HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC ANH

CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín,

thành phố Hà Nội)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI - 2014

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC ANH

CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín,

thành phố Hà Nội)

Chuyên ngành: Xã hội học

Mã số : 62 31 30 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Ngọc Hùng

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Ngọc Anh

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

14 14 18 22 26 34

34 53 61

70

70 73 75 80

107

125

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề 1.2. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề 1.3. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề 1.4. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Một số lý thuyết 2.3. Một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước liên quan đến đề tài Chương 3: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ 3.1. Một số đặc điểm của làng nghề đồng bằng sông Hồng 3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và làng nghề ở huyện Thường tín 3.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điêm và xã Duyên Thái 3.4.Các phân hệ cấu trúc xã hội của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái 3.5. Phân tích mô hình công ty nghề và mô hình gia đình nghề của làng nghề gỗ Vạn điểm và làng nghề sơn mài Hạ thái Chương 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CƯ DÂN LÀNG NGHỀ VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP 4.1. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội cư dân làng nghề 4.2. Một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp

KẾT LUẬN

125 144 151 154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

156

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

THCS: Trung học cơ sở

THPT: Trung học phổ thông

TNHH: Trách nhiệm hữu hạn

UBND: Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số thứ tự Tên bảng Trang

Bảng 3.1: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của 77

xã Vạn Điểm, năm 2013

Bảng 3.2: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của 79

xã Duyên Thái, năm 2013

Bảng 3.3: Cấu trúc xã hội - giới tính của cư dân làng nghề 80

Bảng 3.4: Cấu trúc vị thế - vai xã hội của các thành viên trong gia đình 83

làng nghề

Bảng 3.5: Cấu trúc xã hội - học vấn của cư dân làng nghề 86

Bảng 3.6: Cấu trúc xã hội - gia đình theo quy mô của làng nghề 89

Bảng 3.7: Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề 91

Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề Bảng 3.8: 93

Bảng 3.9: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của các hộ gia đình 98

Bảng 3.10: Cấu trúc xã hội - mức sống của làng nghề 100

Bảng 3.11: Mức thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ 102

cơ sở sản xuất

Bảng 3.12: Mức chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ 103

sở sản xuất

Bảng 3.13: Cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề 104

Bảng 3.14: Tỉ lệ tự đánh giá mức độ thay đổi một số khía cạnh của đời 105

sống gia đình so với 5 năm trước

Bảng 3.15: Cấu trúc xã hội-nghề nghiệp, theo thâm niên của gia đình 107

nghề

Bảng 3.16: Một số đặc trưng cơ bản của mô hình gia đình nghề và mô 120

hình công ty nghề

Bảng 4.1: Thu nhập bình quân hàng tháng của chủ gia đình, chủ cơ sở sản xuất 125

theo giới tính

Bảng 4. 2: Thu nhập của hộ gia đình theo độ tuổi 126

Bảng 4.3: Thu nhập hộ gia đình làng nghề theo loại nghề hộ gia đình 128

Bảng 4.4: Thu nhập của hộ gia đình theo số năm làm nghề 129

Bảng 4.5: Quy mô gia đình, theo số lao động làm nghề truyền thống 131

Bảng 4.6: Số thế hệ trong gia đình, theo độ tuổi của chủ hộ gia đình 132

Bảng 4.7: Giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình 133

Bảng 4.8: Độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình 135

Bảng 4.9: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập 137

theo địa bàn khảo sát

Bảng 4.10: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với loại nghề của hộ 139

gia đình, theo địa bàn khảo sát

Bảng 4.11: Chủ trương, chính sách với thu nhập và loại nghề 142

của hộ gia đình theo đại bàn khảo sát

DANH MỤC CÁC BIỂU

Trang

Biểu 3.1: Cấu trúc xã hội - độ tuổi của người dân trong làng 82

Biểu 3.2: Định hướng nghề nghiệp cho con cái 87

Biểu 3.3: Cư dân làng nghề phân nhóm theo nghề nghiệp của hộ gia đình 99

Biểu 3.4: Biểu đồ các nguồn lực của công ty nghề 122

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Tính cấp thiết về mặt thực tiễn

Các làng nghề ở Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -

xã hội đất nước nói chung và đối với nền kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng.

Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,

đề cập: “Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ

môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc

điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ

gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam”

[14, tr.197].

Các làng nghề phát triển đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”. Sự lan tỏa của

các làng nghề đã mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động,

kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, góp phần làm tăng tỷ trọng

ngành công nghiệp, dịch vụ.

Đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời, nơi diễn ra sự phát

triển mạnh mẽ của văn minh lúa nước - nền nông nghiệp truyền thống của dân

tộc Việt Nam. Do vậy, làng nghề ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện khách

quan để hình thành và phát triển. Các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng từ xa

xưa đã có vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa phục vụ đời sống

của nhân dân. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn

hóa, nhiều làng nghề đồng bằng sông Hồng được khôi phục và phát triển khá

nhanh so với các địa phương khác.

Thành phố Hà Nội là vùng đất địa linh nhân kiệt, có bề dày văn hóa lâu

đời trong lịch sử dân tộc. Hà Nội tập trung nhiều làng nghề như: làng gốm Bát

Tràng; làng lụa Vạn Phúc; làng gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng; làng nghề Chàng

Sơn... Hà Nội trở thành đất “trăm nghề” và vẫn đang trong xu thế phát triển

2

mạnh, trên cơ sở chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và những chính

sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Huyện Thường Tín có nhiều làng nghề truyền thống, với những sản

phẩm nổi tiếng như: Tiện gỗ ở xã Nhị Khê, sơn mài ở xã Duyên Thái, thêu ở

xã Quất Động, mây tre đan ở xã Ninh Sở, ... ngoài ra còn có một số nghề mới

phát triển mấy chục năm như: làm xương sừng ở Thụy Ứng xã Hòa Bình, đồ

gỗ ở xã Vạn Điểm, bông len ở Trát Cầu xã Tiền Phong, ... Đến nay, huyện có

46 làng trên tổng số 126 làng có nghề được UBND thành phố Hà Nội công

nhận là làng nghề.

Thường Tín hội tụ khá đầy đủ các đặc điểm của làng nghề nông thôn

vùng đồng bằng sông Hồng, bởi vì làng nghề ở đồng bằng sông Hồng nói

chung và huyện Thường Tín nói riêng đang bị tác động mạnh mẽ bởi quá

trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, huyện Thường Tín

mới sát nhập vào thành phố Hà Nội, nên quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp - nông thôn của huyện chịu tác động mạnh từ sự phát triển

kinh tế - xã hội của thủ đô Hà Nội. Do vậy, làng nghề ở huyện Thường Tín

chứa đựng nhiều đặc điểm, tính chất của cấu trúc xã hội làng nghề truyền

thống, nhưng đang có những đặc điểm mới của quá trình đô thị hóa, hiện đại

hóa.

1.2. Tính cấp thiết về mặt lý luận

Để duy trì và phát huy các thế mạnh của các làng nghề, cũng như đáp

ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập quốc tế, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao

hơn và phát triển làng nghề theo hướng bền vững, thì cần có những nghiên

cứu xã hội học về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.

Cấu trúc xã hội là một nội dung cơ bản được nghiên cứu xuyên suốt

trong lịch sử xã hội học. Từ năm 1840 đến cuối những năm 1880, K.Marx đã

chú trọng phân tích cấu trúc xã hội và xem xét cấu trúc xã hội trên nền tảng

của cấu trúc kinh tế. Đầu thế kỷ XX, nhà xã hội học người Đức là M.Weber

3

đã chỉ ra vai trò của các yếu tố như: địa vị kinh tế, địa vị chính trị và uy tín

xã hội trong sự phân chia xã hội thành giai tầng trên dưới, cao thấp khác

nhau. Trên thế giới, nhiều nhà xã hội học quan tâm nghiên cứu nguyên nhân

và các biểu hiện của cấu trúc xã hội. Ở Việt Nam đã có một số công trình

nghiên cứu có giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn vấn đề cấu trúc xã

hội, phân tầng xã hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Cấu trúc xã hội không chỉ được xem xét như một cấu trúc ít thành phần

gồm hai giai cấp, một tầng lớp và dường như đồng đều nhau, ngang bằng

nhau hoặc chỉ đơn tuyến phát triển theo hướng tiến dần đến sự thuần nhất,

đồng nhất xã hội như quan niệm thời kỳ trước đổi mới, mà đang diễn ra một

quá trình phân tầng xã hội mạnh mẽ trên cơ sở của nền kinh tế nhiều thành

phần.

Theo cách nhìn nhận này, cấu trúc xã hội nước ta vừa có cấu trúc

"ngang", vừa có cấu trúc "dọc" [trích theo 77]. Cấu trúc “ngang”, đó là một

tập hợp các giai cấp, tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp, các tổ chức trong xã

hội mà trong đó khó có thể chỉ rõ giai cấp nào, tầng lớp nào có vị thế ở trên

giai cấp, hay tầng lớp nào. Trong đó bao hàm các giai cấp công nhân, nông

dân, tiểu thương, doanh nhân, trí thức... Cấu trúc "dọc", cấu trúc phân tầng xã

hội, tức là cấu trúc tầng bậc cao thấp trong xã hội, được xem xét và biểu hiện

ở ba dấu hiệu cơ bản khác nhau: Địa vị kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính

trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín). Dưới hai lát cắt cấu trúc "ngang" và

"dọc" này đan kết vào nhau rất phức tạp tạo thành cấu trúc xã hội của cả một

hệ thống xã hội, cộng đồng xã hội hay “giai tầng xã hội” [trích theo, 77]. Tuy

nhiên, các nghiên cứu cấu trúc xã hội làng nghề chưa nhiều, nhất là nghiên

cứu cấu trúc xã hội với tư cách là một hệ thống các quan hệ xã hội của các

thành phần xã hội trong cư dân làng nghề. Một cách tiếp cận nữa trong nghiên

cứu cấu trúc xã hội là xem xét cấu trúc xã hội trong từng lĩnh vực của đời

sống xã hội. Khi đó cấu trúc xã hội có thể được xem xét dưới các hình thức

4

hay các hệ cấu trúc xã hội như cấu trúc xã hội - dân số theo tuổi, giới tính, cấu

trúc xã hội - nghề nghiệp và các phân hệ cấu trúc xã hội khác.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và trước sức ép của tốc độ đô thị hóa,

nhiều làng nghề ở đồng bằng sông Hồng phải đối mặt với những thách thức

như: mặt bằng sản xuất rất hạn chế, các cơ sở sản xuất chủ yếu sử dụng ngay

nơi ở làm nơi sản xuất dẫn đến môi trường sống bị ô nhiễm, mật độ dân cư

trong các làng nghề đông, số lao động ở một số làng nghề giảm. Tuy nhiên,

một số làng nghề vẫn đứng vững, là do chính các cơ sở sản xuất ở làng nghề

đã biết liên kết lại với nhau để thành những mạng lưới hộ gia đình, những

công ty, doanh nghiệp sản xuất thành lập ở ngay trong làng nghề. Mạng lưới

xã hội làng nghề, quan hệ xã hội làng nghề như thế nào thì cần phải nghiên

cứu về cấu trúc xã hội của làng nghề. Nói cách khác làng nghề hoạt động,

biến đổi và phát triển ra sao, phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc xã hội của nó.

Đã có nhiều nghiên cứu về làng nghề từ góc độ kinh tế học và văn hóa

học. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học về làng

nghề và nhất là cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề ở Việt Nam.

Với những lý do đã nêu ra ở trên, tác giả lựa chọn đề tài Cấu trúc xã

hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay (Nghiên cứu

trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội) làm luận

án tiến sĩ xã hội học.

2. Mục đích nghiên cứu

Từ góc độ xã hội học, luận án tìm hiểu những vấn đề lý luận và đánh

giá thực trạng các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề; phân tích

những yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề. Trên cơ sở

đó, nhận định một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp nhằm phát huy

những thế mạnh của cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông

Hồng trong thời kỳ đổi mới đất nước.

5

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung vào các nhiệm vụ

nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận, các khái niệm nghiên cứu cấu trúc xã

hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.

Thứ hai, khảo sát thực địa, phân tích thực trạng các phân hệ của cấu

trúc xã hội cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm xã Vạn Điểm và làng nghề sơn

mài Hạ Thái xã Duyên Thái ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Thứ ba, phân tích các yếu tố tác động đến các phân hệ cấu trúc xã hội

cư dân làng nghề.

Thứ tư, nhận định một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp nhằm

hoàn thiện cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông

Hồng hiện nay.

4.2. Khách thể nghiên cứu

Cư dân làng nghề đồ gỗ và làng nghề sơn mài ở huyện Thường Tín,

thành phố Hà Nội.

4.3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2014.

Phạm vi không gian: Làng Vạn Điểm, xã Vạn Điểm (làng nghề đồ gỗ

Vạn Điểm) và làng Hạ Thái, xã Duyên Thái (làng nghề sơn mài Hạ Thái)

huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Đề tài lựa chọn nghiên cứu trường hợp làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và

làng nghề sơn mài Hạ Thái ở huyện Thường Tín, trong số các làng nghề ở

đồng bằng sông Hồng với những tiêu chí sau:

6

Về địa lý: Thường Tín là một huyện của thành phố Hà Nội, Thường Tín

tập trung nhiều làng nghề tiêu biểu trong Đồng bằng sông Hồng. Tác giả lựa

chọn làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm ở cuối huyện Thường Tín và làng nghề sơn

mài Hạ Thái ở đầu huyện Thường Tín (giáp Trung tâm thành phố Hà Nội).

Về lịch sử: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm xuất hiện gần 50 năm và phát

triển mạnh trong thời kỳ đổi mới; làng nghề sơn mài Hà Thái đã có từ trước

thời kỳ đổi mới với lịch sử hơn 200 năm. Như vậy, có thể so sánh được cấu

trúc xã hội của hai làng nghề này.

Về kinh tế - xã hội: Cả hai làng nghề này thuộc hai xã trong cùng một

huyện, do vậy nghiên cứu để xem xét sự khác nhau về nghề nghiệp có thể tạo

ra những sự khác nhau trong cấu trúc xã hội; đồng thời có thể xem xét mối

tương quan giữa các phân hệ cấu trúc xã hội, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

của hai làng nghề này.

5. Cơ sở lý luận, mẫu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Nghiên cứu này dựa trên quan điểm lý luận, phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, quan

điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển làng nghề.

Là một đề tài thuộc chuyên ngành xã hội học, nghiên cứu này vận dụng

lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của

Anthony Giddens làm cơ sở lý luận cho việc xem xét, đánh giá thực trạng cấu

trúc xã hội của cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm (xã Vạn Điểm) và làng

nghề sơn mài Hạ Thái (xã Duyên Thái) ở huyện Thường Tín, thành phố Hà

Nội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phân tích tài liệu: Thu thập, phân tích số liệu, các nghiên cứu đã có về

cấu trúc xã hội và cấu trúc xã hội làng nghề Việt Nam. Thu thập, phân tích

các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế xã hội, về cấu trúc xã hội làng nghề

7

đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, huyện Thường Tín, thành

phố Hà Nội.

- Phương pháp định tính:

+ Phỏng vấn sâu 36 chủ hộ gia đình làm nghề truyền thống, 08 giám

đốc công ty làm nghề trong làng nghề, 02 chủ tịch UBND xã, 02 trưởng thôn,

04 nghệ nhân, 02 chủ tịch hiệp hội làng nghề; thảo luận nhóm tập trung với

lãnh đạo 02 xã.

+ Phương pháp quan sát thực địa tại một số cơ sở sản xuất - kinh doanh

và hộ gia đình. Tác giả luận án nhiều lần đến thăm, nghiên cứu, quan sát tham

dự đời sống của cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ

Thái, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

+ Phương pháp định lượng: Tác giả thu thập thông tin về cấu trúc xã

hội của cư dân làng nghề qua phiếu thu thập thông tin, do chính chủ hộ gia

đình trả lời bằng cách trực tiếp ghi, điền vào bảng hỏi điều tra. Chủ hộ gia

đình trong nghiên cứu này là người đại diện hộ gia đình, có vai trò quyết định

về kinh tế của gia đình, được các thành viên trong gia đình thừa nhận.

+ Phương pháp phân tích số liệu

Số liệu của cuộc điều tra được xử lý bằng chương trình SPSS và được

phân tích tần suất, tương quan hai chiều.

Phân tích tần suất, phân tích thực trạng các phân hệ cấu trúc xã hội của

cư dân làng nghề hiện nay (thống kê mô tả: tần suất, trung bình, giá trị lớn

nhất, giá trị nhỏ nhất).

Phân tích tương quan hai chiều, kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng

yếu tố xác định là biến độc lập với các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề thông qua công cụ thống kê Chi-Square Tests được sử dụng để xem

xét ý nghĩa thống kê mối quan hệ giữa các biến số đó.

8

5.3. Mẫu nghiên cứu

- Về cỡ mẫu

Tác giả dựa theo công thức Krejcie và Morgan [117, tr 30, 607-610] để

tính kích thước mẫu cần thiết cho nghiên cứu (định lượng) của luận án.

Công thức:

Trong đó:

S = cỡ mẫu cần thiết;

X2 = giá trị bảng chi square cho 1 mức độ tự do ở mức độ tin cậy mong

muốn (3,841);

N = quy mô dân;

P = tỷ lệ dân số (giả định là 0,50);

d = mức độ chính xác (0,05).

Căn cứ danh sách hộ gia đình do UBND hai xã Vạn Điểm và Duyên

Thái cung cấp năm 2012: Làng Vạn Điểm có 708 hộ gia đình, làng Hạ Thái

có 1.046 hộ gia đình. Áp dụng công thức trên, kích thước mẫu cho mỗi làng

nghề như sau: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm N = 708, tính được S = 249. Làng

sơn mài Hạ Thái N = 1.046, tính được S = 281. Do vậy, tổng cả hai làng nghề

cỡ mẫu là 530 hộ gia đình.

- Phương pháp chọn mẫu

Phương pháp chọn mẫu xác suất ngẫu nhiên đơn giản. Trên cơ sở danh

sách hộ gia đình từng làng, được lập theo danh sách sổ hộ khẩu của UBND

xã, tác giả tiến hành đánh số thứ tự (có tính đến hộ gia đình làm nghề truyền

thống, hộ gia đình không làm nghề truyền thống) và được chọn ngẫu nhiên.

9

- Đặc điểm mẫu điều tra

Từ 530 phiếu điều tra được phát ra, kết quả thu được 515 phiếu đưa vào

xử lý. Trong 515 hộ gia đình, gồm 425 hộ gia đình, cơ sở sản xuất làm nghề

truyền thống và 90 hộ không làm nghề truyền thống.

Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ %

1. Làng nghề

Đồ gỗ Vạn Điểm Sơn mài Hạ Thái 246 269 47,8 52,2

2. Giới tính Nam 376 73

Nữ 139 27

3. Độ tuổi Dưới 40 191 37,1

Từ 40 đến 50 Trên 50 176 148 34,2 28,7

4. Trình độ học vấn Tiểu học và THCS 198 38,4

THPT trở lên 317 61,6

Làm nghề truyền thống 82.5 425

5. Loại nghề hộ gia đình

61 11.8

364 70.7

+ Chỉ làm nghề truyền thống + Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống

90 17,5 Không làm nghề truyền thống

Cỡ mẫu 515 100

10

6. Câu hỏi, giả thuyết và khung nghiên cứu

6.1. Câu hỏi nghiên cứu

- Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay

biểu hiện như thế nào qua các phân hệ cấu trúc xã hội?

- Phân hệ cấu trúc xã hội nào là nổi bật nhất trong cấu trúc xã hội của

cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay?

- Cấu trúc xã hội với các phân hệ của nó chịu tác động như thế nào từ

các yếu tố nào ở làng nghề đồng bằng sông Hồng?

6.2. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết thứ nhất: Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng

sông Hồng hiện nay gồm các phân hệ cơ bản cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc

xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống.

Giả thuyết thứ hai: Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng

sông Hồng hiện nay nổi bật nhất là phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp theo

mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề.

Giả thuyết thứ ba: Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề

đồng bằng sông Hồng chịu tác động chủ yếu từ đặc điểm nhân khẩu - xã hội

của chủ hộ gia đình và loại nghề của hộ gia đình.

11

6.3. Khung nghiên cứu

ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

Cấu trúc xã hội - dân số

Đặc điểm nhân khẩu - xã hội của chủ hộ gia đình Cấu trúc xã hội - gia đình

Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ

Đặc điểm loại nghề của hộ gia đình Cấu trúc xã hội - mức sống

MÔI TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA LÀNG-XÃ

12

6.4. Các biến số

- Biến số độc lập

+ Đặc điểm nhân khẩu - xã hội của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất:

tuổi, giới tính;

+ Đặc điểm nghề của hộ gia đình: hộ làm nghề truyền thống, hộ không

làm nghề truyền thống, hộ làm nông nghiệp kết hợp làm nghề truyền thống.

- Biến số phụ thuộc

+ Cấu trúc xã hội - dân số: giới tính, tuổi, trình độ học vấn của cư dân

làng nghề;

+ Cấu trúc xã hội - gia đình: quy mô gia đình, số người làm nghề, số

thế hệ làm nghề truyền thống;

+ Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: loại hình nghề nghiệp, quy mô, mạng

lưới xã hội, mô hình gia đình nghề, mô hình công ty nghề;

+ Cấu trúc xã hội - mức sống: thu nhập, chi tiêu.

- Các yếu tố môi trường kinh tế - xã hội

+ Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước về phát triển làng nghề;

+ Môi trường: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của làng-xã.

7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

7.1. Ý nghĩa lý luận

Nghiên cứu và vận dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons

và lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens vào việc tìm hiểu cấu trúc xã hội

cư dân hai làng nghề đồng bằng sông Hồng, để làm rõ các đặc trưng của các

phân hệ cấu trúc xã hội làng nghề.

Luận án vận dụng và góp phần phát triển thêm một số khái niệm như

cấu trúc xã hội, các phân hệ cấu trúc xã hội, cấu trúc xã hội của cư dân làng

nghề, gia đình nghề, công ty nghề.

13

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án phát hiện cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của cư dân làng nghề

gồm: Mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề đang được cấu trúc hóa

thông qua hành động ở các thành phần của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề

trong quá trình đổi mới kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án góp phần bổ sung thêm thông tin cần thiết trong nghiên cứu

cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng nói riêng và

nghiên cứu về làng nghề nói chung ở Việt Nam.

- Luận án gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo cho chủ đề này, cung cấp

số liệu, cứ liệu phong phú, đa dạng khi nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.

- Luận án có thể gợi ra những suy nghĩ cho việc đề xuất những giải

pháp đối với những vấn đề đặt ra, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy về

cấu trúc xã hội.

8. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án gồm 4 chương, 14 tiết.

14

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - DÂN SỐ LÀNG NGHỀ

Nghiên cứu về cấu trúc giới tính, cấu trúc tuổi trong lao động và tổ

chức sản xuất làng nghề, tác giả Bùi Xuân Đính trong công trình Làng nghề

thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền thống và biến đổi đã mô tả khung

tổ chức lao động trong làng nghề, với mô hình “gia đình”. Thành phần lao

động bao gồm tất cả các thành viên trong gia đình từ lớn tuổi nhất đến nhỏ

tuổi nhất và nam giới vẫn giữ vị trí quan trọng trong các công việc chủ chốt,

còn nữ giới giữ vị trí quan trọng trong các công việc đòi hỏi sự tinh xảo, khéo

léo. Trong sản xuất nghề làm quạt “khâu đơn giản là xếp các nan đã được chẻ

thành bộ, trẻ em từ 12 tuổi đã có thể làm được. Trẻ 14 tuổi chốt đinh đầu

(chốt nhài), 16 tuổi phất quạt (song việc này phụ nữ làm là chính, chính vì sự

nhẹ nhàng, nếu làm mạnh tay, giấy sẽ bị rách). Các công đoạn còn lại chủ yếu

là do nam giới” [24, tr.176]. Trong phân công lao động theo giới ở làng nghề

thì phần lớn nam giới ở độ tuổi thanh niên hoặc trung niên tham gia gián tiếp,

tập trung ở công đoạn: liên hệ mua nguyên vật liệu, tìm thị trường tiêu thụ và

thực hiện các giao dịch mua bán [24, tr.175-177]. Nghiên cứu này của tác giả

là gợi ý thú vị cho luận án tìm hiểu nhóm xã hội theo độ tuổi, theo giới tính

trong cấu trúc xã hội - dân số làng nghề.

Báo cáo của Bộ Tài nguyên và môi trường về môi trường làng nghề

Việt Nam, năm 2008 đã đưa ra thống kê cụ thể về các biểu hiện thay đổi số

lượng lao động thủ công và các hiệp hội làng nghề cho thấy sự thay đổi tích

cực về số lượng cũng như thành phần tham gia sản xuất, thúc đẩy mô hình sản

xuất làng nghề với quy mô lớn hơn về nhân công. Báo cáo cho biết làng nghề

đã thu hút nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, trong đó kinh tế tập thể

chiếm 18%, doanh nghiệp tư nhân chiếm 10% và kinh tế cá thể chiếm 72%;

15

không chỉ thu hút nhiều thành phần tham gia mà ngành thủ công mỹ nghệ còn

thu hút số lượng lao động cũng đã tăng lên tới 11 triệu lao động chiếm 30%

lao động nông thôn. Tỷ lệ thời gian làm việc sử dụng lao động trong độ tuổi

của khu vực nông thôn năm 2005 chiếm 80%. Các làng nghề cũng đã dần

xuất hiện chuyên môn hóa với các hội như: hội nghề nghiệp, hiệp hội doanh

nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn hoặc các trung tâm giao lưu buôn

bán, cụm dân cư [trích theo 9, tr.11-12].

Về trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay cho thấy trong cấu trúc lao

động về mặt chuyên môn kỹ thuật phần lớn là lao động chân tay, thủ công. Theo

kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn “chất lượng lao

động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp, chủ

yếu là lao động phổ thông, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm trên 60%”

[9, tr15]. Điều này gợi ý tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu về nguồn nhân lực

của làng nghề.

Qua cấu trúc lao động về chuyên môn kỹ thuật như vậy có thể thấy phần

lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các làng nghề nông

thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa được chọn lọc và đầu tư khoa học kỹ

thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do đó chưa đáp ứng được

nhu cầu thị trường và khó có thể nâng cao sức cạnh tranh.

Nghiên cứu về chất lượng lao động làng nghề, tác giả Trần Minh Yến

với nghiên cứu về Làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam đã đưa ra

bức tranh tổng quan về chất lượng lao động ở làng nghề. Trong đó số người

có trình độ học vấn cao chiếm một tỉ trọng thấp, còn đa số lao động có trình

độ học vấn trung học cơ sở trở xuống. Cụ thể nghiên cứu này cho thấy cần có

sự quan tâm hơn về trình độ học vấn của lao động làng nghề, bởi tính chất

làng nghề nên trình độ học vấn chưa được coi trọng không chỉ trong đối tượng

thợ, mà ngay cả đối tượng là các chủ doanh nghiệp thì trình độ và kiến thức

16

quản lý vẫn còn hạn chế [109]. Cấu trúc lao động về trình độ học vấn là một

trong những điểm yếu có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất, chất lượng sản

phẩm và bảo vệ môi trường trong hoạt động của các làng nghề.

Về đặc trưng các mối quan hệ trong làng nghề: Trong bài viết Phong

trào khôi phục tập quán - tín ngưỡng cổ truyền ở một số làng xã vùng châu

thổ sông Hồng của Lê Mạnh Năm [trích theo 69, tr.60-66], và bài viết Người

nông dân đồng bằng sông Hồng và quan hệ cộng đồng trong thời kỳ đổi mới

của Nguyễn Đức Truyến [trích theo 96, tr.45-51] đều cùng nhấn mạnh mối

quan hệ làng - xã chủ yếu dựa trên truyền thống, vận hành theo những nguyên

tắc tổ chức, các nhóm xã hội khác nhau, các tác giả đã phân tích làm rõ thêm

mô hình họ hàng, thôn xóm như một đơn vị kinh tế, với các hoạt động nghi lễ

thờ cúng tổ tiên, các sự kiện quan trọng trong hộ gia đình, sự giúp đỡ, tương

trợ lẫn nhau, tương tự các vị trí quan trọng, chủ chốt trong làng cũng sẽ được

phân chia theo dòng họ nào có đông người hơn trong làng, xóm. Các nghiên

cứu này giúp tác giả hình dung ra những hoạt động của các nhóm xã hội trong

nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Tương tự, nhóm tác giả Mai Văn Hai và cộng sự viết về Bản sắc làng

việt trình bày tính cộng đồng làng xã với chế độ công điền, công thổ đã hình

thành tâm lý bám làng, tập trung quần tụ và chia sẻ công việc cho tất cả mọi

người [31].

Cùng nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Thị Phương Châm

trong tác phẩm Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay với trường hợp làng

Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã

đưa ra những đặc trưng biến đổi văn hóa làng trong sự phát triển kinh tế hiện

nay. Cụ thể là “quan hệ làng xóm trong các làng vẫn giữ được tính chất của

làng quê xưa: đoàn kết, tình nghĩa. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường

phát triển hiện nay sự đoàn kết, nghĩa tình này còn được củng cố hơn trước”

17

[12, tr.305-306]. Song “cũng không quá khó để nhận ra một số những mâu

thuẫn đã nảy sinh trong quan hệ làng xóm và đã xuất hiện những cạnh tranh

mang tính chất thể diện trong cộng đồng”. Đặc biệt những làng buôn, làng

nghề tiểu thủ công nghiệp có tốc độ sản xuất và phát triển không ngừng nhằm

đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong và ngoài nước [12]. Công trình

này, giúp tác giả nhận diện và có ý tưởng nghiên cứu sự kết nối cấu trúc xã

hội giữa truyền thống và hiện đại ở các làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện

nay.

Trong quá trình chuyển đổi về cấu trúc xã hội - dân số của làng nghề tại

nông thôn đã xuất hiện sự phân tầng xã hội trên tất cả các mặt, đặc biệt phân

tầng trong các yếu tố của dân số như lao động, mức sống, trình độ, v.v, theo

như Talcott Parsons, sự phân tầng chính là kết quả trực tiếp của sự phân công

lao động xã hội và sự phân hóa giữa các nhóm xã hội khác nhau [120, tr. 841-

843]. Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Tô Duy Hợp khi bàn về Thực trạng

và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay

đã trình bày các mô hình phân tầng trong làng - xã, như xuất hiện các tầng gia

đình giàu, khá giả, trung bình và nghèo. Trong đó có sự phân tầng của những

làng nghề truyền thống, sự phân hóa rõ rệt của từng làng về mức thu nhập tạo

ra đặc trưng thu nhập cho các hộ tại từng làng, góp phần hTnh thành nên các

cấu trúc xã hội kiểu mới [42, tr. 20-26].

Tóm lại, các nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số có ý nghĩa về mặt

thực tiễn hết sức to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa công

nghiệp nông thôn Việt Nam. Thông qua quá trình nghiên cứu tài liệu của các

tác giả như Bùi Xuân Đính, Trần Minh Yến, Lê Mạnh Năm, Mai Văn Hai và

cộng sự, Nguyễn Thị Phương Châm, Tô Duy Hợp và báo cáo của Bộ Tài

nguyên và môi trường về Môi trường làng nghề Việt Nam đã giải quyết được

nhiều vấn đề về dân số đang tồn đọng tại các làng nghề của nông thôn Việt

18

Nam như thất nghiệp, tệ nạn, nghèo đói, đào tạo... Tuy nhiên, bên cạnh đó,

các làng nghề vẫn không tránh khỏi những biến đổi tiêu cực trong quá trình

biến đổi cấu trúc xã hội - dân số, điều đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu khoa

học và lâu dài đối với các đối tượng của cấu trúc xã hội - dân số làng nghề

nhằm phát triển làng nghề nói chung và phát triển cấu trúc xã hội - dân số bền

vững trong các làng nghề nói riêng.

1.2. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - GIA ĐÌNH LÀNG NGHỀ

Sự phân tầng xã hội ở nông thôn nói chung đã dẫn đến sự phân tầng

trong từng đơn vị của làng - xã, trong đó có các gia đình. Về điều này, tác giả

Trương Xuân Trường với Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn vùng

châu thổ sông Hồng hiện nay đã đưa ra các chỉ số sinh hoạt gia đình dưới tác

động của nền kinh tế thị trường, từ đó dẫn đến sự biến đổi trong cấu trúc gia

đình về quy mô, vai trò gia đình, vị thế chủ hộ và các mối quan hệ thứ bậc -

trên dưới, quan hệ giới trong gia đình. Điều đó thể hiện rõ trong quan điểm về

việc lập gia đình. Nghiên cứu này chỉ rõ rằng quan điểm lập gia đình giờ đã

thay đổi so với trước. Thành viên trong gia đình lập gia đình là tự bản thân

quyết định, khác với truyền thống chủ yếu là do sự sắp xếp của cha mẹ. Ngoài

ra kinh tế hộ gia đình đã được coi trọng, cấu trúc gia đình hạt nhân hai thế hệ

dần thay thế gia đình nhiều thế hệ; quy mô trung bình có từ 4 - 5 nhân khẩu.

Đặc biệt, quan điểm về chủ hộ đã dần thay đổi với vai trò chính là người chỉ

huy và điều phối thực sự trong gia đình, với đầu óc tổ chức sản xuất - kinh

doanh và mang lại thu nhập nhiều nhất cho gia đình sẽ được coi là chủ hộ. Đó

là những biểu hiện đặc trưng cho sự biến đổi của cấu trúc gia đình trong làng,

xóm hiện nay [93, tr.28-41]. Bài viết này giúp tác giả có hướng nghiên cứu

quy mô gia đình, vị thế, vai trò của từng thành viên trong gia đình làng nghề.

Tác giả Nguyễn Đức Truyến với bài viết Lịch sử hình thành và phát

triển của làng ở đồng bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình đã đưa ra

19

những dấu hiệu nhằm cảnh báo về tính cấu kết cộng đồng dưới tác động của

nền kinh tế thị trường qua các mối quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, mối

quan hệ giữa nam giới và nữ giới, giữa vợ và chồng. “Tổ chức kinh tế hộ đòi

hỏi tăng cường sự cấu kết giữa các thành viên trong hộ gia đình, tôn trọng vai

trò điều hành của người chủ gia đình, sự phối hợp giữa các thành viên trong

phân công lao động và sản xuất và sự nhất quán trong tiêu dùng và sử dụng

sản phẩm trong gia đình” [94, tr.23]. Tuy nhiên, “vẫn là mô hình dân chủ và

bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ

và con cái”[94, tr.23].

Trong cuốn Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền

thống và biến đổi, tác giả Bùi Xuân Đính đã phân tích những đặc trưng về cấu

trúc xã hội - gia đình thông qua sự chuyên môn hóa nghề, tính chất truyền

nghiệp và quy định truyền nghề trong các gia đình làng nghề. Điều đó, cho

thấy rằng, cấu trúc xã hội - gia đình đã tạo nền tảng vững chắc, kết nối bản

sắc và duy trì các đặc trưng truyền thống của làng nghề. Tác giả đã trình bày

về mô hình làng nghề, với cách nhìn hoàn toàn khác biệt về mô hình làng

nghề mới với mô hình nền công nghiệp gia đình luôn khởi đầu từ cấu trúc xã

hội của gia đình, với nghĩa là chủ hộ luôn là người khởi nghiệp và các thành

viên của gia đình như vợ của chủ hộ, con trai, con gái của chủ hộ luôn được

thu hút vào làm việc và trở thành những người có vị trí quan trọng, then chốt

trong nền công nghiệp gia đình [24, tr.58-65], hoặc có thể tìm thấy mô hình

của Phan Gia Bền trong nghiên cứu về Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công

Việt Nam, cũng đã trình bày tính chất “thủ công gia đình” trong các làng nghề

và sự phân công vai trò của nam giới và nữ giới, sự phân công giữa các lứa

tuổi trong làng nghề [101, tr.42-45].

Cùng bàn về tính cấu kết trong cộng đồng, tác giả Lê Hồng Lý trong

nghiên cứu Nghề thủ công mỹ nghệ đồng bằng Sông Hồng, tiềm năng, thực

20

trạng và một số khuyến nghị đã đưa ra những hình ảnh chân thực và đáng

quan tâm về thực trạng của thế hệ nghệ nhân tương lai. Đó là, trong các làng

nghề tình trạng trẻ em đi học trung học phổ thông, đại học, sau đại học còn ít,

có xu hướng giảm và có sự gia tăng về tệ nạn xã hội như nghiện hút, trộm

cắp, đánh bài … [105, tr.168-170].

Trong một nghiên cứu của tác giả Mai Văn Hai và cộng sự trong tác

phẩm Bản sắc làng Việt trong tiến trình toàn câu hóa hiện nay, có thể tìm

hiểu rõ hơn về tính cấu kết cộng đồng thông qua các quy định nghiêm ngặt

trong cấu trúc xã hội - gia đình của làng nghề thông qua chế độ “nội hôn” và

“bí mật nhà nghề” như mỗi một làng nghề đều phải giữ bí mật về nghề của

mình, con gái lấy chồng nơi khác không được làm nghề ở nguyên quán của

mình hoặc có nơi cấm con gái lấy chồng ngoài mà phải lấy chồng trong làng

và cùng làm nghề, hoặc chỉ dạy, truyền nghề cho đàn ông, đàn bà có con chứ

không truyền và dạy nghề cho con gái [31, tr. 95-100].

Sự biến đổi của kinh tế thị trường đã khiến cho cấu trúc xã hội - gia

đình bị biến đổi theo, đặc biệt là về vị thế và vai trò của từng thành viên trong

gia đình. Khi được cho phép sản xuất, kinh doanh những gì mà Nhà nước

không cấm, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn mở rộng hoạt động sản xuất - kinh

doanh nghề những mặt hàng nghề truyền thống với sự tham gia của các thành

viên gia đình tùy theo sức khỏe và năng lực. Nhiều phụ nữ vừa làm vợ, vừa

làm nội tướng trong gia đình và vừa cùng chồng tham gia quản lý cơ sở sản

xuất của hộ gia đình. Sự biến đổi đó được phát triển theo quy luật mà Marx đã

từng nói khi bàn về cấu trúc xã hội, với sự kiểm soát về quyền lực kinh tế sẽ

kiểm soát được quyền lực chính trị và chi phối về mặt tư tưởng, tinh thần.

Ngoài ra, có thể thêm một số tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam trong quá

trình chuyển đổi cơ cấu xã hội tác động đến vị thế và vai trò trong gia đình,

trong làng - xã như Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc

21

Bộ trong điều kiện kinh tế mới của Viện Xã hội học. Nghiên cứu này đã đưa

ra cái nhìn tổng quan về sự biến đổi của nông thôn Việt Nam từ sau “khoán

sản” và “khoán hộ” [trích theo 103, tr.1-14], từ hệ thống kinh tế hợp tác xã

chuyển sang hệ thống kinh tế hộ gia đình xã viên, quy mô diễn ra không chỉ

trong hộ gia đình mà còn họ mạc và làng, tạo ra sự thay đổi về cấu trúc xã hội

trong tất cả các lĩnh vực như dân số, nghề nghiệp, việc làm, lao động, cho đến

các thiết chế, quy phạm điều chỉnh quan hệ và vai trò xã hội của người dân ở

nông thôn. Sự biến đổi cấu trúc xã hội nông thôn, tác giả Tô Duy Hợp trong

nghiên cứu Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn

đồng bằng Bắc Bộ hiện nay cho rằng sự chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn

đang ngày càng ăn nhập và thích nghi với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị

trường, để thấy rõ sự biến đổi tác giả đã đưa ra sự phân loại các hộ gia đình

như hộ gia đình vượt trội, chủ động giàu có, hộ gia đình trung bình và hộ gia

đình yếu kém, thụ động hoặc có làng - xã vượt trội, chủ động giàu có; làng -

xã trung bình và làng - xã yếu kém, thụ động. Tác giả cũng trình bày về sự

xuất hiện của nhóm hộ gia đình chuyển sang kinh doanh theo hướng chuyên

môn hóa hơn và quy mô hơn như các “hộ chuyên doanh” [42, tr. 21-30].

Ngoài ra, có thể tìm hiểu những biến đổi cấu trúc xã hội trong các bài viết của

các tác giả như: Vũ Tuấn Anh Về sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng

giá trị ở nông thôn trong quá trình đổi mới kinh tế [3], Phí Văn Ba Sự biến

đổi của các truyền thống gia đình nông thôn trong quá trình hiện đại hóa:

phác thảo theo kết quả điều tra xã hội học gần đây [6], Đỗ Thái Đồng với bài

viết Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở một xã nông thôn Nam Bộ

[26], hay phân tích cơ cấu nội tại, chức năng trong các loại hộ gia đình của

Mai Huy Bích với nội dung Một đặc trưng về cơ cấu và chức năng, gia đình

Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng [7], ...

22

Tóm lại, các kết quả nghiên cứu khoa học này đã cung cấp nhiều thông

tin, nhiều dữ liệu về các mô hình cấu trúc xã hội - gia đình trong chiều dài

lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Các công trình

nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguồn gốc và đặc

trưng của các phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, từ đó góp phần làm rõ những

tác động của các chính sách, thể chế, hệ thống giá trị văn hóa, phong tục tập

quán cổ truyền của các làng nghề qua từng giai đoạn phát triển khác nhau.

1.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

LÀNG NGHỀ

Tại các làng nghề, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp có thể được nhìn nhận

thông qua các hình ảnh về giá trị văn hóa trong làng nghề ở nông thôn. Cấu

trúc xã hội gắn liền với văn hóa, cấu trúc văn hóa của cộng đồng xã hội nhất

định. Thuật ngữ Kultur trong thuật ngữ cổ điển Đức ngụ ý về văn hóa mang

nghĩa “tình anh em” [113, tr.41-42] và trong tiếng Anh, khái niệm văn hóa đề

cập thường xuyên để đại diện cho tính nghệ thuật tinh túy và cách cư xử của

giới tinh hoa giáo dục [trích theo 119, tr.241-258]. Do đó, trong một nền văn

hóa, ý nghĩa đơn giản nhất cấu trúc xã hội đặc trưng sẽ được thể hiện thông

qua các hoạt động của con người. Tương tự, đối với cấu trúc xã hội của làng

nghề tại các cộng đồng luôn hình thành các hình thức khác nhau để tạo ra

công việc, quy định thông qua một loạt nguồn lực có sẵn và với các chỉ tiêu

có sẵn như truyền thống gia đình, dòng họ, phong tục, kiến thức truyền thống,

các yếu tố tôn giáo và tinh thần sáng tạo để đáp ứng mục tiêu sinh kế hằng

ngày và áp dụng đối với các thành viên tham gia [trích theo 113, tr.1082-

1087]. Faulkner mô tả nền văn hóa làng nghề như là một “cấu trúc” với các

tiêu chí đặc trưng bao gồm niềm tin, chuẩn mực, phong tục, nghi lễ, thái độ,

hành vi, các kỹ năng, kiến thức, biểu tượng, ngôn ngữ, tôn giáo [trích theo

114, tr.27-52]. Các cấu trúc xã hội làng nghề thể hiện cách sống của người

23

dân làng nghề, giống như một thiết chế cho cuộc sống đảm bảo sự gắn kết của

cả hệ thống.

Khi nghiên cứu về cấu trúc xã hội làng nghề, các tác giả thường gắn với

các nghiên cứu về cấu trúc xã hội của nông thôn như: tác giả Tô Duy Hợp

trình bày về sự chuyển đổi cấu trúc xã hội thông qua các mô hình hoạt động

sản xuất của các hộ [42, 20-26], tác giả Trương Xuân Trường cũng bàn về

biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn châu thổ sông Hồng thông qua các tiêu

chí như đời sống sinh hoạt, thu nhập, chuyển đổi lao động nghề nghiệp và sự

phân tầng xã hội trong làng [93, tr.30 - 39].

Làng nghề là một trong những hình ảnh biểu trưng gắn liền với nông

thôn Việt Nam trong các công trình nghiên cứu như Làng xã An Nam ở Bắc

kỳ của P. Ory, đặc biệt trong tác phẩm Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ của

P.Gourou, P.Gourou cho rằng ngành công nghiệp Việt Nam, cụ thể là các

hoạt động của làng nghề giống như một ngành “phụ”, “kiếm thêm” lúc nông

nghiệp nhàn rỗi của người nông dân Việt Nam với quy mô nhỏ, máy móc thủ

công và làm theo phương pháp truyền thống, hầu như không có sự hỗ trợ của

kỹ thuật. P.Gourou viết: “Người thợ thủ công không có vốn để trả công và

khấu hao, họ chỉ mong mỗi ngày lao động kiếm được vài hào bạc” [74, tr.

