i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHẠM XUÂN CÔNG NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - NĂM 2022
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHẠM XUÂN CÔNG NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – ẤN ĐỘ NĂM 1962
Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI Mãsố: 9.22.90.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. VĂN NGỌC THÀNH
2. PGS.TS. ĐÀO TUẤN THÀNH
HÀ NỘI - NĂM 2022
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Văn Ngọc Thành và PGS. TS Đào
Tuấn Thành. Các thông tin, kết quả nghiên cứu sử dụng trong luận án là
trung thực và dựa trên nguồn tài liệu tin cậy. Các trích dẫn ý kiến của
các nhà khoa học và nguồn tài liệu tham khảo được chú thích đầy đủ
theo quy định. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên
cứu này.
Tác giả
Phạm Xuân Công
iv
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Văn Ngọc
Thành và PGS.TS Đào Tuấn Thành đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên và giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các thầy, cô Tổ Lịch sử Thế giới,
Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đóng góp ý kiến và tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại Khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trường Đại học Sư phạm Hà Nội nơi đã cho tôi những cơ
hội học tập và phát triển bản thân trong những năm tháng học đại học và sau đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND tỉnh Lào Cai, Sở Giáo dục và Đào tạo Lào
Cai, trường THPT Số 2 Bắc Hà đã tạo điều kiện cho tôi đi học và giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập.
Tôi xin được cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và những người đã luôn giúp đỡ
tôi trong suốt những năm học tập vừa qua.
Hà Nội, ngày … tháng ….. năm 2022
Tác giả
Phạm Xuân Công
v
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài .......................................................... 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 5
5. Đóng góp của luận án .......................................................................................... 6
6. Bố cục của luận án ............................................................................................... 6
NỘI DUNG ................................................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7
1.1. Các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài ......................................... 7
1.1.1. Các học giả Ấn Độ ..................................................................................... 7
1.1.2. Các học giả Trung Quốc .......................................................................... 10
1.1.3. Các học giả nước ngoài khác ................................................................... 14
1.2. Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam .......................................... 22
1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án .............. 24
1.4. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết ................................. 25
CHƯƠNG 2. NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG NGUYÊN NHÂNCỦA CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962 ..................... 26
2.1. Khái quát lãnh thổ tranh chấp giữa Trung Quốc và Ấn Độ ............................ 26
2.1.1. Khu vực phía tây ...................................................................................... 26
2.1.2. Khu vực trung tâm ................................................................................... 28
2.1.3. Khu vực phía đông ................................................................................... 28
2.2. Bối cảnh quốc tế ............................................................................................. 30
2.3. Bối cảnh khu vực ............................................................................................ 34
2.4. Di sản của người Anh thời thuộc địa với vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ ................................................................................... 35
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3. NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG DIỄN BIẾN CỦA CUỘCCHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962 ................................... 48
3.1. Khái quát diễn biến cuộc chiến tranh ............................................................. 48
3.1.1. Chiến sự khu vực phía tây ....................................................................... 48
3.1.2. Chiến sự khu vực phía đông .................................................................... 49
vi
3.1.3. Ngừng bắn, rút quân ................................................................................ 51
3.1.4. Thiệt hại của hai bên ................................................................................ 52
3.2. Tác động của các nhân tố quốc tế trong diễn biến chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 ....................................................................................... 52
3.2.1. Mỹ và các đồng minh với diễn biến của cuộc chiến tranh ...................... 52
3.2.2. Liên Xô với diễn biến của cuộc chiến tranh ............................................ 65
3.2.3. Pakistan .................................................................................................... 74
3.2.4. Các nước thuộc Phong trào Không liên kết ............................................. 76
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 89
CHƯƠNG 4. NHÂN TỐ QUỐC TẾ SAU CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962 VÀ VIỆC THÚC ĐẨY HÒA GIẢI QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ .................................................................................. 91
4.1. Mỹ, Anh và các đồng minh ............................................................................ 91
4.2. Liên Xô ........................................................................................................... 93
4.3. Pakistan ........................................................................................................... 96
4.4. Sri Lanka ........................................................................................................ 99
4.5. Hội nghị hòa giải Colombo của các nước Không liên kết ........................... 102
Tiểu kết chương 4.................................................................................................... 113
CHƯƠNG 5. NHẬN XÉT VỀ NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG CUỘC CHIẾNTRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962 .................... 115
5.1. Nhận xét chung về cuộc chiến tranh ............................................................ 115
5.2. Nhân tố quốc tế trong nguyên nhân của cuộc chiến tranh ........................... 118
5.3. Nhân tố quốc tế trong diễn biến cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 ....................................................................................................... 124
5.4. Nhân tố quốc tế sau khi Trung Quốc rút quân và quá trình hòa giải ........... 128
5.5. Đánh giá được và mất của Trung Quốc và Ấn Độ qua cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 ...................................................................................................... 131
Tiểu kết chương 5.................................................................................................... 136
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 145
PHỤ LỤC .................................................................. Error! Bookmark not defined.
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Tên đầy đủ Ký hiệu viết tắt
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Tư bản chủ nghĩa TBCN
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh chấp lãnh thổgiữa các nước láng giềng là vấn đề luôn nóng trong lịch
sử loài người từ khi hình thành quốc gia đến nay và nó sẽ còn kéo dài trong tương
lai. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp biên giới như lợi ích quốc gia về
tài nguyên, an ninh quốc gia và chủ nghĩa bành trướng dân tộc,... Quá trình tranh
chấp này diễn ra một cách phổ biến, không loại trừ bất kỳ một quốc gia nào, dù lớn
hay nhỏ, ở bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ khu vực nào dù biên giới trên bộ, trên biển
hay trên không. Trong lịch sử loài người, hàng ngàn cuộc xung đột, chiến tranh biên
giới giữa các nước láng giềng đã xảy ra và việc giải quyết tranh chấp này thường rất
khó khăn và kéo dài.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia rộng lớn, có nền văn hóa lâu đời, đông
dân nhất thế giới. Hiện nay, cả hai nước đang có tốc độ phát triển kinh tế cao, đều
nằm trong nhóm 10 nước có quy mô nền kinh tế lớn nhất thế giới (2020). Có những
dự đoán cho rằng, đến năm 2030, quy mô kinh tế Ấn Độ sẽ vươn lên thứ 3 thế giới
sau Mỹ và Trung Quốc [293]. Như vậy, cả về quy mô lãnh thổ, dân số và nền kinhh
tế, Ấn Độ và Trung Quốc đều rất lớn. Ấn Độ và Trung Quốc cũng là những cường
quốc hạt nhân. Từ những yếu tố về vị trí địa lý, quy mô lãnh thổ, dân số, kinh tế,
sức mạnh quốc phòng, nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng Trung Quốc và Ấn Độ
là hai cường quốc đang lên, vị thế và tầm ảnh hưởng của họ rất lớn tới thế giới trong
tương lai gần. Vì thế, mọi động thái của hai nước luôn thu hút được sự quan tâm của
toàn thế giới, từ những cường quốc đến những nước nhỏ.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có đường biên giới
chung rất dài, cũng là một điểm nóng tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên thế giới
trong suốt ba phần tư thế kỷ qua. Sự tranh chấp này trở nên đặc biệt căng thẳng
vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960 với đỉnh điểm là cuộc chiến tranh
biên giới chớp nhoáng đầy bất ngờ từ 20/10 đến 21/11/1962, trên vùng biên giới
rộng lớn giữa Ấn Độ và Trung Quốc, cướp đi hàng ngàn sinh mạng. Đặc biệt,
vào giữa thế kỷ XX, quan hệ quốc tế bị chi phối bởi cuộc “Chiến tranh
2
lạnh”giữa hai hệ tư tưởng đối lập là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với sự
đứng đầu của hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. Cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962 diễn ra trong bối cảnh cuộc “Chiến tranh lạnh” đang ở
giai đoạn khốc liệt, lại đúng vào thời điểm cuộc khủng hoảng tại Cuba rất căng
thẳng, thậm chí rất gần với cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô; điều
đó đã cuốn hút sự quan tâm đặc biệt của thế giới. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh
biên giới giữa Ấn Độ với Trung Quốc tháng 10 và 11 năm 1962 vẫn thu hút sự
chú ý của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là hai hệ thống đối lập đang cố giành giật
sự ảnh hưởng của mình trên mọi quốc gia, mọi khu vực.
