Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một
đơn vị hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra các sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện
các mục tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có những quyết sách, chiến
lược phù hợp, kịp thời đối với các hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu chỉ dựa vào khả năng của mình và bỏ qua
sự hỗ trợ của các nguồn lực bên ngoài, doanh nghiệp khó có thể đứng vững và phát
triển được.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng cần
thiết không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh
nghiệp. Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được
các quyết định kinh tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và
các nguồn lực; Nhà đầu tư có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của
mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với
các khoản cho vay; Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp
sẽ thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan quản lý Nhà nước có được các chính
sách để tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp
luật.
Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất cả các
thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính kế toán cuối
kỳ của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ thống báo cáo tài
chính kế toán là một tấm gương phản ánh toàn diện về tình hình tài chính, khả năng
và sức mạnh của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Do đó, việc trình
bày các báo cáo tài chính kế toán một cách trung thực và khách quan sẽ là điều kiện
tiên quyết để phân tích chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp .
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính và đánh
giá thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty
XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình , nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn
và các cán bộ phòng kế toán tài vụ, Ban quản lý của Công ty, em đã mạnh dạn chọn
đề tài: "Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế
toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
XNK Thiết bị điện ảnh - truyền hình”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày với nội dung như sau :
Phần I: Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo
tài chính kế toán trong doanh nghiệp
Phần II: Phân tích tình hình tài chính của Công ty XNK Thiết bị điện ảnh - truyền
hình” chủ yếu thông qua bảng CĐKT và BCKQKD :
Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty XNK Thiết bị điện ảnh
- truyền hình
.
Phần I
Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính
kế toán trong doanh nghiệp
I. Tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp.
1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và các mối quan hệ tài chính chủ yếu của
doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp :
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh
nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc
gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh : Đầu tư, tiêu thụ và phân phối,
trong đó sự tru chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói
cách khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền
tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn một
cách có hiệu quả.
Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình hình tài
chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tài chính là rất quan trọng.
Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người ta có thể sử dụng thông tin
đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong tương lai và triển
vọng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm đối tượng khác nhau như Ban giám đốc
(Hội đồng quản trị) các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay tín
dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và kể cả cơ quan Nhà nước cũng như
người lao động. Mỗi nhóm người này có nhu cầu thông tin khác nhau, do vậy mỗi
nhóm có những xu hướng tập trung vào các khía cạnh riêng trong bức tranh tài
chính của một doanh nghiệp.
1.2: Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp:
Hoạt đônag tài chính của doanh nghiệp rất phức tạp, phong phú và đa dạng,
muốn phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì trước hết phải hiểu rõ được
các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp:
1.2.1: Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước:
Quan hệ này phát sinh dưới hình thái tiền tệ, theo hai chiều vận động ngược
nhau. Đó là: Ngân sách Nhà nước góp phần hình thành vốn sản xuất kinh doanh
(tuỳ theo mức độ và loại hình sở hữu doanh nghiệp); Ngược lại doanh nghiệp phải
nộp các khoản thuế, phí, lệ phí theo quy định để hình thành Ngân sách Nhà nước.
1.2.2: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức trung gian tài chính:
Các trung gian tài chính (chủ yếu là ngân hàng ) là cầu nối giữa người có vốn
tạm thời nhàn rỗi với người cần vốn để đầu tư kinh tế. Quan hệ này phát sinh khi
doanh nghiệp đi vay vốn của các tổ chức tín dụng đồng thời trả chi phí cho việc sử
dụng vốn đi vay đó .
1.2.3: Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường:
Với tư cách là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ với thị trường
cung cấp các yếu tố đầu vào và thị trường phân phối đầu ra.Thông qua thị trường,
doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung ứng, từ đó doanh
nghiệp xác định số tiền đầu tư cho kế hoạch sản xuất và tiêu thụ nhằm thoả m•n
nhu cầu xã hội và thu được lợi nhuận tối đa với lượng chi phí bỏ ra thấp nhất , đứng
vững và liên tục mở rộng thị trường trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Trong nền kinh tế thị trường, ngoài các yếu tố nêu trên, các doanh nghiệp còn
phải tiếp cận với thị trường vốn. Doanh nghiệp có thể tạo ra được nguồn vốn dài
hạn bằng việc phát hành chứng khoán như kỳ phiếu, cổ phiếu, đồng thời có thể
kinh doanh chứng khoán để kiếm lời trên thị trường này.
1.2.4: Quan hệ phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp:
Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đó là các
quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các đơn vị
thành viên với nhau, giữa quyền sử dụng vốn và sở hữu vốn. Các quan hệ này được
biểu hiện thông qua các chính sách tài chính của doanh nghiệp như chính sách phân
phối thu nhập, chính sách về cơ cấu vốn, về đầu tư và cơ cấu đầu tư.
1.2.5: Quan hệ giữa doanh nghiệp với hộ gia đình:
Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp thu hút sức lao động, tiền vốn của các
thành viên hộ gia đình để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh, đồng thời doanh
nghiệp phải trả tiền lương, lãi suất cho họ.
1.2.6: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài:
Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với các
tổ chức kinh tế nước ngoài.
Tóm lại, thông qua các mối quan hệ trên cho thấy tài chính doanh nghiệp đã
góp phần hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các doanh nghiệp phải sử
dụng đúng đắn và có hiệu quả các công cụ tài chính nhằm thúc đấy doanh nghiệp
không ngừng hoàn thiện các phương thức kinh doanh để đạt hiệu quả cao hơn, nếu
không sẽ kìm hãm sự phát triển của toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia.
2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh
tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì
phải bảo đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. Muốn vậy phải phân
tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là nghiên cứu
khám phá hoạt động tài chính đã được biểu hiện bằng con số. Cụ thể hơn , phân
tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu
về tài chính hiện hành với quá khứ mà nếu không phân tích thì các con số đó chưa
có ý nghĩa lớn đối với những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là sử dụng
các công cụ, phương pháp và kỹ thuật để làm các con số nói lên thực chất của tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ chính xác
hơn nếu như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng
thông tin của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của một
nhóm người trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài chính cũng
nhằm thoả mãn một cách duy nhất cho các đối tương quan tâm, cụ thể là:
Đối với bản thân doanh nghiệp: Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các
nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình tài chính của
đơn vị mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các kết quả
đúng đắn kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thấy
được một cách toàn diện tình hình tài chính trong doanh nghiệp trong mối quan hệ
nội bộ với mục đích lợi nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó dẫn dắt
doanh nghiệp theo một chiều hướng sao cho chỉ số của chỉ tiêu tài chính thoả m•n
yêu cầu của chủ nợ cũng như của các chủ sở hữu.
Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Phân tích tình hình tài
chính cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản nợ và l•i. Đồng
thời, họ quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời của doanh
nghiệp để đánh giá đơn vị có trả nợ được hay không trước khi quyết định cho vay.
Đối với nhà cung cấp: Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và tương
lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của doanh nghiệp đối
với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu dài đối với doanh
nghiệp hay từ chối quan hệ kinh doanh .
Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy khả năng
sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh nghiệp để quyết
định xem có nên đầu tư hay không.
Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp: Nhóm người này cũng muốn biết về
thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước: Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản lý vĩ mô, để
điều tiết nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động tài chính tập trung vào việc mô tả mối quan hệ mật thiết
giữa các khoản mục và nhóm các khoản mục nhằm đạt được mục tiêu cần thiết
phục vụ cho chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhằm đưa ra quyết
định hợp lý, hiệu quả phù hợp với mục tiêu của đối tượng này. Mục đích tối cao và
quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính là giúp cho nhà quản trị lựa chọn
được phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác tiềm năng của doanh
nghiệp. Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì hệ thống báo cáo tài
chính kế toán của doanh nghiệp chính là cơ sở tài liệu hết sức quan trọng .
II. Hệ Thống báo cáo tài chính kế toán trong phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
1. Khái niệm và ý nghĩa.
1.1. Khái niệm:
Báo cáo tài chính kế toán là những báo cáo tổng hợp được lập dựa vào phương
pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát
sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính kế toán phản
ánh một cách có hệ thống tình hình tài sản, công nợ, tình hình sử dụng vốn và kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong những thời kỳ nhất định, đồng
thời chúng được giải trình giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận
biết được thực trạng tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để đề ra
các quyết định cho phù hợp .
1.2. ý nghĩa:
Báo cáo tài chính kế toán là căn cứ quan trọng cho việc đề ra quyết định quản lý
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thích hợp, giúp cho chủ doanh
nghiệp sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực, nhà đầu tư
có được quyết định đúng đắn đối với sự đầu tư của mình, các chủ nợ được bảo đảm
về khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản cho vay, Nhà cung cấp và
khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp thực hiện các cam kết, các cơ quan
Nhà nước có được các chính sách phù hợp để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như kiểm soát được doanh nghiệp
bằng pháp luật
2. Vai trò mục đích và các yêu cầu đối với các thông tin trình bày trên hệ thống báo
cáo tài chính kế toán
2.1. Vai trò:
Hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp có những vai trò sau đây :
* Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết, giúp kiểm tra phân tích một
cách tổng hợp toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực
hiện các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp .
* Cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh,
tình hình chấp hành các chính sách chế độ kế toán - tài chính của doanh nghiệp .
* Cung cấp thông tin và số liệu cần thiết để phân tích và đánh giá tình hình, khả
năng về tài chính- kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho công tác dự báo và lập kế
hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp .
2.2. Mục đích :
Doanh nghiệp phải lập và trình bày các báo cáo tài chính kế toán với các mục
đích sau:
* Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát và toàn diện tình hình biến động về tài
sản công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán .
* Cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu phục vụ việc đánh giá, phân tích
tình hình kết quả hoạt động kinh doanh đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua ,làm cơ sở để đưa ra các quyết định kinh tế trong
tương lai .
2.3. Yêu cầu đối các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính kế toán:
Để thực hiện được vai trò là hệ thống cung cấp thông tin kinh tế hữu ích của doanh
nghiệp cho các đối tượng sử dụng, các thông tin trên các báo cáo tài chính kế toán
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Tính dễ hiểu: Các thông tin do các báo cáo tài chính kế toán cung cấp phải dễ hiểu
đối với người sử dụng để họ có thể lấy đó làm căn cứ đưa ra các quyết định của
mình. Tất nhiên người sử dụng ở đây phải là người có kiến thức về hoạt động kinh
doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về lĩnh vực tài chính kế toán ở một mức độ
nhất định .
Độ tin cậy: Để báo cáo tài chính kế toán thực sự hữu ích đối với người sử dụng,
các thông tin trình bầy trên đó phải đáng tin cậy. Các thông tin được coi là đáng tin
cậy khi chúng đảm bảo một số yêu cầu sau
+ Trung thực: Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bầy một cách trung
thực về những giao dịch và sự kiện phát sinh.
+ Khách quan : Để có độ tin cậy cao, thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính
kế toán phải khách quan, không được xuyên tạc hoặc bóp méo một cách cố ý thực
trạng tài chính của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính sẽ không được coi là khách
quan nếu việc lựa chọn hoặc trình bầy có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hoặc
xét đoán và cách lựa chọn trình bầy đó nhằm đạt đến kết quả mà người lập báo cáo
đã biết trước .
+ Đầy đủ: thông tin trên báo cáo tài chính kế toán cung cấp phải đảm bảo đầy
đủ, không bỏ sót bất cứ khoản mục hay chỉ tiêu nào vì một sự bỏ sót dù nhỏ nhất
cũng có thể gây ra thông tin sai lệch dẫn đến kết luận phân tích nhầm lẫn .
+ Tính so sánh được: Các thông tin do hệ thống báo cáo tài chính kế toán cung
cấp phải đảm bảo cho người sử dụng có thể so sánh chúng với các kỳ trước, kỳ kế
hoạch để xác định được xu hướng biến động thay đổi về tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Ngoài ra, người sử dụng cũng có nhu cầu so sánh báo cáo tài chính
kế toán của các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực để đánh giá mối tương quan giữa
các doanh nghiệp cũng như so sánh thông tin khi có sự thay đổi về cơ chế chính
sách tài chính kế toán mà doanh nghiệp áp dụng.
+ Tính thích hợp: Để báo cáo tài chính kế toán trở nên có ích cho người sử
dụng, các thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế toán phải thích hợp với
người sử dụng để họ có thể đưa ra các quyết định kinh tế của mình.
3. Nguyên tắc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính kế toán.
Nhìn chung, báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của quá trình hạch
toán của doanh nghiệp. Tất cả các phần hành kế toán đều có mục đích chung là
phản ánh các giao dịch và sự kiện phát sinh trong kỳ để lập và trình bầy báo cáo tài
chính kế toán.Vì vậy, việc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính kế
toán của doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc chung sau :
Nguyên tắc thước đo tiền tệ: yêu cầu thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế
toán phải tuân thủ các quy định về đơn vị tiền tệ và đơn vị tính một cách thống nhất
khi trình bầy các chỉ tiêu trong một niên độ kế toán.
Nguyên tắc coi trọng bản chất hơn hình thức: Một thông tin được coi là trình bày
một cách trung thực về những giao dịch và sự kiện khi chúng phản ánh được bản
chất kinh tế của giao dịch và sự kiện đó chứ không đơn thuần là hình thức của giao
dịch và sự kiện.
Nguyên tắc trọng yếu: Theo nguyên tắc này, mọi thông tin mang tính trọng yếu
cần thiết được trình bày riêng rẽ trong báo cáo tài chính kế toán vì thông tin đó có
thể tác động trực tiếp đến việc đưa ra các quyết định kinh tế của người sử dụng báo
cáo tài chính kế toán.
Nguyên tắc tập hợp: Theo nguyên tắc này, đối với các thông tin không mang tính
trọng yếu thì không cần thiết phải trình bày riêng rẽ mà cần tập hợp chúng lại theo
cùng tính chất hoặc cùng chức năng tương đương nhằm mục đích đơn giản hoá
công tác phân tích báo cáo tài chính kế toán.
Nguyên tắc nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài
chính kế toán cần được duy trì một cách nhất quán từ niên độ này sang niên độ
khác, trừ khi có sự thay đổi quan trọng về tính chất của các hoạt động của doanh
nghiệp.
Nguyên tắc so sánh: Các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính kế toán phải
đảm bảo tính so sánh giữa niên độ này và niên độ trước nhằm giúp cho người sử
dụng hiểu được thực trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và sự
biến động của chúng so với các niên độ trước.
Nguyên tắc dồn tích: Báo cáo tài chính kế toán cần được lập trên cơ sở dồn tích
ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền mặt. Theo nguyên tắc này, tất
cả các giao dịch và sự kiện cần được ghi nhận khi chúng phát sinh và được trình
bày trên các báo cáo tài chính kế toán phù hợp với niên độ mà chúng phát sinh.
Nguyên tắc bù trừ: Theo nguyên tắc này, báo cáo tài chính kế toán cần trình bày
riêng biệt tài sản Có và tài sản Nợ, không được phép bù trừ các tài sản với các
khoản nợ để chỉ trình bày vốn chủ sở hữu và tài sản thuần của doanh nghiệp.
4. Các loại báo cáo trong hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp:
Nhìn chung, hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp ở bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới đều cũng phải trình bày 4 báo cáo chủ yếu sau:
Bảng cân đối kế toán, mẫu số B01-DN.
Báo cáo kết quả kinh doanh, mẫu số B02-DN.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mẫu số B03-DN.
Bản thuyết minh báo cáo tài chính, mẫu số B04-DN.
Ngoài ra, để phục vụ cho yêu cầu quản lý kinh tế tài chính, yêu cầu chỉ đạo mà
các ngành, các công ty, các tập đoàn sản xuất, các liên hiệp xí nghiệp, các công ty
liên doanh có thể quy định thêm các báo cáo tài chính kế toán khác. Tuy nhiên,
trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng ta sẽ đề cập đến các báo cáo cơ bản như đã
trình bày ở trên.
4.1. Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN):
4.1.1. Khái niệm và ý nghĩa:
a) Khái niệm: Bảng CĐKT (hay còn gọi là bảng tổng kết tài sản) là một báo
cáo tài chính kế toán tổng hợp phản ánh khái quát tình hình tài sản của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định, dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và
nguồn hình thành tài sản. Về bản chất, Bảng CĐKT là một bảng cân đối tổng hợp
giữa tài sản với nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả của doanh nghiệp .
b) ý nghĩa: Bảng CĐKT là tài liệu quan trọng để phân tích, đánh giá một
cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những
triển vọng kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
.1.2. Cơ sở lập và các nguyên tắc chung trình bày thông tin trên Bảng cân
đối kế toán:
a) Cơ sở lập bảng CĐKT: Bảng CĐKT được lập căn cứ vào số liệu
của các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết (sổ cái và sổ chi tiết) các tài khoản có số dư
cuối kỳ phản ánh tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và
Bảng CĐKT kỳ trước.
b) Các nguyên tắc trình bày thông tin trên bảng CĐKT:
Bảng CĐKT là một trong những báo cáo kế toán quan trọng nhất trong hệ thống
báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp. Nó cung cấp thông tin về thực trạng tài
chính và tình hình biến động về cơ cấu tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Vì vậy, thông tin trình bày trên Bảng
CĐKT phải luôn tuân thủ các nguyên tắc sau :
Nguyên tắc phương trình kế toán: Theo nguyên tắc này, toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp luôn luôn tương đương với tổng số nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, thể
hiện bằng phương trình sau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Hay là: Tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu
Hoặc là: Nguồn vốn chủ sở hữu = Tài sản - Nợ phải trả.
Nguyên tắc số dư: Theo nguyên tắc này, chỉ những tài khoản có số dư mới được
trình bày trên Bảng CĐKT. Những tài khoản có số dư là những tài khoản phản ánh
tài sản (Tài sản Có) và những tài khoản phản ánh Nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở
hữu (Tài sản Nợ). Các tài khoản không có số dư phản ánh doanh thu, chi phí làm cơ
sở để xác định kết quả kinh doanh trong kỳ không được trình bày trên Bảng CĐKT
mà được trình bày trên Báo cáo kết quả kinh doanh.
Nguyên tắc trình bày các khoản mục theo tính thanh khoản giảm dần:
Theo nguyên tắc này, các khoản mục tài sản Có của doanh nghiệp được trình
bày và sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần như sau:
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn:
I. Tiền .
II. Đầu tư ngắn hạn .
III. Các khoản phải thu .
IV. Tồn kho.
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn.
Nguyên tắc trình bày Nợ phải trả theo thời hạn: Theo nguyên tắc này, các khoản
nợ phải chả được trình bày theo nguyên tắc các khoản vay và nợ ngắn hạn được
trình bày trước, các khoản vay và nợ dài hạn được trình bày sau.
4.1.3. Nội dung và kết cấu của bảng CĐKT:
Bảng CĐKT có cấu tạo dưới dạng bảng cân đối số, đủ các tài khoản kế toán
và được sắp xếp các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng CĐKT gồm có hay phần:
Phần tài sản: phản ánh giá trị tài sản.
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản.
Hai phần “Tài sản” và “Nguồn vốn” có thể được chia hai bên (bên trái và
bên phải) hoặc một bên (phía trên và phía dưới ). Mỗi phần đều có số tổng cộng và
số tổng cộng của hai phần bao giờ cũng bằng nhau vì cùng phản ánh một lượng tài
sản theo nguyên tắc phương trình kế toán đã trình bày ở trên.
Phần tài sản được chia làm hai loại:
Loại A: TSLĐ và ĐTNH phản ánh giá trị của các loại tài sản có thời gian chuyển
đổi thành tiền trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh.
Loại B: TSCĐ và ĐTDH phản ánh giá trị của các loại tài sản có thời gian chuyển
đổi thành tiền từ một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh trở nên.
Phần nguồn vốn được chia làm hai loại:
Loại A: Nợ phải trả thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với các chủ nợ (người
bán chịu, người cho vay, Nhà nước, công nhân viên).
Loại B: Nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp trước chủ
sở hữu đã đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
Trong mỗi loại của BCĐKT được chi tiết thành quách khoản mục, các khoản bảo
đảm cung cấp thông tin cần thiết cho người đọc và phân tích báo cáo tài chính kế
toán của doanh nghiệp.
Tóm lại, về mặt quan hệ kinh tế, qua việc xem xét phần “Tài sản “ cho phép đánh
giá tổng quát năng lực và trình độ sử dụng tài sản.Về mặt pháp lý, phần tài sản thể
hiện “số tiềm lực “ mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với
mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. Khi xem xét phần “Nguồn
vốn”, về mặt kinh tế, người sử dụng thấy được thực trạng tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, người sử dụng thấy được trách nhiệm của doanh
nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản đ• hình
thành bằng vốn vay Ngân hàng ,vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải
thanh toán các khoản nợ với người lao động, với cổ đông, với nhà cung cấp, với
Ngân sách ....
4.2. Báo cáo kết quả kinh doanh (Mẫu số B02-DN):
4.2.1. Khái niệm và ý nghĩa :
a) Khái niệm: Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD) là một báo
cáo tài chính kế toán tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh,
tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong một kỳ hạch
toán.
b) ý nghĩa: BCKQKD là tài liệu quan trọng cung cấp số liệu cho người sử dụng
thông tin có thể kiểm tra, phân tích và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và các doanh nghiệp khác trong
cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và
xu hướng vận động nhằm đưa ra các quyết định quản lý và quyết định tài chính cho
phù hợp.
4.2.2. Cơ sở lập và nguyên tắc chung trình bày thông tin trên BCKQKD:
a) Cơ sở lập BCKQKD: BCKQKD được lập căn cứ vào số liệu của các sổ kế toán
tổng hợp và chi tiết các khoản phản ánh doanh thu, thu nhập và chi phí của doanh
nghiệp và sổ kế toán chi tiết tài khoản thuế phải chả phải nộp.
b) Các nguyên tắc trình bày thông tin trên BCKQKD:
Cùng với bảng CĐKT, BCKQKD là một trong những báo cáo quan trọng nhất của
hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp. BCKQKD cung cấp thông tin
về kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một kỳ ) của doanh nghiệp .
