi nghiệp phải có tiền để bắt đầu kinh doanh. Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nhân thành đạt đều bắt đầu khởi nghiệp với số vốn ít ỏi. Ngoài tiền bạc, doanh nhân cần

biết huy động người có năng lực tham gia cùng với mình hoặc làm cho mình. Làm một mình có ưu điểm là được tự chủ thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình. Nhưng nếu gặp khó khăn, doanh nhân hãy nghĩ đến việc kêu gọi bạn bè, những người bạn tin

tưởng hoặc có chung niềm đam mê khởi nghiệp. Nếu hình thành một nhóm khởi nghiệp, tốt nhất là tìm được những người có cùng quyết tâm và các kỹ năng/khả năng bổ trợ. Cần minh bạch và thống nhất cách hợp tác ngay từ đầu để tránh các mâu thuẫn và nguy cơ tan vỡ về sau này; (3) Tạo ra giá trị cho khách hàng Khi nghĩ về mô hình

kinh doanh, suy nghĩ thông thường của doanh nhân sẽ là tôi sẽ làm gì (cung cấp sản phẩm/dịch vụ gì) và thu tiền bằng cách nào? Nhưng nếu đặt vào vị trí của khách hàng

31

tương lai, nên suy nghĩ xem khi khách hàng bỏ tiền ra mua sản phẩm/dịch vụ của, họ

có đạt được lợi ích hay giá trị bằng hoặc cao hơn số tiền họ bỏ ra hay không; (4) “Khởi nghiệp” luôn gắn liền với “sáng tạo” đến mức nhiều người cho rằng đã là khởi nghiệp (startup) là phải đổi mới sáng tạo, phải là khoa học công nghệ và làm những điều mà thế giới chưa từng làm. Một quá trình khởi nghiệp và kinh doanh thành công cần dựa trên sự đổi mới và sáng tạo liên tục. Ngay từ giai đoạn đầu, nếu sáng tạo ra một mô hình kinh doanh hoàn toàn mới, dựa trên một ý tưởng kinh doanh độc đáo thì đó là điều tuyệt vời (trường hợp của taxi uber). Tuy nhiên, nếu bắt đầu với ý tưởng kinh

doanh phổ biến (như cà phê hay cửa hàng phở), người khởi nghiệp phải làm khác với những gì hiện có - tức là phải sáng tạo cách làm mới, sản phẩm mới, mới hy vọng thành công. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp cũng cần liên tục cải tiến quy

trình làm việc, cách tổ chức công việc, sáng tạo ra cách làm mới chất lượng hơn, nhanh hơn, ưu việt hơn. Dưới áp lực cạnh tranh, phải liên tục cải tiến sản phẩm hiện có và sáng tạo ra các sản phẩm mới. Tóm lại, muốn khởi sự doanh nghiệp và phát triển công việc kinh doanh thì phải đổi mới và sáng tạo. Không có khuôn mẫu nào hết,

người chủ có thể tìm thấy những điều có thể thay đổi, những thứ có thể cải tiến và các ý tưởng mới cho sản phẩm, dịch vụ của mình.

2.1.2.2 Dự định khởi sự kinh doanh

Như vậy, theo tác giả, khởi sự kinh doanh được hiểu là một quá trình mà một cá nhân nhìn nhận và đánh giá các cơ hội kinh doanh, thu thập các nguồn lực cần thiết để hình thành một cơ sở kinh doanh/ doanh nghiệp mới với mục đích đem lại sự giàu có cho cá nhân, đất nước và tạo ra nhiều giá trị cho xã hội.

Tương tự như KSKD, dự định KSKD cũng được định nghĩa theo nhiều cách

khác nhau:

Dự định được nghiên cứu dưới nhiều gốc độ khác nhau. Dự định được xác định

là một trạng thái tinh thần, gắn với việc dự kiến thực hiện một hành động nhất định trong tương lai (Bratman, 1987). Do đó, dự định thường liên quan đến việc lập kế hoạch để thực hiện các dự định (Wibard, 2009) và cũng tạo động lực để thực hiện

những dự định mong muốn (Bagozzi và cộng sự, 1989). Dưới gốc độ này có thể suy diễn dự định khởi sự kinh doanh là những mong muốn có kế hoạch thực hiện hoạt động kinh doanh trong tương lại. Các cá nhân có dự định khởi sự luôn có sự lựa chọn và cân nhắc khi muốn thực hiện các hoạt động khởi sự kinh doanh (Bird, 1988).

Dự định kinh doanh cũng thường được xem xét gắn liền với một quá trình từ việc nhận thức được cơ hội kinh doanh, sử dụng các nguồn lực sẵn có để tạo dựng nên

32

các kinh doanh riêng của mình trong những điều kiện môi trường kinh doanh nhất

định. Dưới gốc độ này, dự định kinh doanh được xem xét dựa trên các cơ hội kinh doanh được phát hiện. Tuy nhiên, khởi sự kinh doanh là điểm nhấn quan trọng đối với quá trình chuẩn bị và thực hiện khởi sự kinh doanh sau này của các cá nhân. Vì vậy, hầu hết các tác giả đều đồng quan điểm rằng: dự định khởi sự là yếu tố quan trọng để dự đoán đến hành động khởi sự (Bagozzi và cộng sự, 1989; Krueger và Brazel, 1994).

Ngoài ra, dự định khởi nghiệp còn được khái niệm theo nhiều khía cạnh khác

như sau:

- Katz và Gartner (1988) cho rằng, dự định KSKD được hiểu là ý định tìm kiếm thông tin và các nguồn lực của một cá nhân để khởi sự, bắt đầu một doanh nghiệp mới;

- Dự định KSKD thực chất là dự định các hành động được lên kế hoạch của

một cá nhân để thực hiện một hoạt động KD (Tubbs và Ekeberg, 1991).

- Dự định KSKD cũng có thể được xem là sự cam kết của các cá nhân về việc khởi đầu kinh doanh (Reynolds và Miller, 1992) hoặc là cam kết thực hiện hành vi

kinh doanh (Krueger; 1993; Krueger với cộng sự, 1993).

- Engle và cộng sự (2010) cho rằng, dự định KSKD được hiểu là ý định của

một cá nhân trong bắt đầu một doanh nghiệp mới.

- Dự định KSKD được định nghĩa là sự sẵn sàng của cá nhân để thực hiện hành vi khởi sự kinh doanh, để tham gia vào hành động khởi sự kinh doanh, để tự làm chủ, hoặc để thành lập một công ty mới (Dell, 2008; Dhose và Walter, 2010).

- Hay như, Kuckertz & Wagner (2010) cho rằng dự định khởi sự kinh doanh của một cá nhân bắt nguồn từ việc họ nhận ra cơ hội, tận dụng các nguồn lực có sẵn và

sự hỗ trợ của môi trường để tạo lập doanh nghiệp của riêng mình

Như vậy, dự định KSKD được hiểu là: (i) những mong muốn, ý định trong việc tìm kiếm cơ hội và ý tưởng KD; (ii) ý định trong việc lên phương án thu thập và tiếp cận nguồn lực; (iii) ý định trong việc chuẩn bị năng lực điều hành hoạt động KD; Các ý định trên có thể là riêng rẽ nhưng cũng có thể diễn ra đồng thời.

Trong nghiên cứu này, dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên được hiểu là: những mong muốn, ý định tìm kiếm cơ hội và ý tưởng kinh doanh hoặc ý định trong việc lên phương án thu thập, tiếp cận nguồn lực, chuẩn bị năng lực điều hành hoạt động kinh doanh của thanh niên.

33

2.1.3 Vai trò khởi sự kinh doanh của thanh niên

Thanh niên Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn nhân lực quan trọng, vì vậy, thanh niên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội và phát huy tiềm lực của đất nước (Bộ nội vụ và UNFPA, 2015). Việt Nam đang ở thời kỳ “cơ

cấu dân số vàng”, thanh niên chiếm tỷ lệ lớn nhất trong lịch sử phát triển nhân khẩu của đất nước. Theo số liệu điều tra mẫu của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy thanh niên (độ tuổi từ 15 đến 24) là nhóm dân số lớn nhất, chiếm

đến 19,4% trong tổng dân số 85,79 triệu người của cả nước (Trần Văn Trang, 2019). Một con số khác được Báo cáo quốc gia về thanh niên (Bộ nội vụ và UNFPA, 2015) chỉ ra là nhóm dân số từ 10-29 tuổi chiếm khoảng 33% dân số và dự kiến thời kỳ này sẽ kéo dài cho đến năm 2040. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam có thể phát triển kinh tế -

xã hội và phát huy tối đa tiềm lực của đất nước thông qua đẩy mạnh vai trò của lực lượng thanh niên, trong đó có vai trò của thanh niên trong hoạt động khởi nghiệp.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Thanh

niên vào năm 2005 và luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. Căn cứ các quy định của Luật thanh niên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuật lợi để thanh niên trưởng thành và phát triển. Điều 4 của Luật thanh niên 2005 đã nhấn mạnh vai trò của thanh niên đối với đất

nước và quy định về Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên như sau (Trần Văn Trang, 2019):

- Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm

năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội.

- Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, ý chí

vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích cực vào việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên. Thế hệ thanh niên ngày nay

được sống, lao động, học tập trong môi trường hòa bình; được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự phát triển vững chắc của kinh tế

– Xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải

thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ hội học tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trước. Những lợi thế to lớn ấy khiến thanh

34

niên trở thành lực lượng lao động quan trọng nhất tham gia vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế đất nước trong công cuộc khởi nghiệp quốc gia.

Với lợi thế năng động, sáng tạo, giàu nhiệt huyết, không ngại ngần khó khăn, thanh niên là lớp người có khả năng học tập, tiếp nhận trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới và vận dụng hiệu quả vào quá trình khởi nghiệp của bản thân. Nhiều thanh niên Việt Nam đã không ngại khó khăn, ngày đêm ra sức học tập, sáng tạo và thành công rực rỡ trên con đường khởi nghiệp làm giàu. Họ chính là những tấm gương sáng ngời cho ý chí vượt khó vươn lên thành công.

Yếu tố công nghệ đem lại nhiều lợi thế cho những doanh nhân trẻ khi bắt đầu khởi nghiệp vì họ là những con người dễ dàng tiếp thu các ứng dụng công nghệ hiện đại một cách sáng tạo vào hoạt động kinh doanh để cho ra đời những sản phẩm mới

với nhiều tiện ích chưa từng có trên thị trường. Nếu như độ tuổi trung bình của người khởi nghiệp trong lĩnh vực như nhà hàng, giặt ủi, cửa hàng bán lẻ,... là 35 tuổi thì các nhà khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, dịch vụ khách hàng,... có độ tuổi trung bình là 29 (Stern và Guzman, 2015; Levine và Rubinstein, 2015),. Điều này cho

thấy các nhà khởi nghiệp trẻ dễ dàng thành công hơn khi điều hành các công ty về lĩnh vực thông tin và phát triển dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là giới trẻ. Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VII) chỉ rõ: "Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trên cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên; vào việc

bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng".

Quá trình hội nhập của đất nước giúp thanh niên được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, sự tiến bộ của nhân loại, các loại hình sáng tạo mới, sự tiến bộ của các nước

trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, internet đã rút ngắn khoảng cách giữa thanh niên Việt Nam và thanh niên thế giới, xóa bỏ mọi rào cản, khoảng cách địa lý và ranh giới quốc gia. Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước ngày càng được mở rộng,

lĩnh vực hợp tác đa dạng, từ đó tạo tiền đề thuận lợi cho thanh niên phát triển các ý tưởng và hoài bão. Việc tiếp cận với những cái mới, những cái tiến bộ mở ra cho thanh niên những cơ hội mới về nghề nghiệp và việc làm.

Tinh thần khởi nghiệp được chú trọng ở nhiều Quốc gia và được xem là cách

thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đảng và Nhà nước ta nhận thức rất rõ vai trò ý

35

nghĩa của khởi nghiệp đối với quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Đặc

biệt trong những năm vừa qua, một luồn gió mới đã thổi vào phong trào khởi nghiệp và bước đầu đã đạt được một số thành tựu khả quan. Thế hệ trẻ được kỳ vọng là linh hồn, là lực lượng tiên phong cho phong trào Quốc gia khởi nghiệp.

2.2 Các lý thuyết cơ bản liên quan đến dự định và khởi sự kinh doanh

Nghiên cứu về dự định KSKD đòi hỏi phải áp dụng khung lý thuyết có sức thuyết phục và mạch lạc trong phản ánh dự định của một cá nhân. Các nhà nghiên cứu

trên thế giới đã đề xuất một số mô hình lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu về dự định KSKD. Lý thuyết đầu tiên được nhắc đến khi nghiên cứu về dự định KSKD là thuyết hành động hợp lý (TRA) (Fishbein và Ajzen, 1975; Ajzen và Fishbein, 1980). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định mô hình sự kiện KSKD của Shapero và Sokol

(1982) và thuyết hành vi có kế hoạch do Ajzen (1991) đề xuất mới chính là những khung lý thuyết điển hình khi nghiên cứu về dự định KSKD. Tiếp đến, một số nhà nghiên cứu đề xuất các mô hình về dự định KSKD với những biến trung gian

(Davidsson, 1995, Elfving và các cộng sự, 2009; Krueger và Brazeal, 1994), và các mô hình này đề xuất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến dự định KSKD của một cá nhân, có thể kể đến như các yếu tố thuộc về cá nhân hoặc tâm lý, các yếu tố gia đình và các yếu tố xã hội và môi trường.

2.2.1. Lý thuyết hành động hợp lí (Theory of Reasoned Action - TRA)

Dựa trên các nghiên cứu về tâm lý xã hội, hai tác giả Ajzen và Fishbein

(1975,1980) đã phát triển lý thuyết hành động hợp lý để dự đoán và hiểu hành vi của một các nhân. Lý thuyết hành động hợp lí (TRA) cho rằng bản chất hành động của một cá nhân thường dựa trên lý trí hoặc dựa trên động cơ, do đó mỗi cá nhân thường sử dụng một cách có hệ thống thông tin có sẵn đối với họ và cân nhắc liên quan đến hành vi của họ

trước khi họ quyết định thực hiện hay không thực hiện một hành vi nào đó (Fishbein và Ajzen 1980). Hay có thể hiểu, trước khi quyết định thực hiện một hành vi nào đó thì một người thường sẽ cân nhắc và xem xét những kết quả hay hậu quả có thể xảy ra nếu thực

hiện các hành vi đó. Và từ đó, người đó sẽ lựa chọn thực hiện hành vi nào có khả năng mang lại kết quả như mong muốn. Lý thuyết hành động hợp lí được mô hình hóa trong Hình 1.1:

36

Hình 2.1: Thuyết Hành động Hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA)

Nguồn: Fishbein và Ajzen, 1980.

Trong lý thuyết TRA, Fishbien và Ajzen (1980) cho rằng dự định thực hiện hành vi là tiền đề thực hiện hành vi của một cá nhân. Hay có thể hiểu, dự định thực hiện hành vi càng cao thì khả năng thực hiện hành vi đó càng lớn. Đồng thời, mô hình TRA cho

rằng thái độ đối với hành vi và chuẩn mực chủ quan chính là 2 yếu tố tác động đến dự định thực hiện hành vi của một cá nhân. Điều này có thể hiểu là nếu một cá nhân cho rằng một hành vi cụ thể sẽ mang lại kết quả tích cực (thái độ đối với hành vi của một cá nhân); và/hoặc nếu cảm thấy những người quan trọng đối với họ (những người có ảnh hưởng đối với cá nhân họ như bố mẹ, anh, chị, bạn bè…) sẽ khuyến khích, ủng hộ việc thực hiện hành vi đó (chuẩn mực chủ quan) thì dự định thực hiện hành vi của họ sẽ được hình thành.

Theo lý thuyết TRA, thái độ chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố: nhận thức của một người về những tác động, kết quả/ hậu quả mang lại nếu thực hiện hành vi đó, và đánh giá của người đó về những tác động, kết quả/ hậu quả này. Nhận thức và đánh giá của một người lại dựa trên sự hiểu biết hoặc dựa trên những điều mà cá nhân đó cho là

đúng. Trong khi đó, chuẩn mực chủ quan lại chịu tác động bởi hai yếu tố: (i) nhận thức về chuẩn mực: lòng tin của một cá nhân về một người quan trọng/có ảnh hưởng lớn đến cá nhân này cho rằng cá nhân đó nên hoặc không nên thực hiện hành vi này; (ii)

nhận thức về mức độ mà anh ta nên nghe theo người có ảnh hưởng này.

2.2.2 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB)

Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) bắt nguồn từ lý thuyết hành động hợp lí (TRA) của Fishbein và Ajzen (1975). Theo Buchan (2005), thuyết TRA cho rằng hành vi có thể được thực hiện (hay không thực hiện) hoàn toàn chịu sự kiểm soát của lý trí – đây chính là điều làm giới hạn việc áp dụng lý thuyết TRA đối với việc nghiên cứu những hành vi nhất định. Để khắc phục hạn chế trên, lý thuyết TPB đã ra đời. Mô hình

lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB được biểu hiện:

37

Thái độ đối với Hành vi

Dự định

Hành vi

Chuẩn chủ quan

Nhận thức kiểm soát hành vi

Hình 2.2: Thuyết hành vi có kế hoạch (Theeory of Planned Behavior - TPB)

Nguồn: Ajzen, I., 1991.

Theo Fishbien và Ajzen (1975), dự định thực hiện hành vi được hiểu là mức độ mạnh hay yếu mà dự định của một người để thực hiện một hành vi cụ thể. Lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991) cho rằng dự định thực hiện một hành vi chịu tác động của 3 yếu tố: thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm

soát hành vi. Sự khác nhau giữa TPB và TRA là trong mô hình TPB bổ sung thêm ảnh hưởng của nhân tố nhận thức kiểm soát hành vi đến dự định thực hiện hành vi, ngoài hai nhân tố thái độ đối với hành vi và chuẩn mực chủ quan. Nhận thức kiểm soát hành vi đề cập đến cảm nhận về sự dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, thể hiện

cảm nhận của cá nhân là bản thân có khả năng và đủ nguồn lực để thực hiện hành vi hay không.

Dự định đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích hành vi của con người

(Tubbs và Ekegerg, 1991). Nhiều hành vi xã hội, chẳng hạn như tạo ra doanh nghiệp mới, là một hành vi chủ ý và các dự định thực hiện hành vi là cơ sở dẫn đến việc thực hiện hành vi đó (Ajzen, 1991, 2005; Bagozzi và cộng sự, 1989). Vì thế, mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen (1991) là một trong những mô hình được

sử dụng phổ biến nhất để giải thích dự định định KSDN của một cá nhân. Thông qua lược khảo tài liệu thực chứng lẫn lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD, có thể nhận thấy rất nhiều tác giả đã áp dụng lý thuyết hành vi có kế hoạch của

Ajzen trong các nghiên cứu về dự định KSKD. Có thể kể đến:

• Kolvereid (1996) đã sử dụng TPB để dự đoán sự lựa chọn việc làm của 128 sinh viên đại học Nauy. Kết quả của họ cho thấy thái độ đối với KSKD, tiêu chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức ảnh hưởng đáng kể đến mục đích

38

KSKD và yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng gián tiếp đến mục đích KSKD thông qua

ba tiền đề của nó. Các kết quả tương tự trong nghiên cứu của Tkachev và Kolvereid (1999), đã khảo sát 512 sinh viên đại học Nga và kiểm tra về dự định KSKD. Các tác giả nhận thấy rằng ba tiền đề (thái độ hướng tới tinh thần KSKD, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức) ảnh hưởng đáng kể đến dự định KSKD của sinh viên.

• Autio và các cộng sự (2001) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dự định KSKD trong số các sinh viên đến từ Phần Lan, Thụy Điển, Mỹ và Anh. Kết quả cho rằng TPB phản ánh mạnh mẽ qua các mẫu từ nhiều quốc gia và kiểm soát hành vi là yếu tố quan trọng nhất đến dự định KSKD

• Fayolle và cộng sự (2006) đã sử dụng TPB để đánh giá tác động của một chương trình KSKD. Họ nhận thấy rằng thông qua chương trình KSKD, sinh viên đã

cải thiện đáng kể thái độ và dự định KSKD. Đồng thuận với kết quả đó là kết quả nghiên cứu của Souitaris và cộng sự (2007) đo lường ảnh hưởng của khóa học về KSKD đến thái độ và dự định KSKD của sinh viên khoa học và kỹ thuật. Các kết quả cho thấy rằng các chương trình KSKD đã tác động lên thái độ và dự định KSKD của sinh viên.

• Gird và Bagraim (2008) kiểm tra TPB trong sinh viên năm cuối chuyên ngành thương mại tại hai trường đại học ở Western Cape. Các tác giả nhận thấy rằng TPB đã giải thích rõ ràng các dự định KSKD của sinh viên và Kinh nghiệm KSKD trước đó của sinh viên có ý nghĩa quan trọng đối với dự định KSKD của họ.

• Ngoài ra, Gelderen và cộng sự (2008) khi áp dụng TPB trong điều tra dự định KSKD của sinh viên, kết quả cho thấy sự tự chủ và an toàn về tài chính tác động

nhiều nhất đến dự định KSKD của sinh viên.

Chính vì vậy, nghiên cứu yếu tố tác động đến dự định KSKD của thanh niên Việt Nam sử dụng lý thuyết TPB là lý thuyết cơ sở là phù hợp. Dựa trên lý thuyết TPB thì dự định KSKD chịu tác động của ba yếu tố: Thứ nhất, thái độ của cá nhân đối với hành vi thể hiện mức độ đánh giá tiêu cực hoặc tích cực của cá nhân về việc KSKD. Đó không chỉ đơn giản là cảm giác của cá nhân mà bao hàm cả việc cân nhắc đánh giá giá trị của KSKD (nó có khả năng đem lại lợi nhuận, có nhiều ưu điểm hơn) và “Tôi

có muốn làm việc đó không. Thứ hai, là yếu tố chuẩn mực chủ quan: đo lường các áp lực của xã hội mà một cá nhân tự cảm nhận được về việc tiến hành hoặc không tiến hành các hành vi KSKD. Cụ thể, nó là sự cảm nhận của một cá nhân về việc những

người xung quanh có ủng hộ quyết định KSKD của mình hay không. Thứ ba, nhận thức kiểm soát hành vi liên quan đến mức độ mà các cá nhân cảm thấy có khả năng

39

thực hiện hành vi. Nó được dựa trên việc cá nhân biết làm thế nào và kinh nghiệm của

họ hoặc quan niệm của họ về những trở ngại có thể xảy ra để thực hiện hành vi.

2.2.3 Lý thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event - SEE)

Mô hình sự kiện KSKD (SEE) được Shapero và Sokol (1982) phát triển dựa trên quan điểm là nếu một người đang làm việc gì đó, thì họ vẫn tiếp tục làm điều đó

và chỉ bị gián đoạn khi bị tác động bởi yếu tố bên ngoài. Các tác động tiêu cực hoặc tích cực buộc cá nhân đó phải quyết định lựa chọn cơ hội sẵn có tốt nhất hoặc phải lựa chọn cơ hội khác. Quyết định của một cá nhân khi KSKD phụ thuộc vào những thay đổi trong cuộc sống của cá nhân đó và thái độ của cá nhân đó đối với việc KSKD,

cũng như cảm nhận của cá nhân đó về tính khả thi và cảm nhận của các nhân đó về mong muốn KSKD (Shapero và Sokol, 1982).

Mong muốn KSKD

Cảm nhận về tính khả thi KSKD Dự định Khởi sự kinh doanh

Khuynh hướng hành động KSKD

Hình 2.3: Thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event - SEE)

Nguồn: Shapero và Sokol, 1982

Shapero và Sokol (1982) cho rằng mong muốn KSKD, cảm nhận về tính khả thi

KSKD và khuynh hướng hành động KSKD là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến dự định của một cá nhân để bắt đầu một doanh nghiệp mới. Trong đó, mong muốn KSKD sẽ ảnh hưởng đến thái độ, giá trị và cảm xúc của cá nhân đó; Cảm nhận về tính khả thi KSKD có liên quan đến nhận thức của một cá nhân về các nguồn lực sẵn có. Hay nói cách khác nó đo lường khả năng nhận thức của cá nhân khi thực hiện các hành vi nhất định; Khuynh hướng hành động của cá nhân theo quyết định của người đó, điều này phản ánh các khía cạnh tính quyết tâm, ý chí của dự định KSKD.

Bên cạnh đó, Lý thuyết SEE đã được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn làm khung lý thuyết khi nghiên cứu về dự định KSKD trong thanh niên, có thể kể đến một số nghiên cứu sau:

40

- Walstad và Kourilsky (1998) đã điều tra thái độ và sự hiểu biết của người trẻ

tuổi ở Mỹ. Kết quả của họ cho thấy, những người trẻ tuổi Mỹ mong muốn thực hiện các hoạt động kinh doanh; đồng thời, họ muốn được đào tạo về kinh doanh nhiều hơn.

- Nghiên cứu của Krueger và cộng sự (2000), các tác giả đã kiểm tra SEE và TPB (Lý thuyết hành vi dự định) với một mẫu của sinh viên đại học. Kết quả của họ cho thấy rằng cả hai mô hình đều có giá trị và cung cấp một cái nhìn sâu sắc có giá trị vào quá trình KSKD. Trong một cách tương tự, Audet (2002) đã thông qua một thiết kế theo chiều dọc để điều tra dự định KSKD của sinh viên đại học với cả TPB và SEE. Họ nhận thấy rằng

một số yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến thái độ và dự định KSKD. Những yếu tố này bao gồm tiềm lực tài chính, sự tự do, sự công nhận về cơ hội và trưởng thành hơn.

- Peterman và Kennedy (2003) đã nghiên cứu hiệu quả chương trình khởi sự

kinh doanh (Young Achievement Australia, YAA). Họ nhận thấy rằng các sinh viên đã nhận thức cao hơn, mong muốn về tính khả thi để tạo ra doanh nghiệp mới sau khi kết thúc chương trình YAA. Ngoài ra, tính mong muốn và tính khả thi của sinh viên có liên quan đáng kể đến kinh nghiệm trước đó của họ về kinh doanh.

- Vecianne và cộng sự (2005) cũng sử dụng TPB và SEE để điều tra dự định KSKD của sinh viên đại học. Kết quả của họ cho thấy có sự tác động khác nhau của các yếu tố đến dự định KSKD ở các quốc gia khác nhau.

Mặt khác, quyết định của cá nhân khi lựa chọn để thành lập một doanh nghiệp

mới phụ thuộc vào những thay đổi quan trọng trong cuộc sống và thái độ của cá nhân đó đối với việc khởi nghiệp (Shapero & Sokol 1982). Dự định hay ý định khởi nghiệp sẽ xuất hiện khi cá nhân phát hiện ra một cơ hội mà họ thấy có khả thi và mong muốn

nắm lấy cơ hội đó. Tuy nhiên, để dự định biến thành hành động thành lập doanh nghiệp thì cần có chất xúc tác. Đó chính là những thay đổi trong cuộc sống con người, cũng như trong quá trình lao động và học tập hằng ngày. Cá nhân có hành vi thay đổi trong cuộc sống nếu xuất hiện các nhân tố kéo và đẩy, những thay đổi đó có thể dẫn

tới dự khởi sự kinh doanh hay dẫn tới lựa chọn khác thì lại phụ thuộc vào những tác động môi trường xung quanh (chính sách về KSKD của chính phủ, giáo dục về KSKD trong nhà trường, truyền thống kinh doanh của gia đình…) (Shapero & Sokol 1982).

Do đó, nghiên cứu này sử dụng lý thuyết SEE là lý thuyết cơ sở.

Tựu chung lại, mô hình lý thuyết về dự định khởi nghiệp được tổng kết như sau:

Mô hình lý thuyết về dự định nói chung và dự định khởi nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra, tuy nhiên có hai mô hình dự định đã được sử dụng ngày càng phổ

biến từ năm 1990 là Mô hình sự kiện khởi nghiệp (EEM) của Shapero và Sokol

41

(1982) và mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen (1991) (ví dụ, Shook và cộng sự, 2003; Fayolle và cộng sự, 2006; và Gelderen và cộng sự, 2008).

Trong mô hình EEM, dự định KSKD bắt nguồn từ nhận thức nguyện vọng (tính hấp dẫn để một người mở công ty riêng), nhận thức khả thi (cá nhân nhận thấy có khả năng mở công ty riêng ở mức độ nào) và hình thành thiên hướng hành động khi có cơ hội (Krueger, Reilly và Carsrud, 2000). Tính trì trệ trong hành vi của con người được giả định sẽ thay đổi bởi một sự kiện tích cực hoặc tiêu cực bên ngoài. Sự kiện châm ngòi này làm thay đổi tình huống hoặc các kế hoạch tương lai của cá nhân (ví dụ.,

chọn lựa nghề nghiệp tương lai).

Mô hình TPB đã đem lại cho các nhà nghiên cứu hiểu biết và dự đoán tốt hơn về dự định khởi nghiệp bằng cách xem xét không chỉ các yếu tố cá nhân mà cả các yếu

tố xã hội. Lin và Lee (2004) chỉ ra TPB đã được ứng dụng rộng rãi để dự đoán và giải thích hành vi dự định và hành vi thực tế trong nhiều lĩnh vực như tâm lý học, xã hội học, marketing và hệ thống thông tin.

Theo Krueger và cộng sự (2000); Krueger (2007), thuyết TPB và thuyết EEM

trùng lặp bởi vì cả 2 thuyết này đều bao gồm một khía cạnh lý thuyết liên quan đến nhận thức tự hiệu quả - là nhận thức kiểm soát hành vi trong TPB và nhận thức khả thi trong EEM, hay thái độ đối với hành vi và chuẩn chủ quan trong TPB thì tương ứng với nhận thức nguyện vọng trong EEM. Ngược lại, Scholten và các cộng sự (2004)

nhấn mạnh rằng TPB khác với EEM ở chỗ TPB không căn cứ trên sự xáo trộn của những thay đổi đột ngột mà trên những kinh nghiệm dài hạn và kỳ vọng trở thành người làm chủ.

Autio và các cộng sự (2001) chỉ ra rằng các thành tố trong TPB giải thích được 21% phương sai trong dự định trở thành người làm chủ, trong khi đó Linan và Chen (2009) cho rằng biến này giải thích được 55% phương sai. Những nghiên cứu trước đây xác nhận tính hợp lệ của việc ứng dụng TPB vào giải thích dự định khởi nghiệp

trong nhiều nền văn hóa khác nhau.

Như vậy, kế thừa từ các mô hình lý thuyết được các tác giả đề cập đến trong các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh, nghiên cứu này

xây dựng mô hình lý thuyết nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp của thanh niên dựa trên việc kế thừa các thành tố đã được kiểm định từ lý thuyết TPB và SEE. Theo đó, mô hình lý thuyết nghiên cứu của luận án kế thừa 3 yếu tố cơ bản (thái độ, chuẩn mực chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi) từ thuyết TPB; kế thừa từ

mô hình SEE và các nhân tố được rút ra từ luận điểm lý thuyết của các nghiên cứu đi

42

trước (thái độ đối với tiền bạc, nhu cầu thành đạt, giáo dục KSKD, kinh nghiệm/trải

nghiệm KSKD) và bổ sung nhân tố mới ít được kiểm chứng bằng các nghiên cứu thực nghiệm là môi trường kinh doanh (chính sách hỗ trợ của chính phủ).

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh

Từ tổng quan nghiên cứu có thể phân chia các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự thành hai nhóm cơ bản: (1) nhóm các nhân tố thuộc về bản thân đối tượng có dự định khởi sự doanh nghiệp, mà trong nghiên cứu này là thanh niên Việt Nam; và

(2) là nhóm các nhân tố thuộc bên ngoài bản thân của thanh niên.

2.3.1 Nhóm các nhân tố thuộc bản thân thanh niên

2.3.1.1 Thái độ đối với khởi sự kinh doanh

Fishbein và Azjen (1975) ban đầu cho rằng thái độ là "một khuynh hướng học hỏi để đáp ứng một cách nhất quán thuận lợi hoặc bất lợi đối với một đối tượng nhất định". Ajzen và Fishbein (2000); Trevelyan (2009); và Sagiri và Appolloni (2009) cũng chỉ ra rằng hành vi của một cá nhân phụ thuộc vào niềm tin và thái độ của cá nhân đó. Những niềm tin và thái độ đó đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành động của cá nhân. Từ tổng quan nghiên cứu cho thấy, các nghiên cứu đều khẳng

định thái độ đối với khởi sự kinh doanh là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh. Theo đó, khi cá nhân có thái độ tích cực với KSKD thì động lực để họ KSKD sẽ cao hơn. Thái độ KSKD ở đây bao gồm cách nhìn của cá nhân về

những lợi ích, cơ hội hay sự thỏa mãn khi trở thành một doanh nhân và sự chắc chắn về định hướng sẽ trở thành doanh nhân. Hay nói cách khác, cách nhìn nhận, đánh giá về khả năng tự làm chủ của bản thân đóng vai trò rất quan trọng, nó là động lực thúc đẩy cá nhân KSKD.

Bên cạnh đó, trong cấu trúc của thái độ, các nghiên cứu cũng phát hiện rằng thái độ đối với tiền bạc hay chính là nhìn nhận việc có thu nhập cao chính là thước đo của sự thành công sẽ giúp cá nhân có được quyền tự trị, tự do và quyền lực. Dĩ nhiên, điều này cũng chịu sự chi phối từ văn hóa và môi trường xã hội. Ở Việt Nam, quan

điểm coi tiền bạc là thước đo của sự thành đạt hay là sự khẳng định vị thế xã hội vẫn được nhiều người công nhận. Ngoài ra, quan niệm “phi thương bất phú” (không đi buôn thì không giàu) cũng phản ánh đúng phần nào bối cảnh xã hội trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó, thái độ đối với tiền bạc chính là yếu tố động lực để thúc đẩy cá nhân có dự định KSKD, để khẳng định năng lực, giá trị của bản thân cũng như xác định gần nhất mục tiêu công việc.

43

Đặc trưng của thanh niên là những người công việc chưa ổn định hoặc thậm chí

chưa có nghề nghiệp, do đó, đối tượng này thường chưa có thu nhập, hoặc thu nhập thấp và phụ thuộc vào gia đình. Theo thuyết nhu cầu thì tiền bạc là yếu tố quan trọng đối với họ để trang trải những nhu cầu thiết yếu. Điều này khiến họ có động lực rất lớn để kiếm nhiều tiền. Ngoài ra, sự hội nhập và ảnh hưởng văn hóa phương Tây ngày càng nhiều đối với thanh niên Việt Nam. Điều này khiến khả năng tự tin và độc lập bản thân ngày càng cao. Đây là những yếu tố quan trọng khiến thanh niên Việt Nam càng mong muốn tự khởi nghiệp kinh doanh của mình. Tuy nhiên, một điều cũng cần

lưu ý đối với thanh niên là họ còn rất trẻ, do đó trong tư tưởng của giới trẻ thời gian cuộc đời còn lại của họ khá dài. Cùng với khí thể sẵn sang của tuổi trẻ nên thanh niên luôn chấp nhận rủi ro, nhấn thân vào các công việc mạo hiểm, nhiều rủi ro như khởi sự

kinh doanh. Vì vậy, , cũng khá nhiều thanh niên nhấn thân khởi nghiệp đôi khi chỉ để trải nghiệm, tích lũy thêm kinh nghiệm, kiến thức đối với vấn đề này, và để làm nền tảng cho sự phát triển của sự nghiệp đằng sau đó chứ không đơn thuần là tiền bạc, thậm chí họ có thể hy sinh tiền bạc trước mắt để có sự nghiệp ổn định, bền vững về dài

hạn. Vì vậy, việc xác định đâu là thái độ quan trọng đối với dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam là điều cần thiết.