465-466]. Tương tự, tác giả Mai Văn Hai, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đức

Chiện, Ngô Thị Thanh Quý trong cuốn Bản sắc làng việt đã trình bày về tính

bảo mật trong nghề của người làng nghề trong quan hệ với người ngoài làng,

người khác. Quy định bất thành văn của một số làng nghề là chỉ truyền nghề

cho con trai hoặc con dâu chứ không truyền nghề cho con gái vì lo ngại con

gái đi lấy chồng, theo chồng sẽ mang bí mật nghề nghiệp cho người khác,

làng khác [trích theo 31, tr.98].

Tác giả Hoàng Kim Giao trong tác phẩm Làng nghề truyền thống, mô

hình làng nghề và phát triển nông thôn và tác giả Nguyễn Kế Tuấn trong

24

công trình nghiên cứu Một số vấn đề tổ chức sản xuất ở các làng nghề thủ

công đã đưa ra các loại mô hình làng nghề theo từng giai đoạn phát triển

nhằm khắc phục được những hạn chế của mô hình truyền thống, phát triển mô

hình hiện đại và năng suất cao bằng sự chuyên môn hóa thay máy móc vào

các công đoạn sản xuất tay chân, chuyên môn hóa về vai trò của từng người

trong hộ gia đình trong các công đoạn hoặc sự phát triển cao độ của mô hình

công ty chuyên sản xuất - kinh doanh ở làng nghề, đặc trưng cho sự phát triển

làng nghề chuyên nghiệp hơn [105, tr.54-67]. Nghiên cứu này gợi cho tác giả

luận án ý tưởng tìm hiểu mô hình “công ty nghề” trong cấu trúc xã hội nghề

nghiệp của làng nghề hoặc sự xuất hiện của “phố nghề” trong nghiên cứu của

tác giả Vũ Quốc Tuấn với công trình nghiên cứu Làng nghề, phố nghề Thăng

Long - Hà Nội trên đường phát triển đã đại diện cho sự phát triển của thành

thị, phố xá sầm uất [105, tr.481-490].

Ngoài ra, có thể nghiên cứu các công trình khoa học đã đề cập khá sâu

sắc về các vấn đề chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và phân tầng xã hội tại các

vùng nông thôn Việt Nam như: tác giả Đỗ Thiên Kính với nghiên cứu Tìm

hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu

nghèo ở nước ta hiện nay [49], tác giả Mai Huy Bích với nghiên cứu Lý

thuyết phân tầng xã hội và những phát triển gần đây [8], Trịnh Duy Luân và

Bùi Thế Cường với nghiên cứu về Phân tầng xã hội và công bằng xã hội ở

nước ta hiện nay [55], v.v. Các tác giả đã phân tích những xu hướng biến đổi

của nông thôn Việt Nam thông qua sự chuyển dịch về cơ cấu lao động và sự

phân tầng xã hội trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Các nhóm lao

động được phân chia rõ ràng hơn thông qua các mức thu nhập, sự khác biệt về

dụng cụ sinh hoạt trong gia đình và phương tiện đi lại, v.v.

Có thể thấy, mặc dù bị tác động bởi nền kinh tế thị trường, lợi nhuận

kinh tế đến từng cá nhân khiến cho cấu trúc xã hội - nghề nghiệp thay đổi.

25

Tuy nhiên theo Max Weber đã phân tích, kinh tế không phải là yếu tố duy

nhất giải thích cấu trúc xã hội là động lực cho sự thay đổi, bởi nó còn phụ

thuộc vào các yếu tố khác như địa vị chính trị, hay quyền lực, địa vị xã hội

hay uy tín [116, tr.15 - 25]. Chính vì vậy, mặc dù các làng nghề phát triển và

biến đổi sâu sắc có thể bắt nguồn từ yếu tố kinh tế nhưng để duy trì, phát triển

và có mối liên kết khăng khít với môi trường làng nghề, thì đòi hỏi cần có sự

kết hợp giữa các yếu tố khác ngoài yếu tố kinh tế như yếu tố dân số, truyền

thống và văn hóa nghề nghiệp, yếu tố đổi mới tư duy và chính sách phát triển

nghề.

Có thể thêm một số công trình khác nữa nhằm có cái nhìn tổng quan về

cấu trúc tổ chức của các làng xã nông thôn Việt Nam nói chung, để từ đó

phản ánh những tác động của cấu trúc làng xã trong các cấu trúc nghề nhiệp

của làng, như tác giả Bùi Quang Dũng với nghiên cứu Nghiên cứu làng Việt:

các vấn đề và triển vọng [27], Trần Từ với nghiên cứu Cơ cấu tổ chức của

làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ [97], Công trình nghiên cứu Sự biến đổi của

làng - xã Việt Nam ngày nay (ở đồng bằng sông Hồng) đã chỉ ra sự biến

chuyển về cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung,

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Đó là, sự biến đổi của xã hội nông

thôn cổ truyền, trong đó có cấu trúc xã hội như là: các quan hệ sở hữu, quan hệ

huyết thống và những quan hệ xã hội khác, đời sống văn hóa, xã hội, phong tục,

tập quán, v.v, đồng thời diện mạo của đời sống văn hóa xã hội ở nông thôn nước

ta hiện nay được phác họa tương đối toàn diện [38]. Đặc biệt cuốn sách do tác

giả Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), (2010), “Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội

Việt Nam hiện nay”, (kết quả nghiên cứu thuộc đề tài khoa học trọng điểm cấp

Nhà nước KX.04.14/06-10 “Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam”). Công trình

này nêu tổng thể về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, thể

hiện trên năm phân hệ cơ bản nhất, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội -

26

nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội -

tôn giáo [89]. Đây thực sự là công trình có giá trị lý luận và thực tiễn, giúp cho

tác giả luận án học hỏi để nghiên cứu các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân

làng nghề.

Tóm lại, các kết quả nghiên cứu của nhóm công trình khoa học này giúp

ích cho tác giả luận án tiếp cận, học hỏi, kế thừa nhất là về phương pháp nghiên

cứu xã hội học nông thôn, đồng thời đã cung cấp một hệ thống các lý luận và

bằng chứng thực tiễn về sự hình thành, phát triển làng nghề truyền thống Việt

Nam, tạo điều kiện cho việc hình thành tư duy và nhận thức về làng nghề, đặc

biệt là quá trình hình thành và phát triển các mô hình sản xuất của làng nghề với

các cấu trúc xã hội - nghề nghiệp mang đặc trưng cho từng giai đoạn, từng mô

hình. Đây sẽ là cơ sở lý luận khoa học cho các nhà nghiên cứu khi xem xét vấn

đề làng nghề truyền thống ở Việt Nam phát triển qua các thời kỳ.

1.4. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - MỨC SỐNG LÀNG NGHỀ

Liên quan tới cấu trúc mức sống làng nghề, có thể tìm hiểu sự hình

thành và phát triển cấu trúc này thông qua các mô hình phân tầng về mức

sống tại nông thôn Việt Nam nói chung và làng nghề tại nông thôn nói riêng.

Mức sống luôn là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự biến đổi

cấu trúc thông qua sự phân tầng giữa các nhóm thu nhập. Nghiên cứu về phân

tầng mức sống của tác giả Lưu Hồng Minh với nghiên cứu Tính năng động

của người dân nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với phân tầng xã hội, đã xét tính

năng động của người dân thông qua sự chuyển đổi lao động nghề nghiệp tại

chỗ và di dân để đánh giá về chất lượng cuộc sống. Từ đó phân chia nhóm lao

động tại nông thôn theo các mức thu nhập khác nhau và theo tính chất nghề

nghiệp khác nhau. Tác giả cũng chỉ ra rằng các ngành nghề trong nông nghiệp

ngày càng đa dạng, chiếm phần lớn thời gian và nhân công tại các vùng nông

thôn, trong đó có các ngành nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, vẫn chưa

27

có dấu ấn rõ nét bởi còn bị ảnh hưởng nặng nề từ tư duy truyền thống đối với

nông nghiệp [60, tr. 84-90]. Tác giả Đỗ Thiên Kính với nghiên cứu Tìm hiểu

phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu

nghèo ở nước ta hiện nay, đã trình bày các hệ thống phần tầng xã hội khác

nhau và đặc trưng về các giai cấp tại các nước trên thế giới và ở Việt Nam qua

các thời kỳ [49, tr.51-58]. Cùng nghiên cứu về nội dung phân tầng, tác giả

Mai Huy Bích với nghiên cứu Lý thuyết phân tầng xã hội và những phát triển

gần đây [8] cũng bổ sung sự đa dạng về lý thuyết phân tầng và sự phát triển

của lý thuyết phân tầng trong thời gian gần đây, thông qua các quan điểm của

các nhà xã hội học như E. Duirkheim, Erik Olin Wright, Coleman. Bài viết

của Trịnh Duy Luân và Bùi Thế Cường Về phân tầng xã hội và công bằng xã

hội ở nước ta hiện nay, các tác giả đã trình bày những đặc trưng cơ bản về

thực trạng phân tầng xã hội và thực hiện công bằng xã hội của Việt Nam, tìm

ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực của

phân tầng xã hội đang diễn ra tại Việt Nam [55, tr.3-11]. Các tác giả phân

chia mức sống của làng, xã thành các nhóm đặc trưng, thể hiện những biến

đổi rõ ràng của các cấu trúc trong làng - xã. Một phát hiện nổi bật trong các

nghiên cứu trên là sự phân tầng xã hội thành các tầng lớp gia đình giàu, khá

giả, trung bình và nghèo luôn gắn liền với hoạt động nghề nghiệp. Trong đó,

những gia đình có mức sống khá giả trở lên thường dựa vào nghề phi nông

nghiệp và những gia đình có mức sống nghèo thường dựa vào nghề nông

nghiệp với diện tích đất nhỏ hẹp.

Tác giả Trịnh Xuân Thắng trong nghiên cứu Bảo tồn và phát triển làng

nghề truyền thống một cách bền vững đã phản ánh sự thay đổi về mức thu

nhập của người lao động làng nghề và những tác động tích cực trong các hoạt

động xuất nhập đạt năng suất cao [90], có thể thấy rằng việc phát triển làng

nghề đúng hướng sẽ tạo ra hiệu quả to lớn trong việc nâng cao thu nhập cho

28

người dân làng nghề về mọi mặt. Tương tự, trong tác phẩm Làng nghề thủ

công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn Vượng, tác giả đã tập trung trình

bày các loại hình làng nghề truyền thống trong quá trình hình thành, phát triển

và thích ứng với nền kinh tế thị trường như: đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm,

trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây

tre đan, ngọc trai [108].

Với khởi nguồn từ học thuyết Marx coi cấu trúc xã hội là cấu trúc giai

cấp với mối quan hệ chủ yếu là đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị

trị, với sự quyết định bởi phương thức sản xuất và trao đổi, Anthony Giddens

đã tiếp tục phát triển với học thuyết về cấu trúc hóa. Theo học thuyết của

Giddens cấu trúc xã hội được tạo ra và liên tục được tái tạo bởi các hành động

của con người và cấu trúc xã hội biến đổi kéo theo chức năng biến đổi với

tính hai mặt tốt hoặc xấu. Từ đó để thấy rằng sự biến đổi trong cấu trúc - mức

sống làng nghề là kết quả hoạt động nghề nghiệp của người dân và các chủ

thể hoạt động nghề nghiệp nhằm đáp ứng chức năng của môi trường kinh tế

của làng nghề sao cho tương thích với các yêu cầu đặt ra từ đổi mới kinh tế

sang cơ chế thị trường [43, tr. 82-91].

Ngoài ra, có thể thêm đề tài như đề tài Nghiên cứu về quy hoạch phát

triển làng nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá, nông thôn ở nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hợp

tác cùng với tổ chức JICA của Nhật, đã điều tra nghiên cứu tổng thể các vấn đề

có liên quan đến làng nghề thủ công nước ta về tình hình phân bố, điều kiện kinh

tế - xã hội của làng nghề, nghiên cứu đánh giá 12 mặt hàng thủ công của làng

nghề Việt Nam. Đặc biệt chú ý tới đề tài Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở

Việt Nam hiện nay: Kết quả nghiên cứu của đề tài KX.02.10 của tác giả Bùi Thế

Cường. Có thể tìm thấy trong nghiên cứu này cơ sở lý luận và phương pháp luận

về biến đổi cơ sở xã hội, khung phân tích về thực trạng xã hội Việt Nam, những

29

biến đổi về xã hội, dân số, văn hóa và bất bình đẳng xã hội, phúc lợi xã hội cùng

các mô hình xã hội và quản lý xã hội với yếu tố xuyên suốt đó là công nghiệp

hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam. Từ đó có thể phân tích trên cơ sở khoa học về

thực trạng mức sống của người dân làng nghề, nguyên nhân của sự thay đổi và

dự báo sự thay đổi tiếp tục trong tương lai [13].

Một nghiên cứu của Bùi Xuân Đính về Làng nghề thủ công huyện Thanh

Oai (Hà Nội) truyền thống và biến đổi đã phân chia mức sống của người dân

làng nghề theo tổ chức của làng nghề thủ công theo đặc trưng chuyên và không

chuyên để từ đó thấy rõ được tầm quan trọng của sự phát triển một làng nghề

chuyên sâu dưới tác động của thị trường nhất là thị trường đầu ra của sản phẩm

[24, tr. 65 - 69]. Giống như P. Gourou đã nhận định: “Với nền kinh tế tiểu nông,

nền đại công nghiệp không có chỗ đứng trong xứ này vì không có thị trường tiêu

thụ” [ 74, tr.487].

Tác giả Nguyễn Thu Minh, Trần Văn Lạng trong tác phẩm Khái quát

một số nét về làng nghề truyền thống tỉnh Bắc Giang đã đưa ra những dấu

hiệu căn bản thể hiện sự thay đổi tích cực đối với cuộc sống của các làng nghề

dưới tác động của các cơ sở vật chất trong từng gia đình và các điều kiện của

thị trường, cụ thể là chợ của từng làng nghề [105, tr. 411-417].

Các tác giả đã đưa ra cái nhìn khách quan về cấu trúc xã hội - mức sống

trong các làng nghề, cho thấy cấu trúc mức sống chịu tác động của các yếu tố

khác nhau và cả các phân hệ cấu trúc xã hội khác của làng nghề.

Có thể thấy nhóm các công trình khoa học vừa nêu ở trên đã tập trung

phân tích thực trạng và những biến đổi của cấu trúc xã hội trong làng nghề ở

Việt Nam. Các nghiên cứu về cấu trúc xã hội - mức sống cho thấy các hệ

thống của phân tầng xã hội về mức sống gắn liền với hoạt động nghề nghiệp

của các cá nhân và gia đình. Các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của các yếu

tố như điều kiện vật chất, đặc điểm gia đình, yếu tố văn hóa, truyền thống

30

nghề nghiệp, yếu tố kinh tế thị trường và cả yếu tố chính sách đối với cấu trúc

xã hội - mức sống của cư dân làng nghề. Các nghiên cứu này gợi mở nhiều ý

tưởng cho việc tiếp tục tìm hiểu quá trình phát triển cấu trúc xã hội làng nghề

tại Việt Nam. Từ sự thay đổi cấu trúc xã hội qua từng thời kỳ có thể nắm bắt

được quy luật và xu hướng phát triển của nó. Từ đó có những định hướng

chính sách sao cho phù hợp và có tác động thúc đẩy các hoạt động, sản xuất

và các yếu tố của cấu trúc xã hội trong làng nghề truyền thống tại Việt Nam.

Tóm lại, kết quả tổng quan các nghiên cứu ở trên tác giải rút ra một số

nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án như sau:

Về mặt lý luận, một số khái niệm về làng nghề đã được nêu ra và làm rõ

từ các góc độ khoa học khác nhau như khái niệm cấu trúc xã hội với các phân

hệ của nó. Chẳng hạn khái niệm cấu trúc xã hội - dân số với quy mô, mật độ,

tuổi, giới tính và trình độ học vấn, cấu trúc xã hội - gia đình thông qua quy

mô gia đình, các thế hệ và các mối quan hệ trong gia đình, cấu trúc xã hội -

nghề nghiệp thông qua đặc trưng quy mô của các mô hình làng nghề như mô

hình gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã. Một số khái niệm có thể là mới đã được

đưa ra phân tích như công ty nghề, phố nghề. Một số yếu tố tác động đến cấu

trúc xã hội đã được chỉ ra và đánh giá như yếu tố truyền thống văn hóa, yếu tố

cơ chế thị trường, yếu tố chính sách của Đảng và Nhà nước giành cho các

làng nghề. Tuy nhiên, các khái niệm nghiên cứu này cần được xem xét, phân

tích từ nhiều góc độ tiếp cận khoa học khác nhau. Do vậy, điều này đặt ra sự

cần thiết phải xem xét các khái niệm về cấu trúc xã hội một cách khoa học

chuyên ngành từ góc độ tiếp cận lý thuyết nhất định mà luận án này muốn thể

hiện rõ, đó là cách tiếp cận lý thuyết xã hội học.

Về mặt phương pháp, đa số các nghiên cứu đều triển khai thu thập các

dữ liệu từ thực tiễn, qua khảo sát từng địa phương cụ thể, nhưng có thể thiếu

tính hệ thống và tập trung nghiên cứu từ cách tiếp cận xã hội học. Mặc dù vậy,

31

các nghiên cứu chưa nói nhiều đến di động xã hội hoặc chưa nghiên cứu về sự

nối tiếp giữa các thế hệ trong làng nghề, hoặc sự biến đổi cấu trúc trong làng

nghề cũng như sự tương tác giữa các phân hệ cấu trúc xã hội trong làng nghề.

Về nội dung nghiên cứu, tất cả những công trình nêu trên đã tiến hành

nghiên cứu làng nghề, làng nghề truyền thống tập trung ở các lĩnh vực chính sau:

Một là, nghiên cứu tổng quan về tình hình hoạt động của công nghiệp

nông thôn; thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển

nông thôn;

Hai là, nghiên cứu về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp và

những vấn đề môi trường tác động đến làng nghề;

Ba là, nghiên cứu về tình hình sản xuất kinh doanh của làng nghề, làng

nghề truyền thống từ lao động, công nghệ, vốn, thị trường tiêu thụ sản

phẩm… trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát

triển nghề, làng nghề và làng nghề truyền thống không đặt ra vấn đề nghiên

cứu về các phân hệ của cấu trúc xã hội làng nghề. Một vài nghiên cứu có thể

đã đặt ra vấn đề phân tích một số phân hệ cấu trúc xã hội nhưng chưa đầy đủ

và nhất là chưa được tiếp cận chuyên sâu từ góc độ xã hội học.

Các nghiên cứu đã phân tích một số yếu tố tác động khác nhau đến cấu

trúc xã hội làng nghề nhưng thiếu những nghiên cứu xem xét toàn bộ các yếu

tố đó theo cách tiếp cận liên cấp từ đặc điểm cá nhân đến đặc điểm gia đình

và đặc điểm của cộng đồng làng - xã đến đặc điểm của kinh tế thị trường và

chính sách phát triển kinh tế xã hội.

Một hạn chế có thể cần nhấn mạnh từ góc độ xã hội học là các nghiên

cứu vừa trình bày ở trên mặc dù đã phân tích khái niệm cấu trúc xã hội ở nông

thôn và làng nghề. Nhưng rất ít nghiên cứu xem xét kỹ cấu trúc xã hội từ góc

độ lý thuyết xã hội học nhất định. Do vậy, luận án này đặt ra nhiệm vụ tìm

32

hiểu và áp dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu

trúc hóa của Anthony Giddens để xem xét các phân hệ cấu trúc xã hội trong

mối quan hệ với các đặc điểm xã hội từ vi mô đến vĩ mô của làng nghề. Luận

án sử dụng quan niệm: cấu trúc xã hội là kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền

vững của các thành phần tạo nên hệ thống xã hội nhất định để tìm hiểu các

phân hệ của nó. Áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott

Parsons, luận án xem xét cấu trúc xã hội với tính cách là kiểu quan hệ của các

thành phần tạo nên các hệ thống xã hội từ vi mô đến vĩ mô. Hệ thống xã hội

vi mô là hệ thống bao gồm các cá nhân do đó cấu trúc xã hội của hệ thống xã

hội vi mô là kiểu quan hệ tương đối bền vững của các cá nhân tạo nên gia

đình, hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh nghề, tổ chức nghề nghiệp.

Các nghiên cứu hiện có về cấu trúc xã hội ở Việt Nam thường tập trung

vào cấu trúc xã hội - mức sống thể hiện ở phân tầng xã hội theo mức sống.

Trên cấp độ vi mô, luận án này sẽ tìm hiểu cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc

xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống

của làng nghề. Đồng thời, luận án này cũng sẽ tập trung nghiên cứu cấu trúc

xã hội - nghề nghiệp: mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề.

Cùng với cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội, luận án áp dụng cách

tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens để xem xét và đánh giá

sự hình thành, vận động, biến đổi và phát triển, tức là quá trình tái cấu trúc,

quá trình cấu trúc hóa của từng loại cấu trúc xã hội. Như đã trình bày ở trên,

lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens cho rằng một cấu trúc xã hội

được hình thành, vận động và liên tục được “cấu trúc hóa” thông qua quá

trình huy động, sử dụng các nguồn lực của các chủ thể hành động theo các

quy tắc nhất định của hệ thống xã hội. Do vậy, việc áp dụng lý thuyết cấu trúc

hóa của Anthony Giddens sẽ giúp phân tích các nguồn lực cùng các quy tắc

pháp quy dưới hình thức các quy định pháp luật và các quy tắc phi chính thức

33

dưới hình thức các quy ước, thói quen của các cá nhân, gia đình mà các thành

phần của cấu trúc xã hội huy động, chia sẻ, sử dụng trong quá trình sản xuất

kinh doanh, sinh hoạt và đó cũng chính là quá trình mà cấu trúc xã hội được

cấu trúc hóa.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề

được phân tích tập trung vào bốn hướng nghiên cứu chính là: hướng nghiên

cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã

hội - gia đình làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - mức sống làng nghề. Tuy

nhiên, các hướng nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề

chưa đi sâu phân tích hoặc phân tích chưa đầy đủ các phân hệ của cấu trúc xã

hội làng nghề và rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học. Các

nghiên cứu hiện có về cấu trúc xã hội, làng nghề như đã phân tích trong

chương 1, đã giúp tác giả luận án có cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu

và gợi ra nhiều ý tưởng nghiên cứu về thực trạng cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.

34

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ

2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

2.1.1. Cấu trúc xã hội

Trong lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam, khái niệm “Social structure”

được dịch là cơ cấu xã hội hoặc cấu trúc xã hội. Đây là một trong những khái

niệm then chốt của xã hội học, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm

khác nhau:

Theo quan điểm của Marx, cấu trúc xã hội chủ yếu là cấu trúc xã hội -

giai cấp với mối quan hệ đấu tranh diễn ra giữa giai cấp thống trị và giai cấp

bị trị, trong đó phương thức sản xuất sẽ quyết định cấu trúc - giai cấp, vì vậy

yếu tố cấu thành nên phương thức sản xuất và sự biến đổi ở phương thức sản

xuất tạo ra sự biến đổi trong cấu trúc xã hội [118, tr.1-7]. Marx nhấn mạnh:

Trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan

hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức là

những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình

độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn

bộ những quan hệ ấy hợp thành cơ cấu kinh tế - xã hội, tức là cái cơ

sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và

chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với

cơ sở hiện thực đó [11, tr15].

V.L.Lênin, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại đã xác định cơ cấu giai cấp

trong xã hội do những quan hệ sản xuất cơ bản quy định và những quan hệ

này tương ứng với trình độ của sự phát triển lực lượng sản xuất:

Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người

khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất

định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thông thường thì

35

những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), đối với

những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã

hội; và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần

của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những

tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của

tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong

một chế độ kinh tế xã hội nhất định [103, tr17-18].

Như vậy, Marx và Lênin quan niệm cấu trúc xã hội chủ yếu gắn với cấu

trúc xã hội - giai cấp, giải thích các quan hệ xã hội dựa trên mối quan hệ giữa lực

lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận

quan trọng cho nghiên cứu giai cấp nông dân và cư dân nông thôn, tức là cần

xuất phát từ hoạt động sản xuất, cấu trúc nghề nghiệp để xem xét cấu trúc xã hội.

Cũng đề cập đến giai cấp trong quan niệm về cấu trúc xã hội, trong

cuốn sách Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội (Qua khảo sát một số tỉnh,

thành phố ở Việt nam), các tác giả viết:

Cơ cấu xã hội là hệ thống chỉnh thể các mối quan hệ xã hội có tác

động qua lại lẫn nhau biểu hiện ra là hệ thống các mối quan hệ

tương đối bền vững giữa các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng

xã hội, các tổ chức, các nhóm xã hội có khả năng xác định hành vi,

hoạt động, vị thế, vai trò của bộ phận cấu thành nên hệ thống xã

hội đó [71, tr31-32].

Ngoài ra, còn có quan niệm cấu trúc xã hội nhấn mạnh đến các kiểu

quan hệ giữa con người với xã hội trong hệ thống xã hội, như quan niệm của

Lê Ngọc Hùng và Lưu Hồng Minh: “Cấu trúc xã hội là hệ thống các mối quan

hệ giữa con người và xã hội, có khả năng xác định các hành vi, hoạt động, vị

thế, vai trò của các cá nhân, các nhóm người tạo nên hệ thống đó” [45,

36

tr.182]. Nhiều tác giả thống nhất coi nhóm xã hội là đơn vị cơ bản để phân

tích cơ cấu xã hội:

Cơ cấu xã hội là mô hình cấu trúc, một chỉnh thể thống nhất,

“động”, tương đối ổn định bao gồm các nhóm xã hội cơ bản (giai

cấp, nghề nghiệp, nhân khẩu, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo) đan kết

vào nhau và được sắp xếp theo cả cấu trúc ngang và cấu trúc dọc

tạo ra bộ khung cho sự vận động và phát triển của xã hội. Những

thành tố cơ bản của cấu trúc xã hội là nhóm, vị thế, vai trò, mạng

lưới và các thiết chế [75, tr.31].

Tóm lại, nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc xã hội hay cơ cấu xã

hội đều giống nhau ở chỗ nhấn mạnh đến các thành phần và các mối quan hệ

xã hội tương đối ổn định của các thành phần tạo nên cấu trúc xã hội nhất định.

Kế thừa các quan niệm hiện có về cấu trúc xã hội, luận án này sử dụng định

nghĩa như sau: Cấu trúc xã hội là các kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền

vững của các thành phần cơ bản; biểu hiện ở một số phân hệ cơ bản. Không

tập trung vào phân tích các thành tố của cấu trúc xã hội, luận án này đặt ra

nhiệm vụ phân tích làm rõ các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề,

đó là các phân hệ cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc

xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống; các thành phần cơ bản của

mỗi phân hệ là tổ chức, nhóm xã hội, các vị thế xã hội, vai xã hội, thiết chế xã

hội, mạng lưới xã hội.

2.1.2. Cư dân

Khái niệm cư dân thường gắn liền với khái niệm con người và được

phân tích trên phạm vi cộng đồng người, cộng đồng xã hội sinh sống tại một

không gian - thời gian xác định. Báo cáo tổng kết kết quả đề tài cấp nhà nước

(KX03/06-10) Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển trong quá trình

37

phát triển đất nước hiện nay, do Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển

đưa ra khái niệm:

Cư dân là cộng đồng người sinh sống được xác định trên cơ sở của

các yếu tố lịch sử, địa lý, quá trình tiếp xúc với thiên nhiên, lao động

sản xuất, nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, các mối quan hệ

gia đình, làng xóm, giữa các nhóm và tầng lớp xã hội trong những

nét khái quát và tương đồng về văn hóa, giá trị [103, tr.36-37].

Khái niệm này đã chỉ rõ, với các đặc tính của mỗi quốc gia, dân tộc,

vùng, miền và thời kỳ khác nhau, đặc điểm, cấu trúc của cư dân luôn chịu sự

chi phối của phương thức sản xuất, trình độ phát triển chung và luôn biến đổi

với các cấp độ biểu hiện cụ thể gắn với vùng, miền và các nhóm xã hội. Song,

khái niệm này có thể chưa đạt đến độ chính xác cao, bởi cư dân có thể là một

người dân chứ không phải là cả cộng đồng.

Ngày nay, cư dân nông thôn nói chung và cư dân nông thôn đồng bằng

sông Hồng nói riêng, không thuần túy là nông dân như thời kỳ trước Đổi mới

nữa. Cư dân có thể là xã viên hợp tác xã hoặc chỉ là một bộ phận của cư dân

như số cán bộ, công chức xã, giáo viên, công nhân … sống ở nông thôn, làm

việc trong hệ thống chính trị hoặc trong nhà máy, xí nghiệp, công ty hay

doanh nghiệp.

Một nghiên cứu đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển và hải đảo

đã đưa ra quan niệm:

Những đặc điểm cư dân bao hàm ý nghĩa của một cộng đồng người

sinh sống trong một khu vực được xác định dựa trên các yếu tố lịch

sử, địa lý, quá trình tiếp xúc với thiên nhiên, lao động sản xuất, từ

đó tạo nên nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, các mối quan hệ

gia đình, xóm làng, giữa các nhóm và tầng lớp xã hội trong những

nét khái quát và tương đồng về văn hóa, giá trị [trích theo 35].

38

Tác giả kế thừa những hạt nhân hợp lý của các khái niệm trên, trong

nghiên cứu này cư dân mỗi vùng, mỗi khu vực nhất định như cư dân nông

thôn, cư dân thành thị, cư dân vùng đồng bằng… cư dân làng nghề đồng bằng

sông Hồng trên cơ sở những nét khái quát, tương đồng và dị biệt nhất định

của các làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.

Trong luận án này, cư dân được hiểu là người dân sinh sống, định cư

tại một khung không gian - thời gian xác định. Cụ thể, cư dân là toàn bộ

người dân gồm các cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức sinh sống và làm

việc tại làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, xã Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ

Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.

2.1.3. Làng nghề

“Làng nghề” hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể hiểu

làng nghề với những quan niệm như sau:

Về mặt pháp lý, theo Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006

của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều

cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư

tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn,

sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau” [10].

Thông tư này cũng chỉ rõ, làng được công nhận là làng nghề phải đạt

03 tiêu chí sau: một là, làng phải có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn

tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hai là, làng phải hoạt động sản

xuất - kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công

nhận; ba là, làng phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước [10]

Tuy nhiên, khái niệm này từ góc độ pháp lý chỉ nhấn mạnh đến các tiêu chí

quản lý hành chính nhà nước, chưa nhấn mạnh đến đặc điểm văn hóa, quan hệ

xã hội, cấu trúc xã hội của dân cư.

39

Từ một góc độ khác, nhấn mạnh yếu tố văn hóa, xã hội của làng nghề,

tác giả Trần Minh Yến cho rằng:

Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu

thành yếu tố làng nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất

định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ

công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế - xã hội và văn hóa

[110, tr.11].

Khái niệm này xác định làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở

nông thôn, đồng thời nhấn mạnh đến nghề nghiệp ở nông thôn ngoài nghề

nông nghiệp còn có một hoặc một số nghề phụ khác với một tầng lớp thợ thủ

công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp.

Về tên gọi của làng nghề, tác giả luận án sử dụng cách gọi kép, tên gọi

cùng lúc mang hai nghĩa, phản ánh nghề thủ công và địa danh, địa chỉ nơi

ngành nghề, người thợ thủ công, cư dân làng nghề làm nghề đó. Cụ thể như

gắn với tên của làng và sản phẩm làm ra trên cơ sở đã được cấp có thẩm

quyền công nhận như làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm (làng Vạn Điểm và sản

phẩm đồ gỗ), làng nghề sơn mài Hạ Thái (làng Hạ Thái, sản phẩm sơn mài).

Trong cuốn sách Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam,

làng nghề được định nghĩa như sau:

Làng nghề là những làng trước đây sống dựa vào nông nghiệp do

điều kiện khách quan nào đó (vị trí địa lý thuận lợi, nghề phụ có thị

trường tiêu thụ trên bình diện vùng, miền …) nên đã chuyển sang

sản xuất các sản phẩm thủ công mang tính chuyên biệt nhưng vẫn

không tách khỏi nông nghiệp. Làng có đội ngũ thợ thủ công chuyên

nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có quy trình, bí quyết làm nghề nhất

định. Những mặt hàng do thợ thủ công sản xuất ra có tính thẩm mỹ

và có thị trường tiêu thụ rộng lớn [105, tr 201- 202].

40

Định nghĩa trên về làng nghề nhấn mạnh yếu tố kinh tế nghề nghiệp,

sản phẩm nghề chuyển từ nông nghiệp sang sản phẩm thủ công, kéo theo sự

xuất hiện đội ngũ thợ thủ công trong một bộ phận cư dân của cộng đồng làng.

Tuy nhiên, định nghĩa này chưa nhấn mạnh đến cấu trúc xã hội như các quan

hệ xã hội của cư dân làng nghề.

Có thể thấy rằng, các quan niệm về làng nghề nêu trên được tiếp cận từ

các giác độ nghiên cứu khác nhau. Song, dưới góc độ xã hội học, luận án này

quan niệm làng nghề là hình thức tổ chức đời sống sinh hoạt, sản xuất của

cộng đồng cư dân ở nông thôn, với đặc trưng là đa số cư dân trong làng cùng

thực hiện một loại hoạt động nghề nghiệp nhất định, để sinh sống và từ đó

hình thành kiểu cấu trúc xã hội đặc trưng bởi hoạt động nghề nghiệp đó. Cụ

thể, làng nghề Vạn Điểm, xã Vạn Điểm, cư dân chủ yếu làm nghề đồ gỗ

(mộc) và sinh sống nhờ nghề nghiệp này, do vậy tác giả có thể gọi ngắn gọn

là làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Làng nghề Hạ Thái, xã Duyên Thái, cư dân chủ

yếu làm nghề sơn mài và sinh sống nhờ vào nghề nghiệp này, tác giả gọi ngắn

gọn là làng nghề sơn mài Hạ Thái.

2.1.4. Một số khái niệm liên quan

Khái niệm hộ gia đình

Trong luận án, tác giả sử dụng khái niệm “hộ gia đình” theo quan niệm

của tác giả Nguyễn Đức Truyến:

Hộ gia đình là một nhóm những người thường có quan hệ gia đình

hoặc đôi khi không có quan hệ gia đình với nhau nhưng cùng sống

chung, cùng sở hữu chung về tài sản và các tư liệu sản xuất, cùng

tham gia các hoạt động kinh tế chung và cùng hưởng thụ những

thành quả sản xuất chung của họ [95, tr.24].

41

Khái niệm phân tầng xã hội

Phân tầng xã hội là một trong những khái niệm cơ bản được các nhà xã

hội học quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế, có nhiều định nghĩa và quan điểm

khác nhau về phân tầng xã hội, như:

Quan niệm của Max Weber

“Phân tầng xã hội bao gồm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp

và coi khía cạnh địa vị kinh tế (hay tài sản) địa vị chính trị (hay quyền lực),

địa vị xã hội (hay uy tín), là các mặt cơ bản cấu thành các tầng xã hội” [trích

theo 84, tr.154].

Talcott Parsons coi: “phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một

hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn

chung về giá trị. Phân tầng xã hội là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã

hội và sự phân hóa của những nhóm xã hội khác nhau” [ trích theo 54, tr.15].

Anthony Giddens, quan niệm: “Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội

thành các tầng lớp, khi nói về sự phân tầng là nói tới bất bình đẳng giữa các

địa vị, vị trí của các cá nhân trong xã hội” [111, tr.280].

Theo tác giả Nguyễn Đình Tấn:

Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp các thành viên trong xã hội thành các tầng xã hội khác nhau. Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín, cũng như khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, trình độ tiêu dùng... [84, tr.156].

Tác giả Trịnh Duy Luân cho rằng:

Phân tầng xã hội là sự phân chia mang tính cấu trúc thành các tầng

lớp, giai tầng xã hội dựa trên các đặc trưng vị thế kinh tế - xã hội

của các cá nhân, trong đó sử dụng đồng thời 3 loại dấu hiệu, tiêu

42

chí: về kinh tế (tài sản, thu nhập), về chính trị (quyền lực, tổ chức),

và văn hóa (uy tín) [54, tr.15].

Theo tác giả Tô Duy Hợp, sử dụng phạm trù “phân tầng xã hội với nội

dung 3 mặt: quan hệ bất bình đẳng về sở hữu, sử dụng, phân phối của cải (tài

sản), đặc biệt là tư liệu sản xuất (ruộng đất, nhà máy, công cụ sản xuất); quan

hệ bất bình đẳng về quyền lực (trong kinh tế, chính trị và văn hóa); và quan hệ

bất bình đẳng về uy tín (kinh tế, chính trị, văn hóa)” [41, tr.47].

Tác giả Lê Ngọc Hùng quan niệm: “Phân tầng xã hội là sự phân hóa xã hội tạo thành các tầng xã hội khác nhau về vị thế xã hội trong cấu trúc xã hội” [47, tr.187-188].

Phân tầng xã hội trong nghiên cứu cấu trúc làng nghề được hiểu là sự phân

chia, sắp xếp thành các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên sự khác nhau về kinh tế

(tài sản, mức sống), về xã hội (uy tín, tài năng), cũng như sự khác nhau về trình độ

học vấn, nghề nghiệp, trình độ tay nghề ...

2.1.5. Các thành phần và một số phân hệ của cấu trúc xã hội cư

dân làng nghề

Trên cơ sở tổng - tích hợp các quan niệm về cấu trúc xã hội, cư dân và

làng nghề, dưới góc độ xã hội học, luận án cho rằng: Cấu trúc xã hội của cư

dân làng nghề đồng bằng sông Hồng là các kiểu quan hệ tương đối ổn định,

có tính khuôn mẫu giữa các thành phần cơ bản cấu thành nên xã hội làng

nghề. Các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề là các tổ

chức, nhóm xã hội cư dân làng nghề, vị thế xã hội cư dân làng nghề, vai (trò)

xã hội cư dân làng nghề, thiết chế xã hội cư dân làng nghề, mạng lưới xã hội

cư dân làng nghề và một số yếu tố khác.

Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề thể hiện qua các phân hệ của nó, gồm:

cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề

nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống. Các phân hệ cấu trúc xã hội này đều có

43

chung một số thành phần cơ bản như là tổ chức, nhóm xã hội, vị thế xã hội,

vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội. Do vậy, khi phân tích các

phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề cần phải tính đến các thành

phần và các mối quan hệ của các thành phần tạo nên từng phân hệ cấu trúc xã

hội. Đồng thời, luận án cũng xem xét với mức độ nhất định các mối quan hệ

của các phân hệ cấu trúc xã hội; mối quan hệ của phân hệ cấu trúc xã hội với

các yếu tố thuộc môi trường xung quanh, trong số đó có yếu tố thuộc biến độc

lập có những ảnh hưởng nhất định đến phân hệ cấu trúc xã hội.

2.1.5.1. Các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề

Nhóm xã hội

Nhóm xã hội cư dân làng nghề là những người có liên hệ với nhau về vị

thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nghề nghiệp

nhất định [45, tr.193].

Trong nghiên cứu này, nhóm xã hội cư dân làng nghề xét theo nhóm

nghề nghiệp gồm có: nhóm hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống, nhóm

hộ gia đình làm nghề truyền thống kết hợp với làm ruộng, nhóm hộ gia đình

không làm nghề truyền thống. Nhóm xã hội người lao động làm nghề là người

trong làng, nhóm những người lao động làm nghề là người ngoài làng. Nhóm

người lao động theo trình độ tay nghề. Nhóm các hộ gia đình làm nghề, nhóm

các công ty, doanh nghiệp làm nghề. Nhóm nghệ nhân, nhóm thành viên hiệp

hội làng nghề. Nhóm những gia đình làm nghề lâu năm, nhóm gia đình mới

làm nghề. Nhóm xã hội theo dòng họ trong làng nghề.

Trong phân hệ cấu xã hội - dân số, luận án quan tâm đến nhóm tuổi,

nhóm giới tính. Nhóm cấu trúc xã hội - gia đình được tìm hiểu thông qua các

nhóm gia đình làm nghề thủ công hay nghề phi nông nghiệp, nhóm gia đình

làm nghề làm ruộng kết hợp với làm nghề truyền thống, nhóm gia đình không

làm nghề truyền thống. Trong cấu trúc xã hội nghề nghiệp luận án tìm hiểu

44

nhóm nghề đồ gỗ, nhóm làm nghề sơn mài. Nhóm mức sống về phân tầng

mức sống theo thu nhập: nhóm giàu, nhóm nghèo.

Vị thế xã hội

Vị thế xã hội cư dân làng nghề là một vị trí mà một người hay một

nhóm người trong mối liên hệ, quan hệ với người khác, nhóm khác trong cấu

trúc xã hội làng nghề, được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của cộng đồng

làng nghề nơi người đó sinh sống [85, tr.45].

Vị thế xã hội cư dân làng nghề chính là vị trí, thứ bậc cao thấp hay

ngang bằng trong tương quan, so sánh với các thành viên khác trong gia đình,

công ty nghề và cộng đồng làng nghề.

Trong luận án này, vị thế xã hội làng nghề chính là vị thế thứ hạng, hay

uy tín của các thành phần cấu trúc xã hội của làng nghề nằm trong tổng thể xã

hội, mức độ cạnh tranh, thương hiệu của sản phẩm làng nghề trên thị trường,

mức độ sản phẩm chứa đựng văn hóa một vùng, cũng như trình độ tay nghề

thợ. Đặc biệt là vị thế của thợ giỏi, nghệ nhân, vị thế của người chủ gia đình,

chủ cơ sở sản xuất. Vị thế xã hội trong cấu trúc xã hội làng nghề quy định thế

và lực của người hay nhóm người nắm giữ vị thế đó và cách ứng xử của cư

dân tức là của người nắm giữ vị thế, cách ứng xử, quan hệ xã hội giữa các

nhóm cư dân làm nghề truyền thống với các nhóm cư dân khác trong làng

nghề.

Phân hệ cấu trúc xă hội - gia đình: vị thế của cư dân trong làng nghề có

thể hiểu là vị trí của từng thành viên trong gia đình như người chủ cơ sở sản

xuất - chủ hộ gia đình, vị thế thành viên của gia đình, cũng như cấu trúc xã

hội giữa các hộ gia đình trong làng nghề…

Phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: vị thế thể hiện như vị thế giám

đốc công ty, doanh nghiệp, vị thế ông chủ, vị thế người lao động làm thuê, vị

thế kế toán công ty làm nghề, hay vị thế thợ chính, vị thế thợ phụ trong quy

45

trình sản xuất ở làng nghề, vị thế giành được như vị thế nghệ nhân là loại vị

thế mà cư dân làng nghề đạt được, được công nhận bằng rất nhiều nỗ lực, đạt

giải sản phẩm dự thi.

Tóm lại, nói đến vị thế xã hội là nói đến vị trí của các thành phần trong

cấu trúc xã hội làng nghề hay cư dân làng nghề; là nói đến vị trí xã hội, thứ bậc

của cư dân, gia đình, nhóm xã hội được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của

cộng đồng làng nghề, đánh giá của xã hội. Luận án cũng xem xét vị thế của các

phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề trong tổng thể cấu trúc xã hội của

làng nghề.

Vai trò xã hội

Hiện nay, vai trò xã hội là khái niệm sử dụng khá thông dụng, tuy nhiên

khái niệm này được tác giả Lê Ngọc Hùng và một số tác giả khác cố gắng sử

dụng “vai xã hội” để nhấn mạnh tính xã hội học của nó trong mối quan hệ với

vị thế xã hội. Luận án này sử dụng khái niệm “vai trò xã hội” tương đương

với khái niệm “vai xã hội”.

Vai xã hội cư dân làng nghề là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa

vụ và quyền lợi gắn với một vị thế của cư dân làng nghề [85, tr.52]. Vai trò là

những hành vi, ứng xử, những khuôn mẫu tác phong hành động mà xã hội

trông đợi ở một người hay một nhóm xã hội cần phải thực hiện trong làng

nghề.

Vai xã hội của cư dân làng nghề trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia

đình, thể hiện như một thành viên trong gia đình đóng nhiều vai xã hội khác

nhau. Cụ thể, một người đóng vai trò chủ hộ gia đình, đồng thời là chủ cơ sở

sản xuất gia đình. Những người này có vai trò định hướng, quyết định loại

hình nghề nghiệp của gia đình, cũng như phương thức làm ăn của gia đình,

hướng dẫn và quản lý thợ, kiểm tra sản phẩm, cũng có khi trực tiếp làm nghề.