Các thông tin trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh phải tuân thủ các nguyên
tắc sau đây:
Nguyên tắc phân loại hoạt động: BCKQKD phân loại hoạt động theo mức độ
thông dụng của hoạt động đối với doanh nghiệp. Như vậy, các hoạt động thông
thường của doanh nghiệp sẽ được phân loại là hoạt động sản xuất kinh doanh, kết
quả hoạt động này tạo ra doanh thu của doanh nghiệp. Các hoạt động liên quan đến
đầu tư tài chính được phân loại là hoạt động tài chính, hoạt động không xảy ra
thường xuyên sẽ được phân loại là hoạt động bất thường.
Nguyên tắc ghi nhận doanh thu và chi phí:
+ Nguyên tắc phù hợp: BCKQKD trình bày các khoản doanh thu, thu nhập và chi
phí của doanh nghiệp trong kỳ. Vì vậy, BCKQKD phải được trình bày theo nguyên
tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
+ Nguyên tắc thận trọng: Theo nguyên tắc này, một khoản chưa xác định chắc
chắn sẽ đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp thì chưa được ghi
nhận là doanh thu trong kỳ của doanh nghiệp và không được trình bày trên
BCKQKD. Ngược lại, một khoản lỗ trong tương lai chưa thực tế phát sinh đ• được
ghi nhận là chi phí và được trình bày trên BCKQKD.
4.2.3. Nội dung và kết cấu của báo cáo kết quả kinh doanh:
BCKQKD gồm có 3 phần:
Phần I: Lãi, lỗ, phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
bao gồm hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác.
Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước: phản ánh tình hình thực
hiện nghĩa vụ về thuế và các khoản phải trả khác của doanh nghiệp đối với Nhà
nước.
Phần III: Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, được miễn giảm:
phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ cuối kỳ,
số thuế GTGT được hoàn lại và còn được hoàn lại, số thuế GTGT được miễn giảm,
đã miễn giảm và còn được miễn giảm.
4.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03- DN):
4.3.1. Khái niệm và ý nghĩa :
a) Khái niệm: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT) là báo cáo kế toán tổng hợp phản
ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Căn
cứ vào báo cáo này, người ta có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự biến
động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán cũng như tình hình lưu
chuyển tiền của kỳ tiếp theo, trên cơ sở đó dự đoán được nhu cầu và khả năng tài
chính của doanh nghiệp .
b) ý nghĩa: Báo cáo LCTT cung cấp các thông tin bổ sung về tình hình tài chính
của doanh nghiệp mà BCĐKT và BCKQKD chưa phản ánh được do kết quả hoạt
động trong kỳ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi nhiều khoản mục phi tiền tệ. Cụ
thể là, báo cáo LCTT cung cấp các thông tin về luồng vào và ra của tiền và coi như
tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn
sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những
sự thay đổi về lãi suất giúp cho người sử dụng phân tích đánh giá khả năng tạo ra
các luồng tiền trong tương lai, khả năng thanh toán các khoản nợ, khả năng chi trả
lãi cổ phần...đồng thời những thông tin này còn giúp người sử dụng xem xét sự
khác nhau giữa lãi thu được và các khoản thu chỉ bằng tiền.
4.3.2. Cơ sở lập và nguyên tắc chung trình bày thông tin trên Báo cáo LCTT:
a) Cơ sở lập báo cáo LCTT:
Báo cáo LCTT được lập căn cứ vào bảng CĐKT, BCKQKD và một số các
sổ chi tiết tài khoản liên quan.
b) Các nguyên tắc trình bày thông tin trên báo cáo LCTT:
Báo cáo LCTT là một báo cáo quan trọng trong hệ thông báo cáo tài chính kế toán
của doanh nghiệp. Các thông tin trình bày trên Báo cáo LCTT phải được tuân thủ
theo các nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc phân loại hoạt động: Ngyuên tắc phân loại hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính trên báo cáo LCTT khác biệt với
nguyên tắc phân loại hoạt động trên báo cáo KQKD. Việc phân loại trên báo cáo
LCTT căn cứ vào bản chất của hoạt động đó đối với doanh nghiệp, tức là hoạt động
sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động tạo ra doanh thu của doanh nghiệp .
+ Hoạt động đầu tư: là hoạt động làm thay đổi các tài sản dài hạn và các khoản đầu
tư của doanh nghiệp vào một doanh nghiệp khác.
+ Hoạt động tài chính: là các hoạt động tạo ra sự thay đổi của vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp.
Việc phân loại hoạt động trên Báo cáo LCTT cũng còn tuỳ thuộc vào đặc điểm và
tuỳ loại hình doanh nghiệp. Ví dụ, đối với lĩnh vực ngân hàng hay các tổ chức tài
chính, việc cho vay và huy động vốn là hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường.
Nhưng đối với các doanh nghiệp khác, luồng tiền từ hoạt động cho vay lại có thể
được phân loại thành hoạt động đầu tư và luồng tiền từ việc huy động vốn lại được
phân loại là hoạt động tài chính.
Nguyên tắc trình bày luồng tiền theo phương pháp trực tiếp:
Theo nguyên tắc này chỉ những giao dịch bằng tiền mới được trình bày trên báo
cáo lưu chuyển tiền tệ. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế để trình bày các luồng tiền
theo phương pháp trực tiếp có hay cách:
+ Thứ nhất: Các luồng tiền được trình bày căn cứ vào các bút toán ghi sổ chi tiết
các giao dịch bằng tiền.
+ Thứ hai: Các luồng tiền được xác định bằng cách điều chỉnh:
- Doanh thu cộng (trừ) các khoản phải thu.
- Chi phí điều chỉnh cho các khoản giá vốn, các khoản phải trả và khấu hao thực tế
phát sinh trong kỳ.
Nguyên tắc trình bày luồng tiền theo phương pháp gián tiếp:
Theo nguyên tắc này, luồng tiền thuần của hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ
được tính từ lợi nhuận trước thuế sau khi được điều chỉnh cho các khoản phi tiền tệ
và lãi lỗ của hoạt động đầu tư và tài chính sẽ được bù trừ cho các biến động của các
khoản phải thu, hàng tồn kho và các khoản phải trả.
Nguyên tắc phương trình lưu chuyển tiền: Theo nguyên tắc này, lưu chuyển tiền
của doanh nghiệp trong kỳ không chỉ đơn thuần là lưu chuyển tiền mặt mà còn bao
gồm cả lưu chuyển các khoản tương đương tiền, lưu chuyển tiền và các khoản
tương đương tiền trong kỳ phải tuân thủ phương trình sau:
Tiền và các khoản tương đương tiền lưu chuyển trong kỳ = Tiền tồn cuối
kỳ - Tiền tồn đầu kỳ +
(-) Các khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ
Nguyên tắc quy ước các luồng tiền: Theo nguyên tắc này các luồng tiền vào doanh
nghiệp được thể hiện bằng số dương (+) và các luồng tiền ra khỏi doanh nghiệp
được thể hiện bằng số âm (-). Đối với các khoản mục dựa trên số chênh lệch cuối
kỳ và đầu kỳ, luồng tiền vào và ra được xác định như sau:
+ Đối với các khoản mục nợ phải thu, hàng tồn kho và tài sản
khác nếu số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ thì số chênh lệch là dòng tiền ra sẽ
mang dấu trừ (-) và ngược lại.
+ Đối với các khoản mục phải trả và nguồn vốn Chủ sở hữu
nếu số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ thì số chênh lệch là dòng tiền vào sẽ mang dấu
dương (+).
4.3.4. Nội dung kết cấu của báo cáo LCTT:
Báo cáo LCTT gồm có ba phần:
a) Phần I: Lưu chuyển tiền từ hoạt động SXKD phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như
tiền thu bán hàng, tiền thu từ các khoản thu thương mại, các chi phí bằng tiền như
tiền trả cho người cung cấp (trả ngay trong kỳ và tiền trả cho khoản nợ từ kỳ trước)
tiền thanh toán cho công nhân viên về lương và BHXH, các chi phí khác bằng tiền
(chi phí văn phòng phẩm, công tác phí...).
b) Phần II: Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, bao gồm
đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt động XDCB,
mua sắm TSCD, đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh,
đầu tư chứng khoán, cho vay, đầu tư ngắn hạn và dài hạn. Dòng tiền lưu chuyển
được tính gồm toàn bộ các khoản thu do bán thanh lý tài sản cố định, thu hồi các
khoản đầu tư vào các đơn vị khác, chi mua sắm, xây dựng TSCĐ, chi để đầu tư vào
các đơn vị khác.
c) Phần III: Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt
động tài chính bao gồm các nghiệp vụ làm tăng, giảm vốn kinh doanh của doanh
nghiệp như chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn, nhận vốn liên doanh, phát hành
trái phiếu, cổ phiếu, trả nợ vay ... Dòng tiền lưu chuyển được tính bao gồm toàn bộ
các khoản thu, chi liên quan như tiền vay nhận được, tiền thu do nhận vốn góp liên
doanh bằng tiền, do phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tiền chi trả lãi cho các bên góp
vốn, trả lãi cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền ,thu lãi tiền gửi.
4.4. Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B04- DN):
4.4.1. Khái niệm và ý nghĩa:
a) Khái niệm: Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ
thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp được lập để giải thích một số vấn
đề về hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính kế toán khác không thể trình bày rõ ràng và chi
tiết được.
b) ý nghĩa: Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt
động của doanh nghiệp, nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa
chọn để áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và
nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị
của doanh nghiệp. Đồng thời, Thuyết minh báo cáo tài chính cũng có thể trình bày
thông tin riêng tuỳ theo yêu cầu quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, tuỳ thuộc
vào tính chất đặc thù của từng loại hình doanh nghiệp, quy mô, đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý của doanh nghiệp.
4.4.2. Cơ sở lập thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập căn cứ vào số liệu trong:
Các sổ kế toán kỳ báo cáo.
Bảng CĐKT kỳ báo cáo.
Thuyết minh báo cáo kỳ trước, năm trước.
4.4.3. Nội dung và kết cấu của Thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập cùng với BCĐKT và BCKQKD, khi
trình bày và lập Thuyết minh báo cáo tài chính phải trình bày bằng lời văn ngắn
gọn dễ hiểu, phần số liệu phải thống nhất với số liệu trên các báo cáo kế toán khác.
Thuyết minh cáo tài chính có nội dung cơ bản sau :
Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp: Bao gồm các thông tin về niên độ kế
toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán, nguyên tắc, phương pháp kế
toán tài sản cố định, kế toán hàng tồn kho, phương pháp tính toán các khoản dự
phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập dự phòng.
Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính kế toán bao gồm :
+ Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố.
+ Tình hình tăng giảm theo từng nhóm tài sản cố định, từng loại tài sản cố
định.
+ Tình hình thu nhập của công nhân viên.
+ Tình hình tăng, giảm vốn chủ sở hữu.
+ Tình hình tăng, giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Các khoản phải thu và nợ phải trả.
+ Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh
+ Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp
như chỉ tiêu bố trí cơ cấu vốn, tỷ suất lợi nhuận, tình hình tài chính ...
+ Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới.
+ Các kiến nghị.
5. Khái quát hệ thống các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
từ hệ thống báo cáo tài chính kế toán.
Dựa trên cơ sở và nguyên tắc lập các báo cáo tài chính kế toán để phần tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp chúng ta có thể khái quát hệ thống các chỉ tiêu chủ
yếu để phần tích tình hình tài chính của doanh nghiệp qua hai báo cáo quan trọng
nhất là BCĐKT và BCKQKD như sau:
5.1. Nhóm chỉ tiêu chủ yếu để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp được
rút ra trên cơ sở số liệu của BCĐKT:
Tỷ suất đầu tư = TSCĐ và Đầu tư dài hạn/ Tổng tài sản * 100%
5.2. Nhóm chỉ tiêu có liên hệ giữa BCĐKT với BCKQKD trong phân tích tình hình
tài chính của doanh nghiệp:
Trên đây là hệ thống chỉ tiêu dùng để phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp, về nội dung và ý nghĩa của các chỉ tiêu này sẽ được trình bày kỹ ở phần nội
dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
III. nội dung và phương pháp phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1. Phương pháp phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính kế toán là một hệ thống các công cụ,
biện pháp, các kỹ thuật và cách thức nhằm tiếp cận, nghiên cứu các hiện tượng và
các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng chuyển dịch và biến đổi tài
chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Từ đó giúp các đối tượng sử
dụng báo cáo tài chính kế toán có các quyết định phù hợp tuỳ theo mục đích và yêu
cầu của từng đối tượng. Để đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng báo cáo tài
chính kế toán, người ta có nhiều phương pháp phân tích khác nhau như: phương
pháp so sánh, phương pháp loại trừ, phương pháp liên hệ, phương pháp hồi quy
tương quan ... để có thể nắm được thực trạng tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều
góc độ, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp so sánh là
phương pháp chủ yếu được dùng trong nội dung phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp, điều này được thể hiện:
So sánh số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi
tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay tụt lùi trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
So sánh số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ được mức độ phấn đấu của doanh
nghiệp.
So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số trung bình của ngành, của các doanh
nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình là tốt hay xấu,
được hay chưa được.
So sánh có ba hình thức : so sánh theo chiều dọc, so sánh theo chiều ngang và so
sánh theo xu hướng.
+ So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể.
+ So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương
đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các kỳ liên tiếp.
+ So sánh xu hướng thường dùng số liệu từ ba năm trở lên để thấy được sự tiến
triển của các chỉ tiêu so sánh và đặt trong mối liên hệ với chỉ tiêu khác để làm nổi
bật sự biến động về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Khi tiến hành so sánh phải giải quyết các vấn đề về điều kiện so sánh và tiêu chuẩn
so sánh:
Điều kiện so sánh được: khi so sánh theo thời gian, các chỉ tiêu cần thống nhất về
nội dung kinh tế, về phương pháp và đơn vị tính. Khi so sánh về không gian,
thường là so sánh trong một ngành nhất định nên cần phải quy đổi về cùng một quy
mô với các điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Tiêu chuẩn so sánh: là các chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (còn gọi là kỳ
gốc). Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của phân tích mà chọn các tiêu chuẩn so sánh
thích hợp.
2. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp:
Xuất phát từ nhu cầu thông tin về tình hình tài chính của chủ doanh nghiệp và
các đối tượng quan tâm khác nhau, phân tích tình hình tài chính phải đạt được các
mục tiêu sau:
Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp thông tin để đánh giá rủi ro từ hoạt động
đầu tư cho vay của nhà đầu tư, ngân hàng.
Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp thông tin về khả năng tạo ra tiền và tình
hình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính phải làm rõ sự biến đổi của tài sản, nguồn vốn và các
tác nhân gây ra sự biến đổi đó.
Trên cơ sở đó, ta có thể đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định
cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Để cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết có giá trị về xu thế phát
triển của doanh nghiệp, về các mặt mạnh, mặt yếu của hoạt động tài chính chúng ta
sẽ tiến hành phân tích các nội dung chủ yếu về tình hình tài chính của doanh
nghiệp sau đây:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+ Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp.
+ Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp.
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
+ Phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Sau đây chúng ta đi sâu vào phân tích cụ thể:
2.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ cung cấp một cách
tổng quát nhất tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh là khả quan hay không khả
quan. Điều đó sẽ cho phép các nhà quản lý, chủ doanh nghiệp thấy rõ thực chất của
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và dự đoán được khả năng phát triển hay
chiều hướng suy thoái của doanh nghiệp .Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu
hiệu để quản lý doanh nghiệp.
Phân tích khái quát tình hình tài chính trước hết là căn cứ vào số liệu đã phản
ánh trên BCĐKT để so sánh tổng số tài sản (vốn) và tổng số nguồn vốn giữa cuối
kỳ và đầu năm để thấy được quy mô vốn mà đơn vị đã sử dụng trong kỳ cũng như
khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp. Từ đó xác định
sự biến đổi nào là hợp lý, tích cực ngược lại đâu là bất hợp lý, tiêu cực để có
phương án phân tích chi tiết và hoạch định những giải pháp trong quản lý và điều
hành. Cần lưu ý là số tổng cộng của “tài sản” và “nguồn vốn” tăng giảm cho nhiều
nguyên nhân nên chưa thể biểu hiện đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Giả sử tổng tài sản trong kỳ tăng, chưa thể kết luận là quy mô sản xuất kinh doanh
được mở rộng, mà quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng có thể là do vay nợ
thêm, đầu tư hoặc kinh doanh có lãi. Vì thế cần phân tích mối quan hệ giữa các chỉ
tiêu trong BCĐKT:
2.1.1. Phân tích mối quan hệ giữa các khoản mục trong BCĐKT
Để nắm bắt đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài sản của
doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét mối quan hệ và tình hình biến động của
các khoản mục trong BCĐKT.
Theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp bao gồm hai loại cơ
bản:
Tài sản lưu động( loại A. Tài sản).
Tài sản cố định ( loại B. Tài sản).
Nguồn hình thành lên hai loại tài sản cơ bản trên chủ yếu bằng nguồn vốn chủ sở
hữu (loạiB. Nguồn vốn). Bởi vậy ta có cân đối (1) sau đây:
(I+IV) A. TS +(I) B.TS = B.NV (1)
Cân đối (1) chỉ mang tính chất lý thuyết nghĩa là với nguồn vốn chủ sở hữu doanh
nghiệp có thể trang trải cho tài sản cần thiết, phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần phải đi vay hoặc đi chiếm dụng vốn
của đơn vị khác. Điều này trên thực tế không bao giờ xảy ra mà nó chỉ xảy ra trong
hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: (I+IV) A. TS + (I) B.TS > B.NV
Trường hợp này thể hiện doanh nghiệp thiếu nguồn vốn để trang trải tài sản cho
mọi hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình được bình thường, doanh nghiệp phải huy động vốn từ các khoản vay hoặc đi
chiếm dụng vốn từ các đơn vị khác dưới nhiều hình thức như mua trả chậm, thanh
toán chậm hơn so với thời hạn thanh toán.
Trường hợp 2: (I+IV) A. TS + (I) B.TS < B.NV
Trường hợp này nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sử dụng không hết cho tài
sản (thừa nguồn vốn) nên đã bị các doanh nghiệp và các đối tượng khác chiếm
dụng dưới các hình thức như doanh nghiệp bán chịu thành phẩm, hàng hoá hoặc
ứng trước tiền cho người bán, các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược...
Do thiếu nguồn vốn để bù đắp cho tài sản , buộc doanh nghiệp phải trang trải
vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, do đó ta có cân đối (2) như
sau:
(I+II + IV)A.TS + (I+II+III+IV).B.TS =(I).B.NV+ Vay (ngắn hạn và dài hạn)
(2)
Cân đối (2) chỉ mang tính chất lý thuyết, nghĩa là với nguồn vốn chủ sở hữu cộng
với vốn vay doanh nghiệp có thể trang trải cho mọi tài sản của hoạt động sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp không đi chiếm dụng vốn của đơn vị khác và cũng không
bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn. Trên thực tế cân đối này hầu như không xảy ra
mà chỉ xảy ra hai trường hợp sau đây:
Trường hợp 1: Vế trái > Vế phải.
Trong trường hợp này, mặc dù doanh nghiệp đã đi vay nhưng vẫn bị thiếu nguồn
vốn để bù đắp cho tài sản nên buộc phải đi chiếm dụng. Hoạt động tài chính của
doanh nghiệp bước đầu có dấu hiệu không lành mạnh.
Trường hợp 2: Vế trái < Vế phải
Trong trường hợp này nguồn vốn của doanh nghiệp không sử dụng hết vào hoạt
động sản xuất kinh doanh (thừa nguồn vốn) nên đã bị các đơn vị khác chiếm dụng.
2.1.2. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, thế mạnh trong cạnh tranh sẽ phụ thuộc vào tiềm
lực về nguồn vốn và quy mô tài sản đồng thời phải đảm bảo nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Muốn vậy chúng ta phải xem xét cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn của
doanh nghiệp có hợp lý hay không.
a) Phân tích tình hình biến động và cơ cấu tài sản:
Phân tích cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh tổng số tài sản cuối kỳ với đầu năm
còn phải xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong tống số tài sản dễ thấy
mức độ bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuỳ theo từng loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh để xem xét tỷ trọng từng
loại tài sản là cao hay thấp. Nếu là doanh nghiệp sản xuất thì cần phải có lượng dự
trữ nguyên vật liệu đầy đủ nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất sản phẩm. Nếu là doanh
nghiệp thương mại thì cần phải có lượng hàng hoá dự trữ đầy đủ để cung cấp cho
nhu cầu bán ra...
Đối với các khoản nợ phải thu, tỷ trọng càng cao thể hiện doanh nghiệp bị
chiếm dụng vốn càng nhiều. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ngoài ra khi nghiên
cứu đánh giá phải xem xét tỷ suất đầu tư trang bị TSCĐ, đầu tư ngắn hạn và dài
hạn.
Căn cứ vào số liệu trên BCĐKT vào ngày cuối kỳ (quý, năm) ta lập bảng phân
tích cơ cấu tài sản:
Bảng 1: Bảng phân tích cơ cấu tài sản
A- TSLĐ và ĐTNH
I- Tiền
II- Các khoản ĐT tài chính ngắn hạn
III- Các khoản phải thu
IV- Hàng tồn kho
V- TSLĐ khác
VI- Chi sự nghiệp
B- TSCĐ và ĐTDH
I- TSCĐ
II- Đầu tư tài chính dài hạn
III- Chi phí XDCB dở dang
IV- Các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn
Tổng cộng tài sản
Từ cơ sở số liệu trên ta có thể phân tích như sau:
Nếu tổng số tài sản của doanh nghiệp tăng lên, thể hiện quy mô vốn của doanh
nghiệp tăng lên và ngược lại. Cụ thể:
• Về TSCĐ của doanh nghiệp: nếu tăng lên thể hiện cơ sở vật chất kỹ thuật
của doanh nghiệp được tăng cường, quy mô vốn về năng lực sản xuất được mở
rộng và xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng
tốt.