Giả thuyết 1: Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi

sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Giả thuyết 2: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự

2.3.1.2 Chuẩn mực chủ quan

định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Theo lý thuyết về hành vi có kế hoạch (Fishbein và Ajzen, 1975; Buchan, 2005), chuẩn mực chủ quan là nhận thức của một người về việc hầu hết những người quan trọng đối với cá nhân này nghĩ là anh ấy / cô ấy nên hoặc không nên thực hiện

một hành vi nào đó. Hay có thể hiểu, nếu một người cho rằng một hành vi cụ thể sẽ mang lại kết quả tích cực và nếu cảm thấy những người quan trọng đối với họ (những người có ảnh hưởng đối với cá nhân họ như bố mẹ, bạn bè…) sẽ khuyến khích, ủng hộ

việc thực hiện hành vi này thì khả năng thực hiện hành vi đó sẽ cao hơn. Do đó, đây cũng là nhân tố quan trọng được đề cập trong các nghiên cứu khi đánh giá tác động đến hành vi KSKD. Đặc biệt khi nghiên cứu về thanh niên, những đặc thù về tâm lý lứa tuổi như thích thể hiện năng lực bản thân, thích khám phá cái mới,… và dễ bị chi

phối bởi các nhóm xã hội, vì vậy cách nhìn nhận hay sự ủng hộ của các chủ thể liên quan như gia đình, bạn bè, những người xung quanh đối với họ rất quan trọng. Vì vậy,

44

đối với nhiều cá nhân khi quyết định KSKD, sự khuyến khích của gia đình, bạn bè hay

những người xung quanh sẽ trở thành động lực căn bản để thúc đẩy họ thực hiện hành vi KSKD (Kolvereid và Tkachev, 1999, Autio và cộng sự, 2001; Krueger và cộng sự, 2000, Reynolds và cộng sự, 2004; Kolvereid và Isaksen, 2006, Linan và cộng sự, 2011).

Một điều có thể quan sát được không chỉ ở nước ngoài mà ngay tại Việt Nam đó thế hệ đi sau thường có xu hướng thực hiện những công việc mà thế hệ đi trước đã làm. Điều này có thể thấy trong câu ngạn ngữ phổ biến ở Việt Nam là ‘Cha truyền con nối’. Điều này nghĩa là con cái thường lựa chọn nghề nghiệp mà bố mẹ đã làm. Điều

này cũng dễ hiểu vì con cái thường hiểu rõ những công việc mà bố mẹ, do đó, họ dễ dàng tiếp cận và thực hiện. Ngoài ra, bố mẹ họ đã thực hiện một thời gian dài sẽ tạo ra những tiền đề nhất định. Nếu bố mẹ làm trong các cơ quan, tổ chức sẽ có những mối

quan hệ, việc xin con cái họ vào làm ở những tổ chức đó sẽ thuận lợi hơn so với xin việc làm ở nơi khác. Nếu bố mẹ tự khởi nghiệp kinh doanh thì họ sẽ để lại tài sản họ đã phát triển, trên cơ sở đó con cháu họ sẽ có trách nhiệm tiếp tục phát triển sự nghiệp của các thế hệ đi trước. Vì vậy, có thể thấy truyền thống gia đình có thể là một yếu tố

chuẩn chủ quan quan trọng khiến các cá nhân hình thành nên các dự định khởi sự doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng từ quan sát có thể thấy xã hội Việt Nam đang có sự thay đổi khá nhanh trong những thập niên gần đây. Ngành nghề đa dạng hơn, những ngành truyền thống bị giảm hoặc mất đi, nhiều ngành mới xuất hiện và thu hút giới trẻ

như ngành công nghệ thông tin. Do đó, nhiều bạn trẻ đã không thể, hoặc không muốn tiếp tục mà muốn nhấn thân vào các ngành nghề mới. Tương tự, các doanh nghiệp nhà nước dần chuyển sang cổ phần hóa hoặc tư nhân hóa khiến các mối quan hệ của thế hệ

bố mẹ xây dựng không còn có ý nghĩa. Điều này khiến cho các thế sau không thể tiếp tục sự nghiệp mà bố mẹ họ đã theo trước đây. Truyền thống gia đình vào những bối cảnh như vậy không còn là yếu tố quan trọng để quyết định các cá nhân tiếp tục khởi sự kinh doanh không. Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa chuẩn chủ quan và dự định

khởi sự kinh doanh của thanh niên trong đất nước đang phát triển và thay đổi mạnh như ở Việt Nam đối với tầng lớp thanh niên là điều cần thiết.

Sự tác động của truyền thống gia đình đến dự định khởi sự có thể qua cơ chế

trung gian. Gia đình là những người thân nhất đối với cá nhân, do đó họ sẽ là những người ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của các cá nhân đó. Đặc biệt với đối tượng là thanh niên ít kinh nghiệm thì gia đình và người thân thường có sự tác động khá lớn đến các dự định và quyết định của các cá nhân. Những người thân không chỉ tạo ra

hình ảnh, lời nói động viên tinh thần mà họ chính là những người hỗ trợ cả mặt vật

45

chất giúp cho các cá nhân, thanh niên lập nghiệp, tự khởi sự kinh doanh (Liñán và

Chen, 2009, Ajzen, 2001).

Văn hóa Phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng là con cái chịu ảnh hưởng rất lớn đối với các quyết định của bố mẹ và những người thân. Do đó, chuẩn chủ quan là một trong những yếu tố cần phải xem xét đối với dự định khởi sự của thanh niên việt Nam. Tuy nhiên, có những sự thay đổi đối với suy nghĩ của các thế hệ, do đó chuẩn chủ quan đối với vấn đề tự khởi sự kinh doanh của bố mẹ đối với con cái họ cũng có những sự thay đổi đáng kể hiện nay ở Việt Nam. Cụ thể trước đây, khi mà

cơ quan nhà nước vẫn chiếm đa số thì hầu hết bố mẹ thường mong muốn con của họ sau khi tốt nghiệp các cấp sẽ quay trở về làm việc tại các cơ quan mà họ đang công tác. Điều này là do họ đã quen môi trường làm việc đó, họ ngại thay đổi không chỉ với

bản thân mà còn đối với con cái họ và một điều không kém quan trọng là họ được cơ quan cũ ‘tri ân’ vì những đóng góp của họ đối với sự phát triển của tổ chức mà họ đã từng công tác. Tuy nhiên, chủ trương chính phủ Việt Nam trong những năm qua là cổ phần hóa hầu hết các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp cổ phần và tư nhân từ

đó đã phát triển mạnh mẽ hơn để thay thế các doanh nghiệp nhà nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng của thế hệ bố mẹ trong việc mong muốn con cái họ quay về làm việc tại nơi mà họ đang hoặc đã từng công tác vì bản thân tổ chức đã có sự thay đổi và với người chủ hay người quản lý mới không còn dành các ‘tri ân’ đối

với những thế hệ đã từng làm việc trước đó tại doanh nghiệp hay tổ chức. Cũng chính vì thế, ngoài việc không còn được lựa chọn thì bố mẹ trong hoàn cảnh như vậy cũng thường để các con tư quyết định sự nghiệp của mình, việc bố mẹ hay những người

thân nên làm trong những lúc đó là động viên, khuyến khích con cái, chị em cố gắng thực hiện tốt những con đường sự nghiệp mà mình đã lựa chọn. Tuy nhiên, với một đất nước đang ở giai đoạn chuyển đổi, tỷ lệ khởi sự thành công cũng chưa phải nhiều và phổ biến, ngược lại thất bại lại đang chiếm đa số, điều này khiến không ít bố mẹ, anh

chị em thật sự lo ngại khi mà có người thân có sự định khởi sự doanh nghiệp. Do đó, khuyến khích hay hoài nghi và cản trở theo người nghiên cứu chưa thể khẳng định quan điểm nào đang chiếm ưu thế trong việc ảnh hưởng đến dự định và khởi sự doanh

nghiệp đối với thanh niên Việt Nam. Do đó,

Giả thuyết 3: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh

doanh của thanh niên Việt Nam

46

2.3.1.3 Nhận thức kiểm soát hành vi

Lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991) cho rằng nhận thức kiểm soát hành vi đề cập đến cảm nhận về sự dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, thể hiện cảm nhận của cá nhân là bản thân có khả năng và đủ nguồn lực để thực hiện hành

vi hay không. Điều này gắn liền với niềm tin của cá nhân vào việc mà họ sẽ làm. Đối với những người có xu hướng tự tin vào khả năng của bản thân rằng việc thành lập doanh nghiệp và điều hành doanh nghiệp không khó hay họ có thể nắm bắt, kiểm soát

được việc quản lý doanh nghiệp thì khả năng định hướng với KSKD sẽ cao hơn. Thông thường những người nhận thức được họ có khả năng kiểm soát được hành vi, họ sẽ có động lực mạnh hơn để tiến đến thực hiện công việc đó. Tương tự, những cá nhân nhận thấy họ có khả năng và nguồn lực để tiến hành khởi sự doanh nghiệp thì họ

sẽ có dự định khởi sự và có động lực cao để thực hiện các hoạt động khởi sự doanh nghiệp. Ở chiều ngược lại, khi cá nhân thiếu tự tin vào bản thân, lo sợ thất bại, hoặc không có đủ năng lực để phát triển doanh nghiệp thì dự định KSKD của họ cũng sẽ

thấp hơn. Cho đến nay kết quả từ các nghiên cứu đi trước với quan điểm lý thuyết nhìn nhận cả hai chiều tích cực và hạn chế của yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi đối với dự định KSKD (Kolvereid, 1996; Chen và cộng sự, 1998; Kristiansen và Indarti, 2004; Basu và Virick, 2008; Zaidatol, 2009; Ruhle và các cộng sự, 2010; Paco và cộng

sự, 2011, Linan và cộng sự, 2011).

Đặc điểm của thanh niên là luôn dồi dào năng lượng, tự tin và sẵn sàng làm mọi việc khi họ mong muốn và đôi khi không cần suy nghĩ thấu đáo về khả năng của bản

thân hay các điều kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện các mong muốn. Do đó, khi có một lý do nào đó từ bên trong bản thân như mong muốn khẳng định bản thân hay từ các yếu tố tác động bên ngoài như phong trào khởi nghiệp hiện nay ở Việt Nam, sẽ thôi thúc cá nhân đó có dự định khởi nghiệp và quyết tâm thực hiện điều trên. Vì vậy,

theo tác giả, nhìn chung mọi người thường sẽ có dự định và thực hiện dự định sau khi đã suy nghĩ và nhận thức được khả năng kiểm soát được hành vi. Nhưng đối với thanh niên điều này có thể không hoàn toàn đúng. Đặc trưng của thanh niên là luôn có nhiều

ước mơ và hoài bão, giống như hoài bão về tạo dựng riêng cho mình một cơ nghiệp, hoài bão tự mình khởi sự kinh doanh, hoài bão tự khẳng định mình có thể là những yếu tố cơ bản thúc đẩy dự định và khởi sự kinh doanh của thanh niên, và điều này có thể lấn át cả việc phải suy nghĩ, đánh giá khả năng và cơ hội thực hiện những mơ ước và

hoài bão của họ. Do đó, người nghiên cứu cho rằng trên bình diện chung nhận thức kiểm soát hành vi có thể tác động đến dự định khởi sự kinh doanh, nhưng với đối tượng thanh niên tuổi trẻ thì điều này có thể khác và cần kiểm định lại.

47

Giả thuyết 4: Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định

2.3.1.4 Nhu cầu thành tích

khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Nhu cầu thành tích được hiểu là động lực của một người muốn thành công. Hay

có thể nói, nhu cầu thành tích là một yếu tố quan trọng quyết định đến dự định KSKD của một cá nhân (Hansemark, 2003; Tong và cộng sự, 2011).

Brandstätter (2011)cho rằng, những người có nhu cầu thành tích cao luôn tìm

kiếm thành công, cả của họ và cả ở những người liên quan đến họ trong cuộc sống như đồng nghiệp hoặc con cái của họ trong gia đình. Nó có thể hiểu là những mong muốn, khát khao về khẳng định mình của một cá nhân. Điều này được khẳng định thông qua thái độ của cá nhân đối với kỳ vọng đạt được thành tích cao trong công việc/ thành

công trong sự nghiệp, sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và sáng tạo trong công việc, sự cầu toàn và luôn hướng đích rõ ràng (McClelland, 1961; Sagie và Elizur, 1999; Littunen, 2000; Mhango, 2006; Tong và cộng sự, 2011).

Nhu cầu thành tính chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố ảnh hưởng lớn là tính cách của cá nhân, do đó, cùng một lứa tuổi, hoàn cảnh sống như nhau nhưng có người có nhu cầu thành tích cao hơn những người khác. Ngoài tính cách, mức độ nhu cầu nói chung luôn phụ thuộc vào mức độ được đáp ứng nhu cầu bởi

nhu cầu đó. Đối với thanh niên, những người mới trưởng thành, đang hoặc vừa mới rời trường học để ra đời lập nghiệp. Nhìn chung, có thể nói với tầng lớp này sự nghiệp gần như không có gì, do đó, nhu cầu sự nghiệp, trong đó có tự khởi nghiệp, tự phát triển

kinh doanh rất cao, thông qua đó họ xem như là thành tích để khẳng định với mọi người xung quanh như bố mẹ, bạn bè và với xã hội về khả năng hay năng lực của họ khi thực hiện các công việc quan trọng của cuộc đời. Vì vậy, nếu không xét đến các yếu tố khác, có thể quan sát thấy tầng lớp thanh niên là tầng lớp có dự định khởi

nghiệp cao hơn nhiều so các tầng lớp khác bởi trong họ có khát khao lớn về việc thỏa mãn nhu cầu thành tích.

Giả thuyết 5: Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự

2.3.1.5 Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh

kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm luôn có vai trò quan trọng trong việc đánh

giá năng lực thực hiện của các cá nhân theo lý thuyết ASK (Attutude, Skill và Knowledge). Đặc biệt ở Việt Nam có thể nói kinh nghiệm càng được nhấn mạnh khi

48

thực hiện các công việc. Do đó, kinh nghiệm cũng có thể được xem là yếu tố quan

trọng khiến các cá nhân hình thành nên các dự định, trong đó có cả dự định khởi sự kinh doanh. Kinh nghiệm thường giúp các cá nhân dễ dàng hình dung được các bước diễn ra trong lộ trình thực hiện các công việc và kết quả thực hiện, qua đó họ sẽ tự tin hình thành các dự định và có động lực quyết tâm thực hiện các dự định trên. Điều này cũng đúng với việc các cá nhân có kinh nghiệm trong việc khởi sự hoặc thực hiện những công việc kinh doanh tương tự. Quan sát trong thực tế có thể thấy nhiều thanh niên sau khi rời ghế nhà trường và thậm chí đang tuổi học sinh, sinh viên đã có những

trải nghiệm thông qua việc đi làm bán thời gian. Họ đi làm một phần đáp ứng nhu cầu về tiền bạc, ngoài ra không ít trong số họ là muốn được có thêm kinh nghiệm thực tiễn để sau khi ra trường họ dễ dàng được các tổ chức tuyển dụng hoặc họ có thể khởi

nghiệp dựa trên những kinh nghiệm đó. Do đó, nhiều nghiên cứu cho rằng cá nhân nào có kinh nghiệm khởi nghiệp thì họ càng có dự định tái khởi nghiệp cao hơn những cá nhân chưa có kinh nghiệm (Krueger, 1993; Oruoch, 2006; Basu và Virick, 2008).

Giả thuyết 6: Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh

doanh của thanh niên Việt Nam

Tuy nhiên, điều trên chỉ có thể đúng với những người có kinh nghiệm khởi nghiệp thành công. Ngược lại, điều này có thể không đúng với những người khởi nghiệp thất bại. Một số cá nhân nếu gặp khởi nghiệp thất bại họ càng cố gắng tái lập

hoạt động khởi nghiệp để vượt qua những thất bại đã gặp và những thất bại trước là bài học quan trọng đối với họ nhằm hướng đến các thành công. Trong trường hợp này, kinh nghiệm vẫn là yếu tố tích cực tác động đến dự định và thực hiện các hoạt động

khởi sự tiếp theo của các cá nhân. Tuy nhiên, không ít các cá nhân rất ngại sự thất bại nên nếu bị thất bại thì những kinh nghiệm đó trở thành những nỗi ám ảnh khiến cho họ không còn dám tiếp tục khởi nghiệp và do đó họ sẽ không còn dự định để tiếp tục làm điều trên. Ngoài ra, thậm chí những kinh nghiệm thất bại cũng có thể giúp nhận thức

được rằng họ không có khả năng về bản thân cũng như các nguồn lực quan trọng để tái thực hiện các hoạt động khởi nghiệp và vì vậy họ sẽ không có các dự định khởi nghiệp tiếp theo. Do đó, có thể thấy việc tiếp tục khởi sự kinh doanh hay không còn phụ thuộc

vào thái độ của cá nhân đó với kinh nghiệm kể cả thất bại hay thành công mà họ đã có trước đây. Nếu họ có thái độ tích cực với những kinh nghiệm thì khả năng tái khởi sự kinh doanh khá cao, ngược lại, nếu họ có thái độ thì họ sẽ cân nhắc kỹ hoặc thậm chí là sẽ không bao giờ thực hiện khởi sự kinh doanh vì có thể họ sợ sẽ tiếp tục thất bại

hoặc không tự tin vào khả năng là có thể thành công lần nữa. Nói cách khác, thái độ có

49

thể là biến trung gian tác động đến mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự

kinh doanh

Điều này khiến cho tác giả nghĩ rằng cần phải tiếp tục kiểm định về sự tác động

của kinh nghiệm đến dự định khởi nghiệp của thanh niên Việt Nam.

Giả thuyết 7: Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh

nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

2.3.2 Nhóm các nhân tố từ môi trường bên ngoài

2.3.2.1 Giáo dục khởi sự kinh doanh

Bên cạnh các yếu tố bên trong, các yếu tố bên ngoài cũng có sự tác động lớn đến dự định khởi sự kinh doanh như: giáo dục khởi sự kinh doanh, truyền thống kinh doanh của gia đình và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ với khởi sự kinh doanh.

Như đã trình bày ở phần trên, 3 yếu tố cơ bản gồm kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm là những yếu tố quan trọng tạo nên năng lực của các cá nhân. Tuy nhiên, trước

đây và thậm chí cho đến hiện nay văn hóa phương Đông giống như Việt Nam luôn đề cao vấn đề kinh nghiệm. Do đó, kinh nghiệm thường được nhấn mạnh trong việc thực hiện công việc. Tuy nhiên, ngày càng cho thấy nhận thức về vấn đề này đang có sự thay đổi. Tính chuyên nghiệp đòi hỏi ngày càng cao, nên kiến thức và những kỹ năng

được đào tạo được chú trọng hơn để công việc được thực hiện bài bản hơn, nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất. Vì thế vai trò giáo dục ngày càng được chú trọng trong việc cung cấp thêm kiến thức và kỹ năng cho các cá nhân thực hiện công việc.

Giáo dục khởi sự kinh doanh đề cập đến các bài giảng hay khóa học cung cấp cho người học các kỹ năng và kiến thức để giúp người học tìm kiếm cơ hội khởi sự kinh doanh (Clouse, 1990; Ekpoh và Edet, 2011; Ooi, Selvarajah và Meyer, 2011). Giáo dục tập trung vào KSKD là một chất xúc tác cho sự phát triển dự định KSKD của

thanh niên (Raposo và Do Paco, 2011; Bae và cộng sự, 2014; Fayolle và Gailly, 2015). Đây là lý do tại sao ngày càng nhiều trường học giới thiệu trong các môn học và chương trình liên quan đến khởi sự kinh doanh (Hisrich, 2003; Martin, 2013). Cho đến

nay rất nhiều trường học và chương trình học về khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên, ở Việt Nam các Chương trình này chỉ mới khởi điểm nên từ trước đến này chưa hoặc có rất ít nghiên cứu nào thực hiện kiểm định liệu những Chương trình đào tạo và giáo dục về khởi sự doanh nghiệp có tác động đến các dự định khởi nghiệp của Thanh niên ở Việt

Nam hay không. Việc tiếp tục thực hiện một nghiên cứu có hệ thống là điều cần thiết

50

để có thể khẳng định thêm mối quan hệ này ở một nước đang phát triển và hệ thống

giáo dục về vấn đề này cũng mới ở giai đoạn khởi đầu.

Giả thuyết 8: Giáo dục khởi nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự

định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ngoài ra, giáo dục luôn được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thái độ và nhận thức của con người nói chung, và nó cũng đúng với trong trường hợp dự định khởi sự kinh doanh. Một số nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ này. Cụ thể là qua giáo dục các cá nhân có thêm sự hiểu biết về khởi sự doanh nghiệp, từ đó họ đã

thay đổi thái độ với vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề cần tranh luận ở đây là sự thay đổi này mang tính tích cực hay tiêu cực. Câu trả lời là không chắc chắn vì có cá nhân sau khi được đào tạo và giao dục thì có thái độ tích cực và từ đó nảy sinh và đẩy mạnh

dự định và kế hoạch khởi sự doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số khác thì sau khi được giáo dục về khởi sự doanh nghiệp có thể hiểu hơn và nhận thấy rằng đây không phải là điều đơn giản mà cần phải có đầy đủ các tố chất cần thiết cũng như các điều kiện quan trọng mới có thể thực hiện khởi nghiệp kinh doanh. Từ đó, họ có thể có thái độ

tiêu cực, không muốn hoặc không dám thực hiện các hoạt động mang tính rủi ro này, cụ thể là họ sẽ nhận thấy rằng tỷ lệ thành công thực tế của khởi sự doanh nghiệp, nhất là ở Việt nam hiện nay đang ở mức thấp. Những người như vậy có thể không còn mong muốn và dự định khởi sự kinh doanh. (Dell, 2008; Tam, 2009). Qua đây có

thể thấy sự tác động của giáo dục lên dự định khởi sự doanh nghiệp còn phụ thuộc bởi thái độ của cá nhân dự định khởi sự doanh nghiệp.

2.3.2.2 Hỗ trợ từ Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh

Giả thuyết 9: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt nam

Hỗ trợ khởi nghiệp luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng cho sự thành công của các dự án khởi sự kinh doanh. Những nước có các hoạt động khởi nghiệp năng động nhất là những nước có hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp từ sớm và rất

phát triển (Cuzin et Fayolle 2006). Thuật ngữ hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp có thể được hiểu ở hai mức độ rộng và hẹp (Trần Văn Trang, 2019).

Theo nghĩa hẹp, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp đề cập tới sự trợ giúp trực tiếp của người hay tổ chức cố vấn/đỡ đầu đối với người khởi nghiệp. Theo cách hiểu này, Levy-

Tadjine (2004, p.266-272) cho rằng hỗ trợ khởi nghiệp được hiểu là một quá trình trợ giúp/giúp đỡ cá nhân hoặc nhóm cá nhân có dự án khởi sự kinh doanh, quá trình này bao

51

gồm 3 giai đoạn: tiếp xúc ban đầu, hỗ trợ triển khai dự án khởi sự kinh doanh và theo dõi

sau khi doanh nghiệp được thành lập. Lý tưởng nhất là sự hỗ trợ này bắt đầu từ khi cá nhân có ý tưởng kinh doanh và họ được hỗ trợ để cụ thể hoá ý tưởng thành dự án khởi sự và tiếp theo là thành lập doanh nghiệp thực sự trong thực tế, trở thành người chủ doanh nghiệp độc lập. Quá trình hỗ trợ được đặc tả bởi ba yếu tố người/tổ chức hỗ trợ; người có dự án/ý tưởng khởi nghiệp và dự án khởi nghiệp (Porteur-Portant-Porté). Đối với Fayolle et Cuzin (2004), hỗ trợ là hoạt động trợ giúp khởi nghiệp (thành lập doanh nghiệp) được thực hiện dựa trên việc thiết lập mối quan hệ giữa người khởi nghiệp và bên hỗ trợ. Qua

sự trợ giúp này, doanh nhân tương lai sẽ thực hiện các học hỏi khác nhau, được tiếp cận các nguồn lực và phát triển năng lực cần thiết để cụ thể hoá dự án khởi nghiệp.

Theo nghĩa rộng, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp đề cập tới một hệ thống các trợ

giúp khác nhau dành cho người khởi nghiệp đến từ môi trường kinh doanh/khởi nghiệp của họ. Hệ thống các trợ giúp khởi nghiệp này có thể đến từ nhiều tổ chức/đơn vị khác nhau (trung ương/địa phương; tổ chức công/tư), với các hoạt động hỗ trợ khác nhau (hỗ trợ nhận thức, đào tạo, tài chính, hậu cần khởi nghiệp,…) đi

theo quá trình từ hình thành ý tưởng kinh doanh tới thành lập và làm chủ doanh nghiệp trong thực tế. Theo cách hiểu này Bruyat (1992) cho rằng tổng thể các hoạt động hỗ trợ sẽ bao gồm đào tạo nhận thức, tiếp đón/tiếp xúc trao đổi ý kiến, định hướng cho người có ý tưởng/dự án kinh doanh, thông tin và kết nối mạng lưới với

các doanh nhân khác và các bên liên quan, trợ giúp trực tiếp trong quá trình thành lập doanh nghiệp và triển khai ban đầu hoạt động kinh doanh, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, đào tạo, hỗ trợ hậu cần, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ pháp lý.

Stephen và các cộng sự (2005) cho rằng Chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD như luật pháp, hỗ trợ về cơ chế, chính sách…là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động khởi sự doanh nghiệp. Yếu tố chính sách hỗ trợ được xem xét như là thành tố thuộc môi trường kinh doanh, trong đó, môi trường kinh doanh thuận

lợi sẽ thúc đẩy hoạt động KSKD. Ngược lại, hoạt động KSKD sẽ bị cản trở nếu không có môi trường kinh doanh tốt. Ở đây, sự quan tâm, khuyến khích của nhà nước, tiềm năng kinh doanh, cơ chế thuận lợi về vốn đầu tư và hành lang pháp lý,…

là những thành tố tạo nên môi trường kinh doanh tốt cho hoạt động KSKD.

Ở Việt Nam, Chính phủ trong những năm gần đây đã thể hiện sự quan tâm rất lớn từ chính sách cho đến các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp cụ thể quan các quĩ, thúc đẩy các phong trào khởi nghiệp, và một trong những nhiệm vụ quan trọng của

Trung ương đoàn trong những năm gần đây là tuyên truyền và hỗ trợ cho thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia là các

52

chính sách này vì những lí do nhất định chưa phát huy được như mong muốn của

Chính phủ. Do đó, việc liệu có sự tác động, hay mức độ tác động như thế nào của các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đến dự định khởi sự kinh doanh vẫn còn là câu hỏi lớn và rất cần sự kiểm định từ nghiên cứu có hệ thống.

Giả thuyết 10: Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định khởi sự

kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Như vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh được tổng hợp

từ đề xuất ở các nghiên cứu đi trước như sau:

Bảng 2.1: Tổng hợp nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD

TT

Mô tả

Nguồn

Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD

Schwarz và cộng sự (2009), Lim & Teo

1

Thái độ đối với tiền bạc

(2003)

Khi một cá nhân nhìn nhận thu nhập cao sẽ giúp họ có được quyền tự trị, tự do và quyền lực và họ cho rằng thu nhập cao như là thước đo của sự thành công.

Là mức độ mà cá nhân nhận thức rằng có những cơ hội tốt để KSKD, hoặc có mối liên kết gắn với vị thế xã hội cao của người làm chủ.

Linan Chen và (2009), Gasse (1985), Robinson và cộng sự (1991), Xavier và cộng sự (2009), Dell Leong (2008),

2

Thái độ với KSKD

(2008), Elfving và sự cộng (2009), và (Kolvereid Tkachev, 1999; Krueger và cộng sự, và 2000; Dohse Walter, 2010; Paco và cộng sự, 2011),…

3

Chuẩn mực chủ quan

Sự tham gia và hỗ trợ của gia đình/bạn bè/những người xung quanh về hoạt động khởi sự kinh doanh của cá nhân. Càng có nhiều chuẩn mực chủ quan khích lệ hành vi khởi sự kinh doanh thì

và Kolvereid Tkachev (1999), Autio và cộng sự, (2001); Krueger và cộng sự, (2000), Reynolds và cộng sự,

53

TT

Mô tả

Nguồn

Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD

ý định KSKD của cá nhân đó càng tăng lên.

(2006),

2004 Kolvereid và Isaksen Linan và cộng sự (2011)

Kolvereid (1996b); Chen và cộng sự (1998); Kristiansen

Indarti

Nhận thức kiểm soát hành vi cao sẽ tăng cam kết của cá nhân với KSKD và dẫn tới động lực mạnh mẽ hơn để KSKD

và Basu

(2004); và Virick

(2008);

Zaidatol

4

Nhận thức kiểm soát hành vi

(2009); Ruhle và các cộng sự (2010); Paco và cộng sự (2011), Linan và cộng sự (2011)

Tiếp xúc với giáo dục KSKD thích hợp sẽ ảnh hưởng đến dự định KSKD

Gasse (1985), Lee và cộng sự (2005), Gurbuz & Aykol

(2008), (Dell, 2008;

5

Giáo dục Khởi sự Kinh doanh

Tam, 2009), Ooi và cộng sự (2011), Do Ferreira Paco

(2011), Johansen và Schanke (2013),…

(1993), Krueger Oruoch (2006), Basu

và Virick (2008)

6

Kinh nghiệm KSKD

Kinh nghiệm trước khi kinh doanh của cá nhân không chỉ giúp phát triển dự định KSKD của họ, mà còn có thể tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng cho các hoạt động kinh doanh trong tương lai.

Stephen và các cộng sự (2005), Turker và Selcuk, (2009)

7

Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD

Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD như luật pháp, hỗ trợ của chính phủ…là yếu tố môi trường kinh doanh có khả năng điều chỉnh, tác động đến dự định KSKD của cá nhân thông qua

54

TT

Mô tả

Nguồn

Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD

tương tác với thái độ của cá nhân.

McClelland và Sagie

(1961), Elizur

(1999), 2000),

(Littunen, Mhango

8

Nhu cầu thành tích

(Tong và

(2006), cộng sự, 2011)

Nhu cầu thành tích cao thường có khao khát mãnh liệt trở nên thành công và có nhiều khả năng trở thành người làm chủ. Những cá nhân có Nhu cầu thành tích mạnh mẽ sẽ đóng góp nhiều hơn vào những hoạt động KSKD

2.3.2.4 Mối quan hệ giữa dự định khởi sự kinh doanh và giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn

Nguồn: Tác giả hệ thống

Kết quả của các nghiên cứu trước đã chỉ ra ảnh hưởng của các đặc điểm nhân

khẩu học như giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn đối với dự định KSKD. Do đó, những biến này được đưa vào mô hình nghiên cứu như những biến kiểm soát.

2.4. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết

2.4.1 Mô hình nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và tổng quan các công trình nghiên cứu

về các yếu tố tác động tới dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam, mô hình nghiên cứu của luận án được xây dựng trên cơ sở mô hình của thuyết hành vi có kế hoạch TPB; cụ thể là: kế thừa 3 yếu tố cơ bản (thái độ, chuẩn mực chủ quan, nhận

thức kiểm soát hành vi); ngoài ra nghiên cứu này còn kế thừa một số yếu tố từ các nghiên cứu khác (thái độ đối với tiền bạc, nhu cầu thành tích, giáo dục KSKD, kinh nghiệm/trải nghiệm KSKD), đồng thời bổ sung thêm các yếu tố về môi trường kinh doanh. Mô hình cụ thể được đề xuất như Hình 2.4.

55

Nhóm các yếu tố thuộc bản thân

Thái độ tiền bạc

Thái độ với KSKD

Chuẩn chủ quan

Nhận thức kiểm soát hành vi

Nhu cầu thành tích

Dự định Khởi sự kinh doah của thanh niên Việt Nam

Kinh nghiệm khởi sự

Yếu tố môi trường bên ngoài

Biến kiểm soát:

- Giới tính

- Nghề nghiệp

Giáo dục KSKD

- Trình độ học vấn

- Kinh nghiệm

Hỗ trợ Chính phủ

- Nghề nghiệp bộ mẹ

Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu của Luận án

Nguồn: Tác giả đề xuất

2.4.2 Giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở mô hình nghiên cứu đề xuất, các giả thuyết nghiên cứu dưới đây góp

phần làm sáng tỏ các câu hỏi nghiên cứu ban đầu đặt ra, những luận điểm cần kiểm định cụ thể trong điều kiện Việt Nam. Nội dung các phát biểu về mối quan hệ và sự tác động giữa các biến trong mô hình nghiên cứu được tổng hợp trong bảng dưới đây:

Bảng 2.2: Các giả thuyết nghiên cứu

56

Giả thuyết

Nội dung

H1

Giả thuyết 1: Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh đối với thanh niên Việt Nam

H2

Giả thuyết 2: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh đối với thanh niên Việt Nam

H3

Giả thuyết 3: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi của thanh niên Việt Nam

H4

Giả thuyết 4: Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H5

Giả thuyết 5: Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H6

Giả thuyết 6: Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H7

Giả thuyết 7: Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H8

Giả thuyết 8: Giáo dục khởi nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H9

Giả thuyết 9: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt nam

H10

Giả thuyết 10: Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Nguồn: Tác giả tổng hợp

57

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Quy trình nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu của luận án bao gồm các bước được khái quát hóa qua sơ

đồ dưới đây:

Cơ sở lý thuyết về Dự định KSKD và kết quả các nghiên cứu trước

Đề xuất mô hình và thang đo

Nghiên cứu định tính

(Tiến hành phỏng vấn)

Kiểm tra mô hình và thang đo

Điều tra, khảo sát thử (Tiến hành điều tra thử một số thanh niên)

Hoàn thiện Mô hình và thang đo

Nghiên cứu định lượng (Tiến hành phát phiếu điều tra)

EFA và Cronbach Alpha Loại các biến có trọng số EFA nhỏ Loại các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ Kiểm tra hệ số Cronbach Alpha

Đánh giá độ thích hợp của mô hình Kiểm định giả thuyết

Hình 3.1: Khái quát hóa quy trình nghiên cứu

Nguồn: Dựa theo quy trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang, 2007

58

3.2 Phát triển thang đo và phiếu điều tra

Tác giả thu thập các dữ liệu từ các công trình khoa học liên quan đến dự định KSKD trong nước và quốc tế. Từ đó đọc và dịch, tóm tắt các nội dung chính của các công trình và đưa vào bảng tính Excel những nội dung quan trọng của từng công trình

khoa học. Dựa trên việc tóm tắt, tổng hợp các kết quả nghiên cứu tác giả đặt ra một số câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu và đề xuất mô hình nghiên cứu; đồng thời xác định nguồn và nội dung của các thang đo trong mô hình đề xuất. Dựa trên khái niệm, thang

đo gốc về các biến trong mô hình, tác giả dịch sang tiếng Việt về mô hình và phiếu điều tra câu hỏi dự kiến. Cụ thể:

(1) Xin ý kiến chuyên gia: tác giả đã xin ý kiến của 3 nhà khoa học để từ đó

hoàn thiện về thuật ngữ sử dụng cũng như hoàn thiện mô hình và phiếu điều tra.

(2) Trong quá trình thu thập thông tin tại các địa bàn nghiên cứu, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 20 thanh niên để xem xét nhu cầu khởi nghiệp và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến dự định KSKD của họ.

3.2.1. Thang đo Dự định khởi sự kinh doanh

Dự định KSKD được hiểu là ý định của một cá nhân trong bắt đầu một doanh nghiệp mới (Engle và cộng sự (2010). Dựa trên khái niệm trên, Linan và cộng sự

(2011) đã xây dựng thang đo gồm 6 câu hỏi liên quan đến các phát biểu về sự chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng để trở thành doanh nhân, việc xác định mục tiêu và dự kiến thành lập doanh nghiệp. Trên cơ sở thang đo đã được Linan và cộng sự chuẩn hóa, tác

giả kế thừa và thích nghi hóa để phù hợp với khảo sát ở Việt Nam. Cụ thể nội dung các biến quan sát trong thang đo về dự định KSKD được xây dựng như sau Ký hiệu

Biến quan sát

Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân

DDK1

Tôi sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình

DDK2

Tôi có nghi ngờ (thực sự không tin tưởng) về việc bắt đầu kinh doanh của riêng tôi

DDK3

DDK4

Tôi đã quyết định sẽ thành lập công ty trong tương lai.

DDK5 Mục tiêu nghề nghiệp của tôi là trở thành một doanh nhân

DDK6

Tôi chưa suy nghĩ nghiêm túc về việc mở công ty/doanh nghiệp riêng.

