ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------***------------ ĐỖ THỊ NGỌC LAN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI (Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI – 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------***------------ ĐỖ THỊ NGỌC LAN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI (Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN NAM HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 0

Chƣơng 1: CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO Error! Bookmark

not defined.

NHỮNG CON NGƢỜI CỤ THỂ ...................... Error! Bookmark not defined.

1.1. Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống ... Error!

Bookmark not defined.

1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác

phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái ... Error! Bookmark

not defined.

1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa

danh lợi .................................................. Error! Bookmark not defined.

1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách .. Error! Bookmark not

defined.

1.2.1.2. Trí thức giả danh, những người đội lốt trí thức nhưng bất tài,

vô dụng ...................................................... Error! Bookmark not defined.

1.2.1.3. Giá trị con người, giá trị hạnh phúc gia đình bị coi thường từ

những toan tính ích kỷ ............................. Error! Bookmark not defined.

1.2.2. Con người sống trong hận thù và mất niềm tin ... Error! Bookmark

not defined.

1.3. Cơ chế xã hội dồn ép con ngƣời lƣơng thiện vào những bi kịch trong

cuộc sống .......................................................... Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 2: TÍNH NHÂN VĂN TRONG CẢM HỨNG PHÊ PHÁN CỦA MA

VĂN KHÁNG, TẠ DUY ANH, HỒ ANH THÁI .......... Error! Bookmark not

defined.

2.1. Cái thiện hiện hữu trong từng con ngƣời tốt đẹp Error! Bookmark not

defined.

2.1.1 Người trí thức có tài năng và cốt cách cao đẹp Error! Bookmark not

defined.

2.1.2. Sự hồn hậu trong tâm hồn của những con người bình dị ....... Error!

Bookmark not defined.

2.2. Con ngƣời trong sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác ............... Error!

Bookmark not defined.

2.2.1 Quá trình phục thiện: sám hối, xưng tội ......... Error! Bookmark not

defined.

2.2.2. “Thiên sứ” dẫn dắt con người từ bóng tối ra ánh sáng ........... Error!

Bookmark not defined.

2.3. Quan niệm sống mang đậm tính nhân văn của Ma Văn Kháng, Tạ

1

Duy Anh, Hồ Anh Thái .................................. Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG

CÁC TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG, TẠ DUY ANH, HỒ ANH THÁI

....................................................................................... Error! Bookmark not defined.

3.1. Kết cấu cốt truyện đa dạng ..................... Error! Bookmark not defined.

3.1.1. Cốt truyện số phận ............................. Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Cốt truyện luận đề .............................. Error! Bookmark not defined.

3.1.3. Cốt truyện tâm lý, hồi tưởng và ký ức ............. Error! Bookmark not

defined.

3.1.4. Cốt truyện phân mảnh - lắp ghép ........ Error! Bookmark not defined.

3.1.5. Cốt truyện dòng ý thức ....................... Error! Bookmark not defined.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............... Error! Bookmark not defined.

3.2.1. Phạm trù thẩm mỹ trong xây dựng nhân vật .. Error! Bookmark not

defined.

3.2.2. Hư cấu, tưởng tượng - một thủ pháp nghệ thuật đắc lực trong việc

thể hiện cảm hứng phê phán ....................... Error! Bookmark not defined.

3.2.3. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật ........... Error! Bookmark not

defined.

3.3. Một số đặc điểm về giọng điệu trần thuật ........... Error! Bookmark not

defined.

KẾT LUẬN .....................................................................................................................111 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ đổi mới có dung lượng phản ánh rộng

lớn hết sức sinh động. Bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, sự nghiên cứu nghiêm túc

đối tượng phản ánh, các tác giả đã dựng lại những bức tranh chân thực và rộng

lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp. Ma Văn Kháng,

Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái là các nhà văn có đóng góp to lớn trong nền văn học

hiện đại thời ký đổi mới. Trong sáng tác của họ, muôn mặt của bức tranh xã hội

được miêu tả, được phản ánh một cách sâu sắc, đa chiều, đáp ứng được yêu cầu

khách quan của cuộc sống, giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực.

