CÂY SÂM NGọC LINH TạI

TỉNH QUảNG NAM

1. Vài nét về cây sâm Ngọc Linh

Sâm Ngọc Linh là một cây sâm mới trên thế giới được phát hiện

tại Việt Nam. Trước kia, nhiều nhà khoa học cho rằng chi Panax

họ Nhân sâm chỉ có ở miền Bắc VN. Tuy nhiên, trong kháng

chiến, Ngành dược Khu Trung Trung bộ, thực hiện chủ trương

tìm nguồn cây cỏ, quyết phải tìm cho ra cây sâm chi Panax, mặc

dù chỉ có trong tay một số tài liệu ít ỏi. Nǎm 1973, Khu Y tế Trung

Trung bộ cử một tổ công tác 4 người đi điều tra phát hiện cây sâm

theo hướng chân núi Ngọc Linh, địa phận Tỉnh Kontum. Sáng

ngày 19-3-1973, Tổ điều tra gặp hai cây sâm đầu tiên và buổi

chiều đã phát hiện một vùng sâm rộng lớn ở một vùng đất

Kontum.

Cây sâm chỉ mọc ở độ cao từ 1200 m trở lên. Cho tới nay chỉ có 2 tỉnh

Kontum và Quảng Nam là có cây sâm này mọc tập trung ở chân núi

Ngọc Linh cao 2578 m, do đó mà được đặt tên là sâm Ngọc Linh.

Cây sâm Ngọc Linh thuộc loại cây thảo, cao 80 - 100 cm. Thân rễ

nằm ngang trên hoặc dưới mặt đất độ 1-3 cm, mang rễ con và củ.

Thân rễ có sẹo, nhiều đốt. Các thân mang lá. Tương ứng với một thân

mang lá là một đốt dài khoảng 0,5-0,7 cm. Trên đỉnh của thân mang lá

là các lá mọc vòng, có 5-7 lá chét với phiến lá hình trứng ngược. Hoa

mọc giữa các lá thẳng với thân. Quả dài độ 0,8-1,0 cm, rộng khoảng

0,5-0,6 cm, màu đỏ khi chín. Cây mọc dưới tán rừng. Bộ phận dùng

làm thuốc chủ yếu là thân rễ củ. Cũng có thể dùng lá và rễ con.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây sâm Ngọc Linh. Tên khoa

học của cây được công nhận là Panax vietnamesis Ha et Grushy, họ

Nhân sâm Araliaceae, công bố tại Viện thực vật Kamarov (Liên Xô

trước đây) nǎm 1985 do Hà Thị Dung và I.V. Grushvistky đặt tên.

Nǎm 1974-1975, Viện Dược liệu (Bộ Y tế) nghiên cứu thấy thành

phần saponin triterpenic của tam thất, nhân sâm và sâm Ngọc Linh có

9 hoặc 11 chất có Rf ngang nhau, màu giống nhau ở hai hệ dung môi

khác nhau [1]. Theo Nguyễn Minh Đức (nǎm 1994) thì từ sâm Ngọc

Linh đã chiết được 50 hợp chất, xác định cấu trúc hoá học gồm 26

hợp chất có cấu trúc đã biết và 24 saponin pammaran có cấu trúc mới.

Sâm Ngọc Linh chứa chủ yếu các saponin triterpenic [2], nhưng cũng

là một trong những cây sâm có hàm lượng saponin khung pammaran

cao nhất (khoảng 12-15%) và số lượng saponin nhiều nhất so với các

loài khác của chi Panax trên thế giới.

Sâm Ngọc Linh có 14 acid béo, 16 acid amin (trong đó có 8 acidamin

không thay thế được), 18 nguyên tố đa lượng, vi lượng.

Việc nghiên cứu tái sinh cây sâm Ngọc Linh từ Callus cũng đã thành

công [3]. Nguyễn Ngọc Dung, Ngô Kế Sương và Phạm Khánh Phong

Lan đã xác định được số nhiễm sắc thể của sâm Ngọc Linh mọc tự

nhiên và cây tạo bằng đường sinh học là ngang nhau [4]. Bộ Lâm

nghiệp (trước đây) có một vài công trình điều tra cơ bản cây sâm

Ngọc Linh. Trung tâm Khoa học sản xuất sâm VN thuộc Bộ Y tế đã

nghiên cứu và chế nhiều thuốc từ cây sâm này, như thuốc Vina-

ginseng extractum có nhiều công dụng quý như bổ toàn thân, trị suy

nhược cơ thể, bổ thần kinh và sinh dục, tǎng sức, trí nhớ...

