Chèo

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo

phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao,

giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình

sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết

hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền

thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân

khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền

thống Việt Nam là chèo.

Lịch sử

Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân[1][2], một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà

Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố

biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian,

nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích

truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn

dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh

sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là

một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt

Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh

hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo

trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông

dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức

chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát

triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm

Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong

giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số

tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán

Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở

thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện

cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa

nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ

hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ

chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt

Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Các đặc trưng của chèo

Nội dung

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới

quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn.

Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy

sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện

cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu

mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng

cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì

tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ

truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là

thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của

người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính.

Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình

cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại:

tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập

khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với

chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất

cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú

ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật

như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và

trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp

nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường

trò..."Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được

phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua

chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích

những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những

người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo

dài và hề áo ngắn

Kỹ thuật kịch

Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các

loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình

thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện

giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu

chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát

khởi từ đó.

Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự

sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu.

Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố,

hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về

câu chữ.

Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu

Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở

kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay

đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc

lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do

bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước

tính có khoảng trên 200.

Nhạc cụ

Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn

nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng

thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con,

trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và

đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng

của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm

các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn

tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v...

Tác phẩm

(cid:1) Một số vở chèo tiêu biểu: Bài ca giữ nước, Chu Mãi

Thần, Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình

Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ

Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, Trương Viên.

(cid:1) Một số trích đoạn tiêu biểu: Thị Mầu lên chùa & Xã trưởng -

Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính), Súy Vân giả dại (vở Kim Nham), Đánh

ghen (vở Tuần ty Đào Huế), Hồ Nguyệt Cô hóa cáo... Chính vở Tuần ty

Đào Huế được trích và phát triển từ vở Chu Mãi Thần mà ra.

(cid:1) Một số giai điệu chèo cổ : Quân tử dịch, Sử bằng, Đò đưa, Tò

vò, Nhịp đuổi, Du xuân, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường trường trong

rừng, Tuyết sương, Quá giang...

(cid:1) Nghiên cứu về chèo, Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phổ

Lục.

Phân loại chèo

Chèo sân đình

Chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa,

thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền

quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân,

đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu

tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn

ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng

là chiếc quạt.

Chèo cải lương

Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi

khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến

trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của

chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách

điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên

những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của

Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.

Chèo chái hê

Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm,

hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc

kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà

Nội), gồm có các phần:

1. Giáo roi

2. Nhị thập tứ hiếu

3. Múa hát chèo thuyền cạn

4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái

hê thường là hát quan họ.

Chèo hiện đại

Các nghệ sĩ nổi tiếng

Trùm Thịnh

(cid:1) Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh,

người sáng lập nghệ thuật sân khấu chèo.

(cid:1) Tào Mạt: là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo

hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ

nước kể về lịch sử Việt Namthời nhà Lý với nhân vật chính là Lý Thánh

Tông, Nguyên phi Ỷ Lan và Lý Nhân Tông.

(cid:1) Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm

Thịnh (1883 - 1973), người đã cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả

Tam (1888 - 1971) đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ

20.

Hoa Tâm

(cid:1) Hoa Tâm (1906 - 1986), người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

(cid:1) Năm Ngũ, Tư Liên, Lý Mầm, Mạnh Tuấn, những nghệ nhân

nổi danh với loại vai hề chèo

(cid:1) Dịu Hương (1919-?), người Bình Lục, Hà Nam, thành công với

những trích đoạn Suý Vân giả dại và Thị Màu lên chùa.

(cid:1) Gần đây có các nghệ sĩ : Thanh Trầm, An Chinh, Hoài

Thu, Xuân Hinh, Vân Quyền...

[sửa]Các làng chèo nổi tiếng

Niềm đam mê chèo của người dân Việt thể hiện trong các câu thơ sau:

Ăn no rồi lại nằm khoèo

Nghe giục trống chèo vỗ bụng đi xem

Chẳng thèm ăn chả ăn nem

Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo.

Thái Bình

Là địa phương thuần khiết đặc trưng nền văn minh

lúa nước đồng bằng sông Hồng. Thái Bình dần hội tụ và

phát triển vốn truyền thống văn hoá dân gian. Nơi đây là

một trong những cái nôi của những làn điệu hát chèo. Nhắc đến chèo Thái Bình, phải kể tới chèo làng Khuốc.[3] Đây là

dòng chèo đặc trưng của địa phương:

Hỡi cô thắt dải lưng xanh

Có xem chèo Khuốc với anh thì về

Làng Khuốc nay là xã Phong Châu,

huyện Đông Hưng, cùng với với Hà Xá (Hưng Hà)

và Sáo Diền (Vũ Thư) là những chiếng chèo nổi tiếng của Thái Bình.[4] Những năm đầu thế kỷ thứ

19, có lúc trong làng có đến 15 gánh hát chèo.

Chèo diễn quanh năm suốt tháng, không chỉ được

biểu diễn ở trong làng mà gánh hát chèo còn đi đến

các vùng miền khác biểu diễn phục vụ nhân dân.

Trong tổng số 151 làn điệu và ca khúc chèo thì

riêng các phường chèo Thái Bình đã chiếm 30 ca

khúc và bốn kiểu hát nói. Trong số 155 nghệ sỹ

chèo là người Thái Bình trong các đoàn chèo cả nước thì riêng làng Khuốc có 50 người.[5]

Hưng Yên

Một trong những làn chèo nổi tiếng nhất là

làng chèo Thiết Trụ, hay còn gọi là chiếu chèo

làng Thiết Trụ, ở xã Bình Minh, tỉnh Hưng Yên.

Đội chèo làng Thiết Trụ được thành lập từ thập

niên 1960.

[sửa]Nam Định

Nam Định thuộc “Chiếng Chèo Nam”. Vùng

quê này có nhiều làng chèo nổi tiếng như làng

Đặng Xá, làng Chèo ở xã Mỹ Hà (Mỹ Lộc); làng

Chèo Bồng Xuyên, làng Trung Khu ở xã Yên

Phong; Làng Chèo An Lại Hạ, Thụ Ích xã Yên

Nhân (Ý Yên); làng Chèo Phú Vân Nam ở xã Hải

Châu (Hải Hậu); Làng Chèo Hoành Nhị ở xã Giao

Hà, làng Chèo Kiên Hành ở xã Giao Hải và làng

Chèo Duyên Thọ ở xã Giao Nhân (Giao Thuỷ.[6] Từ đầu thế kỷ 20, huyện Mỹ Lộc, Nam

Định đã có 3 làng chèo khá nổi tiếng: làng Đặng,

làng Quang Sán, làng Nhân Nhuế, xã Mỹ Thuận.

Trong thơ của Nguyễn Bính có nhắc đến hội

chèo làng Đặng

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay