BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

PHẠM PHƯƠNG LAN

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SAU SINH CỦA BÀ MẸ Ở HAI BỆNH VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI VÀ ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CHĂM SÓC SAU SINH TẠI NHÀ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

PHẠM PHƯƠNG LAN

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SAU SINH CỦA BÀ MẸ Ở HAI BỆNH VIỆN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI VÀ ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CHĂM SÓC SAU SINH TẠI NHÀ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

Chuyên ngành: Y tế công cộng

Mã số : 62.72.03.01

Hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Vương Tiến Hòa

TS. Nguyễn Thị Thùy Dương

HÀ NỘI, 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện

một cách nghiêm túc, trung thực, đúng quy trình và đảm bảo tính khoa học.

Các số liệu và kết quả trong luận án không trùng lặp với bất kỳ công trình

nghiên cứu của tác giả nào khác trong, ngoài nước và chưa được công bố, hoặc sử

dụng ở bất kỳ đâu.

Tác giả

Phạm Phương Lan

Lời cám ơn

Để hoàn thành bản luận án này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ và

hỗ trợ chân thành, hiệu quả của nhiều đơn vị, cá nhân, các thày, cô giáo, các

đồng nghiệp, bạn bè, người thân trong gia đình.

Trước tiên, tôi xin trân trọng cám ơn Ban giám đốc và Cơ sở đào tạo sau

đại học- Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương tạo mọi điều kiện và giúp đỡ hỗ trợ tôi

hoàn thành luận án.

Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi chân thành gửi đến: PGS.TS. Vương Tiến

Hòa, TS. Nguyễn Thị Thùy Dương và đặc biệt là cố PGS.TS. Lê Anh Tuấn

những người thày, cô đã tận tình hướng dẫn khoa học, truyền dạy cho tôi những

kiến thức và kinh nghiệm quý báu của các thày cô giúp tôi có thể hoàn thành

cuốn luận án này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Đảng ủy, Ban giám đốc Bệnh viện

Phụ sản trung ương, Bệnh viện đa khoa huyện Ba Vì đã tạo điều kiện cho tôi

thực hiện nghiên cứu tại cơ sở. Tôi cũng xin cám ơn toàn thể các bác sỹ, nữ hộ

sinh, điều dưỡng và các đồng nghiệp đã tham gia thu thập số liệu, đóng góp

nhiều ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình xử lý và phiên giải số liệu.

Cuối cùng, tôi luôn ghi nhớ sự chia sẻ, động viên, hết lòng của bố mẹ,

chồng, hai con, và bạn bè đã giúp đỡ, cho tôi thêm nghị lực để học tập và hoàn

thành bản luận án này.

Hà nội, ngày 15 tháng 1 năm 2014

Phạm Phương Lan

CÁC TỪ VIẾT TẮT

Biện pháp tránh thai BPTT

Chăm sóc CS

Chăm sóc tại nhà CSTN

Chăm sóc sau sinh CSSS

Cổ tử cung CTC

Chỉ số hiệu quả CSHQ

Hiệu quả can thiệp HQCT

Tỷ lệ trước can thiệp Pctc

Tỷ lệ sau can thiệp Psct

Dị tật bẩm sinh DTBS

Dịch vụ DV

Huyết áp HA

Tỷ suất tử vong sơ sinh/ Infant mortality Ratio IMR

KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình

Tỷ suất tử vong mẹ/ Marternal Mortality Ratio MMR

Nghiên cứu NC

Nghiên cứu can thiệp NCCT

Nhiễm Khuẩn hậu sản NKHS

Phụ sản trung ương PSTW

Quốc gia QG

Thử nghiệm lâm sàng/ Randomised Control Trial RCT

Sức khỏe sinh sản SKSS

Tiêm chủng mở rộng TCMR

TCYTTG Tổ chức Y tế thế giới

TSM Tầng sinh môn

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cám ơn

Bảng chữ viết tắt

Mục lục

Danh mục bảng

Danh mục biểu đồ

Danh mục sơ đồ và hình

1 §Æt vÊn ®Ò

2 Môc tiªu nghiªn cøu

3 Chương I. TỔNG QUAN

3 1.1. Chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh tại cộng đồng

3 1.1.1. Một số khái niệm

4 1.1.2. Sinh lý hậu sản thường và sơ sinh đủ tháng

1.1.2.1.Giải phẫu và sinh lý hậu sản thường 4

1.1.2.2. Sơ sinh đủ tháng và những vấn đề sức khỏe 7

9 1.1.3. Những nguy cơ của bà mẹ và trẻ sơ sinh thời kỳ hậu sản

1.1.3. 1. Những nguy cơ của bà mẹ 9

1.1.3.2. Những nguy cơ của trẻ sơ sinh 12

13 1.1.4. Nội dung chăm sóc sau sinh về y tế

1.1.4.1. Thời điểm CSSS 14

1.1.4.2. Nội dung CSSS theo hướng dẫn quốc gia về SKSS 15

1.1.4.3 Chính sách nghỉ sau sinh của bà mẹ. 16

18 1.2. Kiến thức, thực hành của bà mẹ về CSSS

18 1.2.1. Kiến thức và thực hành CSSS trên thế giới

21 1.2.2. Kiến thức và thực hành CSSS tại Việt Nam

23 1.3. Các mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà

23 1.3.2. Mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà trên thế giới

26 1.3.3. Mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà ở Việt Nam

30 Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

30 2.1. Địa điểm nghiên cứu

31 2.2. Phương pháp nghiên cứu

32 2.2.1. Thiết kế mô tả cắt ngang

2.2.1.1. Thời gian nghiên cứu 32

2.2.1.2. Đối tượng nghiên cứu 32

2.2.1.3. Cỡ mẫu 33

2.2.1.4. Cách chọn mẫu 33

2.2.1.5. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu 34

2.2.1.6. Các biến số nghiên cứu chính 34

36 2.2.2. Thiết kế can thiệp

2.2.2.1. Thời gian nghiên cứu 36

2.2.2.2. Đối tượng nghiên cứu 36

2.2.2.3. Cỡ mẫu 37

2.2.2.4. Cách chọn mẫu 38

2.2.2.5. Mô tả can thiệp 39

2.2.2.6. Các biến số nghiên cứu chính 42

43 2.3. Chỉ tiêu đánh giá sử dụng trong nghiên cứu

43 2.4. Tiến trình nghiên cứu

45 2.5. Xử lý và phân tích số liệu

46

2.6. Sai số, giới hạn và hạn chế của đề tài và biện pháp khắc phục

47 2.7. Đạo đức nghiên cứu

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

49

3.1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành và nhu cầu CSSS của bà mẹ đến sinh con tại hai địa điểm nghiên cứu

3.1.1. Thực trạng chăm sóc sau sinh tại gia đình 49 3.1.1.1. Đặc điểm của các bà mẹ tham gia nghiên cứu 49 3.1.1.2. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ

53 3.1.1.3. Người chăm sóc các bà mẹ

54

55 3.1.1.4. Tiếp cận thông tin về chăm sóc sau sinh của bà mẹ tại cộng đồng

3.1.1.5. Tình trạng sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh 56 3.1.2. Thực trạng kiến thức về CSSS của bà mẹ 59 3.1.2.1. Kiến thức bà mẹ theo các nội dung chuyên biệt 59 3.1.2.2. Kiến thức chung về CSSS 69 3.1.3. Thực trạng thực hành về CSSS của bà mẹ 71 3.1.3.1. Thực hành của bà mẹ theo các nội dung chuyên biệt 71 3.1.3.2. Thực hành chung về CSSS 75

76 3.1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành CSSS của bà mẹ

3.1.5. Nhu cầu của bà mẹ về dịch vụ CSSS 79 3.3.1. Khó khăn của bà mẹ trong thời kỳ hậu sản 79 3.3.2. Nhu cầu của bà mẹ thời kỳ sau sinh 81 3.3.3. Nhu cầu về chăm sóc tại nhà 83

3.2. Đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc sau sinh tại hai bệnh viện đã chọn

85 3.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

88 3.2.2. Đặc điểm lần sinh tại thời điểm nghiên cứu

89 3.2.3. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ

90 3.2.4. Hiệu can thiệp về thay đổi kiến thức

93 3.2.5. Hiệu quả can thiệp về thay đổi thực hành

94

3.2.6. Kiểm định sự khác biệt TB điểm kiến thức và thực hành

chung CSSS của bà mẹ sau can thiệp 96 3.2.7.Đánh giá của bà mẹ về chất lượng dịch vụ

98 3.2.8. Đánh giá dịch vụ về phía người cung cấp

Chương 4. BÀN LUẬN

100

4.1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành và nhu cầu CSSS của bà mẹ đến sinh con tại hai địa điểm nghiên cứu

100 4.1.1. Thực trạng chăm sóc sau sinh tại gia đình

4.1.1.1. Đặc điểm của các bà mẹ tham gia nghiên cứu 100

4.1.1.2. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ 101

4.1.1.3. Người chăm sóc các bà mẹ 102

103

4.1.1.4. Tiếp cận thông tin về chăm sóc sau sinh của bà mẹ tại cộng đồng

4.1.1.5. Tình trạng sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh 2 tuần sau khi xuất viện

4.1.2. Thực trạng kiến thức CSSS của bà mẹ

104 106

4.1.2.1. Kiến thức bà mẹ về CSSS theo các nội dung chuyên biệt 111

4.1.2.2. Kiến thức chung của bà mẹ về CSSS

4.1.3. Thực hành CSSS của bà mẹ

4.1.3.1. Thực hành của bà mẹ về CSSS theo các nội dung chuyên biệt

4.1.3.2. Thực hành chung về CSSS 112 == 114

4.1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành CSSS của bà mẹ 114 4.1.5. Nhu cầu của bà mẹ về dịch vụ CSSS 116 4.1.5.1. Khó khăn của bà mẹ trong thời kỳ hậu sản 116 4.1.5.2. Nhu cầu của bà mẹ thời kỳ sau sinh 116 4.1.5.3. Nhu cầu về dịch vụ CS chăm sóc tại nhà 116

119

4.2.Đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc sau sinh tại hai bệnh viện đã chọn

4.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 119

4.2.2. Đặc điểm lần sinh tại thời điểm nghiên cứu 119

4.2.3. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ 120

4.2.4. Hiệu quả can thiệp của mô hình đến sự thay đổi kiến thức 120

4.2.5. Hiệu quả can thiệp của mô hình đến sự thay đổi thực hành 121

122

4.2.6. Kiểm định sự khác biệt TB điểm kiến thức và thực hành CSSS của bà mẹ sau can thiệp

4.2.7. Đánh giá của bà mẹ về chất lượng dịch vụ 123

4.2.8. Các yếu tố thuận lợi và cản trở thực hiện mô hình 123

4.3. Bàn luận về phương pháp nghiên cứu 125

KẾT LUẬN 128

KIẾN NGHỊ 130

DANH MỤC BÀI BÁO CÔNG BỐ 132

TÀI LIỆU THAM KHẢO 145-169

PHỤ LỤC

- Phụ lục 1: Mẫu phiếu 1- Phiếu câu hỏi cho bà mẹ

- Phụ lục 2: Mẫu phiếu 2- Phiếu đánh giá chi phí – hiệu quả

- Phụ lục 3: Mẫu phiếu 3- Phỏng vấn sâu c¸c ®èi t­îng kh¸c

- Phụ lục 4: Mẫu phiếu 4- Phỏng vấn sâu cán bộ y tế

- Phụ lục 5: Mẫu phiếu 5- Phiếu ghi chép CSSS

DANH MỤC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

1.1. Tổng hợp các vấn đề sức khỏe của bà mẹ sau sinh 10

2.1. Nội dung can thiệp chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh thời kỳ sau 41

sinh theo Hướng dẫn quốc gia về SKSS

2.2. Tính giá dịch vụ chăm sóc tại nhà 41

3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 49

3.2. Đặc điểm lần sinh tại thời điểm nghiên cứu 51

3.3. Ngày nằm viện trung bình của bà mẹ theo nơi cư trú 52

3.4. Điều kiện sinh hoạt của bà mẹ sau sinh 53

3.5. Người giúp bà mẹ sau sinh 54

3.6. Nguồn thông tin chủ yếu về CSSS 55

3.7. Sức khỏe của bà mẹ hai tuần sau sinh 56

3.8. Những thay đổi về cảm xúc sau sinh của bà mẹ 57

3.9. Sức khỏe của trẻ sơ sinh theo địa bàn cư trú 58

3.10. Kiến thức bà mẹ về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh 59

3.11. Kiến thức về trệu chứng nhiễm khuẩn sinh dục của bà mẹ 60

3.12. Kiến thức bà mẹ về vấn đề có thể gặp sau sinh 60

3.13. Kiến thức bà mẹ về chăm sóc trẻ 61

3.14. Kiến thức bà mẹ về chế độ lao động, nghỉ ngơi phù hợp 62

3.15. Kiến thức bà mẹ về vệ sinh sau đẻ 63

3.16. Kiến thức về chế độ ăn uống của bà mẹ sau sinh 64

3.17. Kiến thức về bổ sung vi chất của bà mẹ sau sinh 66

3.18. Kiến thức bà mẹ về thời điểm giao hợp 67

3.19. Kiến thức bà mẹ về các biện pháp tránh thai được lựa chọn 68

3.20. Tự đánh giá của bà mẹ về kiến thức CSSS 69

3.21. Thực hành của bà mẹ về vệ sinh lao động theo địa bàn cư 71

trú

3.22. Thực hành về dinh dưỡng theo địa bàn cư trú 72

3.23. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ và 76

nơi cư trú

3.24. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ và 76

nhóm tuổi

3.25. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ và 77

học vấn

3.26. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ và 77

thu nhập

3.27. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ và 78

số con sống

3.28. Mối liên quan giữa tỷ lệ đạt về kiến thức và thực hành 79

3.29. Các khó khăn của sản phụ trong chăm sóc trẻ 79

3.30. Biến cố về tinh thần trong thời kỳ sau sinh của bà mẹ 80

3.31. Nhu cầu về chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh giai đoạn sau sinh 81

3.32. Sự cần thiết phải có CBYT thăm khám trong thời kỳ sau 84

sinh

3.33. Đồng ý tham gia dịch vụ CSSS 84

3.34. Lý do không sử dụng dịch vụ 85

3.35. Phân bố đối tượng theo nơi cư trú và địa điểm nghiên cứu 86

3.36. Một số đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu 87

3.37. Đặc điểm sinh nở của bà mẹ tại thời điểm nghiên cứu 88

3.38. Điều kiện sinh hoạt của bà mẹ sau sinh 89

3.39. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ sau sau can thiệp 91

theo dấu hiệu bệnh

3.40. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ sau can thiệp theo vệ 92

sinh lao động

3.41. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ sau sau can thiệp 92

theo dinh dưỡng

3.42. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ sau sau can thiệp 93

theo biện pháp KHHGĐ

3.43. Sự thay đổi về TB điểm kiến thức chung về CSSS của bà 95

mẹ sau can thiệp

3.44. Sự thay đổi về TB điểm thực hành chung về CSSS của bà 95

mẹ sau can thiệp

3.45. Đánh giá của bà mẹ nhóm can thiệp về DV CSSK tại nhà 96

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ Tên biểu đồ Trang

1.1 Lượng sữa trung bình trong 7 ngày đầu sau sinh 7

1.2 Biểu đồ giảm Bilirubin 8

1.3 Thời gian nghỉ sinh theo các quốc gia 17

3.1 Số con trung bình của các đối tượng nghiên cứu 52

3.2 Kiến thức chung của bà mẹ về CSSS 69

3.3 Kiến thức của bà mẹ CSSS theo các nhóm chuyên biệt 70

3.4 Thực hành chung của bà mẹ về CSSS 75

3.5 Sự thay đổi của kiến thức chung CSSS của bà mẹ 90

3.6 Sự thay đổi của thực hành chung CSSS của bà mẹ 94

DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ HÌNH

Tên hình/ sơ đồ Trang Hình

Các giai đoạn chăm sóc y tế của bà mẹ và trẻ sơ sinh 1.1. 14

2.1. Bản đồ Hà nội 30

2.2. Thiết kế nghiên cứu can thiệp 39

2.3. Giới hạn thời gian nghiên cứu 40

2.4. Tiến trình nghiên cứu 44

- 1 -

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thời kỳ sau sinh là một giai đoạn vô cùng quan trọng do có những thay

đổi mạnh mẽ về thể chất, sinh lý, cảm xúc đồng thời với sự nảy sinh các mối

quan hệ mới và là bước chuyển đổi vai trò từ “người phụ nữ” trở thành “người

mẹ”. Đây cũng là giai đoạn mà sức khỏe của người mẹ và của trẻ sơ sinh cần

được quan tâm nhiều nhất.

Theo Tổ chức y tế thế giới, có khoảng 60% tử vong bà mẹ và 32% tử

vong sơ sinh xảy ra vào ngày thứ nhất sau sinh. Khoảng 13% và 4% tỷ lệ tử

vong mẹ; 5% và 15% tử vong sơ sinh xảy ra vào tuần thứ nhất và tuần thứ 2 sau

sinh [111]. Ở Châu Phi, nơi có tỷ lệ tử vong sau sinh cao nhất thế giới, mỗi năm

có khoảng 1,16 triệu trẻ em tử vong trong 28 ngày đầu sau sinh và có 850.000 trẻ

không thể sống sót sau tuần đầu tiên [51]. Ở Việt Nam, theo số liệu của Bộ Y tế

năm 2009, tỷ lệ tử vong bà mẹ (MMR) là 69/100.000 trẻ đẻ sống và tỷ lệ tử vong

sơ sinh (IMR) là 16/1000 trẻ đẻ sống [5]. Hai tuần đầu sau sinh là khoảng thời

gian mà tần suất xuất hiện của các biến chứng sau sinh phổ biến nhất. Các biến

chứng sau sinh có thể xảy ra đối với sản phụ bao gồm: chảy máu, bế sản dịch,

nhiễm khuẩn sinh dục và tiết niệu, các tổn thương ở vú, tầng sinh môn, hoặc rối

loạn tâm thần sau sinh.... Trẻ sơ sinh có thể có những vấn đề sức khỏe như nhiễm

khuẩn đường hô hấp, nhiễm trùng rốn, vàng da bệnh lý....[108].

Nếu giai đoạn ngay sau sinh, các sản phụ và trẻ sơ sinh được chăm sóc

một cách khoa học sẽ tạo được tiền đề tốt cho sức khỏe của mẹ-con, góp phần

giảm thiểu tỷ lệ tử vong và bệnh tật, đảm bảo sự an toàn, phòng tránh hoặc phát

hiện sớm những biến chứng sau sinh, giúp bà mẹ chóng hồi phục về sức khỏe,

trẻ sơ sinh dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh và môi trường mới sau sinh. Tuy

nhiên, hầu hết các hoạt động chăm sóc sau sinh (CSSS) hiện nay mới chỉ được

- 2 -

chú trọng trong thời gian các bà mẹ nằm viện (24-48 giờ đầu tiên). Các thăm

khám sau sinh kể từ khi xuất viện cho đến hết thời kỳ hậu sản (42 ngày) hiện

chưa được quan tâm [51], [94]. Công tác chăm sóc sau sinh bị xem nhẹ làm giảm

cơ hội nâng cao sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, cũng như làm chậm quá trình

phát hiện sớm và điều trị bệnh tật cho họ. Kiến thức và thực hành về chăm sóc

sau sinh của bà mẹ hiện còn mang tính kinh nghiệm và tự phát [52]. Hiện tại, ở

Việt Nam, một số cơ sở y tế công lập và tư nhân đã triển khai dịch vụ chăm sóc

sau sinh tại nhà. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ dừng ở mức độ thực hành chăm sóc

sức khỏe cho mẹ và trẻ sơ sinh như khám, kiểm tra sức khỏe, tắm cho bé,

masasge da mẹ [40].

Chính vì vậy, tiến hành một can thiệp toàn diện chăm sóc sau sinh cho các

bà mẹ tại cộng đồng trong đó chú trọng đến tư vấn, hướng dẫn các bà mẹ về

chăm sóc sau đẻ theo hướng dẫn quốc gia về sức khỏe sinh sản là một việc làm

cần thiết. Tuy nhiên nhiều câu hỏi cũng được đặt ra cho dịch vụ về tính hiệu quả,

sự chấp nhận của cộng đồng, tính chí phí- hiệu quả, mức độ đáp ứng về nhu cầu

chăm sóc sau sinh của bà mẹ, địa bàn áp dụng, cách thức triển khai và các yếu tố

ảnh hưởng. Đây cũng chính là tiền đề nghiên cứu của đề tài:

“Thực trạng chăm sóc sau sinh của bà mẹ ở hai bệnh viện trên địa bàn

Hà nội và đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà”

với hai mục tiêu nghiên cứu:

1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành, nhu cầu chăm sóc sau sinh của

các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản trung ương và bệnh viện

huyện Ba Vì năm 2011

2. Đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc tại nhà trên những bà mẹ đến

sinh con tại hai bệnh viện.

- 3 -

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh tại cộng đồng

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Giai đoạn sau sinh

Tổ chức Y tế thế giới thống nhất sử dụng thuật ngữ “giai đoạn sau sinh”

để đề cập đến những vấn đề sức khỏe của sản phụ và sơ sinh tính từ khi rau sổ

đến hết ngày thứ 42 (6 tuần lễ), còn gọi là thời kỳ hậu sản [108].

Giai đoạn sau sinh được chia ra thành các giai đoạn nhỏ:

(1) Giai đoạn ngay sau sinh : 24h đầu sau khi sổ rau

(2) Giai đoạn sau sinh sớm : ngày 2 đến hết tuần đầu tiên

(3) Giai đoạn sau sinh muộn : tuần 2 đến hết tuần 6.

1.1.1.2. Chăm sóc sau sinh

Theo Tổ chức y tế thế giới, chăm sóc sau sinh bao gồm việc theo dõi và

chuyển tuyến điều trị cho bà mẹ nếu có biến chứng như băng huyết, đau, nhiễm

khuẩn, ngoài ra còn bao gồm cả tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ, dinh dưỡng thời

kỳ nuôi con, các tư vấn về chăm sóc sơ sinh và kế hoạch hóa gia đình. Nội dung

chăm sóc sơ sinh bao gồm cho bú sớm và bú hoàn toàn, giữ ấm, chăm sóc và giữ

gìn vệ sinh rốn, và phát hiện kịp thời các dấu hiệu nguy hiểm đưa trẻ đi khám và

điều trị [112].

1.1.1.3. Sơ sinh

Là trẻ được sinh ra từ 0 đến 28 ngày tuổi

1.1.1.4. Nhu cầu

Có rất nhiều định nghĩa về nhu cầu, tuy nhiên, có thể hiểu, nhu cầu là một

hiện tượng tâm lý của con người, là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con

- 4 -

người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển [103]. Tùy theo trình độ,

nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những

nhu cầu khác nhau. Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung,

đến hành vi của con người nói riêng, được nhiều ngành khoa học quan tâm

nghiên cứu và sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội.

1.1.2. Sinh lý hậu sản thường và sơ sinh đủ tháng

1.1.2.1.Giải phẫu và sinh lý hậu sản thường

- Những hiện tượng giải phẫu và sinh lý:

+ Thay đổi ở tử cung: Ngay khi rau sổ, tử cung co lại thành một khối chắc, đáy

tử cung ở ngay dưới rốn. Trọng lượng tử cung lúc đó nặng khoảng 1000g. Kích

thước tử cung giảm đi do máu và các mạch máu mất đi và một phần khác là do

sự tiêu hóa một lượng lớn các tương bào và tế bào [10]. Các cơ tử cung tự tiêu và

giảm về kích thước cũng như số lượng. Trong 4 tuần đầu sau đẻ, có sự tăng co

hồi tử cung để tái tạo lại các tổ chức cơ tử cung . Niêm mạc tử cung thực sự hồi

phục sau sinh 6 tuần [16].

+ Thay đổi ở các phần phụ, âm đạo, âm hộ: Buồng trứng, vòi tử cung và các dây

chằng tròn, dây chằng rộng dần dần trở lại bình thường về chiều dài, hướng và vị

trí. Cổ tử cung cũng thu nhỏ dần và thường bị rách 2 mép nên có hình dạng

giống môi cá mè. Lỗ cổ tử cung cũng nhanh chóng thu nhỏ dần và ngày thứ 12

sau sinh chỉ còn lọt ngón tay. Âm đạo và âm hộ bị căng giãn rất nhiều trong

chuyển dạ, đã trở lại trạng thái như trước khi mang thai vào tuần lễ thứ 3.

[10],[13].

+ Thay đổi hệ tiết niệu: Sau khi đẻ, không chỉ thành bàng quang bị phù nề và

xung huyết mà hiện tượng xung huyết còn xuất hiện cả ở lớp niêm mạc bàng

quang. Hơn nữa, bàng quang tăng dung tích và cơ bàng quang mất nhạy cảm

tương đối với áp lực của lượng nước tiểu ở bàng quang, cơ thắt vân cổ bàng

- 5 -

quang hoặc là do viêm nhiễm sẽ nhậy cảm dễ mở nhưng có những trường hợp lại

co thắt gây nên trình trạng bí đái, hoặc đái rắt hoặc són tiểu sau đẻ. Bể thận và

niệu quản bị giãn sẽ trở lại trạng thái bình thường sau đẻ từ 2 đến 8 tuần lễ.

Những thay đổi này gây hiện tượng viêm nhiễm đường tiết niệu tiềm tàng mà

không có biểu hiện triệu chứng bởi vì có tới 20% những bà mẹ sau sinh bị nhiễm

khuẩn đường tiết niệu thể ẩn .

+ Thay đổi ở vú: Ngược lại với cơ quan sinh dục, khi mang thai và đặc biệt là

sau đẻ, vú phát triển, căng lên, to và rắn chắc. Núm vú to và dài ra, các tĩnh mạch

dưới da vú nổi rõ lên. Các tuyến sữa phát triển.

- Những hiện tượng lâm sàng

+ Sự co hồi tử cung: Hiện tượng co hồi tử cung diễn ra ngay sau khi sổ rau.

Trong 12 giờ đầu sau đẻ, tử cung co đều đặn và đồng bộ để tống sản dịch ra

ngoài. Sau 24 giờ, cơn co tử cung không đều và giảm về cường độ. Các cơn đau

tử cung thường gặp ở những người sinh con rạ. Mức độ đau tùy theo cảm giác

của từng người. Có thể đau kéo dài nhiều ngày. Thông thường, các cơn đau giảm

dần từ ngày thứ 3 sau đẻ. Nếu co hồi tử cung chậm, sản dịch có mùi hôi và sốt

thì cần nghĩ ngay đến nhiễm khuẩn hậu sản, phải cho sản phụ đi khám tại các cơ

sở y tế.

+ Sản dịch: Thành phần của sản dịch bao gồm: Máu, mảnh vụn của rau, màng

rau, niêm mạc tử cung (mạng rụng), chất gây và lông tơ của thai nhi. Toàn bộ

lượng sản dịch ước khoảng 1.000-1.500g. Sản dịch có màu vàng, mùi nồng, ngai

ngái đặc trưng cho sản dịch. Nếu có mùi tanh, hôi, màu đục là do bị nhiễm

khuẩn. Nếu sản dịch ra nhiều, màu đỏ, người mệt lả là đang chảy máu do đờ tử

cung hay tổn thương đường sinh dục. Với sự tự cầm máu trong tử cung, sản dịch

giảm dần theo thời gian hậu sản, đồng thời thanh dịch cũng được tiết qua lớp

- 6 -

niêm mạc bao gồm thanh dịch, bạch huyết, limpho bào, bạch cầu tăng dần trong

buồng tử cung làm cho bề mặt tử cung có màu vàng. Ba ngày đầu tiên sau đẻ:

sản dịch ra nhiều khoảng 1.000g, bao gồm máu cục, những mảnh rau vụn nhỏ, có

mầu nâu sẫm. Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 8: sản dịch ít, có màu lờ lờ như máu

cá, lượng máu và các mảnh vụn của rau, màng rau ít dần, sản dịch có nhiều thanh

dịch, bạch cầu, màng rụng bị hoại tử, niêm mạc cổ tử cung. Hai tuần sau đẻ: sản

dịch có màu trong vì chỉ còn dịch thấm của niêm mạc tử cung. Các thành phần

của sản dịch được tống ra hết và niêm mạc tử cung bắt đầu hồi phục. Do giảm

Estrogen nên niêm mạc âm đạo trở nên mỏng mảnh, dễ gẫy, dễ bị trầy xước, tổn

thương đặc biệt nếu sinh hoạt tình dục mạnh mẽ có thể rách cùng đồ. Do biểu mô

âm đạo mỏng, lượng tế bào ít, hàm lượng glycogen trong tế bào thấp nên trực

khuẩn Doderlain ít làm cho pH âm đạo ở môi trường kiềm, dễ nhiễm khuẩn. Mặt

khác, sản dịch là phức hợp prôtêin phân hủy nên cũng là môi trường thuận lợi

cho nhiễm khuẩn hậu sản tăng lên [19], [20].

+ Hiện tượng tiết sữa và nuôi con bằng sữa mẹ: Prolactin từ thùy trước tuyến

yên làm cho các tuyến sữa tiết ra sữa. Oxytocin từ thùy sau tuyến yên tác động

tới các tế bào bao quanh các tuyến làm cho sữa được bài tiết vào trong ống dẫn

sữa rồi vào núm vú. Oxytocin cũng còn kích thích lượng prolactin tiết ra thêm.

Các Estogen của bánh rau ức chế tiết prolactin, phải mất 3 đến 4 ngày thì hiện

tượng này mới mất hẳn đi. Sữa bình thường cho tới lúc này còn chưa được tiết

ra. Khi mà các estogen còn chế ngự (trong khi có thai và ngay sau khi đẻ) thì chỉ

có sữa non được tiết ra.

Sữa non là một dịch màu hơi vàng, chứa lượng protein lớn hơn nhiều so

với sữa bình thường cộng với các tế bào biểu mô bong ra. Hàm lượng gamma

globulin cao của nó có thể là một nguồn cung cấp các kháng thể cho trẻ trong

- 7 -

những tháng đầu. Lượng sữa vào ngày thứ 7 sau khi sinh có thể đạt 500ml/ngày

600

500

400

300

200

100

0

y 3 à g n

y 4 à g n

y 5 à g n

y 7 à g n

[16].

y 6 à g n

Biểu đồ 1.1. Lượng sữa trung bình trong 7 ngày đầu

+ Các hiện tượng khác: Cơn rét run: xảy ra ngay sau đẻ, là cơn rét run sinh lý.

Mạch, nhiệt độ, huyết áp vẫn bình thường. Cần phải phân biệt với rét run do

choáng, mất máu. Bí đái, tiểu tiện: do nhu động ruột bị giảm, do chuyển dạ kéo

dài hoặc ngôi thai đè vào bàng quang. Các hiện tượng khác: mạch thường chậm

lại 10 nhịp/phút, trọng lượng cơ thể có thể sụt 3-5kg ngay sau sinh do rau thai,

nước ối, sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịch. Hb, Hematocrit và hồng cầu

giảm, sau 2 tuần lễ mới trở lại giá trị bình thường.

1.1.2.2. Sơ sinh đủ tháng và những vấn đề sức khỏe

- Sinh lý trẻ sơ sinh

+ Da, vàng da sinh lý: khoảng 1/3 trẻ sơ sinh xuất hiện vàng da sinh lý bình

thường vào giữa ngày thứ 2 và thứ 5. Hiện tượng này một phần do tình trạng

chưa trưởng thành của các tế bào gan và tăng bilirubin trong máu, vì các hồng

- 8 -

cầu bị phá hủy (hàm lượng Hb giảm từ 20g lúc mới sinh xuống 11g vào tháng

thứ 3) [68].

Biểu đồ 1.2. Biểu đồ giảm Bilirubin

Đây là triệu chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh, xảy ra ở 9% số trẻ đủ tháng.

Ở trẻ sinh non, tỷ lệ vàng da là 30%. Vàng da sinh lý không nguy hiểm, thường

tự mất sau một thời gian ngắn; còn vàng da bệnh lý có thể gây tử vong nếu

không được điều trị kịp thời. Phần lớn trẻ sơ sinh có biểu hiện vàng da trong

vòng 1 tuần sau khi ra đời. Đây là hiện tượng sinh lý bình thường, xảy ra do các

hồng cầu của thai nhi bị phá hủy để được thay thế bằng hồng cầu trưởng thành.

Khi hồng cầu bị vỡ, một lượng lớn Bilirubin - một chất có sắc tố màu vàng -

được phóng thích vào máu, làm cho trẻ bị vàng da. Đa số các trường hợp vàng

da ở trẻ sơ sinh đều nhẹ và tự khỏi sau 3-5 ngày, khi chất Bilirubin được đào thải

hết qua phân và nước tiểu. Tuy nhiên, có một số trường hợp vàng da nặng do

nồng độ Bilirubin tăng quá cao và thấm vào các nhân xám của não gây vàng da

nhân. Tình trạng này rất nguy hiểm, có thể làm cho trẻ bị hôn mê, co giật, dẫn

- 9 -

đến tử vong hoặc di chứng về tâm thần vận động vĩnh viễn. Cần theo dõi diễn

tiến của chứng vàng da mỗi ngày trong vòng 3-5 ngày sau sinh [2].