Đến nay, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 đã trải
qua hơn 60 năm, nhưng nó để lại những vết thương khó chữa lành trong mối quan
hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Tình trạng căng thẳng diễn ra thường xuyên trên dọc
tuyến biên giới giữa hai nước Ấn Độ và Trung Quốc kể từ sau cuộc chiến tranh biên
giới năm 1962, mặc dù, từ thập niên 1980 trở đi, cả hai nước đã có nhiều hoạt động
để tìm cách giải quyết và đạt được một số thỏa thuận trên nguyên tắc để giải quyết
bất đồng về vấn đề biên giới chung. Tình trạng căng thẳng trên biên giới Ấn Độ -
Trung Quốc lại được thổi bùng trong năm 2020. Những cáo buộc từ cả hai phía về
tình trạng xâm phạm lãnh thổ của nhau liên tiếp được đưa ra, những hành động
mạnh mẽ trên thực địa như xây dựng các công trình quân sự, các tuyến đường, vận
chuyển vũ khí, chuyển quân đến vùng biên giới hai nước. Đặc biệt, trong những
cuộc đụng độ trực tiếp của binh lính hai nước trên biên giới vào ngày 15 và
16/6/2020 có ít nhất 20 binh lính Ấn Độ thiệt mạng và 43 binh lính Trung Quốc
thương vong, tại thung lũng Galwan thuộc khu vực đang trong tình trạng tranh chấp
ở Ladakh [268]. Cuộc đụng độ biên giới Ấn Độ - Trung Quốc được đánh giá là một
trong mười sự kiện nổi bật thế giới trong năm 2020.
Xung quanh cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 có
những câu hỏi cần giải đáp như: Những nhân tố quốc tế nào và vai trò của những
nhân tố ấy là gì trong việc xảy ra tranh chấp lãnh thổ và chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ năm 1962 nói riêng? Các nhân tố quốc tế đóng vai trò như thế nào
3
trong quá trìnhchiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độnăm 1962xảy ra? Các nhân
tố quốc tế có tác động như thế nào trong việc hòa giải quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc
sau khi cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ kết thúc? Cuộc chiến tranh
biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962có tác động như thế nào đến quan hệ khu
vực và quốc tế?Việc nghiên cứu về các nhân tố quốc tế cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 có nhiều ý nghĩa khoa học.
Việt Nam là nước láng giềng có đường biên giới hàng ngàn km cả trên đất
liền và trên biển với Trung Quốc. Trong suốt chiều dài lịch sử, hai nước xảy ra
nhiều cuộc chiến tranh. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập (năm
1945) và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập (năm 1949), hai nước sớm
thiết lập quan hệ ngoại giao và về cơ bản có mối quan hệ láng giềng khá hữu hảo.
Tuy nhiên, hai nước cũng xảy ra tranh chấp biên giới dẫn đến chiến tranh như: Cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc từ tháng 2 và 3 năm 1979, một số
nơi kéo dài đến năm 1989 và gần đây là những xung đột liên tiếp trên Biển Đông
với những hành động gây hấn của Trung Quốc. Vì vậy, việc nghiên cứu về các cuộc
chiến tranh của Trung Quốc với các nước láng giềng của họ có nhiều ý nghĩa thực
tiễn. Việt Nam có thể có được những gợi ýtừ các cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc với các nước láng giềng trong mối quan hệ bang giao với Trung Quốc nói
riêng và các cuộc xung đột quốc tế nói chung, đặc biệt trong bối cảnh xảy ra những
hành động gây căng thẳng của Trung Quốc trên Biển Đông hiện nay. Vì vậy, việc
nghiên cứu cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độnăm 1962 có ý nghĩa lý
luận, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Nhân tố quốc tế
trong cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962” làm đề tài
nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là tập trung làm sáng tỏ vị trí, vai trò và sự
tác động của các nhân tố quốc tế đến cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn
4
Độ năm 1962 và sự tác động ngược của cuộc chiến tranh này đến quan hệ quốc tế từ
góc độ nhà nghiên cứu Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu dưới đây:
- Phân tích, đánh giá nhân tố quốc tế trong nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến
tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
- Phân tích, đánh giá nhân tố quốc tế tới tiến trình phát triển của chiến tranh
biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
- Phân tích, đánh giá nhân tố quốc tế trong việc thúc đẩy hòa giải cuộc chiến
tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
- Nhận xét, đánh giá những tác động các nhân tố quốc tế đối với cuộc chiến
tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 và sự tác động của cuộc chiến tranh
này đối với khu vực và quốc tế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận án là các nhân tố quốc tế trongcuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu xoay quanh
cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 về sự bùng nổ, diễn biến
và hệ quả. Tuy nhiên, để có cái nhìn bao quát, hệ thống, liền mạch, chúng tôi có đề
cập đến những nội dung trước khi chiến tranh và sau khi chiến tranh kết thúc.
Phạm vi không gian:Nhân tố quốc tế là một khái niệm rộng, gồm các tổ
chức quốc tế, tổ chức khu vực, các quốc gia. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Luận
án, chúng tôi tập trung vào tác động của các cường quốc như Mỹ, Anh và các nước
TBCN, Liên Xô và các nước XHCN, các nước thuộc Phong trào Không liên kết đối
với cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
Phạm vi về nội dung:Luận án tập trung vào sự tác động của các nhân tố
5
quốc tế tới nguyên nhân, diễn biến của cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn
Độ năm 1962. Sự tác động của các nhân tố quốc tế đến thời kỳ hậu chiến và việc
thúc đẩy hòa giải quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của luận án, tác giả tập trung khai thác
và sử dụng những nguồn tài liệu chủ yếu sau:
- Tư liệu gốc:Luận án dựa trên hai nguồn tài liệu gốc chủ yếu bằng tiếng
Anh được xuất bản tại Ấn Độ, Anh, Trung Quốc như: Các công hàm, các bức thư,
công ước, bài nói chuyện, hồi kí, tài liệu mật của CIA mới công bố, các văn bản
ngoại giao,…
- Tài liệu tham khảo: Để hoàn thành luận án, tác giả còn tham khảo các tài
liệu như: sách, công trình nghiên cứu chuyên khảo, báo, tạp chí và một số luận án
Tiến sĩ Lịch sử, quan hệ quốc tế viết trực tiếp về cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ năm 1962 hoặc quan hệ Mỹ – Ấn Độ, Liên Xô – Ấn Độ, Liên Xô –
Trung Quốc,…
Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số bài viết trên các báo điện tử, bản tin,
website bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành lịch sử thế giới, được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Max-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu khoa học lịch sử.
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là phương pháp
nghiên cứu chủ đạo. Trong đó, phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc thu thập,
khảo cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau để phục dựng lại một bức tranh toàn cảnhsự
tác động của các nhân tố quốc tế đến nguyên nhân, diễn biến, kết thúc chiến tranh
biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962. Phương pháp logic giúp tác giả luận giải
các vấn đề nghiên cứu thông qua các sự kiện một cách chặt chẽ và có liên kết.