3.2.2. Thang đo Thái độ đối với tiền bạc

Thái độ đối với tiền bạc được định nghĩa là một cá nhân có cho rằng khi có nhiều tiền thì sẽ có được quyền tự trị, tự do và quyền lực và người đó có cho rằng thu nhập cao hay kiếm được nhiều tiền là thước đo của sự thành công của một cá nhân hay không (Theo

Lim và Teo, 2003). Dựa trên khái niệm về thái độ với tiền bạc, Schwarz và cộng sự (2009)

59

đã xây dựng thang đo gồm 2câu hỏi giả định về việc có thu nhập cao và đánh giá tầm quan

trọng của việc kiếm được nhiều tiền. Trên cơ sở tổng hợp thang đo của các nhà nghiên cứu đi trước, tham khảo ý kiến chuyên gia và dựa trên kết quả khảo sát thử tác giả đề xuất xây dựng thang đo Thái độ đối với tiền bạc gồm các phát biểu với các nội dung sau:

Ký hiệu

Biến quan sát

TDT1 Với tôi, thu nhập cao là một dấu hiệu thành công trong cuộc sống

TDT2 Điều quan trọng với tôi là kiếm được nhiều tiền

TDT3

Tiền là thước đo quan trọng đối với năng lực cá nhân

3.2.3. Thang đo Thái độ đối với khởi sự kinh doanh

Thái độ đối với KSKD là thái độ của một các nhân với việc trở thành doanh nhân (Ajzen, 2001, Autio, Keeley, Klofsten, & Parker, 2001). Dựa trên khái niệm trên, Linan và Chen (2009) đã xây dựng thang đo thái độ đối với KSKD gồm 5 câu hỏi liên

quan đến cơ hội trở thành doanh nhân, định hướng nghề nghiệp trở thành doanh nhân. Trên cơ sở thích nghi thang đo nghiên cứu này ở Việt Nam, tác giả đề xuất sử dụng thang đo Thái độ đối với KSKD gồm 5 biến quan sát như sau:

Ký hiệu

Biến quan sát

TDK1

Trở thành một doanh nhân có nhiều lợi thế hơn bất lợi đối với tôi

TDK2

Sự nghiệp làm doanh nhân hấp dẫn đối với tôi

TDK3 Nếu tôi có cơ hội và các nguồn lực, tôi sẽ mở doanh nghiệp riêng

TDK4

Trở thành chủ doanh nghiệp sẽ làm cho tôi rất hài long

TDK5 Dù có nhiều lựa chọn về nghề nghiệp thì tôi luôn muốn mình trở thành một doanh nhân

3.2.4. Thang đo chuẩn mực chủ quan

Chuẩn mực chủ quan là nhận thức của một người về việc hầu hết những người quan trọng đối với cá nhân này nghĩ là anh ấy / cô ấy không nên thực hiện hành vi nào đó (Ajzen, 1991). Dựa trên khái niệm trên, Linan và cộng sự (2011) đã xây dựng thang đo về chuẩn mực chủ quan gồm 3 câu hỏi, trong đó đề cập đến sự ủng hộ từ các chủ thể như bạn

bè, gia đình và những người xung quanh. Qua tìm hiểu về đặc điểm về thanh niên và bối cảnh ở Việt Nam, tác giả kế thừa các biến đo lường về ảnh hưởng của chuẩn mực chủ quan từ nhón bạn bè, gia đình và những người xung quanh đến dự định KSKD của thanh niên. Do đó, thang đo chuẩn mực chủ quan được đo lường bởi 3 biến quan sát sau:

Ký hiệu

Biến quan sát

CCQ1 Bạn bè tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

CCQ2 Gia đình tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

CCQ3 Những người xung quanh tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

60

3.2.5. Thang đo Nhận thức kiểm soát hành vi

Nhận thức kiểm soát hành vi đề cập đến cảm nhận về sự dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, thể hiện cảm nhận của cá nhân là bản thân có khả năng và đủ nguồn lực để thực hiện hành vi hay không (Ajzen, 1991). Thang đo Nhận thức kiểm

soát hành vi được tác giả kế thừa và phát triển từ thang đo đã được Linan và cộng sự (2011) xây dựng và được chỉnh sửa về mặt thuật ngữ để thích nghi với khảo sát thanh niên Việt Nam. Thang đo này gồm 6 biến quan sát như sau:

Ký hiệu

Biến quan sát

KSH1 Việc mở công ty và điều hành công ty là dễ dàng với tôi

KSH2

Tôi tin rằng mình không thể tự khởi sự kinh doanh

KSH3

Tôi có thể kiểm soát quá trình tạo dựng doanh nghiệp mới

KSH4 Nếu tôi mở công ty, tôi sẽ có khả năng thành công cao

KSH5

Sẽ rất khó với tôi trong phát triển ý tưởng kinh doanh

KSH6

Tôi biết phải làm gì để phát triển một doanh nghiệp

3.2.6. Thang đo Giáo dục khởi sự kinh doanh

Giáo dục khởi sự kinh doanh đề cập đến phạm vi các bài giảng hay khóa học trong

chương trình cung cấp cho sinh viên những năng lực, kỹ năng và kiến thức về khởi sự kinh doanh để tìm kiếm một nghề nghiệp khởi sự kinh doanh (Clouse, 1990; Ekpoh & Edet, 2011; Ooi, Selvarajah & Meyer, 2011). Dựa trên khái niệm trên, thang đo Giáo dục

khởi sự kinh doanh được tác giả sử dụng tổng hợp từ các thang đo của Lee và cộng sự (2005) – câu hỏi số 1, Gurbuz & Aykol (2008) câu hỏi số 2, Ooi và cộng sự (2011) – câu hỏi số 3,4,5. Do vậy, thang đo giáo dục KSKD gồm 5 biến quan sát, được mô tả như sau:

Ký hiệu

Biến quan sát

GDK1 Nếu có cơ hội tôi sẽ chuyển sang (theo) học chuyên ngành khởi sự kinh doanh

GDK2 Khởi sự kinh doanh nên được dạy ở trường phổ thông / đại học

GDK3

Khởi sự kinh doanh nên là khóa học bắt buộc để khích lệ tinh thần khởi nghiệp trong trường học.

GDK4

Trường học có nhiều hơn các chương trình đào tạo về kinh doanh và khởi sự kinh doanh sẽ giúp sinh viên khởi nghiệp tốt hơn.

GDK5

Khóa học ở trường đại học của tôi chuẩn bị tốt cho nghề nghiệp khởi sự kinh doanh của chúng tôi

3.2.7. Thang đo Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh

Kinh nghiệm KSKD là kinh nghiệm cá nhân thu được khi thực hiện hoạt động

kinh doanh trước đây, hoặc là kinh nghiệm khi tham gia vào thành lập 1 công ty mới. Dựa

61

trên cách hiểu khái niệm ở trên, Oruoch (2006) xây dựng thang đo kinh nghiệm KSKD

gồm 2 câu hỏi về kinh nghiệm trong quá khứ (bao gồm cả thành công và thất bại khi KSKD). Trong quá trình phân tích, tổng hợp tài liệu, tác giả nhận thấy kinh nghiệm về KSKD có thể hàm chứa kinh nghiệm về sự thành công của người khác đến cá nhân khi quyết định KSKD. Do vậy, tác giả bổ sung thêm 1 biến quan sát để phát triển thang đo về kinh nghiệm KSKD. Thang đo này được thiết kế gồm 3 biến quan sát như sau:

Ký hiệu Biến quan sát

Chính những thất bại (khó khăn) khi mở ra doanh nghiệp đầu tiên sẽ là cơ KNK1 sở giúp tôi tạo ra một doanh nghiệp thành công

KNK2 Các hoạt động kinh doanh khác trong quá khứ của tôi đã chuẩn bị cho tôi suy nghĩ về việc bắt đầu một doanh nghiệp

KNK3 Một người bạn thành công trong kinh doanh đã cho tôi lý do để suy nghĩ về việc bắt đầu kinh doanh của riêng mình

3.2.8. Thang đo Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh

Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với KSKD được hiểu là các cá nhân nhận

được sự hỗ trợ từ chính phủ, từ các tổ chức phi chính phủ trong việc trở thành 1 doanh nhân hay trong việc thành lập 1 doanh nghiệp mới. Dựa trên cách hiểu khái niệm ở trên, Turker và Selcuk, (2009) đã xây dựng thang đo Chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với KSKD với 4 biến quan sát với nội hàm phản ảnh việc chính phủ khuyến khích

KSKD và có môi trường KSKD thuận lợi từ cơ hội phát triển lĩnh vực kinh doanh đến hành lang pháp lý. Đây là thang đo ít được sử dụng hơn các thang đo trên trong khi đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD. Tuy nhiên, với mong muốn tìm hiểu về ảnh hưởng của yếu tố này đến dự định KSKD của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh nhà nước đang có những động thái tích cực, mạnh mẽ khuyến khích KSKD, tác giả đề xuất đưa thang đo Chính sách hỗ trợ của chính phủ vào trong mô hình nghiên cứu. Các biến quan sát trong thang đo này gồm:

Ký hiệu Biến quan sát

CSC1 Ở Việt Nam, chính phủ khuyến khích các doanh nhân thành lập công ty

CSC2 Nền kinh tế Việt Nam cung cấp nhiều cơ hội cho các doanh nhân

CSC3 Không dễ dàng trong vay vốn từ ngân hàng khi khởi sự kinh doanh ở Việt Nam

CSC4 Luật pháp (quy định và luật lệ) gây cản trở trong hình thành doanh nghiệp

62

3.2.9. Thang đo Nhu cầu thành tích

Nhu cầu thành tích được hiểu là động lực của một người muốn thành công. Hay

được hiểu là những mong muốn, khát khao về khẳng định mình của một cá nhân. Dựa trên cách hiểu khái niệm ở trên, Mhango (2006) đã xây dựng thang đo Nhu cầu thành tích bao gồm 6 câu hỏi nhằm đánh giá mức độ muốn khẳng định bản thân của cá nhân

gắn với mục tiêu hướng đến việc trở thành một doanh nhân. Trong nghiên cứu này, thang đo về nhu cầu thành tích được tác giả kế thừa và thích nghi thang đo với khảo sát thanh niên Việt Nam như sau:

Ký hiệu Biến quan sát

NCT1 Tôi mong muốn và theo đuổi sự thành công NCT2 Tôi ít sợ thất bại

NCT3 Tôi cho rằng thành công hay thất bại là do bản thân mình chứ không phải do người khác và hoàn cảnh

NCT4 Tôi thích hoàn thành nhiệm vụ được giao NCT5 Tôi sẽ trở lại những công việc chưa hoàn thành và kết thúc chúng NCT6 Tôi thường dành nhiều thời gian để tìm hiểu những điều mới

Như vậy, trong quá trình xây dựng thang đo nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng

đến dự định KSKD của thanh niên Việt Nam, tác giả đã kế thừa, đồng thời phát triển, bổ sung các biến quan sát nhằm xây dựng các thang đo phù hợp với mô hình lý thuyết của luận án. Thang đo này sẽ tiếp tục được hoàn thiện dựa trên việc kiểm định độ tin

cậy của các thang đo trong quá trình phân tích kết quả điều tra.

Nội dung phiếu điều tra gồm 3 phần chính (xem phụ lục):

- Thông tin mở đầu: Nội dung phần này bao gồm phần giới thiệu mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu để người trả lời có hiểu biết sơ qua về nội dung cuộc điều tra và

chuẩn bị tâm thế tốt trước khi trả lời các nội dung trong bảng hỏi.

- Thông tin về nội dung khảo sát: Nội dung này được thiết kế với 2 nội dung. Phần I tìm hiểu ý kiến của thanh niên khi đánh giá 8 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên với tổng số 35 biến quan sát, trong đó gồm: Thái độ đối với khởi nghiệp (5 biến quan sát), Thái độ đối với tiền bạc (3 biến quan sát), Chuẩn

mực chủ quan (3 biến quan sát), Nhận thức kiểm soát hành vi (6 biến quan sát), Giáo dục KSKD (5 biến quan sát), Kinh nghiệm KSKD (3 biến quan sát), Chính sách hỗ trợ của chính phủ (4 biến quan sát), Nhu cầu thành tích (6 biến quan sát). Phần II tìm hiểu ý kiến của thanh niên về dự định KSKD của họ trong thời gian tới, gồm 6 biến quan

sát. Thang đo trong cả hai nội dung đều được thiết kế đồng nhất bằng thang Likert 5 mức thể hiện mức độ đồng ý từ “Rất không đồng ý” đến “Rất đồng ý”.

63

- Thông tin thống kê một số đặc điểm nhân khẩu học xã hội: Nhằm thu thập thêm những thông tin khác liên quan đến người trả lời để thống kê, mô tả mẫu cũng như giải thích rõ thêm cho những thông tin chính nếu thấy cần thiết.

3.3 Điều tra sơ bộ

Sau khi phiếu điều tra bước đầu được hoàn thành từ tổng quan lý thuyết đã được kiểm định thử trước khi thực hiện điều tra trên diện rộng. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2017. Mục đích của điều tra thử là để phát hiện các điểm

yếu trong thiết kế và cấu trúc câu hỏi (Cooper và Schindler, 1998; Fink, 2003), đồng thời hạn chế tối thiểu những vấn đề trong quá trình trả lời câu hỏi và nhập dữ liệu (Saunders và các cộng sự, 2007). Với ý nghĩa như vậy, trước khi tiến hành khảo sát chính thức, tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát thử 50 phiếu đại diện các nhóm đối tượng khảo sát. Mục

đích của cuộc điều tra này nhằm kiểm tra câu hỏi, thuật ngữ nào chưa rõ nghĩa và khó lựa chọn phương án trả lời, đồng thời xem xét sự phù hợp của thang đo, các biến số được đề xuất trong mô hình nghiên cứu. Kết quả từ điều tra thử là cơ sở để tác giả điều chỉnh thang

đo phù hợp trước khi tiến hành khảo sát chính thức. Hình thức thu thập thông tin được đa dạng hóa để thuận tiện cho tác giả trong quá trình tiến hành điều tra bao gồm điều tra trực tiếp và gián tiếp qua Google (Google forms). Kết quả điều tra thử cho thấy phiếu điều tra cơ bản được chấp nhận, chỉ điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ và thiết kế.

Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu thử và cũng là nơi để nghiên cứu và tham khảo việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp của thành phố, thiết lập mối liên hệ, phối hợp với Trung tâm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp

của Thành phố trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài. Trong hơn 30 năm đổi mới, nhiều chương trình, mô hình về phát triển kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh đã được nhân rộng trong cả nước. Hơn 20 năm trước, thanh niên thành phố đã sôi nổi tham gia phong trào khởi nghiệp. Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo môi trường tốt cho

thanh niên khởi nghiệp, tạo nên làn sóng khởi nghiệp cho thanh niên thành phố. Đến nay, nhiều doanh nghiệp từ phong trào này đã vượt qua những khó khăn để phát triển trở thành những thương hiệu quốc gia, vươn ra tầm quốc tế. Thành phố là cái nôi phát triển

doanh nghiệp trẻ của cả nước và mong muốn phát triển theo hướng đô thị sáng tạo và khởi nghiệp.

3.4 Nghiên cứu chính thức

Từ kết quả nghiên cứu sơ bộ nêu trên, tác giả tiếp tục kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng trong việc thu thập thông tin và làm rõ các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu.

64

3.4.1. Thiết kế phiếu điều tra

Phiếu điều tra trong nghiên cứu này được thiết kế lần đầu dựa trên kết quả nghiên cứu tài liệu thứ cấp. Cụ thể là trên cơ sở tổng quan các khái niệm, thang đo đối với các biến trong mô hình nghiên cứu và tiến hành so sánh, phân tích lựa chọn thang đo phù hợp nhất với mục tiêu nghiên cứu. Tiếp đó tác giả đã xin ý kiến góp ý của chuyên gia về bản dịch xuôi của các các thang đo để tiến hành chỉnh sửa lần và đưa ra phiếu điều tra lần 1. Sau khi chỉnh sửa phiếu điều tra, tác giả đã tiến hành khảo sát thử với mục đích đánh giá lại xem những câu hỏi nào khó trả lời hoặc thuật ngữ nào khó hiểu, sau đó tác giả chỉnh sửa lần 2 của phiếu điều tra; Cuối cùng, tác giả đã xin tiếp ý kiến của các chuyên gia về phiếu điều tra chỉnh sửa lần 2 và đưa đến phiếu điều tra chính thức. Nội dung phiếu điều tra gồm 3 phần chính (phụ lục 02):

- Thông tin mở đầu: Nội dung phần này bao gồm phần giới thiệu mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu để người trả lời có hiểu biết sơ qua về nội dung cuộc điều tra và chuẩn bị tâm thế tốt trước khi trả lời các nội dung trong bảng hỏi.

- Thông tin về nội dung khảo sát: Nội dung này được thiết kế với 2 nội dung. Phần I tìm hiểu ý kiến của thanh niên khi đánh giá 8 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên với tổng số 35 biến quan sát, trong đó gồm: Thái độ đối với khởi nghiệp (5 biến quan sát), Thái độ đối với tiền bạc (3 biến quan sát), Chuẩn mực chủ quan (3 biến quan sát), Nhận thức kiểm soát hành vi (6 biến quan sát), Giáo dục KSKD (5 biến quan sát), Kinh nghiệm KSKD (3 biến quan sát), Chính sách hỗ trợ của chính phủ (4 biến quan sát), Nhu cầu thành tích (6 biến quan sát). Phần II tìm hiểu ý kiến của thanh niên về dự định KSKD của họ trong thời gian tới, gồm 6 biến quan sát. Thang đo trong cả hai nội dung đều được thiết kế đồng nhất bằng thang Likert 5 mức thể hiện mức độ đồng ý từ “Rất không đồng ý” đến “Rất đồng ý”.

- Thông tin thống kê một số đặc điểm nhân khẩu học xã hội: Nhằm thu thập thêm những thông tin khác liên quan đến người trả lời để thống kê, mô tả mẫu cũng như giải thích rõ thêm cho những thông tin chính nếu thấy cần thiết.

65

3.4.2. Xác định mẫu điều tra

Việc thu thập dữ liệu được thực hiện bằng phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi. Do vấn đề nghiên cứu thuộc phạm vi lĩnh vực tác giả đang phụ trách nên điều kiện về nguồn lực và tính khả thi trong thu thập dữ liệu có nhiều thuận lợi. Hoạt động điều tra được phối hợp với các Trung tâm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành đoàn trong phạm vi địa bàn nghiên cứu để lựa chọn mẫu theo hình thức ngẫu nhiên đối với các nhóm đối tượng (sinh viên, thanh niên nông thôn, thanh niên có dự án khởi nghiệp đăng kí dự thi tại các cuộc thi khởi nghiệp do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức, thanh niên có các dự án khởi nghiệp đang được hỗ trợ triển khai).

Về kích cỡ mẫu, theo J.F Hair và cộng sự (1998), đối với phân tích nhân tố khám phá EFA thì cỡ mẫu tối thiểu phải bằng 5 lần các mệnh đề trong thang đo. Trong mô hình nghiên cứu của luận án, có tất cả 41 biến số dùng trong phân tích nhân tố, do vậy cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được là: 41 x 5 = 205 quan sát. Đối với hồi quy đa biến thì cỡ mẫu tối thiểu được tính bằng công thức: 50 + 8*m (m là số biến độc lập) (Tabachnick và Fidell, 1996). Trong nghiên cứu này có 9 biến độc lập thì cỡ mẫu tối thiểu là 50 + (8 x 9) = 112 quan sát.

Như vậy, về mặt lý thuyết, cỡ mẫu tối thiểu cần khảo sát để đảm bảo cho các phân tích nhân tố là khoảng 205 quan sát. Tuy nhiên, để đảm bảo quy mô điều tra trên diện rộng ở 9 địa bàn nhằm thu thập thông tin đa dạng từ các đối tượng thanh niên sinh sống ở các vùng, miền khác nhau trong cả nước, đồng thời cỡ mẫu có khả năng suy rộng cho tổng thể quy mô dân số thanh niên (16-30 tuổi) năm 2018 là 23316036 người (Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2019), tác giả đã tham khảo phương pháp tính cỡ mẫu qua hệ thống website: https://www.surveysystem.com/sscalc.htm được xây dựng bởi Creative Research Systems. Theo đó, với cỡ mẫu ước lượng khảo sát 1500 thanh niên, với độ tin cậy 95% và khoảng tin cậy cần thiết là 2,53.

66

Hình 3.2: Kết quả tính toán cỡ mẫu và khoảng tin cậy

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên công thức được lập trình sẵn tại website https://www.surveysystem.com/sscalc.htm)

Trên cơ sở tính toán lượng mẫu phù hợp, tác giả tiến hành thực hiện điều tra chính thức 1500 thanh niên bao gồm hai nhóm đối tượng đó là sinh viên và thanh niên đã có việc làm, có tính đến sự đa dạng trong lựa chọn mẫu theo khu vực nông thôn và đô thị. Mẫu trong nghiên cứu này được lựa chọn bằng phương pháp chọn mẫu phân tầng, có chủ đích. Để xác định cơ cấu mẫu nghiên cứu, tác giả phân chia tổng thể căn cứ vào các tiêu thức như vùng địa lý (miền Bắc, miền Trung, miền Nam), khu vực sinh sống (nông thôn, thành thị) và đối tượng (sinh viên, người đi làm). Sau đó trong từng tổ, dùng cách chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để chọn ra các đơn vị của mẫu (có thể tuân theo tỷ lệ số đơn vị tổ đó chiếm trong tổng thể, hoặc có thể không tuân theo tỷ lệ). Trong quá trình điều tra, tác giả có sự phối hợp chặt chẽ với đội ngũ cộng tác viên điều tra tại các địa bàn khảo sát để lựa chọn mẫu và thu thập thông tin đạt hiệu quả cao nhất. Kết quả thu phiếu điều tra về cho thấy: số lượng mẫu hợp lệ đủ điều kiện để phân tích là

67

1298 đơn vị mẫu, đạt tỉ lệ 86,5%, đảm bảo đủ dung lượng và tính đại diện mẫu theo khu vực và đối tượng.

3.4.3 Phân tích dữ liệu

Phân tích dữ liệu là việc ứng dụng các luận chứng để hiểu, làm rõ và giải thích các dữ liệu thông tin đã được thu thập qua phiếu điều tra (Zikmund và cộng

sự, 2010). Các dữ liệu thông tin được thu thập từ phiếu điều tra được làm sạch, nhập liệu và xuất dữ liệu xử lý qua chương trình SPSS 20 và Amos 22. Quy trình phân tích gồm các bước sau:

- Phân tích mô tả

Phân tích mô tả đề cập đến việc chuyển hóa từ dữ liệu thô thành một dạng thức dễ hiểu và dễ giải thích (Zikmund và cộng sự, 2010). Phương pháp này được sử dụng để tính toán sự phân bổ trung bình, tần xuất và tỉ lệ phần trăm của thông tin nhân khẩu học do người trả lời cung cấp.

- Kiểm tra độ tin cậy của thang đo

Các nhà nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS Phiên bản 20 để tiến hành kiểm tra độ tin cậy. Độ tin cậy được xác định thông qua việc giải thích hệ số α của

Cronbach, một hệ số tin cậy chỉ ra mức tương quan tích cực giữa những câu hỏi trong bộ phiếu điều tra (Sekaran & Bougie, 2010). Độ tin cậy của mỗi thang đo được đánh giá bởi hệ số α bằng cách sử dụng phần mềm SPSS như mô tả trong dưới đây:

68

Bảng 3.1: Giải thích Giá trị Hệ số Alpha của Cronbach

Khoảng giá trị Hệ số Alpha Mức Tương quan

< 0,60 Yếu

0,60 đến < 0,70 Trung bình

0,70 đến < 0,80 Khá

0,80 đến < 0,90 Tốt

0,90 Rất mạnh

Nguồn: Zikmund, W. G., Babin, B. J., Carr, J. C., & Griffin, M., 2010.

- Kiểm tra T-Test

T-test được sử dụng để kiểm tra một giả thuyết cho rằng thang điểm của một số biến theo khoảng hoặc tỉ lệ (m) sẽ rất chênh lệch giữa hai mẫu hoặc nhóm độc

lập. Trong nghiên cứu này, T-test được tiến hành để kiểm tra liệu giới tính, nghề nghiệp, nền tảng kinh doanh gia đình, yếu tố vùng, miền,… có ảnh hưởng như thế nào đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên, có sự khác biệt trong phân tích

đa nhóm hay không?

- Phân tích Tương quan Pearson

Theo Sekaran & Bougie (2010), Phân tích tương quan Pearson chỉ ra được điểm mạnh, xu hướng và tầm quan trọng của các mối tương quan giữa hai biến số trong toàn

bộ các biến được đo bằng thang khoảng hoặc thang đo tỉ lệ. Hệ số tương liên càng lớn thì mức độ liên quan càng mạnh và mức độ đó là tiêu cực hay tích cực thì phụ thuộc vào xu hướng liên quan giữa các biến. Trong nghiên cứu này, phân tích Pearson được

Khoảng Giá trị Tương liên

dùng để đo lường phương sai và tương quan giữa dự định khởi sự kinh doanh và năm yếu tố (thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi, giáo dục khởi sự kinh doanh và đặc điểm tính cách) của các giả thuyết 1, 2, 3, 4 và 5. Nghiên cứu điều tra sẽ được tiến hành ở mức ý nghĩa 5% hoặc 1%.

±0,91 đến ±1,00

Rất mạnh

±0,71 đến ±0,90

Cao

±0,41 đến ±0,70

Khá

±0,21 đến ±0,40

Ít nhưng vẫn định nghĩa được mối liên quan

±0,01 đến ±0,02

Yếu, gần như không đáng kể

Bảng 3.2: Giải thích Giá trị Hệ số Tương liên Mức Tương quan

Nguồn: Hair, Jr., Money, A. H., Samouel, P., & Page, M., 2007.

69

-Phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA)

Đối với phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc lẫn nhau. EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành một tập F (F

Các tác giả Mayers, L.S., Gamst, G., Guarino A.J. (2000) đề cập rằng: Trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Pricipal Components Analysis đi cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất. Đây cũng là phương pháp

được tác giả sử dụng trong quá trình phân tích EFA.

Theo Hair & ctg (1998), Factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số nhân tố)

là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA:

• Factor loading > 0.3 được xem là đạt mức tối thiểu

• Factor loading > 0.4 được xem là quan trọng

• Factor loading > 0.5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn

Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa mãn các yêu cầu:

Hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0.5

0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) là chỉ số được dùng để xem xét

sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số KMO lớn có ý nghĩa phân tích nhân tố là thích hợp.

Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05): Đây là một đại lượng thống kê dùng để xem xét giả thuyết các biến không có tương quan trong tổng thể.

Nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05) thì các biến quan sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể.

Phần trăm phương sai trích (Percentage of variance) > 50%: Thể hiện phần trăm biến thiên của các biến quan sát. Nghĩa là xem biến thiên là 100% thì giá trị này cho

biết phân tích nhân tố giải thích được bao nhiêu %.

Đối với phương pháp phân tích nhân tố khẳng định CFA: CFA là bước tiếp theo của EFA nhằm kiểm định xem có một mô hình lý thuyết có trước làm nền tảng cho

một tập hợp các quan sát không. Khi xây dựng CFA, các biến quan sát cũng là các biến chỉ báo trong mô hình đo lường, bởi vì chúng cùng tải lên khái niệm lý thuyết cơ sở. Phương pháp này chấp nhận các giả thuyết nghiên cứu, được xác định căn cứ theo quan hệ giữa mỗi biến và một hay nhiều hơn một nhân tố.

- Phân tích mô hình cấu trúc (SEM)

70

Mô hình SEM đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghiên cứu như tâm

lý học (Anderson & Gerbing,1988; Hansell và White, 1991), xã hội học (Lavee, 1988; Lorence và Mortimer, 1985), nghiên cứu sự phát triển của trẻ em (Anderson, 1987; Biddle và Marlin,1987) và trong lĩnh vực quản lý (Tharenou, Latimer và Conroy,1994). Mô hình này được coi là một trong những kỹ thuật phức hợp và linh hoạt nhất sử dụng để phân tích mối quan hệ phức tạp trong mô hình nhân quả. SEM có thể cho một mô hình phức hợp phù hợp với dữ liệu như các bộ dữ liệu khảo sát trong dài hạn (longitudinal), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), các mô hình không chuẩn

hoá, cơ sở dữ liệu có cấu trúc sai số tự tương quan, dữ liệu với các biến số không chuẩn (Non-Normality), hay dữ liệu bị thiếu (missing data). Đặc biệt, SEM sử dụng để ước lượng các mô hình đo lường (Mesurement Model) và mô hình cấu trúc (Structure

Model) của bài toán lý thuyết đa biến.

Mô hình đo lường chỉ rõ quan hệ giữa các biến tiềm ẩn (latent Variables) và các biến quan sát (observed variables). Nó cung cấp thông tin về thuộc tính đo lường của biến quan sát (độ tin cậy, độ giá trị). Các mối quan hệ này giữa các biến có thể mô tả

những dự báo mang tính lý thuyết mà các nhà nghiên cứu quan tâm. Ngoài ra, với kỹ thuật phân tích nhân tố khẳng định (CFA) mô hình SEM cho phép linh động tìm kiếm mô hình phù hợp nhất trong các mô hình đề nghị.

Với những lợi thế nêu trên của việc sử dụng mô hình SEM, trong nghiên cứu

này, tác giả lựa chọn phân tích mô hình cấu trúc thay thế cho việc chạy mô hình hồi quy tuyến tính thông thường. Mô hình cấu trúc sẽ chỉ rõ mối quan hệ giữa các biến số và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trong mô hình nghiên cứu đề xuất.

Sự phù hợp của toàn bộ mô hình trên thực tế được đánh giá thông qua các tiêu

chí về mức độ phù hợp như sau:

i) Kiểm định Chi-Square (χ2) :

Biểu thị mức độ phù hợp tổng quát của toàn bộ mô hình tại mức ý nghĩa p-

value = 0.05 [Joserkog & Sorbom, 1989]. Điều này thực tế rất khó xảy ra bởi vì χ2 rất nhạy với kích thước mẫu lớn và độ mạnh của kiểm định, nên thực tế người ta dùng chỉ số χ2 /df để đánh giá.

ii) Tỷ số Chi-Square/bậc tự do: χ2 / df

Cũng dùng để đo mức độ phù hợp một cách chi tiết hơn của cả mô hình. Một số tác giả đề nghị 1 < χ2/df < 3 [Hair et al, 1998]; một số khác đề nghị χ2 càng nhỏ càng tốt [Segar, Grover, 1993] và cho rằng χ2/df < 3:1 [Chin & Todd, 1995] Ngoài ra, trong

71

một số nghiên cứu thực tế người ta phân biệt ra 2 trường hợp : χ2/df < 5(với mẫu

N > 200); hay < 3 (khi cỡ mẫu N < 200) thì mô hình được xem là phù hợp tốt [Kettinger và Lee,1995].

iii) Các chỉ số liên quan khác:

GFI, AGFI, CFI, NFI,….. có giá trị > 0.9 được xem là mô hình phù hợp tốt. Nếu các giá trị này bằng 1, mô hình được coi là hoàn hảo [Segar, Grover, 1993] & [Chin & Todd, 1995].

GFI: đo độ phù hợp tuyệt đối (không điều chỉnh bậc tự do) của mô hình cấu

trúc và mô hình đo lường với bộ dữ liệu khảo sát.

AGFI: Điều chỉnh giá trị GFI theo bậc tự do trong mô hình.

RMR: Một mặt đánh giá phương sai phần dư của biến quan sát, mặt khác đánh

giá tương quan phần dư của một biến quan sát này với tương quan phần dư của một biến quan sát khác.. Giá trị RMR càng lớn nghĩa là phương sai phần dư càng cao, nó phản ánh một mô hình có độ phù hợp không tốt.

RMSEA : là một chỉ tiêu quan trọng, nó xác định mức độ phù hợp của mô hình

so với tổng thể. Chỉ số RMSEA, RMR yêu cầu < 0.05 thì mô hình phù hợp tốt. Trong một số trường hợp giá trị này < 0.08 mô hình được chấp nhận. [Taylor, Sharland, Cronin và Bullard, 1993].

NFI: đo sự khác biệt phân bố chuẩn của χ2 giữa mô hình độc lập (đơn nhân tố,

có các hệ số bằng 0) với phép đo phương sai và mô hình đa nhân tố.

NFI = (χ2 null – χ2 proposed) / χ2 null = (χ2 Mo – χ2 Mn) / χ2 Mo Trong đó ký hiệu Mo: Mô hình gốc; Mn: Mô hình phù hợp

Giá trị đề nghị NFI > 0.9 [Hair et al, 1998] & [Chin & Todd, 1995] iv) Mức xác suất: Giá trị > .05 được xem là mô hình phù hợp tốt [Arbuckle và Wothke, 1999; Rupp và Segal, 1989].

Ngoài ra các quan hệ riêng lẻ cũng được đánh giá tốt dựa trên các mức ý nghĩa

thống kê. Tác động của các biến ngoại sinh lên các biến nội sinh và tác động của các biến nội sinh lên các biến nội sinh được đánh giá qua các hệ số hồi quy. Mối quan hệ giữa các biến được biểu thị bằng mũi tên trên mô hình. Chiều mũi tên biểu diễn chiều tác động của

Với những lợi thế nêu trên của việc sử dụng mô hình SEM, trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn phân tích mô hình cấu trúc thay thế cho việc chạy mô

biến này lên biến kia. Trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, tất cả các mối quan hệ nhân quả đề nghị có độ tin cậy ở mức 95% (p = .05)[Cohen, 1988].

72

hình hồi quy tuyến tính thông thường. Mô hình cấu trúc sẽ chỉ rõ mối quan hệ giữa các biến số và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trong mô hình nghiên cứu đề xuất. Trong quá trình xây phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính dựa trên kết quả CFA, tác giả cũng đã có sự điều chỉnh mô hình nghiên cứu dựa trên việc loại bỏ các mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê để có được mô hình nghiên cứu phù hợp hơn với dữ liệu nghiên cứu. Trên cơ sở mô hình phù hợp được lựa chọn, tác giả đưa kiểm định các giả thuyết nghiên cứu đã được đặt ra trong quá trình nghiên cứu luận án.

Bên cạnh đó, mô hình SEM cũng được sử dụng để phân tích cấu trúc đa nhóm nhằm tìm ra mô hình phù hợp theo các đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, kinh nghiệm và truyền thống gia đình.

Như vậy, trong luận án, tác giả đã tuân thủ quy trình nghiên cứu được xây dựng từ đầu, đồng thời vận dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng nhằm đạt được mục đích nghiên cứu, nhất là khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên hiện nay.

73

CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC TRẠNG DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM

4.1 Thực trạng khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Khởi sự kinh doanh là hoạt động có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia. Các doanh nghiệp là một trong những thành phần kinh tế

chủ lực đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo và tạo ra công ăn việc làm (Davidsson, 1995), trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp khởi sự kinh doanh thường tạo ra nhiều việc làm mới với mức gia tăng giá trị lớn mặc dù rủi ro khá cao. Một nền kinh tế phát triển tốt phải dự trên sự phát triển cả về số lượng và chất lượng

của các doanh nghiệp. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa khởi sự kinh doanh với tăng trưởng kinh tế của quốc gia và địa phương. Những khu vực có tỷ lệ thành lập doanh nghiệp cao thường có tốc độ phát triển kinh tế cao

hơn, do đó chính phủ các nước phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển đều dành nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy việc khởi sự kinh doanh, đặc biệt trong giới trẻ, tự khởi sự kinh doanh để tạo việc làm cho bản thân và người khác thay vì đi làm thuê, qua đó làm gia tăng số lượng doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế

đất nước.

Để thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh, điều quan trọng là cần khơi dậy được tinh thần khởi nghiệp. Theo nghiên cứu của Lee và Cộng sự (2006) cho rằng tinh

thần khởi nghiệp được chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Nghiên cứu của Sobel & King (2008) nhận định khởi nghiệp là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy việc thúc đẩy giới trẻ khởi nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nhà chính sách.

Để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp thì chương trình giáo dục có tác động hết sức quan trọng. Astebro và cộng sự (2012) cung cấp bằng chứng ở Mỹ cho thấy đào tạo về khởi nghiệp không chỉ là chương trình dành riêng cho sinh viên ngành kinh doanh mà nó

còn là chương trình hết sức quan trọng đối với sinh viên thuộc khối khoa học tự nhiên, kỹ thuật và cả trong lĩnh vực nghệ thuật. Rae & Woodier-Harris (2013) cho rằng muốn doanh nghiệp có một nền tảng kiến thức tốt và quản lý doanh nghiệp thành công thì cần phải xây dựng chương trình học khởi nghiệp rộng rãi cho sinh viên, cung cấp cho

họ kiến thức cần thiết để khởi nghiệp thành công và định hướng con đường sự nghiệp đúng đắn. Huber và công sự (2014) phân tích hiệu quả của việc giáo dục khởi nghiệp sớm cho các trẻ em tiểu học ở Hà Lan và chứng minh rằng việc đầu tư sớm giáo dục

khởi nghiệp cho trẻ em 11 hoặc 12 tuổi mang đến hiệu quả trong việc nâng cao kiến

74

thức, kỹ năng khởi nghiệp. Ở mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét đặc trưng

riêng về văn hóa, kinh tế, chính trị, vì thế nghiên cứu giáo dục khởi nghiệp dựa trên những nét đặc trưng này sẽ góp phần đóng góp quan trọng cho lý thuyết và thực tiễn giáo dục đại học hướng đến thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh.