+ Phân: phân su chủ yếu do các tế bào bong, dịch nhầy và các sắc tố mặt tạo

nên- được đẩy ra ngoài trong 2-3 ngày đầu. Phải thấy phân su xuất hiện trong

vòng 36h sau khi sinh. Ruột khi mới sinh vô khuẩn nhưng sau vài giờ đã có các

khuẩn lạc phát triển. Phải xuất hiện vào ngày thứ 5, thường có màu vàng nhạt,

mùi thối. Trẻ bú mẹ đại tiện ít hơn trẻ cho ăn bằng chai.

+ Hệ thống hô hấp: Phổi của thai nhi không chứa khí, có đầy dịch phổi và nước

ối. Thai nhi có áp lực Oxygen trong máu động mạch vào khoảng 30-35 mmHg.

Nhịp thở khoảng 30 lần/ phút và có thể rất thất thường.

+ Nước tiểu: Thai nuốt dịch ối và và nước tiểu của thai nhi trong buồng tử cung.

Trong vòng 24h đầu sau khi sinh trẻ phải đái ra nước tiểu. Phải theo dõi đại tiện

và tiểu tiện- các hiện tượng này là bằng chứng của chức năng bình thường.

+ Hệ thống sinh dục: các biểu hiện của tình trạng giảm sút Estrogen có thể xuất

hiện được gọi là “cơn sinh dục”. Đôi khi thấy các núm vú phồng lên, thậm chí

còn tiết sữa. Bé gái có thể chảy một chút máu ở âm đạo, bé trai có thể bị tràn

dịch màng tinh hoàn thoáng qua. Những hiện tượng này là sinh lý bình thường

của trẻ sơ sinh nên không cần phải điều trị.

1.1.3. Những nguy cơ của bà mẹ và trẻ sơ sinh thời kỳ hậu sản:

1.1.3.1. Những nguy cơ của bà mẹ:

- Nguy cơ về sức khỏe- bệnh tật:

Trong thời kỳ hậu sản, sức khỏe bà mẹ có thể bị đe dọa bởi nhiều vấn đề

sức khỏe. Một số vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng có thể là nguyên nhân gây tử

vong bao gồm; chảy máu muộn sau đẻ, sản giật, … Đau, mệt mỏi, lo lắng buồn

chán và trầm cảm là những biểu hiện sức khỏe rõ rệt nhất của bà mẹ trong thời

kỳ này: có 55% bà mẹ ở Canada và 76% bà mẹ ở Mỹ cho biết cảm thấy mệt mỏi

- 10 -

ở tháng thứ 2 sau sinh. Về triệu chứng đau: đau ở vùng khung chậu (45,9% tại

Canada), đau vết mổ (83% ở Mỹ), đau vùng lưng (54,5% ở Canada), đau đầu

(23%) [54],[60],[63].

Bảng 1.1. Tổng hợp các vấn đề sức khỏe của bà mẹ sau sinh

Thổ Nhĩ Australia STT Vấn đề sức khỏe Italia* Pháp* Kỳ** ***

344 (49,4) 279 (47,4) 577 (43,5) 1. Đau lưng

157 (22,5) 122 (20,7) 2. Đau đầu

115 (16,5) 97 (16,4) 326 (24,6) Trĩ 3.

Căng giãn tĩnh mạch 572 (8,2) 105 (17,9) 4.

Táo bón 88 (12,6) 85 (14,5) 69 (61,7) 5.

Tiểu không tự chủ 12 (1,7) 45 (7,6) 172 (10,7) 6.

7. Đái buốt, đái rắt 7 (1.0) 18 (3,0)

8. Nhiễm khuẩn tiết niệu 10 (1,4) 11 (1,9)

9. Nhiễm khuẩn âm đạo 16 (2,3) 27 (4,6) 16 (14,3)

10. Giao hợp đau 83 (11,9) 92 (15,6) 394 (26,3)

11. Lãnh cảm 122 (17,5) 147 (24,9) 242 (18,2)

12. Mất ngủ 98 (14,1) 157 (26,7) 90 (80,4)

13. Lo lắng 252 (36,2) 207 (35,2)

14. Trầm cảm 142 (20,4) 112 (19) 97 (86,6) 260 (19,6)

15. Mệt mỏi 321 (46,1) 285 (48,4) 921 (69,4)

80 (71,4) 203 (16,9) 16. Các vấn đề về vú

17. 156 (11,6) Ho và cảm lạnh nhiều hơn bình thường

18. Đau cơ đáy chậu 279 (21,0)

147 (60,7) 19. Vấn đề khác (đau vết mổ) *[85], ** [90], ***[98]

- 11 -

Tổng hợp một số các nghiên cứu về sức khỏe bà mẹ sau sinh một số nước

trên thế giới, cho thấy có khoảng gần 20 các vấn đề sức khỏe mà bà mẹ đang

phải đương đầu trong giai đoạn sau sinh sau khi ra viện, bao gồm các cảm giác

về đau, các vấn đề về vú, đường tiết niệu, đường sinh dục và các vấn đề về tâm

lý như mệt mỏi, căng thẳng, mất ngủ đến lãnh cảm [85],[90],[98].

- Dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng:

Khẩu phần ăn của bà mẹ có ảnh hưởng lớn đến hồi phục sức khỏe sau

sinh, ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe của em bé. Theo khuyến cáo của Viện

Dinh dưỡng, bà mẹ cho con bú trong 6 tháng đầu cần thêm 550 đến 675

Kcal/ngày so với bình thường khoảng từ 2200-2300 Kcal/ngày, tức là sẽ phải đạt

từ 2750 đến 2975 Kcal/này. Hiện nay, theo thống kê của Viện Dinh dưỡng, các

bà mẹ ở Việt Nam mới chỉ đạt 2100 Kcal/ngày như vậy mới chỉ đảm bảo được

76% nhu cầu tối thiểu của bà mẹ sau sinh [39].

Ăn không đủ lượng và chất trong các bữa ăn hàng ngày, không bổ sung

các vi chất dinh dưỡng như Vitamin A, Sắt, Iốt là một nguy cơ có hại cho sức

khỏe của bà mẹ sau sinh. Thiếu Iốt làm cho trẻ phát triển chậm trí tuệ. Thiếu

Vitamin A gây tổn thương ở mắt cho trẻ như quáng gà, mù do khô mắt. Thiếu

Sắt và Folate gây thiếu máu. Trên thế giới, châu Phi, châu Á, châu Mỹ La Tinh

là những khu vực có tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt cao. Bà mẹ cần được bổ sung

Vitamin A 2 lần, và viên Sắt thường xuyên trong thời gian 4 tuần sau khi sinh.

Bổ sung Iốt bằng khẩu phần ăn và các muối trộn Iốt có sẵn trên thị trường

[6],[17].

- Vệ sinh, lao động và nghỉ ngơi

Thời kỳ mang thai và sinh nở đã tiêu tốn nhiều năng lượng cũng như sức

sức lực của người phụ nữ, vì vậy nếu không có chế độ lao động và nghỉ ngơi

- 12 -

thích hợp trong thời kỳ sau sinh, bà mẹ sẽ có những hệ lụy về sức khỏe như mất

ngủ, giảm cân, suy nhược cơ thể, rối nhiễu tâm lý, trầm cảm, tạo điều kiện mắc

một số bệnh [29]. Ngoài việc kiêng lao động nặng phòng tránh chảy máu, sa sinh

dục, giảm lượng sữa; bà mẹ cũng phải ngủ đủ giấc (từ 8 tiếng/ngày) để phục hồi

sức khỏe.

Chế độ vệ sinh thân thể và bộ phận đúng cách sẽ giúp tránh được các

nhiễm khuẩn về vú, đường sinh dục, tiết niệu. Bà mẹ vệ sinh thân thể hợp vệ

sinh bằng cách tắm nhanh bằng nước ấm, vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày.

- Sinh hoạt tình dục và các biện pháp tránh thai sau sinh

Thời điểm kết thúc thời kỳ hậu sản (6 tuần sau sinh) là lúc bà mẹ có thể có

sinh hoạt tình dục trở lại, do đó họ cần được cung cấp những kiến thức cơ bản về

thời điểm sinh hoạt tình dục cũng như các biện pháp tránh thai sau sinh. Bà mẹ

thiếu kiến thức về các biện pháp tránh thai có thể dẫn đến có thai ngoài ý muốn,

khoảng cách sinh gần, ảnh hưởng đến sức khỏe của bà mẹ. Theo kết quả một

nghiên cứu năm 1993, công tác tư vấn về các biện pháp tránh thai cho bà mẹ sau

đẻ còn chưa được chú ý. Rất nhiều các bà mẹ không sử dụng bất kỳ biện pháp

tránh thai nào vì lý do mới sinh và đang cho con bú [7], [21].

1.1.3.2. Những nguy cơ của trẻ sơ sinh

Trong năm 2010, có khoảng 3,1 triệu trẻ em tử vong trong tháng đầu tiên

của cuộc sống. Tỷ lệ tử vong sơ sinh có xu hướng giảm trong trẻ em từ 0-28

ngày tuổi giảm từ 4,4 triệu năm 1990 xuống còn 3,1 triệu năm 2010. Tỷ lệ tử

vong sơ sinh cũng giảm khoảng 28% từ 32/1.000 trẻ đẻ sống xuống còn 23/1.000

trẻ đẻ sống, tuy nhiên xu hướng giảm này xảy ra rất chậm và không đều

[53],[99]. Theo số liệu của Tổ chức y tế thế giới, 60,6% tử vong bà mẹ và 32%

tử vong trẻ sơ sinh xảy ra trong vòng 48h sau khi sinh. Các nghiên cứu cho thấy

- 13 -

rằng: nếu mẹ và con được chăm sóc y tế thích hợp sau sinh thì có đến 90% các

trường hợp có thể làm giảm tử vong sơ sinh từ 10% đến 27% [67],[110].

Theo kết quả một số nghiên cứu, sơ sinh thường gặp những vấn đề sức

khỏe như: các vấn đề về hô hấp, trẻ sinh non tháng, nhiễm khuẩn, vàng da [8].

Tổng quan về gánh nặng bệnh tật và tử vong sơ sinh khu vực các nước Đông

Nam Á năm 2012 cho thấy các nguyên nhân tử vong chính ở trẻ sơ sinh bao

gồm: nhiễm khuẩn, non tháng, nhẹ cân, ngạt sơ sinh và các bất thường bẩm sinh.

Tỷ lệ tử vong sơ sinh do ngạt: 25%, biến chứng của sinh non: 45%, bất thường

bẩm sinh: 16% và nhiễm khuẩn: 14%. Nhiễm khuẩn sơ sinh là một trong những

nguyên nhân gây tử vong sơ sinh quan trọng nhất có thể phòng tránh nhưng

không thấy có nghiên cứu nào phân tích một cách sâu sắc cũng như cung cấp các

số liệu thống kê về tỷ lệ mới mắc [79].

Một nghiên cứu 565 bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi tại Pakistan năm

2006, cho thấy có khoảng 28% trẻ sơ sinh gặp những vấn đề về sức khỏe tính

đến 28 ngày tuổi. Các bà mẹ cho biết các vấn đề sức khỏe của trẻ bao gồm: sốt

(45,5%), nôn (27%), khó thở (15,4%), trớ (13,5%). Số ít khoảng 19% số trẻ sơ

sinh có triệu chứng nặng hơn như da xanh tái, hạ nhiệt độ, vàng da ...Trong số

những trẻ mắc bệnh này, có 82,1% mắc bệnh trong tuần đầu tiên [48].

1.1.4. Nội dung chăm sóc sau sinh về y tế

Năm 1998, Tổ chức Y tế thế giới đã công bố Hướng dẫn thực hành Chăm

sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh dựa trên các bằng chứng hiện có và sự

thống nhất ý kiến của các chuyên gia lúc bấy giờ. Chăm sóc y tế từ khi mang thai

đến hết giai đoạn sau sinh được biểu diễn theo sơ đồ sau (Hình 1.1)

Hướng dẫn này có nhiều bất cập vì không đề cập đến thời gian nằm ở

phòng sau đẻ, số lượng và thời điểm tiếp xúc giữa mẹ với con và với cán bộ y tế

cũng như nội dung cần thực hiện của những lần tiếp xúc đó. Hướng dẫn này

- 14 -

cũng cung cấp rất ít thông tin về các vấn đề liên quan đến nhiễm HIV, mang thai

vị thành niên và các vấn đề về sức khỏe tâm thần [108].

Giai đoạn sau sinh

Hậu sản-6 tuần

Sk bà mẹ

Giai đoạn mang thai

Giai đoạn trước sinh

SK vị thành niên và trước khi mang thai

Sk trẻ em

Sơ sinh: 4 tuần

Hình 1.1. Các giai đoạn chăm sóc y tế của bà mẹ và trẻ sơ sinh

Tiếp theo hướng dẫn năm 1998, năm 2003 TCYTTG công bố Hướng dẫn

thực hành thiết yếu về mang thai, sinh nở, chăm sóc sau sinh và chăm sóc sơ sinh

nhằm cung cấp thêm những hướng dẫn cho các can thiệp dựa trên bằng chứng ở

cấp độ chăm sóc ban đầu [110].

Tài liệu tư vấn kỹ thuật của Tổ chức Y tế thế giới về các chăm sóc sau

sinh và chăm sóc thời kỳ hậu sản 2008 được một nhóm các chuyên gia quốc tế

phát triển dựa trên sự cập nhật về nội dung của hai hướng dẫn năm 1998 và 2003

vì vậy có những thay đổi và tiến bộ cũng như hữu ích hơn. Hướng dẫn này quy

định các nội dung chăm sóc và thời điểm chăm sóc dành cho bà mẹ và sơ sinh

giai đoạn sau sinh [111]. Ở Việt Nam, Hướng dẫn quốc gia năm 2009 về chăm

sóc sức khỏe sinh sản cũng đã quy định các nội dung chăm sóc sau sinh cho bà

mẹ và trẻ sơ sinh [6].

1.1.4.1. Thời điểm chăm sóc sau sinh

Hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới năm 1998 chỉ rõ thực hiện chăm sóc

sau sinh nên theo mô hình 6-6-6-6. Bao gồm 3-6 giờ sau sinh, 3-6 ngày, 6 tuần

và 6 tháng sau sinh [108]. Tuy nhiên, chăm sóc sau sinh trên thực tế cần tiến

hành sớm để khuyến khích các hành vi và thực hành chăm sóc kịp thời. Những

- 15 -

thực hành này bao gồm: cho trẻ bú ngay và cho bú hoàn toàn, giữ trẻ đủ ấm, giữ

sạch rốn, xác định các dấu hiệu nguy hiểm đúng thời điểm để kịp thời điều trị.

Đối với bà mẹ, những thực hành này bao gồm kiểm soát chảy máu, kiểm soát

đau, nhiễm khuẩn, tư vấn chăm sóc vú và cho bú, tư vấn về dinh dưỡng, chăm

sóc trẻ và kế hoạch hóa gia đình.

Ở những nơi không có điều kiện chăm sóc tại cơ sở y tế, có thể tổ chức

chăm sóc tại nhà. Hướng dẫn năm 2008 bổ sung trong khoảng thời gian từ 24-48

giờ đầu tiên là thời điểm nhạy cảm nhất đối với sức khỏe bà mẹ và trẻ em, vì vậy

sự chăm sóc y tế vào thời điểm này là cần thiết nhất [111].

Hướng dẫn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2009 của Việt

Nam quy định các thời điểm chăm sóc sau sinh cần thiết nhất là [6]:

1- Trong ngày đầu sau đẻ:

3- Sáu (6) tuần đầu tiên sau đẻ

2- Tuần đầu tiên sau đẻ

1.1.4.2. Nội dung chăm sóc sau sinh theo hướng dẫn quốc gia

Trong Hướng dẫn quốc gia về SKSS, các bà mẹ và sơ sinh được theo dõi

sức khỏe chặt chẽ trong ngày đầu tiên [6]. Từ ngày thứ 2 đến hết sáu tuần, nếu bà

mẹ xuất viện, các cán bộ y tế thực hiện chăm sóc sau sinh cần thực hiện các quy

trình:

(1) Hỏi mẹ về sức khỏe mẹ và con

(2) Khám (kiểm tra sự co hồi tử cung, tầng sinh môn, sự tiết sữa, vết mổ.)

(3) Hướng dẫn chăm sóc mẹ và con (theo bảng hướng dẫn chăm sóc của

hướng dẫn quốc gia)

(4) Cảnh báo về các bất thường có thể xảy ra.

Các nội dung chăm sóc chính:

- Về phía người mẹ:

- 16 -

+ Vệ sinh hàng ngày

+ Chăm sóc vú

+ Xử trí đau do co bóp tử cung

+ Xử trí vết khâu tầng sinh môn (nếu có)

+ Chế độ ăn uống và sinh hoạt đầy đủ, ngủ 8h/ngày, vận động nhẹ nhàng

+ Tư vấn: giải quyết vấn đề tâm lý (nếu có), hoặc tư vấn nuôi con sữa mẹ,

kế hoạch hóa gia đình

- Về phía con:

+ Ngủ màn, nằm chung với mẹ

+ Nuôi con bằng sữa mẹ

+ Chăm sóc mắt

+ Chăm sóc rốn

+ Vệ sinh thân thể và chăm sóc da

+ Tiêm phòng

Nội dung cụ thể về chăm sóc sau sinh sẽ được trình bày tại phần phụ lục

1.1.4.3. Chính sách nghỉ sau sinh của bà mẹ

Phần lớn các nước trên thế giới áp dụng thời gian nghỉ sinh cho các bà mẹ

từ 10 đến 20 tuần (Biểu đồ 1.3).

Châu Âu là nơi cho phép thời gian nghỉ sau sinh nhiều nhất. Tại Cộng hòa

Séc và Slovakia, bà mẹ có thể nghỉ 2 hoặc 3 và thậm chí là 4 năm sau sinh. Nhà

nước sẽ chi trả lương cho bà mẹ trong thời gian nghỉ. Đối với những trẻ khuyết

tật, bà mẹ có thể nghỉ đến 6 năm. Mỗi tháng trẻ được hỗ trợ 256 Euro mỗi tháng

cho đến hết 2 tuổi, và sau đó giảm đi còn 164,22 Euro mỗi tháng.

- 17 -

120

100

a i

g

80

60

c ố u q

40

ố s

20

0

0

<10

'10-20 20-30

>30

số tuần

Số tuần được nghỉ theo chế độ

Mô hình này cũng được áp dụng tại Áo nơi bà mẹ có thể chọn nghỉ sinh

Biểu đồ 1.3. Thời gian nghỉ chế độ sau đẻ ở các quốc gia

trong thời gian từ 1 đến 3 năm. Thụy Điển áp dụng việc cho nghỉ sinh cả bố và

mẹ cho đến 16 tháng, hưởng 80% lương. Phần lương này sẽ do chính phủ và đơn

vị chủ quản cùng chi trả. Na-uy cũng có chính sách nghỉ đẻ như vậy. Ở Estonia,

bà mẹ được hưởng nguyên lương trong thời gian nghỉ đẻ 18 tháng và được gia

hạn thêm 70 ngày nữa. Ông bố cũng có thể từ tháng thứ 3 sau sinh (tuy nhiên,

lương nghỉ sinh chỉ trả cho 1 người). Tại Anh, bà mẹ được nghỉ 52 tuần, trong đó

có 39 tuần được hưởng 90% lương, và thời gian còn lại hưởng £128.73/ tuần

[59],[77],[80],[97].

Châu Á, thời gian nghỉ sinh phổ biến là 12 tuần. Ở Li Băng, bà mẹ chỉ

được nghỉ 7 tuần nguyên lương. Ở Nepal là 52 ngày. Có 4 quốc gia chưa áp

dụng nghỉ đẻ nguyên lương bao gồm Liberia, Papua New Guinea, Swaziland và

Mỹ. Ở Mỹ, chính sách nghỉ đẻ ở các tiểu bang rất khác nhau [75],[103]. Ở Việt

Nam, thời gian nghỉ sinh của bà mẹ là 24 tuần.

- 18 -

1.2. Kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh

1.2.1. Kiến thức và thực hành CSSS của bà mẹ trên thế giới

1.2.1.1. Kiến thức, thực hành sau sinh nói chung:

Kiến thức về chăm sóc sau sinh có ý nghĩa rất cơ bản đối với bà mẹ vì có

thể giúp phát hiện sớm và xử trí kịp thời các bất thường của bà mẹ và trẻ sơ sinh

giai đoạn này, góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong mẹ-con. Bổ sung và

nâng cao kiến thức còn giúp các bà mẹ có thực hành chăm sóc bản thân và con

một cách khoa học [60].

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy, kiến thức và thực hành về chăm

sóc sau sinh của bà mẹ chưa được chính bản thân bà mẹ và các thành viên khác

trong gia đình quan tâm nhiều như kiến thức về mang thai và sinh nở. Một

nghiên cứu của tác giả Kimberly Smith (2004) trên 428 bà mẹ ở Mali cho thấy

có 80% bà mẹ khẳng định cần có kiến thức và thực hành chăm sóc trước sinh,

trong khi tỷ lệ trả lời đối với chăm sóc sau sinh chỉ có 60%. Nghiên cứu này

cũng cho thấy có 21,1% các bà mẹ không biết cần phải đi khám lại sau sinh, 18%

các bà mẹ cho rằng chỉ đi khám sau sinh khi xuất hiện bất thường, chỉ có 2,1%

các bà mẹ cho rằng cần thiết phải có cán bộ y tế kiểm tra sức khỏe trong vòng

hai tuần đầu sau sinh [79]. Về kiến thức, nghiên cứu của Reza Sharafi (2013)

trên 316 bà mẹ tại Iran cho thấy, 78,5% bà mẹ có kiến thức về chăm sóc sơ sinh

của các bà mẹ ở mức trung bình. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng là 13,3%. Có

8,2% bà mẹ không có kiến thức về chăm sóc con sau sinh [95].

1.2.1.2.Các kiến thức, thực hành sau sinh chuyên biệt:

Về chăm sóc bà mẹ: Các nghiên cứu về chăm sóc bà mẹ giai đoạn sau sinh

có số lượng rất ít. Một số các nghiên cứu được tìm thấy về chủ đề này là nghiên

cứu định tính, phân tích tác động của các yếu tố tập quán lên thực hành chăm sóc

- 19 -

bà mẹ sau sinh. Nghiên cứu tại Bangladesh cho thấy chỉ có 32% trong số các bà

mẹ sau sinh tham gia nghiên cứu được khám lại, 86,4% các bà mẹ được uống

Vitamin A [62].

Về chăm sóc sơ sinh: nhiều nghiên cứu cho thấy bà mẹ ở nhiều nơi trên

thế giới, đặc biệt là những nước đang phát triển còn chưa có kiến thức đầy đủ,

hoặc có kiến thức, thực hành sai về chăm sóc cho trẻ sơ sinh. Ví dụ về chăm sóc

rốn, mặc dù TCYTTG đã khuyến cáo phải giữ rốn trẻ sạch sẽ, khô ráo, không

được bôi bất cứ một loại thuốc hoặc chất nào lên bề mặt nếu không có chỉ định

của bác sỹ, vẫn có nhiều bà mẹ bôi dầu mù tạt, nghệ, phân bò, mỡ kháng sinh lên

cuống rốn. Nghiên cứu của Padiyah cho thấy có 25% bà mẹ bôi dầu dừa lên

cuống rốn, 2% các bà mẹ thậm chí bôi cả tro bếp lên cuống rốn của trẻ [88].

Nghiên cứu của các tác giả khác ở Ấn Độ và Kenya cho thấy chỉ có 50% các bà

mẹ có thực hành đúng về chăm sóc rốn [88], [91]

Hầu hết các bà mẹ đều biết mục tiêu của tiêm chủng là phòng bệnh nhưng

rất ít các bà mẹ biết các bệnh nào có thể phòng tránh bằng tiêm vắcxin [88].

Kiến thức và thực hành của bà mẹ cũng có ảnh hưởng nhiều đến hành vi

cho bú mẹ. Một nghiên cứu của tác giả Shrestha (Nepal) cho thấy có đến 25%

các bà mẹ thiếu kiến thức và 20% các bà mẹ thực hành không đúng về cho con

bú. Trong một nghiên cứu khác của Norhan Zeki Shaker trên 1000 bà mẹ vừa

sinh con tại Irắc năm 2009, có tới 50% các bà mẹ dừng cho con bú trước 3 tháng

tuổi với các lý do lần lượt là bà mẹ cảm thấy không đủ sữa cho con bú (35,1%),

trẻ không bú (29,7%), bà mẹ có bệnh lý (9%) và bà mẹ không thích cho bú

(8,1%) [91].

Trong thời kỳ sau sinh, một số phụ nữ không những không được chăm sóc

mà còn có nguy cơ bị bạo hành. Một nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy 24%

- 20 -

phụ nữ bị đe dọa bạo hành hay lạm dụng thể xác, tình dục, bạo hành gia đình

cũng tăng cao từ 10-19% và mức độ trầm trọng hơn so với thời kỳ tiền sản . Bạo

hành phụ nữ trong thời kỳ hậu sản gây nên tình trạng căng thẳng tinh thần hay

trầm cảm cao gấp 6 lần so với những phụ nữ không bị bạo hành. Hậu quả của

bạo hành thường rất nặng nề vì nó ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của bà

mẹ và trẻ sơ sinh [60].

1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành sau sinh của bà mẹ

Các nghiên cứu cũng cho thấy có nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến kiến thức

và thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh. Những yếu tố này bao gồm các

yếu tố về đặc điểm của mẹ như độ tuổi, trình độ học vấn, số con, nghề nghiệp,

nơi cư trú. Các đặc điểm khác như: nơi sinh con, số ngày nằm viện, và yếu tố tập

quán cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của bà mẹ giai

đoạn sau sinh [74], [100]. Đa số các nghiên cứu đều chỉ ra rằng các bà mẹ có

điều kiện sống tốt hơn, thu nhập cao và trình độ học vấn cao thì có kiến thức,

thực hành chăm sóc sơ sinh tốt hơn [94]

Một nghiên cứu ở Ấn Độ 1935 đối tượng nghiên cứu cho thấy có 66% các

bà mẹ thành thị sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại sau khi kết thúc thời kỳ

hậu sản, trong khi tỷ lệ này ở nông thôn chỉ có 41% [80]. Ngoài ra, việc xuất

viện quá sớm sau sinh của bà mẹ (2-3 giờ sau sinh) dẫn đến việc bà mẹ mất cơ

hội được hướng dẫn về chăm sóc sau sinh bởi các cán bộ y tế. Nơi sinh cũng

quyết định đến việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sau sinh. Các bà mẹ sinh con

tại nhà được khám lại sau sinh chiếm tỷ lệ là: 7,5%, trong khi tỷ lệ khám lại sau

sinh ở các bà mẹ sinh con ở các cơ sở y tế là 71% [102].

Yếu tố cộng đồng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thực

hành của bà mẹ. Trong các cộng đồng châu Á, người quyết định về ăn uống,

- 21 -

chăm sóc cho bà mẹ và trẻ sơ sinh thường là một thành viên khác trong gia đình,

chứ không phải bản thân bà mẹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy người quyết định

là mẹ chồng chiếm: 30,9%, chỉ có 24,2% bà mẹ được tự quyết định trong việc

chăm sóc cho bản thân và cho con [106]. Một nghiên cứu khác của tác giả Jyoti

Kulkami tại Ấn Độ trên 100 bà mẹ cho thấy một trong những nguyên nhân

không cho trẻ bú sớm đối với các bà mẹ có con so là ngượng phải cho bú trước

mặt mọi người [74]. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy tập quán có tác động

nhiều đến các hành vi kiêng khem trong ăn uống, sinh hoạt của các bà mẹ sau

sinh [72], [82].

1.2.2. Kiến thức, thực hành về CSSS của bà mẹ tại Việt Nam

Có ít nghiên cứu về kiến thức, thực hành của bà mẹ trong thời kỳ sau sinh

được tìm thấy ở Việt Nam. Kết quả của một số nghiên cứu về lĩnh vực này cho

thấy kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ còn có nhiều bất cập.

Nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách năm 2009 tại 14 tỉnh miền bắc và Tây Nguyên

cho thấy kiến thức của phụ nữ về các dấu hiệu nguy hiểm cho bà mẹ sau sinh rất

yếu, chỉ có 42,1% phụ nữ sau sinh được chăm sóc tại nhà bởi cán bộ y tế, y tế

thôn bản và bà đỡ dân gian. Chỉ có 14,9% biết thời điểm cần sử dụng BPTT sau

đẻ [43]. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Lê Thị Vân và Vương

Tiến Hòa về thực trạng công tác chăm sóc sau sinh tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải

Dương năm 2003 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về CSSS đạt là 40%, trong

khi kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm chỉ đạt 25,6%, kiến thức về các biện pháp

KHHGĐ cũng chỉ đạt 29,2%. Chỉ có 50,7% và 59,5% các bà mẹ có kiến thức

phải bổ sung viên Sắt và Vitamin A thời kỳ sau sinh [41],[42].

Tổng quan hệ thống của UNFPA (2007) cũng cho thấy kiến thức của bà

mẹ về chăm sóc sau sinh rất thấp. Khoảng 3/4 các bà mẹ biết thời điểm cho bú

mẹ. Tuy nhiên các bà mẹ không biết về chế độ dinh dưỡng cần thiết cho con,

- 22 -

cũng như sử dụng BPTT đúng cách. Đặc biệt các bà mẹ ở miền núi, KAP về làm

mẹ an toàn khá thấp (Kiến thức khá: 13,1%, thái độ đúng: 36,4%, và thực hành

đúng: 10%) [105].

Không chỉ yếu, và thiếu kiến thức, thực hành về CSSS, ở Việt Nam còn

chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố về giá trị, niềm tin truyền thống hay gọi là

tập quán. Nghiên cứu của Lê Minh Thi, 2003 tại Ân Thi, Hưng Yên cho thấy

thời gian ở cữ theo quan niệm truyền thống là 100 ngày (3 tháng 10 ngày). Bà

mẹ trong thời gian ở cữ cũng phải tuân theo rất nhiều các kiêng kỵ trong chế độ

ăn uống và nghỉ ngơi. Ví dụ, kiêng gội đầu và tắm bằng nước lạnh, kiêng xem

tivi, đọc sách, kiêng ăn cá và những chất tanh, kiêng ánh nắng mặt trời chiếu trực

tiếp. Tác giả chia ra 3 cấp độ của các tập quán chăm sóc sau sinh, bao gồm: (1)

các yếu tố ích lợi: bao gồm các thực hành có lợi cho sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ

sinh như ăn nhiều thức ăn, tránh uống các đồ uống nóng như rượu., (các yếu tố

trung tính: không có lợi hay có hại cho sức khỏe BMTE như không chải đầu,

không soi gương, không gọi điện thoại, nhét bông vào tai, mặc áo dài tay (trong

thời tiết nóng), đi tất, không cắt móng chân, móng tay và (3) nhóm yếu tố gây

hại: bao gồm kiêng ăn một số loại thực phẩm nhiều dinh dưỡng như cá, hoa quả,

hải sản, thịt bò, kiêng uống nhiều nước, không sử dụng biện pháp tránh thai

trong thời kỳ hậu sản [82].

Ngoài ra, một số nghiên cứu còn cho thấy thời kỳ sau sinh, các bà mẹ

không chỉ đối mặt với các vấn đề về vệ sinh, dinh dưỡng, theo dõi sức khỏe cho

con mà còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ về sức khỏe của chính bản thân bà

mẹ, trong đó có cả vấn đề liên quan đến trầm cảm sau sinh. Nghiên cứu của

Nguyễn Thị Như Ngọc trên 1387 bà mẹ sau sinh tại thành phố Hồ Chí Minh cho

thấy có 27 (2%) bà mẹ bị trầm cảm sau sinh. Tuy nhiên, có đến 48,7% bà mẹ sau

sinh cho biết học đã từng bị bạo hành sau sinh từ bạo hành tâm lý như sỉ nhục,

- 23 -

chê bai, mắng chửi, đến đấm đá, xô đẩy, gây thương tích hay ép buộc quan hệ

tình dục. Tác giả cũng cảnh báo nguy cơ bị trầm cảm trong nhóm các bà mẹ bị

bạo hành là 6,2 lần sau khi đã kiểm soát các yếu tố tác động [23].

Một nghiên cứu khác của Fisher và cộng sự tại thành phố Hồ Chí Minh

trên 506 bà mẹ sau sinh cũng cho thấy có 33% bà mẹ có chỉ số sàng lọc trầm

cảm theo thang đánh giá trầm cảm sau sinh Endinburg (EPDS).12 điểm và có

19% các bà mẹ sau sinh đã từng có ý định tự sát [71].

1.3. Các mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà

1.3.1. Mô hình chăm sóc tại nhà sau sinh trên thế giới

Trên thế giới, hiện nay đang tồn tại 3 mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà

(hay còn gọi là chăm sóc sau sinh dựa vào cộng đồng). Trong mỗi mô hình chăm

sóc đều chứa đựng hai phần không thể thiếu, đó là (1) thăm khám, phát hiện bất

thường chuyển tuyến điều trị, (2) tư vấn nâng cao sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ

sinh [86].

- Mô hình thứ nhất: thăm khám sau sinh do cán bộ y tế thực hiện.

- Mô hình thứ hai: Thăm khám sau sinh do cán bộ cộng đồng thực hiện.