Nhiều làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, người chủ hộ gia đình

46

thường là nam giới, người chồng có vai trò chủ đạo, đồng thời là chủ cơ sở

sản xuất hộ gia đình, vai trò quyết định về mẫu mã sản phẩm. Người phụ nữ

thường đóng vai trò người vợ trong gia đình; trong gia đình nghề họ thực hiện

các vai trò như giao dịch với khách hàng, quyết định giá cả, quản lý thu chi,

bên cạnh đó tham gia công việc đồng áng, công việc nội trợ và kèm cặp, dạy

dỗ con cái; trong công tuy nghề. Vai trò của ông, bà trong gia đình có thể là

chỗ dựa tinh thần, người truyền đạt bí quyết, kinh nghiệm thực tế đã từng trải

trong nghề nghiệp, vai trò quyết định đối với những sự kiện quan trọng trong

gia đình, dòng họ như việc hiếu, lễ hội, mừng thọ.

Ở phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: Vai xã hội biểu hiện là của

người giám đốc công ty, doanh nghiệp là tổ chức sản xuất, hoàn thành các

nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, tìm kiếm thị trường, vai trò quyết định,

điều hành mọi hoạt động của công ty, doanh nghiệp để công ty, doanh nghiệp

làm ăn có lãi. Các giám đốc công ty có vai trò thúc đẩy quá trình chuyển dịch

cấu trúc lao động nông thôn, đồng thời tạo công ăn việc làm cho lao động

nông thôn, các hộ gia đình trong làng nghề, cũng như góp phần vào phát triển

làng nghề.

Vai xã hội của người thợ làm nghề là tạo ra những sản phẩm đạt chất

lượng tốt, đẹp về hình thức; làm thuê để kiếm tiền phục vụ cuộc sống của họ,

gia đình của họ đồng thời góp phần quan trọng vào tồn tại và phát triển của

làng nghề.

Vai xã hội của nghệ nhân, thợ giỏi đóng vai trò xã hội rất quan trọng

trong cấu trúc xã hội cư dân làng nghề. Nghệ nhân có vai trò gìn giữ, truyền

nghề và phát triển làng nghề, họ là những người “ưu trội” của làng nghề.

Vai xã hội của hiệp hội làng nghề là tìm các biện pháp để tháo gỡ khó

khăn và xác định hướng phát triển thích hợp cho làng nghề, đồng thời trợ giúp

các gia đình làm nghề, các công ty, doanh nghiệp làm nghề tổ chức kinh

47

doanh trong làng nghề thông qua vai trò tư vấn kinh doanh, đào tạo, nâng cao

kỹ năng quản lý, chuyển giao công nghệ, xây dựng thương hiệu, tham gia các

triển lãm trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu, xúc tiến thương mại và

quan hệ quốc tế, tạo nguồn vốn, hỗ trợ cùng chính quyền địa phương về thủ tục

phong tặng nghệ nhân… cho các làng nghề phát triển bền vững. Hiệp hội làng

nghề còn có vai trò cầu nối giữa các gia đình nghề, các nghệ nhân trong làng

nghề với các cơ quan nhà nước, qua đó phản ánh dư luận xã hội của cư dân

làng nghề đến các cơ quan liên quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng

của hội ngành nghề để họ tin tưởng, hăng say phát triển sản xuất kinh doanh.

Trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, vai trò xã hội được tìm hiểu

thông qua (ông/bà, bố/mẹ, con cái) người có vai trò chính trong các lĩnh vực:

sản xuất kinh doanh, học tập của con cái, định hướng nghề nghiệp, việc hiếu,

hỷ, chuyển đổi nghề nghiệp, công việc dòng họ, của làng. Vai trò của chủ hộ

gia đình được tìm hiểu thông qua việc tự đánh giá của chủ hộ về vai trò của

mình trong gia đình, dòng họ, cộng đồng làng nghề.

Thiết chế xã hội

Thiết chế xã hội cư dân làng nghề là tập hợp tương đối bền vững của

các giá trị, các chuẩn mực quy định, vị thế, vai trò và hành vi, hoạt động của

các cá nhân, nhóm nhằm đáp ứng một hay một số nhu cầu cơ bản của xã hội

làng nghề [1, tr.24].

Thiết chế xã hội cư dân làng nghề không chỉ là mô hình của những

hành vi, mà còn là công cụ để kiểm soát và quản lý xã hội làng nghề. Những

mẫu hình hành động cùng với những quy tắc trong nghề, “điều luật” chuỗi giá

trị, chuẩn mực mà thiết chế xã hội làng nghề căn cứ và thiết lập “điểm mốc”

để điều chỉnh hành vi của con người, ca gợi cái đúng, cái đáng làm, đồng thời

kiểm soát, điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn với thiết chế làng nghề. Nhờ

thiết chế gia đình làng nghề, công ty, doanh nghiệp ở trong làng nghề với

48

những hệ thống chuẩn mực, quy phạm của nó, cư dân làng nghề có thể soi

vào để điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu mà thiết chế

đòi hỏi, mặt khác không làm ảnh hưởng xấu đến quy định của thiết chế. Ngoài

những thiết chế chính trị làng nghề, kinh tế làng nghề, văn hóa làng nghề...

trong xã hội làng nghề còn có cả những thiết chế khác: thiết chế đạo đức nghề

nghiệp, thiết chế dư luận xã hội, thiết chế dạy nghề, truyền nghề được lưu

truyền thể hiện qua phong tục, tập quán, hương ước làng nghề. Có thể thấy

rằng, thiết chế xã hội làng nghề có xu hướng phụ thuộc vào nhau và đều

hướng đến mục tiêu phát triển làng nghề.

Ở phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, thiết chế xã hội thể hiện thông qua

các hệ giá trị, chuẩn mực hôn nhân, gia đình quy định vị thế, vai trò và cách

ứng xử của các thành viên trong gia đình. Ở phân hệ cấu trúc xã hội - nghề

nghiệp, thiết chế xã hội thể hiện thông qua quy định pháp lý về nghề nghiệp

và các quy tắc, quy định, điều lệ và cả những quy phạm bất thành văn của cơ

sở sản xuất kinh doanh và công ty.

Mạng lưới xã hội

Mạng lưới xã hội của cư dân làng nghề thể hiện ở tất cả các phân hệ

như cấu trúc xã hội như: các quan hệ đan chéo từ quan hệ trong gia đình, giữa

các gia đình với nhau; giữa họ hàng, bạn bè, láng giềng, khách hàng, cho tới

các quan hệ với chính quyền địa phương, với ngân hàng, với hiệp hội làng

nghề, với các tổ chức hội như: hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,

hội khuyến học, khuyến nghề... ở cộng đồng làng - xã.

Mạng lưới xã hội của cư dân làng nghề được tạo nên và duy trì với

những lý do chức năng, như sự thuận lợi nghề nghiệp của họ để trợ giúp xã

hội, để thúc đẩy các lợi ích và nhu cầu khác. Thứ nhất, mạng lưới xã hội làng

nghề là các mối tương tác xã hội và trao đổi xã hội, trong đó hệ các giá trị,

chuẩn mực và niềm tin được hình thành, biểu hiện thông qua việc làm nghề.

49

Thứ hai, các thành viên của mạng lưới xã hội đều chia sẻ trách nhiệm, nghĩa

vụ và có những lợi ích ràng buộc lẫn nhau khi theo đuổi những mục đích của

họ, ví dụ làng nghề đồ gỗ có mạng lưới xã hội với những làng nghề đồ gỗ

khác, hoặc các mối quan hệ xã hội như quy trình nhập nguyên liệu gỗ đầu vào

cho đến bán các sản phẩm gỗ đầu ra. Mạng lưới xã hội chứa đựng nguồn vốn

xã hội rất quan trọng và cần thiết cho các thành viên trong cấu trúc xã hội.

Đối với phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mạng lưới xã hội là các

gia đình nghề với công ty, doanh nghiệp làm nghề. Mạng lưới các hộ gia đình

nghề sản xuất theo công đoạn: làng nghề gỗ có mạng lưới hộ gia đình chuyên

đục vi tính, vo trụ, trạm, khảm,... làng nghề sơn mài mạng lưới liên kết giữa

hộ gia đình chuyên bó hom, làm vóc, với hộ gia đình chuyên trang trí, mài và

đánh bóng…

Mạng lưới xã hội cư dân làng nghề thể hiện rõ ở cả mối quan hệ giữa

phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp với các phân hệ khác của cấu trúc xã hội.

Tổ chức xã hội

Tổ chức xã hội là một trong các thành phần của cấu trúc xã hội, “Tổ

chức xã hội là hình thức quan hệ của con người với xã hội, trong đó con

người liên kết với nhau để cùng thực hiện những hoạt động nhất định nhằm

đạt mục tiêu xác định” [45, tr.154].

Luận án này quan tâm, nghiên cứu làm rõ các tổ chức trong các phân hệ

của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, như các tổ chức xã hội, đặc biệt là các

tổ chức liên quan nghề nghiệp trong phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp. Ví

dụ tổ chức Hiệp hội làng nghề, tổ chức công ty nghề và các tổ chức xã hội

khác.

Tổ chức xã hội cư dân làng nghề có các đặc điểm và tính chất của một

nhóm, gồm các bộ phận gắn kết với nhau thành một hệ thống xã hội làng nghề

chỉnh thể; tổ chức xã hội được cư dân làng nghề hình thành để thực hiện một

50

hay một vài mục tiêu xác định, tổ chức là hệ thống hoạt động nhằm vào mục

tiêu xác định, tổ chức là cấu trúc vị thế - vai trò, cấu trúc quyền lực, cấu trúc

phân công lao động xã hội.

2.1.5.2. Một số phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề

Luận án tập trung nghiên cứu một số phân hệ cơ bản của cấu trúc xã

hội cư dân làng nghề để làm nổi bật đặc trưng của xã hội làng nghề.

Cấu trúc xã hội - dân số

Cấu trúc xã hội dân số làng nghề là một trong những phân hệ cơ bản

của cấu trúc xã hội làng nghề. Dưới góc độ xã hội học, cấu trúc xã hội dân số

làng nghề có thể được tìm hiểu thông qua các thành phần hay tiểu cấu trúc độ

tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc. Mỗi tiểu cấu trúc lại có các thành

phần và mối quan hệ giữa các thành phần. Chẳng hạn, cấu trúc độ tuổi cho

biết: trong làng nghề có bao nhiêu nhóm tuổi và nhóm tuổi nào đang đóng

góp chính cho sự phát triển của làng nghề; trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia

đình, những người có độ tuổi cao thì có nhiều kinh nghiệm làm nghề thống,

những người ở độ tuổi trung niên có sức khoẻ tốt, nắm bắt nhanh và áp dụng

cộng nghệ mới vào sản xuất làng nghề. Ở mô hình công ty nghề, lao động đa

số ở độ tuổi tráng niên, còn mô hình gia đình nghề thì có sự đa dạng về độ

tuổi. Cấu trúc giới tính cho thấy, tỷ lệ nam giới và nữ giới của làng nghề,

trong phát triển nghề truyền thống có sự coi trọng nam hay nữ và bí quyết

nghề chủ yếu được truyền dạy cho con gái hay con trai... Cấu trúc giới tính

của lao động ở mỗi làng nghề có sự khác nhau theo tính chất công việc của

từng làng nghề, nhóm nghề, như làng nghề Sơn Mài lao động chủ yếu là nữ, ở

làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lao động chủ yếu là nam. Phân hệ cấu trúc xã hội -

mức sống, cấu trúc giới tính cho biết có sự khác về thu nhập giữa lao động

nam và lao động nữ.

51

Cấu trúc trình độ học vấn cho thấy, cư dân làng nghề được phân chia

vào các nhóm học vấn và trong các nhóm học vấn thì nhóm học vấn nào sẽ

tham gia vào kinh doanh, sản xuất nghề truyền thống. Cấu trúc trình độ học

vấn còn được thể hiện thông qua trình độ tay nghề của người lao động trong

làng nghề và việc định hướng học nghề của gia đình cho con em trong gia

đình làm nghề truyền thống và gia đình không làm nghề truyền thống.

Cấu trúc xã hội - gia đình

Cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề được tìm hiểu thông qua quy mô

gia đình, số thế hệ trong gia đình và thời gian làm nghề của gia đình. Quy mô

gia đình nghề được thể hiện ở số lượng thành viên trong gia đình, số thành

viên tham gia làm nghề, những đặc trưng của mô hình gia đình làm nghề, vai

trò của chủ hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh nghề nghiệp. Số thế hệ

trong gia đình làng nghề biểu hiện ở số thế hệ cùng chung sống trong gia đình

và sự nối tiếp giữa các thế hệ trong phát triển nghề truyền thống của làng

thông qua việc tái tạo, kế tục và phát triển từ thế hệ ông, bà sang bố, mẹ rồi

đến thế hệ con cháu. Thời gian làm nghề của gia đình thể hiện ở số năm làm

nghề và những đóng góp của gia đình đối với sự phát triển của làng nghề theo

thời gian. Phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình cho biết vị thế, vai trò khác nhau

giữa hộ làm nghề truyền thống, hộ không làm nghề truyền thống, hộ kết hợp

giữa làm nghề truyền thống và không làm nghề truyền thống, đồng thời cho

thấy mối quan hệ giữa những hộ gia đình làm nghề và những hộ gia đình

không làm nghề. Nhóm những hộ gia đình làm nghề lâu năm và những hộ gia

đình mới làm nghề truyền thống. Nhóm những hộ gia đình cùng sản xuất một

mặt hàng hoặc nhóm những hộ liên kết để sản xuất một sản phẩm nhất định.

Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

Cấu trúc xã hội nghề nghiệp làng nghề được thể hiện thông qua loại

hình nghề nghiệp của gia đình, tính chất tổ chức nghề nghiệp của gia đình,

52

các tổ chức nghề nghiệp trong làng và trình độ tay nghề của người thợ trong

làng. Loại hình nghề nghiệp của gia đình biểu hiện qua nhóm hộ chỉ làm nghề

truyền thống, hộ làm nông nghiệp kết hợp với nghề truyền thống, hộ gia đình

không làm nghề truyền thống. Sự sắp xếp hộ gia đình trong làng nghề có thể

dựa trên sự phân công lao động theo nhóm nghề nghiệp, theo quy mô sản xuất

hộ gia đình, theo các tuyến dòng họ, hay theo thời gian làm nghề của các hộ

gia đình. Tính chất tổ chức của gia đình làm nghề biểu hiện ở các cấp độ cụ

thể: cấp độ cá nhân người lao động, cấp độ gia đình làm nghề, cấp độ công ty

chuyên sản xuất, kinh doanh sản phẩm làng nghề, cũng như sự hình thành và

phát triển của các công ty trong làng nghề.

Mạng lưới xã hội gia đình làm nghề, công ty làm nghề thể hiện qua mối

quan hệ bên trong và bên ngoài của gia đình, công ty.

Vị thế xã hội của cư dân làm nghề được tìm hiểu thông qua trình độ tay

nghề như: thợ học việc, thợ lành nghề, thợ giỏi, nghệ nhân trong làng nghề.

Tổ chức xã hội của cư dân làng nghề biểu hiện qua hiệp hội làng nghề, chi hội

nghệ nhân giỏi.

Vai trò xã hội của cư dân làng nghề trong cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

còn được tác giả tìm hiểu thông qua chủ cơ sở sản xuất nhận định nghề

nghiệp chính của họ hiện nay được xã hội coi trọng ở các mức độ: từ rất coi

trọng cho đến ít được coi trọng.

Thiết chế xã hội cư dân làng nghề là: chủ trương, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước như Bộ Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp

tác xã, quy định của làng liên quan đến làng nghề.

Cấu trúc xã hội - mức sống

Cấu trúc xã hội - mức sống làng nghề được tác giả luận án này tìm hiểu

qua cách tự đánh giá của chủ hộ gia đình, chủ cơ cở sản xuất. Ở các mức độ

giàu có, khá giả, trung bình và nghèo. Đồng thời tác giả thông qua phiếu thu

53

thập thông tin để tìm hiểu tình hình thu nhập và chi tiêu bình quân một tháng

của chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất. Mức độ chi tiêu của gia đình, công ty trong

một năm như: sản xuất, kinh doanh, đào tạo nghề nghiệp cho lao động, ăn

uống, sinh hoạt, du dịch, giải trí, chữa bệnh, học tập … Vị thế xã hội của làng

nghề được đánh giá thông qua mức độ cạnh tranh (thương hiệu) sản phẩm của

làng nghề trên thị trường. Cấu trúc xã hội - mức sống được đánh giá qua việc

tự đánh giá mức sống của gia đình làng nghề hiện nay, so với 5 năm trước đây

ở ba mức độ tốt hơn, như cũ và kém đi trên những tiêu chí khác nhau như:

việc làm, thu nhập, chi tiêu, nhà ở, nguồn điện, nước sinh hoạt.

Cấu trúc xã hội - mức sống thể hiện ở mạng lưới xã hội của chủ hộ gia

đình, chủ cơ sở sản xuất và tác giả tìm hiểu qua cách đặt câu hỏi, ví dụ: khi

gặp khó khăn, trở ngại trong sản xuất ai là người đầu tiên được ông (bà) ý

kiến, nhờ giúp đỡ: người thân trong gia đình; người có uy tín trong dòng họ;

bạn bè của gia đình; cán bộ Đảng; cán bộ chính quyền; cán bộ các đoàn thể xã

hội... Vai trò xã hội của cư dân làng nghề thể hiện qua việc quyết định đến sản

xuất, kinh doanh.

2.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT

2.2.1. Lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons

Talcott Parsons sử dụng khái niệm cấu trúc và khái niệm hệ thống gần

như tương đương, với nghĩa là hệ thống có cấu trúc và chúng đều có chung

những thành phần nhất định. Khái niệm cấu trúc được nhấn mạnh như một tập

hợp các yếu tố được sắp xếp theo trật tự nhất định, nghĩa là được định hình

vừa độc lập, vừa liên tục trao đổi qua lại với hệ thống môi trường xung quanh.

Parsons xem xét hệ thống trong một không gian ít nhất có ba chiều như

sau: (1) Chiều cấu trúc - hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó. (2) Chiều đa

năng: Hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi, vừa tự trao

đổi với môi trường. (3) Chiều kiểm soát: điều khiển và tự điều khiển.

54

Theo Parsons: “Xã hội là một kiểu hay loại hệ thống xã hội đáp ứng

được tất cả các đòi hỏi chức năng cơ bản của một sự tồn tại lâu bền từ các

nguồn lực bên trong của nó” [trích theo 46, tr.234-235]. “Hệ thống xã hội là

hệ thống của các quá trình tương tác giữa các tác nhân (actors)” [trích theo 46,

tr.234-235] “cấu trúc của hệ thống xã hội về cơ bản là cấu trúc của các mối

quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào quá trình tương tác”, [trích theo 46,

tr.234-235].

Parsons cho rằng, hệ thống xã hội gồm 4 đơn vị [trích theo 46, tr.234-

235]: Một là, động tác xã hội do một người thực hiện và hướng vào một

người hay nhiều người khác như là đối tượng. Hai là, vị thế - vai trò với tính

cách là một tiểu hệ thống có tổ chức của một người hay nhiều người chiếm

giữ những vị thế đã cho và hành động hướng vào nhau theo các xu hướng

tương tác nhất định. Ba là, bản thân tác nhân - người hành động với tính cách

là một đơn vị xã hội, một hệ thống có tổ chức của tất cả các vị thế và vai trò

đặt ra đối với người đó như là một đối tượng xã hội và với tính cách là “tác

giả” của một hệ thống các hoạt động - vai trò. Bốn là, đơn vị tổng hợp, là một

tập thể với tính cách là một tác nhân và một đối tượng.

Tương ứng với bốn đơn vị hệ thống xã hội là bốn loại cấu trúc của các

động tác xã hội, cấu trúc của các vị thế - vai trò, cấu trúc của các tác nhân

hành động và cấu trúc của tập thể.

Để đưa ra thuyết hệ thống xã hội, Talcott Parsons đã vận dụng phương

pháp tiếp cận chức năng. Theo ông, cấu trúc của một hệ thống xã hội là cấu trúc

của các mối quan hệ chức năng giữa bốn tiểu hệ thống, tương ứng với bốn chức

năng cơ bản là: thích nghi (Adaptation, viết tắt là A), hướng đích (Goal

attainment, viết tắt là G), hội nhập (Integration, viết tắt là I) và duy trì các khuôn

mẫu lặn (Latent-pattern maintenance, viết tắt là L) của cả hệ thống (viết tắt là sơ

đồ AGIL); chức năng được xem xét từ góc độ cấu trúc, nghĩa là có thể căn cứ

55

vào sự biến đổi cấu trúc để giải thích những biến đổi chức năng: Tiểu hệ thống

(A) có chức năng cung cấp phương tiện, nguồn lực và năng lượng để thực hiện

các mục đích đã xác định. Trong hệ thống xã hội, đấy chính là tiểu hệ thống

kinh tế. Chức năng đầu tiên của hệ thống là chức năng thích nghi.

Trong nghiên cứu này, làng nghề là một hệ thống cần phải thích ứng để

phù hợp với những đòi hỏi của môi trường bên ngoài làng nghề, đồng thời

đáp ứng những nhu cầu của bản thân làng nghề, tiểu hệ thống kinh tế ở làng

nghề chính là cấu trúc kinh tế làng nghề, kinh tế hộ gia đình làng nghề thể

hiện qua mức sống, thu nhập, chi tiêu của làng nghề. Các nguồn lực kinh tế từ

ngành nông nghiệp, từ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, từ thương mại và

dịch vụ.

Tiểu hệ thống hướng đích (G) đóng vai trò xác định các mục tiêu và

định hướng cho toàn bộ hệ thống vào việc thực hiện mục đích đã xác định.

Tiểu hệ thống hướng đích trong xã hội là hệ thống chính trị với tổ chức đảng

và các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương cùng nhiều cơ

quan quyền lực khác [trích theo 46, tr.237].

Trong nghiên cứu này, tiểu hệ thống hướng đích làng nghề là hệ thống

chính trị cấp xã như UBND xã, Đảng ủy xã, chính quyền thôn, chi bộ thôn,

chi hội phụ nữ, chi hội nông dân, chi hội người cao tuổi, chi hội cựu chiến

binh, chi đoàn thanh niên, hiệp hội làng nghề. Dựa theo mục tiêu đó hệ thống

làng nghề hoạt động theo một quỹ đạo nhất định. Việc duy trì quỹ đạo hoạt

động để đạt tới mục tiêu được điều chỉnh và đo lường bằng các chuẩn mực

hoặc các tiêu chuẩn.

Tiểu hệ thống liên kết (I) thực hiện chức năng gắn kết giữa các cá nhân,

các nhóm tổ chức xã hội, đồng thời kiểm soát xã hội thông qua giám sát, kiểm

tra, điều chỉnh, trừng phạt để giải quyết các quan hệ mâu thuẫn, xung đột

nhằm tạo nên sự ổn định, sự đoàn kết và trật tự xã hội [trích theo 46, tr.237].

56

Chức năng liên kết, hội nhập của làng nghề tác giả vận dụng là khả

năng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cư dân, gia đình, dòng họ, công ty

nghề với nhau. Tiểu hệ thống liên kết làng nghề cùng tham gia với các tiểu hệ

thống hoặc các bộ phận khác nhau của hệ thống làng nghề để đạt mục tiêu, để

thích ứng hoặc duy trì một mô hình văn hoá nào đó. Một hệ thống làng nghề

không thể khép kín, vì nếu khép kín nó sẽ không thu thập được năng lượng và

thông tin từ các hệ thống khác. Nó sẽ dẫn tới hiện tượng bị cô lập và dễ dàng

bị phá vỡ. Do vậy, liên kết trong làng nghề cũng là một chức năng tất yếu và

phổ biến của hệ thống làng nghề.

Để tồn tại một cách ổn định và bền vững, mỗi xã hội cần phải có tiểu hệ

thống bảo tồn (L) thực hiện chức năng khuyến thích, động viên các cá nhân

và nhóm xã hội, đồng thời đảm nhiệm chức năng quản lý và bảo trì các khuôn

mẫu hành vi, ứng xử của các thành viên [trích theo 46, tr.237].

Chức năng khuyến khích, động viên các cư dân và các nhóm xã hội cư

dân làng nghề để thực hiện đúng các khuôn mẫu, hành vi, ứng xử của các cư

dân trong làng nghề trên cơ sở thiết chế, giá trị, chuẩn mực xã hội làng nghề,

cũng như quy định riêng của nghề.

Các tiểu hệ thống trong làng nghề có mối quan hệ qua lại với nhau theo

nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể xã hội làng nghề. Chẳng hạn,

tiểu hệ thống kinh tế làng nghề có mối quan hệ qua lại với nhau và với các

tiểu hệ thống khác của xã hội để lấy nguồn “đầu vào” và cung cấp “đầu ra” là

sản phẩm (đồ gỗ làng nghề Vạn Điểm, sơn mài làng nghề Hạ Thái), hàng hóa,

dịch vụ trong làng nghề.

Các tiểu hệ thống trong làng nghề trao đổi với nhau thông qua một loạt

các phương tiện và công cụ xã hội như: vốn kinh tế, mặt bằng sản xuất, uy tín,

thương hiệu làng nghề, sự ảnh hưởng và sự gắn bó với nghề nghiệp.

57

Việc vận dụng lý thuyết của Parsons về hệ thống xã hội có thể giúp ta

có cách tiếp cận hệ thống tổng quát về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.

Cụ thể là có thể hình dung cả làng nghề là một hệ thống xã hội. Do vậy, làng

nghề với tính cách là một hệ thống xã hội được phân hóa về mặt chức năng

thành bốn tiểu hệ thống là kinh tế, chính trị, pháp luật và văn hóa. Điều này

đòi hỏi nghiên cứu phải trình bày và phân tích cấu trúc xã hội gồm bốn tiểu hệ

thống này của hệ thống xã hội làng nghề.

2.2.2. Lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens

Lý thuyết cấu trúc hoá (theory of structuration) được Anthony Giddens

đưa ra vào những thập niên cuối thế kỷ 20. Theo Giddens, lý thuyết cấu trúc

hóa chủ yếu bắt nguồn từ những nghiên cứu về cấu trúc ngôn ngữ và tập trung

xem xét các quy tắc, chất liệu tạo nên hệ thống xã hội và hệ thống văn hóa.

Giddens sử dụng thuật ngữ “cấu trúc” để chỉ những nguồn lực (resources) và

những quy tắc phái sinh (generative rules) được áp dụng trong hành động và

tạo thành hành động. Giddens đưa ra khái niệm như vậy để chỉ những gì tồn

tại dưới dạng vật chất hay tinh thần mà một cá nhân có thể sử dụng để đạt

được mục tiêu của mình trong quá trình tương tác xã hội. Giddens trình bày

sự phát triển rất phức tạp của một lý thuyết nhị nguyên về cấu trúc, hay lý

thuyết về tính hai mặt của cấu trúc (a duality theory of structure) bao gồm cả

các mối liên kết và những khía cạnh của thực tế xã hội [43, tr.340-342].

Theo Giddens, cấu trúc xã hội định hướng cho hành động xã hội. Trong

khi các hành động diễn ra trong không gian và trong thời gian xác định, cấu

trúc trở nên rõ ràng khi có sự xuất hiện của các mô hình với các yếu tố hành

động. Một khác biệt cơ bản trong lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens là mối

quan hệ giữa cấu trúc và hệ thống xã hội. Như đã được đề cập, khái niệm về

cấu trúc bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau: cấu trúc bao gồm "các quy tắc

58

và nguồn lực" mà các thành viên sử dụng để quản lý trong các tình huống

hành động xã hội và tương tác xã hội.

Tuy nhiên, khi sử dụng các hệ thống xã hội, Giddens đề cập đến các

mối quan hệ cụ thể giữa cá nhân và tập thể. Một hệ thống xã hội có thể được

coi là sự biểu hiện của một cấu trúc xã hội cụ thể. Việc áp dụng các quy tắc,

các nguồn lực của các thành viên liên quan đến việc hình thành và tái hình

thành cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội không bao gồm các mô hình của thực

tiễn xã hội, tạo nên hệ thống xã hội, nhưng bao gồm nguyên tắc để cung cấp

cho các mô hình thực hiện.

Như vậy, hai ý tưởng chính của lý thuyết cấu trúc của Giddens thể hiện

như sau: (1) Cấu trúc được hiểu là tập hợp các quy tắc và các nguồn lực thuộc

về một hệ thống xã hội cụ thể giới hạn và tạo ra hành động cá nhân và (2)

hành động trong một chừng mực nhất định bao gồm việc thực hiện và cập

nhật cấu trúc, góp phần tái khẳng định cấu trúc và biến đổi cấu trúc, để tái tạo

và chuyển đổi hệ thống xã hội [115, tr.970-974].

Thuyết cấu trúc hóa của Giddens đã nhận được rất nhiều luồng quan

điểm trái chiều. Một trong số đó có quan điểm của Sewell, đã tiếp tục và mở

rộng lý thuyết của Giddens và tập trung vào hai khía cạnh: bản chất của quy

tắc đạo đức trong cơ cấu hợp pháp hoá và yếu tố phi vật chất của các nguồn

tài nguyên. Sewell chỉ trích khái niệm Giddens về các quy tắc và chủ trương

thay thế nó bằng “sơ đồ” bao gồm không chỉ quy định chính thức thành lập,

mà là lược đồ, ẩn dụ và giả định bởi các quy định, đó là không chính thức

[trích theo 121, tr.8].

Luận điểm hạt nhân của lý thuyết cấu trúc hoá là con người với tư cách

như là những hành thể (diễn viên, người hành động), luôn tái tạo ra các cấu

trúc xã hội, đồng thời hành động đó của họ bị cấu trúc xã hội quy định. Thông

qua các hành vi, hoạt động của mình, con người tạo dựng, thay đổi những cấu

59

trúc xã hội mà họ là thành viên. Theo Giddens: Cấu trúc bao gồm các khuôn

mẫu hay các mối quan hệ có thể quan sát được trong sự đa dạng khung cảnh

xã hội. Sự cấu trúc hóa diễn ra trong thời gian, không gian và trong suốt cuộc

sống của mỗi cá nhân. Nhờ mặt tích cực của hành động cá nhân mà cấu trúc

xã hội được tái tạo một cách sinh động, liên tục chứ không máy móc.

“Những quy tắc phái sinh” gồm hai loại quy tắc khác nhau là quy tắc

ngữ nghĩa và quy tắc đạo đức. Các quy tắc ngữ nghĩa bao gồm các cú pháp

hay ngữ pháp và toàn bộ các quy tắc có sẵn mà phần lớn được hiểu ngầm

đang cấu tạo nên các diễn ngôn hàng ngày và giúp con người thông hiểu ý

nghĩa của các hành động của nhau [trích theo 43, tr.341].

Theo Giddens, cả quy tắc và nguồn lực đều cần được hiểu như là những

phương tiện, mà với nó, đời sống xã hội được sản xuất và tái sản xuất như là

quá trình hoạt động đang diễn ra và đồng thời, những phương tiện đó cũng

được sản xuất và tái sản xuất bằng chính quá trình hoạt động này. Giddens

cho rằng, đây chính là nghĩa cơ bản của khái niệm “tính hai mặt của cấu trúc”

[112]. Cấu trúc là nguồn phái sinh của tương tác xã hội nhưng nó cũng chỉ có

thể được tạo ra trong chính mối tương tác xã hội đó. Thuật ngữ “Cấu trúc

hoá” được Giddens sử dụng để chỉ quá trình phái sinh, vận động và tái tạo các

hệ thống của mối tương tác xã hội thông qua “tính hai mặt của cấu trúc” hay

“tính nhị nguyên của cấu trúc”. Cấu trúc hoá là quá trình tổng - tích hợp các

quy tắc xã hội và các nguồn lực xã hội mà con người vừa tạo ra và vừa sử

dụng trong đời sống, mà cũng thông qua đó cấu trúc xã hội có ảnh hưởng đến

hành động và được tái tạo, được cấu trúc hóa [trích theo 44, tr.82-90].

Trong trường hợp nghiên cứu ở đây, các quy tắc phái sinh có thể biểu

hiện rõ dưới hình thức các quy tắc nghề nghiệp, quy tắc ứng xử giữa người

với người trong lao động nghề nghiệp đang được áp dụng và chi phối các

hành động của người dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ

60

Thái. Các nguồn lực vật chất, tinh thần và các quy tắc phái sinh đều được sử

dụng trong hoạt động nghề nghiệp của người lao động và trong quá trình đó

cấu trúc xã hội được định hình, vận động và tái tạo không ngừng.

Có thể tìm hiểu cấu trúc xã hội của cả làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và

làng sơn mài Hạ Thái qua những biểu hiện cụ thể của nó ở (1) nhóm và tổ

chức xã hội - nghề nghiệp, cụ thể ở đây là hộ gia đình làm nghề đồ gỗ và làm

nghề sơn mài, công ty chuyên làm đồ gỗ, công ty chuyên sản xuất sơn mài,

trong đó có các vị thế và các vai nghề nghiệp nhất định; (2) các thiết chế xã

hội - nghề nghiệp với các thành phần như các hệ giá trị, các quy tắc và các

chuẩn mực nghề nghiệp mà một phần cơ bản, quan trọng của nó được thể chế

hóa dưới hình thức các quy định pháp luật về nghề nghiệp và một phần khác

không kém quan trọng là các phong tục, tập quán và quy tắc bất thành văn

được các thành viên của làng nghề nắm chắc và áp dụng trong hoạt động nghề

nghiệp của họ.

Để có thể làm rõ các đặc điểm, tính chất và cả sự biến đổi của cấu trúc

xã hội của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, luận án

áp dụng cách tiếp cận lý thuyết vừa nêu để giới thiệu cấu trúc xã hội chung

của cả hai làng nghề này. Sau đó tập trung phân tích hai mô hình để thấy rõ

hai cấu trúc xã hội - nghề nghiệp đặc trưng của làng nghề và cũng thể hiện rõ

xu hướng biến đổi của nó, đó là mô hình cấu trúc xã hội nghề nghiệp của gia

đình (gọi ngắn gọn là mô hình gia đình nghề) và mô hình cấu trúc xã hội nghề

nghiệp của công ty (gọi ngắn gọn là mô hình công ty nghề). Mô hình gia đình

nghề đặc trưng cho cấu trúc xã hội nghề nghiệp truyền thống. Mô hình công

ty nghề đặc trưng cho cấu trúc xã hội nghề nghiệp hiện đại, được hình thành

và tái tạo trên cơ sở các quy tắc trọng lý hóa hành động nghề nghiệp.

61

2.3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ

NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn và nông dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nông dân, nông

thôn, coi trọng vị trí, vai trò của nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp cách

mạng, Người nói: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh

thì nước ta thịnh…”. [61, tr.215.]. “Nông dân là tối đại đa số trong nhân dân

nước ta, là bộ phận chủ chốt trong đội ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp

nhiều nhất trong kháng chiến. Nông dân nói chung ủng hộ chính sách của

Đảng và Chính phủ” [62, tr.458-459]. Để phát huy vị trí, vai trò của nông dân,

nông thôn đối với cách mạng, theo Hồ Chí Minh cần phải quan tâm đến nông

dân, phát huy hơn những thuận lợi mà giai cấp này đã có, đó là: “…ruộng đất

đã về tay nông dân, nông dân đã làm chủ nông thôn, chính sách khôi phục và

phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ rất đúng, kinh nghiệm sản xuất của

đồng bào ta dồi dào... Với những thuận lợi ấy, đồng bào nông dân sẽ phát

triển không ngừng những thành tích đã thu được góp phần vào xây dựng quê

hương đất nước” [63, tr.293].

Bên cạnh đó, khi nói về nông dân, nông thôn, Hồ Chí Minh chú trọng

nhất là vấn đề kinh tế, Người viết: “Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác

nhau”, “trong một làng, nhà thì có nhà giàu, nhà vừa, nhà nghèo. Người thì có

người tốt, người vừa, người kém … Hai hạng trên phải tìm cách giúp đỡ, cảm

hóa hạng thứ ba” [64, tr.100). Hay khi thấy nông dân bỏ ruộng, không chăm

sóc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tác hại của sự việc này: “Một số đồng bào chỉ thấy

lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích cá nhân, không thấy lợi ích

tập thể, cho nên đã bỏ ruộng đi buôn hoặc làm nghề khác, không tham gia chống

hạn. Nông dân phải bám lấy ruộng đất, phải chống hạn, phải tăng gia sản xuất.

62

Nếu bỏ ruộng đi buôn không ra sức chống hạn để hạn hán mất mùa thì mọi

người đều bị đói, người đi buôn cũng không no được” [65, tr.16].

Cũng chính vì quan tâm đến vấn đề kinh tế, phát triển sản xuất của

người nông dân nên trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: “Đảng cần phải có kế

hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao

đời sống của nhân dân” [66, tr 517].

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh vấn đề giáo dục, học

tập của người nông dân, theo Người “Phải học chính trị, học văn hoá, học kỹ

thuật để nâng cao hiểu biết. Bởi vì công nghiệp, nông nghiệp của ta ngày càng

tiến bộ thì người công nhân, người nông dân, người lao động trí óc phải càng

ngày càng tiến bộ mới làm được tốt” [63, tr.413]; nhấn mạnh đến tinh thần

đoàn kết, tương trợ và thi đua với nhau trong sản xuất nông nghiệp: “Nông

dân lao động là người trong một nhà, cho nên các hợp tác xă phải giúp đỡ lẫn

nhau và giúp đỡ các tổ đổi công. Các hợp tác xã và tổ đổi công phải giúp đỡ

những người nông dân còn làm ăn riêng lẻ. Các xã và các huyện phải giúp đỡ

lẫn nhau và thi đua với nhau. Đó là một cách đoàn kết thật sự” [67, tr.66].

2.3.2. Quan điểm của Đảng về phát triển làng nghề

Phát triển làng nghề có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn và phát

huy nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, thúc đẩy phát triển kinh

tế - xã hội nông thôn. Phát triển làng nghề được Đảng ta đặc biệt quan tâm,

nhất là từ khi đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương,

chính sách về phát triển làng nghề.

Quan điểm của Đảng ta về phát triển làng nghề được thể hiện rõ trong

các văn bản Nghị quyết của Đảng, cụ thể: trong Báo cáo của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI của Đảng về Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội

trong 5 năm 1986-1990 đã khẳng định: hiện nay lực lượng tiểu, thủ công

63

nghiệp đang sản xuất khoảng một nửa khối lượng hàng tiêu dùng và còn nhiều

khả năng thu hút hàng triệu lao động… khuyến khích và tạo mọi điều kiện để

phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, sử dụng và đãi ngộ tốt các

nghệ nhân, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế thừa, không để mai một

những ngành, nghề đã có từ lâu đời trong nhân dân [15].

Vấn đề phát triển làng nghề tiếp tục được Đảng ta đưa ra trong Nghị

quyết số 05-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VII: “Phát triển đa dạng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, với quy mô

nhỏ và vừa là chủ yếu. Khôi phục và phát triển các làng nghề…” [16]. Nghị

quyết số 06-NQ/TW, ngày 10-11-1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề

phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng nêu rõ: “Hỗ trợ, khuyến khích sản

xuất và sử dụng các loại máy móc thiết bị cơ khí sản xuất trong nước phục vụ

sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy hải sản. Khôi phục và phát triển các làng

nghề truyền thống” [17]. Đến Nghị quyết số 07-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Đảng ta cho rằng cần phải: “Phát

triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống của từng vùng, mở thêm những

ngành nghề mới; áp dụng công nghệ tiên tiến” [17].

Vấn đề phát triển làng nghề còn được thấy trong Nghị quyết

15/NQ/TW ngày 15-12-2000 của Bộ Chính trị khóa VIII về phương hướng,

nhiệm vụ phát triển Thủ đô trong thời kỳ 2001-2010 đã chỉ rõ “phát triển các

nghề, làng nghề truyền thống… gắn đô thị hóa với xây dựng nông thôn mới

theo hướng văn hóa, sinh thái. Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu

lao động theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp”

[18]; trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII

tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng “Phát huy sức mạnh toàn

dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng

64

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đảng khẳng định phát triển

làng nghề là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn: Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành

nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp,

các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang

khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [19].

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Chuyển nhiều lao động sang khu

vực công nghiệp hóa và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp, các

làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và các dịch

vụ. Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng” [19]; Nghị quyết Hội nghị lần

thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đẩy nhanh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 tiếp tục chủ

trương: “phát triển các cơ sở sản xuất giấy, bột giấy, ván nhân tạo, đồ gia

dụng và thủ công mỹ nghệ bằng gỗ” [20].

Bên cạnh việc phát triển làng nghề, Đảng ta cũng nhấn mạnh đến khắc

phục tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề: “Khắc phục cơ bản nạn ô nhiễm môi

trường ở các làng nghề, các cơ sở công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp đi đôi

với hình thành các cụm công nghiệp bảo đảm các điều kiện về xử lý môi

trường; chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý khối lượng rác thải đang ngày

càng tăng lên” [21].

Phát triển làng nghề đi liền với bảo vệ môi trường được khẳng định rõ

hơn trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Xây dựng nông thôn mới:

Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư.

Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường”

65

[22] và trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020: “Xây dựng

nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và

bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp hóa, dịch vụ và làng

nghề gắn với bảo vệ môi trường” [23].

2.3.3. Chính sách của Nhà nước về phát triển làng nghề

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước ta đã ban hành

nhiều chính sách về phát triển làng nghề. Những chính sách này được thể hiện

trên nhiều khía cạnh thông qua các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của

Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành.

Chính sách về quy hoạch phát triển làng nghề: Nổi bật trong số các

chính sách về quy hoạch phát triển làng nghề phải kể đến Quyết định

132/2000/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24-11-2000 về một số

chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Quyết định chỉ ra,

trong quy hoạch và phát triển các cơ sở ngành nghề nông thôn theo cơ chế thị

trường, đồng thời có quy hoạch các cơ sở ngành nghề truyền thống; Điều 5

của Nghị quyết 66/2006/NĐ-CP: Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và

định hướng phát triển ngành nghề nông thôn dài hạn của cả nước và từng

vùng kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành nghề nông thôn của cả

nước…

Ngoài ra, Quyết định 2636/2011/QĐ-BNN-CB về phê duyệt Chương

trình bảo tồn và phát triển làng nghề của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát

triển nông thôn, ngày 31-10-2011 cũng đã cụ thể hóa nội dung về quy hoạch

phát triển làng nghề. Quyết định có nội dung chỉ rõ: Chương trình bảo tồn và

phát triển làng nghề được xây dựng, triển khai thực hiện phải phù hợp với quy

hoạch phát triển ngành nghề nông thôn; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế

66

- xã hội của địa phương và cả nước, trong đó chú trọng bảo tồn và phát triển

làng nghề, vùng nghề gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu.

Chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng và đầu tư: Quyết định

132/2000/QĐ-TTg đưa ra những quy định cụ thể về chính đất đai, hướng đến

phát triển ngành nghề, làng nghề, đó là: các cơ sở ngành nghề nông thôn đang

sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được UBND cấp có thẩm quyền

(tỉnh, huyện) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư phát

triển sản xuất; hàng năm, theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương, Nhà nước cho phép chuyển một phần diện tích đất

nông nghiệp, lâm nghiệp để phát triển ngành nghề nông thôn.

Về tài chính, tín dụng, đầu tư đối với phát triển làng nghề, Quyết định

132/2000/QĐ-TTg nêu rõ: Làng nghề nông thôn được hưởng ưu đãi đầu tư

theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 08-7-1999 của Chính phủ, quy định

chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số

03/1998/QH10 của Quốc Hội; Cơ quan tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký ưu đãi

đầu tư có nhiệm vụ xác định rõ quyền được hưởng ưu đãi đầu tư của các cơ sở

ngành nghề nông thôn trong giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư; các cơ quan thực

thi tiếp theo có trách nhiệm bảo đảm các quyền đó cho cơ sở ngành nghề nông

thôn, không được đòi hỏi thêm bất cứ thủ tục gì khác.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính còn hướng dẫn những điều kiện cụ thể: Trong

trường hợp cơ sở ngành nghề nông thôn không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay

bằng tài sản cầm cố, thế chấp thì được vay vốn theo quy định về hoạt động bảo

lãnh tài sản của bên thứ ba; được vay vốn của các tổ chức tín dụng dưới hình

thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội theo quy

định tại Điều 26 của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 về bảo

đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo

các tổ chức tín dụng hướng dẫn cơ sở ngành nghề nông thôn biết thủ tục vay

67

vốn đơn giản, thông báo công khai, có hình thức cho vay thích hợp và tạo điều

kiện thuận lợi cho các cơ sở này vay vốn phát triển sản xuất. Ngoài ra, còn có

các Nghị định 66/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định

2636/2011/QĐ-BNN-CB của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thúc

đẩy đầu tư, phát triển làng nghề ở nông thôn.

Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho làng

nghề: Quyết định 132/2000/QĐ-TTg đề ra chính sách đối với lao động, việc

làm và đào tạo người lao động trong các ngành, nghề nông thôn, làng nghề

truyền thống; Nghị định 66/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chỉ thị

đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn

như: Các dự án đầu tư cơ sở dậy nghề nông thôn được hưởng các chính sách về

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định để đào tạo nguồn nhân

lực đối với các ngành nghề cần phát triển theo quy hoạch phát triển ngành nghề

nông thôn; ngân sách địa phương hỗ trợ một phần chi phí lớp học cho các cơ sở

ngành nghề nông thôn trực tiếp mở lớp truyền nghề; Các nghệ nhân ngành

nghề nông thôn tổ chức truyền nghề được thu tiền học phí của học viên trên

nguyên tắc thỏa thuận: được thù lao theo quy định của cơ sở đào tạo khi tham

gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo; được ưu đãi về thuế trong hoạt động truyền

nghề theo quy định hiện hành; Lao động nông thôn khi tham gia học nghề được

hỗ trợ kinh phí đào tạo theo chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động

nông thôn; được vay vốn từ chương trình quốc gia giải quyết việc làm.

Chính sách về phát triển khoa học - công nghệ đối với phát triển các làng

nghề: Quyết định 132/2000/QĐ-TTg, chỉ rõ: Nhà nước có chính sách khen

thưởng và trợ giúp cá nhân, tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu, thiết

kế, cải tiến mẫu mã, tạo dáng sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các hộ gia

đình, cá nhân tổ chức đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn theo quy định của

pháp luật về sở hữu trí tuệ và khoa học công nghệ; Nhà nước khuyến khích cơ

68

sở ngành nghề nông thôn nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công

nghệ tiên tiến để hiện đại hóa sản xuất; Cơ sở ngành nghề nông thôn phải có

biện pháp xử lý chất thải, bảo đảm vệ sinh môi trường, thực hiện việc di

chuyển cơ sở gây ô nhiễm môi trường đến địa điểm thích hợp.

Bên cạnh đó, Quyết định 2636/2011/QĐ-BNN-CB cũng đã cụ thể hóa

hơn chính sách khoa học - công nghệ đối với phát triển làng nghề: Ưu tiên đầu

tư cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công

nghệ để phát triển làng nghề mới trong lĩnh vực bảo quản, chế biến nông, lâm,

thủy sản; khuyến khích và đầu tư hỗ trợ cho các nghiên cứu, thử nghiệm sản

phẩm mới trong các làng nghề; Hỗ trợ kinh phí đối với cơ sở ngành nghề nông

thôn thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ thiết bị để

bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới và xử lý ô nhiễm

môi trường làng nghề.

Chính sách bảo vệ môi trường làng nghề: Trước hết, Luật Bảo vệ môi

trường năm 1993 (sửa đổi năm 2005) quy định: Việc quy hoạch, xây dựng, cải

tạo và phát triển làng nghề phải gắn với bảo vệ môi trường. UBND cấp tỉnh có

trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thống kê, đánh giá mức độ ô nhiễm của các làng

nghề trên địa bàn và có kế hoạch giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường của

các làng nghề trên địa bàn... Ngoài ra, còn có các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có bảo vệ môi trường làng nghề như: Quyết

định 132/2000/QĐ-TTg chỉ rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, chính

quyền địa phương và cơ sở sản xuất về xử lý nước thải, bảo đảm vệ sinh môi

trường, thực hiện việc di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường đến địa điểm quy

định; Nghị định 66/2006/NĐ-CP đã tiến thêm một bước trong chỉ đạo thực hiện

phát triển làng nghề gắn với BVMT, trong đó, nhấn mạnh: quy hoạch tổng thể

phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn với bảo vệ môi trường; Nghị định số

69

67/2003/NĐ-CP ngày 13-6-2003 của Chính phủ về bảo vệ môi trường đối với

nước thải.

Ngoài ra, còn có các chính sách về phát triển kết cấu hạ: Quyết định số

2636/2011/QĐ-BNN-CB về việc phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển

làng nghề; Chính sách về phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, với Quyết

định 132/2000/QĐ-TTg và Nghị định số 66/2006/NĐ-CP… Các Quyết định và

Nghị định phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành và chủ thể

sản xuất kinh doanh trong các ngành, nghề trong làng nghề.

Tóm lại, những văn bản của Đảng và Nhà nước đã được trình bày ở trên,

có thể thấy trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,

chính sách thể phát triển làng nghề và đã mang lại hiệu quả thiết thực cho sự

phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đồng thời phát huy vị thế, vai trò, mạng

lưới xã hội làng nghề. Sự chuyển dịch cấu trúc kinh tế và cấu trúc lao động ở

làng nghề kéo theo sự thay đổi cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2, tác giả luận án đã làm rõ nội hàm và phạm vi của một số khái

niệm cơ bản của đề tài như “cấu trúc xã hội”, “cư dân”, “làng nghề”, “cấu

trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng” cũng như cách vận

dụng trong nghiên cứu luận án. Đồng thời chương 2 thao hóa tác các thành

phần của cấu trúc xã hội (nhóm xã hội, vị thế xã hội, vai trò xã hội, thiết chế xã

hội, mạng lưới xã hội, tổ chức xã hội cư dân làng nghề) và các phân hệ của cấu

trúc xã hội cư dân làng nghề. Luận án cũng phân tích rõ lý thuyết hệ thống xã

hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens, được

áp dụng trong nghiên cứu cấu trúc xã hội cư dân làng nghề. Ngoài ra, một số

quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về làng nghề và phát triển làng

nghề, Tư tưởng Hồ Chí Minh với nông dân đã đưa ra những định hướng quan

trọng để phân tích, đánh giá cấu trúc xã hội cư dân làng nghề hiện nay.

70

Chương 3

THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ

3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG NGHỀ ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

3.1.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Hồng

Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năm 2013 vùng Đồng bằng sông

Hồng có diện tích 21.059,3 km² [29], gồm “11 tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng

Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh” [91]. Dân

số trung bình, năm 2013 vùng này là 20439,4 nghìn người [29]. Về dân tộc đa

số dân số là người Kinh.

Đồng bằng sông Hồng có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã

hội như sau:

Về vị trí địa lý, vùng đồng bằng sông Hồng có tọa độ địa lý:Từ vĩ độ

21°34´B (huyện Lập Thạch) tới vùng bãi bồi khoảng 19°5´B (huyện Kim

Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 107°7´Đ (trên đảo Cát Bà). Phía bắc và

đông bắc là Vùng Đông Bắc (Việt Nam), phía tây và tây nam là vùng Tây

Bắc, phía đông là vịnh Bắc Bộ và phía nam vùng Bắc Trung Bộ [30].

Như vậy, đây là một vùng có vị trí địa chính trị quan trọng của nước ta,

là cửa ngõ ở phía biển Đông, đồng thời là một trong những cầu nối giữa hai

khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Về đặc điểm địa hình, vùng đồng bằng sông Hồng có địa hình tương

đối bằng phẳng, có nhiều sông ngòi tạo thành các hệ thống giao thông thuỷ và

bộ. Theo các nhà địa lý, vùng đất này được bồi đắp qua hàng triệu năm, chủ

yếu bởi 2 hệ thống sông là sông Hồng và sông Thái Bình. Với địa hình như

vậy, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng đã biết dựa vào điều kiện tự nhiên để

khai thác, trồng trọt, chăn nuôi và lựa chọn những ngành nghề phù hợp với

71

từng thời gian, từng khu vực để phát huy nhiều lợi thế của vùng đem lại lợi

ích cho cộng đồng dân cư, đồng thời bảo vệ môi trường.

Về tài nguyên thiên nhiên, vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn tài

nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng. Tài nguyên đất phù sa màu mỡ,

tài nguyên đất sét trắng ở Hải Dương, đá vôi ở huyện Thuỷ Nguyên, tỉnh Hải

Phòng, huyện Kim Môn tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình... Vùng có

nguồn tài nguyên đất nông nghiệp do phù sa của hệ thống sông Hồng và sông

Thái BTnh bồi đắp với diện tích lớn “Hiện có trên 103 triệu ha đất đã được sử

dụng, chiếm 82,48 % diện tích đất tự nhiên của vùng và chiếm 5,5% diện tích

đất sử dụng của cả nước” [30], “Đất đai của vùng rất thích hợp cho thâm canh

lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng có diện tích

trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước với diện tích đạt 1242,9 nghìn

ha” [30].

Về tài nguyên biển, vùng đồng bằng sông Hồng có bờ biển trải dài từ

huyện Thuỷ Nguyên, tỉnh Hải Phòng đến huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Bờ

biển có bãi triều rộng, phù sa dày, thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ hải sản, đồng

thời tạo điều kiện để phát triển du lịch.

3.1.2. Đặc điểm chung cấu trúc xã hội làng nghề đồng bằng sông Hồng

Theo kết quả Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công,

phục vụ công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam từ năm 2002-2004 trong khuôn

khổ hợp tác với tổ chức JICA của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả

nước có khoảng 2.017 làng nghề. Theo Báo cáo kết quả của Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn 5 sau năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày

20/10/2011 về phát triển ngành nghề nông thôn, trên địa bàn cả nước có 4.575

làng, trong đó 3.251 làng có nghề và 1.324 làng nghề được công nhận theo

tiêu chí của Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18-12-2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn. Hàng năm, ngành nghề nông thôn đóng góp

72

đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng GDP; giúp xóa đói giảm

nghèo, tăng thu nhập cho người lao động. Có những làng nghề thu hút trên

60% lao động trong tổng số lao động của địa phương vào hoạt động sản xuất

phi nông nghiệp. Ngoài lao động thường xuyên, các hộ gia đình, cơ sở ngành

nghề còn thu hút thêm từ 2% đến 10% lao động thời vụ. Thu nhập của lao

động làng nghề đạt từ 450.000 đồng đến 4.000.000 đồng/người/tháng, so với

lao động nông nghiệp cao gấp từ 1,5 đến 4 lần.

Về loại hình sản xuất, các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng tùy theo

điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương, đã hình thành và phát triển nhiều

hình thức sản xuất đa dạng. Song tập trung chủ yếu những nhóm ngành nghề

như sau: thủ công mỹ nghệ; chế biến lương thực, thực phẩm; dệt, nhuộm,

thuộc da; gia công cơ kim khí; sản xuất vật liệu xây dựng; chăn nuôi, giết mổ

gia súc; tái chế chất thải và các loại hình khác, trong đó loại hình thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Vùng đồng bằng sông Hồng có 2.433 làng có nghề trên tổng số 4.575

làng của cả nước chiếm tới 53,18% [4].

Về làng nghề ở thành phố Hà Nội, theo số liệu thống kê năm 2009 của

Sở Công thương Hà Nội: Ngày 01-8-2008, tỉnh Hà Tây và 4 xã thuộc huyện

Lương Sơn tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội làm tăng số quận, huyện và diện tích từ 921,8 km2 lên đến hơn 3.300 km2. Số lượng làng nghề ở thành

phố Hà Nội tăng từ 11 làng lên đến 272 làng nghề. Hà Nội hiện có 1.270 làng

có nghề, chiếm 62% tổng số làng nghề của cả nước, tập trung ở một số huyện:

Phú Xuyên (125 làng), Thường Tín (126 làng), Chương Mỹ (174 làng), Ứng

Hòa (113 làng)…

73

3.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN

3.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Thường Tín

Về mặt địa lý - kinh tế, huyện Thường Tín gồm hai miền: miền Đông

của huyện và miền Tây của huyện, giữa là quốc lộ 1A, có đường sắt Hà Nội,

Sài Gòn và quốc lộ 1B. Giới hạn miền Đông là dòng Sông Hồng và miền Tây

là Sông Nhuệ, phía Bắc của huyện là đường tỉnh lộ 71, phía Nam huyện là

tỉnh lộ 73, hai con đường này qua huyện và nối từ đường 22 đến quốc lộ số

1A và đường đê sông Hồng, tạo cho Thường Tín có một hệ thống giao thông

thuận tiện.

Thường Tín ở vị trí cửa ngõ phía Nam của thành phố Hà Nội, lại có các

trục đường giao thông lớn cả đường bộ, đường thủy nên tạo điều kiện thuận

lợi để cư dân phát triển về nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo

dục... mang đặc trưng của một huyện ven đô và nông thôn đồng bằng sông

Hồng.

Theo dữ liệu của UBND huyện Thường Tín, năm 2013: Thường Tín

gồm 28 xã và 01 thị trấn, diện tích khoảng 127,59 km², với số dân khoảng

216.500 người; ở vị trí phía Nam của Thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp với tỉnh

Hưng Yên, phía Tây giáp với huyện Thanh Oai, phía với Nam giáp huyện Phú

Xuyên, phía Bắc giáp với huyện Thanh Trì.

Cấu trúc kinh tế huyện Thường Tín đang chuyển dịch theo xu thế chung

của cả Hà Nội. Theo báo cáo về kinh tế của huyện năm 2013, thì tỉ trọng công

nghiệp và xây dựng chiếm phần lớn với 50,15%, thương mại - dịch vụ chiếm

32,25% và nông nghiệp chỉ còn chiếm 17,6% [98].

Thường Tín có các cụm, điểm công nghiệp phát triển. Đến nay, huyện

đã thu hút 109 doanh nghiệp đầu tư, có 364 hộ sản xuất kinh doanh tại các

cụm, điểm công nghiệp. Huyện quy hoạch hai khu công nghiệp Phụng Hiệp,

Bắc Thường Tín và một cụm công nghiệp Hà Hồi - Quất Động; hoàn thành

74

xây dựng hạ tầng và giao đất nhiều cụm công nghiệp: Liên Phương, Quất

Động, Hà Bình Phương, Duyên Thái …, 4 điểm công nghiệp ở các xã: Vạn

Điểm, Duyên Thái, Ninh Sở, Tiền Phong.

Như vậy, có thể thấy huyện Thường Tín đang phát triển theo hướng

đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ, chuyển đổi tỉ trọng

nông nghiệp sang phát triển tỉ trọng cho các ngành nghề khác tạo ra năng suất

và hiệu quả cao hơn.

Về lịch sử - văn hóa - xã hội. Qua quá trình lao động sản xuất ở nông

thôn, từ thế hệ này sang thế hệ khác, người dân Thường Tín đã xây dựng

được hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn và những công trình văn hóa nghệ

thuật đặc sắc. Theo sách Thường Tín Đất danh hương do Sở Văn hóa thông

tin Hà Tây xuất bản, tính đến năm 2007, Thường Tín có 80 di tích lịch sử văn

hóa được xếp hạng quốc gia và cấp tỉnh. Đặc biệt, các quan hệ xã hội nông

thôn dựa trên các nguồn lực và những quy tắc hữu sinh của mỗi làng nghề dần

dần được định hình.

Qua các thời đại, Thường Tín còn là nơi đã sinh ra nhiều anh hùng dân

tộc và danh nhân của đất nước rất đáng tự hào như: Nguyễn Trãi, Ngô Thì

Nhậm, Lý Tử Tấn ...

3.2.2. Làng nghề ở huyện Thường Tín

Ngoài thời gian làm nông nghiệp, người dân huyện Thường Tín đã sớm

sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ đời sống sinh hoạt, góp phần giúp

Thường Tín trở thành “đất trăm nghề”. Hiện nay, huyện Thường Tín có trên

50 ngành nghề thủ công, mỹ nghệ gồm 126 nghề, trong đó có 46 nghề được

UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và thành phố Hà Nội tặng bằng công nhận là nghề

làng. Cư dân ở các làng nghề của huyện xuất hiện nhiều nghệ nhân, thợ giỏi

được phong tặng.

75

Hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề trong huyện tương đối

ổn định và phát triển. Năm 2013, toàn huyện mở 27 lớp dạy nghề, nhân cấy

nghề cho trên 1.200 lao động và 8 dự án phát triển làng nghề, giải quyết việc

làm cho nhiều lao động nông thôn.

Sự phát triển các làng nghề ở huyện Thường Tín không những đóng góp

các giá trị về mặt kinh tế, mà còn góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa

truyền thống, tạo nên nét đẹp văn hoá - xã hội truyền thống, đồng thời tạo

điểm nhấn quan trọng trong vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và với làng

nghề của huyện Thường Tín nói riêng.

Trong huyện, các làng nghề phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng “ly

nông bất ly hương”. Sự lan tỏa của các làng nghề đã mở rộng quy mô và địa

bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành

nghề khác, góp phần làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và

thương mại, dịch vụ của địa phương.

Nhiều làng nghề có tính chất cổ truyền và nổi tiếng trong nước từ xưa

đến nay như: nghề mây tre đan (xã Ninh Sở), tiện gỗ (xã Nhị Khê), sơn mài

(xã Duyên Thái), thêu ren (xã Thắng Lợi, xã Quất Động, xã Hà Hồi), điêu

khắc (xã Hiền Giang), đồ gỗ (xã Vạn Điểm), đục tượng (xã Hiền Giang),

hương trầm (xã Tự Nhiên), v.v.

3.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA XÃ VẠN ĐIỂM VÀ XÃ DUYÊN THÁI

3.3.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điểm

Xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội nằm ở phía Đông

Nam của huyện Thường Tín, có diện tích 2,97 km². Vạn Điểm có vị trí địa lý

là một trong hai xã cuối của huyện Thường Tín, cách trung tâm huyện 12 km,

cách trung tâm thành phố Hà Nội 31 km, phía Đông giáp thị trấn Phú Minh,

huyện Phú Xuyên, phía Đông Bắc giáp với sông Hồng (khoảng 1 km), phía

76

nam giáp xã Minh Cường, phía Tây giáp xã Văn Tự, phía bắc giáp xã Thống

Nhất đều thuộc huyện Thường Tín.

Xã Vạn Điểm có vị trí giao thông đường bộ và đường thủy rất thuận lợi,

có quốc lộ 1A đi qua, lại có Ga Đỗ Xá (Năm 1913 Pháp xây dựng đường sắt

Hà Nội - Sài Gòn) nên thuận lợi việc giao lưu, buôn bán với các địa phương

khác trong vùng đồng bằng Sông Hồng và các vùng khác trên đất nước.

Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX của Viện Hán nôn xuất

bản năm 1981, Vạn Điểm là một xã thuộc tổng Vạn Điểm, huyện Thượng

Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng, đến thời thuộc Pháp, tổng Vạn

Điểm thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Sau Cách mạng tháng 8 năm

1945, Vạn Điểm có bốn lần tách, nhập và đổi tên, đến năm 1971 xã thuộc

huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (từ năm 2008 thuộc thành phố Hà Nội).

Xã Vạn Điểm có 3 làng (thôn) là: Vạn Điểm, Đặng Xá và Đỗ Xá có

diện tích tự nhiên 297,14 ha, có trên 2.188 hộ gia đình với trên 7.700 nhân

khẩu, có hơn 750 hộ sản xuất đồ gỗ và chế biến lâm sản. Mỗi hộ gia đình

trung bình là 4 lao động làm nghề, tạo công ăn việc làm cho trên 3.000 người

lao động trong xã và các địa phương khác trong vùng đồng bằng sông Hồng.

Những năm 1960 xã Vạn Điểm chuyên sản xuất sơn mài, các mặt hàng

như khung tranh sơn mài, tranh sơn mài, lọ hoa, v.v, chủ yếu bán sang các

nước Xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1985 thì chuyển đổi sản xuất, chế biến gỗ

làm các mặt hàng phục vụ đời sống, sinh hoạt như: như sập ngụ, tủ chè, bàn

nghế, giường, tủ, đồ hồ, v.v, sự chuyển đổi này đã tạo đà cho Vạn Điểm một

diện mạo mới phát triển thành làng nghề đồ gỗ cao cấp (năm 2000, UBND

tỉnh Hà Tây (cũ) cấp bằng công nhận làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm), và được

công nhận là một điểm du lịch văn hoá làng nghề. Quy mô sản xuất lớn hơn

ngày càng lớn, mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại. Hiện nay

xã Vạn Điểm có 37 công ty, doanh nghiệp chế biến lâm sản và có khoảng 500

77

tổ hợp sản xuất tại các hộ gia đình. Các mặt hàng chủ yếu được tiêu thụ trong

nước và một phần xuất khẩu sang nước ngoài. Lao động đánh giấy ráp thu

nhập khoảng 3 triệu đồng/tháng, lao động có tay nghề cao thu nhập trên 5

triệu đồng/tháng.

Bảng 3.1: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của xã Vạn Điểm, năm 2013

Ngành kinh tế Tỉ trọng (%)

Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thương mại, dịch vụ Nguồn thu khác

Tổng giá trị sản phẩm năm (tỷ đồng) 14,73 88,2 60,2 10 173,13 8,51 50,9 34,8 5,79 100 Tổng cộng

Nguồn: Báo cáo UBND xã Vạn Điểm, năm 2013 [99]

Bảng 3.1 cho thấy tổng thu nhập từ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công

nghiệp xã Vạn Điểm năm 2013 đạt 88,2 tỷ đồng, chiếm 50,9 %. Điều đó cho

thấy, sản xuất ngành nghề đồ gỗ mộc cao cấp đang phát triển, do các hộ gia đình

mở rộng sản xuất, đồng thời khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật như máy cưa,

máy đục vi tính vào sản xuất. Trong năm 2013 xã mở 01 lớp khuyến công nâng

cao tay nghề cho người lao động. Kết quả khảo sát 100 hộ gia đình trong xã của

UBND xã Vạn Điểm: thu nhập bình quân đầu ước đạt 22,1 triệu đồng/năm.

Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tác động đến với đời sống của

người dân trong xã, thay bằng nguồn thu nhập từ nông nghiệp thì hiện nay nguồn

thu nhập chính của xã là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch

vụ, tỉ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ càng lớn bao nhiều

thì kinh tế của xã sẽ ngày càng phát triển hơn bấy nhiêu, điều đó thể hiện sự

chuyển dịch tích cực.

Xã Vạn Điểm đang được xây dựng, phát triển kinh tế nông thôn theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, đặc biệt coi trọng phát triển

78

làng nghề là thế mạnh của xã. Sự phát triển kinh tế nông thôn gắn với làng

nghề đã kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực trong xã. Sự quan tâm

của các cấp chính quyền và của người dân trong xã về các lĩnh vực trong xã,

đặc biệt về ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển làng nghề nhằm

giúp cho kinh tế - xã hội của xã ngày một phát triển và ổn định. Làng nghề đồ

gỗ Vạn Điểm có vị thế đứng đầu về kinh tế trong ba làng của xã Vạn Điểm.

3.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Duyên Thái

Xã Duyên Thái thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội - gốc là

thuộc làng Việt cổ, làng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trước Cách mạng

tháng Tám năm 1945, xã Duyên Thái (gồm các xã Duyên Trường, Hạ Thái và

Phúc Am) thuộc tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà

Đông.

Xã Duyên Thái ở vị trí đầu huyện Thường Tín (phía đông bắc huyện),

nằm dọc theo đông quốc lộ 1A, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 16 km về phía

Bắc, cách trung tâm thị trấn huyện Thường Tín về phía Nam 3 km. Phía Bắc

giáp với xã Đông Mỹ và xã Liên Ninh thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, Phía

Nam giáp với xã Văn Bình, phía đông và đông nam giáp xã Ninh Sở và xã Liên

Phương, phía tây giáp xã Nhị Khê là các xã thuộc huyện Thường Tín. Hiện nay

xã Duyên Thái gồm có 3 làng là: Duyên Trường, Hạ Thái và Phúc Am.

Duyên Thái là một xã đông dân cư, tổng diện tích đất tự nhiên gần 4 km2 với dân cư hơn 4.000 người. Diện tích đất canh tác 385,4 ha, bình quân ruộng đất trồng trọt cho một nhân khẩu trực tiếp sản xuất 300 m2, do đặc điểm đồng ruộng cao, trũng đan xen nên trước kia đến 90% diện tích chỉ cấy được

một vụ lúa, đến nay cấy lúa cả hai vụ. Ngoài việc coi trọng nông nghiệp, từ

trước đến nay người dân Duyên Thái còn làm nhiều nghề phụ, phi nông nghiệp

như: đan tre, thợ mộc, thợ nề, thợ in, hàng vàng (làng Duyên Trường và Phúc

Am), nghề sơn mài (làng Hạ Thái) tùy theo độ tuổi, trình độ và sức khỏe của

mỗi nhóm dân cư.

79

Từ những năm 1950, nghề sơn mài truyền thống của xã khá phát triển.

Xã đã thành lập hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Bình Minh, có thời điểm cao nhất

thu hút trên 600 lao động chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nổi tiếng ở các nước

xã hội chủ nghĩa (trước đây). Từ năm 1986, bắt đầu thời kỳ đất nước đổi mới

nghề sơn mài càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, làng nghề đã ứng dụng

công thức mới (đa phần chuyển từ sơn ta sang sơn dầu hạt điều trộn với đất phù

sa sông Hồng). Xã Duyên Thái có ba làng trong đó hai làng Hạ Thái và Duyên

Trường được công nhận là làng nghề (UBND tỉnh Hà Tây công nhận làng Hạ

Thái là làng nghề năm 2001. Làng Duyên Trường năm 2005) [5].

Về cấu trúc kinh tế của xã, bên cạnh sản xuất nông nghiệp, xã chú trọng

kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Bảng 3.2: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của xã Duyên Thái, năm 2013

Ngành kinh tế

Tổng giá trị sản phẩm năm (Tỷ đồng) Tỉ trọng phát triển kinh tế (%)

Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) 26,0 9,16

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 152,1 53,59

Thương mại, dịch vụ 105,7 37,25

Tổng 283,8 100

Nguồn: Báo cáo UBND xã Duyên Thái năm 2013 [101]

Theo báo cáo của UBND xã, năm 2013 thu nhập đầu người bình quân

trong xã ước đạt 20 triệu đồng/người/năm.

Người dân xã Duyên Thái trồng lúa và một số cây nông nghiệp khác với

giá trị sản phẩm cây trồng cao. Năm 2013, tổng sản phẩm kinh tế nông nghiệp

đạt 26 tỷ đồng. Ngoài ra, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng,

thương mại dịch vụ đạt 152,1 tỷ đồng, chiếm 53,59%.

Xã Duyên Thái có những bước chuyển dịch kinh tế đáng kể. Tuy nhiên,

từ năm 2010 trở lại đây, sản phẩm sơn mài của làng nghề giảm, ảnh hưởng

80

đến sự phát triển kinh tế của xã. Mặc dù vậy, các hoạt động trong xã vẫn được

triển khai đảm bảo sự ổn định. Tình hình trật tự an ninh xã hội, đảm bảo an

sinh xã hội, cuộc sống cư dân lành mạnh. Làng nghề sơn mài Hạ Thái có

doanh thu hàng năm ước đạt 70 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cấu

trúc kinh tế xã Duyên Thái.

3.4. CÁC PHÂN HỆ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ ĐỒ

GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI

3.4.1. Cấu trúc xã hội - dân số

3.4.1.1. Cấu trúc xã hội - giới tính

Năm 2013, làng Vạn Điểm có 708 hộ gia đình với tổng dân số là 2.328

người, trong đó là nam chiếm 48,75% (1.135 người), nữ chiếm 51,24% (1.193

người), trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm tới 58,73% tạo ra

nguồn nhân lực khá lớn để làm nghề và phát triển nghề. Làng Hạ Thái có 1.046

hộ gia đình, với tổng số nhân khẩu 3.618 người, với cấu trúc giới tính: nam

chiếm 53,01% (1.918 người), nữ chiếm 46,98% (1.700 người). (Bảng 3.3).

Bảng 3.3: Cấu trúc xã hội - giới tính của cư dân làng nghề

Chung

Giới tính

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số người % Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số người %

Số người %

Nam Nữ Tổng số

1135 1193 2328

48,75 51,24 100

1918 1700 3618

53,01 46,98 100

3053 2893 5946

51,35 48,65 100

Nguồn: Số liệu thống kê của xã năm 2013

Tìm hiểu thực tế tại hai làng nghề, quan niệm của cư dân làng nghề hiện

nay ít có phân biệt giữa con trai và con gái, song có sự phân công lao động tương

đối rõ theo giới tính. Phỏng vấn sâu một chủ hộ gia đình làm nghề cho biết:

Ở làng nghề em, bây giờ quan niệm về sinh con trai hay con gái

không quá nặng nề, con nào cũng cần được ăn, học và rồi có công

ăn việc làm. Anh cứ đi quan sát cả làng em thì thấy, nếu là phụ nữ

81

thì có việc của phụ nữ như đánh giấy ráp, cho đến đứng điều khiển

máy đục vi tính, làm những việc phù hợp với sức phụ nữ, còn nam

giới làm thợ pha gỗ, thợ ngang. Làng mình có nghề nên nhiều nam

giới đến đây làm thợ rồi lấy vợ luôn tại làng nghề”. (PVS, nữ chủ

hộ gia đình, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).

Quan niệm của cư dân làng nghề sơn mài Hạ Thái, vị thế của phụ nữ

trong làng nghề được đánh giá cao. Khi hỏi về vấn đề này, một nghệ nhân

làng nghề sơn mài Hạ Thái cho rằng:

“Phụ nữ ở làng rất được nhân dân coi trọng, bởi nghề sơn mài lao

động nữ làm nhiều hơn nam giới, do vậy họ kiếm tiền chẳng kém gì

nam giới, với tính chịu khó và đôi tay khéo léo, phụ nữ làm nghề

sơn mài rất tốt, hiện nay trong số 4 nghệ nhân của làng được phong

tặng thì có 3 người là nữ”. (PVS, nghệ nhân Nguyễn Thị H, làng

nghề sơn mài Hạ Thái).

Ở cả hai làng nghề tác giả nghiên cứu, người thợ - cư dân làng nghề

đều dạy nghề cho cả con gái, kể cả những người địa phương khác đến học

nghề và làm thợ tại làng. Điều này thể hiện rõ nét qua những công ty nghề,

ngoài địa điểm đặt tại làng nghề, còn đặt ở một số địa phương khác, lấy lao

động ở địa phương đó luôn.

Một số cặp vợ/chồng trong làng nghề xây dựng gia đình trên cơ sở

quen biết qua quá trình học nghề, khi phỏng vấn về hoàn cảnh nào anh/chị

quen biết nhau và trở thành vợ/chồng một Giám đốc công ty TNHH sơn mài

cho biết thêm:

Thời kỳ trước năm 2008, làng nghề sơn Hạ Thái rất phát triển, do

vậy rất nhiều người học nghề sơn mài, lúc đó công ty mình có nhận

thợ về học và làm sơn mài, mình là người dạy vẽ, trong số những

người học thì có vợ mình bây giờ, vợ mình thì bên làng Duyên

82

Trường đến học nghề, có thể nói nhờ việc dạy nghề sơn mài vợ,

chồng mình lấy nhau”. (PVS nam, Giám đốc Công ty TNHH sơn

mài Th-S).

3.4.1.2. Cấu trúc xã hội - độ tuổi

Về độ tuổi của dân số làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài

Hạ Thái được chia thành bốn nhóm tuổi: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm: dưới 15

tuổi có 22,56% ; từ 15-24 tuổi có 350 người, chiếm 15,03; từ 25-55 tuổi có

1017, chiếm 43,69, trên 55 tuổi có 436 người chiếm 18,72; làng nghề sơn mài

Hạ Thái: dưới 15 tuổi có 858 người, chiếm 23,7%; từ 15-24 tuổi có 470

người, chiếm 13,0%; từ 25-55 tuổi có 1673 người, chiếm 46,2%; trên 55 tuổi

có 617 người, chiếm 17,1%. (xem Biểu 3.1).

50

46,2 45,3

45

43,69

40

35

30

25

23,7 23,3

22,56

17,7

20

18,72

13,7

17,1

15,03

13

15

10

5

0

Dưới 15 tuổi

Từ 15- 24 tuổi

Từ 25- 55 tuổi

Trên 55 tuổi

Làng Vạn điểm

Làng Hạ Thái

Chung

Đơn vị: %

Biểu 3.1: Cấu trúc xã hội - tuổi của người dân làng nghề

Nguồn: Số liệu thống kê của luận án, năm 2013.

Có thể thấy rằng, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở cả hai làng khá cao,

làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có 58,72% tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55

tuổi và làng nghề sơn mài Hạ Thái, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55 tuổi

là 59,2%. Cấu trúc xã hội - tuổi của hai làng nghề này là tương đối giống nhau.

83

Như vậy, cả hai làng có một nguồn nhân lực lao động dồi dào, đã tạo điều

kiện cho sẵn sàng cho các hoạt động nghề nghiệp của làng nghề, đồng thời đang

tiếp bước để làng nghề phát triển.

Cấu trúc xã hội - vị thế và vai xã hội của các thành viên gia đình

Tìm hiểu thực tế ở hai làng nghề, tác giả biết được cư dân làng nghề, ngoài

kính nể những người cao tuổi (giá trị trọng người già), thì độ tuổi từ 25-55 cũng rất

được coi trọng. Bởi vì, họ là những người truyền nghề cho con cháu, đồng thời là

những lao động chính trong làng nghề và một số còn là chủ doanh nghiệp giỏi.

Tìm hiểu vị thế, vai trò của thành viên gia đình cư dân làng nghề, kết quả thu

được như sau: Vị thế ông/bà có vai trò quyết định trong các việc của làng, dòng họ -

chiếm 30,5%; việc hiếu - chiếm 21,2%. Vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính

trong sản xuất, kinh doanh - chiếm 93,0%; định hướng nghề nghiệp cho con cái -

chiếm 90,1%; mua sắp các đồ dùng đắt tiền - chiếm 89,5%. Vị thế con cái có vai trò

chủ yếu trong việc học tập (bảng 3.4).

Bảng 3.4: Cấu trúc vị thế - vai xã hội của các thành viên trong

gia đình làng nghề

Đơn vị: %, N=515

Công việc Ông/bà Bố/mẹ

1. Sản xuất, kinh doanh 4,7 93,0 Con cái 2,3

2. Học tập của con cái 4,9 28,2 67,0

3. Định hướng nghề nghiệp cho con/cháu 5,2 90,1 4,7

4. Trong việc hỷ 7,8 62,5 2,7

5. Trong việc hiếu 21,2 77,3 1,6

6. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền 6,6 89,5 3,9

7. Công việc của làng, dòng họ 30,5 67,2 2,3

8. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa 20,4 77,7 1,9

9. Chuyển đổi nghề nghiệp 17,5 76,1 6,4

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

84

Bảng 3.4, cho biết vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính trong hầu hết

các công việc, song trong việc học tập của con cái thì ông/bà và bố/mẹ ưu tiên

quyền quyết định, đồng thời để con cái chủ động trong việc học tập của mình.

Nguồn hỗ trợ khi gặp khó khăn của chủ hộ gia đình chủ yếu dựa vào

người thân trong gia đình - chiếm 32,2% (166/515), người có uy tín trong

dòng họ - chiếm 27,6% (142/155); đặc biệt có đến 14,4% chủ hộ gia đình ý

kiến và nhờ chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội ở làng-xã, điều đó

cho thấy sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội trong hoạt động nghề

nghiệp ở làng nghề có vai trò quan trọng.

Vai trò của chủ hộ gia đình đối với gia đình, dòng họ và cộng đồng,

được chủ hộ gia đình tự đánh giá ở phạm vi gia đình là “rất quan trọng” có tỷ

lệ cao nhất - chiếm 71,1%, vai trò đối với dòng họ - chiếm 16,3% và với cộng

đồng làng nghề - chiếm 14,%.

Vốn xã hội ở làng nghề luận án nghiên cứu, chủ yếu thể hiện ở mạng

lưới các quan hệ gia đình, xã hội mà người lao động dựa vào đó để tìm kiếm

cơ hội việc làm và trợ giúp về tài chính lúc gặp khó khăn. Chẳng hạn những

gia đình thuộc diện khá giả, có thời gian làm nghề nhiều thế hệ, thâm niên

làm nghề lâu năm, chủ hộ gia đình có học vấn cao thì có thể có mạng lưới xã

hội đa dạng và họ sử dụng mạng lưới này cho các mục đích tìm việc làm hay

nguồn tài chính nhiều hơn so với người ở nhóm thấp hơn.

Ngoài ra các gia đình nghề và công ty nghề sử dụng mạng lưới xã hội,

vốn xã hội có được để vận động, tương tác trong hoạt động nghề. Điều này có

thể nhận biết thông qua phỏng vấn sâu một cán bộ xã:

Hiệp hội làng nghề và toàn thể nhân dân làm nghề trong thôn có

vai trò cốt yếu trong tổ chức các sự kiện quan trọng của làng.

Nhiều sự kiện, nhờ có đóng góp về nhân lực và kinh phí của họ mới

thành công (PVS, nữ, cán bộ xã Duyên Thái).

85

Điều này minh chứng cho lý thuyết hệ thống của Parson khi cho rằng

hệ thống xã hội tạo nên những vai trò khác nhau duy trì các mối quan hệ trong

hội trong mạng lưới xã hội.

3.4.1.3. Cấu trúc xã hội - học vấn

Có thể thấy rõ vẫn còn một số lượng không nhỏ lực lượng lao động

trong các làng nghề có trình độ ở mức phổ thông. Chung cho cả hai làng

nghề: trình độ tiểu học là 11,8%; THCS là 39,8%, THPT 33,1% và trình độ

cao đẳng, đại học chỉ có 4,8% (xem bảng 3.5). So với trình độ học vấn chung

của lực lượng lao động cả nước, cấu trúc trình độ học vấn của hai làng nghề là

gần tương đương nhau mặc dù tỉ lệ trình độ cao đẳng, đại học có thấp hơn

chút ít, rất có thể là do mẫu khảo sát có một tỉ lệ lớn những người từ trung

niên trở lên, những người này trước đây không có điều kiện đi học hết trung

học phổ thông hoặc không được học cao đẳng, đại học.

Khảo sát mẫu nghiên cứu 425 chủ hộ gia đình làm nghề thu được kết

quả như sau: trình độ tiểu học có 4%, THCS có 29,9%, THPT có 64%, trěnh

độ trung cấp trở lên có 2,1%. Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình làm nghề

không cao và không đồng đều trong các hộ gia đình. Đa phần những cặp

vợ/chồng ở gia đình làm nghề đều có trình độ học vấn trung bình (chủ yếu

học hết THPT). Điều này được lý giải, do sản xuất hộ gia đình chủ yếu dựa

trên kinh nghiệm và thông qua tự học, nên họ quan niệm không nhất thiết học

đến trình độ trên THPT.

Như vậy, phần lớn nguồn lực của cả hai làng nghề tập trung ở trình độ

trung học cơ sở và trung học phổ thông. Xét ở trình độ học vấn cao đẳng, đại

học thì làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại có tỉ lệ dân số đạt trình độ học vấn cao

hơn so với làng nghề sơn mài Hạ Thái.

Có thể thấy, về mặt trình độ học vấn trong làng nghề chỉ đạt ở mức

trung bình, tức là mặt bằng chung là trung học phổ thông, khi phát triển lên

86

trình độ cao hơn thì ít hơn. Nguồn nhân lực trong làng nghề chưa thực sự

được coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn. Tuy nhiên, nguồn lực này lại

đầu tư để phát triển trình độ tay nghề, để trở thành nhóm thợ giỏi, một số trở

thành nghệ nhân của nghề.

Bảng 3.5: Cấu trúc xã hội - học vấn của cư dân làng nghề

Chung

Trình độ học vấn

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số người 232 884 815 139 258 Tỉ lệ % 9,9 37,9 35,0 6,2 11,0 Làng nghề sơn mài Hạ Thái Tỉ lệ Số người % 13,1 471 41 1483 31,9 1157 4,1 148 9,9 359 Số người 703 2367 1972 287 617 Tỉ lệ % 11,8 39,8 33,1 4,8 10,5

Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Cao đẳng, đại học Chưa đi học và không xác định

5946 3618 100 100 100 Tổng số

2328 Nguồn: Báo cáo thống kê (ước tính) của xã, năm 2013

Khi tìm hiểu về việc học tập và định hướng nghề nghiệp cho con cái, đa

số chủ hộ gia đình trong làng nghề được hỏi trả lời: tùy vào khả năng học tập của

con cái chiếm 59,4% (303/515); học đến cao đẳng, đại học 25,8% (133/515) và

chỉ có 14,8% (76/515) cho học nghề truyền thống của làng ( xem Biểu 3.2 ).

Trong đó, quan điểm của chủ hộ gia đình làng nghề sơn mài Hạ Thái

cho con cái học nghề truyền thống chỉ có 4,5%, song làng nghề đồ gỗ Vạn

Điểm tỷ lệ này có tới 26%. Có thể giải thích sự khác biệt này như sau: nghề

đồ gỗ có khả năng tiếp tục phát triển do nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ của

các hộ gia đình Việt Nam vẫn tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong khi đó nghề sơn mài có thể khó có nhu cầu phát triển như nghề đồ gỗ

bởi vì sản phẩm sơn mài ít là sản phẩm tiêu dùng, sinh hoạt trong các gia

đình. Việc mong muốn cho con vào cao đẳng, đại học cũng là một yếu tố làm

giảm sút động cơ học nghề và làm nghề truyền thống của gia đình.

14,8%

59,4%

25,8%

Học nghề truyền thống của làng

Học cao đẳng, đại học

Tùy khả năng của con cái

87

Biểu 3.2: Định hướng nghề nghiệp cho con cái

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Thực tế cho thấy ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, số các em học sinh thi

đỗ vào các trường cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp thường tìm kiếm được

công ăn việc làm, rồi thoát ly địa phương; còn ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm

số tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp họ lại trở về làng nghề tiếp tục làm

nghề với tư duy của người có trình độ đã được đào tạo. Điều này rất tốt cho

sự phát triển của gia đình và của làng nghề. Khi tìm hiểu vấn đề này, tác giả

nhận được ý kiến của một Giám đốc Công ty đồ gỗ như sau:

Ở đây, rất nhiều người học cao đẳng, đại học xong không tìm được

việc làm ngay, thì trở về làng nghề tiếp tục sản xuất, kinh doanh,

nhưng số đó có tính toán tốt hơn, giao tiếp với khách hàng tốt hơn,

khi tạo dựng được cơ sở thì họ ở lại làm kinh tế gia đình, không có

ý định đi làm ở cơ quan, doanh nghiệp nữa. (PVS nam, Giám đốc

Công ty TNHH đồ gỗ V-Ph).

88

Còn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, qua khảo sát tác giả nhận thấy, đa số

các gia đình trong làng nghề quyết tâm cho con cái học tập để có một nghề

nghiệp nhất định. Họ cho rằng làm nghề sơn mài tương đối vất vả và độc hại.

Đối với nhóm thanh niên ở làng nghề thì cũng có tâm lý đi làm việc gì khác,

nếu không học được nghề khác thì họ mới làm nghề truyền thống của làng.

Tóm lại: Nhóm cư dân được coi trọng trong làng nghề vẫn là các thợ

giỏi, nghệ nhân. Nhiều thợ giỏi, nghệ nhân trẻ đang được phát triển, mặc dù

vẫn phải đối mặt với xu hướng chênh lệch giới tính trong các gia đình làm

nghề. Trong làng nghề có một nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng cho sự phát

triển nghề của làng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong làng vẫn còn hạn chế

nhiều về trình độ học vấn. Do vậy, để phát triển nghề và nâng cao trình độ tay

nghề, cần nâng cao trình độ học vấn của cư dân làng nghề.

3.4.2. Cấu trúc xã hội - gia đình

3.4.2.1.Cấu trúc xã hội - gia đình, theo quy mô gia đình

Quy mô gia đình là đơn vị đo lường dùng để chỉ độ lớn, nhỏ của gia

đình cho thấy số thành viên cùng chung sống trong một hộ gia đình, thông

thường gồm ông/bà, bố/mẹ, con cái và những thành viên khác. Quy mô gia

đình ở đồng bằng sông Hồng nói chung phụ thuộc chủ yếu số nhân khẩu trong

gia đình, trên cơ sở số lượng sinh của các cặp vợ chồng và kiểu sống chung

giữa các thế hệ. Tuy nhiên, thực tế đối với trường hợp hai làng nghề tác giả

nghiên cứu, quy mô gia đình làm nghề còn bị chi phối bởi cách thức tổ chức

lao động trong gia đình.