Đầu tư dài hạn của doanh nghiệp nếu tăng thì đây là xu hướng tốt vì sẽ tạo nguồn
lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp. Việc đầu tư theo chiều sâu, việc đầu tư thêm trang
thiết bị được đánh giá qua chỉ tiêu tỷ suất đầu tư. Tỷ suất này được xác định bằng
công thức:
Tỷ suất đầu tư = TSCĐ và Đầu tư dài hạn/ Tổng tài sản * 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật nói chung và
máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu
hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Trị số của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào
từng ngành kinh tế cụ thể.
Chi phí XDCB: nếu tăng lên thể hiện doanh nghiệp đầu tư thêm công trình XDCB
dở dang, nếu giảm thể hiện một số công trình XDCB đã hoàn thành, bàn giao đưa
vào sử dụng làm tăng giá trị TSCĐ.
Vốn bằng tiền của doanh nghiệp: nếu tăng lên sẽ làm cho khả năng thanh toán của
doanh nghiệp thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, vốn bằng tiền ở một mức độ hợp lý
là tốt, vì nếu quá cao sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn không cao, nhưng quá thấp
lại ảnh hưởng đến nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: nếu tăng lên thể hiện doanh nghiệp ngoài đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn đầu tư cho lĩnh vực tài chính khác và
ngược lại.
Các khoản phải thu: nếu tăng thì doanh nghiệp cần tăng cường công tác thu hồi
vốn, tránh tình trạng bị ứ đọng và sử dụng vốn không có hiệu quả. Nếu các khoản
phải thu giảm thì chứng tỏ doanh nghiệp đã tích cực thu hồi các khoản nợ phải thu,
giảm bớt được hiện tượng bị ứ đọng vốn trong khâu thanh toán làm cho việc sử
dụng vốn có hiệu quả hơn.
Hàng tồn kho: nếu giảm chứng tỏ sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có chất
lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nếu tăng doanh nghiệp phải xem xét
lại sản phẩm hàng hoá của mình có phù hợp với nhu cầu của thị trường không. Mặt
khác, để đánh số dư hàng tồn kho tốt hay chưa tốt, cần phải so sánh với số dự trữ
theo kế hoạch. Số dư hàng tồn kho tăng hay giảm so với dự trữ cần thiết là đều
không tốt, bởi vì nếu tăng sẽ gây ứ đọng vốn, nếu giảm sẽ dẫn đến thiếu nguyên vật
liệu cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gây ảnh hưởng đến tính liên tục của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, qua bảng phân tích trên không những cung cấp thông tin về sự tăng
lên hay giảm đi về cả số tương đối và số tuyệt đối của mỗi loại tài sản mà còn biết
được cơ cấu của từng loại trong tổng số. Từ đó, có thể đánh giá mức độ hợp lý của
việc phân bổ, nhìn vào đây để nhận định sự biến động của các khoản mục trong
tương lai.
Bên cạnh việc phân tích được cơ cấu tài sản, chúng ta cần phân tích cơ cấu
nguồn vốn nhằm biết được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp
cũng như mức độ độc lập, tự chủ trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh
nghiệp phải đương đầu.
b) Phân tích cơ cấu và tình hình biến động của nguồn vốn:
Đối với nguồn hình thành tài sản, cần xem xét tỷ trọng của từng loại chiếm trong
tổng số cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm
tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp có khả năng tự bảo đảm về
mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ là cao và
ngược lại, nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số nguồn vốn thì khả
năng đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp. Điều này được thể hiện
qua chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ:
Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn *100%
Tỷ suất tài trợ này càng cao chứng tỏ khả năng độc lập về mặt tài chính hay
mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp càng tốt. Tỷ suất này bằng 0.5 được coi là bình
thường
Dựa vào BCĐKT cuối kỳ ta lập bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn sau đây:
Bảng 2: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn
A- Nợ phải trả
I- Nợ ngắn hạn
II- Nợ dài hạn
III- Nợ khác
B- Nguồn vốn Chủ sở hữu
I- nguồn vốn, quỹ
II- Nguồn kinh phí
Tổng cộng nguồn vốn
Khi phân tích cơ cấu nguồn vốn cần thiết phải tính tỷ suất nợ chung của doanh
nghiệp:
Tỷ suất nợ = Nợ phải trả/ Tổng tài sản *100% = 1- Tỷ suất tự tài trợ
Tỷ suất nợ bằng 0.5 được coi là bình thường. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt vì
doanh nghiệp không phải đi chiếm dụng vốn để đầu tư cho tài sản của doanh
nghiệp. Để đánh giá mối quan hệ giữa các nguồn tài sản ta còn sử dụng một số tỷ
suất sau:
Hai tỷ suất này cho biết tỷ lệ giữa nợ dài hạn và nợ phải trả so với nguồn vốn
chủ sở hữu là cao hay thấp. Nếu là cao chứng tỏ khả năng tự tài trợ của doanh
nghiệp là kém và doanh nghiệp khó có thể chủ động trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và ngược lại.
Sau khi phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp , ta có thể đưa
ra kết luận sơ bộ về việc phân bổ vốn (tài sản) và nguồn vốn của doanh nghiệp. Cụ
thể là việc phân bổ đó có hợp lý hay không, các khoản nợ phải thu tăng hay giảm,
tình hình đầu tư có khả quan hay không, khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp như
thế nào... Từ đó đưa ra kết luận chung về tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt
hay xấu.
2.2. Phân tích tình hình và hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp:
Tài sản cố định đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nó phản ánh trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
của nền kinh tế. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, sau mỗi quá
trình kinh doanh nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và giá trị của sản phẩm, dịch
vụ.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định là chỉ tiêu phản ánh khả năng kinh doanh của
doanh nghiệp trong dài hạn. Dù được đầu tư bằng bất kỳ nguồn vốn nào thì việc sử
dụng tài sản cố định đều phải bảo đảm tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu, nhưng phổ
biến là các chỉ tiêu sau:
Sức sản xuất của TSCĐ = Doanh thu thuần/Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ phân tích đem lại bao nhiêu đồng doanh
thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng tốt.
Do đó, để nâng cao chỉ tiêu này, đồng thời với việc tăng lượng sản phẩm bán ra,
doanh nghiệp phải giảm tuyệt đối những tài sản cố định thừa, không cần dùng vào
sản xuất, bảo đảm tỷ lệ cân đối giữa tài sản cố định tích cực và không tích cực, phát
huy và khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có của tài sản cố định.
Sức sinh lợi của TSCĐ =Lợi nhuận trước thuế/Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận thuần, tỷ lệ này cao được đánh giá là tốt. Do đó, để nâng cao chỉ
tiêu này doanh nghiệp phải nâng cao tổng lợi nhuận thuần đồng thời sử dụng tiết
kiệm và lợp lý TSCĐ
Suất hao phí của TSCĐ =Nguyên giá bình quân TSCĐ/Doanh thu thuần hoặc
Lợi nhuận trước thuế
Chỉ tiêu cho biết để có một đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần cần bao
nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo với chỉ tiêu sức sản xuất
của tài sản cố định và chỉ tiêu sức sinh lợi của tài sản cố định. Do đó, chỉ tiêu này
có giá trị càng nhỏ càng chứng tỏ doanh nghiệp càng ít tốn chi phí cố định hơn,
hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh cao hơn.
Hiệu suất sử dụng VCĐ = Doanh thu thuần/VCĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng VCĐ bình quân sử dụng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng
lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Tỷ suất sinh lợi của VCĐ = Lợi nhuận trước thuế/VCĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra 1 đồng lợi nhuận thuần trong kỳ thì cần bao nhiêu
đồng VCĐ bình quân tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, chỉ tiêu này càng
cao càng tốt.
2.3. Phân tích tình hình và hiệu quả sử dụng TSLĐ:
Để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thì không chỉ cần có TSCĐ mà tiền,
nguyên vật liệu, sản phẩm… cũng hết sức cần thiết. Do đó, trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, tài sản lưu động đóng một vai trò quan trọng trong việc phân tích
và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, ta dựa vào các chỉ tiêu phân tích
sau:
Sức sản xuất của VLĐ = Tổng doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng VLĐ bình quân đem lại mấy đồng doanh thu.
Sức sinh lợi của VLĐ = Lợi nhuận trước thuế/VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng VLĐ bình quân làm ra mấy đồng lợi nhuận hay lãi
gộp trong kỳ. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng trong hệ thống chỉ tiêu chung đánh giá
hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để nâng cao chỉ tiêu này cần phải tăng
tổng lợi nhuận thuần hay lãi gộp đồng thời đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của VLĐ.
Tuy nhiên, để có kết luận chính xác về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ta cần
phải tiến hành phân tích tốc độ luân chuyển của VLĐ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, VLĐ vận động không
ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (dự trữ - sản xuất
- tiêu thụ). Đẩy mạnh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết
nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Để xác định tốc độ luân
chuyển của vốn lưu động cần xem xét các chỉ tiêu sau:
Số vòng quay của VLĐ = Tổng doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng
tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này còn được gọi là
“hệ số luân chuyển”.
Thời gian của 1 vòng luân chuyển = Thời gian của kỳ phân tích/Số vòng quay
của VLĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được 1 vòng. Thời
gian của một vòng (kỳ) luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
Trong công thức này, thời gian của kỳ phân tích được tính theo ngày và được quy
định 1 tháng: 30 ngày; 1 quý=90 ngày; 1 năm =360 ngày
Hệ số đảm nhiệm của VLĐ = VLĐ bình quân/Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để có 1 đồng doanh thu thuần thì cần mấy đồng vốn lưu
động. Hệ số này tỷ lệ nghịch với chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động cho nên
càng nhỏ càng tốt.
Sau khi phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động cần phải xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển. Tốc độ luân chuyển có thể chịu ảnh
hưởng của các nhân tố sau: tình hình thu mua, cung cấp, dự trữ nguyên vật liệu,
tiến độ sản xuất, tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, tình hình thanh toán công nợ…
Để tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động lại ở từng khâu, từng giai đoạn trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Việc tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động có tác dụng làm giảm nhu cầu về
vốn, cho phép làm ra nhiều sản phẩm hơn và tiết kiệm vốn hơn cụ thể là:
Với một số VLĐ không tăng có thể tăng doanh thu, cụ thể là nếu tăng nhanh hơn
tốc độ luân chuyển của nó. Từ công thức trên ta có :
Tổng doanh thu thuần = VLĐ bình quân * Hệ số luân chuyển.
Khi tốc độ luân chuyển thay đổi:
Số doanh thu thuần tăng thêm (+) hoặc mất đi (-) = Vốn lưu động bình quân * Tốc
độ luân chuyển của VLĐ kỳ phân tích - Tốc độ luân chuyển của VLĐ kỳ gốc
Đẳng thức này cho thấy doanh thu thuần sẽ tăng lên hoặc mất đi là do sự thay đổi
tốc độ luân chuyển của VLĐ
Với một số VLĐ ít hơn, nếu tăng tốc độ luân chuyển sẽ thu được doanh thu như cũ
(kỳ gốc). Điều này nghĩa là doanh nghiệp đã tiết kiệm được VLĐ so với kỳ gốc.
Số VLĐ tiết kiệm (-) hoặc lãng phí(+) = Tổng doanh thu thuần kỳ phân tích
* Thời gian của 1 vòng luân chuyển kỳ phân tích - Thời gian của 1
vòng luân chuyển kỳ gốc
Thời gian kỳ phân tích
Phương pháp phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động như sau:
+ Đánh giá chung tốc độ luân chuyển: tính ra và so sánh các chỉ tiêu phản ánh
tốc độ luân chuyển kỳ phân tích với kỳ gốc.
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến
tốc độ luân chuyển bằng phương pháp loại trừ.
+ Tính ra số vốn tiết kiệm (-) hoặc lãng phí do thay đổi tốc độ luân chuyển của
vốn lưu động.
+ Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng và biện pháp đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn lưu động.
Ngoài ra, để có thể phân tích đánh giá chính xác hơn về liệu quả sử dụng vốn lưu
động, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu sau:
Hệ số quay kho Nguyên vậy liệu = Giá thực tế NVL sử dụng trong kỳ/Giá thực tế
NVL tồn kho bình quân
Hệ số quay kho của sản phẩm hàng hoá = Giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ/Giá vốn
hàng tồn kho bình quân
Thời gian 1 vòng quay = Thời gian theo lịch/Hệ số quay số
Trong đó:
Thời gian theo lịch được tính tròn 1 tháng= 30 ngày, 1 quý = 90 ngày, 1 năm =
360 ngày. Trị giá vật liệu, hàng hoá thành phẩm tồn kho bình quân được tính theo
công thức trung bình cộng(lấy tổng số tồn cuối kỳ và đầu kỳ chia cho 2).
Hệ số quay kho càng lớn thì hiệu quả sử dụng NVL hay lượng hàng tiêu thụ càng
cao, doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Ngược lại, chứng tỏ dự trữ vật tư không hợp lý,
hàng hoá ế ẩm, tồn đọng nhiều làm giảm tốc độ của vốn kinh doanh.
2.4. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất
lượng công tác tài chính. Nếu như tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công
nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng
vốn. Ngược lại, nếu tình hình tài chính kém thì dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn
lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa kéo dài. Tài liệu chủ yếu
được sử dụng để phân tích là bảng CĐKT.
Từ số liệu của bảng CĐKT ta có bảng phân tích sau:
Bảng 3: Bảng phân tích tình hình thanh toán
Phải thu khách hàng 1.
Trả trước người bán 2.
Các khoản phải thu nội bộ 3.
Tạm ứng 4.
Tài sản thiếu 5.
Thế chấp, ký cược 6.
Các khoản phải thu khác 7.
Phải trả người bán 2.
Người mua trả trước 3.
Phải nộp ngân sách 4.
Phải trả CNV 5.
Phải trả nội bộ 6.
Nợ DH đến hạn trả 7.
Các khoản phải trả khác 8.
Tổng cộng
Để xem xét các khoản phải thu biến động có ảnh hưởng đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp hay không ta cần so sánh các chỉ tiêu:
Tỷ lệ các khoản (T) phải thu so với phải trả = Tổng số nợ phải thu/Tổng số nợ phải
trả
Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn càng nhiều và
ngược lại:
Nếu T>1: sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp vì các khoản phải thu quá lớn sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Do đó, doanh nghiệp phải có biện pháp thu hồi
nợ, thúc đẩy quá trình thanh toán đúng hạn
Nếu T<=1: có giá trị càng nhỏ càng chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi tốt công nợ và
số vốn đi chiếm dụng được càng nhiều.
Số vòng luân chuyển các khoản phải thu = Tổng doanh thu bán chịu đ•/Bình quân
các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư của các khoản phải thu hiệu
quả của việc thu hồi nợ.nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân
chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công ty ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số
vòng luân chuyển các khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến
khối lượng hàng tiêu thụ
Số ngày trung bình đủ thu được các khoản phải thu = Thời gian của kỳ phân
tích/Số vòng luân chuyển các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho thấy, để thu được các khoản phải thu cần một khoảng thời gian
là bao nhiêu. Nếu số ngày này lớn hơn số thời gian quy định bán chịu cho khách
hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định
bán chịu cho khách hàng lớn hơn thời gian này chứng tỏ việc thu hồi có dấu hiệu
đạt trước kế hoạch về thời gian. Khi phân tích các khoản phải trả, ta xác định hệ số
nợ.
Hệ số Nợ = Nợ phải trả/ Tổng số nguồn vốn = 1- Hệ số tự tài trợ
Hệ số này cho biết các khoản phải trả chiếm bao nhiêu trong tổng số nguồn vốn
vay cũng như cho biết được doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trên vốn của mình hay
đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị khác.hệ số này càng nhỏ càng thể hiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp ổn định, không phải lo lắng đến việc trả nợ bên
cạnh đó ta cần tính đến tỷ lệ các khoản phải trả so với tổng TSLĐ hay so với các
khoản phải thu (T).
T = Tổng số tiền phải trả/Tổng vốn lưu động
+ Nếu T >1 thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính của doanh nghiệp,
nợ quá lớn không có khả năng thanh toán.
+ Nếu T 1thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt, khả năng tài trợ cao.
A = Tổng số tiền phải trả/Tổng số tiền phải thu
+ Nếu A lớn do tiền phải thu giảm cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp
tương đối tốt, đủ khả năng trang trải nợ
+ Nếu A lớn do nợ phải trả tăng, cho thấy doanh nghiệp đi chiếm dụng nhiều vốn
của doanh nghiệp khác đồng thời khả năng thanh toán kém đi.
- Để có nhận xét, đánh giá đúng đắn về tình hình thanh toán của
doanh nghiệp, ngoài số liệu trên BCĐKT ta phải sử dụng thêm các tài liệu hạch
toán hàng ngày để:
- Xác định tính chất, thời gian và nguyên nhân của các khoản phải
thu, phải trả.
Các biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng để thu hồi hoặc thanh toán nợ
Để đánh giá tình hình thanh toán của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng
trong tương lai, cần đi sâu phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. (Xem bảng phân tích trang bên)
Tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xau, khả quan hay không khả quan
phản ánh qua khả năng thanh toán.để đánh giá, phân tích khả năng thanh toán cần
phải xem xét đến hệ số khả năng thanh toán sau đây:
Hệ số khả năng thanh toán (Hk) = Khả năng thanh toán/Nhu cầu thanh toán
HK thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán, tình hình tài chính ổn định và khả
quan.
HK<1 thì doanh nghiệp không có khả năng trang trải hết công nợ, tình hình tài
chính gặp khó khăn.
Bảng 4:Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán
A. Các khoản cần thanh toán ngay
I- Các khoản nợ quá hạn
1. Phải nộp ngân sách
2. Phải trả ngân hàng
3. Phải trả công nhân viên
4. Phải trả người bán
5. Phải trả người mua
6. phải trả khác
II- Các khoản nợ đến hạn
Phải trả ngân sách 1.
Phải trả ngân hàng 2.
3. Phải trả công nhân viên
B. Các khoản phải thanh toán trong thời gian tới.
1. Tháng tới
2. Quý tới
A. Các khoản có thể dùng ngay để thanh toán.
1. Tiền mặt :
+ Tiền việt nam
+ Ngoại tệ
+ Vàng bạc
2. Tiền gửi ngân hàng
+ Tiền việt nam
+ Ngoại tệ
+ Vàng bạc
3. Tiền đang chuyển
+ Tiền việt nam
+ Ngoại tệ
4. Đầu tư ngắn hạn
B. Các khoản có thể dùng để thanh toán trong thời gian tới
1. Tháng tới
+ Khoản phải thu
+ Hàng gửi bán
2. Quý tới
Cộng
Tỷ suất thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + Phải thu + ĐTNH/Nợ ngắn hạn
Tỷ suất này mô tả khả năng thanh toán nhanh bằng tiền và các phương tiện có
thể chuyển hoá nhanh bằng tiền của doanh nghiệp. Nếu tỷ suất này 1 là rất tốt và
điều đó chứng tỏ rằng doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh và ngược lại.
Tỷ suất thanh toán của VLĐ = Vốn bằng tiền + ĐTNH/Tổng TSLĐ
Chỉ tiêu này cho thấy khả năng thanh toán so với TSLĐ nếu tỷ suất này lớn hơn
0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều là không tốt vì tỷ suất quá lớn thể hiện lượng tiền quá
nhiều gây hiện tượng sử dụng vốn không hiệu quả. Nếu tỷ suất này quá nhỏ thì dẫn
đến doanh nghiệp thiếu vốn để thanh toán.
Tỷ suất thanh toán hiện hành ngắn hạn = Tổng TSLĐ (A. TS)/Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn là cao hay
thấp.nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường và khả quan .
2.5. Phân tích khả năng sinh lợi của doanh nghiệp:
Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ sử dụng TSCĐ và TSLĐ,
khi phân tích tình hình tài chính phải xem xét vả hiệu quả sử dụng vốn nhà đầu tư,
các nhà tín dụng quan tâm đặc biệt vì nó gắn liền với lợi ích của họ trong cả hiện tại
và tương lai. Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn, người ta dùng các chỉ tiêu sau
đây:
Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh = Lợi nhuận/Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hệ số doanh lợi của doanh thu thuần = Lợi nhuận/Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong các chỉ tiêu trên, lợi nhuận thường là lãi rồng trước thuế hoặc lợi tức gộp, còn
vốn kinh doanh có là tổng số nguồn vốn chủ sở hữu.
Để thấy rõ hơn trước hết phải đánh giá chung khả năng sinh lợi của vốn chủ sở
hữu, sau đó xác định ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu này.
Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu
Dựa vào công thức trên ta thấy hệ số sinh lợi của vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng
của hai nhân tố và được xác định bằng phương pháp loại trừ.
Nhân tố: Hệ số quay vòng của vốn chủ hữu = Doanh thu thuần/ Vốn chủ sở hữu
càng cao thì hệ số sinh lời càng lớn.
Nhân tố: Hệ số sinh lời của vốn kinh doanh = Lãi ròng/ Doanh thu thuần càng lớn
thì khả năng sinh lợi của vốn càng cao và ngược lại.
