HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGỌC ANH
CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGỌC ANH
CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số : 62 31 30 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Ngọc Hùng
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Ngọc Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
14 14 18 22 26 34
34 53 61
70
70 73 75 80
107
125
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề 1.2. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề 1.3. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề 1.4. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Một số lý thuyết 2.3. Một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước liên quan đến đề tài Chương 3: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ 3.1. Một số đặc điểm của làng nghề đồng bằng sông Hồng 3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và làng nghề ở huyện Thường tín 3.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điêm và xã Duyên Thái 3.4.Các phân hệ cấu trúc xã hội của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái 3.5. Phân tích mô hình công ty nghề và mô hình gia đình nghề của làng nghề gỗ Vạn điểm và làng nghề sơn mài Hạ thái Chương 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CƯ DÂN LÀNG NGHỀ VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP 4.1. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội cư dân làng nghề 4.2. Một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp
KẾT LUẬN
125 144 151 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
156
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số thứ tự Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của 77
xã Vạn Điểm, năm 2013
Bảng 3.2: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của 79
xã Duyên Thái, năm 2013
Bảng 3.3: Cấu trúc xã hội - giới tính của cư dân làng nghề 80
Bảng 3.4: Cấu trúc vị thế - vai xã hội của các thành viên trong gia đình 83
làng nghề
Bảng 3.5: Cấu trúc xã hội - học vấn của cư dân làng nghề 86
Bảng 3.6: Cấu trúc xã hội - gia đình theo quy mô của làng nghề 89
Bảng 3.7: Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề 91
Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề Bảng 3.8: 93
Bảng 3.9: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của các hộ gia đình 98
Bảng 3.10: Cấu trúc xã hội - mức sống của làng nghề 100
Bảng 3.11: Mức thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ 102
cơ sở sản xuất
Bảng 3.12: Mức chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ 103
sở sản xuất
Bảng 3.13: Cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề 104
Bảng 3.14: Tỉ lệ tự đánh giá mức độ thay đổi một số khía cạnh của đời 105
sống gia đình so với 5 năm trước
Bảng 3.15: Cấu trúc xã hội-nghề nghiệp, theo thâm niên của gia đình 107
nghề
Bảng 3.16: Một số đặc trưng cơ bản của mô hình gia đình nghề và mô 120
hình công ty nghề
Bảng 4.1: Thu nhập bình quân hàng tháng của chủ gia đình, chủ cơ sở sản xuất 125
theo giới tính
Bảng 4. 2: Thu nhập của hộ gia đình theo độ tuổi 126
Bảng 4.3: Thu nhập hộ gia đình làng nghề theo loại nghề hộ gia đình 128
Bảng 4.4: Thu nhập của hộ gia đình theo số năm làm nghề 129
Bảng 4.5: Quy mô gia đình, theo số lao động làm nghề truyền thống 131
Bảng 4.6: Số thế hệ trong gia đình, theo độ tuổi của chủ hộ gia đình 132
Bảng 4.7: Giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình 133
Bảng 4.8: Độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình 135
Bảng 4.9: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập 137
theo địa bàn khảo sát
Bảng 4.10: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với loại nghề của hộ 139
gia đình, theo địa bàn khảo sát
Bảng 4.11: Chủ trương, chính sách với thu nhập và loại nghề 142
của hộ gia đình theo đại bàn khảo sát
DANH MỤC CÁC BIỂU
Trang
Biểu 3.1: Cấu trúc xã hội - độ tuổi của người dân trong làng 82
Biểu 3.2: Định hướng nghề nghiệp cho con cái 87
Biểu 3.3: Cư dân làng nghề phân nhóm theo nghề nghiệp của hộ gia đình 99
Biểu 3.4: Biểu đồ các nguồn lực của công ty nghề 122
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tính cấp thiết về mặt thực tiễn
Các làng nghề ở Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội đất nước nói chung và đối với nền kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
đề cập: “Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ
môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc
điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ
gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam”
[14, tr.197].
Các làng nghề phát triển đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”. Sự lan tỏa của
các làng nghề đã mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động,
kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, góp phần làm tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp, dịch vụ.
Đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời, nơi diễn ra sự phát
triển mạnh mẽ của văn minh lúa nước - nền nông nghiệp truyền thống của dân
tộc Việt Nam. Do vậy, làng nghề ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện khách
quan để hình thành và phát triển. Các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng từ xa
xưa đã có vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa phục vụ đời sống
của nhân dân. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn
hóa, nhiều làng nghề đồng bằng sông Hồng được khôi phục và phát triển khá
nhanh so với các địa phương khác.
Thành phố Hà Nội là vùng đất địa linh nhân kiệt, có bề dày văn hóa lâu
đời trong lịch sử dân tộc. Hà Nội tập trung nhiều làng nghề như: làng gốm Bát
Tràng; làng lụa Vạn Phúc; làng gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng; làng nghề Chàng
Sơn... Hà Nội trở thành đất “trăm nghề” và vẫn đang trong xu thế phát triển
2
mạnh, trên cơ sở chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và những chính
sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Huyện Thường Tín có nhiều làng nghề truyền thống, với những sản
phẩm nổi tiếng như: Tiện gỗ ở xã Nhị Khê, sơn mài ở xã Duyên Thái, thêu ở
xã Quất Động, mây tre đan ở xã Ninh Sở, ... ngoài ra còn có một số nghề mới
phát triển mấy chục năm như: làm xương sừng ở Thụy Ứng xã Hòa Bình, đồ
gỗ ở xã Vạn Điểm, bông len ở Trát Cầu xã Tiền Phong, ... Đến nay, huyện có
46 làng trên tổng số 126 làng có nghề được UBND thành phố Hà Nội công
nhận là làng nghề.
Thường Tín hội tụ khá đầy đủ các đặc điểm của làng nghề nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng, bởi vì làng nghề ở đồng bằng sông Hồng nói
chung và huyện Thường Tín nói riêng đang bị tác động mạnh mẽ bởi quá
trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, huyện Thường Tín
mới sát nhập vào thành phố Hà Nội, nên quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp - nông thôn của huyện chịu tác động mạnh từ sự phát triển
kinh tế - xã hội của thủ đô Hà Nội. Do vậy, làng nghề ở huyện Thường Tín
chứa đựng nhiều đặc điểm, tính chất của cấu trúc xã hội làng nghề truyền
thống, nhưng đang có những đặc điểm mới của quá trình đô thị hóa, hiện đại
hóa.
1.2. Tính cấp thiết về mặt lý luận
Để duy trì và phát huy các thế mạnh của các làng nghề, cũng như đáp
ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập quốc tế, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao
hơn và phát triển làng nghề theo hướng bền vững, thì cần có những nghiên
cứu xã hội học về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.
Cấu trúc xã hội là một nội dung cơ bản được nghiên cứu xuyên suốt
trong lịch sử xã hội học. Từ năm 1840 đến cuối những năm 1880, K.Marx đã
chú trọng phân tích cấu trúc xã hội và xem xét cấu trúc xã hội trên nền tảng
của cấu trúc kinh tế. Đầu thế kỷ XX, nhà xã hội học người Đức là M.Weber
3
đã chỉ ra vai trò của các yếu tố như: địa vị kinh tế, địa vị chính trị và uy tín
xã hội trong sự phân chia xã hội thành giai tầng trên dưới, cao thấp khác
nhau. Trên thế giới, nhiều nhà xã hội học quan tâm nghiên cứu nguyên nhân
và các biểu hiện của cấu trúc xã hội. Ở Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu có giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn vấn đề cấu trúc xã
hội, phân tầng xã hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cấu trúc xã hội không chỉ được xem xét như một cấu trúc ít thành phần
gồm hai giai cấp, một tầng lớp và dường như đồng đều nhau, ngang bằng
nhau hoặc chỉ đơn tuyến phát triển theo hướng tiến dần đến sự thuần nhất,
đồng nhất xã hội như quan niệm thời kỳ trước đổi mới, mà đang diễn ra một
quá trình phân tầng xã hội mạnh mẽ trên cơ sở của nền kinh tế nhiều thành
phần.
Theo cách nhìn nhận này, cấu trúc xã hội nước ta vừa có cấu trúc
"ngang", vừa có cấu trúc "dọc" [trích theo 77]. Cấu trúc “ngang”, đó là một
tập hợp các giai cấp, tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp, các tổ chức trong xã
hội mà trong đó khó có thể chỉ rõ giai cấp nào, tầng lớp nào có vị thế ở trên
giai cấp, hay tầng lớp nào. Trong đó bao hàm các giai cấp công nhân, nông
dân, tiểu thương, doanh nhân, trí thức... Cấu trúc "dọc", cấu trúc phân tầng xã
hội, tức là cấu trúc tầng bậc cao thấp trong xã hội, được xem xét và biểu hiện
ở ba dấu hiệu cơ bản khác nhau: Địa vị kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính
trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín). Dưới hai lát cắt cấu trúc "ngang" và
"dọc" này đan kết vào nhau rất phức tạp tạo thành cấu trúc xã hội của cả một
hệ thống xã hội, cộng đồng xã hội hay “giai tầng xã hội” [trích theo, 77]. Tuy
nhiên, các nghiên cứu cấu trúc xã hội làng nghề chưa nhiều, nhất là nghiên
cứu cấu trúc xã hội với tư cách là một hệ thống các quan hệ xã hội của các
thành phần xã hội trong cư dân làng nghề. Một cách tiếp cận nữa trong nghiên
cứu cấu trúc xã hội là xem xét cấu trúc xã hội trong từng lĩnh vực của đời
sống xã hội. Khi đó cấu trúc xã hội có thể được xem xét dưới các hình thức
4
hay các hệ cấu trúc xã hội như cấu trúc xã hội - dân số theo tuổi, giới tính, cấu
trúc xã hội - nghề nghiệp và các phân hệ cấu trúc xã hội khác.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và trước sức ép của tốc độ đô thị hóa,
nhiều làng nghề ở đồng bằng sông Hồng phải đối mặt với những thách thức
như: mặt bằng sản xuất rất hạn chế, các cơ sở sản xuất chủ yếu sử dụng ngay
nơi ở làm nơi sản xuất dẫn đến môi trường sống bị ô nhiễm, mật độ dân cư
trong các làng nghề đông, số lao động ở một số làng nghề giảm. Tuy nhiên,
một số làng nghề vẫn đứng vững, là do chính các cơ sở sản xuất ở làng nghề
đã biết liên kết lại với nhau để thành những mạng lưới hộ gia đình, những
công ty, doanh nghiệp sản xuất thành lập ở ngay trong làng nghề. Mạng lưới
xã hội làng nghề, quan hệ xã hội làng nghề như thế nào thì cần phải nghiên
cứu về cấu trúc xã hội của làng nghề. Nói cách khác làng nghề hoạt động,
biến đổi và phát triển ra sao, phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc xã hội của nó.
Đã có nhiều nghiên cứu về làng nghề từ góc độ kinh tế học và văn hóa
học. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học về làng
nghề và nhất là cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề ở Việt Nam.
Với những lý do đã nêu ra ở trên, tác giả lựa chọn đề tài Cấu trúc xã
hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay (Nghiên cứu
trường hợp hai làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội) làm luận
án tiến sĩ xã hội học.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ góc độ xã hội học, luận án tìm hiểu những vấn đề lý luận và đánh
giá thực trạng các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề; phân tích
những yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề. Trên cơ sở
đó, nhận định một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp nhằm phát huy
những thế mạnh của cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông
Hồng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung vào các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận, các khái niệm nghiên cứu cấu trúc xã
hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Thứ hai, khảo sát thực địa, phân tích thực trạng các phân hệ của cấu
trúc xã hội cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm xã Vạn Điểm và làng nghề sơn
mài Hạ Thái xã Duyên Thái ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Thứ ba, phân tích các yếu tố tác động đến các phân hệ cấu trúc xã hội
cư dân làng nghề.
Thứ tư, nhận định một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp nhằm
hoàn thiện cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông
Hồng hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Cư dân làng nghề đồ gỗ và làng nghề sơn mài ở huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2014.
Phạm vi không gian: Làng Vạn Điểm, xã Vạn Điểm (làng nghề đồ gỗ
Vạn Điểm) và làng Hạ Thái, xã Duyên Thái (làng nghề sơn mài Hạ Thái)
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Đề tài lựa chọn nghiên cứu trường hợp làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và
làng nghề sơn mài Hạ Thái ở huyện Thường Tín, trong số các làng nghề ở
đồng bằng sông Hồng với những tiêu chí sau:
6
Về địa lý: Thường Tín là một huyện của thành phố Hà Nội, Thường Tín
tập trung nhiều làng nghề tiêu biểu trong Đồng bằng sông Hồng. Tác giả lựa
chọn làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm ở cuối huyện Thường Tín và làng nghề sơn
mài Hạ Thái ở đầu huyện Thường Tín (giáp Trung tâm thành phố Hà Nội).
Về lịch sử: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm xuất hiện gần 50 năm và phát
triển mạnh trong thời kỳ đổi mới; làng nghề sơn mài Hà Thái đã có từ trước
thời kỳ đổi mới với lịch sử hơn 200 năm. Như vậy, có thể so sánh được cấu
trúc xã hội của hai làng nghề này.
Về kinh tế - xã hội: Cả hai làng nghề này thuộc hai xã trong cùng một
huyện, do vậy nghiên cứu để xem xét sự khác nhau về nghề nghiệp có thể tạo
ra những sự khác nhau trong cấu trúc xã hội; đồng thời có thể xem xét mối
tương quan giữa các phân hệ cấu trúc xã hội, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
của hai làng nghề này.
5. Cơ sở lý luận, mẫu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu này dựa trên quan điểm lý luận, phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển làng nghề.
Là một đề tài thuộc chuyên ngành xã hội học, nghiên cứu này vận dụng
lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của
Anthony Giddens làm cơ sở lý luận cho việc xem xét, đánh giá thực trạng cấu
trúc xã hội của cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm (xã Vạn Điểm) và làng
nghề sơn mài Hạ Thái (xã Duyên Thái) ở huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu: Thu thập, phân tích số liệu, các nghiên cứu đã có về
cấu trúc xã hội và cấu trúc xã hội làng nghề Việt Nam. Thu thập, phân tích
các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế xã hội, về cấu trúc xã hội làng nghề
7
đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội.
- Phương pháp định tính:
+ Phỏng vấn sâu 36 chủ hộ gia đình làm nghề truyền thống, 08 giám
đốc công ty làm nghề trong làng nghề, 02 chủ tịch UBND xã, 02 trưởng thôn,
04 nghệ nhân, 02 chủ tịch hiệp hội làng nghề; thảo luận nhóm tập trung với
lãnh đạo 02 xã.
+ Phương pháp quan sát thực địa tại một số cơ sở sản xuất - kinh doanh
và hộ gia đình. Tác giả luận án nhiều lần đến thăm, nghiên cứu, quan sát tham
dự đời sống của cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ
Thái, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
+ Phương pháp định lượng: Tác giả thu thập thông tin về cấu trúc xã
hội của cư dân làng nghề qua phiếu thu thập thông tin, do chính chủ hộ gia
đình trả lời bằng cách trực tiếp ghi, điền vào bảng hỏi điều tra. Chủ hộ gia
đình trong nghiên cứu này là người đại diện hộ gia đình, có vai trò quyết định
về kinh tế của gia đình, được các thành viên trong gia đình thừa nhận.
+ Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu của cuộc điều tra được xử lý bằng chương trình SPSS và được
phân tích tần suất, tương quan hai chiều.
Phân tích tần suất, phân tích thực trạng các phân hệ cấu trúc xã hội của
cư dân làng nghề hiện nay (thống kê mô tả: tần suất, trung bình, giá trị lớn
nhất, giá trị nhỏ nhất).
Phân tích tương quan hai chiều, kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng
yếu tố xác định là biến độc lập với các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề thông qua công cụ thống kê Chi-Square Tests được sử dụng để xem
xét ý nghĩa thống kê mối quan hệ giữa các biến số đó.
8
5.3. Mẫu nghiên cứu
- Về cỡ mẫu
Tác giả dựa theo công thức Krejcie và Morgan [117, tr 30, 607-610] để
tính kích thước mẫu cần thiết cho nghiên cứu (định lượng) của luận án.
Công thức:
Trong đó:
S = cỡ mẫu cần thiết;
X2 = giá trị bảng chi square cho 1 mức độ tự do ở mức độ tin cậy mong
muốn (3,841);
N = quy mô dân;
P = tỷ lệ dân số (giả định là 0,50);
d = mức độ chính xác (0,05).
Căn cứ danh sách hộ gia đình do UBND hai xã Vạn Điểm và Duyên
Thái cung cấp năm 2012: Làng Vạn Điểm có 708 hộ gia đình, làng Hạ Thái
có 1.046 hộ gia đình. Áp dụng công thức trên, kích thước mẫu cho mỗi làng
nghề như sau: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm N = 708, tính được S = 249. Làng
sơn mài Hạ Thái N = 1.046, tính được S = 281. Do vậy, tổng cả hai làng nghề
cỡ mẫu là 530 hộ gia đình.
- Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu xác suất ngẫu nhiên đơn giản. Trên cơ sở danh
sách hộ gia đình từng làng, được lập theo danh sách sổ hộ khẩu của UBND
xã, tác giả tiến hành đánh số thứ tự (có tính đến hộ gia đình làm nghề truyền
thống, hộ gia đình không làm nghề truyền thống) và được chọn ngẫu nhiên.
9
- Đặc điểm mẫu điều tra
Từ 530 phiếu điều tra được phát ra, kết quả thu được 515 phiếu đưa vào
xử lý. Trong 515 hộ gia đình, gồm 425 hộ gia đình, cơ sở sản xuất làm nghề
truyền thống và 90 hộ không làm nghề truyền thống.
Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ %
1. Làng nghề
Đồ gỗ Vạn Điểm Sơn mài Hạ Thái 246 269 47,8 52,2
2. Giới tính Nam 376 73
Nữ 139 27
3. Độ tuổi Dưới 40 191 37,1
Từ 40 đến 50 Trên 50 176 148 34,2 28,7
4. Trình độ học vấn Tiểu học và THCS 198 38,4
THPT trở lên 317 61,6
Làm nghề truyền thống 82.5 425
5. Loại nghề hộ gia đình
61 11.8
364 70.7
+ Chỉ làm nghề truyền thống + Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống
90 17,5 Không làm nghề truyền thống
Cỡ mẫu 515 100
10
6. Câu hỏi, giả thuyết và khung nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay
biểu hiện như thế nào qua các phân hệ cấu trúc xã hội?
- Phân hệ cấu trúc xã hội nào là nổi bật nhất trong cấu trúc xã hội của
cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay?
- Cấu trúc xã hội với các phân hệ của nó chịu tác động như thế nào từ
các yếu tố nào ở làng nghề đồng bằng sông Hồng?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng
sông Hồng hiện nay gồm các phân hệ cơ bản cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc
xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống.
Giả thuyết thứ hai: Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng
sông Hồng hiện nay nổi bật nhất là phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp theo
mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề.
Giả thuyết thứ ba: Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề
đồng bằng sông Hồng chịu tác động chủ yếu từ đặc điểm nhân khẩu - xã hội
của chủ hộ gia đình và loại nghề của hộ gia đình.
11
6.3. Khung nghiên cứu
ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Cấu trúc xã hội - dân số
Đặc điểm nhân khẩu - xã hội của chủ hộ gia đình Cấu trúc xã hội - gia đình
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
Đặc điểm loại nghề của hộ gia đình Cấu trúc xã hội - mức sống
MÔI TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA LÀNG-XÃ
12
6.4. Các biến số
- Biến số độc lập
+ Đặc điểm nhân khẩu - xã hội của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất:
tuổi, giới tính;
+ Đặc điểm nghề của hộ gia đình: hộ làm nghề truyền thống, hộ không
làm nghề truyền thống, hộ làm nông nghiệp kết hợp làm nghề truyền thống.
- Biến số phụ thuộc
+ Cấu trúc xã hội - dân số: giới tính, tuổi, trình độ học vấn của cư dân
làng nghề;
+ Cấu trúc xã hội - gia đình: quy mô gia đình, số người làm nghề, số
thế hệ làm nghề truyền thống;
+ Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: loại hình nghề nghiệp, quy mô, mạng
lưới xã hội, mô hình gia đình nghề, mô hình công ty nghề;
+ Cấu trúc xã hội - mức sống: thu nhập, chi tiêu.
- Các yếu tố môi trường kinh tế - xã hội
+ Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về phát triển làng nghề;
+ Môi trường: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của làng-xã.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu và vận dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons
và lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens vào việc tìm hiểu cấu trúc xã hội
cư dân hai làng nghề đồng bằng sông Hồng, để làm rõ các đặc trưng của các
phân hệ cấu trúc xã hội làng nghề.
Luận án vận dụng và góp phần phát triển thêm một số khái niệm như
cấu trúc xã hội, các phân hệ cấu trúc xã hội, cấu trúc xã hội của cư dân làng
nghề, gia đình nghề, công ty nghề.
13
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án phát hiện cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của cư dân làng nghề
gồm: Mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề đang được cấu trúc hóa
thông qua hành động ở các thành phần của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề
trong quá trình đổi mới kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án góp phần bổ sung thêm thông tin cần thiết trong nghiên cứu
cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng nói riêng và
nghiên cứu về làng nghề nói chung ở Việt Nam.
- Luận án gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo cho chủ đề này, cung cấp
số liệu, cứ liệu phong phú, đa dạng khi nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.
- Luận án có thể gợi ra những suy nghĩ cho việc đề xuất những giải
pháp đối với những vấn đề đặt ra, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy về
cấu trúc xã hội.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 14 tiết.
14
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - DÂN SỐ LÀNG NGHỀ
Nghiên cứu về cấu trúc giới tính, cấu trúc tuổi trong lao động và tổ
chức sản xuất làng nghề, tác giả Bùi Xuân Đính trong công trình Làng nghề
thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền thống và biến đổi đã mô tả khung
tổ chức lao động trong làng nghề, với mô hình “gia đình”. Thành phần lao
động bao gồm tất cả các thành viên trong gia đình từ lớn tuổi nhất đến nhỏ
tuổi nhất và nam giới vẫn giữ vị trí quan trọng trong các công việc chủ chốt,
còn nữ giới giữ vị trí quan trọng trong các công việc đòi hỏi sự tinh xảo, khéo
léo. Trong sản xuất nghề làm quạt “khâu đơn giản là xếp các nan đã được chẻ
thành bộ, trẻ em từ 12 tuổi đã có thể làm được. Trẻ 14 tuổi chốt đinh đầu
(chốt nhài), 16 tuổi phất quạt (song việc này phụ nữ làm là chính, chính vì sự
nhẹ nhàng, nếu làm mạnh tay, giấy sẽ bị rách). Các công đoạn còn lại chủ yếu
là do nam giới” [24, tr.176]. Trong phân công lao động theo giới ở làng nghề
thì phần lớn nam giới ở độ tuổi thanh niên hoặc trung niên tham gia gián tiếp,
tập trung ở công đoạn: liên hệ mua nguyên vật liệu, tìm thị trường tiêu thụ và
thực hiện các giao dịch mua bán [24, tr.175-177]. Nghiên cứu này của tác giả
là gợi ý thú vị cho luận án tìm hiểu nhóm xã hội theo độ tuổi, theo giới tính
trong cấu trúc xã hội - dân số làng nghề.
Báo cáo của Bộ Tài nguyên và môi trường về môi trường làng nghề
Việt Nam, năm 2008 đã đưa ra thống kê cụ thể về các biểu hiện thay đổi số
lượng lao động thủ công và các hiệp hội làng nghề cho thấy sự thay đổi tích
cực về số lượng cũng như thành phần tham gia sản xuất, thúc đẩy mô hình sản
xuất làng nghề với quy mô lớn hơn về nhân công. Báo cáo cho biết làng nghề
đã thu hút nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, trong đó kinh tế tập thể
chiếm 18%, doanh nghiệp tư nhân chiếm 10% và kinh tế cá thể chiếm 72%;
15
không chỉ thu hút nhiều thành phần tham gia mà ngành thủ công mỹ nghệ còn
thu hút số lượng lao động cũng đã tăng lên tới 11 triệu lao động chiếm 30%
lao động nông thôn. Tỷ lệ thời gian làm việc sử dụng lao động trong độ tuổi
của khu vực nông thôn năm 2005 chiếm 80%. Các làng nghề cũng đã dần
xuất hiện chuyên môn hóa với các hội như: hội nghề nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn hoặc các trung tâm giao lưu buôn
bán, cụm dân cư [trích theo 9, tr.11-12].
Về trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay cho thấy trong cấu trúc lao
động về mặt chuyên môn kỹ thuật phần lớn là lao động chân tay, thủ công. Theo
kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn “chất lượng lao
động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp, chủ
yếu là lao động phổ thông, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm trên 60%”
[9, tr15]. Điều này gợi ý tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu về nguồn nhân lực
của làng nghề.
Qua cấu trúc lao động về chuyên môn kỹ thuật như vậy có thể thấy phần
lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các làng nghề nông
thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa được chọn lọc và đầu tư khoa học kỹ
thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do đó chưa đáp ứng được
nhu cầu thị trường và khó có thể nâng cao sức cạnh tranh.
Nghiên cứu về chất lượng lao động làng nghề, tác giả Trần Minh Yến
với nghiên cứu về Làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam đã đưa ra
bức tranh tổng quan về chất lượng lao động ở làng nghề. Trong đó số người
có trình độ học vấn cao chiếm một tỉ trọng thấp, còn đa số lao động có trình
độ học vấn trung học cơ sở trở xuống. Cụ thể nghiên cứu này cho thấy cần có
sự quan tâm hơn về trình độ học vấn của lao động làng nghề, bởi tính chất
làng nghề nên trình độ học vấn chưa được coi trọng không chỉ trong đối tượng
thợ, mà ngay cả đối tượng là các chủ doanh nghiệp thì trình độ và kiến thức
16
quản lý vẫn còn hạn chế [109]. Cấu trúc lao động về trình độ học vấn là một
trong những điểm yếu có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất, chất lượng sản
phẩm và bảo vệ môi trường trong hoạt động của các làng nghề.
Về đặc trưng các mối quan hệ trong làng nghề: Trong bài viết Phong
trào khôi phục tập quán - tín ngưỡng cổ truyền ở một số làng xã vùng châu
thổ sông Hồng của Lê Mạnh Năm [trích theo 69, tr.60-66], và bài viết Người
nông dân đồng bằng sông Hồng và quan hệ cộng đồng trong thời kỳ đổi mới
của Nguyễn Đức Truyến [trích theo 96, tr.45-51] đều cùng nhấn mạnh mối
quan hệ làng - xã chủ yếu dựa trên truyền thống, vận hành theo những nguyên
tắc tổ chức, các nhóm xã hội khác nhau, các tác giả đã phân tích làm rõ thêm
mô hình họ hàng, thôn xóm như một đơn vị kinh tế, với các hoạt động nghi lễ
thờ cúng tổ tiên, các sự kiện quan trọng trong hộ gia đình, sự giúp đỡ, tương
trợ lẫn nhau, tương tự các vị trí quan trọng, chủ chốt trong làng cũng sẽ được
phân chia theo dòng họ nào có đông người hơn trong làng, xóm. Các nghiên
cứu này giúp tác giả hình dung ra những hoạt động của các nhóm xã hội trong
nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Tương tự, nhóm tác giả Mai Văn Hai và cộng sự viết về Bản sắc làng
việt trình bày tính cộng đồng làng xã với chế độ công điền, công thổ đã hình
thành tâm lý bám làng, tập trung quần tụ và chia sẻ công việc cho tất cả mọi
người [31].
Cùng nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Thị Phương Châm
trong tác phẩm Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay với trường hợp làng
Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã
đưa ra những đặc trưng biến đổi văn hóa làng trong sự phát triển kinh tế hiện
nay. Cụ thể là “quan hệ làng xóm trong các làng vẫn giữ được tính chất của
làng quê xưa: đoàn kết, tình nghĩa. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường
phát triển hiện nay sự đoàn kết, nghĩa tình này còn được củng cố hơn trước”
17
[12, tr.305-306]. Song “cũng không quá khó để nhận ra một số những mâu
thuẫn đã nảy sinh trong quan hệ làng xóm và đã xuất hiện những cạnh tranh
mang tính chất thể diện trong cộng đồng”. Đặc biệt những làng buôn, làng
nghề tiểu thủ công nghiệp có tốc độ sản xuất và phát triển không ngừng nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong và ngoài nước [12]. Công trình
này, giúp tác giả nhận diện và có ý tưởng nghiên cứu sự kết nối cấu trúc xã
hội giữa truyền thống và hiện đại ở các làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện
nay.
Trong quá trình chuyển đổi về cấu trúc xã hội - dân số của làng nghề tại
nông thôn đã xuất hiện sự phân tầng xã hội trên tất cả các mặt, đặc biệt phân
tầng trong các yếu tố của dân số như lao động, mức sống, trình độ, v.v, theo
như Talcott Parsons, sự phân tầng chính là kết quả trực tiếp của sự phân công
lao động xã hội và sự phân hóa giữa các nhóm xã hội khác nhau [120, tr. 841-
843]. Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Tô Duy Hợp khi bàn về Thực trạng
và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay
đã trình bày các mô hình phân tầng trong làng - xã, như xuất hiện các tầng gia
đình giàu, khá giả, trung bình và nghèo. Trong đó có sự phân tầng của những
làng nghề truyền thống, sự phân hóa rõ rệt của từng làng về mức thu nhập tạo
ra đặc trưng thu nhập cho các hộ tại từng làng, góp phần hTnh thành nên các
cấu trúc xã hội kiểu mới [42, tr. 20-26].
Tóm lại, các nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số có ý nghĩa về mặt
thực tiễn hết sức to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa công
nghiệp nông thôn Việt Nam. Thông qua quá trình nghiên cứu tài liệu của các
tác giả như Bùi Xuân Đính, Trần Minh Yến, Lê Mạnh Năm, Mai Văn Hai và
cộng sự, Nguyễn Thị Phương Châm, Tô Duy Hợp và báo cáo của Bộ Tài
nguyên và môi trường về Môi trường làng nghề Việt Nam đã giải quyết được
nhiều vấn đề về dân số đang tồn đọng tại các làng nghề của nông thôn Việt
18
Nam như thất nghiệp, tệ nạn, nghèo đói, đào tạo... Tuy nhiên, bên cạnh đó,
các làng nghề vẫn không tránh khỏi những biến đổi tiêu cực trong quá trình
biến đổi cấu trúc xã hội - dân số, điều đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu khoa
học và lâu dài đối với các đối tượng của cấu trúc xã hội - dân số làng nghề
nhằm phát triển làng nghề nói chung và phát triển cấu trúc xã hội - dân số bền
vững trong các làng nghề nói riêng.
1.2. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - GIA ĐÌNH LÀNG NGHỀ
Sự phân tầng xã hội ở nông thôn nói chung đã dẫn đến sự phân tầng
trong từng đơn vị của làng - xã, trong đó có các gia đình. Về điều này, tác giả
Trương Xuân Trường với Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn vùng
châu thổ sông Hồng hiện nay đã đưa ra các chỉ số sinh hoạt gia đình dưới tác
động của nền kinh tế thị trường, từ đó dẫn đến sự biến đổi trong cấu trúc gia
đình về quy mô, vai trò gia đình, vị thế chủ hộ và các mối quan hệ thứ bậc -
trên dưới, quan hệ giới trong gia đình. Điều đó thể hiện rõ trong quan điểm về
việc lập gia đình. Nghiên cứu này chỉ rõ rằng quan điểm lập gia đình giờ đã
thay đổi so với trước. Thành viên trong gia đình lập gia đình là tự bản thân
quyết định, khác với truyền thống chủ yếu là do sự sắp xếp của cha mẹ. Ngoài
ra kinh tế hộ gia đình đã được coi trọng, cấu trúc gia đình hạt nhân hai thế hệ
dần thay thế gia đình nhiều thế hệ; quy mô trung bình có từ 4 - 5 nhân khẩu.
Đặc biệt, quan điểm về chủ hộ đã dần thay đổi với vai trò chính là người chỉ
huy và điều phối thực sự trong gia đình, với đầu óc tổ chức sản xuất - kinh
doanh và mang lại thu nhập nhiều nhất cho gia đình sẽ được coi là chủ hộ. Đó
là những biểu hiện đặc trưng cho sự biến đổi của cấu trúc gia đình trong làng,
xóm hiện nay [93, tr.28-41]. Bài viết này giúp tác giả có hướng nghiên cứu
quy mô gia đình, vị thế, vai trò của từng thành viên trong gia đình làng nghề.
Tác giả Nguyễn Đức Truyến với bài viết Lịch sử hình thành và phát
triển của làng ở đồng bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình đã đưa ra
19
những dấu hiệu nhằm cảnh báo về tính cấu kết cộng đồng dưới tác động của
nền kinh tế thị trường qua các mối quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, mối
quan hệ giữa nam giới và nữ giới, giữa vợ và chồng. “Tổ chức kinh tế hộ đòi
hỏi tăng cường sự cấu kết giữa các thành viên trong hộ gia đình, tôn trọng vai
trò điều hành của người chủ gia đình, sự phối hợp giữa các thành viên trong
phân công lao động và sản xuất và sự nhất quán trong tiêu dùng và sử dụng
sản phẩm trong gia đình” [94, tr.23]. Tuy nhiên, “vẫn là mô hình dân chủ và
bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ
và con cái”[94, tr.23].
Trong cuốn Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền
thống và biến đổi, tác giả Bùi Xuân Đính đã phân tích những đặc trưng về cấu
trúc xã hội - gia đình thông qua sự chuyên môn hóa nghề, tính chất truyền
nghiệp và quy định truyền nghề trong các gia đình làng nghề. Điều đó, cho
thấy rằng, cấu trúc xã hội - gia đình đã tạo nền tảng vững chắc, kết nối bản
sắc và duy trì các đặc trưng truyền thống của làng nghề. Tác giả đã trình bày
về mô hình làng nghề, với cách nhìn hoàn toàn khác biệt về mô hình làng
nghề mới với mô hình nền công nghiệp gia đình luôn khởi đầu từ cấu trúc xã
hội của gia đình, với nghĩa là chủ hộ luôn là người khởi nghiệp và các thành
viên của gia đình như vợ của chủ hộ, con trai, con gái của chủ hộ luôn được
thu hút vào làm việc và trở thành những người có vị trí quan trọng, then chốt
trong nền công nghiệp gia đình [24, tr.58-65], hoặc có thể tìm thấy mô hình
của Phan Gia Bền trong nghiên cứu về Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công
Việt Nam, cũng đã trình bày tính chất “thủ công gia đình” trong các làng nghề
và sự phân công vai trò của nam giới và nữ giới, sự phân công giữa các lứa
tuổi trong làng nghề [101, tr.42-45].
Cùng bàn về tính cấu kết trong cộng đồng, tác giả Lê Hồng Lý trong
nghiên cứu Nghề thủ công mỹ nghệ đồng bằng Sông Hồng, tiềm năng, thực
20
trạng và một số khuyến nghị đã đưa ra những hình ảnh chân thực và đáng
quan tâm về thực trạng của thế hệ nghệ nhân tương lai. Đó là, trong các làng
nghề tình trạng trẻ em đi học trung học phổ thông, đại học, sau đại học còn ít,
có xu hướng giảm và có sự gia tăng về tệ nạn xã hội như nghiện hút, trộm
cắp, đánh bài … [105, tr.168-170].
Trong một nghiên cứu của tác giả Mai Văn Hai và cộng sự trong tác
phẩm Bản sắc làng Việt trong tiến trình toàn câu hóa hiện nay, có thể tìm
hiểu rõ hơn về tính cấu kết cộng đồng thông qua các quy định nghiêm ngặt
trong cấu trúc xã hội - gia đình của làng nghề thông qua chế độ “nội hôn” và
“bí mật nhà nghề” như mỗi một làng nghề đều phải giữ bí mật về nghề của
mình, con gái lấy chồng nơi khác không được làm nghề ở nguyên quán của
mình hoặc có nơi cấm con gái lấy chồng ngoài mà phải lấy chồng trong làng
và cùng làm nghề, hoặc chỉ dạy, truyền nghề cho đàn ông, đàn bà có con chứ
không truyền và dạy nghề cho con gái [31, tr. 95-100].
Sự biến đổi của kinh tế thị trường đã khiến cho cấu trúc xã hội - gia
đình bị biến đổi theo, đặc biệt là về vị thế và vai trò của từng thành viên trong
gia đình. Khi được cho phép sản xuất, kinh doanh những gì mà Nhà nước
không cấm, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn mở rộng hoạt động sản xuất - kinh
doanh nghề những mặt hàng nghề truyền thống với sự tham gia của các thành
viên gia đình tùy theo sức khỏe và năng lực. Nhiều phụ nữ vừa làm vợ, vừa
làm nội tướng trong gia đình và vừa cùng chồng tham gia quản lý cơ sở sản
xuất của hộ gia đình. Sự biến đổi đó được phát triển theo quy luật mà Marx đã
từng nói khi bàn về cấu trúc xã hội, với sự kiểm soát về quyền lực kinh tế sẽ
kiểm soát được quyền lực chính trị và chi phối về mặt tư tưởng, tinh thần.
Ngoài ra, có thể thêm một số tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu xã hội tác động đến vị thế và vai trò trong gia đình,
trong làng - xã như Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc
21
Bộ trong điều kiện kinh tế mới của Viện Xã hội học. Nghiên cứu này đã đưa
ra cái nhìn tổng quan về sự biến đổi của nông thôn Việt Nam từ sau “khoán
sản” và “khoán hộ” [trích theo 103, tr.1-14], từ hệ thống kinh tế hợp tác xã
chuyển sang hệ thống kinh tế hộ gia đình xã viên, quy mô diễn ra không chỉ
trong hộ gia đình mà còn họ mạc và làng, tạo ra sự thay đổi về cấu trúc xã hội
trong tất cả các lĩnh vực như dân số, nghề nghiệp, việc làm, lao động, cho đến
các thiết chế, quy phạm điều chỉnh quan hệ và vai trò xã hội của người dân ở
nông thôn. Sự biến đổi cấu trúc xã hội nông thôn, tác giả Tô Duy Hợp trong
nghiên cứu Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ hiện nay cho rằng sự chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn
đang ngày càng ăn nhập và thích nghi với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị
trường, để thấy rõ sự biến đổi tác giả đã đưa ra sự phân loại các hộ gia đình
như hộ gia đình vượt trội, chủ động giàu có, hộ gia đình trung bình và hộ gia
đình yếu kém, thụ động hoặc có làng - xã vượt trội, chủ động giàu có; làng -
xã trung bình và làng - xã yếu kém, thụ động. Tác giả cũng trình bày về sự
xuất hiện của nhóm hộ gia đình chuyển sang kinh doanh theo hướng chuyên
môn hóa hơn và quy mô hơn như các “hộ chuyên doanh” [42, tr. 21-30].
Ngoài ra, có thể tìm hiểu những biến đổi cấu trúc xã hội trong các bài viết của
các tác giả như: Vũ Tuấn Anh Về sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng
giá trị ở nông thôn trong quá trình đổi mới kinh tế [3], Phí Văn Ba Sự biến
đổi của các truyền thống gia đình nông thôn trong quá trình hiện đại hóa:
phác thảo theo kết quả điều tra xã hội học gần đây [6], Đỗ Thái Đồng với bài
viết Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở một xã nông thôn Nam Bộ
[26], hay phân tích cơ cấu nội tại, chức năng trong các loại hộ gia đình của
Mai Huy Bích với nội dung Một đặc trưng về cơ cấu và chức năng, gia đình
Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng [7], ...
22
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu khoa học này đã cung cấp nhiều thông
tin, nhiều dữ liệu về các mô hình cấu trúc xã hội - gia đình trong chiều dài
lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Các công trình
nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguồn gốc và đặc
trưng của các phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, từ đó góp phần làm rõ những
tác động của các chính sách, thể chế, hệ thống giá trị văn hóa, phong tục tập
quán cổ truyền của các làng nghề qua từng giai đoạn phát triển khác nhau.
1.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
LÀNG NGHỀ
Tại các làng nghề, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp có thể được nhìn nhận
thông qua các hình ảnh về giá trị văn hóa trong làng nghề ở nông thôn. Cấu
trúc xã hội gắn liền với văn hóa, cấu trúc văn hóa của cộng đồng xã hội nhất
định. Thuật ngữ Kultur trong thuật ngữ cổ điển Đức ngụ ý về văn hóa mang
nghĩa “tình anh em” [113, tr.41-42] và trong tiếng Anh, khái niệm văn hóa đề
cập thường xuyên để đại diện cho tính nghệ thuật tinh túy và cách cư xử của
giới tinh hoa giáo dục [trích theo 119, tr.241-258]. Do đó, trong một nền văn
hóa, ý nghĩa đơn giản nhất cấu trúc xã hội đặc trưng sẽ được thể hiện thông
qua các hoạt động của con người. Tương tự, đối với cấu trúc xã hội của làng
nghề tại các cộng đồng luôn hình thành các hình thức khác nhau để tạo ra
công việc, quy định thông qua một loạt nguồn lực có sẵn và với các chỉ tiêu
có sẵn như truyền thống gia đình, dòng họ, phong tục, kiến thức truyền thống,
các yếu tố tôn giáo và tinh thần sáng tạo để đáp ứng mục tiêu sinh kế hằng
ngày và áp dụng đối với các thành viên tham gia [trích theo 113, tr.1082-
1087]. Faulkner mô tả nền văn hóa làng nghề như là một “cấu trúc” với các
tiêu chí đặc trưng bao gồm niềm tin, chuẩn mực, phong tục, nghi lễ, thái độ,
hành vi, các kỹ năng, kiến thức, biểu tượng, ngôn ngữ, tôn giáo [trích theo
114, tr.27-52]. Các cấu trúc xã hội làng nghề thể hiện cách sống của người
23
dân làng nghề, giống như một thiết chế cho cuộc sống đảm bảo sự gắn kết của
cả hệ thống.
Khi nghiên cứu về cấu trúc xã hội làng nghề, các tác giả thường gắn với
các nghiên cứu về cấu trúc xã hội của nông thôn như: tác giả Tô Duy Hợp
trình bày về sự chuyển đổi cấu trúc xã hội thông qua các mô hình hoạt động
sản xuất của các hộ [42, 20-26], tác giả Trương Xuân Trường cũng bàn về
biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn châu thổ sông Hồng thông qua các tiêu
chí như đời sống sinh hoạt, thu nhập, chuyển đổi lao động nghề nghiệp và sự
phân tầng xã hội trong làng [93, tr.30 - 39].
Làng nghề là một trong những hình ảnh biểu trưng gắn liền với nông
thôn Việt Nam trong các công trình nghiên cứu như Làng xã An Nam ở Bắc
kỳ của P. Ory, đặc biệt trong tác phẩm Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ của
P.Gourou, P.Gourou cho rằng ngành công nghiệp Việt Nam, cụ thể là các
hoạt động của làng nghề giống như một ngành “phụ”, “kiếm thêm” lúc nông
nghiệp nhàn rỗi của người nông dân Việt Nam với quy mô nhỏ, máy móc thủ
công và làm theo phương pháp truyền thống, hầu như không có sự hỗ trợ của
kỹ thuật. P.Gourou viết: “Người thợ thủ công không có vốn để trả công và
khấu hao, họ chỉ mong mỗi ngày lao động kiếm được vài hào bạc” [74, tr.
465-466]. Tương tự, tác giả Mai Văn Hai, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đức
Chiện, Ngô Thị Thanh Quý trong cuốn Bản sắc làng việt đã trình bày về tính
bảo mật trong nghề của người làng nghề trong quan hệ với người ngoài làng,
người khác. Quy định bất thành văn của một số làng nghề là chỉ truyền nghề
cho con trai hoặc con dâu chứ không truyền nghề cho con gái vì lo ngại con
gái đi lấy chồng, theo chồng sẽ mang bí mật nghề nghiệp cho người khác,
làng khác [trích theo 31, tr.98].
