BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 

HỒ THỊ OANH

NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO, XÁC ĐỊNH HÌNH THÁI, CẤU

TRÚC, TÍNH CHẤT CÁC HỆ NANO CHỨA MỘT SỐ HỢP CHẤT LYCOPEN, RESVERATROL VÀ

PYCNOGENOL Chuyên ngành: Hóa hữu cơ Mã số : 9.44.01.14

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC

HÀ NỘI – 2021

Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ

– Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Hoàng Mai Hà

TS. Đặng Thị Tuyết Anh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sỹ, họp

tại Học viện Khoa học và Công nghệ-Viện Hàn lâm Khoa học và

Công nghệ Việt Nam vào hồi.....giờ.....ngày....tháng......năm 2021

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Ngày nay, theo xu hướng sử dụng các nguồn nguyên liệu tự nhiên, các

hợp chất có hoạt tính sinh học cao như lycopen, resveratrol, pycnogenol,...

được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, chiết tách và ứng

dụng một cách rộng rãi.

Lycopen là một hợp chất thuộc nhóm carotenoid có hoạt tính chống oxy

hóa cực mạnh, có tác dụng mạnh mẽ trong việc phòng chống ung thư, các

bệnh tim mạch, xơ hóa gan và đóng vai trò quan trọng đối với hệ miễn dịch.

Resveratrol là một stilbenoit kháng độc tố tự nhiên, tiềm năng ứng dụng của

hợp chất là khả năng chống viêm, chống oxy hóa, chữa lành vết thương,

chống vi khuẩn và chống ung thư. Pycnogenol được biết đến là một hỗn

hợp flavonoid quý cũng có khả năng chống oxy hóa và chống viêm nổi

tiếng. Hợp chất giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, bảo vệ tế bào thần

kinh, kiểm soát các cơn đau và chống lại các gốc tự do.

Mặc dù có nhiều hoạt tính sinh học quý nhưng hầu hết các hợp chất nêu

trên được xếp vào nhóm hợp chất có độ tan trong nước rất thấp và khó hấp

thu hiệu quả vào cơ thể, do vậy sinh khả dụng bị hạn chế. Để khắc phục

những nhược điểm về độ hòa tan và độ bền, việc nghiên cứu chế tạo các

hợp chất sinh học tự nhiên dưới dạng hạt nano hứa hẹn sẽ tạo ra những

nguồn dược liệu quý ứng dụng cho các ngành dược phẩm và mỹ phẩm.

Mặt khác, sự kết hợp giữa các hợp chất cho sản phẩm tổ hợp có tác dụng

hiệp đồng, mang lại hoạt tính sinh học cao hơn so với việc sử dụng từng

hợp chất riêng rẽ. Hai hợp chất resveratrol và pycnogenol được biết đến là

các hợp chất sinh học có tác dụng tăng độ bền và tăng khả năng phân tán

trong nước cho các hợp chất thuộc nhóm carotenoit có nhiều liên kết đôi

liên hợp như lycopen. Tuy nhiên cho tới nay, các nghiên cứu mới chỉ dừng

lại ở việc chế tạo hỗn hợp compozid của các hợp chất mà chưa có công

trình công bố chế tạo hệ nano, đặc biệt là hệ nano lycopen/resveratrol và hệ

nano lycopen/pycnogenol. Chính bởi vậy, nghiên cứu chế tạo hai hệ nano

1

này là một hướng nghiên cứu mới và cần thiết.

Do đó, việc thực hiện đề tài luận án: “Nghiên cứu chế tạo, xác định hình

thái, cấu trúc, tính chất các hệ nano chứa một số hợp chất lycopen,

resveratrol và pycnogenol” có tính thời sự, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn

cao.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

- Chiết tách được lycopen từ quả gấc, resveratrol từ cốt khí củ và tổng

hợp được copolyme PLA-PEG làm nguyên liệu cho quá trình chế tạo các

dạng hạt nano;

- Chế tạo được dạng hạt nano và hệ hạt nano như: nano lycopen, nano

resveratrol và hệ nano lycopen/resveratrol, hệ nano lycopen/pycnogenol.

Xác định được hình thái và cấu trúc của các vật liệu nano thu được;

- Đánh giá được độ bền của các vật liệu nano trong các điều kiện bảo

quản và môi trường khác nhau.

3. Các nội dung nghiên cứu chính của luận án

- Nghiên cứu chiết tách lycopen từ quả gấc và resveratrol từ cốt khí củ.

Nghiên cứu các điều kiện thích hợp và phương pháp chiết tách các hợp

chất. Xác định cấu trúc và độ tinh khiết của lycopen và resveratrol sau quá

trình chiết tách;

- Nghiên cứu tổng hợp copolyme PLA-PEG sử dụng làm chất bao bọc

vi nang cho các hệ nano tổ hợp chứa lycopen;

- Nghiên cứu chế tạo nano lycopen, nano resveratrol có khả năng phân

tán tốt trong nước. Xác định hình thái, cấu trúc, tính chất của các mẫu nano

bằng các phương pháp phân tích hiện đại. Khảo sát độ bền của bột nano

trong các điều kiện bảo quản và môi trường khác nhau;

- Nghiên cứu chế tạo hệ nano lycopen/resveratrol và hệ nano

lycopen/pycnogenol. Xác định hình thái, cấu trúc và tính chất của các mẫu

nano bằng các phương pháp phân tích hiện đại. Nghiên cứu độ bền của

lycopen trong các hệ nano theo thời gian bảo quản ở các điều kiện khác

nhau.

2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

Tổng quan gồm 3 phần chính: Phần 1 tổng quan về các đối tượng nghiên

cứu là các hợp chất sinh học tự nhiên như lycopen từ trái gấc, resveratrol từ

cốt khí củ và pycnogenol từ cây thông đỏ. Quá trình thu thập, tìm hiểu và

nghiên cứu về các hợp chất trên cho thấy sinh khả dụng của chúng bị hạn

chế do tính chất kém tan và kém bền. Công nghệ nano được đánh giá là một

giải pháp hữu hiệu trong việc nâng cao khả năng phân tán, cải thiện sự hấp

thu, tăng cường dược tính và nâng cao độ bền cho các hợp chất sinh học tự

nhiên. Do đó, phần 2 tổng quan về phương pháp nghiên cứu chế tạo dạng

nano của các hợp chất tự nhiên. Phần 3 trình bày tình hình nghiên cứu trong

nước và trên thế giới về dạng hạt nano của các hợp chất có hoạt tính sinh

học, cụ thể là nano lycopen, nano resveratrol và hệ nano

lycopen/resveratrol, hệ nano lycopen/pycnogenol.