Luận văn được nghiên cứu xuất phát từ sự yêu mến và cảm phục của tác

giả đối với những dòng tư tưởng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc của ba nhà

văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. Đây là các nhà văn có nhiều

thành tựu trong việc dùng văn chương để đấu tranh cho cái thiện, cái chính

nghĩa của cuộc sống. Với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị hiện thực,

các tác giả này đã ý thức được sứ mệnh viết văn là để bảo vệ và khẳng định

những giá trị chân chính của con người; thể hiện sự quan tâm tới việc hình thành

đạo đức và nhân cách con người, thể hiện sự hiểu biết sự định hình tính cách con

người Việt Nam hiện đại với những mặt mạnh, mặt yếu của nó.

Luận văn nghiên cứu cách nhìn đa chiều, mới mẻ về con người và cuộc

sống trong thời kỳ hậu chiến của các nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ

Anh Thái qua đó làm sáng tỏ những tác động và ảnh hưởng của một hiện thực

còn ngổn ngang đến cuộc sống của con người như thế nào. Qua đây, luận văn

cũng làm sáng tỏ cảm hứng chủ đạo của các nhà văn được thể hiện qua các tác

phẩm, đó là cảm hứng phê phán mang tính tích cực để gióng lên những hồi

chuông để cảnh tỉnh con người tránh xa tội ác, lừa lọc, phản trắc để xây dựng

1

một xã hội với những con người có phẩm chất cao đẹp, sống có nghĩa tình, nhân hậu.

2. Lịch sử vấn đề

Tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái rất phong phú

về nội dung. Các bài viết nghiên cứu về những tác phẩm của ba tác giả đã khai

thác nhiều vấn đề như đặc điểm cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách

thức trần thuật, nghệ thuật tự sự…Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng phê phán chưa

được đề cập tới một cách kỹ lưỡng trong các tác phẩm nghiên cứu.

Ma Văn Kháng thành công cả về thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Từ

những năm 80 trở lại đây, các tác phẩm của Ma Văn Kháng thu hút sự quan tâm

của nhiều bạn đọc. Thể loại sáng tác của ông đa dạng hơn, hình thức nghệ thuật

phong phú, nhân vật được xây dựng với nhiều tính cách điển hình cho con người

thời đại mới với tư tưởng hiện đại, tiến bộ. Ở mảng tiểu thuyết thế sự đời tư của

nhà văn, giới nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao về những đóng góp của Ma

Văn Kháng bởi ý tưởng sáng tạo và ý thức đổi mới tư duy của tác giả. Ông đã

cho ra mắt bạn đọc 11 cuốn tiểu thuyết, 20 tập truyện ngắn và 3 tập truyện viết

cho thiếu nhi. Năm 2008, tập truyện ngắn mới nhất của Ma Văn Kháng mang tựa

đề Trốn nợ (NXB Phụ nữ - 2008) bao gồm 18 truyện ngắn đã ra mắt và gần đây

(tháng 9-2009), cuốn hồi ký “năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương”

được xuất bản đã giành được nhiều tình cảm của bạn đọc.

Với trên 40 năm lao động nghệ thuật, Ma Văn Kháng ý thức được sứ

mệnh là viết để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người,

của cuộc sống. Các tiểu thuyết viết về mảng thế sự đời tư của Ma Văn Kháng đã

khẳng định được những giá trị nhất định: Các tiểu thuyết “Mưa mùa hạ”, (1982),

“Mùa lá rụng trong vườn” (1985), “Côi cút giữa cảnh đời” (1989), “Đám cưới

không có giấy giá thú” (1988), “Chó Bi đời lưu lạc” (1992), “Ngược dòng nước

lũ” (1999) của ông đã thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều độc giả.