Ngoài ra, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên
6
ngành; phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế; phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận án
Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên nhìn từ góc độ của nhà
nghiên cứu ở Việt Nam về các nhân tố quốc tế tác động đến cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.Trên cơ sởkếthừa thành quảnghiên cứu của các
công trình trong và ngoài nước và giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra,luận
án hoàn thành có những đóng góp sau:
Một là, cung cấp một bức tranh toàn cảnh về sự tác động của các nhân tố
quốc tế đến toàn bộ cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962, bao
gồm tác động đến nguyên nhân, tiến trình và thời kỳ hòa giải sau cuộc chiến.
Hai là, rút ra những nhận xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về vị
trí, vai trò và sự tác động của các nhân tố quốc tế đối với cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
Ba là,làm phong phú thêm nguồn tài liệuđa chiều, cập nhậtvềlĩnh vựcnghiên
cứu, cung cấp một góc nhìnkhách quan vềtranh chấp lãnh thổ Ấn Độ - Trung Quốc,
cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962, phản ứng của cộng đồng
quốc tế, tác động của chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 đến quan hệ quốc
tế và khu vực.Đây là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động học tập và nghiên
cứu lịch sử, nghiên cứu quan hệ quốc tế thời kỳ hiện đại.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án kết cấu gồm 5 chương:
Chương 1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Nhân tố quốc tế trong nguyên nhân của cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962
Chương 3. Nhân tố quốc tế trong diễn biến của cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962
Chương 4. Nhân tố quốc tế sau cuộc chiến tranhbiên giới Trung Quốc – Ấn
Độ năm 1962 vàviệc thúc đẩy hòa giảiquan hệ Trung Quốc – Ấn Độ.
Chương 5.Nhận xét về nhân tố quốc tế trong cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc vào năm 1962 để lại
những hệ lụy to lớn không chỉ với hai nước mà với cả thế giới. Vì thế, sự kiện này
càng thôi thúc các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu. Hàng trăm công trình ở nhiều
cấp độ, từ những bài viết đến những luận văn, luận án hay cả những cuốn sách
chuyên khảo đã ra đời ngay sau khi chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy
ra năm 1962 và trong suốt hơn 60 năm qua các công trình vẫn tiếp tục được công
bố. Nghiên cứu về các nhân tố quốc tế trong cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc
- Ấn Độ năm 1962, chúng tôi đã tiếp cận một nguồn sử liệu rất phong phú. Do có
nhiều tác phẩm vừa bàn về cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm
1962, vừa bàn về các nhân tố quốc tế với cuộc chiến tranh này, chúng tôi chọn cách
phân chia các tác phẩm theo nghiên cứu ở trong và ngoài nước theo tiến trình thời
gian xuất bản.Trong khuôn khổ luận án cũng như những tài liệu chưa tiếp cận được
hết, chúng tôiphân tích một số công trình tiêu biểu sau đây.
1.1. Các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài
1.1.1. Các học giả Ấn Độ
Các học giả Ấn Độ đã dành nhiều thời gian và công sức tìm hiểu cuộc chiến
tranh với Trung Quốc năm 1962 và công bố rất nhiều công trình khoa học. Có thể
điểm qua một số tác giả với các công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn “History of the conflict with China, 1962” (Lịch sử cuộc xung
đột với Trung Quốc năm 1962), History Division Ministry of Defence Government
of India, New Delhi, 1992 của P.B. Sinha và A. Athale,các tác giả cho rằng ngay từ
khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Đảng Cộng sản Trung Quốcluôn mong
muốn mở rộng lãnh thổ xuống phía namvì phía bắc bị chặn bởi Liên Xô.Để thực
hiện dã tâm này, năm 1950, Trung Quốc đã sáp nhập Tây Tạng vào lãnh thổ của
mình, xây dựng đường nối Tân Cương với Tây Tạng chạy qua Aksai Chin, quân đội
Trung Quốc liên tiếp xâm lấn lãnh thổ Ấn Độ. Các tác giảcũng trình bày khá chi tiết
so sánh lực lượng, diễn biến tại từng vị trí. Các tác giả cũng phân tíchmột số phản
8
ứng,các khoản viện trợ quân sự và hợp tác quốc phònggiữa Mỹ và phương Tây với
Ấn Độ; sự chuyển biến về lập trường của Liên Xô từ ủng hộ Trung Quốc sang ủng
hộ Ấn Độ.
J.S. Dalal trong Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Khoa học và Nghệ thuật
quân sự được bảo vệ vào năm 1993 tại Đại học Madras với tiêu đề “China – India
Disputes: India’s Current Option” (Tranh chấp Trung Quốc – Ấn Độ: Các lựa chọn
hiện tại của Ấn Độ) đã nghiên cứu khá kĩ lịch sử tranh chấp lãnh thổ Ấn Độ - Trung
Quốc, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 và những lựa chọn để giải
quyết tranh chấp giữa hai nước. Tác giả đã cung cấp nhiều thông tin về quan điểm
của Ấn Độ liên quan đến tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Trong bài “India-China Relations in the Post-Cold War Era” (Quan hệ Ấn
Độ-Trung Quốc trong thời kìsau Chiến tranh lạnh), đăng trên Asian Survey, Vol 34,
No.3, March 1994,Surjit Mansingh cho rằng Ấn Độ có đầy đủ chứng cứ về các
vùng đất tranh chấp; Trung Quốc đã gây ra cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ
năm 1962; Trung Quốc đã phản bội tình hữu nghị mà J. Nehru đã giúp đỡ trong
những năm 1950, đặc biệt là việc Ấn Độ vận động để Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa trở thành trong 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Cuốn “Essays in frontier history: India, China, and the disputed
border”(Tuyển tập về Lịch sử Biên giới: Ấn Độ, Trung Quốcvà tranh chấp biên
giới)do Parshotam Mehra chủ biên (2007), cho rằng Ấn Độ và Trung Quốc có một
cuộc chiến tranh tàn bạo, cay đắng và tốn kém dọc theo dãy Himalaya năm 1962.
Cuộc chiến này là nguyên nhân của sự thay đổi căn bản trong chính sách quốc
phòng của Ấn Độ theo chiều hướng hiện đại hóa. Cuốn sách cũng cho thấy, kể từ
1980 trở đi Ấn Độ và Trung Quốc có những hoạt động để giải quyết tranh chấp lãnh
thổ, cải thiện quan hệ song phương và đã có những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, hai
nước chưa thể đạt được thỏa thuận phân định biên giới do còn nhiều bất đồng. Ấn
Độ kiên quyết từ chối công nhận lãnh thổ Trung Quốc tuyên bố ở Arunachal
Pradesh. Ngược lại, Trung Quốc cũng không cần phải vội vã giải quyết tranh chấp
với Ấn Độ.
9
Trong cuốn “India–China Relations: The Border Issue and Beyond” (Quan
hệ Ấn Độ - Trung Quốc: Vấn đề biên giới và hơn nữa), hai học giả Mohan
Guruswamy và Zorawar Daulet Singh đã phân tích nguồn gốc và nhận thức tranh
chấp biên giới, lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc theo tiến trình lịch sử dưới góc
nhìn hiện đại khi Trung Quốc và Ấn Độ đều là những cường quốc đang nổi. Theo
các tác giả, Trung Quốc và Ấn Độ lao vào cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 là
do chưa thấu hiểu về tâm lý và chiến lược biên giới của nhau. Sau cuộc chiến này,
Ấn Độ đã phát triển mạnh cơ sở hạ tầng để có thể chống lại những hoạt động của
Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc đầu tư quy mô lớn vào Tây Tạng. Các tác
giả cũng cho rằng, quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ hiện nay được cải thiện khá nhiều
do gia tăng nhu cầu quan hệ kinh tế, thương mại và sự hợp tác tại các diễn đàn quốc
tế của hai nước nhưng tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa thể giải quyết.