2. Tỉnh Quảng Nam phát hiện cây sâm và điều tra cơ bản

Tháng 7 nǎm 1978, sau một thời gian nghiên cứu, Ty Y tế Quảng

Nam-Đà Nẵng đã cử cán bộ dược lên vùng cao Huyện Trà My, giáp

với chân núi Ngọc Linh về phía Đông và đã phát hiện cây sâm Ngọc

Linh mọc hoang tại đây. Tiếp theo đó là các đợt điều tra cơ bản và

định hình.

Tháng 10/1978, một tổ thứ hai lên vùng núi Ngọc Linh với nhiệm vụ

ước lượng sơ bộ diện tích sâm mọc. Kết quả là tìm ra được một vùng

dài hàng chục kilomét, có trữ lượng khoảng 6000-7000 cây, mật độ từ

1 m2/cây đến 7,8 m2/cây.

Nǎm 1979, Ty Y tế tổ chức điều tra ở 5 xã của Huyện Trà My có sự

giúp đỡ của Trường đại học Y Dược Thành phố HCM. Kết quả là đã

tìm thấy 1337 cây trong 211 ô tiêu chuẩn; Trọng lượng trung bình

thân rễ sâm là 5,26 gam, số thân có trọng lượng trên 25 gam là 7,39%;

Số thân rễ có trên 10 sẹo (ước tính trên 8 nǎm tuổi) là 36,9%. Đã thu

được 1 thân rễ có 52 sẹo (ước tính trên 50 nǎm tuổi), đường kính 1,2

cm[5].

Các cuộc điều tra cơ bản còn cho biết cách dùng làm thuốc dân gian

của cây sâm. Đồng bào dân tộc Sê Đǎng vùng cao dùng sâm Ngọc

Linh làm thuốc cầm máu, lành vết thương, làm thuốc bổ, nhất là

người mới ốm dậy. Nhân dân còn coi đây là cây thuốc quí, chữa nhiều

bệnh như sốt rét, đau bụng, chảy máu, phù nề...

Từ các kinh nghiệm dân gian và các công trình nghiên cứu, Trạm

nghiên cứu dược liệu Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (trước đây) và Xí

nghiệp dược phẩm Đà Nẵng đã chế các dược phẩm như tinh sâm quy

Ngọc Linh, sâm quy mật ong... có chứa sâm Ngọc Linh.

3. Thành lập Trại dược liệu Trà Linh nhân giống cây sâm Ngọc Linh

Để bảo vệ và phát triển cây thuốc quý này cùng với một số cây ôn đới

khác, UBND Tỉnh đã cho thành lập Trại dược liệu Trà Linh. Trại đã

hoạt động từ khi thành lập cho đến nay.Tính đến tháng 4 nǎm 1987,

Trại đã thu được 53,3 kg thân rễ, trồng được 81 ngàn cây. Đến tháng 9

nǎm 1992, Trại đã có 100 000 cây. Từ nǎm 1985, Trại đã áp dụng các

biện pháp bón phân và chǎm sóc để tǎng nǎng suất thân rễ, tǎng tỷ lệ

nảy mầm, tǎng tỷ lệ cây sống. Nhưng chỉ từ tháng 1 nǎm 1995, việc

nghiên cứu mới tiến hành một cách hệ thống hơn, hướng vào việc

nhân giống và tǎng diện tích trồng; đã làm các thí nghiệm nhân giống

cây bằng lai hữu tính và vô tính, và vận động bà con dân tộc thiểu số

trong vùng nhận giống về trồng với một kinh phí khá lớn. Kết quả

bước đầu là số lượng hạt đậu và thu được trên một cây sâm đã tǎng từ

6,7 hạt lên 10,2 hạt. Tỷ lệ nảy mầm của hạt gieo trên nền đất đạt 75%

nhờ cách chọn hạt tốt ở những cây trên 1 nǎm tuổi khoẻ mạnh... Tỷ lệ

nảy mầm của hạt gieo trên túi polyethylen cũng không khác tỷ lệ hạt

gieo trên nền đất. Tỷ lệ cây sống khi trồng đại trà là 95%.