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM

2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Nguyên vật liệu và hóa chất

2.1.2. Dụng cụ và thiết bị

2.2. Thực nghiệm

2.2.1. Chiết tách các hợp chất tự nhiên lycopen và resveratrol sử dụng

làm nguyên liệu cho quá trình chế tạo các dạng hạt nano của chúng

2.2.2. Tổng hợp copolyme PLA-PEG

2.2.3. Nghiên cứu chế tạo các hệ nano chứa một số hợp chất lycopen,

resveratrol và pycnogenol

2.2.3.1. Chế tạo nano lycopen và nano resveratrol

Lycopen hoặc resveratrol với các hàm lượng khác nhau cùng chất hoạt

động bề mặt là tween 80 và cremophor RH40 được hòa tan hoàn toàn trong

dung môi hữu cơ bằng máy khuấy từ trong 30 phút. Dung dịch sau đó được

nhỏ từ từ từng giọt vào 100 ml nước cất có chứa PEG 6000, đồng thời

khuấy đều ở tốc độ 9000 vòng/phút trong vòng 15 phút để thu được dung

3

dịch hỗn hợp đồng nhất. Tiếp tục tạo bột nano bằng phương pháp sấy phun.

Lắp đặt máy và cài đặt chương trình chạy cho máy, sau khi sấy phun thu

mẫu và vệ sinh máy. Các sản phẩm nano thu được đều ở dạng bột mịn và

tơi. Nano lycopen thu được có màu đỏ tươi còn nano resveratrol thu được

có màu trắng ngà.

2.2.3.2. Chế tạo hệ nano tổ hợp chứa lycopen

 Chế tạo hệ nano lycopen/resveratrol

Lycopen và resveratrol được phối trộn với các tỷ lệ khác nhau lần lượt

là 1:2, 1:1 và 2:1, sau đó thêm các chất hoạt động bề mặt và chất bao bọc vi

nang copolyme tổng hợp ở trên, hòa tan các thành phần trong dung môi

tetrahyđrofuran sử dụng máy đồng nhất Ultra-Turrax với tốc độ 8400

vòng/phút trong 45 phút; hỗn hợp sau khi đã hòa tan hoàn toàn được bổ

sung từ từ vào dung dịch nước cất đồng thời khuấy đều ở tốc độ 9000-

10000 vòng/phút trong khoảng thời gian 30 phút. Dung dịch hệ nano

lycopen/resveratrol trong nước sau đó được đưa vào hệ thống máy sấy

phun, thu được bột nano lycopen/resveratrol có màu đỏ mận.

 Chế tạo hệ nano lycopen/pycnogenol

Lycopen và pycnogenol được phối trộn với các tỷ lệ khác nhau, sau đó

thêm chất hoạt động bề mặt Tween 80, các thành phần hòa tan hoàn toàn

trong dung môi tetrahydrofuran (THF) bằng máy khuấy từ, trong thời gian

là 60 phút. Dung dịch thu được được nhỏ từ từ vào dung dịch nước cất có

chứa copolyme PLA-PEG trong điều kiện khuấy 9000 vòng/phút, thời gian

30 phút. Tiếp theo, hỗn hợp đồng nhất đưa vào hệ thống cất quay chân

không để loại dung môi THF. Hệ nano lycopen/pycnogenol trong nước sau đó được làm lạnh ở -54oC. Sau thời gian 24 giờ đóng đá, mẫu lycopen/pycnogenol được chuyển vào hệ thống thiết bị đông khô. Cuối

cùng, thu được bột nano lycopen/pycnogenol mịn, tơi và có màu đỏ tươi.

2.2.4. Nghiên cứu các phương pháp tạo bột nano

- Phương pháp sấy phun.

- Phương pháp đông khô.

4

2.2.5. Các phương pháp phân tích định lượng

Định lượng lycopen và resveratrol bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu

năng cao HPLC và quang phổ hấp thụ UV-Vis.

2.2.6. Đánh giá độ bền của các hạt nano

- Khảo sát sự biến đổi hàm lượng hợp chất của các hạt nano.

- Nghiên cứu sự biến đổi hình thái của các hạt nano.

2.2.7. Các phương pháp phân tích cấu trúc và tính chất của vật liệu

- Xác định cấu trúc của các vật liệu bằng phổ hồng ngoại (FT-IR) và phổ

cộng hưởng từ hạt nhân (NMR).

- Xác định khối lượng phân tử của copolyme PLA-PEG bằng GPC.

- Nghiên cứu sự phân bố kích thước hạt của các sản phẩm bột nano bằng

phương pháp tán xạ ánh sáng động DLS.

- Đánh giá hình thái và kích thước các mẫu vật liệu nano bằng kính hiển

vi điện tử truyền qua TEM.

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả chiết tách lycopen, resveratrol và tổng hợp copolyme PLA-

PEG, sử dụng làm nguồn nguyên liệu cho quá trình chế tạo các hệ nano

3.1.1. Chiết tách hợp chất lycopen từ màng quả gấc

3.1.1.1. Xác định nhiệt độ, thời gian thích hợp cho quá trình sấy màng gấc

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ và thời gian thích hợp cho việc

sấy màng hạt gấc là 60oC trong vòng 15 giờ. 3.1.1.2. Xác định dung môi hữu cơ phù hợp để chiết lycopen từ màng gấc

khô bằng phương pháp soxhlet

Hợp chất tan tốt nhất trong dung môi cloroform, sau đó giảm dần từ

tetrahydrofuran, diclometan đến hexan. Tuy nhiên, do độc tính thấp nhất,

diclometan được lựa chọn là dung môi thích hợp để chiết lycopen.

3.1.1.3. Đánh giá cấu trúc và độ tinh khiết của lycopen chiết tách được

a) Phân tích cấu trúc lycopen chiết tách được bằng phổ FT-IR

Trên phổ FT-IR xuất hiện các băng sóng hấp thụ đặc trưng cho các

5

nhóm chức có mặt trong phân tử. Băng sóng xuất hiện ở 3038 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết =CH (alkene), ở 2912 cm−1 và 2854 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết =CH (alkane). Dao động hóa trị đặc trưng của liên kết C=C (alkene) xuất hiện ở 1626 cm−1. Các băng sóng xuất hiện ở 1439 cm−1 và 1390 cm−1 lần lượt là băng sóng hấp thụ đặc trưng cho dao động biến dạng của nhóm –CH2 và -CH3. Đặc biệt, băng sóng hấp thụ mạnh ở 959 cm−1 đặc trưng cho dao động biến dạng ngoài mặt phẳng của =CH (trans-alkene).

b) Phân tích cấu trúc lycopen chiết tách được bằng phổ NMR

Hình 3.6. Công thức cấu tạo của lycopen

Trên phổ 1H-NMR xuất hiện các tín hiệu cộng hưởng đặc trưng cho các proton có mặt trong phân tử. Tín hiệu cộng hưởng xuất hiện ở trường yếu nhất δ=6,66-6,60 ppm (m, 2H) được quy kết cho proton H-7&H-11. Các

proton khác của alkene được quy kết cụ thể như sau: δ=6,49 ppm (dd, J=11,0; 15,0 Hz; 1H; H-12); 6,35 ppm (d; J=15,0 Hz, 1H; H-8); 6,26-6,19

ppm (m; 2H; H-15&H-14); 6,18 ppm (d; J=11,5 Hz; 1H; H-10); 5,95 ppm (d; J=11,0 Hz; 1H; H-6); 5,12-5,09 ppm (m; 1H; H-2). Các proton khác của

phần alkane được quy kết cụ thể như sau: 2,12 ppm (d; J=4,5 Hz; 4H; H- 4&H-3); 1,97 ppm (s; 6H; 2CH3); 1,82 ppm (s; 3H; CH3), 1,69 ppm (s; 3H; CH3), 1,61 ppm (s; 3H; CH3).