S.K. Bhutani trong bài viết “Sino-Indian War, 1962 and the Role of Great
Powers” (Chiến tranh Trung Quốc -Ấn Độnăm 1962 và vai trò của các cường quốc)
đăng trên Journal of Defence Studies, Vol-6, Issue-4.pp- 109-124, 2012, cho rằng,
nguyên nhân xung đột, chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ là do nhận thức và hành
động của cả Ấn Độ và Trung Quốc. Theo tác giả, Trung Quốc cho rằng Ấn Độ tìm
cách can thiệp và ủng hộ lực lượng nổi dậy ở Tây Tạng năm 1959, tố cáo Ấn Độlo
sợsự thay đổi chính trịở Tây Tạngvà cố gắng giữTây Tạng như làmộtvùng đệm giữa
Ấn Độ và Trung Quốc, Ấn Độphải chịu trách nhiệm đối vớicuộc nổi dậy củaTây
Tạngvào năm 1959vàẤn Độ thực hiện “Chính sách Tiến lên phía trước” càng đẩy
quan hệ hai nước căng thẳng hơn. Tác giả cũngphân tích sự chuyển biến trong phản
ứng ngoại giao, viện trợ quân sự của Anh và Mỹ cho Ấn Độ, sự thay đổi trong quan
điểm của Liên Xô đối với xung đột và chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ.
Cuốn “China’s India War 1962 looking back to see the future” (Cuộc chiến
tranh với Ấn Độ của Trung Quốc năm 1962: Nhìn lại để hướng tới tương lai), của
Jasjit Singh, tập hợp các bài viết của nhiều học giả Ấn Độ.Tác giả Jasjit Singh trong
bài “China’sIndia war: Causes of the war” (Cuộc chiến tranh với Ấn Độ của Trung
Quốc: Nguyên nhân chiến tranh) cho rằng, những nguyên nhân chính dẫn đến chiến
10
tranh Trung Quốc – Ấn Độ 1962, đó là: Thứ nhất,Tây Tạng – sự phát triển bên
trong và xung quanh Tây Tạng từ năm 1950.Thứ hai, tranh chấp biên giới, lãnh thổ,
sự thất bại của đàm phán vào tháng 3/1961.Thứ ba, vai trò lãnh đạo và nhân cách
của Mao Trạch Đông, chính sách tham vọngvà hành động của Trung Quốc.Thứ tư,
chính sách và hành động của Ấn Độ.Sujit Dutta trong bài “Mao, the Cold War and
the War against India” (Mao, Chiến tranh lạnh và cuộc chiến chống lại Ấn Độ)cho
rằng,Mao Trạch Đônglà người có vai trò chính trong việc ra quyết định tại Trung
Quốc và việc ông thực hiện một cuộc chiến chống cánh tả cực đoan và chủ nghĩa
dân tộc trong thời kỳ 1957 – 1970 ở Trung Quốc là nguyên nhân quan trọng cho
việc quyết định tấn công Ấn Độ.Bài viết “Sino-Indian War of 1962: US Perception
and Response” (Chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962: Nhận thức và phản
ứng của Mỹ) của Chintamani Mahapatra cung cấp nhiều thông tin về những nhận
thức, phản ứng và các khoản viện trợ của Mỹ cho Ấn Độ.
Trong bài viết “Sino-Indian War of 1962” đăngtrên Indian Historical Review
44, 2017 (2), tr 285–312, PK Chakravorty cho rằng nguyên nhân cuộc chiến tranh
biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 gồm vấn đề Tây Tạng; tranh chấp biên
giới Ấn Độ - Trung Quốc; tham vọng cũng như các chính sách, hành động và tính
cách của Mao Trạch Đông; chính sách và hành động của Ấn Độ.
Từ việc phân tích các công trình của các học giả Ấn Độ, có thể rút ra quan
điểm chung cho rằng, nguyên nhân chủ yếu củacuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độcó nguyên nhân chủ yếu là do chính sách bành trướng của Trung
Quốc, nhất là vai trò cá nhân của Mao Trạch Đông. Bên cạnh đó, do chính sách
không dứt khoát của Ấn Độ đối với Tây Tạng cũng là một yếu tố gây mâu thuẫn với
Trung Quốc. Một số rất ít học giả có điểm qua một cách sơ lược nhưng không đánh
giá mức độ tác động của các phản ứng của Mỹ, Liên Xô và Đồng minh đến toàn
bộcuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
1.1.2. Các học giả Trung Quốc
Rất nhiều học giả Trung Quốc nghiên cứu, tìm hiểu về tranh chấp lãnh thổ
với Ấn Độ, có thể kể tới một số học giả sau:
11
Trong bài viết “Historical background of the Sino-Indian border problem
and the 1962 Sino-Indian border war” (Bối cảnh lịch sử của vấn đề biên giới Trung
Quốc-Ấn Độ và cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc -Ấn Độ năm 1962), in trong
Ya tai ziliao (Asia Pacific materials),Số. 1, 18/3/1989, Wang Hongwei cho rằng,Ấn
Độ hỗ trợ quân nổi dậyTây Tạng vào năm 1959; huấn luyện quân sự chophiến
quânTây Tạngvà cho phép họthực hiện các hoạt động chống Trung Quốctrên lãnh
thổ Ấn Độ. Bên cạnh đó, Ấn Độcòn tiếnvàolãnh thổ Trung Quốc. Đó là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến Trung Quốc tấn công Ấn Độ vào năm 1962.
Cuốn “History of the Sino-India border self defensive war” (Lịch sử cuộc
chiến tranh phòng thủ tự vệ biên giới Trung Quốc -Ấn Độ), của Zhong Yin
Bianjiang Ziwei Fanji Zuozhanshi. Đây là một công trình khá đồ sộ đề cập tới hầu
hết các vấn đề của cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 từ
nguyên nhân, diễn biến đến sự can dự của các nước lớn. Tác giả cho rằng nguyên
nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh là do Ấn Độ xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc
thông qua “Chính sách Tiến lên phía trước” bằng việc thiết lập một loạt đồn trên
lãnh thổ Trung Quốc, liên tục tấn công lính biên phòng Trung Quốc buộc họ phải
phản công. Cuốn sách cũng trình bày chi tiết diễn biến chiến tranh và đề cập sơ lược
phản ứng của các nước lớn.
Cuốn “True history of the Sino- Indian border war” (Sự thật lịch sử chiến
tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ), Hong Kong: Cosmos Books Ltd, 1993 của
Xu Yan, cho rằng, yếu tố quyết địnhsự suy thoái quan hệ giữa Trung Quốc vàẤn Độ
làdo sựbảo hộ của J. Nehru với những người Tây Tạngbỏ trốn sau khithực hiện cuộc
nổi loạnở Lhasavào tháng7/1959,J.Nehrunỗ lực để biếnTây Tạngthành một “vùng
đệm”giữa Trung Quốc vàẤn Độ.
Cuốn “The Sino – Indian Border Dispute and Sino – Indian Relations (Tranh
chấp biên giới Trung Quốc – Ấn Độ và quan hệ Trung - Ấn) do Xuecheng Liu chủ
biên, xuất bản năm 1994, tật hợp các bài viết của nhiều học giả Trung Quốc. Lần
đầu tiên các học giả Trung Quốc phân tích tự do và công khai về tranh chấp biên
giới Ấn Độ - Trung Quốc, đặt mối quan hệ Trung – Ấn trong mối quan hệ cạnh
12
tranh quyền lực gay gắt giữa Mỹ và Liên Xô thời kỳ Chiến tranh lạnh và mối quan
hệ Trung Quốc - Ấn Độ - Pakistan.