Phong Lê nhận định trong Vẫn chuyện văn và người (NXB Văn hoá thông

tin - 1989): “Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan

2

khổ như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo

những tình cảm nhân hậu, tốt lành, có thể nói đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy

rửa tâm hồn con người. Cái hiệu quả thanh lọc dành cho nghệ thuật, và dường

như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới làm nổi bật”.

Tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú (1988) thực sự là một đổi mới

mạnh mẽ của Ma Văn Kháng. Các bài viết: Phải chăng đời là một vại dưa hỏng

của Vũ Dương Quý, Nếu đám cưới không có giấy giá thú của Nguyễn Văn Lưu;

Đám cưới không có giấy giá thú có tính chất luận đề về mối quan hệ giữa những

giá trị văn hoá với đời sống con người của Mai Thục và cuộc thảo luận về Đám

cưới không có giấy giá thú do Báo Văn nghệ tổ chức… đều đưa ra những nhận

xét khá lý thú, bổ ích và công bằng về giá trị đích thực của đời sống cũng như

những mặt còn hạn chế về mọi phương diện của tác phẩm, cả về mặt nội dung và

nghệ thuật.

Về cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ (1999), Hồ Anh Thái nhận xét:

“Cảm hứng phê phán mỗi ngày mạnh hơn cảm hứng trữ tình…Dường như tập

hợp đầy đủ mọi thói tật nhỏ nhen đố kỵ, mọi mưu chước công chức hành chính ở

đây. Văn chương cũng bị đẩy theo cảm hứng phê phán mà rậm hơn, xổng xểnh,

lan man hơn”. Trong bài viết Ngược dòng nước lũ - cuộc khám phá mới đầy tiềm

năng vào nguồn văn chương, vào dòng đời cuộn chảy, Lã Duy Lan đã nhận xét:

“Ngược dòng nước lũ sẽ đi vào đời sống xã hội như sự định hình vững chãi địa

vị của văn chương trong kinh tế thị trường, mở ra cuộc khám phá đầy tiềm năng

vào tận nguồn mạch văn chương, tận tầng sâu của dòng đời cuộn chảy, mà ở tác

giả nội lực đã được chuẩn bị kỹ từ nhiều chục năm trước” [64].

Ngoài các bài viết trên, chúng ta có thể kể đến một số bài viết về tác phẩm

của Ma Văn Kháng như: Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn

Kháng những năm 80 của Nguyễn Thị Huệ; Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng

của Lê Kim Vinh; Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng của Đỗ

Hải Ninh; Sống rồi mới viết của Ma Văn Kháng… và các luận văn thạc sĩ gần

đây như: Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng

3

trong tiểu thuyết sau 1980 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Kim; Quan

niệm nghệ thuật về con người tự nhiên trong sáng tác của Ma Văn Kháng sau

năm 1975 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Cẩm Giang; Cảm hứng bi kịch

nhân văn trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng - Luận văn thạc sĩ của Bùi Lan

Hương…

Đề cập đến cảm hứng phê phán trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả

Nguyễn Văn Xuất có công trình nghiên cứu luận án Phó tiến sĩ văn học mang đề

tài Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện đại (qua một số tiểu thuyết ở Liên

Xô và Việt Nam). Đây là công trình nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong một

số tác phẩm văn xuôi Liên Xô và Việt Nam. Trong luận án này, tác giả đã nghiên

cứu về cảm hứng phê phán trong tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú của

Ma Văn Kháng dưới tư duy tiểu thuyết của nhà nghiên cứu Đôxtôiepxki.