Thúc đẩy tinh thần kinh doanh được coi là hạt nhân cho tăng trưởng kinh tế ở Mỹ và châu Âu. Các trường đại học ở Mỹ luôn đi tiên phong trong đào tạo khởi sự kinh doanh và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Ở nhiều trường đại học, mỗi năm có hàng trăm công ty mới được thành lập và là nơi sản sinh ra hàng nghìn công ty đồng

thời tạo ra hàng triệu việc làm. Tiêu biểu trong số đó như MIT, mỗi năm có khoảng 150 công ty mới thành lập, hiện có khoảng 5000 doanh nghiệp đã được thành lập và ra hơn 1 triệu việc làm cùng doanh thu hơn 200 tỷ đô la mỗi năm. Nhiều quốc gia khác

trên thế giới đều có các chính sách và kế hoạch hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ để hướng đến hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi sự kinh doanh trong nền kinh tế.

Với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, khởi sự kinh doanh có vai trò quan trọng trên nhiều phương diện, không chỉ về kinh tế mà còn cả về xã hội, và trên nhiều

mục tiêu, không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong dài hạn. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế ngày càng được nhìn nhận và đánh giá cao dựa trên đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế thông qua số liệu thống kê cho thấy mức đóng góp khoảng 45% GDP và chiếm khoảng 90% việc làm mới tạo ra mỗi năm. Chính phủ

Việt Nam cũng đã nhìn nhận tầm quan trọng của việc định hướng tinh thần doanh nhân cho sinh viên và giới trẻ nước ta, đồng thời triển khai các chương trình, hoạt động hỗ trợ và thúc đẩy khởi sự kinh doanh trong cả nướcTrong vòng 5 năm từ khi

thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2018 được cải thiện 13 bậc so với năm 2016, từ thứ 82 lên thứ 69 trong tổng số 190 nền kinh tế được khảo sát (Ngân hàng Thế giới,

Doing Business, 2019). Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 9,2% so với cùng thời điểm năm 2017. Năm 2018 số

doanh nghiệp thành lập mới cả nước đạt kỷ lục cao nhất từ trước đến nay với 131.275 doanh nghiệp, tăng 3,5% so với năm 2017. Khu vực dịch vụ là khu vực có số lượng doanh nghiệp thành lập mới nhiều nhất với 94.703 doanh nghiệp, tăng 4,1% so với năm 2017. Khu vực doanh nghiệp đóng góp lớn nhất vào quy mô phát triển của nền

kinh tế, chiếm trên 60% trong GDP của toàn bộ nền kinh tế. Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo sát sao và hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, doanh

75

nghiệp nước ta đã phát triển nhanh. Bình quân giai đoạn 2011-2017, số doanh nghiệp

đang hoạt động có kết quả SXKD tăng 9,5%/năm, số lao động thu hút làm việc trong khu vực doanh nghiệp tăng 5%/năm, vốn sản xuất kinh doanh tăng 14,2%/năm, doanh thu tăng 12,3%/năm, lợi nhuận tăng 17,4%/năm (Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019:53).

Thực tế cho thấy, quy mô của các doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam vẫn còn khá nhỏ và phần lớn ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Theo báo cáo của VCCI (2018), 63% doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam có quy mô dưới 10 lao

động, 30% từ 10 đến 49 lao động và chỉ có khoảng 7% trên 50 lao động. Trong đó, phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp chỉ mới ở giai đoạn định hình doanh nghiệp (36%) và bắt đầu có doanh thu (50%).

Hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội (45%), Thành phố Hồ Chí Minh (29%), Đà Nẵng (15%) (Viettonkin Consulting (2019), Startup Market Research Report, Vietnam). Điều này có thể lý giải bởi lợi thế về vị trí địa lý và sự phát triển của hệ sinh thái khởi

nghiệp ở các thành phố này, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong việc cung cấp những sự hỗ trợ về mạng lưới, vốn, nhân sự tài năng, các chương trình ươm tạo và tăng tốc khởi nghiệp,…

Cùng với các định hướng và chính sách của Chính phủ, xã hội và cộng đồng

doanh nghiệp ở Việt Nam cũng đã tích cực tham gia vào quá trình hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp. Theo số liệu thống kê, đến năm 2017, đã có hơn 40 quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam, tăng gấp đôi so với 2015; hơn 40 cơ sở ươm tạo và

tổ chức thúc đẩy kinh doanh và hơn 60 khu không gian làm việc chung trên cả nước; nhiều mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp được hình thành như Mạng lưới kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chương trình "Sáng kiến cố vấn khởi nghiệp Việt Nam". Năm 2018, các tập đoàn kinh tế lớn tăng cường đầu tư cho hệ sinh thái khởi nghiệp

ĐMST: Vinacapital thành lập quỹ đầu tư Vinacapital Ventures (100 triệu USD); Vingroup thành lập Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp và Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu KH&CN có mức đầu tư 2.000 tỷ đồng, Quỹ Đầu tư mạo hiểm có mức 300 triệu USD… để hỗ trợ

các ý tưởng sáng tạo đột phá về công nghệ.

Với những định hướng và sự hỗ trợ đó, hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với những kết quả bước đầu khá ấn tượng. Năm 2018 đã ghi nhận sự thành công của các startup Việt với những khoản gọi vốn đầu tư lớn như: Foody, nền

tảng kết nối ẩm thực trực tuyến, gọi vốn thành công thu về 64 triệu USD; Tiki.vn,

76

trang thương mại điện tử nhận được khoản đầu tư 44 triệu USD từ quỹ đầu tư của Hàn

Quốc, Trung Quốc; Sendo.vn, sàn giao dịch điện tử gọi vốn thành công 51 triệu USD từ các nhà đầu tư châu Á. Không chỉ có start-up Việt hoạt động ở trong nước mà cả start-up Việt được thành lập ở nước ngoài cũng gặt hái thành công như Misfit, GotIt hay Kyber Network. Trí tuệ Việt, sức sáng tạo Việt, ý chí người Việt đã và đang từng bước khẳng định và vươn ra thế giới, xóa nhòa khoảng cách địa lý. Những con số ấn tượng này đã bước đầu khẳng định sự đúng đắn và đầy tiềm năng của hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Hoạt động khởi nghiệp của thanh niên Việt Nam luôn có sự đồng hành của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thông qua các hoạt động truyền thông về khởi nghiệp, tổ chức tập huấn, đào tạo kiến thức khởi nghiệp cho thanh niên. Các cuộc thi về ý

tưởng sáng tạo khởi nghiệp trong thanh niên được chỉ đạo tổ chức từ cấp Trung ương đến các tỉnh, thành điển hình như Hà Nội, Đồng Tháp, Bắc Ninh và Nghệ An. Một số tỉnh, thành đoàn đã tham mưu triển khai hiệu quả Quỹ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp như Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Bắc Giang.

Trung ương Đoàn cũng đã tổ chức các cuộc thi “Ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo thanh niên nông thôn” nhằm tìm kiếm, phát hiện các ý tưởng sáng tạo để tuyên truyền, hỗ trợ, nhân rộng, đồng thời, ký kết chương trình phối hợp với một số bộ, ngành, đoàn thể, doanh nghiệp, ngân hàng để hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, như: Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, Co.opmart, VinEco, Vinmart, Câu

lạc bộ nông nghiệp công nghệ cao. Thanh niên nông thôn khởi nghiệp được hỗ trợ vốn thông qua nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; sử dụng nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng

cao thu nhập cho người dân trong Quyết định 1600 /QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Các hoạt động hỗ trợ thanh niên nông thôn được cụ thể hóa qua Kế hoạch số 15-KH/TWĐTN-TNNT ngày 22 tháng 02 năm 2018 như: xây dựng

ứng dụng điện thoại để giới thiệu, quảng bá thương hiệu sản phẩm cho thanh niên; hỗ trợ thanh niên về kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh. Thúc đẩy, hỗ trợ thanh niên trong liên kết sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh việc thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác thanh niên. Hỗ trợ thanh niên tiếp cận tín dụng; hỗ trợ thanh niên xây

dựng chuỗi giá trị; tổ chức cho thanh niên tham gia chuỗi “5S”; thành lập Câu lạc bộ

77

Thanh niên nông thôn khởi nghiệp tham gia sanytuongkhoinghiep.com do Trung tâm

Hỗ trợ phát triển thanh niên nông thôn quản lý.

Gần đây nhất, Trung ương Đoàn đã ban hành Đề án “Thanh niên khởi nghiệp giai đoạn 2019-2022” kèm theo Quyết định số 223-QĐ/TWĐTN-ĐKTHTN ngày 10 tháng 4 năm 2019. Đề án này tập trung hỗ trợ ba nhóm đối tượng thanh niên với các nội dung trọng tâm hỗ trợ như: Hỗ trợ các sáng kiến, ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng; đối với thanh niên nông thôn có nhu cầu khởi nghiệp sẽ được hỗ trợ thông qua các dự án, đề án trong lĩnh vực đổi mới,

sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; doanh nhân trẻ, chủ doanh nghiệp, thanh niên đô thị, cơ sở sản xuất kinh doanh trong độ tuổi thanh niên mới đăng ký kinh doanh sẽ được hỗ trợ về quản trị doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo, tiên phong

hội nhập.

Tuy vậy, Việt Nam hiện vẫn đang được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ KSKD rất thấp so với các nước trong khu vực (Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên, 2015). Theo đánh giá của GERA (2013) tỉ lệ người trưởng thành ở Việt Nam có ý định

KSDN trong thời gian năm tới cũng ở mức rất thấp (24,1%), thấp hơn mức trung bình là 44,7% so với các nước phát triển. Kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thanh Điền (2014) cho thấy một thực trạng về trình độ của người khởi sự kinh doanh ở Việt Nam hiện nay là: phần lớn người KSKD có trình độ học vấn thấp trong khi những người có

cơ hội khởi sự kinh doanh với trình độ cao hơn lại hướng đến việc đi làm thuê. Số liệu khảo sát về tình trạng việc làm của thanh niên ở Việt Nam được Tổng cục thống kê công bố qua các năm cho thấy: năm 2010 số lượng người có trình độ đại học ở độ tuổi

21–29 thất nghiệp chỉ chưa đầy 60.000 người, nhưng đến năm 2013 số người thất nghiệp có trình độ đại học ở độ tuổi dưới 30 đã tăng lên thành 101.000 người. Còn theo các kết quả thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam, tính đến tháng 7 năm 2014, số lượng người có trình độ đại học trở lên thất nghiệp trên cả nước đã tăng

lên khoảng 162.400 người, trong đó tỉ lệ lao động từ 20 - 24 tuổi có trình độ đại học thất nghiệp trên cả nước lên tới 20%. Điều này cho thấy tình trạng thất nghiệp ở sinh viên nói riêng và thanh niên nói chung đang ngày càng gia tăng. Thực trạng này phản ánh

mức độ chưa cao trong hoạt động khởi sự kinh doanh của thanh niên ở Việt Nam nhưng đồng thời cũng chỉ ra cơ hội cho việc thúc đẩy hoạt động KSKD không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trường và phát triển kinh tế mà còn giải quyết việc làm cho nền kinh tế, đặc biệt là đối tượng thanh niên.

78

Số liệu khảo sát về tinh thần KSKD trong Báo cáo khởi nghiệp toàn cầu của Amway1 cho thấy Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có quan điểm rất tích cực đối với hoạt động khởi nghiệp. Theo như số liệu thống kê của Amway, chỉ số tinh thần khởi nghiệp (AESI) của Việt Nam liên tục tăng từ mức 77% (2015) lên 81% (2016) và 84% (2018).

Bảng 4.1: Mức độ sẵn sàng khởi nghiệp của Việt Nam

Nội dung các phát biểu Tỉ lệ số người tham gia trả lời đồng ý (%) Năm Năm Năm

2015 2016 2018

89 91 92 Bắt đầu hoạt động kinh doanh riêng là một cơ hội nghề nghiệp đáng mong ước

67 74 83 Gia đình hoặc bạn bè không bao giờ ngăn cản tôi bắt đầu hoạt động kinh doanh riêng

Tôi có đủ kỹ năng và nguồn lực cần thiết để bắt đầu 75 79 77 hoạt động kinh doanh riêng

AESI 77 81 84

Nguồn: Defining the Entrepreneurial Spirit, Amway Global Entrepreneurship Report 2015, 2016, 2018, tác giả tự tổng hợp.

Số liệu trên cho thấy mức độ sẵn sàng về KSKD ở Việt Nam khá cao với xấp xỉ

trên dưới 90% số người được khảo sát cho rằng bắt đầu hoạt động kinh doanh riêng là một cơ hội nghề nghiệp đáng mong ước. Sự tự tin ở người Việt cũng ở mức khá cao khi đánh giá về tiềm năng KSKD với khoảng 80% số người được phỏng vấn cho rằng bản thân họ có đủ kỹ năng và nguồn lực cần thiết để bắt đầu hoạt động kinh doanh

riêng, tỉ lệ này tăng qua các năm khảo sát, trong khi đó, con số trung bình toàn cầu là dưới 50% và liên tục giảm (năm 2015: 47%, năm 2016: 46% và năm 2018: 43%).

Nhìn về bức tranh chung tình hình khởi nghiệp ở Việt Nam theo số liệu điều tra của VCCI và USAID năm 2016, có thể thấy phần lớn chủ doanh nghiệp khởi nghiệp

trong độ tuổi 30 với tỉ lệ 72% chủ doanh nghiệp có độ tuổi từ 30 trở lên. Trong khi đó, tỉ lệ người trẻ dưới 30 khởi nghiệp chỉ chiếm 28%. Về trình độ học vấn, đa phần các chủ doanh nghiệp khởi nghiệp trong vòng 3 năm đều có bằng đại học với tỉ lệ đạt 84%.

1 Khảo sát tại 44 quốc gia, với các cuộc phỏng vấn trực tiếp và qua điện thoại được thực hiện với gần 50.000 đàn ông và phụ nữ trong độ tuổi 14-99.

Khát vọng làm chủ là động lực khởi sự kinh doanh lớn nhất của người Việt, trong đó có 59% muốn độc lập tài chính và 41% muốn tự làm chủ.

79

Những con số nêu trên cho thấy thanh niên khởi nghiệp chủ yếu khi đã ở độ

tuổi trưởng thành (chuẩn bị hết độ tuổi thanh niên theo quy định của pháp luật). Đồng thời, chân dung xã hội của những người khởi nghiệp đa phần đã tốt nghiệp đại học, nghĩa là họ ở ngưỡng tuổi từ khoảng 21-22 tuổi trở lên và đã trải qua ít nhất một công việc khác trong khoảng hơn 5 năm. Như vậy, tình hình khởi nghiệp của giới trẻ ở nước ta trong thời gian qua còn khá thấp. Do đó, việc thúc đẩy tinh thần khởi sự kinh doanh của thanh niên, hướng tới xây dựng Quốc gia khởi nghiệp, rất đáng quan tâm trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế hiện nay.

4.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

4.2.1 Đặc điểm của mẫu nghiên cứu

Với 1500 phiếu hỏi được gửi đến đối tượng khảo sát, sau khi thu lại và tiến hành xử lý dữ liệu, 1298 phiếu được xác định là hợp lệ, trả lời đầy đủ các nội dung thông tin và có thể sử dụng vào phân tích định lượng. Như vậy kích thước mẫu khảo sát của nghiên cứu gồm 1298 thanh niên được lấy từ 9 tỉnh/ thành phố đại diện trong cả nước. Mẫu được chọn có kiểm soát cơ cấu để đảm bảo tính đại diện về vùng miền,

khu vực và một số đặc trưng khác của thanh niên Việt Nam. Đặc trưng của mẫu khảo sát được trình bày cụ thể trong Bảng 4.2 dưới đây:

Bảng 4.2. Đặc trưng của mẫu khảo sát

Đặc điểm Biểu hiện Số lượng (người) Tỷ trọng (%)

Nam 701 54/,0 Giới tính Nữ 597 46,0

Sinh viên 472 36,4

Tình trạng nghề nghiệp Đã đi làm 826 63,6

Trung cấp 182 14,1

Trình độ học vấn Cao Đẳng 320 24,8

Đại học và thạc sĩ 786 61,1

Dưới 1 năm 542 41,8

1-3 năm 364 28,0

Kinh nghiệm làm việc 3-5 năm 194 14,9

Từ 5 năm trở lên 198 15,3

Hải Dương 82 6,3 Địa bàn Nghệ An 96 7,4

80

Đặc điểm Biểu hiện Số lượng (người) Tỷ trọng (%)

Đà Nẵng 71 5,5

Bến Tre 98 7,6

Đồng Tháp 126 9,7

Bình Định 54 4,2

Tp.HCM 381 29,4

Bắc Ninh 79 6,1

Hà Nội 248 19,1

Bắc Giang 63 4,9

Tự kinh doanh 173 13,3

89 6,9 Nghề nghiệp của Bố Làm nhân viên kinh doanh trong DN

Khác 1036 79,8

Tự kinh doanh 182 14,0

64 5,0 Nghề nghiệp của Mẹ Làm nhân viên kinh doanh trong DN

Khác 1052 81,0

Nguồn: Tổng hợp kết quả xử lý dữ liệu của tác giả

Như vậy, xét về giới tính thì tỷ trọng nam và nữ không chênh lệch quá nhiều, với tỉ lệ nam thanh niên là 54% và nữ là 46%. Về nghề nghiệp, tỉ lệ đã đi làm chiếm gần 2/3. Về trình độ học vấn, chủ yếu có trình độ từ đại học trở lên (chiếm khoảng 61,1%). Về kinh nghiệm

làm việc, do ở độ tuổi thanh niên nên thanh niên được chọn trong mẫu khảo sát này chủ yếu là những người còn ít kinh nghiệm làm việc (dưới 1 năm kinh nghiệm hoặc 1 – 3 năm kinh nghiệm). Về nghề nghiệp của bố/mẹ, tỉ lệ những người có bố/mẹ tự kinh doanh là 13,3% - 14%; làm nhân viên kinh doanh trong doanh nghiệp là 4,0% - 5,9%; làm quản lý doanh

nghiệp là 0,9%; đa số người trả lời có bố/mẹ hoạt động trong lĩnh vực khác (79,8% - 81%).

Về địa bàn khảo sát, mẫu khảo sát gồm thanh niên hiện đang sinh sống, làm việc ở 10 tỉnh/thành phố (phân bố ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam); trong đó 2 thành phố

lớn là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh chiếm tỷ trọng cao nhất trong mẫu khảo sát. Về khu vực, tỉ lệ thanh niên sinh sống tại khu vực nông thôn là 46,1% và ở đô thị là 53,9%.

Với quy mô và đặc trưng của mẫu khảo sát được phân tích ở trên, mẫu nghiên

cứu này đủ điều kiện để thực hiện các phân tích định lượng tiếp theo.

81

4.2.2 Kiểm định thang đo

4.2.2.1 Kiểm định độ tin cậy của thang đo các yếu tố trong mô hình

Trước khi tiến hành phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên, tác giả đánh giá độ tin cậy các thang đo đã được xây dựng trong nghiên cứu thông qua hệ số Cronbach’s Alpha của từng nhóm biến quan sát thuộc các nhân tố. Kết quả thu được như sau:

a. Thang đo biến phụ thuộc “Dự định khởi sự kinh doanh - DDK”

Cronbach’s Alpha của thang đo về “Dự định khởi sự kinh doanh” – DDK với 6 biến quan sát là 0,676 đạt mức đủ tin cậy, tuy nhiên biến DDK6 có hệ số tương quan biến-tổng là 0,17 (<0,3) và Cronbach’s Alpha nếu loại biến này 0,715, do đó biến này

bị loại khỏi thang đo. Tiếp tục kiểm tra độ tin cậy của thang đo với 5 biến quan sát, kết quả cho thấy biến DDK3 có hệ số tương quan biến tổng là 0,142 và Cronbach’s Alpha nếu loại biến này là 0,787 đạt giá trị cao hơn so với hệ số Cronbach’s Alpha của thang

đo. Vì vậy, biến này tiếp tục bị loại khỏi thang đo. Thang đo còn lại 4 biến quan sát và Cronbach’s Alpha là 0,787 đạt yêu cầu, các biến quan sát đều có hệ số tương quan cao, thể hiện mối tương quan mạnh với thang đo. Hệ số tương quan biến-tổng và hiệp phương sai trung bình giữa các biến quan sát đều đạt giá trị trên 0,5. Cronbach’s Alpha

nếu loại biến đều thấp hơn so với giá trị Cronbach’s Alpha của thang đo. Như vậy thang đo đảm bảo độ tin cậy.

Biến số

Cronbach's alpha nếu loại biến

Hệ số tương quan biến - tổng

Hiệp phương sai trung bình giữa các biến quan sát

Cronbach's alpha DDK=0,787

DDK1

0,554

0,328

0,756

DDK2

0,567

0,341

0,749

DDK4

0,616

0,449

0,724

DDK5

0,644

0,474

0,709

Bảng 4.3. Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Dự định khởi sự kinh doanh – DDK” dựa vào Cronbach’s Alpha

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả với SPSS.

b. Thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh

Kết quả phân tích hệ số Cronbach’s Alpha cho các thang đo của biến độc lập gồm “Thái độ đối với khởi nghiệp”-TDK, “Thái độ đối với tiền bạc”-TDT, “Chuẩn

82

chủ quan”- CCQ, “Giáo dục khởi sự kinh doanh”-GDK, “Nhu cầu thành tích”-NCT

cho thấy các thang đo này đều đảm bảo độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha tương ứng là: 0,85; 0,729; 0,841; 0,791; 0,836 (chi tiết xem phụ lục 2). Có 3 thang đo cần điểu chỉnh loại bỏ biến quan sát thiếu tính nhất quán với thang đo (biến rác) là thang đo “Nhận thức kiểm soát hành vi”- KSH, Thang đo “Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh”- KNK và Thang đo “Chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD”- CSC; cụ thể như sau:

Thang đo “Nhận thức kiểm soát hành vi”- KSH gồm 6 biến quan sát với hệ số

Cronbach’s Alpha là 0,749. Biến KSH5 có hệ số tương quan biến tổng là 0,286 và Cronbach’s Alpha khi loại biến là 0,765 không phù hợp để giữ lại trong thang đo này. Như vậy, thang đo “Nhận thức kiểm soát hành vi” còn lại 5 biến quan sát.

Thang đo “Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh”- KNK gồm 3 biến quan sát với hệ số Cronbach’s Alpha là 0,82. Biến KNK1 có hệ số Cronbach’s Alpha khi loại biến là 0,856 do đó cũng bị loại khỏi thang đo này.

Thang đo “Chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD”- CSC có 4 biến quan

sát với hệ số Cronbach’s Alpha là 0,578 tuy nhiên, biến CSC4 bị loại khỏi thang đo do hệ số tương quan biến-tổng là 0,227 (<0,3) và hệ số Cronbach’s Alpha khi loại biến là 0,617. Kết quả Cronbach’s Alpha khi loại biến này ra khỏi thang đo CSC cho thấy biến CSC3 tiếp tục bị loại do hệ số tương quan biến tổng là 0,253 và hệ số Cronbach’s

Alpha khi loại biến là 0,757.

Bảng 4.4. Tổng hợp kết quả phân tích độ tin cậy thang đo các nhân tố trong mô hình

Nhân tố

Chuẩn chủ quan - CCQ

Thái độ đối với khởi nghiệp –TDK

Thái độ đối với tiền bạc – TDT

Nhu cầu thành tích – NCT

Nhận thức kiểm soát hành vi – KSH

Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh – KNK

Giáo dục khởi sự kinh doanh - GDK

Chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD – CSC

5

3

3

5

6

5

2

2

Số biến quan sát sử dụng

0,850

0,729

0,841

0,791

0,836

0,765

0,856

0,757

Hệ số Cronbach’s Alpha

Nguồn: Tổng hợp xử lý dữ liệu của tác giả với SPSS.

83

Như vậy, sau khi điều chỉnh các thang đo “Dự định khởi sự kinh doanh”, “Nhận

4.2.2.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

thức kiểm soát hành vi”, “Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh” và “Chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD”, kết quả phân tích độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s alpha cho thấy các thang đo đã đảm bảo độ tin cậy và có thể sử dụng cho các phân tích tiếp theo.

a. Biến phụ thuộc “Dự định khởi sự kinh doanh” - DDK

Kết quả phân tích EFA với tập biến quan sát “Dự định khởi sự kinh doanh” cho

thấy: hệ số KMO là 0,733 và tổng phương sai trích đạt tỉ lệ 61,10%, đồng thời các biến quan sát của biến DDK đều hội tụ về 1 nhân tố. Chi tiết ở phụ lục 3.

Bảng 4.5. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của biến phụ thuộc DDK

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. ,733

Approx. Chi-Square 1564,73

Bartlett's Test of Sphericity Df 6

Sig. ,000

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

b. Phân tích EFA với tập biến quan sát của các thang đo biến độc lập

Tác giả sử dụng phân tích EFA đối với các biến số độc lập với ngưỡng giá trị đặc trưng của ma trận (Eigen value) = 1 và hệ số tải nhân tố (factor loading) = 0,5. Kết quả phân tích EFA lần 1 cho các biến độc lập cho thấy 7 nhân tố được trích tại Eigen

value = 1,085, KMO-Meyer là 0,925 và tổng phương sai trích của 7 nhóm nhân tố giải thích 61,66% sự biến thiên của dữ liệu. Tuy nhiên, các biến quan sát CSC1, CSC2 và KSH6 đều có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,5 và phân tán ở hai nhóm nhân tố khác nhau.

Do đó, thủ tục EFA được lặp lại sau khi bỏ dần các biến quan sát CSC2, KSH6, CSC1. Kết quả phân tích EFA lần cuối cùng như sau:

Bảng 4.6. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của các biến độc lập

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. ,919

Approx. Chi-Square 15655,220

378 Bartlett's Test of Sphericity Df

,000 Sig.

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

84

Như vậy, sau khi chạy EFA lần cuối, kết quả cho thấy hệ số KMO đạt 0,919 và

tổng phương sai trích của 7 nhóm nhân tố giải thích 64,26% sự biến thiên của dữ liệu.

85

Bảng 4.7. Ma trận nhân tố xoay cho tất cả các biến quan sát

Nhân tố

NCT

TDK

GDK

KSH

CCQ

TDT

KNK

NCT4

0,762

NCT6

0,720

NCT5

0,718

NCT1

0,665

NCT2

0,642

NCT3

0,623

TDK2

0,739

TDK3

0,737

TDK5

0,731

TDK4

0,727

TDK1

0,574

GDK3

0,748

GDK4

0,715

GDK1

0,695

GDK2

0,660

GDK5

0,535

KSH1

0,789

KSH3

0,764

KSH4

0,691

KSH2

0,629

CCQ2

0,773

CCQ3

0,767

CCQ1

0,746

TDT2

0,809

TDT1

0,729

TDT3

0,676

KNK2

0,845

KNK3

0,835

Phương pháp xoay: Principal Component Analysis.

Phép xoay: Varimax with Kaiser Normalization.

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả.

86

Kết quả phân tích EFA cuối cùng với tập biến quan sát cho thấy các biến quan sát

hội tụ về 7 nhân tố lần lượt như sau: Nhu cầu thành tích (NCT), Thái độ với KSKD (TDK), Giáo dục KSKD (GDK), Nhận thức kiểm soát hành vi (KSH), Chuẩn chủ quan (CCQ), Thái độ với tiền bạc (TDT) và Kinh nghiệm KSKD (KNK). Như vậy sau khi phân tích EFA, các biến quan sát của thang đo Chính sách hỗ trợ của Chính phủ (CSC) bị loại bỏ do không đảm bảo hệ số tải nhân tố theo yêu cầu. Vì vậy, yếu tố này sẽ không đưa vào xem xét trong mô hình, đồng thời sẽ không xuất hiện ở các thủ tục chạy phân tích CFA và SEM tiếp theo. Trên thực tế, đối tượng khảo sát của nghiên cứu này là thanh niên có tuổi đời còn khá

trẻ, các kiến thức về kinh tế vĩ mô chưa nhiều, đa số họ chưa có nhiều trải nghiệm thực tiễn về quá trình KSKD. Thêm vào đó, các vấn đề chính sách về KSKD còn mới, đang được nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện nên hầu như các đối tượng khảo sát chưa có cảm nhận

4.2.2.3 Phân tích nhân tố khẳng định (CFA)

chính xác với các phát biểu liên quan đến yếu tố này. Điều đó làm cho các phản hồi về yếu tố Chính sách hỗ trợ của Chính phủ (CSC) chưa đảm bảo tính nhất quán (độ tin cậy thang đo thấp) và các biến quan sát có tính hội tụ kém khi phân tích EFA.

Tập biến quan sát của thang đo DDK được đưa vào cùng tập biến quan sát của thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh trong mô hình để thực hiện EFA trước khi thực hiện thủ tục CFA. Phương pháp trích nhân tố được sử dụng là Principal Axis Factoring với phép xoay Promax, hệ số tải nhân tố là 0,5(2). Kết quả EFA lần đầu cho thấy 2 biến quan sát TDK1 và GDK5 có hệ số tải nhân tố thấp hơn 0,5 nên được loại lần lượt ra khỏi mô hình trước khi thực hiện CFA. Sau khi loại bỏ hai biến quan

sát không phù hợp, kết quả EFA lần cuối cho hệ số KMO = 0,923, đồng thời hệ số Sig của kiểm định Barlett rất nhỏ cho thấy các biến quan sát tương quan với nhau có ý nghĩa thống kê, tổng phương sai trích có giá trị bằng 54,86% và các hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,5 chứng tỏ các biến quan sát đạt độ tin cậy cho phân tích nhân tố. Như vậy, tập biến trong

(2) Theo Hair & ctg (1998,111), Factor loading là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA (ensuring practical significance). Factor loading ≥ 0,5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn.

mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh còn lại 30 biến quan sát hội tụ tại 8 nhân tố, bao gồm các nhân tố: NCT (6 biến quan sát), TDK (4 biến quan sát), KSH (4 biến quan sát), GDK (4 biến quan sát), CCQ (3 biến quan sát), TDT (3 biến quan sát), KNK (2 biến quan sát) và DDK (4 biến quan sát). Các nhân tố này sẽ được đưa vào phân tích nhân tố khẳng định (CFA) trước khi thực hiện phân tích mô hình.

87

Nhân tố

NCT

TDK

DDK

KSH

GDK

CCQ

TDT

KNK

0,818

NCT4

0,726

NCT6

0,721

NCT5

0,621

NCT1

0,560

NCT3

0,550

NCT2

0,860

TDK4

0,804

TDK3

0,681

TDK5

0,642

TDK2

0,781

DDK4

0,768

DDK5

0,611

DDK2

0,605

DDK1

0,735

KSH1

0,679

KSH3

0,590

KSH2

0,586

KSH4

0,736

GDK3

0,679

GDK1

0,677

GDK4

0,647

GDK2

0,843

CCQ2

0,785

CCQ3

0,728

CCQ1

0,822

TDT2

0,647

TDT1

0,507

TDT3

0,861

KNK2

0,836

KNK3

Phép xoay: Principal Axis Factoring. Phương pháp xoay: Promax with Kaiser Normalization.

Bảng 4.8. Bảng ma trận nhân tố đã xoay

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả.

88

Kết quả phân tích lần đầu cho thấy mặc dù các kết quả Modeal Fit đều tốt

nhưng có một biến KSH2 có trọng số hồi quy đã chuẩn hóa là 0,428 thấp hơn 0,5 nên được loại bỏ khỏi thang đo và tiến hành phân tích lại CFA.

Kết quả Model Fit trong phân tích CFA lần cuối cho thấy: chỉ số CMIN/DF = 4,05 < 5, các chỉ số GFI, CFI và TLI đều lớn hơn 0,9; giá trị RMSEA = 0,048 < 0,08, do đó mô hình nghiên cứu đề xuất là đáng tin cậy, phù hợp với dữ liệu khảo sát (Theo Hair, J., Black, W., Babin, B., and Anderson, R. (2010)). Kết quả phân tích CFA thể hiện ở các hình 4.1 (mô hình ước lượng chuẩn hóa) dưới đây.

Hình 4.1. Kết quả phân tích mô hình ước lượng chuẩn hóa

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

89

Kết quả phân tích cho thấy các trọng số đã chuẩn hóa đều cao hơn 0,5, đồng

thời các trọng số chưa chuẩn hóa (phụ lục 4) đều có ý nghĩa thống kê nên các thang đo khái niệm đạt giá trị hội tụ (3). Kết quả ở các bảng hiệp phương sai, hệ số tương quan giữa các biến và phương sai của các biến cho thấy các trị số đều đảm bảo, P_value rất thấp, hệ số tương quan của từng cặp khái niệm khá thấp do đó các khái niệm đạt được giá trị phân biệt.

Bảng 4.9. Kết quả tính Độ tin cậy tổng hợp và Tổng phương sai trích

TT

Nhân tố

Pc (ĐTC tổng hợp)

Pvc (Tổng PS trích)

0,84

1

NCT

0,47

0,85

2

TDK

0,59

0,77

3

KSH

0,53

0,80

4

GDK

0,50

0,79

5

DDK

0,49

0,84

6

CCQ

0,64

0,86

7

KNK

0,75

0,74

8

TDT

0,49

Nguồn: Tính toán từ kết quả phân tích CFA.

Kết quả tính toán Độ tin cậy tổng hợp, và Tổng Phương sai trích ở Bảng 4.9 cho thấy: Các thang đo đều có độ tin cậy tổng hợp từ 0,74 đến 8,5 (lớn hơn 0,6); đa số các thang đo có tổng phương sai trích > 0,5. Do đó, về cơ bản các thang đo đã đạt giá trị phân biệt (Fornell và Lacker, 1981; Bagozzi &Yi, 1998; Hair, 1998).

Như vậy, việc kiểm định mức độ phù hợp của mô hình nghiên cứu thông qua các chỉ số và các kiểm định về độ tin cậy của thang đo, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt cho phép khẳng định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu với dữ liệu điều tra. Đồng thời, các khái niệm có thể sử dụng tốt trong phân tích mô hình cấu trúc (SEM) ở

phần sau.

4.2.3 Phân tích thống kê mô tả các thang đo trong mô hình

(3) Gerbring & Anderson (1988) cho rằng thang đo đạt được giá trị hội tụ khi các trọng số chuẩn hóa của thang đo đều cao (>0,5) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Để xem xét các yếu tố trong mô hình nghiên cứu được đánh giá ở mức độ nào, tác giả sử dụng các thống kê mô tả để đánh giá quan điểm của thanh niên với các biến quan sát của thang đo yếu tố trong mô hình và tổng hợp trong Bảng 4.10 dưới đây.

90

Bảng 4.10. Tổng hợp kết quả thống kê mô tả các biến quan sát của thang đo yếu tố trong mô hình nghiên cứu

Biến quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Kí hiệu

Trung bình chung yếu tố

TDK2 Trở thành doanh nhân hấp dẫn đối với tôi

3,63

1,11

Số quan sát 1298

1298

3,88

1,05

TDK3

Nếu có cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ thành lập doanh nghiệp riêng

3,71

1298

3,72

1,04

TDK4

Trở thành chủ doanh nghiệp sẽ làm cho tôi rất hài lòng

1298

3,62

1,08

TDK5

Trở thành doanh nhân/chủ một doanh nghiệp luôn là đam mê, định hướng nghề nghiệp của tôi

1298

3,77

1,11

TDT1

Với tôi, thu nhập cao là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá mức độ thành công của cá nhân.

3,59

TDT2

1298

3,61

1,05

Điều quan trọng với tôi là làm sao kiếm được thật nhiều tiền

TDT3

1298

3,40

1,11

Tiền là thước đo quan trọng đối với năng lực cá nhân

CCQ1

1298

3,64

1,05

Bạn bè tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

3,62

CCQ2

1298

3,66

1,07

Gia đình tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

CCQ3

1298

3,57

1,03

Những người xung quanh tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

KSH1

1298

2,75

1,15

Việc mở công ty và điều hành công ty là dễ dàng/ không khó với tôi

1298

3,09

1,09

KSH3

3,02

Tôi nắm bắt/ kiểm soát được quá trình thành lập một doanh nghiệp mới

1298

3,22

1,06

KSH4

Nếu thành lập công ty riêng, khả năng cao tôi sẽ thành công

1298

3,62

1,07

GDK1

Khởi sự kinh doanh nên được dạy ở trường phổ thông/ đại học

3,60

GDK2

1298

3,55

1,12

Nếu có cơ hội tôi sẽ chuyển sang học chuyên ngành khởi sự kinh doanh

1298

3,85

1,05

GDK3

Khởi sự kinh doanh nên là khóa học bắt buộc để khích lệ tinh thần khởi nghiệp trong

91

Biến quan sát

Trung bình

Kí hiệu

Độ lệch chuẩn

Số quan sát

Trung bình chung yếu tố

trường học.