Tác giả Hoàng Kim Giao trong tác phẩm Làng nghề truyền thống, mô
hình làng nghề và phát triển nông thôn và tác giả Nguyễn Kế Tuấn trong
24
công trình nghiên cứu Một số vấn đề tổ chức sản xuất ở các làng nghề thủ
công đã đưa ra các loại mô hình làng nghề theo từng giai đoạn phát triển
nhằm khắc phục được những hạn chế của mô hình truyền thống, phát triển mô
hình hiện đại và năng suất cao bằng sự chuyên môn hóa thay máy móc vào
các công đoạn sản xuất tay chân, chuyên môn hóa về vai trò của từng người
trong hộ gia đình trong các công đoạn hoặc sự phát triển cao độ của mô hình
công ty chuyên sản xuất - kinh doanh ở làng nghề, đặc trưng cho sự phát triển
làng nghề chuyên nghiệp hơn [105, tr.54-67]. Nghiên cứu này gợi cho tác giả
luận án ý tưởng tìm hiểu mô hình “công ty nghề” trong cấu trúc xã hội nghề
nghiệp của làng nghề hoặc sự xuất hiện của “phố nghề” trong nghiên cứu của
tác giả Vũ Quốc Tuấn với công trình nghiên cứu Làng nghề, phố nghề Thăng
Long - Hà Nội trên đường phát triển đã đại diện cho sự phát triển của thành
thị, phố xá sầm uất [105, tr.481-490].
Ngoài ra, có thể nghiên cứu các công trình khoa học đã đề cập khá sâu
sắc về các vấn đề chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và phân tầng xã hội tại các
vùng nông thôn Việt Nam như: tác giả Đỗ Thiên Kính với nghiên cứu Tìm
hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu
nghèo ở nước ta hiện nay [49], tác giả Mai Huy Bích với nghiên cứu Lý
thuyết phân tầng xã hội và những phát triển gần đây [8], Trịnh Duy Luân và
Bùi Thế Cường với nghiên cứu về Phân tầng xã hội và công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay [55], v.v. Các tác giả đã phân tích những xu hướng biến đổi
của nông thôn Việt Nam thông qua sự chuyển dịch về cơ cấu lao động và sự
phân tầng xã hội trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Các nhóm lao
động được phân chia rõ ràng hơn thông qua các mức thu nhập, sự khác biệt về
dụng cụ sinh hoạt trong gia đình và phương tiện đi lại, v.v.
Có thể thấy, mặc dù bị tác động bởi nền kinh tế thị trường, lợi nhuận
kinh tế đến từng cá nhân khiến cho cấu trúc xã hội - nghề nghiệp thay đổi.
25
Tuy nhiên theo Max Weber đã phân tích, kinh tế không phải là yếu tố duy
nhất giải thích cấu trúc xã hội là động lực cho sự thay đổi, bởi nó còn phụ
thuộc vào các yếu tố khác như địa vị chính trị, hay quyền lực, địa vị xã hội
hay uy tín [116, tr.15 - 25]. Chính vì vậy, mặc dù các làng nghề phát triển và
biến đổi sâu sắc có thể bắt nguồn từ yếu tố kinh tế nhưng để duy trì, phát triển
và có mối liên kết khăng khít với môi trường làng nghề, thì đòi hỏi cần có sự
kết hợp giữa các yếu tố khác ngoài yếu tố kinh tế như yếu tố dân số, truyền
thống và văn hóa nghề nghiệp, yếu tố đổi mới tư duy và chính sách phát triển
nghề.
Có thể thêm một số công trình khác nữa nhằm có cái nhìn tổng quan về
cấu trúc tổ chức của các làng xã nông thôn Việt Nam nói chung, để từ đó
phản ánh những tác động của cấu trúc làng xã trong các cấu trúc nghề nhiệp
của làng, như tác giả Bùi Quang Dũng với nghiên cứu Nghiên cứu làng Việt:
các vấn đề và triển vọng [27], Trần Từ với nghiên cứu Cơ cấu tổ chức của
làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ [97], Công trình nghiên cứu Sự biến đổi của
làng - xã Việt Nam ngày nay (ở đồng bằng sông Hồng) đã chỉ ra sự biến
chuyển về cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Đó là, sự biến đổi của xã hội nông
thôn cổ truyền, trong đó có cấu trúc xã hội như là: các quan hệ sở hữu, quan hệ
huyết thống và những quan hệ xã hội khác, đời sống văn hóa, xã hội, phong tục,
tập quán, v.v, đồng thời diện mạo của đời sống văn hóa xã hội ở nông thôn nước
ta hiện nay được phác họa tương đối toàn diện [38]. Đặc biệt cuốn sách do tác
giả Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), (2010), “Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội
Việt Nam hiện nay”, (kết quả nghiên cứu thuộc đề tài khoa học trọng điểm cấp
Nhà nước KX.04.14/06-10 “Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam”). Công trình
này nêu tổng thể về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, thể
hiện trên năm phân hệ cơ bản nhất, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội -
26
nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội -
tôn giáo [89]. Đây thực sự là công trình có giá trị lý luận và thực tiễn, giúp cho
tác giả luận án học hỏi để nghiên cứu các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân
làng nghề.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu của nhóm công trình khoa học này giúp
ích cho tác giả luận án tiếp cận, học hỏi, kế thừa nhất là về phương pháp nghiên
cứu xã hội học nông thôn, đồng thời đã cung cấp một hệ thống các lý luận và
bằng chứng thực tiễn về sự hình thành, phát triển làng nghề truyền thống Việt
Nam, tạo điều kiện cho việc hình thành tư duy và nhận thức về làng nghề, đặc
biệt là quá trình hình thành và phát triển các mô hình sản xuất của làng nghề với
các cấu trúc xã hội - nghề nghiệp mang đặc trưng cho từng giai đoạn, từng mô
hình. Đây sẽ là cơ sở lý luận khoa học cho các nhà nghiên cứu khi xem xét vấn
đề làng nghề truyền thống ở Việt Nam phát triển qua các thời kỳ.
1.4. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - MỨC SỐNG LÀNG NGHỀ
Liên quan tới cấu trúc mức sống làng nghề, có thể tìm hiểu sự hình
thành và phát triển cấu trúc này thông qua các mô hình phân tầng về mức
sống tại nông thôn Việt Nam nói chung và làng nghề tại nông thôn nói riêng.
Mức sống luôn là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự biến đổi
cấu trúc thông qua sự phân tầng giữa các nhóm thu nhập. Nghiên cứu về phân
tầng mức sống của tác giả Lưu Hồng Minh với nghiên cứu Tính năng động
của người dân nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với phân tầng xã hội, đã xét tính
năng động của người dân thông qua sự chuyển đổi lao động nghề nghiệp tại
chỗ và di dân để đánh giá về chất lượng cuộc sống. Từ đó phân chia nhóm lao
động tại nông thôn theo các mức thu nhập khác nhau và theo tính chất nghề
nghiệp khác nhau. Tác giả cũng chỉ ra rằng các ngành nghề trong nông nghiệp
ngày càng đa dạng, chiếm phần lớn thời gian và nhân công tại các vùng nông
thôn, trong đó có các ngành nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, vẫn chưa
27
có dấu ấn rõ nét bởi còn bị ảnh hưởng nặng nề từ tư duy truyền thống đối với
nông nghiệp [60, tr. 84-90]. Tác giả Đỗ Thiên Kính với nghiên cứu Tìm hiểu
phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu
nghèo ở nước ta hiện nay, đã trình bày các hệ thống phần tầng xã hội khác
nhau và đặc trưng về các giai cấp tại các nước trên thế giới và ở Việt Nam qua
các thời kỳ [49, tr.51-58]. Cùng nghiên cứu về nội dung phân tầng, tác giả
Mai Huy Bích với nghiên cứu Lý thuyết phân tầng xã hội và những phát triển
gần đây [8] cũng bổ sung sự đa dạng về lý thuyết phân tầng và sự phát triển
của lý thuyết phân tầng trong thời gian gần đây, thông qua các quan điểm của
các nhà xã hội học như E. Duirkheim, Erik Olin Wright, Coleman. Bài viết
của Trịnh Duy Luân và Bùi Thế Cường Về phân tầng xã hội và công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay, các tác giả đã trình bày những đặc trưng cơ bản về
thực trạng phân tầng xã hội và thực hiện công bằng xã hội của Việt Nam, tìm
ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực của
phân tầng xã hội đang diễn ra tại Việt Nam [55, tr.3-11]. Các tác giả phân
chia mức sống của làng, xã thành các nhóm đặc trưng, thể hiện những biến
đổi rõ ràng của các cấu trúc trong làng - xã. Một phát hiện nổi bật trong các
nghiên cứu trên là sự phân tầng xã hội thành các tầng lớp gia đình giàu, khá
giả, trung bình và nghèo luôn gắn liền với hoạt động nghề nghiệp. Trong đó,
những gia đình có mức sống khá giả trở lên thường dựa vào nghề phi nông
nghiệp và những gia đình có mức sống nghèo thường dựa vào nghề nông
nghiệp với diện tích đất nhỏ hẹp.
Tác giả Trịnh Xuân Thắng trong nghiên cứu Bảo tồn và phát triển làng
nghề truyền thống một cách bền vững đã phản ánh sự thay đổi về mức thu
nhập của người lao động làng nghề và những tác động tích cực trong các hoạt
động xuất nhập đạt năng suất cao [90], có thể thấy rằng việc phát triển làng
nghề đúng hướng sẽ tạo ra hiệu quả to lớn trong việc nâng cao thu nhập cho
28
người dân làng nghề về mọi mặt. Tương tự, trong tác phẩm Làng nghề thủ
công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn Vượng, tác giả đã tập trung trình
bày các loại hình làng nghề truyền thống trong quá trình hình thành, phát triển
và thích ứng với nền kinh tế thị trường như: đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm,
trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây
tre đan, ngọc trai [108].
Với khởi nguồn từ học thuyết Marx coi cấu trúc xã hội là cấu trúc giai
cấp với mối quan hệ chủ yếu là đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị, với sự quyết định bởi phương thức sản xuất và trao đổi, Anthony Giddens
đã tiếp tục phát triển với học thuyết về cấu trúc hóa. Theo học thuyết của
Giddens cấu trúc xã hội được tạo ra và liên tục được tái tạo bởi các hành động
của con người và cấu trúc xã hội biến đổi kéo theo chức năng biến đổi với
tính hai mặt tốt hoặc xấu. Từ đó để thấy rằng sự biến đổi trong cấu trúc - mức
sống làng nghề là kết quả hoạt động nghề nghiệp của người dân và các chủ
thể hoạt động nghề nghiệp nhằm đáp ứng chức năng của môi trường kinh tế
của làng nghề sao cho tương thích với các yêu cầu đặt ra từ đổi mới kinh tế
sang cơ chế thị trường [43, tr. 82-91].
Ngoài ra, có thể thêm đề tài như đề tài Nghiên cứu về quy hoạch phát
triển làng nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá, nông thôn ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hợp
tác cùng với tổ chức JICA của Nhật, đã điều tra nghiên cứu tổng thể các vấn đề
có liên quan đến làng nghề thủ công nước ta về tình hình phân bố, điều kiện kinh
tế - xã hội của làng nghề, nghiên cứu đánh giá 12 mặt hàng thủ công của làng
nghề Việt Nam. Đặc biệt chú ý tới đề tài Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở
Việt Nam hiện nay: Kết quả nghiên cứu của đề tài KX.02.10 của tác giả Bùi Thế
Cường. Có thể tìm thấy trong nghiên cứu này cơ sở lý luận và phương pháp luận
về biến đổi cơ sở xã hội, khung phân tích về thực trạng xã hội Việt Nam, những
29
biến đổi về xã hội, dân số, văn hóa và bất bình đẳng xã hội, phúc lợi xã hội cùng
các mô hình xã hội và quản lý xã hội với yếu tố xuyên suốt đó là công nghiệp
hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam. Từ đó có thể phân tích trên cơ sở khoa học về
thực trạng mức sống của người dân làng nghề, nguyên nhân của sự thay đổi và
dự báo sự thay đổi tiếp tục trong tương lai [13].
Một nghiên cứu của Bùi Xuân Đính về Làng nghề thủ công huyện Thanh
Oai (Hà Nội) truyền thống và biến đổi đã phân chia mức sống của người dân
làng nghề theo tổ chức của làng nghề thủ công theo đặc trưng chuyên và không
chuyên để từ đó thấy rõ được tầm quan trọng của sự phát triển một làng nghề
chuyên sâu dưới tác động của thị trường nhất là thị trường đầu ra của sản phẩm
[24, tr. 65 - 69]. Giống như P. Gourou đã nhận định: “Với nền kinh tế tiểu nông,
nền đại công nghiệp không có chỗ đứng trong xứ này vì không có thị trường tiêu
thụ” [ 74, tr.487].
Tác giả Nguyễn Thu Minh, Trần Văn Lạng trong tác phẩm Khái quát
một số nét về làng nghề truyền thống tỉnh Bắc Giang đã đưa ra những dấu
hiệu căn bản thể hiện sự thay đổi tích cực đối với cuộc sống của các làng nghề
dưới tác động của các cơ sở vật chất trong từng gia đình và các điều kiện của
thị trường, cụ thể là chợ của từng làng nghề [105, tr. 411-417].
Các tác giả đã đưa ra cái nhìn khách quan về cấu trúc xã hội - mức sống
trong các làng nghề, cho thấy cấu trúc mức sống chịu tác động của các yếu tố
khác nhau và cả các phân hệ cấu trúc xã hội khác của làng nghề.
Có thể thấy nhóm các công trình khoa học vừa nêu ở trên đã tập trung
phân tích thực trạng và những biến đổi của cấu trúc xã hội trong làng nghề ở
Việt Nam. Các nghiên cứu về cấu trúc xã hội - mức sống cho thấy các hệ
thống của phân tầng xã hội về mức sống gắn liền với hoạt động nghề nghiệp
của các cá nhân và gia đình. Các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của các yếu
tố như điều kiện vật chất, đặc điểm gia đình, yếu tố văn hóa, truyền thống
30
nghề nghiệp, yếu tố kinh tế thị trường và cả yếu tố chính sách đối với cấu trúc
xã hội - mức sống của cư dân làng nghề. Các nghiên cứu này gợi mở nhiều ý
tưởng cho việc tiếp tục tìm hiểu quá trình phát triển cấu trúc xã hội làng nghề
tại Việt Nam. Từ sự thay đổi cấu trúc xã hội qua từng thời kỳ có thể nắm bắt
được quy luật và xu hướng phát triển của nó. Từ đó có những định hướng
chính sách sao cho phù hợp và có tác động thúc đẩy các hoạt động, sản xuất
và các yếu tố của cấu trúc xã hội trong làng nghề truyền thống tại Việt Nam.
Tóm lại, kết quả tổng quan các nghiên cứu ở trên tác giải rút ra một số
nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án như sau:
Về mặt lý luận, một số khái niệm về làng nghề đã được nêu ra và làm rõ
từ các góc độ khoa học khác nhau như khái niệm cấu trúc xã hội với các phân
hệ của nó. Chẳng hạn khái niệm cấu trúc xã hội - dân số với quy mô, mật độ,
tuổi, giới tính và trình độ học vấn, cấu trúc xã hội - gia đình thông qua quy
mô gia đình, các thế hệ và các mối quan hệ trong gia đình, cấu trúc xã hội -
nghề nghiệp thông qua đặc trưng quy mô của các mô hình làng nghề như mô
hình gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã. Một số khái niệm có thể là mới đã được
đưa ra phân tích như công ty nghề, phố nghề. Một số yếu tố tác động đến cấu
trúc xã hội đã được chỉ ra và đánh giá như yếu tố truyền thống văn hóa, yếu tố
cơ chế thị trường, yếu tố chính sách của Đảng và Nhà nước giành cho các
làng nghề. Tuy nhiên, các khái niệm nghiên cứu này cần được xem xét, phân
tích từ nhiều góc độ tiếp cận khoa học khác nhau. Do vậy, điều này đặt ra sự
cần thiết phải xem xét các khái niệm về cấu trúc xã hội một cách khoa học
chuyên ngành từ góc độ tiếp cận lý thuyết nhất định mà luận án này muốn thể
hiện rõ, đó là cách tiếp cận lý thuyết xã hội học.
Về mặt phương pháp, đa số các nghiên cứu đều triển khai thu thập các
dữ liệu từ thực tiễn, qua khảo sát từng địa phương cụ thể, nhưng có thể thiếu
tính hệ thống và tập trung nghiên cứu từ cách tiếp cận xã hội học. Mặc dù vậy,
31
các nghiên cứu chưa nói nhiều đến di động xã hội hoặc chưa nghiên cứu về sự
nối tiếp giữa các thế hệ trong làng nghề, hoặc sự biến đổi cấu trúc trong làng
nghề cũng như sự tương tác giữa các phân hệ cấu trúc xã hội trong làng nghề.
Về nội dung nghiên cứu, tất cả những công trình nêu trên đã tiến hành
nghiên cứu làng nghề, làng nghề truyền thống tập trung ở các lĩnh vực chính sau:
Một là, nghiên cứu tổng quan về tình hình hoạt động của công nghiệp
nông thôn; thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn;
Hai là, nghiên cứu về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp và
những vấn đề môi trường tác động đến làng nghề;
Ba là, nghiên cứu về tình hình sản xuất kinh doanh của làng nghề, làng
nghề truyền thống từ lao động, công nghệ, vốn, thị trường tiêu thụ sản
phẩm… trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát
triển nghề, làng nghề và làng nghề truyền thống không đặt ra vấn đề nghiên
cứu về các phân hệ của cấu trúc xã hội làng nghề. Một vài nghiên cứu có thể
đã đặt ra vấn đề phân tích một số phân hệ cấu trúc xã hội nhưng chưa đầy đủ
và nhất là chưa được tiếp cận chuyên sâu từ góc độ xã hội học.
Các nghiên cứu đã phân tích một số yếu tố tác động khác nhau đến cấu
trúc xã hội làng nghề nhưng thiếu những nghiên cứu xem xét toàn bộ các yếu
tố đó theo cách tiếp cận liên cấp từ đặc điểm cá nhân đến đặc điểm gia đình
và đặc điểm của cộng đồng làng - xã đến đặc điểm của kinh tế thị trường và
chính sách phát triển kinh tế xã hội.
Một hạn chế có thể cần nhấn mạnh từ góc độ xã hội học là các nghiên
cứu vừa trình bày ở trên mặc dù đã phân tích khái niệm cấu trúc xã hội ở nông
thôn và làng nghề. Nhưng rất ít nghiên cứu xem xét kỹ cấu trúc xã hội từ góc
độ lý thuyết xã hội học nhất định. Do vậy, luận án này đặt ra nhiệm vụ tìm
32
hiểu và áp dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu
trúc hóa của Anthony Giddens để xem xét các phân hệ cấu trúc xã hội trong
mối quan hệ với các đặc điểm xã hội từ vi mô đến vĩ mô của làng nghề. Luận
án sử dụng quan niệm: cấu trúc xã hội là kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền
vững của các thành phần tạo nên hệ thống xã hội nhất định để tìm hiểu các
phân hệ của nó. Áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott
Parsons, luận án xem xét cấu trúc xã hội với tính cách là kiểu quan hệ của các
thành phần tạo nên các hệ thống xã hội từ vi mô đến vĩ mô. Hệ thống xã hội
vi mô là hệ thống bao gồm các cá nhân do đó cấu trúc xã hội của hệ thống xã
hội vi mô là kiểu quan hệ tương đối bền vững của các cá nhân tạo nên gia
đình, hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh nghề, tổ chức nghề nghiệp.
Các nghiên cứu hiện có về cấu trúc xã hội ở Việt Nam thường tập trung
vào cấu trúc xã hội - mức sống thể hiện ở phân tầng xã hội theo mức sống.
Trên cấp độ vi mô, luận án này sẽ tìm hiểu cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc
xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống
của làng nghề. Đồng thời, luận án này cũng sẽ tập trung nghiên cứu cấu trúc
xã hội - nghề nghiệp: mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề.
Cùng với cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội, luận án áp dụng cách
tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens để xem xét và đánh giá
sự hình thành, vận động, biến đổi và phát triển, tức là quá trình tái cấu trúc,
quá trình cấu trúc hóa của từng loại cấu trúc xã hội. Như đã trình bày ở trên,
lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens cho rằng một cấu trúc xã hội
được hình thành, vận động và liên tục được “cấu trúc hóa” thông qua quá
trình huy động, sử dụng các nguồn lực của các chủ thể hành động theo các
quy tắc nhất định của hệ thống xã hội. Do vậy, việc áp dụng lý thuyết cấu trúc
hóa của Anthony Giddens sẽ giúp phân tích các nguồn lực cùng các quy tắc
pháp quy dưới hình thức các quy định pháp luật và các quy tắc phi chính thức
33
dưới hình thức các quy ước, thói quen của các cá nhân, gia đình mà các thành
phần của cấu trúc xã hội huy động, chia sẻ, sử dụng trong quá trình sản xuất
kinh doanh, sinh hoạt và đó cũng chính là quá trình mà cấu trúc xã hội được
cấu trúc hóa.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề
được phân tích tập trung vào bốn hướng nghiên cứu chính là: hướng nghiên
cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã
hội - gia đình làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - mức sống làng nghề. Tuy
nhiên, các hướng nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề
chưa đi sâu phân tích hoặc phân tích chưa đầy đủ các phân hệ của cấu trúc xã
hội làng nghề và rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học. Các
nghiên cứu hiện có về cấu trúc xã hội, làng nghề như đã phân tích trong
chương 1, đã giúp tác giả luận án có cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
và gợi ra nhiều ý tưởng nghiên cứu về thực trạng cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.
34
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Cấu trúc xã hội
Trong lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam, khái niệm “Social structure”
được dịch là cơ cấu xã hội hoặc cấu trúc xã hội. Đây là một trong những khái
niệm then chốt của xã hội học, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm
khác nhau:
Theo quan điểm của Marx, cấu trúc xã hội chủ yếu là cấu trúc xã hội -
giai cấp với mối quan hệ đấu tranh diễn ra giữa giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị, trong đó phương thức sản xuất sẽ quyết định cấu trúc - giai cấp, vì vậy
yếu tố cấu thành nên phương thức sản xuất và sự biến đổi ở phương thức sản
xuất tạo ra sự biến đổi trong cấu trúc xã hội [118, tr.1-7]. Marx nhấn mạnh:
Trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức là
những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn
bộ những quan hệ ấy hợp thành cơ cấu kinh tế - xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với
cơ sở hiện thực đó [11, tr15].
V.L.Lênin, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại đã xác định cơ cấu giai cấp
trong xã hội do những quan hệ sản xuất cơ bản quy định và những quan hệ
này tương ứng với trình độ của sự phát triển lực lượng sản xuất:
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thông thường thì
35
những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội; và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần
của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những
tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của
tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định [103, tr17-18].
Như vậy, Marx và Lênin quan niệm cấu trúc xã hội chủ yếu gắn với cấu
trúc xã hội - giai cấp, giải thích các quan hệ xã hội dựa trên mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng cho nghiên cứu giai cấp nông dân và cư dân nông thôn, tức là cần
xuất phát từ hoạt động sản xuất, cấu trúc nghề nghiệp để xem xét cấu trúc xã hội.
Cũng đề cập đến giai cấp trong quan niệm về cấu trúc xã hội, trong
cuốn sách Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội (Qua khảo sát một số tỉnh,
thành phố ở Việt nam), các tác giả viết:
Cơ cấu xã hội là hệ thống chỉnh thể các mối quan hệ xã hội có tác
động qua lại lẫn nhau biểu hiện ra là hệ thống các mối quan hệ
tương đối bền vững giữa các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng
xã hội, các tổ chức, các nhóm xã hội có khả năng xác định hành vi,
hoạt động, vị thế, vai trò của bộ phận cấu thành nên hệ thống xã
hội đó [71, tr31-32].
Ngoài ra, còn có quan niệm cấu trúc xã hội nhấn mạnh đến các kiểu
quan hệ giữa con người với xã hội trong hệ thống xã hội, như quan niệm của
Lê Ngọc Hùng và Lưu Hồng Minh: “Cấu trúc xã hội là hệ thống các mối quan
hệ giữa con người và xã hội, có khả năng xác định các hành vi, hoạt động, vị
thế, vai trò của các cá nhân, các nhóm người tạo nên hệ thống đó” [45,
36
tr.182]. Nhiều tác giả thống nhất coi nhóm xã hội là đơn vị cơ bản để phân
tích cơ cấu xã hội:
Cơ cấu xã hội là mô hình cấu trúc, một chỉnh thể thống nhất,
“động”, tương đối ổn định bao gồm các nhóm xã hội cơ bản (giai
cấp, nghề nghiệp, nhân khẩu, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo) đan kết
vào nhau và được sắp xếp theo cả cấu trúc ngang và cấu trúc dọc
tạo ra bộ khung cho sự vận động và phát triển của xã hội. Những
thành tố cơ bản của cấu trúc xã hội là nhóm, vị thế, vai trò, mạng
lưới và các thiết chế [75, tr.31].
Tóm lại, nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc xã hội hay cơ cấu xã
hội đều giống nhau ở chỗ nhấn mạnh đến các thành phần và các mối quan hệ
xã hội tương đối ổn định của các thành phần tạo nên cấu trúc xã hội nhất định.
Kế thừa các quan niệm hiện có về cấu trúc xã hội, luận án này sử dụng định
nghĩa như sau: Cấu trúc xã hội là các kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền
vững của các thành phần cơ bản; biểu hiện ở một số phân hệ cơ bản. Không
tập trung vào phân tích các thành tố của cấu trúc xã hội, luận án này đặt ra
nhiệm vụ phân tích làm rõ các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề,
đó là các phân hệ cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc
xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống; các thành phần cơ bản của
mỗi phân hệ là tổ chức, nhóm xã hội, các vị thế xã hội, vai xã hội, thiết chế xã
hội, mạng lưới xã hội.
2.1.2. Cư dân
Khái niệm cư dân thường gắn liền với khái niệm con người và được
phân tích trên phạm vi cộng đồng người, cộng đồng xã hội sinh sống tại một
không gian - thời gian xác định. Báo cáo tổng kết kết quả đề tài cấp nhà nước
(KX03/06-10) Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển trong quá trình
37
phát triển đất nước hiện nay, do Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển
đưa ra khái niệm:
Cư dân là cộng đồng người sinh sống được xác định trên cơ sở của
các yếu tố lịch sử, địa lý, quá trình tiếp xúc với thiên nhiên, lao động
sản xuất, nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, các mối quan hệ
gia đình, làng xóm, giữa các nhóm và tầng lớp xã hội trong những
nét khái quát và tương đồng về văn hóa, giá trị [103, tr.36-37].
Khái niệm này đã chỉ rõ, với các đặc tính của mỗi quốc gia, dân tộc,
vùng, miền và thời kỳ khác nhau, đặc điểm, cấu trúc của cư dân luôn chịu sự
chi phối của phương thức sản xuất, trình độ phát triển chung và luôn biến đổi
với các cấp độ biểu hiện cụ thể gắn với vùng, miền và các nhóm xã hội. Song,
khái niệm này có thể chưa đạt đến độ chính xác cao, bởi cư dân có thể là một
người dân chứ không phải là cả cộng đồng.
Ngày nay, cư dân nông thôn nói chung và cư dân nông thôn đồng bằng
sông Hồng nói riêng, không thuần túy là nông dân như thời kỳ trước Đổi mới
nữa. Cư dân có thể là xã viên hợp tác xã hoặc chỉ là một bộ phận của cư dân
như số cán bộ, công chức xã, giáo viên, công nhân … sống ở nông thôn, làm
việc trong hệ thống chính trị hoặc trong nhà máy, xí nghiệp, công ty hay
doanh nghiệp.
Một nghiên cứu đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển và hải đảo
đã đưa ra quan niệm:
Những đặc điểm cư dân bao hàm ý nghĩa của một cộng đồng người
sinh sống trong một khu vực được xác định dựa trên các yếu tố lịch
sử, địa lý, quá trình tiếp xúc với thiên nhiên, lao động sản xuất, từ
đó tạo nên nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, các mối quan hệ
gia đình, xóm làng, giữa các nhóm và tầng lớp xã hội trong những
nét khái quát và tương đồng về văn hóa, giá trị [trích theo 35].
38
Tác giả kế thừa những hạt nhân hợp lý của các khái niệm trên, trong
nghiên cứu này cư dân mỗi vùng, mỗi khu vực nhất định như cư dân nông
thôn, cư dân thành thị, cư dân vùng đồng bằng… cư dân làng nghề đồng bằng
sông Hồng trên cơ sở những nét khái quát, tương đồng và dị biệt nhất định
của các làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Trong luận án này, cư dân được hiểu là người dân sinh sống, định cư
tại một khung không gian - thời gian xác định. Cụ thể, cư dân là toàn bộ
người dân gồm các cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức sinh sống và làm
việc tại làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, xã Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ
Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
2.1.3. Làng nghề
“Làng nghề” hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể hiểu
làng nghề với những quan niệm như sau:
Về mặt pháp lý, theo Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều
cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư
tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn,
sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau” [10].
Thông tư này cũng chỉ rõ, làng được công nhận là làng nghề phải đạt
03 tiêu chí sau: một là, làng phải có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn
tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hai là, làng phải hoạt động sản
xuất - kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công
nhận; ba là, làng phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước [10]
Tuy nhiên, khái niệm này từ góc độ pháp lý chỉ nhấn mạnh đến các tiêu chí
quản lý hành chính nhà nước, chưa nhấn mạnh đến đặc điểm văn hóa, quan hệ
xã hội, cấu trúc xã hội của dân cư.
39
Từ một góc độ khác, nhấn mạnh yếu tố văn hóa, xã hội của làng nghề,
tác giả Trần Minh Yến cho rằng:
Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu
thành yếu tố làng nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất
định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ
công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế - xã hội và văn hóa
[110, tr.11].
Khái niệm này xác định làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở
nông thôn, đồng thời nhấn mạnh đến nghề nghiệp ở nông thôn ngoài nghề
nông nghiệp còn có một hoặc một số nghề phụ khác với một tầng lớp thợ thủ
công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp.
Về tên gọi của làng nghề, tác giả luận án sử dụng cách gọi kép, tên gọi
cùng lúc mang hai nghĩa, phản ánh nghề thủ công và địa danh, địa chỉ nơi
ngành nghề, người thợ thủ công, cư dân làng nghề làm nghề đó. Cụ thể như
gắn với tên của làng và sản phẩm làm ra trên cơ sở đã được cấp có thẩm
quyền công nhận như làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm (làng Vạn Điểm và sản
phẩm đồ gỗ), làng nghề sơn mài Hạ Thái (làng Hạ Thái, sản phẩm sơn mài).
Trong cuốn sách Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam,
làng nghề được định nghĩa như sau:
Làng nghề là những làng trước đây sống dựa vào nông nghiệp do
điều kiện khách quan nào đó (vị trí địa lý thuận lợi, nghề phụ có thị
trường tiêu thụ trên bình diện vùng, miền …) nên đã chuyển sang
sản xuất các sản phẩm thủ công mang tính chuyên biệt nhưng vẫn
không tách khỏi nông nghiệp. Làng có đội ngũ thợ thủ công chuyên
nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có quy trình, bí quyết làm nghề nhất
định. Những mặt hàng do thợ thủ công sản xuất ra có tính thẩm mỹ
và có thị trường tiêu thụ rộng lớn [105, tr 201- 202].
40
Định nghĩa trên về làng nghề nhấn mạnh yếu tố kinh tế nghề nghiệp,
sản phẩm nghề chuyển từ nông nghiệp sang sản phẩm thủ công, kéo theo sự
xuất hiện đội ngũ thợ thủ công trong một bộ phận cư dân của cộng đồng làng.
Tuy nhiên, định nghĩa này chưa nhấn mạnh đến cấu trúc xã hội như các quan
hệ xã hội của cư dân làng nghề.
Có thể thấy rằng, các quan niệm về làng nghề nêu trên được tiếp cận từ
các giác độ nghiên cứu khác nhau. Song, dưới góc độ xã hội học, luận án này
quan niệm làng nghề là hình thức tổ chức đời sống sinh hoạt, sản xuất của
cộng đồng cư dân ở nông thôn, với đặc trưng là đa số cư dân trong làng cùng
thực hiện một loại hoạt động nghề nghiệp nhất định, để sinh sống và từ đó
hình thành kiểu cấu trúc xã hội đặc trưng bởi hoạt động nghề nghiệp đó. Cụ
thể, làng nghề Vạn Điểm, xã Vạn Điểm, cư dân chủ yếu làm nghề đồ gỗ
(mộc) và sinh sống nhờ nghề nghiệp này, do vậy tác giả có thể gọi ngắn gọn
là làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Làng nghề Hạ Thái, xã Duyên Thái, cư dân chủ
yếu làm nghề sơn mài và sinh sống nhờ vào nghề nghiệp này, tác giả gọi ngắn
gọn là làng nghề sơn mài Hạ Thái.
2.1.4. Một số khái niệm liên quan
Khái niệm hộ gia đình
Trong luận án, tác giả sử dụng khái niệm “hộ gia đình” theo quan niệm
của tác giả Nguyễn Đức Truyến:
Hộ gia đình là một nhóm những người thường có quan hệ gia đình
hoặc đôi khi không có quan hệ gia đình với nhau nhưng cùng sống
chung, cùng sở hữu chung về tài sản và các tư liệu sản xuất, cùng
tham gia các hoạt động kinh tế chung và cùng hưởng thụ những
thành quả sản xuất chung của họ [95, tr.24].
41
Khái niệm phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là một trong những khái niệm cơ bản được các nhà xã
hội học quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế, có nhiều định nghĩa và quan điểm
khác nhau về phân tầng xã hội, như:
Quan niệm của Max Weber
“Phân tầng xã hội bao gồm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp
và coi khía cạnh địa vị kinh tế (hay tài sản) địa vị chính trị (hay quyền lực),
địa vị xã hội (hay uy tín), là các mặt cơ bản cấu thành các tầng xã hội” [trích
theo 84, tr.154].
Talcott Parsons coi: “phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một
hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn
chung về giá trị. Phân tầng xã hội là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã
hội và sự phân hóa của những nhóm xã hội khác nhau” [ trích theo 54, tr.15].
Anthony Giddens, quan niệm: “Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội
thành các tầng lớp, khi nói về sự phân tầng là nói tới bất bình đẳng giữa các
địa vị, vị trí của các cá nhân trong xã hội” [111, tr.280].
Theo tác giả Nguyễn Đình Tấn:
Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp các thành viên trong xã hội thành các tầng xã hội khác nhau. Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín, cũng như khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, trình độ tiêu dùng... [84, tr.156].
Tác giả Trịnh Duy Luân cho rằng:
Phân tầng xã hội là sự phân chia mang tính cấu trúc thành các tầng
lớp, giai tầng xã hội dựa trên các đặc trưng vị thế kinh tế - xã hội
của các cá nhân, trong đó sử dụng đồng thời 3 loại dấu hiệu, tiêu
42
chí: về kinh tế (tài sản, thu nhập), về chính trị (quyền lực, tổ chức),
và văn hóa (uy tín) [54, tr.15].
Theo tác giả Tô Duy Hợp, sử dụng phạm trù “phân tầng xã hội với nội
dung 3 mặt: quan hệ bất bình đẳng về sở hữu, sử dụng, phân phối của cải (tài
sản), đặc biệt là tư liệu sản xuất (ruộng đất, nhà máy, công cụ sản xuất); quan
hệ bất bình đẳng về quyền lực (trong kinh tế, chính trị và văn hóa); và quan hệ
bất bình đẳng về uy tín (kinh tế, chính trị, văn hóa)” [41, tr.47].
Tác giả Lê Ngọc Hùng quan niệm: “Phân tầng xã hội là sự phân hóa xã hội tạo thành các tầng xã hội khác nhau về vị thế xã hội trong cấu trúc xã hội” [47, tr.187-188].
Phân tầng xã hội trong nghiên cứu cấu trúc làng nghề được hiểu là sự phân
chia, sắp xếp thành các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên sự khác nhau về kinh tế
(tài sản, mức sống), về xã hội (uy tín, tài năng), cũng như sự khác nhau về trình độ
học vấn, nghề nghiệp, trình độ tay nghề ...
2.1.5. Các thành phần và một số phân hệ của cấu trúc xã hội cư
dân làng nghề
Trên cơ sở tổng - tích hợp các quan niệm về cấu trúc xã hội, cư dân và
làng nghề, dưới góc độ xã hội học, luận án cho rằng: Cấu trúc xã hội của cư
dân làng nghề đồng bằng sông Hồng là các kiểu quan hệ tương đối ổn định,
có tính khuôn mẫu giữa các thành phần cơ bản cấu thành nên xã hội làng
nghề. Các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề là các tổ
chức, nhóm xã hội cư dân làng nghề, vị thế xã hội cư dân làng nghề, vai (trò)
xã hội cư dân làng nghề, thiết chế xã hội cư dân làng nghề, mạng lưới xã hội
cư dân làng nghề và một số yếu tố khác.
Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề thể hiện qua các phân hệ của nó, gồm:
cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề
nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống. Các phân hệ cấu trúc xã hội này đều có
43
chung một số thành phần cơ bản như là tổ chức, nhóm xã hội, vị thế xã hội,
vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội. Do vậy, khi phân tích các
phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề cần phải tính đến các thành
phần và các mối quan hệ của các thành phần tạo nên từng phân hệ cấu trúc xã
hội. Đồng thời, luận án cũng xem xét với mức độ nhất định các mối quan hệ
của các phân hệ cấu trúc xã hội; mối quan hệ của phân hệ cấu trúc xã hội với
các yếu tố thuộc môi trường xung quanh, trong số đó có yếu tố thuộc biến độc
lập có những ảnh hưởng nhất định đến phân hệ cấu trúc xã hội.
2.1.5.1. Các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề
Nhóm xã hội
Nhóm xã hội cư dân làng nghề là những người có liên hệ với nhau về vị
thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nghề nghiệp
nhất định [45, tr.193].
Trong nghiên cứu này, nhóm xã hội cư dân làng nghề xét theo nhóm
nghề nghiệp gồm có: nhóm hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống, nhóm
hộ gia đình làm nghề truyền thống kết hợp với làm ruộng, nhóm hộ gia đình
không làm nghề truyền thống. Nhóm xã hội người lao động làm nghề là người
trong làng, nhóm những người lao động làm nghề là người ngoài làng. Nhóm
người lao động theo trình độ tay nghề. Nhóm các hộ gia đình làm nghề, nhóm
các công ty, doanh nghiệp làm nghề. Nhóm nghệ nhân, nhóm thành viên hiệp
hội làng nghề. Nhóm những gia đình làm nghề lâu năm, nhóm gia đình mới
làm nghề. Nhóm xã hội theo dòng họ trong làng nghề.
Trong phân hệ cấu xã hội - dân số, luận án quan tâm đến nhóm tuổi,
nhóm giới tính. Nhóm cấu trúc xã hội - gia đình được tìm hiểu thông qua các
nhóm gia đình làm nghề thủ công hay nghề phi nông nghiệp, nhóm gia đình
làm nghề làm ruộng kết hợp với làm nghề truyền thống, nhóm gia đình không
làm nghề truyền thống. Trong cấu trúc xã hội nghề nghiệp luận án tìm hiểu
44
nhóm nghề đồ gỗ, nhóm làm nghề sơn mài. Nhóm mức sống về phân tầng
mức sống theo thu nhập: nhóm giàu, nhóm nghèo.
Vị thế xã hội
Vị thế xã hội cư dân làng nghề là một vị trí mà một người hay một
nhóm người trong mối liên hệ, quan hệ với người khác, nhóm khác trong cấu
trúc xã hội làng nghề, được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của cộng đồng
làng nghề nơi người đó sinh sống [85, tr.45].
Vị thế xã hội cư dân làng nghề chính là vị trí, thứ bậc cao thấp hay
ngang bằng trong tương quan, so sánh với các thành viên khác trong gia đình,
công ty nghề và cộng đồng làng nghề.
Trong luận án này, vị thế xã hội làng nghề chính là vị thế thứ hạng, hay
uy tín của các thành phần cấu trúc xã hội của làng nghề nằm trong tổng thể xã
hội, mức độ cạnh tranh, thương hiệu của sản phẩm làng nghề trên thị trường,
mức độ sản phẩm chứa đựng văn hóa một vùng, cũng như trình độ tay nghề
thợ. Đặc biệt là vị thế của thợ giỏi, nghệ nhân, vị thế của người chủ gia đình,
chủ cơ sở sản xuất. Vị thế xã hội trong cấu trúc xã hội làng nghề quy định thế
và lực của người hay nhóm người nắm giữ vị thế đó và cách ứng xử của cư
dân tức là của người nắm giữ vị thế, cách ứng xử, quan hệ xã hội giữa các
nhóm cư dân làm nghề truyền thống với các nhóm cư dân khác trong làng
nghề.
Phân hệ cấu trúc xă hội - gia đình: vị thế của cư dân trong làng nghề có
thể hiểu là vị trí của từng thành viên trong gia đình như người chủ cơ sở sản
xuất - chủ hộ gia đình, vị thế thành viên của gia đình, cũng như cấu trúc xã
hội giữa các hộ gia đình trong làng nghề…
Phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: vị thế thể hiện như vị thế giám
đốc công ty, doanh nghiệp, vị thế ông chủ, vị thế người lao động làm thuê, vị
thế kế toán công ty làm nghề, hay vị thế thợ chính, vị thế thợ phụ trong quy
45
trình sản xuất ở làng nghề, vị thế giành được như vị thế nghệ nhân là loại vị
thế mà cư dân làng nghề đạt được, được công nhận bằng rất nhiều nỗ lực, đạt
giải sản phẩm dự thi.
Tóm lại, nói đến vị thế xã hội là nói đến vị trí của các thành phần trong
cấu trúc xã hội làng nghề hay cư dân làng nghề; là nói đến vị trí xã hội, thứ bậc
của cư dân, gia đình, nhóm xã hội được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của
cộng đồng làng nghề, đánh giá của xã hội. Luận án cũng xem xét vị thế của các
phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề trong tổng thể cấu trúc xã hội của
làng nghề.
Vai trò xã hội
Hiện nay, vai trò xã hội là khái niệm sử dụng khá thông dụng, tuy nhiên
khái niệm này được tác giả Lê Ngọc Hùng và một số tác giả khác cố gắng sử
dụng “vai xã hội” để nhấn mạnh tính xã hội học của nó trong mối quan hệ với
vị thế xã hội. Luận án này sử dụng khái niệm “vai trò xã hội” tương đương
với khái niệm “vai xã hội”.
Vai xã hội cư dân làng nghề là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa
vụ và quyền lợi gắn với một vị thế của cư dân làng nghề [85, tr.52]. Vai trò là
những hành vi, ứng xử, những khuôn mẫu tác phong hành động mà xã hội
trông đợi ở một người hay một nhóm xã hội cần phải thực hiện trong làng
nghề.
Vai xã hội của cư dân làng nghề trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia
đình, thể hiện như một thành viên trong gia đình đóng nhiều vai xã hội khác
nhau. Cụ thể, một người đóng vai trò chủ hộ gia đình, đồng thời là chủ cơ sở
sản xuất gia đình. Những người này có vai trò định hướng, quyết định loại
hình nghề nghiệp của gia đình, cũng như phương thức làm ăn của gia đình,
hướng dẫn và quản lý thợ, kiểm tra sản phẩm, cũng có khi trực tiếp làm nghề.
Nhiều làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, người chủ hộ gia đình
46
thường là nam giới, người chồng có vai trò chủ đạo, đồng thời là chủ cơ sở
sản xuất hộ gia đình, vai trò quyết định về mẫu mã sản phẩm. Người phụ nữ
thường đóng vai trò người vợ trong gia đình; trong gia đình nghề họ thực hiện
các vai trò như giao dịch với khách hàng, quyết định giá cả, quản lý thu chi,
bên cạnh đó tham gia công việc đồng áng, công việc nội trợ và kèm cặp, dạy
dỗ con cái; trong công tuy nghề. Vai trò của ông, bà trong gia đình có thể là
chỗ dựa tinh thần, người truyền đạt bí quyết, kinh nghiệm thực tế đã từng trải
trong nghề nghiệp, vai trò quyết định đối với những sự kiện quan trọng trong
gia đình, dòng họ như việc hiếu, lễ hội, mừng thọ.
Ở phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: Vai xã hội biểu hiện là của
người giám đốc công ty, doanh nghiệp là tổ chức sản xuất, hoàn thành các
nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, tìm kiếm thị trường, vai trò quyết định,
điều hành mọi hoạt động của công ty, doanh nghiệp để công ty, doanh nghiệp
làm ăn có lãi. Các giám đốc công ty có vai trò thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cấu trúc lao động nông thôn, đồng thời tạo công ăn việc làm cho lao động
nông thôn, các hộ gia đình trong làng nghề, cũng như góp phần vào phát triển
làng nghề.