IV- Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao nguồn vốn cố định và nguồn vốn
lưu động.các nguồn này được hình thành từ các chủ sở hữu, các nhà đầu tư và các
cổ đông.ngoài ra còn được hình thành từ các nguồn lợi tức của doanh nghiệp được
sử dụng để bổ sung cho nguồn vốn.vốn cố định được sử dụng để trang trải cho các
tài sản cố định như mua sắm tài sản cố định,đầu tư xây dựng cơ bản… nguồn vốn
lưu động chủ yếu để đảm bảo cho tài sản lưu động như nguyên vật liệu, công cụ, để
dùng lao động thành phẩm, hàng hoá.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cũng đều phải hướng đến hiệu quả kinh
doanh. Hiệu quả kinh doanh có liên quan chặt chẽ với hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh . Do đó , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một yêu cầu và đòi
hỏi luôn luôn đặt ra cho mỗi doanh nghiệp . Để nâng cao hiệu quả kinh doanh nói
chung , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói riêng , chúng ta phải phân
tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp qua các chỉ tiêu
phản ánh nó ; Từ đó mới có thể đưa ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Để phân tích hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp , ta dùng chỉ tiêu sau :
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh = Kết quả đầu ra/Vốn kinh doanh (hay vốn sản
xuất bình quân)
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất
kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng kết quả đầu ra. Chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh càng cao và doanh nghiệp luôn luôn tìm
cách nâng cao chỉ tiêu này. Để nâng cao chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
thì doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp sau đây:
Tăng quy mô kết quả đầu ra.
Sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh. Kết quả đầu ra
được đo bằng các chỉ tiêu như : giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thuần và lợi
nhuận thuần hoặc lợi tức gộp,… Doanh nghiệp muốn tăng kết quả đầu ra thì phải
tăng giá trị tổng sản lượng, tăng doanh thu thuần, và tăng lợi nhuận . Để nâng cao
các chỉ tiêu trên, cần phải nâng cao tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá , thông qua
các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm , luôn luôn phải nghiên cứu thay đổi
mẫu mã , quy cách sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người
tiêu dùng . Doanh nghiệp phải có những biện pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm , kích thích nhu cầu tiêu dùng để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng
hoá của mình . Những biện pháp đó sẽ tăng nhanh doanh thu bán hàng thuần lên và
từ đó mà nâng cao được mức lợi nhuận của doanh nghiệp . Đi đôi với kết quả đầu
ra tăng , để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh thì doanh nghiệp phải sử
dụng tiết kiệm và hợp lý cơ cấu vốn kinh doanh . Nhu đã phân tích ở trên , vốn kinh
doanh của doanh nghiệp gồm vốn cố định và nguồn vốn lưu động . Khi tăng hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung phải động thời nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn lưu động . Để nâng cao hiệu quả việc sử dụng
vốn cố định doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn cố định bằng cách
giảm tuyệt đối những tài sản cố định thừa , không cần dùng , bảo đảm tỷ lệ cân đối
giữa tài sản cố định tích cực và tài sản cố định tiêu cực , phát huy và khai thác triệt
để năng lực hiện có của tài sản cố định . Đối vối việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn lưu động, doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
bằng việc tăng số vòng quay của vốn lưu động thông qua việc rút ngắn chu kỳ sản
xuất kinh doanh đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá,đảm bảo nguồn vốn
lưu động trong việc dự trữ hợp lý tài sản lưu động của doanh nghiệp .
Một vẫn đề nữa cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh đó của doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh của mình. Lý do mà doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh là do sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải hoạt động
theo phương thức hạch toán kinh doanh độc lập, Nhà nước không tiếp tục bao cấp
vốn như trước đây, cũng như trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay có lạm
phát, giá cả biến động lớn, sức mua của đồng tiền có nhiều biến động nhìn chung là
suy giảm, nếu duy trì cơ chế như trước thì số vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thể hiện bằng đồng tiền Việt nam sẽ lại giảm dần giá trị trên thực tế, sức
mua của vốn bị thu hẹp, hậu quả sẽ không tránh khỏi lãi giả lỗ thật. Do đó , để duy
trì và phát triển sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải giữ gìn và bảo toàn số
vốn được Nhà nước đầu tư và phải giữ gìn, quản lý, phát triển tăng vốn để nâng cao
hiệu quả của vốn sản xuất kinh doanh đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Bảo toàn và phát triển vốn doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển
Đối với việc bảo toàn và phát triển VCĐ:
Doanh nghiệp phải xác định đúng nguyên giá TSCĐ để trên cơ sở đó tính đúng,
tính đủ khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn để tạo nguồn thay thế và duy trì
năng lực sản xuất của TSCĐ. Doanh nghiệp có thể bảo toàn VCĐ trên cơ sở hệ số
trượt giá, số bảo toàn VCĐ còn bao gồm cả số vốn Ngân sách cấp hoặc doanh
nghiệp tự bổ sung trong kỳ nếu có.
Căn cứ vào kết quả xác định số vốn phải bảo toàn theo công thức trên, doanh
nghiệp phải điều chỉnh giá trị TSCĐ và VCĐ theo các hệ số điều chỉnh tương ứng
với từng loại TSCĐ.
Bên cạnh việc bảo toàn vốn, các doanh nghiệp phải phát triển VCĐ trên cơ sở
quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp và
vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp để đầu tư XDCB cho doanh nghiệp.
Đối với việc bảo toàn và phát triển VLĐ:
Doanh nghiệp phải bảo toan và phát triển VLĐ ngay trong quá trình sản xuất
kinh doanh trên cơ sở mức tăng giảm giá trị TSLĐ thực tế tồn kho tại doanh nghiệp
có thay đổi về giá. Số VLĐ sau khi đã thực hiện điều chỉnh giá trị TSLĐ thực tế tồn
kho và ghi tăng nguồn vốn lưu động ở thời điểm cuối năm là số vốn thực tế đ• bảo
toàn được của doanh nghiệp.
Số VLĐ phải bảo toàn đến cuối năm được tính theo công thức sau đây:
Số VLĐ phải bảo toàn đến cuối năm = Số vốn đã được giao * Hệ số trượt giá VLĐ
Bên cạnh việc bảo toàn VLĐ, doanh nghiệp phải phát triển vốn từ quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp.
Như vậy, thông qua nghiên cứu lý luận đã cho ta thấy được phân tích tình hình
tài chính là việc làm cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, việc phân tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở hệ thống báo cáo tài
chính kế toán của doanh nghiệp. Mỗi loại báo cáo tài chính kế toán đều có vai trò
và ý nghĩa nhất định trong việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp,
song việc phân tích thường được tiến hành chủ yếu trên BCĐKT và BCKQKD và
vấn để này sẽ được làm rõ trong phần II của chuyên đề này.
Phần II
Phân tích tình hình tài chính của công ty XNK Thiết bị – truyền hình chủ yếu thông
qua Bảng Cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh
I. Giới thiệu chung về công ty xnk thiết bị điện ảnh– truyền hình
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty:
Công ty vật tư điện ảnh là một doanh nghiệp thuộc nhà nước thành lập theo quyết
định số 92 /VHTT – QĐ ngày 20 / 7/ 1979 của bộ văn hoá thông tin .
Công ty vật tư điện ảnh được đổi tên thành xnk thiết bị điện ảnh - truyền
hình theo quyết định số 239 /QĐ ngày 25/3/1993 của bộ văn hoá thông tin .
Công ty được cấp giấy phép kinh doanh số 108084, giấy phép đăng ký kinh
doanh xnk số 1.17.1.008GP .
Từ ngày công ty thành lập đến nay, trải qua 25 năm xây dựng và trưởng
thành bắt đầu từ những ngày khó khăn gian khổ bằng sự nỗ lực của bản thân công
ty và sự quan tâm giúp đỡ của đảng và nhà nước . Công ty đã không ngừng phát
triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng , xây dung cơ sở vật chất đầy đủ , nâng cao
trình độ kinh doanh của công ty và sự quả lý của cán bộ , công nhân viên , đáp ứng
nhu cầu của thời đại xã hội .
Tính đến đến thời điểm này công ty công ty có các cơ sở làm việc sau :
- Trung tâm công nghệ điện ảnh và truyền hình được thành lập theo quyết
định số 178 /QĐ -BVHTT của bộ văn hoá thông tin đăng ký kinh doanh số 311817
do sở kế hoạch và đầu tư cấp ngày 6/4/2001 chuyên kinh doanh các thiết bị chuyên
dùng phục vụ ngành phát thanh truyền hình ,các thiết bị điện tử viễn thông , các hệ
thống quan sát nghe nhìn .
Địa chỉ 31 nguyễn chí thanh - ba đình - Hà nội
- Trung tâm thương mại điện ảnh và video : Chuyên kinh doanh các thiết bị âm
thanh ánh sáng phục vụ ngành văn hoá
Địa chi : 65 Trần – Hưng đạo – hoàn kiếm - Hà nội
- Chi nhánh tại Tphcm 50 Trương định – Phường bến thành Quận I – TPHCM
- Đại diện giao nhận tại hãy phòng 17 Trần hứng đạo - hải phòng
1.2. Tình hình hoạt động của công ty trong năm: 2001,2002 .
1.2.1. tình hình hoạt động của công ty
- hình thức sở hữu vốn : vốn của nhà nước
- Lĩnh vực kinh doanh : Thiết bị phát thanh - truyền hình vật tư điện ảnh
1.2.2 Chính sách kinh tế áp dụng tại công ty
- Niên độ kế toán :
Năm 2001 bắt đầu ngày 1/1/2001 kết thúc 31/12/2001
Năm 2002 bắt đầu ngày 1/1/2002 kết thúc 31/12/2002
- Đơn vị sử dụng 6tiền tệ ghi chép sổ kế toán : Đồng việt nam
- Hình thức sổ kế toán áp dụng : nhật ký chứng từ
- Phương pháp kế toán tài sản :
+ Nguyên tắc đánh giá tài sản cố định
+ Phương pháp khấu hao áp dụng và các trường hợp khấu hao đặc biệt:
Phương pháp khấu hao bình quân
- Phương pháp kế toán hàng tồn kho :
+ Phương pháp xác định giá trị hàng nhập kho cuối kỳ : Nhập trước xuất trước
+ Phương pháp hạch toán hàng tồn kho : Kê khai thường xuyên
* Một số nhận xét về tình tài chính của công ty:
Công ty luôn đảm bảo tình hình tài chính trong sạch,lành mạnh,đảm bảo các
nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu,doanh thu,thuế lợi tức và các khoản thuế khác của nhá
nước nộp vào ngân sách.Qua các đợt thanh tra và kiểm toán luôn được kết luận là
đơn vị có tình hình tài chính trong sạch,luôn được bằng khen của uỷ ban nhân dân
thành phố hà nội về thành tích nộp thuế của công ty đối với nhàn ước,bằng khen
của cục hải quan,và bằng khen của bộ văn hoá thông tin về hoàn thành tốt các
nhiệm vụ công tác.Với thành tích của công ty,công ty đã được chủ tịch nước
CHXHCNVN tặng thưởng huân chương lao động hạng 3.
Theo số liệu tình tài chính trên cho thấy tình hình tài chính của công ty đang
có xu hướng ngày một phát triển,mở rộng và đi lên
1.3 Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
1.3.1 Chức năng nhiệm vụ của công ty
*Xuất nhập khẩu thiết bị điện ảnh,văn hoá thông tin,phát thanh truyền hình
*Kinh doanh XNKcác loại thiết bị âm thanh ánh sáng,thiết bị hội thảo hội
nghị nhạc cụ,thiết bị biểu diễn nghệ thuật,máy chiếu điện tử,tin học viễn thông,các
sản phẩm văn hoá và các mặt hàng tiêu dùng phục vụ ngành văn hoá thông tin
*Sản xuất kinh doanh vật tư ,thiết bị điện ảnh vả nhiếp ảnh
*Nhập khẩu vật tư,thiết bị ngành ,điện tử quang học,một số hàng tiêu dùng
(thiết bị văn phòng điện,điện tử trang trí nội thất )
* Tư vấn thiết kế dịch vụ kỹ thuật lắp đặt,bảo hành các cật tư điện ảnh,văn
hoá thông tin,phát thanh truyền hình
*Dịch vụ chuyển giao công nghệ,dịch vụ đào tạo kỹ thuật cho những ngành
hàng trên,kinh doanh các thiết bị ngành in,điện lạnh,điện dân dụng,các loại máy
phát điện,hệ thống thiết bị thu phát sóng trụ an ten trang thiết bị giáo dục, y tế bưu
điện,các thiết bị hội thảo,kiểm tra đo lường,thí nghiệm
1.3.2 Quyền hạn của công ty
Công ty là một doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân đầy đủ. Công
ty tổ chức hạch toán kinh doanh độc lập có con dấu riêng,được phép mở tài khoản
tại các ngân hàng. Công ty có quyền tham gia các cuộc đấu thầu về các lĩnh vực
kinh doanh của công ty trong toàn quốc,có quyền liên doanh liên kết với các tổ
chức và các doanh nghiệp khác .
Công ty được quyền nhập khẩu các vật tư,thiết bị theo yêu cầu kinh doanh,
công ty được phép xuất khẩu các sản phẩm của mình .
1.4 Mô hình tổ chức và cơ cấu bộ máy của công ty :
* Các phòng ban :
- Phòng tổ chức
- Phòng hành chính – giao nhận – tổng hợp
- Phòng XNK I
- phòng XNK II
- Phòng XNK III
- Phòng kinh doanh
- Phòng kho
*Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty
* Nhiệm vụ của các phòng ban :
- Ban giám đốc : Là người chịu trách nhiệm trước cơ quan trách nhiệm trước pháp
luật trước nhà nước về quản lý tài sản tiền vốn,lao động và toàn bộ hoạt động kinh
doanh của công ty .
Phó giám đốc : Giúp ban giám đốc trong công tác và quản lý điều hành và
chịu trách nhiệm các công việc được giao,đồng thời có quyền giải quyết moi vấn đề
khi giám đốc uỷ quyền .
Trung tâm I : Chuyên kinh doanh dịch vụ kỹ thuật vật tư điện ảnh – video
Trung tâm II : Chuyên kinh doanh các thiết bị trang âm ánh sáng phục vụ
ngành văn hoá thông tin .
Phòng tổ chức hành chính : phụ trách điều hành các công việc sau : Tổ chức
nhân sự , lao động tiền lương , văn thư đánh máy , tiếp tân tiếp khách , thường trực
ban ngày , bảo vệ ban đêm .
Phòng XNK I,II,III : Chuyên nhập các thiết bị máy móc,thiết bị kinh doanh
của công ty và tổ chức công tác tiêu thụ chúng
Phòng kinh doanh : Giúp giám đốc điều hành công việc kinh doanh và quản
lý kinh doanh của công ty .
Phòng kho : lưu trữ những mặt hàng mới nhập,và những mặt hàng tồn kho của
công ty .
* Đội ngũ các bộ của công ty
- Giám đốc công ty là phó tiến sĩ học ở đức đã có hơn 30 năm công tác trong ngành
điện ảnh và truyền hình
- Giám đốc trung tâm là kỹ sư có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cung cấp
thiết bị phát thanh truyền hình
Ngoài ra cán bộ quản lý của công ty có trình độ rất cao đa số là thạc sĩ , kỹ
sư giỏi được đào tạo ở các trường đại học nổi tiếng trong và ngoài nước
II. Phân tích tình hình tài chính của công ty Xnk thiết bị điện ảnh - truyền hình
thông qua Bảng Cân đối kế toán và Báo cáo Kết quả kinh doanh.
1. Hệ thống báo cáo tài chính kế toán của Công ty
Theo chế độ của Bộ Tài chính ban hành, hệ thống Báo cáo tài chính kế toán của
Công ty bao gồm có các loại báo cáo cơ bản sau đây: Bảng Cân đối kế toán, Báo
cáo kết quả kinh doanh và bản thuyết minh Báo cáo tài chính. Riêng Báo cáo Lưu
chuyển tiền tệ là báo cáo mang tính chất khuyến khích chưa bắt buộc cho nên Công
ty không lập báo cáo này. Nội dung, kết cấu của các loại báo cáo kế toán tài chính
trên của Công ty đều tuân theo quy định của chế độ kế toán Việt nam.
Để phục vụ cho công việc phân tích tình hình tài chính của Công ty thì số liệu
quan trọng và chủ yếu nhất là lấy từ hai loại báo cáo, đó là BCĐK và Báo cáo
KQKD.
Bảng 5:Bảng cân đối kế toán
Năm 2001 – 2002 ĐVT : VNĐ
A- TSLĐ và ĐTNH 100 12.086.295.479 13.550.772.057
I- Tiền 110 496.107.455 244.099.175
1- Tiền mặt tai quỹ 111 23.224.476 46.482.413.00
2-Tiền gửi ngân hàng 112 472.882.979 197.616.762
3-Tiền đang chuyển 113
II-Các khoản ĐTTCNH 120
1- Đầu tư chứng khoán ngắn hạn 121
2- Đầu tư ngắn hạn khác 128
3- Dự phòng giảm giá ĐTNH 129
III Các khoản phải thu 130 2.851.766.485 2.842.131.178
1- Phải thu khách hàng 131 2.180.026.443 2.231.609.936
2- Trả trước cho người bán 132 616.297.386 558.779.917
3- Thuế GTGT được khấu trừ 133
4- Phải thu nội bộ 134
VKD ở các đơn vị trực thuộc 135
Phải thu nội bộ khác 136
5- Các khoản phải thu khác 138 55.442.656 51.741.325
6- Dự phòng các khoản phải thu khó đòi 139
IV- Hàng tồn kho 140 8.564.323.617 10.448.946.397
1- Hàng mua đi đường về 141
2- Nguyên vật liệu tồn kho 142 2.269.516.112 1.698.864.668
3- Công cụ, dụng cụ tồn kho 143 373.054.652 299.900.850
4-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 144 1.736.488.780 2.875.660.382
5-Thành phẩm tồn kho 145 3.007.319.963 3.117.772.390
6- Hàng hoá tồn kho 146 637.068.588 1.780.885.068
7-Hàng gửi bán 147 540.875.522 675.863.039
8- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho(*) 149
V- TSLĐ khác 150 174.097.922 15.595.037
1- Tạm ứng 151 160.047.890 15.595.037
2- Chi phí trả trước 152 14.050.032
3- Chi phí chờ kết chuyển 153
4- Tài sản thiếu chờ xử lý 154
5- Các khoản thế chấp ký quỹ ngắn hạn 155
VI- Chi sự nghiệp 160
1- Chi sự nghiệp năm trước 161
2- Chi sự nghiệp năm nay 162
B- TSCĐ và ĐTDH 200 4.580.193.665 4.262.632.457
I- TSCĐ 210 4.580.193.665 4.262.632.457
1- TSCĐ hữu hình 211 4.580.193.665 4.262.632.457
Nguyên giá 212 14.357.783.081 14.407.544.443
Giá trị hao mòn luỹ kế(*) 213 9.777.589.416 10.144.911.986
2- TSCĐ thuê tài chính 214
Nguyên giá 215
Giá trị hao mòn luỹ kế(*) 216
3- TSCĐ vô hình 217
Nguyên giá 218
Giá trị hao mòn luỹ kế(*) 219
II- Các khoản ĐTTCDH 220
1- Đầu tư chứng khoán dài hạn 221
2- Góp vốn liên doanh 222
3- Đầu tư dài hạn khác 228
4- Dự phòng giảm giá ĐTDH(*) 229
III- Chi phí XDCB dở dang 230
IV- Các khoản ký quỹ ký cược dài hạn 240
Tổng tài sản 16.666.489.144 17.813.404.514
Nguồn vốn
A- Nợ phải trả 300 8.179.423.367 9.334.290.136
I- Nợ ngắn hạn 310 8.179.423.367 9.334.290.136
1- Vay ngắn hạn 311 6.114.839.417 7.075.028.560
2- Nợ dài hạn 312
3- Phải trả người bán 313 256.990.978 444.707.133
4- Người mua trả tiền trước 314 36.601.374 132.616.501
5- Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 315 -2.628.273 -50.237.565
6- Phải trả công nhân viên 316 1.327.373.571 561.572.334
7- Phải trả cho các đơn vị nội bộ 317
8- Phải trả, phải nộp khác 318 446.246.300 1.170.603.173
II- Nợ dài hạn 320
1- Vay dài hạn 321
2- Nợ dài hạn khác 322
III- Nợ khác 330
1- Chi phí phải trả 331
2- Tài sản chờ xử lý 332
3- Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn 333
B- Nguồn vốn Chủ sở hữu 400 8.487.065.777 8.479.114.378
I- Nguồn vốn, quỹ 410 8.487.065.777 8.479.114.378
1- Nguồn vốn kinh doanh 411 8.474.179.071 8.474.179.071
2- Chênh lệch đánh giá lại tài sản 412
3- Chênh lệch tỷ giá 413
4- Quỹ đầu tư phát triển 414
5- Quỹ dự phòng tài chính 415
6- Lợi nhuận chưa phân phối 416
7- Nguồn vốn đầu tư XDCB 417
8- Quỹ khen thưởng, phúc lợi 418 12.886.706 4.935.307
II- Nguồn kinh phí, quỹ khác 420
1- Quỹ quản lý cấp trên 421
2- Nguồn kinh phí sự nghiệp 422
Năm trước 423
Năm nay 424
3- Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ 425
Tổng nguồn vốn 16.666.489.144 17.813.404.514
Bảng 6:Báo cáo kết quả kinh doanh
Đơn vị: VNĐ
Phần I: Lãi, lỗ:
Chỉ tiêu Mã số Năm 2001 Năm 2002
* Tổng doanh thu 01 11.935.759.696 13.703.081.117
Trong đó doanh thu hàng XK 02 656.280.705 18.694.088
• Các khoản giảm trừ 03 250.366.053 354.220.680
Chiết khấu 04 5.352.476 4.742.120 •
Giảm giá 05 20.768.800 •
Giá trị hàng bán bị trả lại 06 245.013.577 328.709.760 •
Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp 07 •
1- Doanh thu thuần 10 11.685.393.643 13.384.860.437
2- Giá vốn hàng bán 11 9.308.720.929 10.283.427.981
3- Lợi nhuận gộp( 10-11) 20 2.367.596.784 3.065.432.456
4- Chi phí bán hàng 21 161.568.327 453.979.607
5- Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 2.367.596.784 2.021.062.088
6- Lợi nhuận gộp từ HĐKD 30 -152.492.397 590.390.761
Thu nhập hoạt động tài chính 31 9.468.314 35.869.893
Chi phí hoạt động tài chính 32 158.779.170 564.759.573
7- Lợi nhuận từ HĐTC 40 -149.310.856 -528.889.680
Các khoản thu nhập bất thường 41 345.112.035 7.227.343
Chi phí bất thường 42 160.896.146
8- Lợi nhuận từ hoạt động bất thường 50 184.215.889 7.227.343
9- Tổng lợi nhuận trước thuế 60 -117.587.364 68.728.424
10- Xử lý theo CV 518/ TCDN 70 68.728.424
11- Thuế TNDN phải nộp 80
2. Phân tích tình hình tài chính của Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình
thông qua BCĐKT và BCKQKD năm 2001 – 2002 :
2.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính của Công ty:
Trong những năm gần đây, mặc dù công ty gặp phải nhiều khó khăn nhưng với
những cố gắng không ngừng Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình đã hình
được một số vị thế nhất định so với các Công ty khác trong cùng ngành và trong
nền kinh tế quốc dân. Công ty luôn có những đổi mới trong cách tổ chức và mở
rộng hoạt động kinh doanh. Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các thành phần kinh
tế khác nhau trên nhiều phương diện, Công ty đã đề ra những phương hướng chiến
lược kinh doanh nhằm thay đổi diện mạo của Công ty. Với vị trí như hiện nay,
Công ty đang cố gắng đầu tư, cải tạo và nâng cấp các trang thiết bị, cơ sở vật chất
kỹ thuật nhằm phát huy thế mạnh trên nhiều góc độ sao cho phù hợp với những yếu
tố khách quan trong hoạt động kinh doanh của mình.