1298

3,36

1,14

GDK4

Trường học có nhiều hơn các chương trình đào tạo về kinh doanh và khởi sự kinh doanh sẽ giúp sinh viên khởi nghiệp tốt hơn.

1298

3,55

1,03

KNK2

Các hoạt động kinh doanh trong quá khứ của tôi đã chuẩn bị cho tôi suy nghĩ về việc bắt đầu một doanh nghiệp

3,54

1298

3,52

1,08

KNK3

Một người bạn thành công trong kinh doanh đã cho tôi lý do để suy nghĩ về việc bắt đầu kinh doanh của riêng mình

1298

3,90

1,02

NCT1

Tôi là người luôn muốn đạt được thành tích cao trong công việc và thành công trong sự nghiệp

NCT2

1298

3,83

0,99

Với tôi, thất bại là sự hình thường trong kinh doanh

1298

3,70

1,08

NCT3

Tôi cho rằng thành công hay thất bại là do bản thân mình chứ không phải do người khác và hoàn cảnh

3,87

NCT4

1298

3,97

1,01

Tôi thích hoàn thành mục tiêu mà mình đã đề ra (hoặc các nhiệm vụ được cấp trên giao)

NCT5

1298

3,90

0,99

Khi có thời gian, tôi sẽ trở lại những công việc chưa hoàn thành và kết thúc chúng

1298

3,90

0,98

NCT6

Tôi thường dành nhiều thời gian để tìm hiểu những điều mới mẻ trong công việc/ cuộc sống

Nguồn: Tổng hợp xử lý dữ liệu thống kê mô tả của tác giả.

Kết quả thống kê mô tả này cho thấy trong hầu hết các yếu tố, các đối tượng trả lời đều thể hiện mức độ đồng ý tương đối cao; trừ yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi (KSH) có xu hướng đồng ý ở mức trung bình. Như vậy, thanh niên trong mẫu khảo sát có xu hướng thể hiện sự đồng tình tương đối cao với các phát biểu về Thái độ đối với KSKD, Thái độ với tiền bạc, Chuẩn chủ quan, Giáo dục KSKD, Nhu cầu thành tích. Và trong các yếu tố này, yếu tố Nhu cầu về thành tích nhận được xu hướng đồng tình cao nhất (3.87 điểm).

92

Bảng 4.11. Thống kê mô tả với các biến quan sát của thang đo dự định khởi sự kinh doanh (DDK)

Mã biến

Biến quan sát

Số quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

DDK1

1298

3,166

1,1449

Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân

DDK2

1298

3,710

1,0716

Tôi sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình

DDK4

1298

3,284

1,1029

Tôi quyết định sẽ thành lập công ty trong tương lai

DDK5

1298

3,369

1,1476

Mục tiêu nghề nghiệp của tôi là trở thành một doanh nhân

1298

3,382

0,873

DDKchung Dự định khởi sự kinh doanh

Nguồn: Tổng hợp xử lý dữ liệu của tác giả với SPSS

Kết quả thống kê mô tả từ Bảng 4.11 đã cho thấy mong muốn KSKD của thanh niên nhìn chung ở mức trung bình. Kết quả cũng chỉ ra trong khi mức độ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân và quyết định thành lập công ty trong tương lai chỉ thể hiện ở mức trung bình thì ý kiến: dự định sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình lại nhận được sự đồng tình của thanh niên khá cao. Điều đó cho thấy, đa số họ chưa có một hoạch định chắc chắn về KSKD, chưa đủ khao

khát sẵn sàng KSKD; và ý định trở thành Doanh nhân trong tương lai chưa rõ ràng nhưng về thái độ, họ đã có ý thức và có niềm tin về KSKD. Điều đó có nghĩa rằng nếu có cơ hội, họ sẽ nỗ lực để bắt đầu và duy trì một công việc kinh doanh của bản thân.

Xử lý dữ liệu khảo sát đã cho thấy 45,7% thanh niên được hỏi xác định “mục tiêu nghề nghiệp là trở thành một doanh nhân” và 20,3% không có ý định này. Việc xác lập mục tiêu nghề nghiệp rõ ràng là tiền đề quan trọng để thanh niên quyết định KSKD trong tương lai, đây cũng là xu hướng chiếm số đông trong khách thể thanh niên được khảo sát.

Kết quả này cũng khá tương đồng với một số nghiên cứu khác tương tự về mong muốn KSKD của thanh niên như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy (2014) chỉ ra tỉ lệ sinh viên xác định “KSKD là mục tiêu của cuộc đời mình” chiếm 51,6%; ở trong nghiên cứu này tỉ lệ trả lời ở nhóm sinh viên tham gia khảo sát là 45,8%.

Thái độ với việc “quyết định sẽ thành lập công ty trong tương lai” chiếm số đông thanh niên tham gia khảo sát đồng tình (với 40,6%), trong khi tỉ lệ những người không có dự định này là 20,3%. Điều này phản ánh mong muốn được kinh doanh và tự làm chủ của thanh niên là tương đối lớn.

93

Thái độ quyết tâm của thanh niên đối với việc “sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân” chỉ ở mức trung bình; trong đó, tỷ lệ đồng tình là 34,9% và tỷ lệ không đồng tình là 24,7%. Điều đó cho thấy, mặc dù có mong muốn khởi sự kinh doanh nhưng phần lớn thanh niên chưa thể hiện được sự sẵn sàng, quyết tâm cao. Đây cũng là tâm lý chung thể hiện sự e dè của thanh niên trước những quyết định mang tính chất bước ngoặt lớn trong cuộc đời, thậm chí có cả sự mạo hiểm và rủi ro khởi nghiệp.

4.2.4. Phân tích sự khác biệt về dự định khởi sự kinh doanh theo một số đặc điểm cơ bản của thanh niên Việt Nam

4.2.4.1. Theo giới tính

Đặc điểm về giới tính có thể ảnh hưởng đến các hành vi của con người nói chung. Điều này đã được chỉ ra ở nhiều nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, nhằm làm rõ sự khác biệt về dự định KSKD của thanh niên theo giới tính, tác giả sẽ so sánh, kiểm định trung bình của thang đo DDK theo 2 nhóm nam và nữ. Kết quả phân tích cho ở Bảng 4.12 dưới đây.

Bảng 4.12. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo đặc điểm giới tính

So sánh

Biến

Thống kê F

Giá trị P

Bậc tự do

Giữa các nhóm

Tổng bình phương chênh lệch 6,662

1

Sai số toàn phương trung bình 6,662

5,099

,024

DDK1

Trong các nhóm

1693,393

1296

1,307

Chung

1700,055

1297

Giữa các nhóm

7,327

6,406

,011

1

7,327

DDK2

Trong các nhóm

1482,175

1296

1,144

Chung

1489,502

1297

Giữa các nhóm

12,411

1

12,411

10,276

,001

DDK4

Trong các nhóm

1565,256

1296

1,208

Chung

1577,667

1297

Giữa các nhóm

10,187

1

10,187

7,775

,005

DDK5

Trong các nhóm

1698,048

1296

1,310

Chung

1708,235

1297

Giữa các nhóm

9,004

1

9,004

11,915

,001

DDKchung

Trong các nhóm

979,336

1296

,756

Chung

988,340

1297

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả.

94

Kết quả phân tích này đã cho thấy, xét theo giới tính, nam thanh niên có xu

hướng dự định KSKD khác so với nữ giới. Thống kê trung bình biến DDKchung của nhóm nam cao hơn so với nữ ((cid:1)(cid:2)Nam=3,46; (cid:1)(cid:2)Nữ=3,29; sig.=0,001). Trong các phát biểu liên quan đến dự định KSKD: “Tôi sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình”, “Tôi đã quyết định sẽ thành lập công ty trong tương lai”, “Mục tiêu nghề nghiệp của tôi là trở thành một doanh nhân”, “Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân”, điểm trung bình mức độ đồng tình của nam đều cao hơn so với nữ. Kết quả kiểm định sự khác biệt cho thấy điểm trung bình mức độ đồng tình của nhóm thanh niên nam và nữ là có sự khác nhau rõ rệt ở tất cả các

4.2.4.2 Về trạng thái nghề nghiệp của thanh niên

biến quan sát trong thang đo DDK.

Trạng thái nghề nghiệp của thanh niên có thể tác động đến tư tưởng, thái độ và

hành vi đối của họ đối với KSKD. Vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả muốn xem xét liệu có sự khác nhau về dự định KSKS giữa 2 nhóm thanh niên đã đi làm thực tế và nhóm thanh niên là sinh viên còn đang học? Kết quả phân tích này được cho bảng 4.13 sau đây.

So sánh

Biến

Thống kê F

Bậc tự do

Giá trị P

Bảng 4.13. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo trạng thái nghề nghiệp Sai số toàn phương trung bình 5,206

Tổng bình phương chênh lệch 5,206

Giữa các nhóm

3,981

1

,046

DDK1

Trong các nhóm

1694,849

1296

1,308

Chung

1700,055

1297

Giữa các nhóm

8,971

7,853

,005

1

8,971

DDK2

Trong các nhóm

1480,531

1296

1,142

Chung

1489,502

1297

1

7,298

Giữa các nhóm

7,298

6,023

,014

DDK4

Trong các nhóm

1570,370

1296

1,212

Chung

1577,667

1297

1

,259

Giữa các nhóm

,259

,196

,658

DDK5

Trong các nhóm

1707,976

1296

1,318

Chung

1708,235

1297

1

3,487

4,589

,032

Giữa các nhóm

3,487

DDKchung

Trong các nhóm

984,853

1296

,760

Chung

988,340

1297

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả.

95

Kết quả này chỉ ra có sự khác biệt (có ý nghĩa) về giá trị trung bình dự định

KSKD giữa 2 nhóm thanh niên là sinh viên (chưa công tác thực tế) và nhóm thanh niên đang đi làm, trong đó những người đã đi làm có mong muốn dự định khởi sự kinh doanh cao hơn ((cid:1)(cid:2)NĐL=3,42; (cid:1)(cid:2)SV=3,31; sig.=0,032).

Sự khác biệt cũng thể hiện trong các phát biểu về việc “sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân”-DDK1, “sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình”-DDK2, “quyết định sẽ thành lập công ty trong tương lai”-DDK4 của sinh viên đều thấp hơn so với người đã đi làm. Điều đó cũng cho thấy tư tưởng, thái độ đối với KSKD của những người đã đi làm thực tế có sự khác

4.2.4.3. Theo trình độ chuyên môn

biệt khá rõ so với các đối tượng sinh viên (đa số chưa làm việc thực tế).

Để làm rõ sự khác biệt về dự định KSKD giữa các nhóm thanh niên có trình độ

học vấn khác nhau, nghiên cứu đã thu thập thông tin về trình độ học vấn của sinh viên và tiến hành phân tích so sánh trung bình giữa các nhóm này. Kết quả so sánh trung bình giữa các nhóm trình độ cho ở Bảng 4.14 dưới đây. Kết quả nghiên cứu này sẽ trả lời câu

hỏi liệu có sự khác nhau về ý định KSKD giữa các nhóm trình độ học vấn không?

Bảng 4.14. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nhóm trình độ chuyên môn

So sánh

Biến

Thống kê F

Giá trị P

Bậc tự do

Sai số toàn phương trung bình

Tổng bình phương chênh lệch

4,009

,018

DDK1

5,200 1,297

4,032

,018

DDK2

4,621 1,146

1,582

,206

DDK4

1,925 1,217

1,498

,224

DDK5

1,972 1,316

3,959

,019

DDKchung

3,010 ,760

Giữa các nhóm Trong các nhóm Chung Giữa các nhóm Trong các nhóm Chung Giữa các nhóm Trong các nhóm Chung Giữa các nhóm Trong các nhóm Chung Giữa các nhóm Trong các nhóm Chung

10,400 1666,703 1677,102 9,243 1472,993 1482,236 3,851 1563,714 1567,564 3,943 1691,619 1695,562 6,021 977,038 983,059

2 1285 1287 2 1285 1287 2 1285 1287 2 1285 1287 2 1285 1287

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả.

96

Kết quả này cho thấy có sự khác biệt (có ý nghĩa) về dự định KSKD nói chung

4.2.4.4 Theo kinh nghiệm làm việc

giữa các nhóm trình độ và rõ nhất là khác biệt giữa nhóm có trình độ sau đại học với các nhóm trình độ cao đẳng (xem phụ lục 5). Thống kê mô tả cũng cho thấy nhìn chung mức độ đồng tình về dự định KSKD của nhóm thanh niên có trình độ đại học và trên đại học cao hơn so với thanh niên có trình độ trung cấp và cao đẳng.

Kinh nghiệm làm việc thực tế cũng có thể xem xét như một yếu tố tạo ra sự

khác biệt về dự định KSKD của thanh niên. Những thanh niên có trải nghiệm làm việc thực tế nhiều hơn có thể có những kinh nghiệm và tư duy về khởi nghiệp khác so với nhóm chưa có hoặc ít kinh nghiệm làm việc.

Bảng 4.15. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo các nhóm kinh nghiệm làm việc

So sánh

Biến

Thống kê F

Giá trị P

Bậc tự do

Sai số toàn phương trung bình

Tổng bình phương chênh lệch

1,035

,376

Giữa các nhóm

4,070

3

1,357

DDK1

Trong các nhóm

1695,985

1294

1,311

Chung

1700,055

1297

3

Giữa các nhóm

8,724

2,541

,055

2,908

DDK2

Trong các nhóm

1480,778

1294

1,144

Chung

1489,502

1297

3

Giữa các nhóm

16,070

4,439

,004

5,357

DDK4

Trong các nhóm

1561,598

1294

1,207

Chung

1577,667

1297

3

Giữa các nhóm

7,230

1,833

,139

2,410

DDK5

Trong các nhóm

1701,005

1294

1,315

Chung

1708,235

1297

3

Giữa các nhóm

5,213

1,738

2,287

,077

DDKchung

Trong các nhóm

983,128

1294

,760

Chung

988,340

1297

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả.

Với kết quả phân tích ANOVA ở bảng 4.15 cho thấy dường như dự định KSKD nói chung của thanh niên không có mối liên hệ phụ thuộc với số năm kinh nghiệm làm việc thực tế của họ. Phát biểu về dự định KSKD chỉ có sự khác biệt giữa các nhóm năm kinh nghiệm ở biến “Quyết định thành lập công ty trong tương lai” – DDK4.

97

4.2.4.5 Theo vùng miền

Đặc điểm về văn hóa, lối sống và các điều kiện cơ sở hạ tầng, hệ thống đào tạo, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng - miền có những nét đặc trưng riêng. Điều đó tạo ra sự khác biệt trong tư duy, thái độ, ý định và cách thức khởi nghiệp của

thanh niên. Kết quả nghiên cứu về sự khác nhau về dự định KSKD của thanh niên ở các vùng – miền được trình bày ở Biểu đồ 4.1 dưới đây.

3,49 3,41

3,30

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

DDK1

DDK2

DDK4

DDK5

DDKchung

Biểu đồ 4.1. So sánh điểm trung bình biến dự định KSKD theo vùng miền

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả.

Nhìn từ biểu đồ có thể thấy nhìn chung thanh niên ở khu vực miền Trung có mức độ đồng tình với ý định KSKD nói chung cao hơn so với miền Bắc và miền Nam.

So sánh trung bình ở từng biến quan sát cho thấy sự quyết tâm trở thành doanh nhân và nỗ lực để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình ở nhóm miền Trung cao hơn so với miền Nam và miền Bắc. Tuy nhiên, việc quyết định thành lập công ty

(DDK4) và định hình mình là một doanh nhân trong tương lai (DDK5) thì cả 3 nhóm không có sự khác biệt nhiều.

Để kiểm định xem thực sự có sự khác biệt (có ý nghĩa thống kê) về dự định KSKD nói chung của các thanh niên giữa các vùng, tác giả tiếp tục thực hiện phân tích

ANOVA, kết quả cho ở bảng 4.16 dưới đây.

98

Bảng 4.16 Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo vùng miền

So sánh

Biến

Bậc tự do

Thống kê F

Giá trị P

Sai số toàn phương trung bình 6,789

5,213

,006

2

Giữa các nhóm

Tổng bình phương chênh lệch 13,578

DDK1

Trong các nhóm

1686,478

1295

1,302

Chung

1700,055

1297

Giữa các nhóm

35,774

17,887

15,934

,000

2

DDK2

Trong các nhóm

1453,727

1295

1,123

Chung

1489,502

1297

Giữa các nhóm

,164

,067

,935

2

,082

DDK4

Trong các nhóm

1577,503

1295

1,218

Chung

1577,667

1297

Giữa các nhóm

2,401

,911

,402

2

1,201

DDK5

Trong các nhóm

1705,834

1295

1,317

Chung

1708,235

1297

Giữa các nhóm

6,097

4,019

,018

2

3,049

DDKchung

Trong các nhóm

982,243

1295

,758

Chung

988,340

1297

Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả.

Kết quả phân tích khác biệt đã chỉ ra: Dự định KSKD nói chung (DDKchung) có sự khác biệt (có ý nghĩa thống kê) giữa các vùng miền. Cụ thể, thanh niên ở khu vực miền Bắc và miền Trung có Dự định KSKD khác nhau; và Dự định KSKD của

4.2.4.6 Theo nghề nghiệp của bố, mẹ

thanh niên ở miền Nam có sự khác biệt với thanh niên ở miền Trung; còn giữa 2 nhóm miền Bắc và Miền Nam thì chưa thấy rõ sự khác biệt này (chi tiết xem phụ lục 6)

Các quyết định chọn lựa ngành nghề đào tạo và dự định khởi nghiệp của thanh niên có thể phụ thuộc phần lớn vào điều kiện gia đình, truyền thống gia đình và định hướng của bố, mẹ. Vì tuổi đời còn trẻ nên hầu hết các thanh niên thiếu kinh nghiệm

làm việc thực tế, trước khi họ đưa ra các quyết định khởi nghiệp thường nhận được định hướng và hỗ trợ của gia đình. Bên cạnh đó, mỗi gia đình có một điều kiện khác nhau để hỗ trợ khởi nghiệp cho con em mình. Trong nghiên cứu này, tác giả muốn làm rõ sự khác nhau trong dự định KSKD của thanh niên theo nghề nghiệp của bố, mẹ .

Kết quả thống kê mô tả trung bình DDKchung của các nhóm theo nghề nghiệp của bố, mẹ được trình bày trong Biểu đồ 4.2 dưới đây.

99

3.6000

3.55

3.55

3.55

3.5500

3.51

3.5000

3.4500

3.4000

3.35

3.34

3.3500

3.3000

3.2500

3.2000

Khác

Khác

Tự kinh doanh Làm NV KD hoặc quản lý trong DN

Tự kinh doanh Làm NV KD hoặc quản lý trong DN

Nghề của Bố

Nghề của Mẹ

Biểu đồ 4.2. So sánh đánh giá về giá trung bình biến Dự định KSKD chung của thanh niên theo các nhóm nghề nghiệp của Bố và Mẹ

Nguồn: Xử lý dữ liệu của tác giả

Kết quả này chỉ ra dự định KSKD của thanh niên có thể phụ thuộc vào nghề

nghiệp của bố, mẹ; hay nói một cách khác thì truyền thống gia đình có thể tác động đến ý định KSKD của thanh niên. Để làm rõ sự khác biệt này, tác giả sử dụng phân tích ANOVA với các biến trong thang đo DDK theo các nhóm nghề nghiệp của bố/ mẹ. Kết quả được cho ở bảng 4.17 dưới đây.

Bảng 4.17. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nghề nghiệp của bố, mẹ

Các nhóm theo nghề của bố

Các nhóm theo nghề của mẹ

So sánh

Biến

Thống kê F Giá trị P

Thống kê F Giá trị P

DDK1

Giữa các nhóm

6,385

,002

5,718

,003

DDK2

Giữa các nhóm

3,027

,049

7,313

,001

DDK4

Giữa các nhóm

1,130

,323

,463

,630

DDK5

Giữa các nhóm

6,605

,001

3,957

,019

DDKchung

Giữa các nhóm

6,022

,002

5,098

,006

Kết quả kiểm định này đã chỉ rõ, nghề nghiệp của bố mẹ có tác động đến dự

định KSKD của các thanh niên. Cụ thể, thanh niên có bố, mẹ làm kinh doanh tự do và làm nhân viên Kinh doanh hoặc quản lý trong các DN có mức độ đồng tình với dự định KSKD cao hơn đáng kể so với nhóm bố mẹ có ngành nghề khác (xem thêm phụ

lục 7 và 8). Điều này hàm ý tư duy, thái độ và hành vi KSKD của thanh niên cũng phụ thuộc vào đặc điểm nghề nghiệp của bố mẹ và truyền thống gia đình họ.

100

Với các kết quả phân tích khác biệt ở trên, có thể thấy các đặc điểm về giới,

tình trạng việc làm, khu vực, trình độ học vấn, nghề nghiệp bố mẹ… là những yếu tố tạo nên sự khác biệt trong thái độ của thanh niên đối với dự định KSKD.

4.2.5 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

4.2.5.1 Kết quả phân tích mô hình cấu trúc các nhân tố tác động đến dự định KSKD của thanh niên Việt Nam

Để phân tích các mối liên hệ tác động trong mô hình nghiên cứu và khẳng định

về các giả thuyết nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng mô hình cấu trúc (SEM) và xử lý dữ liệu bằng phần mềm AMOS với bộ dữ liệu khảo sát gồm 1298 quan sát. Các tham số đánh giá sự phù hợp của mô hình được trình bày ở hình 4.2 cho thấy các chỉ số đo

lường (Model fit) cơ bản đạt ngưỡng chấp nhận (CMIN/DF = 4,74; Các chỉ số GFI = 0,911; TLI = 0,908; CFI = 0,920 đều lớn hơn 0,9 và RMSE = 0,054 < 0,08. Như vậy, mô hình kiểm định có ý nghĩa thống kê, có thể dùng để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố.

Hình 4.2. Kết quả phân tích mô hình SEM đã chuẩn hóa (mô hình ban đầu)

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

101

Bảng 4.18. Kết quả ước lượng mô hình SEM (mô hình ban đầu)

P_value

Hệ số hồi quy

Sai số

Thống kê T

Mối liên hệ

Estimate

S.E.

C.R.

P

TDK

<--- GDK

0,487

0,038

12,708

***

TDK

<--- KNK

0,276

0,029

9,394

***

DDK <--- GDK

-0,008

0,062

-0,129

0,897

DDK <--- KNK

0,152

0,036

4,238

***

DDK <--- NCT

0,204

0,053

3,852

***

DDK <--- CCQ

-0,045

0,04

-1,113

0,266

DDK <---

TDT

-0,008

0,041

-0,202

0,84

DDK <---

TDK

0,347

0,042

8,271

***

DDK <--- KSH

0,421

0,039

10,696

***

Nguồn: Tổng hợp kết quả phân tích SEM với phần mềm AMOS

Mặc dù về mô hình phù hợp với dữ liệu nghiên cứu nhưng có một số mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê (xem Bảng 4.18). Cụ thể là mối quan hệ giữa giáo dục KSKD với Dự định KSKD không có ý nghĩa thống kê (giá trị p là 0,897); tương tự, Chuẩn chủ quan (CCQ) và Thái độ với tiền bạc (TDT) cũng không có mối quan hệ với Dự định KSKD (với giá trị p lần lượt là 0,266 và 0,840). Các mối liên hệ giữa Kinh nghiệm KSKD (KNK), Nhu cầu thành tích (NCT), Thái độ với KSKD (TDK) và Nhận

thức kiểm soát hành vi (KSH) với Dự định KSKD (DDK) đều có ý nghĩa. Bên cạnh đó, Kinh nghiệm KSKD (KNK) và giáo dục KSKD (GDK) có quan hệ dương với Thái độ với KSKD (TDK) ở mức ý nghĩa thống kê 1%.

Như vậy, kết quả phân tích mô hình SEM ban đầu chưa cho thấy tác động 3 nhân tố TDT, GDK và CCQ đến DDK; biến GDK không tác động trực tiếp đến DDK nhưng nó có tác động đến TDK nên biến này sẽ được giữ lại trong mô hình điều chỉnh dưới đây (để xem xét tác động trung gian của biến TDK).

Để có kết quả ước lượng chính xác hơn, mô hình được điều chỉnh loại bỏ tất các mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê và thực hiện phân tích lại. Kết quả thể hiện trong Hình 4.3. và Bảng 4.19 dưới đây.

102

Hình 4.3. Kết quả phân tích mô hình SEM (điều chỉnh) đã chuẩn hóa

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.3. thể hiện kết quả các chỉ số xác định độ phù hợp của mô hình: CMIN/DF = 5,258; các GFI, CFI và TLI đều lớn hơn 0,9; giá trị RMSEA = 0,057 < 0,08, do đó mô hình nghiên cứu sau khi được điều chỉnh vẫn phù hợp với dữ liệu khảo sát.

Kết quả ở Bảng 4.19 cho thấy trong mô hình cấu trúc điều chỉnh, biến GDK và

KNK đều có ảnh hưởng đến TDK. Các biến KNK, NCT, KSH và TDK đều có tác động đến DDK và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mặc dù GDK không tác động trực tiếp đến DDK, nhưng nó tác động đến TDK (tác động trung gian qua TDK). Các trọng số chưa chuẩn hóa đều mang dấu dương cho thấy các biến KNK, NCT, KSH và TDK

ảnh hưởng tích cực tới DDK.

Bảng 4.19. Bảng hệ số hồi quy của mô hình SEM điều chỉnh

P_value

Mối liên hệ

<--- TDK TDK <--- DDK <--- DDK <--- DDK <--- DDK <---

GDK KNK KNK NCT KSH TDK

Hệ số hồi quy 0,450 0,281 0,144 0,179 0,406 0,344

Sai số của hệ số HQ 0,038 0,03 0,035 0,037 0,036 0,037

Thống kê T 11,803 9,386 4,113 4,832 11,24 9,38

*** *** *** *** *** ***

Hệ số hồi quy chuẩn hóa 0,423 0,315 0,152 0,161 0,378 0,327

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

103

Kết quả hệ số hồi quy chuẩn hóa cho thấy giáo dục KSKD (GDK) có tác động

4.2.5.2. Phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm

rất mạnh đến Thái độ với KSKD (TDK). Đồng thời, trong các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên thì Thái độ với KSKD (TDK) và Nhận thức kiểm soát hành vi (KSH) có tác động mạnh nhất đến Dự định KSKD (DDK). Yếu tố Kinh nghiệm KSKD (KNK) có tác động yếu nhất đến Dự định KSKD (hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,152).

Sự khác nhau về dự định KSKD của thanh niên theo các đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, kinh nghiệm và truyền thống gia đình (các biến kiểm soát) đã được xem xét ở phần phân tích khác biệt mục 4.4. Theo đó kết quả nghiên cứu đã chỉ ra dự định KSKD của thanh niên có sự khác biệt theo các biến kiểm soát: giới tính, trình độ, trạng

thái nghề nghiệp, nghề nghiệp của bố, mẹ hay nói cách khác dự định KSKD của thanh niên có phụ thuộc vào các đặc điểm cá nhân, đặc điểm truyền thống gia đình của họ. Tuy nhiên, ở một giác độ tiếp cận khác, nếu như có sự khác biệt về dự định KSKD

theo các biến kiếm soát này thì cần thiết phải xem xét thêm sự khác biệt về cơ chế tác động của các yếu tố đến dự định KSKD của thanh niên theo các nhóm đặc điểm này. Ví dụ, phân tích khác biệt ở trên đã chỉ ra rằng dự định KSKD có sự khác nhau giữa nhóm thanh niên nam và nữ nhưng cần biết rằng cơ chế tác động của các yếu tố đến dự

định KSKD của thanh niên trong các nhóm này có thể khác nhau. Như vậy, việc phân tích và chỉ ra được sự khác biệt trong cơ chế tác động của các yếu tố đến dự định KSKD của thanh niên theo các nhóm kiểm soát sẽ giúp tác giả đưa ra các hàm ý, kiến

nghị phù hợp với từng nhóm đối tượng thanh niên. Để thực hiện được điều này, trong nghiên cứu đã sử dụng kĩ thuật phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm với tiêu chuẩn Chi-square ((cid:3)(cid:4)) để kết luận về sự khác biệt này. Theo đó, với mỗi biến kiểm soát, tổng thể mẫu sẽ được chia làm nhiều nhóm phân loại tùy thuộc vào số lượng các biểu hiện

của biến kiểm soát đó. Ví dụ biến kiểm soát là giới tính thì tổng thể mẫu sẽ được chia làm 2 bộ phận là nhóm nam và nhóm nữ. Sau đó, tác giả xây dựng 2 mô hình cấu trúc: mô hình khả biến (các hệ số tác động có sự khác nhau theo các nhóm) và mô hình bất biến (các hệ số tác động không có sự khác nhau theo các nhóm). Sau khi có kết quả 2

mô hình này, sai biệt giữa 2 mô hình sẽ được xác định và thông qua thống kê Chi- squre sẽ kết luận về sự khác biệt. Giả thuyết Ho trong kiểm định này là: Không có sự khác biệt giữa 2 mô hình bất biến và khả biến (dùng kết quả mô hình bất biến). Các kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm được trình bày cụ thể ở các mục dưới đây.

104

a. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm theo giới tính

Kết quả kiểm định khác biệt cho Chi-square = 10,58 với p-value = 0,158 > 0,05 cho thấy giữa mô hình bất biến và mô hình khả biến không có sự khác biệt (p>0,05). Do đó, mô hình bất biến được lựa chọn.

Bảng 4.20. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình bất biến và khả biến

Chi-square Df

Mô hình khả biến 1431,719 436

Mô hình bất biến 1438,171 442

Sai biệt 10,579 7

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.4. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm nam

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

105

Hình 4.5. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm nữ

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Như vậy, mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định

KSKD của thanh niên không có sự khác biệt giữa nhóm nam và nữ. Các yếu tố KNK, NCT, TDK, KSH đều có ảnh hưởng trực tiếp đến dự định KSKD của nam và nữ thanh niên và yếu tố GDK có ảnh hưởng gián tiếp đến dự định KSKD qua yếu tố TDK. Đối

với cả 2 nhóm giới tính, Nhận thức kiểm soát hành vi (KSH) và Thái độ với KSKD (TDK) đều là 2 yếu tố tác động mạnh nhất đến dự định KSKD của thanh niên.

b. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm theo trạng thái nghề nghiệp

Kết quả phân tích sai biệt giữa hai mô hình bất biến và khả biến cho Chi-square

= 18,908, bậc tự do Df = 6, giá trị p = 0,004 < 0,05 nên bác bỏ Ho, chấp nhận giả thuyết có sự khác biệt giữa mô hình khả biến và mô hình bất biến. Do vậy, mô hình khả biến được lựa chọn để làm sáng tỏ sự khác biệt này.

106

Bảng 4.21. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm tình trạng nghề nghiệp

Mô hình khả biến Mô hình bất biến Sai biệt Chi-square 1530,022 1548,93 18,908 Df 436 442 6

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả Mô hình khả biến của nhóm sinh viên và người đã đi làm thu được kết quả

như sau:

Hình 4.6. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến với nhóm là sinh viên

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

107

Hình 4.7. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến - nhóm đã đi làm

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Như vậy, ảnh hưởng giữa các nhân tố đến dự định khởi sự kinh doanh có sự khác nhau giữa nhóm sinh viên và nhóm đã đi làm. Kết quả trọng số hồi quy trong mô hình cấu trúc của nhóm sinh viên và nhóm đã đi làm cho thấy sự khác biệt như sau: Đối với sinh viên, nhân tố Nhu cầu về tiền bạc không ảnh hưởng đến dự định KSKD (p=0,602) và Thái độ với KSKD có tác động tích cực nhất đến dự định KSKD của họ. Mặt khác, đối với nhóm đã đi làm, tất cả các nhân tố trong mô hình đều có ảnh hưởng đến dự định KSKD và

Nhận thức kiểm soát hành vi là yếu tố tác động mạnh nhất đến dự định KSKD của họ.

c. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm theo trình độ chuyên môn

Kết quả phân tích khác biệt giữa hai mô hình cấu trúc bất biến và khả biến cho

Chi-square của sai biệt là 19,83; bậc tự do df = 12; giá trị p = 0,07 cho thấy không có sự khác biệt giữa mô hình bất biến và mô hình khả biến giữa các nhóm theo trình độ chuyên môn ở ba nhóm gồm (1) trung cấp, (2) cao đẳng, (3) đại học và sau đại học. Theo đó, mô hình bất biến được lựa chọn, và có thể kết luận rằng mối liên hệ tác động

giữa các nhân tố đến dự định KSKD không có sự khác nhau giữa các nhóm trình độ.

108

Bảng 4.22. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm trình độ chuyên môn

Chi-square Df

Mô hình khả biến 1843,5 654

Mô hình bất biến 1863,335 666

Sai biệt 19,835 12

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.8. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm trung cấp

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

109

Hình 4.9. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm cao đẳng

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.10. Kết quả mô hình bất biến - nhóm trình độ Đại học và sau Đại học

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Các kết quả này hàm ý dù ở trình độ chuyên môn nào thì dự định KSKD của thanh niên đều chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố Nhu cầu thành tích (NCT),

110

Kinh nghiệm KSKD (KNK), Thái độ với KSKD (TDK), Nhận thức kiểm soát hành vi

(KHS) và bị ảnh hưởng gián tiếp từ nhân tố Giáo dục KSKD (GDK).

d. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm theo nghề nghề nghiệp của bố, mẹ

• Theo nghề nghiệp của bố

Kết quả Chi-square = 17,541, bậc tự do df = 12, giá trị p_value = 0,13 > 0,05 cho thấy mô hình bất biến được lựa chọn là phù hợp, kết quả kiểm định xem ở bảng 4.23 Dưới

đây.

Bảng 4.23. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo các nhóm nghề nghiệp của bố

Mô hình khả biến Mô hình bất biến Sai biệt Chi-square 1800,375 1817,916 17,541 Df 654 666 12

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Như vậy, mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định KSKD không có sự khác nhau giữa các nhóm nghề nghiệp của bố. Hay nói cách khác, những thanh niên xuất phát từ gia đình có bố làm kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau đều chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố trong mô

hình đến dự định KSKD của họ. Kết quả mô hình SEM theo từng nhóm được thể hiện rõ hơn ở các hình: Hình 4.15, Hình 4.16 và Hình 4.17. dưới đây.

Hình 4.11. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có bố tự kinh doanh

111

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.12. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có bố làm nhân viên KD trong doanh nghiệp

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.13. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến- nhóm có bố hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác

112

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

• Theo nghề nghiệp của mẹ

Kết quả Chi-square = 12,279; bậc tự do Df = 12, giá trị P_value = 0,139 >0.05 cho thấy mô hình bất biến được lựa chọn là phù hợp trong phân tích cấu trúc đa nhóm theo nghề nghiệp của mẹ. Điều này cũng có nghĩa rằng, mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định KSKD không có sự khác nhau theo các nhóm nghề nghiệp của mẹ.

Bảng 4.24. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm nghề nghiệp của mẹ

Chi-square Df

Mô hình khả biến 1751,586 654

Mô hình bất biến 1768,865 666

Sai biệt 17,279 12

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Như vậy, mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định KSKD

không có sự khác nhau giữa các nhóm nghề nghiệp của mẹ. Hay nói cách khác, những thanh niên xuất phát từ gia đình mà có mẹ làm kinh doanh, mẹ làm nhân viên kinh doanh trong DN hay mẹ hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác đều bị ảnh hưởng của các

yếu tố (trong mô hình) đến dự định KSKD của họ. Kết quả mô hình SEM theo từng nhóm được thể hiện rõ hơn ở các hình: Hình 4.18, Hình 4.19 và Hình 4.20. dưới đây.