Vai xã hội của người thợ làm nghề là tạo ra những sản phẩm đạt chất
lượng tốt, đẹp về hình thức; làm thuê để kiếm tiền phục vụ cuộc sống của họ,
gia đình của họ đồng thời góp phần quan trọng vào tồn tại và phát triển của
làng nghề.
Vai xã hội của nghệ nhân, thợ giỏi đóng vai trò xã hội rất quan trọng
trong cấu trúc xã hội cư dân làng nghề. Nghệ nhân có vai trò gìn giữ, truyền
nghề và phát triển làng nghề, họ là những người “ưu trội” của làng nghề.
Vai xã hội của hiệp hội làng nghề là tìm các biện pháp để tháo gỡ khó
khăn và xác định hướng phát triển thích hợp cho làng nghề, đồng thời trợ giúp
các gia đình làm nghề, các công ty, doanh nghiệp làm nghề tổ chức kinh
47
doanh trong làng nghề thông qua vai trò tư vấn kinh doanh, đào tạo, nâng cao
kỹ năng quản lý, chuyển giao công nghệ, xây dựng thương hiệu, tham gia các
triển lãm trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu, xúc tiến thương mại và
quan hệ quốc tế, tạo nguồn vốn, hỗ trợ cùng chính quyền địa phương về thủ tục
phong tặng nghệ nhân… cho các làng nghề phát triển bền vững. Hiệp hội làng
nghề còn có vai trò cầu nối giữa các gia đình nghề, các nghệ nhân trong làng
nghề với các cơ quan nhà nước, qua đó phản ánh dư luận xã hội của cư dân
làng nghề đến các cơ quan liên quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng
của hội ngành nghề để họ tin tưởng, hăng say phát triển sản xuất kinh doanh.
Trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, vai trò xã hội được tìm hiểu
thông qua (ông/bà, bố/mẹ, con cái) người có vai trò chính trong các lĩnh vực:
sản xuất kinh doanh, học tập của con cái, định hướng nghề nghiệp, việc hiếu,
hỷ, chuyển đổi nghề nghiệp, công việc dòng họ, của làng. Vai trò của chủ hộ
gia đình được tìm hiểu thông qua việc tự đánh giá của chủ hộ về vai trò của
mình trong gia đình, dòng họ, cộng đồng làng nghề.
Thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội cư dân làng nghề là tập hợp tương đối bền vững của
các giá trị, các chuẩn mực quy định, vị thế, vai trò và hành vi, hoạt động của
các cá nhân, nhóm nhằm đáp ứng một hay một số nhu cầu cơ bản của xã hội
làng nghề [1, tr.24].
Thiết chế xã hội cư dân làng nghề không chỉ là mô hình của những
hành vi, mà còn là công cụ để kiểm soát và quản lý xã hội làng nghề. Những
mẫu hình hành động cùng với những quy tắc trong nghề, “điều luật” chuỗi giá
trị, chuẩn mực mà thiết chế xã hội làng nghề căn cứ và thiết lập “điểm mốc”
để điều chỉnh hành vi của con người, ca gợi cái đúng, cái đáng làm, đồng thời
kiểm soát, điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn với thiết chế làng nghề. Nhờ
thiết chế gia đình làng nghề, công ty, doanh nghiệp ở trong làng nghề với
48
những hệ thống chuẩn mực, quy phạm của nó, cư dân làng nghề có thể soi
vào để điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu mà thiết chế
đòi hỏi, mặt khác không làm ảnh hưởng xấu đến quy định của thiết chế. Ngoài
những thiết chế chính trị làng nghề, kinh tế làng nghề, văn hóa làng nghề...
trong xã hội làng nghề còn có cả những thiết chế khác: thiết chế đạo đức nghề
nghiệp, thiết chế dư luận xã hội, thiết chế dạy nghề, truyền nghề được lưu
truyền thể hiện qua phong tục, tập quán, hương ước làng nghề. Có thể thấy
rằng, thiết chế xã hội làng nghề có xu hướng phụ thuộc vào nhau và đều
hướng đến mục tiêu phát triển làng nghề.
Ở phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình, thiết chế xã hội thể hiện thông qua
các hệ giá trị, chuẩn mực hôn nhân, gia đình quy định vị thế, vai trò và cách
ứng xử của các thành viên trong gia đình. Ở phân hệ cấu trúc xã hội - nghề
nghiệp, thiết chế xã hội thể hiện thông qua quy định pháp lý về nghề nghiệp
và các quy tắc, quy định, điều lệ và cả những quy phạm bất thành văn của cơ
sở sản xuất kinh doanh và công ty.
Mạng lưới xã hội
Mạng lưới xã hội của cư dân làng nghề thể hiện ở tất cả các phân hệ
như cấu trúc xã hội như: các quan hệ đan chéo từ quan hệ trong gia đình, giữa
các gia đình với nhau; giữa họ hàng, bạn bè, láng giềng, khách hàng, cho tới
các quan hệ với chính quyền địa phương, với ngân hàng, với hiệp hội làng
nghề, với các tổ chức hội như: hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,
hội khuyến học, khuyến nghề... ở cộng đồng làng - xã.
Mạng lưới xã hội của cư dân làng nghề được tạo nên và duy trì với
những lý do chức năng, như sự thuận lợi nghề nghiệp của họ để trợ giúp xã
hội, để thúc đẩy các lợi ích và nhu cầu khác. Thứ nhất, mạng lưới xã hội làng
nghề là các mối tương tác xã hội và trao đổi xã hội, trong đó hệ các giá trị,
chuẩn mực và niềm tin được hình thành, biểu hiện thông qua việc làm nghề.
49
Thứ hai, các thành viên của mạng lưới xã hội đều chia sẻ trách nhiệm, nghĩa
vụ và có những lợi ích ràng buộc lẫn nhau khi theo đuổi những mục đích của
họ, ví dụ làng nghề đồ gỗ có mạng lưới xã hội với những làng nghề đồ gỗ
khác, hoặc các mối quan hệ xã hội như quy trình nhập nguyên liệu gỗ đầu vào
cho đến bán các sản phẩm gỗ đầu ra. Mạng lưới xã hội chứa đựng nguồn vốn
xã hội rất quan trọng và cần thiết cho các thành viên trong cấu trúc xã hội.
Đối với phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mạng lưới xã hội là các
gia đình nghề với công ty, doanh nghiệp làm nghề. Mạng lưới các hộ gia đình
nghề sản xuất theo công đoạn: làng nghề gỗ có mạng lưới hộ gia đình chuyên
đục vi tính, vo trụ, trạm, khảm,... làng nghề sơn mài mạng lưới liên kết giữa
hộ gia đình chuyên bó hom, làm vóc, với hộ gia đình chuyên trang trí, mài và
đánh bóng…
Mạng lưới xã hội cư dân làng nghề thể hiện rõ ở cả mối quan hệ giữa
phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp với các phân hệ khác của cấu trúc xã hội.
Tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là một trong các thành phần của cấu trúc xã hội, “Tổ
chức xã hội là hình thức quan hệ của con người với xã hội, trong đó con
người liên kết với nhau để cùng thực hiện những hoạt động nhất định nhằm
đạt mục tiêu xác định” [45, tr.154].
Luận án này quan tâm, nghiên cứu làm rõ các tổ chức trong các phân hệ
của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, như các tổ chức xã hội, đặc biệt là các
tổ chức liên quan nghề nghiệp trong phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp. Ví
dụ tổ chức Hiệp hội làng nghề, tổ chức công ty nghề và các tổ chức xã hội
khác.
Tổ chức xã hội cư dân làng nghề có các đặc điểm và tính chất của một
nhóm, gồm các bộ phận gắn kết với nhau thành một hệ thống xã hội làng nghề
chỉnh thể; tổ chức xã hội được cư dân làng nghề hình thành để thực hiện một
50
hay một vài mục tiêu xác định, tổ chức là hệ thống hoạt động nhằm vào mục
tiêu xác định, tổ chức là cấu trúc vị thế - vai trò, cấu trúc quyền lực, cấu trúc
phân công lao động xã hội.
2.1.5.2. Một số phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề
Luận án tập trung nghiên cứu một số phân hệ cơ bản của cấu trúc xã
hội cư dân làng nghề để làm nổi bật đặc trưng của xã hội làng nghề.
Cấu trúc xã hội - dân số
Cấu trúc xã hội dân số làng nghề là một trong những phân hệ cơ bản
của cấu trúc xã hội làng nghề. Dưới góc độ xã hội học, cấu trúc xã hội dân số
làng nghề có thể được tìm hiểu thông qua các thành phần hay tiểu cấu trúc độ
tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc. Mỗi tiểu cấu trúc lại có các thành
phần và mối quan hệ giữa các thành phần. Chẳng hạn, cấu trúc độ tuổi cho
biết: trong làng nghề có bao nhiêu nhóm tuổi và nhóm tuổi nào đang đóng
góp chính cho sự phát triển của làng nghề; trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia
đình, những người có độ tuổi cao thì có nhiều kinh nghiệm làm nghề thống,
những người ở độ tuổi trung niên có sức khoẻ tốt, nắm bắt nhanh và áp dụng
cộng nghệ mới vào sản xuất làng nghề. Ở mô hình công ty nghề, lao động đa
số ở độ tuổi tráng niên, còn mô hình gia đình nghề thì có sự đa dạng về độ
tuổi. Cấu trúc giới tính cho thấy, tỷ lệ nam giới và nữ giới của làng nghề,
trong phát triển nghề truyền thống có sự coi trọng nam hay nữ và bí quyết
nghề chủ yếu được truyền dạy cho con gái hay con trai... Cấu trúc giới tính
của lao động ở mỗi làng nghề có sự khác nhau theo tính chất công việc của
từng làng nghề, nhóm nghề, như làng nghề Sơn Mài lao động chủ yếu là nữ, ở
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lao động chủ yếu là nam. Phân hệ cấu trúc xã hội -
mức sống, cấu trúc giới tính cho biết có sự khác về thu nhập giữa lao động
nam và lao động nữ.
51
Cấu trúc trình độ học vấn cho thấy, cư dân làng nghề được phân chia
vào các nhóm học vấn và trong các nhóm học vấn thì nhóm học vấn nào sẽ
tham gia vào kinh doanh, sản xuất nghề truyền thống. Cấu trúc trình độ học
vấn còn được thể hiện thông qua trình độ tay nghề của người lao động trong
làng nghề và việc định hướng học nghề của gia đình cho con em trong gia
đình làm nghề truyền thống và gia đình không làm nghề truyền thống.
Cấu trúc xã hội - gia đình
Cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề được tìm hiểu thông qua quy mô
gia đình, số thế hệ trong gia đình và thời gian làm nghề của gia đình. Quy mô
gia đình nghề được thể hiện ở số lượng thành viên trong gia đình, số thành
viên tham gia làm nghề, những đặc trưng của mô hình gia đình làm nghề, vai
trò của chủ hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh nghề nghiệp. Số thế hệ
trong gia đình làng nghề biểu hiện ở số thế hệ cùng chung sống trong gia đình
và sự nối tiếp giữa các thế hệ trong phát triển nghề truyền thống của làng
thông qua việc tái tạo, kế tục và phát triển từ thế hệ ông, bà sang bố, mẹ rồi
đến thế hệ con cháu. Thời gian làm nghề của gia đình thể hiện ở số năm làm
nghề và những đóng góp của gia đình đối với sự phát triển của làng nghề theo
thời gian. Phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình cho biết vị thế, vai trò khác nhau
giữa hộ làm nghề truyền thống, hộ không làm nghề truyền thống, hộ kết hợp
giữa làm nghề truyền thống và không làm nghề truyền thống, đồng thời cho
thấy mối quan hệ giữa những hộ gia đình làm nghề và những hộ gia đình
không làm nghề. Nhóm những hộ gia đình làm nghề lâu năm và những hộ gia
đình mới làm nghề truyền thống. Nhóm những hộ gia đình cùng sản xuất một
mặt hàng hoặc nhóm những hộ liên kết để sản xuất một sản phẩm nhất định.
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
Cấu trúc xã hội nghề nghiệp làng nghề được thể hiện thông qua loại
hình nghề nghiệp của gia đình, tính chất tổ chức nghề nghiệp của gia đình,
52
các tổ chức nghề nghiệp trong làng và trình độ tay nghề của người thợ trong
làng. Loại hình nghề nghiệp của gia đình biểu hiện qua nhóm hộ chỉ làm nghề
truyền thống, hộ làm nông nghiệp kết hợp với nghề truyền thống, hộ gia đình
không làm nghề truyền thống. Sự sắp xếp hộ gia đình trong làng nghề có thể
dựa trên sự phân công lao động theo nhóm nghề nghiệp, theo quy mô sản xuất
hộ gia đình, theo các tuyến dòng họ, hay theo thời gian làm nghề của các hộ
gia đình. Tính chất tổ chức của gia đình làm nghề biểu hiện ở các cấp độ cụ
thể: cấp độ cá nhân người lao động, cấp độ gia đình làm nghề, cấp độ công ty
chuyên sản xuất, kinh doanh sản phẩm làng nghề, cũng như sự hình thành và
phát triển của các công ty trong làng nghề.
Mạng lưới xã hội gia đình làm nghề, công ty làm nghề thể hiện qua mối
quan hệ bên trong và bên ngoài của gia đình, công ty.
Vị thế xã hội của cư dân làm nghề được tìm hiểu thông qua trình độ tay
nghề như: thợ học việc, thợ lành nghề, thợ giỏi, nghệ nhân trong làng nghề.
Tổ chức xã hội của cư dân làng nghề biểu hiện qua hiệp hội làng nghề, chi hội
nghệ nhân giỏi.
Vai trò xã hội của cư dân làng nghề trong cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
còn được tác giả tìm hiểu thông qua chủ cơ sở sản xuất nhận định nghề
nghiệp chính của họ hiện nay được xã hội coi trọng ở các mức độ: từ rất coi
trọng cho đến ít được coi trọng.
Thiết chế xã hội cư dân làng nghề là: chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước như Bộ Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp
tác xã, quy định của làng liên quan đến làng nghề.
Cấu trúc xã hội - mức sống
Cấu trúc xã hội - mức sống làng nghề được tác giả luận án này tìm hiểu
qua cách tự đánh giá của chủ hộ gia đình, chủ cơ cở sản xuất. Ở các mức độ
giàu có, khá giả, trung bình và nghèo. Đồng thời tác giả thông qua phiếu thu
53
thập thông tin để tìm hiểu tình hình thu nhập và chi tiêu bình quân một tháng
của chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất. Mức độ chi tiêu của gia đình, công ty trong
một năm như: sản xuất, kinh doanh, đào tạo nghề nghiệp cho lao động, ăn
uống, sinh hoạt, du dịch, giải trí, chữa bệnh, học tập … Vị thế xã hội của làng
nghề được đánh giá thông qua mức độ cạnh tranh (thương hiệu) sản phẩm của
làng nghề trên thị trường. Cấu trúc xã hội - mức sống được đánh giá qua việc
tự đánh giá mức sống của gia đình làng nghề hiện nay, so với 5 năm trước đây
ở ba mức độ tốt hơn, như cũ và kém đi trên những tiêu chí khác nhau như:
việc làm, thu nhập, chi tiêu, nhà ở, nguồn điện, nước sinh hoạt.
Cấu trúc xã hội - mức sống thể hiện ở mạng lưới xã hội của chủ hộ gia
đình, chủ cơ sở sản xuất và tác giả tìm hiểu qua cách đặt câu hỏi, ví dụ: khi
gặp khó khăn, trở ngại trong sản xuất ai là người đầu tiên được ông (bà) ý
kiến, nhờ giúp đỡ: người thân trong gia đình; người có uy tín trong dòng họ;
bạn bè của gia đình; cán bộ Đảng; cán bộ chính quyền; cán bộ các đoàn thể xã
hội... Vai trò xã hội của cư dân làng nghề thể hiện qua việc quyết định đến sản
xuất, kinh doanh.
2.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT
2.2.1. Lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons
Talcott Parsons sử dụng khái niệm cấu trúc và khái niệm hệ thống gần
như tương đương, với nghĩa là hệ thống có cấu trúc và chúng đều có chung
những thành phần nhất định. Khái niệm cấu trúc được nhấn mạnh như một tập
hợp các yếu tố được sắp xếp theo trật tự nhất định, nghĩa là được định hình
vừa độc lập, vừa liên tục trao đổi qua lại với hệ thống môi trường xung quanh.
Parsons xem xét hệ thống trong một không gian ít nhất có ba chiều như
sau: (1) Chiều cấu trúc - hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó. (2) Chiều đa
năng: Hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi, vừa tự trao
đổi với môi trường. (3) Chiều kiểm soát: điều khiển và tự điều khiển.
54
Theo Parsons: “Xã hội là một kiểu hay loại hệ thống xã hội đáp ứng
được tất cả các đòi hỏi chức năng cơ bản của một sự tồn tại lâu bền từ các
nguồn lực bên trong của nó” [trích theo 46, tr.234-235]. “Hệ thống xã hội là
hệ thống của các quá trình tương tác giữa các tác nhân (actors)” [trích theo 46,
tr.234-235] “cấu trúc của hệ thống xã hội về cơ bản là cấu trúc của các mối
quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào quá trình tương tác”, [trích theo 46,
tr.234-235].
Parsons cho rằng, hệ thống xã hội gồm 4 đơn vị [trích theo 46, tr.234-
235]: Một là, động tác xã hội do một người thực hiện và hướng vào một
người hay nhiều người khác như là đối tượng. Hai là, vị thế - vai trò với tính
cách là một tiểu hệ thống có tổ chức của một người hay nhiều người chiếm
giữ những vị thế đã cho và hành động hướng vào nhau theo các xu hướng
tương tác nhất định. Ba là, bản thân tác nhân - người hành động với tính cách
là một đơn vị xã hội, một hệ thống có tổ chức của tất cả các vị thế và vai trò
đặt ra đối với người đó như là một đối tượng xã hội và với tính cách là “tác
giả” của một hệ thống các hoạt động - vai trò. Bốn là, đơn vị tổng hợp, là một
tập thể với tính cách là một tác nhân và một đối tượng.
Tương ứng với bốn đơn vị hệ thống xã hội là bốn loại cấu trúc của các
động tác xã hội, cấu trúc của các vị thế - vai trò, cấu trúc của các tác nhân
hành động và cấu trúc của tập thể.
Để đưa ra thuyết hệ thống xã hội, Talcott Parsons đã vận dụng phương
pháp tiếp cận chức năng. Theo ông, cấu trúc của một hệ thống xã hội là cấu trúc
của các mối quan hệ chức năng giữa bốn tiểu hệ thống, tương ứng với bốn chức
năng cơ bản là: thích nghi (Adaptation, viết tắt là A), hướng đích (Goal
attainment, viết tắt là G), hội nhập (Integration, viết tắt là I) và duy trì các khuôn
mẫu lặn (Latent-pattern maintenance, viết tắt là L) của cả hệ thống (viết tắt là sơ
đồ AGIL); chức năng được xem xét từ góc độ cấu trúc, nghĩa là có thể căn cứ
55
vào sự biến đổi cấu trúc để giải thích những biến đổi chức năng: Tiểu hệ thống
(A) có chức năng cung cấp phương tiện, nguồn lực và năng lượng để thực hiện
các mục đích đã xác định. Trong hệ thống xã hội, đấy chính là tiểu hệ thống
kinh tế. Chức năng đầu tiên của hệ thống là chức năng thích nghi.
Trong nghiên cứu này, làng nghề là một hệ thống cần phải thích ứng để
phù hợp với những đòi hỏi của môi trường bên ngoài làng nghề, đồng thời
đáp ứng những nhu cầu của bản thân làng nghề, tiểu hệ thống kinh tế ở làng
nghề chính là cấu trúc kinh tế làng nghề, kinh tế hộ gia đình làng nghề thể
hiện qua mức sống, thu nhập, chi tiêu của làng nghề. Các nguồn lực kinh tế từ
ngành nông nghiệp, từ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, từ thương mại và
dịch vụ.
Tiểu hệ thống hướng đích (G) đóng vai trò xác định các mục tiêu và
định hướng cho toàn bộ hệ thống vào việc thực hiện mục đích đã xác định.
Tiểu hệ thống hướng đích trong xã hội là hệ thống chính trị với tổ chức đảng
và các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương cùng nhiều cơ
quan quyền lực khác [trích theo 46, tr.237].
Trong nghiên cứu này, tiểu hệ thống hướng đích làng nghề là hệ thống
chính trị cấp xã như UBND xã, Đảng ủy xã, chính quyền thôn, chi bộ thôn,
chi hội phụ nữ, chi hội nông dân, chi hội người cao tuổi, chi hội cựu chiến
binh, chi đoàn thanh niên, hiệp hội làng nghề. Dựa theo mục tiêu đó hệ thống
làng nghề hoạt động theo một quỹ đạo nhất định. Việc duy trì quỹ đạo hoạt
động để đạt tới mục tiêu được điều chỉnh và đo lường bằng các chuẩn mực
hoặc các tiêu chuẩn.
Tiểu hệ thống liên kết (I) thực hiện chức năng gắn kết giữa các cá nhân,
các nhóm tổ chức xã hội, đồng thời kiểm soát xã hội thông qua giám sát, kiểm
tra, điều chỉnh, trừng phạt để giải quyết các quan hệ mâu thuẫn, xung đột
nhằm tạo nên sự ổn định, sự đoàn kết và trật tự xã hội [trích theo 46, tr.237].
56
Chức năng liên kết, hội nhập của làng nghề tác giả vận dụng là khả
năng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cư dân, gia đình, dòng họ, công ty
nghề với nhau. Tiểu hệ thống liên kết làng nghề cùng tham gia với các tiểu hệ
thống hoặc các bộ phận khác nhau của hệ thống làng nghề để đạt mục tiêu, để
thích ứng hoặc duy trì một mô hình văn hoá nào đó. Một hệ thống làng nghề
không thể khép kín, vì nếu khép kín nó sẽ không thu thập được năng lượng và
thông tin từ các hệ thống khác. Nó sẽ dẫn tới hiện tượng bị cô lập và dễ dàng
bị phá vỡ. Do vậy, liên kết trong làng nghề cũng là một chức năng tất yếu và
phổ biến của hệ thống làng nghề.
Để tồn tại một cách ổn định và bền vững, mỗi xã hội cần phải có tiểu hệ
thống bảo tồn (L) thực hiện chức năng khuyến thích, động viên các cá nhân
và nhóm xã hội, đồng thời đảm nhiệm chức năng quản lý và bảo trì các khuôn
mẫu hành vi, ứng xử của các thành viên [trích theo 46, tr.237].
Chức năng khuyến khích, động viên các cư dân và các nhóm xã hội cư
dân làng nghề để thực hiện đúng các khuôn mẫu, hành vi, ứng xử của các cư
dân trong làng nghề trên cơ sở thiết chế, giá trị, chuẩn mực xã hội làng nghề,
cũng như quy định riêng của nghề.
Các tiểu hệ thống trong làng nghề có mối quan hệ qua lại với nhau theo
nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể xã hội làng nghề. Chẳng hạn,
tiểu hệ thống kinh tế làng nghề có mối quan hệ qua lại với nhau và với các
tiểu hệ thống khác của xã hội để lấy nguồn “đầu vào” và cung cấp “đầu ra” là
sản phẩm (đồ gỗ làng nghề Vạn Điểm, sơn mài làng nghề Hạ Thái), hàng hóa,
dịch vụ trong làng nghề.
Các tiểu hệ thống trong làng nghề trao đổi với nhau thông qua một loạt
các phương tiện và công cụ xã hội như: vốn kinh tế, mặt bằng sản xuất, uy tín,
thương hiệu làng nghề, sự ảnh hưởng và sự gắn bó với nghề nghiệp.
57
Việc vận dụng lý thuyết của Parsons về hệ thống xã hội có thể giúp ta
có cách tiếp cận hệ thống tổng quát về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.
Cụ thể là có thể hình dung cả làng nghề là một hệ thống xã hội. Do vậy, làng
nghề với tính cách là một hệ thống xã hội được phân hóa về mặt chức năng
thành bốn tiểu hệ thống là kinh tế, chính trị, pháp luật và văn hóa. Điều này
đòi hỏi nghiên cứu phải trình bày và phân tích cấu trúc xã hội gồm bốn tiểu hệ
thống này của hệ thống xã hội làng nghề.
2.2.2. Lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens
Lý thuyết cấu trúc hoá (theory of structuration) được Anthony Giddens
đưa ra vào những thập niên cuối thế kỷ 20. Theo Giddens, lý thuyết cấu trúc
hóa chủ yếu bắt nguồn từ những nghiên cứu về cấu trúc ngôn ngữ và tập trung
xem xét các quy tắc, chất liệu tạo nên hệ thống xã hội và hệ thống văn hóa.
Giddens sử dụng thuật ngữ “cấu trúc” để chỉ những nguồn lực (resources) và
những quy tắc phái sinh (generative rules) được áp dụng trong hành động và
tạo thành hành động. Giddens đưa ra khái niệm như vậy để chỉ những gì tồn
tại dưới dạng vật chất hay tinh thần mà một cá nhân có thể sử dụng để đạt
được mục tiêu của mình trong quá trình tương tác xã hội. Giddens trình bày
sự phát triển rất phức tạp của một lý thuyết nhị nguyên về cấu trúc, hay lý
thuyết về tính hai mặt của cấu trúc (a duality theory of structure) bao gồm cả
các mối liên kết và những khía cạnh của thực tế xã hội [43, tr.340-342].
Theo Giddens, cấu trúc xã hội định hướng cho hành động xã hội. Trong
khi các hành động diễn ra trong không gian và trong thời gian xác định, cấu
trúc trở nên rõ ràng khi có sự xuất hiện của các mô hình với các yếu tố hành
động. Một khác biệt cơ bản trong lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens là mối
quan hệ giữa cấu trúc và hệ thống xã hội. Như đã được đề cập, khái niệm về
cấu trúc bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau: cấu trúc bao gồm "các quy tắc
58
và nguồn lực" mà các thành viên sử dụng để quản lý trong các tình huống
hành động xã hội và tương tác xã hội.
Tuy nhiên, khi sử dụng các hệ thống xã hội, Giddens đề cập đến các
mối quan hệ cụ thể giữa cá nhân và tập thể. Một hệ thống xã hội có thể được
coi là sự biểu hiện của một cấu trúc xã hội cụ thể. Việc áp dụng các quy tắc,
các nguồn lực của các thành viên liên quan đến việc hình thành và tái hình
thành cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội không bao gồm các mô hình của thực
tiễn xã hội, tạo nên hệ thống xã hội, nhưng bao gồm nguyên tắc để cung cấp
cho các mô hình thực hiện.
Như vậy, hai ý tưởng chính của lý thuyết cấu trúc của Giddens thể hiện
như sau: (1) Cấu trúc được hiểu là tập hợp các quy tắc và các nguồn lực thuộc
về một hệ thống xã hội cụ thể giới hạn và tạo ra hành động cá nhân và (2)
hành động trong một chừng mực nhất định bao gồm việc thực hiện và cập
nhật cấu trúc, góp phần tái khẳng định cấu trúc và biến đổi cấu trúc, để tái tạo
và chuyển đổi hệ thống xã hội [115, tr.970-974].
Thuyết cấu trúc hóa của Giddens đã nhận được rất nhiều luồng quan
điểm trái chiều. Một trong số đó có quan điểm của Sewell, đã tiếp tục và mở
rộng lý thuyết của Giddens và tập trung vào hai khía cạnh: bản chất của quy
tắc đạo đức trong cơ cấu hợp pháp hoá và yếu tố phi vật chất của các nguồn
tài nguyên. Sewell chỉ trích khái niệm Giddens về các quy tắc và chủ trương
thay thế nó bằng “sơ đồ” bao gồm không chỉ quy định chính thức thành lập,
mà là lược đồ, ẩn dụ và giả định bởi các quy định, đó là không chính thức
[trích theo 121, tr.8].
Luận điểm hạt nhân của lý thuyết cấu trúc hoá là con người với tư cách
như là những hành thể (diễn viên, người hành động), luôn tái tạo ra các cấu
trúc xã hội, đồng thời hành động đó của họ bị cấu trúc xã hội quy định. Thông
qua các hành vi, hoạt động của mình, con người tạo dựng, thay đổi những cấu
59
trúc xã hội mà họ là thành viên. Theo Giddens: Cấu trúc bao gồm các khuôn
mẫu hay các mối quan hệ có thể quan sát được trong sự đa dạng khung cảnh
xã hội. Sự cấu trúc hóa diễn ra trong thời gian, không gian và trong suốt cuộc
sống của mỗi cá nhân. Nhờ mặt tích cực của hành động cá nhân mà cấu trúc
xã hội được tái tạo một cách sinh động, liên tục chứ không máy móc.
“Những quy tắc phái sinh” gồm hai loại quy tắc khác nhau là quy tắc
ngữ nghĩa và quy tắc đạo đức. Các quy tắc ngữ nghĩa bao gồm các cú pháp
hay ngữ pháp và toàn bộ các quy tắc có sẵn mà phần lớn được hiểu ngầm
đang cấu tạo nên các diễn ngôn hàng ngày và giúp con người thông hiểu ý
nghĩa của các hành động của nhau [trích theo 43, tr.341].
Theo Giddens, cả quy tắc và nguồn lực đều cần được hiểu như là những
phương tiện, mà với nó, đời sống xã hội được sản xuất và tái sản xuất như là
quá trình hoạt động đang diễn ra và đồng thời, những phương tiện đó cũng
được sản xuất và tái sản xuất bằng chính quá trình hoạt động này. Giddens
cho rằng, đây chính là nghĩa cơ bản của khái niệm “tính hai mặt của cấu trúc”
[112]. Cấu trúc là nguồn phái sinh của tương tác xã hội nhưng nó cũng chỉ có
thể được tạo ra trong chính mối tương tác xã hội đó. Thuật ngữ “Cấu trúc
hoá” được Giddens sử dụng để chỉ quá trình phái sinh, vận động và tái tạo các
hệ thống của mối tương tác xã hội thông qua “tính hai mặt của cấu trúc” hay
“tính nhị nguyên của cấu trúc”. Cấu trúc hoá là quá trình tổng - tích hợp các
quy tắc xã hội và các nguồn lực xã hội mà con người vừa tạo ra và vừa sử
dụng trong đời sống, mà cũng thông qua đó cấu trúc xã hội có ảnh hưởng đến
hành động và được tái tạo, được cấu trúc hóa [trích theo 44, tr.82-90].
Trong trường hợp nghiên cứu ở đây, các quy tắc phái sinh có thể biểu
hiện rõ dưới hình thức các quy tắc nghề nghiệp, quy tắc ứng xử giữa người
với người trong lao động nghề nghiệp đang được áp dụng và chi phối các
hành động của người dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ
60
Thái. Các nguồn lực vật chất, tinh thần và các quy tắc phái sinh đều được sử
dụng trong hoạt động nghề nghiệp của người lao động và trong quá trình đó
cấu trúc xã hội được định hình, vận động và tái tạo không ngừng.
Có thể tìm hiểu cấu trúc xã hội của cả làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và
làng sơn mài Hạ Thái qua những biểu hiện cụ thể của nó ở (1) nhóm và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, cụ thể ở đây là hộ gia đình làm nghề đồ gỗ và làm
nghề sơn mài, công ty chuyên làm đồ gỗ, công ty chuyên sản xuất sơn mài,
trong đó có các vị thế và các vai nghề nghiệp nhất định; (2) các thiết chế xã
hội - nghề nghiệp với các thành phần như các hệ giá trị, các quy tắc và các
chuẩn mực nghề nghiệp mà một phần cơ bản, quan trọng của nó được thể chế
hóa dưới hình thức các quy định pháp luật về nghề nghiệp và một phần khác
không kém quan trọng là các phong tục, tập quán và quy tắc bất thành văn
được các thành viên của làng nghề nắm chắc và áp dụng trong hoạt động nghề
nghiệp của họ.
Để có thể làm rõ các đặc điểm, tính chất và cả sự biến đổi của cấu trúc
xã hội của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, luận án
áp dụng cách tiếp cận lý thuyết vừa nêu để giới thiệu cấu trúc xã hội chung
của cả hai làng nghề này. Sau đó tập trung phân tích hai mô hình để thấy rõ
hai cấu trúc xã hội - nghề nghiệp đặc trưng của làng nghề và cũng thể hiện rõ
xu hướng biến đổi của nó, đó là mô hình cấu trúc xã hội nghề nghiệp của gia
đình (gọi ngắn gọn là mô hình gia đình nghề) và mô hình cấu trúc xã hội nghề
nghiệp của công ty (gọi ngắn gọn là mô hình công ty nghề). Mô hình gia đình
nghề đặc trưng cho cấu trúc xã hội nghề nghiệp truyền thống. Mô hình công
ty nghề đặc trưng cho cấu trúc xã hội nghề nghiệp hiện đại, được hình thành
và tái tạo trên cơ sở các quy tắc trọng lý hóa hành động nghề nghiệp.
61
2.3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ
NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nông dân, nông
thôn, coi trọng vị trí, vai trò của nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp cách
mạng, Người nói: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh…”. [61, tr.215.]. “Nông dân là tối đại đa số trong nhân dân
nước ta, là bộ phận chủ chốt trong đội ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp
nhiều nhất trong kháng chiến. Nông dân nói chung ủng hộ chính sách của
Đảng và Chính phủ” [62, tr.458-459]. Để phát huy vị trí, vai trò của nông dân,
nông thôn đối với cách mạng, theo Hồ Chí Minh cần phải quan tâm đến nông
dân, phát huy hơn những thuận lợi mà giai cấp này đã có, đó là: “…ruộng đất
đã về tay nông dân, nông dân đã làm chủ nông thôn, chính sách khôi phục và
phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ rất đúng, kinh nghiệm sản xuất của
đồng bào ta dồi dào... Với những thuận lợi ấy, đồng bào nông dân sẽ phát
triển không ngừng những thành tích đã thu được góp phần vào xây dựng quê
hương đất nước” [63, tr.293].
Bên cạnh đó, khi nói về nông dân, nông thôn, Hồ Chí Minh chú trọng
nhất là vấn đề kinh tế, Người viết: “Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác
nhau”, “trong một làng, nhà thì có nhà giàu, nhà vừa, nhà nghèo. Người thì có
người tốt, người vừa, người kém … Hai hạng trên phải tìm cách giúp đỡ, cảm
hóa hạng thứ ba” [64, tr.100). Hay khi thấy nông dân bỏ ruộng, không chăm
sóc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tác hại của sự việc này: “Một số đồng bào chỉ thấy
lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích cá nhân, không thấy lợi ích
tập thể, cho nên đã bỏ ruộng đi buôn hoặc làm nghề khác, không tham gia chống
hạn. Nông dân phải bám lấy ruộng đất, phải chống hạn, phải tăng gia sản xuất.
62
Nếu bỏ ruộng đi buôn không ra sức chống hạn để hạn hán mất mùa thì mọi
người đều bị đói, người đi buôn cũng không no được” [65, tr.16].
Cũng chính vì quan tâm đến vấn đề kinh tế, phát triển sản xuất của
người nông dân nên trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân” [66, tr 517].
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh vấn đề giáo dục, học
tập của người nông dân, theo Người “Phải học chính trị, học văn hoá, học kỹ
thuật để nâng cao hiểu biết. Bởi vì công nghiệp, nông nghiệp của ta ngày càng
tiến bộ thì người công nhân, người nông dân, người lao động trí óc phải càng
ngày càng tiến bộ mới làm được tốt” [63, tr.413]; nhấn mạnh đến tinh thần
đoàn kết, tương trợ và thi đua với nhau trong sản xuất nông nghiệp: “Nông
dân lao động là người trong một nhà, cho nên các hợp tác xă phải giúp đỡ lẫn
nhau và giúp đỡ các tổ đổi công. Các hợp tác xã và tổ đổi công phải giúp đỡ
những người nông dân còn làm ăn riêng lẻ. Các xã và các huyện phải giúp đỡ
lẫn nhau và thi đua với nhau. Đó là một cách đoàn kết thật sự” [67, tr.66].
2.3.2. Quan điểm của Đảng về phát triển làng nghề
Phát triển làng nghề có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn và phát
huy nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn. Phát triển làng nghề được Đảng ta đặc biệt quan tâm,
nhất là từ khi đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách về phát triển làng nghề.
Quan điểm của Đảng ta về phát triển làng nghề được thể hiện rõ trong
các văn bản Nghị quyết của Đảng, cụ thể: trong Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng về Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội
trong 5 năm 1986-1990 đã khẳng định: hiện nay lực lượng tiểu, thủ công
63
nghiệp đang sản xuất khoảng một nửa khối lượng hàng tiêu dùng và còn nhiều
khả năng thu hút hàng triệu lao động… khuyến khích và tạo mọi điều kiện để
phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, sử dụng và đãi ngộ tốt các
nghệ nhân, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế thừa, không để mai một
những ngành, nghề đã có từ lâu đời trong nhân dân [15].
Vấn đề phát triển làng nghề tiếp tục được Đảng ta đưa ra trong Nghị
quyết số 05-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII: “Phát triển đa dạng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, với quy mô
nhỏ và vừa là chủ yếu. Khôi phục và phát triển các làng nghề…” [16]. Nghị
quyết số 06-NQ/TW, ngày 10-11-1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề
phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng nêu rõ: “Hỗ trợ, khuyến khích sản
xuất và sử dụng các loại máy móc thiết bị cơ khí sản xuất trong nước phục vụ
sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy hải sản. Khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống” [17]. Đến Nghị quyết số 07-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Đảng ta cho rằng cần phải: “Phát
triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống của từng vùng, mở thêm những
ngành nghề mới; áp dụng công nghệ tiên tiến” [17].
Vấn đề phát triển làng nghề còn được thấy trong Nghị quyết
15/NQ/TW ngày 15-12-2000 của Bộ Chính trị khóa VIII về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển Thủ đô trong thời kỳ 2001-2010 đã chỉ rõ “phát triển các
nghề, làng nghề truyền thống… gắn đô thị hóa với xây dựng nông thôn mới
theo hướng văn hóa, sinh thái. Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp”
[18]; trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng “Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
64
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đảng khẳng định phát triển
làng nghề là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn: Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành
nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp,
các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [19].
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Chuyển nhiều lao động sang khu
vực công nghiệp hóa và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp, các
làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và các dịch
vụ. Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng” [19]; Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đẩy nhanh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 tiếp tục chủ
trương: “phát triển các cơ sở sản xuất giấy, bột giấy, ván nhân tạo, đồ gia
dụng và thủ công mỹ nghệ bằng gỗ” [20].
Bên cạnh việc phát triển làng nghề, Đảng ta cũng nhấn mạnh đến khắc
phục tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề: “Khắc phục cơ bản nạn ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề, các cơ sở công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp đi đôi
với hình thành các cụm công nghiệp bảo đảm các điều kiện về xử lý môi
trường; chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý khối lượng rác thải đang ngày
càng tăng lên” [21].
Phát triển làng nghề đi liền với bảo vệ môi trường được khẳng định rõ
hơn trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Xây dựng nông thôn mới:
Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư.
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường”
65
[22] và trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020: “Xây dựng
nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và
bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp hóa, dịch vụ và làng
nghề gắn với bảo vệ môi trường” [23].
2.3.3. Chính sách của Nhà nước về phát triển làng nghề
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chính sách về phát triển làng nghề. Những chính sách này được thể hiện
trên nhiều khía cạnh thông qua các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành.
Chính sách về quy hoạch phát triển làng nghề: Nổi bật trong số các
chính sách về quy hoạch phát triển làng nghề phải kể đến Quyết định
132/2000/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24-11-2000 về một số
chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Quyết định chỉ ra,
trong quy hoạch và phát triển các cơ sở ngành nghề nông thôn theo cơ chế thị
trường, đồng thời có quy hoạch các cơ sở ngành nghề truyền thống; Điều 5
của Nghị quyết 66/2006/NĐ-CP: Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và
định hướng phát triển ngành nghề nông thôn dài hạn của cả nước và từng
vùng kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành nghề nông thôn của cả
nước…
Ngoài ra, Quyết định 2636/2011/QĐ-BNN-CB về phê duyệt Chương
trình bảo tồn và phát triển làng nghề của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, ngày 31-10-2011 cũng đã cụ thể hóa nội dung về quy hoạch
phát triển làng nghề. Quyết định có nội dung chỉ rõ: Chương trình bảo tồn và
phát triển làng nghề được xây dựng, triển khai thực hiện phải phù hợp với quy
hoạch phát triển ngành nghề nông thôn; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
66
- xã hội của địa phương và cả nước, trong đó chú trọng bảo tồn và phát triển
làng nghề, vùng nghề gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu.
Chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng và đầu tư: Quyết định
132/2000/QĐ-TTg đưa ra những quy định cụ thể về chính đất đai, hướng đến
phát triển ngành nghề, làng nghề, đó là: các cơ sở ngành nghề nông thôn đang
sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được UBND cấp có thẩm quyền
(tỉnh, huyện) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư phát
triển sản xuất; hàng năm, theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Nhà nước cho phép chuyển một phần diện tích đất
nông nghiệp, lâm nghiệp để phát triển ngành nghề nông thôn.
Về tài chính, tín dụng, đầu tư đối với phát triển làng nghề, Quyết định
132/2000/QĐ-TTg nêu rõ: Làng nghề nông thôn được hưởng ưu đãi đầu tư
theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 08-7-1999 của Chính phủ, quy định
chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số
03/1998/QH10 của Quốc Hội; Cơ quan tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký ưu đãi
đầu tư có nhiệm vụ xác định rõ quyền được hưởng ưu đãi đầu tư của các cơ sở
ngành nghề nông thôn trong giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư; các cơ quan thực
thi tiếp theo có trách nhiệm bảo đảm các quyền đó cho cơ sở ngành nghề nông
thôn, không được đòi hỏi thêm bất cứ thủ tục gì khác.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính còn hướng dẫn những điều kiện cụ thể: Trong
trường hợp cơ sở ngành nghề nông thôn không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay
bằng tài sản cầm cố, thế chấp thì được vay vốn theo quy định về hoạt động bảo
lãnh tài sản của bên thứ ba; được vay vốn của các tổ chức tín dụng dưới hình
thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội theo quy
định tại Điều 26 của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo
các tổ chức tín dụng hướng dẫn cơ sở ngành nghề nông thôn biết thủ tục vay
67
vốn đơn giản, thông báo công khai, có hình thức cho vay thích hợp và tạo điều
kiện thuận lợi cho các cơ sở này vay vốn phát triển sản xuất. Ngoài ra, còn có
các Nghị định 66/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định
2636/2011/QĐ-BNN-CB của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thúc
đẩy đầu tư, phát triển làng nghề ở nông thôn.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho làng
nghề: Quyết định 132/2000/QĐ-TTg đề ra chính sách đối với lao động, việc
làm và đào tạo người lao động trong các ngành, nghề nông thôn, làng nghề
truyền thống; Nghị định 66/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chỉ thị
đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn
như: Các dự án đầu tư cơ sở dậy nghề nông thôn được hưởng các chính sách về
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định để đào tạo nguồn nhân
lực đối với các ngành nghề cần phát triển theo quy hoạch phát triển ngành nghề
nông thôn; ngân sách địa phương hỗ trợ một phần chi phí lớp học cho các cơ sở
ngành nghề nông thôn trực tiếp mở lớp truyền nghề; Các nghệ nhân ngành
nghề nông thôn tổ chức truyền nghề được thu tiền học phí của học viên trên
nguyên tắc thỏa thuận: được thù lao theo quy định của cơ sở đào tạo khi tham
gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo; được ưu đãi về thuế trong hoạt động truyền
nghề theo quy định hiện hành; Lao động nông thôn khi tham gia học nghề được
hỗ trợ kinh phí đào tạo theo chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động
nông thôn; được vay vốn từ chương trình quốc gia giải quyết việc làm.
Chính sách về phát triển khoa học - công nghệ đối với phát triển các làng
nghề: Quyết định 132/2000/QĐ-TTg, chỉ rõ: Nhà nước có chính sách khen
thưởng và trợ giúp cá nhân, tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu, thiết
kế, cải tiến mẫu mã, tạo dáng sản phẩm, chuyển giao công nghệ cho các hộ gia
đình, cá nhân tổ chức đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn theo quy định của
pháp luật về sở hữu trí tuệ và khoa học công nghệ; Nhà nước khuyến khích cơ
68
sở ngành nghề nông thôn nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công
nghệ tiên tiến để hiện đại hóa sản xuất; Cơ sở ngành nghề nông thôn phải có
biện pháp xử lý chất thải, bảo đảm vệ sinh môi trường, thực hiện việc di
chuyển cơ sở gây ô nhiễm môi trường đến địa điểm thích hợp.