Từ cơ chế tập trung chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty XNK thiết bị điện
ảnh - truyền hình cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác đang đứng trước
nhiều vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, khi chuyển sang hoạt động trong cơ chế thị
trường thì vấn đề lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh chính là mục tiêu hàng đầu mà
Công ty theo đuổi. Nắm bắt được vai trò quan trọng của chỉ tiêu lợi nhuận, Công ty
luôn cố gắng bằng mọi biện pháp để cải thiện chỉ tiêu này, làm cho lợi nhuận kỳ
sau cao hơn năm trước. Từ những báo cáo kết quả kinh doanh trong những năm
trước đây cho đến các báo cáo kết quả kinh doanh mấy năm gần đây, đặc biệt là
trong hai năm : 2001 - 2002 cho thấy Công ty đã có những cố gắng đáng kể. Tuy
kết quả kinh doanh chưa thực sự là cao nhưng nó cũng chứng tỏ rằng Công ty thực
sự có tiềm năng và nếu được khai thác đúng hướng thì sẽ còn đạt kết quả cao hơn
nữa.
Theo số liệu trong BCĐKT ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Công ty,ta thấy rằng
tổng tài sản (hoặc nguồn vốn) cuối kỳ so với đầu năm tăng lên 1.146.915.370 VNĐ
(= 17.813.404.514-16.666.489.144) tương đương tăng 10.68%:
Từ đó cho thấy mức độ sử dụng vốn và khả năng huy động vốn của Công ty nói
chung đã tăng lên và cũng cho thấy quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty nói
chung được mở rộng. Trong năm 2001, công ty gặp phải rất nhiều khó khăn như
công ty phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác, cùng với sự phát triển đột
phá của ngành truyền hình trong nước nên nhu cầu thiết bị ngành này đòi hỏi cao
hơn, Công ty đã vượt qua được những khó khăn đó và làm ăn bắt đầu có lãi. Năm
2001, Công ty đã bị lỗ 117.587.364 VNĐ nhưng nhờ sự nỗ lực và cố gắng rất lớn
trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho nên sang đến năm 2002,
Công ty đã đưa tổng mức lợi nhuận trước thuế lên đến 68.728.424 VNĐ, đạt mức
kế hoạch đặt ra.
Tuy nhiên, để thấy rõ được tình hình tài chính của Công ty ta cần phải tiến hành
phân tích cơ cấu tài sản( vốn) và cơ cấu nguồn vốn của Công ty, trên cơ sở đó có
thể kết luận cơ cấu đó có hợp lý hay không.
2.1.1. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn:
Căn cứ vào BCĐKT ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Công ty XNK thiết bị điện
ảnh - truyền hình, ta lập bảng phân tích sau:
Bảng 7 : Cơ cấu tài sản
TSCĐ và ĐTDH
TSLĐ và ĐTNH
Nhìn vào bảng trên ta thấy đầu năm TSCĐ và ĐTDH chiếm 27,5%; TSLĐ và
ĐTNH chiếm 72,5%;, cuối năm TSCĐ và ĐTDH chiếm 24% còn TSLĐ và ĐTNH
chiếm 76%. Điều này chứng tỏ hoạt động của Công ty chủ yếu là hoạt động kinh
doanh. Tổng tài sản cuối kỳ so với đầu năm tăng lên 1.146.915.370 VNĐ, với số
tương đối tăng 10,68%( đạt 110,68%) đã chứng tỏ quy mô tài sản của Công ty tăng
lên, thể hiện:
* TSCĐ và ĐTDH giảm so với đầu năm 317.561.208 VNĐ tức là giảm 6,94% và
tỷ trọng cuối kỳ so với đầu năm giảm 3,5% là do:
+ TSCĐ: Dựa vào báo cáo tăng, giảm TSCĐ năm 2002 và Bảng Cân đối kế toán
của Công ty ta thấy TSCĐ trong năm được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn kinh
doanh, nguồn tự bổ sung và nguồn vốn do Ngân sách cấp còn các nguồn khác
không có.
TSCĐ : của công ty bao gồm đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý và một số TSCĐ khác.
TSCĐ giảm là do lượng mua sắm mới là không đáng kể. Giá trị mua sắm là
49.761.362 VNĐ trong đó bao gồm 15.714.300 VNĐ là giá trị máy móc thiết bị và
34.047.062 VNĐ là giá trị thiết bị dụng cụ quản lý. Giá trị mua sắm mới so với hao
mòn của hai loại tài sản này là quá lớn, cụ thể là hao mòn 5.8822.145.839 VNĐ đối
với máy móc thiết bị, 144..230.592 VNĐ đối với thiết bị dụng cụ quản lý. Mặc dù
trong năm TSCĐ không giảm nhưng lượng hao mòn quá lớn dẫn đến giá trị TSCĐ
giảm hơn so với năm trước. Điều này cho thấy việc đầu tư mới TSCĐ của Công ty
là bị hạn chế do vậy có sự giảm TSCĐ. Tuy nhiên, các loại TSCĐ của Công ty về
máy móc thiết bị được bảo dưỡng tốt cho nên vẫn đảm bảo hoạt động bình thường
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vấn đề đặt ra cho Công ty là phải nghiên cứu
tìm giải pháp đầu tư sắm mới hoặc trang bị hiện đại hơn nữa cho phương tiện chủ
yếu của hoạt động kinh doanh.
+ Các khoản ĐTDH và chi phí XDCB của Công ty hầu như là không có, vì thế
việc giảm tài sản chủ yếu là do giảm TSCĐ và do đó, ngoài việc quan tâm đầu tư
sắm mới TSCĐ Công ty cần nỗ lực hơn trong việc ĐTDH, mở rộng liên doanh, liên
kết với các đơn vị khác để nâng cao hiệu quả kinh doanh và đầu tư cho XDCB.
Việc đầu tư theo chiều sâu, đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị được đánh giá
qua chỉ tiêu sau:
Tỷ suất đầu tư = TSCĐ và ĐTDH/ Tổng tài *100%
Như vậy, tỷ suất đầu tư của Công ty năm 2002 giảm so với năm 2001 là 3,55%
và như đãphân tích trên vì TSCĐ bị giảm so với kỳ trước do đó có thể thấy được
rằng Công ty vẫn còn hạn chế trong việc đầu tư mua sắm mới TSCĐ.
* Về TSLĐ và ĐTNH cuối kỳ tăng 1.454.476.578 VNĐ với số tương đối là
12,03% và tỷ trọng của nó trong tổng tài sản cũng tăng 3,5% so với đầu kỳ là do:
+ Vốn bằng tiền của Công ty giảm 252.008.380 VNĐ tương đương giảm 50,80%
so với đầu kỳ. Vốn bằng tiền giảm chủ yếu là do tiền gửi Ngân hàng giảm
275.266.217 VNĐ (= 197.616.762- 472.882.979).
+ Các khoản phải thu của Công ty năm 2002 giảm so với đầu kỳ là 9.635.307
VNĐ tương đương giảm 1,34%. Tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng tài sản đầu
năm là 17,0% cuối năm là 15,95% chủ yếu là giảm các khoản ứng trước cho người
bán:
- Các khoản phải thu của khách hàng cuối kỳ tăng 51.583.493 VNĐ tương
đương tăng lên 2,37%. Khoản phải thu khách hàng tăng lên chứng tỏ thị phần của
Công ty đã được mở rộng ít nhiều. Tuy nhiên, công ty cần phải có những biện pháp
thu hồi các khoản nợ đúng thời hạn để đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, tránh
tình trạng bị chiếm dụng vốn nhiều.
- Các khoản trả trước cho người bán giảm so với đầu kỳ 57.517.469 VNĐ tương
đương với giảm 9,33%, điều này chứng tỏ uy tín của Công ty với khách hàng và
nhà cung cấp đã được nâng cao.
+ Hàng tồn kho của Công ty tăng 1.884.622.780 VNĐ tương đương tăng 22%.
Hàng tồn kho tăng chủ yếu là do tăng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, thành
phẩm, hàng hoá và hàng gửi đi bán. Tuy nhiên, mức tăng này mức tăng này chứng
tỏ mức dự trữ hàng tồn kho chiếm quá nhiều so với mức tăng tổng doanh thu hàng
bán ra trong năm 2002 so với năm 2001 là 1.767.321.421 VNĐ (= 13.703.0810117-
11.935.759.696). Do vậy, Công ty cần phải có những biện pháp để đẩy mạnh tốc độ
tiêu thụ sản phẩm để tăng doanh thu và giảm mức tồn kho xuống cho hợp lý.
+ TSLĐ khác giảm 158.502.885 VNĐ tương đương giảm 91,04% và tỷ trọng của
nó so với tổng tài sản cũng giảm 0,97% ( từ 1,05% xuống 0,08%), điều này có thể
được đánh giá là tốt. Khoản mục này giảm là do các khoản tạm ứng, các khoản chi
phí trả trước giảm so với đầu năm.
Qua phân tích về cơ cấu tài sản của Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình
ta thấy TSLĐ tăng mạnh hơn TSCĐ, nhưng do TSCĐ của Công ty vẫn hoạt động
có hiệu quả, cho sản phẩm đạt chất lượng theo định mức và yêu cầu đặt ra cho nên
tỷ lệ đầu tư giảm xuống không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản của Công ty được phân bổ như vậy chưa tật hợp lý,
song điều đó chưa thể hiện được tình hình tài chính của Công ty là tốt hay không,
do đó phải kết hợp với việc phân tích cơ cấu nguồn vốn của công ty
Bảng 8: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn: Đơn vị VN
A- Nợ phải trả
I- Nợ ngắn hạn
II- Nợ dài hạn
III- Nợ khác
B- Nguồn vốn chủ sở hữu
I- Nguồn vốn quỹ
II- Nguồn kinh phí
Tổng cộng nguồn vốn
Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của
Công ty cũng như mức độ, khả năng tự chủ, chủ động trong kinh doanh hay những
khó khăn mà Công ty phải đương đầu. Số liệu dùng để phân tích được thể hiện
trong bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn được lập từ số liệu trên BCĐKT của Công
ty ngày 31 tháng 12 năm 2002.
Để phân tích trước hết ta phải xác định tỷ suất tự tài trợ theo công thức sau:
Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn Chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn * 100%
Để khẳng định khả năng tự tài trợ của Công ty là tốt hay không ta phải đặt chỉ
tiêu trong điều kiện đặc thù của Công ty là doanh nghiệp thương mại. Đầu năm tỷ
suất tự tài trợ của Công ty là 50,92% là tương đối tốt, khả năng độc lập về mặt tài
chính là tương đối cao, song cuối kỳ tỷ suất này lại giảm xuống còn 47,60% thấp
hơn so với đầu năm 3,32% chứng tỏ khả năng tự tài trợ của Công ty giảm xuống,
Công ty đang thiếu vốn để hoạt động kinh doanh.
Qua bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu giảm
xuống cả về số tương đối và số tuyệt đối. Số tuyệt đối giảm 8.951.399 VNĐ tương
đương với số tương đối giảm 0,1%. Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng
nguồn vốn từ 51% ở đầu năm đã giảm xuống 47,5% ở cuối kỳ, tức là giảm 3,5%.
Điều này chứng tỏ mức độ đảm bảo về mặt tài chính và khả năng độc lập trong
kinh doanh của Công ty đã bị giảm xuống, Công ty thực sự đang thiếu vốn để hoạt
động.
Trong nguồn vốn Chủ sở hữu thì nguồn vốn quỹ chiếm tỷ trọng chủ yếu, nguồn
vốn quỹ giảm 8.951.399 VNĐ tương đương giảm 0,1% làm cho nguồn vốn chủ sở
hữu cũng giảm tương ứng một lượng 8.951.399 VNĐ và 0,1%.
Khi xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn ta thấy tỷ trọng các khoản nợ phải trả
tăng 3,5% ( từ 49% đầu năm tăng lên 52,5% cuối năm), tỷ trọng nguồn vốn chủ sở
hữu trong tổng nguồn vốn giảm từ 51% đầu năm xuống 47,5% cuối kỳ. Tỷ trọng
của nợ phải trả tăng chủ yếu là do nợ ngắn hạn tăng 1.154.866.769 VNĐ tương
đương 14,20%. Nợ ngắn hạn của Công ty tăng chủ yếu là do:
+ Vay ngắn hạn tăng lên 960.189.143 VNĐ tương đương tăng 15,7%. Chỉ tiêu
này tăng cho phép đánh giá Công ty đã dùng khoản vay ngắn hạn để đầu tư trang
trải cho TSLĐ và ĐTNH làm cho tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản tăng lên.
+ Phải trả cho người bán tăng lên 187.716.155 VNĐ (= 444.707.133-
256.990.978) nhưng cho thấy Công ty chiếm dụng vốn của các đơn vị cung cấp
không nhiều so với tổng nguồn vốn tự có của mình. Việc chiếm dụng vốn này với
tỷ lệ vừa phải không mang tính tiêu cực vì đó là mối quan hệ tín dụng luôn tồn tại
trong hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào, mặt khác các khoản phải trả này đã
được Công ty đảm bảo thanh toán theo đúng thời hạn.
+ Các khoản tiền người mua ứng trước, phải trả cho công nhân viên và các khoản
phải trả, phải nộp khác cuối kỳ cũng tăng lên so với đầu năm làm cho nợ ngắn hạn
của Công ty tăng lên.
Để đánh giá chính xác hơn nữa tình hình tài chính của Công ty, ta sẽ tiến hành phân
tích mối quan hệ giữa các khoản mục trong BCĐKT
2.1.2. Phân tích mối quan hệ giữa các khoản mục trong BCĐKT
Để xem xét nguồn vốn Chủ sở hữu có đủ để trang trải cho các tài sản cần thiết
phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty hay không, dựa vào
BCĐKT ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền
hình ta lập bảng phân tích sau đây:
Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ
1- Vốn bằng tiền (I.A.TS) 496.107.455 244.099.175
2- Hàng tồn kho (IV.A.TS) 8.564.323.617 10.448.946.397
3- Tài sản cố định (I.B.TS) 4.580.193.665 4.262.632.557
4- Tổng (1)+(2)+(3) 13.640.624.737 14.955.678.029
5- Nguồn vốn Chủ sở hữu (B.NV) 8.487.065.777 8.479.114.378
6- Chênh lệch giữa nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản (4)-(5) -5.153.558.960 -
4.476.563.651
Qua số liệu trên bảng ta thấy nguồn vốn đầu kỳ và cuối kỳ của Công ty đều
không đủ để trang trải cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể là năm 2001
Công ty đã thiếu 5.153.558.960 VNĐ , năm 2002 Công ty thiếu 4.476.563.651
VNĐ( số thiếu của năm sau giảm hơn so với năm trước). Do đó, cả đầu năm và
cuối kỳ công ty đã phải huy động vốn từ các nguồn tài trợ, các đơn vị khác dưới
nhiều hình thức như mua trả chậm, thanh toán chậm hơn so với kỳ thanh toán. Như
vậy, do thiếu vốn để bù đắp cho tài sản buộc Công ty phải đi vay hoặc chiếm dụng
vốn từ các đơn vị, cá nhân khác để trang trải cho hoạt động kinh doanh của mình.
Giả sử nguồn vốn cần thiết để bù đắp cho tài sản của Công ty bao gồm nguồn
vốn vay và nguồn vốn chủ sở hữu, có nghĩa là Công ty không đi chiếm dụng vốn
của các đơn vị khác và cũng không bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn. Do đó, ta
lập bảng phân tích sau:
Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ
1. Vốn bằng tiền (I.A.TS) 496.107.455 244.099.175
2. Các khoản ĐTNH (II.A.TS)
3. Hàng tồn kho (IV.A.TS) 8.564.323.617 10.448.946.397
4. TSCĐ (I.B.TS) 4.580.193.665 4.262.632.457
5. Các khoản ĐTDH
6. Chi phí XDCB dở dang
7. Ký cược, ký quỹ dài hạn
8. Tổng (1)+(2)+(3)+(4)+(5)+(6)+(7) 13.640.624.737 14.955.678.029
9.Nguồn vốn Chủ sở hữu (I.B.NV) 8.487.065.777 8.479.114.378
10. Nguồn vốn vay 6.114.839.417 7.075.028.560
* Vay ngắn hạn 6.114.839.417 7.075.028.560
* Vay dài hạn
11. Tổng (9)+(10) 14.601.905.194 15.554.142.938
12. Chênh lệch (8)-(11) -961.280.457 -598.464.909
Từ số liệu trên bảng cho ta thấy khi nguồn vốn để bù đắp cho các tài sản của
Công ty là nguồn vốn Chủ sở hữu và các nguồn vốn vay thì Công ty đã bị thiếu vốn
cả ở đầu kỳ và cuối năm, tức là nguồn vốn của Công ty không đủ để sử dụng vào
quá trình sản xuất kinh doanh. Đầu năm công ty thiếu 961.280.457 VNĐ, cuối kỳ
Công ty bị thiếu 598.464.909 VNĐ (cuối kỳ lượng vốn thiếu đã giảm so với đầu
năm) nhưng tổng nhu cầu tài sản cho hoạt đống sản xuất kinh doanh lại tăng lên
1.315.053.292 VNĐ (=14.955.678.029- 13.640.624.737), sự tăng lên này chủ yếu
do hàng tồn kho tăng lên. Như vậy, nhu cầu tài sản cho hoạt động sản xuất kinh
doanh tăng đồng thời nguồn vốn Chủ sở hữu giảm chứng tỏ quy mô sản xuất kinh
doanh của Công ty chưa thực sự được mở rộng, Công ty đang thiếu vốn để hoạt
động. Tuy nhiên nguồn vốn không sử dụng hết vào quá trình kinh doanh như khách
hàng nợ tiền chưa thanh toán, hàng tồn kho tăng thì Công ty phải có mọi biện pháp
để đòi nợ đồng thời đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
Trong nền kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau là
điều tất yếu xảy ra. Trong một doanh nghiệp luôn xảy ra cả hai trường hợp doanh
nghiệp đi chiếm dụng vốn của các đơn vị khác và bị các đơn vị khác chiếm dụng
vốn. Để có kết luận rõ hơn về mức độ chiếm dụng và bị chiếm dụng của Công ty ta
lập bảng phân tích sau:
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ
1. Các khoản phải thu 2.851.766.485 2.842.131.178
2. Tạm ứng 160.047.890 15.595.037
3. Tài sản thiếu chờ xử lý
4. Thế chấp ký quỹ, ký cược
5. Tổng (1)+(2)+(3)+(4) Vốn bị chiếm dụng 3.011.814.375 2.857.726.215
6. Nợ ngắn hạn (I.A.NV) 8.179.423.367 9.334.290.136
7. Nợ dài hạn (II.A.NV)
8. Nợ khác (III.A NV)
9. Tổng (6)+(7)+(8) 8.179.423.367 9.334.290.136
10. Vay 6.114.839.417 7.075.028.560
* Vay ngắn hạn 6.144.839.417 7.075.028.560
* Vay dài hạn
* Vay công nhân viên 1.327.373.571 561.572.334
11. Chênh lệch (9)-(10) Vốn đi chiếm dụng 1.064.583.950 1.259.261.576
Theo bảng phân tích trên, vốn của Công ty bị chiếm dụng bao gồm các khoản
phải thu và một phần TSLĐ khác là tạm ứng. Vốn của Công ty đi chiếm dụng gồm
các khoản nợ vay, riêng khoản vay công nhân viên không thuộc vào vốn đi chiếm
dụng. Theo cách tính đó ta thấy:
- Đầu năm vốn của Công ty bị chiếm dụng là 3.011.814.375 VNĐ và vốn đi
chiếm dụng là 1.064.583.950 VNĐ.
- Cuối kỳ vốn của Công ty bị chiếm dụng là 2.857.726.215VNĐ và vốn đi
chiếm dụng là 1.259.261.576 VNĐ.
Như vậy, cả đầu năm và cuối kỳ Công ty đều bị chiếm dụng vốn, số vốn đầu
năm bị chiếm dụng là 1.947.230.425 VNĐ (=1.064.583.950-3.011.814.375), cuối
kỳ Công ty bị chiếm dụng 1.598.464.639 VNĐ (= 1.259.261.576-2.857.726.215).