Trong mảng phê bình nghiên cứu về các tác phẩm thế sự đời tư của Hồ

Anh Thái đáng kể đến là những bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Minh Thái,

Nguyễn Anh Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Vân Long, Nguyễn Thị Phương, Trần Duy

Hiển, Phạm Chí Dũng, Hoài Nam, Tuyền Lâm…Trong bài viết Hơn cả sự thật,

Nguyễn Anh Vũ cho rằng: “Với Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái đã

khai thác triệt để khả năng phản ánh một cách trọn vẹn và sinh động hiện thực

đời sống của thể loại tiểu thuyết. Đọc tiểu thuyết này, ta không khỏi lo ngại trước

lối sống của một bộ phận thanh niên trong xã hội hôm nay. Đó là một lối sống

thực dụng, buông thả, ích kỷ, với những ham muốn điên loạn, cuồng loạn. Rõ

ràng, họ không đại diện cho thế hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, tài năng và nhiệt

huyết trong xã hội ngày nay. Thế nhưng, ta vẫn không khỏi xót xa, ngậm ngùi

cho những cảnh sống vô hồn, không hoài bão, lý tưởng đó. Nếu không cảnh báo,

ngăn chặn, rất có thẻ đó sẽ là “mảnh đất màu mỡ” cho cái ác nảy mầm, tồn tại và

phát triển” [38, tr 285-286]. Bàn về tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, tác giả Hoài

Nam nhận định: “Bằng tiếng cười, tác giả Mười lẻ một đêm đã phanh phui cái

nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc

sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật:

4

cuộc sống này, ở đây, bây giờ đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật

tự tương đối, sẽ phải không mất ít thời gian và nỗ lực cho nó”.

Cho đến nay, mặc dù chưa có chuyên luận nào viết về Hồ Anh Thái

nhưng đã có một số luận văn viết về tác phẩm của anh. Đó là các luận văn của

Nguyễn Thị Vân Nga (2004): Về tiểu thuyết cõi người rung chuông tận thế của

Hồ Anh Thái; Ngô Thị Thu Hương (2007): Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái

qua 3 tác phẩm “Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận

thế, Mười lẻ một đêm”, Võ Anh Minh (2005) Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ

quan điểm nghệ thuật vì con người…

Tạ Duy Anh là một tác giả mới của văn học đương đại, được nhiều bạn

đọc yêu mến. Xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20, Tạ Duy Anh có thời

gian sáng tác chưa thật dài so với các nhà văn khác. Chính vì vậy, các công trình

khoa học nghiên cứu sâu về tác phẩm của Tạ Duy Anh chưa có nhiều. Tác giả

Bùi Việt Thắng trong bài viết Hiện trạng tiểu thuyết Việt Nam đã đưa ra nhận

định một cách khái quát về tác phẩm của Tạ Duy Anh: “Tạ Duy Anh sau Khúc

dạo đầu còn chưa thoát khỏi lối ghi chép tiểu thuyết đã cho ra mắt Lão Khổ -

một cuốn sách mặn chát vị đời và lừng lững con người thời đại… Không ít tiểu

thuyết hướng tới những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội như Lão Khổ, Ăn

mày dĩ vãng, Gót đỏ quyền uy…Trong tiểu thuyết hôm nay, con người được

trình bày như một ẩn số. Bản chất con người là gì? Nó sống ra sao trong thời

hiện tại…Lữ Quán của Hà Phạm Phú, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Lão Khổ của

Tạ Duy Anh…đã gây một niềm tin tưởng rằng chúng ta đang được văn học như

một phương tiện linh điệu để hiểu rõ con người” [43,tr. 14-15].

Tác giả Việt Hoài trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đã

nhận định: “Vẫn là chuyện làng quê Bắc Bộ nhưng thời gian rộng hơn: từ những

năm 1940-1990, dung lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhà văn cũng già

dặn từng trải và kỹ thuật nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận

như một bước tiến dài của Tạ Duy Anh …Thiên thần sám hối khiến ai đọc cũng

có thể tìm thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, không tự vấn lương tâm

5

thì cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã,

ráo riết mà vẫn mở đường cho nhân vật - người đọc một lối thoát lương tâm [57].