Kết quả khảo sát cho thấy, có sự đa dạng về số nhân khẩu trong các hộ

gia đình ở làng nghề: có hộ gia đình 1 người, có hộ gia đình 2-3 người, có hộ

gia đình 4-5 người và có cả hộ gia đình trên 6 người. Tỷ lệ hộ gia đình có 4-5

người chiếm 42,6%; hộ gia đình có từ 2-3 người chiếm 39,4%. Quy mô gia

đình giữa hai làng nghề có sự khác biệt về. Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái số

89

nhân khẩu trong hộ gia đình tập trung chủ yếu có 2-3 người chiếm 56,1%; 4-5

người chiếm 40,1%; hộ có 1 người và trên 6 người đều bằng 1,9% (Bảng 3.6).

Song, ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm số hộ gia đình có trên 6 người

chiếm đến 36,5%, cao hơn nhiều so làng nghề sơn mài Hạ Thái. Điều này

được lý giải do các yếu tố kinh tế - xã hội làng nghề và tâm lý xã hội của mỗi

làng nghề khác nhau. Theo truyền thống ở làng nghề sơn mài Hạ Thái quá

trình tách hộ diễn ra thường xuyên, khi bố mẹ xây dựng hạnh phúc cho con

trai hoặc con cái thì sau một thời gian ngắn, bố mẹ cho tách hộ ra ở riêng khỏi

gia đình bố mẹ để những cặp vợ chồng mới cưới trở thành những hộ gia đình

mới. Tâm lý bố mẹ thường muốn sống cùng một trong những người con của

họ, ở làng nghề sơn mài Hạ Thái bố mẹ thường sống với gia đình con trai cả.

Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái mình, gia đình nào có từ hai anh em

trai trở lên khi xây dựng gia đình xong, thì thường bố, mẹ cho ở

riêng để biết lo tính kinh tế, công việc làm nghề cũng bận, nhiều khi

đến nửa tháng mới đến nhà bố, mẹ thăm hỏi. (PVS, nam, 38 tuổi,

gia đình làm nghề Làng nghề sơn mài Hạ Thái).

Bảng 3.6: Cấu trúc xã hội - gia đình theo quy mô của làng nghề

Chung

Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số người trong hộ

16 105 328 259 708 Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ % Số hộ 20 586 420 20 1046

Tỷ lệ % 2.0 39.4 42,6 16,0 100

36 691 748 279 1754 1,9 56,1 40,1 1,9 100 1 người 2-3 người 4-5 người > 6 người Tổng

2,2 14,8 46,5 36,5 100 Nguồn: Số liệu báo cáo UBND 2 xã, năm 2013 Cấu trúc xã hội - gia đình của làng nghề như vậy, cho thấy rõ sự pha

trộn và cùng chung sống của các thành phần gia đình về mặt kinh tế và cấu

trúc, loại hình gia đình. Bên cạnh đó, đa số cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm

90

có tâm lý muốn sống nhiều người cùng một hộ gia đình; mặt khác do cách

thức sản xuất đồ gỗ theo mô hình hộ gia đình phần nào cũng làm cho số nhân

khẩu trong gia đình nhiều hơn.

Thực tế tìm hiểu tại làng nghề, tác giả được biết có nhiều thanh niên

nam giới từ địa phương khác đến làng Vạn Điểm học nghề, làm thợ mộc, rồi

cưới vợ là người làng nghề. Tỷ lệ này chiếm 10% số hộ gia đình làm nghề.

Như vậy, có sự chuyển biến trong quan niệm cư dân làng nghề về việc hôn

nhân - gia đình; nghĩa là vẫn duy trì khuôn mẫu hôn nhân “hướng nội”, hôn

nhân trong nội bộ làng nghề, song đã có đan xen, bổ sung hôn nhân “hướng

ngoại”, người của làng nghề lấy chồng người ngoài làng. Điều này góp phần

làm phong phú, đa dạng cấu trúc xã hội - hôn nhân của làng nghề trong xã hội

đang “mở cửa” hiện nay.

Cùng nói về chủ đề gia đình khi phỏng vấn sâu chủ cơ sở sản xuất đồ

gỗ làng nghề Vạn Điểm được biết:

Số gia đình làng em ở cùng ông/bà khá nhiều, phần thì đất ở làng

không rộng so với các làng khác, ông/bà cũng không có điều kiện

để mua đất thêm cho con cái khi xây dựng gia đình, nên việc ở

chung, ăn chung là bình thường, hơn nữa công việc làm mộc suốt

ngày bận rộn nên ở cùng ông/bà có rất nhiều thuận lợi, ông bà nấu

cơm và trông nom các cháu, xưởng nhà em ở đây chủ yếu là dành

cho thợ, còn các cháu ở trong nhà trong làng cùng ông/bà. (PVS,

nữ, gia đình làm nghề đồ gỗ, làng nghề Vạn Điểm).

3.4.2.2. Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề

Đối với gia đình nghề, những người thợ làm nghề phần lớn là các thành

viên của gia đình như bố, mẹ, con trai, con gái ở độ tuổi lao động trong gia

đình, tức là các thành viên của gia đình đều có thể tham gia vào một hoặc

nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề nghiệp tùy theo trình độ tay nghề, giới

91

tính để làm những công việc phù hợp. Trong đó, thường chủ hộ gia đình là

người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành và giao dịch với

khách hàng và bạn nghề, gia đình nghề khác trong làng. Qua khảo sát cho

thấy, số người làm nghề truyền thống trong gia đình như sau: đa số có 2 người

làm nghề - chiếm 60,3%; 3 người làm nghề - chiếm 22,3%. Về cấu trúc nguồn

nhân lực của các gia đình làm nghề có sự khác nhau giữa hai làng nghề (xem

Bảng 3.7).

Bảng 3.7: Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề

Chung

Tỉ lệ %

Tỉ lệ %

Tỉ lệ %

Loại hộ gia đình theo số người làm nghề

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số lượng 29 284 133 52 37 535 5,4 53,0 24,8 9,8 7,0 100 Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số lượng 45 576 185 71 12 889 5,1 64,8 20,8 8 1,3 100

Số lượng 74 860 318 123 49 1424

5,2 60,3 22,3 8,6 3,6 100 1 người 2 người 3 người 4 người 5 người Tổng

Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013

Như vậy, bảng 3.7 cho thấy cấu trúc - xã hội của gia đình nghề ở làng

nghề đồ gỗ Vạn Điểm trong đó cấu trúc gồm 2 người chiếm 53,0%; cấu trúc

gồm 3 người làm nghề chiếm 24,8% và chỉ có 5,4% số gia đình có 1 người làm

nghề. Đặc biệt, có 16,8% số hộ có 4-5 người làm nghề. Ở làng nghề sơn mài Hạ

Thái cấu trúc này có tỷ lệ như sau: có 2 người làm nghề là 64,8%, có 3 người

làm nghề là 20,8% và chỉ có 5,1% số hộ có 1 người làm nghề. Số gia đình có 4-5

người là 9,3%. Các số liệu này chứng tỏ cấu trúc xã hội - gia đình nghề có quy

mô lao động rất nhỏ bé và phù hợp với loại gia đình hạt nhân ít người.

Việc phân công lao động của các thành viên trong gia đình làm nghề

đương đối ổn định, đồng thời tạo nên công bằng giới giữa vợ và chồng trong gia

đình. Thông thường, người chồng làm những công việc cần có sức lực hơn, còn

92

người vợ làm công việc nhẹ nhàng hơn. Khi phỏng vấn sâu một gia đình làm

nghề đồ gỗ, được biết:

Các công đoạn sản xuất từ đầu vào đến đầu ra chủ yếu là người

chồng làm, còn ở các hộ trong làng thì thường là chồng làm, vợ đánh

giấy ráp. (PVS nữ, 1980, gia đình làm nghề, làng Vạn Điểm).

Khi tìm hiểu về chủ đề này, một hộ gia đình chuyên làm vóc cho công

nghề ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, cho biết một cách phân công lao động - hợp

tác bình đẳng có thể chấp nhận được:

Khi có hàng nhiều hoặc vội hàng, hai vợ chồng em có hôm làm vóc

đến tận 10 giờ đêm mới kịp để trả hàng, công việc vất vả nhưng đổi

lại làm nhiều thì gia đình lại có tiền công nhiều nên gia đình cảm thấy

chấp nhận được. (PVS, nam, 40 tuổi, chủ gia đình chuyên làm vóc,

làng Hạ Thái).

3.4.2.3. Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề

Về số thế hệ làm nghề truyền thống trong các gia đình nghề, tác giả

phát hiện thấy cấu trúc xã hội chủ yếu là gia đình 2 thế hệ, điều này có nghĩa

là nghề nghiệp được tái tạo, kế tục và phát triển từ thế hệ bố/mẹ sang thế hệ

con. Thực tế ở hai làng nghề, chủ sơ sở sản xuất hiện nay đa phần đã được

tiếp cận với nghề từ những năm học trung học phổ thông. Gia đình bố/mẹ làm

nghề nên khi đó ngoài thời gian đi học họ tiếp cận với nghề thông qua việc

đánh giấy ráp (làng nghề đồ gỗ), làm vóc, mài, đánh bóng (làng nghề sơn

mài) hoặc làm những việc nhẹ nhàng.

Do vậy, đến nay đa số chủ sơ sở sản xuất đều có trình độ tay nghề giỏi do

được học hỏi, tiếp thu nghề từ thế hệ bố mẹ. Điều đó, thể hiện sự tái cấu trúc xã

hội nghề nghiệp này từ thế hệ trước, họ kế thừa những kinh nghiệm, phương

thức sản xuất, những quy tắc trong nghề, đồng thời bổ sung những phương thức

mới giúp việc sản xuất kinh doanh tốt hơn. Số hộ gia đình 2 thế hệ ở làng nghề

93

đồ gỗ Vạn Điểm có tới 85% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng làm nghề, như vậy có

sự tiếp nối nghề truyền thống của làng (xem bảng 3.8).

Bảng 3.8: Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề

Chung

Số hộ Tỉ lệ %

Loại hộ gia đình Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số hộ Tỉ lệ % Số hộ Làng nghề sơn mài Hạ Thái Tỉ lệ %

197 1105 122 1424 48 454 33 535 8,9 85.0 6,1 100 149 651 89 889 16,8 73,2 10 100 13,8 77.6 8,6 100 Một thế hệ Hai thế hệ Ba thế hệ Tổng

Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013.

Phỏng vấn sâu một cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết rõ mô

hình cấu trúc xã hội - hai thế hệ nghề của gia đình nghề như sau:.

Nhìn chung, ở làng nghề hiện nay, hầu hết gia đình nào mà ông chủ

quê ở đây, sinh những năm 1970 làm nghề mộc thì trước kia đều

làm cùng bố/mẹ, đến khi lập gia đình riêng thì vẫn làm nghề, bố/mẹ

cũng vẫn làm nghề, có thể gọi là nghề gia truyền cũng được. (PVS

nữ, 1980, gia đình làm nghề, làng Vạn Điểm).

Với truyền thống làng nghề sơn mài Hạ Thái, nghề nghiệp này được

lưu truyền qua nhiều thế hệ: có đến 73,2% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng làm

nghề, 10% hộ gia đình có 3 thế hệ cùng làm nghề, còn lại 16,8% số hộ có 1

thế hệ.

Hiện nay, đa số gia đình nghệ nhân ở làng nghề sơn mài Hạ Thái đều có 2

hoặc 3 thế hệ cùng gắn bó với nghề sơn mài như: gia đình nghệ nhân Nguyễn

Thị Hồi, gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Nhì, gia đình nghệ nhân Đỗ Văn

Thuân, v.v. Các nghệ nhân đã trên 55 tuổi hiện vẫn đang tiếp tục tham gia vào

quá trình phát triển làng nghề truyền thống trong địa phương và truyền lại cho

các thế hệ sau. Phỏng vấn sâu một Giám đốc công ty sơn mài, cho biết rõ đặc

trưng truyền thống gia đình nghề, hay nghề “gia truyền” này như sau:

94

Từ đời ông nội mình đã khai trương ra nghề sơn mài, nghĩa là khi

đó các cụ là những người thợ sơn mài, nhưng không mang tính chất

như bây giờ, hơn nữa khi đó là thời kỳ Pháp thuộc, các cụ chủ yếu

là làm đồ thờ cúng, đình chùa, sơn son thếp vàng hoặc làm các

hoành phi, câu đối, anh thấy các cụ kể lại là: năm 1954 các cụ rủ

nhau thành lập hợp tác xã sơn mài… tiếp đến đời bố mình là một

trong những người đầu tiên đưa chất liệu mới (bột giấy) vào sơn

mài của làng nghề Hạ Thái, mẹ mình là nghệ nhân sơn mài, năm

nay đã hơn 70 tuổi nhưng cụ vẫn say mê với nghề. (PVS nam, Giám

đốc Công ty TNHH sơn mài Th-S).

Trong các gia đình có từ hai thế hệ làm nghề trở lên, thế hệ sau tỏ ra rất

tự hào vì cha/ông họ đã để lại cho họ một nghề nghiệp tạo nên thu nhập chính

trong gia đình, bên cạnh nghề nông nghiệp.

Về mạng lưới xã hội trong cấu trúc xã hội - gia đình, tác giả tìm hiểu

qua câu hỏi: Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường ý kiến của ai

đầu tiên? Kết quả thu được cho biết: người được chủ cơ sở sản xuất ý kiến thứ

nhất người thân trong gia đình, chiếm 32,2% (166/515); thứ hai người có uy tín

trong dòng họ, có 27,6% (142/515); thứ ba các cán bộ, chính quyền, có 14,4%

(74/515) và tự chủ hộ cơ sở sản xuất, có 20,4% (105/515). Như vậy, trong cộng

đồng làng nghề, quan hệ gia đình, vai trò dòng họ vẫn được cư dân coi trọng và

phát huy nhiều nhất.

Tóm lại, trong các làng nghề vẫn có sự lưu truyền nghề truyền thống

qua các thế hệ, mặc dù đã có sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với

quy mô gia đình, khiến quy mô gia đình nhỏ đi và ít thế hệ, nhưng giữa các

thế hệ vẫn có mối liên hệ chặt chẽ, nhất là quan hệ “di truyền xã hội - nghề

nghiệp” từ thế hệ trước cho thế hệ sau trong hệ thống cấu trúc xã hội - gia

đình nghề.

95

Về vấn đề giới của làng nghề, mô hình nữ quyền hay nam quyền được

hình thành chủ yếu dựa trên mức độ lành nghề trong gia đình. Nam/nữ ở làng

nghề có thể kết hôn với người ngoài nghề, nhưng sau đó tất cả các thành viên

của gia đình lại cùng nhau phân công và hiệp tác một cách phù hợp để cùng

phát triển nghề truyền thống của gia đình. Điều đó khiến cho các ngành nghề

truyền thống được phát triển và lưu truyền qua nhiều thế hệ trong làng nghề.

3.4.3. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái đều nổi

tiếng cả trong nước và nước ngoài, bởi hai làng nghề đã đưa ra thị trường các

sản phẩm đồ gỗ và sơn mài có giá trị rất cao.

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm chuyên về đồ gỗ cao cấp, ngoài thị trường

trong nước, còn xuất khẩu đi các nước Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn

Quốc, v.v. Mỗi gia đình làm nghề đồ gỗ trong làng thường có những “bàn tay

tài hoa”, sức sáng tạo phong phú riêng đã làm ra những sản phẩm đặc trưng

của mỗi gia đình từ chủng loại như nội thất văn phòng, nội thất phòng khách,

nội thất phòng thờ, v.v, hoặc làm theo yêu cầu hoặc trên cơ sở các loại gỗ tự

nhiên khác nhau như: gỗ Hương, gỗ Gụ, gỗ Mun, gỗ Sơn huyết, v.v, đến gỗ

Nu, Nghiến, tạo nên chất lượng tốt, sự đa dạng về mẫu mã, sức cạnh tranh

cao, đồng thời là điểm du lịch văn hóa làng nghề. Theo ông Chủ tịch Hiệp hội

làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm cho biết: để hoàn thiện một sản phẩm như ghế, tủ,

sập cần nhiều công đoạn mộc: pha, cắt, bào, chàng, đục đối với các loại gỗ

quý hiếm này. Tiếp đó, là đến công đoạn chạm khắc gỗ và khảm là những nét

tinh tế thể hiện bằng đôi bàn tay khéo léo, tạo nên những hình khối, dáng vẻ,

nét trang trí hoa văn độc đáo, sống động và gần gũi với đời thường.

Làng nghề sơn mài Hạ Thái có lịch sử phát triển khá sớm và được bắt

đầu từ nghề sơn thếp từ thế kỷ 18. Theo lịch sử địa phương, nghề sơn Hạ Thái

đã có từ trước khi xây dựng đình làng Hạ Thái vào năm 1780. Như vậy, nghề

96

sơn của làng nghề Hạ Thái đã có truyền thống trên 200 năm. Trải qua bao

thăng trầm, nghề sản xuất các mặt hàng từ sơn mài vẫn được các thế hệ cư

dân làng nghề gìn giữ, phát huy. Có thể nói nghề sơn mài nơi đây đã trở thành

một hoạt động sản xuất kinh doanh có tính nghệ thuật, do mỗi sản phẩm được

tạo nên đã chứa đựng sự công phu, cầu kỳ và nét tài hoa của người thợ thủ

công.

Đến nay, làng nghề sơn mài Hạ Thái có sự phong phú về sản phẩm và

hình thức sản xuất. Hiện nay, có khoảng 2.000 mẫu mã sản phẩm sơn mài các

loại. Những vật liệu được sử dụng vào sản xuất sơn mài rất đa dạng, nếu trước

đây cư dân làng nghề chỉ sử dụng cốt gỗ cho các sản phẩm, thì hiện nay ngoài

cốt gỗ còn có các cốt tre, nứa, bìa carton và còn dùng gốm sứ. Việc thay đổi

vật liệu trong sản xuất các sản phẩm nghề đã mang lại nhiều thay đổi tích cực.

Nói về vấn đề này, một giám đốc Công ty TNHH sơn mài cho biết:

Yếu tố chất liệu mới đã làm thay đổi cả sản phẩm làng nghề, bộ mặt

làng nghề, năm 2004 gia đình anh làm sơn mài trên cốt gốm, tiếp

đó ông bố anh tìm hiểu, kết hợp với chú bạn của bố anh đến làng

nghề ép mũ cối để đặt với họ làm cho một số khuôn, rồi về sơn mài

(PVS nam, Giám đốc Công ty TNHH sơn mài Th-S).

Làng nghề đã áp dụng nhiều kỹ thuật hiện đại vào việc pha chế, thay đổi

công đoạn phủ sơn, tạo cho sản phẩm độ bóng, bền và đẹp. Mỗi sản phẩm

thường tráng từ 15-16 lớp sơn thì mới đảm bảo được độ bóng và bền của sản

phẩm. Qua diền dã thực ở làng Hạ Thái, tác giả biết được người Hạ Thái

thường dùng loại sơn dầu hạt điều trộn với đất phù sa sông Hồng theo một tỉ lệ

nhất định để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo và làm bóng tùy theo

ý đồ mà người thợ ở từng nét vẽ, màu sắc, định hình trên cốt. Về việc thay đổi

loại sơn, tác giả phỏng vấn sâu một nghệ nhân trong làng cho biết thêm:

97

Trước đây làng làm sơn ta Phú Thọ, nay làm sơn hạt điều, giá

thành hạ phù hợp với khách hàng, sơn ta làm nhiều nước sơn, sau

mỗi lớp phải ủ vải màn ẩm, cho vào nơi kín, sơn điều thì làm ít

nước lại không phải ủ, thời gian hoàn thành một sản phẩm sơn ta

tính theo tháng, còn sơn điều thì tính theo ngày. Sơn ta rất bền với

thời tiết, ví dụ như mình làm thúng sơn, sơn gắn thuyền đi nước,

sản phẩm tranh sơn mài sơn ta thì có độ bền hàng trăm năm, sơn

điều thì thời gian ngắn hơn, hiện nay giá 1 kg sơn ta khoảng 300

nghìn, sơn điều 1 kg khoảng 100 nghìn đồng. (PVS, nữ, chủ cơ sở

sản xuất sơn mài H-Q).

Sản phẩm sơn mài bên cạnh chức năng sử dụng trong đời sống, còn

mang đậm nét văn hoá, xã hội và giá trị thẩm mỹ cao. Ở trong nước, sản

phẩm của làng nghề sơn mài Hạ Thái được tiêu thụ tại nhiều tỉnh, thành phố.

Thị trường xuất khẩu: Nhật, Mỹ, Đức. Pháp... Các sản phẩm sơn mài dòng

tranh như tranh Bác Hồ, tranh khảm trai, tranh đắp nổi, tranh cổ, tranh tĩnh

vật, tranh; lọ, hộp, khay, đèn, đĩa.

Hiện nay, trong tổng số 1.046 hộ gia đình ở làng nghề sơn mài Hạ Thái

có 889 hộ gia đình làm nghề sơn mài, chiếm 85%; 460 hộ chuyên nghề; 429

hộ kết hợp làm ruộng và làm nghề; 36 hộ gia đình trồng trọt và chăn nuôi.

Trong số 889 hộ làm nghề, có 15 công ty và doanh nghiệp sản xuất sơn mài

và có 104 hộ gia đình kết hợp làm vàng mã. Điều này phản ánh sự đa dạng

nghề nghiệp ở làng nghề.

98

Bảng 3.9: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của các hộ gia đình

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Làng nghề sơn mài Hạ Thái Loại hộ gia đình

Số hộ 23 2 Tỉ lệ % 3,3 0,2 Số hộ 23 13 Tỉ lệ % 2,2 1,24

480 67,8 460 44

Chuyên trồng trọt Chuyên chăn nuôi Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thương mại, dịch vụ

105 47 14,8 6,6 91 30 8,7 2,86

51 7,2 429 41 Công chức, viên chức Kết hợp nông nghiêp và làm nghề truyền thống

708 100 1.046 100 Tổng

Nguồn: Số liệu báo cáo của UBND xã, năm 2013

Đối với cả hai làng nghề, số lượng các gia đình làm nghề nông nghiệp

chiếm tỉ trọng rất ít. Đây là một đặc trưng của cấu trúc các ngành kinh tế đã

chuyển dịch theo chiều hướng tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp tiểu thủ

công nghiệp. Qua điều tra cho thấy, việc giảm mạnh các hộ chuyên sản xuất

nông nghiệp là do cư dân trong làng không chú trọng phát triển kinh tế nông

nghiệp vì thu nhập rất thấp, mặt khác do việc chăn nuôi khó có thể tiến hành

song song với việc làm nghề cùng nơi ở của cư dân. Đây cũng là một đặc

trưng chuyên môn hóa của làng nghề.

Tuy nhiên, về sự phân hóa nghề nghiệp của các hộ gia đình ở hai làng

nghề, kết quả điều tra mẫu 515 hộ gia đình, có 70,7% các hộ gia đình làm

nghề truyền thống có kết hợp với nghề nông nghiệp. Điều này chứng tỏ nghề

gốc của cư dân làng nghề chủ yếu là nông nghiệp, nông dân. Số hộ gia đình

chuyên làm nghề truyền thống thoát ly khỏi nông nghiệp chỉ chiếm 11,8%.

(Biểu 3.3).

11,8%

17,5%

70,7%

Chỉ làm nghề truyền thống Làm nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

99

Biểu 3.3: Cư dân làng nghề phân nhóm theo nghề nghiệp của hộ

gia đình

Nguồn: Kết quả điều tra mẫu của đề tài, năm 2013.

Trong số những hộ gia đình không làm nghề truyền thống của làng, họ

làm nông nghiệp, buôn bán tạp hóa, xây dựng, thợ may, thợ cắt tóc, làm đồ

mã, làm đậu, giáo viên, công nhân, công chức.

Như vậy, đa số người dân trong làm nghề, đều có nghề gốc là làm nông

nghiệp, bên cạnh đó làm nghề truyền thống, những người công nhân xuất phát

từ nông dân, hay nói cách khác tiểu thủ công nghiệp ở làng nghề chưa hoàn

toàn tách ra khỏi nông nghiệp.

Có thể thấy, mô hình phát triển nghề truyền thống vẫn được lưu truyền

dưới dạng gia đình. Đã có sự xuất hiện của mô hình sản xuất lớn như các

công ty nghề, nhưng phần lớn trong làng các gia đình vẫn đang phát triển theo

mô hình gia đình nghề, điều đặc biệt các gia đình nghề vẫn coi nghề là “làm

thêm và kết hợp” cùng với nông nghiệp chứ không coi đó là một ngành nghề

cần phát triển mạnh. Điều đó dẫn đến nguy cơ bấp bênh về đầu ra đối với nhu

cầu của khách hàng và hạn chế về các đơn đặt hàng đối với các mặt hàng

trong nghề, khiến quy trình này diễn ra đứt đoạn và không được thường xuyên

tạo ra sự khó khăn trong việc duy trì và phát triển các nghề.

100

3.4.4. Cấu trúc xã hội - mức sống

Cấu trúc xã hội - mức sống của cư dân làng nghề được tác giả tìm hiểu

qua cách tự đánh giá của chủ hộ gia đình, bằng phiếu thu thập thông tin, kết

quả như sau: Có tới 36,9% tỉ lệ người trả lời ở mức sống khá giả, 0,7% ở mức

giàu. Như vậy, có hơn một phần ba các chủ hộ được hỏi tự đánh giá là mức

sống khá giả trở lên. Phần lớn người dân có mức sống trung bình 61,4% và

chỉ còn một phần nhỏ tỉ lệ người dân ở mức nghèo (1,0%). Có thể thấy rằng

mức sống của người dân tại hai làng nghề đạt ở mức cao, điều đó chứng tỏ sự

phát triển hiệu quả, nhanh chóng và vượt bậc hoạt động nghề nghiệp.

Bảng 3.10: Cấu trúc xã hội - mức sống của làng nghề

Chung Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm

Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ %

Mức sống gia đình, chủ hộ tự đánh giá Giàu có Khá giả Trung bình Nghèo Tổng Số hộ 3 48 153 - 204 Tỷ lệ % 1,5 23,5 75,0 - 100 - 109 108 4 221 - 49,3 48,9 1,8 100 3 157 261 4 425 0,7 36,9 61,4 1,0 100

Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013

Cấu trúc xã hội - mức sống, còn được tác giả luận án tìm hiểu qua hai

chỉ báo thu nhập và chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ

cở sản xuất. Trong luận án này, tác giả sử dụng cụm từ “nhóm thu nhập”,

“nhóm chi tiêu” nhằm đánh giá thực trạng cấu trúc xã hội - mức sống của cư

dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái. Các nhóm thu

nhập, nhóm chi tiêu ở đây được xác định là năm nhóm (ngũ nhị phân), nghĩa

là mỗi nhóm chiếm 20% tổng số các hộ gia đình (chủ hộ gia đình). Cụ thể

cách xác định ngũ nhị phân về thu nhập hoặc chi tiêu như sau: các hộ gia đình

được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm 20% theo mức thu nhập bình (hoặc mức

101

chi tiêu) trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất từ cao

nhất (nhiều nhất) xuống thấp nhất (ít nhất).

Tương ứng mỗi nhóm 20% có mức thu nhập cao nhất từ trên xuống

dưới, tác giả gọi là nhóm I (cao nhất); nhóm 20% có mức thu nhập trung bình,

gọi là nhóm III (trung bình); nhóm 20% có mức thu nhập thấp nhất, gọi là

nhóm V (thấp nhất). Nhóm II là nhóm có thu nhập trên trung bình; nhóm IV

là nhóm có thu nhập dưới (xem bảng 3.11). Tương ứng mỗi nhóm 20% có

mức chi tiêu nhiều nhất đến nhóm có mức chi tiêu ít nhất, tác giả gọi là nhóm

1 (nhiều nhất), nhóm 3 (trung bình) và nhóm 20% có mức thu nhập thấp nhất,

gọi là nhóm 5 (ít nhất). Nhóm 2 là nhóm có mức chi tiêu trên trung bình và

nhóm 4 là nhóm có mức chi tiêu dưới trung bình (xem bảng 3.12).

Kết quả điều tra chọn mẫu 515 hộ gia đình (N = 515). Trong đó 425 hộ

gia đình làm nghề (cơ sở sản xuất) truyền thống (N = 425), được biết: Trong

các nhóm thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản

xuất làm nghề truyền thống đều cao hơn so với mức thu nhập trung bình một

tháng của các chủ hộ gia đình trong làng nghề.

Cụ thể, kết quả điều tra cho biết (bảng 3.11), mức thu nhập trung bình

của các chủ hộ gia đình trong làng nghề là 5.744.077,67 đồng/tháng (độ lệch

chuẩn là 4.008.893,187 đồng/tháng). Mức thu thập trung bình của chủ hộ gia

đình làm nghề truyền thống là 6.227.764,71 đồng/tháng (độ lệch chuẩn là

4.211.342,61 đồng/tháng). Mức thu nhập bình quân một tháng của chủ hộ gia

đình cao nhất là 40.000.000 đồng/tháng và mức thấp nhất là 1.000.000

đồng/tháng.

Khi tìm hiểu về sự khác biệt giữa thu nhập bình quân của chủ hộ gia

đình, một chủ cơ sở sản xuất sơn mài cho biết:

Dù sao đi nữa, ở gia đình làm nghề không giàu như ông chủ công

ty, song nghề của các cụ để lại cũng đủ nuôi sống gia đình và cho

102

các con ăn học. Mặt khác, công việc cũng đều đều, quanh năm, so

với các nghề khác trong làng như thợ xây, bán hàng tạp hóa, hay

những người chỉ làm ruộng thì làm nghề sơn mài có thu nhập cao

hơn, nhưng vất vả, độc hại hơn. (PVS, nam, chủ hộ gia đình nghề,

làng Hạ Thái).

Bảng 3.11: Mức thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ

gia đình, chủ cơ sở sản xuất

Đơn vị: Đồng/tháng

Mức thu nhập trung bình của chủ hộ gia đình

5 nhóm thu nhập

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Chung cả 5 nhóm

Tổng số

Chung các hộ gia đình 11.776.699,03 7.134.951,46 4.474.757,28 3.116.504,85 2.217.475,73 5.744.077,67 (N = 515)

Gia đình làm nghề truyền thống 12.541.176,47 7.652.941,18 5.296.470,59 3.205.882,35 2.442.352,94 6.227.764,71 (N = 425)

Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013

Bảng 3.11 cho thấy, mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ

các gia đình trong làng nghề ở nhóm I (cao nhất) là 11.776.699,03

đồng/tháng. Mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ các gia đình

nhóm V (thấp nhất) là 2.217.475,73 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai

nhóm này là 5,31 lần.

Trong khi đó, đối với các gia đình làm nghề truyền thống, mức thu

nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm I (cao nhất) là 12.541.176,47

đồng/tháng. Mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm V (thấp

nhất) là 2.217.475,73 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là

5,13 lần.

103

Những năm gần đây, cấu trúc xã hội - mức sống về chi tiêu của cư dân

làng nghề được đa số (75,4%) cư dân làng nghề đánh giá “chi tiêu tốt hơn”,

hiệu quả tốt hơn. Mức chi tiêu có thể biểu hiện qua mức chi tiêu trung bình

một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất. Cụ thể, ở cả năm nhóm chi

tiêu, có sự chênh lệch giữa hộ gia đình làm nghề truyền thống với mặt bằng

chung của các hộ gia đình trong làng nghề ( xem Bảng 3.12).

Bảng 3.12: Mức chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình,

chủ cơ sở sản xuất

Đơn vị: Đồng/tháng

5 nhóm chi tiêu

Nhóm 1 (nhiều nhất) Nhóm 2 Nhóm 3 (trung bình) Nhóm 4 Nhóm 5 (ít nhất) Chung cả 5 nhóm

Tổng số Mức chi tiêu trung bình của chủ hộ gia đình Gia đình làm nghề Chung các hộ gia đình truyền thống 8.123.529,41 5.388.235,29 3.870.588,24 2.780.000,00 2.042.352,94 4.440.941,18 (N = 425) 7.781.553,40 5.029.126,21 3.378.640,78 2.672.815,53 1.849.514,56 4.142.330,10 (N = 515)

Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013

Kết quả điều tra cho biết, mức chi tiêu trung bình của các chủ hộ gia

đình trong làng nghề là 4.142.330,10 đồng/tháng (độ lệch chuẩn là

2.440.704,276 đồng/tháng). Mức chi tiêu trung bình của chủ hộ gia đình làm

là lệch chuẩn nghề truyền thống là 4.440.941,18 đồng/tháng (độ

2.532.593,022 đồng/tháng). Mức chi tiêu bình quân một tháng của chủ hộ gia

đình cao nhất là 25.000.000 đồng/tháng và mức thấp nhất là 800.000

đồng/tháng.

Bảng 3.12 cho thấy, mức chi tiêu trung bình của nhóm 20% chủ hộ các

gia đình ở nhóm 1 (nhiều nhất) là 7.781.553,40 đồng/tháng. Mức chi tiêu

104

trung bình của nhóm 20% chủ hộ các gia đình nhóm V (ít nhất) là

1.849.514,56 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là 4,2 lần.

Các hộ gia đình làm nghề truyền thống, mức chi tiêu trung bình của

nhóm 20% chủ hộ nhóm 1 (nhiều nhất) là 8.123.529,41 đồng/tháng. Mức thu

nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm 5 (ít nhất) là 2.042.352,94

đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là 3,98 lần.

Như vậy, có tỷ lệ thuận giữa thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình,

mức thu nhập trung bình của chủ hộ càng cao thì mức chi tiêu trung bình của

chủ hộ càng cao.

Xem xét cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề, qua

câu hỏi “Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt

động nào?”, kết quả thu được như sau:

Bảng 3.13: Cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề N = 515

Tỷ lệ % Cơ cấu chi phí

1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ 3. Đào tạo nghề cho thợ 4. Ăn uống, sinh hoạt 5. Du lịch, giải trí 6. Chăm sóc sức khoẻ và y tế Số chủ hộ gia đình (trả lời có) 371 138 83 436 224 286 72,0 26,8 16,3 84,7 43,5 55,5

Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013

Trong cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình, mức độ chi tiêu

nhiều nhất là chi cho ăn uống, sinh hoạt hàng ngày - chiếm 84,7% số chủ hộ

gia đình trả lời. Tiếp đó là chi cho sản xuất kinh doanh - chiếm 72%, tỷ lệ này

phần nào phản ảnh đặc trưng của làng nghề. Bên cạnh đó, cư dân làng nghề còn

chi cho chăm sóc sức khỏe, y tế. Ở các hộ gia đình gia đình là 16,3% (hộ gia

đình nghề 17,2% (73/425) chủ hộ gia đình trả lời chi phí cho việc đào tạo thợ.

105

Khi hỏi về mức độ thay đổi cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề ở một

số khía cạnh, qua việc chủ hộ gia đình, cơ sở sản xuất “tự đánh giá cuộc sống

của gia đình so với 5 năm trước đây”, kết quả điều tra như sau:

Bảng 3.14: Tỉ lệ tự đánh giá mức độ thay đổi một số khía cạnh của

đời sống gia đình so với 5 năm trước

Đơn vị tính: % (N = 515)

Nội dung

1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 4. Vui chơi giải trí, du lịch 5. Việc học tập để nâng cao trình độ 6. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 7. Việc học hành của trẻ em 8. Quan hệ xã hội 9. Điện thắp sáng 10. Nước sinh hoạt 11. Điều kiện vệ sinh, môi trường 12. Trật tự an ninh 13. Nhà ở Tốt hơn Như cũ Kém đi 20,0 24,7 21,8 26,4 27,6 17,9 23,5 37,7 38,1 46,4 38,8 51,5 44,9 73,4 72,0 75,4 69,5 70,8 79,2 73,7 60,4 58,1 50,7 42,1 46,4 53,2 6,6 3,3 2,7 4,1 1,6 2,9 2,7 1,9 3,7 2,9 19,0 2,1 1,9

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài, năm 2013

Bảng 3.14 cho thấy có sự thay đổi về mức sống tốt hơn ở các lĩnh vực

việc làm 73,4%, thu nhập 72,0%; các quan hệ xã hội 60,4%. Đặc biệt là điều

kiện chăm sóc sức khỏe của cư dân làng nghề được nâng nên rõ rệt: 79,2% số

người được hỏi cho đánh giá các điều kiện này “tốt hơn” so với 5 năm trước.

Điều kiện vệ sinh, môi trường làng nghề chưa có chuyển biến tốt: có 38,8% ý

kiến được hỏi đánh giá “như cũ” và có đến 19% cho rằng “kém đi”.

Cùng chủ đề này, khi phỏng vấn sâu Chủ tịch UBND xã Vạn Điểm,

tác giả biết rõ hơn về mức sống ngày càng cao của người dân ở làng nghề,

cụ thể như sau:

106

Từ sự phát triển làng nghề thì đời sống người dân càng ngày một

cao, người dân mua sắm ti vi đời cao, tủ lạnh, điều hòa cao cấp.

Nhiên liệu đun chủ yếu là ga, vì nhóm củi lửa mất công nhiều, thực

tế làng nghề làm chế biến gỗ nhưng hiện nay ít hộ đun vỏ bào, mùn

cưa. Nhiều nơi khác đến mua vỏ bào, gỗ vụ về đun. Các ông, các bà

có tuổi thì tích cực đi chùa, ít khi ở nhà cùng các con để giành thời

gian cho các con làm nghề, còn tiền để tiêu thì các con có nghĩa vụ

đóng góp với bố mẹ. (PVS, ông Ngô Văn D, Chủ tịch UBND xã

Vạn Điểm).

Tóm lại, trong quá trình phát triển chung của xã hội, cùng phát triển

nông thôn mới, mức sống của cư dân làng đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề làng

sơn mài Hạ Thái được nâng cao. Qua đó đã tạo công ăn việc làm, tăng thu

nhập. Hay nói cách khác, nhờ làm đồ gỗ và làm nghề sơn mài đời sống của cư

dân làng nghề đã được cải thiện và trở nên khá giả, bộ mặt nông thôn đã được

đổi mới, nhiều hộ gia đình đã trở thành cơ sở sản xuất làm ăn phát đạt. Thu

nhập chính của các hộ gia đình làng nghề chủ yếu từ việc làm nghề truyền

thống cao hơn so với làm nông nghiệp và làm những nghề khác.

3.5. PHÂN TÍCH MÔ HÌNH CÔNG TY NGHỀ VÀ MÔ HÌNH GIA ĐÌNH

NGHỀ CỦA LÀNG NGHỀ GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI

3.5.1. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: mô hình gia đình nghề

Trong mô hình gia đình nghề thường có ít nhất một thành viên, thường

là chủ hộ gia đình chuyên sản xuất, kinh doanh một nghề nghiệp nhất định,

nhưng chưa đăng ký với các cơ quan chức năng để hoạt động dưới hình thức

một công ty hay một doanh nghiệp. Một đặc trưng nghề của mô hình gia đình

nghề, là thu nhập của gia đình phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động nghề nghiệp

của ít nhất một thành viên làm nghề trong gia đình, mà các nguồn thu nhập

khác của gia đình chỉ mang tính chất phụ thêm. Một đặc trưng nữa của mô

107

hình gia đình nghề, là việc huy động các thành viên khác của gia đình tham

gia dưới hình thức này hoặc hình thức khác trong khung thời gian không gian

đặc trưng là của gia đình, ví dụ mặt bằng sản xuất đồng thời là mặt bằng sinh

hoạt hàng ngày của gia đình.

Làng nghề luận án nghiên cứu, đặc trưng bởi đa số các hộ gia đình của

làng là hộ gia đình nghề, có thể gọi ngắn gọn là “gia đình nghề”. Làng nghề

đồ gỗ Vạn Điểm, đa số các hộ gia đình đều làm nghề đồ gỗ chiếm tới 75% hộ

gia đình là hộ gia đình nghề. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng nghề

được hình thành và phát triển theo thời gian từ Đổi mới năm 1986 đến nay.

Cụ thể là: có tới 86% hộ gia đình có thâm niên làm nghề từ 10 năm trở lên,

9% hộ gia đình làm nghề từ 5-9 năm và 5% hộ gia đình làm nghề dưới 5 năm

(xem Bảng 3.15). Điều này chứng tỏ, đa số các hộ gia đình làm nghề trong

thập niên đầu của thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, trong đó có 10% hộ gia

đình làm nghề ngay trong thời gian đầu của Đổi mới. Khi đó kinh tế hợp tác

xã bị suy yếu và tan rã, đồng thời Nhà nước ban hành luật khuyến khích sản

xuất - kinh doanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường, tức là

làm những gì mà Nhà nước không cấm và thị trường có nhu cầu.

Bảng 3.15: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, theo thâm niên của gia đình nghề

Chung Mẫu nghiên cứu Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm

Loại hộ gia đình theo thâm niên làm nghề Tỉ lệ % Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số hộ Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Số hộ Số hộ Số hộ

14,2 76 407 76,1 9,7 52 100 535 279 545 65 889 31,3 61,4 7,3 100 355 952 117 1424 25,0 66,8 8,2 100 89 289 47 425 20,9 68,0 11,1 100 Dưới 10 năm 10-20 năm Trên 20 năm Tổng

Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài, năm 2013

108

Tuy nhiên, để thích ứng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình

gia đình nghề liên tục được kế thừa, hoạt động, tái tạo và biến đổi như sau:

Làng nghề sơn mài Hạ Thái cũng có đặc trưng bởi đại đa số các hộ gia

đình của làng làm nghề sơn mài. Hiện nay, ở làng sơn mài Hạ Thái có đến

85% hộ gia đình, cơ sở sản xuất sơn mài. Quá trình hình thành nghề sơn mài

Hạ Thái, từ một làng nông nghiệp trở thành một làng nghề được đánh dấu qua

những mốc thời gian chính như sau: năm 1925, Trường cao đẳng Mỹ thuật

Đông dương được người Pháp thành lập, trường có khoa sơn dạy làm đồ mỹ

nghệ, nghệ nhân Đinh Văn Thành được mời tham gia giảng dạy, ông đã dùng

sơn ta để vẽ phong cảnh. Từ đó, sơn mài của làng nghề thực sự bước vào lĩnh

vực hội họa. Cho đến trước năm 1954 làng nghề đã nổi tiếng bởi số ít gia đình

thuộc các dòng họ: Đinh, Trần, Nguyễn, Đỗ, v.v. làm nghề. Theo một số

người cao tuổi trong làng kể lại, lúc đó làng có khoảng 15% cư dân trong làng

tham gia làm nghề sơn mài và bây giờ là 85%:

Lúc đầu cụ Đinh Văn Thành truyền nghề cho hai người em ruột làm

trong tổ hợp sơn mài đầu tiên, hai ông đó lại chơi thân với ông bố

vợ nhà tôi do vậy có thể nói cụ Đinh Văn Thành là một trong những

người thầy dạy nghề và truyền nghề sơn mài cho dân làng, lúc bấy

giờ ông bố vợ nhà mình đang làm chủ nhiệm hợp tác xã sơn mài.

(PVS nam, chủ cơ sở sản xuất sơn mài làng Hạ Thái).

Đến thời kỳ bao cấp, số cư dân làm nghề tăng lên khoảng 20% (chủ yếu

làm tại hợp tác xã Thủ công mỹ nghệ cao cấp Bình Minh với khoảng 600

người thợ). Từ năm 1986 trở lại đây, nghề sơn mài nơi đây rất phát triển, đã

thúc đẩy việc chuyển đổi cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, như số hộ gia đình

tăng, số lao động làm nghề sơn mài cũng tăng, đồng thời giảm số gia đình và

số lao động làm nông nghiệp. Điều này thể hiện qua việc có tới 61,4% gia

109

đình nghề có thâm niên làm nghề từ 10 -20 năm, 3% hộ gia đình làm nghề từ

trên 20 năm và 35,6% hộ gia đình làm nghề dưới 10 năm.

Kết quả khảo sát cho thấy, các quan hệ xã hội trong làng nghề thay đổi

theo cùng sự phát triển xã hội của nghề sơn mài. Thời kỳ đầu thế kỷ XX cư

dân làng Hạ Thái chủ yếu làm nghề ngay tại gia đình, khi có khách hàng đến

thuê sửa chữa đồ thờ thì đến tìm gia đình nghề ở địa phương để làm. Gia đình

nghề có làm ra sản phẩm, nhưng rất ít khi mang ra chợ bán. Cư dân gọi hàng

bán ngoài chợ là “hàng chợ”, còn có khách đặt theo yêu cầu gọi là “hàng

thửa” và người làm hàng thửa có uy tín hơn làm hàng chợ và hàng thửa cũng

có giá cao hơn hàng chợ. Hệ thống xã hội làng nghề lúc đó mang tính chất thụ

động, chức năng gắn kết các cá nhân người thợ, các nhóm (dòng họ) chủ yếu

thông qua các mối quan hệ đơn giản như ai mượn thợ thì đi làm, ai thuê thì đi

làm. Khi đó, nghề sơn mài chưa có chức năng như một tiểu hệ thống kinh tế

trong gia đình, không phải là nguồn thu nhập chủ yếu, mà chỉ là công việc

phụ lúc nông nhàn, do vậy khái niệm đầu tư cho sản xuất kinh doanh chưa rõ.

Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, kéo theo quy

mô sản xuất, phương thức tổ chức lao động, đặc biệt các giá trị, chuẩn mực ở

làng nghề sơn mài Hạ Thái chuyển biến. Cư dân làng nghề đã xác định sản

xuất sơn mài gắn với kinh doanh, nhiều hộ gia đình liên kết với nhau thành

một chuỗi giá trị trong sản xuất, hình thành nhiều tổ chuyên sản xuất và công

ty nghề ra đời. Trong khi đó mô hình gia đình nghề vẫn tiếp tục được hình

thành, tái tạo và hoạt động với các biểu hiện đáng chú ý như sau:

Về trình độ tay nghề

Đội ngũ chủ hộ gia đình nghề hiện nay tại làng nghề, đa số đều là

những thợ nghề có trình độ cao. Từ sự tiếp nhận nghề nghiệp truyền thống

qua nhiều thế hệ và rất sớm, nên các chủ hộ nghề đều đạt được trình độ tinh

xảo trong nghề, đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của nghề và thị trường.

110

Đặc biệt, không chỉ có nam giới tham gia sản xuất và làm chủ hộ gia đình

nghề mà cả nữ giới cũng sản xuất, có trình độ tay nghề cao, đồng thời làm chủ

hộ gia đình nghề. Cấu trúc này gồm chủ hộ gia đình là nữ cả hai làng nghề

theo mẫu nghiên cứu chiếm tới 15% (81 gia đình) và nam chiếm 85% (454

gia đình).

Được kế thừa những bí quyết và kinh nghiệm quý báu của các thế hệ

cha/anh đi trước, nhìn chung đội ngũ thợ ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng

nghề sơn mài Hạ Thái đại đa số là thợ lành nghề và có kỹ thuật cao, đặc biệt

làng nghề sơn mài Hạ Thái hiện nay có 5 nghệ nhân (trong đó có 1 nghệ nhân,

nam giới, sinh năm 1982), những người thợ sơn mài tài hoa của cả làng nghề.

Về hệ giá trị và quy tắc phân công lao động của gia đình nghề

Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm: Sở dĩ có tỷ lệ nam chủ hộ gia đình nghề

cao hơn so với nữ là do đặc trưng làng nghề đồ gỗ, đồng thời với cấu trúc xã

hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng nói chung và làng nghề đồ gỗ

Vạn Điểm nói riêng thì vai trò nam chủ hộ gia đình vẫn là nét đặc thù trong

việc tổ chức sản xuất, lao động của cuộc sống gia đình. Nam giới thường là

người đại diện cho các thành viên trong gia đình tham gia các công việc của

dòng họ, cộng đồng. Nói cách khác, hệ giá trị nghề nghiệp nói chung và hệ

giá trị phân công lao động ở nông thôn vẫn giành cho nam giới vị thế là chủ

hộ gia đình nghề. Điều này, thể hiện rõ ở cấu trúc phân công lao động nghề

của gia đình nghề như sau: Đa số trong các gia đình nghề, vị thế ông, bà đã

ngoài độ tuổi lao động, nên không sản xuất trực tiếp mà chỉ giữ vai trò chỉ

đạo, định hướng làm ăn. Thường thì con trai (người chồng) trực tiếp sản xuất,

quản lý và hướng dẫn thợ thi công. Trực tiếp thực hiện những công đoạn khó,

đòi hỏi trình độ tay nghề cao; trực tiếp đi chọn, và mua gỗ, v.v, làm các việc

liên quan đến yếu tố đầu vào của sản phẩm. Con dâu (người vợ), tham gia

quản lý bán hàng, tiếp xúc với khách hàng, thỏa thuận giá cả, tham gia một

111

vài công đoạn của quy trình sản xuất phù hợp với phụ nữ. kết hợp làm công

việc nội trợ, chăm sóc bố, mẹ và kèm cặp con cái. Người vợ nắm giữ thu, chi

trong gia đình và trong sản xuất nghề.

Kết quả nghiên cứu làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, sản xuất mô hình gia

đình nghề nhưng hoạt động, tính chất như công ty. Gia đình nghề bên cạnh

những quan hệ kiểu cũ không thay đổi như quan hệ giữa ông/bố và con/cháu,

quan hệ giữa vợ và chồng còn kết hợp với các chủ thể sản xuất kinh doanh

bên ngoài gia đình.

Một số gia đình nghề ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm còn thuê “osin”

giúp việc gia đình và bán hàng. Người giúp việc biết tiếng Trung Quốc, nên

rất thuận cho việc bán sản phẩm sang thị trường Trung Quốc.

Người giúp việc để bán hàng, sinh năm 1973, giúp việc nhà đã đi lao

động ở Đài Loan, người huyện Phú Xuyên, 1 chồng, 2 con trai, sáng

7 giờ 30 đến, tối 5 giờ 30 về. trả gia đình trả cho chị ấy 3 triệu/tháng

và nuôi ăn trưa. (PVS, nữ, gia đình nghề làng Vạn Điểm).

Điều này cho thấy, phát triển kinh tế làng nghề đã góp phần chuyển

biến tư duy của cư dân làng nghề.

Vận dụng cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens, tác giả luận

án tìm hiểu các quy tắc của cấu trúc xã hội - gia đình nghề gỗ Vạn Điểm.

Khảo sát thực địa phát hiện thấy một số quy tắc bất thành văn vẫn đang được

vận hành và phát huy tác dụng ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Cụ thể là:

Quy tắc về thanh toán và giao dịch nghề: khách hàng thường đến tận

cơ sở sản xuất của gia đình nghề để xem hàng, nếu khách hàng thấy hài lòng

với sản phẩm thì thực hiện mua bán trực tiếp tại đó luôn. Khách hàng có thể

đặt cọc một phần rồi kí tên vào sản phẩm, sau khi giao hàng tận nhà thì sẽ

thanh toán nốt phần còn lại. Chủ hộ gia đình nghề cam kết giao hàng đúng sản

phẩm khách hàng đã mua.

112

Quy tắc về vận chuyển và giao nhận: tiền vận chuyển được thống nhất

trong quá trình mua bán; Khi giao nhận không đúng như sản phẩm đã chọn và

kí tên của khách hàng thì cơ sở sẽ hoàn trả lại tiền và bồi thường.

Quy tắc về bảo hành: như cơ sở sản xuất sẽ bảo hành sản phẩm theo

thời gian tùy thuộc vào loại hàng, có hỏng hóc hay cong vênh cơ sở sẽ cho

thợ đến chỉnh sửa, v.v. Các công đoạn quan trọng và tiền công cao thường do

ông chủ cơ sở sản xuất, chủ hộ gia đình hoặc anh em, họ hàng trực tiếp làm.

Cấu trúc xã hội của gia đình nghề ở làng nghề sơn mài Hạ Thái.

Hiện nay, ngoài nguồn lực lao động của hộ gia đình, gia đình nghề còn

có số lao động làm thuê cho gia đình, với hình thức thuê thời vụ hoặc thuê

thường xuyên phụ thuộc vào khối lượng công việc và lượng đặt hàng của

khách hàng, bình quân các gia đình trong làng nghề thuê từ 2 đến 5 người, theo

quy tắc là khoán sản phẩm cho người lao động đối với công đoạn đơn giản và

tính theo ngày công làm đối với công đoạn yêu cầu kỹ thuật cao; quy tắc phải

có tính kiên trì của người thợ sơn mài; Quy tắc trả sản phẩm đúng thời gian hợp

đồng của gia đình nghề. Người thợ sơn Hạ Thái đã bao đời nay pha sơn theo

kinh nghiệm cổ truyền. Tuy nhiên, trong sản xuất đồ sơn mài hiện nay, họ đã

áp dụng kỹ thuật hiện đại để pha chế, thay đổi một vài công đoạn phủ sơn

nhằm giảm bớt thao tác thừa, tạo ra loại sơn mới có độ bóng, bền, đẹp.

Sự kết hợp giữa các loại nguồn lực và các hệ giá trị, quy tắc làm nghề

của hộ gia đình nghề như vừa nêu có nhiều thuận lợi đối với những gia đình

nghề để thích nghi với môi trường kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi kể từ

khi Đổi mới năm 1986 đến nay. Áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã

hội của Parsons, có thể coi gia đình nghề như một hệ thống xã hội trong đó có

tiểu hệ thống thực hiện những chức năng nhất định nhằm phát huy các lợi thế

của các nguồn lực và các quy tắc để vạch ra mục đích kinh doanh, thực hiện

các hoạt động sản xuất và các hoạt động kết nối, đoàn kết nội bộ gia đình và

113

đoàn kết với các gia đình nghề khác trong cộng đồng làng nghề, đồng thời học

hỏi, tiếp thu và bảo lưu, duy trì các kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu của các

thế hệ trước.

Đặc biệt những gia đình nghề có thể sử dụng các nguồn lực của gia

đình như mặt bằng sản xuất, tranh thủ được thời gian tại nhà, kết hợp cả làm

việc nội trợ trong nhà, kèm cặp con cái. Điều này có nghĩa là với tính cách là

một hệ thống xã hội - bốn chức năng theo lý thuyết của Parsons, các thành

viên của gia đình như là các tiểu hệ thống thực hiện các hoạt động nhằm đáp

ứng các yêu cầu đặt ra từ cả hệ thống làng nghề. Tuy nhiên, gia đình nghề là

một hệ thống xã hội chưa được phân hóa ở trình độ cao, nên một thành viên ví

dụ như một phụ nữ có thể cùng lúc vừa thực hiện các chức năng kinh tế và

vừa thực hiện các chức năng văn hóa là duy trì các giá trị truyền thống gia

đình vừa chăm sóc, giáo dục con cái và vừa cùng chồng quản lý sản xuất kinh

doanh và thực hiện các hoạt động đối nội, đối ngoại của gia đình.

Tóm lại, mô hình cấu trúc gia đình nghề đặc trưng cho làng nghề truyền

thống ở Việt Nam nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng. Mức độ phân

công lao động xã hội và mức độ chuyên môn hoá ở các gia đình nghề cao,

một số gia đình chỉ làm một bộ phận của sản phẩm. Việc áp dụng cả lý thuyết

của Parsons về hệ thống xã hội và lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens đã giải

thích sự vận hành của gia đình nghề với tính cách là hệ thống xã hội và cấu

trúc xã hội.

3.5.2. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: mô hình công ty nghề

Trong làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái công ty

nghề được hiểu là tổ chức kinh tế có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp

luật và hoạt động theo quy định pháp luật về tổ chức kinh tế, doanh nghiệp.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở làng nghề tập trung chủ yếu tại các hộ

gia đình như đã phân tích ở trên, tuy nhiên trên thực tế đã xuất hiện một số

114

công ty nghề với mô hình sản xuất kinh - doanh theo kiểu hiện đại, nhưng

phải thích nghi với môi trường làng nghề với không ít thách thức và cơ hội

cần được nghiên cứu làm rõ.

Cấu trúc xã hội công ty nghề và cấu trúc xã hội gia đình nghề có nhiều

đặc điểm khác nhau, nhưng đều gắn bó mật thiết với xã hội nông thôn qua

việc sử dụng các nguồn lực: mặt bằng sản xuất, nguyên liệu, lao động, thị

trường và các nguồn lực khác. Do vậy, sản phẩm đồ gỗ của công ty nghề

thường là kết quả của sự liên kết giữa công ty và gia đình hoặc là những công

ty, cơ sở sản xuất vệ tinh ở địa phương khác.

Về nguồn lực của công ty nghề

Cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens đòi hỏi phải phân tích

các nguồn lực và các quy tắc mà công ty nghề sử dụng để tạo ra cấu trúc xã

hội của công ty nghề và không ngừng tái tạo cấu trúc. Lý thuyết của Parsons

giúp xem xét cách thức mà các thành tố của công ty nghề với tính cách là một

hệ thống xã hội đã phân hóa và phát triển ở trình độ cao hơn hệ thống gia đình

nghề trong việc phân hóa cấu trúc và tái cấu trúc của công ty nghề. Tuy nhiên,

cũng cần thấy rằng trong bối cảnh làng nghề ở nông thôn, công ty nghề đang

hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa, sử dụng và phát huy các thế mạnh

của cấu trúc xã hội của gia ðình nghề nhằm đáp ứng các yêu cầu chức năng từ

môi trường sản xuất kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp. Do vậy, cả

nguồn lực và cả quy tắc mà công ty nghề huy động và sử dụng đều có những

điểm giống và khác với nguồn lực và quy tắc của gia đình nghề. Có thể thấy

rõ điều này từ những dữ liệu thu được trong khảo sát thực địa. Cụ thể như

sau:

Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình công ty nghề cũng có tính chất

gia đình và cũng bị ràng buộc bởi các quan hệ trong gia đình, quan hệ làng -

xã. Thực chất công ty nghề mang đậm nét quan hệ gia đình. Nguồn lao động

115

của công ty có tuyển lao động ở địa phương khác, song số thành viên trong

gia đình, họ hàng chiếm đến khoảng một phần tư số lao động trong công ty. Ở

mô hình công ty này có thể ông bố làm giám đốc công ty, con trai có thể là

Phó Giám đốc công ty phụ trách sản xuất và con dâu có thể là kế toán kiêm

giao dịch bán hàng, con rể làm thợ mộc... như vậy, một thành viên trong công

ty gia đình nghề đóng nhiều vai trò xã hội.

Nguồn lực của công ty nghề ở làng nghề còn thông qua việc thu hút thợ

giỏi từ những địa phương khác, phỏng vấn sâu một chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ

cho biết:

Lúc đó (những năm 1980) trong làng chỉ có thợ sơn mài, tôi đã dám

nghĩ, dám đi tìm thuê các thợ giỏi liên quan đến nghề đồ gỗ ở các

làng nghề nổi tiếng khác, như thợ khảm trai, cắt trai giỏi ở Chuyên

Mỹ, thuê thợ đục giỏi ở Hà Nam… về làm ở xưởng của gia đình tôi.

(PVS, nam, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).

Công ty nghề phần lớn tuyển người có tay nghề giỏi bên cạnh đó, họ

cũng thuê một số gia đình nghề cho một số công đoạn sản phẩm. Việc lựa

chọn các gia đình theo công đoạn (gia đình nghề chuyên đục vi tính, chuyên

vo trụ, chuyên chạm, khảm…), do Giám đốc công ty quyết định nhưng dựa

trên yếu tố anh em, họ hàng; và việc tuyển lựa người đã có tay nghề cũng

thông qua mạng lưới chính thức và phi chính thức, nhưng cách thức tuyển có

phần nào dựa vào sự quen biết. Phỏng vấn sâu một Giám đốc Công ty, làng

nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết:

Một số phương cách mới, mình thuê lại một vài gia đình có 2 vợ

chồng làm nghề tại hộ gia đình, họ có tay nghề, nhưng vốn ít, hoặc

mối hàng của họ không có nhiều thì mình đưa gỗ cho họ, sản xuất

theo yêu cầu, tiêu chuẩn của mình. Nếu không thì họ cũng vẫn đi

làm thuê bình thường, vì họ có tay nghề, sản xuất nông nghiệp bây

116

giờ nhàn nhiều. Vụ cấy hoặc vụ gặt thì diễn ra khoảng 10 ngày, có

cả máy gặt và phần lớn các hộ gia đình có nghề cho người khác cấy

ruộng, hoặc chỉ cấy diện tích đủ gạo ngon để gia đình ăn”. (PVS,

nam, Giám đốc công ty TNHH, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).

Công ty nghề thuê gia đình nghề gọi là “thầu phụ” thực hiện một khâu

nào đó của sản phẩm trong chuỗi sản xuất. Điều này đã tạo nên lợi thế cho cả

hai bên: Đối với gia đình nghề, làm thuê lấy tiền công và vẫn có lãi, đồng thời

không lo đầu tư vốn kinh tế cho đầu vào, thị trường tiêu thụ. Điều quan trọng

đối với gia đình nghề nhận làm hợp đồng đối với từng công đoạn sản xuất,

kinh doanh cho công ty nghề vì “cơm áo, gạo tiền” nên nhu cầu chủ yếu là

làm sao có hàng làm, để có việc làm. Đối với công ty chỉ cần khoán theo sản

phẩm, mặt bằng sản xuất tại hộ gia đình, không ăn nghỉ tại công ty như vậy

công ty nghề sẽ giảm được chi phí thuê lao động và những chi phí khác liên

quan. Kế quả khảo sát cho thấy, khi hộ gia đình tự làm nghề nếu không có

hiệu quả thì sau một vài năm kinh tế gia đình thường rất sa sút vì không bán

được nhiều hàng, khi đó có thể tìm cách “ăn bớt” nguyên liệu để cho giá

thành rẻ đi, bán được nhiều và vẫn có lãi, nhưng cách làm ăn này thường

không tồn tại được lâu dài. Vì vậy một số gia đình không tự làm nghề mà

tham gia cung ứng một số công đoạn sản phẩm cho các công ty nghề.

Công ty nghề thu hút được nhiều thợ giỏi trong làng nghề và những địa

phương khác bởi lẽ, phần lớn người thợ có trình độ tay nghề giỏi có tâm lý

không đến hộ gia đình sản xuất để làm thuê, mà thợ giỏi sẽ chọn cơ sở sản

xuất lớn để làm, bản thân công ty cũng trả tiền công xứng đáng cho người thợ

có tay nghề cao. Đa số công ty nghề có phát triển được phải nhờ những người

thợ giỏi, cách cư xử của Giám đốc với thợ giỏi thường rất tốt, lương trả cao

hơn, công ty nghề cần cái tinh hoa của thợ giỏi, nhưng các cơ sở bé khó thuê

117

được. Cụ thể, thợ giỏi ở công ty nghề ở làng nghề gỗ Vạn Điểm được trả mức

tiền công hàng tháng từ 7,5 triệu đồng đến 12 triệu đồng.

Điều đó cho thấy, trong quan hệ sản xuất của công ty nghề muốn sản

xuất tốt thì cần phải có hạt nhân, người thợ giỏi và có nhóm vệ tinh, đây là

quan hệ từng phần không phải là quan hệ trọn gói.

Trước đây, làng nghề sơn mài Hạ Thái, đa số thợ sơn mài là những

người nông dân trong làng, địa điểm sản xuất chủ yếu tại hộ gia đình, nên chủ

cơ sở sản xuất thường là chủ hộ gia đình. Phân công lao động trong gia đình

theo hình thức tự quản lý, trên cơ sở thời gian phù hợp giữa sản xuất nông

nghiệp với làm nghề truyền thống. Nhưng khi bước sang thời kỳ Đổi mới, lao

động trong làng nghề đã kết hợp với thuê khoán lao động ở một số địa

phương khác lận cận. Do vậy, lao động không bó hẹp trong các hộ gia đình ở

làng nghề mà còn lưu chuyển qua thị trường sức lao động.

Hiện nay, việc thuê mướn lao động làm nghề trong hai làng nghề Vạn

Điểm và Hạ Thái đã trở nên phổ biến. Điều này được lý giải là do quy trình

sản xuất chủ yếu là thủ công (chiếm từ 75-80%) công đoạn, nên làng nghề rất

cần sử dụng lao động trực tiếp, đặc biệt là lao động có trình độ tay nghề cao

và đội ngũ nghệ nhân như ở làng nghề sơn mài Hạ Thái. Phỏng vấn sâu một

cơ sở sản xuất sơn mài cho biết:

Xưởng sản xuất sơn mài hiện nay của gia đình chỉ có một vài người

làm, nên cô thuê 8 người thợ, trong đó có 2 nam làm phun sơn, vì

phun sơn cần lao động có sức khỏe, 6 nữ làm trang trí và các công

đoạn khác, riêng thợ vẽ thì thuê theo sản phẩm, những chi tiết khó

cô trực tiếp làm và hướng dẫn thợ” (PVS, nghệ nhân, chủ cơ sở sản

xuất sơn mài, làng nghề sơn mài Hạ Thái).

Về thu nhập bình quân của người lao động làm nghề thường cao hơn

lao động nông nghiệp tại địa phương khoảng 2 lần. Mức thu nhập bình quân

118

lao động nông nghiệp theo đầu người/tháng tại địa phương trong thời điểm

điều tra là 2,5 triệu đồng, trong khi đó mức tiền công trung bình của lao động

là 4,5 triệu đồng.

Hiện nay, số lao động do các công ty nghề và một số gia đình nghề thuê

chủ yếu từ các địa phương khác lân cận. Điều này được giải thích, đa số lao

động là người làng nghề chỉ đáp ứng làm ở các hộ gia đình trong làng.

Các quy tắc của công ty nghề

Để công ty nghề thành lập phát triển, công ty phải dựa vào các quy tắc

chính thức đó là hệ thống luật và quy định hiện hành của nhà nước có liên

quan về sản xuất, buôn bán và chế biến lâm sản, đồ gỗ như: Luật Lao động,

Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã … và Điều lệ của công ty, quy định của

địa phương. Ngoài ra, còn có những quy tắc xuất phát từ gia đình như: khi

thành lập được sự nhất trí cao của thế hệ trước (ông/bà) đã từng làm nghề đồ

gỗ, điều đó chứng tỏ có sự kế thừa và tái cấu trúc quy tắc gia đình.

Trong số lao động của công ty nghề có người là thành viên của gia đình

hoặc họ hàng nhưng quy tắc nghề nghiệp chi phối nhiều tới các thành viên

của công ty: mặc dù người thợ có là cháu trong dòng họ nhưng phải chấp

hành đúng kỷ luật lao động, phải trung thực như những người khác, nếu làm

không nghiêm túc hoặc không làm được thì cho nghỉ việc. Tìm hiểu người thợ

ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết: để làm được một chiếc tủ chè, phải

thực hiện rất nhiều công đoạn như: pha gỗ, đóng nhân, đục phá, tuồng hậu,

đục kỹ, cánh bệ, đóng cánh, nong tủ, đánh dầu,... người thợ không thể bỏ qua

một thao tác nào. Quy tắc pha gỗ, cũng giống như người thợ may khi cắt một

miếng vải, người thợ giỏi biết lựa được gỗ để sử dụng tối đa cây gỗ đó, thì

công của người ta theo ngày rất cao, vì thợ giỏi có thể làm lợi ra tiền triệu,

ngược lại thợ xẻ tay nghề thấp lựa gỗ thì mất đi cả tiền triệu. Do vậy, có thể

trả họ 300.000 đồng đến 400.000 đồng một ngày công thì vẫn là rẻ. Những

119

người làm ở công ty nghề chủ yếu là thợ giỏi, vì khâu hoàn thiện rất quan

trọng. Chẳng hạn như công đoạn nong tủ đòi hỏi người thợ phải có tay nghề

cao thì các bộ phận, họa tiết mới gắn thành một khối, hài hòa; còn thợ đánh

giấy ráp đơn giản hơn nhưng cũng đòi hỏi một kỹ nãng thành thạo.

Đa số những chi tiết khó vẫn làm bằng thủ công, còn các hoa văn

hiện nay có thể dùng máy như máy đục vi tính, sau người thợ đó

sửa lại cho nó tinh hoa bằng tay. Máy đục vi tính, máy tiện,v.v. thì

có thể sản xuất hàng loạt, nhưng những người “sành chơi” đồ gỗ

mỹ nghệ cao cấp thì tâm lý họ lại không muốn sản phẩm làm bằng

máy. (PVS nam, Giám đốc công ty TNHH, làng nghề đồ gỗ Vạn

Điểm).

Đối với công ty nghề sơn mài một Quy tắc cơ bản, quan trọng là: công

ty nghề đem đến cho quý khách hàng những sản phẩm chất lượng, tinh sảo,

giàu tính nghệ thuật. Quy tắc khoán sản phẩm cho gia đình nghề, cho thợ.

Công ty nghề ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, không thuê nhiều thợ tại

xưởng, mà thuê một số gia đình nghề, thợ giỏi làm bán công đoạn trong một

quy trình sản xuất, bởi như thợ chuyên đục, thợ chuyên khảm, người chuyên

vẽ… Mặt khác, công ty nghề liên kết với nhiều làng nghề trong vùng đồng

bằng sông Hồng với nhau qua mạng lưới sản xuất như nhập chất liệu, nguyên

liệu đầu vào. Đối với sản phẩm sơn mài cốt gốm (gốm Bát Tràng), cốt gỗ

(tiện Nhị Khê), làng nghề dát vàng, dát bạc (Kiêu Kỵ)…

Kết quả khảo sát thực tế tại hai làng nghề, tác giả khái quát một số đặc

điểm của mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề như sau:

120

Bảng 3.16: Một số đặc trưng cơ bản của mô hình gia đình nghề và

mô hình công ty nghề

TT Đặc trưng Gia đình nghề Công ty nghề

1 Tên cơ sở sản

tên xuất

2 Địa điểm sản

thành

xuất 3 Căn cứ lập

4 Số năm Cơ sở sản xuất ... (thường kết hợp chồng và vợ hoặc con) Tại gia đình và khu quy hoạch làng nghề Dựa vào quan hệ gia đình để thành lập 15 năm Công ty TNHH ... (Thường mang một ý nghĩa nào đó hoặc thương hiệu) Tại khu quy hoạch làng nghề Dựa vào quy định pháp luật và quan hệ gia đình 5 năm

làm nghề trung bình

5 Số lao động

20-30 lao động (5 người họ hàng, gia đình và người khác, người làm thuê)

6 Người quản lý

2-10 người (chồng, vợ hoặc người khác có quan hệ gia đình và người làm thuê) Nam/nữ chủ hộ gia đình, có tay nghề cao

7 Cách thức tuyển

lao động

8 Cơ thuê

chế mướn lao động

Nam giám đốc có tay nghề và trình độ quản lý được đào tạo Tuyển trực tiếp qua mạng lưới giới thiệu việc làm chính thức và phi chính thức Thuê theo Hợp đồng lao động được ký kết giữa người lao động và giám đốc công ty. Khoán sản phẩm.

9 Tiền công

từ đến

10 Phân công lao

động

Trả theo tháng, tay nghề thợ giỏi Tiền công đồng 7.500.000 12.000.000 đồng/tháng Giám đốc: quản lý chung, giao dịch, tìm khách hàng và thị trường bán hàng Kế toán: phụ trách sổ sách Thợ làm thuê Hệ thống gia đình nghề

Tuyển trực tiếp trong quá trình học nghề và qua mạng lưới phi chính thức Thuê theo hợp đồng miệng, Tiền công nhật (4 người) và tiền công khoán sản phẩm (1 người) Khoán ngày: mức trung bình 220.000 đồng/ngày + ăn trưa. Khoán sản phẩm Chồng: Quản lý từ đầu vào đến đầu ra sản phẩm đồ gỗ, trực tiếp sản xuất Vợ: Quản lý bán hàng, hoặc đánh giấy ráp Thợ làm thuê

121

11 Thị trường tiêu Chủ yếu trong nước Trong nước và nước ngoài

thụ

12 Kiểu quan hệ xã

hội

13 Mức sống 14 Vốn kinh tế

Trọng lý: Chủ yếu dựa trên kiểu quan hệ chức năng, thị trường Khá giả, giàu Gia đình, vay ngân hàng. (thường trên 5 tỷ đồng).

15 Công nghệ

16 Quản lý doanh

thu Chủ yếu thủ công, máy móc hiện đại Có kế toán, sổ sách, tính dài hạn

17 Thu nhập phụ

Không trồng trọt, mà cho người khác làm thuê ruộng.

18 Mạng lưới thuê,

thầu phụ Trọng tình: Chủ yếu dựa trên yếu tố gia đình, thân quen. Trung bình khá Gia đình, bố mẹ, vay ngân hàng (thường dưới 5 tỷ đồng). Chủ yếu thủ công, máy móc đơn giản Không có người kế toán, tính lãi theo bộ, tính ngắn hạn Chăn nuôi, trồng trọt: cấy vài sào ruộng để lấy gạo ngon gia đình ăn Tùy thời vụ, thuê thêm lao động khi nhiều hàng

19 Trình độ thợ 20 Khẩu

hiệu/phương châm Thợ học việc, thợ giỏi Chất lượng đúng với giá tiền. Tiền nào của nấy.

Thuê lại trung bình 10 cơ sở gia đình nghề trong làng và ngoài làng. Thuê theo công đoạn sản phẩm Chủ yếu thợ giỏi - Sản phẩm đẹp: Phải chứng minh bằng chứng thực tế. Chỉ có thật mới tồn tại mãi mãi. (Công ty nghề đồ gỗ). - Chữ “Tín” quý hơn vàng. Sự hài lòng của quý khách là sự thành công của chúng tôi (Công ty nghề sơn mài).

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

122

Nguồn lực

Nhà xưởng 6000 m2

Máy móc đơn giản.

Máy móc hiện đại: máy cưa, máy đục gỗ vi tính

Gia đình nghề

Số lượng thợ 20: người trong đình, họ hàng 70%, người làng 30%

Số lượng thợ 80: làm tại xưởng 18 thợ; người trong gia đình, họ hàng có 20%, người làng, nơi khác có 60%.

Gia đình nghề

Vốn 65 triệu đồng

Vốn trên 20 tỷ

Công ty duy trì và phát triển

Thành lập công ty

Thời gian

Năm 2013

Năm 1992

Biểu 3.4: Biểu đồ các nguồn lực của công ty nghề

(Trường hợp công ty nghề đồ gỗ Đ.T.)

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Kết quả điều tra cho thấy, mô hình gia đình nghề chiếm đại đa số trong

làng nghề, đồng thời đang được cấu trúc hóa nhờ vai trò chủ hộ gia đình nghề

kết hợp các nguồn lực và các quy tắc phù hợp. Bên cạnh đó, làng nghề còn có

mô hình công ty nghề. Có thể nói, sự phát triển của mô hình công ty nghề là

tương lai của làng nghề, nhưng tương lai này đến sớm hay muộn còn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố huy động những nguồn lực mới và

quy tắc mới cần cho cấu trúc hóa các mô hình xã hội - nghề nghiệp của các hộ

gia đình nghề.

123

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 mô tả khái quát về đặc điểm, tính chất của các phân hệ cấu

trúc xã hội làng nghề ở đồng bằng sông Hồng; làng nghề ở huyện Thường

Tín, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở các dữ liệu định tính và định lượng do tác

giải thu thập và xử lý, luận án đã phân tích, tổng hợp và đánh giá thực trạng

một số phân hệ cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, cụ thể là các

phân hệ cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội -

nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống. Chương 3 phát hiện và làm rõ hai

mô hình cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề. Đó là mô hình gia đình nghề và

mô hình công ty nghề. Việc áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội

của Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens, cho phép tác giả vừa mô tả

vừa, giải thích cơ chế hoạt động và tương tác của các thành phần tạo nên cấu

trúc xã hội của gia đình nghề và công ty nghề với tính cách là hai loại hệ

thống xã hội. Cả gia đình nghề và công ty nghề với tính cách là hệ thống xã

hội đều có cấu trúc xã hội gồm các bộ phận, thành tố nhất định nhằm đáp ứng

các yêu cầu chức năng đặt ra từ làng nghề mà cả gia đình nghề và công ty

nghề đều là những tiểu hệ thống. Cả gia đình nghề và công ty nghề đều huy

động và sử dụng các nguồn lực và quy tắc khác nhau để hoạt động, mà thông

qua các hoạt động đó cấu trúc xã hội được hình thành, thể hiện và tái tạo một

cách khác nhau nhưng không biệt lập nhau.

Mô hình công ty nghề mới ra đời và hoạt động theo pháp luật về công

ty, trong khi đó mô hình gia đình nghề đã có lịch sử lâu năm và hoạt động

theo các quy định pháp luật về kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình. Nhưng cả

hai mô hình cấu trúc xã hội - nghề nghiệp này đều dựa vào cấu trúc xã hội -

gia đình để hoạt động một cách thích nghi có hiệu quả đối với môi trường

pháp lý, văn hóa, kinh tế, xã hội của làng nghề. Gia đình nghề thường là các

vệ tinh, các thầu phụ của công ty nghề. Đồng thời công ty nghề cũng dựa vào

124

cấu trúc xã hội gồm các vị thế, vai xã hội và mạng lưới xã hội của gia đình để

hoạt động và phát triển.

Cần thấy rằng cấu trúc xã hội của gia đình nghề và công ty nghề đều

thuộc phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp. Việc tóm tắt nhiều nội dung của

cấu trúc xã hội gia đình nghề và công ty nghề chứng tỏ rằng cấu trúc xã hội -

nghề nghiệp là cốt lõi của cấu trúc xã hội làng nghề, trong đó có các phân hệ

khác như đã được phân tích kỹ trong chương 3 này.

125

Chương 4

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN

LÀNG NGHỀ VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP

4.1. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ

DÂN LÀNG NGHỀ

4.1.1. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - mức sống

4.1.1.1. Yếu tố giới

Cấu trúc xã hội dân số của cư dân làng nghề được thể hiện trên nhiều tiểu

cấu trúc: giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn của chủ hộ gia đình. Mối quan hệ

với cấu trúc xã hội - mức sống (thông qua chỉ báo thu nhập). Kết quả điều tra

cho thấy, cấu trúc giới tính và độ tuổi có sự chi phối, tác động nhất định. Trong

mối quan hệ giữa giới tính của chủ hộ gia đình với thu nhập trung bình một

tháng của chủ hộ gia đình, tỷ lệ trả lời trong 5 nhóm thu nhập ở cả nam và nữ có

sự đa dạng và khác biệt. Đó là, với 5 nhóm thu nhập, tỷ lệ trả lời từ thấp nhất đến

cao nhất ở nam giới là: nhóm IV - 17%, nhóm V (thấp nhất) - 17,3%, nhóm III -

21,3%, nhóm II - 22,5%, nhóm I - 21,9%; ở nữ giới là: nhóm II - 11,5%, nhóm I

(cao nhất) - 13,5%, nhóm III (trung bình) - 15,6%, nhóm V (thấp nhất) - 29,2%,

nhóm IV - 30,2% (xem Bảng 4.1).

Bảng 4.1: Thu nhập trung bình một tháng của chủ cơ sở sản xuất

theo giới tính chủ hộ* Đơn vị tính: %

Giới tính 5 nhóm thu nhập

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất)

Nữ 13,5 11,5 15,6 30,2 29,2 96 Nam 21,9 22,5 21,3 17,0 17,3 329 Tổng (N = 425)

* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Bảng 4.1 cũng cho biết, có tỷ lệ trả lời khác nhau về thu nhập bình quân

126

một tháng giữa chủ cơ sở sản xuất là nam và nữ. Nếu như, tỷ lệ trả lời cao

nhất của nam giới ứng với mức thu nhập ở nhóm II (nhóm có thu nhập trên

trung bình) với 22,5%, thì tỷ lệ trả lời cao nhất của nữ giới lại ứng với mức

thu nhập ở nhóm IV, với 30,2%. Hay tỷ lệ trả lời thấp nhất của nữ ứng với

nhóm II (11,5%), thì ở nam lại ứng với nhóm IV (17,0%). Cũng trong các

mức thu nhập, từ nhóm V đến nhóm I, dường như có sự tăng dần về tỷ lệ trả

lời ở nam giới (trừ tỷ lệ trả lời ở nhóm II); ở nữ giới, dường như tỷ lệ trả lời

lại tập trung nhiều ở mức thu nhập thấp nhất hoặc dưới mức trung bình (nhóm

V và nhóm IV). Điều này chứng tỏ, không chỉ nói lên sự khác biệt về thu

nhập giữa nam và nữ, mà còn cho thấy ở làng nghề, chủ hộ cơ sở sản xuất là

nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới.

4.1.1.2.Yếu tố tuổi

Trong mối quan hệ giữa độ tuổi của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất

với nhóm thu nhập, ở ba nhóm tuổi và năm mức thu nhập, thấy rằng: có sự

tăng lên ở nhóm có thu nhập cao nhất (nhóm I) tập trung độ tuổi trên 50 tuổi -

29,5%, tỷ lệ trả lời rất thấp cho mức thu nhập thuộc nhóm I (thấp nhất), chỉ có

6,2%. Mức thu nhập thuộc nhóm II và III ở độ tuổi từ 41 đến 50, tỷ lệ trả lời

gần ngang nhau (14,9% và 14,2%) (Bảng 4.2).

Bảng 4.2: Thu nhập của hộ gia đình theo độ tuổi*

Đơn vị tính: %

5 nhóm thu nhập

≤ 40 tuổi

Trên 50 tuổi

Độ tuổi Từ 41-50 tuổi

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình)

17,0 24,2 17,6 13,9 27,3 165

16,2 14,9 14,2 32,4 22,3 148

29,5 20,5 31,3 12,5 6,2 112

Nhóm IV Nhóm V (nhấp nhất) Tổng (N = 425)

* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

127

Cũng ở bảng 4.2, nếu so sánh thu nhập giữa các độ tuổi, thì ở nhóm

tuổi ≤ 40 (≤ nhỏ hơn hoặc bằng) và trên 50 tuổi dù có khuynh hướng giống

nhau về tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập cao nhất (cùng có tỷ lệ trả lời cao nhất

cho mức thu nhập thuộc nhóm I - 17,0% và 29,5%), nhưng lại có sự khác

nhau rõ ràng về tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập thấp nhất (ở mức thu nhập

thuộc nhóm V, độ tuổi ≤ 40 là 27,3%, độ tuổi trên 50 tuổi là 6,2%). Ở cả ba

độ tuổi, thì nhóm từ 41 đến 50 tuổi lại có tỷ lệ trả lời cao nhất cho mức thu

nhập thuộc nhóm IV - 32,4%. Hay nếu chỉ tính riêng mức thu nhập thuộc

nhóm V (thấp nhất) cho cả ba nhóm tuổi, thì thấy có tỷ lệ nghịch về tỷ lệ trả

lời, đó là tuổi càng thấp, tỷ lệ trả lời lại càng cao và ngược lại: ≤ 40 tuổi -

27,3%, từ 41 đến 50 tuổi - 22,3% và trên 50 tuổi - 6,2%. Còn với mức thu

nhập ở nhóm I (cao nhất) lại có tỷ lệ cao nhất ở độ tuổi trên 50 tuổi là 29,5%,

ở độ tuổi dưới 40 tuổi có 17,0% , tỷ lệ trả lời ở độ tuổi từ 41 đến 50 tuổi là

16,2%.

Điều này lại cho thấy, tính hợp lý của người trả lời, vì trong phát triển

kinh tế làng nghề, yếu tố tuổi có vai trò hết sức quan trọng, tuổi càng cao, tay

nghề càng cao, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh càng nhiều.

4.1.1.3. Yếu tố loại nghề của hộ gia đình

Trong mối quan hệ giữa cấu trúc xã hội - mức sống thì loại nghề của

gia đình cư dân làng nghề với ba nhóm nghề nghiệp chính: chỉ làm nghề

truyền thống, làm nông nghiệp và nghề truyền thống, không làm nghề truyền

thống và năm nhóm thu nhập, thấy rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa loại hình

nghề nghiệp gia đình với thu nhập của gia đình. Đó là, hộ gia đình chỉ làm

nghề truyền thống, không ai trả lời có mức thu nhập ở nhóm V (thấp nhất),

ngược lại hộ gia đình không làm nghề truyền thống lại không ai trả lời cho

mức thu nhập ở nhóm I (cao nhất), (xem Bảng 4.3).

128

Bảng 4.3: Thu nhập hộ gia đình làng nghề theo loại nghề hộ gia đình*

Đơn vị tính: %

Chỉ làm nghề truyền thống

5 nhóm thu nhập

Không làm nghề truyền thống 0,0 2,2 44,4 16,7 36,7 90

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 515) Loại nghề của hộ gia đình Làm nông nghiệp và nghề truyền thống 23,1 22,0 12,6 23,1 19,2 364 31,1 34,4 27,9 6,6 0,0 61

* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Bảng 4.3, ở gia đình chỉ làm nghề truyền thống có sự tăng dần về thu

nhập, nếu như ở mức thu nhập thuộc nhóm V, tỷ lệ trả lời 0,0%, nhóm IV -

6,6%, thì nhóm III (trung bình) là 27,9%, nhóm II là 34,4% và nhóm I là

31,1%. Mức thu nhập ở nhóm II (trên trung bình) của gia đình chỉ làm nghề

truyền thống là cao nhất, so với các gia đình vừa làm nông nghiệp vừa làm

nghề truyền thống (22,0%) và gia đình không làm nghề truyền thống (2,2%).

Gia đình không làm nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời tập trung cao cho mức

thu nhập thuộc nhóm III (44,4%) và nhóm V (36,7%), nhưng lại có tỷ lệ trả

lời thấp, thậm chí rất thấp cho mức thu nhập thuộc nhóm II và nhóm I (2,2%

và 0,0%). Gia đình làm nông nghiệp kết hợp với nghề truyền thống có tỷ lệ trả

lời thấp nhất cho mức thu nhập trung bình (nhóm III), với 12,6 và cao nhất

cho mức thu nhập thuộc nhóm I và nhóm IV đều là 23,1%.

Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa loại nghề nghiệp gia đình với mức thu

nhập thuộc nhóm V (thấp nhất) và nhóm I (cao nhất), cho thấy sự nghịch

chiều về tỷ lệ số chủ hộ trả lời. Nếu như ở mức thu nhập thuộc nhóm V, tỷ lệ

trả lời tăng dần ở các gia đình chỉ làm nghề truyền thống, vừa làm nghề

truyền thống vừa làm nghề nông và không làm nghề truyền thống (từ 0,0%

129

lên 19,2%, rồi 36,7%), thì ở mức thu nhập thuộc nhóm I lại có tỷ lệ trả lời

theo hướng ngược lại (từ 31,1% xuống 23,1%, rồi 0,0%).

Điều này chứng tỏ, giữa loại nghề nghiệp của gia đình và thu nhập của

gia đình (chủ hộ gia đình) có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và nghề nghiệp có

tác động đến thu nhập. Hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống có thu nhập

càng cao hơn hộ gia đình không làm nghề truyền thống.

4.1.1.4. Yếu tố thâm niên làm nghề truyền thống

Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp được thể hiện thông qua số năm làm

nghề của hộ gia đình nghề và giới tính, độ tuổi của chủ cơ sở sản xuất nghề.

Đây cũng là những thành phần cơ bản được xác định trong mối quan hệ với

cấu trúc xã hội - mức sống về thu nhập (thu nhập trung bình một tháng của

chủ hộ gia đình làm nghề)

Trong mối quan hệ giữa số năm làm nghề gia đình nghề, cơ sở sản xuất

với thu nhập, kết quả khảo sát cho thấy, cơ sở sản xuất có thâm niên làm nghề

lâu thì có tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập lớn nhất (nhóm I) cao nhất 51,1%.

Ngược lại, hộ gia đình nghề có thâm niên làm nghề ít, thì có tỷ lệ trả lời cho

mức thu nhập thấp nhất (nhóm V) cao nhất - 44,9% (Bảng 4.4).

Bảng 4.4: Thu nhập của hộ gia đình theo số năm làm nghề*

Đơn vị tính: %.

5 nhóm thu nhập

Dưới 10 năm 3,4 6,8 14,6 30,3 44,9 89

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình)

Trên 20 năm 51,1 23,4 23,4 2,1 0,0 47

Số năm làm nghề Từ 10-20 năm 20,1 23,5 21,1 19,7 15,6 289 Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 425)

* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

130

Bảng 4.4 cũng chỉ ra, số năm làm nghề của gia đình, cơ sở sản xuất có

mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập của chủ hộ gia đình. Ở các mức thu nhập từ

trung bình trở xuống, có sự nghịch chiều về tỷ lệ trả lời, đó là cơ sở sản xuất

càng lâu năm thì tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập thấp càng giảm. Chẳng hạn,

với mức thu nhập thuộc nhóm IV, tỷ lệ trả lời cho gia đình nghề, cơ sở sản

xuất có thâm niên dưới 10 năm là 30,3%; từ 10 đến 20 năm là 19,7% trên 20

năm là 2,1%. Ở mức thu nhập thuộc nhóm II và (cao hơn mức trung bình) lại

có tỷ lệ trả lời theo xu hướng ngược lại như: ở mức thu nhập thuộc nhóm I

(cao nhất), tỷ lệ trả lời cho gia đình nghề, cơ sở sản xuất có thâm niên trên 20

năm là 51,1%; từ 10 đến 20 năm là 20,1%; dưới 10 năm là 3,4%. Phải chăng,

gia đình nghề, cơ sở sản xuất lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất

các sản phẩm từ nghề truyền thống, có nhiều tiền vốn và vốn xã hội để kinh

doanh… nên mang lại nhiều lợi nhuận và có thu nhập cao hơn các cơ sở sản

xuất ít năm làm nghề.