Hình 4.14. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ tự kinh doanh

113

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.15. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ làm nhân viên hoặc quản lý trong doanh nghiệp

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

Hình 4.16. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến - nhóm có mẹ hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác

114

Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả

CHƯƠNG 5 BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THANH NIÊN VIỆT NAM KHỞI SỰ KINH DOANH

5.1. Bình luận kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu này đã củng cố thêm phần tổng quan nghiên cứu về thúc đẩy khởi sự nói chung và đối với thanh niên Việt Nam về vấn đề này nói riêng. Cụ thể như sau:

5.1.1 Các giả thuyết chưa được khẳng định

Giả thuyết 1: Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi

sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Trong phần tổng quan, nghiên cứu này đã giả định thái độ với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Giả thuyết này được đưa ra là dựa trên quan điểm cơ bản từ nghiên cứu của Fishbein và Azjen (1975), Ajzen và Fishbein (2000), Trevelyan (2009), và Sagiri và Appolloni (2009) về

mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của một cá nhân. Thông thường một cá nhân có thái độ tích cực, họ sẽ có động lực thực hiện vấn đề đó. Trong cấu trúc thái độ có nhiều khía cạnh, trong đó khía cạnh về tiền bạc được nhấn mạnh và điều này cũng có vẻ hợp lý đối với một nền kinh tế đang phát triển và cũng mới bước vào cơ chế thị

trường không bao lâu. Thu nhập đâu đó vẫn là yếu tố quan trọng đối với hầu hết mọi người trong xã hội này. Điều này lai càng đúng theo quan điểm của Maslow (…) là con người thường có xu hướng thỏa mãn nhu cầu từ bậc thấp, cơ bản cho đến bậc cao,

tiền bạc hay thu nhập được xếp vào nhóm nhu cầu cơ bản. Thanh niên là đối tượng việc làm chưa ổn định và thu nhập thường thấp nên về mặt lý thuyết họ sẽ luôn có thái độ tích cực với tiền bạc và từ đó có động lực thúc đẩy họ thỏa mãn điều này. Một trong những cách thức thực hiện đó là khởi nghiệp kinh doanh theo quan niệm phổ

biến là ‘phi thương bất phú’. Tuy nhiên, khác ngạc nhiên khi mà kết quả về mối quan hệ giữa Thái độ đối với tiền bạc của thanh niên Việt Nam với hành động khởi sự kinh doanh chưa được khẳng định rõ ràng. Điều này có thể giả định theo một hướng khác là mặc dù tiền bạc hay thu nhập quan trọng, nhưng với thanh niên Việt Nam có thể họ có những lý do khác. Ví dụ: việc đào tạo kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp tại Việt Nam cũng chỉ mới diễn ra trong những năm gần đây, do vậy, thanh niên Việt Nam có thể không đủ năng lực về mặt này để khởi nghiệp. Văn hóa Việt Nam cũng là một vấn đề

đáng để bàn trong khía cạnh này, vì văn hóa Việt Nam không tạo ra sự độc lập và sự tự

115

tin nhất định cho con người từ khi họ sinh ra cho đến khi trưởng thành. Ngược lại văn

hóa phụ thuộc bố mẹ và gia đình khá lớn khiến không nhiều người trẻ tuổi dám độc lập để tự khởi nghiệp. Do đó, mặc dù có thái độ tích cực về tiền bạc, nhưng thanh niên Việt Nam lại không chọn con được khởi nghiệp để thỏa mãn nhu cầu tiền bạc của họ. Tuy nhiên, mọi sự giải thích trên cũng chỉ nằm ở sự giả định để lý giải cho việc mối quan hệ giữa thái độ tiền bạc và dự định khởi nghiệp. Để khẳng định sâu sắc hơn vấn đề này đòi hỏi cần phải thực hiện nhiều nghiên cứu khác trong các bối cảnh khác nhau để xác định rõ hơn nguyên nhân của vấn đề trên.

Giả thuyết 3: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh

doanh của thanh niên Việt Nam

Tương tự, nghiên cứu này cũng đã giả định chuẩn chủ quan có tác động đến dự

định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Giả thuyết này đầu tiên được đưa ra dựa trên lý thuyết về hành vi có kế hoạch của Fishbein và Ajzen (1975) và Buchan (2005) là nhận thức và hành vi của một người thường bị chi phối bởi những người thân xung quanh. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên thường dễ bị tác động bởi các nhóm xã hội

như gia đình, bạn bè hay những người quan trọng xung quanh họ. Việc quyết định khởi sự kinh doanh của thanh niên cũng tương tự như vậy (Kolvereid và Tkachev, 1999, Autio và cộng sự, 2001; Krueger và cộng sự, 2000, Reynolds và cộng sự, 2004; Kolvereid và Isaksen, 2006, Linan và cộng sự, 2011).

Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này chưa ủng hộ quan điểm trên. Như vậy, quan điểm truyền thống văn hóa Việt Nam ‘Cha truyền con nối’ hay ‘Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó’ hầu như đã có sự thay đổi nhất định. Sự ảnh hưởng của bố mẹ hay người

thân về quyết định chọn nghề nghiệp cuả thanh niên có lẽ không còn ở mức chi phối như trước đây. Việc con cái tiếp tục làm tại cơ quan bố mẹ công tác hay tiếp tục khởi nghiệp kinh doanh lĩnh vực bố mẹ đang thực hiện không còn phổ biến như trước. Điều này cũng có thể do nền kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi nhanh chóng trong những

thập niên gần đây. Ngành kinh doanh truyền thống bị thu hẹp lại, trong khi nhiều ngành nghề mới phát triển, đa dạng và hấp dẫn thế hệ trẻ như ngành công nghệ thông tin theo xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, quyết định khởi nghiệp kinh

doanh của thanh niên trẻ Việt Nam có thể bị tác động lớn bởi các yếu tố khác như xu hướng nghề nghiệp và đặc tính cá nhân của từng thanh niên hơn là chịu sự tác động của gia đình hay người thân.

Ngoài ra, với sự mở cửa và hội nhập sâu rộng của Việt Nam trong những thập

niên gần đây không chỉ dẫn đến sự bùng nổ về kinh tế mà còn sự thay đổi lớn về văn

116

hóa và quan điểm sống của thế hệ trẻ. Có thể dễ dàng quan sát thấy thế hệ 9X và 20X

Việt Nam có tư duy độc lập và mức độ đưa ra các quyết định cá nhân ngày càng tăng lên. Bố mẹ họ cũng quen dần điều đó và ngày càng chấp nhận và tôn trọng các quyết định của con cái. Điều này cũng có thể là lý do dẫn đến việc việc thanh niên có quyết định khởi sự kinh doanh không không còn quá phụ thuộc vào nhận thức hay quan điểm của gia đình và những người xung quanh họ nữa, kể cả những người quan trọng như bố mẹ họ.

Một vấn đề nữa cũng có thể là yếu tố tác động đến mối quan hệ này đó chính là

việc các công ty, doanh nghiệp Nhà nước trong hơn thập niên nay được cổ phần hóa nhiều, cho đến nay số doanh nghiệp Nhà nước còn lại khá khiêm tốn so với trước đây. Điều này cũng khiến cho bố mẹ, những người đã từng công tác lâu năm trong các công

ty Nhà nước không còn vị thế như trước đây, để thực hiện văn hóa thông lệ là bố mẹ thường mong muốn và với sự ‘quen biết’ của mình có thể xin con cái họ vào công tác tại cơ quan, công ty mà họ đã làm việc lâu nay. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi khi chủ mới xuất hiện sau cổ phần hóa và những ‘đặc ân’ có thể không được như trước

đây. Và một khi bố mẹ không thể quyết định đến nghề nghiệp của thanh niên nữa, thì họ sẽ phải tự quyết định tương lai của họ, trong đó có việc dự định khởi sự kinh doanh.

Cũng giống như phần trên, các lập luận mang tính suy diễn chỉ để giúp giải thích trong bối cảnh Việt Nam nhưng chưa thể khẳng định độ chính xác hay tin cậy

dựa vào cách lý giải như vậy. Do đó, điều này cần phải được tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới và tìm kiếm cụ thể hơn nguyên nhân của vấn đề này.

Giả thuyết 8: Giáo dục khởi nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự

định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Trước đây rất nhiều người không được đào tạo nhưng vẫn khởi nghiệp thành công và trở thành những người nổi tiếng như Bill Gate hay những doanh nhân khác. Tuy nhiên, đó là thời kì của nhiều người không cần đào tạo bài bản như vậy. Ngoài ra,

những người đó là những người kiết xuất, tố chất thiên bẩm và kinh nghiệm thực tiễn đã giúp họ vượt qua các rào cản khác về kỹ năng hay kiến thức chuyên môn để thực hiện kinh doanh thành công.

Tuy nhiên, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt, qui mô doanh nghiệp ngày càng lớn thì càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp trong kinh doanh ngày càng cao. Một trong những cách thức tăng tính chuyên nghiệp đó là phải tăng cường được giáo dục và đào tạo. Dưới gốc độ nghiên cứu cũng đã chứng mình được rằng giáo dục tập trung vào

khởi sự kinh doanh là một chất xúc tác đến sự phát triển dự định khởi sự kinh doanh

117

của thanh niên theo các nghiên cứu của Raposo và Do Paco, 2011, Bae và cộng sự,

2014, Fayolle và Gailly, 2015. Cũng chính điều đó mà nhiều chương trình đào tạo các cấp được xây dựng và cung cấp cho những người có nhu cầu. Cho đến nay rất nhiều trường học và chương trình học về khởi sự kinh doanh.

Ngược với suy nghĩ trên, giả định về điều này đã không được ủng hộ. Cụ thể giáo dục khởi nghiệp kinh doanh đã không có ảnh hưởng đến dự định kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Kết quả này đầu tiên có lẽ do các Chương trình đào tạo về khởi nghiệp một cách bài bản và chuyên nghiệp chưa thật sự phổ biến nên tác động của

những Chương trình này đến dự định khởi sự của thanh niên Việt Nam chưa cao. Điều này cũng có thể đúng hiện nay ở Việt Nam khi mà các Chương trình đào tạo chính quy chưa tạo nên một nền tảng thật sự cho việc khởi nghiệp kinh doanh mà việc này hầu

như xuất phát từ các phong trào thi đua khởi nghiệp của Trung ương Đoàn, hay các cuộc thi trong và giữa các trường đại học, hoặc từ những Chương trình khởi nghiệp trên truyền hình…Do vậy, khi được hỏi hầu hết thanh niên Việt Nam đều có nhận thức việc dự định khởi nghiệp của mình hay không là do các yếu tố khác trong đó có từ các

phong trào thi đua hơn là từ các chương trình giáo dục đào tạo về vấn đề này.

Tương tự, tất cả những lập luận trên cũng từ quan sát và lập luận logics. Do đó,

cần phải thực hiện các nghiên cứu thêm để đưa ra các kết luận cụ thể hơn.

Giả thuyết 10: Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định khởi sự

kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Hỗ trợ từ chính phủ theo giả định ban đầu của nghiên cứu này cho rằng có ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Hỗ trợ chính phủ có

hai cách tiếp cận khác nhau. Cách hỗ trợ thứ nhất theo nghĩa hẹp là quá trình trợ giúp/giúp đỡ cá nhân hoặc nhóm cá nhân có dự án khởi sự kinh doanh, quá trình này bao gồm 3 giai đoạn: tiếp xúc ban đầu, hỗ trợ triển khai dự án khởi sự kinh doanh và theo dõi sau khi doanh nghiệp được thành lập (Levy-Tadjine, 2004). Theo nghĩa

rộng, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp đề cập tới một hệ thống các trợ giúp khác nhau dành cho người khởi nghiệp đến từ môi trường kinh doanh/khởi nghiệp của họ. Hệ thống các trợ giúp khởi nghiệp này có thể đến từ nhiều tổ chức/đơn vị khác nhau

(trung ương/địa phương; tổ chức công/tư), với các hoạt động hỗ trợ khác nhau (hỗ trợ nhận thức, đào tạo, tài chính, hậu cần khởi nghiệp,…) đi theo quá trình từ hình thành ý tưởng kinh doanh tới thành lập và làm chủ doanh nghiệp trong thực tế (Bruyat, 1992). Những hỗ trợ này cùng với những hỗ trợ về chính sách và tạo môi

118

trường thuận lợi (Stephen và các cộng sự, 2005) có ảnh hưởng quan trọng đến dự

định và khởi sự kinh doanh.

Tuy nhiên, giả thuyết này đã không được ủng hộ trong nghiên cứu này. Điều này ban đầu có vẻ cũng khó hiểu vì trong những năm qua Chính phủ Việt Nam mà cụ thể là Thủ tướng chính phủ đã vận động và tạo mọi điều kiện để thanh niên Việt nam khởi nghiệp. Do đó, theo tư duy thông thường sẽ thấy điều này sẽ là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy khởi nghiệp kinh doanh đối với thanh niên Việt Nam. Nhưng kết quả đã cho thấy giả định này chưa có kết quả như vậy. Điều này khiến cho

không chỉ khiến cho các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia thực tiễn mà cả những nhà nghiên cứu phải suy nghĩ thêm nguyên nhân để tìm giải pháp giải quyết hiệu quả. Dưới gốc độ nghiên cứu này, tác giả cho rằng mọi chính sách luôn có độ trễ

về mức độ ảnh hưởng so với thời điểm ban hành. Do đó, mặc dù rất tích cực và chủ động từ hỗ trợ của Chính phủ trên mọi phương diện và gốc độ. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để những hỗ trợ này thực sự có ảnh hưởng trong thực tế, đến thanh niên Việt Nam muốn thực hiện khởi sự doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng có thể những hỗ trợ của

Chính phủ mới ở tầm vĩ mô mà chưa có giải pháp cụ thể đến việc thúc đẩy khởi sự kinh doanh của thanh niên nên mức độ tác động của nó chưa lớn và không thật sự có ảnh hưởng.

5.1.2 Các giả thuyết được ủng hộ

Ngoài bốn giả thuyết trên thì các giả thuyết còn lại đều có kết quả ủng hộ các

giả thuyết được đề xuất. cụ thể:

Giả thuyết 2: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Thái độ ảnh hưởng đến hành vi là điều mà nhiều nghiên cứu khẳng định như Fishbein và Azjen (1975) hay Trevelyan (2009) và Sagiri và Appolloni (2009). Trái

với giả định trên, trong nghiên cứu này đã không khẳng định được thái độ với tiền bạc với dự định khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên, lý thuyết cơ bản trên vẫn đúng với mối quan hệ giữa thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi

sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Như vậy, muốn thanh niên Việt Nam tăng dự định khởi sự kinh doanh thì cần phải thúc đẩy thái độ tích cực của thanh niên Việt Nam đối với vấn đề này.

Giả thuyết 4: Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

119

Lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991) cho rằng nhận thức kiểm soát

hành vi đề cập đến cảm nhận về sự dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, thể hiện cảm nhận của cá nhân là bản thân có khả năng và đủ nguồn lực để thực hiện hành vi hay không. Như đã phân tích và đặt ra giả thuyết trên là đặc điểm của thanh niên là luôn dồi dào năng lượng, tự tin và sẵn sàng làm mọi việc khi họ mong muốn và đôi khi không cần suy nghĩ thấu đáo về khả năng của bản thân hay các điều kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện các mong muốn. Do đó, khi có một lý do nào đó từ bên trong bản thân như mong muốn khẳng định bản thân hay từ các yếu tố tác động bên ngoài

như phong trào khởi nghiệp hiện nay ở Việt Nam, sẽ thôi thúc cá nhân đó có dự định khởi nghiệp và quyết tâm thực hiện điều trên. Kết quả của nghiên cứu cũng ủng hộ giả thuyết về mối quan hệ giữa nhận thức kiểm soát hành vi và dự định khởi sự kinh

doanh của thanh niên Việt Nam. Như vậy, muốn thanh niên Việt Nam đẩy mạnh dự định khởi sự kinh doanh thì cần phải tăng nhận thức kiểm soát hành vi của họ về vấn đề này.

Giả thuyết 5: Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Nhu cầu là nguồn gốc của nhiều hành vi của con người. Động lực thôi thúc con người thực hiện các hành vi để thỏa mãn các nhu cầu của họ (Maslow, 1965). Một trong những nhu cầu đó là nhu cầu về thành tích. Brandstätter (2011) cho rằng, những

người có nhu cầu thành tích cao luôn tìm kiếm thành công, cả của họ và cả ở những người liên quan đến họ trong cuộc sống như đồng nghiệp hoặc con cái của họ trong gia đình. Nó có thể hiểu là những mong muốn, khát khao về khẳng định mình của một cá

nhân. Đối với thanh niên, những người mới trưởng thành, đang hoặc vừa mới rời trường học để ra đời lập nghiệp. Nhìn chung, có thể nói với tầng lớp này sự nghiệp gần như không có gì, do đó, nhu cầu sự nghiệp, trong đó có tự khởi nghiệp, tự phát triển kinh doanh rất cao, thông qua đó họ xem như là thành tích để khẳng định với mọi

người xung quanh như bố mẹ, bạn bè và với xã hội về khả năng hay năng lực của họ khi thực hiện các công việc quan trọng của cuộc đời. Kết quả của nghiên cứu này đã ủng hộ giả thuyết này. Vì vậy, để thúc đẩy dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam thì cần đẩy mạnh nhu cầu thành tích của họ.

Giả thuyết 6: Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ngoài kiến thức thì kinh nghiệm cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc động

lực, dự định và thực hiện thành công trong công việc. Đặc biệt trong môi trường văn hóa

120

phương Đông như ở Việt Nam, nơi vẫn nhấn mạnh vai trò của kinh nghiệm làm việc hơn

những yếu tố khác như kiến thức, thì kinh nghiệm vẫn được xem là yếu tố quan trọng thúc đẩy thực hiện các công việc. Do đó, kinh nghiệm khởi nghiệp cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy dự định khởi nghiệp kinh doanh hoặc tái dự định khởi nghiệp kinh doanh cao hơn những người chưa có kinh nghiệm (Krueger, 1993; Oruoch, 2006; Basu và Virick, 2008. Kết quả của nghiên cứu này cũng đã ủng hộ giả thuyết trên là những thanh niên Việt Nam nào có kinh nghiệm kinh doanh và khởi nghiệp sẽ có dự định cao hơn những thanh niên chưa có kinh nghiệm về lĩnh vực này.

Giả thuyết 7: Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Như đề cập ở trên kinh nghiệm có ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp của thanh niên Việt Nam, nhưng ở đây nên làm rõ hơn thái độ của người đã có kinh nghiệm khởi nghiệp. Trong trường hợp có kinh nghiệm nhưng với thái độ tiêu cực thì sẽ hạn chế đến sự tác động của kinh nghiệm đến dự định khởi sự kinh doanh. Ngược lại, nếu thái độ tích cực sẽ thúc đẩy mối quan hệ trên. Như vậy, có thể thấy thái độ có

thể là yếu tố trung gian ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này đã ủng hộ giả thuyết trên. Do đó, nếu muốn những người có kinh nghiệm đẩy mạnh dự định khởi sự kinh doanh thì phải luôn thúc đẩy thái độ tích cực của họ về vấn đề này.

Giả thuyết 9: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt nam

Tương tự, thái độ cũng là biến trung gian giữa giáo dục và dự định khởi sự kinh

doanh. Điểm khác biệt ở đây như kết quả ở giả thuyết thứ 8 là giáo dục không ảnh hưởng trực tiếp đến dự định khởi nghiệp kinh doanh mà có thể chỉ ảnh hưởng trung gian qua thái độ của người được giáo dục. Điều này nghĩa là giáo dục chưa đủ làm thanh niên Việt Nam có động lực để dự định khởi sự kinh doanh mà còn phụ thuộc vào

thái độ của họ đối với vấn đề khởi sự kinh doanh như thế nào. Nếu họ có thái độ tích cực thì những giáo dục về khởi sự sẽ thúc đẩy cá nhân đó có dự định khởi sự kinh doanh và ngược lại (Dell, 2008; Tam, 2009).

Bảng 5.1: Tóm tắt kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu

Nội dung Kết quả KĐ Giả thuyết

H1 Giả thuyết 1: Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích Chưa đủ cơ

121

Nội dung Kết quả KĐ Giả thuyết

sở kết luận

cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ủng hộ H2

Giả thuyết 2: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Chưa đủ cơ H3 Giả thuyết 3: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam sở kết luận

Ủng hộ H4

Giả thuyết 4: Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ủng hộ Giả thuyết 5: Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam H5

Ủng hộ H6 Giả thuyết 6: Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ủng hộ H7

Giả thuyết 7: Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

H8 Chưa đủ cơ sở kết luận Giả thuyết 8: Giáo dục khởi nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Ủng hộ H9

Giả thuyết 9: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt nam

H10 Giả thuyết 10: Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam Chưa kết luận

Nguồn: tổng hợp từ kết quả phân tích định lượng của tác giả

5.2. Đề xuất các giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh

Từ kết quả nghiên cứu và phân tích trên, một số giải pháp sau được đề xuất

nhằm thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi nghiệp như sau:

122

5.2.1 Nâng cao nhận thức, thái độ của thanh niên về KSKD, hình thành thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD, giúp thanh niên nuôi dưỡng và phát triển ý định KSKD.

Trong số các nhân tố có ảnh hưởng đến Dự định KSKD của TN thì Thái độ KSKD là nhân tố có tầm ảnh hưởng lớn nhất bên cạnh những vấn đề khác liên quan

như: đam mê, khát vọng làm giầu, … Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù Giáo dục KSKD không ảnh hưởng trực tiếp đến Dự định KSKD của thanh niên khi đưa vào mô hình nghiên cứu cùng với các nhân tố khác, tuy nhiên nhân tố này lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc tác động đến Thái độ KSKD. Cụ thể: Thái độ KSKD chịu sự ảnh

hưởng tích cực từ Giáo dục KSKD và Kinh nghiệm KSKD. Theo tính chất bắc cầu, Thái độ KSKD là nhân tố có tác động tích cực đến dự định KSKD của TNVN. Vì vậy, việc tác động làm nâng cao thái độ đối của TNVN đối với hoạt động KSKD thông qua hoạt động giáo dục KSKD và tạo cơ hội cho thanh niên trải nghiệm KSKD có ý nghĩa thúc đẩy dự định của họ trở thành hành động thực tế.

Để nâng cao Thái độ KSKD của TNVN cần các biện pháp tích cực tác động vào các yếu tố Giáo dục KSKD và Kinh nghiệm KSKD đối với TNVN. Giáo dục

KSKD là yếu tố có tác động mạnh đến Thái độ KSKD. Do đó, việc đẩy mạnh thực hiện tốt và có hiệu quả công tác Giáo dục KSKD sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao Thái độ KSKD của TNVN. Khi đó Giáo dục KSKD sẽ phát huy được ảnh

hưởng tới dự định KSKD của TNVN. Để thực hiện điều này, việc giáo dục và đào tạo, cả về chuyên môn cho TN và tạo môi trường thực hành để TN tích lũy kinh nghiệm thực tiễn về KSKD đóng vai trò quan trọng.

Để nâng cao thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD, cần đẩy

mạnh và triển khai hiệu quả hoạt động tuyên truyền, vận động, đào tạo bồi đắp cho thanh niên có khát vọng vươn lên làm chủ, khởi nghiệp làm giàu cho bản thân và gia đình (tuyên truyền, tôn vinh, khen thưởng, đặt vai trò của doanh nhân đúng vị trí trong xã hội; thay đổi định kiến nhất sỹ, nhì nông, tam công, tứ thương; thay đổi tư duy thích

làm công ăn lương, làm trong khu vực công….); Ngoài ra, cần tôn vinh vị trí xã hội của các tấm gương doanh nhân thành đạt, các tấm gương thanh niên làm kinh tế giỏi, tạo ra nhiều giá trị cho bản thân, cộng đồng và xã hội.

Thực tế đã chứng minh, trong thời gian qua cả hệ thống chính trị đã chủ động tạo điều kiện, hỗ trợ thúc đẩy TNVN đổi mới tư duy, sáng tạo và hoạt động KSKD hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCS

Hồ Chí Minh cũng ban hành Đề án “Thanh niên khởi nghiệp giai đoạn 2019 – 2022”

123

tại Quyết định số 223-QĐ/TWĐTN-ĐKTHTN ngày 10/04/2019 nhằm kiến tạo môi

trường, động lực mạnh mẽ để các lực lượng thanh niên Việt Nam khác nhau ra sức sáng tạo khởi nghiệp, chung tay đưa Việt Nam thật sự trở thành quốc gia khởi nghiệp.

Tuy nhiên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội LHTN Việt Nam cần phát huy vai trò của tổ chức trong hoạt động đồng hành cùng thanh niên khởi nghiệp, nhất là trong việc triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả, đi vào chiều sâu trong việc tuyên truyền kết hợp với hỗ trợ các cấp bộ Đoàn – Hội ở địa phương, các trường học… để làm tốt công tác truyền thông và tổ chức các hoạt động thực tiễn truyền cảm

hứng cho TN bắt đầu với công việc kinh doanh. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ của tổ chức Đoàn, Hội có thể thực hiện thông qua các hội thi về ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp, giới thiệu các mô hình KSKD thành công, triển khai các hoạt động tư vấn, hỗ

trợ tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thanh niên khởi sự. Như vậy, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội LHTN Việt Nam cũng thể hiện sự nỗ lực và góp sức chung tay vào công cuộc hỗ trợ khởi nghiệp của đất nước với dấu mốc quan trọng là sự ra đời của Đề án “Thanh

niên khởi nghiệp giai đoạn 2019 – 2022”.

Để khởi nghiệp không chỉ là phong trào, việc truyền thông hướng đến mục tiêu xây dựng quốc gia khởi nghiệp là điều vô cùng cần thiết với những không gian pháp lý đủ thoáng, hạ tầng kiến thức phù hợp và đặc biệt nâng cao nhận thức của thanh niên

Việt Nam về KSKD. Do đó, cần có sự phối hợp từ trung ương đến địa phương, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong việc triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến quan điểm, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với vấn đề

khởi nghiệp trong các đối tượng thanh niên. Tổ chức các hoạt động truyền thông về khởi nghiệp: tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức và tinh thần về khởi nghiệp, lập nghiệp cho thanh niên và cộng đồng; xây dựng chương trình truyền thông, tư vấn, hướng nghiệp, khởi nghiệp, lập nghiệp; tổ chức các hoạt động tư vấn, hỗ trợ phù hợp

với từng đối tượng thanh niên; tuyên truyền, phổ biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đặc biệt là Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”.

Như vậy, nâng cao thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD phụ

thuộc rất nhiều vào hoạt động giáo dục KSKD cho TN. Hoạt động này không những bao gồm việc cung cấp kiến thức, kỹ năng cho TN, mà còn phải kết hợp với việc tạo môi trường cho TN trải nghiệm thực tế, tích lũy kinh nghiệm khởi sự. Để hình thành thái độ tích cực đối với KSKD, việc tạo dựng niềm tin và văn hóa khởi nghiệp cho

TNVN là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Trên thế giới, các quốc gia khởi nghiệp thành công như Mỹ, Hàn Quốc, Israel,… đều rất quan tâm đến hoạt động giáo

124

dục KSKD, coi hoạt động giáo dục là nền tảng, là yêu cầu bắt buộc cho người trẻ

muốn trở nên trưởng thành hơn trong đời sống vật chất và KSKD, cụ thể là đưa chương trình giáo dục tinh thần doanh nhân vào trong nhà trường để giúp người học có thể tiếp cận sớm với hoạt động KSKD thông qua việc phát triển định hướng trở thành doanh nhân trong chương trình đào tạo của mình. Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia này cũng cho thấy việc định hình thái độ tích cực về khởi nghiệp là hết sức cần thiết, ở đây con người không chỉ dám chấp nhận thất bại và lấy thất bại làm động lực để vươn tới thành công mà còn biết cạnh tranh lành mạnh, xây dựng đạo đức kinh doanh, cộng

đồng khởi nghiệp cởi mở, chia sẻ cơ hội và tạo nên các giá trị xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần quan tâm trong công tác chỉ đạo, ban hành chính sách khuyến khích TN KSKD, trong đó, cần chú trọng đến các chính sách liên quan đến truyền thông tích cực

về khởi nghiệp, xây dựng tinh thần khởi nghiệp và văn hóa khởi nghiệp, tạo dựng môi trường khởi nghiệp, cộng đồng khởi nghiệp phát triển năng động với đầy đủ hệ sinh thái khởi nghiệp.

Trong KSKD, mức độ rủi ro và khả năng thất bại là khá lớn, do đó để thúc đẩy

thanh niên tham gia KSKD cần phải giáo dục để xây dựng cho thế hệ trẻ tinh thần, thái độ dám thất bại, dám chấp nhận sai và sửa sai. Hay nói cách khác, giáo dục KSKD cần gắn liền với việc tạo dựng văn hóa khởi nghiệp và thái độ tích cực cho giới trẻ bên cạnh việc tuyên truyền tới cộng đồng xã hội. Điều này ngoài giáo dục trong Nhà

trường về nhận thức còn cần thực hiện giáo dục qua thực tế về trải nghiệm. Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho thanh niên được học tập và trải nghiệm thực tế từ sớm, qua đó họ tích lũy kinh nghiệm về KSKD. Kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy,

kinh nghiệm KSKD có tác động tích cực tới dự định KSKD của TNVN.

Để thúc đẩy TNVN có thái độ tích cực đối với KSKD, cho họ thấy các cơ hội thành công của các hoạt động KSKD cần tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh với một thị trường năng động, phát triển và vận hành với đầy đủ các quy luật của mình và

với sự hỗ trợ của Nhà nước có tính dự báo và giảm thiểu. Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển các hoạt động kinh doanh và cho các dự định KSKD có thể phát huy và triển khai các ý tưởng sáng tạo tốt nhất. Để thực hiện điều này đối với Việt Nam

hiện nay thì Nhà nước cần cam kết và quyết liệt thực hiện việc thu hẹp khu vực công, thúc đẩy quốc gia khởi nghiệp, tạo lập môi trường kinh doanh để tạo ra nhiều cơ hội khởi nghiệp cho giới trẻ. Việc thu hẹp khu vực công không chỉ dừng lại ở cơ cấu lại khu vực công, khu vực DNNN mà còn là sự mở rộng cơ hội tham gia cho khu vực tư

nhân vào các lĩnh vực hoạt động của khu vực công mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm, đặt hàng khu vực tư nhân các nhiệm vụ phục vụ yêu cầu hoạt động cũng như

125

các mục tiêu phát triển của khu vực công. Cần có chính sách cụ thể để cải thiện môi

trường kinh doanh chẳng hạn như chính sách định hướng nhận biết các cơ hội kinh doanh hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ra nhập thị trường.

5.2.2 Nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TNVN

Kết quả nghiên cứu từ Luận án đã khẳng định ảnh hưởng tích cực của Nhận thức kiểm soát hành vi đến Dự định KSKD của TNVN. Do đó, những tác động nhằm nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TN rất cần được quan tâm. Thực tế cho thấy,

Giáo dục KSKD (GDK) có tác động tích cực đến Nhận thức kiểm soát hành vi (KSH) của TNVN. Như vậy, để tăng Nhận thức kiểm soát hành vi của TNVN cần phải chú trọng đến hoạt động Giáo dục KSKD. Điều này tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc triển khai tốt hoạt động Giáo dục KSKD cho TNVN, thông qua đó, tạo ảnh hưởng

tích cực tới Dự định KSKD của TNVN. Ngoài ra, “Kinh nghiệm KSKD” có mối tương quan thuận với “Nhận thức kiểm soát hành vi” của TNVN và “Nhận thức kiểm soát hành vi” của TNVN.

Thực tế cho thấy, nhận thức kiểm soát hành vi của thanh niên xuất phát từ sự tự tin và được trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết cũng như những sự am hiểu về việc khởi sự. Những yếu tố này được tạo nên từ kinh nghiệm, trải nghiệm hoạt động KSKD và từ thông qua hoạt động giáo dục KSKD. Vì vậy, việc thúc đẩy TNVN có động lực KSKD,

tất yếu phải cải thiện môi trường kinh doanh hiện tại, đặc biệt là tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho khởi nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, khung pháp lý cho khởi nghiệp đã cơ bản được hình thành, tuy nhiên, các quy định hỗ trợ doanh nghiệp doanh nghiệp khởi

nghiệp chưa được thể hiện thống nhất trong một đạo luật riêng biệt mà nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau. Điều đó cho thấy, việc tạo dựng khung pháp lý thống nhất, đồng bộ, đặc biệt là xem xét việc xây dựng đạo luật dành riêng cho khởi nghiệp hoặc cho thanh niên khởi nghiệp. Điều này cũng có thể phần nào đó giúp giải thích thêm tại sao sự hỗ trợ

của Chính phủ hiện nay chưa có sự tác động đến khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam.

Việc đẩy mạnh triển khai các dịch vụ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp là rất cần

thiết. Rõ ràng, khi xã hội có những động thái tích cực thông qua các chính sách cụ thể để đồng hành cùng thanh niên KSKD, xây dựng quốc gia khởi nghiệp, điều này sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức của người dân nói chung và thanh niên nói riêng về hoạt động khởi nghiệp. Việc triển khai thực hiện các chính sách hiện hành hỗ trợ cộng đồng

khởi nghiệp cần đi vào thực chất, phát huy hiệu quả ở từng giai đoạn cụ thể trong quá trình KSKD của thanh niên. Xây dựng và triển khai các mô hình cụ thể và hiệu quả

126

trong việc thực hiện chủ trương chính sách này ở các cấp, các đơn vị như: hội đồng hỗ

trợ khởi nghiệp ở địa phương (cấp tỉnh, huyện), trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp vườn ươm tại các bộ, tỉnh, thành phố, trường đại học. Gắn kết chặt chẽ trường đại học với các địa phương trong triển khai thực hiện hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp. Đặc biệt chú ý việc xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong các trường đại học để tận dụng các nguồn lực gắn kết và tự có của nhà trường như: cộng đồng doanh nghiệp, cộng đồng cựu sinh viên, các nhà nghiên cứu và chuyên gia của trường …đồng thời phục vụ cho chính đối tượng sinh viên trong nhà trường khi tham gia hoạt động

KSKD. Kênh giao tiếp hay mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp và các trường đại học cần được thiết lập nhằm tạo ra cơ sở dữ liệu liên quan đến việc thu thập, cập nhật dữ liệu, tư vấn và cung cấp thông tin và có những hỗ trợ kịp thời đối với thanh niên có

dự định KSKD. Mặt khác, những hoạt động hỗ trợ thực tiễn, nhất là đối với triển khai các dự án khởi nghiệp của thanh niên từ trong nhà trường sẽ là động lực mạnh mẽ thanh niên phát triển các ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp và có cơ hội thể hiện năng lực bản thân cũng như có thái độ tích cực đối với hoạt động KSKD.

5.2.3 Quan tâm, đầu tư vào hoạt động giáo dục KSKD cho thanh niên, phát triển mô hình giáo dục khởi nghiệp từ trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, “Giáo dục về KSKD” chưa được khẳng định có tác động trực tiếp tới “Dự định KSKD” của thanh niên Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả phân tích cho thấy biến “Giáo dục KSKD” có mối tương quan thuận với “Thái độ

KSKD” và “Thái độ KSDN’ có sự tác động đến ‘Dự định KSKD của thanh niên Việt Nam’. Như vậy việc giáo dục KSKD sẽ có tác động tích cực tới cả việc nâng cao thái độ KSKD và có thể dẫn đến tăng ‘Dự định KSKD của TNVN’. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục KSKD đối với việc nâng cao dự định KSKD

của TNVN.

Bài học từ các quốc gia khởi nghiệp thành công cho thấy, ý chí tự làm chủ của con người cần được khơi gợi và rèn luyện thông qua giáo dục và xã hội ngay từ khi

còn nhỏ. Do đó, việc xây dựng mô hình đào tạo khởi nghiệp sáng tạo ngay từ bậc phổ thông góp phần tạo nền tảng, động lực quan trọng để mỗi người hình thành ý chí lập thân, lập nghiệp. Do đó, cần có sự đầu tư thích đáng vào hoạt động giáo dục KSKD cho thanh niên. Rõ ràng, thực tế ở nước ta đang thiếu những giải pháp căn bản và đồng

bộ để kết nối giáo dục với hoạt động kinh doanh và khởi nghiệp. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho tỉ lệ KSKD ở Việt Nam, đặc biệt đối với người trẻ còn rất thấp. Nhà nước cần có sự chỉ đạo đối với các bộ, ban ngành có liên quan, nhất

127

là sự phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí

Minh trong việc triển khai hoạt động giáo dục KSKD cho thanh niên. Hoạt động giáo dục KSKD không chỉ giới hạn ở nhóm sinh viên đang theo học các trường cao đẳng, đại học, mà có thể hướng đến đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập của thanh niên nói chung. Nâng cao chất lượng giáo dục KSKD cho TNVN thông qua việc tăng cường đổi mới giáo dục KSKD cho thanh niên cả về nội dung, hình thức và phương thức giáo dục. Trong nội dung giáo dục, cần cập nhật kịp thời các nội dung mới, xây dựng các nội dung mang tính đa ngành và liên ngành, gắn chặt và hướng vào mục đích khởi

nghiệp…. Trong hình thức giáo dục cần kết hợp giữa giáo dục chuyên môn và giáo dục kỹ năng... Về phương thức giáo dục nên kết hợp giáo dục lý thuyết với giáo dục thực hành và trải nghiệm thức tế, kết hợp giảng dạy của các giảng viên với các chuyên

gia thực tiễn. Nhà trường cần gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp để đảm bảo công tác giáo dục gắn với thực tiễn, giáo dục gắn với thực hành, lý thuyết gắn với thực tế, đồng thời huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp vào giảng dạy cho sinh viên: các chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn thực tế, các nhà quản lý tại các bộ phận và

ở các cấp bậc của doanh nghiệp.