Bên cạnh đó, Quyết định 2636/2011/QĐ-BNN-CB cũng đã cụ thể hóa
hơn chính sách khoa học - công nghệ đối với phát triển làng nghề: Ưu tiên đầu
tư cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ để phát triển làng nghề mới trong lĩnh vực bảo quản, chế biến nông, lâm,
thủy sản; khuyến khích và đầu tư hỗ trợ cho các nghiên cứu, thử nghiệm sản
phẩm mới trong các làng nghề; Hỗ trợ kinh phí đối với cơ sở ngành nghề nông
thôn thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ thiết bị để
bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới và xử lý ô nhiễm
môi trường làng nghề.
Chính sách bảo vệ môi trường làng nghề: Trước hết, Luật Bảo vệ môi
trường năm 1993 (sửa đổi năm 2005) quy định: Việc quy hoạch, xây dựng, cải
tạo và phát triển làng nghề phải gắn với bảo vệ môi trường. UBND cấp tỉnh có
trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thống kê, đánh giá mức độ ô nhiễm của các làng
nghề trên địa bàn và có kế hoạch giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường của
các làng nghề trên địa bàn... Ngoài ra, còn có các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có bảo vệ môi trường làng nghề như: Quyết
định 132/2000/QĐ-TTg chỉ rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, chính
quyền địa phương và cơ sở sản xuất về xử lý nước thải, bảo đảm vệ sinh môi
trường, thực hiện việc di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường đến địa điểm quy
định; Nghị định 66/2006/NĐ-CP đã tiến thêm một bước trong chỉ đạo thực hiện
phát triển làng nghề gắn với BVMT, trong đó, nhấn mạnh: quy hoạch tổng thể
phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn với bảo vệ môi trường; Nghị định số
69
67/2003/NĐ-CP ngày 13-6-2003 của Chính phủ về bảo vệ môi trường đối với
nước thải.
Ngoài ra, còn có các chính sách về phát triển kết cấu hạ: Quyết định số
2636/2011/QĐ-BNN-CB về việc phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển
làng nghề; Chính sách về phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, với Quyết
định 132/2000/QĐ-TTg và Nghị định số 66/2006/NĐ-CP… Các Quyết định và
Nghị định phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành và chủ thể
sản xuất kinh doanh trong các ngành, nghề trong làng nghề.
Tóm lại, những văn bản của Đảng và Nhà nước đã được trình bày ở trên,
có thể thấy trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách thể phát triển làng nghề và đã mang lại hiệu quả thiết thực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đồng thời phát huy vị thế, vai trò, mạng
lưới xã hội làng nghề. Sự chuyển dịch cấu trúc kinh tế và cấu trúc lao động ở
làng nghề kéo theo sự thay đổi cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2, tác giả luận án đã làm rõ nội hàm và phạm vi của một số khái
niệm cơ bản của đề tài như “cấu trúc xã hội”, “cư dân”, “làng nghề”, “cấu
trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng” cũng như cách vận
dụng trong nghiên cứu luận án. Đồng thời chương 2 thao hóa tác các thành
phần của cấu trúc xã hội (nhóm xã hội, vị thế xã hội, vai trò xã hội, thiết chế xã
hội, mạng lưới xã hội, tổ chức xã hội cư dân làng nghề) và các phân hệ của cấu
trúc xã hội cư dân làng nghề. Luận án cũng phân tích rõ lý thuyết hệ thống xã
hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens, được
áp dụng trong nghiên cứu cấu trúc xã hội cư dân làng nghề. Ngoài ra, một số
quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về làng nghề và phát triển làng
nghề, Tư tưởng Hồ Chí Minh với nông dân đã đưa ra những định hướng quan
trọng để phân tích, đánh giá cấu trúc xã hội cư dân làng nghề hiện nay.
70
Chương 3
THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG NGHỀ ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Hồng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năm 2013 vùng Đồng bằng sông
Hồng có diện tích 21.059,3 km² [29], gồm “11 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng
Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh” [91]. Dân
số trung bình, năm 2013 vùng này là 20439,4 nghìn người [29]. Về dân tộc đa
số dân số là người Kinh.
Đồng bằng sông Hồng có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội như sau:
Về vị trí địa lý, vùng đồng bằng sông Hồng có tọa độ địa lý:Từ vĩ độ
21°34´B (huyện Lập Thạch) tới vùng bãi bồi khoảng 19°5´B (huyện Kim
Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 107°7´Đ (trên đảo Cát Bà). Phía bắc và
đông bắc là Vùng Đông Bắc (Việt Nam), phía tây và tây nam là vùng Tây
Bắc, phía đông là vịnh Bắc Bộ và phía nam vùng Bắc Trung Bộ [30].
Như vậy, đây là một vùng có vị trí địa chính trị quan trọng của nước ta,
là cửa ngõ ở phía biển Đông, đồng thời là một trong những cầu nối giữa hai
khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Về đặc điểm địa hình, vùng đồng bằng sông Hồng có địa hình tương
đối bằng phẳng, có nhiều sông ngòi tạo thành các hệ thống giao thông thuỷ và
bộ. Theo các nhà địa lý, vùng đất này được bồi đắp qua hàng triệu năm, chủ
yếu bởi 2 hệ thống sông là sông Hồng và sông Thái Bình. Với địa hình như
vậy, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng đã biết dựa vào điều kiện tự nhiên để
khai thác, trồng trọt, chăn nuôi và lựa chọn những ngành nghề phù hợp với
71
từng thời gian, từng khu vực để phát huy nhiều lợi thế của vùng đem lại lợi
ích cho cộng đồng dân cư, đồng thời bảo vệ môi trường.
Về tài nguyên thiên nhiên, vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn tài
nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng. Tài nguyên đất phù sa màu mỡ,
tài nguyên đất sét trắng ở Hải Dương, đá vôi ở huyện Thuỷ Nguyên, tỉnh Hải
Phòng, huyện Kim Môn tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình... Vùng có
nguồn tài nguyên đất nông nghiệp do phù sa của hệ thống sông Hồng và sông
Thái BTnh bồi đắp với diện tích lớn “Hiện có trên 103 triệu ha đất đã được sử
dụng, chiếm 82,48 % diện tích đất tự nhiên của vùng và chiếm 5,5% diện tích
đất sử dụng của cả nước” [30], “Đất đai của vùng rất thích hợp cho thâm canh
lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng có diện tích
trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước với diện tích đạt 1242,9 nghìn
ha” [30].
Về tài nguyên biển, vùng đồng bằng sông Hồng có bờ biển trải dài từ
huyện Thuỷ Nguyên, tỉnh Hải Phòng đến huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Bờ
biển có bãi triều rộng, phù sa dày, thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ hải sản, đồng
thời tạo điều kiện để phát triển du lịch.
3.1.2. Đặc điểm chung cấu trúc xã hội làng nghề đồng bằng sông Hồng
Theo kết quả Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công,
phục vụ công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam từ năm 2002-2004 trong khuôn
khổ hợp tác với tổ chức JICA của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả
nước có khoảng 2.017 làng nghề. Theo Báo cáo kết quả của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn 5 sau năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày
20/10/2011 về phát triển ngành nghề nông thôn, trên địa bàn cả nước có 4.575
làng, trong đó 3.251 làng có nghề và 1.324 làng nghề được công nhận theo
tiêu chí của Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18-12-2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Hàng năm, ngành nghề nông thôn đóng góp
72
đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng GDP; giúp xóa đói giảm
nghèo, tăng thu nhập cho người lao động. Có những làng nghề thu hút trên
60% lao động trong tổng số lao động của địa phương vào hoạt động sản xuất
phi nông nghiệp. Ngoài lao động thường xuyên, các hộ gia đình, cơ sở ngành
nghề còn thu hút thêm từ 2% đến 10% lao động thời vụ. Thu nhập của lao
động làng nghề đạt từ 450.000 đồng đến 4.000.000 đồng/người/tháng, so với
lao động nông nghiệp cao gấp từ 1,5 đến 4 lần.
Về loại hình sản xuất, các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng tùy theo
điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương, đã hình thành và phát triển nhiều
hình thức sản xuất đa dạng. Song tập trung chủ yếu những nhóm ngành nghề
như sau: thủ công mỹ nghệ; chế biến lương thực, thực phẩm; dệt, nhuộm,
thuộc da; gia công cơ kim khí; sản xuất vật liệu xây dựng; chăn nuôi, giết mổ
gia súc; tái chế chất thải và các loại hình khác, trong đó loại hình thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Vùng đồng bằng sông Hồng có 2.433 làng có nghề trên tổng số 4.575
làng của cả nước chiếm tới 53,18% [4].
Về làng nghề ở thành phố Hà Nội, theo số liệu thống kê năm 2009 của
Sở Công thương Hà Nội: Ngày 01-8-2008, tỉnh Hà Tây và 4 xã thuộc huyện
Lương Sơn tỉnh Hòa Bình sáp nhập vào Hà Nội làm tăng số quận, huyện và diện tích từ 921,8 km2 lên đến hơn 3.300 km2. Số lượng làng nghề ở thành
phố Hà Nội tăng từ 11 làng lên đến 272 làng nghề. Hà Nội hiện có 1.270 làng
có nghề, chiếm 62% tổng số làng nghề của cả nước, tập trung ở một số huyện:
Phú Xuyên (125 làng), Thường Tín (126 làng), Chương Mỹ (174 làng), Ứng
Hòa (113 làng)…
73
3.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN
3.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Thường Tín
Về mặt địa lý - kinh tế, huyện Thường Tín gồm hai miền: miền Đông
của huyện và miền Tây của huyện, giữa là quốc lộ 1A, có đường sắt Hà Nội,
Sài Gòn và quốc lộ 1B. Giới hạn miền Đông là dòng Sông Hồng và miền Tây
là Sông Nhuệ, phía Bắc của huyện là đường tỉnh lộ 71, phía Nam huyện là
tỉnh lộ 73, hai con đường này qua huyện và nối từ đường 22 đến quốc lộ số
1A và đường đê sông Hồng, tạo cho Thường Tín có một hệ thống giao thông
thuận tiện.
Thường Tín ở vị trí cửa ngõ phía Nam của thành phố Hà Nội, lại có các
trục đường giao thông lớn cả đường bộ, đường thủy nên tạo điều kiện thuận
lợi để cư dân phát triển về nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo
dục... mang đặc trưng của một huyện ven đô và nông thôn đồng bằng sông
Hồng.
Theo dữ liệu của UBND huyện Thường Tín, năm 2013: Thường Tín
gồm 28 xã và 01 thị trấn, diện tích khoảng 127,59 km², với số dân khoảng
216.500 người; ở vị trí phía Nam của Thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp với tỉnh
Hưng Yên, phía Tây giáp với huyện Thanh Oai, phía với Nam giáp huyện Phú
Xuyên, phía Bắc giáp với huyện Thanh Trì.
Cấu trúc kinh tế huyện Thường Tín đang chuyển dịch theo xu thế chung
của cả Hà Nội. Theo báo cáo về kinh tế của huyện năm 2013, thì tỉ trọng công
nghiệp và xây dựng chiếm phần lớn với 50,15%, thương mại - dịch vụ chiếm
32,25% và nông nghiệp chỉ còn chiếm 17,6% [98].
Thường Tín có các cụm, điểm công nghiệp phát triển. Đến nay, huyện
đã thu hút 109 doanh nghiệp đầu tư, có 364 hộ sản xuất kinh doanh tại các
cụm, điểm công nghiệp. Huyện quy hoạch hai khu công nghiệp Phụng Hiệp,
Bắc Thường Tín và một cụm công nghiệp Hà Hồi - Quất Động; hoàn thành
74
xây dựng hạ tầng và giao đất nhiều cụm công nghiệp: Liên Phương, Quất
Động, Hà Bình Phương, Duyên Thái …, 4 điểm công nghiệp ở các xã: Vạn
Điểm, Duyên Thái, Ninh Sở, Tiền Phong.
Như vậy, có thể thấy huyện Thường Tín đang phát triển theo hướng
đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ, chuyển đổi tỉ trọng
nông nghiệp sang phát triển tỉ trọng cho các ngành nghề khác tạo ra năng suất
và hiệu quả cao hơn.
Về lịch sử - văn hóa - xã hội. Qua quá trình lao động sản xuất ở nông
thôn, từ thế hệ này sang thế hệ khác, người dân Thường Tín đã xây dựng
được hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn và những công trình văn hóa nghệ
thuật đặc sắc. Theo sách Thường Tín Đất danh hương do Sở Văn hóa thông
tin Hà Tây xuất bản, tính đến năm 2007, Thường Tín có 80 di tích lịch sử văn
hóa được xếp hạng quốc gia và cấp tỉnh. Đặc biệt, các quan hệ xã hội nông
thôn dựa trên các nguồn lực và những quy tắc hữu sinh của mỗi làng nghề dần
dần được định hình.
Qua các thời đại, Thường Tín còn là nơi đã sinh ra nhiều anh hùng dân
tộc và danh nhân của đất nước rất đáng tự hào như: Nguyễn Trãi, Ngô Thì
Nhậm, Lý Tử Tấn ...
3.2.2. Làng nghề ở huyện Thường Tín
Ngoài thời gian làm nông nghiệp, người dân huyện Thường Tín đã sớm
sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ đời sống sinh hoạt, góp phần giúp
Thường Tín trở thành “đất trăm nghề”. Hiện nay, huyện Thường Tín có trên
50 ngành nghề thủ công, mỹ nghệ gồm 126 nghề, trong đó có 46 nghề được
UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và thành phố Hà Nội tặng bằng công nhận là nghề
làng. Cư dân ở các làng nghề của huyện xuất hiện nhiều nghệ nhân, thợ giỏi
được phong tặng.
75
Hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề trong huyện tương đối
ổn định và phát triển. Năm 2013, toàn huyện mở 27 lớp dạy nghề, nhân cấy
nghề cho trên 1.200 lao động và 8 dự án phát triển làng nghề, giải quyết việc
làm cho nhiều lao động nông thôn.
Sự phát triển các làng nghề ở huyện Thường Tín không những đóng góp
các giá trị về mặt kinh tế, mà còn góp phần giữ gìn những giá trị văn hóa
truyền thống, tạo nên nét đẹp văn hoá - xã hội truyền thống, đồng thời tạo
điểm nhấn quan trọng trong vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và với làng
nghề của huyện Thường Tín nói riêng.
Trong huyện, các làng nghề phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng “ly
nông bất ly hương”. Sự lan tỏa của các làng nghề đã mở rộng quy mô và địa
bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành
nghề khác, góp phần làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và
thương mại, dịch vụ của địa phương.
Nhiều làng nghề có tính chất cổ truyền và nổi tiếng trong nước từ xưa
đến nay như: nghề mây tre đan (xã Ninh Sở), tiện gỗ (xã Nhị Khê), sơn mài
(xã Duyên Thái), thêu ren (xã Thắng Lợi, xã Quất Động, xã Hà Hồi), điêu
khắc (xã Hiền Giang), đồ gỗ (xã Vạn Điểm), đục tượng (xã Hiền Giang),
hương trầm (xã Tự Nhiên), v.v.
3.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA XÃ VẠN ĐIỂM VÀ XÃ DUYÊN THÁI
3.3.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điểm
Xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội nằm ở phía Đông
Nam của huyện Thường Tín, có diện tích 2,97 km². Vạn Điểm có vị trí địa lý
là một trong hai xã cuối của huyện Thường Tín, cách trung tâm huyện 12 km,
cách trung tâm thành phố Hà Nội 31 km, phía Đông giáp thị trấn Phú Minh,
huyện Phú Xuyên, phía Đông Bắc giáp với sông Hồng (khoảng 1 km), phía
76
nam giáp xã Minh Cường, phía Tây giáp xã Văn Tự, phía bắc giáp xã Thống
Nhất đều thuộc huyện Thường Tín.
Xã Vạn Điểm có vị trí giao thông đường bộ và đường thủy rất thuận lợi,
có quốc lộ 1A đi qua, lại có Ga Đỗ Xá (Năm 1913 Pháp xây dựng đường sắt
Hà Nội - Sài Gòn) nên thuận lợi việc giao lưu, buôn bán với các địa phương
khác trong vùng đồng bằng Sông Hồng và các vùng khác trên đất nước.
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX của Viện Hán nôn xuất
bản năm 1981, Vạn Điểm là một xã thuộc tổng Vạn Điểm, huyện Thượng
Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng, đến thời thuộc Pháp, tổng Vạn
Điểm thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Sau Cách mạng tháng 8 năm
1945, Vạn Điểm có bốn lần tách, nhập và đổi tên, đến năm 1971 xã thuộc
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (từ năm 2008 thuộc thành phố Hà Nội).
Xã Vạn Điểm có 3 làng (thôn) là: Vạn Điểm, Đặng Xá và Đỗ Xá có
diện tích tự nhiên 297,14 ha, có trên 2.188 hộ gia đình với trên 7.700 nhân
khẩu, có hơn 750 hộ sản xuất đồ gỗ và chế biến lâm sản. Mỗi hộ gia đình
trung bình là 4 lao động làm nghề, tạo công ăn việc làm cho trên 3.000 người
lao động trong xã và các địa phương khác trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Những năm 1960 xã Vạn Điểm chuyên sản xuất sơn mài, các mặt hàng
như khung tranh sơn mài, tranh sơn mài, lọ hoa, v.v, chủ yếu bán sang các
nước Xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1985 thì chuyển đổi sản xuất, chế biến gỗ
làm các mặt hàng phục vụ đời sống, sinh hoạt như: như sập ngụ, tủ chè, bàn
nghế, giường, tủ, đồ hồ, v.v, sự chuyển đổi này đã tạo đà cho Vạn Điểm một
diện mạo mới phát triển thành làng nghề đồ gỗ cao cấp (năm 2000, UBND
tỉnh Hà Tây (cũ) cấp bằng công nhận làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm), và được
công nhận là một điểm du lịch văn hoá làng nghề. Quy mô sản xuất lớn hơn
ngày càng lớn, mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại. Hiện nay
xã Vạn Điểm có 37 công ty, doanh nghiệp chế biến lâm sản và có khoảng 500
77
tổ hợp sản xuất tại các hộ gia đình. Các mặt hàng chủ yếu được tiêu thụ trong
nước và một phần xuất khẩu sang nước ngoài. Lao động đánh giấy ráp thu
nhập khoảng 3 triệu đồng/tháng, lao động có tay nghề cao thu nhập trên 5
triệu đồng/tháng.
Bảng 3.1: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của xã Vạn Điểm, năm 2013
Ngành kinh tế Tỉ trọng (%)
Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thương mại, dịch vụ Nguồn thu khác
Tổng giá trị sản phẩm năm (tỷ đồng) 14,73 88,2 60,2 10 173,13 8,51 50,9 34,8 5,79 100 Tổng cộng
Nguồn: Báo cáo UBND xã Vạn Điểm, năm 2013 [99]
Bảng 3.1 cho thấy tổng thu nhập từ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp xã Vạn Điểm năm 2013 đạt 88,2 tỷ đồng, chiếm 50,9 %. Điều đó cho
thấy, sản xuất ngành nghề đồ gỗ mộc cao cấp đang phát triển, do các hộ gia đình
mở rộng sản xuất, đồng thời khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật như máy cưa,
máy đục vi tính vào sản xuất. Trong năm 2013 xã mở 01 lớp khuyến công nâng
cao tay nghề cho người lao động. Kết quả khảo sát 100 hộ gia đình trong xã của
UBND xã Vạn Điểm: thu nhập bình quân đầu ước đạt 22,1 triệu đồng/năm.
Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tác động đến với đời sống của
người dân trong xã, thay bằng nguồn thu nhập từ nông nghiệp thì hiện nay nguồn
thu nhập chính của xã là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch
vụ, tỉ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ càng lớn bao nhiều
thì kinh tế của xã sẽ ngày càng phát triển hơn bấy nhiêu, điều đó thể hiện sự
chuyển dịch tích cực.
Xã Vạn Điểm đang được xây dựng, phát triển kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, đặc biệt coi trọng phát triển
78
làng nghề là thế mạnh của xã. Sự phát triển kinh tế nông thôn gắn với làng
nghề đã kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực trong xã. Sự quan tâm
của các cấp chính quyền và của người dân trong xã về các lĩnh vực trong xã,
đặc biệt về ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển làng nghề nhằm
giúp cho kinh tế - xã hội của xã ngày một phát triển và ổn định. Làng nghề đồ
gỗ Vạn Điểm có vị thế đứng đầu về kinh tế trong ba làng của xã Vạn Điểm.
3.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Duyên Thái
Xã Duyên Thái thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội - gốc là
thuộc làng Việt cổ, làng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945, xã Duyên Thái (gồm các xã Duyên Trường, Hạ Thái và
Phúc Am) thuộc tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông.
Xã Duyên Thái ở vị trí đầu huyện Thường Tín (phía đông bắc huyện),
nằm dọc theo đông quốc lộ 1A, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 16 km về phía
Bắc, cách trung tâm thị trấn huyện Thường Tín về phía Nam 3 km. Phía Bắc
giáp với xã Đông Mỹ và xã Liên Ninh thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, Phía
Nam giáp với xã Văn Bình, phía đông và đông nam giáp xã Ninh Sở và xã Liên
Phương, phía tây giáp xã Nhị Khê là các xã thuộc huyện Thường Tín. Hiện nay
xã Duyên Thái gồm có 3 làng là: Duyên Trường, Hạ Thái và Phúc Am.
Duyên Thái là một xã đông dân cư, tổng diện tích đất tự nhiên gần 4 km2 với dân cư hơn 4.000 người. Diện tích đất canh tác 385,4 ha, bình quân ruộng đất trồng trọt cho một nhân khẩu trực tiếp sản xuất 300 m2, do đặc điểm đồng ruộng cao, trũng đan xen nên trước kia đến 90% diện tích chỉ cấy được
một vụ lúa, đến nay cấy lúa cả hai vụ. Ngoài việc coi trọng nông nghiệp, từ
trước đến nay người dân Duyên Thái còn làm nhiều nghề phụ, phi nông nghiệp
như: đan tre, thợ mộc, thợ nề, thợ in, hàng vàng (làng Duyên Trường và Phúc
Am), nghề sơn mài (làng Hạ Thái) tùy theo độ tuổi, trình độ và sức khỏe của
mỗi nhóm dân cư.
79
Từ những năm 1950, nghề sơn mài truyền thống của xã khá phát triển.
Xã đã thành lập hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Bình Minh, có thời điểm cao nhất
thu hút trên 600 lao động chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nổi tiếng ở các nước
xã hội chủ nghĩa (trước đây). Từ năm 1986, bắt đầu thời kỳ đất nước đổi mới
nghề sơn mài càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, làng nghề đã ứng dụng
công thức mới (đa phần chuyển từ sơn ta sang sơn dầu hạt điều trộn với đất phù
sa sông Hồng). Xã Duyên Thái có ba làng trong đó hai làng Hạ Thái và Duyên
Trường được công nhận là làng nghề (UBND tỉnh Hà Tây công nhận làng Hạ
Thái là làng nghề năm 2001. Làng Duyên Trường năm 2005) [5].
Về cấu trúc kinh tế của xã, bên cạnh sản xuất nông nghiệp, xã chú trọng
kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Bảng 3.2: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng của xã Duyên Thái, năm 2013
Ngành kinh tế
Tổng giá trị sản phẩm năm (Tỷ đồng) Tỉ trọng phát triển kinh tế (%)
Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) 26,0 9,16
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 152,1 53,59
Thương mại, dịch vụ 105,7 37,25
Tổng 283,8 100
Nguồn: Báo cáo UBND xã Duyên Thái năm 2013 [101]
Theo báo cáo của UBND xã, năm 2013 thu nhập đầu người bình quân
trong xã ước đạt 20 triệu đồng/người/năm.
Người dân xã Duyên Thái trồng lúa và một số cây nông nghiệp khác với
giá trị sản phẩm cây trồng cao. Năm 2013, tổng sản phẩm kinh tế nông nghiệp
đạt 26 tỷ đồng. Ngoài ra, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng,
thương mại dịch vụ đạt 152,1 tỷ đồng, chiếm 53,59%.
Xã Duyên Thái có những bước chuyển dịch kinh tế đáng kể. Tuy nhiên,
từ năm 2010 trở lại đây, sản phẩm sơn mài của làng nghề giảm, ảnh hưởng
80
đến sự phát triển kinh tế của xã. Mặc dù vậy, các hoạt động trong xã vẫn được
triển khai đảm bảo sự ổn định. Tình hình trật tự an ninh xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội, cuộc sống cư dân lành mạnh. Làng nghề sơn mài Hạ Thái có
doanh thu hàng năm ước đạt 70 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cấu
trúc kinh tế xã Duyên Thái.
3.4. CÁC PHÂN HỆ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ ĐỒ
GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI
3.4.1. Cấu trúc xã hội - dân số
3.4.1.1. Cấu trúc xã hội - giới tính
Năm 2013, làng Vạn Điểm có 708 hộ gia đình với tổng dân số là 2.328
người, trong đó là nam chiếm 48,75% (1.135 người), nữ chiếm 51,24% (1.193
người), trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm tới 58,73% tạo ra
nguồn nhân lực khá lớn để làm nghề và phát triển nghề. Làng Hạ Thái có 1.046
hộ gia đình, với tổng số nhân khẩu 3.618 người, với cấu trúc giới tính: nam
chiếm 53,01% (1.918 người), nữ chiếm 46,98% (1.700 người). (Bảng 3.3).
Bảng 3.3: Cấu trúc xã hội - giới tính của cư dân làng nghề
Chung
Giới tính
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số người % Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số người %
Số người %
Nam Nữ Tổng số
1135 1193 2328
48,75 51,24 100
1918 1700 3618
53,01 46,98 100
3053 2893 5946
51,35 48,65 100
Nguồn: Số liệu thống kê của xã năm 2013
Tìm hiểu thực tế tại hai làng nghề, quan niệm của cư dân làng nghề hiện
nay ít có phân biệt giữa con trai và con gái, song có sự phân công lao động tương
đối rõ theo giới tính. Phỏng vấn sâu một chủ hộ gia đình làm nghề cho biết:
Ở làng nghề em, bây giờ quan niệm về sinh con trai hay con gái
không quá nặng nề, con nào cũng cần được ăn, học và rồi có công
ăn việc làm. Anh cứ đi quan sát cả làng em thì thấy, nếu là phụ nữ
81
thì có việc của phụ nữ như đánh giấy ráp, cho đến đứng điều khiển
máy đục vi tính, làm những việc phù hợp với sức phụ nữ, còn nam
giới làm thợ pha gỗ, thợ ngang. Làng mình có nghề nên nhiều nam
giới đến đây làm thợ rồi lấy vợ luôn tại làng nghề”. (PVS, nữ chủ
hộ gia đình, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).
Quan niệm của cư dân làng nghề sơn mài Hạ Thái, vị thế của phụ nữ
trong làng nghề được đánh giá cao. Khi hỏi về vấn đề này, một nghệ nhân
làng nghề sơn mài Hạ Thái cho rằng:
“Phụ nữ ở làng rất được nhân dân coi trọng, bởi nghề sơn mài lao
động nữ làm nhiều hơn nam giới, do vậy họ kiếm tiền chẳng kém gì
nam giới, với tính chịu khó và đôi tay khéo léo, phụ nữ làm nghề
sơn mài rất tốt, hiện nay trong số 4 nghệ nhân của làng được phong
tặng thì có 3 người là nữ”. (PVS, nghệ nhân Nguyễn Thị H, làng
nghề sơn mài Hạ Thái).
Ở cả hai làng nghề tác giả nghiên cứu, người thợ - cư dân làng nghề
đều dạy nghề cho cả con gái, kể cả những người địa phương khác đến học
nghề và làm thợ tại làng. Điều này thể hiện rõ nét qua những công ty nghề,
ngoài địa điểm đặt tại làng nghề, còn đặt ở một số địa phương khác, lấy lao
động ở địa phương đó luôn.
Một số cặp vợ/chồng trong làng nghề xây dựng gia đình trên cơ sở
quen biết qua quá trình học nghề, khi phỏng vấn về hoàn cảnh nào anh/chị
quen biết nhau và trở thành vợ/chồng một Giám đốc công ty TNHH sơn mài
cho biết thêm:
Thời kỳ trước năm 2008, làng nghề sơn Hạ Thái rất phát triển, do
vậy rất nhiều người học nghề sơn mài, lúc đó công ty mình có nhận
thợ về học và làm sơn mài, mình là người dạy vẽ, trong số những
người học thì có vợ mình bây giờ, vợ mình thì bên làng Duyên
82
Trường đến học nghề, có thể nói nhờ việc dạy nghề sơn mài vợ,
chồng mình lấy nhau”. (PVS nam, Giám đốc Công ty TNHH sơn
mài Th-S).
3.4.1.2. Cấu trúc xã hội - độ tuổi
Về độ tuổi của dân số làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài
Hạ Thái được chia thành bốn nhóm tuổi: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm: dưới 15
tuổi có 22,56% ; từ 15-24 tuổi có 350 người, chiếm 15,03; từ 25-55 tuổi có
1017, chiếm 43,69, trên 55 tuổi có 436 người chiếm 18,72; làng nghề sơn mài
Hạ Thái: dưới 15 tuổi có 858 người, chiếm 23,7%; từ 15-24 tuổi có 470
người, chiếm 13,0%; từ 25-55 tuổi có 1673 người, chiếm 46,2%; trên 55 tuổi
có 617 người, chiếm 17,1%. (xem Biểu 3.1).
50
46,2 45,3
45
43,69
40
35
30
25
23,7 23,3
22,56
17,7
20
18,72
13,7
17,1
15,03
13
15
10
5
0
Dưới 15 tuổi
Từ 15- 24 tuổi
Từ 25- 55 tuổi
Trên 55 tuổi
Làng Vạn điểm
Làng Hạ Thái
Chung
Đơn vị: %
Biểu 3.1: Cấu trúc xã hội - tuổi của người dân làng nghề
Nguồn: Số liệu thống kê của luận án, năm 2013.
Có thể thấy rằng, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở cả hai làng khá cao,
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có 58,72% tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55
tuổi và làng nghề sơn mài Hạ Thái, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55 tuổi
là 59,2%. Cấu trúc xã hội - tuổi của hai làng nghề này là tương đối giống nhau.
83
Như vậy, cả hai làng có một nguồn nhân lực lao động dồi dào, đã tạo điều
kiện cho sẵn sàng cho các hoạt động nghề nghiệp của làng nghề, đồng thời đang
tiếp bước để làng nghề phát triển.
Cấu trúc xã hội - vị thế và vai xã hội của các thành viên gia đình
Tìm hiểu thực tế ở hai làng nghề, tác giả biết được cư dân làng nghề, ngoài
kính nể những người cao tuổi (giá trị trọng người già), thì độ tuổi từ 25-55 cũng rất
được coi trọng. Bởi vì, họ là những người truyền nghề cho con cháu, đồng thời là
những lao động chính trong làng nghề và một số còn là chủ doanh nghiệp giỏi.
Tìm hiểu vị thế, vai trò của thành viên gia đình cư dân làng nghề, kết quả thu
được như sau: Vị thế ông/bà có vai trò quyết định trong các việc của làng, dòng họ -
chiếm 30,5%; việc hiếu - chiếm 21,2%. Vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính
trong sản xuất, kinh doanh - chiếm 93,0%; định hướng nghề nghiệp cho con cái -
chiếm 90,1%; mua sắp các đồ dùng đắt tiền - chiếm 89,5%. Vị thế con cái có vai trò
chủ yếu trong việc học tập (bảng 3.4).
Bảng 3.4: Cấu trúc vị thế - vai xã hội của các thành viên trong
gia đình làng nghề
Đơn vị: %, N=515
Công việc Ông/bà Bố/mẹ
1. Sản xuất, kinh doanh 4,7 93,0 Con cái 2,3
2. Học tập của con cái 4,9 28,2 67,0
3. Định hướng nghề nghiệp cho con/cháu 5,2 90,1 4,7
4. Trong việc hỷ 7,8 62,5 2,7
5. Trong việc hiếu 21,2 77,3 1,6
6. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền 6,6 89,5 3,9
7. Công việc của làng, dòng họ 30,5 67,2 2,3
8. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa 20,4 77,7 1,9
9. Chuyển đổi nghề nghiệp 17,5 76,1 6,4
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
84
Bảng 3.4, cho biết vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính trong hầu hết
các công việc, song trong việc học tập của con cái thì ông/bà và bố/mẹ ưu tiên
quyền quyết định, đồng thời để con cái chủ động trong việc học tập của mình.
Nguồn hỗ trợ khi gặp khó khăn của chủ hộ gia đình chủ yếu dựa vào
người thân trong gia đình - chiếm 32,2% (166/515), người có uy tín trong
dòng họ - chiếm 27,6% (142/155); đặc biệt có đến 14,4% chủ hộ gia đình ý
kiến và nhờ chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội ở làng-xã, điều đó
cho thấy sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội trong hoạt động nghề
nghiệp ở làng nghề có vai trò quan trọng.
Vai trò của chủ hộ gia đình đối với gia đình, dòng họ và cộng đồng,
được chủ hộ gia đình tự đánh giá ở phạm vi gia đình là “rất quan trọng” có tỷ
lệ cao nhất - chiếm 71,1%, vai trò đối với dòng họ - chiếm 16,3% và với cộng
đồng làng nghề - chiếm 14,%.
Vốn xã hội ở làng nghề luận án nghiên cứu, chủ yếu thể hiện ở mạng
lưới các quan hệ gia đình, xã hội mà người lao động dựa vào đó để tìm kiếm
cơ hội việc làm và trợ giúp về tài chính lúc gặp khó khăn. Chẳng hạn những
gia đình thuộc diện khá giả, có thời gian làm nghề nhiều thế hệ, thâm niên
làm nghề lâu năm, chủ hộ gia đình có học vấn cao thì có thể có mạng lưới xã
hội đa dạng và họ sử dụng mạng lưới này cho các mục đích tìm việc làm hay
nguồn tài chính nhiều hơn so với người ở nhóm thấp hơn.
Ngoài ra các gia đình nghề và công ty nghề sử dụng mạng lưới xã hội,
vốn xã hội có được để vận động, tương tác trong hoạt động nghề. Điều này có
thể nhận biết thông qua phỏng vấn sâu một cán bộ xã:
Hiệp hội làng nghề và toàn thể nhân dân làm nghề trong thôn có
vai trò cốt yếu trong tổ chức các sự kiện quan trọng của làng.
Nhiều sự kiện, nhờ có đóng góp về nhân lực và kinh phí của họ mới
thành công (PVS, nữ, cán bộ xã Duyên Thái).
85
Điều này minh chứng cho lý thuyết hệ thống của Parson khi cho rằng
hệ thống xã hội tạo nên những vai trò khác nhau duy trì các mối quan hệ trong
hội trong mạng lưới xã hội.
3.4.1.3. Cấu trúc xã hội - học vấn
Có thể thấy rõ vẫn còn một số lượng không nhỏ lực lượng lao động
trong các làng nghề có trình độ ở mức phổ thông. Chung cho cả hai làng
nghề: trình độ tiểu học là 11,8%; THCS là 39,8%, THPT 33,1% và trình độ
cao đẳng, đại học chỉ có 4,8% (xem bảng 3.5). So với trình độ học vấn chung
của lực lượng lao động cả nước, cấu trúc trình độ học vấn của hai làng nghề là
gần tương đương nhau mặc dù tỉ lệ trình độ cao đẳng, đại học có thấp hơn
chút ít, rất có thể là do mẫu khảo sát có một tỉ lệ lớn những người từ trung
niên trở lên, những người này trước đây không có điều kiện đi học hết trung
học phổ thông hoặc không được học cao đẳng, đại học.
Khảo sát mẫu nghiên cứu 425 chủ hộ gia đình làm nghề thu được kết
quả như sau: trình độ tiểu học có 4%, THCS có 29,9%, THPT có 64%, trěnh
độ trung cấp trở lên có 2,1%. Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình làm nghề
không cao và không đồng đều trong các hộ gia đình. Đa phần những cặp
vợ/chồng ở gia đình làm nghề đều có trình độ học vấn trung bình (chủ yếu
học hết THPT). Điều này được lý giải, do sản xuất hộ gia đình chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm và thông qua tự học, nên họ quan niệm không nhất thiết học
đến trình độ trên THPT.
Như vậy, phần lớn nguồn lực của cả hai làng nghề tập trung ở trình độ
trung học cơ sở và trung học phổ thông. Xét ở trình độ học vấn cao đẳng, đại
học thì làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại có tỉ lệ dân số đạt trình độ học vấn cao
hơn so với làng nghề sơn mài Hạ Thái.
Có thể thấy, về mặt trình độ học vấn trong làng nghề chỉ đạt ở mức
trung bình, tức là mặt bằng chung là trung học phổ thông, khi phát triển lên
86
trình độ cao hơn thì ít hơn. Nguồn nhân lực trong làng nghề chưa thực sự
được coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn. Tuy nhiên, nguồn lực này lại
đầu tư để phát triển trình độ tay nghề, để trở thành nhóm thợ giỏi, một số trở
thành nghệ nhân của nghề.
Bảng 3.5: Cấu trúc xã hội - học vấn của cư dân làng nghề
Chung
Trình độ học vấn
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số người 232 884 815 139 258 Tỉ lệ % 9,9 37,9 35,0 6,2 11,0 Làng nghề sơn mài Hạ Thái Tỉ lệ Số người % 13,1 471 41 1483 31,9 1157 4,1 148 9,9 359 Số người 703 2367 1972 287 617 Tỉ lệ % 11,8 39,8 33,1 4,8 10,5
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Cao đẳng, đại học Chưa đi học và không xác định
5946 3618 100 100 100 Tổng số
2328 Nguồn: Báo cáo thống kê (ước tính) của xã, năm 2013
Khi tìm hiểu về việc học tập và định hướng nghề nghiệp cho con cái, đa
số chủ hộ gia đình trong làng nghề được hỏi trả lời: tùy vào khả năng học tập của
con cái chiếm 59,4% (303/515); học đến cao đẳng, đại học 25,8% (133/515) và
chỉ có 14,8% (76/515) cho học nghề truyền thống của làng ( xem Biểu 3.2 ).
Trong đó, quan điểm của chủ hộ gia đình làng nghề sơn mài Hạ Thái
cho con cái học nghề truyền thống chỉ có 4,5%, song làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm tỷ lệ này có tới 26%. Có thể giải thích sự khác biệt này như sau: nghề
đồ gỗ có khả năng tiếp tục phát triển do nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ của
các hộ gia đình Việt Nam vẫn tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đó nghề sơn mài có thể khó có nhu cầu phát triển như nghề đồ gỗ
bởi vì sản phẩm sơn mài ít là sản phẩm tiêu dùng, sinh hoạt trong các gia
đình. Việc mong muốn cho con vào cao đẳng, đại học cũng là một yếu tố làm
giảm sút động cơ học nghề và làm nghề truyền thống của gia đình.
14,8%
59,4%
25,8%
Học nghề truyền thống của làng
Học cao đẳng, đại học
Tùy khả năng của con cái
87
Biểu 3.2: Định hướng nghề nghiệp cho con cái
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Thực tế cho thấy ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, số các em học sinh thi
đỗ vào các trường cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp thường tìm kiếm được
công ăn việc làm, rồi thoát ly địa phương; còn ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
số tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp họ lại trở về làng nghề tiếp tục làm
nghề với tư duy của người có trình độ đã được đào tạo. Điều này rất tốt cho
sự phát triển của gia đình và của làng nghề. Khi tìm hiểu vấn đề này, tác giả
nhận được ý kiến của một Giám đốc Công ty đồ gỗ như sau:
Ở đây, rất nhiều người học cao đẳng, đại học xong không tìm được
việc làm ngay, thì trở về làng nghề tiếp tục sản xuất, kinh doanh,
nhưng số đó có tính toán tốt hơn, giao tiếp với khách hàng tốt hơn,
khi tạo dựng được cơ sở thì họ ở lại làm kinh tế gia đình, không có
ý định đi làm ở cơ quan, doanh nghiệp nữa. (PVS nam, Giám đốc
Công ty TNHH đồ gỗ V-Ph).
88
Còn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, qua khảo sát tác giả nhận thấy, đa số
các gia đình trong làng nghề quyết tâm cho con cái học tập để có một nghề
nghiệp nhất định. Họ cho rằng làm nghề sơn mài tương đối vất vả và độc hại.
Đối với nhóm thanh niên ở làng nghề thì cũng có tâm lý đi làm việc gì khác,
nếu không học được nghề khác thì họ mới làm nghề truyền thống của làng.
Tóm lại: Nhóm cư dân được coi trọng trong làng nghề vẫn là các thợ
giỏi, nghệ nhân. Nhiều thợ giỏi, nghệ nhân trẻ đang được phát triển, mặc dù
vẫn phải đối mặt với xu hướng chênh lệch giới tính trong các gia đình làm
nghề. Trong làng nghề có một nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng cho sự phát
triển nghề của làng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong làng vẫn còn hạn chế
nhiều về trình độ học vấn. Do vậy, để phát triển nghề và nâng cao trình độ tay
nghề, cần nâng cao trình độ học vấn của cư dân làng nghề.
3.4.2. Cấu trúc xã hội - gia đình
3.4.2.1.Cấu trúc xã hội - gia đình, theo quy mô gia đình
Quy mô gia đình là đơn vị đo lường dùng để chỉ độ lớn, nhỏ của gia
đình cho thấy số thành viên cùng chung sống trong một hộ gia đình, thông
thường gồm ông/bà, bố/mẹ, con cái và những thành viên khác. Quy mô gia
đình ở đồng bằng sông Hồng nói chung phụ thuộc chủ yếu số nhân khẩu trong
gia đình, trên cơ sở số lượng sinh của các cặp vợ chồng và kiểu sống chung
giữa các thế hệ. Tuy nhiên, thực tế đối với trường hợp hai làng nghề tác giả
nghiên cứu, quy mô gia đình làm nghề còn bị chi phối bởi cách thức tổ chức
lao động trong gia đình.
Kết quả khảo sát cho thấy, có sự đa dạng về số nhân khẩu trong các hộ
gia đình ở làng nghề: có hộ gia đình 1 người, có hộ gia đình 2-3 người, có hộ
gia đình 4-5 người và có cả hộ gia đình trên 6 người. Tỷ lệ hộ gia đình có 4-5
người chiếm 42,6%; hộ gia đình có từ 2-3 người chiếm 39,4%. Quy mô gia
đình giữa hai làng nghề có sự khác biệt về. Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái số
89
nhân khẩu trong hộ gia đình tập trung chủ yếu có 2-3 người chiếm 56,1%; 4-5
người chiếm 40,1%; hộ có 1 người và trên 6 người đều bằng 1,9% (Bảng 3.6).
Song, ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm số hộ gia đình có trên 6 người
chiếm đến 36,5%, cao hơn nhiều so làng nghề sơn mài Hạ Thái. Điều này
được lý giải do các yếu tố kinh tế - xã hội làng nghề và tâm lý xã hội của mỗi
làng nghề khác nhau. Theo truyền thống ở làng nghề sơn mài Hạ Thái quá
trình tách hộ diễn ra thường xuyên, khi bố mẹ xây dựng hạnh phúc cho con
trai hoặc con cái thì sau một thời gian ngắn, bố mẹ cho tách hộ ra ở riêng khỏi
gia đình bố mẹ để những cặp vợ chồng mới cưới trở thành những hộ gia đình
mới. Tâm lý bố mẹ thường muốn sống cùng một trong những người con của
họ, ở làng nghề sơn mài Hạ Thái bố mẹ thường sống với gia đình con trai cả.
Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái mình, gia đình nào có từ hai anh em
trai trở lên khi xây dựng gia đình xong, thì thường bố, mẹ cho ở
riêng để biết lo tính kinh tế, công việc làm nghề cũng bận, nhiều khi
đến nửa tháng mới đến nhà bố, mẹ thăm hỏi. (PVS, nam, 38 tuổi,
gia đình làm nghề Làng nghề sơn mài Hạ Thái).