4.1.2. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - gia đình

4.1.2.1. Yếu tố số lao động làm nghề trong gia đình

Cơ cấu số thành viên trong gia đình nghề trong làng nghề phụ thuộc

vào nhiều yếu tố, song quy mô gia đình các hộ làm nghề ở làng nghề có thể

được hình thành trên cơ sở số nhân khẩu phụ thuộc vào số lao động làm nghề

(truyền thống) của gia đình trong làng nghề. Số lao động trong gia đình nghề

trong làng nghề chủ yếu là thành viên trong gia đình, có đến 70,8% (301/425)

số chủ hộ gia đình nghề, được hỏi trả lời “Lao động chủ yếu là người trong

gia đình”. Gia đình nghề thông thường có từ 1 đến 2 lao động tham gia trực

tiếp vào việc sản xuất - kinh doanh, tiếp đến là có 3 lao động của gia đình

nghề. Tỷ lệ trả lời ở hộ gia đình có 4 người tập trung chủ yếu cho số lao động

làm nghề truyền thống là 1-2, với 62,0%. Tỷ lệ này cao gấp khoảng hai lần tỷ

lệ trả lời cho số nhân lực làm nghề truyền thống là 3 và 4 lao động, với 31,2%

131

và 30,8%. Gia đình nghề có 3, 4 lao động làm nghề truyền thống này lại tập

trung nhiều hơn ở hộ gia đình có 5 hay từ 6 người trở lên (xem Bảng 4.5).

Bảng: 4.5. Quy mô gia đình, theo số lao động làm nghề truyền thống

Đơn vị: %

Quy mô hộ gia đình

Từ 1-3 người 4 nguời 5 người ≥ 6 người Tổng (N = 425) Số lao động làm nghề truyền thống 3 lao động 11,3 31,2 41,3 16,2 80 4 lao động 0,0 30,8 34,6 34,6 26

1-2 lao động 20,0 62,0 11,0 6,9 319 Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Bảng 4.5 cho biết, tỷ lệ trả lời ở hộ gia đình có 5 người nhưng lại có 3

lao động làm nghề truyền thống chiếm cao nhất, với 41,3%; tỷ lệ trả lời ở hộ

gia đình có 5 hoặc 6 người trở lên thì tương đối đồng đều ở cả 2 nhóm hộ gia

đình có 4 người làm nghề truyền thống, với 34,6%. Nguồn nhân lực tham gia

lao động làm nghề trong gia đình nghề ở 4 lao động dẫn đến quy mô gia đình

từ 5 - 6 người biểu hiện rõ nét ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm.

Những đánh giá này chỉ ra, hộ gia đình càng ít người thì số lao động

làm nghề truyền thống ít càng chiếm đa số và hộ gia đình nhiều người lại

càng có nhiều lao động làm nghề truyền thống hơn hộ gia đình ít người. Bởi

vì, trên thực tế địa bàn khảo sát, không phải gia đình nào cũng có tất cả lao

động làm nghề truyền thống; những lao động của gia đình còn có các nghề

khác để làm như: cán bộ xã, công chức, lái xe, làm dịch vụ, giáo viên… Hay

chỉ đơn giản, do số lao động trong gia đình ít có ít lao động làm nghề truyền

thống.

4.1.2.2. Yếu tố tuổi

Độ tuổi của chủ hộ phần nào tác động đến số thế hệ cùng chung sống

trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình ở làng nghề. Trong các gia đình 1 thế

132

hệ, tỷ lệ trả lời cho độ tuổi của chủ hộ có sự giảm dần. Nếu như chủ hộ dưới

40 có tỷ lệ người đánh giá cao nhất, với 14,7%, thì độ tuổi của chủ hộ từ 40

đến 50 là 8,5% và trên 50 tuổi là 6,1%. (xem Bảng 4.6).

Bảng 4.6: Số thế hệ trong gia đình, theo độ tuổi của chủ hộ gia đình

Đơn vị: %

Độ tuổi của chủ hộ gia đình Dưới 40 tuổi Từ 40-50 tuổi Trên 50 tuổi 8,5 80,1 6,1 72,3 14,7 75,9

Số thế hệ trong gia đình 1 thế hệ 2 thế hệ ≥ 3 thế hệ

(N = 515) 9,4 191 11,4 176 21,6 148

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Bảng 4.6, trong các gia đình 1 thế hệ, tỷ lệ trả lời cho độ tuổi của chủ

hộ có sự giảm dần. Nếu như chủ hộ dưới 40 có tỷ lệ người đánh giá cao nhất,

với 14,7%, thì độ tuổi của chủ hộ từ 40 đến 50 là 8,5% và trên 50 tuổi là

6,1%. Số liệu trong bảng cũng cho biết, tỷ lệ đánh giá giữa gia đình có 2 thế

hệ với độ tuổi của chủ hộ chiếm tỷ lệ cao ở tất cả các lứa tuổi, trong đó, tỷ lệ

trả lời cao nhất là 80,1% và thấp nhất là 72,3%. Tỷ lệ trả lời này cao nhất

trong số các đánh giá của người trả lời giữa số thế hệ của gia đình với độ tuổi

của chủ hộ. Ngoài ra, người trả lời cũng đánh giá, gia đình có số thế hệ lớn

hơn hoặc bằng 3 cao nhất ở lứa tuổi trên 50 của chủ hộ.

Những đánh giá của người trả lời về mối quan hệ giữa số thế hệ trong

gia đình với tuổi của chủ hộ gia đình cũng phản ánh đúng thực trạng gia đình

ở địa bàn khảo sát hiện nay. Đó là, gia đình có 1 thế hệ thường gặp ở những

đôi vợ chồng trẻ mới lập gia đình, chưa có con và muốn sống riêng nên đã

tách hộ với bố mẹ, do đó độ tuổi của chủ hộ dưới 40 có tỷ lệ đánh giá cao

nhất; gia đình 2 thế hệ có tỷ lệ đánh giá cao ở tất cả các lứa tuổi, vì gia đình

hiện nay càng ngày càng phát triển theo xu hướng gia đình hạt nhân chỉ có bố

133

mẹ và con cái; gia đình có số thế hệ lớn hơn hoặc bằng 3 đánh giá cao nhất

cho lứa tuổi lớn nhất của chủ hộ, vì tính tôn ti trật tự trong gia đình của người

Việt Nam.

4.1.3. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - nghề nghiệp

4.1.3.1. Yếu tố giới

Trong mối quan hệ giữa giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của

hộ gia đình thấy rằng, ở hộ gia đình chỉ làm nghề truyền thống và hộ gia đình

làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống, tỷ lệ trả lời giới tính của chủ hộ là

nam đều cao hơn chủ hộ là nữ với 14,9% và 72,6% (bảng 4.7).

Bảng 4.7: Giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia

đình*

Đơn vị tính: %, N = 515

Giới tính của chủ hộ gia đình Chung Loại nghề của hộ gia đình Nam Nữ

14,9 3,6 11,8

72,6 65,5 70,7

Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

12,5 30,9 17,5

Chung 100 100 100

* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Kết quả ở bảng 4.7 cũng cho thấy, ở hộ gia đình không làm nghề truyền

thống, tỷ lệ đánh giá của người trả lời theo hướng ngược lại cho chủ hộ gia

đình là nữ giới cao hơn nam giới, với 30,9% so với 12,5%. Phải chăng, yếu tố

loại nghề của hộ gia đình, như ở hộ gia đình có làm nghề truyền thống có sự

chi phối nhất định đến giới tính của chủ hộ. Bởi vì, trong làm nghề truyền

thống, nhất là nghề đồ gỗ, yếu tố sức khoẻ và sự nhanh nhạy trong công việc

của nam giới rất quan trọng nên nam giới có vai trò quan trọng trong làm

134

nghề thì thường giữ vai trò chủ hộ. Do đó, có tỷ lệ đánh giá cho nam chủ hộ

cao hơn nữ chủ hộ.

Ngược lại, với gia đình không làm nghề truyền thống và làm các nghề

như buôn bán, làm hàng mã, may mặc…, thì vai trò của người nữ giới lại

chiếm ưu thế, vì sự khéo léo và tính nữ của nữ giới phù hợp hơn. Bên cạnh

đó, khi đặt trong mối tương quan giữa giới tính với loại nghề của hộ gia đình

theo thu nhập thì thấy rằng, hộ gia đình không làm nghề truyền thống, nữ giới

có thu nhập cao hơn nam giới. Yếu tố kinh tế chính là nguyên nhân quan

trọng để chủ hộ là nữ giới có tỷ lệ trả lời cao hơn chủ hộ là nam giới ở hộ gia

đình không làm nghề truyền thống (với nữ 30,9% và nam 12,5%).

Năm 1991 tôi tham gia vào hội đồng nhân dân huyện một khóa.

Nhờ đó đã đề xuất với cơ quan chức năng giúp đỡ các làng nghề về

vốn và các hoạt động của hội để mở rộng sản xuất. Phòng kinh tế

huyện mở lớp tập huấn hướng dẫn cách kinh doanh; trung tâm y tế

huyện hỗ trợ việc khám chữa bệnh cho chị em.

(PVS, nữ nghệ nhân sơn mài, làng nghề sơn mài Hạ Thái)

4.1.3.2. Yếu tố tuổi

Mối quan hệ giữa độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia

đình, nhóm hộ gia đình chỉ làm nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời ở độ tuổi của

chủ hộ trên 50 (chiếm 6,1%) thấp hơn độ tuổi của chủ hộ dưới 40 tuổi (chiếm

13,1%) và từ 40 đến 50 tuổi (chiếm 15,3%), (xem Bảng 4.8).

135

Bảng 4.8: Độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình

Đơn vị: %, N = 515.

Chung Độ tuổi của chủ hộ gia đình Dưới 40 tuổi Từ 40-50 tuổi Trên 50 tuổi

13,1 15,3 6,1 11,8

73,3 68,8 69,6 70,7

13,6 15,9 24,3 17,5 Loại nghề của hộ gia đình Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

Chung 100 100 100 100

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống, có tỷ lệ trả lời cao

và tương đối đồng đều ở tất cả các nhóm tuổi của chủ hộ gia đình. Hộ không

làm nghề truyền thống lại có tỷ lệ đánh giá thuận chiều với nhóm tuổi của chủ

hộ, nghĩa là tuổi của chủ hộ càng cao thì có thể ít tham gia không làm nghề

truyền thống. Tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ này: nhóm tuổi trên 50 là 24,3%,

từ 40 đến 50 tuổi là 15,9% và dưới 40 tuổi là 13,6%. Nếu so sánh trong cùng

một nhóm tuổi với loại nghề của hộ gia đình thấy rằng, hộ gia đình làm cả

nghề nông và nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời cao nhất. Ðặc biệt, ở nhóm

tuổi trên 50 của chủ hộ gia ðình, nếu như hộ gia đình làm nghề truyền thống

chỉ trả lời với 6,1%, thì hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống là

69,6% và hộ gia đình không làm nghề truyền thống là 24,3%.

Điều này chứng tỏ, trong các loại nghề của hộ gia đình, độ tuổi của chủ

hộ gia đình ứng với hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống chiếm

đa số. Bởi vì, khi nghiên cứu số liệu ở địa bàn khảo sát giữa các nhóm tuổi

của chủ hộ với loại nghề của hộ gia đình theo kinh tế được biết, tỷ lệ trả lời

cho mối quan hệ giữa nhóm tuổi với nghề nông và nghề truyền thống của gia

đình ứng với thu nhập của gia đình khá giả trở lên có tỷ lệ trả lời khá cao, cao

136

hơn nhiều so với loại nghề khác của hộ gia đình. Chẳng hạn, nếu tỷ lệ trả lời ở gia

đình có kinh tế khá giả trở lên, làm cả nghề truyền thống và nghề nông, có nhóm

tuổi của chủ hộ dưới 40 là 73,3%, thì tỷ lệ trả lời tương ứng ở gia đình chỉ làm

nghề truyền thống chỉ là 13,1%.

4.1.5 Các yếu tố vĩ mô tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng

nghề

4.1.5.1. Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của làng - xã

Làng Vạn Điểm và Làng Hạ Thái đang cùng phát triển nghề truyền thống

là đồ gỗ và sơn mài, nhưng do lịch sử hình thành và loại hình nghề truyền thống

khác nhau nên hai làng có những đặc trưng riêng. Từ những đặc trưng riêng này

các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cũng có những chi phối, tác động

khác nhau nhất định đến từng làng nghề.

Phát triển làng nghề đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời

sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng cư dân làng nghề. Hay nói cách khác,

nhờ làm nghề sơn mài, đời sống của cư dân làng nghề đã được cải thiện và trở nên

khá giả, bộ mặt nông thôn đã được đổi mới, nhiều hộ gia đình đã trở thành cơ sở

sản xuất làm ăn phát đạt, qua cấu trúc xã hội mức sống. Cụ thể ở làng nghề sơn

mài Hạ Thái có 7% hộ giàu, 36% hộ khá và 57% hộ trung bình và chỉ có 1% hộ

nghèo [101]. Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm gồm: 8% hộ giàu, 29% hộ khá và 56%

hộ trung bình và chỉ có 2% hộ nghèo và 5% tỉ lệ hộ dưới trung bình [98]. Theo

ông Chủ tịch Hiệp hội sơn mài làng nghề Hạ Thái: Doanh thu của làng nghề ước

tính 150 tỷ đồng/năm, đồng thời tạo việc làm ổn định cho làng nghề và thu hút

khoảng 1.500 lao động ở địa phương khác đến làm việc, thu nhập của người thợ từ

2,5 đến 4 triệu đồng/tháng tùy theo tay nghề của từng lao động.

Kết quả khảo sát ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và sơn mài Hạ Thái, chủ hộ

gia đình trả lời có những đánh giá khác nhau về mối quan hệ giữa yếu tố chính trị,

kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập theo địa bàn khảo sát (xem Bảng 4.9).

137

Bảng 4.9: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập theo địa bàn khảo sát

Đơn vị: %

5 nhóm thu nhập Đồ gỗ Vạn Chung

Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 0,5 1,6 Điểm 38,0 43,7 20,1 23,5

Chính trị 11,7 18,7 26,5

2,0 4,6 197 47,0 41,2 18,7 19,0 28,7 25,9 36,8 34,6 182 0,8 2,4

9,8 14,0 20,5 Kinh tế

0,5 1,5 194 5,7 84,9 18,1 13,4 2,3 31,5 44,9 31,5 127 0,5 3,9

7,5 19,3 25,4

Văn hóa

0,0 1,9 106 33,5 56,3 26,7 20,3 15,4 27,6 40,5 29,8 205 0,5 4,1

7,0 17,1 25,4 Xã hội

23,6 16,2

1,9 1,3 158 Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 379) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 321) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 311) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 351)

41,5 28,5 193 Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

Bảng 4.9, trong mối quan hệ giữa yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã

hội với thu nhập ở hai làng đồ gỗ Vạn Điểm và sơn mài Hạ Thái thấy rằng, tỷ

138

lệ đánh giá của người trả lời khá đa dạng. Nhưng nhìn chung, giữa làng nghề

đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, tỷ lệ đánh giá khác nhau như

sau: tỷ lệ trả lời, yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có tác động đến các

mức thu nhập I (cao nhất), II, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm cao hơn ở làng nghề

sơn mài Hạ Thái; ngược lại, ở các mức thu nhập III, IV, V (thấp nhất), làng

nghề sơn mài Hạ Thái lại thấp hơn làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Như tỷ lệ trả

lời cho mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế với thu nhập mức I, II, ở làng nghề

đồ gỗ Vạn Điểm 47,0%, 41,2% cao hơn so với làng nghề sơn mài Hạ Thái là

0,8%, 2,4%; trong khi, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế với

thu nhập mức IV, V ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm là 0,5%, 1,5% thấp hơn so

với làng nghề sơn mài Hạ Thái là 44,9%, 31,5%.

Năm 1992 Về nguồn mẫu mã sản phẩm tôi phải mua bộ nghế đầu

tiên này - bộ Louis (nghế kiểu của Pháp) để làm mẫu để sản xuất,

sản xuất xong rồi tôi mang lên một vài của hàng ở Hà Nội để gửi

bán, khách nước ngoài mua. Gia đình tôi gửi bộ nào lên thì bán hết

bộ ấy. Tôi dành nguồn hàng cho anh em ruột thịt, sau đó đến họ

hàng, rồi đến cả làng. Từ những mẫu đầu tiên (khoảng 100 mẫu

bàn, nghế) sau đó tôi đã sáng tạo hơn 500 mẫu. Giá một bộ nghế

kiểu Pháp khoảng bốn trăm triệu đồng.

(PVS, nam, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm)

Bên cạnh đó, trong mối quan hệ giữa yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá,

xã hội với loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng

nghề sơn mài Hạ Thái cũng cho thấy, giữa chúng có mối quan hệ tương đối rõ

(xem Bảng 4.10). Tỷ lệ đánh giá của chủ hộ gia đình đều cho rằng, yếu tố

chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có chi phối, tác động đến gia đình làm cả

nghề nông và nghề truyền thống, hơn gia đình chỉ làm nghề truyền thống hoặc

không làm nghề truyền thống ở cả làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề

139

sơn mài Hạ Thái. Tuy nhiên, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ giữa yếu tố chính

trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với hộ gia đình kết hợp làm nghề nông và làm

nghề truyền thống lại có sự chênh lệch nhất định. Chẳng hạn, giữa yếu tố

chính trị với hộ gia đình làm nghề nông và nghề truyền thống ở làng nghề đồ

gỗ Vạn Điểm, người trả lời với tỷ lệ 69,5%, thì ở làng nghề sơn mài Hạ Thái

là 84,6% (chệnh lệch 14,9%).

Bảng 4.10: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với loại nghề

của hộ gia đình, theo địa bàn khảo sát

Đơn vị: %

Loại nghề của hộ gia đình Đồ gỗ Vạn Chung

Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 7,1 12,4 Điểm 17,3

Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống Tổng (N = 379)

Chỉ làm nghề truyền thống

Chính trị 84,6 76,8 69,5

8,2 182 4,7 10,8 13,7 13,2 197 19,6

85,8 78,2 73,2

Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

Tổng (N = 321)

Chỉ làm nghề truyền thống

Kinh tế

9,4 127 10,2 8,1 13,2 7,2 194 18,9

89,8 86,8 81,1

Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

Tổng (N = 311)

Chỉ làm nghề truyền thống

Văn hóa

0,0% 205 9,3 0,0% 13,4 0,0% 106 18,4

Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

Tổng (N = 351)

88,1 83,5 77,8 Xã hội

2,6 193 3,1 3,8 158

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

140

Bảng 4.10, tỷ lệ đánh giá của người trả lời cũng cho biết yếu tố chính

trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có sự chi phối, tác động khác nhau đến gia đình

chỉ làm nghề truyền thống hoặc không làm nghề truyền thống. Dù tỷ lệ trả lời

cho mối quan hệ này thấp, thậm chí rất thấp (cao nhất là 19,6% - ở yếu tố

kinh tế và thấp nhất là 0,0% - ở yếu tố văn hóa), nhưng tỷ lệ trả lời ở làng

nghề đồ gỗ Vạn Điểm hầu hết cao hơn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái. Như ở

mối quan hệ giữa yếu tố văn hoá với gia đình chỉ làm nghề truyền thống, tỷ lệ

trả lời ở làng nghề đồ Vạn Điểm là 18,9% so với tỷ lệ trả lời ở làng nghề sơn

mài Hạ Thái là 10,2%.

Như vậy, độ chênh lệch về tỷ lệ đánh giá ở hai làng nghề tuy không quá

xa, nhất là tỷ lệ trả lời đó đều cao, rất cao hoặc thấp, rất thấp, nhưng ít nhiều

cho thấy sự chi phối, tác động khác nhau của yếu tố chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội đến loại nghề của hộ gia đình giữa hai làng nghề hiện nay.

Chính quyền địa phương là cơ quan có thẩm quyền để quy hoạch và

mở rộng quỹ đất, tạo mọi chính sách thuận lợi để mở rộng và phát

triển làng nghề. Các doanh nghiệp, công ty và tổ hợp sản xuất. Vì

đây là đầu mối cơ bản cho nhân dân tiêu thụ sản phẩm làm ra

(PVS, nam, cán bộ xã Vạn Điểm.)

Ngoài ra, yếu tố văn hoá cũng thể hiện rơ sự phát triển của nghề truyền

thống trong các làng. Từ cổ xưa Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có nghề sơn vẽ,

trồng dâu nuôi tằm, được thể hiện qua câu ca còn lưu truyền (ghi trong quy

ước làng văn hóa Vạn Điểm) cho tới ngày nay:

“Mình về đường ấy thì xa

Có về Vạn Điểm với ta thì về

Vạn Điểm có cây Bồ Đề

Có ao tắm mát có nghề trồng dâu” [100, tr.4]

Trong Quy ước Làng văn hoá Vạn Điểm có quy định về khuyến nghề:

141

Điều 23: Khuyến nghề

Động viên các gia đình đã và đang giữ vững nghề truyền thống của

quê hương, khuyến khích các gia đình làm giàu chính đáng, hợp

pháp. Phát huy trí tuệ và sức lao động để mở rộng, phát triển các

ngành nghề khác, đa dạng các loại hình, tăng thu nhập… Làng ghi

công những ai đưa được nghề mới về làng truyền nghề cho nhân

dân địa phương để giải quyết việc làm tăng thu nhập cho quê

hương [100, tr.19-20].

Trong Quy ước Làng văn hoá Hạ Thái cũng quy định về khuyến nghề:

Phát triển ngành nghề giải quyết công ăn việc làm cho dân làng là

trách nhiệm chung của cấp uỷ Đảng, các đoàn thể, của mọi người.

Làng ghi công vào sổ vàng cho những ai đem nghề mới về làng giải

quyết việc làm tăng thu nhập, xoá bỏ dần hộ nghèo, không ngừng

nâng cao đời sống nhân dân. Làng khuyến khích kinh doanh, không

buôn bán các mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành. Làng thành lập

quỹ khuyến nghề, thưởng cho ai đem nghề mới về làng. Mọi tổ

chức, thành viên trong làng có trách nhiệm thực hiện. [102, tr.17].

4.1.5.2. Yếu tố chủ trương, chính sách phát triển làng nghề

Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước có sự chi phối nhất

định đến cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, cụ thể là thu nhập và nghề nghiệp

của cư dân làng nghề. Tỷ lệ đánh giá mối quan hệ giữa yếu tố chủ trương,

chính sách với thu nhập và loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn

Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái khá đa dạng. Chẳng hạn, giữa yếu tố chủ

trương, chính sách với thu nhập, nếu ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có tỷ lệ trả

lời với mức thu nhập cao nhất nhóm I (43,3%), nhóm II (36,5%) cao hơn làng

nghề sơn mài Hạ Thái, thì với mức thu nhập nhóm IV (39,6%) nhóm V

142

(30,6%); tỷ lệ trả lời ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại thấp hơn làng nghề sơn

mài Hạ Thái (xem Bảng 4.11).

Yếu tố chủ trương, chính sách với loại nghề của hộ gia đình, giữa làng

nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái: nếu tỷ lệ trả lời cho hộ

gia đình làm nghề nông và nghề truyền thống ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm

thấp hơn làng nghề sơn mài Hạ Thái (67,5% so với 83,8% ) thì tỷ lệ trả lời

cho gia đình làm nghề truyền thống hay gia đình không làm nghề truyền

thống ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại cao hơn làng nghề sơn mài Hạ Thái

(17,2% so với 9,4% và 15,3% so với 6,8%).

Bảng 4.11: Chủ trương, chính sách với thu nhập và loại nghề

của hộ gia đình theo đại bàn khảo sát

Đơn vị tính: %

5 nhóm thu nhập

Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 438)

Chung

Đồ gỗ Vạn Điểm 43,3 36,5 12,8 2,5 4,9 203 20,3 19,2 19,4 22,4 18,7

Chung Chủ trương, chính sách

Loại nghề của hộ gia đình

Đồ gỗ Vạn Điểm Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 0,4 4,3 25,1 39,6 30,6 235 Làng nghề Sơn mài Hạ Thái

17,2 9,4 13,0

67,5 83,8 76,3

Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống

Tổng (N = 438)

15,3 6,8 10,7

203 235 438

Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013

143

Bảng 4.11 cho thấy, tỷ lệ đánh giá của người trả lời đã phần nào chỉ rõ

sự chi phối, tác động khác nhau của yếu tố chủ trương, chính sách với thu

nhập và loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề

Hạ Thái hiện nay.

Tìm hiểu về vấn đề chủ trương của Đảng về phát triển làng nghề, Chủ

tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Điểm cho biết:

Để hoàn chỉnh công việc cần 11 thợ, nhưng gia đình tôi khi đó chỉ có 7

người, do vậy nhà tôi thiếu 4 nên đã đề nghị tỉnh cho thuê thêm 4 người

và được đông ý (thời gian đó thuê người chính quyền chưa cho phép).

Lúc đó thành lập cơ sở sản xuất đâu phải dễ, mang một cái tủ ra ngoài

thị trường nếu không được phép thì bị bắt hàng ngay. Từ ngày Đổi mới

hàng hoá được lưu thông, đặc biệt nhờ Quyết định 132/2000/QĐ-TTg,

năm 2008 làng nghề Vạn Điểm đã được xã quy hoạch 10 ha để sản xuất

đồ gỗ, giải quyết hơn 200 hộ gia đình đã chuyển sang điểm công nghiệp

làng nghề. Mỗi nhà một năm thu từ 350 đến 700 triệu.

(PVS, nam, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Điểm).

Còn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái:

Khi có khu quy hoạch làng nghề và được xã cho thuê 30 năm,

những hộ gia đình ra đây cũng rất phấn khởi vì có mặt bằng sản

xuất rộng rãi, có thể bố trí riêng phòng trưng bày, khu làm hàng

rộng rãi hơn. Song, tuỳ từng điều kiện, gia đình có vốn thì thuê mua 400-500 m2, gia đình ít vốn thì gộp với gia đình khác nhưng cũng phải thuê mua được tối thiểu 200m2, theo quy định của xã. Đến nay

đã có hơn 100 hộ ra khu làng nghề.

(PVS, nữ, nghệ nhân, làng nghề sơn mài Hạ Thái).

144

4.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP

4.1. Một số vấn đề đặt ra

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề

đồng bằng sông Hồng như đã phân tích trong luận án, tác giả đưa ra một số

nhận định về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng

trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất, tiếp tục xuất hiện nhiều tổ chức xã hội mới, nhóm xã hội mới

trong cư dân làng nghề. Trong cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mô hình gia đình

nghề sẽ trở nên chuyên môn hóa hơn, một số gia đình trong làng nghề tiếp tục

trở thành những thầu phụ, sản xuất vệ tinh cho các công ty, đồng thời sẽ xuất

hiện kiểu cấu trúc xã hội làng nghề mô hình gia đình - công ty. Một số gia

đình khác sẽ kết hợp làm nghề truyền thống với một số nghề khác hoặc

chuyển nghề mới. Mô hình gia đình nghề ở làng nghề Vạn Điểm có thể vẫn

giữ số lượng hộ sản xuất như hiện nay, vì nhu cầu dùng đồ gỗ của thị trường

vẫn còn, có thể thấy đồ gỗ được sử dụng trong đời sống và sinh hoạt ở hầu hết

các gia đình của người Việt Nam. Một số hộ gia đình nghề ở làng nghề sơn

mài Hạ Thái cũng có thể giảm đi do lượng xuất khẩu mặt hàng sơn mài giảm

dần bởi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế những năm gần đây, một số gia đình

nghề sẽ kết hợp với làm vàng mã.

Thứ hai, các phân hệ cấu trúc xã hội liên kết với nhau theo nhiều cách

khác nhau, dưới nhiều hình thức chính thức hoặc phi chính thức. Cấu trúc xã

hội - gia đình nghề liên kết với nhau qua các mối quan hệ hôn nhân, dòng họ,

làm nghề. Các cấu trúc xã hội - công ty nghề liên kết với nhau dưới hình thức

các hợp đồng kinh tế và các quan hệ trao đổi, mua bán, sản xuất - kinh doanh;

vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Các công ty nghề liên kết các sản phẩm của nhiều

làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng, dựa trên yếu tố đầu vào như nguyên

liệu, chất liệu đến thị trường đầu ra, tạo thành chuỗi giá trị, đồng thời hỗ trợ

145

nhau nhằm phát huy một cách có hiệu quả thế mạnh các làng nghề. Chẳng

hạn, làng nghề sơn mài Hạ Thái có thể kết hợp với sơn mài cốt gốm (Bát

Tràng), sơn mài dát vàng, dát bạc quỳ (Kiệu Kỵ), tiện gỗ Nhị Khê; làng nghề

đồ gỗ Vạn Điểm kết hợp với Khảm trai Chuyên Mỹ… Trên thực tế, phần lớn

đồ gỗ Vạn Điểm khi xuất khẩu đi nước ngoài đều đóng hàng qua làng nghề đồ

gỗ Đồng Kỵ, mẫu mã làng nghề mộc La Xuyên… Mỗi làng nghề bên cạnh sự

chuyên môn hóa cao, đi sâu vào một nghề, yêu cầu trình độ tay nghề người

thợ cao hơn, cũng cần phải kết hợp với nhau để tạo ra hiệu quả kinh tế lớn

hơn, làng nghề phát triển hơn.

Thứ ba, bên cạnh các kiểu cấu trúc gia đình nghề còn có thêm kiểu

quan hệ công ty nghề. Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề vẫn giữ kiểu cấu trúc

xã hội mang tính trọng tình dựa trên các quan hệ gia đình, làng - xã, đồng thời

xuất hiện kiểu cấu trúc xã hội mang tính trọng lý dựa trên quan hệ chức năng,

theo cơ chế thị trường. Nghĩa là cấu trúc xã hội làng nghề theo hướng tổng -

tích hợp: vẫn duy trì tính cộng đồng, vẫn giữ lại những hạt nhân hợp lý xã hội

nông thôn truyền thống, song có bổ sung những quan hệ mang tính cơ chế thị

trường. Hay có thể hiểu quan hệ xã hội trong gia đình cư dân làng nghề chủ

yếu bị chi phối bởi yếu tố tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ, bên cạnh đó

phần nào cũng bị chi phối bởi yếu tố kinh tế thị trường, đề cao cá nhân và yếu

tố truyền dạy nghề truyền thống.

Ngoài ra, cũng không loại trừ cấu trúc xã hội cư dân làng nghề chủ yếu

vẫn là quan hệ theo mô hTnh gia đình nghề và khó có thể trở thành công ty

nghề trong thời gian tới. Bởi vì, các chủ gia đình, cơ sở sản xuất chưa chuẩn

bị đầy đủ những hiểu biết về công ty, khả năng quản lý kinh doanh còn hạn

chế, sự hiểu biết về luật kinh doanh, luật doanh nghiệp, các pháp luật về thuế

còn chưa đầy đủ; với những cơ sở sản xuất nhỏ, khi thành lập công ty nghề sẽ

146

tăng chi phí đầu vào như đóng một số loại thuế, mặt khác thiếu vốn để đầu tư

vào sản xuất một cách có quy mô.

4.2. Gợi ý một số giải pháp

Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức

Để nâng cao nhận thức cho cư dân làng nghề về nghề truyền thống, các

cấp chính quyền cần tăng cường tuyên truyền và thực hiện đầy đủ các chính

sách khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ phát triển sản xuất; pháp luật liên quan đến

hoạt động làng nghề, đến hộ gia đình, cơ sở sản xuất; giới thiệu các mô hình

liên kết hoạt động có hiệu quả, các công nghệ phù hợp, thông tin kinh tế,

thông tin thị trường phục vụ phát triển làng nghề. Tăng cường thông tin về

hoạt động làng nghề, địa bàn có nghề thủ công ở địa phương thông qua các

phương tiện thông tin đại chúng như: Báo in, đài phát thanh, đài truyền hình;

các đài truyền thanh xã, làng. Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn các cơ sở

sản xuất, nhất là đối với các công ty nghề về các qui định hội nhập kinh tế

quốc tế.

Giải pháp tạo các nguồn lực cho phát triển

Khảo sát thực tế, đa số các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng hiện nay,

lao động chủ yếu là làm theo kinh nghiệm, kiểu cha truyền con nối. Trình độ

học vấn cũng như tay nghề kỹ thuật người thợ nhìn chung ở mức độ phổ

thông. Để đáp ứng yêu cầu hoàn chỉnh cấu trúc xã hội làng nghề theo hướng

phát triển bền vững, trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các giải pháp: đào

tạo, nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho lao động làng

nghề. Chính quyền các cấp xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, kế hoạch

phát triển các hình thức đào tạo từ học nghề đến vừa học, vừa làm. Việc học

nghề và làm trực tiếp để biết nghề đồng thời có thu nhập được cư dân cho

rằng trước mắt là phù hợp. Song các địa phương cần đa dạng hóa hình thức

đào tạo phù hợp với khả năng và từng lứa tuổi của cư dân làng nghề. Để mở

147

rộng quy mô đào tạo nghề cần tăng cường công tác tuyên truyền. Cơ quan

quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở các địa phương cần phối hợp với các cơ

quan liên quan tiến hành khảo sát, thiết lập danh mục ngành nghề truyền

thống và đội ngũ các nghệ nhân, thợ lành nghề đang có trên địa bàn, kịp thời

bổ sung danh mục những ngành nghề mới; hướng dẫn các cơ sở đào tạo lao

động kỹ thuật trên địa bàn tổ chức xây dựng và ban hành chương trình đào tạo

trên cơ sở cụ thể hóa các nội dung của chương trình khung và xây dựng

chương trình cụ thể về những nghề mà các địa phương cần đào tạo.

Mở các lớp đào tạo cho các nghệ nhân, thợ giỏi về kỹ năng sư phạm,

thẩm mỹ, thiết kế mẫu mã, tạo dáng sản phẩm, sử dụng kỹ thuật mới để hình

thành đội ngũ giảng viên dạy và truyền nghề. Khuyến khích sự hợp tác giữa

các nghệ nhân với các cơ sở sản xuất, các trung tâm dạy nghề để truyền nghề

cho lớp trẻ.

Giải pháp mở rộng liên kết xã hội

Trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các làng nghề, việc hình thành

mạng lưới xã hội là yêu cầu khách quan, có vai trò rất quan trọng để khai thác

các nguồn lực và quy tắc của các bên tham gia nhằm phát triển kinh tế làng

nghề, tăng thu nhập, doanh thu cho các hộ gia đình nghề và công ty nghề.

Thực tế ở các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và

trường hợp hai làng nghề luận án nghiên cứu nói riêng cho thấy, mạng lưới xã

hội làng nghề đã có, nhưng còn nặng tính tự phát và liên kết chưa mạnh. Đặc

biệt là thiếu sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa người sản xuất, nhà kinh

doanh, nhà khoa học… làm hạn chế rất lớn đến sự phát triển của làng nghề

trong vùng hiện nay. Cụ thể là:

- Đối với hộ gia đình nghề và cư dân làm nghề, cần nhận thức rõ hơn

sự cần thiết của sự liên kết xã hội trong hoạt động sản xuất - kinh doanh; để

khắc phục dần những khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết đầu vào,

148

đầu ra của quá trình sản xuất, tăng cường đổi mới công nghệ, kinh nghiệm

kinh doanh, để thực hiện mục tiêu cuối cùng là nâng cao sức cạnh tranh và

hiệu quả của sản xuất kinh doanh.

- Đối với công ty nghề

Ở các làng nghề các nhà doanh nghiệp, công ty có thể là người trong

làng nghề và cũng có thể là người ở nơi khác đến. Họ là nhóm “ưu trội” về

kinh tế - tài chính, có nhiều mối quan hệ xã hội. Đây là những người năng

động trong sản xuất, kinh doanh và có hiểu biết về quản lý kinh tế. Công tác

quản lý điều hành doanh nghiệp, công ty nghề rất linh hoạt, ứng xử nhanh

chóng những tác động của thị trường để thay đổi mẫu mã trong kinh doanh,

cũng như áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Họ chính là động lực, giá đỡ

của các kênh phân phối nguồn hàng cho các làng nghề.

- Các nhóm xã hội, tổ chức xã hội ở trong và ngoài hệ thống xã hội làng

nghề nhằm tăng cường chức năng liên kết, chức năng hội nhập với các cơ sở

sản xuất ở trong và ngoài làng nghề. Thông qua hiệp hội làng nghề nhằm tạo

cầu nối giữa các cơ sở sản xuất, liên kết cùng nhau trong sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm. Qua khảo sát cho thấy, các tổ chức hiệp hội ở nhiều làng nghề

nước ta đã có vai trò xã hội quan trọng vào việc cùng hợp tác, liên kết giới

thiệu sản phẩm, truyền bá kinh nghiệm, tạo thương hiệu cho sản phẩm và

hướng nghiệp, dạy nghề cho cư dân làng nghề, đặc biệt cho lao động là thanh

niên nông thôn.

Vai trò của các hiệp hội ở các làng nghề là chỗ dựa cho các doanh

nghiệp, công ty, hộ gia đình sản xuất trong làng nghề, cụ thể là các hiệp hội

trong làng nghề thay mặt các cơ sở sản xuất, phản ánh những vấn đề ảnh

hưởng tới sản xuất để nhà nước cho những chính sách phù hợp hơn về sản

xuất trong các làng nghề. Các cơ quan chính quyền nên thường xuyên quan

tâm chỉ đạo, giúp đỡ các hiệp hội.

149

Giải pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Hiện nay, ở nhiều làng nghề đồng bằng sông Hồng, công nghệ sản xuất,

trang thiết bị còn rất lạc hậu. Điều đó dẫn đến năng suất, chất lượng không

cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp. Vì thế cần phải đổi mới công

nghệ và chuyển giao công nghệ là con đường chủ yếu hiện nay, nhằm giúp

các làng nghề phát triển bền vững. Song, việc áp dụng công nghệ tiên tiến rất

có thể làm mất đi yếu tố truyền thống, độc đáo trong sản phẩm của làng nghề,

nên đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ thích hợp cho làng nghề

cần kết hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Công nghệ

truyền thống là thể hiện tính độc đáo về kỹ thuật, kỹ xảo để tạo nên phong

cách riêng có của sản phẩm mang đậm đặc trưng về nghệ thuật văn hóa dân

tộc. Còn công nghệ hiện đại, là tạo ra sản phẩm hàng loạt, chất lượng tốt,

năng suất lao động cao. Do đó, khi chuyển giao công nghệ và đổi mới công

nghệ cần tập trung là những công đoạn sản xuất có nhiều yếu tố, hoá chất độc

hại, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người lao động và cư dân làng nghề. Đổi

mới công nghệ và chuyển giao công nghệ phải phù hợp với từng ngành nghề,

từng làng nghề.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề chịu sự tác động của

đặc điểm nhân khẩu xã hội của chủ hộ gia đình và các yếu tố vĩ mô: kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội của làng-xã, chủ trương, chính sách phát triển làng

nghề. Sự tác động của các yếu tố này đã cung cấp góc nhìn đa dạng, toàn diện

về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề hiện nay.

Từ phân tích thực trạng và yếu tố tác động cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề, luận án rút ra một số vấn đề như: tiếp tục xuất hiện nhiều tổ chức

xã hội mới, nhóm xã hội mới trong cư dân làng nghề; các tiểu cấu trúc liên kết

với nhau theo nhiều cách dưới nhiều hình thức chính thức, phi chính thức

150

khác nhau; các kiểu cấu trúc gia đình nghề còn có thêm kiểu quan hệ công ty

nghề. Ngoài ra, một số gợi ý giải pháp, gồm: tuyên truyền nâng cao nhận

thức; tạo các nguồn lực cho phát triển; tăng cường đoàn kết và mở rộng liên

kết xã hội; thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đã góp phần hoàn

thiện cấu trúc xã hội cư dân làng nghề hiện nay.

151

KẾT LUẬN

1. Luận án dựa trên quan điểm lý luận, phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước phát triển làng nghề. Đồng thời, tác giả vận

dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa

của Anthony Giddens để nhìn nhận, đánh giá thực trạng một số phân hệ cơ

bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn

mài Hạ Thái. Việc vận dụng các quan điểm, lý thuyết trên là phù hợp với đặc

điểm hiện nay ở xã hội Việt Nam đang tái cấu trúc kinh tế. Cụ thể, cách tiếp

cận lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons đã giải thích được cấu trúc

xã hội làng nghề với tính cách là kiểu quan hệ của các thành phần tạo nên các

hệ thống xã hội từ vi mô đến vĩ mô. Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái đã được hình thành,

vận động, biến đổi nghĩa là “cấu trúc hóa” thông qua việc huy động, sử dụng

các nguồn lực và các quy tắc hoạt động của làng nghề trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Luận án vận dụng và góp phần phát triển thêm một số khái niệm cấu

trúc xã hội, làng nghề, cư dân, cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề; phân biệt

các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội làng nghề (nhóm xã hội, vị thế xã

hội, vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội, tổ chức xã hội cư dân

làng nghề); làm rõ một số phân hệ cấu trúc xã hội làng nghề như cấu trúc xã

hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội nghề nghiệp, cấu trúc

xã hội - mức sống.

3. Trong phân tích các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề,

luận án rút ra một số luận điểm chính sau:

Cấu trúc xã hội - dân số: Cư dân làng nghề quan niệm về giá trị con trai

và con gái là khá công bằng giới, song trong thị trường lao động thì do đặc

152

thù lao động nghề nghiệp, đã có sự phân công lao động theo giới tính, đối với

những công việc cần sự nhẹ nhàng thì vai trò của phụ nữ được đánh giá cao.

Cư dân làng nghề ngoài việc coi trọng người cao tuổi, thì độ tuổi từ 25-55

tuổi cũng rất được coi trọng, bởi đây là nguồn nhân lực chính trong làng nghề.

Cấu trúc xã hội - trình độ học vấn của cư dân làng nghề tập trung ở trình độ

trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Cấu trúc xã hội - gia đình: quy mô gia đình làm nghề không chỉ phụ

thuộc vào số nhân khẩu trong gia đình, trên cơ sở số lượng sinh của các cặp

vợ chồng và kiểu sống chung giữa các thế hệ, mà còn bị chi phối bởi cách

thức tổ chức lao động trong gia đình.

Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: Những người thợ làm nghề phần lớn là

các thành viên ở độ tuổi lao động trong gia đình đều có thể tham gia vào một

hoặc nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề nghiệp tùy theo trình độ tay

nghề, giới tính để làm những công đoạn sản xuất phù hợp.

Cấu trúc xã hội - mức sống: Đa số cư dân làng nghề có mức sống trung

bình và khá giả, bởi ngoài làm nông nghiệp cư dân còn tham gia làm nghề

truyền thống. Nhiều hộ gia đình nghề mức sống khá giả đầu tư, mở rộng cơ sở

sản xuất của gia đình, một số gia đình nghề trở thành công ty nghề.

Đặc biệt, mô hình gia đình nghề đã trở nên phổ biến và chiếm đại đa số,

đồng thời đang được cấu trúc hóa nhờ việc các chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản

xuất tích cực khai thác được các nguồn lực và các quy tắc phù hợp để tạo việc

làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của gia đình và đóng góp cho hệ thống

xã hội làng nghề. Tuy nhiên, mô hình công ty nghề cũng đã xuất hiện. Mô

hình này hoạt động theo hướng kết hợp và khai thác các thế mạnh gồm nguồn

lực và các quy tắc của làng nghề và nhất là các quy định pháp luật về kinh

doanh cũng như các lợi thế của công ty. Ngoài ra, mô hình hỗn hợp công ty -

gia đình hình thành, theo kiểu mạng lưới hợp tác, thầu phụ và mô hình gia

153

đình - công ty để khai thác tối đa các nguồn lực và các quy tắc phù hợp của

các bên tham gia.

4. Ngoài ra, luận án còn phân tích các mối quan hệ giữa yếu tố đặc

điểm nhân khẩu xã hội của chủ hộ gia đình và đặc điểm loại nghề nghiệp của

hộ gia đình với cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề; đưa ra một số nhận định

về cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới

và gởi mở một số giải pháp hoàn thiện cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề

đồng bằng sông Hồng hiện nay.