Trong bài viết này, tác giả cũng đưa ra một số nhận định về nhân vật trong tiểu

thuyết Tạ Duy Anh: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ

nhờ, xam xám về ngoại hình (…) Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở lằn

ranh giới thiện - ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn

- đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản

thân mình. [58].

Ngoài ra, nghiên cứu về tác phẩm của Tạ Duy Anh có bài viết: “Tạ Duy

Anh - gương mặt nổi bật của văn đàn 2004” của Nguyên Trường, cuốn sách: Thế

giới nghệ thuật Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương,

Võ Thị Thanh Hà, NXB Hội Nhà văn 2007. Bên cạnh đó có một số luận văn đã

đề cập đến vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.

Qua khảo sát kết quả của những người đi trước, có thể nhận thấy những

bài viết nghiên cứu về 3 tác giả Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh và Ma Văn Kháng

chủ yếu liên quan đến những vấn đề về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng

nhân vật, nghệ thuật xây dựng cốt truyện…Tuy có đề cập đến những vấn đề còn

tồn tại ngổn ngang trong xã hội nhưng những tác phẩm nghiên cứu chưa đề cập

sâu sát đến vấn đề cảm hứng phê phán.

Bằng cách phân tích và tham khảo các ý kiến về tác phẩm của 3 tác giả,

chúng tôi bước đầu nghiên cứu về vấn đề cảm hứng phê phán được thể hiện qua

các tác phẩm nhằm làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn tích cực mà các tác giả muốn

gửi gắm tới độc giả.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

3.1. Mục đích của đề tài

- Phân tích, đánh giá và làm nổi bật được cảm hứng phê phán được thể

hiện qua các tác phẩm của 3 tác giả.

- Chứng minh rằng sự phản ánh hiện thực cuộc sống của các tác giả không

chỉ dừng lại ở việc miêu tả những bề bộn của thế sự - đời tư con người, không

6

chỉ dừng lại ở việc tố cáo cái xấu cái ác, không phê phán phủ định sạch trơn mà

các tác giả luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm tin vào lẽ phải và cái thiện và do

đó sáng tác của họ có tác dụng hướng con người đến với những giá trị đạo đức

tốt đẹp của cuộc sống.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài

- Khảo sát kỹ lưỡng nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Ma

Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái để chỉ ra được cảm hứng chủ đạo của

các tác phẩm.

- Vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn xuôi hiện đại để thấy được

những đóng góp của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái trong việc đổi

mới tư duy nghệ thuật trong nền văn học hiện đại thời kỳ đổi mới.

4. Đối tƣợng nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin được phép chọn ra những

tác phẩm tiêu biểu viết về mảng thế sự đời tư của các tác giả. Cụ thể là các tác

phẩm: Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989),

Ngược dòng nước lũ (1999) của Ma Văn Kháng; Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân

vật (2004), Thiên thần sám hối (2005) của Tạ Duy Anh; Người và xe chạy dưới

ánh trăng (1986), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Mười lẻ một đêm

(2006) của Hồ Anh Thái.

5 . Phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy

nạp, so sánh, phương pháp thống kê, hệ thống, phương pháp thi pháp học với

mong muốn tiếp cận tới cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:

Chương I: Chân dung cái xấu trong diện mạo những con người cụ thể.

Chương II: Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng,

Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái.

Chương III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng phê phán của Ma Văn

7

Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Sách:

1. Tạ Duy Anh (1992), Lão Khổ, NXB Văn học, Hà Nội.

2. Tạ Duy Anh (2004), Đi tìm nhân vật, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

3. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng

4. Tạ Duy Anh (2005), Thiên thần sám hối và những truyện ngắn tiêu biểu,

NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

5. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

6. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

7. Nguyễn Thị Bình, Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công

đáng chú ý của văn xuôi sau năm 1975, trong Tự sự học- một số vấn đề và lịch

sử, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Đặng Anh Đào (1994), Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, Tạp chí văn

học (số 2), tr17-19.

10. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện

đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lý luận văn xuôi hiện đại, Tạp chívăn

học (số5).

12. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ 20, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

14. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội.

15. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

8

16. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

17. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc

Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (1997), Lý luận văn học (tái bản), NXB

Giáo dục, Hà Nội

19. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Đại

học sư phạm, Hà Nội.

20. Phong Lê (1989), Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hoá thông tin,

Hà Nội

21. Nguyễn Trường Lịch (2002), Con mắt tiếp nhận văn chương, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB

Đại học quốc gia, Hà Nội.

23. MB, Khrachenkô, (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát

triển văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

24. Ma Văn Kháng (1987), Mùa lá rụng trong vườn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

25. Ma Văn Kháng (1999), Sống rồi mới viết - Hồi ức nhà văn Việt Nam

thế kỷ XX, tập 2, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội

26. Ma Văn Kháng (2000), Đám cưới không có giấy giá thú, NXB Văn

học, Hà Nội.

27. Ma Văn Kháng (2000), Mưa mùa hạ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

28. Ma Văn Kháng (2001), Côi cút giữa cảnh đời, NXB Văn học, Hà Nội.

29. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, NXB Văn

học, Hà Nội.

30. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, NXB Công an nhân dân,

Hà Nội.

9

31. Ma Văn Kháng (2003), Tập truyện ngắn Ma Văn Kháng (tập 2), NXB

Công an nhân dân, Hà Nội

32. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng

tạo, NXB Văn học, Hà Nội.

33. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

34. Hồ Anh Thái (2003), Cõi người rung chuông tận thế, NXB Đà Nẵng.

35. Hồ Anh Thái (2003), Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện

ra, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

36. Hồ Anh Thái (2005), Người và xe chạy dưới ánh trăng, NXB Hội Nhà

văn, Hà Nội.

37. Hồ Anh Thái (2005), Tự sự 265 ngày, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

38. Hồ Anh Thái tuyển chọn (2005), Văn mới 2004-2005, NXB Hội Nhà

văn và Công ty văn hoá Đông A, Hà Nội.

39. Hồ Anh Thái (2006), Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

40. Hồ Anh Thái (2006), Tuyển tập nói bằng lời của mình, NXB Kim

Đồng, Hà Nội.

41. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

42. Bùi Việt Thắng (2002), Bàn về tiểu thuyết, NXB Văn hoá thông tin.

43. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội nhân dân

44. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, NXB Hội

Nhà văn, Hà Nội.

45. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

* Báo - Tạp chí – luận án – luận văn

46. Phạm Mai Anh (1999), Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng từ

sau năm 1980, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm, Hà Nội.

47. Tạ Duy Anh, Bất cứ sự buông thả nào cũng phải trả giá,

10

www.hue.vnn.vn

48. Tạ Duy Anh, Tôi sẵn sàng trả giá cho sự mạo hiểm, www.vnexpress.net.

49. Vũ Tuấn Anh (1999), “Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương

đại” trong “Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học”, Viện văn học, Hà Nội, tr

474-510.

50. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp

chí Văn học (số 6), tr 66-67.

51. Lê Huy Bắc, Cốt truyện trong tự sự, www.vienvanhoc.org.

52. Trần Cương (Tháng 2/2001), Sự vận động của thể loại văn xuôi trong

văn học thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật.

53. Nguyễn Lân Dũng (ngày 9/11/1989), Số phận người lương thiện, Báo

Lao động số 45.

54. Nguyễn Hà (2000), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt

Nam sau thập kỷ 80, Tạp chí văn học số 3.

55. Nguyễn Minh Châu- Nguyễn Khải- Ma Văn Kháng - Nguyễn Mạnh

Tuấn, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.

56. Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà (2007),

Thế giới nghệ thuật của Tạ Duy Anh , NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

57. Nguyễn Thị Hải Huyền (2007), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của

Hồ Anh Thái (qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

58. Việt Hoài, Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác, www.tuoitre.com.vn.

59. Nguyễn Thị Hoa (2008), Tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng,

Luận văn thạc sĩ văn học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của

Ma Văn Kháng những năm 80, Tạp chí văn học (số 2)

61. Ngô Thị Thu Hương (2007), Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái (qua ba

tác phẩm: Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận thế,

11

Mười lẻ một đêm). Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Đại học Quy Nhơn.

62. Ngô Thị Thu Hương (2007), “Trao đổi về tiểu thuyết cùng nhà văn Hồ

Anh Thái”, Tạp chí Văn nghệ Bình Định số Tết Đinh Hợi.

63. Phan Thị Kim (2002), Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ

thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết sau năm 1980, Luận văn thạc sĩ.

64. Lã Duy Lan - Ngược dòng nước lũ- cuộc khám phá mới đầy tiềm năng

vào nguồn văn, vào dòng đời cuộn chảy (bài viết tay).

65. Võ Anh Minh (2005), Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan niệm nghệ

thuật về con người, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.

66. Hoài Nam, Chất hài hước, nghịch dị trong Mười lẻ một đêm,

www.evan.com.vn/news/phe-binh/phe-binh/2006/04/3B9ACE9C

67. Lã Nguyên (1999), Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn,

Tạp chí văn học số 9, tr63-72.

68. Vũ Quần Phương (Tháng 1/ 1990), Đọc Côi cút giữa cảnh đời của Ma

Văn Kháng, Tạp chí văn học.

69. Trần Đăng Suyền (1983), Một cách nhìn cuộc sống hiện nay, Báo Văn

nghệ số 15

70. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người,

Tạp chí văn học số 6.

71. Hồ Anh Thái (2003), Cam đoan tôi viết sự thật, Báo Thể thao và Văn

hoá (số 3).

72. Hồ Anh Thái (2003), Tiểu thuyết là một giấc mơ dài (trả lời phỏng

vấn), BáoThể thao Văn hoá.

73. Hồ Anh Thái, Nhà văn phải có nhiều giọng điệu,

www.vnexpress.net/vietnam/van-hoa/Guong-mat-Nghesy/2005/04/.

74. Hồ Anh Thái (2006), Nhà văn đích thực phải tử tế, Báo Thể thao và văn

hoá (số 4).

75. NguyễnThị Minh Thái (2005), Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ

12

phía sau, Báo Văn nghệ (số 6).

76. Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn

Kháng (qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Viện Khoa học

xã hội Việt Nam, Viện Văn học.

77. Đào Thản (1994), Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong

văn xuôi, Tạp chí Văn học (số 2), tr13-16.

78. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và những quan niệm con

người, Tạp chí văn học (số 6), tr 17-20.

79. Đào Tiến Thi (1999), Phong cách Ma Văn Kháng trong truyện ngắn từ

sau 1975, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN.

80. Bích Thu (1999), Những nỗ lực của tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi

mới, in trong Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện văn học, Hà Nội.

81. Xuân Tùng (24/04/1999), Nhà văn Ma Văn Kháng trả lời phỏng vấn:

Nhà văn phải có cái tâm, Báo Giáo dục Thời đại.

82. Phạm Xuân Thạch, Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử,

www.vietnamnet.vn

83. Lý Hoài Thu (2001), Sự vận động của các thể loại văn học thời kỳ đổi

mới, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1.

84. PV (10/02/1997), Thảo luận về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá

thú của Ma Văn Kháng, Báo Văn nghệ số 6.

85. Nguyễn Văn Xuất (1995), Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện

đại (qua một số tiểu thuyết ở Liên Xô và Việt Nam)- Luận án Phó Tiến sĩ văn

13

học, ĐHSP Hà Nội.