Điều này cho thấy Công ty đã có những cố gắng lớn trong việc thanh toán các
khoản nợ phải trả nhưng trong tình trạng Công ty đang bị thiếu vốn để hoạt động
sản xuất kinh doanh thì không nên thanh toán các khoản nợ phải trả ngay mà công
ty nên đi chiếm dụng vốn ở mức độ phù hợp để trang trải cho hoạt động kinh doanh
của mình.
Tóm lại, qua phân tích cho thấy tình hình tài chính của Công ty là bình thường và
có dấu hiệu khả quan. Tuy nhiên, Công ty vẫn thiếu vốn để hoạt động kinh doanh
do đó Công ty phải có những biện pháp để thu hút vốn mở rộng quy mô hoạt động
kinh doanh và nâng cao hơn nữa khả năng tự chủ về mặt tài chính.
2.2. Phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng vốn kinh doanh của
Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình.
Nguồn vốn kinh doanh của Công ty bao gồm nguồn VLĐ và nguồn VCĐ. Nguồn
VCĐ dùng để trang trải cho TSCĐ như mua sắm TSCĐ, đầu tư XDCB. Nguồn
VLĐ chủ yếu dùng để đảm bảo cho TSLĐ. Do là một doanh nghiệp Nhà nước nên
nguồn vốn kinh doanh của Công ty được hình thành chủ yếu từ vốn Ngân sách Nhà
nước cấp, ngoài ra vốn của Công ty còn được bổ sung từ nguồn vốn tự có. Dựa vào
tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu trên Thuyết minh báo cáo tài chính ngày
31 tháng 12 năm 2002 của Công ty, ta lập bảng phân tích sau:
Bảng 9: Bảng phân tích nguồn vốn kinh doanh của Công ty
Đơn vị: VNĐ
1- Ngân sách cấp 4.817.186.274 56,84 4.817.186.274 56,84 0
2- Tự bổ sung 3.656.992.797 43,16 3.656.992.797 43,16 0
3- Vốn liên doanh 0 0
4- Vốn cổ phần 0 0
Tổng cộng 8.474.179.071 100 8.474.179.071 100
Qua bảng phân tích trên ta thấy tổng nguồn vốn kinh doanh của Công ty cuối
năm so với đầu năm không tăng. Trong khi, nguồn vốn Chủ sở hữu của Công ty
giảm so với đầu năm như đã phân tích ở phần cơ cấu nguồn vốn mà nguồn vốn
kinh doanh trong kỳ không tăng chứng tỏ nguồn vốn Ngân sách cấp cho Công ty để
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh không tăng, Công ty phải hoạt động với số
vốn ít ỏi đó để đảm bảo khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh
việc hoạt động bằng nguồn vốn do Ngân sách cấp, Công ty phải tự bổ sung vốn
nhưng cho đến cuối kỳ nguồn vốn tự bổ sung của Công ty cũng không tăng. Điều
này bắt nguồn từ thực trạng năm 2001 Công ty kinh doanh bị lỗ 117.587.364 VNĐ
do Nhà nước áp dụng luật thuế GTGT cho nên khả năng tự bổ sung nguồn vốn kinh
doanh là không có. Đến năm 2002, Nhà nước có chính sách ưu đãi giảm mức thuế
suất thuế GTGT đối với Công ty từ 10% xuống còn 5% và với những cố gắng to
lớn của Công ty cho nên Công ty đã đạt được mức lãi 68.728.424 VNĐ. Nhưng
Công ty được phép bù lỗ cho năm trước, xử lý lãi theo Công văn 518-TC/TCDN,
toàn bộ lãi đạt được của năm 2002 được bù đắp cho mức lỗ của năm 2001 cho nên
Công ty cũng không còn khả năng tự bổ sung và phát triển nguồn vốn kinh doanh
từ lợi nhuận để lại. Tình hình đó cho thấy Công ty đang thiếu vốn để mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình. Để khắc phục tình trạng trên, Công ty phải mở rộng khả
năng liên doanh liên kết với các đối tác, đi vay từ các nguồn tín dụng, ngân hàng,
chiếm dụng vốn của các đơn vị khác một cách hợp lý trong giới hạn cho phép để
tăng nguồn tài trợ. Mặt khác, Công ty phải xúc tiến việc thực hiện Cổ phần hoá
doanh nghiệp để có thể tự chủ hơn nữa trong hoạt động kinh doanh của mình.
Trước tình hình này, Nhà nước cũng phải có kế hoạch cấp bổ sung vốn cho Công ty
để Công ty có thể mở rộng hơn nữa quy mô hoạt động kinh doanh của mình.
2.3. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của Công ty XNK thiết bị
điện ảnh - truyền hình:
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào cũng luôn coi trọng các
quan hệ tín dụng, bởi vì nó có thể giúp cho các doanh nghiệp mở rộng được quy
mô, đẩy nhanh được quá trình sản xuất kinh doanh làm cho quá trính kinh doanh
diễn ra liên tục, giúp cho doanh nghiệp phát huy được thế mạnh, mở rộng được đầu
tư. Muốn vậy, các doanh nghiệp đòi hỏi phải có đủ năng lực đáp ứng các nghĩa vụ
đối với từng loại tín dụng mà họ nhận được và đặc biệt là khả năng hoàn trả đúng
hạn các khoản vay tín dụng ngắn hạn.
Cũng như các công ty khác, các quan hệ tín dụng mà đặc biệt là các khoản nợ vay
ngắn hạn đã giúp cho Công ty có thể bổ sung thêm vốn kinh doanh. Công ty cũng
đã và đang nỗ lực tận dụng các khoản tín dụng này để làm cho chúng tạo ra lợi
nhuận cao, nâng cao hơn nữa tính khả quan của tình hình tài chính của mình. Để
đánh giá sâu sắc vấn đề này, căn cứ vào số liệu trên BCĐKT ngày 31 tháng 12 năm
2002 của Công ty ta lập bảng phân tích tình và khả năng thanh toán. bảng phân tích
này gồm hai phần là phân tích các khoản phải thu và các khoản phải trả.
2.3.1. Phân tích các khoản phải thu:
Bảng10: Bảng phân tích các khoản phải thu. Đơn vị VNĐ.
1- Phải thu khách hàng
2- Thuế GTGT được khấu trừ
3- Phải thu nội bộ
4- Các khoản phải thu khác
5- Tạm ứng
6- Tài sản thiếu chờ xử lý
7- Thế chấp, ký quỹ, ký cược
8- Trả trước cho người bán
9- Dự phòng phải thu có đồi
Tổng cộng
Từ số liệu trên bảng cho thấy so với đầu năm các khoản phải thu của Công ty
cuối kỳ giảm 154.088.160 VNĐ tương đương giảm 5,12%. Các khoản phải thu
giảm chủ yếu là do :
*Tạm ứng cuối kỳ giảm 144.452.853 VNĐ tương đương giảm 90,25% so
với đầu năm.
*Trả trước cho người bán cuối kỳ giảm 57.517.469 VNĐ tương đương giảm 9,33%
so với đầu năm.
*Các khoản phải thu khác cuối kỳ giảm 3.701.331 VNĐ tương đương giảm 6,68%
so với đầu năm
Các khoản phải thu của Công ty giảm chứng tỏ Công ty không bị các đơn vị khác
chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, các khoản phải thu của khách hàng cuối kỳ so với đầu
năm của Công ty tăng lên 51.583.493 VNĐ tương đương tăng 2,37% cho thấy
doanh số hàng bán của Công ty tăng. Hơn nữa khách hàng của Công ty đều là
những đơn vị đáng tin cậy, các khoản phải thu đều mang tính chắc chắn cho nên
các khoản phải thu của khách hàng tăng lên là một dấu hiệu tốt. Mặt khác, để xem
xét các khoản phải thu có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của Công ty như thế
nào cần phải so sánh tổng các khoản phải thu với tổng TSLĐ hoặc với tổng quát
khoản phải trả.
Tỷ trọng các khoản phải thu so với tổng TSLĐ = Tổng các khoản phải thu/Tổng
TSLĐ
Tỷ trọng các khoản phải thu so với các khoản phải trả = Tổng các khoản phải
thu/Tổng các khoản phải trả
Từ số liệu tính toán trên ta thấy tỷ trọng các khoản phải thu so với tổng TSLĐ
cuối kỳ giảm so với đầu năm 3.82% (=21,10%-24,92%), tỷ trọng các khoản phải
thu so với tổng các khoản phải trả cuối kỳ giảm so với đầu năm 6,21% (=30,61%-
36,82%). Tỷ trọng các khoản phải thu so với tổng các khoản phải trả cuối năm
giảm so với đầu năm nhưng các khoản phải thu chiếm tỷ lệ ít so với các khoản phải
trả. Điều này đã chứng tỏ Công ty đi chiếm dụng vốn nhiều hơn là bị các đơn vị
khác chiếm dụng vốn. Việc đi chiếm dụng vốn như vậy có thể tạo điều kiện cho
Công ty đầu tư, bổ sung thêm nguồn vốn để tăng quy mô hoạt động của mình, đồng
thời nâng cao tính khả quan về tình hình tài chính trong tương lai cho Công ty. Tuy
nhiên, Công ty cũng phải cố gắng trong việc thu hồi các khoản phải thu của khách
hàng hơn nữa để đẩy nhanh tốc độ phát triển của hoạt động kinh doanh và để nhanh
chóng thanh toán được các khoản nợ vay cho các đơn vị khác.
Để phân tích được chính xác hơn, ta cần phải so sánh vòng quay của các khoản
phải thu giữa kỳ phân tích với kỳ trước và dựa vào số liệu trên BCĐKT và
BCKQKD năm 2001 và năm 2002 làm cơ sở phân tích: Vòng quay của các khoản
phải thu = Doanh thu thần/ Số dư bình quân các khoản phải thu
Số dư bình quân của các khoản phải thu = Số dư đầu năm + Số dư cuối kỳ/2
Số dư bình quân các khoản phải thu năm 2001
= 2.674.492.571 + 3.011.814.375/2 = 2.843.153.473 VNĐ
Số dư bình quân các khoản phải thu năm 2002
3.011.814.375 + 2.857.726.215/2 = 2.934.770.195 VNĐ
Từ đó ta có:
Vòng quay của các khoản phải thu năm 2001 = 11.685.393.643 = 4,11 (lần)
Vòng quay của các khoản phải thu năm 2002
Như vậy, tốc độ chuyển đổi của các khoản phải thu thành tiền của năm 2002 là
4,71 (lần), tăng lên so với năm 2001 là 0,6 (lần) (= 4,71- 4,11) do vòng quay của
các khoản phải thu tăng lên. Điều này chứng tỏ việc thu hồi công nợ của năm 2002
là tốt.
2.3.2 Phân tích các khoản phải trả:
Bảng11: Bảng phân tích các khoản phải trả: Đơn vị VNĐ
Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch cuối kỳ so với đầu năm
1- phải trả cho người bán
2- Thuế và các khoản nộp Nhà
3- Nợ dài hạn đến hạn trả
4- Người mua ứng trước
5- Phải trả công nhân viên
5- Phải trả nội bộ
7- Các khoản phải trả khác
8- Vay ngắn hạn
9- Vay dài hạn
10- Chi phí phải trả
11- Tài sản thừa
chờ xử lý
Tổng cộng
Để xác định và đánh giá khái quát tình hình các khoản nợ phải trả ta phải xác
định hệ số nợ của Công ty:
Hệ số Nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ năm 2002 của Công ty tăng 3,4% (=52,4%- 49%) so với năm 2001 và
hệ số nợ năm 2002 bằng 0,524 lớn hơn 0,5 chứng tỏ tình hình công nợ của Công ty
tăng. Hơn nữa, trong điều kiện tỷ trọng của nguồn vốn Chủ sở hữu giảm do đó
Công ty phải đi vay mượn để trang trải cho hoạt động kinh doanh của mình với
lượng hợp lý. Căn cứ vào bảng phân tích các khoản phải trả ta thấy các khoản phải
trả đã tăng lên 1.154.866.769 VNĐ tương đương tăng 14,12% trong năm 2002,
trong đó khoản phải trả người bán tăng 187.716.155 VNĐ tức là tăng 73,04%,
khoản người mua ứng trước tăng 96.015.127 VNĐ tương đương tăng 262,33%, các
khoản phải trả khác cũng tăng 724.356.873 VNĐ tương đương tăng 162,33%. Như
vậy, khoản người mua ứng trước cho Công ty có tốc độ tăng lớn nhất chứng tỏ rằng
uy tín của Công ty đã được nâng cao, Công ty đã tranh thủ chiếm dụng vốn một
cách hợp lý từ các đối tác để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiếp theo ta cần xem xét chỉ tiêu:
Tỷ trọng các khoản phải trả trên tổng TSLĐ = Tổng các khoản phải
trả/Tổng TSLĐ
Kết quả tính toán cho thấy tỷ trọng các khoản phải trả trong cả hai năm đều nhỏ
hơn tổng TSLĐ, tỷ trọng này năm 2002 tăng 0,011 hay 1,1% sao với năm 2001.
Tuy nhiên, mức tăng này không đáng kể so với mức tăng của tổng TSLĐ do đó khả
năng thanh toán của Công ty có giảm đôi chút nhưng tại thời điểm này, Công ty
vẫn đang cố gắng cải thiện việc trang trải công nợ của mình với các đơn vị khác
một cách tích cực để làm cho bức tranh tài chính của Công ty tốt đẹp hơn nữa trong
những năm tới.
Tình hình tài chính của Công ty còn được thể hiện qua khả năng thanh toán. Nếu
công ty có đủ khả năng thanh toán thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại.
Tỷ suất thanh toán hiện hành ngắn hạn = Tổng TSLĐ/Nợ ngắn hạn
Số liệu tính toán cho thấy tỷ suất thanh toán hiện hành ngắn hạn của Công ty
cuối năm có giảm so với đầu năm là 0,03 hay 3% nhưng trong cả hai năm tỷ suất
này đều lớn hơn 1, sự giảm ở trên là không đáng kể. Do đó, có thể đánh giá tình
hình tài chính của Công ty là tương đối khả quan, Công ty có đủ khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn.
Tỷ suất thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + Phải thu + ĐTNH/Tổng nợ ngắn hạn
Đầu năm = 496.107.455+ 2.851.766.485+0/8.179.423.367 = 0,41
Cuối năm = 244.099.175+ 2.842.131.178+ 0/ 9.334.290.136 = 0,33
Kết quả tính toán cho thấy tỷ suất thanh toán nhanh của Công ty năm 2002 thấp
hơn năm 2001 là 0,08 hay 8%. Trong cả hai năm tỷ suất này đều nhỏ hơn 1, so với
mức các chủ nợ chấp nhận nhỏ nhất là 0,5 khả năng thanh toán nhanh của Công ty
năm 2002 chỉ đáp ứng được 0,33 đồng cho 1 đồng nợ ngắn hạn. Điều này xảy ra là
do trên thực tế Vốn bằng tiền và các khoản phải thu của Công ty năm 2002 đều bị
giảm so với năm2001, và có thể do Công ty gặp khó khăn trong việc giải phóng
TSLĐ để đảm bảo thanh toán các khoản nợ vay, và do trữ lượng hàng tồn kho cuối
kỳ tăng lên.
Tuy nhiên, muốn đánh giá chính xác hơn nữa khả năng thanh toán của Công ty ta
cần xem xét phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của Công ty thông qua bảng
phân tích sau:
Bảng12: Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán . Đơn vị VNĐ
1- Vay ngắn hạn
2- Vay ngắn hạn nội bộ
2- Tiền gửi
Ngân hàng
3- Phải trả cho người bán
3- Các khoản phải thu
4- Phải trả người mua
4- Hàng tồn kho
5- Phải nộp Ngân sách
6- Phải trả công nhân viên
7- Phải trả phải nộp khác
Tổng cộng
Qua bảng phân tích cho thấy cả đầu năm và cuối kỳ Công ty đều có khả năng
thanh toán các khoản nợ. Đầu năm khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán
chênh lệch nhau là 3.732.774.19 VNĐ (=11.912.197.557- 8.179.423.367), cuối kỳ
chênh lệch nhau là 4.200.886.614 VNĐ (=13.535.176.750- 9.334.290.136). Ngoài
ra ta còn tính chỉ tiêu sau
Hệ số khả năng thanh toán =Khả năng thanh toán/Nhu cầu thanh toán
Đầu năm = 11.912.197.557/8.179.423.367 = 1,46
Cuối năm = 13.535.176.750/9.334.290.136 = 1,45
Như vậy, cả cuối kỳ lẫn đầu năm hệ số khả năng thanh toán của Công ty đều lớn
hơn 1 chứng tỏ tình hình tài chính của Công ty tương đối tốt, Công ty có khả năng
thanh toán các khoản nợ. Do đó, có thể khẳng định rằng Công ty đang trên đà phát
triển với một khả năng về tài chính tương đối khả quan.
2.4. Phân tích hiệu quát kinh doanh của Công ty:
Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động tài chính
của Công ty. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cho ta biết trình độ quản lý và sử
dụng vốn của Công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn của Công ty ta
xác định các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sử dụng vốn KD = Doanh thu thuần/VKD bình quân
Tỷ suất lợi nhuận Vốn kinh doanh (hoặc mức doanh lợi theo vốn) = Lợi nhuận
trước thuế/VKD bình quân
Trong đó:
Vốn kinh doanh bình quân = VKD đầu năm + VKD cuối năm/2
Căn cứ vào BCĐKT năm 2001 và năm 2002 của Công ty ta lập bảng tính VKD
bình quân, VLĐ bình quân và VCĐ bình quân:
Bảng13: Bảng phân tích VKD bình quân, VLĐ bình quân và VCĐ
bình quân: (Đơn vị VNĐ)
1- VLĐ
2- VCĐ
3- VLĐ bình quân
4- VCĐ bình quân
5- VKD bình quân
Từ bảng vừa lập trên cùng với BCKQKD ta lập bảng phân tích hiệu quả sử dụng
VKD của Công ty:
Bảng14: Bảng phân tích hiệu quả VKD. (Đơn vị VNĐ)
1- Doanh thu thuần
2- VSX bình quân
3- Lợi nhuận trước thuế
4- Hiệu suất sử dụng VKD
5. Tỷ suất lợi nhuận trên VKD
Qua bảng phân tích trên cho thấy Công ty đã sử dụng tiết kiệm VKD và đã nâng
cao được tỷ suất sinh lợi của VKD. Sở dĩ có được kết quả trên là do:
Thị phần đã được mở rộng, thể hiện ở doanh thu thuần đã tăng lên được
1.699.466.794 VNĐ tương đương tăng lên 14,55%.
- Vốn sản xuất bình quân cũng tăng lên 2,88%.
- Chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đã tăng lên một cách rõ rệt, từ chỗ bị lỗ 117.587.364
VNĐ năm 2001 đã có lãi 68.728.424 VNĐ năm 2002 . Tình hình này cho thấy khả
năng kinh doanh đã phát triển tương đối mạnh và thể hiện sự cố gắng vượt bậc của
Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên 11,34% và tỷ suất lợi nhuận
trên vốn sản xuất kinh doanh cũng tăng lên 1,4%.
2.4.1. Phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ:
Việc sử dụng VCĐ sao cho có hiệu quả là vấn đề quan trọng của Công ty. Để
phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ chúng ta dùng các chỉ tiêu sau:
Sức sản xuất của TSCĐ = Doanh thu thuần/Nguyên giá bình quân TSCĐ
Sức sinh lợi của TSCĐ = Lợi nhuận trước thuế/Nguyên giá bình quân TSCĐ
Suất hao phí của TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ/Doanh thu thuần hoặc Lợi
nhuận trước thuế
Hiệu suất sử dụng
VCĐ = Doanh thu thuần/VCĐ bình quân
Tỷ suất sinh lợi của VCĐ = Lợi nhuận trước thuế/VCĐ bình quân
Bảng15: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng VCĐ. Đơn vị VNĐ
1- Doanh thu thuần 11.685.393 13.384.860.437 1.699.466.794 14,55
2- Lợi nhuận trước thuế -117.587.364 68.728.424 186.315.788 -158,50
3- VCĐ bình quân 4.742.191.668 4.421.386.071 -320.805.597 11,14
4- Nguyên giá TSCĐ bình quân 14.336.906.873 14.382.663.762
45.756.889 0,32
5- Sức sản xuất của TSCĐ(1/4) 0,815 0,930 0,115 14,11
6- Sức sinh lợi của TSCĐ(2/4) -0,0082 0,0048 0,013
7- Suất hao phí TSCĐ(4/1) hoặc (4/2) 1,230 1,074 -0,156
8- Hiệu suất sử dụng VCĐ(1/3) 2,46 3,03 0,57
9- Tỷ suất lợi nhuận trên VCĐ(2/3) -0,025 0,016 0,041
Dựa vào bảng phân tích trên ta có thể nhận xét như sau:
- Nhìn vào chỉ tiêu (5) trong bảng ta thấy sức sản xuất của TSCĐ tăng lên từ 0,815
đến 0,930, có nghĩa là cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ sử dụng trong kỳ
đem lại 0,93 đồng doanh thu thuần. Như vậy 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ
năm 2002 tạo ra nhiều hơn 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ năm 2001 là 0,115
đồng doanh thu thuần chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty là tương đối
tốt.
- Chỉ tiêu (6) trong bảng phân tích cho thấy sức sinh lợi của TSCĐ năm 2002 tăng
lên so với năm 2001 là 0,013. Năm 2001, cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ
dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ tạo ra 0,0082 đồng lợi nhuận trước
thuế nhưng năm 2001 lợi nhuận trước thuế âm cho nên chỉ tiêu này không được
đánh giá. Sang năm 2002, cứ 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đ• tạo ra 0,0048
đồng lợi nhuận trước thuế. Điều này cho thấy sức sinh lợi của TSCĐ là có chiều
hướng tốt.