5. Từ những phân tích, đánh giá thực trạng cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề và các yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề các

giả thuyết nghiên cứu đã được kiểm chứng, đó là: Cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay thể hiện qua bốn phân hệ chủ yếu

(cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề

nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống); Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân

làng nghề đồng bằng sông Hồng chịu tác động bởi những đặc điểm như: tuổi,

giới tính của chủ hộ gia đình - chủ cơ sở sản xuất; loại nghề nghiệp của hộ gia

đình, thời gian tham gia làm nghề, số lao động tham gia làm nghề.

6. Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng là công trình

nghiên cứu xã hội học tương đối mới mẻ và là một vấn đề lớn. Do vậy, vấn đề

này cần tiếp tục được nghiên cứu sâu, rộng và hoàn thiện hơn cả về lý luận và

thực tiễn ở những công trình tiếp theo.

154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Ngọc Anh (2014), “Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng

nghề đồ gỗ Vạn Điểm ở Hà Nội: từ mô hình gia đình đến mô hình công ty”,

Tạp Nghiên cứu Gia đình và Giới, số (3).

2. Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Thực trạng cấu trúc xã hội của sinh viên

Học viện Báo chí và Tuyên truyền” Tạp chí Lý luận & Truyền thông, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền, số (1+2).

3. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Ngọc Anh (2010), “Một số vấn đề xây dựng

Xã hội học lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới”, Tạp chí Xã hội học số (4).

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (chủ biên), (1996), Nghiên cứu xã hội học,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đặng Nguyên Anh (2000), ”Cấu trúc hộ gia đình và sức khỏe trẻ em:

những phát hiện qua khảo sát nhân khẩu học và sức khỏe 1997”, Tạp chí

Xã hội học (số 4), tr 61-74.

3. Vũ Tuấn Anh (1990), “Về sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng

giá trị ở nông thôn trong quá trình đổi mới kinh tế”, Tạp chí Xã hội học,

(số 4), tr.9-11.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011): Báo cáo kết quả 5 năm

thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Duyên Thái (2009): Lịch sử cách mạng của

Đảng bộ và nhân dân xã Duyên thái (1945-2005), Nxb Hà Nội. tr18.

6. Phí Văn Ba (1990), “Sự biến đổi của các truyền thống gia đình nông

thôn trong quá trình hiện đại hóa: phác thảo theo kết quả điều tra xã hội

học gần đây”, Tạp chí Xã hội học (số 3), tr.1-10.

7. Mai Huy Bích (1989), “Một số đặc trưng về cơ cấu và chức năng, gia

đình Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học, (số 2), tr

53-55.

8. Mai Huy Bích (2006), “Lý thuyết phân tầng xã hội và những phát triển

gần đây”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.106-115.

9. Bộ Tài nguyên và môi trường (2008): Báo cáo môi trường quốc gia

2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Hà Nội.

10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006): Thông tư

116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 Hướng dẫn thực hiện một số nội

156

dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ

về phát triển ngành nghề nông thôn.

11. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

1994, t13, tr 14-15.

12. Nguyễn Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện

nay, Nxb. Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.

13. Bùi Thế Cường (2010), Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam

hiện nay - Kết quả nghiên cứu của đề tài KX.02.10 (2001 - 2005), Nxb

Khoa học xã hội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của

Đảng: Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong

5 năm 1986-1990. Nguồn www.cpv.org.vn

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị lần

thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về "Tiếp tục đổi

mới và phát triển KT-XH nông thôn". Nguồn www.cpv.org.vn

17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 07-NQ/HNTW Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII "Phát triển công

nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới".

Nguồn www.cpv.org.vn

18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 15/NQ/TW ngày 15/12/2000 của

Bộ Chính trị khóa VIII về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô

trong thời kỳ 2001-2010. Nguồn www.cpv.org.vn

157

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng. Nguồn www.cpv.org.vn

20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa IX số 15-NQ/TW, ngày 18/3/2002 về đẩy

nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Nguồn

www.cpv.org.vn.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004

của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn www.cpv.org.vn.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Nguồn www.cpv.org.vn.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-

2020. Nguồn www.cpv.org.vn.

24. Bùi Xuân Đính (2009), Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội)

- truyền thống và biến đổi. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (chủ biên) (2001), Xã hội học, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

26. Đỗ Thái Đồng (1989), “Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở

một xã nông thôn Nam Bộ”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.49-59.

27. Bùi Quang Dũng (2001) “Nghiên cứu làng Việt: các vấn đề và triển

vọng”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.15-23.

28. G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

29. http://www.gso.gov.vn

30. http://ptit.edu.vn/wps/portal/nongthonvn

158

31. Mai Văn Hai, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đức Chiện, Ngô Thị Thanh

Quý (2013), Bản sắc làng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Phạm Xuân Hảo, (2000), “Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta

hiện nay và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9),

tr. 44-46.

33. Phạm Xuân Hảo, (2004), “Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo - Một yêu cầu

quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị, (số 2), tr 35-36, 60.

34. Nguyễn Thị Kim Hoa (2000), “Tác động của quá trình đô thị hóa đến

kinh tế hộ gia đình nông thôn (nghiên cứu trường hợp vùng ven thị xã

Bắc Ninh)”, Tạp chí Xã hội học (số 1), tr.55-61.

35. Tô Duy Hợp, Đặng Vũ Cảnh Linh (2008): Đặc điểm cư dân và văn hóa

vùng ven biển và hải đảo: một số vấn đề lý luận cơ bản. Nguồn

www.vanhoahoc.vn

36. Tô Duy Hợp (2007), Khinh - Trọng một quan điểm trong nghiên cứu

triết học và xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

37. Tô Duy Hợp (2003), Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông

Hồng ngay nay. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.

38. Tô Duy Hợp (chủ biên) (2000), Sự biến đổi của làng - xã Việt Nam ngày

nay (ở đồng bằng sông Hồng), Nxb Khoa học xã hội.

39. Tô Duy Hợp (chủ biên), (1997), Ninh Hiệp - truyền thống và phát triển.

Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

40. Tô Duy Hợp (1993), Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội

nông thôn trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr

18-23.

41. Tô Duy Hợp (1993), Sự phân tầng xã hội ở nông thôn miền Bắc, Tạp

chí Cộng sản, (11), tr 47-50.

159

42. Tô Duy Hợp (1990), “Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã

hội nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, (số 4),

tr.20-26.

43. Lê Ngọc Hùng (2013), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

44. Lê Ngọc Hùng (2009), “Động thái của cấu trúc xã hội và thuyết cấu trúc

hóa của Anthony Giddens”, Tạp chí Xã hội học, (số 2), tr.82-91.

45. Lê Ngọc Hùng, Lưu Hồng Minh (đồng chủ biên), (2009), Giáo trình Xã

hội học, Nxb Dân trí, Hà Nội.

46. Lê Ngọc Hùng (2009), Lịch sử & lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

47. Lê Ngọc Hùng (2006), Xã hội học giáo dục, Nxb Lý luận Chính trị, Hà

Nội.

48. Vũ Tuấn Huy (2007) “Một số vấn đề cơ bản của cơ cấu xã hội - giai

cấp ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

49. Đỗ Thiên Kính (2002), “Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp

dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay”, Tạp chí

Xã hội học, (số 1), tr. 51-58.

50. Đỗ Thiên Kính (1996), “Sự chuyển đổi cơ cấu lao động - nghề nghiệp

và tác động của nó đến phân tầng mức sống ở một xã vùng đồng bằng

sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr 28-34.

51. Đỗ Thiên Kính (1995), “Sự biến đổi của cơ cấu nghề nghiệp và phân

tầng mức sống ở nông thôn đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học,

(số 3), tr 68-74.

52. Tương Lai (1997), “Những vấn đề của sự biến đổi xã hội sau 10 năm

đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.3-12.

160

53. Tương Lai (1995), “Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội - cơ sở lý

luận và phương pháp luận”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.9-29.

54. Trịnh Duy Luân (2004), “Vấn đề phân tầng xã hội Việt Nam hiện nay:

Nhìn lại một số khía cạnh phương pháp luận từ cách tiếp cận xã hội

học”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr 14-24.

55. Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường (2001), “Phân tầng xã hội và công

bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, Số (2), tr.3-11.

56. Trịnh Duy Luân (2000), “Xã hội học Việt Nam: Một số định hướng tiếp

tục xây dựng và phát triển”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.9-20.

57. Trịnh Duy Luân (1992), “Sự phân tầng xã hội theo mức sống tại thủ đô

Hà Nội trong những năm đầu thực hiện Đổi mới”, Tạp chí Xã hội học,

(số 4), tr 16-28.

58. Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Xuân Mai, Đỗ Minh Khuê (2005), “Biến

đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”,

Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.56-64.

59. Lưu Hồng Minh (2001), Thực trạng phân tầng xã hội theo mức sống ở

nông thôn đồng bằng sông Hồng - Dự báo và những kiến nghị, Luận án

Tiến sĩ Xã hội học, Hà Nội.

60. Lưu Hồng Minh (1999), “Tính năng động của người dân nông thôn

đồng bằng Bắc Bộ với phân tầng xã hội”, Tạp chí Xã hội học, (Số 2), tr.

84-90.

61. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

64. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

65. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

66. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

161

67. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

68. Phạm Xuân Nam (2001), “Mấy nét sơ bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội -

giai cấp ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr 3-13.

69. Lê Mạnh Năm (2003), “Phong trào khôi phục tập quán - tín ngưỡng cố

truyền ở một số làng xã vùng châu thổ sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học,

số 3 (83), tr.61-65.

70. Lê Mạnh Năm (2000) “Vai trò của gia đình nông thôn đồng bằng sông

Hồng trong vấn đề giải quyết việc làm cho con cái”, Tạp chí xã hội học

(số 2), tr.30-36.

71. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Tấn, Lê Ngọc Hùng (2010), Cơ cấu xã hội

và phân tầng xã hội (Qua khảo sát một số tỉnh, thành phố ở Việt nam),

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

72. Philippe Papin - Olivier Tessier (chủ biên) (2002). Làng ở vùng châu

thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ (Le Village en questions. The Village

in questions). Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà

Nội.

73. Đỗ Nguyên Phương (chủ biên), (1995), Thực trạng và xu thế phát triển

cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, Chương trình Khoa học

công nghệ cấp Nhà nước KX-07, Đề tài KX-07-05, Hà Nội.

74. Pierre Gourou (2003), Người nông dân vùng đồng bằng Bắc Kỳ, Bản

tiếng Việt, Thư viện Viện Xã hội học.

75. Nguyễn Đình Tấn (2014), Phân tầng xã hội hợp thức và kiến nghị nhằm

thực hiện công bằng xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 9) tr.53-58.

76. Nguyễn Đình Tấn (2011), “Từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dự

báo về sự biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị số

(số 9). tr.31-40.

162

77. Nguyễn Đình Tấn (2010): “Xã hội học về cơ cấu xã hội và phân tầng xã

hội - một chặng dường 20 năm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng”,

Tạp chí Xã hội học, số (3), tr.6-12.

78. Nguyễn Đình Tấn, (Chủ biên), (2010), Xu hướng phân tầng xã hội trong

quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao

Động, Hà Nội.

79. Nguyễn Đình Tấn, (2010), Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong tiến

trình đổi mới, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 3), tr.3-8.

80. Nguyễn Đình Tấn, (2009), “Các yếu tố tác động đến phân tầng xã hội”,

Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.13-25.

81. Nguyễn Đình Tấn, (2009), “Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng

nông thôn nước ta hướng tới một xã hội năng động, phân tầng hợp thức

và văn minh”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 5), tr.21-26.

82. Nguyễn Đình Tấn, (2008), Một số vấn đề về phân tầng xã hội hợp thức

ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 7), tr 10-

18.

83. Nguyễn Đình Tấn, Lê Văn Toàn, (2006), “Quan niệm của Max và các

nhà xã hội học phương Tây về phân tầng xã hội”, Tạp chí Xã hội học,

(số 2), tr.97-102.

84. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

85. Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội & phân tầng xã hội, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

86. Nguyễn Đình Tấn (2005), “Cơ cấu xã hội và Phân tầng xã hội - Những

đóng góp về lý luận và ứng dụng thực tiễn”, Tạp chí Xã hội học, (số 3),

tr.25-32.

87. Nguyễn Đình Tấn (1993), “Góp phần tìm hiểu khái niệm phân tầng xã

hội”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr.86-92.

163

88. Nguyễn Đình Tấn (1993), “Phân tầng xã hội theo mức sống qua mẫu

khảo sát ở nội thành Nam Định”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (số 3),

tr.60-64.

89. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), (2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã

hội Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

90. Trịnh Xuân Thắng, Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một

cách bền vững, Tạp chí cộng sản điện tử, 2014. Nguồn:

http://tapchicongsan.org.vn

91. Thủ tướng chính phủ: Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23/5/2013 phê

duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng

sông Hồng đến năm 2020.

92. Lê Văn Toàn (2008), “Phân tầng xã hội ở nước ta qua điều tra mức sống

hộ gia đình”, Tạp chí Cộng sản, (số 7), tr.94-99.

93. Trương Xuân Trường (2003), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông

thôn vùng châu thổ sông Hồng hiện nay, Tạp chí Xã hội học”, (số 3) tr.

28-41.

94. Nguyễn Đức Truyến (2003), Sự hình thành và phát triển của làng ở

đồng bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình, Tạp chí Xã hội học

(số 3), tr.21-27.

95. Nguyễn Đức Truyến: Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông

thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ Đổi mới, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2003.

96. Nguyễn Đức Truyến (1999), “Người nông dân đồng bằng sông Hồng và

quan hệ cộng đồng trong thời kỳ đổi mới”,Tạp chí Xã hội học, (số 1)

tr.45-51.

97. Trần Từ (1984). Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

164

98. UBND huyện Thường Tín (2013): Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ

trọng tâm năm 2014.

99. UBND xã Vạn Điểm (2013): Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội an ninh quốc phòng năm 2013 và phương hướng

nhiệm vụ năm 2014.

100. UBND xã Vạn Điểm (2007): Quy ước làng văn hóa Vạn Điểm.

101. UBND xã Duyên Thái (2013): Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển

kinh tế xã hội năm 2013; Phương hướng, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm

năm 2014.

102. UBND xã Duyên Thái (2002): Quy ước Làng văn hoá Hạ Thái.

103. V.L. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1997, tập.39.

104. Lê Ngọc Văn (2002), Một số đặc điểm biến đổi gia đình từ xã hội nông

nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hóa, Tạp chí Khoa học

phụ nữ (số 1).

105. Viện Nghiên cứu Văn hóa (2012), Tổng tập nghề và làng nghề truyền

thống Việt Nam (tập 1), Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.

106. Viện Xã hội học (1991), “Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn đồng

bằng Bắc Bộ trong điều kiện kinh tế mới”, Tạp chí Xã hội học, (số 1),

tr.1-14.

107. Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (2010): Báo cáo tổng kết

kết quả đề tài cấp nhà nước (KX03/06-10): Đặc điểm cư dân và văn hóa

vùng ven biển trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.

108. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam,

Nxb Văn hóa dân tộc.

165

109. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn

Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Luận án Tiến

sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế học.

110. Trần Minh Yến (2004), Làng nghề truyền thống trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Khoa học xã hội Việt Nam.

Tài liệu Tiếng Anh

111. Giddiens Anthony (1997), Sociology, Polity Press, London.

112. Anthony Giddens. In Defence of Sociology: Essays, Interpretatons &

Reoinders.USA. MA: Cambridge: Blackwell Publishers Inc.1996.

pp.100.

113. Chandima Dih anni Daskon (2010), One culture - Many perpective,

undersanding cultural diversity through rural livehoods a reflection

from the rural craft communities in Kandy, Sri Lanke, Antrocom online

journal of anthropoplgy, Vol. 7, No.1, pp. 41-42.

114. Faulkner, S. J, Baldwin. S, Lindsley and M. Hecht (2006), Layers of

meaning: an analysis of definition of culture, In J, R and Baldwin, S, L,

Faulkner, M, L, Hecht and S, L, Lindsley (2006) (eds,) Redefining

culture: perspective across the disciplines, New Jersey, Lawrence

Erlbaum Associates, Inc, pp. 27-52.

115. Jonathan H,Turner (1986), “The theory of structuration”, American

Journal of sociology, Vol. 91, Issue 4, pp. 970-974.

116. Kailash Pyakuryal, Weberian model of social stratification-a view point,

Sociology and Anthropology Vol.7 2001, pp. 15-25.

117. Krejcie, R.V. & Morgan, D.W. (1970). Determining sample size for

research activities. Educational and Psychological Measurement, 30,

607-610.

166

118. Lopez, J, and J, Scott (2000), Social Structure, pp.1-7, Open University

Press, Buckingham and Philadelphia, http://www.questia.com.

119. Pierre Bourdieu (1986), The Forms of Capital, Handbook of Theory and

Research for the Sociology of Education, New York, Greenwood, pp.

241-258.

120. Talcott Parsons (1940), An analytical approach to the theory of social

stratification,The American Journal of sociology, Vol XLV, N.6, pp.

841-843.

121. William F.Sewell (1992), “A theory of structure: Duality, Agency and

transformation”, The American Jounal of Sociology, Vol. 98, No.1, pp.8.

PHỤ LỤC

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN (Dùng cho chủ hộ gia đình làm nghề truyền thống)

Ông, bà kính mến!

Để có thông tin về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay, đề nghị ông (bà) cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh X vào ô vuông tương ứng (cid:1) hoặc viết vào chỗ chấm (..............)

2. Nữ (cid:1)

Câu 1. Ông (bà) vui lòng cho biết đôi nét về bản thân? 1.1 Giới tính 1. Nam (cid:1) 1.2. Ông (bà) bao nhiêu tuổi:.......................... 1.3. Họ của ông (bà) là gì:............................... 1.4. Ông (bà) đã học hết lớp nào?

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

4. Trung cấp 5. Cao đẳng, đại học 6. Trên đại học

1. Tốt nghiệp tiểu học 2. Tốt nghiệp trung học cơ sở 3. Tốt nghiệp THPT 1.5 Trình độ tay nghề của ông (bà)?

(cid:1) (cid:1)

1. Thợ lành nghề 2. Thợ giỏi

(cid:1) 3. Nghệ nhân 4. Khác……………………(cid:1)

1.6. Ông (bà) thuộc dân tộc nào?

1. Kinh (cid:1)

2. Dân tộc khác (cid:1)

1.7. Ông (bà) theo tôn giáo nào?

1. Không theo tôn giáo (cid:1)

2. Thiên chúa giáo (cid:1)

3. Tôn giáo khác (xin ghi rõ).........................

2. Không (cid:1)

1.8. a Ông (bà) là đảng viên hay không? 1. Đảng viên (cid:1) 1.8. b Ông (bà) đang tham gia trong:

1. Khối Đảng(cid:1) 2. Khối Chính quyền(cid:1) 3. Khối đoàn thể xã hội(cid:1) 4. không tham gia (cid:1)

1.8.c Nếu có thì mức độ và phạm vi được coi trọng như thế nào? Gia đình Làng xóm

Mức độ

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Xã hội (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Rất được coi trọng 2. Được coi trọng 3. Ít được coi trọng 4. Không biết

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

Câu 2. Xin ông (bà) cho biết một số thông tin về gia đình 2.1. Số nhân khẩu trong hộ gia đình: ………….người. 2.2. Số lao động trong gia đình đang làm nghề: ………...người. 2.3. Số thế hệ trong gia đình …………….. 2.4. Gia đình làm nghề được ………… năm. 2.5. Hộ gia đình ông (bà) thuộc: 1. Chỉ làm nghề truyền thống 2. Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống 3. Nghề khác:...............................

Nếu hộ gia đình ông (bà) làm nghề truyền thống xin ghi rõ làm nghề gì?: ........................................................................................................................................ Và Trình độ tay nghề của thợ trong gia đình ông (bà) chủ yếu là:

(cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

4. Nghệ nhân 5. Khác……………………

1. Thợ học việc 2. Thợ lành nghề 3. Thợ giỏi 2.6. Trong làng có tất cả mấy nghề .....................................................................

Câu 3. Theo ông (bà), nghề truyền thống mà ông bà đang làm có được xã hội coi trọng không?

(cid:1) (cid:1)

1. Rất coi trọng 2. Coi trọng

3. Không coi trọng (cid:1) (cid:1) 4. Không biết

Câu 4.1. Theo ông (bà) mức sống của gia đình mình thuộc loại nào (so với các hộ gia đình trong làng) 1. Giàu có (cid:1)

4.Nghèo (cid:1)

3.Trung bình (cid:1) 2. Khá giả (cid:1) 4.2. Thu nhập bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?

Quy ra tiền:................................................................... đồng.

4.3 Chi tiêu bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?

Quy ra tiền:.................................................................. đồng. Câu 5. Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt động nào sau đây?

4. Ăn uống, sinh hoạt

(cid:1) 1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ (cid:1) (cid:1) 3. Đào tạo nghề cho thợ

(cid:1) (cid:1) 5. Du lịch, giải trí 6. Chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh (cid:1)

Câu 6. Cơ sở sản xuất của hộ gia đình sản xuất ở đâu?

1. Tại gia đình (cid:1)

2. Khu sản xuất làng nghề (cid:1)

3. Cả 2 nơi (cid:1)

Câu 7. Xin ông (bà) cho biết mô hình sản xuất của gia đình trước đây và hiện nay?

Hiện 1. Hộ gia đình (cid:1) 1. Hộ gia đình (cid:1) 2. Liên kết các hộ (cid:1) 2. Liên kết các hộ (cid:1) 4. Công ty doanh nghiệp (cid:1) 4. Công ty doanh nghiệp (cid:1) 2. Hợp tác xã (cid:1) 2. Hợp tác xã (cid:1) a.Trước đây: b. nay:

Câu 8. Ông (bà) đánh giá mức độ cạnh tranh (thương hiệu) của sản phẩm làng nghề trên thị trường?

1. Cao (cid:1)

2. Khá (cid:1)

3. Trung bình (cid:1) 4. Yếu (cid:1)

Câu 9. Ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến về vai trò của mình trong gia đình, dòng họ và cộng đồng?

Quan trọng

Không biết

1. Gia đình

Rất quan trọng (cid:1) (cid:1)

Không quan trọng (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

2. Dòng họ

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

3. Cộng đồng

4. Cán bộ Đảng

(cid:1) Câu 10. Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường tham khảo ý kiến của ai đầu tiên? (chỉ chọn 1 phương án trả lời) (cid:1) 1. Người thân trong gia đình 2. Người có uy tín trong dòng họ (cid:1) (cid:1) 3. Bạn bè của gia đình

(cid:1) (cid:1) 5. Cán bộ chính quyền 6. Cán bộ các đoàn thể xã hội (cid:1)

Câu 11. Trong gia đình ai là người có vai trò chính trong các lĩnh vực sau:

Công việc

Bố/mẹ Con cái

1. Sản xuất, kinh doanh

2. Học tập của con cái

3. Định hướng nghề nghiệp cho con

4. Trong cưới xin

5. Trong ma chay

5. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền

6. Công việc của làng, dòng họ

7. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa

Ông/bà (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

8. Chuyển đổi nghề nghiệp

Câu 12. Ông (bà) đánh giá cuộc sống của gia đình mình hiện nay so với 5 năm trước đây như thế nào?

Nội dung

Tốt hơn Như cũ Kém đi (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 4. Vui chơi giải trí, du lịch 5. Việc học tập để nâng cao trình độ 6. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 7. Việc học hành của trẻ em 8. Quan hệ xã hội 9. Điện thắp sáng 10. Nước sinh hoạt 11. Điều kiện vệ sinh môi trường 12. Trật tự an ninh 13. Nhà ở

Câu 13. Xin ông (bà) cho biết ở làng mình phân công lao động chủ yếu thuộc nhóm nào dưới đây?

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Lao động chủ yếu là nam giới 2. Lao động chủ yếu là nữ giới 3. Lao động chủ yếu là người tay nghề giỏi

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

4. Lao động chủ yếu là người mới học việc 5. Lao động chủ yếu là người trong gia đình 6. Lao động chủ yếu là người trong dòng họ 7. Lao động chủ yếu là người trong làng 8. Lao động chủ yếu là người ngoài làng

Câu 14. Xin ông (bà) cho biết ở làng độ tuổi của chủ doanh nghiệp sản xuất là:

1. Dưới 30 tuổi (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

2. Từ 30-40 tuổi (cid:1) 3. Từ 41-50 tuổi (cid:1) 4. Trên 50 tuổi (cid:1) Câu 15. Trong các hoạt động lễ hội của làng hoặc các sự kiện quan trọng khác trong làng, ai là người có vai trò quan trọng? 1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân

Câu 16. Trong hoạt động cộng đồng như: làm đường, tu bổ đình chùa, lễ hội… của làng, ai là người có đóng góp về vật chất chủ yếu?

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân

Câu 17. Theo ông/bà, các yếu tố nào dưới đây tác động đến sự phát triển của làng nghề?

(cid:1) 1. Vốn sản xuất, kinh doanh (cid:1) 2. Cơ sở sản xuất khu riêng và mặt bằng rộng (cid:1) 3. Nguyên nhiên liệu 4. Áp dụng được khoa học, công nghệ, máy móc mới trong sản suất (cid:1) (cid:1) 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm và hội nhập quốc tế (cid:1) 6. Năng lực và kinh nghiệm của người đứng đầu cơ sở sản xuất (cid:1) 7. Tay nghề, chuyên môn giỏi (cid:1) 8. Người lao động thiết tha với nghề (cid:1) 9. Thời gian ký hợp đồng để hoàn thành sản phẩm (cid:1) 10. Bản sắc văn hóa của làng nghề (cid:1) 11.Gia đình, dòng họ (cid:1) 12. Hiệp hội làng nghề (cid:1) 13. Việc làm của lao động nông thôn (cid:1) 14. Năng lực lãnh đạo cán bộ cấp xã, làng (cid:1) 15. Làng nghề gắn với du lịch (cid:1) 16. Quy trình phong tặng nghệ nhân (cid:1) 17. Tìm tòi, sáng tạo nhiều mẫu mã (cid:1) 18. Được vay vốn ngân hàng với chính sách thông thoáng hơn

Câu 18. Ông (bà) cho biết ý kiến của mình về những nhận định dưới đây?

Những nhận định

Đồng ý (cid:1)

Không đồng ý (cid:1)

Khó trả lời (cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống ngày càng được gìn giữ và phát triển 2. Giáo dục, y tế ngày càng được quan tâm, chăm sóc tốt hơn 3. Mối quan hệ giữa những người dân trong làng ngày càng tốt hơn 4. Tệ nạn xã hội xảy ra trong làng xã ngày càng tăng 5. Môi trường của làng nghề ngày càng ô nhiễm 6. Số hộ làm nghề truyền thống vẫn duy trì, ổn định 7. Nghệ nhân trong làng ngày càng nhiều hơn 8. Chính quyền quan tâm đến phát triển làng nghề nhiều hơn

Câu 19. Theo ông (bà), ai là người được kính nể trong làng, xã?

Mức độ

Quan trọng

Không biết

Rất quan trọng

Không quan trọng

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Những người được kính nể trong làng, xã Người giỏi tay nghề/nghệ nhân Người có chức vụ Người giầu có Người cao tuổi Người có uy tín Chủ doanh nghiệp giỏi

Câu 20. Theo ông (bà) vai trò của Hiệp hội làng nghề có quan trọng đối với phát triển làng nghề?

1. Rất quan trọng (cid:1)

2. Quan trọng (cid:1)

3. Không quan trọng (cid:1)

TT

Quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên

Câu 21. Theo ông (bà), quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên: 10 năm tới (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

10 năm trước (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Hiện nay (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Theo nhóm ngành/nghề 2. Theo các quy mô sản xuất của các hộ gia đình 3. Theo các tuyến dòng họ có nghề truyền thống 4. Theo thời gian làm nghề của các hộ gia đình

Câu 22. Theo ông (bà) Chủ cơ sở sản xuất có nên tham gia vào các tổ chức?

1. Lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã (cid:1) 4. Tổ chức Đảng 2. Lãnh đạo cấp thôn, làng 3. Lãnh đạo hiệp hội nghề nghiệp

(cid:1) (cid:1) 5.Không nên tham gia (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

Câu 23. Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 1. Quy hoạch các làng nghề phải gắn với quy hoạch phát triển nông thôn mới 2. Nâng cao trình độ tay nghề cho thợ và đào tạo nghề cho lao động động nông thôn mới (cid:1) 3. Tăng cường quảng bá sản phẩm của làng nghề ra thị trường trong và ngoài nước (cid:1) 4. Nâng cao vai trò của các hiệp hội làng nghề (cid:1) 5. Cần phát triển du lịch làng nghề 6. Tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong việc duy trì và phát triển làng nghề (cid:1) (cid:1) 7. Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương Câu 24. Ông (bà) dự định cho con cái học nghề truyền thống của làng hay cho học chuyên môn, nghiệp vụ? 1. Học nghề truyền thống của làng (cid:1)

3.Tùy khả năng của con cái. (cid:1)

2.Học cao đẳng, đại học (cid:1) Câu 25. Xin ông (bà) cho biết sự phân công lao động trong gia đình ông (bà) hiện nay?

TT

Thành viên

Tuổi

Công việc chính (Liệt kê các công việc chủ yếu)

Vai trò trong gia đình (kiếm tiền, dạy dỗ, học tập, giữ tiền…)

1 Ông

2 Bà 3 Bố

4 Mẹ

5 Con trai

6 Con gái

Câu 26. Xin ông (bà) cho biết mức độ của các mối liên hệ chủ yếu trong gia đình, dòng họ hiện nay?

Bền chặt

Các mối quan hệ

1. Bố mẹ với con cái

2. Ông bà với con cháu

Rất bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

Ít bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Khó trả lời (cid:1) (cid:1) (cid:1)

3. Anh, chị, em trong dòng họ 4. Anh, chị em trong gia đình

5. Giữa chú, bác, cô

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

6. Chú, bác, cô với các cháu

(cid:1)

(cid:1) 4. Truyền dạy nghề truyền thống

Câu 27. Theo ông, bà các mối liên hệ trong gia đình, dòng họ hiện nay bị chi phối bởi các yếu tố nào? 1. Tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ 2. Kinh tế thị trường

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) 5. Quan hệ huyết thống (cid:1) 6. Yếu tố khác

3. Đề cao cá nhân

Câu 28. Những ý kiến khác

………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN (Dùng cho hộ gia đình không làm nghề truyền thống)

Ông, bà kính mến!

Để có thông tin về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay, đề nghị ông (bà) cho biết ý kiến của mình bằng cách trả bằng cách đánh X vào ô trống tương ứng (cid:1) hoặc viết vào chỗ chấm (..............)

2. Nữ (cid:1)

Câu 1: Ông (bà) vui lòng cho biết đôi nét về bản thân? 1.1 Giới tính 1. Nam (cid:1) 1.2. Ông (bà) bao nhiêu tuổi:.......................... 1.3. Họ của ông (bà) là gì:............................... 1.4. Ông (bà) đã học hết lớp nào?

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

4. Trung cấp 5. Cao đẳng, đại học 6. Trên đại học

1. Tốt nghiệp tiểu học 2. Tốt nghiệp trung học cơ sở 3. Tốt nghiệp THPT 1.5. Ông (bà) thuộc dân tộc nào?

1. Kinh (cid:1)

2. Dân tộc khác (cid:1)

1.6. Ông (bà) theo tôn giáo nào? 1. Không theo tôn giáo (cid:1)

2. Thiên chúa giáo (cid:1)

3. Tôn giáo khác (xin ghi rõ): ..........................................

1.7 Ông (bà) có là đảng viên không?

1. Đảng viên (cid:1)

2. Không (cid:1)

1.8. a Ông (bà) có tham gia công tác trong các tổ chức trong làng, xã:

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Đảng bộ xã 2. Chính quyền xã 3. Đoàn thể xã hội ở xã 4. Chi bộ thôn 5. Chính quyền thôn 6. Đoàn thể ở thôn 7. Hiệp hội làng nghề 8. Các tổ chức khác

1.8.b Nếu có thì mức độ và phạm vi được coi trọng như thế nào? Gia đình Làng xóm

Mức độ

1. Rất được coi trọng

2. Được coi trọng

3. Ít được coi trọng

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Xã hội (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

4. Không biết

Câu 2: Xin ông (bà) cho biết một số thông tin về gia đình 2.1. Số nhân khẩu trong hộ gia đình: ………….người. 2.2. Số thế hệ trong gia đình …………….. 2.3. Nghề chính của ông (bà) hiện nay là gì (xin ghi rõ)........................................ 2.4. Trong làng có tất cả mấy nghề ...................................................................... Câu 3. Theo ông (bà), nghề nghiệp chính của ông (bà) hiện nay có được xã hội coi trọng không?

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

1. Rất coi trọng 2. Coi trọng

3. Ít coi trọng 4. Không biết

Câu 4.1. Theo ông (bà) mức sống của gia đình mình thuộc loại nào (so với các hộ gia đình trong làng) 1. Giàu có (cid:1)

4.Nghèo (cid:1)

3.Trung bình (cid:1) 2. Khá giả (cid:1) 4.2. Thu nhập bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?

Quy ra tiền:................................................................... đồng.

4.3 Chi tiêu bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?

Quy ra tiền:.................................................................. đồng. Câu 5. Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt động nào sau đây?

4. Ăn uống, sinh hoạt

5. Du lịch, giải trí

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) 1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ (cid:1) (cid:1)

6. Chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh

3. Đào tạo nghề nghiệp cho lao động trong gia đình

Câu 6. Ông (bà) đánh giá mức độ cạnh tranh (thương hiệu) của sản phẩm làng nghề trên thị trường?

1. Cao (cid:1)

2. Khá (cid:1)

3. Trung bình (cid:1) 4. Yếu (cid:1)

Câu 7. Ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến về vai trò của mình trong gia đình, dòng họ và cộng đồng?

Quan trọng

Không biết

1. Gia đình

2. Dòng họ

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

Rất quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Không quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1)

3. Cộng đồng

4. Cán bộ Đảng

(cid:1) (cid:1) (cid:1) Câu 8. Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường tham khảo ý kiến của ai đầu tiên? (chỉ chọn 1 phương án trả lời) (cid:1) 1. Người thân trong gia đình 2. Người có uy tín trong dòng họ (cid:1) (cid:1) 3. Bạn bè của gia đình

(cid:1) (cid:1) 5. Cán bộ chính quyền 6. Cán bộ các đoàn thể xã hội (cid:1)

Công việc

Ông/bà Bố/mẹ

1. Sản xuất, kinh doanh

2. Học tập của con cái

3. Định hướng nghề nghiệp cho con

4. Trong cưới xin

5. Trong ma chay

5. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền

6. Công việc của làng, dòng họ

7. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa

Câu 9. Trong gia đình ai là người có vai trò chính trong các lĩnh vực sau: Con cái (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

8. Chuyển đổi nghề nghiệp

Câu 10. Ông (bà) đánh giá cuộc sống của gia đình mình hiện nay so với 5 năm trước đây như thế nào?

Nội dung

Tốt hơn Như cũ Kém đi (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 5. Vui chơi giải trí, du lịch 6. Việc học tập để nâng cao trình độ 7. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 8. Quan hệ xã hội 10. Điện thắp sáng 11. Nước sinh hoạt 12. Điều kiện vệ sinh môi trường 13. Trật tự an ninh 14. Nhà ở

Câu 11. Xin ông (bà) cho biết ở làng mình phân công lao động chủ yếu thuộc nhóm nào dưới đây?

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Lao động chủ yếu là nam giới 2. Lao động chủ yếu là nữ giới 3. Lao động chủ yếu là người tay nghề giỏi 4. Lao động chủ yếu là người mới học việc 5. Lao động chủ yếu là người trong gia đình 6. Lao động chủ yếu là người trong dòng họ 7. Lao động chủ yếu là người trong làng 8. Lao động chủ yếu là người ngoài làng

Câu 12. Xin ông (bà) cho biết ở làng độ tuổi của chủ doanh nghiệp sản xuất là: 1. Dưới 30 tuổi (cid:1) 2. Từ 30-40 tuổi (cid:1) 3. Từ 41-50 tuổi (cid:1) 4.Trên 50 tuổi (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Câu 13. Trong các hoạt động lễ hội của làng hoặc các sự kiện quan trọng khác trong làng, ai là người có vai trò quan trọng? 1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân

Câu 14. Trong hoạt động cộng đồng như: làm đường, tu bổ đình chùa, lễ hội… của làng, ai là người có đóng góp về vật chất chủ yếu?

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân

Câu 15. Theo ông/bà, các yếu tố nào dưới đây tác động đến sự phát triển của làng nghề?

(cid:1) 1. Vốn sản xuất, kinh doanh (cid:1) 2. Cơ sở sản xuất khu riêng và mặt bằng rộng (cid:1) 3. Nguyên nhiên liệu 4. Áp dụng được khoa học, công nghệ, máy móc mới trong sản suất (cid:1) (cid:1) 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm và hội nhập quốc tế (cid:1) 6. Năng lực và kinh nghiệm của người đứng đầu cơ sở sản xuất (cid:1) 7. Tay nghề, chuyên môn giỏi (cid:1) 8. Người lao động thiết tha với nghề (cid:1) 9. Thời gian ký hợp đồng để hoàn thành sản phẩm (cid:1) 10. Bản sắc văn hóa của làng nghề (cid:1) 11.Gia đình, dòng họ (cid:1) 12. Hiệp hội làng nghề (cid:1) 13. Việc làm của lao động nông thôn (cid:1) 14. Năng lực lãnh đạo cán bộ cấp xã, làng (cid:1) 15. Làng nghề gắn với du lịch (cid:1) 16. Quy trình phong tặng nghệ nhân (cid:1) 17. Tìm tòi, sáng tạo nhiều mẫu mã (cid:1) 18. Được vay vốn ngân hàng với chính sách thông thoáng hơn

Câu 16. Ông (bà) cho biết ý kiến của mình về những nhận định dưới đây?

Những nhận định

Đồng ý (cid:1)

Không đồng ý (cid:1)

Khó trả lời (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống ngày càng được gìn giữ và phát triển 2. Giáo dục, y tế ngày càng được quan tâm, chăm sóc tốt hơn 3. Mối quan hệ giữa những người dân trong làng ngày càng tốt hơn 4. Tệ nạn xã hội xảy ra trong làng xã ngày càng tăng 5. Môi trường của làng nghề ngày càng ô nhiễm 6. Số hộ làm nghề truyền thống vẫn duy trì, ổn định 7. Nghệ nhân trong làng ngày càng nhiều hơn 8. Chính quyền quan tâm đến phát triển làng nghề nhiều hơn

Câu 17. Theo ông (bà), ai là người được kính nể trong làng, xã?

Mức độ

Quan trọng

Không biết

Những người được kính nể trong làng, xã

Rất quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Không quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân 2. Người có chức vụ 3. Người giầu có 4. Người cao tuổi 5. Người có uy tín 6. Chủ doanh nghiệp giỏi

Câu 18. Theo ông (bà) vai trò của Hiệp hội làng nghề có quan trọng đối với phát triển làng nghề?

1. Rất quan trọng (cid:1)

2. Quan trọng (cid:1)

3. Không quan trọng (cid:1)

Câu 19. Theo ông (bà), quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên:

TT

Quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên

10 năm trước (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

10 năm tới (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Hiện nay (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1 Theo nhóm ngành/nghề 2 Theo các quy mô sản xuất của các hộ gia đình 3 Theo các tuyến dòng họ có nghề truyền thống 4 Theo thời gian làm nghề của các hộ gia đình 5 Theo tính chất của ngành, nghề

Câu 20. Theo ông (bà) Chủ cơ sở sản xuất có nên tham gia vào các tổ chức?

(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)

1. Lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã 2. Lãnh đạo cấp thôn, làng 3. Lãnh đạo hiệp hội nghề nghiệp 4. Tổ chức Đảng 5. Không tham gia

(cid:1) (cid:1)

(cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1)

2.Học cao đẳng, đại học (cid:1) 3.Tùy khả năng của con cái. (cid:1)

Câu 21. Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những giải pháp nào? 1. Quy hoạch các làng nghề phải gắn với quy hoạch phát triển nông thôn mới 2. Nâng cao trình độ tay nghề cho thợ và đào tạo nghề cho lao động động nông thôn mới 3. Tăng cường quảng bá sản phẩm của làng nghề ra thị trường trong và ngoài nước 4. Nâng cao vai trò của các hiệp hội làng nghề 5. Cần phát triển du lịch làng nghề 6. Tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong việc duy trì và phát triển làng nghề 7. Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương Câu 22. Ông (bà) dự định cho con cái học nghề truyền thống của làng hay cho học chuyên môn, nghiệp vụ? 1. Học nghề truyền thống của làng (cid:1) Câu 23. Xin ông (bà) cho biết sự phân công lao động trong gia đình ông (bà) hiện nay?

TT Thành viên

Tuổi

Công việc chính (Liệt kê các công việc chủ yếu)

Vai trò trong gia đình (kiếm tiền, dạy dỗ, học tập, giữ tiền…)

1 Ông

2 Bà

3 Bố

4 Mẹ

5 Con trai

6 Con gái

Câu 24. Xin ông (bà) cho biết mức độ của các mối liên hệ chủ yếu trong gia đình, dòng họ hiện nay?

Bền chặt

Các mối quan hệ

1. Bố mẹ với con cái

2. Ông bà với con cháu

Rất bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1) (cid:1)

Ít bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)

Khó trả lời (cid:1) (cid:1) (cid:1)

3. Anh, chị, em trong dòng họ 4. Anh, chị em trong gia đình

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) (cid:1)

5. Giữa chú, bác, cô

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

(cid:1)

6. Chú, bác, cô với các cháu

(cid:1)

(cid:1) 4. Truyền dạy nghề truyền thống

Câu 25. Theo ông, bà các mối liên hệ trong gia đình, dòng họ hiện nay bị chi phối bởi các yếu tố nào? 1. Tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ 2. Kinh tế thị trường

(cid:1) (cid:1)

(cid:1) 5. Quan hệ huyết thống (cid:1) 6. Yếu tố khác

3. Đề cao cá nhân

Câu 26. Những ý kiến khác

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!

HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp)

Ông, bà kính mến!

Để tìm hiểu về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây. Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!

1.Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………………………………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… 2. Nội dung câu hỏi 2.1 Ông (bà) có những hoạt động chủ yếu nào đưới đây để góp phần phát triển làng nghề? Mức độ hoạt động? - Về hoạt động kinh tế - Về hoạt động chính trị: - Về hoạt động văn hóa-xã hội: - Về đào tạo nghề truyền thống -

Trong phát triển làng nghề ở, ông (bà) thấy cần phải quan tâm đến những vấn đề gì? Tạo sao?

2.2 Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, tổ chức, cá nhân nào có vai trò quan trọng? Tại sao?……………………………….. 2.3 Theo ông (bà) trong những kiện quan trọng của làng nghề (Hội làng, làm đường, bầu trưởng thôn), tổ chức, cá nhân nào giữ vai trò quan trọng? Tại sao?………………………………… 2.4 Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 2.5 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào? + 20 năm trước đây: …………………..………………………………………. + Hiện nay ………………………….………………………………………….

Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!

PHIẾU THAM VẤN Ý KIẾN (Dành cho cán bộ xã, thôn, hiệp hội)

Ông, bà kính mến!

Để tìm hiểu về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây. Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!

1. Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………Chức vụ:……………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… 2. Nội dung câu hỏi 2.1 Ông (bà) có những hoạt động chủ yếu nào đối với sự phát triển làng nghề trên một số lĩnh vực sau và mức độ hoạt động như thế nào?

-Về hoạt động kinh tế -Về hoạt động chính trị: -Về hoạt động văn hóa-xã hội: -Về đào tạo nghề truyền thống

2.2 Để phát triển làng nghề bền vững, ông (bà) thấy cần phải quan tâm đến những vấn đề gì? Tạo sao? 2.3 Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, tổ chức, cá nhân nào có vai trò quan trọng? Tại sao? 2.4 Theo ông (bà) trong những kiện quan trọng của làng nghề (Hội làng, làm đường, bầu trưởng thôn …), tổ chức, cá nhân nào giữ vai trò quan trọng? Tại sao? 2.5 Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 2.6 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào?

Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho nghệ nhân)

Ông, bà kính mến!

Để tìm hiểu về Mối quan hệ xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây.

Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!

Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………………………………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… Nội dung câu hỏi

1. Theo ông (bà) cần phải quan tâm đến những vấn đề gì để duy trì và phát triển nghề truyền thống? Tạo sao? 2. Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, yếu tố nào đóng vai trò quan trọng? Tại sao? 3 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào?

Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!