Phổ 13C-NMR chỉ ra các tín hiệu cộng hưởng đặc trưng của các nguyên tử carbon tương đươn g có mặt trong phân tử. Tín hiệu cộng hưởng xuất hiện ở trường yếu δ=139,5 ppm được gán cho C-5. Các tín hiệu cộng hưởng của các nguyên tử carbon alkene được quy kết như sau: δppm: 137,4 (C- 13); 136,5 (C-9); 136,2 (C-1); 135,4 (C-12); 132,7 (C-15); 131,6 (C-8);

6

130,1 (C-14); 125,8 (C-7); 125,2 (C-6); 124,0 (C-2); 40,2 (C-4); 26,7 (C-3); 25,6 (CH3); 17,7 (CH3); 17,0 (CH3); 12,9 (CH3); 12,8 (CH3).

So sánh dữ liệu thu được với phổ chuẩn của lycopen cho thấy, các tín

hiệu xuất hiện hoàn toàn phù hợp, chứng tỏ sản phẩm sau tách chiết là

lycopen.

c) Định lượng lycopen bằng quang phổ hấp thụ UV-Vis

Phổ UV-Vis cho thấy, ở cùng một nồng độ, băng sóng hấp thụ ở 517 nm

của mẫu lycopen chiết tách được cao hơn mẫu lycopen chuẩn có độ tinh khiết 98% của Sigma-Aldrich khoảng 1%. Như vậy, có thể kết luận là độ

tinh khiết của mẫu lycopen chiết tách được đạt độ tinh khiết trên 98%.

d) Định lượng lycopen bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC

Hình 3.10. Sắc ký đồ mẫu lycopen chiết tách được khai triển bằng hệ dung

môi MeOH:ACN:DCM (10:50:40)

Kết quả định lượng bằng HPLC (Hình 3.10) cho thấy lycopen chiết tách được đạt độ tinh khiết > 98%, kết quả này phù hợp với kết quả định lượng

bằng phổ UV-Vis.

3.1.1.4. Bảo quản lycopen

Lycopen bị phân hủy nhanh chóng khi bảo quản ở nhiệt độ phòng. Ở nhiệt độ 4oC, tương ứng với nhiệt độ ngăn mát của tủ lạnh, lycopen bị phân hủy chậm hơn. Ở nhiệt độ -16oC, lycopen tương đối bền, hàm lượng lycopen còn lại 92% sau 3 tháng bảo quản. Do vậy, điều kiện bảo quản lycopen là bao gói lycopen trong giấy bạc, hút chân không, sau đó lưu trữ ở -16oC.

7

3.1.2. Nghiên cứu chiết tách hợp chất resveratrol từ rễ cốt khí củ

3.1.2.1. Phân tích cấu trúc của resveratrol sau quá trình chiết tách

a) Phân tích cấu trúc resveratrol chiết tách được bằng phổ FT-IR

Phổ FT-IR cho thấy các tín hiệu đặc trưng của resveratrol. Băng sóng hấp thụ rõ nét nhất xuất hiện ở 3230 cm−1, đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết O−H (phenol). Băng sóng hấp thụ ở 3021 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa trị của nhóm vinyl (=C−H), ở 2890 cm−1 thể hiện dao động hóa trị của liên kết =C−H (alkane). Các dao động hóa trị ν(C=C) của vòng benzen thể hiện ở các băng sóng hấp thụ 1609 cm−1, 1579 cm−1, 1510 cm−1 và 1447 cm−1. Dao động biến dạng trong mặt phẳng của nhóm OH xuất hiện ở băng sóng hấp thụ 1382 cm−1. Dao động hóa trị của liên kết C-O (từ nhóm phenol) thể hiện rõ trong phổ ở 1150 cm−1. Ngoài ra, băng sóng hấp thụ ở 968 cm−1 đặc trưng cho dao động biến dạng của liên kết C-H thay thế trên C=C từ định hướng trans. Đối với băng sóng ở 833 cm−1 đặc trưng cho dao động biến dạng của liên kết C-H của vòng benzene và ở 673 cm−1 là băng

sóng thể hiện dao động biến dạng ngoài mặt phẳng γ(OH) của nhóm -OH.

b) Phân tích cấu trúc resveratrol chiết tách được bằng phổ NMR

Hình 3.15. Công thức cấu tạo của resveratrol

Kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton 1H-NMR

(500MHz, DMSO-d6) cho thấy các tín hiệu đặc trưng cho proton của

resveratrol. Các tín hiệu cộng hưởng trong vùng δH 6,11-7,38 ppm đặc trưng

cấu trúc dạng phenolic của resveratrol. Các tín hiệu proton xuất hiện tại H

6,38 (d, J = 2,0; 2H) và 6,11 (t, J = 2,0; 1H) cho thấy sự có mặt của 1 vòng

thơm có cấu trúc đối xứng bị thế ở 3 vị trí 1, 3 và 5. Bên cạnh đó, sự xuất

hiện của cặp tín hiệu thuộc hệ tương tác spin hệ AA'- BB' tại H 6,75 (d, J =

8

9,0; 2H) và 7,38 (d, J = 8,5; 2H) thể hiện sự có mặt của một nhân benzen

thế para.

Phổ 13C-NMR chỉ ra các tín hiệu đặc trưng của các nguyên tử C. Quy

ghép các tín hiệu cộng hưởng và các nguyên tử carbon trong resveratrol cho

kết quả các tín hiệu của 14 nguyên tử cacbon trong đó có 9 cacbon metin và

5 cacbon bậc bốn. Các giá trị cacbon metin cộng hưởng tại vị trí C 104,3

(C2, C-6); 101,7 (C-4); 127,8 (C-2′, C-6′); 115,5 (C-3′, C-5′); 127,8 (C-7)

và 125,6 (C8). 5 cacbon bậc 4 xuất hiện tại C 139,2 (C-1); 158,4 (C-3, C-

5); 28,1 (C-1′) và 157,1 (C-4′).

Ngoài ra, hằng số tương tác JH-7=16,5 Hz chứng tỏ rằng liên kết đôi

C7/C8 có cấu hình trans. So sánh dữ liệu thu được với phổ chuẩn của

resveratrol cho thấy các tín hiệu xuất hiện hoàn toàn phù hợp, chứng tỏ sản

phẩm sau tách chiết chính là trans-resveratrol.