Cuốn “中印边境自卫反击作战史” (Lịch sử cuộc phản công biên giới
Trung Quốc - Ấn Độ), của Nhà xuất bản Khoa học quân sự Trung Quốc,1994, cho
rằng,Ấn Độ can thiệp vào việc giải phóng Tây Tạng nhằm duy trì các đặc quyền của
mình ở đây và biến Tây Tạng trở thành vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ;Ấn
Độ đưa ra các yêu sách lãnh thổ với Trung Quốc và cử quân đội vượt qua ranh giới truyền thống để chiếm 90.000 km2 lãnh thổ Trung Quốc ở phía nam Đường
McMahon. Ấn Độ kế thừa sự xâm lược của đế quốc Anh, thúc đẩy chủ nghĩa bành
trướng, bá quyền ở khu vực, tạo ra căng thẳng biên giới, xâm chiếm lãnh thổ Trung
Quốc. Cuốn sách cũng tố cáo Mỹ, Liên Xô và các thế lực phản động quốc tế ủng hộ
Ấn Độ chống Trung Quốc.
Zhao Weiwen trong cuốn “Record of the vicissitudes of India-China
relations (1949-1999)”(Ghi lại những thăng trầm của quan hệ Ấn – Trung, 1949 -
1999), Shi shi chubanshe, 2000, cho rằng, Tây Tạng là nguồn gốc dẫn đến chiến
tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962. Ấn Độhy vọng tiếp tục kế thừa di sản của
người Anh tại Tây Tạng,J. Nehru muốn đẩy Tây Tạng ra khỏi vòng kiểm soát của
Trung Quốc.
Trong bài “Tranh chấp biên giới Trung - Ấn: Ấn Độ chiếm bao nhiêu lãnh
thổ của Trung Quốc? đăng trên Tạp chí Toàn cầu (2003), Võ Vĩnh Niên cáo buộc
Ấn Độ đã sửa bản đồ vào năm 1954 và đường Mc Mahon được Ấn Độ coi là biên giới chính thức, qua đó, chiếm 90.000 km2 lãnh thổ của Trung Quốc ở phía đông biên giới, chiếm 2000 km2 tại khu vực giữa và gộp cả phần phía tây vào Ấn Độ. Tổng cộng Ấn Độ chiếm 125.000 km2 của Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh
biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962, Ấn Độ thất bại hoàn toàn trên chiến
trường nhưng Ấn Độ lại thu được nhiều lợi ích. Sau khi quân đội Trung Quốc rút
lui, quân Ấn Độ đã chiếm đóng bất hợp pháp một phần lãnh thổ của Trung Quốc.
Bài viết “The Tibetan Rebellion of 1959 and China’s Changing Relations
with India and the Soviet Union” (Cuộc nổi dậy của Tây Tạng năm 1959 và sựthay
13
đổi mối quan hệ của Trung Quốc với Ấn Độ và Liên Xô) của Chen Jian, phân tích
quá trình diễn ra và đàn áp cuộc nổi dậy ở Tây Tạng năm 1959, đó cũng là sự kiện
làm tăng mâu thuẫn Ấn Độ - Trung Quốc, Liên Xô – Trung Quốc.
Trong Luận án “The Asymmetrical Threat Perceptions in China-India
Relations after the 1998 Nuclear Tests” (Nhận thức về mối đe dọa không cân xứng
trong quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ sau các vụ thử hạt nhân năm 1998), tại trường
Đại học kinh tế và khoa học chính trị Luân Đôn, 2010,Tien-Sze Fang cho rằng Tây
Tạng chính là một vấn đề lớn trong quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc. Tác giả kết luận
rằng, mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ đã đạt được một số sự đồng thuận, nhưng vấn
đề Tây Tạng vẫn còn lâu mới được giải quyết hoàn toàn và tiếp tục ảnh hưởng đến
quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ.
Trong bài “Look Beyond the Sino–Indian Border Dispute”(Nhìn xa tranh
chấp biên giới Trung - Ấn) đăng trên tạp chí China Report47: 2 (2011): 147–158,
Liu Xuecheng cho rằng,nguyên nhân tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung
Quốc là do sự bành trướng của Anh và Nga đầu thế kỉ XX và quá trình tìm cách
phân định biên giới của người Anh mà Trung Quốc không chấp nhận;nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là do chính
sách của J. Nehru: cho CIA sử dụng lãnh thổ Ấn Độ để giúp quân nổi dậy Tây Tạng
từ năm 1959, cho Da lai Lama và chính phủ Lahsa lưu vong trên đất Ấn Độ.
Hongzhou Zhang và Mingjiang Li trong bài viết“Sino – Indian Boder
Disputes”(Tranh chấp biên giới Trung Quốc – Ấn Độ),đăng trên AnalysisSố 181,
2013, cho rằng,J. Nehru từ chối đề nghị công nhận lẫn nhau của Chu Ân Lai với
việc Ấn Độ kiểm soát phía nam đường Mc Mahon còn Trung Quốc kiểm soát Askai
Chin. Hơn nữa,Ấn Độ còn thực hiện “Chính sách Tiến lên phía trước” đã thúc đẩy
Trung Quốc tấn công Ấn Độ vào tháng 10/1962.
Như vậy, các học giả Trung Quốc có quan điểm chung về nguyên nhân sâu
xa dẫn đến chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 là vấn đề Tây Tạng. Họ cho
rằng, Ấn Độ nỗ lực tách Tây Tạng khỏi Trung Quốc và biến nó thành “vùng đệm”
giữa Ấn Độ với Trung Quốc. Ấn Độ đã duy trì biên giới do đế quốc Anh tạo ra,
14
chính sách hai mặt của Ấn Độ đối với Tây Tạng, chính sách Tiến lên phía trướcxâm
phạm lãnh thổ Trung Quốc, là những nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh biên giới
Ấn Độ– Trung Quốc. Một số học giả Trung Quốc cũng đưa ra những chứng cứ
nhưng không đánh giá về việc Mỹ, phương Tây và Liên Xô hợp tác với Ấn Độ
chống lại Trung Quốc.
1.1.3. Các học giả nước ngoài khác
Tranh chấp lãnh thổ và cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là
một đề tài thu hút được nhiều học giả phương Tây nghiên cứu. Có thể kể đến một số
học giả với các công trình tiêu biểu sau:
Trong bài viết “The Sino-Indian Border War”(Chiến tranh biên giới Trung
Quốc – Ấn Độ)Current History(pre-1986); Sep 1963; 45, 000265; ProQuest
Central,Werner Levi cho rằng, Trung Quốc tấn công Ấn Độ năm 1962 là để chứng
minh sức mạnh của Trung Quốc và sự yếu kém của Ấn Độ, phục vụ việc lãnh đạo
châu Á của mình. Hơn nữa, Trung Quốc muốn phá hoại chính sách trung lập của Ấn
Độ, coi J. Nehru là trung lập giả hiệu và khi Ấn Độ bị tấn công sẽ phải tìm kiếm hỗ
trợ của các nước đế quốcvà như thế uy tín của J. Nehru sẽ bị giảm xuống.
Urmila Phadnis trong bài viết “Ceylon and the Sino-Indian Border
Conflict”(Sri Lanka và xung đột biên giới Trung Quốc – Ấn Độ), đăng trên Asian
Survey, Vol. 3, No. 4, 1963, đã phân tích mối quan hệ giữa Sri Lanka với Trung
Quốc và Ấn Độ trước khi xảy ra chiến tranh năm 1962 và phản ứng chính thức của
Chính phủ Sri Lanka với chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Trong cuốn “The China - India border: The origin of the disputed boundary”
(Biên giới Trung Quốc – Ấn Độ: Nguồn gốc của tranh chấp biên giới), Oxford
University Press, London, 1964,tác giả Alastair Lamb cho rằng,nguồn gốc dẫn tới
các tranh chấp, xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc nói chung, nguyên nhân làm
bùng nổ cuộc Chiến tranh biên giới năm 1962 nói riêng, có sự tác động sâu sắc của
người Anh trong quá trình cai trị Ấn Độ. Khi đang cai trị Ấn Độ, người Anh đã tìm
cách phân định ranh giới với Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không chấp nhận
việc phân định này. Sau khi được trao độc lập, Ấn Độ đã sử dụngbiên giới do người
15
Anh phân định là biên giới chính thức. Sự bất đồng giữa Trung Quốc và Ấn Độ về
biên giới là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chiến tranh giữa hai nước.