- Chỉ tiêu suất hao phí TSCĐ là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu sức sản xuất của
TSCĐ. Chỉ tiêu này giảm chứng tỏ việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả hơn, vì năm
2001 để tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần phải cần đến 1,23 đồng hao phí TSCĐ
thì sang năm 2002 chỉ cần đến 1,074 đồng, giảm so với năm 2001 được 0,156 đồng.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ năm 2002 tăng lên rõ rệt và cao hơn năm
2001 là 0,57 đồng. Chỉ tiêu này tăng được đánh giá là tốt vì Công ty đã tiến hành
các hoạt động nhằm làm tăng lợi nhuận dẫn đến hiệu suất sử dụng TSCĐ được
nâng cao.
Như vậy, Công ty đã không những tiết kiệm được VCĐ mà còn nâng cao được
hiệu quả sử dụng VCĐ. Tổng hợp các chỉ tiêu trên có thể khẳng định hiệu quả sử
dụng TSCĐ của Công ty là rất tốt và được thể hiện ở chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên
VCĐ đã tăng lên vào cuối kỳ.
2.4.2. Phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ:
Nguồn VLĐ của Công ty được dùng để đảm bảo cho TSLĐ, là yếu tố quyết
định đến việc thực hiện các nhiệm vụ hoạt động kinh doanh của Công ty. Do vậy,
việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
Công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ ta cần xem xét các chỉ tiêu sau:
Sức sản xuất của VLĐ = Doanh thu thuần VLĐ bình quân
Sức sinh lợi của VLĐ = Lợi nhuận trước thuế/VLĐ bình quân
Số vòng quay của VLĐ = Doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Thời gian của 1 vòng quay của VLĐ = Thời gian kỳ phân tích (360 ngày)Số vòng
quay của VLĐ
Hệ số đảm nhiệm VLĐ = VLĐ bình quân/Tổng doanh thu thuần
Dựa vào BCĐKT và BCKQKD năm 2001 và năm 2002 của Công ty ta lập
bảng phân tích sau:
Bảng 16: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ: Đơn vị VNĐ
1- Doanh thu thuần 11.685.393 13.384.860.437 1.699.466.794 14,55
2- Lợi nhuận trước thuế -117.587.364 68.728.424 186.315.788 -158,50
3- VLĐ bình quân 12.015.912.875 12.818.533.768 802.620.893 6,68
4- Sức sản xuất
của TSLĐ (1/3) 0,973 1,044 0,071 7,29
5- Sức sinh lợi của TSLĐ (2/3) -0,0098 0,0054 0,0152 -155,10
6- Số vòng quay VLĐ 0,973 1,044 0,071 7,29
7- Thời gian của 1
vòng luân chuyển 369,98 344,82 -25,16 -6,8
8- Hệ số đảm nhiệm VLĐ 1,03 0,96 -0,07 -6,79
Từ bảng phân tích trên cho thấy:
Sức sản xuất của VLĐ năm 2002 tăng 0,071 so với năm 2001, điều đó cho thấy 1
đồng VLĐ năm 2002 đem lại 1,044 đồng doanh thu thuần tăng 0,071 đồng so với
năm 2001 đem lại 0,973 đồng doanh thu thuần.
Sức sinh lợi của VLĐ năm 2002 cũng tăng lên 0,0054 so với năm 2001 tương
đương tăng 1,52%.
Chỉ tiêu số vòng quay của VLĐ (hệ số luân chuyển của VLĐ) đã tăng lên 0,071
vòng (= 1,044- 0,973). Nguyên nhân tăng lên là do năm 2002 Công ty đã có những
biện pháp tích cực trong việc thu hồi các khoản nợ do đó giảm được thời gian của
một vòng thu hồi nợ từ 370 ngày xuống còn 344 ngày, giảm được 25 ngày/ 1 vòng
luân chuyển.
Nghịch đảo của chỉ tiêu vòng quay VLĐ là hệ số đảm nhiệm VLĐ. Hệ số này càng
giảm thì càng tốt cho Công ty. Thực tế năm 2002 để có 1 đồng doanh thu thuần chỉ
cần 0,96 đồmg VLĐ nhưng năm 2001 để có 1 đồng doanh thu thuần Công ty phải
bỏ ra 1,03 đồng VLĐ. Như vậy năm 2002 chỉ tiêu này đã giảm 0,07 so với năm
2001.
Qua việc phân tích tình hình sử dụng VLĐ trên ta có thể kết luận rằng tình hình
sử dụng VLĐ của Công ty là tương đối tốt, Công ty một mặt sử dụng có hiệu quả
nguồn VLĐ, mặt khác hiệu quả kinh doanh vẫn cao thể hiện tình hình tài chính của
Công ty tương đối tốt và sáng sủa, hầu hết các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đều tăng
lên. Để sự đánh giá trên chính xác hơn ta cần đi sâu vào phân tích các nguyên nhân
ảnh hưởng như tình hình mua hàng hoá, dự trữ và tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Việc
tăng tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ làm giảm nhu cầu về vốn, cụ thể là với một tốc độ
vốn không tăng nếu Công ty tăng tốc độ luân chuyển có thể làm tăng doanh số hoạt
động dẫn đến lợi nhuận tăng. Thật vậy, từ công thức hệ số luân chuyển của VLĐ ta
suy ra:
Khi tốc độ luân chuyển không đổi
Như vậy , tốc độ luân chuyển của VLĐ năm 2002 tăng là do doanh thu thuần
tăng 853.129.814 VNĐ. Đây là sự cố gắng của Công ty trong việc giảm tối thiểu
chi phí và do mở rộng quy mô hoat động kinh doanh nhằm mục đích tăng lợi
nhuận. Việc giảm xuống của 1 vòng quay của VLĐ hay việc tăng tốc độ luân
chuyển của VLĐ năm 2002 đã làm tiết kiệm một số VLĐ là:
N = DTT/(To –T1) * T
Trong đó:
N: là số VLĐ tiết kiệm do tăng tốc độ luân chuyển.
DTT: là Tổng doanh thu thuần kỳ phân tích
T: là thời gian kỳ phân tích
To: là thời gian một vòng luân chuyển kỳ gốc
T1: là thời gian luân chuyển kỳ phân tích
Do đó, so với năm 2001, số VLĐ đã tiết kiệm được 9.354.431.244 VNĐ. Như
vậy, xét về hiệu qua sử dụng vốn trên phương diện sinh lợi của vốn thì tăng rất lớn
so với năm 2001 chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Công ty là tương đối tốt, do đó
mức tăng của VLĐ bình quân là hợp lý. Mặc dù doanh thu thuần tăng nhưng vẫn
tiết kiệm được VLĐ chứng tỏ tình hình kinh doanh của Công ty là khá tốt.
2.5. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn:
Phân tích khả năng sinh lợi của vốn thực chất là xem xét hiệu quả sử dụng vốn
dưới góc độ sinh lời của vốn được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Tỷ suất lơi nhuận theo vốn kinh doanh = Tổng lợi nhuận trước thuế/VKD bình
quân
Tỷ suất này đã được phân tích ở phần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của Công ty. Nếu VKD bình quân trong công thức trên được thay bằng Vốn chủ sở
hữu, ta có:
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn
Chủ sở hữu = Tổng lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu
Từ kết quả tính toán trên cho thấy khả năng sinh lợi của vốn Chủ sở hữu năm
2002 tăng lên so với năm 2001. Nếu như 1 đồng vốn Chủ sở hữu của Công ty năm
2001 không đem lại lãi mà lỗ 0,014 đồng thì sang năm 2002 đẫ tạo ra được 0,008
đồng tương đương tăng 0,022 đồng. Sự tăng lên về giá trị của chỉ tiêu này tuy còn
nhỏ nhưng đã chứng tỏ sự nỗ lực cố gắng rất lớn của Công ty trong quá trình kinh
doanh., làm tăng khả năng sinh lời của vốn Chủ sở hữu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
Từ công thức tính mức doanh lợi theo vốn Chủ sở hữu và mối quan hệ giữa các
nhân tố ảnh hưởng, ta có:
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn Chủ sở hữu của vốn Chủ sở hữu
* Hệ số doanh lợi doanh thu thuần
Như vậy, hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu trong kỳ kinh doanh quay được
1,578 vòng tăng so với năm 2001 là 0,201 vòng (= 1,578 – 1,377) chứng tỏ Công ty
sử dụng vốn có hiệu quả.
Còn hệ số doanh lợi của doanh thu thuần năm 2002 cho biết với 1 đồng doanh
thu thuần đem lại 0,008 đồng lợi nhuận trước thuế. So với năm 2001, chỉ tiêu này
tăng 0,018 chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn trong quá trình kinh doanh tăng lên.
Điều này do ảnh hưởng của hai nhân tố:
* Do hệ số quay vồng của vốn Chủ sở hữu thay đổi:
( 1,578 –1,377) * 0,01 = 0,00201
* Do hệ số doanh lợi doanh thu thuần thay đổi:
(0,008 – (- 0,01)) * 1,578 = 0,0284
Tình hình trên cho thấy do hệ số vòng quay của vốn chủ sở hữu tăng lên làm
tăng khả năng sinh lợi là 0,00201 đồng và lợi nhuận tính trên 1 đồng doanh thu
thuần tăng làm tăng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu là 0,0284 đồng. Tổng
hợp ảnh hưởng của các nhân tố có thể kết luận rằng khả năng sinh lợi của vốn chủ
sở hữu ngày càng tăng , tuy nhiên chưa phải là cao.
Qua việc phân tích một loạt các chỉ tiêu trên có thể nói rằng mặc dù trước nhiều
khó khăn về vốn Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình đã vượt qua được
các khó khăn đó để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh
Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty xnk thiết bị điện ảnh -
truyền hình.
I. Đánh giá chung về tình hình tài chính của Công ty:
Hơn 25 năm kể từ khi thành lập, Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình
đã trải qua không ít những khó khăn thử thách to lớn trong quá trình tồn tại và phát
triển. Trước những khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm
nhưng nhờ những chính sách đổi mới của Ban lãnh đạo Công ty, nhờ quyết tâm đưa
Công ty phát triển cao hơn nữa bằng nhiều khả năng và biện pháp, Công ty vẫn
đứng vững và phát triển ổn định cùng với các Công ty khác trên cả nước cung cấp
những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được ngày càng cao nhu cầu của thị
trường.
Phân tích tình hình tài chính của Công ty là yêu cầu mang tính thường xuyên và
là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như Ban l•nh đạo Công ty, các tổ
chức tín dụng, các khách hàng, nhà cung cấp và các đối tượng khác. Thông qua
việc tiếp cận với tình hình tài chính của Công ty trên cơ sở hệ thống báo cáo tài
chính kế toán năm 2001 và năm 2002 với tư cách là một sinh viên chuyên ngành
Tài chính, cá nhân em có một số đánh giá về tình hình tài chính của Công ty XNK
thiết bị điện ảnh - truyền hình như sau:
Nhìn chung, trong những năm gần đây, Công ty làm ăn có lãi. Năm 2001, Công ty
đã bị lỗ 117.587.364 VNĐ, nhờ những nỗ lực cố gắng của Công ty và nhờ chính
sách ưu đãi cả nhà nước, năm 2002 Công ty dần hồi phục và ổn định trở lại nâng
mức lợi nhuận trước thuế lên 68.728.424 VNĐ. Công ty luôn tìm mọi biện pháp để
nâng cao mức thu nhập cho công nhân viên và tìm mọi biện pháp khắc phục khó
khăn đưa tình hình tài chính của Công ty ổn định và khả quan hơn. Thực tế cho
thấy tình hình tài chính của Công ty tương đối lành mạnh và có nhiều triển vọng
khả quan trong tương lai. Xu hướng tích cực này càng góp phần làm cho Công ty
có tro đứng vững trong cạnh tranh và khẳng định được vị trí của mình trong nền
kinh tế thị trường.
Những tồn tại về mặt tài chính của Công ty ngày càng được giảm xuống để thích
nghi với tình hình mới, làm tăng hiệu quả kinh doanh đưa mức tổng lợi nhuận ngày
càng tăng lên. Quy mô tài sản và nguồn vốn của Công ty nói chung năm 2002 tăng
lên 10,68% so với năm trước. Tuy nhiên, cơ cấu tài sản và nguồn vốn chưa thật hợp
lý và phù hợp với đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Công ty. Nhìn vào bức
tranh tài chính của Công ty ta thấy các khoản mục tài sản và nguồn vốn vẫn chưa
có sự phân bố hợp lý: Về phần tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu hình mà
không có các tài sản khác, các khoản ĐTDH và các khoản chi phí XDCB không có.
Giá trị TSCĐ năm 2002 giảm so với năm 2001 do mức khấu hao khá lớn. Công ty
bị thiếu vốn để đầu tư trang bị cho TSCĐ, trong khi quy mô tài sản nói chung tăng
10,68% nhưng chủ yếu là do TSLĐ và ĐTNH tăng, còn nguyên giá TSCĐ do mua
sắm cũng tăng nhưng rất ít.. Bản thân TSLĐ của Công ty cũng có những điểm đáng
chú ý sau:
+ Vốn bằng tiền năm 2002 giảm so với năm 2001 được đánh giá là chưa tốt vì nó
chưa đáp ứng được khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của
Công ty. Trong vốn bằng tiền thì tiền gửi Ngân hàng chiếm chủ yếu do việc thanh
toán trong hoạt động kinh doanh chủ yếu được thực hiện thông qua chuyển khoản,
séc.... Khoản tiền gửi Ngân hàng trong mục vốn bằng tiền cũng giảm so với năm
trước.
+ Hàng tồn kho tăng đáp ứng được nhu cầu tăng vốn cho khâu dự trữ và khâu
tiêu thụ của Công ty. Tuy nhiên, sang năm tới Công ty có thể giảm vốn dự trữ cho
các loại sản phẩm theo định mức dự trữ đã được nghiên cứu phù hợp với năng lực
tiêu thụ của Công ty.
+ Các khoản phải thu của Công ty năm 2002 giảm đi, trong đó chủ yếu là giảm
khoản phải thu khác và trả trước cho người bán, chứng tỏ uy tín của Công ty một
phần nào đã được nâng cao, riêng khoản phải thu của khách hàng tăng lên nhưng
tăng không đáng kể, như vậy chứng tỏ Công ty ít bị chiếm dụng vốn từ phía khách
hàng do đó cũng tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong khâu lưu thông.
+ Các khoản Nợ phải trả của Công ty năm 2002 tăng lên so với năm trước với
tổng số nợ phải trả là 9.334.290.136 VNĐ, trong đó chủ yếu là do tăng các khoản
vay ngắn hạn (960.189.143 VNĐ) và các khoản phải trả nhà cung cấp (187.716.155
VNĐ), các khoản nợ các đối tượng khác như người mua cũng tăng nhưng chậm
hơn. Nguyên nhân chính làm cho các khoản nợ vay tăng lên là do Công ty tăng
mức dự trữ hàng tồn kho, đồng thời Công ty bán chịu cho khách hàng tăng. Để
đảm bảo thanh toán cho nhà cung cấp đúng hạn và đảm bảo chữ tín đối với họ cho
nên Công ty phải vay tạm thời để thực hiện mục tiêu này. Nếu so sánh với các
khoản phải thu thì Công ty đi chiếm dụng nhiều hơn là bị chiếm dụng, đồng thời
nếu so với vốn chủ sở hữu thì các khoản phải thanh toán cũng chiếm tỷ trọng lớn
do đó khả năng thanh toán nợ của Công ty chưa thật cao. Điều này có ảnh hưởng
đến tâm lý của các chủ Ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng cũng như những người
có quan hệ thanh toán với công ty. Nếu khả năng thanh toán hiện hành ngắn hạn
của Công ty rất tốt nhưng khả năng thanh toán nhanh của Công ty lại giảm do vốn
bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá nhanh thành tiền của Công ty giảm do đó
khả năng đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh có chu kỳ kinh doanh ngắn của
Công ty bị hạn chế.
Nguồn vốn chủ sở hữu giảm so với kỳ trước (8.951.399 VNĐ tương đương giảm
0,1%) chủ yếu là do nguồn vốn quỹ giảm hay nguồn vốn kinh doanh giảm. Với
nguồn vốn tự có của mình Công ty chỉ đảm bảo tài trợ cho TSCĐ và một phần cho
TSLĐ, phần còn lại buộc Công ty phải huy động bên ngoài để bù đắp. Như vậy, tỷ
lệ vốn vay và vốn đi chiếm dụng cao hơn so với tiêu chuẩn của ngành sản xuất
công nghiệp (mức đảm bảo vốn phải đạt trên 50% thì mới an toàn và chủ động) cho
thấy Công ty chưa chủ động về vốn. Nhưng đây là tình hình chung của các doanh
nghiệp Nhà nước vì nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu là do Ngân sách
Nhà nước cấp dưới hình thức TSCĐ ( Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị...)
nguồn vốn lưu động rất ít, vốn tự bổ sung không nhiều. Chính vì vậy, Công ty đang
thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh và để chủ động trong kinh
doanh, Công ty đã phải huy động vốn vay vừa bảo đảm vốn cho hoạt động kinh
doanh, vừa đảm bảo đem lại lợi nhuận.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là doanh thu thuần trong hoạt động kinh doanh của
Công ty năm 2002 tăng nhanh nên đã làm cho các giá trị của hiệu quả sử dụng và
hiệu quả sinh lợi của vốn kinh doanh, vốn chủ sở hữu và VCĐ đều tăng lên cao.
Đây cũng là điều kiện để gây lòng tin từ phía người cho vay. Công ty cũng đã sử
dụng tiết kiệm và có hiệu quả VCĐ, VLĐ và vốn sản xuất kinh doanh góp phần
nâng cao chỉ tiêu lợi nhuận.
Trên đây là những nhận xét đánh giá, chung nhất về tình hình tài chính của Công
ty. Qua các đánh giá trên cho thấy tình hình tài chính của Công ty trong năm 2002
tương đối ổn định, lành mạnh và khả quan hơn so với năm 2001. Tuy nhiên, để
khắc phục được những bất cập còn tồn tại trong bức tranh tài chính của Công ty,
cần thiết phải đề ra một số phương hướng, giải pháp mang tính đề xuất nhằm cải
thiện tình hình tài chính của Công ty trong những năm tiếp theo.
II. một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Xnk thiết bị điện ảnh - truyền
hình trong những năm tới:
Những phân tích, đánh giá trên đây mới chỉ dừng lại ở những Đanh giá chung
nhất và những nét cơ bản nhất về tình hình tài chính của Công ty. Do vậy, những
kiến nghị mang tính đề xuất dưới chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn nhất định nào
đó nên cần phải đặt trong mối quan hệ với tình hình thực tế luôn phát sinh và biến
động tại Công ty thì mới thực sự có giá trị.
1. Các kiến nghị đối với Công ty:
1.1. Kiến nghị về công tác quản lý:
Nhìn chung, bộ máy quản lý của Công ty đã đáp ứng được yêu cầu tinh giảm
gọn nhẹ của Nhà nước đảm bảo sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Ban lãnh
đạo Công ty tạo ra được hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, bộ
máy quản lý của Công ty vẫn còn trì trệ, yếu kém về hiệu quả. Cán bộ quản lý ở các
mặt hoạt động, các lĩnh vực của Công ty ngoài lực lượng lãnh đạo có trình độ
chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm trong thời buổi nền kinh tế thị trường vẫn
còn một số chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó,
để có thể phát triển nhanh hơn nữa, Công ty cần phải tăng cường khả năng tổ chức
lãnh đạo và quản lý hơn nữa bằng việc chú trọng đào tạo một đội ngũ cán bộ quản
lý năng động hơn, linh hoạt hơn và có trình độ cao hơn để đáp ứng nhu cầu phát
triển ngày nay. Muốn thực hiện được điều đó, Công ty nên áp dụng các giải pháp
sau:
Thứ nhất, Công ty phải chấn chỉnh và sắp xếp lại bộ máy gián tiếp, phục vụ trong
Công ty theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ hơn nữa, giải quyết chế độ cho số cán bộ,
nhân viên có điều kiện và thâm niên công tác nhưng không đáp ứng được yêu cầu
về sức khoẻ và trình độ năng lực. Ban lãnh đạo Công ty cần kiên quyết sàng lọc
những người không đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đồng thời phải có chế độ
thưởng phạt phân minh nhằm khuyến khích động viên kịp thời những người đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ hai, Công ty nên bổ sung một lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, nhân viên
trẻ và có những chính sách để thu hút họ. Ngoài ra, Công ty cũng nên tổ chức các
lớp học ngắn hạn về pháp luật và những cải cách đổi mới của Nhà nước, đặc biệt là
những chính sách về tiền lương, tiền thưởng để thực hiện quy chế dân chủ trong
quản lý.