3.1.2.2. Định lượng resveratrol bằng quang phổ hấp thụ UV-Vis và phương

pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC

a) Định lượng resveratrol bằng quang phổ hấp thụ UV-Vis

Phổ UV-Vis cho thấy, ở cùng một nồng độ, băng sóng hấp thụ ở 310 nm

của mẫu resveratrol chiết tách được thấp hơn mẫu resveratrol chuẩn có độ

tinh khiết 95% của Sigma-Aldrich khoảng 2,7%. Như vậy, độ tinh khiết của

resveratrol sau quá trình chiết tách và tinh chế đạt trên 92%.

b) Định lượng resveratrol bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao

HPLC

Hình 3.19. Sắc ký đồ mẫu resveratrol chiết tách được khai triển bằng hệ

dung môi MeOH – H2O + 0,1%Fa = 40 – 60 (v/v)

9

Kết quả định lượng bằng HPLC (Hình 3.19) cho thấy resveratrol chiết tách được đạt độ tinh khiết là 92,3%, kết quả này phù hợp với kết quả định

lượng resveratrol bằng phổ UV-Vis.

3.1.3. Kết quả tổng hợp copolyme PLA-PEG

Bảng 3.9. Khối lượng phân tử của các mẫu copolyme khối PLA-PEG

Mẫu PDI Mw (Da)

PLA-PEG.1 8400 1,2

PLA-PEG.2 11600 1,4

PLA-PEG.3 17200 1,7

Bảng 3.9 cho thấy khối lượng phân tử copolymer thu được tăng dần khi

tăng tỷ lệ lactide/mPEG. Polylactide là một polyme kị nước do đó mẫu

PLA-PEG.1 với tỷ lệ mol nPEG:nlactide = 1:20 có khối lượng phân tử là 8400

cho độ hòa tan trong nước tốt phù hợp để chế tạo các hạt nano. Mẫu PLA-

PEG.1 sau đó được sử dụng để nghiên cứu chế tạo các hệ nano tổ hợp chứa

lycopen.

Phổ hồng ngoại cho thấy các băng sóng hấp thụ đặc trưng riêng của

PLA, và PEG đều được thể hiện trên phổ của copolyme PLA-PEG. Băng sóng hấp thụ ở 3444 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa trị của nhóm -OH trong phân tử PEG. Băng sóng rộng ở 2877 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa trị của C-H2, 1759 cm−1 tương ứng đặc trưng cho dao động hóa trị của nhóm C=O trong phân tử PLA. Hai băng sóng 1454 cm−1 và 1382 cm−1 đặc trưng cho dao động biến dạng nhóm C-H, băng sóng 1249 cm−1 đặc trưng cho dao động nhóm C-O-H, băng sóng 1097 cm−1 đặc trưng cho dao động

biến dạng nhóm –OH.

Cấu trúc của copolyme PLA-PEG được khẳng định bằng phổ 1H-NMR và 13C-NMR đo trong CDCl3. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton cho thấy các tín hiệu đặc trưng cho proton của copolyme PLA-PEG. Tín hiệu cộng

hưởng và vị trí proton trong copolyme PLA-PEG như sau:

Tín hiệu tại δ=1,59 ppm là của proton nhóm CH3 trong PLA -

10

Tín hiệu tại δ=5,03 ppm là của proton nhóm CH trong PLA

Tín hiệu tại δ=3,63 ppm là của proton nhóm CH2 trong PEG

- - Phổ 13C-NMR chỉ ra các tín hiệu đặc trưng của các nguyên tử C. Quy kết

các tín hiệu cộng hưởng cho các nguyên tử cacbon trong copolyme PLA-

PEG cho kết quả như sau:

Tín hiệu tại δ=169,5 là của cacbon nhóm C=O trong PLA

Tín hiệu tại δ=77,2 là của cacbon nhóm O-CH2 trong PEG

Tín hiệu tại δ=70,5 là của cacbon nhóm O-CH trong PLA

Tín hiệu tại δ=16,7 là của cacbon nhóm methyl CH3 trong PLA. - - - -

3.2. Kết quả chế tạo các hệ nano chứa một số hợp chất lycopen,

resveratrol và pycnogenol

3.2.1. Kết quả chế tạo nano lycopen

3.2.1.1. Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt tới quá trình chế tạo nano

lycopen

Hình 3.23. Giản đồ phân bố kích thước hạt của nano lycopen theo các tỷ lệ

khác nhau giữa lycopen và chất hoạt động bề mặt tween 80

Các mẫu NLy1, NLy12, NLy21 tương ứng với tỷ lệ hàm lượng

lycopen/tween 80 là 1/1, 1/2 và 2/1 cho kết quả đường kính hạt trung bình

lần lượt là 55 nm, 65 nm và 76 nm (Hình 3.23). Giản đồ phân bố kích thước

11

hạt cho thấy mẫu NLy1 có sự phân bố hẹp và kích thước hạt trung bình

dưới 100 nm. Do đó, tỷ lệ lycopen/tween 80 là 1/1 được lựa chọn cho công

thức nano lycopen.

Để đánh giá hiệu quả của các chất hoạt động bề mặt tới quá trình chế tạo

hạt nano lycopen, chất hoạt động bề mặt Tween 80 trong công thức chế tạo

nano ở trên được thay thế bằng cremophor RH40. Kết quả đo DLS của các

mẫu nano lycopen cho thấy các tiểu phân trong mẫu NLy1 (sử dụng chất

hoạt động bề mặt là tween 80) và các tiểu phân trong mẫu NLy11 (sử dụng

chất hoạt động bề mặt là cremophor RH40) có đường kính hạt trung bình

lần lượt là 55 nm và 51 nm (Hình 3.24). Không có sự khác biệt đáng kể

giữa 2 mẫu này. Tuy nhiên, Polysorbate 80 là một chất hoạt động bề mặt có

tính phổ biến và giá thành rẻ hơn so với cremophor RH40. Do đó, Tween 80

được lựa chọn là chất hoạt động bề mặt cho quá trình chế tạo các hệ hạt

nano.

Hình 3.24. Giản đồ phân bố kích thước hạt của nano lycopen sử dụng chất

hoạt động bề mặt cremophor RH40 và Tween 80

3.2.1.2. Đánh giá khả năng phân tán trong nước của các mẫu bột nano

lycopen

12

Bảng 3.10. Kết quả đánh giá khả năng phân tán trong nước của lycopen và

các mẫu nano lycopen

Mẫu Khả năng phân tán trong nước Quan sát đáy lọ thủy tinh sau 01 ngày

Rất kém Lắng

Rất tốt Rất trong

Rất tốt Rất trong

Tốt Có hiện tượng lắng Lycopen NLy1 (4% lycopen) NLy3 (8% lycopen) NLy5 (12% lycopen)

3.2.1.3. Phân tích cấu trúc của các mẫu bột nano lycopen

Phổ FT-IR cho thấy các băng sóng đặc trưng của PEG: ở 3438 cm−1 (- OH), 2886 cm−1 (CHstr(sp2)), hay 1111 cm−1 đặc trưng của liên kết giữa các nhóm C–C–O và C–C–H, đều được thể hiện rõ trong phổ hồng ngoại của

các mẫu bột NLy1, NLy3 và NLy5. Đối với các băng sóng đặc trưng của lycopen: băng sóng hấp thụ ở 2907 cm−1, 2850 cm−1 (CHstr(sp3)), 1670 cm−1, 1642 cm−1 (C=Cstr(trans)), 1443 cm−1 (CH2(dao động biến dạng)) và 963 cm−1 (CH(trans OOP)) có xuất hiện trong các mẫu nano lycopen nhưng

không rõ nét. Điều này được lý giải do hàm lượng lycopen chứa trong mẫu

bột nano ít hơn nhiều so với hàm lượng chất mang PEG trong nano

lycopen.