Cecil V. Crabb, Jr.trong cuốn “The Elephant and the Grass: A Study of Non-
alignment” (Voi và Cỏ: Một nghiên cứu về Phong trào Không liên kết), Frederick
A. Praeger Publishers, New York, phân tích phản ứng của các nước thuộc Phong
trào Không liên kết khi Chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ tháng 10/1962,
với sự bất ngờ ban đầu, sự chia rẽ sau đó và những nỗ lực của nhómsáu nước
Không liên kết làm cầu nối hòa giải giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Trong bài viết “India and the Soviet Union” (Ấn Độ và Liên Xô) đăng trên
The Annals of the American Academy of Political and Social Science, Vol. 386,
Dietmar Rothermund phân tích quan hệ Ấn Độ - Liên Xô trong một thời gian dài,
trong đó có phản ứng của Liên Xô cho Ấn Độ xung quanh cuộc chiến tranh Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Cuốn “India’s China war” (Cuộc chiến tranh với Trung Quốc của Ấn Độ),
Jaman H. Shah Jaico Publishing house, Bombay, 1971, củaNeville Maxwell là một
trong những công trình ra đời sớm và rất nổi tiếng viết về cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962. Tác giả trình bày khá chi tiết về tự nhiên và quá
trình hình thành đường biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, tiến trình xung đột, quan
điểm của cả hai nước, diễn biến cuộc chiến tranh, sự hòa giải sau chiến tranh và đề
cập một số phản ứng của các nước lớn. Theo tác giả,quá trình hình thành biên giới
giữa Ấn Độ và Trung Quốc có liên quan mật thiết tới người Anh và sự cạnh tranh
Anh – Nga. Cả đường Johnsonở phía tây, đường Mc Mahon ở phía đông mà Ấn Độ
coi là biên giới chính thức đều do người Anh thiết lập trong một quá trình phức tạp
và kéo dài từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, những đường biên giới
này Trung Quốc không chấp nhận, đó là lý do dẫn đến tranh chấp giữa hai quốc gia.
Tác giả cũng phân tích sơ lược một số hoạt động hòa giải của các nước thuộc Phong
trào Không liên kết.
Bài viết “Non-Alignment Under Stress: The West and the India-China
Border War” (Không liên kết dưới sức ép Phương Tây và chiến tranh biên giới
16
Trung Quốc - Ấn Độ)đăng trênPacific AffairsVol. 52,No. 4 (Winter, 1979-1980),
của Michael Brecher, phân tích những phản ứng ngoại giao tích cực và các khoản
viện trợ của Mỹ và Anh cho Ấn Độ khi chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ
tháng 10/1962, đồng thời hai nước này cũng là cầu nối tổ chức các cuộc đàm phán
giữa Pakistan và Ấn Độ để tìm cách giải quyết vấn đề Kashmir.
Trong cuốn “Sino-Soviet Conflict Over India” (Xung đột Trung Quốc – Liên
Xô về Ấn Độ)Publishers Shakti Malik Abhinav Publications E-37, Hauz Khas, New
Delhi, 1988, Hemen Ray đã đề cập đến những mâu thuẫn, xung đột giữa Liên Xô và
Trung Quốcgồm: Nguồn gốccủacuộc xung đột; tranh luậnTrung Quốc – Liên Xô
vềẤn Độ; phản ứngcủa Liên Xôđối vớixung độtbiên giới giữa Trung Quốc vớiẤn
Độ vàchiến tranh TrungQuốc -Ấn Độ năm 1962; Trung Quốc chống lạimối quan
hệLiên Xô- Ấn Độ.
Cuốn “The China-India Border War (1962)” (Chiến tranh biên giới Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962), 1984, Calvin.James Barnard cho rằng, nguồn gốc tranh
chấp lãnh thổ và chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 liên quan đến
người Anh và người Nga vì họ muốn biến Tây Tạng thành vùng đệm giữa Ấn Độ và
Nga. Từ giữa thế kỉ XIX, người Anh đã tìm cách xác định ranh giới phía Bắc. Sau
khi Ấn Độ độc lập đã duy trì những đường này là đường biên giới chính thức của
mình và không đàm phán với Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc đã không công
nhận các đường biêndo Anh tạo ra, đây là nguồn gốc xảy ra tranh chấp giữa Ấn Độ
và Trung Quốc.
Luận án “The Sino-Indian war of 1962 and the United States: A study of
Indo-UScollaboration againstChina” (Chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 1962 và
Mỹ: Một nghiên cứu về hợp tác Ấn Độ - Mỹ chống lại Trung Quốc), Study Center
for Africa, North and South America, Quaid-i-Azam University, Islamabad
(Pakistan), 1992,của Khalid Javed, là một công trình khảo cứu công phu cung cấp
nhiều tư liệu và phân tích về mối quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc giai đoạn 1949 –
1962, quan hệ Mỹ – Trung Quốc giai đoạn 1949 – 1962, các bất đồng Ấn Độ - Mỹ
thời kì trước cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 1962, hợp tác quân sự, kinh tế,
ngoại giao Ấn Độ - Mỹ trong cuộc chiến tranh Trung Quốc -Ấn Độ năm 1962.
17
Trong cuốn “India and the United States: Estranged Democracies 1941 –
1991” (Ấn Độ và Mỹ: Các nền dân chủ xa lạ 1941 – 1991), National Defense
University Press Publications, 1992, Denis Kux đã trình bày mối quan hệ Ấn Độ - Mỹ
trong một thời gian dài, trải qua nhiều đời Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Ấn Độ, đặc
biệt là những phản ứng ủng hộ, sự hợp tác và các khoản viện trợ cho Ấn Độ chống lại
Trung Quốc trong và sau chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
John W. Garver trong bài viết “China's Decision for War with India in 1962”
(Quyết định của Trung Quốc cho chiến tranh với Ấn Độ năm 1962), 2005, nhận
định,Trung Quốc tấn công Ấn Độ vào năm 1962 là do nhận thức của Mao Trạch Đông:
Ấn Độ muốn kiểm soát Tây Tạng, biến Tây Tạng thành vùng đệm giữa Ấn Độ và
Trung Quốc; Ấn Độ kiêu ngạo, coi thường sức mạnh của Trung Quốc.
Bài viết “The Sino-Indian Conflict, the Cuban Missile Crisis, and the Sino-
Soviet Split, October 1962: New Evidence from the Russian Archives” (Xung đột
Trung Quốc - Ấn Độ, khủng hoảng tên lửa Cuba và sự chia rẽ Trung Quốc – Liên
Xô, tháng 10/1962: Bằng chứng mới từ kho lưu trữ Nga) của M.Y.
Prozumenschikov đăng trên Cold War International History project Bulletin,
(Winter 1996/1997), cung cấp nhiều thông tin mới về phản ứng của Liên Xô đối với
Chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Cuốn “The CIA and the U-2 Program, 1954-1974” (Cục Tình báo trung
ương Mỹ và chương trình U2, 1954 – 1974) của Gregory W. Pedlow và Donald
E.Welzenbach cung cấp những thông tin hợp tác Ấn Độ - Mỹ để máy bay U2 do
thám vùng biên giới Ấn Độ - Trung Quốc từ 1962 đến 1967.
Jacob Abadi trong bài viết “The Sino-Indian conflict of 1962- a test case for
India’s policy on non-alignment” (Xung đột Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 – một
phép thử đối với chính sách trung lập của Ấn Độ) đăng trên Journal of Third World
Studies; Fall 1998; 15, 2; ProQuest Central, đã cung cấp những thông tin và phân
tích phản ứng của Anh, Mỹ, Liên Xô khi chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm
1962 bùng nổ.