Về nhân giống vô tính, Trạm đã chọn cách ươm đoạn đầu của thân rễ

trong túi polyethylen và ươm đoạn thân rễ trên mặt đất. Kết quả bước

đầu cho thấy tỷ lệ sống và đâm chồi của đoạn đầu thân rễ cây sâm là

65%. Đáng chú ý là cây nhân giống theo cách này mọc khoẻ, nhanh,

ra hoa sớm, nǎng suất thân rễ và củ cao hơn so với cây mọc từ hạt.

Trong nhân giống cây sâm Ngọc Linh, vị trí của phân bón và các yếu

tố đa lượng và vi lượng rất quan trọng. Bằng cách nhân giống hữu tính

và vô tính, Trạm dược liệu đã có 223.000 cây con. Trạm đã xây dựng

quy trình trồng cây sâm Ngọc Linh và phổ biến cho nhân dân trong

vùng thực hiện [6].

4. Nhận xét chung và kết luận

Cây sâm Ngọc Linh là một cây thuốc quý của Tỉnh Quảng Nam và có

thể nói là của cả nước. Do tính chất quý hiếm và có tác dụng chữa

bệnh phục hồi sức khoẻ tốt nên trong những nǎm qua cây sâm Ngọc

Linh bị khai thác quá nhiều, có nguy cơ bị tuyệt chủng. Cần phải có

những biện pháp cấp thiết để bảo vê, nuôi trồng và phát triển. Để làm

việc này phải giải quyết nhiều vấn đề, trước mắt và cấp bách là vấn đề

trồng trọt như tạo giống, bón phân và kỹ thuật trồng, chǎm sóc ... Đặc

biệt, với cây sâm quý, yêu cầu trồng và chǎm sóc rất khó, vì vậy cần

phải chú ý nghiên cứu chế độ phân bón đa lượng, vi lượng, các yếu tố

kỹ thuật để nâng cao nǎng suất, rút ngắn thời gian thu hoạch như phá

thời kỳ ngủ đông, nhổ cây trồng lại hàng nǎm ... Một thuận lợi lớn là

Tỉnh đã có một trạm dược liệu chuyên lo trồng cây sâm tại chính nơi

cây mọc hoang ở độ cao 1850 m so với mặt biển, là cơ sở lý tưởng để

tiếp tục làm những thử nghiệm về trồng trọt trong điều kiện thổ

nhưỡng, khí hậu nguyên sản. Nhưng cũng có nhiều khó khǎn như

thiếu tài liệu tham khảo, thiếu nguồn kinh phí đầu tư cho nghiên cứu

và phát triển.

Những nhận xét, những kết luận trên mới là sơ bộ và có lẽ còn phải

kiểm chứng thêm, nhưng rất quý. Có được những kết quả trên là nhờ

sự chỉ đạo của các cơ quan chức nǎng của Tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng

và của cán bộ dược trong Tỉnh. Việc nghiên cứu khoa học về cây sâm

Ngọc Linh còn tiếp tục. Rất mong được sự giúp đỡ của các cơ quan

trung ương.

TàI LIệU THAM KHảO

1. Kỷ yếu nghiên cứu KH-KT dược nǎm 1971-1975. Bộ Y tế. Nxb. Y

học, Hà Nội, 1977, tr. 86

2. Nguyễn Ngọc Dung. Nhân giống sâm Ngọc Linh (Panax

vietnamesis) bằng con đường sinh học. Nxb. Nông nghiệp Tp. HCM.

195, tr. 43.

3. Nguyễn Ngọc Dung. Nhân giống sâm Ngọc Linh (Panax

vietnamesis) bằng con đường sinh học. Nxb. Nông nghiệp Tp. HCM.

195, tr. 52

4. Nguyễn Ngọc Dung. Nhân giống sâm Ngọc Linh (Panax

vietnamesis) bằng con đường sinh học. Nxb. Nông nghiệp Tp. HCM.

195, tr. 100

5. Báo cáo điều tra trữ lượng, khoanh vùng cây sâm K5 Tỉnh Quảng

Nam- Đà Nẵng Tháng 9.1979 của Ty y tế Quảng Nam- Đà Nẵng

6. Báo cáo tóm tắt tổng kết đề tài khoa học áp dụng một số biện pháp

kỹ thuật trong tạo giống gieo trồng nhằm bảo vệ, nuôi trồng và phát

triển nguồn sâm K5 tại Trà Linh- Trà My (Quảng Nam ) của Công ty

dược phẩm Quảng Nam-Đà Nẵng. 1977