3.2.1.4. Hình thái và sự phân bố kích thước hạt của nano lycopen

Giản đồ phân bố kích thước hạt (Hình 3.28 a) cho thấy, các mẫu Nly1,

NLy3 và NLy5 (với hàm lượng lycopen từ 4-12%) có đường kính hạt trung

bình lần lượt là 55 nm, 135 nm và 289 nm, tương ứng với kết quả ảnh TEM

(Hình 3.28 b, c và d). Sự thay đổi kích thước hạt của các mẫu tỷ lệ thuận

với hàm lượng lycopen có trong các mẫu bột nano, có nghĩa là hàm lượng

lycopen tăng dẫn tới kích thước hạt lớn dần. Ảnh TEM chỉ ra rằng các hạt

nano lycopen có dạng hình cầu, phân bố đồng đều và không có hiện tượng

kết đám với nhau.

13

Hình 3.28. Giản đồ phân bố kích thước hạt của các mẫu bột nano lycopen

(a) và ảnh TEM của các mẫu (b)-NLy1, (c)- NLy3, (d)- NLy5

3.2.1.5. Đánh giá độ bền của nano lycopen

Ở điều kiện nhiệt độ phòng, lycopen có trong các mẫu bột nano bị phân

hủy đáng kể (Bảng 3.11).

Bảng 3.11. Độ bền của lycopen trong các mẫu bột nano theo thời gian

bảo quản ở nhiệt độ phòng

Độ bền (Hàm lượng lycopen còn lại (%)) Mẫu 0 ngày 15 ngày 30 ngày 60 ngày 90 ngày

NLy1 100 90,2 80,4 70,2 60,1

NLy3 100 91,3 82,7 73,6 64,5

NLy5 100 92,4 84,9 76,9 69,0

Sau thời gian 90 ngày bảo quản, hàm lượng lycopen còn lại trong các

mẫu NLy1, NLy3 và NLy5 lần lượt là 60,1%, 64,5% và 69%. Như vậy, sự

phân hủy lycopen nhanh nhất xảy ra ở mẫu NLy1 tương ứng với hàm lượng

lycopen có trong mẫu là 4%, sau đó đến mẫu NLy3 (hàm lượng lycopen là

14

8%) và cuối cùng sự phân hủy lycopen xảy ra chậm nhất ở mẫu NLy5 (hàm

lượng lycopen là 12%).

3.2.2. Kết quả chế tạo nano resveratrol

3.2.2.1. Đánh giá khả năng phân tán trong nước của các mẫu bột nano

resveratrol

Mẫu Bảng 3.12. Khả năng phân tán trong nước của resveratrol và các mẫu nano resveratrol Khả năng phân tán trong nước Quan sát đáy lọ thủy tinh sau 01 ngày

Rất kém Lắng

Rất tốt Rất trong

Rất tốt Rất trong

Rất Tốt Resveratrol NR1 (10% resveratrol) NR2 (15% resveratrol) NR3 (20% resveratrol) Trong và không có hiện tượng bị lắng

3.2.2.2. Phân tích cấu trúc của các mẫu bột nano resveratrol

Một số băng sóng đặc trưng của PEG xuất hiện rõ nét trên phổ FT-IR: ở 3438 cm−1 (-OH), 2886 cm−1 (CHstr(sp2)), hay 1111 cm−1 đặc trưng của liên kết giữa các nhóm C–C–O và C–C–H, đều được thể hiện rõ trong phổ hồng

ngoại của các mẫu bột NR1, NR2 và NR3. Một số băng sóng đặc trưng của resveratrol như: băng sóng hấp thụ ở 3279 cm−1 (-OH), 964 cm−1 (trans- olefinic), 1584 cm−1 (C=C) và 1145 cm−1 (C-O) có xuất hiện trong các mẫu

nano resveratrol nhưng không rõ nét. Điều này được lý giải do hàm lượng

resveratrol chứa trong mẫu bột nano ít hơn nhiều so với hàm lượng chất

mang PEG trong nano resveratrol.

3.2.2.3. Hình thái hạt nano resveratrol

Giản đồ phân bố kích thước hạt trong Hình 3.32a cho thấy các hạt nano

resveratrol NR1, NR2 và NR3 có đường kính hạt trung bình lần lượt là 12

nm, 19 nm và 38 nm, tương ứng với ảnh TEM (Hình 3.32 b, c và d). Nhận

thấy, hàm lượng resveratrol tăng dẫn tới kích thước hạt nano tăng dần. Ảnh

15

TEM (Hình 3.32b) cho thấy, sản phẩm nano chứa hàm lượng resveratrol

10% (NR1) có dạng hình cầu, kích thước hạt nhỏ trong dải từ 10-18 nm.

Tương tự ở hình 3.32c và d, kích thước hạt nano trong dải từ 14-21 nm

(mẫu NR2), 35-42 nm với mẫu NR3. Hình thái hạt và sự phân bố kích

thước hạt của các mẫu bột nano hoàn toàn tương ứng với đánh giá cảm

quan sự phân tán trong nước của các mẫu bột sản phẩm thu được.

Hình 3.32. Giản đồ phân bố kích thước hạt của các mẫu bột nano

resveratrol (a) và ảnh TEM của các mẫu (b)-NR1, (c)- NR2, (d)- NR3

3.2.2.4. Khảo sát độ ổn định và hình thái hạt nano resveratrol trong các

môi trường có độ pH khác nhau

Kết quả nghiên cứu cho thấy nano resveratrol tương đối ổn định trong

điều kiện môi trường axit, tốc độ phân hủy của nano resveratrol tăng lên

nhanh trong các môi trường kiềm. Cụ thể, tại pH 4,5 và 7, hàm lượng

resveratrol còn lại lần lượt là 90% và 62,8% sau 1 ngày, tuy nhiên tại pH 8

hàm lượng resveratrol còn lại sau 1 ngày là 51,4% và ở pH 9 hàm lượng

resveratrol còn lại sau 180 phút là 20,5%. Trong khi đó, theo nghiên cứu

của Š. Zupančič, Z. Lavrič, và J. Kristl thì ở pH 9, trans-resveratrol đã bị

16

phân hủy hoàn toàn trong vòng 10,1 phút. Như vậy, việc bào chế resveratrol

dưới dạng hạt nano đã nâng cao được độ ổn định của resveratrol. Điều này

được giải thích là do vai trò của chất hoạt động bề mặt tween 80 và chất bao

bọc PEG 6000 giúp bảo vệ resveratrol khỏi sự tác động của môi trường

kiềm.