Để giáo dục KSKD trở thành một hoạt động chính thức trong nhà trường, Nhà nước cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh giáo dục như: tài trợ các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong ngành lên kế hoạch kinh doanh, đào

tạo sau đại học về khởi nghiệp, học vị thạc sĩ. Ngoài ra, cần thay đổi hệ thống giáo dục, các biện pháp giáo dục, thay đổi tổ chức các trường đại học và toàn bộ hệ thống trường trung học, nâng cao kiến thức khởi nghiệp. Giáo dục khởi nghiệp cần được đưa

vào hệ thống giáo dục quốc dân ít nhất từ bậc trung học phổ thông để các em có hiểu biến, kiến thức nền tảng về khởi nghiệp trước giai đoạn bước vào giáo dục chuyên nghiệp. Việc đưa giáo dục khởi nghiệp vào trong chương trình dạy học cần triển khai thông qua các môn học STEM và STEAM và tư duy tài chính, quản trị nhằm nuôi

dưỡng đam mê, cảm hứng khởi nghiệp và chuẩn bị các kiến thức nền tảng và kỹ năng khởi nghiệp cho thanh niên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

5.2.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy KSKD phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu hỗ trợ của các đối tường thanh niên tham gia KSKD.

Mặc dù trong nghiên cứu này, việc ‘Hỗ trợ của Chính phủ’ chưa có sự tác động đến ‘Dự định khởi sự kinh doanh của Thanh niên Việt Nam’, nhưng đây vẫn nên là điều

đáng quan tâm và đưa ra giải pháp để những hỗ trợ này thực sự có tác dụng. Nguyên nhân

128

có thể là do hoạt động khởi nghiệp mới được đề cập mạnh trong thời gian gần đây, dừng

lại chủ yếu ở quyết tâm chính trị chưa có chính sách cụ thể, TNVN tham gia KSKD cũng chưa thực sự tích cực và sâu, nên đối tượng được hỏi không cảm nhận tích cực về môi trường kinh doanh là điều có thể giải thích được. Mặt khác, hệ thống chính sách chung về khuyến khích khởi nghiệp hiện nay được đánh giá là thiếu đồng bộ, chưa có văn bản thống nhất, gây khó khăn cho việc thực thi. Hơn nữa, chính sách đặc thù hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp dường như còn thiếu vắng, dẫn đến hiệu quả chính sách chưa cao hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của thanh niên khởi nghiệp. Qua thực tiễn phỏng vấn đối

với các đối tượng đã KSKD thì họ thực sự rất cần các chính sách hỗ trợ cụ thể như: địa điểm, thuế, chế độ kế toán, chế độ quản lý lao động và bảo hiểm xã hội, vốn, mua sắm công… Yếu tố chính sách đóng vai trò khá quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của

thanh niên đối với việc khởi sự kinh doanh, đồng thời, là hành lang pháp lý cần thiết để doanh nghiệp khởi nghiệp có tiền đề phát triển thuận lợi. Do đó, để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên, việc rà soát, ban hành các chính sách khuyến khích khởi nghiệp, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho khởi nghiệp ở Việt Nam là điều cần thiết, mặc

dù nhiều bộ luật, khung pháp lý đã được điểu chỉnh, sửa đổi bổ sung trong thời gian qua nhằm thúc đẩy hiệu quả văn hóa KSKD tới cộng đồng người trẻ và xã hội, tuy nhiên, sau quá trình khảo sát, nghiên cứu và phân tích thì một số vấn đề tồn tại cần được nhận diện như sau:

Thứ nhất, các quy định hỗ trợ KSKD chưa được thể hiện thống nhất trong một đạo luật riêng biệt mà nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau. Điều này gây khó khăn cho hoạt động tra cứu thông tin pháp luật của các chủ thể đầu tư, hỗ trợ KSKD, chưa kể

đó lại là trở ngại rất lớn cho các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hệ quả là không ít doanh nghiệp KSKD không nắm được hết các ưu đãi, quyền lợi của mình khi tham gia thị trường. Do vậy, việc tạo dựng khung pháp lý thống nhất, đồng bộ, đặc biệt là cần có đạo luật dành riêng cho các chủ KSKD là yêu cầu cấp thiết đối với các cơ quan lập pháp

trong thời gian tới đây. Tất nhiên, trong thời gian này, các doanh nghiệp KSKD cần chủ động tìm hiểu, nắm bắt rõ ràng các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là các chính sách ưu đãi của nhà nước để tránh trường hợp không được hưởng ưu đãi vì thiếu hiểu

biết pháp luật.

Thứ hai, các quy định về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đối với các doanh nghiệp KSKD chưa chặt chẽ và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể này còn nhiều hạn chế khiến tình trạng “chảy máu chất xám” diễn ra phổ biến. Thực tế cho thấy, gần như 100% giá trị các doanh nghiệp KSKD là dựa vào tài sản trí tuệ nhưng họ lại bỏ qua hoặc chưa dành sự quan tâm đúng mức để bảo vệ các tài sản trí tuệ, dẫn đến

129

tình trạng bị công ty đối thủ đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ trước, mặc nhiên bị tước

quyền sở hữu trí tuệ đối với chính sản phẩm của mình. Hơn nữa, việc đăng ký bảo hệ các tài sản sở hữu trí tuệ hiện nay mất khá nhiều thời gian, thủ tục rườm rà, phức tạp; thời gian cấp phép đối với sáng chế, nhãn hiệu kéo dài… khiến cho nhiều doanh nghiệp e ngại khi phải thực hiện những thủ tục này. Đây là nút thắt lớn cần tháo gỡ từ cả hai phía, nhà nước cần có quy định và cơ chế thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng, minh bạch hơn, doanh nghiệp cần chủ động bảo vệ mình trước nguy cơ quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm dễ dàng như hiện nay.

Thứ ba, Việt Nam chưa có một chính sách phù hợp cho nhóm nhà đầu tư thiên thần (là giai đoạn sớm nhất trong quá trình hoàn thiện ban đầu về kế hoạch KSKD). Từ năm 2014 trở lại đây, tại Việt Nam xuất hiện nhiều tổ chức đầu tư chuyên nghiệp

và nhà đầu tư thiên thần có nhu cầu góp vốn hình thành quỹ đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc hình thành quỹ đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo mà chỉ có quy định hình thành quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán sửa đổi 2010. Vấn đề là điều kiện để thành lập

một quỹ đầu tư chứng khoán lại rất khắt khe, các chủ thể này rất khó đáp ứng được. Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 90 Luật Chứng khoán (sửa đổi 2010) quy định “Quỹ đại chúng được thành lập nếu có ít nhất 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp mua chứng chỉ quỹ và tổng giá trị chứng chỉ quỹ đã bán đạt ít nhất là

50 tỷ đồng Việt Nam”. Quy định này là một trong những rào cản lớn đối với các tổ chức và các nhà đầu tư thiên thần muốn thành lập quỹ tại Việt Nam để đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo. Do vậy, việc thành lập và hoạt động của các tổ chức này cần được cơ

quan có thẩm quyền quy định để các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam nhanh chóng tiếp cận được nhà đầu tư để phát triển sản phẩm, dịch vụ.

Những bất cập về chính sách liên quan đến khởi nghiệp sáng tạo không chỉ dừng lại ở những vấn đề kể trên. Sự hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng,

đất đai; hệ thống giáo dục hỗ trợ cho khởi nghiệp sáng tạo chưa được chú trọng đúng mức; khoảng trống của pháp luật trước những mô hình kinh doanh mới,… là những nút thắt cần được tháo gỡ trong thời gian tới nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh

thái khởi nghiệp sáng tạo.

Trong hệ thống chính sách khuyến khích thanh niên khởi nghiệp, cần quan tâm đến hoạt động hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp tại địa phương, nhất là ở khu vực nông thôn. Thực tế cho thấy, tình trạng thất nghiệp, sự thiếu việc làm và tình trạng di cư ra

thành thị của thanh niên nông thôn đang là những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình dịch chuyển sang nền kinh tế có giá trị cao hơn. Với 17 triệu thanh

130

niên nông thôn có độ tuổi từ 15-30 (chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông

thôn), khuyến khích thanh niên nông thôn khởi nghiệp sáng tạo tại địa phương là giải pháp then chốt để giúp thanh niên tự tạo việc làm, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, gia đình, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Để triển khai hiệu quả hoạt động này, ngoài những hỗ trợ về điều kiện sản xuất, Chính phủ cùng cần quan tâm vấn đề đào tạo cho thanh niên nông thôn những kiến thức cơ bản để khởi nghiệp, phát triển các ý tưởng kinh doanh và tận dụng các nguồn lực sẵn có từ địa phương. Đồng thời, các hoạt động đồng hành của tổ chức Đoàn, Hội đối với thanh niên nông thôn trong

việc hỗ trợ, phát triển các ý tưởng, dự án khởi nghiệp cần được triển khai sâu, rộng, mang lại những giá trị thiết thực đối với hoạt động KSKD của thanh niên.

5.3 Một số đóng góp và hạn chế của nghiên cứu

5.3.1 Những đóng góp mới của luận án

- Đóng góp thứ nhất của luận án là kiểm định một cách tổng thể những nhân tố

quan trọng ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của đối tượng khá đặc biệt là thành niên trong bối cảnh mới là Việt Nam;

- Đóng góp thứ hai của luận án là kiểm định lại nhiều biến còn tranh luận, chưa có sự thống nhất như: nhận thức kiểm soát hành vi (Ruhle và cộng sự, 2010; Paco và

cộng sự, 2011), kinh nghiệm khởi sự kinh doanh (Basu và Virick, 2008; Davidsson, 1995), truyền thống kinh doanh gia đình (Marques và cộng sự, 2014; Krueger và Dickson, 1993), Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh (Lüthje và

Frank, 2003), giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn (BarNir và Watson, 2011; và Shinnar và Giacomin, 2012). Điều này giúp củng cố thêm các lý thuyết liên quan đến nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh;

- Đóng góp thứ ba của luận án là kiểm định một số biến mới trong bối cảnh mới

là Việt Nam bao gồm: yếu tố thuộc về bản thân, yếu tố liên quan đến giáo dục KSKD, yếu tố thuộc về môi trường (Hệ thống pháp luật, hỗ trợ từ chính phủ, truyền thống kinh doanh của gia đình) đến dự định KSKD trong môi trường văn hóa, kinh tế, xã hội có

nhiều nét đặc trưng như Việt Nam. Hay đánh giá so sánh dự định khởi sự của thanh niên (độ tuổi từ 18-30) ở Việt Nam cũng như các nghiên cứu so sánh giữa thanh niên ở thành thị với thanh niên ở nông thôn hoặc giữa sinh viên với những người đã tốt nghiệp;

- Đóng góp thứ tư của luận án là đưa ra một khung cho phát triển khởi sự kinh

doanh với đối tượng là thanh niên Việt Nam. Qua đó, giúp các nhà hoạch định, ban bộ ngành liên quan và các doanh nghiệp có cơ sở để ban hành các chính sách và giải pháp hợp lý để đẩy mạnh hoạt động khởi sự kinh doanh từ đối tượng tiềm năng này.

131

5.3.2 Những hạn chế của luận án

Hạn chế thứ nhất của nghiên cứu là thực hiện điều tra dữ liệu chỉ tại một thời điểm. Trong khi sự ảnh hưởng của các biến đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam nên đo trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, những nghiên cứu

tiếp theo nên kiểm định mối quan hệ này trong khoảng thời gian đủ lớn để có kết quả chính xác hơn.

Hạn chế thứ hai của nghiên cứu là các thang đo đều phụ thuộc rất lớn đến nhận

thức của người điền dữ liệu vào phiếu điều tra. Vì vậy, nghiên cứu trong tương lai nên bổ sung thêm các dữ liệu định lượng và khách quan sẽ cho kết quả tốt hơn.

Cuối cùng, nghiên cứu này được thực hiện một số tỉnh trong cả nước. Để tăng sự chính xác nghiên cứu cần tăng mẫu điều tra về mặt phạm vi để tăng tính đại diện

của thanh niên Việt Nam tại các vùng miền khác nhau.

132

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra với tốc độ nhanh và mạnh trên hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Cuộc cách mạng này kế thừa những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, được hình thành trên nền tảng số

hóa với những công nghệ đột phá như công nghệ nano, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ thực tế ảo, robot, trí tuệ nhân tạo, IoT (internet kết nối vạn vật), điện toán đám mây,… làm thay đổi cơ bản các quan hệ kinh tế - xã hội của một quốc gia.

Việt Nam cũng không nằm ngoài làn sóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sự chuyển dịch từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây đã và đang mang lại những chuyển biến tích cực trên mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội. Cuộc cách mạng này đang phá vỡ hầu hết

cơ cấu ngành công nghiệp cũ ở mọi quốc gia. Về chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị (Klaus, Nicholas & Satya, 2018). Nền kinh tế tư nhân Việt Nam được dự báo sẽ trở

thành một trong các trụ cột chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới, đặc biệt là sự tăng trưởng mạnh mẽ của các doanh nghiệp KSKD dựa trên nền tảng công nghệ. Một số lĩnh vực được thừa hưởng lợi thế từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam như; Công nghệ tài chính (Fintech);

Công nghệ du lịch (Traveltech); Thương mại điện tử (E-Commerce); Nông nghiệp số (Agritech), …(Hoàng Lâm, 2019). Đóng góp của những người trẻ tới khởi sự kinh doanh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia và có thể góp phần giúp đất nước

trở thành một quốc gia ngày càng phát triển. Họ là những người giúp nền kinh tế quốc gia trở nên tiến bộ và thịnh vượng hơn. Đáng tiếc, tự làm chủ không phải là một chọn lựa nghề nghiệp chính của họ (Rajendran, 2011).

Do đó, nghiên cứu này rất quan trọng đối với con đường sự nghiệp tương lai của

thanh niên đặc biệt trong giai đoạn kỷ nguyên của thời đại chuyển đổi số. Việc nhận ra được những điểm mạnh và điểm yếu của mình, cũng như dự định của mình sẽ cung cấp chọn lựa tốt hơn cho phát triển nghề nghiệp. Họ có khả năng xác định được tính cách cá

nhân, thái độ và tự hiệu quả mà sẽ lần lượt giúp xác định dự định của họ đối với tự làm chủ.

Nghiên cứu này cũng quan trọng với việc triển khai chính sách đối với việc xây dựng các chương trình khởi sự kinh doanh cho thanh niên trong tương lai. Với hiểu

biết tốt về các nhân tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên, tất cả các kếhoạch do chính phủ lập ra cho sinh viên sẽ được triển khai đầy đủ. Nghiên cứu

133

này sẽ cung cấp cho các nhà lập chính sách một cái nhìn thấu đáo về giáo dục khởi sự

kinh doanh để truyền cảm hứng cho dự định khởi sự kinh doanh, theo đó, làm gia tăng tỉ lệ doanh nghiệp mới được thành lập. Các thông tin thực tế sẽ được cung cấp khi điều tra dự định khởi sự kinh doanh theo chiều sâu bởi các nhà lập chính sách có thể có những quyết định am hiểu sâu sắc hơn để thiết kế một cấu trúc các khóa học khởi sự kinh doanh giúp tăng tỉ lệ sinh viên tham gia vào kinh doanh trong tương lai (Ooi, 2008).

Cuối cùng, công chúng sẽ hiểu được vai trò của mình trong việc khuyến khích các dự định của sinh viên và đem lại hỗ trợ xã hội. Nền tảng gia đình có thể tác động

tới dự định trở thành người làm chủ của một cá nhân (Kolvereid, 1996a). Những người bố mẹ điều hành công ty có thể cung cấp trước những kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh cho con em mình để thúc đẩy họ tự tin với tự làm chủ. Tóm lại, khi một quốc

gia có nhiều người làm chủ hơn, những người không có việc làm sẽ được những người làm chủ thuê, và do đó tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Điều này là có lợi đối với người dân bởi sẽ đem lại cho họ chất lượng và chuẩn mực sống tốt hơn.

Mặc dù đã đạt được những kết quả cụ thể và một số phát hiện của luận án có

giá trị cả về lý luận và thực tiễn, tuy nhiên nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như:

- Kết quả kiểm định cho thấy Chính sách hỗ trợ của Chính phủ không có ảnh hưởng tới Dự định KSKD của thanh niên. Đây là một kết quả chưa thực sự rõ ràng và thuyết phục, vì thực tế, chính sách hỗ trợ của Chính phủ có tác động đến nhiều yếu tố.

Một nguyên nhân được giải thích ở đây là có thể thanh niên chưa hiểu rõ về các Chính sách của Chính phủ khi mới ở giai đoạn đầu tham gia vào hoạt động KSKD, ngoài ra yếu tố Chính sách của Chính phủ có sự tác động gián tiếp mạnh mẽ qua các yếu tố

khác. Trong Luận án này chưa làm rõ được điểm này là một hạn chế, tuy nhiên với giới hạn về thời gian và nguồn lực, tác giả mong muốn sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nội dung này ở thời gian tiếp theo.

- Kết quả kiểm định cũng cho thấy dữ liệu nghiên cứu không ủng hộ nhận định

Kinh nghiệm KSKD có ảnh hưởng tiêu cực tới Dự định KSKD. Tiếp cận kết quả này ở góc độ tích cực thì điều này có nghĩa là sự thất bại trong KSKD không làm nản lòng TNVN tiếp tục thực hiện KSKD. Tuy nhiên điều này cũng cần làm rõ về tỷ lệ và đối

tượng do thực tế hiện nay tâm lý sợ thất bại, sợ sai và do đó không dám làm nếu chưa chắc chắn hoặc khi đã làm sai rồi không dám làm lại…vẫn khá phổ biến. Chính việc nghiên cứu và làm rõ tác động của các yếu tố này sẽ làm cơ sở để thúc đẩy dự định KSKD của TNVN, nhất là với đối tượng đã KSKD nhưng thất bại.

134

Những hạn chế nêu trên cũng là các khoảng trống gợi mở cho những định

hướng nghiên cứu tiếp theo liên quan đến chủ đề này, chẳng hạn:

- Đánh giá lại tác động của yếu tố Chính sách hỗ trợ của Chính phủ và yếu tố Kinh nghiệm KSKD đến dự định KSKD của TNVN dựa trên việc chuẩn hóa thang đo hoặc xây dựng thang đo mới phù hợp hơn.

- Nghiên cứu về dự định KSKD của nhóm thanh niên học sinh, sinh viên;

- Nghiên cứu đặc điểm của các yếu tố vùng miền (Bắc, Nam) có ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD vì trên thực tế người miền Nam được hiểu có tỷ lệ dự định khởi sự kinh doanh cao hơn người miền Bắc.

135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1. Nguyen Anh Tuan, Do Thi Hai Ha, Vu Thi Bich Thao, Dang Kim Anh, Nguyen Hoang Long (2019), "Factors affecting entrepreneurial intentions among youths in Viet Nam", Children and Youth Services Review, 99 (4), pp.186-193.

2. Nguyễn Anh Tuấn (2019), "Những rào cản đối với thanh niên trong quá trình

khởi sự kinh doanh", Tạp chí Tài chính, 688+689 (2), pp.226-230.

3. Nguyễn Anh Tuấn (2019), "Các nhân tố tác động tới dự định khởi nghiệp của thanh niên ở Việt Nam", Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2018 và triển vọng năm 2019 – Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng, pp.298-331.

136

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdullah Azhar, Annum Javaid, Mohsin Rehman and Asma Hyder (2010), Entrepreneurial Intentions among Business Students in Pakistan, Journal of Business Systems, Governance and Ethics, 5(2), pp.13-21.

2. Ahmed, I., Nawaz, M. M., Ahmad, Z., Shaukat, M. Z., Usman, A., Rehman, W. U., & Ahmed, N. (2010), Determinants of Students‟ Entrepreneurial Career Intentions: Evidence from Business Graduates, European Journal of Social Sciences, 15(2), pp.14-22.

3. Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and

Human Decision Processes, 50, 179-211.

4. Ajzen, I., & Fishbein, M. (2000), Attitudes and the attitude-behavior relation: Reasoned and automatic processes. In W. Stroebe & M. Hewstone (Eds.), European Review of Social Psychology, John Wiley & So, pp. 1-33

5. Alberti, F. (1999), Entrepreneurship education: Scope and theory, In

Entrepreneurial Knowledge and Learning: Conceptual Advances and Directions for Future Research; Salvato, C., Davidsson, P., Persson, A., Eds.; Jonkoping International Business School: Jonkoping, Sweden

6. Armitage, C. J., & Conner, M. (2001), Efficacy of the Theory of Planned Behaviour: A meta-analytic review, British Journal of Social Psychology, 40(4), 471-499. doi: 10.1348/014466601164939

7. Bae, T.J.; Qian, S.; Miao, C.; Fiet, J.O (2014), The Relationship between Entrepreneurship Education and Entrepreneurial Intentions: A Meta-Analytic Review, Entrep. Theory Pract. 38, pp.217–254.

8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

137

10. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Báo cáo Đổi mới cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp bằng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế.

in

11. BarNir, A.; Watson,W.E.; Hutchins, H.M (2011), Mediation and Moderated Mediation the Relationship among Role Models, Self-Efficacy, Entrepreneurial Career Intention, and Gender, J. Appl. Soc. Psychol. 41, pp.270–297.

12. Barringer, B. R., & Ireland, R. D. (2010), Entrepreneurship: successfully

launching new ventures (3rd ed.), New Jersey: Pearson.

13. Basu, A., & Virick, M. (2008), Assessing entrepreneurial intentions amongst students: A comparative study, Paper presented at 12th Annual Meeting of the

National Collegiate of Inventors and Innovators Alliance, Dallas, USA.

14. Becker, G.S (1962), Investment in Human Capital: A Theoretical Analysis, J.

Political Econ. 70, pp.9–49.

15. Bích Hạnh, (2009), Setting up enterprise and doing business in Vietnam, NXB

Chính trị Quốc gia

16. Bird, B. (1988), Implementing Entrepreneurial Idea: The Case for Intention,

Academy of Management Review, 13(3), pp.442-453.

17. Bird, B. (1995), Toward a Theory of Entrepreneurial Competency. In J. A. Katz & R. H. Brockhaus, Sr. (Eds), Advances in Entrepreneurship, Firm Emergence, and Growth, 2,pp.51-72. Greenwich, CN: JAI Press

18. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019.

Nhà xuất bản Thống kê.

19. Brandstätter, H (2011), Personality aspects of entrepreneurship: A look at five

meta-analyses. Personal. Individ. Differ. 51, pp.222–230.

20.

Bùi Nhật Quang (2018), Chính sách khuyến khích khởi nghiệp doanh nghiệp của Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.

21. Chen, C.C., Greene, P.G., & Crick, A. (1998), Does Entrepreneurial Self-efficacy Distinguish Entrepreneurs from Managers?, Journal of Business Venturing,

13(4), pp. 295–316.

22. Chính phủ (2016), Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016. Truy cập Cổng thông tin điện tử Chính phủ

138

http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=

509&_page=1&mode=detail&document_id=184664

23. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 98/NQ-CP Ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Truy cập Cổng thông tin điện tử Chính phủ ngày 10/01/2018 tại http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban

ngày 11/06/2018 tử Chính phủ tin điện thông

24. Chính phủ (2018), Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. tại Truy cập Cổng http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban

ngày 11/06/2018 tử Chính phủ tin điện thông

25. Chính phủ (2018), Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Truy cập Cổng tại http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban

26. Churchill, N.C. Carsrud, A.L., Gaglio, C.M., & Olm, K.W. (1987), Entrepreneurs-mentors, Networks and Successful New Venture Development: An Exploratory Study, American Journal of Small Business, 12(2), pp.13-18.

27. Cromie, S. (2000), Assessing entrepreneurial inclination: Some approaches and empirical evidence, European Journal of Work and Organizational Psychology, Vol. 9 No. 1, pp. 7-30.

28. Davidsson, P. (1995), Determinants of Entrepreneurial Intentions, Pa-per

prepared for the RENT IX Workshop, Piacenza, Italy, 11, pp.23-24

29. Dell, M. S. (2008), An investigation of undergraduate student self-employment impact of entrepreneurship education and previous intention and the

entrepreneurial experience, Doctor of Philosophy, School of Business University The Australia.

30. Diêm Thị Thanh Hải, Hoàng Phương Anh (2018), Một số đề xuất đối với chính sách tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động, NXB Tài chính, Hà Nội.

139

31. Do Paco, A.; Ferreira, J.; Raposo, M.; Rodrigues, R.G.; Dinis, A (2011), Entrepreneurial intention among secondary students: Findings from Portugal, Int. J. Entrep. Small Bus. 13, pp.92–106.

32. Đoàn Thị Thu Trang (2018), Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khối ngành kỹ thuật, Luận án tiến sĩ. Trường Đại học Bách Khoa. Hà Nội.

33. Dohse, D., & Walter, S. G. (2010), The role of entrepreneurship education and regional Context in forming entrepreneurial intentions. Working Paper present at Document de treball de l‟IEB 2010/18.

34. Elfving, J., Brännback, M., & Carsrud, A. (2009), Toward A Contextual Model of Entrepreneurial Intentions, International Studies in Entrepreneurship, 24, Part 1,

pp.23-33

35. Fayolle, A.; Gailly, B (2015), The Impact of Entrepreneurship Education on Entrepreneurial Attitudes and Intention: Hysteresis and Persistence, J. Small Bus. Manag 53, pp.75–93.

36. Ferreira, J. J., Raposo, M. L., Rodrigues, R. G., Dinis, A., & Paco, A. d. (2012), A model of entrepreneurial intention: An application of the psychological and behavioral approaches, Journal of Small Business and Enterprise Development, 19(3), pp.424-440.

37. Fishbein, M., & Ajzen, I. (1975), Belief, attitude, intention, and behavior: An

introduction to theory and research. Reading, MA: Addison-Wesley.

38. Florin, J., Karri, R., & Rossiter, N. (2007), Fostering Entrepreneurial Drive in Business Education: An Attitudinal Approach, Journal of Management Education, 31(1), pp.17-42. doi:10.1177/1052562905282023

39. Gartner W B (1998), Who is an entrepreneur? I the wrong quesion America

small Business journal [spring], pp.11-31

40. Garzón, M. D.

(2010), A Comparison of Personal Entrepreneurial Competences between Entrepreneurs and CEOs in Service Sector, Service Business, 4, pp.289-303.

41. Gasse, Y. (1985), A strategy for the promotion and identification of potential entrepreneurs at the secondary school level, In Frontiers of Entrepreneurship Research; Babson College: Wellesley, MA, USA, pp. 538–559

140

42. Gorman, G.; Hanlon, D.; King,W (1997), Some Research Perspectives on Entrepreneurship Education, Enterprise Education and Education for Small Business Management: A Ten-Year Literature Review. Int. Small Bus. J. 15, pp.56–77

43. Hair, Jr., Money, A. H., Samouel, P., & Page, M. (2007), Các Phương pháp

Nghiên cứu Kinh doanh, West Sussex: John Wiley Sons.

44. Hamidi, D., Wennberg, K. & Berglund, H. (2008), Creativity in entrepreneurship education, Journal of Small Business and Enterprise Development, Vol. 15 No.

2, pp. 304-20.

45. Hansemark, O. C. (2003), Need for achievement, locus of control and the prediction of business start-ups: A longitudinal study. J. Econ. Psychol. 24, pp.301–319

46. Henley, A., (2007), From entrepreneurial aspiration and transition to business startup: evidence from British longitudinal data, Entrepreneurship and Regional Development, 19(3), pp.253-280.

47. Hisrich, R., & Peters, M. (2002), Entrepreneurship (5th ed.), McGraw Hill.

48. Hisrich, R. D. (2003), A model for effective entrepreneurship education and research, In Entrepreneurship in Forschungund Lehre: Festschrift für Klaus Anderseck; Walterscheid, K., Ed.; Peter Lang: Frankfurt am Main, Germany, pp.

241–253.

49. Hoàng Lâm (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019: “Tăng trưởng toàn diện đạt trên 30%”, truy cập ngày 15/12/2019 tại https://andrews.edu.vn/bao-cao-chi-so-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-nam- 2019-tang-truong-toan-dien-dat-tren-30/

50. Hồ Sỹ Hùng (2010), Vườn ươm doanh nghiệp, NXB Chính trị - Hành chính

51. Hoàng Văn Hoa, (2010), Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam giai đoạn

2011-2020, NXB Chính trị quốc gia.

52. Johansen, V.; Schanke, T. (2013), Entrepreneurship Education in Secondary

Education and Training, Scand. J.Educ. Res. 57, pp.357–368.

53. Kao, R. (1993), Defining Entrepreneurship: Past, Present and? Creativity and

Innovation Management, 2 (1), pp.69–70.

141

54. Katz, J. and Gartner, W., (1988), Properties of emerging organisations,

Academy of Man age ment Review, 13 (3), pp.429–441.

55. Kelley, D.J.; Singer, S.; Herrington, M.D (2012), The Global Entrepreneurship

Monitor: 2011 Global Report; Babson College: Wellesley, MA, USA.

factors in a push-pull theory of 56. Kirkwood, J. (2009), Motivational

entrepreneurship, Gender in Management: An International Journal, 25 (5)

57. Kolvereid. L., & Isaksen. E. (2006), New business start-up and subsequent entry

into self-employment, Journal of Business Venturing, 21(6), pp.866-885.

58. Kolvereid. L., & Tkachev. A. (1999), Self- employment intention among Russian

students, Entrepreneurship & Regional Development, 11(3), pp.269-280

59. Krueger, N. (1993), The Impact of Prior Entrepreneurial Exposure on Perceptions of New Venture Feasibility and Desirability, Entrepreneurship: Theory and Practice, 18 (1), pp.5-21.

60. Krueger, N. F., & Dickson, P. (1993), Perceived Self-efficacy and Perceptions of

Opportunity and Threat, Psychological Reports, 72(3), pp.1235-1240

61. Krueger, N. F., Reilly, M. D., & Carsrud, A. L. (2000), Competing models of entrepreneurial intentions, Journal of Business Venturing, 15(5), pp.411-432.

62. Krueger, N., & Carsrud, A. (1993), Entrepreneurial Intentions: Applying the Theory of Planned Behavior, Entrepreneurship and Regional Development, 5,

pp.315–330.

63. Kuckertz, A., & Wagner, M. (2010), The influence of sustainability orientation on entrepreneurial intentions - Investigating the role of business experience,

Journal of Business Venturing, 25(5), pp.524–539.

64.

Lê Quân (2007), Nghiên cứu quá trình quyết định khởi nghiệp của doanh nhân trẻ Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 7/2007

65. Leibenstein (1968), Entrepreneur and development, The American Economic

Review, v. 58, n. 2, pp. 72-84

66. Leong, C. K. (2008), Entrepreneurial Intention: An Empirical Study Among Open University Malaysia Students, Dessertation, Open University Malaysia

Center for Graduate Studies.

142

67. Li, W. (2007), Ethnic Entrepreneurship: Studying Chinese and Indian Students in the United States, Journal of Developmental Entrepreneurship, 12(4), pp.449– 466.

68. Liñán, F. (2004), Intention-based models of entrepreneurship education, Piccolla

Impresa/Small Business, 3, pp.11–35.

69. Liñán, F., & Chen, Y. W. (2009), Development and cross-cultural application of a specific instrument to measure entrepreneurial intentions, Entrepreneurship Theory & Practice, 33(3), pp.593-617.

the characteristics of 70. Littunen, H. (2000), Entrepreneurship and

the entrepreneurial personality, International Journal of Entrepreneurial Behavior & Research, 6(6), pp.295-309.

71. Lüthje, C., & Frank, N. (2003), The Making of an Entrepreneur, Testing a Model of Entrepreneurial Intent Among Engineering Students at MIT, R&D Management, 33 (2), pp.135-147.

72. Macmillan, I. C. (1993), The emerging forum for entrepreneurship scholars,

Journal of Business Venturing. V.8, Issue 5, pp.377-381

73. Marques, C. S., Ferreira, J. J., Gomes, D. N., Gouveia, R., Ferreira, J., & Rodrigues, R. G. (2014), Entrepreneurship education and intention, International Journal of Management

74. Martin, B.C., McNally, J. J., & Kay, M. J. (2013), Examining the formation of human capital in entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes, J. Bus. Ventur. 28, pp.211–224.

75. Matthews, C.H., & Moser, S. B. (1996), A Longitudinal Investigation of the Impact of Family Background and Gender on Interest in Small Firm Ownership. J. Small Bus. Manag. 34, 29–43.

76. Mazzarol, T., Volery, T., Doss, N., & Thein, V., (1999), Factors influencing small business startups, International Journal of Entrepreneurial Behaviour and Research, 5(2), pp.48-63.

77. McClelland, D. C. (1961), The achieving society, Princeton: Van Nostrand.

78. Miller, B. K., Bell, J. D., Palmer, M., & Gonzalez, A. (2009), Predictors Of Entrepreneurial Intentions: A Quasi-Experiment Comparing Students Enrolled

143

In Introductory Management And Entrepreneurship Classes, Journal of Business

Entrepreneurship, 21(2), pp.39-62.

Intention (2009), Entrepreneurial

79. Mohammad Ismail, Shaiful Annuar Khalid, Mohmod Othman, Hj. Kamaruzaman Jusoff, Norshimah Abdul Rahman, Kamsol Mohamed Kassim, & Rozihana among Malaysian Shekh Zain. Undergraduates, International Journal of Business and Management, 4(10), pp.54-60.

80. Mumtaz, B.A. K, Munirah, S., & Halimahton, K. (2012), The Relationship between educational support and entrepreneurial intentions in Malaysian Higher Learning Institution, Procedia - Social and Behavioral Sciences, 69, 24, pp.2164- 2173.

81. Nafukho, F. M. & Helen Muyia, M. A. (2010), Entrepreneurship and socioeconomic development in Africa: a reality or myth?, Journal of European Industrial Training, 34(2), pp.96-109.

82. Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2018), Nghiên cứu chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp. Đề tài cấp Bộ mã số ĐT.KXĐTN 17-04. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu Thanh niên.

83. Nguyễn Hải Đăng (2015), Những yếu tố tác động đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên nông thôn khu vực Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay. Đề tài cấp bộ. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

84. Nguyễn Thành Độ, Nguyễn Anh Tuấn (2009), Hoạt động ươm tạo doanh nghiệp

trong các trường đại học Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

85. Nguyễn Thu Thủy (2015), Các nhân tố tác động tới tiềm năng khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội.

86. Nwachukwu, C. C. (1990), The practice of Entrepreneurship in Nigeria: Onitsha,

African Fep Publishers Limited.

87. Okamuro H, Van Stel A, Verheul I (2011), Understanding the drivers of an ‘entrepreneurial’ economy: lessons from Japan and the Netherlands (no. 36),

Center for Research on Contemporary Economic Systems, Graduate School of Economics, Hitotsubashi University, Tokyo

88. Okpara, I. O. (2000), Entrepreurship, Precious printers and publishers, Enugu

144

89. Oosterbeek, H., Praag, M. C. V., & Ijsselstein, A. (2008), The Impact of Entrepreneurship Education on Entrepreneurship Competencies and Intentions,

Paper presented at Tinbergen Institute Discussion Paper, University of Amsterdam.

90. Paco, A. M. F., Ferreira J. M., Raposo, M., Rodrigues, R. G., & Dinis, A. (2011), Behaviours and entrepreneurial intention: Empirical findings about secondary students, Journal of International Entrepreneurship, 9, 20-38.

