Chăm sóc bệnh nhân van tim nhân tạo

Một van tim nhân tạo được coi là lý tưởng khi nó đảm bảo

các điều kiện dễ lắp đặt, bền, không bị đông máu trên van,

có hiệu quả huyết động, không gây tan máu, tương đối rẻ

tiền... Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một van tim

nhân tạo nào hoàn hảo như vậy. Sau khi thay van, bệnh

nhân cần được thăm khám thường xuyên và dùng thuốc

theo đúng chỉ định của bác sĩ.

Thăm khám lần đầu sau khi phẫu thuật thay van

Sau khi được phẫu thuật thay van từ 3 - 4 tuần, người bệnh

cần đi khám lại lần đầu tiên. Mục đích để đánh giá chức

năng van tim nhân tạo; Đánh giá hiệu quả của thuốc chống

đông máu; Phát hiện dấu hiệu tan máu; Phát hiện các dấu

hiệu nhiễm khuẩn; phát hiện các dấu hiệu khác: nhồi máu

cơ tim, rối loạn dẫn truyền; Đánh giá tình trạng toàn thân,

tâm thần kinh của bệnh nhân khi mang van tim nhân tạo

Khi khám lâm sàng cần chú ý nghe tiếng van nhân tạo. Nếu

không có tiếng kêu của van cơ học, cần nghĩ đến huyết khối

hình thành trên vòng van cơ học. Nếu bệnh nhân trước khi

thay van bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thì cần chú ý

đến những dấu hiệu toàn thân như da xanh, niêm mạc, nhiệt

độ, tiền sử sốt kéo dài.

Những thăm dò, xét nghiệm cần thực hiện

- Điện tâm đồ

- Chụp Xquang tim phổi thẳng.

- Siêu âm Doppler tim: rất quan trọng. Siêu âm cho biết

những thông tin về hẹp/hở van, đánh giá các tổn thương

phối hợp, kích thước nhĩ trái, thất trái, chức năng tim, tình

trạng màng ngoài tim, áp lực động mạch phổi. Siêu âm rất

quan trọng đối với bệnh nhân vì nó cho phép đánh giá hiệu

quả điều trị phẫu thuật cũng như những thông số cơ bản

giúp cho sự theo dõi về sau.

- Công thức máu, tiểu cầu.

- Sinh hóa máu: urê, đường, creatinin, điện giải đồ, men

LDH.

- Đông máu: tỷ lệ prothrombin, INR.

Các van tim nhân tạo đều có một mức độ hẹp nhất định và

vì thế thông số siêu âm lần đầu được coi là những thông số

cơ bản giúp cho việc so sánh về sau. Một số thăm dò không

chảy máu khác (ví dụ cộng hưởng từ tim) có tác dụng đánh

giá hoạt động của van và chức năng thất trái nhưng chỉ tiến

hành đối với những chỉ định đặc biệt. Soi hoạt động van

dưới màn tăng sáng chỉ có hiệu quả đối với van Bjork-

Shiley. Chụp cộng hưởng từ hoặc chụp động mạch phóng

xạ hạt nhân (radionuclide angiography) chỉ định đối với

những bệnh nhân rối loạn hoạt động van nhân tạo do suy

chức năng tâm thu thất trái và một số thông số không lấy

được trên siêu âm tim. Cộng hưởng từ hạt nhân được

khuyến cáo là an toàn đối với tất cả các van nhân tạo được

lưu hành hiện nay.

Phẫu thuật thay van tim

Theo dõi bệnh nhân không có biến chứng

Đối với bệnh nhân mang van nhân tạo có tình trạng lâm

sàng ổn định thì mục đích quan trọng nhất của khám định

kỳ là theo dõi hiệu quả của thuốc chống đông kháng

vitamin K vì tỷ lệ INR biến đổi nhiều dưới ảnh hưởng của

thức ăn, tương tác với những thuốc được dùng đồng thời

cũng như tình trạng toàn thân của người bệnh... Cần xét

nghiệm INR tối thiểu mỗi tháng 1 lần và làm lại ngay khi

có những dấu hiệu bất thường trên lâm sàng hay mỗi khi

thay đổi liều lượng thuốc chống đông máu. Mục đích quan

trọng tiếp theo là tiếp tục giáo dục, phổ biến kiến thức cho

người bệnh giữ gìn van tim nhân tạo, nhất là tránh nhiễm

trùng van nhân tạo (kiến thức về phòng viêm nội tâm mạc

nhiễm khuẩn).

Mỗi năm một lần người bệnh nên được làm lại các xét

nghiệm: Điện tâm đồ; Chụp tim phổi; Huyết học:

hemoglobin, hematocit, LDH; Siêu âm Doppler tim.

Theo dõi bệnh nhân có biến chứng

Bệnh nhân bị suy chức năng tâm thu thất trái sau phẫu thuật

thay van nên được điều trị nội khoa chống suy tim. Điều trị

nội khoa vẫn phải tiếp tục cho dù chức năng tâm thu thất

trái được cải thiện.

Nguyên nhân của suy chức năng tâm thu thất trái và suy

tim lâm sàng sau phẫu thuật có thể do: Suy tim trước mổ và

sau mổ chỉ được cải thiện một phần; Cơ tim bị tổn thương

trong quá trình phẫu thuật; Bệnh lý van tim khác tiến triển;

Biến chứng của van nhân tạo; Các bệnh tim phối hợp khác

như bệnh mạch vành, tăng huyết áp.

Bất kỳ bệnh nhân van nhân tạo nào không cải thiện hoặc có

biểu hiện suy giảm chức năng tim sau phẫu thuật đều phải

được thăm khám lâm sàng tỉ mỉ và làm đầy đủ các xét

nghiệm thăm dò, nhất là siêu âm tim hoặc siêu âm tim qua

thực quản hay thông tim, chụp mạch để xác định nguyên

nhân.

Phẫu thuật thay van nhân tạo: Phẫu thuật thay van nhân tạo

là một tình trạng lâm sàng nghiêm trọng. Chỉ định đối với

những trường hợp: Rối loạn nặng nề hoạt động của van

nhân tạo (do cấu trúc van hoặc do những biến cố khác

không liên quan đến cấu trúc van): vỡ van, viêm nội tâm

mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo; Huyết khối hình thành trên

van gây kẹt van nhân tạo; Chảy máu nặng do dùng thuốc

chống đông (đòi hỏi phải thay van cơ học bằng van sinh

học); Hẹp van động mạch chủ sau khi thay van tình trạng

lâm sàng không được cải thiện, bệnh nhân suy tim dai dẳng

mặc dù đã được điều trị nội khoa tích cực, thăm dò cho

thấy van hoạt động không đảm bảo huyết động cho người

bệnh (ví dụ: vòng van quá nhỏ).

Tất cả người bệnh sử dụng van tim nhân tạo cần được thăm

khám định kỳ, dùng thuốc đầy đủ theo đúng chỉ định của

bác sĩ, nếu có những dấu hiệu sức khỏe bất thường cần đi

khám ngay tại các cơ sở y tế chuyên khoa tim mạch để

được xử trí kịp thời.

TS. Tạ Mạnh Cường