Trong bài viết “The Politics Of Anglo-American Aid To Non-aligned India,
18
1962” (Chính sách của Anh – Mỹ viện trợ cho Ấn Độ Không liên kết năm 1962)
đăng trên Electronic Journal ofInternational History - Article 7, ISSN 1471-1443,
2002, Tracy Lee Steele cho rằng từ khi giành được độc lập, Ấn Độ thực hiện đường
lối trung lập nhưng có phần nghiêng về Liên Xô, Mỹ đã có những tiếp cận với Ấn
Độ như: đề xuất mua khoáng sản của Ấn Độ, đề xuất viện trợ, hợp tác với Ấn Độ
trong các vấn đề quốc tế nhưng Ấn Độ từ chối, thậm chí bác bỏ, lên án Mỹ. Tuy
nhiên, Mỹ, Anh vẫn nhẫn nại chờ thời và cuộc tấn công của Trung Quốc vào Ấn Độ
tháng 10/1962 đã cho Mỹ, Anh cơ hội. Khi được Ấn Độ kêu gọi giúp đỡ, Anh, Mỹ
ngay lập tức viện trợ quân sự cho Ấn Độ, tiếp theo là những hợp tác quân sự, kinh
tế Ấn Độ - Mỹ kèm theo điều khoản đàm phán giữa Ấn Độ và Pakistan để giải
quyết vấn đề Kashmir.
Aldo. D. Abitbol trong bài viết “Causes of the 1962 Sino-Indian War A
systems level approach” (Nguyên nhân chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962
một tiếp cận hệ thống), Josef Korbel Journal of Advanced International Studies 1,
2009, trình bày nguồn gốc và sự kiện dẫn đến xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn
Độ, lý thuyết về hệ thống trong quan hệ quốc tế và vận dụng chủ nghĩa hiện thực
hiện đại vào giải thích nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 1962
từ những biến cố bên ngoài liên quan đến các lợi ích quốc gia, ảnh hưởng của hệ
thống quốc tế đối với hành vi của mỗi nước thông qua những ràng buộc về cơ cấuvà
nhận thức của lãnh đạo hai nước.
Bài viết “The Sino-Indian War of 1962 in Anglo-American Relations” (Chiến
tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 trong quan hệ Anh – Mỹ) đăng trên Journal
of Contemporary History, Vol. 44, No. 1, Jan, 2009, của David R. Devereux, cung
cấp những tài liệu và phân tích về phản ứng, viện trợ và hợp tác của Anh, Mỹ với
Ấn Độ khi chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ tháng 10 và 11/1962.
Bài viết “The Great Game: imperial Origins of the 1962 Sino-Indian War”
(Cuộc chơi lớn: Nguồn gốc đế quốc của cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm
1962) cho rằng, tranh chấp lãnh thổ dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ
năm 1962 có nguồn gốc sâu xa từ “Cuộc chơi lớn” giữa Anh với Nga. Với mục tiêu
19
đẩy người Nga càng cách xa Ấn Độ càng tốt, ngay từ giữa thế kỉ XIX, người Anh đã
tìm cách xác định ranh giới phía bắc Ấn Độ và tạo ra đường Johnson-Ardagh ở phía tây
và đường Mc Mahon ở phía đông. Sau khi giành được độc lập (1950), Ấn Độ duy trì
những đường này là đường biên giới chính thức của mình và không chấp nhận đàm
phán với Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc không công nhận các đường Johnson-
Ardagh và Mc Mahon là biên giới chung giữa Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong bài viết “After Nehru, What? Britain, the United States, and the Other
Transfer of Power in India, 1960–64” (Sau Nehru, điều gì? Anh, Mỹ, và việc
chuyển giao quyền lực ở Ấn Độ, 1960 - 1964) đăng trên International History
Review, 33 (1), 2011, Paul M. McGarr phân tích mối quan tâm của Anh và Mỹ đối
với Ấn Độ, trong đó có phản ứng và sự viện trợ của Anh, Mỹ khi nhận được lời kêu
gọi giúp đỡ của Ấn Độ chống lại cuộc tấn công từ Trung Quốc tháng 10/1962.
Mohammad Wasim trong cuốn “China – India Border Conflict: Recent
Perspective (Xung đột biên giới Trung Quốc – Ấn Độ: Quan điểm gần đây), 2011,
cho rằng, nguồn gốc tranh chấp biên giới là do chính sách của đế quốc Anh muốn
biến Afghanistan và Tây Tạng thành vùng đệm giữa Ấn Độ và Nga nên tạo ra
đường Mc Mahon và đường Mc Donald và xung đột năm 1962 giữa Trung Quốc và
Ấn Độ là do chính sách sai lầm của J. Nehru, do “Chính sách Tiến lên phía trước”
từ 1961 với sự hỗ trợ của quân đội Mĩ cho Ấn Độ.
H. Srikanth trong bài viết “The Sino-Indian Border Dispute Overcoming
Nationalist Myopia” (Tranh chấp Biên giới Trung Quốc -Ấn Độ vượt qua nhận
thứcthiển cậndân tộc) đăng trên Economic & PoliticalWeekly, september 29, 2012
vol xlv II no 39 EPW),cho rằng, tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ dẫn
đến chiến tranh năm 1962 và liên tục xung đột kể từ đó đến nay là do nhận thức
thiển cận. Chiến tranh nổ ra một phần là do “Chính sách Tiến lên phía trước” của
Ấn Độ và việc Ấn Độtừ chối đàm phán với Trung Quốc. Mặt khác, hành động tiến
công của Trung Quốc bị chi phối bởi hai nhận thức: Thứ nhất,họ có cảm giác là Ấn
Độ đang cố gắng làm suy yếu quyền kiểm soát của Trung Quốcđối với Tây Tạng.
Thứ hai, Ấn Độ cần phải bị trừng phạt vì xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc.
20
Trong bài viết “The Untold Story: How Kennedy came to India's aid in
1962” (Câu chuyện chưa kể: Cách thức Kennedy quyết định viện trợ cho Ấn Độ
năm 1962) đăng trên http://www.rediff.com,2012, Anil Athale đã kể câu chuyện về
quá trình Kennedy quyết định viện trợ cho Ấn Độ khi chiến tranh Trung Quốc – Ấn
Độ bùng nổ tháng 10/1962.
Bài viết “Ceylon’s brave bid to settle Sino-Indian dispute” (Nỗ lực dũng
cảmcủaSrilankanhằmgiải quyết tranh chấpgiữa Trung Quốc vàẤn Độ), 2012, của P.
K. Balachandran, cung cấp những tư liệu và phân tích những nỗ lực không mệt mỏi
của Thủ tướng Sri Lanka để hòa giải giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong cuộc Chiến
tranh năm 1962.
Bài viết “On the Soviet Stand on India - China Border Conflict” (Quan điểm
của Liên Xô đối với xung đột biên giới Ấn Độ - Trung Quốc),đăng trên
Mainstream, No 81, November 3, 2012,của tác giả Arun Mohanty, phân tích những
tranh cãi, xung đột giữa Liên Xô - Trung Quốc liên quan đến cuộc chiến tranh
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Cuốn “The Cold War in South Asia: Britain, the United States and the Indian
Subcontinent 1945-1965” (Chiến tranh lạnh ở Nam Á: Anh, Mỹ và Tiểu lục địa Ấn
Độ 1945 - 1965), 2013, của Paul M. Mc Garr, là một công trình công phu phân tích
lợi ích của Mỹ, Anh tại Nam Á, mối quan hệ Anh, Mỹ, Ấn Độ, Pakistan giai đoạn
1945 – 1965; phân tích cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 và phản
ứng của Anh và Mỹ với cuộc chiến tranh này.