91. Peterman, N. E., & Kennedy. J. (2003), Enterprise Education: Influencing Students Perceptions of Entrepreneurship, Entrepreneurship: Theory and Practice, 28(2), pp.129-144.

92. Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên (2015), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự doanh nghiệp: Trường hợp sinh viên khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh trường Đại học Cần Thơ, Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, số 38(2015), tr59-66.

93. Popescu and Pohoata (2007), Human Capital, Social Capital and Economic

Growth. Al. I. Cuza University Press: Iasi, Romania.

94. Porter (1998), M.E. On Competition, Harvard Business School Press: Boston,

MA, USA.

95. Quốc hội (2017), Luật số 04/2017/QH14 hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

96. Raposo, M.; Do Paço, A. (2011), Entrepreneurship education: Relationship between education and entrepreneurial activity, Psicothema, 23, pp.453–457.

97. Reynolds, P., & Miller, B. (1992), New Firm Gestation: Conception, Birth, and Implications for Research, Journal of Business Venturing, 7 (5), pp.405-417.

98. Reynolds, P.D. (2005), Understanding business creation: Serendipity and scope in two decades of business creation studies, Small Business Economics, 24, pp.359-364.

99. Saeed S, Yousafzai SY, Engelen A (2014), On cultural and macroeconomic contingencies of the entrepreneurial orientation–performance relationship, Entrepreneurship Theory and Practice, 38(2), pp.255–290

100. Sagie, A., & Elizur, D. (1999), Achievement motive and entrepreneurial orientation: a structural analysis, Journal of Organizational Behavior, 20(2), pp.375-387

145

101. Sagiri, S., & Appolloni, A. (2009), Identifying the Effect of Psychological Variables on Entrepreneurial Intentions, DSM Business Review, 1 (2), pp.61-86.

102. Schmitt-Rodermund, E. (2004), Pathways to Successful Entrepreneur-ship: Parenting, Personality, Early Entrepreneurial Competence, and Interests, Journal of Vocational Behavior, 65(3), pp.498–518.

103. Schultz (1961), T.W. Investment in Human Capital, Am. Econ. Rev, 51, pp.1–17.

104. Schwarz, E. J., Wdowiak, M. A., Almer-Jarz, D. A., & Breitenecker, R. J. (2009), The effects of attitudes and perceived environment conditions on students' entrepreneurial intent: An Austrian perspective, Education + Training, 51(4), pp.272-291.

105. Shane, S., & Venkataraman, S. (2000), The Promise of Entrepreneurship as a

Field of Research, Academy of Management Review, 25, pp.217-226.

106. Shapero, A., & Sokol, L. (1982), The Social Dimensions of Entrepreneurship, In C. Kent, D. Sexton, and K. H. Vesper (eds.) The Encyclopedia of Entrepreneurship, Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall. pp.72-90.

107. Shariff, M. N. M., & Saud, M. B. (2009), An Attitude Approach to the Prediction of Entrepreneurship on Students at Institution of Higher Learning in Malaysia, International Journal of Business and Management, 4(4).

108. Shinnar, R.S., Giacomin, O., & Janssen, F. (2012), Entrepreneurial Perceptions and Intentions: The Role of Gender and Culture. Entrep, Theory Pract. 36, pp.465–493.

109. Stephen, F. H., Urbano, D., & Van Hemmen, S. (2005), The impact of institutions on entrepreneurial activity, Managerial and Decision Economics, 26(7), pp.413–419. Jour.

110. Tam, H. W. (2009), How and to What Extent Does Entrepreneurship Education Make Students More Entrepreneurial? A California Case of the Technology

Management Program, Doctor of Philosophy Dissertation, University of California, Santa Barbara.

111. Tan, W., Williams, J., & Tan, T. (2005), Defining the ‘Social’ in ‘Social and International Entrepreneurship,

Altruism Entrepreneurship’: Entrepreneurship and Management Journal, 1, pp.353-365.

146

112. Terjesen S, Hessels J, Li D (2013), Comparative international entrepreneurship:

a review and research agenda, J Manag, 20 (10), pp.1–46.

113. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025", truy cập ngày 20/11/2018 tại http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu

114. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định về việc phê duyệt đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, truy cập ngày 20/11/2018 tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/giao-duc/Quyet-dinh-1665-QD-TTg-2017-de-

an-Ho-tro-hoc-sinh-sinh-vien-khoi-nghiep-den-nam-2025-365846.aspx

115. Tong, X. F., Tong, D. Y. K., & Loy, L. C. (2011), Factor Influencing Entrepreneurial Intentions among University Students, International Journal of Social Sciences and Humanity Studies, 3(1), pp.487-496.

trong phát triển kinh 116. Trần Kim Chung và Tô Ngọc Phan (2019), Vai trò động lực của kinh tế tư nhân tại: tế Việt Nam,

truy cập ngày 10/5/2019 http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/vai-tro-

dong-luc-cua-kinh-te-tu-nhan-trong-phat-trien-kinh-te-viet-nam-135422.html

117. Trevelyan, R. (2009), Entrepreneurial attitudes and action in new venture

development, Entrepreneurship and Innovation, 10(1), pp.21-32.

118. Tubbs, M., & Ekegerg, S. (1991), The Role of Intentions in Work Motivation: Implications for Goal-setting Theory and Research, Academy of Management Review, 16, pp.180-199

119. Turker, D., & Selcuk, S. S. (2009), Which factors affect entrepreneurial intention of

university students?, Journal of European Industrial Training, 33(2), pp.142 – 159.

120. Urbano,D., & Aparicio, S. (2015), Entrepreneurship capital types and economic growth: International evidence, Technological Forecasting and Social Change

121. Vazquez, J. L., Naghiu, A., Gutierrez, P., Lanero, A., & Garcia, M. P. (2009), Entrepreneurial Potential in the University: Intentions and Attitudes towards New Venture Creation, Bulletin UASVM Horticulture, 66(2), pp.507-512.

122. VCCI (2017), Báo cáo Nghiên cứu "Cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo -

Kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam".

147

123. VCCI và USAID (2016), Ấn phẩm Việt Nam – Đất lành cho khởi nghiệp: Tại sao không?, truy cập ngày 20/8/2019 tại: http://pcivietnam.org/an-pham/viet- nam-dat-lanh-cho-khoi-nghiep-tai-sao-khong/.

124. VCCI và USAID, Báo cáo PCI các năm 2016, 2017, 2018, truy cập ngày

20/8/2019 tại: http://org.pcivietnam.vn/

125. Veciana, J. M., Aponte. M., & Urbano. D. (2005), University Students Attitudes Towards Entrepreneruship: A Two Countries Comparison, International Entrepreneurship and Management Journal, 1, pp.165-182.

126. Viện Nghiên cứu Thanh niên (2018), Báo cáo thường niên về thanh niên Việt

Nam năm 2018.

127. Vũ Văn Ninh, Phạm Thị Thanh Hòa (2018), Chính sách tín dụng dành cho

doanh nghiệp khởi nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội.

128. Wong, M Choo, S. (2009), Entrepreneurial intention: Triggers and barriers to new venture creation in Singapore, Singapore BusinessReview, 28(2), pp.47-64.

129. Wood, R. E., & Bandura, A. (1989), Impact of conceptions of ability on self- regulatory mechanisms and complex decision making, Journal of Personality and Social Psychology, 56, pp.407-415.

130. Wortman. M.S. Jr. (1987), Entrepreneurship: An integrating typology and evaluation of the empirical research in the field, Jounial of Management, 13(2).

pp.259-279.

131. Xavier, R., Noorseha Ayob, Leilanie Mohd Nor, & Mohar Yusof. (2010), The Global Entrepreneurship Monitor (GEM) Malaysian Report 2010, truy cập ngày 20/10/2018 tại http://www.gemconsortium.org/docs/download/754

132. Yordanova, D., & Tarrazon, Maria-Antonia. (2010), Gender Differences in Entrepreneurial Intentions: Evidence From Bulgaria, Journal of Developmental Entrepreneurship, 15(3), pp.245-261.

133. Zaidatol Akmaliah Lope Pihie. (2009), Entrepreneurship as a career choice : An analysis of entrepreneurial self-efficacy and intention of University students, European Journal of Social Sciences, 9(2), pp.338-349.

134. Zain, Z. M., Akram, A. M., & Ghani, E. K. (2010), Entrepreneurship Intentions Among Malaysian Business Students, Canadian Social Science, 6(3), pp.34-44.

148

135. Zampetakis, L.A.; Moustakis, V (2006), Linking creativity with entrepreneurial

intention: A structural approach, Int. Entrep. Manag. J, 2, pp.413–428

136. Zikmund, W. G., Babin, B. J., Carr, J. C., & Griffin, M. (2010), Các phương pháp nghiên cứu kinh doanh (Xuất bản lần thứ 8), New York: South- Western/Cengage Learning.

149

PHỤ LỤC

Bảng 1: Mẫu phiếu điều tra

PHẦN I: CÁC YẾU TÔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH

Anh/Chị hãy đọc từng mệnh dưới đây và thể hiện mức độ đồng ý bằng cách đánh dấu () vào số thích hợp:

Rất đồng ý

Trung lập Rất không đồng ý

I

1.     

2.     

3.     

4.     

5.     

1.

II

2.

    

3.

    

Thái độ đối với khởi nghiệp (Tự làm chủ) Tôi có nhiều lợi thế/khả năng để trở thành một doanh nhân/chủ một doanh nghiệp Trở thành doanh nhân hấp dẫn đối với tôi Nếu có cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ thành lập doanh nghiệp riêng Trở thành chủ doanh nghiệp sẽ làm cho tôi rất hài lòng Trở thành doanh nhân/chủ một doanh nghiệp luôn là đam mê, định hướng nghề nghiệp của tôi Thái độ đối với tiền bạc Với tôi, thu nhập cao là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá mức độ thành công của cá nhân. Điều quan trọng với tôi là làm sao kiếm được thật nhiều tiền Tiền là thước đo quan trọng đối với năng lực cá nhân

III Chuẩn mực chủ quan     

1.     

2.     

3.      Bạn bè tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi Gia đình tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi Những người xung quanh tôi sẽ ủng hộ quyết định khởi sự kinh doanh của tôi

IV Nhận thức kiểm soát hành vi

1.     

2.      Việc mở công ty và điều hành công ty là dễ dàng/ không khó với tôi Tôi tin rằng mình không thể/ khó có thể tự khởi sự kinh doanh

150

     3.

     4.

     5.

     6.

V

     1.

     2.

     3.

     4.

     5. Tôi nắm bắt/ kiểm soát được quá trình thành lập một doanh nghiệp mới Nếu thành lập công ty riêng, khả năng cao tôi sẽ thành công Sẽ là khó khăn/rất khó với tôi trong phát triển ý tưởng kinh doanh Tôi biết phải làm gì để phát triển một doanh nghiệp Giáo dục Khởi sự Kinh doanh Khởi sự kinh doanh nên được dạy ở trường phổ thông / đại học Nếu có cơ hội tôi sẽ chuyển sang học chuyên ngành khởi sự kinh doanh Khởi sự kinh doanh nên là khóa học bắt buộc để khích lệ tinh thần khởi nghiệp trong trường học. Trường học có nhiều hơn các chương trình đào tạo về kinh doanh và khởi sự kinh doanh sẽ giúp sinh viên khởi nghiệp tốt hơn. Các khóa học ở trường đại học đã chuẩn bị tốt cho việc khởi sự kinh doanh của chúng tôi

VI Kinh nghiệm KSKD

     1.

     2.

     3.

Chính những thất bại (khó khăn) đã giúp tôi tạo ra một doanh nghiệp thành công Các hoạt động kinh doanh trong quá khứ của tôi đã chuẩn bị cho tôi suy nghĩ về việc bắt đầu một doanh nghiệp Một người bạn thành công trong kinh doanh đã cho tôi lý do để suy nghĩ về việc bắt đầu kinh doanh của riêng mình

VII Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD

     1.

     2.

     3.

     4. Ở Việt Nam, Chính phủ khuyến khích khởi sự kinh doanh Nền kinh tế Việt Nam cung cấp nhiều cơ hội cho các doanh nhân Không dễ dàng trong vay vốn từ ngân hàng khi khởi sự kinh doanh ở Việt Nam Luật pháp (quy định và luật lệ) ở Việt Nam gây khó khăn/cản trở việc hình thành doanh nghiệp mới

VIII Nhu cầu thành tích

151

1.     

2.     

3.     

4.     

5.     

6.      Tôi là người luôn muốn đạt được thành tích cao trong công việc và thành công trong sự nghiệp Với tôi, thất bại là sự hình thường trong kinh doanh Tôi cho rằng thành công hay thất bại là do bản thân mình chứ không phải do người khác và hoàn cảnh Tôi thích hoàn thành mục tiêu mà mình đã đề ra (hoặc các nhiệm vụ được cấp trên giao) Khi có thời gian, tôi sẽ trở lại những công việc chưa hoàn thành và kết thúc chúng Tôi thường dành nhiều thời gian để tìm hiểu những điều mới mẻ trong công việc/ cuộc sống

PHẦN II: DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH

Anh/ Chị hãy thể hiện mức độ đồng ý bằng cách đánh dấu () vào số thích hợp:

1. Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một

Trung Rất không Rất đồng ý lập đồng ý

2. Tôi sẽ cố gắng để bắt đầu và điều hành công việc

     doanh nhân

3. Tôi không thật sự tự tin về việc bắt đầu kinh doanh

     kinh doanh của mình

4. Tôi đã quyết định sẽ thành lập công ty trong tương

     của riêng tôi

5. Mục tiêu nghề nghiệp của tôi là trở thành một doanh

     lai

6. Tôi chưa suy nghĩ nghiêm túc về việc mở công

     nhân

     ty/doanh nghiệp riêng.

PHẦN III: THÔNG TIN CÁ NHÂN

Anh/ Chị hãy cho biết một vài thông tin về mình:

152

Họ và tên:

Địa chỉ:

Điện thoại:

Email:

Giới tính: 1 Nam 2 Nữ

Nghề nghiệp 1 Sinh viên 2 Đã đi làm

Trình độ học vấn: 1 Trung cấp 2 Cao Đẳng 3 Đại học 4 Thạc sĩ

Kinh nghiệm làm việc: 1 < 1 năm 21-3 năm 3 3-5 năm 4> 5 năm

Bố mẹ Anh/Chị làm nghề gì:

Bố: 1 Tự kinh doanh 2Làm nhân viên kinh 3 Quản lý trong DN 4Khác

doanh trong DN

Mẹ: 1 Tự kinh doanh 2Làm nhân viên kinh 3 Quản lý trong DN 4Khác

doanh trong DN

Trân trọng cảm ơn Anh/Chị đã tham gia khảo sát này!

153

Phụ lục 2: Kết quả phân tích độ tin cậy các thang đo bằng hệ số Cronbach’s alpha a. DDK Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,676 6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

,597 ,612 ,685 ,592 ,583 ,715 16,670 16,127 16,685 16,553 16,468 16,680 12,042 12,643 14,117 12,133 11,779 14,503 ,510 ,474 ,250 ,528 ,547 ,168

DDK1 DDK2 DDK3 DDK4 DDK5 DDK6 Bỏ DDK6

Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,715 5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

13,514 12,971 13,529 13,397 13,311 9,299 9,715 12,192 9,402 9,110 ,558 ,545 ,142 ,574 ,588 ,631 ,639 ,787 ,625 ,617

DDK1 DDK2 DDK3 DDK4 DDK5 Bỏ DDK3

154

b. TDK Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,850 5

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Item-Total Statistics Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

14,854 14,405 14,151 14,308 14,408 12,629 11,998 12,366 12,449 12,179 ,554 ,693 ,689 ,689 ,689 ,849 ,811 ,812 ,812 ,812 TDK1 TDK2 TDK3 TDK4 TDK5

c. TDT Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,729 3

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

7,011 7,170 7,374 3,409 3,390 3,690 ,562 ,627 ,472 ,629 ,553 ,735

TDT1 TDT2 TDT3 d. CCQ Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,841 3

155

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Item-Total Statistics Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

CCQ1 CCQ2 CCQ3 7,223 7,203 7,296 3,667 3,446 3,687 ,681 ,737 ,697 ,801 ,747 ,786

e. KSH Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,749 6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

15,607 15,348 15,269 15,130 15,297 15,120 12,795 14,198 12,868 13,188 15,319 13,981 ,572 ,413 ,608 ,588 ,286 ,472 ,688 ,733 ,679 ,686 ,765 ,717

KSH1 KSH2 KSH3 KSH4 KSH5 KSH6 Bỏ KSH5

f. GDK Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,791 5

156

Item-Total Statistics Scale Variance if Item Deleted Scale Mean if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

14,379 14,569 14,632 14,332 14,827 Corrected Item-Total Correlation ,578 ,594 ,628 ,646 ,419 10,957 11,135 10,654 10,894 11,910 ,749 ,745 ,733 ,729 ,801 GDK1 GDK2 GDK3 GDK4 GDK5

g. KNK Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,820 3

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

7,072 7,231 7,267 Scale Variance if Item Deleted 3,915 3,391 3,400 Corrected Item-Total Correlation ,566 ,763 ,701 ,856 ,661 ,723

KNK1 KNK2 KNK3 Bỏ KNK1

h. CSC Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,578 4

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Item-Total Statistics Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

,491 ,447 ,461 ,617 10,096 10,227 10,504 10,746 5,190 5,093 4,916 5,507 ,380 ,439 ,414 ,227 CSC1 CSC2 CSC3 CSC4

157

Bỏ CSC4 Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,617 3

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

,412 ,326 ,757 6,985 7,115 7,392 2,725 2,683 3,341 ,496 ,559 ,253

CSC1 CSC2 CSC3 Bỏ CSC3 k. NCT

Reliability Statistics N of Cronbach's Items Alpha

,836 6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation

Scale Variance if Item Deleted Cronbach's Alpha if Item Deleted

NCT1 NCT2 NCT3 NCT4 NCT5 NCT6 19,288 19,361 19,488 19,223 19,289 19,292 14,594 14,883 14,767 13,970 14,497 14,500 ,594 ,574 ,518 ,703 ,638 ,644 ,812 ,816 ,829 ,790 ,804 ,803

158

Phụ lục 3: Kết quả phân tích EFA với tập biến quan sát

a. EFA với tập biến quan sát của biến phụ thuộc “DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ

KINH DOANH” - DDK

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square Df Sig.

,733 1564,731 6 ,000

Communalities

Initial Extraction

,558 1,000 DDK1 ,571 1,000 DDK2 ,641 1,000 DDK4 DDK5 ,676 1,000 Extraction Method: Principal Component Analysis.

Total Variance Explained

Initial Eigenvalues

Extraction Sums of Squared Loadings

Component

Total

Total

% of Variance

% of Variance

2,445

61,129

Cumulative % 61,129

2,445 ,717 ,491 ,347

61,129 17,920 12,272 8,678

Cumulative % 61,129 79,050 91,322 100,000

1 2 3 4 Extraction Method: Principal Component Analysis.

Component Matrixa Component 1

,822 ,800 ,755 ,747

DDK5 DDK4 DDK2 DDK1 Extraction Method: Principal Component Analysis. a. 1 components extracted. Kết quả cho thấy các biến quan sát phụ thuộc hội tụ về 1 nhân tố.

159

b. Phân tích EFA với tập biến quan sát của thang đo các biến độc lập

Lần 1:

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square df Sig.

,925 17469,821 465 ,000

Communalities

Extraction

Initial

1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000

,661 ,690 ,687 ,659 ,680 ,736 ,584 ,723 ,775 ,746 ,639 ,481 ,653 ,630 ,603 ,583 ,623 ,658 ,794 ,789 ,535 ,494 ,486 ,669 ,575 ,580 ,521 ,486 ,422 ,505 ,446

TDK2 TDK3 TDK4 TDK5 TDT1 TDT2 TDT3 CCQ1 CCQ2 CCQ3 KSH1 KSH2 KSH3 KSH4 GDK1 GDK2 GDK3 GDK4 KNK2 KNK3 NCT1 NCT2 NCT3 NCT4 NCT5 NCT6 TDK1 KSH6 GDK5 CSC1 CSC2 Extraction Method: Principal Component Analysis.

160

Initial Eigenvalues

Comp onent Total Total Total Cumulati ve % Cumulat ive % Cumulat ive %

12,893 23,356 32,962 42,035 49,105 55,443 61,658 Rotation Sums of Squared Loadings % of Varianc e 12,893 10,463 9,606 9,073 7,071 6,338 6,216

Total Variance Explained Extraction Sums of Squared Loadings % of % of Varian Varianc ce e 30,851 9,564 30,851 30,851 3,997 30,851 39,593 2,710 8,743 39,593 3,243 8,743 45,365 1,789 5,772 45,365 2,978 5,772 50,047 1,451 4,682 50,047 2,812 4,682 54,295 1,317 4,248 54,295 2,192 4,248 58,157 1,197 3,862 58,157 1,965 3,862 61,658 1,085 3,501 61,658 1,927 3,501 64,631 2,973 67,188 2,557 69,678 2,490 71,896 2,218 74,089 2,193 76,156 2,067 78,118 1,962 79,909 1,791 81,676 1,767 83,315 1,638 84,819 1,505 86,282 1,463 87,696 1,414 89,052 1,356 90,367 1,315 91,675 1,308 92,917 1,242 94,121 1,204 95,265 1,144 96,352 1,087 97,365 1,013 98,334 ,969 ,922 99,256 ,744 100,000 9,564 2,710 1,789 1,451 1,317 1,197 1,085 ,922 ,793 ,772 ,687 ,680 ,641 ,608 ,555 ,548 ,508 ,466 ,453 ,438 ,420 ,408 ,406 ,385 ,373 ,355 ,337 ,314 ,300 ,286 ,231

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 Extraction Method: Principal Component Analysis.

161

Rotated Component Matrixa

2 3 5 6 7 Component 4

1 ,756 ,710 ,707 ,665 ,636 ,617 ,506 ,425

,739 ,733 ,730 ,726 ,564

,420 ,736 ,707 ,681 ,649 ,529

,777 ,771 ,702 ,607 ,472 ,409

,770 ,760 ,743

,803 ,720 ,670

,808 ,800

NCT4 NCT6 NCT5 NCT1 NCT2 NCT3 CSC1 CSC2 TDK3 TDK2 TDK4 TDK5 TDK1 GDK3 GDK4 GDK1 GDK2 GDK5 KSH1 KSH3 KSH4 KSH2 KSH6 CCQ2 CCQ3 CCQ1 TDT2 TDT1 TDT3 KNK2 KNK3 Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations. Thủ tục EFA được lặp lại sau khi bỏ dần các biến quan sát CSC2, KSH6, CSC1. Kết quả phân tích EFA lần cuối cùng:

162

Lần cuối:

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square df Sig. ,919 15655,220 378 ,000

Communalities

Extraction

Initial 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 ,663 ,687 ,685 ,661 ,687 ,744 ,591 ,724 ,775 ,751 ,659 ,490 ,651 ,626 ,619 ,589 ,638 ,666 ,863 ,848 ,536 ,504 ,492 ,679 ,597 ,598 ,526 ,444

TDK2 TDK3 TDK4 TDK5 TDT1 TDT2 TDT3 CCQ1 CCQ2 CCQ3 KSH1 KSH2 KSH3 KSH4 GDK1 GDK2 GDK3 GDK4 KNK2 KNK3 NCT1 NCT2 NCT3 NCT4 NCT5 NCT6 TDK1 GDK5 Extraction Method: Principal Component Analysis.

163

Initial Eigenvalues

Compo nent Total Variance Explained Extraction Sums of Squared Loadings Rotation Sums of Squared Loadings

Cumula tive % Cumula tive % Cumulati ve %

Total % of Varianc e Total % of Varianc e Total % of Varianc e

12,874 24,440 34,220 43,389 51,214 58,216 64,255

8,878 40,417 2,486 6,018 46,435 1,685 5,061 51,496 1,417 4,689 56,185 1,313 4,196 60,381 1,175 3,874 64,255 1,085 2,778 67,033 2,561 69,594 2,469 72,063 2,426 74,489 2,283 76,773 2,122 78,895 1,943 80,839 1,818 82,657 1,690 84,347 1,625 85,972 1,604 87,575 1,525 89,100 1,458 90,558 1,450 92,008 1,365 93,373 1,282 94,655 1,243 95,899 1,170 97,068 1,077 98,145 1,024 99,169 ,831 100,000 8,831 31,539 31,539 8,831 31,539 31,539 3,605 12,874 8,878 40,417 3,239 11,566 2,486 9,780 6,018 46,435 2,738 1,685 9,169 5,061 51,496 2,567 1,417 7,825 4,689 56,185 2,191 1,313 7,002 4,196 60,381 1,960 1,175 1,085 6,040 3,874 64,255 1,691 ,778 ,717 ,691 ,679 ,639 ,594 ,544 ,509 ,473 ,455 ,449 ,427 ,408 ,406 ,382 ,359 ,348 ,328 ,301 ,287 ,233

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 Extraction Method: Principal Component Analysis.

164

Rotated Component Matrixa

2 3 5 6 7 Component 4

1 ,762 ,720 ,718 ,665 ,642 ,623

,739 ,737 ,731 ,727 ,574

,748 ,715 ,695 ,660 ,535

,789 ,764 ,691 ,629

,773 ,767 ,746

,809 ,729 ,676

,845 ,835

NCT4 NCT6 NCT5 NCT1 NCT2 NCT3 TDK2 TDK3 TDK5 TDK4 TDK1 GDK3 GDK4 GDK1 GDK2 GDK5 KSH1 KSH3 KSH4 KSH2 CCQ2 CCQ3 CCQ1 TDT2 TDT1 TDT3 KNK2 KNK3 Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations.

165

Phụ lục 4: Kết quả phân tích CFA

166

Regression Weights: (Group number 1 - Default model) C.R. P Label

,035 25,858 *** ,035 26,044 *** ,036 23,511 *** ,039 20,009 *** ,036 22,290 ***

,034 29,688 *** ,035 28,562 *** ,036 26,415 *** ,037 24,684 ***

,036 21,870 *** ,038 20,653 *** ,045 21,700 *** ,044 23,122 *** ,042 13,821 ***

,044 22,701 *** ,044 22,748 ***

,041 22,615 ***

,030 29,939 *** ,031 29,296 *** ,045 21,165 ***

,043 17,626 *** ,036 26,400 ***

Estimate S.E. 1,000 ,894 ,907 ,854 ,785 ,793 1,000 ,999 ,996 ,955 ,917 1,000 ,785 ,792 ,983 1,022 ,584 1,000 ,989 ,991 1,000 ,938 1,000 ,904 ,902 ,959 1,000 ,760 ,960 1,000

NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1 TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH2 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 CCQ2 <--- 6 CCQ3 <--- 6 CCQ1 <--- 6 TDT2 <--- 7 TDT1 <--- 7 TDT3 <--- 7 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8

167

Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

Estimate ,783 ,719 ,724 ,660 ,570 ,629 ,802 ,790 ,764 ,714 ,739 ,774 ,651 ,615 ,687 ,753 ,428 ,760 ,696 ,697 ,747 ,693 ,840 ,787 ,771 ,759 ,753 ,572 ,867 ,863

NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1 TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH2 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 CCQ2 <--- 6 CCQ3 <--- 6 CCQ1 <--- 6 TDT2 <--- 7 TDT1 <--- 7 TDT3 <--- 7 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8

168

Sau khi bỏ biến KSH2 Regression Weights: (Group number 1 - Default model) C.R. P Label

,035 25,847 *** ,035 26,045 *** ,036 23,511 *** ,039 20,008 *** ,036 22,295 ***

,034 29,673 *** ,035 28,570 *** ,036 26,426 *** ,037 24,751 ***

,036 21,911 *** ,038 20,643 *** ,044 20,895 *** ,043 22,507 ***

,044 22,704 *** ,044 22,757 ***

,041 22,609 ***

,030 29,918 *** ,031 29,305 *** ,045 21,176 ***

,043 17,607 *** ,036 26,417 ***

Estimate S.E. 1,000 ,894 ,907 ,855 ,785 ,793 1,000 ,999 ,997 ,956 ,918 1,000 ,786 ,792 ,921 ,976 1,000 ,988 ,991 1,000 ,937 1,000 ,903 ,902 ,955 1,000 ,756 ,962 1,000

NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1 TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 CCQ2 <--- 6 CCQ3 <--- 6 CCQ1 <--- 6 TDT2 <--- 7 TDT1 <--- 7 TDT3 <--- 7 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8

169

Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1 TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 CCQ2 <--- 6 CCQ3 <--- 6 CCQ1 <--- 6 TDT2 <--- 7 TDT1 <--- 7 TDT3 <--- 7 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8 Estimate ,783 ,719 ,724 ,660 ,570 ,629 ,801 ,790 ,764 ,715 ,740 ,774 ,651 ,614 ,662 ,739 ,782 ,695 ,697 ,748 ,692 ,841 ,787 ,771 ,758 ,755 ,570 ,868 ,862

170

171

Phụ lục 5: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm trình độ chuyên môn

Multiple Comparisons

Dependent Variable: DDKchung Tukey HSD (I) TDCM (J) TDCM Sig. 95% Confidence Interval

Std. Error

Mean Difference (I-J) Lower Bound Upper Bound

1,00

2,00

3,00 ,04489 -,10883 -,04489 -,15372* ,10883 ,15372* ,08096 ,07173 ,08096 ,05782 ,07173 ,05782 ,844 ,283 ,844 ,022 ,283 ,022 -,1451 -,2771 -,2348 -,2894 -,0595 ,0180 ,2348 ,0595 ,1451 -,0180 ,2771 ,2894 2,00 3,00 1,00 3,00 1,00 2,00

*. The mean difference is significant at the 0.05 level.

Phụ lục 6: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm vùng/miền Multiple Comparisons

Sig. 95% Confidence Interval

Std. Error

Dependent Variable: DDKchung Tukey HSD (I) VUNGMIE N (J) VUNGMIE N Mean Difference (I-J) Lower Bound Upper Bound

1,00

2,00

3,00 ,07099 ,05349 ,07099 ,06845 ,05349 ,06845 ,021 ,110 ,021 ,461 ,110 ,461 -,3555 -,2331 ,0223 -,0794 -,0178 -,2419 -,0223 ,0178 ,3555 ,2419 ,2331 ,0794 -,18890* -,10765 ,18890* ,08125 ,10765 -,08125 2,00 3,00 1,00 3,00 1,00 2,00

*. The mean difference is significant at the 0.05 level.

172

Phụ lục 7: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Bố Multiple Comparisons

Sig. 95% Confidence Interval

Dependent Variable: DDKchung Tukey HSD (I) NGHE_BO (J) NGHE_BO Std. Error

Mean Difference (I-J) Lower Bound Upper Bound

1,00

2,00

3,00 2,00 3,00 1,00 3,00 1,00 2,00 ,998 ,011 ,998 ,068 ,011 ,068 -,2733 ,0387 -,2590 -,0120 -,3738 -,4387 ,2590 ,3738 ,2733 ,4387 -,0387 ,0120 -,00713 ,20623* ,00713 ,21336 -,20623* -,21336 ,11343 ,07142 ,11343 ,09605 ,07142 ,09605

*. The mean difference is significant at the 0.05 level.

Phụ lục 8: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Mẹ Multiple Comparisons

Sig. 95% Confidence Interval

Dependent Variable: DDKchung Tukey HSD (I) NGHE_ME (J) NGHE_ME Std. Error

Mean Difference (I-J) Lower Bound Upper Bound

1,00

2,00

3,00 2,00 3,00 1,00 3,00 1,00 2,00 ,04439 ,20714* -,04439 ,16276 -,20714* -,16276 ,12646 ,06986 ,12646 ,11203 ,06986 ,11203 ,934 ,009 ,934 ,314 ,009 ,314 -,2523 ,0432 -,3411 -,1001 -,3711 -,4256 ,3411 ,3711 ,2523 ,4256 -,0432 ,1001

*. The mean difference is significant at the 0.05 level.

173

Phụ lục 9: Mô hình cấu trúc (SEM) ban đầu

• Chưa chuẩn hóa

• Bảng kết quả ước lượng hệ số của mô hình SEM (Ban đầu)

Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

P Label C.R. ,038 12,708 9,394 ,029 -,129 ,062 4,238 ,036 3,852 ,053 -1,113 ,040 -,202 ,041 ,042 8,271 ,039 10,696 *** *** ,897 *** *** ,266 ,840 *** ***

Estimate S.E. ,487 ,276 -,008 ,152 ,204 -,045 -,008 ,347 ,421 1,000 ,894 ,907 ,851 ,786 ,792 ,035 25,865 ,035 26,063 ,036 23,417 ,039 20,043 ,036 22,260 *** *** *** *** ***

TDK <--- GDK TDK <--- KNK DDK <--- GDK DDK <--- KNK DDK <--- NCT DDK <--- CCQ DDK <--- TDT DDK <--- TDK DDK <--- KSH NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1

174

C.R. P Label

,034 29,262 ,035 28,095 ,037 26,116 ,038 24,253 *** *** *** ***

,037 21,484 ,039 20,257 ,045 20,856 ,045 22,278 *** *** *** ***

,044 22,211 ,044 22,302 *** ***

,042 22,573 ***

,031 29,595 ,031 28,950 ,046 20,989 *** *** ***

,043 17,546 ,034 27,805 *** ***

TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 CCQ2 <--- 6 CCQ3 <--- 6 CCQ1 <--- 6 TDT2 <--- 7 TDT1 <--- 7 TDT3 <--- 7 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8 Estimate S.E. 1,000 1,002 ,996 ,957 ,918 1,000 ,786 ,792 ,941 ,992 1,000 ,984 ,988 1,000 ,953 1,000 ,905 ,901 ,963 1,000 ,760 ,953 1,000

175

Phụ lục 10: Mô hình SEM điều chỉnh

• Chưa chuẩn hóa

176

• Bảng hệ số hồi quy trong mô hình cấu trúc điều chỉnh

Regression Weights: (Group number 1 - Default model) C.R.

P Label

,038 11,803 *** 9,386 *** ,030 4,113 *** ,035 ,037 4,832 *** ,036 11,240 *** 9,380 *** ,037

,035 25,859 *** ,035 26,065 *** ,037 23,231 *** ,039 19,856 *** ,036 22,049 ***

,034 29,162 *** ,036 28,026 *** ,037 26,057 *** ,038 24,208 ***

,037 21,434 *** ,039 20,216 *** ,046 20,651 *** ,046 21,861 ***

,044 22,327 *** ,044 22,349 ***

,042 22,662 *** ,036 27,095 ***

TDK <--- GDK TDK <--- KNK DDK <--- KNK DDK <--- NCT DDK <--- KSH DDK <--- TDK NCT4 <--- 1 NCT6 <--- 1 NCT5 <--- 1 NCT1 <--- 1 NCT3 <--- 1 NCT2 <--- 1 TDK4 <--- 2 TDK3 <--- 2 TDK5 <--- 2 TDK2 <--- 2 DDK4 <--- 3 DDK5 <--- 3 DDK2 <--- 3 DDK1 <--- 3 KSH1 <--- 4 KSH3 <--- 4 KSH4 <--- 4 GDK3 <--- 5 GDK1 <--- 5 GDK4 <--- 5 GDK2 <--- 5 KNK2 <--- 8 KNK3 <--- 8 Estimate S.E. ,450 ,281 ,144 ,179 ,406 ,344 1,000 ,899 ,913 ,849 ,782 ,789 1,000 1,003 ,997 ,958 ,919 1,000 ,785 ,792 ,951 1,001 1,000 ,987 ,988 1,000 ,955 ,969 1,000

177

Phụ lục 11: Phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm – Theo trạng thái nghề nghiệp

• Mô hình SEM (chưa chuẩn hóa) với nhóm sinh viên

• Mô hình SEM (chưa chuẩn hóa) với nhóm thanh niên đã đi làm

178

• Ước lượng các hệ số hồi quy ở 2 mô hình cấu trúc (với nhóm sinh viên và

nhóm thanh niên đã đi làm)

Mô hình nhóm sinh viên Mô hình nhóm đi làm Mối liên hệ Estimate S.E. C.R. P Estimate S.E. C.R. P

TDK <--- GDK 0,608 0,073 8,296 *** 0,386 0,047 8,302 ***

TDK <--- KNK 0,273 0,051 5,395 *** 0,292 0,038 7,753 ***

DDK <--- KNK 0,164 0,058 2,831 0,005 0,124 0,044 2,804 0,005

DDK <--- NCT 0,03 0,057 0,522 0,602 0,248 0,048 5,135 ***

DDK <--- KSH 0,298 0,059 5,031 *** 0,474 0,046 10,239 ***

DDK <--- TDK 0,443 0,066 6,709 *** 0,301 0,045 6,739 ***