3.2.3. Kết quả chế tạo hệ nano lycopen/resveratrol

3.2.3.1. Phân tích cấu trúc hệ nano lycopen/resveratrol

Nhận thấy rằng, băng sóng hấp thụ đặc trưng của nhóm -OH trong phổ FT-IR của resveratrol là ở 3250 cm−1. Tuy nhiên, trong phổ FT-IR của hệ

S1, S4 và S7 cho thấy nhóm -OH của resveratrol đã được kéo dài chuyển sang các vị trí dao động lần lượt là 3365 cm−1, 3398 cm−1, 3375 cm−1, điều

này chỉ ra rằng có sự tương tác liên kết hydro liên phân tử xảy ra giữa

resveratrol và chất hoạt động bề mặt/copolyme PLA-PEG. Bên cạnh đó, các

băng sóng hấp thụ của lycopen trong các hệ nano S1, S4 và S7 ở phổ FT-IR

cũng dịch chuyển dao động so với các băng sóng đặc trưng trong phổ FT-IR của lycopen. Ví dụ, dao động CHstr(sp2) của lycopen trong hệ nano có xu hướng dịch gần về các bước sóng 2923 cm−1, 2924 cm−1, 2922 cm−1 trong khi dao động này ở phổ FT-IR của lycopen tinh khiết là 3038 cm−1. Sự thay

đổi vị trí các băng sóng hấp thụ này cho thấy sự tương hợp tốt giữa lycopen

và copolyme PLA-PEG. Một ví dụ khác cũng cho thấy dao động

C=Cstr(trans) của lycopen trong hệ nano S1, S4 và S7 lần lượt ở các bước sóng 1593 cm−1, 1604 cm−1, 1604 cm−1 trong khi dao động này của lycopen tinh khiết là 1625 cm−1. Hiện tượng này là do tương tác ngoại phân tử giữa

lycopen và resveratrol.

Cấu trúc của hệ nano cũng đã được phân tích bằng phổ UV-Vis. Các

băng sóng hấp thụ đặc trưng của resveratrol trong các hệ nano lần lượt xuất

hiện ở hai bước sóng 295 nm và 310 nm. Ba băng sóng pic hấp thụ đặc

trưng của lycopen trong hệ nano lần lượt là 450 nm, 479 nm, 510 nm. Phổ

UV-Vis cho thấy, cường độ hấp thụ của các pic resveratrol và lycopen trong

17

các mẫu tương ứng tỷ lệ với tỷ lệ hàm lượng hai hợp chất resveratrol và

lycopen có trong hệ nano lycopen/resveratrol.

3.2.3.2. Đặc điểm hình thái và sự phân bố kích thước hạt của hệ nano

lycopen/resveratrol

Giản đồ phân bố kích thước hạt của các mẫu S1, S4 và S7 trong nước ở

Hình 3.39a chỉ ra rằng, đường kính hạt trung bình của các mẫu lần lượt là

66 nm, 79 nm và 102 nm. Ảnh TEM (Hình 3.39b, 3.39c và 3.39d) cho thấy,

các hạt nano thu được có dạng hình cầu. Kích thước hạt tỷ lệ thuận với tỷ lệ

lycopen/resveratrol. Sự tương hợp tốt giữa lycopen và resveratrol trong quá

trình chế tạo đã cho hệ hạt nano phân bố tương đối đồng đều, kích thước hạt

nhỏ dưới 100 nm mặc dù tổng hàm lượng hai hợp chất lycopen và

resveratrol lên tới 12%.

Hình 3.39. Giản đồ phân bố kích thước hạt (a) và ảnh TEM của các mẫu

(b)- S1, (c)- S4, (d)- S7

Kết quả đánh giá hình thái và sự phân bố kích thước hạt cũng cho thấy

sự kết hợp giữa các hợp chất tự nhiên cho sản phẩm tổ hợp có tác dụng hiệp

đồng và tối ưu. Hệ nano lycopen/resveratrol chứa hàm lượng lycopen là 4%

và resveratrol là 8%, tức tổng hàm lượng hai hợp chất lên tới 12% thì kích

18

thước hạt trung bình của hệ vẫn đạt 66 nm. Trong khi đó, đối với mẫu nano

lycopen chế tạo được ở Mục 3.2.1 khi hàm lượng lycopen trên 10% thì kích

thước vật liệu nano tăng lên đáng kể trên 200 nm. Đối với các mẫu nano

resveratrol (Mục 3.2.2) kích thước hạt trung bình của các sản phẩm đều đạt

dưới 100 nm mặc dù hàm lượng resveratrol lên tới 20%. Như vậy, hệ hạt

nano lycopen/resveratrol đã cho thấy sự tương hợp rất tốt giữa lycopen và

resveratrol. Resveratrol đã thể hiện vai trò giảm kích thước hạt và tăng khả

năng phân bố đồng đều của các hạt nano trong hệ.

3.2.3.3. Đánh giá độ bền của lycopen trong các mẫu hệ nano

lycopen/resveratrol

Bảng 3.13. Độ bền của lycopen trong các mẫu bột hệ nano lycopen/resveratrol theo thời gian bảo quản ở nhiệt độ phòng

Độ bền (Hàm lượng lycopen còn lại (%)) Mẫu 0 ngày 15 ngày 30 ngày 60 ngày 90 ngày

S1 100 97,3 94,6 91,8 88,8

S2 100 97,9 95,7 93,2 90,8

S3 100 97,5 95,0 93,0 90,5

S4 100 96,5 92,9 89,0 85,0

S5 100 97,2 94,2 90,2 86,8

S6 100 97,0 94,3 90,1 86,2

S7 100 96,0 91,9 87,6 83,2

S8 100 96,6 92,2 88,8 84,6

S9 100 96,8 92,5 90,0 84,8

Bảng 3.14. Độ bền của lycopen trong các mẫu bột nano lycopen/resveratrol theo thời gian bảo quản ở nhiệt độ -16oC

Độ bền (Hàm lượng lycopen còn lại (%)) Mẫu 0 ngày 15 ngày 30 ngày 60 ngày 90 ngày

S1 100 99,2 98,2 96,5 94,8

19

S2 100 99,5 98,8 97,2 95,6

S3 100 99,4 98,4 96,9 95,3

S4 100 98,8 97,4 95,3 93,1

S5 100 99,1 98,0 96,1 94,2

S6 100 99,2 98,1 96,2 94,1

S7 100 98 96 93,8 91,5

S8 100 98,3 96,5 94,7 92,8

S9 100 98,4 96,7 94,9 93,0

Kết quả cho thấy tốc độ phân hủy của lycopen khi bảo quản các mẫu ở nhiệt độ -16oC (Bảng 3.14) chậm hơn gần một nửa so với tốc độ phân hủy

của hợp chất ở nhiệt độ phòng (Bảng 3.13). Hàm lượng lycopen còn lại

trong các mẫu bột nano S1, S4 và S7 lần lượt là 94,8%; 93,1% và 91,5%

trong khi đó hàm lượng lycopen còn lại ở các mẫu này ở nhiệt độ phòng lần

lượt là 88,8%; 85,0%; 83,2%. Như vậy, điều kiện bảo quản hệ nano lycopen/resveratrol thích hợp là ở môi trường lạnh -16oC. 3.2.4. Kết quả chế tạo hệ nano lycopen/pycnogenol