Bảng 3.6: Cấu trúc xã hội - gia đình theo quy mô của làng nghề
Chung
Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số người trong hộ
16 105 328 259 708 Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ % Số hộ 20 586 420 20 1046
Tỷ lệ % 2.0 39.4 42,6 16,0 100
36 691 748 279 1754 1,9 56,1 40,1 1,9 100 1 người 2-3 người 4-5 người > 6 người Tổng
2,2 14,8 46,5 36,5 100 Nguồn: Số liệu báo cáo UBND 2 xã, năm 2013 Cấu trúc xã hội - gia đình của làng nghề như vậy, cho thấy rõ sự pha
trộn và cùng chung sống của các thành phần gia đình về mặt kinh tế và cấu
trúc, loại hình gia đình. Bên cạnh đó, đa số cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
90
có tâm lý muốn sống nhiều người cùng một hộ gia đình; mặt khác do cách
thức sản xuất đồ gỗ theo mô hình hộ gia đình phần nào cũng làm cho số nhân
khẩu trong gia đình nhiều hơn.
Thực tế tìm hiểu tại làng nghề, tác giả được biết có nhiều thanh niên
nam giới từ địa phương khác đến làng Vạn Điểm học nghề, làm thợ mộc, rồi
cưới vợ là người làng nghề. Tỷ lệ này chiếm 10% số hộ gia đình làm nghề.
Như vậy, có sự chuyển biến trong quan niệm cư dân làng nghề về việc hôn
nhân - gia đình; nghĩa là vẫn duy trì khuôn mẫu hôn nhân “hướng nội”, hôn
nhân trong nội bộ làng nghề, song đã có đan xen, bổ sung hôn nhân “hướng
ngoại”, người của làng nghề lấy chồng người ngoài làng. Điều này góp phần
làm phong phú, đa dạng cấu trúc xã hội - hôn nhân của làng nghề trong xã hội
đang “mở cửa” hiện nay.
Cùng nói về chủ đề gia đình khi phỏng vấn sâu chủ cơ sở sản xuất đồ
gỗ làng nghề Vạn Điểm được biết:
Số gia đình làng em ở cùng ông/bà khá nhiều, phần thì đất ở làng
không rộng so với các làng khác, ông/bà cũng không có điều kiện
để mua đất thêm cho con cái khi xây dựng gia đình, nên việc ở
chung, ăn chung là bình thường, hơn nữa công việc làm mộc suốt
ngày bận rộn nên ở cùng ông/bà có rất nhiều thuận lợi, ông bà nấu
cơm và trông nom các cháu, xưởng nhà em ở đây chủ yếu là dành
cho thợ, còn các cháu ở trong nhà trong làng cùng ông/bà. (PVS,
nữ, gia đình làm nghề đồ gỗ, làng nghề Vạn Điểm).
3.4.2.2. Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề
Đối với gia đình nghề, những người thợ làm nghề phần lớn là các thành
viên của gia đình như bố, mẹ, con trai, con gái ở độ tuổi lao động trong gia
đình, tức là các thành viên của gia đình đều có thể tham gia vào một hoặc
nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề nghiệp tùy theo trình độ tay nghề, giới
91
tính để làm những công việc phù hợp. Trong đó, thường chủ hộ gia đình là
người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành và giao dịch với
khách hàng và bạn nghề, gia đình nghề khác trong làng. Qua khảo sát cho
thấy, số người làm nghề truyền thống trong gia đình như sau: đa số có 2 người
làm nghề - chiếm 60,3%; 3 người làm nghề - chiếm 22,3%. Về cấu trúc nguồn
nhân lực của các gia đình làm nghề có sự khác nhau giữa hai làng nghề (xem
Bảng 3.7).
Bảng 3.7: Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề
Chung
Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
Loại hộ gia đình theo số người làm nghề
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số lượng 29 284 133 52 37 535 5,4 53,0 24,8 9,8 7,0 100 Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số lượng 45 576 185 71 12 889 5,1 64,8 20,8 8 1,3 100
Số lượng 74 860 318 123 49 1424
5,2 60,3 22,3 8,6 3,6 100 1 người 2 người 3 người 4 người 5 người Tổng
Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013
Như vậy, bảng 3.7 cho thấy cấu trúc - xã hội của gia đình nghề ở làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm trong đó cấu trúc gồm 2 người chiếm 53,0%; cấu trúc
gồm 3 người làm nghề chiếm 24,8% và chỉ có 5,4% số gia đình có 1 người làm
nghề. Đặc biệt, có 16,8% số hộ có 4-5 người làm nghề. Ở làng nghề sơn mài Hạ
Thái cấu trúc này có tỷ lệ như sau: có 2 người làm nghề là 64,8%, có 3 người
làm nghề là 20,8% và chỉ có 5,1% số hộ có 1 người làm nghề. Số gia đình có 4-5
người là 9,3%. Các số liệu này chứng tỏ cấu trúc xã hội - gia đình nghề có quy
mô lao động rất nhỏ bé và phù hợp với loại gia đình hạt nhân ít người.
Việc phân công lao động của các thành viên trong gia đình làm nghề
đương đối ổn định, đồng thời tạo nên công bằng giới giữa vợ và chồng trong gia
đình. Thông thường, người chồng làm những công việc cần có sức lực hơn, còn
92
người vợ làm công việc nhẹ nhàng hơn. Khi phỏng vấn sâu một gia đình làm
nghề đồ gỗ, được biết:
Các công đoạn sản xuất từ đầu vào đến đầu ra chủ yếu là người
chồng làm, còn ở các hộ trong làng thì thường là chồng làm, vợ đánh
giấy ráp. (PVS nữ, 1980, gia đình làm nghề, làng Vạn Điểm).
Khi tìm hiểu về chủ đề này, một hộ gia đình chuyên làm vóc cho công
nghề ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, cho biết một cách phân công lao động - hợp
tác bình đẳng có thể chấp nhận được:
Khi có hàng nhiều hoặc vội hàng, hai vợ chồng em có hôm làm vóc
đến tận 10 giờ đêm mới kịp để trả hàng, công việc vất vả nhưng đổi
lại làm nhiều thì gia đình lại có tiền công nhiều nên gia đình cảm thấy
chấp nhận được. (PVS, nam, 40 tuổi, chủ gia đình chuyên làm vóc,
làng Hạ Thái).
3.4.2.3. Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề
Về số thế hệ làm nghề truyền thống trong các gia đình nghề, tác giả
phát hiện thấy cấu trúc xã hội chủ yếu là gia đình 2 thế hệ, điều này có nghĩa
là nghề nghiệp được tái tạo, kế tục và phát triển từ thế hệ bố/mẹ sang thế hệ
con. Thực tế ở hai làng nghề, chủ sơ sở sản xuất hiện nay đa phần đã được
tiếp cận với nghề từ những năm học trung học phổ thông. Gia đình bố/mẹ làm
nghề nên khi đó ngoài thời gian đi học họ tiếp cận với nghề thông qua việc
đánh giấy ráp (làng nghề đồ gỗ), làm vóc, mài, đánh bóng (làng nghề sơn
mài) hoặc làm những việc nhẹ nhàng.
Do vậy, đến nay đa số chủ sơ sở sản xuất đều có trình độ tay nghề giỏi do
được học hỏi, tiếp thu nghề từ thế hệ bố mẹ. Điều đó, thể hiện sự tái cấu trúc xã
hội nghề nghiệp này từ thế hệ trước, họ kế thừa những kinh nghiệm, phương
thức sản xuất, những quy tắc trong nghề, đồng thời bổ sung những phương thức
mới giúp việc sản xuất kinh doanh tốt hơn. Số hộ gia đình 2 thế hệ ở làng nghề
93
đồ gỗ Vạn Điểm có tới 85% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng làm nghề, như vậy có
sự tiếp nối nghề truyền thống của làng (xem bảng 3.8).
Bảng 3.8: Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề
Chung
Số hộ Tỉ lệ %
Loại hộ gia đình Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Số hộ Tỉ lệ % Số hộ Làng nghề sơn mài Hạ Thái Tỉ lệ %
197 1105 122 1424 48 454 33 535 8,9 85.0 6,1 100 149 651 89 889 16,8 73,2 10 100 13,8 77.6 8,6 100 Một thế hệ Hai thế hệ Ba thế hệ Tổng
Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013.
Phỏng vấn sâu một cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết rõ mô
hình cấu trúc xã hội - hai thế hệ nghề của gia đình nghề như sau:.
Nhìn chung, ở làng nghề hiện nay, hầu hết gia đình nào mà ông chủ
quê ở đây, sinh những năm 1970 làm nghề mộc thì trước kia đều
làm cùng bố/mẹ, đến khi lập gia đình riêng thì vẫn làm nghề, bố/mẹ
cũng vẫn làm nghề, có thể gọi là nghề gia truyền cũng được. (PVS
nữ, 1980, gia đình làm nghề, làng Vạn Điểm).
Với truyền thống làng nghề sơn mài Hạ Thái, nghề nghiệp này được
lưu truyền qua nhiều thế hệ: có đến 73,2% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng làm
nghề, 10% hộ gia đình có 3 thế hệ cùng làm nghề, còn lại 16,8% số hộ có 1
thế hệ.
Hiện nay, đa số gia đình nghệ nhân ở làng nghề sơn mài Hạ Thái đều có 2
hoặc 3 thế hệ cùng gắn bó với nghề sơn mài như: gia đình nghệ nhân Nguyễn
Thị Hồi, gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Nhì, gia đình nghệ nhân Đỗ Văn
Thuân, v.v. Các nghệ nhân đã trên 55 tuổi hiện vẫn đang tiếp tục tham gia vào
quá trình phát triển làng nghề truyền thống trong địa phương và truyền lại cho
các thế hệ sau. Phỏng vấn sâu một Giám đốc công ty sơn mài, cho biết rõ đặc
trưng truyền thống gia đình nghề, hay nghề “gia truyền” này như sau:
94
Từ đời ông nội mình đã khai trương ra nghề sơn mài, nghĩa là khi
đó các cụ là những người thợ sơn mài, nhưng không mang tính chất
như bây giờ, hơn nữa khi đó là thời kỳ Pháp thuộc, các cụ chủ yếu
là làm đồ thờ cúng, đình chùa, sơn son thếp vàng hoặc làm các
hoành phi, câu đối, anh thấy các cụ kể lại là: năm 1954 các cụ rủ
nhau thành lập hợp tác xã sơn mài… tiếp đến đời bố mình là một
trong những người đầu tiên đưa chất liệu mới (bột giấy) vào sơn
mài của làng nghề Hạ Thái, mẹ mình là nghệ nhân sơn mài, năm
nay đã hơn 70 tuổi nhưng cụ vẫn say mê với nghề. (PVS nam, Giám
đốc Công ty TNHH sơn mài Th-S).
Trong các gia đình có từ hai thế hệ làm nghề trở lên, thế hệ sau tỏ ra rất
tự hào vì cha/ông họ đã để lại cho họ một nghề nghiệp tạo nên thu nhập chính
trong gia đình, bên cạnh nghề nông nghiệp.
Về mạng lưới xã hội trong cấu trúc xã hội - gia đình, tác giả tìm hiểu
qua câu hỏi: Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường ý kiến của ai
đầu tiên? Kết quả thu được cho biết: người được chủ cơ sở sản xuất ý kiến thứ
nhất người thân trong gia đình, chiếm 32,2% (166/515); thứ hai người có uy tín
trong dòng họ, có 27,6% (142/515); thứ ba các cán bộ, chính quyền, có 14,4%
(74/515) và tự chủ hộ cơ sở sản xuất, có 20,4% (105/515). Như vậy, trong cộng
đồng làng nghề, quan hệ gia đình, vai trò dòng họ vẫn được cư dân coi trọng và
phát huy nhiều nhất.
Tóm lại, trong các làng nghề vẫn có sự lưu truyền nghề truyền thống
qua các thế hệ, mặc dù đã có sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với
quy mô gia đình, khiến quy mô gia đình nhỏ đi và ít thế hệ, nhưng giữa các
thế hệ vẫn có mối liên hệ chặt chẽ, nhất là quan hệ “di truyền xã hội - nghề
nghiệp” từ thế hệ trước cho thế hệ sau trong hệ thống cấu trúc xã hội - gia
đình nghề.
95
Về vấn đề giới của làng nghề, mô hình nữ quyền hay nam quyền được
hình thành chủ yếu dựa trên mức độ lành nghề trong gia đình. Nam/nữ ở làng
nghề có thể kết hôn với người ngoài nghề, nhưng sau đó tất cả các thành viên
của gia đình lại cùng nhau phân công và hiệp tác một cách phù hợp để cùng
phát triển nghề truyền thống của gia đình. Điều đó khiến cho các ngành nghề
truyền thống được phát triển và lưu truyền qua nhiều thế hệ trong làng nghề.
3.4.3. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái đều nổi
tiếng cả trong nước và nước ngoài, bởi hai làng nghề đã đưa ra thị trường các
sản phẩm đồ gỗ và sơn mài có giá trị rất cao.
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm chuyên về đồ gỗ cao cấp, ngoài thị trường
trong nước, còn xuất khẩu đi các nước Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn
Quốc, v.v. Mỗi gia đình làm nghề đồ gỗ trong làng thường có những “bàn tay
tài hoa”, sức sáng tạo phong phú riêng đã làm ra những sản phẩm đặc trưng
của mỗi gia đình từ chủng loại như nội thất văn phòng, nội thất phòng khách,
nội thất phòng thờ, v.v, hoặc làm theo yêu cầu hoặc trên cơ sở các loại gỗ tự
nhiên khác nhau như: gỗ Hương, gỗ Gụ, gỗ Mun, gỗ Sơn huyết, v.v, đến gỗ
Nu, Nghiến, tạo nên chất lượng tốt, sự đa dạng về mẫu mã, sức cạnh tranh
cao, đồng thời là điểm du lịch văn hóa làng nghề. Theo ông Chủ tịch Hiệp hội
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm cho biết: để hoàn thiện một sản phẩm như ghế, tủ,
sập cần nhiều công đoạn mộc: pha, cắt, bào, chàng, đục đối với các loại gỗ
quý hiếm này. Tiếp đó, là đến công đoạn chạm khắc gỗ và khảm là những nét
tinh tế thể hiện bằng đôi bàn tay khéo léo, tạo nên những hình khối, dáng vẻ,
nét trang trí hoa văn độc đáo, sống động và gần gũi với đời thường.
Làng nghề sơn mài Hạ Thái có lịch sử phát triển khá sớm và được bắt
đầu từ nghề sơn thếp từ thế kỷ 18. Theo lịch sử địa phương, nghề sơn Hạ Thái
đã có từ trước khi xây dựng đình làng Hạ Thái vào năm 1780. Như vậy, nghề
96
sơn của làng nghề Hạ Thái đã có truyền thống trên 200 năm. Trải qua bao
thăng trầm, nghề sản xuất các mặt hàng từ sơn mài vẫn được các thế hệ cư
dân làng nghề gìn giữ, phát huy. Có thể nói nghề sơn mài nơi đây đã trở thành
một hoạt động sản xuất kinh doanh có tính nghệ thuật, do mỗi sản phẩm được
tạo nên đã chứa đựng sự công phu, cầu kỳ và nét tài hoa của người thợ thủ
công.
Đến nay, làng nghề sơn mài Hạ Thái có sự phong phú về sản phẩm và
hình thức sản xuất. Hiện nay, có khoảng 2.000 mẫu mã sản phẩm sơn mài các
loại. Những vật liệu được sử dụng vào sản xuất sơn mài rất đa dạng, nếu trước
đây cư dân làng nghề chỉ sử dụng cốt gỗ cho các sản phẩm, thì hiện nay ngoài
cốt gỗ còn có các cốt tre, nứa, bìa carton và còn dùng gốm sứ. Việc thay đổi
vật liệu trong sản xuất các sản phẩm nghề đã mang lại nhiều thay đổi tích cực.
Nói về vấn đề này, một giám đốc Công ty TNHH sơn mài cho biết:
Yếu tố chất liệu mới đã làm thay đổi cả sản phẩm làng nghề, bộ mặt
làng nghề, năm 2004 gia đình anh làm sơn mài trên cốt gốm, tiếp
đó ông bố anh tìm hiểu, kết hợp với chú bạn của bố anh đến làng
nghề ép mũ cối để đặt với họ làm cho một số khuôn, rồi về sơn mài
(PVS nam, Giám đốc Công ty TNHH sơn mài Th-S).
Làng nghề đã áp dụng nhiều kỹ thuật hiện đại vào việc pha chế, thay đổi
công đoạn phủ sơn, tạo cho sản phẩm độ bóng, bền và đẹp. Mỗi sản phẩm
thường tráng từ 15-16 lớp sơn thì mới đảm bảo được độ bóng và bền của sản
phẩm. Qua diền dã thực ở làng Hạ Thái, tác giả biết được người Hạ Thái
thường dùng loại sơn dầu hạt điều trộn với đất phù sa sông Hồng theo một tỉ lệ
nhất định để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo và làm bóng tùy theo
ý đồ mà người thợ ở từng nét vẽ, màu sắc, định hình trên cốt. Về việc thay đổi
loại sơn, tác giả phỏng vấn sâu một nghệ nhân trong làng cho biết thêm:
97
Trước đây làng làm sơn ta Phú Thọ, nay làm sơn hạt điều, giá
thành hạ phù hợp với khách hàng, sơn ta làm nhiều nước sơn, sau
mỗi lớp phải ủ vải màn ẩm, cho vào nơi kín, sơn điều thì làm ít
nước lại không phải ủ, thời gian hoàn thành một sản phẩm sơn ta
tính theo tháng, còn sơn điều thì tính theo ngày. Sơn ta rất bền với
thời tiết, ví dụ như mình làm thúng sơn, sơn gắn thuyền đi nước,
sản phẩm tranh sơn mài sơn ta thì có độ bền hàng trăm năm, sơn
điều thì thời gian ngắn hơn, hiện nay giá 1 kg sơn ta khoảng 300
nghìn, sơn điều 1 kg khoảng 100 nghìn đồng. (PVS, nữ, chủ cơ sở
sản xuất sơn mài H-Q).
Sản phẩm sơn mài bên cạnh chức năng sử dụng trong đời sống, còn
mang đậm nét văn hoá, xã hội và giá trị thẩm mỹ cao. Ở trong nước, sản
phẩm của làng nghề sơn mài Hạ Thái được tiêu thụ tại nhiều tỉnh, thành phố.
Thị trường xuất khẩu: Nhật, Mỹ, Đức. Pháp... Các sản phẩm sơn mài dòng
tranh như tranh Bác Hồ, tranh khảm trai, tranh đắp nổi, tranh cổ, tranh tĩnh
vật, tranh; lọ, hộp, khay, đèn, đĩa.
Hiện nay, trong tổng số 1.046 hộ gia đình ở làng nghề sơn mài Hạ Thái
có 889 hộ gia đình làm nghề sơn mài, chiếm 85%; 460 hộ chuyên nghề; 429
hộ kết hợp làm ruộng và làm nghề; 36 hộ gia đình trồng trọt và chăn nuôi.
Trong số 889 hộ làm nghề, có 15 công ty và doanh nghiệp sản xuất sơn mài
và có 104 hộ gia đình kết hợp làm vàng mã. Điều này phản ánh sự đa dạng
nghề nghiệp ở làng nghề.
98
Bảng 3.9: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của các hộ gia đình
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm Làng nghề sơn mài Hạ Thái Loại hộ gia đình
Số hộ 23 2 Tỉ lệ % 3,3 0,2 Số hộ 23 13 Tỉ lệ % 2,2 1,24
480 67,8 460 44
Chuyên trồng trọt Chuyên chăn nuôi Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thương mại, dịch vụ
105 47 14,8 6,6 91 30 8,7 2,86
51 7,2 429 41 Công chức, viên chức Kết hợp nông nghiêp và làm nghề truyền thống
708 100 1.046 100 Tổng
Nguồn: Số liệu báo cáo của UBND xã, năm 2013
Đối với cả hai làng nghề, số lượng các gia đình làm nghề nông nghiệp
chiếm tỉ trọng rất ít. Đây là một đặc trưng của cấu trúc các ngành kinh tế đã
chuyển dịch theo chiều hướng tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp. Qua điều tra cho thấy, việc giảm mạnh các hộ chuyên sản xuất
nông nghiệp là do cư dân trong làng không chú trọng phát triển kinh tế nông
nghiệp vì thu nhập rất thấp, mặt khác do việc chăn nuôi khó có thể tiến hành
song song với việc làm nghề cùng nơi ở của cư dân. Đây cũng là một đặc
trưng chuyên môn hóa của làng nghề.
Tuy nhiên, về sự phân hóa nghề nghiệp của các hộ gia đình ở hai làng
nghề, kết quả điều tra mẫu 515 hộ gia đình, có 70,7% các hộ gia đình làm
nghề truyền thống có kết hợp với nghề nông nghiệp. Điều này chứng tỏ nghề
gốc của cư dân làng nghề chủ yếu là nông nghiệp, nông dân. Số hộ gia đình
chuyên làm nghề truyền thống thoát ly khỏi nông nghiệp chỉ chiếm 11,8%.
(Biểu 3.3).
11,8%
17,5%
70,7%
Chỉ làm nghề truyền thống Làm nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
99
Biểu 3.3: Cư dân làng nghề phân nhóm theo nghề nghiệp của hộ
gia đình
Nguồn: Kết quả điều tra mẫu của đề tài, năm 2013.
Trong số những hộ gia đình không làm nghề truyền thống của làng, họ
làm nông nghiệp, buôn bán tạp hóa, xây dựng, thợ may, thợ cắt tóc, làm đồ
mã, làm đậu, giáo viên, công nhân, công chức.
Như vậy, đa số người dân trong làm nghề, đều có nghề gốc là làm nông
nghiệp, bên cạnh đó làm nghề truyền thống, những người công nhân xuất phát
từ nông dân, hay nói cách khác tiểu thủ công nghiệp ở làng nghề chưa hoàn
toàn tách ra khỏi nông nghiệp.
Có thể thấy, mô hình phát triển nghề truyền thống vẫn được lưu truyền
dưới dạng gia đình. Đã có sự xuất hiện của mô hình sản xuất lớn như các
công ty nghề, nhưng phần lớn trong làng các gia đình vẫn đang phát triển theo
mô hình gia đình nghề, điều đặc biệt các gia đình nghề vẫn coi nghề là “làm
thêm và kết hợp” cùng với nông nghiệp chứ không coi đó là một ngành nghề
cần phát triển mạnh. Điều đó dẫn đến nguy cơ bấp bênh về đầu ra đối với nhu
cầu của khách hàng và hạn chế về các đơn đặt hàng đối với các mặt hàng
trong nghề, khiến quy trình này diễn ra đứt đoạn và không được thường xuyên
tạo ra sự khó khăn trong việc duy trì và phát triển các nghề.
100
3.4.4. Cấu trúc xã hội - mức sống
Cấu trúc xã hội - mức sống của cư dân làng nghề được tác giả tìm hiểu
qua cách tự đánh giá của chủ hộ gia đình, bằng phiếu thu thập thông tin, kết
quả như sau: Có tới 36,9% tỉ lệ người trả lời ở mức sống khá giả, 0,7% ở mức
giàu. Như vậy, có hơn một phần ba các chủ hộ được hỏi tự đánh giá là mức
sống khá giả trở lên. Phần lớn người dân có mức sống trung bình 61,4% và
chỉ còn một phần nhỏ tỉ lệ người dân ở mức nghèo (1,0%). Có thể thấy rằng
mức sống của người dân tại hai làng nghề đạt ở mức cao, điều đó chứng tỏ sự
phát triển hiệu quả, nhanh chóng và vượt bậc hoạt động nghề nghiệp.
Bảng 3.10: Cấu trúc xã hội - mức sống của làng nghề
Chung Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ %
Mức sống gia đình, chủ hộ tự đánh giá Giàu có Khá giả Trung bình Nghèo Tổng Số hộ 3 48 153 - 204 Tỷ lệ % 1,5 23,5 75,0 - 100 - 109 108 4 221 - 49,3 48,9 1,8 100 3 157 261 4 425 0,7 36,9 61,4 1,0 100
Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013
Cấu trúc xã hội - mức sống, còn được tác giả luận án tìm hiểu qua hai
chỉ báo thu nhập và chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ
cở sản xuất. Trong luận án này, tác giả sử dụng cụm từ “nhóm thu nhập”,
“nhóm chi tiêu” nhằm đánh giá thực trạng cấu trúc xã hội - mức sống của cư
dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái. Các nhóm thu
nhập, nhóm chi tiêu ở đây được xác định là năm nhóm (ngũ nhị phân), nghĩa
là mỗi nhóm chiếm 20% tổng số các hộ gia đình (chủ hộ gia đình). Cụ thể
cách xác định ngũ nhị phân về thu nhập hoặc chi tiêu như sau: các hộ gia đình
được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm 20% theo mức thu nhập bình (hoặc mức
101
chi tiêu) trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất từ cao
nhất (nhiều nhất) xuống thấp nhất (ít nhất).
Tương ứng mỗi nhóm 20% có mức thu nhập cao nhất từ trên xuống
dưới, tác giả gọi là nhóm I (cao nhất); nhóm 20% có mức thu nhập trung bình,
gọi là nhóm III (trung bình); nhóm 20% có mức thu nhập thấp nhất, gọi là
nhóm V (thấp nhất). Nhóm II là nhóm có thu nhập trên trung bình; nhóm IV
là nhóm có thu nhập dưới (xem bảng 3.11). Tương ứng mỗi nhóm 20% có
mức chi tiêu nhiều nhất đến nhóm có mức chi tiêu ít nhất, tác giả gọi là nhóm
1 (nhiều nhất), nhóm 3 (trung bình) và nhóm 20% có mức thu nhập thấp nhất,
gọi là nhóm 5 (ít nhất). Nhóm 2 là nhóm có mức chi tiêu trên trung bình và
nhóm 4 là nhóm có mức chi tiêu dưới trung bình (xem bảng 3.12).
Kết quả điều tra chọn mẫu 515 hộ gia đình (N = 515). Trong đó 425 hộ
gia đình làm nghề (cơ sở sản xuất) truyền thống (N = 425), được biết: Trong
các nhóm thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản
xuất làm nghề truyền thống đều cao hơn so với mức thu nhập trung bình một
tháng của các chủ hộ gia đình trong làng nghề.
Cụ thể, kết quả điều tra cho biết (bảng 3.11), mức thu nhập trung bình
của các chủ hộ gia đình trong làng nghề là 5.744.077,67 đồng/tháng (độ lệch
chuẩn là 4.008.893,187 đồng/tháng). Mức thu thập trung bình của chủ hộ gia
đình làm nghề truyền thống là 6.227.764,71 đồng/tháng (độ lệch chuẩn là
4.211.342,61 đồng/tháng). Mức thu nhập bình quân một tháng của chủ hộ gia
đình cao nhất là 40.000.000 đồng/tháng và mức thấp nhất là 1.000.000
đồng/tháng.
Khi tìm hiểu về sự khác biệt giữa thu nhập bình quân của chủ hộ gia
đình, một chủ cơ sở sản xuất sơn mài cho biết:
Dù sao đi nữa, ở gia đình làm nghề không giàu như ông chủ công
ty, song nghề của các cụ để lại cũng đủ nuôi sống gia đình và cho
102
các con ăn học. Mặt khác, công việc cũng đều đều, quanh năm, so
với các nghề khác trong làng như thợ xây, bán hàng tạp hóa, hay
những người chỉ làm ruộng thì làm nghề sơn mài có thu nhập cao
hơn, nhưng vất vả, độc hại hơn. (PVS, nam, chủ hộ gia đình nghề,
làng Hạ Thái).
Bảng 3.11: Mức thu nhập trung bình một tháng của chủ hộ
gia đình, chủ cơ sở sản xuất
Đơn vị: Đồng/tháng
Mức thu nhập trung bình của chủ hộ gia đình
5 nhóm thu nhập
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Chung cả 5 nhóm
Tổng số
Chung các hộ gia đình 11.776.699,03 7.134.951,46 4.474.757,28 3.116.504,85 2.217.475,73 5.744.077,67 (N = 515)
Gia đình làm nghề truyền thống 12.541.176,47 7.652.941,18 5.296.470,59 3.205.882,35 2.442.352,94 6.227.764,71 (N = 425)
Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013
Bảng 3.11 cho thấy, mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ
các gia đình trong làng nghề ở nhóm I (cao nhất) là 11.776.699,03
đồng/tháng. Mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ các gia đình
nhóm V (thấp nhất) là 2.217.475,73 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai
nhóm này là 5,31 lần.
Trong khi đó, đối với các gia đình làm nghề truyền thống, mức thu
nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm I (cao nhất) là 12.541.176,47
đồng/tháng. Mức thu nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm V (thấp
nhất) là 2.217.475,73 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là
5,13 lần.
103
Những năm gần đây, cấu trúc xã hội - mức sống về chi tiêu của cư dân
làng nghề được đa số (75,4%) cư dân làng nghề đánh giá “chi tiêu tốt hơn”,
hiệu quả tốt hơn. Mức chi tiêu có thể biểu hiện qua mức chi tiêu trung bình
một tháng của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất. Cụ thể, ở cả năm nhóm chi
tiêu, có sự chênh lệch giữa hộ gia đình làm nghề truyền thống với mặt bằng
chung của các hộ gia đình trong làng nghề ( xem Bảng 3.12).
Bảng 3.12: Mức chi tiêu trung bình một tháng của chủ hộ gia đình,
chủ cơ sở sản xuất
Đơn vị: Đồng/tháng
5 nhóm chi tiêu
Nhóm 1 (nhiều nhất) Nhóm 2 Nhóm 3 (trung bình) Nhóm 4 Nhóm 5 (ít nhất) Chung cả 5 nhóm
Tổng số Mức chi tiêu trung bình của chủ hộ gia đình Gia đình làm nghề Chung các hộ gia đình truyền thống 8.123.529,41 5.388.235,29 3.870.588,24 2.780.000,00 2.042.352,94 4.440.941,18 (N = 425) 7.781.553,40 5.029.126,21 3.378.640,78 2.672.815,53 1.849.514,56 4.142.330,10 (N = 515)
Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013
Kết quả điều tra cho biết, mức chi tiêu trung bình của các chủ hộ gia
đình trong làng nghề là 4.142.330,10 đồng/tháng (độ lệch chuẩn là
2.440.704,276 đồng/tháng). Mức chi tiêu trung bình của chủ hộ gia đình làm
là lệch chuẩn nghề truyền thống là 4.440.941,18 đồng/tháng (độ
2.532.593,022 đồng/tháng). Mức chi tiêu bình quân một tháng của chủ hộ gia
đình cao nhất là 25.000.000 đồng/tháng và mức thấp nhất là 800.000
đồng/tháng.
Bảng 3.12 cho thấy, mức chi tiêu trung bình của nhóm 20% chủ hộ các
gia đình ở nhóm 1 (nhiều nhất) là 7.781.553,40 đồng/tháng. Mức chi tiêu
104
trung bình của nhóm 20% chủ hộ các gia đình nhóm V (ít nhất) là
1.849.514,56 đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là 4,2 lần.
Các hộ gia đình làm nghề truyền thống, mức chi tiêu trung bình của
nhóm 20% chủ hộ nhóm 1 (nhiều nhất) là 8.123.529,41 đồng/tháng. Mức thu
nhập trung bình của nhóm 20% chủ hộ nhóm 5 (ít nhất) là 2.042.352,94
đồng/tháng. Chênh lệch thu nhập của hai nhóm này là 3,98 lần.
Như vậy, có tỷ lệ thuận giữa thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình,
mức thu nhập trung bình của chủ hộ càng cao thì mức chi tiêu trung bình của
chủ hộ càng cao.
Xem xét cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề, qua
câu hỏi “Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt
động nào?”, kết quả thu được như sau:
Bảng 3.13: Cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình làng nghề N = 515
Tỷ lệ % Cơ cấu chi phí
1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ 3. Đào tạo nghề cho thợ 4. Ăn uống, sinh hoạt 5. Du lịch, giải trí 6. Chăm sóc sức khoẻ và y tế Số chủ hộ gia đình (trả lời có) 371 138 83 436 224 286 72,0 26,8 16,3 84,7 43,5 55,5
Nguồn: Số liệu điều tra chọn mẫu của đề tài, năm 2013
Trong cơ cấu chi tiêu hàng năm của các hộ gia đình, mức độ chi tiêu
nhiều nhất là chi cho ăn uống, sinh hoạt hàng ngày - chiếm 84,7% số chủ hộ
gia đình trả lời. Tiếp đó là chi cho sản xuất kinh doanh - chiếm 72%, tỷ lệ này
phần nào phản ảnh đặc trưng của làng nghề. Bên cạnh đó, cư dân làng nghề còn
chi cho chăm sóc sức khỏe, y tế. Ở các hộ gia đình gia đình là 16,3% (hộ gia
đình nghề 17,2% (73/425) chủ hộ gia đình trả lời chi phí cho việc đào tạo thợ.
105
Khi hỏi về mức độ thay đổi cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề ở một
số khía cạnh, qua việc chủ hộ gia đình, cơ sở sản xuất “tự đánh giá cuộc sống
của gia đình so với 5 năm trước đây”, kết quả điều tra như sau:
Bảng 3.14: Tỉ lệ tự đánh giá mức độ thay đổi một số khía cạnh của
đời sống gia đình so với 5 năm trước
Đơn vị tính: % (N = 515)
Nội dung
1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 4. Vui chơi giải trí, du lịch 5. Việc học tập để nâng cao trình độ 6. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 7. Việc học hành của trẻ em 8. Quan hệ xã hội 9. Điện thắp sáng 10. Nước sinh hoạt 11. Điều kiện vệ sinh, môi trường 12. Trật tự an ninh 13. Nhà ở Tốt hơn Như cũ Kém đi 20,0 24,7 21,8 26,4 27,6 17,9 23,5 37,7 38,1 46,4 38,8 51,5 44,9 73,4 72,0 75,4 69,5 70,8 79,2 73,7 60,4 58,1 50,7 42,1 46,4 53,2 6,6 3,3 2,7 4,1 1,6 2,9 2,7 1,9 3,7 2,9 19,0 2,1 1,9
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài, năm 2013
Bảng 3.14 cho thấy có sự thay đổi về mức sống tốt hơn ở các lĩnh vực
việc làm 73,4%, thu nhập 72,0%; các quan hệ xã hội 60,4%. Đặc biệt là điều
kiện chăm sóc sức khỏe của cư dân làng nghề được nâng nên rõ rệt: 79,2% số
người được hỏi cho đánh giá các điều kiện này “tốt hơn” so với 5 năm trước.
Điều kiện vệ sinh, môi trường làng nghề chưa có chuyển biến tốt: có 38,8% ý
kiến được hỏi đánh giá “như cũ” và có đến 19% cho rằng “kém đi”.
Cùng chủ đề này, khi phỏng vấn sâu Chủ tịch UBND xã Vạn Điểm,
tác giả biết rõ hơn về mức sống ngày càng cao của người dân ở làng nghề,
cụ thể như sau:
106
Từ sự phát triển làng nghề thì đời sống người dân càng ngày một
cao, người dân mua sắm ti vi đời cao, tủ lạnh, điều hòa cao cấp.
Nhiên liệu đun chủ yếu là ga, vì nhóm củi lửa mất công nhiều, thực
tế làng nghề làm chế biến gỗ nhưng hiện nay ít hộ đun vỏ bào, mùn
cưa. Nhiều nơi khác đến mua vỏ bào, gỗ vụ về đun. Các ông, các bà
có tuổi thì tích cực đi chùa, ít khi ở nhà cùng các con để giành thời
gian cho các con làm nghề, còn tiền để tiêu thì các con có nghĩa vụ
đóng góp với bố mẹ. (PVS, ông Ngô Văn D, Chủ tịch UBND xã
Vạn Điểm).
Tóm lại, trong quá trình phát triển chung của xã hội, cùng phát triển
nông thôn mới, mức sống của cư dân làng đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề làng
sơn mài Hạ Thái được nâng cao. Qua đó đã tạo công ăn việc làm, tăng thu
nhập. Hay nói cách khác, nhờ làm đồ gỗ và làm nghề sơn mài đời sống của cư
dân làng nghề đã được cải thiện và trở nên khá giả, bộ mặt nông thôn đã được
đổi mới, nhiều hộ gia đình đã trở thành cơ sở sản xuất làm ăn phát đạt. Thu
nhập chính của các hộ gia đình làng nghề chủ yếu từ việc làm nghề truyền
thống cao hơn so với làm nông nghiệp và làm những nghề khác.
3.5. PHÂN TÍCH MÔ HÌNH CÔNG TY NGHỀ VÀ MÔ HÌNH GIA ĐÌNH
NGHỀ CỦA LÀNG NGHỀ GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI
3.5.1. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: mô hình gia đình nghề
Trong mô hình gia đình nghề thường có ít nhất một thành viên, thường
là chủ hộ gia đình chuyên sản xuất, kinh doanh một nghề nghiệp nhất định,
nhưng chưa đăng ký với các cơ quan chức năng để hoạt động dưới hình thức
một công ty hay một doanh nghiệp. Một đặc trưng nghề của mô hình gia đình
nghề, là thu nhập của gia đình phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động nghề nghiệp
của ít nhất một thành viên làm nghề trong gia đình, mà các nguồn thu nhập
khác của gia đình chỉ mang tính chất phụ thêm. Một đặc trưng nữa của mô
107
hình gia đình nghề, là việc huy động các thành viên khác của gia đình tham
gia dưới hình thức này hoặc hình thức khác trong khung thời gian không gian
đặc trưng là của gia đình, ví dụ mặt bằng sản xuất đồng thời là mặt bằng sinh
hoạt hàng ngày của gia đình.
Làng nghề luận án nghiên cứu, đặc trưng bởi đa số các hộ gia đình của
làng là hộ gia đình nghề, có thể gọi ngắn gọn là “gia đình nghề”. Làng nghề
đồ gỗ Vạn Điểm, đa số các hộ gia đình đều làm nghề đồ gỗ chiếm tới 75% hộ
gia đình là hộ gia đình nghề. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng nghề
được hình thành và phát triển theo thời gian từ Đổi mới năm 1986 đến nay.
Cụ thể là: có tới 86% hộ gia đình có thâm niên làm nghề từ 10 năm trở lên,
9% hộ gia đình làm nghề từ 5-9 năm và 5% hộ gia đình làm nghề dưới 5 năm
(xem Bảng 3.15). Điều này chứng tỏ, đa số các hộ gia đình làm nghề trong
thập niên đầu của thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, trong đó có 10% hộ gia
đình làm nghề ngay trong thời gian đầu của Đổi mới. Khi đó kinh tế hợp tác
xã bị suy yếu và tan rã, đồng thời Nhà nước ban hành luật khuyến khích sản
xuất - kinh doanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường, tức là
làm những gì mà Nhà nước không cấm và thị trường có nhu cầu.
Bảng 3.15: Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, theo thâm niên của gia đình nghề
Chung Mẫu nghiên cứu Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
Loại hộ gia đình theo thâm niên làm nghề Tỉ lệ % Làng nghề sơn mài Hạ Thái Số hộ Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Số hộ Số hộ Số hộ
14,2 76 407 76,1 9,7 52 100 535 279 545 65 889 31,3 61,4 7,3 100 355 952 117 1424 25,0 66,8 8,2 100 89 289 47 425 20,9 68,0 11,1 100 Dưới 10 năm 10-20 năm Trên 20 năm Tổng
Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài, năm 2013
108
Tuy nhiên, để thích ứng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình
gia đình nghề liên tục được kế thừa, hoạt động, tái tạo và biến đổi như sau:
Làng nghề sơn mài Hạ Thái cũng có đặc trưng bởi đại đa số các hộ gia
đình của làng làm nghề sơn mài. Hiện nay, ở làng sơn mài Hạ Thái có đến
85% hộ gia đình, cơ sở sản xuất sơn mài. Quá trình hình thành nghề sơn mài
Hạ Thái, từ một làng nông nghiệp trở thành một làng nghề được đánh dấu qua
những mốc thời gian chính như sau: năm 1925, Trường cao đẳng Mỹ thuật
Đông dương được người Pháp thành lập, trường có khoa sơn dạy làm đồ mỹ
nghệ, nghệ nhân Đinh Văn Thành được mời tham gia giảng dạy, ông đã dùng
sơn ta để vẽ phong cảnh. Từ đó, sơn mài của làng nghề thực sự bước vào lĩnh
vực hội họa. Cho đến trước năm 1954 làng nghề đã nổi tiếng bởi số ít gia đình
thuộc các dòng họ: Đinh, Trần, Nguyễn, Đỗ, v.v. làm nghề. Theo một số
người cao tuổi trong làng kể lại, lúc đó làng có khoảng 15% cư dân trong làng
tham gia làm nghề sơn mài và bây giờ là 85%:
Lúc đầu cụ Đinh Văn Thành truyền nghề cho hai người em ruột làm
trong tổ hợp sơn mài đầu tiên, hai ông đó lại chơi thân với ông bố
vợ nhà tôi do vậy có thể nói cụ Đinh Văn Thành là một trong những
người thầy dạy nghề và truyền nghề sơn mài cho dân làng, lúc bấy
giờ ông bố vợ nhà mình đang làm chủ nhiệm hợp tác xã sơn mài.
(PVS nam, chủ cơ sở sản xuất sơn mài làng Hạ Thái).
Đến thời kỳ bao cấp, số cư dân làm nghề tăng lên khoảng 20% (chủ yếu
làm tại hợp tác xã Thủ công mỹ nghệ cao cấp Bình Minh với khoảng 600
người thợ). Từ năm 1986 trở lại đây, nghề sơn mài nơi đây rất phát triển, đã
thúc đẩy việc chuyển đổi cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, như số hộ gia đình
tăng, số lao động làm nghề sơn mài cũng tăng, đồng thời giảm số gia đình và
số lao động làm nông nghiệp. Điều này thể hiện qua việc có tới 61,4% gia
109
đình nghề có thâm niên làm nghề từ 10 -20 năm, 3% hộ gia đình làm nghề từ
trên 20 năm và 35,6% hộ gia đình làm nghề dưới 10 năm.
Kết quả khảo sát cho thấy, các quan hệ xã hội trong làng nghề thay đổi
theo cùng sự phát triển xã hội của nghề sơn mài. Thời kỳ đầu thế kỷ XX cư
dân làng Hạ Thái chủ yếu làm nghề ngay tại gia đình, khi có khách hàng đến
thuê sửa chữa đồ thờ thì đến tìm gia đình nghề ở địa phương để làm. Gia đình
nghề có làm ra sản phẩm, nhưng rất ít khi mang ra chợ bán. Cư dân gọi hàng
bán ngoài chợ là “hàng chợ”, còn có khách đặt theo yêu cầu gọi là “hàng
thửa” và người làm hàng thửa có uy tín hơn làm hàng chợ và hàng thửa cũng
có giá cao hơn hàng chợ. Hệ thống xã hội làng nghề lúc đó mang tính chất thụ
động, chức năng gắn kết các cá nhân người thợ, các nhóm (dòng họ) chủ yếu
thông qua các mối quan hệ đơn giản như ai mượn thợ thì đi làm, ai thuê thì đi
làm. Khi đó, nghề sơn mài chưa có chức năng như một tiểu hệ thống kinh tế
trong gia đình, không phải là nguồn thu nhập chủ yếu, mà chỉ là công việc
phụ lúc nông nhàn, do vậy khái niệm đầu tư cho sản xuất kinh doanh chưa rõ.
Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, kéo theo quy
mô sản xuất, phương thức tổ chức lao động, đặc biệt các giá trị, chuẩn mực ở
làng nghề sơn mài Hạ Thái chuyển biến. Cư dân làng nghề đã xác định sản
xuất sơn mài gắn với kinh doanh, nhiều hộ gia đình liên kết với nhau thành
một chuỗi giá trị trong sản xuất, hình thành nhiều tổ chuyên sản xuất và công
ty nghề ra đời. Trong khi đó mô hình gia đình nghề vẫn tiếp tục được hình
thành, tái tạo và hoạt động với các biểu hiện đáng chú ý như sau:
Về trình độ tay nghề
Đội ngũ chủ hộ gia đình nghề hiện nay tại làng nghề, đa số đều là
những thợ nghề có trình độ cao. Từ sự tiếp nhận nghề nghiệp truyền thống
qua nhiều thế hệ và rất sớm, nên các chủ hộ nghề đều đạt được trình độ tinh
xảo trong nghề, đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của nghề và thị trường.
110
Đặc biệt, không chỉ có nam giới tham gia sản xuất và làm chủ hộ gia đình
nghề mà cả nữ giới cũng sản xuất, có trình độ tay nghề cao, đồng thời làm chủ
hộ gia đình nghề. Cấu trúc này gồm chủ hộ gia đình là nữ cả hai làng nghề
theo mẫu nghiên cứu chiếm tới 15% (81 gia đình) và nam chiếm 85% (454
gia đình).