- Mô hình thứ ba: thăm khám sau sinh do cán bộ cộng đồng và cán bộ y tế

thực hiện.

Ở mô hình thứ nhất, cán bộ y tế được đào tạo chính quy hoặc đang làm ở các

cơ sở y tế công, đến thăm khám và trực tiếp tư vấn cho bà mẹ. Nhiều quốc gia đã

áp dựng chương trình này như ở hầu hết các quốc gia châu Âu, Hy Lạp,

Indonesia, Philippines, Zimbabwe, Nêpan, Ấn độ, Băngladet [86], [107].

Ví dụ ở Hà Lan, sản phụ được quyền lựa chọn sinh con tại nhà hoặc tại các

nhà hộ sinh hoặc tại bệnh viện. Chương trình thăm khám tại nhà trong vòng 1

tuần sau sinh được trả bằng bảo hiểm y tế được áp dụng cho các bà mẹ. Những

- 24 -

người chăm sóc gọi là: kraamverzorgsters, người phải hoàn thành một chương

trình đào tạo về chăm sóc sau sinh trong 3 năm. Kraamverzorgsters sẽ chịu trách

nhiệm chăm sóc sau sinh từ 1 tuần cho đến 10 ngày. Dịch vụ chăm sóc này bao

gồm: kiểm tra sức khỏe, trợ giúp bà mẹ cho trẻ bú, nấu nướng và làm các công

việc nhà. Bà mẹ có thể nghỉ ngơi và an tâm về sức khỏe của bản thân và con

mình với dịch vụ chăm sóc sau sinh này [59].

Một nghiên cứu của tác giả Ransjo-Arvidson năm 1998 trên các sản phụ

Zimbabwe đẻ thường tại bệnh viện cho thấy các thăm khám sau sinh tại nhà do

hộ sinh thực hiện vào ngày 3,7,28,42 sau sinh có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh

của trẻ sơ sinh và làm tăng khả năng phản ứng của bà mẹ nếu phát hiện thấy bất

thường [93].

Ở mô hình thứ hai, các thăm khám thường không mang tính chuyên môn,

chỉ chú trọng vào một chương trình cụ thể như tư vấn cụ thể. Ví dụ: chương trình

tư vấn chăm sóc sơ sinh tại nhà để làm giảm tỷ lệ chết sơ sinh ở Ấn Độ trong hai

thập kỷ vừa qua. Một nghiên cứu của Sazawal và Black 2003 tại Ấn Độ cho thấy

các cán bộ cộng đồng cung cấp thuốc uống kháng sinh điều trị viêm phổi tại nhà

có thể làm giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh từ 13 đến 30% [97]. Chương trình thúc đẩy

nuôi con bằng sữa mẹ tại Ghana (2001-2002) cũng sử dụng cán bộ cộng đồng

cung cấp thông tin về sữa mẹ cho bà mẹ mới sinh con, các ông chồng và mẹ

chồng. Đây chính là chương trình giáo dục đồng đẳng về nuôi con bằng sữa mẹ

[47].

Ở mô hình thứ ba, cán bộ cộng đồng thực hiện tư vấn chăm sóc sau sinh.

Sau đó cán bộ y tế thực hiện các thăm khám chuyên môn. Ví dụ: chương trình

dựa vào cộng đồng thực hiện KHHGĐ cho phụ nữ sau đẻ tại Chilê (1999) hay

Guatemala (2002). Cán bộ cộng đồng tư vấn sau đó giới thiệu các bà mẹ đến

- 25 -

thực hiện các biện pháp tránh thai cụ thể tại các cơ sở y tế, đồng thời theo dõi và

xử trí nếu có biến chứng [47], [49].

Hiệu quả của các chương trình chăm sóc tại nhà: ở Thụy Sĩ, một nghiên

cứu của Stavros Petrou năm 2004 trên 459 bà mẹ cho thấy mô hình thăm khám

của nhân viên y tế sau sinh tại nhà có thể làm giảm thời gian nằm viện của các

bà mẹ đến 41 giờ (65 giờ của nhóm sử dụng mô hình so với 106 giờ của nhóm

không sử dụng mô hình) [101]. Một nghiên cứu can thiệp khác tại 6 nước đang

phát triển gồm Bolivia, Malawi, Mali, Bangladesh, Nepal và Pakistan do

Chương trình cứu sống trẻ em của Tổ chức cứu trợ trẻ em quốc tế tiến hành cho

thấy tỷ lệ sơ sinh trong 3 ngày đầu được chăm sóc bởi cán bộ y tế tăng từ 2-5 lần

so với tỷ lệ trước can thiệp. Chương trình này đào tạo các cán bộ y tế cộng đồng

thực hành các chăm sóc sơ sinh cơ bản tại nhà sản phụ và thay đổi các thói quen

chăm sóc có lợi cho sức khỏe. Can thiệp cũng chú trọng đến tăng cường nhận

thức về chăm sóc sau sinh tại cộng đồng. Sử dụng các cán bộ y tế hiện đang công

tác tại cộng đồng trong vòng 6 đến 18 tháng. Kết quả chương trình cho thấy mô

hình này có thể được triển khai tại cộng đồng trong khoảng thời gian ngắn đã mở

rộng được tỷ lệ trẻ sơ sinh được thăm khám tại nhà lên nhiều lần so với trước can

thiệp [69]. Mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà bởi cán bộ y tế là có thể làm giảm

tỷ lệ tử vong sơ sinh. Theo một công bố của Tổ chức y tế thế giới và tổ chức Nhi

đồng Liên hiệp quốc năm 2009, ở các nước phát triển, đặc biệt là những nơi có tỷ

lệ tử vong sơ sinh cao, thăm khám sau sinh tại nhà do cán bộ y tế thực hiện có

thể làm giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh từ 30-61%. Chăm sóc tại nhà bao gồm các

thực hành chăm sóc cơ bản như: cho bú mẹ sớm, thực hiện da kề da, tăng cường

vệ sinh, khử khuẩn như rửa tay bằng xà phòng khi tiếp xúc với trẻ và vệ sinh rốn

tốt. Ở các nước phát triển, mô hình chăm sóc tại nhà sau sinh có tác động làm

tăng tỷ lệ bú mẹ và cải thiện các kỹ năng làm cha mẹ trong thời kỳ này [70].

- 26 -

Chi phí của các chương trình chăm sóc tại nhà: nhiều nghiên cứu đề cập đến chi

phí cho các dịch vụ chăm sóc sau sinh tại nhà cho thấy chi phí chăm sóc tại nhà

thường cao hơn chăm sóc tại các cơ sở y tế. Để có thể xây dựng dịch vụ chăm

sóc tại nhà, cần các loại chi phí như sau: phụ cấp cán bộ, thuốc, dụng cụ/ máy

móc, nhiên liệu, phương tiện vận chuyển, và các chi phí khác [71]. Trong khi,

các dịch vụ tương tự tại bệnh viện tiết kiệm được các chi phí về di chuyển và phụ

cấp cán bộ (vì đã tính vào lương hàng tháng). Nghiên cứu của Stavros Petrou thì

lại cho rằng mô hình chăm sóc tại nhà có thể làm giảm chi phí nằm viện trung

bình là 1200 franc Thụy Sĩ (chủ yếu là do thời gian nằm viện được rút ngắn)

[101].

1.3.2. Chăm sóc sau sinh tại nhà ở Việt Nam

Cũng giống như xu hướng trên thế giới, khoảng trống trong chăm sóc sau

sinh ở Việt Nam cũng thể hiện rõ khi số lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này

khá khiêm tốn so với chăm sóc trước sinh. Một nghiên cứu về thực hành chăm

sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh tại tỉnh Khánh Hòa năm 2005 cho thấy vẫn còn

sự thiếu hụt trong chăm sóc sau đẻ và đặc biệt là chăm sóc sơ sinh sau đẻ. Số phụ

nữ được nhân viên y tế khám lại sau đẻ: trong vòng 2 giờ sau đẻ là 32,1%; trong

vòng 3-12h sau đẻ là 51,2% và số không được khám là 13,1% [26]. Đa số các

thăm khám sau sinh lại được tiến hành tại bệnh viện. Các thăm khám tại nhà do y

tế thôn bản hoặc/và y tế tư nhân đảm nhiệm [22].

Các nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ được khám lại sau sinh cũng rất khác

nhau ở các vùng, miền, trong khi tỷ lệ thăm khám sau sinh ở Khánh Hòa chỉ là

52,3%, trong đó 70,6% số lần khám thứ nhất do cán bộ y tế xã thực hiện. Một

nghiên cứu khác của Lê Anh Tuấn, Ngô Văn Toàn và CS năm 2010 về chăm sóc

sau sinh tại Bình Định cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được khám lại trong vòng 28

- 27 -

ngày sau sinh khá cao: 82%. Tuy nhiên, các bà mẹ vùng miền núi có tỷ lệ khám

lại không cao [25].

Ở Việt Nam, tỷ lệ cho bú hoàn toàn cả nước là 20,2%. Một số nghiên cứu

khác cho thấy : tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn khác nhau ở các tỉnh, dao động từ 0,6%

(Khánh Hòa) đến 36,9% (Đà Nẵng). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong

một nghiên cứu khác của Lưu Ngọc Hoạt và cộng sự tỷ lệ cho bú hoàn toàn là

30%. Các yếu tố cản trở cho thực hành cho trẻ bú sớm là mẹ thấy không đủ sữa,

mệt yếu, mẹ mổ đẻ, mẹ dùng kháng sinh, không được cán bộ y tế khuyên và hỗ

trợ. Có đến 40,2% trong số các bà mẹ có con <6 tháng tuổi cho biết lý do không

cho bú là do bà mẹ cảm thấy không đủ sữa nữa [18].

Trình độ của nhân viên y tế về chăm sóc sau sinh vẫn còn hạn chế. Nghiên

cứu của Leif Erikson, Nguyễn Thu Nga và cộng sự tại Quảng Ninh, Việt Nam

trên 415 cán bộ y tế xã thuộc 115 trạm y tế của 12 huyện cho thấy kiến thức đạt

về chăm sóc sức khỏe ban đầu của các nhân viên y tế cao nhất là 60% so với yêu

cầu [83].

Dịch vụ chăm sóc sau sinh tại nhà đã được một số cơ sở y tế trong và

ngoài công lập tiến hành từ một vài năm trở lại đây ở hầu hết các thành phố lớn

như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, …Kết quả tìm

kiếm thông tin trên một số trang web và mạng xã hội cho thấy các dịch vụ chăm

sóc sau sinh hiện tại có thể chia ra thành hai dạng:

- Dạng 1: dịch vụ do các bệnh viện Phụ sản hoặc bệnh viện bán công, bệnh

viện tư nhân cung cấp ví dụ: Bệnh viện Phụ sản trung ương ở Hà Nội,

bệnh viện quốc tế Hạnh phúc ở thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Phụ

sản Hải Phòng ở thành phố Hải Phòng.

- Dạng 2: dịch vụ do một số cơ sở y tế tư nhân cung cấp chủ yếu là chăm

sóc và phục hồi sức khỏe, masage thảo dược, xông hơi cho mẹ và tắm bé.

- 28 -

Các công ty cung cấp được biết đến nhiều là Công ty Viet-care (Hà nội),

Công ty Mom&Baby care (Đà Nẵng), Jamu Mommy Center (Thành phố

Hồ chí minh).

Giá dịch vụ khoảng từ 150.000 đồng/buổi đến 250.000 đồng/buổi cho

những chăm sóc đơn giản như tắm và massage da bé, vệ sinh mắt, mũi, rốn, thăm

khám và kiểm tra vết mổ, cắt chỉ cho mẹ. Các dịch vụ tắm, xông hơi, massage

bằng thảo dược có giá từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/ gói dịch vụ 10

ngày.

Tuy có nhiều loại dịch vụ chăm sóc sau sinh nhưng lại có rất ít nghiên cứu

đánh giá về chất lượng cũng như tác động của những dịch vụ này lên sức khỏe

của bà mẹ và trẻ em. Nghiên cứu của Lê Hoài Chương về hoạt động của đơn vị

chăm sóc tại nhà bệnh viện Phụ sản trung ương trong thời gian từ 2008-2009

bằng phương pháp hồi cứu cho thấy dịch vụ chăm sóc sau sinh chiếm 67% tổng

số dịch vụ tại nhà do bệnh viện cung cấp trong thời gian 2 năm [12]. Với 2413 ca

dịch vụ chăm sóc mẹ và bé, phát hiện 61 trường hợp bất thường, trong đó có 16

trường hợp nhiễm trùng hoặc toác vết mổ, 7 trường hợp toác vết khâu tầng sinh

môn, 5 trường hợp bí tiểu sau đẻ, 5 trường hợp tắc tia sữa và 3 trường hợp bế sản

dịch, 22 trường hợp gặp các bất thường khác cần điều trị. Có 124 trẻ sơ sinh phát

hiện bất thường, hầu hết là vàng da bệnh lý: 94 trường hợp và bệnh lý khác: 30

trường hợp [12].

Mặc dù số lượng không nhiều như các nghiên cứu về mang thai và sinh

nở, các nghiên cứu chăm sóc sau sinh của các tác giả trên thế giới và tại Việt

Nam đã mô tả khái quát về thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh

với những đặc điểm chung về kiến thức thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ

còn có nhiều bất cập, mang đậm mầu sắc của tập quán và phong tục, sự tham gia

của nhiều thành viên trong gia đình và sự bỏ ngỏ của hệ thống y tế khi trao toàn

- 29 -

bộ việc chăm sóc sau sinh của bà mẹ và trẻ sơ sinh cho cộng đồng. Giai đoạn sau

sinh cũng chứa đựng nhiều nguy cơ về sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, kể cả

những nguy cơ về sức khỏe và các nguy cơ tinh thần khác như vấn đề trầm cảm

sau sinh. Trong khuôn khổ tìm kiếm của nghiên cứu, chúng tôi chưa thấy có

nghiên cứu nào cả trên thế giới và tại Việt nam phân tích sự thay đổi về kiến thức

và thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ khi sử dụng các dịch vụ chăm sóc sau

sinh tại nhà.

- 30 -

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm nghiên cứu

Hai bệnh viện chọn làm cơ sở nghiên cứu đều nằm trên địa bàn thành phố

Hà Nội có diện tích 3328,9 km2, đồng thời cũng là địa phương đứng

thứ nhì về dân số với 6.699.600 người (2011). Hà Nội hiện nay gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành.

Hà nội. Huyện Ba Vì cách nội thành Hà Nội 30km2 về phía Tây Bắc.

Hình 2.1. Bản đồ Hà nội

2.1.1. Bệnh viện Phụ sản trung ương

Là bệnh viện đầu ngành trong lĩnh vực sản phụ khoa và sơ sinh. Nằm giữa

trung tâm của thủ đô Hà Nội, điều kiện đi lại khá thuận tiện. Bệnh viện hàng năm

- 31 -

tiếp nhận 20.000 ca đẻ trong điều kiện cơ sở vật chất của một bệnh viện 260

giường (từ năm 1966). Do đó, tình trạng quá tải với 2-3 bà mẹ cùng điều trị trên

1 giường hiện đang ảnh hưởng đến việc đảm bảo chất lượng của dịch vụ. Để

khắc phục tình trạng này, bệnh viện đã thành lập đơn vị chăm sóc tại nhà, bao

gồm các dịch vụ: (1) chăm sóc sau đẻ, (2) chăm sóc sau phẫu thuật, (3) khám

thai định kỳ, (4) siêu âm sản phụ khoa, (5) khám sản khoa và sơ sinh. Dịch vụ

chăm sóc sau đẻ chú trọng đến việc thăm khám, kiểm tra sức khỏe và bất thường

ở bà mẹ và trẻ sơ sinh. Sự khác biệt trong việc cung cấp dịch vụ này với can

thiệp của nghiên cứu sẽ được trình bày cụ thể trong phần mô tả can thiệp.

2.1.2. Bệnh viện đa khoa Ba Vì

Nằm tại huyện miền núi phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, với diện tích

420 km2, dân số gần 30 vạn người. Toàn huyện có 30 xã, 01 thị trấn, trong đó

khu vực miền núi có 07 xã, 01 xã giữa sông còn lại là vùng đồi gò và ven sông

do vậy việc đi lại khám chữa bệnh của nhân dân đến trung tâm là khá xa, nơi xa

nhất đến bệnh viện là 40 km. Bệnh viện tiếp nhận khoảng 20,000 lượt bệnh nhân

đến khám, trong đó khoảng 2,500 ca đẻ hàng năm. Khoảng cách từ Ba Vì đến Hà

nội khoảng > 30km. Do điều kiện địa lý nằm khá xa Hà nội so với các huyện

2.2. Phương pháp nghiên cứu

ngoại thành khác.

Nghiên cứu này bao gồm hai thiết kế nghiên cứu riêng biệt.

- Đối với mục tiêu 1: “Mô tả thực trạng về kiến thức, thực hành và nhu cầu chăm

sóc sau sinh của bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và bệnh

viện Ba Vì” chúng tôi sử dụng một nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả của

nghiên cứu này được sử dụng như một cơ sở để xây dựng mô hình can thiệp.

- 32 -

- Đối với mục tiêu 2 : "đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà của

hai bệnh viện" chúng tôi xây dựng một nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối

chứng.

2.2.1. Thiết kế mô tả cắt ngang:

2.2.1.1. Thời gian nghiên cứu:

Thời gian tiến hành thu thập số liệu cho nghiên cứu từ tháng 2 đến 4/2011.

2.2.1.2. Đối tượng nghiên cứu

- Bà mẹ vừa sinh con:

Các sản phụ sinh con tại hai bệnh viện Phụ sản trung ương và bệnh viện

huyện Ba Vì

Điều kiện tuyển chọn:

1. Sống ở khu vực lân cận Hà Nội và Ba Vì

2. Mẹ và con có sức khỏe ổn định khi ra viện

3. Cam kết tự nguyện tham gia nghiên cứu

4. Thời gian nằm viện ≥ 24h. Do bảng câu hỏi nghiên cứu khá dài,

mất nhiều thời gian (kể cả thời gian để bà mẹ hồi phục sau khi sinh

mới tiến hành phỏng vấn) nên điều kiện này được đưa vào nghiên

cứu để phòng ngừa việc mất số liệu do thời gian bà mẹ nằm viện

không đủ để tiến hành điều tra.

- Đại diện người chăm sóc (thành viên trong gia đình đình của sản phụ)

Người chăm sóc chính cho sản phụ và em bé (mẹ chồng, mẹ đẻ, chồng, chị

em gái, cô, dì, em chồng…) được tham gia vào phần nghiên cứu để làm rõ thêm

về các thông tin chăm sóc sau sinh tại cộng đồng cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, cũng

như những yếu tố tác động đến kiến thức và thực hành sau sinh tại cộng đồng.

Người giúp đỡ chính là người trực tiếp tham gia nhiều nhất vào công tác chăm

sóc cho bà mẹ và sản phụ, được xác nhận bởi bà mẹ.

- 33 -

2.2.1.3. Cỡ mẫu:

- Đối tượng: Bà mẹ vừa sinh

Sử dụng công thức tính cỡ mẫu:

Z2

1-α/2 p(1-p)

n=

d2

Trong đó:

n: cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu cho mẫu ngẫu nhiên đơn

p: % phụ nữ có kiến thức chăm sóc sau sinh đạt yêu cầu theo nghiên cứu

của Lê Thị Vân, 2003 là 40% [40].

q =(1-p): % phụ nữ có thực hành về CSSS chưa đạt là 60%

1-α/2 = 1,96, α= 0,05

d: Độ chính xác mong muốn , d=0,05 Z2

Thay vào công thức, ta có cỡ mẫu nghiên cứu là 368.

Lấy mẫu tại hai địa điểm nghiên cứu: thành thị và nông thôn, mỗi nhóm

là: 368, tổng số mẫu tối thiểu là: 736 bà mẹ.

Thực tế đã thu thập được 762 bà mẹ trong đó ở thành thị: 389 bà mẹ và

nông thôn là 373 bà mẹ.

- Đối tượng: đại diện gia đình/ người chăm sóc chính:

Tại mỗi địa bàn (thành thị và nông thôn) chọn 10 mẫu đại diện để phỏng vấn sâu.

2.2.1.4. Cách chọn mẫu:

- Bà mẹ: Lấy tất cả các trường hợp đủ điều kiện đến đăng ký sinh con tại hai

bệnh viện trong thời gian nghiên cứu. Lấy cho đến đủ số lượng mỗi nhóm đại

diện cho thành thị và nông thôn.

- 34 -

- Đại diện gia đình/người chăm sóc chính:

Chọn ngẫu nhiên trong bảng danh sách các bà mẹ tham gia nghiên cứu

bằng bắt thăm ngẫu nhiên.

2.2.1.5. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu

Sử dụng 02 phương pháp thu thập số liệu: phương pháp định lượng và

định tính.

- Đối với bà mẹ:

Sử dụng bảng kiểm và bảng câu hỏi có sẵn cho sản phụ để nghiên cứu về

kiến thức, thái độ thực hành chăm sóc mẹ và con giai đoạn sau sinh; nhu cầu của

bà mẹ (xem chi tiết tại phần phụ lục).

10 bà mẹ tại hai địa điểm nghiên cứu cũng được chọn để tiến hành nghiên

cứu định tính nhằm tìm hiểu thêm về các yếu tố tác động đến kiến thức và thực

hành chăm sóc mẹ và con trong giai đoạn sau sinh.

Hồ sơ bệnh án của các bà mẹ cũng được sử dụng trong nghiên cứu này với

vai trò so sánh và đối chiếu.

- Đối với đại diện gia đình:

Sử dụng hướng dẫn phỏng vấn sâu trên 10 đối tượng là người chăm sóc

chính để hỗ trợ và bổ sung để làm sáng tỏ thêm cho những kết quả của nghiên

cứu định lượng. Trong quá trình thu thập số liệu, các trường hợp điển hình,

những thông tin giá trị, sẽ được mô tả, trích dẫn để minh họa thêm cho kết quả

định lượng.

2.2.1.6. Các biến số nghiên cứu chính

- Các yếu tố về nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu:

+ Tuổi, nghề nghiệp, tổng thu nhập hàng tháng (theo quy định của Bộ LĐ-

TBXH), trình độ học vấn, nơi ở, số con,

- 35 -

+ Điều kiện nhà ở: hình thái nhà ở, phòng riêng, nước sạch.

+ Bà mẹ tiếp cận với thông tin về chăm sóc sau sinh

+ Người giúp sau sinh

+ Thông tin về chăm sóc sau sinh

- Thông tin về lần sinh tại thời điểm nghiên cứu:

+ Cách sinh

+ Cân nặng trẻ

+ Thời gian nằm viện,

+ Các biến chứng sau sinh của bà mẹ và trẻ sơ sinh

- Nhu cầu về CSSS của bà mẹ:

+ Nhu cầu về vật chất, thể chất (chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi, lao động,

dinh dưỡng, các biện pháp KHHGĐ)

+ Nhu cầu về tinh thần (thông tin, chia sẻ)

+ Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc tại nhà do cán bộ y tế đảm nhiệm

- Kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ:

+ Kiến thức chung về CSSS

+ Kiến thức bà mẹ về:

o nhận biết dấu hiệu nguy hiểm

o chế độ lao động, vệ sinh

o dinh dưỡng

o các biện pháp KHHGĐ

+ Thực hành chung CSSS

+ Thực hành của bà mẹ về:

o nhận biết dấu hiệu nguy hiểm

o chế độ lao động, vệ sinh

o dinh dưỡng

- 36 -

o các biện pháp KHHGĐ

- Các yếu tố ảnh hưởng đến CSSS:

+ Tiếp cận thông tin

+ Các yếu tố nhân khẩu: tuổi mẹ, số con, trình độ học vấn, cư trú, cách sinh...

+ yếu tố xã hội, tập quán.

2.2.2. Nghiên cứu can thiệp

Thiết kế được sử dụng trong nghiên cứu này là thiết kế can thiệp cộng

đồng có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả can thiệp của mô hình chăm sóc tại

nhà sau sinh đối với kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ tại

cộng đồng. Nghiên cứu này cũng phân tích các ưu nhược điểm của can thiệp là

mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà thực hiện bởi các cán bộ y tế.

2.2.2.1.Thời gian nghiên cứu:

Thời gian thu thập số liệu cho nghiên cứu này: từ tháng 6 đến 9/2011

2.2.2.2. Đối tượng nghiên cứu

Bà mẹ sinh con trong thời gian nghiên cứu tại bệnh viện Phụ sản trung

ương và bệnh viện đa khoa Ba Vì.

- Nhóm can thiệp

 Bà mẹ sinh tại 2 bệnh viện được chọn trong thời gian nghiên cứu

 Sống tại Hà Nội và các vùng lân cận

 Sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà

 Đồng ý tham gia nghiên cứu

- Nhóm chứng

 Bà mẹ sinh tại 2 bệnh viện trong thời gian nghiên cứu

 Sống tại Hà nội

- 37 -

 Không sử dụng bất kỳ hình thức chăm sóc tại nhà nào (kể cả nhờ cán

bộ y tế đến khám)

 Đồng ý tham gia nghiên cứu

- Các đối tượng nghiên cứu khác

Ngoài ra, nghiên cứu còn có các đối tượng nghiên cứu khác tham gia phần

nghiên cứu định tính, đó là: đại diện gia đình, người chăm sóc bà mẹ- trẻ sơ sinh

và cán bộ y tế đi chăm sóc tại nhà.

2.2.2.3. Cỡ mẫu:

Z [

p 1(2

[

)

1(

2 ])

 )2/1( 

p 1

p 2

p 2

n 1

 n 2

(

p 1( 1 2 )

 Zp )   1 p  1

p 2

- Phần nghiên cứu định lượng: đối tượng nghiên cứu là bà mẹ

Trong đó: n1: cỡ mẫu nghiên cứu nhóm can thiệp

n2: cỡ mẫu nghiên cứu nhóm không can thiệp (nhóm chứng)

p1: tỷ lệ bà mẹ có thực hành sau sinh đạt yêu cầu theo nghiên cứu

của tác giả Lê Thị Vân là 40% [40].

p2: ước tính tỷ lệ sau can thiệp là 50 %

p: (p1 + p2)/2, Z1-α/2: độ tin cậy lấy ngưỡng xác suất 95% )

Z1-: lực mẫu (= 80%)

Cỡ mẫu tính được là: n1 = n2 = 468. Lấy thêm 10% đề phòng một số bà mẹ

không tham gia được đến khi kết thúc nghiên cứu, được cỡ mẫu là n nhóm can thiệp =

n nhóm chứng = 519 bà mẹ. Tổng mẫu: 1038 bà mẹ

- Phần nghiên cứu định tính:

+ Đối tượng là bà mẹ: Mười trong tổng số các bà mẹ tham gia dịch vụ chăm sóc

tại nhà được phỏng vấn sâu để thu thập thêm thông tin về chất lượng dịch vụ và

- 38 -

các yếu tố ảnh hưởng. Lựa chọn ngẫu nhiên bằng phương pháp bốc thăm theo

danh sách.

+ Đối tượng nghiên cứu là đại diện gia đình/ người chăm sóc chính tham

gia dịch vụ : Mười trong tổng số các bà mẹ tham gia dịch vụ chăm sóc tại

nhà được phỏng vấn sâu để thu thập thêm thông tin về chất lượng dịch vụ

và các yếu tố ảnh hưởng. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện theo danh

sách các bà mẹ đã được chọn vào nghiên cứu định tính.

+ Đối tượng nghiên cứu là cán bộ y tế tham gia dịch vụ chăm sóc tại nhà:

Lựa chọn trong danh sách các cán bộ y tế tham gia cung cấp dịch vụ chăm

sóc sau sinh để phỏng vấn sâu, bao gồm: mỗi bệnh viện 01 bác sỹ, 01 điều

dưỡng. Phương pháp chọn mẫu: lấy ngẫu nhiên theo danh sách do bệnh

viện cung cấp bằng bốc thăm ngẫu nhiên.

+Đối tượng nghiên cứu là cán bộ quản lý: cán bộ lãnh đạo tại hai bệnh

viện được mời tham gia phỏng vấn sâu tìm hiểu về cơ sở, chính sách tiến

hành dịch vụ chăm sóc tại nhà. Mỗi bệnh viện 1 người. Đối tượng là cán

bộ lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc) có chuyên môn, được giao phụ

trách dịch vụ chăm sóc tại nhà,

2.2.2.4. Cách chọn mẫu:

- Nhóm can thiệp là những bà mẹ sinh con trong thời gian thu thập số liệu

tại hai bệnh viện, tự nguyện tham gia dịch vụ chăm sóc tại nhà sau khi được tư

vấn tại phòng đẻ của hai bệnh viện nghiên cứu. Lấy hết cho đến khi đủ số lượng

nghiên cứu là 519. Trong đó: bệnh viện Phụ sản trung ương là: 461 bà mẹ, Bệnh

viện Ba Vì: 58 bà mẹ.

- Nhóm chứng lấy cùng thời điểm với nhóm can thiệp cho đến khi lấy đủ

số đối tượng ghép cặp.

- 39 -

- Thiết kế nghiên cứu là can thiệp cộng đồng có đối chứng nhưng do nhóm

can thiệp và nhóm chứng không được phân bố ngẫu nhiên nên để hạn chế sai số

lựa chọn, và đảm bảo tính đồng nhất trước can thiệp, nhóm nghiên cứu đã tiến

hành ghép cặp theo các đặc điểm: nhóm tuổi mẹ, số con sống và thu nhập hàng

tháng.

Thời gian can thiệp 10 ngày sau sinh

Nhóm can thiệp (CT) CT1 X CT2 (sử dụng dịch vụ CS tại nhà) (thu nhận từ 6/2011) Nhóm chứng (C) C1 X C2 (không sử dụng dịch vụ CS tại nhà tương đồng về nhóm tuổi, thu nhập và số con)

So sánh trước can thiệp

So sánh sau can thiệp

Hình 2.2. Thiết kế nghiên cứu can thiệp

2.2.2.5. Mô tả can thiệp sử dụng trong nghiên cứu này

- Mô tả chung: mô hình can thiệp chăm sóc sau sinh tại nhà của sản phụ sau khi

ra viện, được thực hiện bởi cán bộ y tế (bác sỹ, nữ hộ sinh), có thăm khám, tư

vấn sức khỏe, và có thu phí.

- Mục tiêu của can thiệp:

1. Tăng kiến thức và thực hành đúng của bà mẹ về chăm sóc sau sinh

2. Kịp thời phát hiện các bất thường về mặt sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ

sinh thời kỳ sau sinh.

- Thời gian can thiệp:

- 40 -

Thời gian can thiệp của mô hình bắt đầu khi sản phụ xuất viện đến khi hết

10 ngày. Sản phụ và sơ sinh sẽ được bác sỹ thăm khám 2 lần (ngày đầu tiên sau

khi về nhà , thường là ngày 3 đối với các bà mẹ đẻ thường, và ngày 5 đối với

sinh mổ). Hàng ngày có nữ hộ sinh đến tắm bé và hướng dẫn bà mẹ chăm sóc em

bé. Các bác sỹ sẽ cách ngày xuống thăm khám cho sản phụ kể từ ngày đầu tiên

chăm sóc.

- Địa điểm can thiệp: Tại nhà sản phụ.

Ngày 42

Ngày 1 sau đẻ

Ra viện

Tuần 2

Thời gian sử dụng can thiệp= 10 ngày sau khi ra viện

Tìm hiểu thực trạng chăm sóc sau sinh của bà mẹ

Tìm hiểu sự khác biệt của 2 nhóm và Kết thúc nghiên cứu

Hình 2.3. Giới hạn thời gian nghiên cứu

- Nội dung can thiệp:

Nội dung của can thiệp sẽ bám sát theo hướng dẫn quốc gia về chăm sóc

sức khỏe sinh sản, cụ thể xem bảng 2.1.

Bà mẹ sẽ lần lượt được hướng dẫn, tư vấn về cách chăm sóc con, và bản

thân. Trong đó, có 4 nội dung tư vấn về chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng, vệ sinh-

lao động-vận động và kế hoạch hóa gia đình. Bác sỹ và điều dưỡng tham gia dịch

vụ được tập huấn về phương pháp tư vấn và các nội dung tư vấn chăm sóc sau

sinh. Điểm mới của can thiệp này so với các dịch vụ chăm sóc sau sinh ở bệnh

viện Phụ sản trung ương so với một số cơ sở y tế khác đó là ngoài việc coi trọng

chăm sóc sức khỏe cho mẹ và con thì tư vấn, giáo dục cho bà mẹ về chăm sóc

- 41 -

sức khỏe, lao động, nghỉ ngơi vệ sinh, dinh dưỡng và các biện pháp kế hoạch hóa

gia đình được chủ động đưa vào chương trình như một thành tố bắt buộc.

Bảng 2.1. Nội dung của chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh sau sinh theo hướng dẫn quốc gia về SKSS

- Với con:

 Với mẹ:  Khám và theo dõi sản phụ sau

đẻ: co hồi tử cung, sản dịch, vết khâu TSM, vú, tiêm kháng sinh.  Cắt chỉ tầng sinh môn hoặc chăm

sóc vết mổ  Khám sơ sinh: kiểm tra tổng quát, khám tăng trưởng, nhắc lịch tiêm chủng, phát hiện các bất thường (nếu có), quan sát vận động của trẻ

 Tư vấn chế độ lao động, nghỉ  Chăm sóc: tắm và thay băng rốn,

ngơi, giấc ngủ, vệ sinh thân thể nhỏ mắt, mũi.