3.2.4.1. Phân tích cấu trúc hệ nano lycopen/pycnogenol

Phổ FT-IR thể hiện rõ các băng sóng hấp thụ đặc trưng cho dao động của

lycopen, pycnogenol và copolyme trong các mẫu S1, S2 và S3. Cụ thể: băng sóng hấp thụ trong vùng 3600-2500 cm−1 đặc trưng cho dao động hóa

trị -OH của pycnogenol và phân tử PEG (trong copolyme PLA-PEG), băng sóng hấp thụ ở 1100 cm−1 (CH(trans)) của lycopen, đối với dao động hóa trị CHstr(sp2) của lycopen ở 2912 cm−1 có dịch chuyển nhẹ trong phổ FT-IR của các mẫu sản phẩm (đối với mẫu S1 băng sóng ở 2913 cm−1, mẫu S2 ở 2916 cm−1 và mẫu S3 ở 2915 cm−1). Băng sóng hấp thụ đặc trưng cho dao động hóa trị C=C (của vòng thơm) ở 1610 cm−1 của pycnogenol được thể hiện rõ

trên phổ của các mẫu S1, S2 và S3. Ngoài ra, có thể nhận thấy rằng, các

băng sóng đặc trưng của chất bao bọc vi nang copolyme PLA-PEG như:

20

2875 cm−1 (dao động hóa trị CH2 trong phân tử PLA), 1759 cm−1 (dao động hóa trị của nhóm C=O trong PLA) và 1454 cm−1 (dao động biến dạng CH)

thể hiện rõ nét nhất trên phổ hồng ngoại của các mẫu.

3.2.4.2. Đánh giá khả năng phân tán của các mẫu bột nano

lycopen/pycnogenol

Sự tương hợp tốt giữa lycopen và pycnogenol với chất hoạt động bề mặt

tween 80 và chất mang copolyme PLA-PEG đã tạo thành sản phẩm bột

nano lycopen/pycnogenol có khả năng phân tán rất tốt trong nước và không

có dấu hiệu cộng kết sau nhiều ngày bảo quản ở điều kiện thường. Cụ thể là

thời gian tự phân tán hoàn toàn trong nước của 150 mg mỗi mẫu bột S1, S2

và S3 lần lượt là 1 phút, 2 phút và 3,5 phút. Mẫu nano lycopen/pycnogenol

với tỷ lệ hàm lượng lycopen/pycnogenol là 1/2 cho dung dịch màu đỏ trong

nhất và độ trong giảm dần khi tỷ lệ hàm lượng lycopen/pycnogenol tăng.

3.2.4.3. Hình thái của các mẫu bột nano lycopen/pycnogenol

Hình 3.45. Giản đồ phân bố kích thước hạt và ảnh TEM của các mẫu bột

nano lycopen/pycnogenol

Giản đồ phân bố kích thước hạt cho thấy, các mẫu S1, S2 và S3 có

đường kính hạt trung bình lần lượt là 73 nm, 85 nm và 114 nm, tương ứng

21

với kết quả ảnh TEM (Hình 3.45). Sự thay đổi kích thước hạt của các mẫu

tỷ lệ thuận với tỷ lệ hàm lượng lycopen/pycnogenol, có nghĩa là tỷ lệ

lycopen/pycnogenol tăng dẫn tới kích thước hạt lớn dần. Ảnh TEM chỉ ra

rằng các hạt nano lycopen/pycnogenol có dạng hình cầu, phân bố đồng đều

và không có hiện tượng kết đám với nhau.

3.2.4.4. Đánh giá hình thái của nano lycopen/pycnogenol trong các môi

trường pH khác nhau

Kết quả nghiên cứu hình thái hạt trong các môi trường pH=5 và 9 cho

thấy môi trường pH có ảnh hưởng tới tính chất hệ hạt nano. Nano

lycopen/pycnogenol dễ bị kết tập với nhau khi phân tán trong môi trường

axit. Ở môi trường bazơ thì kích thước hạt và hình thái hạt nano không có

sự thay đổi nhiều.

KẾT LUẬN

1. Đã chiết tách được các hợp chất quý lycopen, resveratrol từ nguồn

thảo dược Việt nam và đã tổng hợp thành công copolyme PLA-PEG sử

dụng làm nguồn nguyên liệu cho quá trình chế tạo các hệ nano chứa một số

hợp chất lycopen, resveratrol và pycnogenol:

+ Lycopen và resveratrol đã được chiết tách thành công từ màng gấc và

rễ cốt khí củ bằng các phương pháp đơn giản, an toàn và dễ thực hiện:

- Hợp chất lycopen đã được chiết từ màng gấc khô bằng phương pháp

soxhlet sử dụng dung môi hữu cơ là dichlometan và tinh chế lycopen bằng

ethanol. Lượng lycopen chiết tách được là khoảng 3,2-4,4 g/kg màng gấc

khô. Lycopen thu được có độ tinh khiết cao ≥ 98%.

- Hợp chất resveratrol cũng đã được chiết tách thành công từ rễ cốt khí

củ bằng phương pháp lên men chủng penicillium. Lượng resveratrol chiết

tách được là khoảng 3,0-4,5 g/kg rễ cốt khí củ. Resveratrol thu được có độ

tinh khiết cao trên 92%.

+ Copolyme PLA-PEG đã được tổng hợp thành công với khối lượng Mw

là 8400 và chỉ số PDI là 1,2. Copolyme này được sử dụng làm chất bao bọc

22

vi nang cho quá trình chế tạo các hệ nano chứa lycopen.

2. Đã chế tạo được 04 loại sản phẩm nano của các hợp chất có hoạt

tính sinh học, bao gồm: Nano lycopen, nano resveratrol, hệ nano

lycopen/resveratrol và hệ nano lycopen/pycnogenol. Tất cả các dạng nano

thu được ở dạng bột mịn, đều có khả năng phân tán rất tốt trong nước, các

hạt nano thu được dạng hình cầu và có phân bố kích thước hạt khá đồng

đều:

- Nano lycopen và nano resveratrol đã được chế tạo thành công bằng

phương pháp sấy phun sử dụng chất hoạt động bề mặt là tween 80 (với tỷ lệ

hợp chất/chất hoạt động bề mặt thích hợp là 1/1) và chất bao bọc vi nang là

PEG 6000.