1.2. Kiến nghị về công tác kế toán:
Kết quả cuối cùng của công tác kế toán là đưa ra được những báo cáo tài chính
phản ánh đúng tình hình, thực trạng tài chính của Công ty. Hiện nay, công tác kế
toán rất phù hợp với đặc điểm và quy mô kinh doanh của Công ty. Sự phân công
trách nhiệm đối với từng người trong phòng tài vụ là tương đối hợp lý, hạch toán kế
toán theo đúng chuẩn mực pháp lý phù hợp với chế độ kế toán hiện hành. Để giảm
bớt công sức và thời gian cho nhân viên kế toán và để đáp ứng với nền công nghiệp
hiện đại ngày nay, Công ty nên tiếp cận và áp dụng kế toán máy vào công việc thu
nhận và xử lý thông tin kế toán cho quản lý một cách kịp thời, chính xác. Có như
vậy mới có thể giảm bớt được việc tích trữ một lượng lớn tài liệu, sổ sách kế toán
và công sức của nhân viên kế toán. Nhưng, để có những báo cáo tài chính kế toán
cuối kỳ trung thực thì đòi hỏi các kế toán viên phụ trách từng phần hành kế toán
trong Công ty phải phản ánh chính xác các nghiệp vụ phát sinh. Do công tác hạch
toán kế toán hàng ngày tại phòng tài vụ nhiều phức tạp nên yêu cầu đặt ra là Công
ty cần phải có một đội ngũ nhân viên kế toán có chuyên môn và nghiệp vụ đồng
đều. Từ nhiều năm trở lại đây, Công ty đã chú trọng công tác đào tạo và nâng cao
trình độ chuyên môn, trang bị thêm các phương tiện hỗ trợ cho các cán bộ, nhân
viên phòng tài vụ và các nhân viên hạch toán ban đầu tại các phân xưởng. Tuy
nhiên, trước những biến động và sự hoà nhập của nền kinh tế trong nước với khu
vực và thế giới, Công ty vẫn cần phải trang bị thêm những kiến thức về hệ thống kế
toán quốc tế cũng như các chuẩn mực kiểm toán trong nước và quốc tế cho đội ngũ
nhân viên kế toán.
Kỳ lập Báo cáo tài chính: Để nắm bắt được tình hình tài chính của Công ty kịp thời
thông qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty thì Công ty phải tiến hành
lập Báo cáo tài chính đúng kỳ kế toán. Để thực hiện được điều này, Công ty cần có
biện pháp đốc thúc các đơn vị lập báo cáo đúng kỳ, đồng thời có biện pháp xử phạt
cụ thể đối với các đối tượng nộp sai kỳ hạn gây cản trở cho công tác phân tích tài
chính của Công ty và định hướng cho sự phát triển trong năm tới.
1.3. Kiến nghị về công tác phân tích tài chính:
1.3.1- Một số kiến nghị về hệ thống các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính:
Khi phân tích tình hình đầu tư, việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất đầu tư bằng cách
lấy Giá trị TSCĐ đã và đang đầu tư (mục B.I.III.TS) chia cho tổng tài sản chưa nói
lên được hiệu quả đầu tư của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài tỷ
suất trên nên phân tích thêm một số chỉ tiêu khác như sau:
Từ công thức:
Tỷ suất đầu tư chung = TSCĐ và ĐTDH (mục B.TS)/Tổng tài sản * 100%Ta
tính thêm tỷ suất sau đây:
Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn = Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn/
Tổng tài sản* 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tính hợp lý của việc sử dụng vốn vào việc đầu tư dài hạn
trong từng thời kỳ.
Ngoài ra, có thể phân tích chỉ tiêu hiệu quả của công tác đầu tư XDCB thông qua
chỉ tiêu sau đây:
Mức độ hoàn
thành công tác
XDCB = Giá trị XDCB, mua sắm TSCĐ cuối kỳ/ Giá trị XDCB, mua
sắm TSCĐ đầu kỳ * 100%
Với tình hình cụ thể của Công ty thì những chỉ tiêu phân tích tình hình đầu tư
mới đưa ra hoàn toàn không thay đổi do tổng tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu
hình và Công ty không có các khoản đầu tư tài chính dài hạn.
1.3.2- Một số kiến nghị về thực hiện phân tích tình hình tài chính:
Việc thực hiện phân tích tài chính trong nội bộ mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết,
đặc biệt là một doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn như Công ty XNK thiết bị
điện ảnh - truyền hình. Việc phân tích này sẽ giúp cho Công ty sẽ nắm chắc được
thực trạng kinh doanh, biết được hiệu quả sử dụng vốn của mình và nhờ đó các nhà
quản lý sẽ đề ra các biện pháp hữu hiệu đối với hoạt động kinh doanh của Công ty
nhằm phát huy những thế mạnh hiện có, đồng thời khắc phục kịp thời những tồn
tại, khó khăn trong hoạt động tài chính.
Tuy nhiên, Việc phân tích tình hình tài chính của Công ty đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian, công sức và đòi hỏi người phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. Để
thực hiện được các yêu cầu đặt ra, Công ty có thể chỉ cần tiến hành phân tích báo
cáo tài chính vào quý 2 và cuối năm thay cho việc phân tích báo cáo tài chính của
cả 4 quý. Đồng thời, Công ty cần tạo điều kiện để người thực hiện phân tích tình
hình tài chính có cơ hội học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn.
1.4. Phương hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty:
Qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty XNK thiết bị điện ảnh -
truyền hình, em xin trình bày ý kiến cá nhân về một số biện pháp nhằm có thể cải
thiện tình hình tài chính của Công ty:
Một là, vốn bằng tiền của Công ty rất quan trọng, nó đóng vai trò như một phương
tiện chuyên chở các yếu tố đầu vào tham gia quá trình lưu thông, tiêu thụ, đến lượt
mình nó lại là kết quả của chu kỳ kinh doanh này và chuẩn bị cho một chu kỳ kinh
doanh mới. Vốn bằng tiền là một phương tiện thanh toán có tốc độ chu chuyển
nhanh. Tuy nhiên, nếu dự trữ vốn bằng tiền quá ít sẽ làm giảm khả năng thanh toán,
đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của Công ty, do đó sẽ làm cho hiệu quả sử
dụng vốn không cao. Công ty cần tăng mức dự trữ vốn bằng tiền với mức hợp lý
nhất để đáp ứng tình hình thanh toán và không gây ứ đọng vốn. Biện pháp hữu
hiệu nhất là Công ty phải tăng cường thu hồi các khoản nợ phải thu, đặc biệt là đối
với khách mua hàng hay là giảm bớt mức dự trữ hàng tồn kho.
Hai là, Công ty cần tích cực hơn trong công tác thu hồi nợ, mặc dù khách hàng
chiếm dụng của Công ty không nhiều nhưng nếu không thu hồi được sẽ gây ảnh
hưởng đến tình hình kế hoạch tài chính của Công ty. Muốn vậy, Công ty phải có
các chính sách tín dụng thương mại thích hợp trong đó đề ra những chính sách
khuyến khích, thưởng phạt trong việc thanh toán các khoản tín dụng hàng ngày.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là không thể thiếu, nó có
thể làm cho Công ty đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng có
thể đem đến cho Công ty những rủi ro kinh doanh. Vì thế để phát huy mặt tích cực
của công việc này, Công ty cần phải nắm bắt được năng lực trả nợ của bạn hàng,
tinh thần trách nhiệm trả nợ của bạn hàng, các tài sản riêng có thể dùng để đảm bảo
cho các khoản nợ, khả năng phát triển và xu thế phát triển của ngành nghề kinh
doanh của bạn hàng. Làm tốt công tác này sẽ giúp cho Công ty thu hồi được vốn và
nâng cao được hiệu quả sử dụng VLĐ.
Ba là, hiện nay Công ty chưa lập các khoản dự phòng, đặc biệt là các khoản dự
phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Vì thế trong thực tế mặc
dù Công ty thực hiện giám sát nợ của khách hàng rất chặt chẽ nhưng còn các
khoản phải thu khác thì Công ty không thể giám sát được. Còn đối với hàng tồn
kho dùng để bán có thể bị giảm giá do biến động của thị trường, vì thế Công ty nên
lập các khoản dự phòng này. Thực tế, dự phòng này chỉ làm tăng tính thận trọng
trong kinh doanh giúp Công ty tránh được rủi ro đáng tiếc. Về phương diện kinh tế,
nhờ các khoản dự phòng giảm giá sẽ làm cho BCĐKT của Công ty phản ánh chính
xác hơn giá trị thực tế của tài sản. Về phương diện tài chính của Công ty, các khoản
dự phòng là nguồn tài chính của Công ty tạm thời nằm trong các TSLĐ khác trước
khi sử dụng thật sự.
Bốn là, thực hiện thanh toán bớt các khoản phải trả khác như BHXH, BHYT,
KPCĐ… Tính đến cuối năm 2002, các khoản này tăng lên đến 724.356.873 VNĐ
chiếm 4,06% trong tổng nguồn vốn. Mặt khác các khoản nợ nhà cung cấp cũng
phải chú ý thanh toán đúng hạn để giữ vững uy tín với bạn hàng, tạo điều kiện làm
ăn lâu dài.
Năm là, nâng cao hơn nữa một số chỉ tiêu:
+ Tỷ suất tự tài trợ của Công ty còn thấp gây khó khăn nhiều cho hoạt động
kinh doanh. Nhà nước nên xem xét cấp thêm VLĐ cho Công ty. Bên cạnh đó, Công
ty cũng cần phải tăng cường thêm các nguồn vốn bổ sung, nâng cao lợi nhuận để có
điều kiện tăng thêm vốn hoạt động và tìm đối tác liên doanh , liên kết góp vốn.
Thực hiện được điều này sẽ làm tăng khả năng độc lập về mặt tài chính của Công
ty.
+ Hệ số thanh toán nhanh của Công ty quá thấp chưa đáp ứng được nhu cầu
thanh toán nhanh các khoản vay nợ ngắn hạn. Để giải quyết vấn đề này như phân
tích ở trên, Công ty nên tăng thêm vốn bằng tiền.
1.5. Phương hướng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của Công ty:
Như chúng ta biết, muốn kinh doanh phải có vốn. Trong thực tiễn quản lý tài
chính, hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề phức tạp có quan hệ với các yếu tố trong quá
trình sản xuất kinh doanh như TSLĐ, TSCĐ, Vốn chủ sở hữu. Công ty chỉ có thể
đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố đầu vào này trong mối quan hệ với các
yếu tố đầu ra như lợi nhuận thuần, lợi nhuận gộp một cách có hiệu quả.
Thực trạng về vốn của Công ty cho thấy Công ty đang gặp khó khăn về vốn, với
nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp không đủ để hoạt động mà phải dựa vào
nguồn vốn vay và vốn đi chiếm dụng. Do cơ cấu vốn chưa hợp lý nên không cho
phép Công ty chủ động trong hoạt động kinh doanh nhất là trong đầu tư dài hạn. Để
giải quyết khó khăn về vốn, Công ty phải cải thiện nguồn vốn vay. Muốn đảm bảo
nguồn vốn đủ cho kinh doanh vừa có chi phí về vốn thấp nhất, Công ty phải áp
dụng một số biện pháp sau:
1.5.1- Tăng cường huy động vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh :
Tăng cường vay vốn Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Khi đi vay, Công ty phải trả chi phí cho lãi vay do đó phải tính toán, lập các
phương án kinh doanh cụ thể sao cho có thể đảm bảo được các chi phí kinh doanh
cộng thêm lãi suất Ngân hàng mà vẫn có lãi.
Thực hiện Cổ phần hoá doanh nghiệp:
Để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng
mà vẫn đạt được cơ cấu vốn tối ưu, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn
thông qua phát hành Cổ phiếu. Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các DNNN được
quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành Cổ phiếu và bỏ mức khống chế
vốn huy động tại điều 11 của Nghị định 59/CP. Đây là một bước tiến không chỉ
trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh mà còn nâng cao công
tác quản lý và sử dụng vốn tại các DNNN.
Đối với Công ty, việc Cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng cơ cấu vốn bất
hợp lý hiện nay. Thêm vào đó, khi chuyển từ DNNN sang hình thức Công ty Cổ
phần, người lao động khi có cổ phần trở thành người chủ đích thực, có quyền hạn
trách nhiệm, lợi ích cụ thể từ đó họ gắn bó với Công ty hơn. Điều này tạo điều kiện
cho Công ty giải quyết khó khăn về vốn, về cải tiến kỹ thuật, việc làm, năng suất
chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Có nhiều hình thức Cổ phần hoá doanh nghiệp, nhưng với đặc điểm kinh doanh
và tình hình tài chính như hiện nay, Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình
có thể lựa chọn hình thức cổ phần hoá mà trong đó Nhà nước giữ lại một tỷ lệ % cổ
phần nhất định, còn lại đại bộ phận Cổ phần sẽ bán cho cán bộ công nhân viên
trong Công ty bằng một phần nguồn quỹ phúc lợi được chia theo thời gian đóng
góp của từng người cùng với số tiền đóng góp thêm của họ. Số còn lại sẽ bán cho
các đối tượng bên ngoài.
Tuy nhiên, để tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Công ty cần phải nghiên
cứu các quy định cụ thể có liên quan đến cổ phần hoá như: mức khống chế mua cổ
phần đối với l•nh đạo Công ty, chế độ ưu đãi đối với người lao động, chế độ xử lý
các khoản nợ kéo dài hiện vẫn còn cản trở đối với quá trình chuyển đổi sở hữu
Công ty.
1.5.2- Nâng cao lợi nhuận:
Nâng cao lợi nhuận luôn là mục tiêu hướng tới của mọi doanh nghiệp. Lợi nhuận
tăng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, tăng vốn sản xuất, mở
rộng đầu tư cho máy móc thiết bị, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật dây
chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại, từ đó tăng thêm sức cạnh tranh để khẳng định
vị trí của mình trên thị trường. Để phấn đấu nâng cao được chỉ tiêu lợi nhuận, các
doanh nghiệp phải đề ra những biện pháp hữu hiệu nhất để làm cơ sở cho việc thực
hiện. Việc đề xuất các biện pháp đó không chỉ dựa vào điều kiện thực tế của doanh
nghiệp mà còn phải nghiên cứu học hỏi, kế thừa, phát huy kinh nghiệm của một số
doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước.
Để nâng cao được lợi nhuận, Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình cần
phải thực hiện một số giải pháp sau:
* Đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm : Đây là giải pháp nhằm tăng số lượng sản
phẩm tiêu thụ của Công ty từ đó nhằm làm tăng chỉ tiêu lợi nhuận. Để thực hiện
được điều này Công ty nên:
+ Lập kế hoạch cho khâu tiêu thụ sản phẩm một cách kịp thời.
+ Có các giải pháp kỹ thuật từ khâu thiết kế đến công nghệ chế tạo và kiểm tra
kỹ thuật trong quá trình nhập hàng để đảm bảo sự đồng đều về chất lượng sản
phẩm.
+ Chấn chỉnh việc thực hiện kỷ luật công nghệ, kiên quyết hơn nữa trong việc
thưởng phạt chất lượng sản phẩm.
+ Chủ động đẩy mạnh sản xuất một số sản phẩm có nhu cầu, có điều kiện
về vật tư ổn định, có chất lượng và có ưu thế cạnh tranh.
+ Bổ sung một số lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và nhân viên trẻ, công
nhân kỹ thuật trẻ cho công tác tiêu thụ sản phẩm.
+ Mở rộng liên doanh, liên kết, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và nâng cao tỷ
trọng xuất khẩu sản phẩm của Công ty ra nước ngoài.
1.5.3- Nâng cao các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
Nâng cao hiệu quả và sức sinh lợi của VLĐ bằng cách tăng cường quản lý chặt chẽ
nhu cầu VLĐ trong kinh doanh. Công ty nên thực hiện các biện pháp giảm VLĐ
cho phù hợp với năng lực kinh doanh và tình hình thực tế của thị trường thông qua
việc xác định nhu cầu VLĐ cần thiết hợp lý cho từng loại tài sản trong khâu mua
sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ cũng như thanh toán.
+ Trong khâu mua sắm dự trữ tồn kho: Công ty phấn đấu giảm định mức tồn kho
bằng cách quay nhanh vòng quay kho.
+Trong khâu tiêu thụ: mở rộng hơn nữa kênh tiêu thụ sản phẩm ở phía Nam, mở
các hội nghị khách hàng.
+ Trong khâu thanh toán: xác định phương thức thanh toán hợp lý, dùng các biện
pháp chiết khấu để thu hồi VLĐ nhanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ và TSCĐ bằng cách tăng cường công tác quản lý
TSCĐ, nâng cao hơn nữa sức sản xuất của TSCĐ và sức sinh lợi của TSCĐ. Thực
hành chế độ khấu hao hợp lý, xử lý dứt điểm những TSCĐ đã cũ không sử dụng
được nhằm thu hồi lại vốn để dùng vào luân chuyển bổ sung cho vốn kinh doanh.
Nâng cao hệ số doanh lợi doanh thu bằng cách tăng lợi nhuận, giảm chi phí nghiệp
vụ kinh doanh cần thiết.
1.5.4- Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh:
Công ty phải bảo toàn và phát triển cả VLĐ và VCĐ:
Để bảo toàn VCĐ, Công ty nên mua bảo hiểm cho các TSCĐ để tạo nguồn bù đắp
cho các thiệt hại về vốn. Các khoản chi cho Bảo hiểm có thể hạch toán vào giá
thành hoặc chi phí lưu thông của Công ty. Đây là phương thức rất an toàn và hiệu
quả trong việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với nguồn VLĐ, Công ty cần quan tâm đến việc thu hồi, quản lý tiền mặt, khả
năng thu hồi tiền mặt. Công ty nên thực hiện giảm tốc độ chi tiêu bằng cách trì ho•n
việc thanh toán trong một thời gian cho phép để dùng tiền tạm thời nhàn rỗi đó để
sinh lời.
Công ty cần xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động
kinh doanh, đặc biệt cho thu mua nguyên vật liệu nhằm bảo đảm cho quá trình tái
sản xuất thường xuyên liên tục. Từ đó có biện pháp tổ chức huy động nhằm cung
cấp kịp thời, đầy đủ tránh tình trạng thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh.
2. Đối với Nhà nước:
Ưu tiên về vốn, cấp bổ sung vốn cho Công ty, ưu tiên về thuế đặc biệt là trong tình
hình Công ty đang tổ chức cải tạo năng lực sản xuất của mình.
Nhà nước tạo điều kiện cho Công ty tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp. Để thực
hiện được yêu cầu tạo điều kiện cho các DNNN nói chung và Công ty nói riêng tiến
hành cổ phần hoá được thuận lợi, Nhà nước nên sửa đổi và hoàn thiện cơ chế chính
sách phục vụ cho hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp, nâng cao năng lực pháp lý
của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này thông qua việc xây dựng và trình Quốc
hội cho phép ban hành luật chuyển đổi sở hữu DNNN. Bên cạnh đó, Nhà nước nên
xây dựng đề án và tổ chức thí điểm Công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ
các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn đọng về tài chính khi thực hiện các đề án
chuyển đổi sở hữu, Công ty đầu tư tài chính để từng bước tách rời quyền sở hữu với
quyền quản lý tài sản thông qua việc chuyển phương thức quản lý vốn và tài sản
Nhà nước tại doanh nghiệp hành chính sang phương thức đầu tư.
Tăng cường chỉ đạo hoạt động, chú trọng công tác tổ chức chăm lo đến đời sống
cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty về vật chất cũng như về tinh thần.
Trên đây là những kiến nghị và các giải pháp mang tính đề xuất, hy vọng những
đề xuất này có thể phần nào giúp cho Công ty cải thiện được tình hình tài chính của
mình trong thời gian tới, để từ đó có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh
doanh và hiệu quả sử dụng vốn trong quá trình phát triển của Công ty
Kết luận
Qua hai phần lý luận và thực tiễn cho thấy phân tích tình hình tài chính đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi
doanh nghiệp phải tổ chức tốt quá trình thu thập tài liệu, chứng từ ban đầu đến lập
báo cáo kế toán tài chính sát đúng với thực tế. Nhưng để đạt được hiệu quả cao trên
cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn và lao động sẵn có, doanh nghiệp phải thường
xuyên phân tích báo cáo tài chính kế toán để có thể đưa ra quyết định lựa chọn
phương án kinh doanh tối ưu.
Trong thời gian thực tập tại Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình đi sâu
vào phân tích tình hình tài chính của Công ty, em thấy rằng hoạt động tài chính có
ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, Tài chính
doanh nghiệp là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính đảm bảo nhu
cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, nó còn là công
cụ để có phương hướng chỉ đạo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách song Công ty XNK thiết bị
điện ảnh - truyền hình đã bằng mọi cách để vượt qua khó khăn và thu được kết quả
tốt.
Vì hạn chế về thời gian nghiên cứu và trình độ cho nên chuyên đề sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ góp ý của các cô chú cán bộ công
nhân viên và các thầy cô giáo để cho đề tài được hoàn thiện hơn nữa.
Qua đây, một lần nữa em xin cám ơn các thầy cô giáo trong khoa tài chính –
ngân hàng,các cô chú tại phòng kế toán của công ty đã tạo điều kiện cho em hoàn
thành chuyên đề thực tập này.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1- Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh.
Chủ biên PGS-TS Phạm Thị Gái.
Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Giáo Dục/ 1997.
2- Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh
Chủ biên TS Nguyễn Năng Phúc.
Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 1998
3- Giáo trình Kế toán Quản trị
Chủ biên TS- Nguyễn Minh Phương
Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội
4- Lý thuyết thực hành Kế toán tài chính VAT
Chủ biên TS Nguyễn Văn Công
Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 1998
5- Lập, đọc, kiểm tra và phân tích Báo cáo tài chính VAT
Chủ biên TS Nguyễn Văn Công
Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội. NXB Thống kê/ 1998
6- Chế độ Báo cáo tài chính trong doanh nghiệp (Quyết định 167/2000- QĐ-BTC
ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). NXB Tài chính/2000
7- Các chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) do Liên Đoàn Kế toán Quốc tế công bố
và các dự thảo chuẩn mực Kế toán Việt Nam.
8- Các tạp chí Kế toán, Tài chính.
Chữ viết tắt
Quy định các nhóm từ viết tắt:
BCĐKT: Bảng Cân đối kế toán.
BCKQKD: Báo cáo Kết quả kinh doanh
BCLCTT: Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ.
VLĐ: Vốn lưu động
VCĐ: Vốn cố định
TSLĐ và ĐTNH: Tài sản lưu động và Đầu tư ngắn hạn.
TSCĐ và ĐTDH: Tài sản cố định và Đầu tư dài hạn
VSX: Vốn sản xuất
VSXKD: Vốn sản xuất kinh doanh
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
XDCB: Xây dựng cơ bản