 Hướng dẫn cách quấn tã, mặc

 Tư vấn chế độ dinh dưỡng cân đối, và bổ sung dưỡng chất

quần áo, cách bế trẻ và cách đặt bé nằm sau khi cho bú.

 Tư vấn phương pháp cho con bú, chăm sóc bầu sữa để có đủ sữa cho con bú

 Tư vấn sức khỏe, các dấu hiệu  Hướng dẫn bà mẹ cách phát hiện các dấu hiệu bất thường ở trẻ để xử trí kịp thời.

nguy hiểm cần đi khám  Hướng dẫn các biện pháp

 Hướng dẫn tư thế bú đúng và tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ, những lợi ích của sữa mẹ KHHGĐ

- Phí dịch vụ:

Phí được tính theo công thức: giá dịch vụ + giá cước di chuyển.

* Giá trung bình: ở thành phố từ 250,000- 430,000 đ/lần, ở nông thôn từ

125.000đ -215.000 đ/lần (bảng 2.2)

Bảng 2.2. Tính giá dịch vụ chăm sóc tại nhà

Khoảng cách Bệnh viện Phụ sản TƯ Bệnh viện Ba Vì

+ Dưới 5km 2.500.000 1.250.000

+ Từ 5km đến dưới 10 km 3.000.000 1.500.000

+ Từ 10km đến dưới 15km 3.600.000 1.800.000

+ Từ 15km đến dưới 20km 4.300.000 2.150.000

- 42 -

2.2.2.6. Các biến số nghiên cứu chính:

- Kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ ở hai nhóm nghiên cứu

 Kiến thức chung về CSSS đạt giữa hai nhóm ở thời điểm trước và sau

nghiên cứu

 Thực hành chung về CSSS đạt giữa hai nhóm ở thời điểm trước và sau

nghiên cứu.

 Kiến thức của bà mẹ đạt về 4 nhóm tiêu chí ở hai nhóm thời điểm trước và

sau nghiên cứu:

o nhận biết dấu hiệu nguy hiểm

o chế độ lao động, vệ sinh

o dinh dưỡng

o Các biện pháp KHHGĐ

 Thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh đạt trên một số tiêu chí ở hai

nhóm thời điểm trước và sau nghiên cứu

o chế độ lao động, vệ sinh

o dinh dưỡng

 Chỉ số hiệu quả của mô hình

- Một số yếu tố thuận lợi và cản trở đến thực hiện mô hình can thiệp:

 Từ phía khách hàng:

- Giá cả dịch vụ

- Chất lượng dịch vụ

- Thái độ cán bộ y tế

 Từ phía người cung cấp:

- Đầu tư ban đầu

- Môi trường làm việc

- Lương, thưởng

- 43 -

2.3. Chỉ tiêu đánh giá sử dụng trong nghiên cứu

Đối chiếu và so sánh với các nội dung chăm sóc sau sinh của Hướng dẫn

quốc gia về sức khỏe sinh sản và những nghiên cứu trước, chúng tôi đã xây dựng

một thang điểm đánh giá về kiến thức và thực hành của bà mẹ.

- Tổng điểm kiến thức: 42 điểm. Trong đó:

 nhận biết về dấu hiệu nguy hiểm: 13 điểm,

 kiến thức về vệ sinh, lao động, nghỉ ngơi : tổng điểm: 10

 kiến thức về dinh dưỡng, tổng điểm: 10,

 kiến thức về KHHGĐ, tổng điểm: 9.

- Tổng điểm thực hành: 15 điểm.

Quy định: Nếu số điểm đạt ≥50% so với tổng điểm thì coi như đã đạt yêu cầu.

Ví dụ, phần thực hành, nếu bà mẹ dành được 8 điểm trở lên, có nghĩa là bà mẹ đã

có thực hành đạt.

2.4. Tiến trình nghiên cứu

Như đã trình bày ở các phần trên, hai thiết kế nghiên cứu được tiến hành

riêng rẽ và thực hiện vào thời gian kế tiếp nhau. Thực hiện nghiên cứu cắt ngang

trước để mô tả kiến thức, thực hành và nhu cầu về chăm sóc sau sinh của bà mẹ.

Sau đó thiết kế can thiệp và tiến hành dựa trên kết quả của nghiên cứu cắt ngang.

Cách chọn mẫu thống nhất giữa hai nghiên cứu là chọn hết các đối tượng thỏa

mãn điều kiện nghiên cứu đến khi chọn đủ số lượng theo cỡ mẫu đã tính toán.

Trước khi tiến hành nghiên cứu thì tiến hành các công tác hành chính và tập

huấn. Tiến trình nghiên cứu được mô tả tại sơ đồ dưới đây (sơ đồ 2.4).

2.4.1. Điều tra viên và giám sát viên

- Điều tra viên: là các bác sỹ, điều dưỡng chuyên ngành sản phụ khoa của Bệnh

viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện đa khoa huyện Ba Vì, được tập huấn về nội

dung chăm sóc sau sinh theo hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS

Loại khỏi NC

Nghiên cứu cắt ngang

Không đủ ĐK

Đủ ĐK tham gia NC

- 44 -

Phụ nữ đến sinh con tại bệnh viện PSTW

Phỏng vấn qua bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu

Thành thị PSTW:389 bà mẹ

Đủ ĐK tham gia NC

Xử lý số liệu

Viết báo cáo

Phụ nữ đến sinh con tại bệnh viện Ba Vì

Nông thôn PSTW: 217 Ba Vì: 156 bà mẹ

Không đủ ĐK

Loại khỏi NC

Nghiên cứu can thiệp sử dụng CSSS tại nhà

Loại khỏi NC

Không đồng ý tham gia

Tư vấn và tham gia tự nguyện vào dịch vụ CSSS tại nhà

So sánh

Đồng ý tham gia

Ghép cặp theo số con, thu nhập và nhóm tuổi mẹ

Nhóm chứng (PSTW: 461, Ba Vì: 58

Nhóm chứng (PSTW: 461, Ba Vì: 58

Nhóm can thiệp (PSTW: 461, Ba Vì: 58)

Nhóm can thiệp (PSTW: 461, Ba Vì: 58

Dịch vụ CSSS tại nhà

So sánh KAP sau

So sánh KAP trước can thiệp

can thiệp

So sánh

Sơ đồ 2.4. Tiến trình nghiên cứu

- 45 -

các bảng hỏi và cách phỏng vấn. Điều tra viên cũng là những người trực tiếp

tham gia vào công tác chăm sóc sau sinh.

- Giám sát viên: gồm các bác sỹ, thạc sỹ, tiến sỹ sản phụ khoa và y tế công cộng

có kinh nghiệm về nghiên cứu khoa học hoặc /và chuyên ngành sản phụ khoa.

- Giám sát thực hiện: Chọn ngẫu nhiên 10 hộ gia đình theo danh sách, tiến hành

phỏng vấn lần 2 để kiểm tra tính chính xác của thông tin.

2.4.2. Tập huấn

- Tập huấn về chuyên môn:

Nhóm tiến hành can thiệp được tập huấn về chuyên môn theo hướng dẫn

quốc gia về các dịch vụ sinh sản về nội dung chăm sóc sau sinh. Ngoài ra, nhóm

cũng được tập huấn về các kỹ năng tư vấn cho bà mẹ.

- Tập huấn về nghiên cứu:

Tất cả các nghiên cứu viên và giám sát viên đều được tập huấn về mục

tiêu nghiên cứu, tiến trình nghiên cứu. Được giới thiệu về bộ câu hỏi và cách tiến

hành phỏng vấn cá nhân.

Phỏng vấn sâu do giám sát viên tiến hành nhằm đảm bảo việc khai thác

triệt để thông tin từ đối tượng nghiên cứu.

2.5. Xử lý và phân tích số liệu

Đề tài sử dụng hai nguồn số liệu: số liệu định lượng và số liệu định tính.

2.5.1. Số liệu định lượng:

- Thu thập dựa trên bảng câu hỏi có sẵn. Số liệu được mã hóa và được

nhập bằng phần mềm EPIDATA 3.1, sau đó được phân tích trên phần mềm

STATA 10 sử dụng phương pháp phân tích thống kê thông thường.

- Số liệu được trình bày, sắp xếp theo các biến số nghiên cứu đặt ra trong nội

dung phương pháp nghiên cứu

- 46 -

- Số liệu được phân tích dưới dạng các tần suất, tỷ lệ %, tỷ suất chênh (OR),

khoảng tin cậy 95% và giá trị p tương ứng với một số yếu tố ảnh hưởng quan

trọng. Tất cả các phân tích đều được tiến hành riêng giữa các vùng địa lý.

- Đánh giá can thiệp: sử dụng thuật toán thống kê y sinh học so sánh sự khác biệt

sau can thiệp giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng bằng chỉ số hiệu quả

(CSHQ):

psct – ptct CSHQ (%) = ptct

Trong đó: psct: tỷ lệ sau can thiệp

ptct: tỷ lệ trước can thiệp

Hiệu quả can thiệp (HQCT) = CSHQ nhóm can thiệp – CSHQ nhóm đối chứng

2.5.2. Số liệu định tính:

- Thu thập dựa trên các phỏng vấn sâu đối tượng nghiên cứu. Các phỏng vấn

được ghi âm với sự đồng ý của người được phỏng vấn

- Gỡ băng và viết thông tin dưới dạng văn bản. Sử dụng để trích dẫn trong phần

kết quả và bàn luận.

2.6. Sai số, giới hạn, hạn chế của đề tài và biện pháp khắc phục

Các sai số có thể gặp trong nghiên cứu gồm:

- Sai số thu thập thông tin: Bỏ sót thông tin, khi ghi chép các câu trả lời của đối

tượng hay trong quá trình sao chép thông tin từ hồ sơ bệnh án. Bỏ sót đối tượng,

nhất là những bà mẹ có thời gian nằm viện ngắn. Cán bộ tiến hành phỏng vấn

sâu chưa có đủ kinh nghiệm để khai thác thêm đối tượng phỏng vấn. Bà mẹ

không hợp tác hoặc cung cấp các số liệu sai lệch do giữ thể diện, hoặc vì các yếu

tố mang tính tập quán.

- 47 -

Cách khắc phục: tập huấn kỹ bộ câu hỏi, giám sát quá trình lấy thông tin. Lựa

chọn các nghiên cứu viên có kinh nghiệm và trách nhiệm. Tổ chức rút kinh

nghiệm trong nhóm nghiên cứu và giám sát sau mỗi đợt điều tra.

- Sai số do nhập số liệu: Lỗi số liệu do người nhập liệu bỏ sót hoặc vào nhầm số

liệu.

Cách khắc phục: làm sạch bảng hỏi trước khi xử lý, chỉ những bảng hỏi được

điền đủ thông tin mới được chuyển giao cho nhóm nghiên cứu của bệnh viện Phụ

sản trung ương.

- Sai số do chọn mẫu, cỡ mẫu: Mẫu chọn vào hai nhóm (nghiên cứu và chứng)

trong nghiên cứu can thiệp phục vụ cho mục tiêu thứ hai không được chọn ngẫu

nhiên. Các bà mẹ sau khi được tư vấn thì tự quyết định: đồng ý hoặc không đồng

ý tham gia gói dịch vụ.

Cách khắc phục mà tác giả sử dụng để hạn chế sự khác biệt do mẫu không được

chọn ngẫu nhiên là ghép cặp theo các biến số có ảnh hưởng (ở đây là biến số về

độ tuổi và số con).

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu

- Nghiên cứu không vi phạm các quy tắc đạo đức trong nghiên cứu y sinh. Đề

cương được Hội đồng chấm đề cương của viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương thông

qua vấn đề y đức trước khi tiến hành nghiên cứu.

- Các phỏng vấn thu thập thông tin được tiến hành riêng biệt, giữa đối tượng

nghiên cứu và nghiên cứu viên. Không công bố tên các đối tượng nghiên cứu.

Những thông tin về đối tượng phỏng vấn được giữ bí mật và chỉ sử dụng vì mục

đích khoa học.

- Các bà mẹ tham gia sử dụng dịch vụ chăm sóc sau sinh tại nhà là hoàn toàn tự

nguyện. Có thể dừng không sử dụng dịch vụ vào bất cứ thời điểm nào nếu không

thấy thích hợp

- 48 -

- Các thông tin được cung cấp dựa trên sự tham gia tự nguyện của đối tượng

nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu đã được giải thích rõ về mục tiêu nghiên

cứu, các quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia nghiên cứu. Họ có quyền từ chối

tham gia nghiên cứu ở bất kỳ giai đoạn hoặc thời điểm nào.

49

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng kiến thức, thực hành và nhu cầu về chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản trung ương và bệnh viện huyện Ba Vì

Để thực hiện mục tiêu này, tác giả đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang

tại hai bệnh viện trong khoảng thời gian từ tháng 2/2011.

3.1.1. Thực trạng chăm sóc sau sinh tại gia đình

3.1.1.1. Đặc điểm của các bà mẹ tham gia nghiên cứu

Bảng 3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm

Số lượng

Số lượng

Số lượng

nhân khẩu học Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373) Tổng (n=762)

% % %

<20 0,8 3 1,6 6 9 1,2

20 – 29 54,0 209 61,2 227 436 57,2

Nhóm tuổi 30 – 39 40,8 158 34,8 130 288 37,7

>40 4,4 19 2,4 10 29 3,9

PTTH 18,0 70 26,8 100 170 22,3

Cao đẳng/ĐH 278 71,5 53,1 198 476 62,5 Trình độ học vấn Sau đại học 10,5 41 20,1 75 116 15,2

5,4 21 43,2 161 182 23,9

Nghề nghiệp Nông dân, công nhân

85 21,9 79 21,2 164 21,6

Nội trợ, buôn bán nhỏ

Cán bộ 246 63,4 99 26,5 345 45,3

Khác 37 9,3 34 9,1 70 9,2

50

4 1,0 16 4,2 20 2,6

< 1 triệu đồng

Tổng số có 762 bà mẹ tham gia nghiên cứu tại hai bệnh viện, trong đó

1 – 3 triệu 57 14,7 98 26,3 155 20,3 Tổng thu nhập gia đình/ 3 – <10 triệu 231 59,4 194 52,0 425 55,8 Tháng >10 triệu 97 24,9 65 17,5 162 21,3

đối tượng cư trú tại địa bàn nông thôn chiếm 49%, thành thị chiếm 51%. Đối

tượng tham gia nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương là: 606 bà mẹ.

Trong đó có 389 các bà mẹ sống trong khu vực thành thị, 217 bà mẹ sống tại

địa bàn nông thôn (được định nghĩa có hộ khẩu thường trú tại các huyện thuộc

Hà nội), Bệnh viện Đa khoa Ba Vì: 156 bà mẹ chiếm tổng số 20,5% số các bà

mẹ được tham gia nghiên cứu.

Đối tượng tham gia nghiên cứu là các bà mẹ hầu hết nằm trong độ tuổi

dưới 40 (96,1%). Trong đó nhóm 20-29 tuổi có tỷ lệ cao nhất (57,5%).

Về trình độ học vấn: có sự khác biệt thống kê giữa hai nhóm: cao đẳng và

đại học chiếm 71,5% trong nhóm thành thị và 53,5% trong nhóm nông thôn.

Nghề nghiệp chính trong hai nhóm cũng có sự khác biệt có ý nghĩa thống

kê giữa thành thị và nông thôn (p<0,001). Nếu thành thị có 63,4% bà mẹ là cán

bộ thì tỷ lệ này ở nhóm nông thôn chỉ là 26,5%. Nghề nghiệp chính của các bà

mẹ ở nông thôn là nông dân và công nhân (43,2%).

Có hơn 1/2 bà mẹ thuộc hai nhóm có thu nhập trong khoảng từ 3 đến

dưới 10 triệu đồng (55,9%). Tỷ lệ các bà mẹ nông thôn có thu nhập dưới 3 triệu

đồng nhiều gấp gần 2 lần tỷ lệ này trong nhóm các bà mẹ thành thị (30,5% và

15,7%). Sự khác biệt về thu nhập hàng tháng có ý nghĩa thống kê được tìm thầy

giữa hai địa bàn thành thị và nông thôn (p<0,001).

51

Bảng 3.2. Đặc điểm lần sinh tại thời điểm nghiên cứu

Đặc điểm

Tổng (n=762)

Số lượng

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % %

33,5 Đẻ thường 131 166 44,5 297 39,0

Cách sinh 66,2 Đẻ mổ 257 207 55,5 464 60,9

0,3 Khác 1 0 0 1 0,1

Đặc điểm Bình thường 345 88,7 347 93,0 692 90,8

mang thai 11,3 Bệnh lý 44 26 7,0 70 9,2

91,8 Đặc điểm Bình thường 357 342 91,7 699 92,5

trẻ lần 7,5 Sinh non tháng 29 28 7,5 57 7,5

sinh này Bệnh lý 0,8 3 3 0,8 6 0,7

5,4 Cân nặng < 2500g 21 23 6,2 44 5,8

trung bình >2500g đến 253 65,0 255 68,1 508 66,7 lần này <3500g

>3500g 112 29,6 95 25,7 207 27,5

Về cách sinh: có 60,9% các bà mẹ tham gia nghiên cứu chọn phương

pháp sinh mổ. Đa số các bà mẹ đều có đặc điểm mang thai bình thường

(90,8%).

Thai bệnh lý chiếm tỷ lệ nhỏ 9,2%. Do đó, tỷ lệ trẻ sinh non và bệnh lý

cũng chỉ chiếm tỷ lệ là 8,2%.

Trẻ sinh ra có cân nặng trên 2500 g chiếm đa số. Tỷ lệ trẻ cân nặng dưới

2500g không lớn. Chỉ có 6,2% trong nhóm nông thôn và 5,4 % trong nhóm

thành thị có cân nặng dưới 2500g.

52

60%

54,70%

50%

40%

1 con

36%

2 con

30%

3 con

4 con

20%

8,10%

10%

1,20%

0%

số con sống

Biểu đồ 3.1. Số con sống trung bình của các đối tượng nghiên cứu

Có hơn một nửa số bà mẹ có 1 con, và hơn 80% các bà mẹ có từ 1 đến 2

con. Tỷ lệ các bà mẹ có 3 con là 8,1% và 4 con là 1,2%. Tỷ lệ bà mẹ có trên 2

con ở nông thôn cao hơn thành thị (11,3 % so với 7,5%, p=0,02). Kết quả từ

nghiên cứu này cũng cho thấy số lần mang thai trung bình của bà mẹ là 2,8 lần

và số con hiện tại là 1,5.

Bảng 3.3. Ngày nằm viện của bà mẹ theo nơi cư trú

Đặc điểm

Tổng (n=762)

Số lượng

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % %

1 ngày 21 5,4 51 13,7 72 9,4

Số ngày 2 ngày 252 64,8 87 23,3 339 44,5

nằm viện 3 ngày 116 343 29,8 227 60,9 45

của bà mẹ 4 ngày 0 0 7 1,8 7 0,9

5 ngày 0 0 1 0,3 1 0,2

Chung 389 100 373 100 762 100

53

Thời gian nằm viện trung bình là 2,37 đối với cả hai nhóm bà mẹ ở thành

thị và nông thôn. Trong đó, các bà mẹ sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung

ương có thời gian nằm viện ít hơn các bà mẹ sinh con ở Bệnh viện Ba Vì (với

các giá trị tương ứng là 2,3 và 2,5 ngày nằm viện trung bình). So sánh thời gian

nằm viện nói chung thấy có hơn 1/2 các bà mẹ chỉ nằm lại bệnh viện trong

khoảng từ 24-48h (53,9%). Trong đó, 64,8% phụ nữ thành thị chủ yếu ở lại

bệnh viện trong vòng 2 ngày trong khi 60,9% các bà mẹ ở nông thôn ra về trong

vòng 3 ngày (72h).

3.1.1.2.Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ

Bảng 3.4. Điều kiện sinh hoạt của bà mẹ sau sinh

Số lượng

Số lượng

Đặc điểm

Thành thị (n=389) % Nông thôn (n=373) % Tổng (n=762) Số lượng %

Nhà cấp 4 71 18,3 146 39,2 217 28,5

Điều kiện nhà ở Căn hộ tập thể 72 18,5 48 12,9 337 44,2

168 45,2 Nhà nhiều tầng 228 58,6 396 52,5

11 323 2,7 86,6 Khác 18 Có 349 4,6 89,3 29 672 3,8 88,1 Phòng

riêng Không 40 10,7 50 13,4 90 11,8

Nước sạch 368 94,6 253 67,9 621 81,5 Nguồn

nước sinh Giếng khoan 18 4,6 98 26,2 116 15,2

hoạt Khác 3 0,8 22 5,9 25 3,3

Có 371 95,4 340 91,2 711 93,3 Nhà vệ

sinh đạt Không 18 4,6 33 8,8 51 6,7

tiêu chuẩn

54

Rất hài lòng 52 13,1 71 18,8 123 16,1

Hài lòng 314 80,9 288 77,4 602 79

Không hài lòng 23 5,9 14 3,8 37 4,9 Mức độ hài lòng về điều kiện sinh hoạt

Hình thái nhà ở có sự khác biệt giữa hai vùng thành thị và nông thôn: tỷ

lệ nhà nhiều tầng, nhà cấp 4 phổ biến ở nông thôn; trong khi ở thành thị là nhà

nhiều tầng và nhà chung cư tập thể (p<0,001).

Phần lớn các bà mẹ đều cả ở nông thôn và thành thị đều có phòng riêng

để sinh hoạt. Hơn 90% đối tượng nghiên cứu ở cả hai nhóm có nhà vệ sinh đạt

tiêu chuẩn.

Nguồn nước sạch sinh hoạt: nếu thành thị chỉ có 4,6% bà mẹ sử dụng

nước giếng khoan thì tỷ lệ này trong nhóm các bà mẹ nông thôn là 26,2%. Sự

khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Hầu hết các bà mẹ ở hai khu vực đều cảm thấy hài lòng với điều kiện

sinh hoạt hiện tại. Tỷ lệ không hài lòng rất nhỏ: chỉ có 5,9% các bà mẹ thành thị

và 3,8% các bà mẹ nông thôn.

3.1.1.3. Người chăm sóc các bà mẹ sau sinh

Bảng 3.5. Người giúp các bà mẹ sau sinh

Người giúp đỡ Thành thị Nông thôn

Số lượng

(n=389) (n=373)

Số lượng

% %

210 51,4 211 57,2 Mẹ chồng

201 51,8 172 46,6 Mẹ đẻ

162 48,1 176 47,7 Chồng

55

Chị em gái 36 9,3 39 10,6

Họ hàng 23 5,9 16 4,3

Người giúp việc 63 16,2 31 8,4

Khác 7 1,8 6 1,6

Không có 1 0,3 3 0,8

Người giúp đỡ chủ yếu cho phụ nữ sau sinh lần lượt là mẹ chồng

(55,2%), mẹ đẻ (52%), chồng (44,3%), người giúp việc (12,3%), chị em gái

(9,8%). Số bà mẹ không có người giúp chiếm tỷ lệ không đáng kể: 0,5% Nhìn

chung không thấy có sự khác biệt về người giúp đỡ khi so sánh giữa hai khu

vực. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ có người giúp việc tham gia

chăm sóc sau sinh (p<0,01). Trong nhóm thành thị là: 16,2% và trong nhóm

nông thôn là 8,4%.

3.1.1.4. Tiếp cận thông tin về chăm sóc sau sinh của bà mẹ tại cộng đồng

Bảng 3.6. Nguồn thông tin chủ yếu về chăm sóc sau sinh

Số lượng 177

Nguồn thông tin Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373)

Số lượng 134

% 46,5 % 37,4 Tổng (n=762) Số lượng % 40,8 311 Cán bộ y tế

143 37,5 152 42,5 295 38,7 Mẹ chồng

169 44,4 155 43,3 324 42,5 Mẹ đẻ

76 20,0 52 14,5 128 16,8 Bạn bè

33,6 78 21,8 206 27,0 Thông tin đại chúng 128

176 46,2 93 26,0 269 35,3 Internet

30 7,9 44 12,3 74 9,7 Khác

56

Trong khi các bà mẹ ở thành thị lấy thông tin chủ yếu từ: cán bộ y tế

(46,5%), và Internet (46,2%) thì nguồn cung cấp thông tin chủ yếu của các bà

mẹ ở nông thôn là: mẹ đẻ (43,3%) và mẹ chồng (42,5%). Các bà mẹ thành thị

cũng tiếp cận nhiều thông tin trên thông tin đại chúng hơn các bà mẹ ở nông

thôn (33,6% và 21,8%). Các bà mẹ thành thị cũng có xu hướng tìm hiểu thông

tin chăm sóc sau sinh từ nguồn bạn bè nhiều hơn các bà mẹ ở nông thôn (20%

và 14,5%).

3.1.1.5. Tình trạng sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh

Sau 2 tuần kể từ ngày xuất viện, cán bộ nghiên cứu liên hệ để phỏng vấn

bà mẹ về tình trạng sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh trong thời gian sau sinh.

- Sức khỏe bà mẹ

Bảng 3.7. Sức khỏe của bà mẹ 2 tuần sau sinh

Thành thị Nông thôn Tổng Các vấn đề sức khỏe

(n=389) (n=373)

Số lượng

Số lượng

Số lượng

(n=762) % % %

Có 30 68 9,3 8,1 10,6 38

Nhiễm khuẩn mẹ Không 341 91,9 89,4 660 90,7 319

Có 37 73 10,1 10 10,2 36

Vấn đề về tuyến vú Không 333 90 89,8 651 89,9 318

Có 55 128 17,4 73 14,8 20,1

Đau và ra máu Không 317 85,2 79,9 607 82,6 290

Có 17 4,5 6,6 41 5,5 24

Vấn đề sức khỏe mẹ khác Không 358 95,5 93,4 698 94,5 340

57

Tỷ lệ bà mẹ có các vấn đề về sức khỏe chiếm tỷ lệ từ 10-20%, trong đó

các vấn đề sức khỏe thường gặp nhất lần lượt là đau và ra máu, nhiễm khuẩn và

các vấn đề tuyến vú.

Tỷ lệ các bà mẹ gặp có vấn đề về sức khỏe sau sinh cao hơn các bà mẹ ở

thành thị. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Cụ thể: có 10,6% các bà

mẹ nông thôn gặp vấn đề về nhiễm khuẩn, 10,2% gặp các vấn đề về tuyến vú,

20,1% bị đau và ra máu, 6,6% gặp các vấn đề sức khỏe khác. Trong khi đó, các

tỷ lệ này của các bà mẹ thành thị thấp hơn với các tỷ lệ lần lượt là: 8,1%, 10%,

14,8% và 4,5%.

Bảng 3.8.Những thay đổi về cảm xúc sau sinh của bà mẹ

Số lượng 16

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373)

Số lượng 184

% 4,1 Tổng (n=762) Số lượng % 26,2 200 % 48 Cảm xúc sau sinh của bà mẹ Không thay đổi

364 93,6 215 579 76,0 57,7 Thấy vui hơn

167 43,0 133 300 39,4 34,6 Thấy mệt hơn

21 5,4 65 86 11,3 17,3 Mất ngủ liên miên

Bực bội, tự trách 0 0 11 2,85 11 1,4 bản thân

9 2,2 29 7,7 38 4,9 Cảm thấy quá sức

0 0 29 7,7 29 3,8 Cảm xúc khác

Sự thay đổi về cảm xúc, phần lớn các bà mẹ có thay đổi tích cực về cảm

xúc: 93,6% các bà mẹ ở thành thị và 57,7% các bà mẹ ở nông thôn thấy vui hơn

sau khi sinh con.

58

Mặt khác, một số bà mẹ vẫn có thay đổi tiêu cực về cảm xúc mà biểu

hiện đầu tiên là thấy mệt hơn: 39,4%. Các trạng thái tiếp theo bao gồm: mất

ngủ: 11.3%; thấy quá sức: 4,9%, và bực bội, trách bản thân: 1,4%.

Tỷ lệ các bà mẹ ở nông thôn có trạng thái cảm xúc tiêu cực luôn nhiều

hơn các bà mẹ ở nhóm thành thị.

- Sức khỏe trẻ sơ sinh

Bảng 3.9. Sức khỏe trẻ sơ sinh theo địa bàn cư trú

Số lượng

Số lượng

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373)

Tình hình sức khỏe của trẻ sơ sinh Tổng (n=762) Số lượng % % %

Sốt 0 0 7 1,9 7 0,8

Ỉa chảy 2 0,5 5 1,3 7 0,8

Quấy khóc 11 2,8 14 3,8 25 2,7 Chăm sóc sức khỏe của bé

Không bú mẹ 12 3,1 11 2,9 23 2,5

Khó thở 1 0,3 1 0,3 2 0,2

Vàng da 17 4,4 15 4,0 32 3,5

Đau rốn 2 0,5 3 0,8 5 0,5

Khác 25 6,4 31 8,3 56 6,1

Không có 319 82,0 286 76,7 762 79,4

Ở trẻ sơ sinh, vấn đề sức khỏe hay gặp nhất là các vấn đề khác (6,1%) và

vàng da (3,5%). Nh́ìn chung, các trẻ sơ sinh ở nông thôn gặp các vấn đề sức

khỏe sau sinh có xu hướng nhiều hơn nhóm thành thị. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05).

59

3.1.2. Thực trạng kiến thức về chăm sóc sau sinh của bà mẹ

3.1.2.1. Kiến thức bà mẹ về 4 nhóm kiến thức chuyên biệt :

Nhóm kiến thức chuyên biệt trong nội dung nghiên cứu này bao gồm: (1)

chăm sóc sức khoẻ, phát hiện dấu hiệu bệnh, (2) vệ sinh lao động, (3) Dinh

dưỡng và (4) kế hoạch hóa gia đình.

- Kiến thức về chăm sóc sức khỏe, phát hiện dấu hiệu bệnh

Nhóm kiến thức được đánh giá theo thang điểm 13 điểm. Trong đó, cứ

đạt 7 điểm trở lên thì được gọi là đạt. Nhóm kiến thức này bao gồm nhận thức

của bà mẹ về lịch tiêm chủng, dấu hiệu mắc bệnh của bà mẹ, dấu hiệu nhiễm

khuẩn sinh dục dưới, những thay đổi sau khi sinh của bà mẹ.

Bảng 3.10. Kiến thức bà mẹ về dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh

Dấu hiệu Thành thị Nông thôn Tổng

Số lượng %

Số lượng %

Số lượng %

(n=389) (n=373) (n=762)

Chảy máu kéo dài 28 71,4 272 72,8 550 72,2

Sốt 580 76,1 337 86,7 243 65,2

Ra dịch âm đạo 167 42,9 117 31,5 284 37,3

Đau bụng kéo dài và tăng lên 72 73,5 219 58,7 291 38,2

Co giật 286 55,1 272 72,8 558 73,2

Không biết 8 2,0 30 8,0 38 4,9

Bà mẹ có nhiều kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh, trong

đó, chảy máu là dấu hiệu được nhiều bà mẹ phát hiện nhất: ở thành thị là 71,4%

nông thôn là 72,8%.

60

Tỷ lệ nhận thức của bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm khác ở hai nhóm

khá tương đồng nhau. Có 8% các bà mẹ nông thôn và 2% các bà mẹ ở thành thị

không thể kể tên bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào.

Bảng 3.11. Kiến thức bà mẹ về triệu chứng nhiễm khuẩn

đường sinh dục sau sinh

Triệu chứng

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % Tổng (n=762) Số lượng %

Đau bụng dưới 209 53,8 186 49,9 395 51,8

Sốt cao 295 75,8 230 61,7 525 68,9

Sản dịch có mùi 308 79,1 302 81,0 610 80

Không biết 35 9,0 70 19,0 105 13,8

Kết quả bảng trên cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ các bà mẹ hoàn toàn

không biết về các triệu chứng nhiễm khuẩn sinh dục của bà mẹ sau sinh ở hai

khu vực (9% các bà mẹ ở thành thị và 19% các bà mẹ ở nông thôn, p=0,042).

Không thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các bà mẹ biết một trong các triệu

chứng nhiễm khuẩn hai khu vực ngoại trừ sự khác biệt nhỏ về triệu chứng sốt

cao như đã nêu ở phần trên (p<0,05).