+ Các sản phẩm nano lycopen có hàm lượng lycopen là từ 4-12% tương

ứng với kích thước hạt trung bình từ 55-289 nm. Độ bền của các mẫu bột

nano lycopen khi bảo quản ở nhiệt độ phòng chưa cao, hàm lượng lycopen

còn lại sau 90 ngày đối với mẫu nano lycopen (chứa 4% lycopen) là 60,1%,

đối với mẫu nano lycopen (chứa 8% lycopen) là 64,5% và đối với mẫu chứa

12% lycopen là 69,0%;

+ Kích thước hạt trung bình của các mẫu nano resveratrol là từ 12-38

nm, Kích thước hạt tỷ lệ thuận với tỷ lệ hàm lượng lycopen có trong mẫu

bột nano. Độ ổn định và hình thái hạt của nano resveratrol có sự thay đổi

đáng kể khi phân tán trong các môi trường pH khác nhau. Tại pH 4,5 các

hạt nano dễ bị kết tập, đường kính hạt tăng từ 12 nm lên tới 85 nm. Tại pH

9 thì các hạt nano bị phân hủy nhanh chóng, sau 180 phút hàm lượng

resveratrol còn lại trong mẫu nano chỉ là 20,5%.

- Các mẫu hệ nano lycopen/resveratrol với các tỷ lệ lần lượt là 4%

lycopen/8% resveratrol, 6% lycopen/6% resveratrol và 8% lycopen/4%

resveratrol đã được chế tạo thành công bằng phương pháp sấy phun. Sản

phẩm thu được có khả năng phân tán tốt trong nước, các hạt có dạng hình

cầu, kích thước hạt nhỏ trong dải từ 66-102 nm và phân bố rất đồng đều. Sau 90 ngày bảo quản ở -16oC, sản phẩm hệ nano lycopen/resveratrol (hàm

23

lượng lycopen/resveratrol là ½) với sự có mặt của chất chống oxy hóa là

vitamin E cho độ bền cao. Hàm lượng lycopen còn lại sau 3 tháng đạt

95,6%.

- Các mẫu hệ nano lycopen/pycnogenol với các tỷ lệ lần lượt là 4%

lycopen/8% pycnogenol, 6% lycopen/6% pycnogenol và 8% lycopen/4%

pycnogenol đã được chế tạo thành công bằng phương pháp đông khô.

Những hạt nano thu được có kích thước hạt trung bình trong khoảng từ 73-

114 nm. Hình thái hạt nano trong môi trường pH bằng 5 cho kết quả nano

lycopen/pycnogenol dễ bị kết tập với dẫn tới kích thước hạt tăng lên. Trong

khi đó, ở môi trường pH bằng 9 thì hạt nano phân bố tương đối đồng đều,

không có hiện tượng kết đám và đường kính hạt trung bình không thay đổi

nhiều so với ban đầu.

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

1. Đã xây dựng được quy trình chiết tách và tinh chế lycopen từ màng gấc

bằng phương pháp đơn giản, an toàn và dễ triển khai ở quy mô công

nghiệp. Lycopen thu được có độ tinh khiết cao trên 98% có thể được sử

dụng làm nguyên liệu cho các ngành dược phẩm và thực phẩm chức năng.

2. Hai hệ nano chứa lycopen bao gồm hệ nano lycopen/resveratrol và hệ

nano lycopen/pycnogenol là hai hệ vật liệu nano mới. Các sản phẩm bột

nano đều có khả năng phân tán tốt trong nước, kích thước hạt nhỏ dưới 100

nm và có độ bền cao. Các sản phẩm này có tiềm năng ứng dụng làm nguồn

nguyên liệu cho các công ty dược phẩm trong nước.

3. Việc chiết tách được lycopen có độ tinh khiết cao trên 98% và chế tạo

thành công bột nano chứa lycopen từ nguồn nguyên liệu là quả gấc sẽ góp

phần nâng cao giá trị kinh tế của quả gấc Việt nam.

24

international conference scientific The

nanoparticles lycopene for of

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Ho Thi Oanh, Nhung Hac Thi, Thanh Nhan Nguyen, Tuyet Anh Dang Thi, Tuyen Van Nguyen, Mai Ha Hoang, “Co-encapsulation of lycopene and resveratrol in polymeric nanoparticles: Morphology and lycopene stability”, Journal of Nanoscience and Nanotechnology, 21, 3156-3164, 2021. 2. Hoàng Mai Hà, Đặng Thị Tuyết Anh, Hồ Thị Oanh, Hắc Thị Nhung, Nguyễn Đức Tuyển, Nguyễn Văn Tuyến, “Phương pháp chiết tách lycopen tinh khiết trực tiếp từ màng gấc”, Bằng Độc quyền sáng chế số 27630, cấp theo Quyết định số 1240w/QĐ-SHTT, ngày 29/01/2021. 3. Hoàng Mai Hà, Đặng Thị Tuyết Anh, Hồ Thị Oanh, Hắc Thị Nhung, Nguyễn Đức Tuyển, Nguyễn Văn Tuyến, “Phương pháp sản xuất hệ nano lycopen/resveratrol”, Bằng Độc quyền sáng chế số 27629, cấp theo Quyết định số 1208w/QĐ-SHTT, ngày 29/01/2021. 4. Hồ Thị Oanh, Nguyễn Thị Linh, Nguyễn Đức Tuyển, Đặng Thị Tuyết Anh, Hoàng Mai Hà, Chế tạo hạt nano lycopen/pycnogenol định hướng ứng dụng trong dược phẩm và mỹ phẩm, Tạp chí Hóa học, 58(5E12), 276-281, 2020. 5. Ho Thi Oanh, Nguyen Thanh Nhan, Hac Thi Nhung, Hoang Mai Ha, “Preparation and charaterization of lycopene nanoparticles”, 9th National Conference of the Vietnam Organic Chemistry Association, 81-83, 2019. 6. Hồ Thị Oanh, Hoàng Mai Hà, “Chế tạo và nghiên cứu độ ổn định của hạt nano resveratrol”, Tạp chí Hóa học, 57(6E1,2), 125-129, 2019. 7. Ho Thi Oanh, Hac Thi Nhung, Tran Thi Thanh Hop, Nguyen Duc Tuyen, Duong Thi Hai Yen, Pham Xuan Manh, Pham Duy Linh, Hoang Mai Ha, “Synthesis and characterization of polylactidee- based composites”, on Chemistry for Sustainable Development, 2018. 8. Ho Thi Oanh, Dang Thi Tuyet Anh, Nguyen Van Tuyen, Duong Thi Hai Yen, Hac Thi Nhung, Nguyen Duc Tuyen, Pham Xuan Manh, Pham Duy Linh, Pham Thi Ha Anh, Hoang Mai Ha, “Preparation and characterization pharmaceutical applications”, Vietnam Journal of Chemistry, 56(4e), 27-31, 2018. 9. Ho Thi Oanh, Hac Thi Nhung, Nguyen Duc Tuyen, Le Thi Kim Van, Trinh Hien Trung, Hoang Mai Ha, “Extraction of Lycopene from Gac Fruit and Preparation of Nanolycopene”, Vietnam Journal of Chemistry, 55(6), 761-766, 2017.

25