
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay đã dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
và khốc liệt hơn giữa các doanh nghiệp (DN) ở tất cả các ngành kinh doanh và khiến
cho các DN không ngừng tìm kiếm cách thức tạo ra lợi thế cạnh tranh như giảm chi
phí, nâng cao năng suất, cải tiến chất lượng sản phẩm, đổi mới sản phẩm… với mục
tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững. Để thực hiện được mục
tiêu này trong bối cảnh môi trường kinh doanh thường xuyên biến động, buộc các DN
phải tiến hành phân tích nhiều hơn các hành vi cạnh tranh theo các chiến lược của các
đối thủ khác nhau trên thị trường. Điều này cũng giúp các DN lý giải được sự khác
biệt về hiệu quả kinh doanh khi các DN áp dụng các loại hình chiến lược cạnh tranh
(CLCT) khác nhau, từ đó quyết định được phương thức cạnh tranh hiệu quả nhất. Bàn
về vai trò của CLCT trong thời đại hiện nay, các nhà kinh tế đều ủng hộ quan điểm
các DN áp dụng CLCT có xu hướng mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn so với
những DN không có CLCT. Theo Thompson và Strickland (2010), CLCT bao gồm
tất cả những hành động mà DN đang triển khai nhằm thu hút người mua, chịu được áp
lực cạnh tranh và cải thiện vị thế cạnh tranh trên thị trường. Lester (2009) cho rằng
CLCT cho phép DN xác định được ngành kinh doanh cũng như các thị trường để khai
thác và tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai. Còn theo quan điểm của Porter (1985)
CLCT xác định vị trí của DN trong một ngành kinh doanh dù lợi nhuận của nó là cao
hay thấp hơn so với mức trung bình của ngành. Mashruwala & Tripathy (2014) tiếp
tục khẳng định rằng một DN xây dựng được năng lực cạnh tranh đặc biệt và CLCT
khó bắt chước sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn so với đối thủ của mình. Lựa chọn
CLCT là quyết định cấp kinh doanh, nó quyết định khả năng cạnh tranh và có tác
động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của DN trong dài hạn, do đó việc xác định các
năng lực cạnh tranh và lựa chọn CLCT tương ứng là vấn đề trọng tâm đối với các DN
trong hoạt động kinh doanh.
Thực phẩm là một trong những ngành công nghiệp quan trọng chiếm tỷ trọng
cao và có đóng góp giá trị đáng kể đối với ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế
Việt Nam nói chung. Riêng giai đoạn 2010 – 2017, số lượng DN kinh doanh thực
phẩm chiếm xấp xỉ 2% tổng số DN trong cả nước (khoảng 7000 DN), với tổng doanh
thu chiếm tới 7,3% (tương đương 54 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng tỷ suất sinh lời đạt
12,5%/ năm và tạo việc làm cho gần 1 triệu lao động (Vietnam Report, 2017). Trải
qua nhiều năm xây dựng và phát triển, các DN kinh doanh thực phẩm của Việt Nam
đã từng bước đáp ứng nhiều sản phẩm thiết yếu, phục vụ nhu cầu trong nước từng
bước hướng tới mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm đa dạng, tăng sức cạnh tranh, nâng
cao hiệu quả kinh doanh và trở thành một ngành kinh tế mạnh góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, dưới sức ép của hội nhập kinh tế, sự thay đổi của
môi trường kinh doanh và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, các DN kinh doanh thực phẩm Việt cần lựa chọn và triển khai CLCT phù
hợp trong đó xem xét một cách kỹ lưỡng về sự tác động của CLCT này hiệu quả kinh
doanh cũng như DN cần tập trung xây dựng các năng lực cạnh tranh tương ứng với
từng loại hình chiến lược cạnh tranh đặt trong bối cảnh sự ảnh hưởng của các yếu tố
môi trường kinh doanh.