Bảng 3.12. Kiến thức bà mẹ về vấn đề sau khi sinh có thể gặp

Triệu chứng

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % Tổng (n=762) Số lượng %

Đau bụng dưới 257 447 58,7 66,0 190 51,0

Âm đạo chảy máu 237 61,0 183 49,0 420 55,1

Táo bón 229 59,0 201 54,0 430 54,4

Tiểu tiện không kiểm soát 136 35,0 89 24,0 225 29,5

61

Bí tiểu 202 52,0 164 44,0 366 48,0

Vú căng và đau 420 55,1 260 67,0 160 43,0

Đau lưng 222 362 47,5 57,0 140 40,0

Đau đầu, nửa đầu 132 203 26,6 34,0 71 19,0

Trầm cảm sau sinh 148 38,0 160 43,0 308 40,4

Bảng 3.12 cho thấy tỷ lệ các bà mẹ thành thị có kiến thức về các vấn đề

sau sinh có thể gặp nhiều hơn các bà mẹ ở nông thôn. Cụ thể các bà mẹ thành

thị biết các vấn đề về vú (67%), đau lưng (57%) và đau nửa đầu (34%) so với

các tỷ lệ này ở các bà mẹ nông thôn lần lượt là 43%, 40% và 19%. Sự khác biệt

Bảng 3.13. Kiến thức bà mẹ về chăm sóc trẻ

có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Triệu chứng

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % Tổng (n=762) Số lượng %

Các dấu hiệu nguy hiểm

Bỏ bú, bú yếu 350 89,9 264 70,8 614 80,6

Ngủ lịm 527 40,2 322 82,8 205 55,2

Sốt hay hạ thân nhiệt 338 86,9 252 67,7 590 77,4

Nôn trớ kéo dài, trướng bụng

Vàng da hay xanh tím 322 82,8 268 71,9 590 77,4

330 84,8 272 72,9 602 79,0

Khóc bất thường 508 66,7 318 81,8 190 51,0

Mắt sưng đỏ và có mủ 310 79,8 249 66,7 559 73,4

Phân xanh đen hoặc lẫn máu 528 69,3 314 80,8 214 57,3

Biết lịch tiêm chủng 262 67,4 261 70,0 523 68,6

62

Liên quan đến kiến thức bà mẹ về phát hiện dấu hiệu bệnh, khi được hỏi

về các dấu hiệu nguy hiểm của trẻ sơ sinh, các bà mẹ thành thị có thể liệt kê

được các dấu hiệu nguy hiểm tốt hơn các bà mẹ ở nông thôn.

Số bà mẹ thành thị biết về các dấu hiệu sức khỏe ở trẻ sơ sinh gấp 1,5 lần

các bà mẹ nông thôn. Cụ thể với các bà mẹ thành thị biết về dấu hiệu ngủ lịm

(82,8%), khóc bất thường (81,8%), phân xanh đen hoặc lẫn máu (80,8% trong

khi tỷ lệ các bà mẹ nông thôn biết về các dấu hiệu này lần lượt là 55,2%, 51%

và 57,3%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Có 2/3 các bà mẹ biết về lịch tiêm chủng (68,6%).

- Kiến thức về chế độ nghỉ ngơi, lao động, vệ sinh

Đánh giá kiến thức bà mẹ về chế độ nghỉ ngơi và vệ sinh là thang điểm

10. Nếu đạt từ 6 điểm trở lên được coi là đạt.

Nội dung bao gồm kiến thức về chế độ lao động, vận động, giấc ngủ, tắm

và vệ sinh thân thể, vệ sinh vú và âm hộ, tắm cho em bé, chăm sóc rốn em bé,

nghỉ ngơi,mặc quần áo.

Bảng 3.14. Kiến thức về chế độ lao động, nghỉ ngơi phù hợp của bà mẹ sau sinh

Chế độ lao động, nghỉ ngơi

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng %

Lao động như bình thường Tổng (n=762) Số % lượng 41 5,4 8 2,0 33 9,0

Vận động nhẹ nhàng 373 96,0 313 84,0 686 90,0

Không vận động, nằm yên tại chỗ 16 4,0 10,0 20 2,6 4

Nên ngủ nhiều 120 31,0 22,0 202 26,5 82

63

Các bà mẹ ở thành thị cũng có kiến thức tốt hơn các bà mẹ nông thôn về

chế độ nghỉ ngơi, lao động trong thời kỳ sau sinh nở. Tỷ lệ các bà mẹ chọn tiêu

chí đúng là nên vận động nhẹ nhàng chiếm 96%, trong khi chỉ có 84% các bà

mẹ nông thôn biết.

Nhóm bà mẹ nông thôn có kiến thức sai nhiều hơn nhóm bà mẹ ở thành

thị: cho rằng vẫn lao động như bình thường sau đẻ là 9% so với 2% trong nhóm

Bảng 3.15. Kiến thức bà mẹ về vệ sinh sau đẻ

thành thị. Sự khác biệt có nghĩa thống kê với p=0,03.

Vệ sinh sau đẻ

Đối với mẹ Tắm giặt như bình thường Thành thị (n=389) % 2,0

Số lượng 7

Nông thôn (n=373) Số lượng % 3,0 12 Tổng (n=762) Số lượng % 2,5 19

Tắm nhanh với nước ấm 249 66,7 253 65,0 502 65,9

Kiêng tắm trong 1 thời gian 165 21,6 45 12,1 120 31,0

Vệ sinh vú, âm hộ hàng ngày 562 73,7 301 80,8 261 67,0

Đối với bé Vệ sinh cho trẻ hàng ngày 372 95,7 348 93,2 720 94,5

Bảng 3.15 mô tả kiến thức về vệ sinh sau đẻ của bà mẹ. Bà mẹ giữ chế độ

Giữ ấm cho trẻ 377 97,0 332 89,0 709 93,0

vệ sinh như bình thường: tỷ lệ này không nhiều (2-3%). Ngược lại, một số bà

mẹ kiêng khem cực đoan: hoàn toàn không tắm trong một thời gian: tỷ lệ ở

nông thôn cao gấp hơn 2 lần ở thành thị (31% và 12,1%), khác biệt có ý nghĩa

thống kê (p<0,001).

64

Tỷ lệ bà mẹ vệ sinh đúng cách là vệ sinh vú và khu vực quanh âm hộ

hoặc tắm nhanh với nước nóng. Thấy có sự khác biệt ở hai khu vực với phương

án trả lời: vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày với tỷ lệ là 80,8% ở thành thị và 67%

ở nông thôn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Về kiến thức chăm sóc con, có trên 90% các bà mẹ đều có kiến thức về

chăm sóc, giữ gìn vệ sinh cho trẻ, giữ ấm.

-Kiến thức về dinh dưỡng

Kiến thức về dinh dưỡng được tính theo thang điểm 10. Các bà mẹ đạt 6

điểm trở lên thì được coi là đạt. Kiến thức dinh dưỡng bao gồm việc thực hiện

chế độ ăn uống hàng ngày, bổ sung thêm vi chất như viên Sắt, vitamin A.

Bảng 3.16.Kiến thức về chế độ ăn uống của bà mẹ sau sinh

Chế độ ăn uống Tổng (n=762)

Đối với mẹ Ăn như bình thường Thành thị (n=389) % 1,0

Số lượng 2

Nông thôn (n=373) Số lượng % 12,0 12

Số lượng 14

% 1,8

163 21,4 95 95,9 68 68,0

31 4.1 Ăn nhiều hơn với chế độ nhiều chất dinh dưỡng Thực hiện chế độ ăn kiêng 3 3,1 28 20,0

Đối với con

Lợi ích của sữa mẹ 350 90,0 348 93,2 698 91,6

Có nhiều các bà mẹ nông thôn thực hiện chế độ ăn kiêng sau đẻ: 20% so

với tỷ lệ này ở các bà mẹ thành thị là 3,1%. Số các bà mẹ ăn như bình thường ở

nông thôn cũng cao hơn: 12% so với 1%. Sự khác biệt cũng thấy ở tỷ lệ các bà

65

mẹ ăn nhiều hơn với chế độ nhiều dinh dưỡng: 95,9% và 68%. Sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê (p<0,001).

Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy, các bà mẹ ăn uống theo sự hướng dẫn

của những người chăm sóc mình.

“ ..Em ăn uống là do các bà (mẹ đẻ và mẹ chồng) khuyên. Các bà nói

không ăn chất tanh dễ bị đi ngoài. Không được uống nhiều nước là bị rỗng

ruột…” (BM06PSTW)

Tập hợp các ý kiến của bà mẹ về các chất ăn kiêng cho thấy có khá nhiều

thức ăn và đồ uống được các bà mẹ nhắc đến là những thứ họ phải tránh trong

giai đoạn sau sinh.

Các chất ăn kiêng (hoàn toàn không ăn) bao gồm:

- Các chất tanh (cua, cá, hải sản (trừ tôm),….

- Các chất lạnh: thịt vịt, thịt ngan, tiết canh, thịt trâu/bò

- Các chất nóng: thịt chó

- Một số loại rau: cải, muống, rau răm

- Các loại gia vị: vị cay (ớt, hạt tiêu, gia vị cay..), vị chua (hoa quả chua

như chanh, bưởi, táo, dứa…)

- Các loại thức ăn khác: thịt mỡ, đồ chiên rán (quẩy, bánh bao chiên), đồ

tẩm ướp (măng, mắm tôm, dưa, cà), đồ hộp, thịt xông khói, bồ câu (mất

sữa), và các thức ăn nhiều gia vị nói , …

-Một số loại hoa quả/ trái cây: đu đủ, đào, long nhãn (nhãn khô),

Một số đồ uống:

- Đồ uống lạnh: kem, đá

- Đồ uống có cồn: bia, rượu

- Đồ uống lạ (chưa uống trước đây bao giờ)

66

- Đồ uống kích thích: trà, cà phê

- Tránh khói thuốc lá, thuốc lào

Tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức về lợi ích sữa mẹ khá cao chiếm 91,6%.

Bảng 3.17. Kiến thức về bổ sung vi chất của bà mẹ sau sinh

Số lượng

Chế độ ăn uống Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % Tổng (n=762) %

Uống bổ sung Vitamin A

Trong vòng 2 -4 tuần đầu sau đẻ 78 20,2 160 33,0 238 31,2

Không cần uống 286 73,4 142 38,0 428 56,2

Khác 25 6,4 71 19,0 96 12,6

Uống bổ sung viên Sắt

Trong vòng 2-4 tuần đầu sau đẻ 307 79,0 276 74,0 583 76,5

Không cần uống 74 19,0 12,0 119 45 15,6

Khác 8 2,0 14,0 60 52 7,9

Tổng 389 100 373 100 762 100

Kiến thức về bổ sung Vitamin A sau sinh của bà mẹ rất kém, đặc biệt là

các bà mẹ ở thành thị. Có tới 73,4% các bà mẹ ở thành thị cho rằng không

không cần uống bổ sung Vitamin A sau sinh, trong khi tỷ lệ này ở các bà mẹ

nông thôn chỉ là 38%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tỷ lệ các

bà mẹ biết phải bổ sung vitamin A sau sinh ít hơn trong nhóm thành thị: 20,2%

(so với tỷ lệ này trong nhóm các bà mẹ nông thôn là 33%).

Kiến thức về uống bổ sung viên Sắt sau sinh của các bà mẹ khá tốt cả ở

hai địa bàn cư trú. Có 79% các bà mẹ thành thị và 74% các bà mẹ nông thôn

67

cho rằng phải bổ sung viên Sắt trong khoảng 2-4 tuần sau sinh. Trong khi chỉ có

19% các bà mẹ thành thị và 12% các bà mẹ ở nông thôn cho rằng không cần

phải uống bổ sung viên Sắt. Tỷ lệ các bà mẹ nông thôn chọn phương án trả lời

khác chiếm tỷ lệ 14%.

- Kiến thức về KHHGĐ

Kiến thức về KHHGĐ của bà mẹ được đánh giá thông qua kiến thức về thời

điểm giao hợp trở lại sau sinh, các biện pháp tránh thai hiện đại có thể sử dụng

sau sinh.

Kiến thức KHHGĐ theo thang điểm 9. Nếu bà mẹ đạt từ 5 điểm trở lên thì

được coi là bà mẹ có kiến thức KHHGĐ đạt

Bảng 3.18. Kiến thức bà mẹ về thời điểm giao hợp

Số lượng

Số lượng

Tổng (n=762) Thời điểm giao hợp Thành thị (n=389) % Nông thôn (n=373) Số lượng % %

72,0 183 49,0 463 60,8 Sớm ngay sau sinh 280

6 tuần sau sinh 62 16,0 67 18,0 129 16,9

Không biết 47 12,0 123 33,0 170 22,3

Các bà mẹ thiếu kiến thức về thời điểm giao hợp sau sinh. Có 33% các bà

Tổng 389 100 373 100 762 100

mẹ ở nông thôn không biết thời điểm giao hợp.

72% các bà mẹ thành thị và gần 49% các bà mẹ ở nông thôn cho rằng

giao hợp có thể bắt đầu sớm sau sinh, nhưng không biết thời gian chính xác.

Chỉ có 16% các bà mẹ ở thành thị và 18% các bà mẹ ở nông thôn biết thời điểm

giao hợp sau sinh đúng theo quy định là 6 tuần sau sinh.

68

Nghiên cứu định tính cho thấy, một trong các dấu hiệu các bà mẹ cho

rằng cần dùng các biện pháp tránh thai là khi thấy kinh trở lại.

“theo em, khi lại thấy kinh nguyệt thì mới phải dùng các biện pháp tránh

Bảng 3.19.Kiến thức bà mẹ về biện pháp tránh thai

thai..” (BM05PSTW)

Biện pháp tránh thai

Tổng (n=762)

Số lượng

Số lượng

Thành thị (n=389) % Nông thôn (n=373) Số lượng % %

Biết 333 89,2 680 89,2 347 89,2

Cho bú vô kinh 42 10,8 16 4,3 58 7,6

Đặt dụng cụ tử cung 13 3,3 59 15,8 72 9,4

BCS 241 62,0 232 62,1 473 62,1

1,1 6 1,6 10 1,3 Thuốc tiêm 4

47 12,1 20 5,4 67 8,8 Viên TT

42 10,8 40 10,8 82 10,8 Không biết

Kiến thức về các phương tiện tránh thai sau sinh của các bà mẹ khá tốt và

đa dạng. Chỉ có khoảng 10,8% các bà mẹ ở hai khu vực cho rằng họ không biết

lựa chọn phương tiện tránh thai gì sau khi sinh.

Các biện pháp tránh thai được lựa chọn sau sinh cao nhất là: bao cao su

(thành thị: 62%, nông thôn: 62,1%). Phương pháp tránh thai thứ hai có sự khác

biệt: ở nông thôn là đặt dụng cụ tử cung (15,8%) và thành thị là thuốc viên

tránh thai (12,1%).

69

3.1.2.2. Kiến thức chung về CSSS

Kiến thức chung của bà mẹ được tính theo thang điểm là tổng số điểm

của các nhóm kiến thức chuyên biệt. Tổng số 42 điểm. Nếu bà mẹ có số điểm từ

21 trở lên thì được tính là điểm đạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 36,2% các

bà mẹ có số điểm kiến thức đạt (biểu đồ 3.2).

Biểu đồ 3.2. Kiến thức chung của bà mẹ về CSSS

Tỷ lệ các bà mẹ không đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh là 63,8%. Kết

quả đánh giá này thấp hơn nhiều so với kết quả tự đánh giá của các bà mẹ về

kiến thức chăm sóc sau sinh.

Bảng 3.20. Tự đánh giá của các bà mẹ về kiến thức CSSS

Đủ kiến thức

chăm sóc sau sinh Nông thôn (n=373)

Số lượng 254

Có Thành thị (n=389) Số lượng % 96,9 373 Tổng (n=762) Số lượng % 82,3 627 % 68

Không 16 3,1 119 135 17,7 32

70

Với câu hỏi: “theo chị, chị có đủ kiến thức về chăm sóc cho chị và con

chị giai đoạn sau đẻ không?” thì có 96,9% các bà mẹ thành thị trả lời có, trong

khi tỷ lệ này ở các bà mẹ nông thôn chỉ là 68%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống

kê với p<0,001.

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, bà mẹ sau khi “vượt cạn”

thành công thì cho rằng không còn nguy cơ tiềm ẩn nào về sức khỏe đối bản

thân và con nên xem nhẹ các chăm sóc trong giai đoạn này. Họ yên tâm vì đã

có người khác chăm sóc cho họ và con họ trong thời gian sau sinh.

“…Em chỉ mong sao mẹ tròn, con vuông là được rồi, chứ những việc

chăm sóc cho mẹ con trong thời gian này thì đã có bà nội, bà ngoại lo

hết hộ rồi. Yên tâm lắm chị ạ…” (BM03PSTƯ).

Tâm lý chủ quan, cho rằng thời kỳ hậu sản là an toàn cũng khá phổ biến

với những người trong gia đình:

“ ..Ôi dào, chỉ lo lúc đẻ thôi…Các cụ bảo: người chửa-cửa mả…chứ bây

giờ thì lo gì. Cứ ăn, ngủ nghỉ cho khỏe mà nuôi con tốt thôi…” (GD07BV)

“Các cô bây giờ chửa đẻ sướng hơn chúng tôi ngày xưa nhiều, cái gì

cũng sẵn…chả phải lo gì …” (GD10BV)

87%

78,30%

66,20%

62%

38%

33,80%

21,70%

13%

100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

Dinh dưỡng

KHHG Đ

Các dấu hiệu bệnh

Lao động, vệ sinh

Đạt Không đạt

Biểu đồ 3.3. Kiến thức của bà mẹ trên một số tiêu chí chăm sóc sau sinh

71

Về mặt kiến thức chăm sóc sau sinh, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về chăm

sóc sức khỏe, phát hiện các dấu hiệu bệnh đạt cao nhất (38%), tiếp đến là các

biện pháp về KHHGĐ (33.8%). Bà mẹ có kiến thức chưa đầy đủ về chế độ nghỉ

ngơi, vệ sinh lao động và dinh dưỡng. Tỷ lệ đạt của hai nhóm kiến thức này khá

thấp, lần lượt là: 21,7% và 13,0%.

3.1.3. Thực hành về chăm sóc sau sinh của bà mẹ

3.1.3.1. Chăm sóc sau sinh của bà mẹ theo các nội dung chuyên biệt

Thang điểm chấm thực hành gồm 15 điểm, trong đó bao gồm các thực

hành về chăm sóc mẹ bao gồm chế độ ăn uống, vệ sinh, lao động nghỉ ngơi, ngủ

đủ ít nhất 8h/ngày và thực hành chăm sóc sức khỏe khi có bất thường và dự

định sử dụng biện pháp tránh thai khi hết 6 tuần.

Về chăm sóc con, các thực hành bao gồm: cho con bú, vệ sinh tắm rửa

hàng ngày.

- Thực hành vệ sinh, lao động:

Bao gồm các thực hành về lao động, vệ sinh, nghỉ ngơi, bao gồm cả việc

Bảng 3.21. Các thực hành về lao động, vệ sinh sau sinh xét theo địa bàn cư trú

ngủ đủ 8h/ngày của các bà mẹ và thực hành vệ sinh, tắm cho con.

Tiêu chí thực hành

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373)

Số lượng

Số lượng

Lao động % % Tổng (n=762) Số lượng %

Lao động bình thường 32 8,2 40 10,7 72 9,4

Nghỉ ngơi hoàn toàn 357 91.8 333 89,3 690 90,6

Ngủ

Ngủ dưới 8h/ngày 59 15,2 34 9,1 93 12,2

72

84,8 339 90,9 669 87,8 Ngủ 8h/ngày 330

Vệ sinh sau đẻ

Tắm nhanh với nước ấm 281 72,2 279 74,8 560 73,5

Tắm giặt bình thường 13 3,3 3 0,8 16 2,1

Không tắm 1 thời gian 95 24,4 91 24,4 186 24,4

Vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày

Có 262 67,4 238 63,8 500 65,6

Không 127 32,6 135 36,2 262 34,4

Tỷ lệ bà mẹ được nghỉ ngơi hoàn toàn, không phải vận động và lao động

trong thời gian này cao 90,6%. Tỷ lệ các bà mẹ ngủ đủ giấc (trên 8h/ngày) là

87,8%. Về thực hành vệ sinh sau đẻ: vẫn còn 24,4% các bà mẹ kiêng không tắm

trong một thời gian (kết quả phỏng vấn sâu: từ 3 ngày đến 1 tháng) và có đến

hơn 1/3 các bà mẹ không vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày (34,4%). Không thấy

có sự khác biệt về thực hành trong nhóm này giữa các bà mẹ ở hai địa bàn

nghiên cứu.

- Thực hành về dinh dưỡng:

Thực hành dinh dưỡng bao gồm các thực hành của bà mẹ về chế độ ăn uống,

bổ sung vitamin A, Sắt, cho bú.

Bảng 3.22. Thực hành về dinh dưỡng theo địa bàn cư trú

Tiêu chí thực hành

Thành thị (n=389) Số lượng % Nông thôn (n=373) Số lượng % Tổng (n=762) Số lượng %

Chế độ ăn của bà mẹ sau sinh

Ăn như bình thường 24 6,2 26 7,0 50 6,6

73

Ăn nhiều hơn bình thường 319 82,0 294 78,8 613 80,4

Ăn kiêng 46 11,8 53 14,2 99 13,0

Uống Vitamin A

Có 3 0,8 0 0 3 0,4

Không 381 97,9 369 100 750 99,6

Uống viên sắt

96 Uống không đủ 27,4 130 35,1 226 31,4

35 Uống đủ 10,0 79 114 15,8 21,4

Không uống 219 62,6 161 380 52,8 43,5

Cho bú hoàn toàn

Có 377 96,9 362 97,1 739 97,0

Không 12 3,1 11 2,9 23 3,0

Về dinh dưỡng, thực hành của bà mẹ về uống bổ sung vitamin A và viên

sắt rất thấp. Chỉ có 0,4% các bà mẹ có sử dụng Vitamin A sau sinh và 15,8%

các bà mẹ uống đủ viên Sắt. Tỷ lệ các bà mẹ uống viên Sắt ở nông thôn cao hơn

ở thành thị, trong đó tỷ lệ các bà mẹ uống đủ là 21,4% so với tỷ lệ 10% trong

nhóm thành thị. Không có bà mẹ nào trong nhóm nông thôn uống Vitamin A và

có 0,8% các bà mẹ uống Vitamin A. Tỷ lệ thực hành cho bú của mẹ rất cao

(97%).

Thói quen sinh hoạt của bà mẹ, đặc biệt là chế độ ăn uống, nghỉ ngơi của

bà mẹ theo kết quả nghiên cứu định tính còn phụ thuộc nhiều vào thực hành của

người giúp đỡ chính (có thể là mẹ chồng, mẹ đẻ, chị em gái, người giúp việc).

74

„ ...Bình thường người giúp việc chuẩn bị bữa ăn cho em. Mẹ chồng em đi chợ,

con em thì bà tắm cho nên cũng nhàn chị ạ...Mấy hôm đầu không ngủ được vì

con quấy đêm thôi. (BM04PSTU)

Nghiên cứu định tính về thực hành chăm sóc sau sinh cho thấy bà mẹ có

một số hành vi chữa bệnh dân gian như: ăn trứng làm phép sau đẻ, dùng thuốc

phiện để giảm đau do co dạ con, dùng cơm nóng bọc vải để day bầu vú cho

nhanh về sữa, hay ăn một số thức ăn. Những hành vi này một số trung tính, số

khác có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bà mẹ và em bé.

“ em được người ta mách sau đẻ cứ nuốt một cục thuốc phiện nhỏ bằng

đầu tăm là không thấy đau gì luôn. Lúc đẻ đứa trước em không được uống nên

bụng cứ thỉnh thoảng lại gồ lên như quả bưởi, đau lắm….” À,… thuốc phiện là

em xin được của cô N. xóm X. Cô ấy cũng được người nhà trên miền núi cho

một cục nhỏ để dùng cho con dâu đẻ…” (BM08BV)

“ Nghe các cụ bảo thế, sau đẻ con trai thì ăn 7 quả trứng, con gái thì ăn

9 quả dấu trứng, mà phải là trứng luộc nhé…thì tốt cho mẹ”(BM05PSTW)

“Lần trước không có sữa, được mách lấy cơm vừa thổi nắm cho vào tấm

vải sạch day ở bầu vú là sữa về nhanh…”(BM09BV)

“ mẹ chồng mình có mấy bài thuốc hay ra phết. Lúc mình không có sữa,

cụ ra vườn ngắt hoa cây thanh long thái nhỏ, cho vào bát rồi hấp cơm cho mình

ăn, sữa lại về…”(BM01PSTW)

Vàng da là yếu tố sức khỏe phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra một số ít

các trẻ bị sốt, ỉa cháy, khó thở, đau rốn và các vấn đề sức khỏe khác. Đối với

con, các bà mẹ ít tìm đến chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền, dân gian.

Những bệnh có triệu chứng rõ rệt, các bà mẹ thường đem con đi khám. Những bệnh nhẹ hơn thì tìm mua thuốc tự điều trị.

75

3.1.3.2. Thực hành chung của bà mẹ về CSSS

Biểu đồ 3.4. Thực hành chung của bà mẹ về CSSS

Thực hành của bà mẹ CSSS theo thang điểm tại nghiên cứu này có tổng

điểm là 15. Nếu bà mẹ dành được 8 điểm trở lên, có nghĩa là bà mẹ đã có thực

hành đạt. Theo thang điểm đánh giá này, tỷ lệ đạt về thực hành của bà mẹ trong

nghiên cứu là 34,6%. Đánh giá về thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ trong

nghiên cứu này bao gồm:

- về chăm sóc mẹ: bà mẹ thực hành tốt nhất là ngủ đủ giấc và thực hiện nghỉ ngơi, không phải lao động nặng. Thực hành vệ sinh chưa tốt, vẫn còn khoảng 1/4 các bà mẹ thực hành kiêng không tắm. Bà mẹ tuy ăn nhiều hơn bình thường,

nhưng tỷ lệ các bà mẹ uống bổ sung thêm vi chất lại không cao.

- Về chăm sóc cho con: thực hành cho bú tốt, tỷ lệ cho con bú cao.

- Một số thực hành khác như kế hoạch hóa gia đình, do giới hạn về thời gian

nghiên cứu, không được đánh giá trong nghiên cứu này.

76

3.1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành chăm sóc sau

sinh của bà mẹ

3.1.4.1. Mối liên quan về nơi cư trú với kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ

Bảng 3.23. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS

của bà mẹ và nơi cư trú

Nơi cư trú

Kiến thức CSSS Đạt Ko đạt Thực hành đạt Đạt Ko đạt

Thành thị* 141(51,0) 389 (51,1) 252 (51,1) 137 (50,9)

Nông thôn 238 (49,0) 135 (48,9) 241 (48,9) 132 (49,1)

Tổng 486 (100) 276 (100) 493 (100) 269 (100)

OR=0,99; CI: 0,74-1,34, OR=1,007; CI: 0,75-1,35, OR, CI 95%, p

Kết quả từ bảng 3.28 cho thấy nhìn chung không có sự khác biệt về tỷ lệ

p>0,96 p>0,99

đạt các kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ thành thị và bà mẹ

nông thôn.

3.1.4.2. Mối liên quan của nhóm tuổi và kiến thức, thực hành về CSSS của

bà mẹ

Bảng 3.24. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ

Tuổi mẹ

và nhóm tuổi Kiến thức CSSS Đạt 328 (68,1) Ko đạt 117 (42,4) Thực hành đạt Đạt 338 (69,1) Ko đạt 107 (39,8)

159(57,6) 276 (100) 151 (30,9) 489 (100) 162 (60,2) 269 (100)

Trên 30 tuổi trở lên* Dưới 30 tuổi Tổng OR, CI 95%, p 154 (31,9) 482 (100) OR= 2,8; CI: 2,1- 3,9; p=0,000

77

Tuổi của bà mẹ cũng có liên quan đến kiến thức và thực hành sau sinh.

Về kiến thức đạt: các bà mẹ trên 30 tuổi có cơ hội gấp 2,8 lần các bà mẹ dưới

30 tuổi (OR= 2,8; CI: 2,1- 3,9; p=0,000). Về tỷ lệ thực hành đạt, các bà mẹ độ

tuổi >30 có cơ hội gấp khoảng 3,3 lần nhóm bà mẹ dưới 30 tuổi. Sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê (OR OR=3,3; CI:2,4- 4,6; p= 0,000).

3.1.4.3. Mối liên quan giữa học vấn và kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ

Bảng 3.25. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS của bà mẹ

và học vấn

Học vấn Thực hành đạt

Kiến thức CSSS Đạt Ko đạt Đạt Ko đạt

Trung học* 63(22,5) 109 (22,4) 50(18,6) 121(24,4)

Cao đẳng/ĐH 178(64,5) 297(61,6) 180(67,2) 296(60,3)

Sau ĐH 37(13,0) 78(16,0) 39(14,2) 76(15,3)

Tổng 278(100) 484(100) 269 (100) 493(100)

OR, CI 95%, p

* biến so sánh Không thấy có mối liên quan giữa học vấn và kiến thức, thực hành chăm

OR=0,9; CI: 0,6 -1,3; p=0,8 OR=1,2; CI: 0,7-2; p=0,4 OR=0,6; CI: 0,4-1; p=0,05 OR=0,8; CI: 0,4-1,3, p=0,4

sóc sau sinh của bà mẹ.

3.1.4.4. Mối liên quan giữa thu nhập và kiến thức, thực hành CSSS bà mẹ

Bảng 3.26. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành CSSS

của bà mẹ và thu nhập

Thu nhập Kiến thức CSSS Thực hành đạt

Đạt Ko đạt Đạt Ko đạt

<1 triệu * 8(2,6) 12(2,3) 7(2,6) 13(2,3)

1-3 triệu 47 (17,0) 10 48(17,8) 107(21,8)

78

8(22,4)

3-10 triệu 154(55,8) 270(55,9) 143(53,2) 282(57,4)

68(24,6) 71(26,4) 91(18,5)

Trên 10 triệu OR, CI 95%, p

* biến so sánh

Kiểm định cho thấy thu nhập hàng tháng không có mối liên quan đến

95(19,4) OR=1,4; CI: 0,5 -4; p=0,4 OR=1,1; CI: 0,4-2,9; p=0,8 OR=0,8 ; CI: 0,3-2,3 ; p=8 OR=1,4; CI: 0,5-3,8; p=0,4 OR=1,2; CI: 0,4-3,3, p=0,6 OR=0,8; CI: 0,2-2,2, p=0,6

tỷ lệ đạt về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ.

3.1.4.5. Mối liên quan số con sống với kiến thức và thực hành CSSS của bà mẹ

Bảng 3.27. Mối liên quan giữa kiến thức thực hành CSSS

của bà mẹ và số con sống Kiến thức CSSS Thực hành đạt

Đạt Ko đạt Đạt Ko đạt

Từ 2 con trở lên * 171 (62,0) 174(35,8) 172 (63,9) 173 (35,1)

Con đầu lòng 105(38,0) 312 (64,2) 97(36,1) 320(64,9)

Tổng 276(100) 486(100) 269 (100) 493(100)

* Biến so sánh

OR, CI 95%, p OR= 2,9; CI: 2,1- 3,9; p=0,000 OR=3,27, CI:2,3- 4,5; p<0,001

Có 62% các bà mẹ đã có từ 2 con trở lên có kiến thức CSSS đạt, trong khi tỷ

lệ này của các bà mẹ có con lần đầu là 38%. Tương tự, tỷ lệ thực hành CSSS

đạt của các bà mẹ trong nhóm đã có con cũng cao hơn nhóm có con lần đầu

(63,9% và 36,1%). Bảng 3.23 cho thấy số con sống có liên quan đến kiến thức

và thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh. Cụ thể những người có từ 2 con

trở lên có cơ hội về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh đạt gấp gần 3 lần

79

những bà mẹ có con lần đầu. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,34,

CI: 0,2-0,4, p<0,001).

3.1.4.6. Mối liên quan giữa kiến thức đạt và thực hành CSSS đạt của bà mẹ

Bảng 3.28.Mối liên quan giữa tỷ lệ đạt về kiến thức

và thực hành CSSS của bà mẹ

Thực hành CSSS đạt

Đạt Không đạt Tổng

Kiến thức về CSSS của bà mẹ Không đạt 95 (34,9) 391(79,5) 486(63,7)

Đạt 175(65,1) 101(20,5) 276(36,3)

Chung 270 (100) 492 (100) 762(100)

OR=7,2; CI: 4,9- 10,4, p<0,000 OR, CI 95%, p

Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về CSSS. Những bà mẹ

không đạt về kiến thức thì có hơn 7 lần nguy cơ không đạt về thực hành chăm

sóc sau sinh. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê OR=7,2; CI: 4,9-10,4. p<0,000

3.1.5. Nhu cầu của bà mẹ về dịch vụ chăm sóc sau sinh

3.1.5.1. Khó khăn của bà mẹ trong giai đoạn sau sinh

Bảng 3.29. Các khó khăn của sản phụ trong chăm sóc trẻ

Khó khăn của sản phụ trong chăm sóc trẻ

Số lượng 68 72 140 205 144 28 88 12

Số lượng 19 52 179 82 209 60 37 19

Bế con Cho bú Con khóc đêm Tắm bé Xử trí khi con sốt Vệ sinh cho con Đưa con đi tiêm chủng Pha sữa Thành thị % 17,5 18,6 36,1 52,6 37,1 7,2 22,7 3,1 Nông thôn % 5,0 14,0 48,0 22,0 56,0 16,0 10,0 5,0

80

Tìm hiểu những khó khăn mà bà mẹ phải đương đầu trong thời kỳ sau

sinh giúp người nghiên cứu hiểu và lý giải được những nhu cầu của phụ nữ

Phụ nữ sau sinh cảm nhận nhiều khó khăn từ việc chăm sóc bản thân và con cái

trong giai đoạn sau sinh. Xử trí khi con sốt, tắm cho con, con khóc đêm, đưa

con đi tiêm chủng là những khó khăn được các bà mẹ liệt kê nhiều nhất. Có sự

khác biệt về khó khăn giữa phụ nữ thành thị và phụ nữ nông thôn. Có 52,6%

các bà mẹ thành thị cho rằng tắm cho bé là công việc khó khăn nhất trong khi tỷ

lệ này trong nhóm các bà mẹ nông thôn là 22%. Ngược lại các bà mẹ bà mẹ

nông thôn thấy nhiều khó khăn trong việc xử trí khi con sốt (56%) trong khi tỷ

Bảng 3.30. Biến cố về tinh thần trong giai đoạn sau sinh

lệ này trong nhóm các bà mẹ thành thị chỉ là 37,1%.