Được kế thừa những bí quyết và kinh nghiệm quý báu của các thế hệ
cha/anh đi trước, nhìn chung đội ngũ thợ ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng
nghề sơn mài Hạ Thái đại đa số là thợ lành nghề và có kỹ thuật cao, đặc biệt
làng nghề sơn mài Hạ Thái hiện nay có 5 nghệ nhân (trong đó có 1 nghệ nhân,
nam giới, sinh năm 1982), những người thợ sơn mài tài hoa của cả làng nghề.
Về hệ giá trị và quy tắc phân công lao động của gia đình nghề
Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm: Sở dĩ có tỷ lệ nam chủ hộ gia đình nghề
cao hơn so với nữ là do đặc trưng làng nghề đồ gỗ, đồng thời với cấu trúc xã
hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng nói chung và làng nghề đồ gỗ
Vạn Điểm nói riêng thì vai trò nam chủ hộ gia đình vẫn là nét đặc thù trong
việc tổ chức sản xuất, lao động của cuộc sống gia đình. Nam giới thường là
người đại diện cho các thành viên trong gia đình tham gia các công việc của
dòng họ, cộng đồng. Nói cách khác, hệ giá trị nghề nghiệp nói chung và hệ
giá trị phân công lao động ở nông thôn vẫn giành cho nam giới vị thế là chủ
hộ gia đình nghề. Điều này, thể hiện rõ ở cấu trúc phân công lao động nghề
của gia đình nghề như sau: Đa số trong các gia đình nghề, vị thế ông, bà đã
ngoài độ tuổi lao động, nên không sản xuất trực tiếp mà chỉ giữ vai trò chỉ
đạo, định hướng làm ăn. Thường thì con trai (người chồng) trực tiếp sản xuất,
quản lý và hướng dẫn thợ thi công. Trực tiếp thực hiện những công đoạn khó,
đòi hỏi trình độ tay nghề cao; trực tiếp đi chọn, và mua gỗ, v.v, làm các việc
liên quan đến yếu tố đầu vào của sản phẩm. Con dâu (người vợ), tham gia
quản lý bán hàng, tiếp xúc với khách hàng, thỏa thuận giá cả, tham gia một
111
vài công đoạn của quy trình sản xuất phù hợp với phụ nữ. kết hợp làm công
việc nội trợ, chăm sóc bố, mẹ và kèm cặp con cái. Người vợ nắm giữ thu, chi
trong gia đình và trong sản xuất nghề.
Kết quả nghiên cứu làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, sản xuất mô hình gia
đình nghề nhưng hoạt động, tính chất như công ty. Gia đình nghề bên cạnh
những quan hệ kiểu cũ không thay đổi như quan hệ giữa ông/bố và con/cháu,
quan hệ giữa vợ và chồng còn kết hợp với các chủ thể sản xuất kinh doanh
bên ngoài gia đình.
Một số gia đình nghề ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm còn thuê “osin”
giúp việc gia đình và bán hàng. Người giúp việc biết tiếng Trung Quốc, nên
rất thuận cho việc bán sản phẩm sang thị trường Trung Quốc.
Người giúp việc để bán hàng, sinh năm 1973, giúp việc nhà đã đi lao
động ở Đài Loan, người huyện Phú Xuyên, 1 chồng, 2 con trai, sáng
7 giờ 30 đến, tối 5 giờ 30 về. trả gia đình trả cho chị ấy 3 triệu/tháng
và nuôi ăn trưa. (PVS, nữ, gia đình nghề làng Vạn Điểm).
Điều này cho thấy, phát triển kinh tế làng nghề đã góp phần chuyển
biến tư duy của cư dân làng nghề.
Vận dụng cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens, tác giả luận
án tìm hiểu các quy tắc của cấu trúc xã hội - gia đình nghề gỗ Vạn Điểm.
Khảo sát thực địa phát hiện thấy một số quy tắc bất thành văn vẫn đang được
vận hành và phát huy tác dụng ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Cụ thể là:
Quy tắc về thanh toán và giao dịch nghề: khách hàng thường đến tận
cơ sở sản xuất của gia đình nghề để xem hàng, nếu khách hàng thấy hài lòng
với sản phẩm thì thực hiện mua bán trực tiếp tại đó luôn. Khách hàng có thể
đặt cọc một phần rồi kí tên vào sản phẩm, sau khi giao hàng tận nhà thì sẽ
thanh toán nốt phần còn lại. Chủ hộ gia đình nghề cam kết giao hàng đúng sản
phẩm khách hàng đã mua.
112
Quy tắc về vận chuyển và giao nhận: tiền vận chuyển được thống nhất
trong quá trình mua bán; Khi giao nhận không đúng như sản phẩm đã chọn và
kí tên của khách hàng thì cơ sở sẽ hoàn trả lại tiền và bồi thường.
Quy tắc về bảo hành: như cơ sở sản xuất sẽ bảo hành sản phẩm theo
thời gian tùy thuộc vào loại hàng, có hỏng hóc hay cong vênh cơ sở sẽ cho
thợ đến chỉnh sửa, v.v. Các công đoạn quan trọng và tiền công cao thường do
ông chủ cơ sở sản xuất, chủ hộ gia đình hoặc anh em, họ hàng trực tiếp làm.
Cấu trúc xã hội của gia đình nghề ở làng nghề sơn mài Hạ Thái.
Hiện nay, ngoài nguồn lực lao động của hộ gia đình, gia đình nghề còn
có số lao động làm thuê cho gia đình, với hình thức thuê thời vụ hoặc thuê
thường xuyên phụ thuộc vào khối lượng công việc và lượng đặt hàng của
khách hàng, bình quân các gia đình trong làng nghề thuê từ 2 đến 5 người, theo
quy tắc là khoán sản phẩm cho người lao động đối với công đoạn đơn giản và
tính theo ngày công làm đối với công đoạn yêu cầu kỹ thuật cao; quy tắc phải
có tính kiên trì của người thợ sơn mài; Quy tắc trả sản phẩm đúng thời gian hợp
đồng của gia đình nghề. Người thợ sơn Hạ Thái đã bao đời nay pha sơn theo
kinh nghiệm cổ truyền. Tuy nhiên, trong sản xuất đồ sơn mài hiện nay, họ đã
áp dụng kỹ thuật hiện đại để pha chế, thay đổi một vài công đoạn phủ sơn
nhằm giảm bớt thao tác thừa, tạo ra loại sơn mới có độ bóng, bền, đẹp.
Sự kết hợp giữa các loại nguồn lực và các hệ giá trị, quy tắc làm nghề
của hộ gia đình nghề như vừa nêu có nhiều thuận lợi đối với những gia đình
nghề để thích nghi với môi trường kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi kể từ
khi Đổi mới năm 1986 đến nay. Áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã
hội của Parsons, có thể coi gia đình nghề như một hệ thống xã hội trong đó có
tiểu hệ thống thực hiện những chức năng nhất định nhằm phát huy các lợi thế
của các nguồn lực và các quy tắc để vạch ra mục đích kinh doanh, thực hiện
các hoạt động sản xuất và các hoạt động kết nối, đoàn kết nội bộ gia đình và
113
đoàn kết với các gia đình nghề khác trong cộng đồng làng nghề, đồng thời học
hỏi, tiếp thu và bảo lưu, duy trì các kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu của các
thế hệ trước.
Đặc biệt những gia đình nghề có thể sử dụng các nguồn lực của gia
đình như mặt bằng sản xuất, tranh thủ được thời gian tại nhà, kết hợp cả làm
việc nội trợ trong nhà, kèm cặp con cái. Điều này có nghĩa là với tính cách là
một hệ thống xã hội - bốn chức năng theo lý thuyết của Parsons, các thành
viên của gia đình như là các tiểu hệ thống thực hiện các hoạt động nhằm đáp
ứng các yêu cầu đặt ra từ cả hệ thống làng nghề. Tuy nhiên, gia đình nghề là
một hệ thống xã hội chưa được phân hóa ở trình độ cao, nên một thành viên ví
dụ như một phụ nữ có thể cùng lúc vừa thực hiện các chức năng kinh tế và
vừa thực hiện các chức năng văn hóa là duy trì các giá trị truyền thống gia
đình vừa chăm sóc, giáo dục con cái và vừa cùng chồng quản lý sản xuất kinh
doanh và thực hiện các hoạt động đối nội, đối ngoại của gia đình.
Tóm lại, mô hình cấu trúc gia đình nghề đặc trưng cho làng nghề truyền
thống ở Việt Nam nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng. Mức độ phân
công lao động xã hội và mức độ chuyên môn hoá ở các gia đình nghề cao,
một số gia đình chỉ làm một bộ phận của sản phẩm. Việc áp dụng cả lý thuyết
của Parsons về hệ thống xã hội và lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens đã giải
thích sự vận hành của gia đình nghề với tính cách là hệ thống xã hội và cấu
trúc xã hội.
3.5.2. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: mô hình công ty nghề
Trong làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái công ty
nghề được hiểu là tổ chức kinh tế có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật và hoạt động theo quy định pháp luật về tổ chức kinh tế, doanh nghiệp.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở làng nghề tập trung chủ yếu tại các hộ
gia đình như đã phân tích ở trên, tuy nhiên trên thực tế đã xuất hiện một số
114
công ty nghề với mô hình sản xuất kinh - doanh theo kiểu hiện đại, nhưng
phải thích nghi với môi trường làng nghề với không ít thách thức và cơ hội
cần được nghiên cứu làm rõ.
Cấu trúc xã hội công ty nghề và cấu trúc xã hội gia đình nghề có nhiều
đặc điểm khác nhau, nhưng đều gắn bó mật thiết với xã hội nông thôn qua
việc sử dụng các nguồn lực: mặt bằng sản xuất, nguyên liệu, lao động, thị
trường và các nguồn lực khác. Do vậy, sản phẩm đồ gỗ của công ty nghề
thường là kết quả của sự liên kết giữa công ty và gia đình hoặc là những công
ty, cơ sở sản xuất vệ tinh ở địa phương khác.
Về nguồn lực của công ty nghề
Cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens đòi hỏi phải phân tích
các nguồn lực và các quy tắc mà công ty nghề sử dụng để tạo ra cấu trúc xã
hội của công ty nghề và không ngừng tái tạo cấu trúc. Lý thuyết của Parsons
giúp xem xét cách thức mà các thành tố của công ty nghề với tính cách là một
hệ thống xã hội đã phân hóa và phát triển ở trình độ cao hơn hệ thống gia đình
nghề trong việc phân hóa cấu trúc và tái cấu trúc của công ty nghề. Tuy nhiên,
cũng cần thấy rằng trong bối cảnh làng nghề ở nông thôn, công ty nghề đang
hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa, sử dụng và phát huy các thế mạnh
của cấu trúc xã hội của gia ðình nghề nhằm đáp ứng các yêu cầu chức năng từ
môi trường sản xuất kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp. Do vậy, cả
nguồn lực và cả quy tắc mà công ty nghề huy động và sử dụng đều có những
điểm giống và khác với nguồn lực và quy tắc của gia đình nghề. Có thể thấy
rõ điều này từ những dữ liệu thu được trong khảo sát thực địa. Cụ thể như
sau:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình công ty nghề cũng có tính chất
gia đình và cũng bị ràng buộc bởi các quan hệ trong gia đình, quan hệ làng -
xã. Thực chất công ty nghề mang đậm nét quan hệ gia đình. Nguồn lao động
115
của công ty có tuyển lao động ở địa phương khác, song số thành viên trong
gia đình, họ hàng chiếm đến khoảng một phần tư số lao động trong công ty. Ở
mô hình công ty này có thể ông bố làm giám đốc công ty, con trai có thể là
Phó Giám đốc công ty phụ trách sản xuất và con dâu có thể là kế toán kiêm
giao dịch bán hàng, con rể làm thợ mộc... như vậy, một thành viên trong công
ty gia đình nghề đóng nhiều vai trò xã hội.
Nguồn lực của công ty nghề ở làng nghề còn thông qua việc thu hút thợ
giỏi từ những địa phương khác, phỏng vấn sâu một chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ
cho biết:
Lúc đó (những năm 1980) trong làng chỉ có thợ sơn mài, tôi đã dám
nghĩ, dám đi tìm thuê các thợ giỏi liên quan đến nghề đồ gỗ ở các
làng nghề nổi tiếng khác, như thợ khảm trai, cắt trai giỏi ở Chuyên
Mỹ, thuê thợ đục giỏi ở Hà Nam… về làm ở xưởng của gia đình tôi.
(PVS, nam, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).
Công ty nghề phần lớn tuyển người có tay nghề giỏi bên cạnh đó, họ
cũng thuê một số gia đình nghề cho một số công đoạn sản phẩm. Việc lựa
chọn các gia đình theo công đoạn (gia đình nghề chuyên đục vi tính, chuyên
vo trụ, chuyên chạm, khảm…), do Giám đốc công ty quyết định nhưng dựa
trên yếu tố anh em, họ hàng; và việc tuyển lựa người đã có tay nghề cũng
thông qua mạng lưới chính thức và phi chính thức, nhưng cách thức tuyển có
phần nào dựa vào sự quen biết. Phỏng vấn sâu một Giám đốc Công ty, làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết:
Một số phương cách mới, mình thuê lại một vài gia đình có 2 vợ
chồng làm nghề tại hộ gia đình, họ có tay nghề, nhưng vốn ít, hoặc
mối hàng của họ không có nhiều thì mình đưa gỗ cho họ, sản xuất
theo yêu cầu, tiêu chuẩn của mình. Nếu không thì họ cũng vẫn đi
làm thuê bình thường, vì họ có tay nghề, sản xuất nông nghiệp bây
116
giờ nhàn nhiều. Vụ cấy hoặc vụ gặt thì diễn ra khoảng 10 ngày, có
cả máy gặt và phần lớn các hộ gia đình có nghề cho người khác cấy
ruộng, hoặc chỉ cấy diện tích đủ gạo ngon để gia đình ăn”. (PVS,
nam, Giám đốc công ty TNHH, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).
Công ty nghề thuê gia đình nghề gọi là “thầu phụ” thực hiện một khâu
nào đó của sản phẩm trong chuỗi sản xuất. Điều này đã tạo nên lợi thế cho cả
hai bên: Đối với gia đình nghề, làm thuê lấy tiền công và vẫn có lãi, đồng thời
không lo đầu tư vốn kinh tế cho đầu vào, thị trường tiêu thụ. Điều quan trọng
đối với gia đình nghề nhận làm hợp đồng đối với từng công đoạn sản xuất,
kinh doanh cho công ty nghề vì “cơm áo, gạo tiền” nên nhu cầu chủ yếu là
làm sao có hàng làm, để có việc làm. Đối với công ty chỉ cần khoán theo sản
phẩm, mặt bằng sản xuất tại hộ gia đình, không ăn nghỉ tại công ty như vậy
công ty nghề sẽ giảm được chi phí thuê lao động và những chi phí khác liên
quan. Kế quả khảo sát cho thấy, khi hộ gia đình tự làm nghề nếu không có
hiệu quả thì sau một vài năm kinh tế gia đình thường rất sa sút vì không bán
được nhiều hàng, khi đó có thể tìm cách “ăn bớt” nguyên liệu để cho giá
thành rẻ đi, bán được nhiều và vẫn có lãi, nhưng cách làm ăn này thường
không tồn tại được lâu dài. Vì vậy một số gia đình không tự làm nghề mà
tham gia cung ứng một số công đoạn sản phẩm cho các công ty nghề.
Công ty nghề thu hút được nhiều thợ giỏi trong làng nghề và những địa
phương khác bởi lẽ, phần lớn người thợ có trình độ tay nghề giỏi có tâm lý
không đến hộ gia đình sản xuất để làm thuê, mà thợ giỏi sẽ chọn cơ sở sản
xuất lớn để làm, bản thân công ty cũng trả tiền công xứng đáng cho người thợ
có tay nghề cao. Đa số công ty nghề có phát triển được phải nhờ những người
thợ giỏi, cách cư xử của Giám đốc với thợ giỏi thường rất tốt, lương trả cao
hơn, công ty nghề cần cái tinh hoa của thợ giỏi, nhưng các cơ sở bé khó thuê
117
được. Cụ thể, thợ giỏi ở công ty nghề ở làng nghề gỗ Vạn Điểm được trả mức
tiền công hàng tháng từ 7,5 triệu đồng đến 12 triệu đồng.
Điều đó cho thấy, trong quan hệ sản xuất của công ty nghề muốn sản
xuất tốt thì cần phải có hạt nhân, người thợ giỏi và có nhóm vệ tinh, đây là
quan hệ từng phần không phải là quan hệ trọn gói.
Trước đây, làng nghề sơn mài Hạ Thái, đa số thợ sơn mài là những
người nông dân trong làng, địa điểm sản xuất chủ yếu tại hộ gia đình, nên chủ
cơ sở sản xuất thường là chủ hộ gia đình. Phân công lao động trong gia đình
theo hình thức tự quản lý, trên cơ sở thời gian phù hợp giữa sản xuất nông
nghiệp với làm nghề truyền thống. Nhưng khi bước sang thời kỳ Đổi mới, lao
động trong làng nghề đã kết hợp với thuê khoán lao động ở một số địa
phương khác lận cận. Do vậy, lao động không bó hẹp trong các hộ gia đình ở
làng nghề mà còn lưu chuyển qua thị trường sức lao động.
Hiện nay, việc thuê mướn lao động làm nghề trong hai làng nghề Vạn
Điểm và Hạ Thái đã trở nên phổ biến. Điều này được lý giải là do quy trình
sản xuất chủ yếu là thủ công (chiếm từ 75-80%) công đoạn, nên làng nghề rất
cần sử dụng lao động trực tiếp, đặc biệt là lao động có trình độ tay nghề cao
và đội ngũ nghệ nhân như ở làng nghề sơn mài Hạ Thái. Phỏng vấn sâu một
cơ sở sản xuất sơn mài cho biết:
Xưởng sản xuất sơn mài hiện nay của gia đình chỉ có một vài người
làm, nên cô thuê 8 người thợ, trong đó có 2 nam làm phun sơn, vì
phun sơn cần lao động có sức khỏe, 6 nữ làm trang trí và các công
đoạn khác, riêng thợ vẽ thì thuê theo sản phẩm, những chi tiết khó
cô trực tiếp làm và hướng dẫn thợ” (PVS, nghệ nhân, chủ cơ sở sản
xuất sơn mài, làng nghề sơn mài Hạ Thái).
Về thu nhập bình quân của người lao động làm nghề thường cao hơn
lao động nông nghiệp tại địa phương khoảng 2 lần. Mức thu nhập bình quân
118
lao động nông nghiệp theo đầu người/tháng tại địa phương trong thời điểm
điều tra là 2,5 triệu đồng, trong khi đó mức tiền công trung bình của lao động
là 4,5 triệu đồng.
Hiện nay, số lao động do các công ty nghề và một số gia đình nghề thuê
chủ yếu từ các địa phương khác lân cận. Điều này được giải thích, đa số lao
động là người làng nghề chỉ đáp ứng làm ở các hộ gia đình trong làng.
Các quy tắc của công ty nghề
Để công ty nghề thành lập phát triển, công ty phải dựa vào các quy tắc
chính thức đó là hệ thống luật và quy định hiện hành của nhà nước có liên
quan về sản xuất, buôn bán và chế biến lâm sản, đồ gỗ như: Luật Lao động,
Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã … và Điều lệ của công ty, quy định của
địa phương. Ngoài ra, còn có những quy tắc xuất phát từ gia đình như: khi
thành lập được sự nhất trí cao của thế hệ trước (ông/bà) đã từng làm nghề đồ
gỗ, điều đó chứng tỏ có sự kế thừa và tái cấu trúc quy tắc gia đình.
Trong số lao động của công ty nghề có người là thành viên của gia đình
hoặc họ hàng nhưng quy tắc nghề nghiệp chi phối nhiều tới các thành viên
của công ty: mặc dù người thợ có là cháu trong dòng họ nhưng phải chấp
hành đúng kỷ luật lao động, phải trung thực như những người khác, nếu làm
không nghiêm túc hoặc không làm được thì cho nghỉ việc. Tìm hiểu người thợ
ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, cho biết: để làm được một chiếc tủ chè, phải
thực hiện rất nhiều công đoạn như: pha gỗ, đóng nhân, đục phá, tuồng hậu,
đục kỹ, cánh bệ, đóng cánh, nong tủ, đánh dầu,... người thợ không thể bỏ qua
một thao tác nào. Quy tắc pha gỗ, cũng giống như người thợ may khi cắt một
miếng vải, người thợ giỏi biết lựa được gỗ để sử dụng tối đa cây gỗ đó, thì
công của người ta theo ngày rất cao, vì thợ giỏi có thể làm lợi ra tiền triệu,
ngược lại thợ xẻ tay nghề thấp lựa gỗ thì mất đi cả tiền triệu. Do vậy, có thể
trả họ 300.000 đồng đến 400.000 đồng một ngày công thì vẫn là rẻ. Những
119
người làm ở công ty nghề chủ yếu là thợ giỏi, vì khâu hoàn thiện rất quan
trọng. Chẳng hạn như công đoạn nong tủ đòi hỏi người thợ phải có tay nghề
cao thì các bộ phận, họa tiết mới gắn thành một khối, hài hòa; còn thợ đánh
giấy ráp đơn giản hơn nhưng cũng đòi hỏi một kỹ nãng thành thạo.
Đa số những chi tiết khó vẫn làm bằng thủ công, còn các hoa văn
hiện nay có thể dùng máy như máy đục vi tính, sau người thợ đó
sửa lại cho nó tinh hoa bằng tay. Máy đục vi tính, máy tiện,v.v. thì
có thể sản xuất hàng loạt, nhưng những người “sành chơi” đồ gỗ
mỹ nghệ cao cấp thì tâm lý họ lại không muốn sản phẩm làm bằng
máy. (PVS nam, Giám đốc công ty TNHH, làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm).
Đối với công ty nghề sơn mài một Quy tắc cơ bản, quan trọng là: công
ty nghề đem đến cho quý khách hàng những sản phẩm chất lượng, tinh sảo,
giàu tính nghệ thuật. Quy tắc khoán sản phẩm cho gia đình nghề, cho thợ.
Công ty nghề ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, không thuê nhiều thợ tại
xưởng, mà thuê một số gia đình nghề, thợ giỏi làm bán công đoạn trong một
quy trình sản xuất, bởi như thợ chuyên đục, thợ chuyên khảm, người chuyên
vẽ… Mặt khác, công ty nghề liên kết với nhiều làng nghề trong vùng đồng
bằng sông Hồng với nhau qua mạng lưới sản xuất như nhập chất liệu, nguyên
liệu đầu vào. Đối với sản phẩm sơn mài cốt gốm (gốm Bát Tràng), cốt gỗ
(tiện Nhị Khê), làng nghề dát vàng, dát bạc (Kiêu Kỵ)…
Kết quả khảo sát thực tế tại hai làng nghề, tác giả khái quát một số đặc
điểm của mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề như sau:
120
Bảng 3.16: Một số đặc trưng cơ bản của mô hình gia đình nghề và
mô hình công ty nghề
TT Đặc trưng Gia đình nghề Công ty nghề
1 Tên cơ sở sản
tên xuất
2 Địa điểm sản
thành
xuất 3 Căn cứ lập
4 Số năm Cơ sở sản xuất ... (thường kết hợp chồng và vợ hoặc con) Tại gia đình và khu quy hoạch làng nghề Dựa vào quan hệ gia đình để thành lập 15 năm Công ty TNHH ... (Thường mang một ý nghĩa nào đó hoặc thương hiệu) Tại khu quy hoạch làng nghề Dựa vào quy định pháp luật và quan hệ gia đình 5 năm
làm nghề trung bình
5 Số lao động
20-30 lao động (5 người họ hàng, gia đình và người khác, người làm thuê)
6 Người quản lý
2-10 người (chồng, vợ hoặc người khác có quan hệ gia đình và người làm thuê) Nam/nữ chủ hộ gia đình, có tay nghề cao
7 Cách thức tuyển
lao động
8 Cơ thuê
chế mướn lao động
Nam giám đốc có tay nghề và trình độ quản lý được đào tạo Tuyển trực tiếp qua mạng lưới giới thiệu việc làm chính thức và phi chính thức Thuê theo Hợp đồng lao động được ký kết giữa người lao động và giám đốc công ty. Khoán sản phẩm.
9 Tiền công
từ đến
10 Phân công lao
động
Trả theo tháng, tay nghề thợ giỏi Tiền công đồng 7.500.000 12.000.000 đồng/tháng Giám đốc: quản lý chung, giao dịch, tìm khách hàng và thị trường bán hàng Kế toán: phụ trách sổ sách Thợ làm thuê Hệ thống gia đình nghề
Tuyển trực tiếp trong quá trình học nghề và qua mạng lưới phi chính thức Thuê theo hợp đồng miệng, Tiền công nhật (4 người) và tiền công khoán sản phẩm (1 người) Khoán ngày: mức trung bình 220.000 đồng/ngày + ăn trưa. Khoán sản phẩm Chồng: Quản lý từ đầu vào đến đầu ra sản phẩm đồ gỗ, trực tiếp sản xuất Vợ: Quản lý bán hàng, hoặc đánh giấy ráp Thợ làm thuê
121
11 Thị trường tiêu Chủ yếu trong nước Trong nước và nước ngoài
thụ
12 Kiểu quan hệ xã
hội
13 Mức sống 14 Vốn kinh tế
Trọng lý: Chủ yếu dựa trên kiểu quan hệ chức năng, thị trường Khá giả, giàu Gia đình, vay ngân hàng. (thường trên 5 tỷ đồng).
15 Công nghệ
16 Quản lý doanh
thu Chủ yếu thủ công, máy móc hiện đại Có kế toán, sổ sách, tính dài hạn
17 Thu nhập phụ
Không trồng trọt, mà cho người khác làm thuê ruộng.
18 Mạng lưới thuê,
thầu phụ Trọng tình: Chủ yếu dựa trên yếu tố gia đình, thân quen. Trung bình khá Gia đình, bố mẹ, vay ngân hàng (thường dưới 5 tỷ đồng). Chủ yếu thủ công, máy móc đơn giản Không có người kế toán, tính lãi theo bộ, tính ngắn hạn Chăn nuôi, trồng trọt: cấy vài sào ruộng để lấy gạo ngon gia đình ăn Tùy thời vụ, thuê thêm lao động khi nhiều hàng
19 Trình độ thợ 20 Khẩu
hiệu/phương châm Thợ học việc, thợ giỏi Chất lượng đúng với giá tiền. Tiền nào của nấy.
Thuê lại trung bình 10 cơ sở gia đình nghề trong làng và ngoài làng. Thuê theo công đoạn sản phẩm Chủ yếu thợ giỏi - Sản phẩm đẹp: Phải chứng minh bằng chứng thực tế. Chỉ có thật mới tồn tại mãi mãi. (Công ty nghề đồ gỗ). - Chữ “Tín” quý hơn vàng. Sự hài lòng của quý khách là sự thành công của chúng tôi (Công ty nghề sơn mài).
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
122
Nguồn lực
Nhà xưởng 6000 m2
Máy móc đơn giản.
Máy móc hiện đại: máy cưa, máy đục gỗ vi tính
Gia đình nghề
Số lượng thợ 20: người trong đình, họ hàng 70%, người làng 30%
Số lượng thợ 80: làm tại xưởng 18 thợ; người trong gia đình, họ hàng có 20%, người làng, nơi khác có 60%.
Gia đình nghề
Vốn 65 triệu đồng
Vốn trên 20 tỷ
Công ty duy trì và phát triển
Thành lập công ty
Thời gian
Năm 2013
Năm 1992
Biểu 3.4: Biểu đồ các nguồn lực của công ty nghề
(Trường hợp công ty nghề đồ gỗ Đ.T.)
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Kết quả điều tra cho thấy, mô hình gia đình nghề chiếm đại đa số trong
làng nghề, đồng thời đang được cấu trúc hóa nhờ vai trò chủ hộ gia đình nghề
kết hợp các nguồn lực và các quy tắc phù hợp. Bên cạnh đó, làng nghề còn có
mô hình công ty nghề. Có thể nói, sự phát triển của mô hình công ty nghề là
tương lai của làng nghề, nhưng tương lai này đến sớm hay muộn còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố huy động những nguồn lực mới và
quy tắc mới cần cho cấu trúc hóa các mô hình xã hội - nghề nghiệp của các hộ
gia đình nghề.
123
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 mô tả khái quát về đặc điểm, tính chất của các phân hệ cấu
trúc xã hội làng nghề ở đồng bằng sông Hồng; làng nghề ở huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở các dữ liệu định tính và định lượng do tác
giải thu thập và xử lý, luận án đã phân tích, tổng hợp và đánh giá thực trạng
một số phân hệ cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, cụ thể là các
phân hệ cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội -
nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống. Chương 3 phát hiện và làm rõ hai
mô hình cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề. Đó là mô hình gia đình nghề và
mô hình công ty nghề. Việc áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống xã hội
của Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens, cho phép tác giả vừa mô tả
vừa, giải thích cơ chế hoạt động và tương tác của các thành phần tạo nên cấu
trúc xã hội của gia đình nghề và công ty nghề với tính cách là hai loại hệ
thống xã hội. Cả gia đình nghề và công ty nghề với tính cách là hệ thống xã
hội đều có cấu trúc xã hội gồm các bộ phận, thành tố nhất định nhằm đáp ứng
các yêu cầu chức năng đặt ra từ làng nghề mà cả gia đình nghề và công ty
nghề đều là những tiểu hệ thống. Cả gia đình nghề và công ty nghề đều huy
động và sử dụng các nguồn lực và quy tắc khác nhau để hoạt động, mà thông
qua các hoạt động đó cấu trúc xã hội được hình thành, thể hiện và tái tạo một
cách khác nhau nhưng không biệt lập nhau.
Mô hình công ty nghề mới ra đời và hoạt động theo pháp luật về công
ty, trong khi đó mô hình gia đình nghề đã có lịch sử lâu năm và hoạt động
theo các quy định pháp luật về kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình. Nhưng cả
hai mô hình cấu trúc xã hội - nghề nghiệp này đều dựa vào cấu trúc xã hội -
gia đình để hoạt động một cách thích nghi có hiệu quả đối với môi trường
pháp lý, văn hóa, kinh tế, xã hội của làng nghề. Gia đình nghề thường là các
vệ tinh, các thầu phụ của công ty nghề. Đồng thời công ty nghề cũng dựa vào
124
cấu trúc xã hội gồm các vị thế, vai xã hội và mạng lưới xã hội của gia đình để
hoạt động và phát triển.
Cần thấy rằng cấu trúc xã hội của gia đình nghề và công ty nghề đều
thuộc phân hệ cấu trúc xã hội - nghề nghiệp. Việc tóm tắt nhiều nội dung của
cấu trúc xã hội gia đình nghề và công ty nghề chứng tỏ rằng cấu trúc xã hội -
nghề nghiệp là cốt lõi của cấu trúc xã hội làng nghề, trong đó có các phân hệ
khác như đã được phân tích kỹ trong chương 3 này.
125
Chương 4
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN
LÀNG NGHỀ VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP
4.1. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ
DÂN LÀNG NGHỀ
4.1.1. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - mức sống
4.1.1.1. Yếu tố giới
Cấu trúc xã hội dân số của cư dân làng nghề được thể hiện trên nhiều tiểu
cấu trúc: giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn của chủ hộ gia đình. Mối quan hệ
với cấu trúc xã hội - mức sống (thông qua chỉ báo thu nhập). Kết quả điều tra
cho thấy, cấu trúc giới tính và độ tuổi có sự chi phối, tác động nhất định. Trong
mối quan hệ giữa giới tính của chủ hộ gia đình với thu nhập trung bình một
tháng của chủ hộ gia đình, tỷ lệ trả lời trong 5 nhóm thu nhập ở cả nam và nữ có
sự đa dạng và khác biệt. Đó là, với 5 nhóm thu nhập, tỷ lệ trả lời từ thấp nhất đến
cao nhất ở nam giới là: nhóm IV - 17%, nhóm V (thấp nhất) - 17,3%, nhóm III -
21,3%, nhóm II - 22,5%, nhóm I - 21,9%; ở nữ giới là: nhóm II - 11,5%, nhóm I
(cao nhất) - 13,5%, nhóm III (trung bình) - 15,6%, nhóm V (thấp nhất) - 29,2%,
nhóm IV - 30,2% (xem Bảng 4.1).
Bảng 4.1: Thu nhập trung bình một tháng của chủ cơ sở sản xuất
theo giới tính chủ hộ* Đơn vị tính: %
Giới tính 5 nhóm thu nhập
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất)
Nữ 13,5 11,5 15,6 30,2 29,2 96 Nam 21,9 22,5 21,3 17,0 17,3 329 Tổng (N = 425)
* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Bảng 4.1 cũng cho biết, có tỷ lệ trả lời khác nhau về thu nhập bình quân
126
một tháng giữa chủ cơ sở sản xuất là nam và nữ. Nếu như, tỷ lệ trả lời cao
nhất của nam giới ứng với mức thu nhập ở nhóm II (nhóm có thu nhập trên
trung bình) với 22,5%, thì tỷ lệ trả lời cao nhất của nữ giới lại ứng với mức
thu nhập ở nhóm IV, với 30,2%. Hay tỷ lệ trả lời thấp nhất của nữ ứng với
nhóm II (11,5%), thì ở nam lại ứng với nhóm IV (17,0%). Cũng trong các
mức thu nhập, từ nhóm V đến nhóm I, dường như có sự tăng dần về tỷ lệ trả
lời ở nam giới (trừ tỷ lệ trả lời ở nhóm II); ở nữ giới, dường như tỷ lệ trả lời
lại tập trung nhiều ở mức thu nhập thấp nhất hoặc dưới mức trung bình (nhóm
V và nhóm IV). Điều này chứng tỏ, không chỉ nói lên sự khác biệt về thu
nhập giữa nam và nữ, mà còn cho thấy ở làng nghề, chủ hộ cơ sở sản xuất là
nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới.
4.1.1.2.Yếu tố tuổi
Trong mối quan hệ giữa độ tuổi của chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản xuất
với nhóm thu nhập, ở ba nhóm tuổi và năm mức thu nhập, thấy rằng: có sự
tăng lên ở nhóm có thu nhập cao nhất (nhóm I) tập trung độ tuổi trên 50 tuổi -
29,5%, tỷ lệ trả lời rất thấp cho mức thu nhập thuộc nhóm I (thấp nhất), chỉ có
6,2%. Mức thu nhập thuộc nhóm II và III ở độ tuổi từ 41 đến 50, tỷ lệ trả lời
gần ngang nhau (14,9% và 14,2%) (Bảng 4.2).
Bảng 4.2: Thu nhập của hộ gia đình theo độ tuổi*
Đơn vị tính: %
5 nhóm thu nhập
≤ 40 tuổi
Trên 50 tuổi
Độ tuổi Từ 41-50 tuổi
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình)
17,0 24,2 17,6 13,9 27,3 165
16,2 14,9 14,2 32,4 22,3 148
29,5 20,5 31,3 12,5 6,2 112
Nhóm IV Nhóm V (nhấp nhất) Tổng (N = 425)
* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
127
Cũng ở bảng 4.2, nếu so sánh thu nhập giữa các độ tuổi, thì ở nhóm
tuổi ≤ 40 (≤ nhỏ hơn hoặc bằng) và trên 50 tuổi dù có khuynh hướng giống
nhau về tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập cao nhất (cùng có tỷ lệ trả lời cao nhất
cho mức thu nhập thuộc nhóm I - 17,0% và 29,5%), nhưng lại có sự khác
nhau rõ ràng về tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập thấp nhất (ở mức thu nhập
thuộc nhóm V, độ tuổi ≤ 40 là 27,3%, độ tuổi trên 50 tuổi là 6,2%). Ở cả ba
độ tuổi, thì nhóm từ 41 đến 50 tuổi lại có tỷ lệ trả lời cao nhất cho mức thu
nhập thuộc nhóm IV - 32,4%. Hay nếu chỉ tính riêng mức thu nhập thuộc
nhóm V (thấp nhất) cho cả ba nhóm tuổi, thì thấy có tỷ lệ nghịch về tỷ lệ trả
lời, đó là tuổi càng thấp, tỷ lệ trả lời lại càng cao và ngược lại: ≤ 40 tuổi -
27,3%, từ 41 đến 50 tuổi - 22,3% và trên 50 tuổi - 6,2%. Còn với mức thu
nhập ở nhóm I (cao nhất) lại có tỷ lệ cao nhất ở độ tuổi trên 50 tuổi là 29,5%,
ở độ tuổi dưới 40 tuổi có 17,0% , tỷ lệ trả lời ở độ tuổi từ 41 đến 50 tuổi là
16,2%.
Điều này lại cho thấy, tính hợp lý của người trả lời, vì trong phát triển
kinh tế làng nghề, yếu tố tuổi có vai trò hết sức quan trọng, tuổi càng cao, tay
nghề càng cao, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh càng nhiều.
4.1.1.3. Yếu tố loại nghề của hộ gia đình
Trong mối quan hệ giữa cấu trúc xã hội - mức sống thì loại nghề của
gia đình cư dân làng nghề với ba nhóm nghề nghiệp chính: chỉ làm nghề
truyền thống, làm nông nghiệp và nghề truyền thống, không làm nghề truyền
thống và năm nhóm thu nhập, thấy rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa loại hình
nghề nghiệp gia đình với thu nhập của gia đình. Đó là, hộ gia đình chỉ làm
nghề truyền thống, không ai trả lời có mức thu nhập ở nhóm V (thấp nhất),
ngược lại hộ gia đình không làm nghề truyền thống lại không ai trả lời cho
mức thu nhập ở nhóm I (cao nhất), (xem Bảng 4.3).
128
Bảng 4.3: Thu nhập hộ gia đình làng nghề theo loại nghề hộ gia đình*
Đơn vị tính: %
Chỉ làm nghề truyền thống
5 nhóm thu nhập
Không làm nghề truyền thống 0,0 2,2 44,4 16,7 36,7 90
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 515) Loại nghề của hộ gia đình Làm nông nghiệp và nghề truyền thống 23,1 22,0 12,6 23,1 19,2 364 31,1 34,4 27,9 6,6 0,0 61
* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Bảng 4.3, ở gia đình chỉ làm nghề truyền thống có sự tăng dần về thu
nhập, nếu như ở mức thu nhập thuộc nhóm V, tỷ lệ trả lời 0,0%, nhóm IV -
6,6%, thì nhóm III (trung bình) là 27,9%, nhóm II là 34,4% và nhóm I là
31,1%. Mức thu nhập ở nhóm II (trên trung bình) của gia đình chỉ làm nghề
truyền thống là cao nhất, so với các gia đình vừa làm nông nghiệp vừa làm
nghề truyền thống (22,0%) và gia đình không làm nghề truyền thống (2,2%).
Gia đình không làm nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời tập trung cao cho mức
thu nhập thuộc nhóm III (44,4%) và nhóm V (36,7%), nhưng lại có tỷ lệ trả
lời thấp, thậm chí rất thấp cho mức thu nhập thuộc nhóm II và nhóm I (2,2%
và 0,0%). Gia đình làm nông nghiệp kết hợp với nghề truyền thống có tỷ lệ trả
lời thấp nhất cho mức thu nhập trung bình (nhóm III), với 12,6 và cao nhất
cho mức thu nhập thuộc nhóm I và nhóm IV đều là 23,1%.
Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa loại nghề nghiệp gia đình với mức thu
nhập thuộc nhóm V (thấp nhất) và nhóm I (cao nhất), cho thấy sự nghịch
chiều về tỷ lệ số chủ hộ trả lời. Nếu như ở mức thu nhập thuộc nhóm V, tỷ lệ
trả lời tăng dần ở các gia đình chỉ làm nghề truyền thống, vừa làm nghề
truyền thống vừa làm nghề nông và không làm nghề truyền thống (từ 0,0%
129
lên 19,2%, rồi 36,7%), thì ở mức thu nhập thuộc nhóm I lại có tỷ lệ trả lời
theo hướng ngược lại (từ 31,1% xuống 23,1%, rồi 0,0%).
Điều này chứng tỏ, giữa loại nghề nghiệp của gia đình và thu nhập của
gia đình (chủ hộ gia đình) có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và nghề nghiệp có
tác động đến thu nhập. Hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống có thu nhập
càng cao hơn hộ gia đình không làm nghề truyền thống.
4.1.1.4. Yếu tố thâm niên làm nghề truyền thống
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp được thể hiện thông qua số năm làm
nghề của hộ gia đình nghề và giới tính, độ tuổi của chủ cơ sở sản xuất nghề.
Đây cũng là những thành phần cơ bản được xác định trong mối quan hệ với
cấu trúc xã hội - mức sống về thu nhập (thu nhập trung bình một tháng của
chủ hộ gia đình làm nghề)
Trong mối quan hệ giữa số năm làm nghề gia đình nghề, cơ sở sản xuất
với thu nhập, kết quả khảo sát cho thấy, cơ sở sản xuất có thâm niên làm nghề
lâu thì có tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập lớn nhất (nhóm I) cao nhất 51,1%.
Ngược lại, hộ gia đình nghề có thâm niên làm nghề ít, thì có tỷ lệ trả lời cho
mức thu nhập thấp nhất (nhóm V) cao nhất - 44,9% (Bảng 4.4).
Bảng 4.4: Thu nhập của hộ gia đình theo số năm làm nghề*
Đơn vị tính: %.
5 nhóm thu nhập
Dưới 10 năm 3,4 6,8 14,6 30,3 44,9 89
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình)
Trên 20 năm 51,1 23,4 23,4 2,1 0,0 47
Số năm làm nghề Từ 10-20 năm 20,1 23,5 21,1 19,7 15,6 289 Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 425)
* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
130
Bảng 4.4 cũng chỉ ra, số năm làm nghề của gia đình, cơ sở sản xuất có
mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập của chủ hộ gia đình. Ở các mức thu nhập từ
trung bình trở xuống, có sự nghịch chiều về tỷ lệ trả lời, đó là cơ sở sản xuất
càng lâu năm thì tỷ lệ trả lời cho mức thu nhập thấp càng giảm. Chẳng hạn,
với mức thu nhập thuộc nhóm IV, tỷ lệ trả lời cho gia đình nghề, cơ sở sản
xuất có thâm niên dưới 10 năm là 30,3%; từ 10 đến 20 năm là 19,7% trên 20
năm là 2,1%. Ở mức thu nhập thuộc nhóm II và (cao hơn mức trung bình) lại
có tỷ lệ trả lời theo xu hướng ngược lại như: ở mức thu nhập thuộc nhóm I
(cao nhất), tỷ lệ trả lời cho gia đình nghề, cơ sở sản xuất có thâm niên trên 20
năm là 51,1%; từ 10 đến 20 năm là 20,1%; dưới 10 năm là 3,4%. Phải chăng,
gia đình nghề, cơ sở sản xuất lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất
các sản phẩm từ nghề truyền thống, có nhiều tiền vốn và vốn xã hội để kinh
doanh… nên mang lại nhiều lợi nhuận và có thu nhập cao hơn các cơ sở sản
xuất ít năm làm nghề.
4.1.2. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - gia đình
4.1.2.1. Yếu tố số lao động làm nghề trong gia đình
Cơ cấu số thành viên trong gia đình nghề trong làng nghề phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, song quy mô gia đình các hộ làm nghề ở làng nghề có thể
được hình thành trên cơ sở số nhân khẩu phụ thuộc vào số lao động làm nghề
(truyền thống) của gia đình trong làng nghề. Số lao động trong gia đình nghề
trong làng nghề chủ yếu là thành viên trong gia đình, có đến 70,8% (301/425)
số chủ hộ gia đình nghề, được hỏi trả lời “Lao động chủ yếu là người trong
gia đình”. Gia đình nghề thông thường có từ 1 đến 2 lao động tham gia trực
tiếp vào việc sản xuất - kinh doanh, tiếp đến là có 3 lao động của gia đình
nghề. Tỷ lệ trả lời ở hộ gia đình có 4 người tập trung chủ yếu cho số lao động
làm nghề truyền thống là 1-2, với 62,0%. Tỷ lệ này cao gấp khoảng hai lần tỷ
lệ trả lời cho số nhân lực làm nghề truyền thống là 3 và 4 lao động, với 31,2%
131
và 30,8%. Gia đình nghề có 3, 4 lao động làm nghề truyền thống này lại tập
trung nhiều hơn ở hộ gia đình có 5 hay từ 6 người trở lên (xem Bảng 4.5).
Bảng: 4.5. Quy mô gia đình, theo số lao động làm nghề truyền thống
Đơn vị: %
Quy mô hộ gia đình
Từ 1-3 người 4 nguời 5 người ≥ 6 người Tổng (N = 425) Số lao động làm nghề truyền thống 3 lao động 11,3 31,2 41,3 16,2 80 4 lao động 0,0 30,8 34,6 34,6 26
1-2 lao động 20,0 62,0 11,0 6,9 319 Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Bảng 4.5 cho biết, tỷ lệ trả lời ở hộ gia đình có 5 người nhưng lại có 3
lao động làm nghề truyền thống chiếm cao nhất, với 41,3%; tỷ lệ trả lời ở hộ
gia đình có 5 hoặc 6 người trở lên thì tương đối đồng đều ở cả 2 nhóm hộ gia
đình có 4 người làm nghề truyền thống, với 34,6%. Nguồn nhân lực tham gia
lao động làm nghề trong gia đình nghề ở 4 lao động dẫn đến quy mô gia đình
từ 5 - 6 người biểu hiện rõ nét ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm.
Những đánh giá này chỉ ra, hộ gia đình càng ít người thì số lao động
làm nghề truyền thống ít càng chiếm đa số và hộ gia đình nhiều người lại
càng có nhiều lao động làm nghề truyền thống hơn hộ gia đình ít người. Bởi
vì, trên thực tế địa bàn khảo sát, không phải gia đình nào cũng có tất cả lao
động làm nghề truyền thống; những lao động của gia đình còn có các nghề
khác để làm như: cán bộ xã, công chức, lái xe, làm dịch vụ, giáo viên… Hay
chỉ đơn giản, do số lao động trong gia đình ít có ít lao động làm nghề truyền
thống.
4.1.2.2. Yếu tố tuổi
Độ tuổi của chủ hộ phần nào tác động đến số thế hệ cùng chung sống
trong phân hệ cấu trúc xã hội - gia đình ở làng nghề. Trong các gia đình 1 thế
132
hệ, tỷ lệ trả lời cho độ tuổi của chủ hộ có sự giảm dần. Nếu như chủ hộ dưới
40 có tỷ lệ người đánh giá cao nhất, với 14,7%, thì độ tuổi của chủ hộ từ 40
đến 50 là 8,5% và trên 50 tuổi là 6,1%. (xem Bảng 4.6).
Bảng 4.6: Số thế hệ trong gia đình, theo độ tuổi của chủ hộ gia đình
Đơn vị: %
Độ tuổi của chủ hộ gia đình Dưới 40 tuổi Từ 40-50 tuổi Trên 50 tuổi 8,5 80,1 6,1 72,3 14,7 75,9
Số thế hệ trong gia đình 1 thế hệ 2 thế hệ ≥ 3 thế hệ
(N = 515) 9,4 191 11,4 176 21,6 148
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Bảng 4.6, trong các gia đình 1 thế hệ, tỷ lệ trả lời cho độ tuổi của chủ
hộ có sự giảm dần. Nếu như chủ hộ dưới 40 có tỷ lệ người đánh giá cao nhất,
với 14,7%, thì độ tuổi của chủ hộ từ 40 đến 50 là 8,5% và trên 50 tuổi là
6,1%. Số liệu trong bảng cũng cho biết, tỷ lệ đánh giá giữa gia đình có 2 thế
hệ với độ tuổi của chủ hộ chiếm tỷ lệ cao ở tất cả các lứa tuổi, trong đó, tỷ lệ
trả lời cao nhất là 80,1% và thấp nhất là 72,3%. Tỷ lệ trả lời này cao nhất
trong số các đánh giá của người trả lời giữa số thế hệ của gia đình với độ tuổi
của chủ hộ. Ngoài ra, người trả lời cũng đánh giá, gia đình có số thế hệ lớn
hơn hoặc bằng 3 cao nhất ở lứa tuổi trên 50 của chủ hộ.
Những đánh giá của người trả lời về mối quan hệ giữa số thế hệ trong
gia đình với tuổi của chủ hộ gia đình cũng phản ánh đúng thực trạng gia đình
ở địa bàn khảo sát hiện nay. Đó là, gia đình có 1 thế hệ thường gặp ở những
đôi vợ chồng trẻ mới lập gia đình, chưa có con và muốn sống riêng nên đã
tách hộ với bố mẹ, do đó độ tuổi của chủ hộ dưới 40 có tỷ lệ đánh giá cao
nhất; gia đình 2 thế hệ có tỷ lệ đánh giá cao ở tất cả các lứa tuổi, vì gia đình
hiện nay càng ngày càng phát triển theo xu hướng gia đình hạt nhân chỉ có bố
133
mẹ và con cái; gia đình có số thế hệ lớn hơn hoặc bằng 3 đánh giá cao nhất
cho lứa tuổi lớn nhất của chủ hộ, vì tính tôn ti trật tự trong gia đình của người
Việt Nam.
4.1.3. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
4.1.3.1. Yếu tố giới
Trong mối quan hệ giữa giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của
hộ gia đình thấy rằng, ở hộ gia đình chỉ làm nghề truyền thống và hộ gia đình
làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống, tỷ lệ trả lời giới tính của chủ hộ là
nam đều cao hơn chủ hộ là nữ với 14,9% và 72,6% (bảng 4.7).
Bảng 4.7: Giới tính của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia
đình*
Đơn vị tính: %, N = 515
Giới tính của chủ hộ gia đình Chung Loại nghề của hộ gia đình Nam Nữ
14,9 3,6 11,8
72,6 65,5 70,7
Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
12,5 30,9 17,5
Chung 100 100 100
* Mức ý nghĩa p < 0,05. Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Kết quả ở bảng 4.7 cũng cho thấy, ở hộ gia đình không làm nghề truyền
thống, tỷ lệ đánh giá của người trả lời theo hướng ngược lại cho chủ hộ gia
đình là nữ giới cao hơn nam giới, với 30,9% so với 12,5%. Phải chăng, yếu tố
loại nghề của hộ gia đình, như ở hộ gia đình có làm nghề truyền thống có sự
chi phối nhất định đến giới tính của chủ hộ. Bởi vì, trong làm nghề truyền
thống, nhất là nghề đồ gỗ, yếu tố sức khoẻ và sự nhanh nhạy trong công việc
của nam giới rất quan trọng nên nam giới có vai trò quan trọng trong làm
134
nghề thì thường giữ vai trò chủ hộ. Do đó, có tỷ lệ đánh giá cho nam chủ hộ
cao hơn nữ chủ hộ.
Ngược lại, với gia đình không làm nghề truyền thống và làm các nghề
như buôn bán, làm hàng mã, may mặc…, thì vai trò của người nữ giới lại
chiếm ưu thế, vì sự khéo léo và tính nữ của nữ giới phù hợp hơn. Bên cạnh
đó, khi đặt trong mối tương quan giữa giới tính với loại nghề của hộ gia đình
theo thu nhập thì thấy rằng, hộ gia đình không làm nghề truyền thống, nữ giới
có thu nhập cao hơn nam giới. Yếu tố kinh tế chính là nguyên nhân quan
trọng để chủ hộ là nữ giới có tỷ lệ trả lời cao hơn chủ hộ là nam giới ở hộ gia
đình không làm nghề truyền thống (với nữ 30,9% và nam 12,5%).
Năm 1991 tôi tham gia vào hội đồng nhân dân huyện một khóa.
Nhờ đó đã đề xuất với cơ quan chức năng giúp đỡ các làng nghề về
vốn và các hoạt động của hội để mở rộng sản xuất. Phòng kinh tế
huyện mở lớp tập huấn hướng dẫn cách kinh doanh; trung tâm y tế
huyện hỗ trợ việc khám chữa bệnh cho chị em.
(PVS, nữ nghệ nhân sơn mài, làng nghề sơn mài Hạ Thái)
4.1.3.2. Yếu tố tuổi
Mối quan hệ giữa độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia
đình, nhóm hộ gia đình chỉ làm nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời ở độ tuổi của
chủ hộ trên 50 (chiếm 6,1%) thấp hơn độ tuổi của chủ hộ dưới 40 tuổi (chiếm
13,1%) và từ 40 đến 50 tuổi (chiếm 15,3%), (xem Bảng 4.8).
135
Bảng 4.8: Độ tuổi của chủ hộ gia đình với loại nghề của hộ gia đình
Đơn vị: %, N = 515.
Chung Độ tuổi của chủ hộ gia đình Dưới 40 tuổi Từ 40-50 tuổi Trên 50 tuổi
13,1 15,3 6,1 11,8
73,3 68,8 69,6 70,7
13,6 15,9 24,3 17,5 Loại nghề của hộ gia đình Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
Chung 100 100 100 100
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống, có tỷ lệ trả lời cao
và tương đối đồng đều ở tất cả các nhóm tuổi của chủ hộ gia đình. Hộ không
làm nghề truyền thống lại có tỷ lệ đánh giá thuận chiều với nhóm tuổi của chủ
hộ, nghĩa là tuổi của chủ hộ càng cao thì có thể ít tham gia không làm nghề
truyền thống. Tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ này: nhóm tuổi trên 50 là 24,3%,
từ 40 đến 50 tuổi là 15,9% và dưới 40 tuổi là 13,6%. Nếu so sánh trong cùng
một nhóm tuổi với loại nghề của hộ gia đình thấy rằng, hộ gia đình làm cả
nghề nông và nghề truyền thống có tỷ lệ trả lời cao nhất. Ðặc biệt, ở nhóm
tuổi trên 50 của chủ hộ gia ðình, nếu như hộ gia đình làm nghề truyền thống
chỉ trả lời với 6,1%, thì hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống là
69,6% và hộ gia đình không làm nghề truyền thống là 24,3%.
Điều này chứng tỏ, trong các loại nghề của hộ gia đình, độ tuổi của chủ
hộ gia đình ứng với hộ gia đình làm cả nghề nông và nghề truyền thống chiếm
đa số. Bởi vì, khi nghiên cứu số liệu ở địa bàn khảo sát giữa các nhóm tuổi
của chủ hộ với loại nghề của hộ gia đình theo kinh tế được biết, tỷ lệ trả lời
cho mối quan hệ giữa nhóm tuổi với nghề nông và nghề truyền thống của gia
đình ứng với thu nhập của gia đình khá giả trở lên có tỷ lệ trả lời khá cao, cao
136
hơn nhiều so với loại nghề khác của hộ gia đình. Chẳng hạn, nếu tỷ lệ trả lời ở gia
đình có kinh tế khá giả trở lên, làm cả nghề truyền thống và nghề nông, có nhóm
tuổi của chủ hộ dưới 40 là 73,3%, thì tỷ lệ trả lời tương ứng ở gia đình chỉ làm
nghề truyền thống chỉ là 13,1%.
4.1.5 Các yếu tố vĩ mô tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng
nghề
4.1.5.1. Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của làng - xã
Làng Vạn Điểm và Làng Hạ Thái đang cùng phát triển nghề truyền thống
là đồ gỗ và sơn mài, nhưng do lịch sử hình thành và loại hình nghề truyền thống
khác nhau nên hai làng có những đặc trưng riêng. Từ những đặc trưng riêng này
các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cũng có những chi phối, tác động
khác nhau nhất định đến từng làng nghề.
Phát triển làng nghề đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng cư dân làng nghề. Hay nói cách khác,
nhờ làm nghề sơn mài, đời sống của cư dân làng nghề đã được cải thiện và trở nên
khá giả, bộ mặt nông thôn đã được đổi mới, nhiều hộ gia đình đã trở thành cơ sở
sản xuất làm ăn phát đạt, qua cấu trúc xã hội mức sống. Cụ thể ở làng nghề sơn
mài Hạ Thái có 7% hộ giàu, 36% hộ khá và 57% hộ trung bình và chỉ có 1% hộ
nghèo [101]. Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm gồm: 8% hộ giàu, 29% hộ khá và 56%
hộ trung bình và chỉ có 2% hộ nghèo và 5% tỉ lệ hộ dưới trung bình [98]. Theo
ông Chủ tịch Hiệp hội sơn mài làng nghề Hạ Thái: Doanh thu của làng nghề ước
tính 150 tỷ đồng/năm, đồng thời tạo việc làm ổn định cho làng nghề và thu hút
khoảng 1.500 lao động ở địa phương khác đến làm việc, thu nhập của người thợ từ
2,5 đến 4 triệu đồng/tháng tùy theo tay nghề của từng lao động.
Kết quả khảo sát ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và sơn mài Hạ Thái, chủ hộ
gia đình trả lời có những đánh giá khác nhau về mối quan hệ giữa yếu tố chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập theo địa bàn khảo sát (xem Bảng 4.9).
137
Bảng 4.9: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với thu nhập theo địa bàn khảo sát
Đơn vị: %
5 nhóm thu nhập Đồ gỗ Vạn Chung
Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 0,5 1,6 Điểm 38,0 43,7 20,1 23,5
Chính trị 11,7 18,7 26,5
2,0 4,6 197 47,0 41,2 18,7 19,0 28,7 25,9 36,8 34,6 182 0,8 2,4
9,8 14,0 20,5 Kinh tế
0,5 1,5 194 5,7 84,9 18,1 13,4 2,3 31,5 44,9 31,5 127 0,5 3,9
7,5 19,3 25,4
Văn hóa
0,0 1,9 106 33,5 56,3 26,7 20,3 15,4 27,6 40,5 29,8 205 0,5 4,1
7,0 17,1 25,4 Xã hội
23,6 16,2
1,9 1,3 158 Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 379) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 321) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 311) Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 351)
41,5 28,5 193 Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Bảng 4.9, trong mối quan hệ giữa yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội với thu nhập ở hai làng đồ gỗ Vạn Điểm và sơn mài Hạ Thái thấy rằng, tỷ
138
lệ đánh giá của người trả lời khá đa dạng. Nhưng nhìn chung, giữa làng nghề
đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái, tỷ lệ đánh giá khác nhau như
sau: tỷ lệ trả lời, yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có tác động đến các
mức thu nhập I (cao nhất), II, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm cao hơn ở làng nghề
sơn mài Hạ Thái; ngược lại, ở các mức thu nhập III, IV, V (thấp nhất), làng
nghề sơn mài Hạ Thái lại thấp hơn làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Như tỷ lệ trả
lời cho mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế với thu nhập mức I, II, ở làng nghề
đồ gỗ Vạn Điểm 47,0%, 41,2% cao hơn so với làng nghề sơn mài Hạ Thái là
0,8%, 2,4%; trong khi, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế với
thu nhập mức IV, V ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm là 0,5%, 1,5% thấp hơn so
với làng nghề sơn mài Hạ Thái là 44,9%, 31,5%.
Năm 1992 Về nguồn mẫu mã sản phẩm tôi phải mua bộ nghế đầu
tiên này - bộ Louis (nghế kiểu của Pháp) để làm mẫu để sản xuất,
sản xuất xong rồi tôi mang lên một vài của hàng ở Hà Nội để gửi
bán, khách nước ngoài mua. Gia đình tôi gửi bộ nào lên thì bán hết
bộ ấy. Tôi dành nguồn hàng cho anh em ruột thịt, sau đó đến họ
hàng, rồi đến cả làng. Từ những mẫu đầu tiên (khoảng 100 mẫu
bàn, nghế) sau đó tôi đã sáng tạo hơn 500 mẫu. Giá một bộ nghế
kiểu Pháp khoảng bốn trăm triệu đồng.
(PVS, nam, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm)
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ giữa yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội với loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng
nghề sơn mài Hạ Thái cũng cho thấy, giữa chúng có mối quan hệ tương đối rõ
(xem Bảng 4.10). Tỷ lệ đánh giá của chủ hộ gia đình đều cho rằng, yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có chi phối, tác động đến gia đình làm cả
nghề nông và nghề truyền thống, hơn gia đình chỉ làm nghề truyền thống hoặc
không làm nghề truyền thống ở cả làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề
139
sơn mài Hạ Thái. Tuy nhiên, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ giữa yếu tố chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với hộ gia đình kết hợp làm nghề nông và làm
nghề truyền thống lại có sự chênh lệch nhất định. Chẳng hạn, giữa yếu tố
chính trị với hộ gia đình làm nghề nông và nghề truyền thống ở làng nghề đồ
gỗ Vạn Điểm, người trả lời với tỷ lệ 69,5%, thì ở làng nghề sơn mài Hạ Thái
là 84,6% (chệnh lệch 14,9%).
Bảng 4.10: Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội với loại nghề
của hộ gia đình, theo địa bàn khảo sát
Đơn vị: %
Loại nghề của hộ gia đình Đồ gỗ Vạn Chung
Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 7,1 12,4 Điểm 17,3
Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống Tổng (N = 379)
Chỉ làm nghề truyền thống
Chính trị 84,6 76,8 69,5
8,2 182 4,7 10,8 13,7 13,2 197 19,6
85,8 78,2 73,2
Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
Tổng (N = 321)
Chỉ làm nghề truyền thống
Kinh tế
9,4 127 10,2 8,1 13,2 7,2 194 18,9
89,8 86,8 81,1
Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
Tổng (N = 311)
Chỉ làm nghề truyền thống
Văn hóa
0,0% 205 9,3 0,0% 13,4 0,0% 106 18,4
Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
Tổng (N = 351)
88,1 83,5 77,8 Xã hội
2,6 193 3,1 3,8 158
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
140
Bảng 4.10, tỷ lệ đánh giá của người trả lời cũng cho biết yếu tố chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội có sự chi phối, tác động khác nhau đến gia đình
chỉ làm nghề truyền thống hoặc không làm nghề truyền thống. Dù tỷ lệ trả lời
cho mối quan hệ này thấp, thậm chí rất thấp (cao nhất là 19,6% - ở yếu tố
kinh tế và thấp nhất là 0,0% - ở yếu tố văn hóa), nhưng tỷ lệ trả lời ở làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm hầu hết cao hơn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái. Như ở
mối quan hệ giữa yếu tố văn hoá với gia đình chỉ làm nghề truyền thống, tỷ lệ
trả lời ở làng nghề đồ Vạn Điểm là 18,9% so với tỷ lệ trả lời ở làng nghề sơn
mài Hạ Thái là 10,2%.
Như vậy, độ chênh lệch về tỷ lệ đánh giá ở hai làng nghề tuy không quá
xa, nhất là tỷ lệ trả lời đó đều cao, rất cao hoặc thấp, rất thấp, nhưng ít nhiều
cho thấy sự chi phối, tác động khác nhau của yếu tố chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội đến loại nghề của hộ gia đình giữa hai làng nghề hiện nay.
Chính quyền địa phương là cơ quan có thẩm quyền để quy hoạch và
mở rộng quỹ đất, tạo mọi chính sách thuận lợi để mở rộng và phát
triển làng nghề. Các doanh nghiệp, công ty và tổ hợp sản xuất. Vì
đây là đầu mối cơ bản cho nhân dân tiêu thụ sản phẩm làm ra
(PVS, nam, cán bộ xã Vạn Điểm.)
Ngoài ra, yếu tố văn hoá cũng thể hiện rơ sự phát triển của nghề truyền
thống trong các làng. Từ cổ xưa Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có nghề sơn vẽ,
trồng dâu nuôi tằm, được thể hiện qua câu ca còn lưu truyền (ghi trong quy
ước làng văn hóa Vạn Điểm) cho tới ngày nay:
“Mình về đường ấy thì xa
Có về Vạn Điểm với ta thì về
Vạn Điểm có cây Bồ Đề
Có ao tắm mát có nghề trồng dâu” [100, tr.4]
Trong Quy ước Làng văn hoá Vạn Điểm có quy định về khuyến nghề:
141
Điều 23: Khuyến nghề
Động viên các gia đình đã và đang giữ vững nghề truyền thống của
quê hương, khuyến khích các gia đình làm giàu chính đáng, hợp
pháp. Phát huy trí tuệ và sức lao động để mở rộng, phát triển các
ngành nghề khác, đa dạng các loại hình, tăng thu nhập… Làng ghi
công những ai đưa được nghề mới về làng truyền nghề cho nhân
dân địa phương để giải quyết việc làm tăng thu nhập cho quê
hương [100, tr.19-20].
Trong Quy ước Làng văn hoá Hạ Thái cũng quy định về khuyến nghề:
Phát triển ngành nghề giải quyết công ăn việc làm cho dân làng là
trách nhiệm chung của cấp uỷ Đảng, các đoàn thể, của mọi người.
Làng ghi công vào sổ vàng cho những ai đem nghề mới về làng giải
quyết việc làm tăng thu nhập, xoá bỏ dần hộ nghèo, không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân. Làng khuyến khích kinh doanh, không
buôn bán các mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành. Làng thành lập
quỹ khuyến nghề, thưởng cho ai đem nghề mới về làng. Mọi tổ
chức, thành viên trong làng có trách nhiệm thực hiện. [102, tr.17].
4.1.5.2. Yếu tố chủ trương, chính sách phát triển làng nghề
Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước có sự chi phối nhất
định đến cấu trúc xã hội cư dân làng nghề, cụ thể là thu nhập và nghề nghiệp
của cư dân làng nghề. Tỷ lệ đánh giá mối quan hệ giữa yếu tố chủ trương,
chính sách với thu nhập và loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái khá đa dạng. Chẳng hạn, giữa yếu tố chủ
trương, chính sách với thu nhập, nếu ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có tỷ lệ trả
lời với mức thu nhập cao nhất nhóm I (43,3%), nhóm II (36,5%) cao hơn làng
nghề sơn mài Hạ Thái, thì với mức thu nhập nhóm IV (39,6%) nhóm V
142
(30,6%); tỷ lệ trả lời ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại thấp hơn làng nghề sơn
mài Hạ Thái (xem Bảng 4.11).
Yếu tố chủ trương, chính sách với loại nghề của hộ gia đình, giữa làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái: nếu tỷ lệ trả lời cho hộ
gia đình làm nghề nông và nghề truyền thống ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
thấp hơn làng nghề sơn mài Hạ Thái (67,5% so với 83,8% ) thì tỷ lệ trả lời
cho gia đình làm nghề truyền thống hay gia đình không làm nghề truyền
thống ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại cao hơn làng nghề sơn mài Hạ Thái
(17,2% so với 9,4% và 15,3% so với 6,8%).
Bảng 4.11: Chủ trương, chính sách với thu nhập và loại nghề
của hộ gia đình theo đại bàn khảo sát
Đơn vị tính: %
5 nhóm thu nhập
Nhóm I (cao nhất) Nhóm II Nhóm III (trung bình) Nhóm IV Nhóm V (thấp nhất) Tổng (N = 438)
Chung
Đồ gỗ Vạn Điểm 43,3 36,5 12,8 2,5 4,9 203 20,3 19,2 19,4 22,4 18,7
Chung Chủ trương, chính sách
Loại nghề của hộ gia đình
Đồ gỗ Vạn Điểm Làng nghề Sơn mài Hạ Thái 0,4 4,3 25,1 39,6 30,6 235 Làng nghề Sơn mài Hạ Thái
17,2 9,4 13,0
67,5 83,8 76,3
Chỉ làm nghề truyền thống Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống Không làm nghề truyền thống
Tổng (N = 438)
15,3 6,8 10,7
203 235 438
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
143
Bảng 4.11 cho thấy, tỷ lệ đánh giá của người trả lời đã phần nào chỉ rõ
sự chi phối, tác động khác nhau của yếu tố chủ trương, chính sách với thu
nhập và loại nghề của hộ gia đình ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề
Hạ Thái hiện nay.
Tìm hiểu về vấn đề chủ trương của Đảng về phát triển làng nghề, Chủ
tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Điểm cho biết:
Để hoàn chỉnh công việc cần 11 thợ, nhưng gia đình tôi khi đó chỉ có 7
người, do vậy nhà tôi thiếu 4 nên đã đề nghị tỉnh cho thuê thêm 4 người
và được đông ý (thời gian đó thuê người chính quyền chưa cho phép).
Lúc đó thành lập cơ sở sản xuất đâu phải dễ, mang một cái tủ ra ngoài
thị trường nếu không được phép thì bị bắt hàng ngay. Từ ngày Đổi mới
hàng hoá được lưu thông, đặc biệt nhờ Quyết định 132/2000/QĐ-TTg,
năm 2008 làng nghề Vạn Điểm đã được xã quy hoạch 10 ha để sản xuất
đồ gỗ, giải quyết hơn 200 hộ gia đình đã chuyển sang điểm công nghiệp
làng nghề. Mỗi nhà một năm thu từ 350 đến 700 triệu.
(PVS, nam, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Điểm).
Còn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái:
Khi có khu quy hoạch làng nghề và được xã cho thuê 30 năm,
những hộ gia đình ra đây cũng rất phấn khởi vì có mặt bằng sản
xuất rộng rãi, có thể bố trí riêng phòng trưng bày, khu làm hàng
rộng rãi hơn. Song, tuỳ từng điều kiện, gia đình có vốn thì thuê mua 400-500 m2, gia đình ít vốn thì gộp với gia đình khác nhưng cũng phải thuê mua được tối thiểu 200m2, theo quy định của xã. Đến nay
đã có hơn 100 hộ ra khu làng nghề.
(PVS, nữ, nghệ nhân, làng nghề sơn mài Hạ Thái).
144
4.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP
4.1. Một số vấn đề đặt ra
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề
đồng bằng sông Hồng như đã phân tích trong luận án, tác giả đưa ra một số
nhận định về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng
trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục xuất hiện nhiều tổ chức xã hội mới, nhóm xã hội mới
trong cư dân làng nghề. Trong cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mô hình gia đình
nghề sẽ trở nên chuyên môn hóa hơn, một số gia đình trong làng nghề tiếp tục
trở thành những thầu phụ, sản xuất vệ tinh cho các công ty, đồng thời sẽ xuất
hiện kiểu cấu trúc xã hội làng nghề mô hình gia đình - công ty. Một số gia
đình khác sẽ kết hợp làm nghề truyền thống với một số nghề khác hoặc
chuyển nghề mới. Mô hình gia đình nghề ở làng nghề Vạn Điểm có thể vẫn
giữ số lượng hộ sản xuất như hiện nay, vì nhu cầu dùng đồ gỗ của thị trường
vẫn còn, có thể thấy đồ gỗ được sử dụng trong đời sống và sinh hoạt ở hầu hết
các gia đình của người Việt Nam. Một số hộ gia đình nghề ở làng nghề sơn
mài Hạ Thái cũng có thể giảm đi do lượng xuất khẩu mặt hàng sơn mài giảm
dần bởi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế những năm gần đây, một số gia đình
nghề sẽ kết hợp với làm vàng mã.
Thứ hai, các phân hệ cấu trúc xã hội liên kết với nhau theo nhiều cách
khác nhau, dưới nhiều hình thức chính thức hoặc phi chính thức. Cấu trúc xã
hội - gia đình nghề liên kết với nhau qua các mối quan hệ hôn nhân, dòng họ,
làm nghề. Các cấu trúc xã hội - công ty nghề liên kết với nhau dưới hình thức
các hợp đồng kinh tế và các quan hệ trao đổi, mua bán, sản xuất - kinh doanh;
vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Các công ty nghề liên kết các sản phẩm của nhiều
làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng, dựa trên yếu tố đầu vào như nguyên
liệu, chất liệu đến thị trường đầu ra, tạo thành chuỗi giá trị, đồng thời hỗ trợ
145
nhau nhằm phát huy một cách có hiệu quả thế mạnh các làng nghề. Chẳng
hạn, làng nghề sơn mài Hạ Thái có thể kết hợp với sơn mài cốt gốm (Bát
Tràng), sơn mài dát vàng, dát bạc quỳ (Kiệu Kỵ), tiện gỗ Nhị Khê; làng nghề
đồ gỗ Vạn Điểm kết hợp với Khảm trai Chuyên Mỹ… Trên thực tế, phần lớn
đồ gỗ Vạn Điểm khi xuất khẩu đi nước ngoài đều đóng hàng qua làng nghề đồ
gỗ Đồng Kỵ, mẫu mã làng nghề mộc La Xuyên… Mỗi làng nghề bên cạnh sự
chuyên môn hóa cao, đi sâu vào một nghề, yêu cầu trình độ tay nghề người
thợ cao hơn, cũng cần phải kết hợp với nhau để tạo ra hiệu quả kinh tế lớn
hơn, làng nghề phát triển hơn.
Thứ ba, bên cạnh các kiểu cấu trúc gia đình nghề còn có thêm kiểu
quan hệ công ty nghề. Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề vẫn giữ kiểu cấu trúc
xã hội mang tính trọng tình dựa trên các quan hệ gia đình, làng - xã, đồng thời
xuất hiện kiểu cấu trúc xã hội mang tính trọng lý dựa trên quan hệ chức năng,
theo cơ chế thị trường. Nghĩa là cấu trúc xã hội làng nghề theo hướng tổng -
tích hợp: vẫn duy trì tính cộng đồng, vẫn giữ lại những hạt nhân hợp lý xã hội
nông thôn truyền thống, song có bổ sung những quan hệ mang tính cơ chế thị
trường. Hay có thể hiểu quan hệ xã hội trong gia đình cư dân làng nghề chủ
yếu bị chi phối bởi yếu tố tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ, bên cạnh đó
phần nào cũng bị chi phối bởi yếu tố kinh tế thị trường, đề cao cá nhân và yếu
tố truyền dạy nghề truyền thống.
Ngoài ra, cũng không loại trừ cấu trúc xã hội cư dân làng nghề chủ yếu
vẫn là quan hệ theo mô hTnh gia đình nghề và khó có thể trở thành công ty
nghề trong thời gian tới. Bởi vì, các chủ gia đình, cơ sở sản xuất chưa chuẩn
bị đầy đủ những hiểu biết về công ty, khả năng quản lý kinh doanh còn hạn
chế, sự hiểu biết về luật kinh doanh, luật doanh nghiệp, các pháp luật về thuế
còn chưa đầy đủ; với những cơ sở sản xuất nhỏ, khi thành lập công ty nghề sẽ
146
tăng chi phí đầu vào như đóng một số loại thuế, mặt khác thiếu vốn để đầu tư
vào sản xuất một cách có quy mô.
4.2. Gợi ý một số giải pháp
Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức
Để nâng cao nhận thức cho cư dân làng nghề về nghề truyền thống, các
cấp chính quyền cần tăng cường tuyên truyền và thực hiện đầy đủ các chính
sách khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ phát triển sản xuất; pháp luật liên quan đến
hoạt động làng nghề, đến hộ gia đình, cơ sở sản xuất; giới thiệu các mô hình
liên kết hoạt động có hiệu quả, các công nghệ phù hợp, thông tin kinh tế,
thông tin thị trường phục vụ phát triển làng nghề. Tăng cường thông tin về
hoạt động làng nghề, địa bàn có nghề thủ công ở địa phương thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như: Báo in, đài phát thanh, đài truyền hình;
các đài truyền thanh xã, làng. Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn các cơ sở
sản xuất, nhất là đối với các công ty nghề về các qui định hội nhập kinh tế
quốc tế.
Giải pháp tạo các nguồn lực cho phát triển
Khảo sát thực tế, đa số các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng hiện nay,
lao động chủ yếu là làm theo kinh nghiệm, kiểu cha truyền con nối. Trình độ
học vấn cũng như tay nghề kỹ thuật người thợ nhìn chung ở mức độ phổ
thông. Để đáp ứng yêu cầu hoàn chỉnh cấu trúc xã hội làng nghề theo hướng
phát triển bền vững, trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các giải pháp: đào
tạo, nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho lao động làng
nghề. Chính quyền các cấp xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, kế hoạch
phát triển các hình thức đào tạo từ học nghề đến vừa học, vừa làm. Việc học
nghề và làm trực tiếp để biết nghề đồng thời có thu nhập được cư dân cho
rằng trước mắt là phù hợp. Song các địa phương cần đa dạng hóa hình thức
đào tạo phù hợp với khả năng và từng lứa tuổi của cư dân làng nghề. Để mở
147
rộng quy mô đào tạo nghề cần tăng cường công tác tuyên truyền. Cơ quan
quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở các địa phương cần phối hợp với các cơ
quan liên quan tiến hành khảo sát, thiết lập danh mục ngành nghề truyền
thống và đội ngũ các nghệ nhân, thợ lành nghề đang có trên địa bàn, kịp thời
bổ sung danh mục những ngành nghề mới; hướng dẫn các cơ sở đào tạo lao
động kỹ thuật trên địa bàn tổ chức xây dựng và ban hành chương trình đào tạo
trên cơ sở cụ thể hóa các nội dung của chương trình khung và xây dựng
chương trình cụ thể về những nghề mà các địa phương cần đào tạo.
Mở các lớp đào tạo cho các nghệ nhân, thợ giỏi về kỹ năng sư phạm,
thẩm mỹ, thiết kế mẫu mã, tạo dáng sản phẩm, sử dụng kỹ thuật mới để hình
thành đội ngũ giảng viên dạy và truyền nghề. Khuyến khích sự hợp tác giữa
các nghệ nhân với các cơ sở sản xuất, các trung tâm dạy nghề để truyền nghề
cho lớp trẻ.
Giải pháp mở rộng liên kết xã hội
Trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các làng nghề, việc hình thành
mạng lưới xã hội là yêu cầu khách quan, có vai trò rất quan trọng để khai thác
các nguồn lực và quy tắc của các bên tham gia nhằm phát triển kinh tế làng
nghề, tăng thu nhập, doanh thu cho các hộ gia đình nghề và công ty nghề.
Thực tế ở các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng nói chung và
trường hợp hai làng nghề luận án nghiên cứu nói riêng cho thấy, mạng lưới xã
hội làng nghề đã có, nhưng còn nặng tính tự phát và liên kết chưa mạnh. Đặc
biệt là thiếu sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa người sản xuất, nhà kinh
doanh, nhà khoa học… làm hạn chế rất lớn đến sự phát triển của làng nghề
trong vùng hiện nay. Cụ thể là:
- Đối với hộ gia đình nghề và cư dân làm nghề, cần nhận thức rõ hơn
sự cần thiết của sự liên kết xã hội trong hoạt động sản xuất - kinh doanh; để
khắc phục dần những khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết đầu vào,
148
đầu ra của quá trình sản xuất, tăng cường đổi mới công nghệ, kinh nghiệm
kinh doanh, để thực hiện mục tiêu cuối cùng là nâng cao sức cạnh tranh và
hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Đối với công ty nghề
Ở các làng nghề các nhà doanh nghiệp, công ty có thể là người trong
làng nghề và cũng có thể là người ở nơi khác đến. Họ là nhóm “ưu trội” về
kinh tế - tài chính, có nhiều mối quan hệ xã hội. Đây là những người năng
động trong sản xuất, kinh doanh và có hiểu biết về quản lý kinh tế. Công tác
quản lý điều hành doanh nghiệp, công ty nghề rất linh hoạt, ứng xử nhanh
chóng những tác động của thị trường để thay đổi mẫu mã trong kinh doanh,
cũng như áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Họ chính là động lực, giá đỡ
của các kênh phân phối nguồn hàng cho các làng nghề.
- Các nhóm xã hội, tổ chức xã hội ở trong và ngoài hệ thống xã hội làng
nghề nhằm tăng cường chức năng liên kết, chức năng hội nhập với các cơ sở
sản xuất ở trong và ngoài làng nghề. Thông qua hiệp hội làng nghề nhằm tạo
cầu nối giữa các cơ sở sản xuất, liên kết cùng nhau trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Qua khảo sát cho thấy, các tổ chức hiệp hội ở nhiều làng nghề
nước ta đã có vai trò xã hội quan trọng vào việc cùng hợp tác, liên kết giới
thiệu sản phẩm, truyền bá kinh nghiệm, tạo thương hiệu cho sản phẩm và
hướng nghiệp, dạy nghề cho cư dân làng nghề, đặc biệt cho lao động là thanh
niên nông thôn.
Vai trò của các hiệp hội ở các làng nghề là chỗ dựa cho các doanh
nghiệp, công ty, hộ gia đình sản xuất trong làng nghề, cụ thể là các hiệp hội
trong làng nghề thay mặt các cơ sở sản xuất, phản ánh những vấn đề ảnh
hưởng tới sản xuất để nhà nước cho những chính sách phù hợp hơn về sản
xuất trong các làng nghề. Các cơ quan chính quyền nên thường xuyên quan
tâm chỉ đạo, giúp đỡ các hiệp hội.
149
Giải pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiện nay, ở nhiều làng nghề đồng bằng sông Hồng, công nghệ sản xuất,
trang thiết bị còn rất lạc hậu. Điều đó dẫn đến năng suất, chất lượng không
cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp. Vì thế cần phải đổi mới công
nghệ và chuyển giao công nghệ là con đường chủ yếu hiện nay, nhằm giúp
các làng nghề phát triển bền vững. Song, việc áp dụng công nghệ tiên tiến rất
có thể làm mất đi yếu tố truyền thống, độc đáo trong sản phẩm của làng nghề,
nên đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ thích hợp cho làng nghề
cần kết hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Công nghệ
truyền thống là thể hiện tính độc đáo về kỹ thuật, kỹ xảo để tạo nên phong
cách riêng có của sản phẩm mang đậm đặc trưng về nghệ thuật văn hóa dân
tộc. Còn công nghệ hiện đại, là tạo ra sản phẩm hàng loạt, chất lượng tốt,
năng suất lao động cao. Do đó, khi chuyển giao công nghệ và đổi mới công
nghệ cần tập trung là những công đoạn sản xuất có nhiều yếu tố, hoá chất độc
hại, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người lao động và cư dân làng nghề. Đổi
mới công nghệ và chuyển giao công nghệ phải phù hợp với từng ngành nghề,
từng làng nghề.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề chịu sự tác động của
đặc điểm nhân khẩu xã hội của chủ hộ gia đình và các yếu tố vĩ mô: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của làng-xã, chủ trương, chính sách phát triển làng
nghề. Sự tác động của các yếu tố này đã cung cấp góc nhìn đa dạng, toàn diện
về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề hiện nay.
Từ phân tích thực trạng và yếu tố tác động cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề, luận án rút ra một số vấn đề như: tiếp tục xuất hiện nhiều tổ chức
xã hội mới, nhóm xã hội mới trong cư dân làng nghề; các tiểu cấu trúc liên kết
với nhau theo nhiều cách dưới nhiều hình thức chính thức, phi chính thức
150
khác nhau; các kiểu cấu trúc gia đình nghề còn có thêm kiểu quan hệ công ty
nghề. Ngoài ra, một số gợi ý giải pháp, gồm: tuyên truyền nâng cao nhận
thức; tạo các nguồn lực cho phát triển; tăng cường đoàn kết và mở rộng liên
kết xã hội; thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đã góp phần hoàn
thiện cấu trúc xã hội cư dân làng nghề hiện nay.
151
KẾT LUẬN
1. Luận án dựa trên quan điểm lý luận, phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước phát triển làng nghề. Đồng thời, tác giả vận
dụng lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa
của Anthony Giddens để nhìn nhận, đánh giá thực trạng một số phân hệ cơ
bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn
mài Hạ Thái. Việc vận dụng các quan điểm, lý thuyết trên là phù hợp với đặc
điểm hiện nay ở xã hội Việt Nam đang tái cấu trúc kinh tế. Cụ thể, cách tiếp
cận lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons đã giải thích được cấu trúc
xã hội làng nghề với tính cách là kiểu quan hệ của các thành phần tạo nên các
hệ thống xã hội từ vi mô đến vĩ mô. Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái đã được hình thành,
vận động, biến đổi nghĩa là “cấu trúc hóa” thông qua việc huy động, sử dụng
các nguồn lực và các quy tắc hoạt động của làng nghề trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Luận án vận dụng và góp phần phát triển thêm một số khái niệm cấu
trúc xã hội, làng nghề, cư dân, cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề; phân biệt
các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội làng nghề (nhóm xã hội, vị thế xã
hội, vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội, tổ chức xã hội cư dân
làng nghề); làm rõ một số phân hệ cấu trúc xã hội làng nghề như cấu trúc xã
hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội nghề nghiệp, cấu trúc
xã hội - mức sống.
3. Trong phân tích các phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề,
luận án rút ra một số luận điểm chính sau:
Cấu trúc xã hội - dân số: Cư dân làng nghề quan niệm về giá trị con trai
và con gái là khá công bằng giới, song trong thị trường lao động thì do đặc
152
thù lao động nghề nghiệp, đã có sự phân công lao động theo giới tính, đối với
những công việc cần sự nhẹ nhàng thì vai trò của phụ nữ được đánh giá cao.
Cư dân làng nghề ngoài việc coi trọng người cao tuổi, thì độ tuổi từ 25-55
tuổi cũng rất được coi trọng, bởi đây là nguồn nhân lực chính trong làng nghề.
Cấu trúc xã hội - trình độ học vấn của cư dân làng nghề tập trung ở trình độ
trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Cấu trúc xã hội - gia đình: quy mô gia đình làm nghề không chỉ phụ
thuộc vào số nhân khẩu trong gia đình, trên cơ sở số lượng sinh của các cặp
vợ chồng và kiểu sống chung giữa các thế hệ, mà còn bị chi phối bởi cách
thức tổ chức lao động trong gia đình.
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: Những người thợ làm nghề phần lớn là
các thành viên ở độ tuổi lao động trong gia đình đều có thể tham gia vào một
hoặc nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề nghiệp tùy theo trình độ tay
nghề, giới tính để làm những công đoạn sản xuất phù hợp.
Cấu trúc xã hội - mức sống: Đa số cư dân làng nghề có mức sống trung
bình và khá giả, bởi ngoài làm nông nghiệp cư dân còn tham gia làm nghề
truyền thống. Nhiều hộ gia đình nghề mức sống khá giả đầu tư, mở rộng cơ sở
sản xuất của gia đình, một số gia đình nghề trở thành công ty nghề.
Đặc biệt, mô hình gia đình nghề đã trở nên phổ biến và chiếm đại đa số,
đồng thời đang được cấu trúc hóa nhờ việc các chủ hộ gia đình, chủ cơ sở sản
xuất tích cực khai thác được các nguồn lực và các quy tắc phù hợp để tạo việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của gia đình và đóng góp cho hệ thống
xã hội làng nghề. Tuy nhiên, mô hình công ty nghề cũng đã xuất hiện. Mô
hình này hoạt động theo hướng kết hợp và khai thác các thế mạnh gồm nguồn
lực và các quy tắc của làng nghề và nhất là các quy định pháp luật về kinh
doanh cũng như các lợi thế của công ty. Ngoài ra, mô hình hỗn hợp công ty -
gia đình hình thành, theo kiểu mạng lưới hợp tác, thầu phụ và mô hình gia
153
đình - công ty để khai thác tối đa các nguồn lực và các quy tắc phù hợp của
các bên tham gia.
4. Ngoài ra, luận án còn phân tích các mối quan hệ giữa yếu tố đặc
điểm nhân khẩu xã hội của chủ hộ gia đình và đặc điểm loại nghề nghiệp của
hộ gia đình với cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề; đưa ra một số nhận định
về cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới
và gởi mở một số giải pháp hoàn thiện cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề
đồng bằng sông Hồng hiện nay.
5. Từ những phân tích, đánh giá thực trạng cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề và các yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề các
giả thuyết nghiên cứu đã được kiểm chứng, đó là: Cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay thể hiện qua bốn phân hệ chủ yếu
(cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu trúc xã hội - nghề
nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống); Các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân
làng nghề đồng bằng sông Hồng chịu tác động bởi những đặc điểm như: tuổi,
giới tính của chủ hộ gia đình - chủ cơ sở sản xuất; loại nghề nghiệp của hộ gia
đình, thời gian tham gia làm nghề, số lao động tham gia làm nghề.
6. Cấu trúc xã hội cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng là công trình
nghiên cứu xã hội học tương đối mới mẻ và là một vấn đề lớn. Do vậy, vấn đề
này cần tiếp tục được nghiên cứu sâu, rộng và hoàn thiện hơn cả về lý luận và
thực tiễn ở những công trình tiếp theo.
154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Ngọc Anh (2014), “Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm ở Hà Nội: từ mô hình gia đình đến mô hình công ty”,
Tạp Nghiên cứu Gia đình và Giới, số (3).
2. Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Thực trạng cấu trúc xã hội của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền” Tạp chí Lý luận & Truyền thông, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, số (1+2).
3. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Ngọc Anh (2010), “Một số vấn đề xây dựng
Xã hội học lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới”, Tạp chí Xã hội học số (4).
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (chủ biên), (1996), Nghiên cứu xã hội học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đặng Nguyên Anh (2000), ”Cấu trúc hộ gia đình và sức khỏe trẻ em:
những phát hiện qua khảo sát nhân khẩu học và sức khỏe 1997”, Tạp chí
Xã hội học (số 4), tr 61-74.
3. Vũ Tuấn Anh (1990), “Về sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng
giá trị ở nông thôn trong quá trình đổi mới kinh tế”, Tạp chí Xã hội học,
(số 4), tr.9-11.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011): Báo cáo kết quả 5 năm
thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Duyên Thái (2009): Lịch sử cách mạng của
Đảng bộ và nhân dân xã Duyên thái (1945-2005), Nxb Hà Nội. tr18.
6. Phí Văn Ba (1990), “Sự biến đổi của các truyền thống gia đình nông
thôn trong quá trình hiện đại hóa: phác thảo theo kết quả điều tra xã hội
học gần đây”, Tạp chí Xã hội học (số 3), tr.1-10.
7. Mai Huy Bích (1989), “Một số đặc trưng về cơ cấu và chức năng, gia
đình Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học, (số 2), tr
53-55.
8. Mai Huy Bích (2006), “Lý thuyết phân tầng xã hội và những phát triển
gần đây”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.106-115.
9. Bộ Tài nguyên và môi trường (2008): Báo cáo môi trường quốc gia
2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Hà Nội.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006): Thông tư
116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 Hướng dẫn thực hiện một số nội
156
dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ
về phát triển ngành nghề nông thôn.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1994, t13, tr 14-15.
12. Nguyễn Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện
nay, Nxb. Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.
13. Bùi Thế Cường (2010), Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam
hiện nay - Kết quả nghiên cứu của đề tài KX.02.10 (2001 - 2005), Nxb
Khoa học xã hội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng: Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong
5 năm 1986-1990. Nguồn www.cpv.org.vn
16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về "Tiếp tục đổi
mới và phát triển KT-XH nông thôn". Nguồn www.cpv.org.vn
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 07-NQ/HNTW Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII "Phát triển công
nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới".
Nguồn www.cpv.org.vn
18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 15/NQ/TW ngày 15/12/2000 của
Bộ Chính trị khóa VIII về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô
trong thời kỳ 2001-2010. Nguồn www.cpv.org.vn
157
19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng. Nguồn www.cpv.org.vn
20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX số 15-NQ/TW, ngày 18/3/2002 về đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Nguồn
www.cpv.org.vn.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004
của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn www.cpv.org.vn.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Nguồn www.cpv.org.vn.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-
2020. Nguồn www.cpv.org.vn.
24. Bùi Xuân Đính (2009), Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội)
- truyền thống và biến đổi. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (chủ biên) (2001), Xã hội học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Đỗ Thái Đồng (1989), “Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở
một xã nông thôn Nam Bộ”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.49-59.
27. Bùi Quang Dũng (2001) “Nghiên cứu làng Việt: các vấn đề và triển
vọng”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.15-23.
28. G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
29. http://www.gso.gov.vn
30. http://ptit.edu.vn/wps/portal/nongthonvn
158
31. Mai Văn Hai, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Đức Chiện, Ngô Thị Thanh
Quý (2013), Bản sắc làng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Phạm Xuân Hảo, (2000), “Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta
hiện nay và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9),
tr. 44-46.
33. Phạm Xuân Hảo, (2004), “Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo - Một yêu cầu
quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị, (số 2), tr 35-36, 60.
34. Nguyễn Thị Kim Hoa (2000), “Tác động của quá trình đô thị hóa đến
kinh tế hộ gia đình nông thôn (nghiên cứu trường hợp vùng ven thị xã
Bắc Ninh)”, Tạp chí Xã hội học (số 1), tr.55-61.
35. Tô Duy Hợp, Đặng Vũ Cảnh Linh (2008): Đặc điểm cư dân và văn hóa
vùng ven biển và hải đảo: một số vấn đề lý luận cơ bản. Nguồn
www.vanhoahoc.vn
36. Tô Duy Hợp (2007), Khinh - Trọng một quan điểm trong nghiên cứu
triết học và xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
37. Tô Duy Hợp (2003), Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông
Hồng ngay nay. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
38. Tô Duy Hợp (chủ biên) (2000), Sự biến đổi của làng - xã Việt Nam ngày
nay (ở đồng bằng sông Hồng), Nxb Khoa học xã hội.
39. Tô Duy Hợp (chủ biên), (1997), Ninh Hiệp - truyền thống và phát triển.
Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
40. Tô Duy Hợp (1993), Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội
nông thôn trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr
18-23.
41. Tô Duy Hợp (1993), Sự phân tầng xã hội ở nông thôn miền Bắc, Tạp
chí Cộng sản, (11), tr 47-50.
159
42. Tô Duy Hợp (1990), “Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã
hội nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, (số 4),
tr.20-26.
43. Lê Ngọc Hùng (2013), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
44. Lê Ngọc Hùng (2009), “Động thái của cấu trúc xã hội và thuyết cấu trúc
hóa của Anthony Giddens”, Tạp chí Xã hội học, (số 2), tr.82-91.
45. Lê Ngọc Hùng, Lưu Hồng Minh (đồng chủ biên), (2009), Giáo trình Xã
hội học, Nxb Dân trí, Hà Nội.
46. Lê Ngọc Hùng (2009), Lịch sử & lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
47. Lê Ngọc Hùng (2006), Xã hội học giáo dục, Nxb Lý luận Chính trị, Hà
Nội.
48. Vũ Tuấn Huy (2007) “Một số vấn đề cơ bản của cơ cấu xã hội - giai
cấp ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
49. Đỗ Thiên Kính (2002), “Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp
dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Xã hội học, (số 1), tr. 51-58.
50. Đỗ Thiên Kính (1996), “Sự chuyển đổi cơ cấu lao động - nghề nghiệp
và tác động của nó đến phân tầng mức sống ở một xã vùng đồng bằng
sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr 28-34.
51. Đỗ Thiên Kính (1995), “Sự biến đổi của cơ cấu nghề nghiệp và phân
tầng mức sống ở nông thôn đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học,
(số 3), tr 68-74.
52. Tương Lai (1997), “Những vấn đề của sự biến đổi xã hội sau 10 năm
đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.3-12.
160
53. Tương Lai (1995), “Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội - cơ sở lý
luận và phương pháp luận”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr.9-29.
54. Trịnh Duy Luân (2004), “Vấn đề phân tầng xã hội Việt Nam hiện nay:
Nhìn lại một số khía cạnh phương pháp luận từ cách tiếp cận xã hội
học”, Tạp chí Xã hội học, (số 3), tr 14-24.
55. Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường (2001), “Phân tầng xã hội và công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, Số (2), tr.3-11.
56. Trịnh Duy Luân (2000), “Xã hội học Việt Nam: Một số định hướng tiếp
tục xây dựng và phát triển”, Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.9-20.
57. Trịnh Duy Luân (1992), “Sự phân tầng xã hội theo mức sống tại thủ đô
Hà Nội trong những năm đầu thực hiện Đổi mới”, Tạp chí Xã hội học,
(số 4), tr 16-28.
58. Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Xuân Mai, Đỗ Minh Khuê (2005), “Biến
đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”,
Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.56-64.
59. Lưu Hồng Minh (2001), Thực trạng phân tầng xã hội theo mức sống ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng - Dự báo và những kiến nghị, Luận án
Tiến sĩ Xã hội học, Hà Nội.
60. Lưu Hồng Minh (1999), “Tính năng động của người dân nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ với phân tầng xã hội”, Tạp chí Xã hội học, (Số 2), tr.
84-90.
61. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
161
67. Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
68. Phạm Xuân Nam (2001), “Mấy nét sơ bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội -
giai cấp ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr 3-13.
69. Lê Mạnh Năm (2003), “Phong trào khôi phục tập quán - tín ngưỡng cố
truyền ở một số làng xã vùng châu thổ sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học,
số 3 (83), tr.61-65.
70. Lê Mạnh Năm (2000) “Vai trò của gia đình nông thôn đồng bằng sông
Hồng trong vấn đề giải quyết việc làm cho con cái”, Tạp chí xã hội học
(số 2), tr.30-36.
71. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Tấn, Lê Ngọc Hùng (2010), Cơ cấu xã hội
và phân tầng xã hội (Qua khảo sát một số tỉnh, thành phố ở Việt nam),
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
72. Philippe Papin - Olivier Tessier (chủ biên) (2002). Làng ở vùng châu
thổ sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ (Le Village en questions. The Village
in questions). Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà
Nội.
73. Đỗ Nguyên Phương (chủ biên), (1995), Thực trạng và xu thế phát triển
cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, Chương trình Khoa học
công nghệ cấp Nhà nước KX-07, Đề tài KX-07-05, Hà Nội.
74. Pierre Gourou (2003), Người nông dân vùng đồng bằng Bắc Kỳ, Bản
tiếng Việt, Thư viện Viện Xã hội học.
75. Nguyễn Đình Tấn (2014), Phân tầng xã hội hợp thức và kiến nghị nhằm
thực hiện công bằng xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 9) tr.53-58.
76. Nguyễn Đình Tấn (2011), “Từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dự
báo về sự biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị số
(số 9). tr.31-40.
162
77. Nguyễn Đình Tấn (2010): “Xã hội học về cơ cấu xã hội và phân tầng xã
hội - một chặng dường 20 năm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng”,
Tạp chí Xã hội học, số (3), tr.6-12.
78. Nguyễn Đình Tấn, (Chủ biên), (2010), Xu hướng phân tầng xã hội trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao
Động, Hà Nội.
79. Nguyễn Đình Tấn, (2010), Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong tiến
trình đổi mới, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 3), tr.3-8.
80. Nguyễn Đình Tấn, (2009), “Các yếu tố tác động đến phân tầng xã hội”,
Tạp chí Xã hội học, (số 1), tr.13-25.
81. Nguyễn Đình Tấn, (2009), “Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng
nông thôn nước ta hướng tới một xã hội năng động, phân tầng hợp thức
và văn minh”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 5), tr.21-26.
82. Nguyễn Đình Tấn, (2008), Một số vấn đề về phân tầng xã hội hợp thức
ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (số 7), tr 10-
18.
83. Nguyễn Đình Tấn, Lê Văn Toàn, (2006), “Quan niệm của Max và các
nhà xã hội học phương Tây về phân tầng xã hội”, Tạp chí Xã hội học,
(số 2), tr.97-102.
84. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
85. Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội & phân tầng xã hội, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
86. Nguyễn Đình Tấn (2005), “Cơ cấu xã hội và Phân tầng xã hội - Những
đóng góp về lý luận và ứng dụng thực tiễn”, Tạp chí Xã hội học, (số 3),
tr.25-32.
87. Nguyễn Đình Tấn (1993), “Góp phần tìm hiểu khái niệm phân tầng xã
hội”, Tạp chí Xã hội học, (số 4), tr.86-92.
163
88. Nguyễn Đình Tấn (1993), “Phân tầng xã hội theo mức sống qua mẫu
khảo sát ở nội thành Nam Định”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (số 3),
tr.60-64.
89. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), (2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã
hội Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
90. Trịnh Xuân Thắng, Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống một
cách bền vững, Tạp chí cộng sản điện tử, 2014. Nguồn:
http://tapchicongsan.org.vn
91. Thủ tướng chính phủ: Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23/5/2013 phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng
sông Hồng đến năm 2020.
92. Lê Văn Toàn (2008), “Phân tầng xã hội ở nước ta qua điều tra mức sống
hộ gia đình”, Tạp chí Cộng sản, (số 7), tr.94-99.
93. Trương Xuân Trường (2003), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông
thôn vùng châu thổ sông Hồng hiện nay, Tạp chí Xã hội học”, (số 3) tr.
28-41.
94. Nguyễn Đức Truyến (2003), Sự hình thành và phát triển của làng ở
đồng bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình, Tạp chí Xã hội học
(số 3), tr.21-27.
95. Nguyễn Đức Truyến: Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ Đổi mới, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2003.
96. Nguyễn Đức Truyến (1999), “Người nông dân đồng bằng sông Hồng và
quan hệ cộng đồng trong thời kỳ đổi mới”,Tạp chí Xã hội học, (số 1)
tr.45-51.
97. Trần Từ (1984). Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
164
98. UBND huyện Thường Tín (2013): Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ
trọng tâm năm 2014.
99. UBND xã Vạn Điểm (2013): Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội an ninh quốc phòng năm 2013 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2014.
100. UBND xã Vạn Điểm (2007): Quy ước làng văn hóa Vạn Điểm.
101. UBND xã Duyên Thái (2013): Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội năm 2013; Phương hướng, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm
năm 2014.
102. UBND xã Duyên Thái (2002): Quy ước Làng văn hoá Hạ Thái.
103. V.L. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1997, tập.39.
104. Lê Ngọc Văn (2002), Một số đặc điểm biến đổi gia đình từ xã hội nông
nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hóa, Tạp chí Khoa học
phụ nữ (số 1).
105. Viện Nghiên cứu Văn hóa (2012), Tổng tập nghề và làng nghề truyền
thống Việt Nam (tập 1), Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
106. Viện Xã hội học (1991), “Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ trong điều kiện kinh tế mới”, Tạp chí Xã hội học, (số 1),
tr.1-14.
107. Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (2010): Báo cáo tổng kết
kết quả đề tài cấp nhà nước (KX03/06-10): Đặc điểm cư dân và văn hóa
vùng ven biển trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.
108. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam,
Nxb Văn hóa dân tộc.
165
109. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Luận án Tiến
sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế học.
110. Trần Minh Yến (2004), Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Khoa học xã hội Việt Nam.
Tài liệu Tiếng Anh
111. Giddiens Anthony (1997), Sociology, Polity Press, London.
112. Anthony Giddens. In Defence of Sociology: Essays, Interpretatons &
Reoinders.USA. MA: Cambridge: Blackwell Publishers Inc.1996.
pp.100.
113. Chandima Dih anni Daskon (2010), One culture - Many perpective,
undersanding cultural diversity through rural livehoods a reflection
from the rural craft communities in Kandy, Sri Lanke, Antrocom online
journal of anthropoplgy, Vol. 7, No.1, pp. 41-42.
114. Faulkner, S. J, Baldwin. S, Lindsley and M. Hecht (2006), Layers of
meaning: an analysis of definition of culture, In J, R and Baldwin, S, L,
Faulkner, M, L, Hecht and S, L, Lindsley (2006) (eds,) Redefining
culture: perspective across the disciplines, New Jersey, Lawrence
Erlbaum Associates, Inc, pp. 27-52.
115. Jonathan H,Turner (1986), “The theory of structuration”, American
Journal of sociology, Vol. 91, Issue 4, pp. 970-974.
116. Kailash Pyakuryal, Weberian model of social stratification-a view point,
Sociology and Anthropology Vol.7 2001, pp. 15-25.
117. Krejcie, R.V. & Morgan, D.W. (1970). Determining sample size for
research activities. Educational and Psychological Measurement, 30,
607-610.
166
118. Lopez, J, and J, Scott (2000), Social Structure, pp.1-7, Open University
Press, Buckingham and Philadelphia, http://www.questia.com.
119. Pierre Bourdieu (1986), The Forms of Capital, Handbook of Theory and
Research for the Sociology of Education, New York, Greenwood, pp.
241-258.
120. Talcott Parsons (1940), An analytical approach to the theory of social
stratification,The American Journal of sociology, Vol XLV, N.6, pp.
841-843.
121. William F.Sewell (1992), “A theory of structure: Duality, Agency and
transformation”, The American Jounal of Sociology, Vol. 98, No.1, pp.8.
PHỤ LỤC
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN (Dùng cho chủ hộ gia đình làm nghề truyền thống)
Ông, bà kính mến!
Để có thông tin về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay, đề nghị ông (bà) cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh X vào ô vuông tương ứng (cid:1) hoặc viết vào chỗ chấm (..............)
2. Nữ (cid:1)
Câu 1. Ông (bà) vui lòng cho biết đôi nét về bản thân? 1.1 Giới tính 1. Nam (cid:1) 1.2. Ông (bà) bao nhiêu tuổi:.......................... 1.3. Họ của ông (bà) là gì:............................... 1.4. Ông (bà) đã học hết lớp nào?
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
4. Trung cấp 5. Cao đẳng, đại học 6. Trên đại học
1. Tốt nghiệp tiểu học 2. Tốt nghiệp trung học cơ sở 3. Tốt nghiệp THPT 1.5 Trình độ tay nghề của ông (bà)?
(cid:1) (cid:1)
1. Thợ lành nghề 2. Thợ giỏi
(cid:1) 3. Nghệ nhân 4. Khác……………………(cid:1)
1.6. Ông (bà) thuộc dân tộc nào?
1. Kinh (cid:1)
2. Dân tộc khác (cid:1)
1.7. Ông (bà) theo tôn giáo nào?
1. Không theo tôn giáo (cid:1)
2. Thiên chúa giáo (cid:1)
3. Tôn giáo khác (xin ghi rõ).........................
2. Không (cid:1)
1.8. a Ông (bà) là đảng viên hay không? 1. Đảng viên (cid:1) 1.8. b Ông (bà) đang tham gia trong:
1. Khối Đảng(cid:1) 2. Khối Chính quyền(cid:1) 3. Khối đoàn thể xã hội(cid:1) 4. không tham gia (cid:1)
1.8.c Nếu có thì mức độ và phạm vi được coi trọng như thế nào? Gia đình Làng xóm
Mức độ
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Xã hội (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Rất được coi trọng 2. Được coi trọng 3. Ít được coi trọng 4. Không biết
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
Câu 2. Xin ông (bà) cho biết một số thông tin về gia đình 2.1. Số nhân khẩu trong hộ gia đình: ………….người. 2.2. Số lao động trong gia đình đang làm nghề: ………...người. 2.3. Số thế hệ trong gia đình …………….. 2.4. Gia đình làm nghề được ………… năm. 2.5. Hộ gia đình ông (bà) thuộc: 1. Chỉ làm nghề truyền thống 2. Làm cả nông nghiệp và nghề truyền thống 3. Nghề khác:...............................
Nếu hộ gia đình ông (bà) làm nghề truyền thống xin ghi rõ làm nghề gì?: ........................................................................................................................................ Và Trình độ tay nghề của thợ trong gia đình ông (bà) chủ yếu là:
(cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
4. Nghệ nhân 5. Khác……………………
1. Thợ học việc 2. Thợ lành nghề 3. Thợ giỏi 2.6. Trong làng có tất cả mấy nghề .....................................................................
Câu 3. Theo ông (bà), nghề truyền thống mà ông bà đang làm có được xã hội coi trọng không?
(cid:1) (cid:1)
1. Rất coi trọng 2. Coi trọng
3. Không coi trọng (cid:1) (cid:1) 4. Không biết
Câu 4.1. Theo ông (bà) mức sống của gia đình mình thuộc loại nào (so với các hộ gia đình trong làng) 1. Giàu có (cid:1)
4.Nghèo (cid:1)
3.Trung bình (cid:1) 2. Khá giả (cid:1) 4.2. Thu nhập bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?
Quy ra tiền:................................................................... đồng.
4.3 Chi tiêu bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?
Quy ra tiền:.................................................................. đồng. Câu 5. Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt động nào sau đây?
4. Ăn uống, sinh hoạt
(cid:1) 1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ (cid:1) (cid:1) 3. Đào tạo nghề cho thợ
(cid:1) (cid:1) 5. Du lịch, giải trí 6. Chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh (cid:1)
Câu 6. Cơ sở sản xuất của hộ gia đình sản xuất ở đâu?
1. Tại gia đình (cid:1)
2. Khu sản xuất làng nghề (cid:1)
3. Cả 2 nơi (cid:1)
Câu 7. Xin ông (bà) cho biết mô hình sản xuất của gia đình trước đây và hiện nay?
Hiện 1. Hộ gia đình (cid:1) 1. Hộ gia đình (cid:1) 2. Liên kết các hộ (cid:1) 2. Liên kết các hộ (cid:1) 4. Công ty doanh nghiệp (cid:1) 4. Công ty doanh nghiệp (cid:1) 2. Hợp tác xã (cid:1) 2. Hợp tác xã (cid:1) a.Trước đây: b. nay:
Câu 8. Ông (bà) đánh giá mức độ cạnh tranh (thương hiệu) của sản phẩm làng nghề trên thị trường?
1. Cao (cid:1)
2. Khá (cid:1)
3. Trung bình (cid:1) 4. Yếu (cid:1)
Câu 9. Ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến về vai trò của mình trong gia đình, dòng họ và cộng đồng?
Quan trọng
Không biết
1. Gia đình
Rất quan trọng (cid:1) (cid:1)
Không quan trọng (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
2. Dòng họ
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
3. Cộng đồng
4. Cán bộ Đảng
(cid:1) Câu 10. Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường tham khảo ý kiến của ai đầu tiên? (chỉ chọn 1 phương án trả lời) (cid:1) 1. Người thân trong gia đình 2. Người có uy tín trong dòng họ (cid:1) (cid:1) 3. Bạn bè của gia đình
(cid:1) (cid:1) 5. Cán bộ chính quyền 6. Cán bộ các đoàn thể xã hội (cid:1)
Câu 11. Trong gia đình ai là người có vai trò chính trong các lĩnh vực sau:
Công việc
Bố/mẹ Con cái
1. Sản xuất, kinh doanh
2. Học tập của con cái
3. Định hướng nghề nghiệp cho con
4. Trong cưới xin
5. Trong ma chay
5. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền
6. Công việc của làng, dòng họ
7. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa
Ông/bà (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
8. Chuyển đổi nghề nghiệp
Câu 12. Ông (bà) đánh giá cuộc sống của gia đình mình hiện nay so với 5 năm trước đây như thế nào?
Nội dung
Tốt hơn Như cũ Kém đi (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 4. Vui chơi giải trí, du lịch 5. Việc học tập để nâng cao trình độ 6. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 7. Việc học hành của trẻ em 8. Quan hệ xã hội 9. Điện thắp sáng 10. Nước sinh hoạt 11. Điều kiện vệ sinh môi trường 12. Trật tự an ninh 13. Nhà ở
Câu 13. Xin ông (bà) cho biết ở làng mình phân công lao động chủ yếu thuộc nhóm nào dưới đây?
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Lao động chủ yếu là nam giới 2. Lao động chủ yếu là nữ giới 3. Lao động chủ yếu là người tay nghề giỏi
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
4. Lao động chủ yếu là người mới học việc 5. Lao động chủ yếu là người trong gia đình 6. Lao động chủ yếu là người trong dòng họ 7. Lao động chủ yếu là người trong làng 8. Lao động chủ yếu là người ngoài làng
Câu 14. Xin ông (bà) cho biết ở làng độ tuổi của chủ doanh nghiệp sản xuất là:
1. Dưới 30 tuổi (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
2. Từ 30-40 tuổi (cid:1) 3. Từ 41-50 tuổi (cid:1) 4. Trên 50 tuổi (cid:1) Câu 15. Trong các hoạt động lễ hội của làng hoặc các sự kiện quan trọng khác trong làng, ai là người có vai trò quan trọng? 1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân
Câu 16. Trong hoạt động cộng đồng như: làm đường, tu bổ đình chùa, lễ hội… của làng, ai là người có đóng góp về vật chất chủ yếu?
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân
Câu 17. Theo ông/bà, các yếu tố nào dưới đây tác động đến sự phát triển của làng nghề?
(cid:1) 1. Vốn sản xuất, kinh doanh (cid:1) 2. Cơ sở sản xuất khu riêng và mặt bằng rộng (cid:1) 3. Nguyên nhiên liệu 4. Áp dụng được khoa học, công nghệ, máy móc mới trong sản suất (cid:1) (cid:1) 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm và hội nhập quốc tế (cid:1) 6. Năng lực và kinh nghiệm của người đứng đầu cơ sở sản xuất (cid:1) 7. Tay nghề, chuyên môn giỏi (cid:1) 8. Người lao động thiết tha với nghề (cid:1) 9. Thời gian ký hợp đồng để hoàn thành sản phẩm (cid:1) 10. Bản sắc văn hóa của làng nghề (cid:1) 11.Gia đình, dòng họ (cid:1) 12. Hiệp hội làng nghề (cid:1) 13. Việc làm của lao động nông thôn (cid:1) 14. Năng lực lãnh đạo cán bộ cấp xã, làng (cid:1) 15. Làng nghề gắn với du lịch (cid:1) 16. Quy trình phong tặng nghệ nhân (cid:1) 17. Tìm tòi, sáng tạo nhiều mẫu mã (cid:1) 18. Được vay vốn ngân hàng với chính sách thông thoáng hơn
Câu 18. Ông (bà) cho biết ý kiến của mình về những nhận định dưới đây?
Những nhận định
Đồng ý (cid:1)
Không đồng ý (cid:1)
Khó trả lời (cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống ngày càng được gìn giữ và phát triển 2. Giáo dục, y tế ngày càng được quan tâm, chăm sóc tốt hơn 3. Mối quan hệ giữa những người dân trong làng ngày càng tốt hơn 4. Tệ nạn xã hội xảy ra trong làng xã ngày càng tăng 5. Môi trường của làng nghề ngày càng ô nhiễm 6. Số hộ làm nghề truyền thống vẫn duy trì, ổn định 7. Nghệ nhân trong làng ngày càng nhiều hơn 8. Chính quyền quan tâm đến phát triển làng nghề nhiều hơn
Câu 19. Theo ông (bà), ai là người được kính nể trong làng, xã?
Mức độ
Quan trọng
Không biết
Rất quan trọng
Không quan trọng
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Những người được kính nể trong làng, xã Người giỏi tay nghề/nghệ nhân Người có chức vụ Người giầu có Người cao tuổi Người có uy tín Chủ doanh nghiệp giỏi
Câu 20. Theo ông (bà) vai trò của Hiệp hội làng nghề có quan trọng đối với phát triển làng nghề?
1. Rất quan trọng (cid:1)
2. Quan trọng (cid:1)
3. Không quan trọng (cid:1)
TT
Quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên
Câu 21. Theo ông (bà), quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên: 10 năm tới (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
10 năm trước (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Hiện nay (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Theo nhóm ngành/nghề 2. Theo các quy mô sản xuất của các hộ gia đình 3. Theo các tuyến dòng họ có nghề truyền thống 4. Theo thời gian làm nghề của các hộ gia đình
Câu 22. Theo ông (bà) Chủ cơ sở sản xuất có nên tham gia vào các tổ chức?
1. Lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã (cid:1) 4. Tổ chức Đảng 2. Lãnh đạo cấp thôn, làng 3. Lãnh đạo hiệp hội nghề nghiệp
(cid:1) (cid:1) 5.Không nên tham gia (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
Câu 23. Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 1. Quy hoạch các làng nghề phải gắn với quy hoạch phát triển nông thôn mới 2. Nâng cao trình độ tay nghề cho thợ và đào tạo nghề cho lao động động nông thôn mới (cid:1) 3. Tăng cường quảng bá sản phẩm của làng nghề ra thị trường trong và ngoài nước (cid:1) 4. Nâng cao vai trò của các hiệp hội làng nghề (cid:1) 5. Cần phát triển du lịch làng nghề 6. Tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong việc duy trì và phát triển làng nghề (cid:1) (cid:1) 7. Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương Câu 24. Ông (bà) dự định cho con cái học nghề truyền thống của làng hay cho học chuyên môn, nghiệp vụ? 1. Học nghề truyền thống của làng (cid:1)
3.Tùy khả năng của con cái. (cid:1)
2.Học cao đẳng, đại học (cid:1) Câu 25. Xin ông (bà) cho biết sự phân công lao động trong gia đình ông (bà) hiện nay?
TT
Thành viên
Tuổi
Công việc chính (Liệt kê các công việc chủ yếu)
Vai trò trong gia đình (kiếm tiền, dạy dỗ, học tập, giữ tiền…)
1 Ông
2 Bà 3 Bố
4 Mẹ
5 Con trai
6 Con gái
Câu 26. Xin ông (bà) cho biết mức độ của các mối liên hệ chủ yếu trong gia đình, dòng họ hiện nay?
Bền chặt
Các mối quan hệ
1. Bố mẹ với con cái
2. Ông bà với con cháu
Rất bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
Ít bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Khó trả lời (cid:1) (cid:1) (cid:1)
3. Anh, chị, em trong dòng họ 4. Anh, chị em trong gia đình
5. Giữa chú, bác, cô
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
6. Chú, bác, cô với các cháu
(cid:1)
(cid:1) 4. Truyền dạy nghề truyền thống
Câu 27. Theo ông, bà các mối liên hệ trong gia đình, dòng họ hiện nay bị chi phối bởi các yếu tố nào? 1. Tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ 2. Kinh tế thị trường
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) 5. Quan hệ huyết thống (cid:1) 6. Yếu tố khác
3. Đề cao cá nhân
Câu 28. Những ý kiến khác
………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN (Dùng cho hộ gia đình không làm nghề truyền thống)
Ông, bà kính mến!
Để có thông tin về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay, đề nghị ông (bà) cho biết ý kiến của mình bằng cách trả bằng cách đánh X vào ô trống tương ứng (cid:1) hoặc viết vào chỗ chấm (..............)
2. Nữ (cid:1)
Câu 1: Ông (bà) vui lòng cho biết đôi nét về bản thân? 1.1 Giới tính 1. Nam (cid:1) 1.2. Ông (bà) bao nhiêu tuổi:.......................... 1.3. Họ của ông (bà) là gì:............................... 1.4. Ông (bà) đã học hết lớp nào?
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
4. Trung cấp 5. Cao đẳng, đại học 6. Trên đại học
1. Tốt nghiệp tiểu học 2. Tốt nghiệp trung học cơ sở 3. Tốt nghiệp THPT 1.5. Ông (bà) thuộc dân tộc nào?
1. Kinh (cid:1)
2. Dân tộc khác (cid:1)
1.6. Ông (bà) theo tôn giáo nào? 1. Không theo tôn giáo (cid:1)
2. Thiên chúa giáo (cid:1)
3. Tôn giáo khác (xin ghi rõ): ..........................................
1.7 Ông (bà) có là đảng viên không?
1. Đảng viên (cid:1)
2. Không (cid:1)
1.8. a Ông (bà) có tham gia công tác trong các tổ chức trong làng, xã:
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Đảng bộ xã 2. Chính quyền xã 3. Đoàn thể xã hội ở xã 4. Chi bộ thôn 5. Chính quyền thôn 6. Đoàn thể ở thôn 7. Hiệp hội làng nghề 8. Các tổ chức khác
1.8.b Nếu có thì mức độ và phạm vi được coi trọng như thế nào? Gia đình Làng xóm
Mức độ
1. Rất được coi trọng
2. Được coi trọng
3. Ít được coi trọng
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Xã hội (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
4. Không biết
Câu 2: Xin ông (bà) cho biết một số thông tin về gia đình 2.1. Số nhân khẩu trong hộ gia đình: ………….người. 2.2. Số thế hệ trong gia đình …………….. 2.3. Nghề chính của ông (bà) hiện nay là gì (xin ghi rõ)........................................ 2.4. Trong làng có tất cả mấy nghề ...................................................................... Câu 3. Theo ông (bà), nghề nghiệp chính của ông (bà) hiện nay có được xã hội coi trọng không?
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
1. Rất coi trọng 2. Coi trọng
3. Ít coi trọng 4. Không biết
Câu 4.1. Theo ông (bà) mức sống của gia đình mình thuộc loại nào (so với các hộ gia đình trong làng) 1. Giàu có (cid:1)
4.Nghèo (cid:1)
3.Trung bình (cid:1) 2. Khá giả (cid:1) 4.2. Thu nhập bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?
Quy ra tiền:................................................................... đồng.
4.3 Chi tiêu bình quân một tháng của ông (bà) bao nhiêu tiền?
Quy ra tiền:.................................................................. đồng. Câu 5. Hàng năm, hộ gia đình ông (bà) thường chi phí chủ yếu cho hoạt động nào sau đây?
4. Ăn uống, sinh hoạt
5. Du lịch, giải trí
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) 1. Sản xuất, kinh doanh 2. Học tập nâng cao trình độ (cid:1) (cid:1)
6. Chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh
3. Đào tạo nghề nghiệp cho lao động trong gia đình
Câu 6. Ông (bà) đánh giá mức độ cạnh tranh (thương hiệu) của sản phẩm làng nghề trên thị trường?
1. Cao (cid:1)
2. Khá (cid:1)
3. Trung bình (cid:1) 4. Yếu (cid:1)
Câu 7. Ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến về vai trò của mình trong gia đình, dòng họ và cộng đồng?
Quan trọng
Không biết
1. Gia đình
2. Dòng họ
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
Rất quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Không quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1)
3. Cộng đồng
4. Cán bộ Đảng
(cid:1) (cid:1) (cid:1) Câu 8. Khi gặp những khó khăn, trở ngại ông (bà) thường tham khảo ý kiến của ai đầu tiên? (chỉ chọn 1 phương án trả lời) (cid:1) 1. Người thân trong gia đình 2. Người có uy tín trong dòng họ (cid:1) (cid:1) 3. Bạn bè của gia đình
(cid:1) (cid:1) 5. Cán bộ chính quyền 6. Cán bộ các đoàn thể xã hội (cid:1)
Công việc
Ông/bà Bố/mẹ
1. Sản xuất, kinh doanh
2. Học tập của con cái
3. Định hướng nghề nghiệp cho con
4. Trong cưới xin
5. Trong ma chay
5. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền
6. Công việc của làng, dòng họ
7. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa
Câu 9. Trong gia đình ai là người có vai trò chính trong các lĩnh vực sau: Con cái (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
8. Chuyển đổi nghề nghiệp
Câu 10. Ông (bà) đánh giá cuộc sống của gia đình mình hiện nay so với 5 năm trước đây như thế nào?
Nội dung
Tốt hơn Như cũ Kém đi (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống 5. Vui chơi giải trí, du lịch 6. Việc học tập để nâng cao trình độ 7. Điều kiện chăm sóc sức khỏe 8. Quan hệ xã hội 10. Điện thắp sáng 11. Nước sinh hoạt 12. Điều kiện vệ sinh môi trường 13. Trật tự an ninh 14. Nhà ở
Câu 11. Xin ông (bà) cho biết ở làng mình phân công lao động chủ yếu thuộc nhóm nào dưới đây?
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Lao động chủ yếu là nam giới 2. Lao động chủ yếu là nữ giới 3. Lao động chủ yếu là người tay nghề giỏi 4. Lao động chủ yếu là người mới học việc 5. Lao động chủ yếu là người trong gia đình 6. Lao động chủ yếu là người trong dòng họ 7. Lao động chủ yếu là người trong làng 8. Lao động chủ yếu là người ngoài làng
Câu 12. Xin ông (bà) cho biết ở làng độ tuổi của chủ doanh nghiệp sản xuất là: 1. Dưới 30 tuổi (cid:1) 2. Từ 30-40 tuổi (cid:1) 3. Từ 41-50 tuổi (cid:1) 4.Trên 50 tuổi (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Câu 13. Trong các hoạt động lễ hội của làng hoặc các sự kiện quan trọng khác trong làng, ai là người có vai trò quan trọng? 1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân
Câu 14. Trong hoạt động cộng đồng như: làm đường, tu bổ đình chùa, lễ hội… của làng, ai là người có đóng góp về vật chất chủ yếu?
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Chính quyền xã, thôn 2. Đoàn thể xã, thôn 3. Người cao tuổi 4. Các chủ sản xuất, kinh doanh lớn 5. Các hộ gia đình khá giả trong thôn 6. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân
Câu 15. Theo ông/bà, các yếu tố nào dưới đây tác động đến sự phát triển của làng nghề?
(cid:1) 1. Vốn sản xuất, kinh doanh (cid:1) 2. Cơ sở sản xuất khu riêng và mặt bằng rộng (cid:1) 3. Nguyên nhiên liệu 4. Áp dụng được khoa học, công nghệ, máy móc mới trong sản suất (cid:1) (cid:1) 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm và hội nhập quốc tế (cid:1) 6. Năng lực và kinh nghiệm của người đứng đầu cơ sở sản xuất (cid:1) 7. Tay nghề, chuyên môn giỏi (cid:1) 8. Người lao động thiết tha với nghề (cid:1) 9. Thời gian ký hợp đồng để hoàn thành sản phẩm (cid:1) 10. Bản sắc văn hóa của làng nghề (cid:1) 11.Gia đình, dòng họ (cid:1) 12. Hiệp hội làng nghề (cid:1) 13. Việc làm của lao động nông thôn (cid:1) 14. Năng lực lãnh đạo cán bộ cấp xã, làng (cid:1) 15. Làng nghề gắn với du lịch (cid:1) 16. Quy trình phong tặng nghệ nhân (cid:1) 17. Tìm tòi, sáng tạo nhiều mẫu mã (cid:1) 18. Được vay vốn ngân hàng với chính sách thông thoáng hơn
Câu 16. Ông (bà) cho biết ý kiến của mình về những nhận định dưới đây?
Những nhận định
Đồng ý (cid:1)
Không đồng ý (cid:1)
Khó trả lời (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống ngày càng được gìn giữ và phát triển 2. Giáo dục, y tế ngày càng được quan tâm, chăm sóc tốt hơn 3. Mối quan hệ giữa những người dân trong làng ngày càng tốt hơn 4. Tệ nạn xã hội xảy ra trong làng xã ngày càng tăng 5. Môi trường của làng nghề ngày càng ô nhiễm 6. Số hộ làm nghề truyền thống vẫn duy trì, ổn định 7. Nghệ nhân trong làng ngày càng nhiều hơn 8. Chính quyền quan tâm đến phát triển làng nghề nhiều hơn
Câu 17. Theo ông (bà), ai là người được kính nể trong làng, xã?
Mức độ
Quan trọng
Không biết
Những người được kính nể trong làng, xã
Rất quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Không quan trọng (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Người giỏi tay nghề/nghệ nhân 2. Người có chức vụ 3. Người giầu có 4. Người cao tuổi 5. Người có uy tín 6. Chủ doanh nghiệp giỏi
Câu 18. Theo ông (bà) vai trò của Hiệp hội làng nghề có quan trọng đối với phát triển làng nghề?
1. Rất quan trọng (cid:1)
2. Quan trọng (cid:1)
3. Không quan trọng (cid:1)
Câu 19. Theo ông (bà), quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên:
TT
Quan hệ xã hội và phân bố dân cư trong làng dựa trên
10 năm trước (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
10 năm tới (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Hiện nay (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1 Theo nhóm ngành/nghề 2 Theo các quy mô sản xuất của các hộ gia đình 3 Theo các tuyến dòng họ có nghề truyền thống 4 Theo thời gian làm nghề của các hộ gia đình 5 Theo tính chất của ngành, nghề
Câu 20. Theo ông (bà) Chủ cơ sở sản xuất có nên tham gia vào các tổ chức?
(cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1) (cid:1)
1. Lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã 2. Lãnh đạo cấp thôn, làng 3. Lãnh đạo hiệp hội nghề nghiệp 4. Tổ chức Đảng 5. Không tham gia
(cid:1) (cid:1)
(cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1)
2.Học cao đẳng, đại học (cid:1) 3.Tùy khả năng của con cái. (cid:1)
Câu 21. Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những giải pháp nào? 1. Quy hoạch các làng nghề phải gắn với quy hoạch phát triển nông thôn mới 2. Nâng cao trình độ tay nghề cho thợ và đào tạo nghề cho lao động động nông thôn mới 3. Tăng cường quảng bá sản phẩm của làng nghề ra thị trường trong và ngoài nước 4. Nâng cao vai trò của các hiệp hội làng nghề 5. Cần phát triển du lịch làng nghề 6. Tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong việc duy trì và phát triển làng nghề 7. Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương Câu 22. Ông (bà) dự định cho con cái học nghề truyền thống của làng hay cho học chuyên môn, nghiệp vụ? 1. Học nghề truyền thống của làng (cid:1) Câu 23. Xin ông (bà) cho biết sự phân công lao động trong gia đình ông (bà) hiện nay?
TT Thành viên
Tuổi
Công việc chính (Liệt kê các công việc chủ yếu)
Vai trò trong gia đình (kiếm tiền, dạy dỗ, học tập, giữ tiền…)
1 Ông
2 Bà
3 Bố
4 Mẹ
5 Con trai
6 Con gái
Câu 24. Xin ông (bà) cho biết mức độ của các mối liên hệ chủ yếu trong gia đình, dòng họ hiện nay?
Bền chặt
Các mối quan hệ
1. Bố mẹ với con cái
2. Ông bà với con cháu
Rất bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1) (cid:1)
Ít bền chặt (cid:1) (cid:1) (cid:1)
Khó trả lời (cid:1) (cid:1) (cid:1)
3. Anh, chị, em trong dòng họ 4. Anh, chị em trong gia đình
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) (cid:1)
5. Giữa chú, bác, cô
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
(cid:1)
6. Chú, bác, cô với các cháu
(cid:1)
(cid:1) 4. Truyền dạy nghề truyền thống
Câu 25. Theo ông, bà các mối liên hệ trong gia đình, dòng họ hiện nay bị chi phối bởi các yếu tố nào? 1. Tôn ti, thứ bậc trong gia đình, dòng họ 2. Kinh tế thị trường
(cid:1) (cid:1)
(cid:1) 5. Quan hệ huyết thống (cid:1) 6. Yếu tố khác
3. Đề cao cá nhân
Câu 26. Những ý kiến khác
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp)
Ông, bà kính mến!
Để tìm hiểu về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây. Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
1.Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………………………………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… 2. Nội dung câu hỏi 2.1 Ông (bà) có những hoạt động chủ yếu nào đưới đây để góp phần phát triển làng nghề? Mức độ hoạt động? - Về hoạt động kinh tế - Về hoạt động chính trị: - Về hoạt động văn hóa-xã hội: - Về đào tạo nghề truyền thống -
Trong phát triển làng nghề ở, ông (bà) thấy cần phải quan tâm đến những vấn đề gì? Tạo sao?
2.2 Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, tổ chức, cá nhân nào có vai trò quan trọng? Tại sao?……………………………….. 2.3 Theo ông (bà) trong những kiện quan trọng của làng nghề (Hội làng, làm đường, bầu trưởng thôn), tổ chức, cá nhân nào giữ vai trò quan trọng? Tại sao?………………………………… 2.4 Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 2.5 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào? + 20 năm trước đây: …………………..………………………………………. + Hiện nay ………………………….………………………………………….
Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!
PHIẾU THAM VẤN Ý KIẾN (Dành cho cán bộ xã, thôn, hiệp hội)
Ông, bà kính mến!
Để tìm hiểu về Cấu trúc xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây. Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
1. Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………Chức vụ:……………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… 2. Nội dung câu hỏi 2.1 Ông (bà) có những hoạt động chủ yếu nào đối với sự phát triển làng nghề trên một số lĩnh vực sau và mức độ hoạt động như thế nào?
-Về hoạt động kinh tế -Về hoạt động chính trị: -Về hoạt động văn hóa-xã hội: -Về đào tạo nghề truyền thống
2.2 Để phát triển làng nghề bền vững, ông (bà) thấy cần phải quan tâm đến những vấn đề gì? Tạo sao? 2.3 Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, tổ chức, cá nhân nào có vai trò quan trọng? Tại sao? 2.4 Theo ông (bà) trong những kiện quan trọng của làng nghề (Hội làng, làm đường, bầu trưởng thôn …), tổ chức, cá nhân nào giữ vai trò quan trọng? Tại sao? 2.5 Để phát triển làng nghề bền vững theo ông (bà) cần phải thực hiện những biện pháp nào? 2.6 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào?
Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho nghệ nhân)
Ông, bà kính mến!
Để tìm hiểu về Mối quan hệ xã hội của người dân trong làng nghề ở huyện Thường Tín hiện nay chúng tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến của ông (bà) bằng cách trả lời các câu hỏi nêu ra dưới đây.
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
Thông tin về người trả lời: - Họ và tên: ………………………………………………………………... - Sinh năm…………………..Giới tính: ………………………..……….… - Trình độ học vấn: …………………………………………………….….. - Thôn: ………………………………………………………………….… Nội dung câu hỏi
1. Theo ông (bà) cần phải quan tâm đến những vấn đề gì để duy trì và phát triển nghề truyền thống? Tạo sao? 2. Theo ông (bà) trong việc phát triển làng nghề hiện nay, yếu tố nào đóng vai trò quan trọng? Tại sao? 3 Theo ông (bà) mối quan hệ của người dân, mối quan hệ trong gia đình và dòng họ ở làng nghề hiện nay so với 20 năm trước đây như thế nào?
Xin trân trọng cảm ơn ông (bà)!