Các biến cố về tinh thần Lý do có bất đồng, mâu thuẫn

Không mâu thuẫn Cách chăm sóc con

Số lượng 237 112

Nông thôn % 98 2

Số lượng 366 7

Thành thị % 60,8 28,7 0 10,5 0 40 0 0 0 0

Có bị ngược đãi

Kinh tế Tình cảm vợ chồng bị xáo trộn Có Không 1 99 0 389 0 100 4 369

Các biến cố sau sinh mà bà mẹ liệt kê phần lớn là các mâu thuẫn gia đình

có liên quan đến cách chăm sóc con, các mâu thuẫn khác như tình cảm vợ

chồng xáo trộn. Không có bất đồng về kinh tế. Tỷ lệ các bà mẹ thành thị gặp

các biến cố về tinh thần sau sinh cao hơn nhiều so với tỷ lệ này ở các bà mẹ

nông thôn. Tỷ lệ không có mâu thuẫn hoặc biến nào trong nhóm nông thôn là

98%, trong khi trong nhóm các bà mẹ thành thị, tỷ lệ này là 98%.

81

Về các biến cố, tỷ lệ các bà thành thị, có 28,7% mâu thuẫn trong cách

chăm sóc con, 10,5% tình cảm vợ chồng bị xáo trộn, cao hơn hẳn tỷ lệ này

trong nhóm các bà mẹ nông thôn là 2%, và 0%. Có 1% các bà mẹ nông thôn bị

ngược đãi sau đẻ.

3.1.5.2. Nhu cầu của bà mẹ giai đoạn sau sinh

Nhu cầu của phụ nữ sau sinh hết sức đa dạng. Dựa trên kết quả của các

phỏng vấn sâu, chúng tôi tạm chia các nhóm nhu cầu thành 3 nhóm cơ bản:

(1) nhóm nhu cầu về vật chất, thể chất: bao gồm các nhu cầu về chế độ

nghỉ ngơi, vệ sinh, lao động, chăm sóc sức khỏe

(2) nhóm nhu cầu về tinh thần: bao gồm các nhu cầu về cảm xúc tình

cảm, được quan tâm, chia sẻ, không phải lo nghĩ về kinh tế và được

cung cấp thông tin

(3) Nhóm nhu cầu khác: bao gồm các nhu cầu mang tính biểu trưng,

Bảng 3.31. Nhu cầu về chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong giai đoạn sau sinh

được thừa nhận, được khẳng định vị thế…

Nhu cầu về CSSS

Số lượng

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373) Tổng (n=762)

Số lượng

Số lượng

% % %

Điều kiện vật chất, thể chất

Được giúp đỡ việc nhà 267 68,3 187 50,1 454 59.6

Hưởng chế độ nghỉ đẻ dài hơn 178 45,5 144 38,6 322 42.3

Nghỉ ngơi/không phải lao động 174 44,5 140 37,5 314 41.2

Khám, kiểm tra sức khỏe 274 70,1 232 62,2 506 66.4

Chăm sóc con tốt 225 57,5 198 53,1 423 55.5

82

Điều kiện tinh thần

Được cung cấp thông tin 301 77,0 277 74,3 578 75.9

Được quan tâm, chia sẻ 237 60,6 189 50,7 426 55.9

Không phải lo nghĩ về kinh tế 193 49,4 164 44,0 357 46.9

2 0,5 11 3,0 13 1.7 Khác

Nhu cầu cấp thiết mà bà mẹ nêu ra trong giai đoạn này với thứ tự ưu tiên

lần lượt là:

- Nhu cầu được cung cấp thông tin (77% trong nhóm bà mẹ thành thị và

74,3% trong nhóm các bà mẹ nông thôn).

- Nhu cầu được kiểm tra sức khỏe sau sinh bởi cán bộ y tế có chuyên môn:

(70,1% trong nhóm các bà mẹ thành thị và 62,2% trong nhóm các bà mẹ

nông thôn).

- Nhu cầu được giúp đỡ việc nhà đứng thứ ba với tỷ lệ: 68,3% các bà mẹ

thành thị và và 50,1% các bà mẹ nông thôn.

- Được quan tâm chia sẻ đứng hàng thứ tư với tỷ lệ 60,6% và 50,7%.

Các nhu cầu khác bao gồm: chăm sóc con tốt 55,5%, hưởng chế độ nghỉ

dài hơn hoặc nghỉ ngơi, không phải lao động cũng được các bà mẹ chia sẻ.

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy nhu cầu được cung cấp thông

tin của các bà mẹ rất đa dạng và thực tế. Các nhu cầu về thông tin này chủ yếu

là về cách chăm sóc bản thân và nuôi dạy con cái. Trong đó, các thông tin mà

bà mẹ cần nhiều nhất là về vệ sinh và phát hiện các biểu hiện bất thường của

con.

“ …Nếu có cán bộ y tế đến nhà tư vấn cho em cách tắm rửa và thay tã

cho con thì em rất thích. Vì nghỉ ngơi sau mấy ngày đầu mệt sau sinh, em có thể

83

tự làm được. …Hôm trước bà nội cháu tắm mà chỉ sợ bà cho nước vào tai

cháu…chả dám nói chị ạ “ (BM04PSTW)

“ ..Không đùa được đâu. Bạn em nó không biết cách vệ sinh. Sau đẻ mấy

hôm tự nhiên vú cứ cương lên, cứng như quả bưởi và rất đau. Nó phải đến viện

chị chữa đấy. Em chỉ sợ bị như nó nên ngày nào cũng phải rửa vú bằng gạc với

nước nóng…” (BM02PSTW)

Ngoài ra những thông tin về bệnh tật hoặc bất thường như sốt, tiểu không

tự chủ ..cũng được bà mẹ quan tâm:

“ ..Mẹ em cứ bảo, ngày xưa tao đẻ năm một có sao đâu, sòn sòn 4,5 lần.

..Em bảo: thế bây giờ bà mới ngồi đâu đái đó. Nghe tiếng nước chảy đã són ra

quần rồi chị ạ. Khổ lắm…”(BM03PSTW)

“ Ở quê tụi em chỉ được nghỉ làm tháng đầu tiên thôi. Con đầy tháng thì

mẹ cũng phải đi làm chứ không thì lấy đâu ra tiền mà sống. Nhưng em không

biết làm sớm như thế thì có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của mẹ không chị

nhỉ?...” (BM10BV)

“ Em có bà chị đang cho con bú mà vẫn có thai, mãi mới biết. Cho nên

em cần những thông tin về tránh có thai và nuôi con khỏe mạnh ..”(BM07BV)

3.1.5.3. Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc tại nhà

Để tiến hành một dịch vụ chăm sóc tại nhà cho nghiên cứu tiếp theo,

chúng tôi muốn thăm dò nhu cầu về dịch vụ này của các bà mẹ.

84

Bảng 3.32. Có cần thiết phải có CBYT thăm khám

trong thời kỳ sau sinh không

Sự cần thiết có CBYT thăm

Số lượng

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373) khám thời kỳ sau sinh

Số lượng

% %

389 100,0 291 78,0 Có

0 0,0 82 22,0 Không

389 100,0 373 100,0 Tổng

Khi được hỏi: “có cần thiết phải có cán bộ y tế thăm khám trong thời kỳ sau

sinh không?”, có 94% các bà mẹ ở thành thị và 78% các bà mẹ ở nông thôn trả

lời: “có cần thiết”.

Bảng 3.33. Đồng ý đăng ký dịch vụ CSSS

Đồng ý tham gia dịch

Thành thị (n=389) Nông thôn (n=373) Tổng (n=762) vụ chăm sóc tại nhà

Số lượng

Số lượng

% % %

Số lượng 187

373 96 50,1 560 73,5 Có

16 4.0 186 49,9 202 26,5 Không

389 100,0 373 100,0 762 100 Tổng

Các bà mẹ ở thành thị sẵn sàng tham gia dịch vụ CSSS hơn các bà mẹ ở

nông thôn: 96% các bà mẹ ở thành thị đồng ý, trong khi đó tỷ lệ của các bà mẹ

ở nông thôn và 50,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.

85

Bảng 3.34. Lý do không sử dụng dịch vụ CSSS

Lý do

Nhóm không sử dụng DV (n=202)

Nhà xa N 60 % 29,7

Giá đắt 65 32,4

Mời CBYT về giúp 87 43,2

Không cần thiết 10 5,1

Trong số 202 các bà mẹ từ chối sử dụng dịch vụ, các lý do cản trở không

tham gia dịch vụ lần lượt bao gồm: đã mời cán bộ y tế về nhà giúp (43,2%); giá

đắt (32,4%), nhà xa (29,7%). Chỉ có 5,1% cho rằng không cần thiết có dịch vụ

này.

3.2. Đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh

giai đoạn sau sinh tại 2 bệnh viện được chọn. Phân tích một số điểm thuận

lợi, và cản trở đến việc thực hiện mô hình.

Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu can thiệp cung cấp dịch vụ chăm

sóc sau sinh tại nhà cho các bà mẹ và đánh giá hiệu quả của dịch vụ này dựa

trên sự khác biệt về kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh trước

và sau can thiệp.

3.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Tổng số có 1.038 bà mẹ đến sinh con tại hai bệnh viện được tuyển chọn

vào hai nhóm nghiên cứu.

86

Bảng 3.35. Phân bố đối tượng theo nơi cư trú và địa điểm nghiên cứu

Số lượng %

Số lượng %

Phân bố theo nhóm NC Thành thị Nông thôn Tổng

Số lượng 922

%

88,8 Bệnh viện 461 461 - -

Địa điểm PSTƯ

nghiên cứu - - Bệnh viện Đa 58 58 116 11,2

khoa Ba Vì

Số lượng nhóm can thiệp: 738 bà mẹ, trong đó có 58 bệnh nhân từ bệnh

Tổng số 519 50,0 519 50,0 1038 100

viện đa khoa Ba Vì, và 461 các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản trung

ương (bảng 3.35). Tiếp tục tuyển chọn nhóm chứng bằng phương pháp ghép

cặp theo độ tuổi mẹ, số con sống và thu nhập trung bình/tháng vào hai tháng

tiếp theo.

Bảng 3.36. Một số đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm nhân khẩu học Tổng (n=1038) Nhóm chứng (n=519)

%

%

%

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Nhóm can thiệp (n=519) 2, p

Dưới 20 22 2,1 11 2,1 11 2,1

Tuổi Từ 20-29 591 56,9 296 57,0 295 56,8

Từ 30-39 389 37,5 194 37,4 195 37,6 2=0,0043 p=1

Trên 40 36 3,5 18 3,5 18 3,5

Số Một con 554 53,4 277 53,4 277 53,4 2=0

87

2 con trở lên 484 46,6 242 46,6 242 46,6 con sống p=1

Dưới 1 triệu 10 0,9 4 0,7 6 1,2

Thu nhập 1-3 triệu 115 11,1 54 10,4 61 11,8 2=0,9377 p=0,816

3-10 triệu 622 60,0 313 60,3 309 59,5

Trên 10 triệu 291 28,0 148 28,5 143 27,5

PTTH 167 16,2 83 16,0 84 16,2

Cao đẳng/ĐH 771 74,3 384 74,0 387 74,6 2=1,1086 p=0,775

Sau đại học 100 9,5 52 10,0 48 9,2 Trình độ học vấn

73 7,0 34 6,5 39 7,5

Nông dân, công nhân

Nghề nghiệ p 230 22,1 113 21,8 117 22,6 2=0,6125 p=0,894 Nội trợ, buôn bán nhỏ

Cán bộ 631 61,0 321 61,9 310 59,0

Hai nhóm nghiên cứu có sự tương đồng khá lớn, chưa thấy có sự khác

Khác 103 9,9 51 9,8 52 9,9

biệt có ý nghĩa thống kê với các p>0,05. Đối tượng tham gia nghiên cứu có độ

tuổi dưới 40 (tỷ lệ cộng dồn là 96,5%). Trong đó nhóm 20-29 tuổi có tỷ lệ cao

nhất (56,9 %). Bà mẹ trẻ dưới 20 tuổi và bà mẹ trên 40 tuổi chiếm tỷ lệ rất nhỏ (

<3,5%).

Về thu nhập: có hơn ½ các bà mẹ có thu nhập nằm trong khoảng từ 3

đến 10 triệu đồng/người/tháng. Trong đó, tỷ lệ các bà mẹ thu nhập cao hơn

88

10.000.000 đồng/người/tháng chiếm tỷ lệ dưới 10%. Hầu như không có các bà

mẹ thu nhập dưới 1 triệu đồng (chỉ chiếm dưới 1%).

Số con sống trung bình là 1,55. Trong đó bà mẹ có con đầu lòng, và bà

mẹ có từ 2 con trở lên có tỷ lệ khá đồng đều và lần lượt là 53,4% và 46,6%.

Trình độ học vấn và nghề nghiệp của hai nhóm có sự tương đồng khá lớn.

3.2.2. Đặc điểm của lần sinh tại thời điểm nghiên cứu

Bảng 3.37. Đặc điểm sinh nở của bà mẹ tại thời điểm nghiên cứu

Đặc điểm lần sinh tại thời điểm nghiên cứu

2, p

Cách sinh Đẻ thường Tổng (n=1038) % Số lượng 226 22,0 Nhóm CT (n=519) % Số lượng 117 22,4 Nhóm chứng (n=519) % Số lượng 109 21,0

2=0,36 p=0,834

Đẻ mổ 806 77,4 399 77,0 407 78,0

Khác 6 0,6 3 0,6 3 0,6

2=2,66 p=0,264

Bình thường 952 92,0 468 90,2 484 93,2 Đặc điểm mang thai Bệnh lý 86 8,0 51 9,8 35 6,8

Bình thường 938 90,4 446 492 94,8 86,0

2=0,22 p=0,892

9,3 70 13,5 27 5,2 Sinh non tháng 97 Đặc điểm trẻ lần sinh này Bệnh lý 0,3 3 3 0,5 0 0

2=0, p=0,

5,5 34 57 6,6 23 4,4 < 2500g

669 64,5 334 64,4 335 64,6 >2500g đến <3500g Cân nặng trung bình lần này >3500g 312 30,0 151 29 161 31,0

89

Về cách sinh trong nghiên cứu này do điều kiện chọn đối tượng nghiên

cứu nên tỷ lệ mổ đẻ khá cao chiếm khoảng ¾ số đối tượng. Về tỷ lệ thai bình

thường chiếm 92%. Thai bệnh lý chiếm tỷ lệ nhỏ 8%. Do đó, tỷ lệ trẻ sinh non

và bệnh lý cũng chỉ chiếm tỷ lệ thấp (9,6%).

Trẻ sinh ra có cân nặng trên 2500 g chiếm đa số: 64,5%. Có khá nhiều trẻ

sơ sinh cân nặng >3500 g (30%). Thời gian nằm viện trung bình là 2,6. Không

tìm thấy sự khác biệt giữa hai nhóm.

Bảng 3.38. Điều kiện sinh hoạt của bà mẹ sau sinh

3.2.3.Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ

%

%

Số lượng

Số lượng

Nhóm chứng (n=519) Đặc điểm sinh hoạt sau sinh của bà mẹ Tổng (n=1038) 2, p

18,9

84

16,2

182

17,5

Nhà cấp 4

2=579 p<0,05

104

20,0

196

37,8

300

28,9

Căn hộ TT

Điều kiện nhà ở

298

57,4

232

44,7

530

51,1

Nhà tầng

15

3,7

7

1,3

22

2,5

Khác

2=384

466

89,8

435

83,8

901

86,8

Phòng riêng

p<0,05

53

10,2

84

16,2

137

13,2

Không

2=0,09

Nước sạch

975

94,0

486

93,9

489

94,2

p=0,953

Giếng khoan

47

4,5

24

4,6

23

4,4

nước sinh hoạt

Khác

15

1,5

8

1,5

7

1,4

971

94,0

480

92,5

491

94,6

2=1,93 p=0,165

Nhà vệ sinh TC

Không

67

6,5

39

7,5

28

5,4

Nhóm can thiệp (n=519) % Số lượn g 98

2=0

1033

98,7

516

99,4

504

97,1

p=1

Không

13

1,3

3

0,6

15

2,9

Có người giúp

Nhìn chung, điều kiện sinh hoạt thời kỳ sau sinh của bà mẹ khá tốt. Tỷ lệ

90

bà mẹ có phòng riêng, dùng nước sạch và có nhà vệ sinh tiêu chuẩn khá cao. Có

sự khác biệt về hình thai snhaf ở giữa hai nhóm. Cụ thể, các bà mẹ trong nhóm

can thiệp ở nhà nhiều tầng và có phòng riêng nhiều hơn các bà mẹ trong nhóm

chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ có ngươig giúp,

nguồn nước sinh hoạt, nhà vệ sinh đủ tiêu chuẩn ở hai nhóm không có sự khác

biệt.

3.2.4. Hiệu quả mô hình đến kiến thức về chăm sóc sau sinh của bà mẹ

Sau khi áp dụng, mô hình can thiệp CSSS tại nhà đã có tác động tích cực

đến kiến thức về CSSS của bà mẹ.

60%

54,10%

50%

40,90%

37,80%

37,20%

40%

trước can thiệp

30%

sau can thiệp

20%

10%

0%

Nhóm NC

Nhóm chứng

Biểu đồ 3.5. So sánh hiệu quả của mô hình về thay đổi kiến thức chung CSSS

91

Đánh giá chung sau can thiệp cho thấy về kiến thức chung về CSSS của bà

mẹ nhóm can thiệp đã tăng cao hơn nhiều so với trước can thiệp có ý nghĩa

thống kê (p<0,001) với CSHQ là 45,4%.

Trong khi đó, sự thay đổi kiến thức chung CSSS ở nhóm chứng không có

ý nghĩa thống kê (p>0,05) với CSHQ thấp: 8,2%.

Sau can thiệp, kiến thức CSSS của bà mẹ nhóm can thiệp tăng cao hơn

nhiều so với bà mẹ nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,001) với HQCT là

37,2%.

Bảng 3.39. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ theo dấu hiệu bệnh

Nhóm chứng

Đánh giá

Nhóm can thiệp Sau CT

Sau CT CSHQnc

CSHQnct, p

p

Đạt

Trước CT SL % SL 193 37,2 271

% 52,2

Trước CT SL % SL % 195 37,6 212 40,9

40,3%

8,8%

Không

p<0,001

p>0,05

326 62,8 248

47,8

324 62,4 307 59,1

đạt

Chỉ số

HQCT = 31,5%; p<0,001

Kết quả cho thấy sau can thiệp kiến thức về phát hiện các dấu hiệu bệnh

của các bà mẹ nhóm can thiệp tăng lên nhiều so với trước can thiệp có ý nghĩa

thống kê (p<0,001) với chỉ số hiệu quả là 40,3%. Trong khi đó, sự thay đổi kiến

thức về phát hiện dấu hiệu bệnh của bà mẹ ở nhóm chứng không có ý nghĩa

thống kê (p<0,05).

Kiến thức của bà mẹ nhóm can thiệp về phát hiện dấu hiệu bệnh tăng rõ rệt

so với bà mẹ thuộc nhóm chứng với HQCT là 31,5% (p<0,001).

92

Bảng 3.40. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ theo tiêu chí vệ sinh lao động

Nhóm can thiệp Nhóm chứng

Đánh giá

Đạt Sau CT CSHQnct Trước CT SL % SL % 137 26,4 260 50,1 Trước CT SL % 115 22,2 Sau CT CSHQnc SL % 149 28,7 P 89,8% P 29,3%

Không p<0,001 p<0,05 382 73,6 259 49,9 404 77,8 370 71,3 đạt

Chỉ số HQCT = 60,5%, p<0,001

Sau can thiệp kiến thức của bà mẹ nhóm can thiệp về vệ sinh lao động tăng

cao so với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê (p<0,001) với CSHQ cao 89,8%.

Trong khi đó, sự thay đổi kiến thức của bà mẹ ở nhóm chứng có ý nghĩa

thống kê (p<0,05) với CSHQ thấp hơn là 29,3%.

Kết quả cho thấy kiến thức của bà mẹ nhóm can thiệp về vệ sinh lao động

tăng rõ rệt so với bà mẹ nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,001) với HQCT

là 60,5%.

Bảng 3.41. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ theo tiêu chí dinh dưỡng

Nhóm can thiệp Nhóm chứng

Đánh giá Sau CT CSHQnct Trước CT Sau CT CSHQnc

P p

Đạt Trước CT SL % SL % 104 20,0 187 36,0 SL % SL % 101 19,5 140 26,9 80,0% 37,9%

Không p<0,001 p<0,05 415 80,0 332 64,0 418 80,5 379 73,1 đạt

Chỉ số HQCT = 42,1%; p<0,01

93

Sau can thiệp tỷ lệ bà mẹ nhóm can thiệp có kiến thức về dinh dưỡng, tiết

chế tăng nhiều so với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê (p<0,001) với CSHQ

cao 80,0%. Sự thay đổi kiến thức của bà mẹ ở nhóm chứng cũng có ý nghĩa

thống kê (p<0,05) nhưng CSHQ thấp hơn là 37,9%. Kiến thức của bà mẹ nhóm

can thiệp về dinh dưỡng, tiết chế đã tăng rõ rệt so với bà mẹ nhóm chứng có ý

nghĩa thống kê (p<0,01) với HQCT là 42,1%.

Bảng 3.42. Sự thay đổi kiến thức CSSS của bà mẹ theo tiêu chí KHHGĐ

Nhóm can thiệp Nhóm chứng

Đánh giá Sau CT CSHQnct Trước CT Sau CT CSHQnc

P P

Trước CT SL % SL % SL % SL %

Đạt 175 33,7 260 50,1 175 33,7 208 40,1 48,7% 19,0%

Không p<0,001 p<0,05 344 66,3 259 49,9 344 66,3 311 59,9 đạt

Chỉ số HQCT = 29,7%; p<0,01

Kết quả cho thấy sau can thiệp tỷ lệ bà mẹ nhóm can thiệp có kiến thức về

KHHGĐ tăng lên so với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê (p<0,001) với

CSHQ cao 48,7%. Sự thay đổi kiến thức của bà mẹ ở nhóm chứng cũng có ý

nghĩa thống kê (p<0,05) nhưng CSHQ thấp hơn là 19,0%.

Kiến thức của bà mẹ nhóm can thiệp về KHHGĐ đã tăng cao hơn so với

kiến thức của bà mẹ nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,01) với HQCT là

29,7%.

3.2.5. Hiệu quả của mô hình về thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ

94

Biểu đồ 3.6. So sánh hiệu quả của mô hình đến sự thay đổi

về thực hành CSSS của bà mẹ

Về thực hành nói chung, mô hình chăm sóc tại nhà đã có tác động làm

thay đổi thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh. Sau can thiệp thực hành

của các bà mẹ nhóm can thiệp tốt hơn so với trước can thiệp, có ý nghĩa thông

kê (p<0,001) với CSHQ là 50,8%.

Trong khi đó, sự thay đổi thực hành của bà mẹ nhóm chứng không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05) với CSHQ là 10,9%. Sau can thiệp, thực hành của các

bà mẹ nhóm can thiệp tốt hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê

(p<0,001) với HQCT là 39,9%.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy can thiệp cũng tác động tích cực đến

thực hành của các bà mẹ về CSSS. Tỷ lệ bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong

nhóm can thiệp tăng từ 36,4% (trước can thiệp) lên 54,9% (sau can thiệp) trong

vòng tháng đầu sau sinh; tăng tỷ lệ bà mẹ uống thêm viên sắt trong 2 tuần đầu

sau đẻ từ 22,7% (trước can thiệp) lên 43,6% (sau can thiệp) trong thời gian

chăm sóc sau sinh tại nhà.

95

3.2.6. Kiểm định sự khác biệt trung bình điểm kiến thức và thực hành

chung CSSS của bà mẹ sau can thiệp

3.2.6.1. So sánh sự thay đổi về trung bình điểm kiến thức CSSS của bà mẹ sau can thiệp

Biến số Khoảng tin cậy

Bảng 3.43. Sự thay đổi của trung bình điểm kiến thức chung về CSSS của bà mẹ sau can thiệp Trung bình 20,493 Số quan sát 519 Độ lệch chuẩn 4,878 Sai số chuẩn 0,214 20,073 20,914

22,119 0,195 4,448 519 21,736 22,503

-1,626 0,129 2,940 519 -1,879 -1,373

Tổng kt trước can thiệp Tổng kt sau can thiệp Sự khác biệt Ha: mean(diff) < 0 Ha: mean(diff) != 0 Ha: mean(diff) > 0

Pr(T < t) = 0.0000 Pr(|T| > |t|) = 0.0000 Pr(T > t) = 1.0000 So sánh trung bình điểm kiến thức của bà mẹ bằng cách khảo sát hàm d

(diference), trong đó mean (diff)=mean (tổng điểm kiến thức trước can thiệp –

tổng điểm kiến thức sau can thiệp).

Kết quả cho thấy tổng điểm kiến thức chung của bà mẹ sau can thiệp đã

tăng lên 1,6 điểm có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp ( p< 0.001).

Khoảng tin cậy 95% của sự tăng lên là nằm trong khoảng 1,3 đến 1,8 điểm.

3.2.6.2. So sánh sự thay đổi về trung bình điểm thực hành chung về CSSS của bà mẹ sau can thiệp

Bảng 3.44. So sánh sự thay đổi về thực hành chăm sóc sau sinh trước và sau can thiệp

Biến số Khoảng tin cậy

Số quan sát 519 Trung bình 7,539 Sai số chuẩn 0,040 Độ lệch chuẩn 0,925 7,460 7,620

Kiến thức bệnh trước can thiệp Kiến thức bệnh 519 7,880 0,049 1,116 7,784 7,977

96

-0,341 0,037 519 -0,413 -0,269

sau can thiệp Sự khác biệt Ha: mean(diff) < 0 Ha: mean(diff) != 0 Ha: mean(diff) > 0

Pr(T < t) = 0.0000 Pr(|T| > |t|) = 0.0000 Pr(T > t) = 1.0000

Sau can thiệp thì trung bình điểm thực hành về chăm sóc sau sinh của

những bà mẹ trước can thiệp là 7,5 và sau can thiệp là 7,9.

Kiểm định thống kê cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa

trung bình điểm thực hành trước và sau can thiệp (p<0,001).

3.2.7. Đánh giá của bà mẹ chất lượng dịch vụ

Bảng 3.45. Đánh giá của bà mẹ nhóm can thiệp về dịch vụ CSSS tại nhà

Bệnh viện PSTW (n=461) Đặc tính nghiên cứu Bệnh viện Đa khoa Ba Vì (n=58)

N % N %

Tính hiệu quả

Hiệu quả 461 100 58 100

Không hiệu quả 0 0 0 0

Giá dịch vụ

Rẻ 20 4,3 3 5,2

Vừa phải, hợp lý 433 93,9 51 87,9

Cao 8 1,8 4 6,9

Thái độ của người cung cấp dịch vụ

Ân cần 461 100 58 100

Không ân cần 0 0 0 0

97

Các bà mẹ trong nhóm can thiệp có sử dụng mô hình chăm sóc sau sinh tại

nhà cho thấy 100% các bà mẹ đánh giá mô hình có hiệu quả và thái độ của cán

bộ y tế ân cần khi cung cấp dịch vụ.

Nghiên cứu định tính cũng cho thấy các bà mẹ và ông bố rất yên tâm khi

có cán bộ y tế đến chăm sóc thời kỳ sau đẻ [13].

“ Mô hình này nên được áp dụng rộng rãi vì bây giờ đẻ ít nên ai cũng sẵn

sàng chi trả cho cán bộ y tế đến khám” (BM16PSTW)

“ Mình không biết gì, hỏi các bác ấy cũng trả lời, thái độ rất tốt, và nhiệt

tình nữa...” (BM11PSTW)

Về giá cả của dịch vụ, đa số bà mẹ cho rằng giá dịch vụ vừa phải và hợp lý

(chi tiết bảng giá dịch vụ xin xem tại phụ lục). Giá của một gói dịch vụ 10 ngày

là khoảng 1.200.000 đồng cho bệnh nhân sống trong bán kính 5- dưới 10km.

Đối với địa bàn Ba Vì, giá áp đồng hạng khoảng 1.000.000 đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình phỏng vấn sâu, một số bà mẹ đã đưa ra giải

pháp tính theo buổi đến chăm sóc và thăm khám thì phù hợp và thuận tiện cho

bà mẹ và gia đình hơn là tính theo gói cước phí như hiện tại.

“ ..Em nghĩ nên chuyển hình thức tính gói (chăm sóc) sang tính theo

buổi. Em nghĩ như thế sẽ có nhiều bà mẹ đến đăng ký hơn vì người ta không

phải đóng tiền nhiều 1 lúc…” (BM12PSTW)

Một số bà mẹ lại cho rằng dịch vụ được cung cấp bởi nhân viên y tế đơn lẻ có

giá rẻ hơn dịch vụ được đăng ký:

“ ..Lúc đầu em được mấy chị cùng vào sinh cho điện thoại của cô nhân

viên y tế có kinh nghiệm. Em đã định gọi rồi nhưng nghĩ thế nào lại thôi, nhưng

có lẽ gọi thì sẽ được giá rẻ hơn…Đấy là em nghĩ thế. ”(BM14PSTW)

98

Số khác thì lại cho rằng dịch vụ do cá nhân các cán bộ y tế cấp chất lượng

không đảm bảo như dịch vụ đăng ký với bệnh viện:

“ Em chọn dịch vụ này cũng là bởi vì em tin tưởng vào chất lượng chăm

sóc. Lần trước em sinh con cũng được cho điện thoại để mời người đến. Được

hôm đầu tiên cô đó đến chăm sóc rồi mấy hôm sau mất hút, cử mấy em trẻ trẻ

Có ý kiến của bà mẹ cho rằng thời điểm chăm sóc trong ngày chưa hợp lý

đến tay chân lóng ngóng, còn không bằng em tự tắm.(BM12PSTW)

vì phải phục vụ nhiều ca trong ngày làm cho các bà mẹ bị động. Điều này cũng

ảnh hưởng đến sự thuận tiện của mô hình khi xuất hiện dưois hình thức dịch vụ

trả tiền.

“ …Em chỉ không thích một điều ở dịch vụ chăm sóc tại nhà, đó là mình

không chủ động được thời gian. Có những hôm con vừa ăn xong thì phải đem

ra tắm, hôm thì đợi đến trưa, mất hết cả công việc… (BM12PSTW)

3.2.8. Đánh giá dịch vụ về phía người cung cấp

Đánh giá dịch vụ chăm sóc tại nhà, các cán bộ y tế tham gia trực tiếp đều

cho rằng dịch vụ có tầm quan trọng đối với công tác chăm sóc sau sinh, là một

biện pháp gíup bệnh viện giảm tải và có thể triển khai thành công tại cộng

đồng.

“ Tôi nghĩ dịch vụ này sẽ thành công vì bây giờ bà mẹ có nhu cầu được

cung cấp thông tin từ phía những người có chuyên môn, giá cả một buổi chăm

sóc khá hợp lý…”(CB02PSTW)

Về chuyên môn, do những chăm sóc, thăm khám này đơn giản nên có thể

tập huấn cho cán bộ trong thời gian ngắn:

99

“ về chuyên môn mình đã được tập huấn là theo hướng dẫn quốc gia thôi,

cũng không có gì là khó khăn cả vì đều là những kỹ năng chăm sóc cơ bản”.

(ĐDPSTW, 01)

Dịch vụ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía lãnh đạo hai bệnh viện.

“ Nếu mô hình hoạt động thành công thì tôi hy vọng chúng tôi sẽ tiếp tục nhân

rộng đối tượng chăm sóc tại nhà không chỉ là sản phụ mà còn là những bệnh

nhân sau phẫu thuật nữa” (LD01BV)

Trong quá trình thực hiện, một số yếu tố cản trở cũng được các cán bộ y tế nêu

ra là điều kiện giao thông, thời tiết và sự hợp tác của gia đình, bà mẹ đối với

dịch vụ:

“ Vất vả nhất là khâu tìm nhà, tìm được nhà rồi thì tìm chỗ đỗ xe. Có

những lúc đi bộ vào ngõ lòng vòng cả cây số vì xe ô tô không vào được. Đã thế

nhiều lần còn bị mắng vì người nhà họ phải đợi lâu... (CB02 PSTW)

Một yếu tố cản trở nữa mà các cán bộ y tế tham gia can thiệp nêu lên là việc

nhà chủ nuôi chó thả rông. Đặc biệt là khu vực nông thôn Ba Vì.

“ ..Em sợ nhất là vào nhà có nuôi chó, mà ở đây dân họ nuôi nhiều lắm.

Có hôm vừa dựng cái xe, con chó xồ ra. Bà mẹ thì bận con, mãi mới chạy ra

được..(CB03BV)

Cán bộ y tế ở Ba vì cũng cho biết, các bà mẹ nông thôn rất ít nói, rất thụ động

khi trao đổi các cán bộ y tế về các kiến thức chăm sóc con.

“ …Họ (bà mẹ) ít khi chủ động hỏi mình cái này cái kia lắm. Toàn phải tự mình

tư vấn cho người ta biết phải làm thế này, phải làm thế khác thôi.. (CB01BV)

100

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành và nhu cầu về chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và bệnh viện Ba Vì 4.1.1.Thực trạng chăm sau sau sinh tại gia đình

4.1.1.1.Đặc điểm của các bà mẹ tham gia nghiên cứu

Số lượng đối tượng tham gia nghiên cứu đảm bảo 100% như thiết kế ban

đâu, trong đó phân bố theo địa bàn cư trú là 49% các bà mẹ đến từ nông thôn,

và 51% các bà mẹ thành thị đảm bảo được tính đại diện cho cả hai khu vực.

Phân bố về lứa tuổi: các bà mẹ là những người trẻ: dưới 40 tuổi (93,6% ở thành

thị, 92,7% ở nông thôn), trong đó nhóm tuổi từ 20-29 có tỷ lệ cao nhất. Đây là

một điểm thuận lợi cho bà mẹ khi sinh con ở lứa tuổi này.

Về học vấn, đa số các bà mẹ có học thức: tốt nghiệp PTTH trở lên

(100%) nên cũng là yếu tố thuận lợi cho việc tư vấn, giáo dục cho các bà mẹ về

các kiến thức và kỹ năng chăm sóc sau sinh.

Về tình trạng kinh tế: thu nhập chủ yếu từ 3 đến dưới 10 triệu đồng/tháng

(59,4% và 55,9%). Nghề chính của các bà mẹ nông thôn là nông dân hoặc công

nhân (43,2%) thì nghề chính của các bà mẹ thành thị là cán bộ, công chức

(63,4%). Có sự khác biệt về nghề nghiệp của hai nhóm bà mẹ tại hai địa bàn

nghiên cứu. Điều này phù hợp với đặc điểm dân cư tại hai địa bàn.

Về đặc điểm thai sản tại thời điểm nghiên cứu, tỷ lệ các bà mẹ có con lần

đầu (con so) và có từ 2 con trở lên khá đồng đều (54,7% và 45,3%) thuận lợi

cho việc phân tích kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh vì bà mẹ có con

lần đầu chưa có kinh nghiệm chăm sóc từ những lần sinh trước.

101

Số lần mang thai trung bình là 2,8. Số con hiện tại trung bình là 1,5

chứng tỏ công tác tuyên truyền về Kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết

quả. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi cần tập trung vào một số đối tượng đặc thù

như phụ nữ sau sinh. Phân tích này sẽ được giới thiệu kỹ hơn trong phần phân

tích về kế hoạch hóa gia đình sau sinh trong các phần tiếp sau của cuốn luận án.

Trong lần sinh tại thời điểm nghiên cứu, tỷ lệ các bà mẹ sinh mổ cao hơn

rất nhiều so với thực tế là do điều kiện chọn mẫu. Khi tiến hành điều tra, chúng

tôi thấy bộ câu hỏi cắt ngang khá dài và chi tiết, mất nhiều thời gian. Những

trường hợp phụ nữ sinh con và ở lại bệnh viện dưới 24h thì không đủ thời gian

để tham gia nghiên cứu.

Phụ nữ thành thị có nhiều trường hợp thai bệnh lý và sinh theo cách sinh

mổ cũng cao hơn ở nông thôn. Điều này được giải thích là đối tượng là phụ nữ

ở thành thị chủ yếu được lấy từ bệnh viện Phụ sản Trung ương, là bệnh viện

đầu ngành nên tỷ lệ các ca sinh mổ và thai bệnh lý cao.

Thời gian ở lại bệnh viện sau sinh trung bình trong nghiên cứu này là

2,37 ngày rất phù hợp với xu thế rút ngắn ngày nằm viện so với trước đây là 3-4

ngày. Điều này lại càng khẳng định tầm quan trọng của các tư vấn sau sinh có

chuyên môn của các cán bộ y tế đối với bà mẹ, nhất là với những bà mẹ có con

lần đầu. Thời gian ở bệnh viện ngắn, cũng kèm theo với việc các bất thường sau

sinh của bà mẹ và trẻ sơ sinh khó được kiểm soát. Nếu bà mẹ và những người

trong gia đình không đủ kiến thức về chăm sóc trẻ, một số nguy cơ sức khỏe có

thể xảy ra đối với mẹ và con mà không được phát hiện và xử trí kịp thời.

4.1.1.2. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của các bà mẹ

102

Các bà mẹ thành phố có điều kiện sinh hoạt tốt hơn về nhà ở và sinh hoạt.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 18,3% các bà mẹ thành phố phải ở nhà cấp 4

thì tỷ lệ này ở nông thôn gấp đôi với 39,2%. Nước sạch sử dụng trong sinh hoạt

cũng có sự khác biệt tại hai địa bàn nghiên cứu. Trong khi chỉ có 4,6% các bà

mẹ thành thị dùng nước giếng khoan thì có tới 26,2% bà mẹ dùng nước giếng

khoan, trong khi hai tỷ lệ này ở các bà mẹ thành thị là 18,3% tức là cao gấp gần

4 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 (bảng 3.4).

Do số con ít, nên sự chăm sóc của cộng đồng đối với bà mẹ và trẻ sơ sinh

cũng được chú trọng hơn. Ở các hai địa bàn, các bà mẹ đều được bố trí sinh

hoạt tại phòng riêng cùng với con, có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn. Đây cũng

chính là lý do khiến tỷ lệ các bà mẹ hài lòng về điều kiện sinh hoạt ở hai địa

bàn đều cao.

4.1.1.3. Người chăm sóc chính bà mẹ sau đẻ

Người chăm sóc các bà mẹ sau sinh trong nghiên cứu này được định

nghĩa là những người tham gia và công việc chăm sóc cho bà mẹ và trẻ sơ sinh

sau sinh dựa trên 4 nhóm tiêu chí được đặt ra ngay từ đầu nghiên cứu:

- chăm sóc sức khỏe, thể chất (phát hiện bệnh, đưa đi điều trị..),

- dinh dưỡng (nấu ăn, cho ăn, pha sữa),

- lao động, vận động (xoa bóp, masage, trông con để cho bà mẹ ngủ,

chở bà mẹ đưa trẻ đi tiêm chủng) và

- kế hoạch hóa gia đình (cung cấp các thông tin về biện pháp tránh

thai, hướng dẫn và tư vấn cho các bà mẹ mới có con lần đầu).

Những người thân trong gia đình như mẹ đẻ, mẹ chồng, chị em gái, họ

hàng, người giúp việc tham gia trực tiếp vào quá trình chăm sóc. Tỷ lệ các bà

103

mẹ không có người giúp rất ít 0,5%, chứng tỏ công tác chăm sóc sau sinh là

công việc chung của cộng đồng, được quan tâm bởi cộng đồng. Tuy nhiên, có

thể vì nhiều người tham gia nên vai trò của người chồng lại khá mờ nhạt: chưa

đến một nửa số người tham gia (44,3%). Điều này cũng có thể được giải thích

vì quan niệm từ xưa cho rằng công việc chăm sóc sau sinh là của đàn bà, con

gái, không phải việc của đàn ông.

Hơn nữa, khái niệm “giúp” trong phạm vi nghiên cứu này mới chỉ dừng

lại ở tính chất khẳng định mối quan tâm (có giúp hay không giúp), mà chưa có

điều kiện để làm rõ hơn về mức độ, bản chất và tính thường xuyên của nó. Ví

dụ, người đàn ông trong suốt 10 ngày chỉ chở vợ một lần đi mua bỉm

4.1.1.4. Tiếp cận thông tin về CSSS của bà mẹ

Do địa bàn đều thuận lợi, gần thành phố lớn nên các bà mẹ thuộc hai địa

điểm nghiên cứu đều tiếp cận dễ dàng với các nguồn thông tin. Sự khác biệt ở

chỗ, các bà mẹ thành thị lấy thông tin từ hai nguồn chính là cán bộ y tế (46,5%)

và Internet (46,2%) còn các bà mẹ ở nông thôn thì lấy từ nguồn mẹ đẻ (43,3%)

và mẹ chồng (42,5%). Điều này có thể giải thích về sự khác biệt về cách sống

tại hai khu vực. Khu vực thành thị, khả năng tiếp cận với nguồn y tế nhiều hơn,

tỷ lệ các bà mẹ dùng Internet nhiều hơn ở nông thôn. Ngược lại, ở nông thôn,

đặc điểm sống theo cộng đồng, làng xã hiện lên rất rõ. Ảnh hưởng của các thế

hệ trước lên các thế hệ sau khá rõ. Do vậy, tính kinh nghiệm và tập quán trong

kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh cũng thể hiện khá rõ ở nơi đây.

Với các thuận lợi về cơ sở vật chất, trình độ văn hóa, độ tuổi của bà mẹ,

điều kiện kinh tế và số con hạn chế, có thể thấy công tác chăm sóc sau sinh

104

hoàn toàn có thể được làm tốt tại cộng đồng nếu bà mẹ được hướng dẫn một

cách hệ thống và khoa học.

Về mặt lý thuyết, dịch vụ chăm sóc sau sinh tại nhà trong hai tuần đầu

tiên sau sinh hoàn toàn có đủ điều kiện để triển khai tại hai địa bàn nghiên cứu.

Sự khác biệt hai bệnh viện được chọn về nơi cư trú (thành thị và nông thôn),

quy mô cung cấp dịch vụ (tuyến trung ương và tuyến huyện), là những yếu tố

giúp cho phần phân tích tính hiệu quả của dịch vụ thêm sâu sắc và có tính ứng

dụng cao. Đây cũng chính là một điểm mới của đề tài, hiện chưa có nghiên cứu

nào đề cập đến.

4.1.1.5. Tình trạng sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh

Có khoảng 10%-20% các bà mẹ gặp những vấn đề sức khỏe sau sinh.

Các vấn đề về sức khỏe mà bà mẹ gặp phải trong thời kỳ sau sinh là đau, ra

máu, nhiễm khuẩn và các vấn đề về tuyến vú. Điều này cũng tương đồng với

những nghiên cứu trước đây của nhiều tác giả trên thế giới. Ví dụ, nghiên cứu

của tác giả Kate J.Kerber nghiên cứu trên 1294 phụ nữ tại Ấn Độ năm 2007

thấy có 12,3% có gặp phải ít nhất 1 vấn đề về sức khỏe sau sinh. Tỷ lệ các bà

mẹ bị đau bụng: 27,6%; mệt mỏi: 23,3%, sốt: 18,2%, và chảy máu hoặc ra sản

dịch bất thường 8,8% [101].

Một số nghiên cứu của các tác giả khác cho thấy có nhiều bà mẹ có vấn

đề về sức khỏe hơn nghiên cứu này. Ví dụ, nghiên cứu theo dõi dọc của tác giả

Marie- Josephe và cộng sự năm 2000 trên 1236 bà mẹ tại Pháp và Italia cho

thấy có hơn 40% các bà mẹ bị đau lưng và mệt mỏi sau sinh và liệt kê hơn 15

vấn đề sức khỏe mà bà mẹ có thể gặp [85]. Nghiên cứu của Gozum và cộng sự

trên 112 bà mẹ tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2000 cho thấy có tới 71,4% các bà mẹ sau

sinh có vấn đề về vú và 61,7% bị táo bón [98]. Khảo sát của Stephanie Brown

105

năm 1998 tại Úc trên 1336 bà mẹ cũng liệt kê 11 các vấn đề sức khỏe mà bà mẹ

gặp phải trong thời kỳ sau sinh, trong đó 26,3% các bà mẹ cho biết giao hợp

đau, và 24,6% các bà mẹ bị trĩ và 10,7% tiểu không tự chủ [97]. Có thể do thời

gian nghiên cứu sau sinh trong nghiên cứu này chỉ là 10 ngày sau sinh nên mô

tả về các vấn đề sức khỏe của bà mẹ chưa thật toàn diện như một số nghiên cứu

Tỷ lệ các bà mẹ nông thôn gặp nhiều vấn đề sức khỏe sau sinh hơn các bà

đã tiến hành như đã nêu.

mẹ thành thị (bảng 3.7). Lý do có thể giải thích cho sự khác biệt này là các bà

mẹ nông thôn tiếp cận với thông tin về chăm sóc sau sinh, hoặc các dịch vụ về

thăm khám sau sinh hạn chế hơn các bà mẹ ở thành thị.

Về sức khỏe tâm thần, phần lớn các bà mẹ đều có thay đổi tích cực về

cảm xúc sau sinh. Có khoảng 39,4% các bà mẹ thấy mệt mỏi, 11,3% bị mất ngủ

và 4,9% cảm thấy quá sức. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với kết quả nghiên

cứu trên thế giới: tỷ lệ bà mẹ mất ngủ sau sinh chiếm tới từ 26,7% đến 80,4%

[99], [90]. Tỷ lệ các bà mẹ trầm cảm chiếm từ 19,6% đến 86,6% [94]. Sự khác

biệt về tỷ lệ được giải thích do thời điểm nghiên cứu sau sinh trong nghiên cứu

này (10 ngày) ngắn hơn so với các nghiên cứu khác (sau 2 tháng) [83].

Các bà mẹ ở nông thôn chịu áp lực sau sinh nhiều hơn các bà mẹ thành

thị. Có đến 17,3% các bà mẹ nông thôn bị mất ngủ, 7,7% thấy quá sức, và

2,85% thấy bực bội, tự trách bản thân. Có thể là do sự khác biệt trong cách

sống. Ở nông thôn, tính cộng đồng, làng xã cao hơn, bà mẹ nông thôn chịu

nhiều ảnh hưởng hơn từ các thành viên trong cộng đồng: gia đình, làng xã, họ

hàng hơn các bà mẹ ở thành thị.

106

Về sức khỏe trẻ sơ sinh, vàng da là vấn đề sức khỏe xảy ra nhiều nhất.

Đây cũng chính là điều kiện để xây dựng các tư vấn về chăm sóc trẻ sơ sinh sau

này, trong đó chú trọng đến những nguy cơ hay gặp nhất.

4.1.2. Thực trạng kiến thức chăm sóc sau sinh của bà mẹ

4.1.2.1. Kiến thức CSSS của bà mẹ theo các nhóm kiến thức chuyên biệt:

Kiến thức về chăm sóc sau sinh của bà mẹ đóng vai trò quan trọng giúp

bà mẹ có được thực hành chăm sóc sau sinh đúng cách và khoa học, giúp bảo

vệ và tăng cường sức khỏe bà mẹ, trẻ em giai đoạn sau sinh.

Về các nhóm kiến thức chuyên biệt, kết quả cho thấy có dưới 40% các bà

mẹ có đủ kiến thức về các dấu hiệu bệnh (38%), tiếp đến là KHHGĐ (33.8%),

vệ sinh lao động (21,7%) và dinh dưỡng (18.2%). Kết quả này cũng đồng nhất

với một số kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế. Chẳng hạn, theo tác giả

Lê Thị Vân tại Chí Linh, Hải Dương năm 2003 với tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đạt

về dấu hiệu nguy hiểm là 25,6% và biện pháp KHHGĐ là 29,2% [40], kết quả

của Trịnh Hữu Vách tại 14 tỉnh miền Bắc và Tây Nguyên năm 2009 có 14,9%

bà mẹ biết thời điểm cần sử dụng bao cao su [43].

Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đúng về chăm sóc sau sinh ít, có thể lý giải do công

tác tư vấn sau sinh chưa được chú trọng như tư vấn trước sinh. Khái niệm

“khoảng trống sau sinh” hay vai trò của chăm sóc sau sinh chưa được đưa

ngang bằng với chăm sóc trước sinh để thực hiện chu trình chăm sóc liên tục

(continium care) trước, trong và sau sinh. Đây cũng là vấn đề tồn tại của nhiều

quốc gia, kể cả những nước đã phát triển như là Anh, Thụy Điển, Mỹ. Ví dụ, ở

Mỹ, có trên 4 triệu trẻ em được sinh ra trong năm 2003, thì có 84,1% bà mẹ

107

nhận chăm sóc trước sinh trong vòng 3 tháng đầu. Trong khi đó, các số liệu về

chăm sóc sau sinh lại rất thiếu [53].

Ở các nước châu Phi, một nghiên cứu có tới 90% bà mẹ Ethiopia, 85% bà

mẹ ở Mali, và 70% bà mẹ ở Rwanda không nhận được bất cứ một chăm sóc sau

sinh về y tế nào [51]. Một nghiên cứu trên cộng đồng của tác giả Regassa N

năm 2011 trên 1094 các bà mẹ mang thai và sinh con tại Ethiopia so sánh mức

độ sử dụng hai dịch vụ chăm sóc trước sinh và chăm sóc sau rất khác biệt và lần

lượt là 77.4% và 37,2%. [94].

- Kiến thức của các bà mẹ về sức khỏe và các dấu hiệu bệnh:

Thời kỳ sau sinh, dấu hiệu nguy hiểm các bà mẹ biết nhiều nhất là, sốt, co

giật và chảy máu kéo dài. Sự khác biệt về tỷ lệ rõ rệt nhất là dấu hiệu sốt, đau

bụng kéo dài và tăng lên và co giật (với p<0,05). Chỉ có 8/389 bà mẹ thành thị

không biết các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh, trong khi có đến 30 bà mẹ ở nông

thôn không biết về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh.

Không chỉ có kiến thức tốt hơn về các dấu hiệu bất thường sau sinh, bà mẹ

thành thị cũng biết nhiều các vấn đề sau sinh mà họ có thể gặp phải hơn so với

các bà mẹ ở nông thôn. Kiến thức về chăm sóc trẻ của bà mẹ ở thành thị cũng

tốt hơn với số bà mẹ biết về dấu hiệu sức khỏe ở trẻ em gấp 1,5 lần các bà mẹ ở

nông thôn. Tỷ lệ các bà mẹ cũng có kiến thức về các dấu hiệu bệnh của con khá

cao. Dấu hiệu được các bà mẹ nhận biết nhiều nhất là trẻ bỏ bú mẹ, hoặc bú

yếu, nôn trớ và nôn trớ kéo dài, vàng da hay xanh tím. Dấu hiệu ngủ lịm ở trẻ ít

được bà mẹ chú ý.

108

Điều này được giải thích là nguồn tiếp cận thông tin mà các bà mẹ thành thị

nhận được từ cán bộ y tế cao hơn các bà mẹ ở nông thôn: 46,5% so với 37,4%

(bảng 3.6).

Tỷ lệ các bà mẹ biết lịch tiêm chủng cho con chiếm 68,6%. Lưu ý: khái

niệm “biết lịch tiêm chủng” ở nghiên cứu này chỉ mang ý nghĩa là các bà mẹ

nhớ đi tiêm cho con mình vào ngày nhất định hàng tháng, không phải là nhớ tên

bệnh tiêm phòng.

- Kiến thức các bà mẹ về vệ sinh-lao động:

Về chế độ vệ sinh, lao động sau đẻ; mặc dù hầu hết các bà mẹ đều ý thức

được phải vận động nhẹ nhàng (90%), số bà mẹ ý thức được tầm quan trọng của

giấc ngủ sau sinh vẫn chưa nhiều. Chỉ có 26,5% cho rằng cần ngủ nhiều hơn

bình thường, tỷ lệ này ở các bà mẹ nông thôn thậm chí còn có 22%. Các bà mẹ

trong thời kỳ này được khuyên nên ngủ đủ giấc. Hiện chưa có nghiên cứu nào

khuyến cáo nên ngủ chính xác bao nhiêu giờ một đêm nhưng nhiều tài liệu tư

vấn sau sinh cho rằng nên ngủ đủ 8 giờ/đêm. Mất ngủ không chỉ gây ra sự mệt

mỏi, cáu gắt ở bà mẹ mà tệ hơn nó còn có thể là yếu tố gây nên trầm cảm sau

sinh nếu xảy ra liên tục mà không có sự can thiệp của y tế [81].

Vệ sinh cho mẹ và con cũng rất quan trọng trong thời kỳ này vì vệ sinh

không đúng cách có thể dẫn tới các viêm nhiễm phụ khoa hoặc nhiễm khuẩn

tuyến vú cho bà mẹ.

Kết quả cho thấy các bà mẹ thành thị có kiến thức về vệ sinh tốt hơn các

bà mẹ ở nông thôn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều bà mẹ thực hiện chế độ kiêng

khem không tắm. Tỷ lệ các bà mẹ không tắm đặc biệt cao ở địa bàn nông thôn

(31%) trong khi tỷ lệ này ở các bà mẹ thành thị chỉ là 12,1% (bảng 3.15). Điều

109

này có thể giải thích về sự ảnh hưởng của yếu tố tập quán lên kiến thức của bà

mẹ về chế độ vệ sinh- lao động sau sinh. Nông thôn, nơi đời sống cộng đồng

đậm nét hơn thì những kiêng khem trong thời kỳ hậu sản cũng bộc lộ rõ hơn.

Nhìn chung, bà mẹ ở cả hai địa bàn đều có kiến thức về tắm rửa, vệ sinh

cho con (bao gồm cả chăm sóc rốn) với tỷ lệ khá cao. Kiến thức về giữ ấm cho

con của các bà mẹ cũng khá tốt.

- Kiến thức các bà mẹ về dinh dưỡng

Thang điểm chấm kiến thức về dinh dưỡng có tổng điểm 10 điểm, bao

gồm các nội dung về lượng ăn của bà mẹ, thành phần ăn, các chất ăn kiêng, bổ

sung thêm Vitamin A và Sắt, lợi ích sữa mẹ cho con bú. Các bà mẹ có số điểm

từ 5 trở lên thì được coi là đạt. Các bà mẹ có kiến thức về dinh dưỡng đạt thấp

nhất so với các nhóm khác.

Sự ảnh hưởng của yếu tố tập quán lên chế độ dinh dưỡng cho bà mẹ khá

rõ. Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy tính tập quán thể hiện rõ nhất trong

văn hóa kiêng khem hay “chế độ bà đẻ’ được duy trì trong thời gian 100 ngày

(3 tháng 10 ngày) và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Chẳng hạn, trong việc ăn uống, thức ăn được chia thành 3 nhóm: nhóm

hoàn toàn không được ăn, nhóm nên ăn và nhóm phải ăn (bảng 3.12). Đáng

ngạc nhiên là một số các thực phẩm nhiều dinh dưỡng như hải sản, thịt bò, một

số loại rau, trái cây cũng nằm trong danh sách kiêng khem. Kết quả này cũng

thống nhất với nghiên cứu của Lê Minh Thi, 2003 tại Hưng Yên. Tuy nhiên, tác

giả Minh Thi còn mô tả nhiều hành vi kiêng khem thiếu bằng chứng và không

có lợi cho sức khỏe phụ nữ như: kiêng uống nhiều nước, kiêng ngủ nhiều, mặc

áo dài tay, đi tất trong thời tiết nóng, không cắt móng chân, móng tay và không

110

sử dụng biện pháp tránh thai trong thời kỳ hậu sản [87]. Một nghiên cứu của tác

giả H Barrenes năm 2007 tại Lào cho thấy chế độ dinh dưỡng của bà mẹ sau đẻ

phụ thuộc nhiều vào tập quán về ẩm thực. Bà mẹ phải ăn cơm nếp hàng ngày để

có sữa cho con bú [63].

Kiến thức về uống bổ sung vitamin A và viên Sắt sau sinh chưa tốt. Có

đến 73,4% và 38% các bà mẹ cho rằng không cần thiết uông bổ sung Vitamin A

và viên Sắt sau sinh (Bảng 3.15). Việc truyền thông về uống bổ sung Vitamin A

và viên sắt thời kỳ sau sinh cũng cần được chú ý để nâng cao kiến thức của bà

mẹ.

Có trên 90% các bà mẹ biết về lợi ích của sữa mẹ. Chứng tỏ các thông

điệp giáo dục truyền thông cho con bú mẹ, lợi ích của sữa mẹ đã có hiệu quả

khá mạnh mẽ.

- Kiến thức bà mẹ về kế hoạch hóa gia đình:

Bà mẹ có ít kiến thức về các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Chỉ có

16% các bà mẹ ở thành thị và 18% các bà mẹ ở nông thôn biết chính xác thời

điểm giao hợp sau sinh là 6 tuần (bảng 3.18). Họ chỉ dựa vào dấu hiệu khi có

kinh trở lại thì sẽ quan hệ tình dục. Bà mẹ sau sinh cũng không biết sử dụng

biện pháp tránh thai gì sau sinh. Có đến 39,6% các bà mẹ được hỏi không biết

sẽ sử dụng biện pháp tránh thai gì.

Điều này cho thấy chương trình tư vấn cho các bà mẹ cần bổ sung ngay

những kiến thức về tiêu chuẩn cho bú vô kinh và các biện pháp tránh thai phù

hợp, kịp thời nhằm tránh cho các bà mẹ mang thai ngoài ý muốn, ảnh hưởng

đến sức khỏe của bà mẹ và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.

111

4.1.2.2. Kiến thức chung về CSSS:

Với tổng điểm đánh giá là 42 điểm, trong đó để được xếp loại đạt phải có

số điểm lớn hơn hoặc bằng 50% tổng điểm, tức là lớn hơn hoặc bằng 21 điểm.

Cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá về kiến thức chung sau sinh dựa trên

các nội dung về chăm sóc sau sinh trong 2 tuần đầu trong hướng dẫn quốc gia

về sức khỏe sinh sản. Kết quả của nghiên cứu này, tỷ lệ các bà mẹ đạt kiến thức

nói chung là 36,2% khá tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của Lê Thị

Vân là 35,4% tại Hải Dương năm 2003 [41]. Kết quả nghiên cứu này cao hơn

đánh giá về kiến thức sau sinh bà mẹ của tác giả Reza Sharaji (Iran) năm 2013

trên 316 bà mẹ, trong đó 78,5% các bà mẹ có kiến thức chăm sóc trẻ sơ sinh đạt

trung bình, 8,2% không đủ kiến thức, chỉ có 13,3% các bà mẹ có kiến thức đạt.

[95].

Kết quả tự đánh giá về kiến thức chăm sóc sau sinh của bà mẹ cho thấy:

phần lớn các bà mẹ cho rằng họ có đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh, troà cho

con trong đó các bà mẹ thành thị có tỷ lệ đánh giá đạt cao gấp 1,5 lần các bà mẹ

nông thôn (96,9% và 68%). Tuy nhiên, kết quả thu được lại quá thấp: kiến thức

đạt: 36,2% và thực hành đạt: 34,6%. Từ kết quả thu trên có thể thấy bà mẹ vẫn

mang tâm lý chủ quan cho rằng họ đã có đủ kiến thức chăm sóc cho bản thân và

cho con trong khi thực tế thì không phải như vậy.

Kết quả định tính cho thấy, các bà mẹ không cho rằng họ cần thêm những

kiến thức về chăm sóc cho bản thân và cho con. Hơn nữa, về mặt chiến lược,

công tác chăm sóc sau sinh còn bị buông lỏng, chưa được đặt xứng tầm so với

vai trò vốn có của nó. Hiện nay, kiến thức về chăm sóc sau sinh còn mang nặng

tính kinh nghiệm, truyền dạy trong gia đình, nhóm bạn bè, được tích lũy từ thế

hệ này sang thế hệ khác…

112

Kiến thức chăm sóc sau sinh của các bà mẹ thành thị nhìn chung là tốt

hơn các bà mẹ ở nông thôn. Các yếu tố tác động như cơ hội nhận thông tin,

người giúp đỡ, điều kiện kinh tế… tạo nên sự khác biệt này sẽ được phân tích

sâu hơn ở phần sau.

4.1.3. Thực hành về chăm sóc sau sinh của bà mẹ

4.1.3.1. Thực hành CSSS theo các nội dung chuyên biệt

- Thực hành của bà mẹ về chế độ vệ sinh-lao động:

Việt Nam có chính sách nghỉ sinh khá cao so với một số nước châu Á

(phổ biến là 12 tuần). Từ năm 2013, thời gian nghỉ sinh của bà mẹ ở Việt Nam

bắt đầu nâng lên thành 24 tuần và là một trong những quốc gia châu Á có thời

gian nghỉ sinh lâu nhất [87].

Công tác chăm sóc sau sinh thường quy ở Việt Nam, theo hướng dẫn

quốc gia về sức khỏe sinh sản, chăm sóc tuần đầu và sau sáu tuần đầu tiên sau

đẻ là do cán bộ y tế xã và y tế thôn bản thực hiện tại hộ gia đình hoặc tại trạm y

tế xã. Sau khi ra viện, bà mẹ trở về cộng đồng thực hiện các công việc chăm sóc

sức khỏe cho bản thân và cho con với sự trợ giúp của người thân [5],[9]. Về

thực hành theo 4 tiêu chí, thực hành lao động, vệ sinh: phần lớn các bà mẹ đã

được hưởng chế độ nghỉ ngơi sau đẻ với 90,6% bà mẹ không phải lao động,

87,8% ngủ đủ 8 giờ hoặc nhiều hơn/ngày. Không thấy có sự khác biệt giữa các

bà mẹ ở hai khu vực về vấn đề thực hành ăn, ngủ nghỉ trong thời gian sau đẻ.

Tuy nhiên, vấn đề vệ sinh sau đẻ còn khá nhiều bà mẹ thực hiện chế độ kiêng

khem. Kết quả cho thấy 24,4% các bà mẹ kiêng không tắm trong một thời gian,

và 34,4% các bà mẹ không vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày. Đây có thể là

nguyên nhân dẫn đến các nhiễm khuẩn hoặc các vấn đề về tuyến vú.

113

- Thực hành của bà mẹ về dinh dưỡng:

Về dinh dưỡng, thực hành của bà mẹ về uống bổ sung vitamin A và viên

sắt rất thấp. Chỉ có 0,4% các bà mẹ có sử dụng Vitamin A sau sinh và 15,8%

các bà mẹ uống đủ viên Sắt. Điều này cho thấy có sự thiếu hụt trong tư vấn sau

sinh cho các bà mẹ về bổ sung Sắt và Vitamin A cho bà mẹ sau sinh.

Việc nuôi con bằng sữa trong 6 tháng đầu là một mục tiêu của chương

trình Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM). Trong nghiên cứu này, tỷ lệ thực hành

cho bú của mẹ rất cao (97%). Kết quả của nghiên cứu này cao hơn nhiều số liệu

điều tra của trung tâm giáo dục truyền thông Bộ y tế (2001) là 43,3% NCBSM

trong 4 tháng đầu, tỷ lệ này của Nguyễn Thị Minh Hiếu tại Chí Linh, Hải

Dương là 21,8% [14]. Tuy nhiên có thể là do nghiên cứu chỉ tiến hành trong 4

tuần đầu sau sinh nên việc kết luận về nuôi con bằng sữa mẹ chưa đủ dữ kiện.

Cần có những nghiên cứu theo dõi dài hơn.

- Thực hành của bà mẹ về kế hoạch hóa gia đình

Tỷ lệ BPTT thấp (26,1%) có thể do thời điểm khảo sát khá sớm nên

nhiều bà mẹ chưa có sinh hoạt tình dục trở lại. Cũng không tìm thấy sự khác

biệt trong thực hành về KHHGĐ giữa hai nhóm bà mẹ tại hai địa bàn nghiên

cứu.

- Thực hành của bà mẹ về chăm sóc sức khỏe và phát hiện bệnh

Thực hành chăm sóc sức khỏe và phát hiện bệnh cho bà mẹ trẻ sơ sinh

được thể hiện qua tình trạng sức khỏe của họ.

Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ ở nông thôn gặp các vấn đề sức khỏe sau

sinh có xu hướng nhiều hơn bà mẹ/trẻ sơ sinh ở thành thị. Sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với các p<0,05.

114

4.1.3.2. Thực hành chung về CSSS

Theo thang điểm đánh giá về thực hành của bà mẹ (theo 4 tiêu chí) tại

nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ đạt về thực hành của bà mẹ trong nghiên cứu này

là 34,6% khá tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu khác. Ví dụ, nghiên

cứu của Lê Thị Vân ở Chí Linh Hải Dương năm 2003 là 35,4%, một nghiên cứu

khác trên 139 phụ nữ dân tộc Mông ở Thái Nguyên năm 2003 là 31,94% [24],

[41].

4.1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành chăm sóc sau

sinh của bà mẹ

Kết quả nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức và thực

hành về CSSS đạt của bà mẹ với các yếu tố về nhóm tuổi mẹ, thu nhập đầu

người/tháng và số con sống. Cụ thể, các bà mẹ tuổi trên 30, có thu nhập từ 3

triệu trở lên, có số con sống từ 2 con trở lên sẽ có nhiều khả năng đạt về kiến

thức và thực hành chăm sóc sau sinh. Kết quả này hơi khác với nghiên cứu của

tác giả Reza Sharafi tại Iran khi thấy tỷ lệ các bà mẹ có đủ kiến thức CSSS là

những bà mẹ có từ 2 con trở lên; sống ở thành thị và nằm trong độ tuổi <24

[95]. Nghiên cứu của Lê Thị Vân cũng chỉ ra yếu tố học vấn của bà mẹ cũng có

mối liên quan đến kiến thức và thực hành CSSS [41].

Mặc dù chỉ có ít tương đồng với các kết quả từ những nghiên cứu trước,

kết quả của nghiên cứu này có những lý giải rất xác đáng của các yếu tố liên

quan đến kiến thức và thực hành. Các bà mẹ có độ tuổi trên 30 tuổi có thể có

trải nghiệm cuộc sống tốt hơn các bà mẹ ở nhóm tuổi dưới 30 nên có nhiều kiến

thức về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Các bà mẹ có từ hai con trở lên có

kiến thức và thực hành tốt hơn do họ đã có trải nghiệm ở những lần sinh trước.

115

Đây cũng là những kinh nghiệm đã giúp các nhà chuyên môn có thể phân loại

đối tượng giáo dục, truyền thông trong khi thiết kế dịch vụ chăm sóc sau sinh.

Các bà mẹ, các cặp vợ chồng có con lần đầu cần được chú ý kỹ hơn vì họ hoàn

toàn thiếu và yếu về các kiến thức và kỹ năng chăm sóc sau sinh cơ bản. Điều

này cũng là những kiến nghị của một số nghiên cứu trước.

Kết quả kiểm tra cũng cho thấy kiến thức là yếu tố bảo vệ. Những bà mẹ

có kiến thức và CSSS đạt sẽ có hơn 7 lần cơ hội có thực hành CSSS đạt (Bảng

3.26). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với OR=0,14; CI: 0,09-0,2, p=0,000.

Tuy nhiên, kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ dựa trên

nguồn cung cấp thông tin chính thống, khoa học là từ cán bộ y tế thì quá ít

(46,5% đối với các bà mẹ thành thị và 37,4% đối với các bà mẹ nông thôn).

Trong khi đó, các thông tin không chính thống, mang nặng tính chủ quan như

Internet, mẹ đẻ, mẹ chồng, bạn bè ..lại có tỷ lệ khá cao trong cả hai nhóm bà

mẹ. Các nguồn khác như báo chí, sách giáo khoa…là nguồn cung cấp thông tin

khá hạn chế (7,9% trong nhóm các bà mẹ thành thị và 12,3% các bà mẹ nông

thôn). Đây cũng là những gợi ý khi xây dựng chiến lược giáo dục, truyền thông

về chăm sóc sau sinh cho các bà mẹ. Ngoài việc tăng cường các nguồn thông

tin thông qua các cán bộ y tế, cần có chiến lược giáo dục, tuyên truyền trong

cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng có ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của

bà mẹ về chăm sóc sau sinh.

Nghiên cứu này không tìm thấy mối liên quan của nghề nghiệp, trình độ

học vấn, đến kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ. Điều này có

thể giải thích bởi kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của bà mẹ chủ yếu

dựa trên “tích lũy- trải nghiệm- rút kinh nghiệm”. Nghĩa là không liên quan

nhiều đến giáo dục, đào tạo một cách chính thống. Ví dụ, một bà mẹ được

116

khuyên là không nên ăn cua sau khi sinh, nhưng thấy canh cua ngon quá thì ăn,

sau lần ăn đó bà mẹ bị rối loạn tiêu hóa. Lần sinh sau, bà mẹ này không dám ăn

canh cua nữa vì sợ trải nghiệm lần trước, mặc dù về mặt khoa học không có

chứng cứ là bà mẹ sau sinh không được ăn canh cua. Và nguyên nhân bà mẹ bị

ỉa chảy chưa chắc đã do ăn canh cua. “Tích lũy- trải nghiệm- rút kinh nghiệm”

còn được thể hiện khá rõ trong khi thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu các bà mẹ.

Các cụm từ: “lần trước”, “em nhớ lần đẻ đứa trước”…được lặp lại khá nhiều

khi đề cập đến chế độ ăn uống, nghỉ ngơi sau sinh của các bà mẹ.

Về tình trạng kinh tế và các điều kiện sinh hoạt khác như nguồn nước,

phòng riêng, điều kiện nhà ở nghiên cứu cũng không tìm thấy mối liên hệ nào

với kiến thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh.

4.1.5. Nhu cầu của bà mẹ về dịch vụ chăm sóc sau sinh

4.1.5.1. Khó khăn của bà mẹ trong chăm sóc sau sinh

Các bà mẹ đều phản hồi về những khó khăn họ gặp phải trong thời kỳ sau

sinh. Các bà mẹ nông thôn gặp nhiều khó khăn khi xử trí con sốt (56%), còn các

bà mẹ thành thị thì gặp khó khăn khi tắm cho bé (52,6%). Một số khó khăn

khác như xử trí như thế nào nếu con khóc đêm, đưa con đi tiêm chủng đúng

lịch..cũng là những khó khăn mà các bà mẹ phải đối mặt trong thời gian nghỉ

sinh.

4.1.5.2. Nhu cầu của bà mẹ giai đoạn sau sinh

Khảo sát nhu cầu của các bà mẹ cho thấy có sự thay đổi về thứ tự ưu tiên

các nhóm nhu cầu. Các nhu cầu thiết yếu về ăn uống, ngủ nghỉ, chế độ sinh hoạt

117

không đứng ở vị trị hàng đầu nữa mà thay vào đó là nhóm nhu cầu ở mức cao

hơn: được cung cấp thông tin, được chia sẻ thông tin.

Có 75,9% các bà mẹ muốn được cung cấp thông tin khoa học về chăm

sóc cho mẹ và con. Kết quả của khảo sát này trùng kết quả nghiên cứu của tác

giả Hidingsson IM tại Thụy điển trên 280 cặp vợ chồng lần đầu làm cha mẹ. Có

34% cặp vợ chồng cho rằng cán bộ y tế không tư vấn và giúp đỡ họ tìm kiếm

thông tin về chăm sóc sau sinh [64]. Nghiên cứu định tính của Katarina

Johansson, 2009 tại Thụy Điển, cho thấy nhu cầu ngay sau khi xuất viện của

các cặp vợ chồng mới có con lần đầu là được trang bị những kiến thức cơ bản

nhất như: cách cho con bú, khoảng cách giữa các lần cho bú và phát hiện các

dấu hiệu nguy hiểm….. [77].

Trong khi các nhu cầu của bà mẹ về chăm sóc sau sinh ngày càng cao và

có sự thay đổi trong nhóm nhu cầu mang tính khái quát cao hơn nhóm nhu cầu

cơ bản thì chăm sóc sau sinh thường quy hiện tại chưa đáp ứng được với nhu

cầu của các bà mẹ. Theo tác giả Lê Thị Vân, chất lượng khám sau sinh chỉ đơn

giản là các cuộc thăm viếng của cán bộ y tế xem diễn biến hậu sản thế nào, thực

hiện cắt khâu tầng sinh môn, còn việc tư vấn trong các lần khám thì hầu như

không chủ động trong khi các bà mẹ mới có con lúng túng, xấu hổ không biết

hỏi gì [41]. Điều này không chỉ xảy ra ở Việt Nam. Nội dung chăm sóc sau sinh

tại các quốc gia thường đặt nặng vấn đề kiểm tra sức khỏe hơn là cung cấp các

thông tin cần thiết cho bà mẹ về chăm sóc sau sinh. Nghiên cứu của Debbie

Singh và Mary Newburn tại Anh (1999-2000) về kinh nghiệm chăm sóc sau

sinh của bà mẹ cho thấy các bà mẹ mới sinh mong muốn được cung cấp các

thông tin về vận động, kiêng khem, dinh dưỡng, chăm sóc sơ sinh, lịch sinh

hoạt của trẻ trong ngày, cách dỗ trẻ khi trẻ khóc, trong khi các chăm sóc sau

118

sinh thường quy chỉ quan tâm đến khía cạnh sức khỏe [56]. Thiếu kiến thức về

chăm sóc sau sinh của bà mẹ là yếu tố cơ bản ngăn trở bà mẹ chăm sóc sức

khỏe cho họ và con họ một cách khoa học.

Sự khác biệt giữa nhu cầu chăm sóc và nội dung chăm sóc có thể dẫn đến

sự thiếu hụt về lượng và chất trong CSSS. Nhu cầu của bà mẹ trong giai đoạn

chăm sóc sau sinh cần được chú ý nhiều hơn để rút ngắn khoảng cách giữa nhu

cầu và đáp ứng nhu cầu từ phía y tế.

4.1.5.3. Nhu cầu của bà mẹ về dịch vụ chăm sóc tại nhà

Nhu cầu của xã hội về dịch vụ chăm sóc sau sinh tại nhà bởi cán bộ y tế

là điều có thể dễ nhận thấy với tỷ lệ 100% các bà mẹ thành thị và 78% các bà

mẹ nông thôn cho rằng cần thiết phải có thăm khám của cán bộ y tế thời kỳ sau

sinh. Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc tại nhà của các bà mẹ ở thành thị nhiều hơn

ở nông thôn có thể giải thích là do các bà mẹ ở thành thị có thể được biết đến

dịch vụ này từ trước qua bạn bè, Internet, hoặc qua cán bộ y tế. Với điều kiện

tiếp cận thông tin hạn chế hơn, các bà mẹ nông thôn vẫn còn e ngại với dịch vụ.

Kết quả này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu ở Mali, nơi có 24,2% phụ

nữ cho rằng không cần sử dụng bất cứ một dịch vụ nào về chăm sóc sau sinh

[79].

Các lý do từ chối dịch vụ tại nhà được liệt kê, bao gồm giá đắt: 32,4%,

nhà xa: 29,7%. Tính cộng đồng, thích nghi với “cái đã quen”, và tiếp thu kinh

nghiệm từ những thế hệ trước đã trở thành một tập quán chăm sóc sau sinh của

các bà mẹ nông thôn khi có tới 43,2% các bà mẹ từ chối dịch vụ do đã mời bác

sỹ mà họ quen về khám giúp. Chưa thấy có lý do nào có liên quan đến việc e

ngại trình độ của nhân viên y tế hay chất lượng của dịch vụ.

119

4.2. Đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh

giai đoạn sau sinh tại hai bệnh viện được chọn.

4.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Số lượng của nhóm can thiệp là 519 bà mẹ, trong đó có 461 bà mẹ sinh

con tại bệnh viện Phụ sản trung ương và 58 bà mẹ sinh con tại bệnh viện đa

khoa Ba Vì là phù hợp và có thể chọn được trong thời gian 2 tháng tương ứng

với số đẻ đăng ký hằng tháng tại hai bệnh viện khoảng 1600 và 200.

Đặc điểm của nhóm can thiệp và nhóm chứng khá tương đồng do đã

được ghép cặp theo nhóm tuổi mẹ, số con sống và thu nhập bình quân hàng

tháng. Bà mẹ ở hai nhóm có đặc điểm khá tương đồng nhau, chủ yếu trong độ

tuổi từ 20-29, có thu nhập từ 3 đến 10 triệu đồng, số con sống trung bình là

1,55, số bà mẹ có con đầu lòng và số bà mẹ đã có từ 2 con trở lên khá tuong

đồng là 51% và 49%. Sự tương đồng giữa hai nhóm cho phép loại trừ các sai số

do không lựa chọn ngẫu nhiên, bù đắp cho hạn chế của 1 thiết kế nghiên cứu

phỏng thực nghiệm có đối chứng và so sánh trước sau.

4.2.2. Đặc điểm của lần sinh tại thời điểm nghiên cứu

Như đã trình bày, do điều kiện chọn mẫu là những bà mẹ có thời gian

nằm viện >24 giờ nên tỷ lệ mổ đẻ khá cao so với thục tế ở hai bệnh viện: chiếm

77,4%. Tuy nhiên, kết quả này không làm ảnh hưởng đến kiến thức và thực

hành của các bà mẹ do hai nhóm cùng được chọn từ một quần thể nghiên cứu.

Nhìn chung, đặc điểm của lần sinh tại thời điểm nghiên cứu khá đồng

nhất giữa hai nhóm. Bà mẹ có bệnh lý cần theo dõi chiếm tỷ lệ nhỏ: 8%. Trẻ

sinh non và bệnh lý cũng thấp: chiếm <10%. Đây cũng là một ưu điểm để xây

dựng can thiệp sau này. Can thiệp sẽ tập trung phục vụ những nhu cầu thiết yếu

120

nhất của bà mẹ và trẻ sơ sinh, ít phải thiết kế những nhu cầu chăm sóc đặc biệt

dành cho nhóm trẻ hoặc nhóm bà mẹ đặc biệt.

Thời gian nằm viện trung bình là 2,6, dài hơn giá trị này trong nghiên

cứu cắt ngang do tỷ lệ mổ đẻ cao hơn nên thời gian nằm viện của các bà mẹ

cũng dài hơn (77,4% so với 60,9% trong nghiên cứu cắt ngang).

4.2.3. Điều kiện sinh hoạt sau sinh của bà mẹ

Bà mẹ có điều kiện sinh hoạt tốt sau khi sinh. Tỷ lệ được dùng nước

sạch, có phòng sinh hoạt riêng, có nhà vệ sinh tiêu chuẩn đều cao hơn 90%.

Điều này cũng là một thuận lợi để tiến hành can thiệp chăm sóc sau sinh tại nhà

do loại bỏ được các yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng đến kết quả chăm sóc như:

nguồn nước sinh hoạt nhiễm khuẩn có thể gây bệnh cho da trẻ sơ sinh, nhà vệ

sinh không đạt chuẩn có thể gây một số bệnh về đường ruột cho bà mẹ, sinh

hoạt trong phòng chung có thể ảnh hưởng đến tiếp thu của bà mẹ khi cán bộ y tế

đến thăm khám và tư vấn.

Có đến 98,7% bà mẹ có người giúp đỡ sau khi sinh. Đây chính là một

yếu tố vừa là thuận lợi và là bất lợi đến kiến thức, thực hành về chăm sóc sau

sinh của bà mẹ trong điều kiện, kiến thức và thực hành CSSS đang chịu nhiều

ảnh hưởng của tập quán cộng đồng. KAP của bà mẹ về CSSS cũng chịu nhiều

ảnh hưởng của người giúp đỡ chính.

4.2.4. Hiệu quả của mô hình đến kiến thức về CSSS của bà mẹ

Thiết kế mô hình can thiệp tại nhà về chăm sóc sau sinh nhìn chung đã

đáp ứng nhu cầu của bà mẹ mà các chăm sóc sau sinh thường quy hiện tại chưa

làm được. Cụ thể là trong mô hình can thiệp, bà mẹ ngoài việc được chăm sóc

về sức khỏe, thực hành tắm bé còn được tư vấn về chăm sóc con, nuôi con bằng

121

sữa mẹ và các biện pháp KHHGĐ. Thời gian thực hiện ngay sau khi bà mẹ ra

viện trở về cộng đồng được đánh giá là kịp thời hơn so với thăm khám thường

quy. Nghiên cứu của Lê Thị Vân, thời gian khám sau sinh thường quy là 9,6

ngày. Một khảo sát hộ gia đình tại Quảng Xương, Thanh Hóa về làm mẹ an

toàn năm 2000 thời gian khám sau sinh trung bình thường quy là 10,4 ngày.

Thời gian thăm khám như vậy được đánh giá là quá muộn vì đa số các biến cố

về sức khỏe xảy ra trong tuần đầu tiên sau đẻ [41],[92].

Sau khi áp dụng mô hình can thiệp CSSS tại nhà đã có tác động tích cực

đến kiến thức về CSSS của bà mẹ. Kiến thức chung về CSSS của bà mẹ nhóm

can thiệp đã tăng cao hơn nhiều so với trước can thiệp với CSHQ là 45,4%.

Đồng thời sau can thiệp kiến thức CSSS của bà mẹ nhóm can thiệp tăng rõ rệt

so với bà mẹ nhóm chứng với HQCT là 37,2%. Hiệu quả can thiệp về kiến thức

CSSS đã được đánh giá trên 4 nhóm bao gồm: phát hiện các dấu hiệu bệnh; vệ

sinh, lao động; dinh dưỡng tiết chế và kế hoạch hóa gia đình.

Kết quả cho thấy sau can thiệp kiến thức của các bà mẹ ở nhóm can thiệp

về CSSS đã tăng rõ rệt so với trước can thiệp với CSHQ dao động từ 40,3% đến

89,8%. Đồng thời kiến thức của các bà mẹ ở nhóm can thiệp được nâng cao hơn

so với kiến thức về CSSS của các bà mẹ thuộc nhóm chứng với HQCT từ

29,7% đến 60,5%.

4.2.5. Hiệu quả của mô hình đến thực hành CSSS của bà mẹ

Mô hình chăm sóc tại nhà đã có tác động làm thay đổi thực hành chung

của bà mẹ về chăm sóc sau sinh. Sau can thiệp, thực hành của các bà mẹ nhóm

can thiệp tốt hơn so với trước can thiệp với CSHQ là 50,8%. Bên cạnh đó, kết

122

quả cũng cho thấy thực hành chung về CSSS của các bà mẹ nhóm can thiệp tốt

hơn so với nhóm chứng với HQCT là 39,9%.

Can thiệp cũng tác động tích cực đến thực hành cụ thể của các bà mẹ về

CSSS. Sau can thiệp tỷ lệ các bà mẹ cho con bú hoàn toàn ở nhóm can thiệp

tăng hơn so với trước can thiệp trong vòng tháng đầu sau sinh; tỷ lệ bà mẹ uống

thêm viên sắt sau đẻ tăng so với trước can thiệp trong thời gian chăm sóc sau

sinh tại nhà. Kết quả này cũng thống nhất với một số nghiên cứu khác trên thế

giới về tác động tích cực của mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà lên thực hành

của bà mẹ. Một nghiên cứu can thiệp tại Băngladesh năm 2002 và 2004 trên

3110 cặp mẹ con tại 10 xã nông thôn cho thấy sau hai năm tiến hành can thiệp

chăm sóc sau sinh, tỷ lệ trẻ được ủ ấm tăng từ 14% (2002) lên 55% (2004);

76,2% được bú mẹ so với khảo sát ban đầu là 38,6% [45].

Sau can thiệp các bà mẹ đã thực hành CSSS tốt hơn, tỷ lệ các bà mẹ có

thực hành CSSS đúng đã được tăng cao. Điều đó cho thấy, mô hình can thiệp

CSSS tại nhà đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mô hình này là một mô

hình có hiệu quả giúp nâng cao kiến thức về CSSS, đồng thời tăng cường thực

hành đúng về CSSS cho các bà mẹ, góp phần nâng cao sức khỏe cho bà mẹ và

trẻ sơ sinh.

4.2.6. So sánh sự thay đổi về trung bình điểm kiến thức và thực hành chung về CSSS của bà mẹ sau can thiệp Sử dụng t test ghép cặp để kiểm định sự thay đổi về trung bình điểm kiến

thức CSSS của bà mẹ. Kết quả cho thấy trung bình điểm kiến thức chung của bà

mẹ trước can thiệp khá thấp (20,5 điểm/ 42 điểm). Sau can thiệp đã tăng lên 1,6

điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp ( p< 0.001). Can

123

thiệp chăm sóc tại nhà cũng làm tăng tổng điểm về thực hành chăm sóc sau sinh

của bà mẹ có ý nghĩa thống kê với mức chênh gần 1 điểm so với trước can

thiệp. Kết quả này cũng phù hợp với thực tế là những thay đổi về thực hành đòi

hỏi phải có thời gian dài hơn những thay đổi về mặt kiến thức. Tuy nhiên,

những thay đổi về kiến thức lại là tiền đề cho những thay đổi về hành vi.

Nhìn chung, can thiệp đã tạo ra sự thay đổi về kiến thức và thực hành của

bà mẹ về chăm sóc sau sinh, đặc biệt có thể thấy sự thay đổi rõ về mặt bằng

kiến thức chung trước và sau can thiệp. Tuy điểm cách biệt trước và sau can

thiệp chưa nhiều (cao nhất là 1,6 điểm) nhưng là tín hiệu khả quan cho việc tiến

hành can thiệp mang tính sâu rộng tại các địa bàn khác nhau.

4.2.7. Đánh giá về chất lượng dịch vụ

Nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ chăm sóc tại nhà bằng cách hỏi về

phản hồi của bà mẹ đã sử dụng dịch vụ. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% các

bà mẹ trong nhóm can thiệp đánh giá mô hình CSSS tại nhà là có hiệu quả và

thái độ của cán bộ y tế ân cần khi cung cấp dịch vụ. Đa số bà mẹ cho rằng giá

dịch vụ vừa phải và hợp lý. Đây là mô hình tốt có thể triển khai rộng rãi tại

cộng đồng. Để triển khai mô hình này thì các nhóm cán bộ y tế gồm: bác sỹ, nữ

hộ sinh tham gia thành các tổ đội đến khám và chăm sóc sau sinh tại nhà cho

các bà mẹ trong giai đoạn sau sinh từ khi xuất viện cho đến khi 42 ngày sau

sinh.

Mô hình cần được triển khai rộng rãi, đặc biệt là tại địa bàn nông thôn, các

cơ sở y tế tuyến huyện để giúp các bà mẹ có thể tiếp cận một cách tốt nhất với

các kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh. Đồng thời giảm tải cho khu vực

y tế tuyến trung ương.

124

Ngoài những nội dung chăm sóc cho bà mẹ và trẻ sơ sinh theo hướng dẫn

quốc gia về sức khỏe sinh sản, các một số nội dung khác: gói dịch vụ chăm sóc

da em bé, gói dịch vụ massage làm giảm mỏi cơ và phục hồi cơ bụng cho mẹ, ...

4.2.8. Các yếu tố thuận lợi và cản trở khi thực hiện mô hình

4.2.8.1.Các yếu tố thuận lợi

Yếu tố thuận lợi đầu tiên và cơ bản nhất can thiệp dựa vào nội dung chăm

sóc sau sinh của hướng dẫn quốc gia về sức khỏe sinh sản. Can thiệp được sự

ủng hộ của Ban giám đốc hai bệnh viện nơi tiến hành nghiên cứu. Vì vậy khi áp

dụng không bị lúng túng. Ban giám đốc bệnh viện Ba Vì kỳ vọng, nếu nghiên

cứu can thiệp thành công về dịch vụ CSSS có thể là gợi ý để mở rộng các hoạt

động thăm khám tại nhà như thay băng, cắt chỉ và theo dõi các trường hợp phẫu

thuật ngoại khoa đã ra viện.

Về trang thiết bị chuyên môn, do thiết bị khám lưu động khá đơn giản,

chỉ bao gồm 01 máy siêu âm và 01 hộp dụng cụ có gía trị khoảng 180 triệu

đồng, hoàn toàn nằm trong khả năng thanh toán của một đơn vị đầu tư y tế cấp

huyện.

Về con người: Yếu tố con người vô cùng quan trọng vì nó giúp duy trì hệ

thống. Ngoài chuyên môn giỏi, cán bộ y tế tham gia chăm sóc sau sinh tại nhà

cần phải có thêm các kiến thức về xã hội, có kỹ năng giao tiếp tốt, phải chân

thành và cởi mở mới có thể làm các bà mẹ cảm thấy tin tưởng. Mô hình triển

khai dịch vụ này tại Bệnh viện Phụ sản trung ương giao cho đơn vị chăm sóc tại

nhà, Bệnh viện Đa khoa Ba Vì phân công kiêm nhiệm cho khoa Sản. Nhân viên

tham gia dịch vụ được tập huấn về chuyên môn và kỹ năng tư vấn, có thể tham

gia hoạt động dịch vụ ngay được.

125

4.2.8.2. Các yếu tố cản trở

Về phương tiện vận chuyển, xe máy vẫn là lựa chọn tốt nhất vì có thể chủ

động và phù hợp với địa bàn nông thôn hơn là ô tô.

Về sự hợp tác của cộng đồng , chúng ta cần xây dựng các chiến lược giáo

dục, tuyên truyền cho cộng đồng về dịch vụ chăm sóc tại nhà. Có thể in và phát

các tài liệu liên quan đến dịch vụ này. Ví dụ như bản hướng dẫn: “những điều

gia đình và sản phụ cần biết khi đăng ký dịch vụ thăm khám tại nhà”

Ở địa bàn nông thôn, có thể kết hợp với các chương trình truyền thông

khác giáo dục cho gia đình, đặc biệt là những thành viên như bà nội, bà ngoại,

chồng là những người có ảnh hưởng nhiều nhất đến thực hành của bà mẹ về

chăm sóc sau sinh một cách khoa học.

4.3. Bàn luận về phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thiết kế để đạt được hai mục tiêu: mô tả thực trạng về

kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ, và đánh giá hiệu quả mô

hình chăm sóc tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh giai đoạn sau sinh tại 2 bệnh

viện được chọn. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang trên hai địa bàn khác biệt: thành

thị và nông thôn giúp mô tả thực trạng về kiến thức, thực hành của các bà mẹ về

chăm sóc bản thân và chăm sóc con thời kỳ sau sinh. Đây cũng là tiền đề để xây

dựng thiết kế nghiên cứu can thiệp sau này. Trong nghiên cứu cắt ngang, phần

thiết kế định tính giúp nghiên cứu viên hiểu rõ thêm về tập quán chăm sóc sau

sinh của các bà mẹ cũng như những nhu cầu của bà mẹ (dù là nhỏ nhất) trong

giai đoạn này. Đây cũng chính là một điểm mạnh của nghiên cứu.

Thiết kế nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau được sử dụng, tuy nhiên

để tránh vi phạm đạo đức nghiên cứu (quan niệm rằng các bà mẹ được quyền sử

126

dụng dịch vụ chăm sóc sau sinh như nhau), các đối tượng thuộc hai nhóm

không được tuyển chọn ngẫu nhiên. Đây chính là sự khác biệt duy nhất của

thiết kế sử dụng cho nghiên cứu này với thiết kế thử nghiệm lâm sàng ngẫu

nhiên có đối chứng [83]. Quy trình chọn mẫu theo trình tự: tất cả các bà mẹ đều

được tư vấn về dịch vụ chăm sóc sau sinh (ở phòng đẻ) sau đó họ sẽ tự quyết

định xem có đăng ký dịch vụ chăm sóc sau sinh hay không. Trong trường hợp

không được lựa chọn ngẫu nhiên, nghiên cứu sẽ phải đối mặt với các sai số do

chọn mẫu. Các sai số do đối tượng không được phân bổ ngẫu nhiên (sai số do

chọn mẫu) chỉ có thể bị loại bỏ bởi hai phương pháp: hoặc so sánh sự tương

đồng của hai nhóm trước khi can thiệp, hoặc chọn mẫu ghép cặp [37], [97].

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chọn phương pháp ghép cặp theo độ

tuổi mẹ, thu nhập và số con (theo kết quả của nghiên cứu cắt ngang) để đảm

bảo không có sự khác biệt giữa hai nhóm có thể ảnh hưởng đến đánh giá về

hiệu quả can thiệp.

Cỡ mẫu lấy đủ theo theo thiết kế ban đầu trong cả hai nghiên cứu nên rất

thuận lợi cho quá trình phân tích số liệu. Các dịch vụ chăm sóc sau sinh thống

nhất giữa hai bệnh viện theo nội dung chăm sóc sau sinh của Hướng dẫn quốc

gia về sức khỏe sinh sản 2009. Các cán bộ tham gia dịch vụ đều có chuyên môn

tốt và được tập huấn về tư vấn.

Bệnh viện Phụ sản trung ương được lựa chọn có chủ đích chứ không phải

ngẫu nhiên theo lý do tác giả đã trình bày trong phần địa điểm nghiên cứu

Do thời gian can thiệp ngắn nên nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc tìm

hiểu sự khác biệt về kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh chứ

khi tiến hành can thiệp chứ chưa đi sâu khai thác tác động của can thiệp lên các

kết quả sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh như làm giảm tỷ lệ tử vong mẹ-con,

127

hay làm giảm tỷ lệ vàng da, suy dinh dưỡng ở trẻ hay thực hành của bà mẹ về

kế hoạch hóa gia đình.

Một số khiá cạnh nghiên cứu chưa được khai thác trong nghiên cứu này

như sự khác biệt về thời điểm khám thai lần đầu, hoặc so sánh các gói can thiệp

khác nhau về lượng thời gian can thiệp (trong tuần đầu tiên, 6 tuần, hoặc 6

tháng đầu sau đẻ).

128

KẾT LUẬN

1. Thực trạng kiến thức, thực hành và nhu cầu chăm sóc sau sinh của bà

mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện Ba Vì

Kiến thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh còn nhiều hạn chế.

- Về kiến thức chăm sóc sau sinh nói chung chỉ có 36,2% bà mẹ đạt yêu cầu,

trong đó kiến thức phát hiện dấu hiệu bệnh cao nhất chiếm 38%, tiếp theo là

kiến thức về kế hoạch hóa gia đình chiếm 33,8%; vệ sinh, lao động: 21,7%.

Kiến thức về dinh dưỡng đạt thấp nhất: 13%.

- Về thực hành chăm sóc sau sinh chỉ có 34,6% các bà mẹ đạt. Có 34,4% các

bà mẹ không vệ sinh vú và âm hộ hàng ngày, 24,4% các bà mẹ kiêng không

tắm, tỷ lệ uống bổ sung viên sắt và Vitamin A sau sinh rất thấp (15,8% và

0,4%).

- Các vấn đề sau sinh mà bà mẹ thường gặp nhất là: đau và ra máu (17,4%),

các vấn đề tuyến vú (10,1%) và nhiễm khuẩn (9,3%). Trẻ em thường gặp

nhất vấn đề về vàng da (3,5%). Bà mẹ và trẻ sơ sinh trong nhóm nông thôn

gặp các vấn đề về sức khoẻ nhiều hơn trong nhóm thành thị.

- Tuổi bà mẹ, số con sống là những yếu tố tác động đến kiến thức và thực

hành về chăm sóc sau sinh. Các bà mẹ trên 30 tuổi, đã sinh con lần thứ 2 trở

lên có kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh tốt hơn. Bà mẹ có kiến thức

về chăm sóc sau sinh kém thì có hơn 7 lần nguy cơ có thực hành về chăm

sóc sau sinh không đạt.

- Nhu cầu được cung cấp thông tin khoa học về chăm sóc cho mẹ và con

chiếm tỷ lệ cao nhất: 75,9%. Tiếp theo là các nhu cầu về kiểm tra sức khỏe

129

sau sinh: 66,4%, được quan tâm chia sẻ: 55,9%. và chăm sóc con tốt là

55,5%.

2. Hiệu quả của mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ

sinh:

Mô hình CSSS tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh được tiến hành tại hai bệnh

viện trong thời gian 10 ngày sau sinh đã có tác động tốt đến kiến thức và thực

hành của bà mẹ về CSSS.

- Kiến thức chung về CSSS được nâng cao với chỉ số hiệu quả là 45,4%. Hiệu

quả tăng rõ rệt trong nhóm vệ sinh- lao động với chỉ số hiệu quả là: 89,8%.

- Thực hành CSSS đúng tăng từ 36,4% lên 54,9% trong nhóm can thiệp.

- Can thiệp làm tăng 1,6 điểm trung bình kiến thức và gần 1 điểm trung bình

về thực hành về CSSS của các bà mẹ.

- Mô hình CSSS tại nhà được chấp nhận tại cộng đồng với tỷ lệ 100% các bà

mẹ đánh giá về tính hiệu quả của mô hình.

- Mô hình đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về tư vấn, cung cấp thông tin của bà

mẹ sau sinh; thời điểm ngay sau xuất viện là hợp lý, có thể triển khai tại cấp

huyện với kinh phí đầu tư thấp. Nhược điểm của mô hình là thời gian chờ

đến lượt chăm sóc dài, sự phối hợp của gia đình chưa tốt, bà mẹ chưa chủ

động hỏi cán bộ y tế các thông tin về chăm sóc sau sinh.

130

KIẾN NGHỊ

1. Nhân rộng mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh ở

các tuyến:

Mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà có thu phí trong thời gian 10 ngày sau

sinh có thể được tổ chức triển khai từ các bệnh viện tuyến huyện trở lên. Nộ

Đây là dịch vụ có thu phí, do cán bộ y tế đảm nhiệm, bao gồm thăm khám y

tế và tư vấn. Nội dung của chăm sóc theo Hướng dẫn quốc gia về các dịch

vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản do Bộ y tế ban hành năm 2009.

2. Gợi ý xây dựng đào tạo “bác sỹ gia đình” để chuyên môn hóa hình thức

chăm sóc tại cộng đồng trong thời gian tới

Có thể kiến nghị Bộ y tế nghiên cứu mở thêm hình thức đào tạo bác sỹ gia

đình để chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ y tế cung cấp cho mô hình này.

3. Các nghiên cứu tiếp theo

Cần tiến hành các nghiên cứu về mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà với thời

gian chăm sóc dài hơn hoặc tiến hành dựa vào cộng đồng để đánh giá sự

thay đổi lên tình trạng sức khỏe hoặc dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ sơ sinh.

131

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phạm Phương Lan, Vương Tiến Hòa, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Tuấn Hưng (2011), “ Kiến thức, thực hành, và nhu cầu chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện đa khoa Ba Vì”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXI, số 7 (125), Tr.165-174.

2. Phạm Phương Lan, Vương Tiến Hòa, Nguyễn Thị Thùy Dương, Lê Anh Tuấn (2012), “Hiệu quả mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà cho các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện Ba Vì”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXII, số 6 (133), Tr.124-132.

3. Phạm Phương Lan, Nguyễn Thị Thùy Dương, Vương Tiến Hòa (2013), “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và Bệnh viện Ba Vì năm 2011”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIII, số 7 (143), Tr.110-116