Commodore Katherine Richards trong bài viết “China-India: An analysis of
the Himalayan territorial dispute” (Trung Quốc-Ấn Độ: Phân tích về tranh chấp
lãnh thổ ở Himalaya) đăng trênIndo-Pacific Strategic Papers, Defence and
Strategic Studies at theAustralian Defence College,2015,cho rằng, Tây Tạng chính
là nguồn gốc của sự cạnh tranh giữa Trung Quốc - Ấn Độ. Cả Trung Quốc và Ấn
Độ đều xem Tây Tạng thuộc phạm vi ảnh hưởng của mình. Bế tắc trong việc giải
quyết tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc còn liên quan tới hai nền văn
minh. Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước có nền văn minh lâu đời thúc đẩy các nhà
21
lãnh đạo Trung Quốc và Ấn Độ giành lại quyền lực và địa vị phù hợp với quy mô,
dân số, vị trí địa lý và di sản lịch sử quốc gia của họ. Nguyên nhân quan trọng nữa
là do giới tinh hoa chính trị của hai nước. Đối với Trung Quốc, một khi vấn đề Tây
Tạng được duy trì ổn định, vấn đề Đài Loan không xấu đi thì không có lý do gì
Trung Quốc phải thỏa hiệp với Ấn Độ. Đối với Ấn Độ, Pakistan vẫn là mối quan
tâm chính về an ninh của họ, ngoài việc tranh chấp và thường xuyên xảy ra xung
đột biên giới Ấn Độ - Pakistan ở Kashmir thì quan hệ tốt đẹp Trung Quốc –
Pakistan cũng tác động rất lớn đến quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ.
Trong Luận án tiến sĩ triết học tại đại học Murdoch với tên “The Intractable
Sino-Indian Border Dispute: A theoretical and Historical Account” (Tranh chấp
biên giới Trung Quốc-Ấn Độ khó giải quyết: Một giải thíchlý thuyết và lịch sử),
Stephen Westcott đã phân tích khá công phu các cấp độ lý thuyết trong quan hệ
quốc tế vào việc hoạch định chính sách biên giới và xung đột biên giới Ấn Độ,
Trung Quốc trong một thời gian dài từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời
đến 2017. Trong các phân tích của tác giả có phần phân tích vai trò của Mao Trạch
Đông và J. Nehru cũng như quyết định leo thang và chiến tranh biên giới Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Trong cuốn “JFK's Forgotten Crisis: Tibet, the CIA, and the Sino-Indian
War”(Cuộc khủng hoảng bị lãng quên của JFK: Tây Tạng, CIA và Chiến tranh
Trung-Ấn),Brookings Institution Press, Washington, DC, 2015, BruceRiedelđã thảo
luận về trục chiến tranh lạnh của cuộc xung đột, các hoạt động bí mật của Mỹ ở Tây
Tạng, tình thế tiến thoái lưỡng nan ở Pakistan, và tác động của mối quan hệ ngoại
giao giữa các quốc gia có thể góp phần vào cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc
– Ấn Độ năm 1962.
Nhìn chung, các học giả bên ngoài Trung Quốc và Ấn Độ đến từ nhiều quốc
gia khác nhau, họ có cái nhìn khách quan hơn về cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ. Có thể rút ra một số nhận xét về điểm chung trong các công trình
của các học giả này như sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc đầu tiên dẫn đến tranh chấp lãnh thổ Ấn Độ - Trung
22
Quốc là do lịch sử để lại. Người Anh khi cai trị Ấn Độ đã tìm cách tạo ra đường
biên giới với Trung Quốc. Tuy nhiên, quá trình phân định biên giới với Trung Quốc
không hiệu quả vì Trung Quốc không hợp tác. Vì vậy, những đường biên giới do
người Anh tạo ra không được chấp nhận. Sau khi độc lập, Ấn Độ thừa nhận biên
giới thời thuộc địa Anh là biên giới chính thức còn Trung Quốc không chấp nhận, từ
đó dẫn đến mâu thuẫn và chiến tranh giữa hai nước. Xung quanh chính sách của Ấn
Độ và Trung Quốc đối với Tây Tạng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy mâu thuẫn.
Sự tính toán, lựa chọn của lãnh đạo Ấn Độ và Trung Quốc, chủ chốt là J. Nehru và
Mao Trạch Đông.
Thứ hai, trước, trong và sau cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ
năm 1962 đã có sự can dự của các cường quốc thế giới như Mỹ, Liên Xô và đồng
minh của họ.
Tuy nhiên, hầu như các tác giả chỉ dừng lại ở việc cung cấp một cách rời rạc
những thông tin hay số liệu những can dự ở bên ngoài vào cuộc chiến tranh Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962 mà chưa có những phân tích, đánh giá mức độ tác động
tới toàn thể cuộc chiến tranh.
1.2. Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam
Cuộc Chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 cũng nhận được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu tại Việt Nam. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu
có đề cập tới cuộc chiến tranh này như sau:
Cuốn “Chiến tranh biên giới Trung Ấn”, C52 Bộ Tổng tham mưu biên soạn,
Thư viện Quân đội sao lục, 1979. Tài liệu này trình bày cuộc xâm lấn của Trung
Quốc và phản ứng của Ấn Độ trước năm 1962, lực lượng của Ấn Độ khi bùng nổ
chiến tranh, diễn biến chiến tranh biên giới và một số nhận xét.
Luận án Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử “Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (thời kì 1945 –
1975), Hà Nội, 1993, tác giả Đinh Trung Kiênđã trình bày, nhận xét và lý giải về quan
điểm của Việt Nam với cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962. Theo
tác giả, lúc đầu Việt Nam lựa chọn im lặng nhưng khi cả thế giới lên tiếng thì Việt Nam
cũng phải bày tỏ thái độ. Việt Nam đã lựa chọn ủng hộ Trung Quốc.
23
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quan hệ Ấn Độ - Liên Xô từ 1947 đến 1991”, Hà
Nội, 2011, của tác giả Lê Thế Cường, trình bày hệ thống mối quan hệ toàn diện
giữa Ấn Độ với Liên Xô trong giai đoạn (1947 – 1991). Trong đó, tác giả có khái
quát quan điểm của Liên Xô với cuộc chiến tranh năm 1962 giữa Trung Quốc và Ấn
Độ. Theo tác giả từ 1959 đến 1962, mâu thuẫn biên giới Trung Quốc – Ấn Độ ngày
càng gay gắt, quan hệ hợp tác quân sự và thương mại Liên Xô và Ấn Độ ngày càng
tăng. Khi chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ, Liên Xô ủng hộ đề
xuất của 6 nước tại Hội nghị Colombo. Liên xô luôn tuyên bố trung lập và kêu gọi
Ấn Độ với Trung Quốc đàm phán nhưng từ tháng 9/1963 Liên Xô lên án Trung
Quốc gây ra cuộc chiến tranh với Ấn Độ.
Trong cuốn“Quan hệ Ấn Độ - Hoa kỳ từ năm 1947 đến năm 1991”, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,2015, tác giả Lê Thị Hằng Nga đã trình
bày và phân tích những nhân tố tác động và hệ thống mối quan hệ toàn diện giữa
Mỹ và Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1991. Tác giả nhận định chiến tranh Trung
Quốc – Ấn Độ năm 1962 đã mang đến cho Mỹ một cơ hội bất ngờ để hướng tới mối
quan hệ tốt đẹp với Ấn Độ mà không ảnh hưởng tới mối quan hệ với Pakistan. Tác
giả cũng cung cấp tài liệu và phân tích, cho thấy sự ủng hộ về ngoại giao và viện trợ
quân sự của Mỹ cho Ấn Độ trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Trong Luận án “Vấn đề biên giới trong quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc giai
đoạn 1950-2014”, Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội, 2019, tác giả Huỳnh Thanh Loan đã phân tích nguyên nhân trực
tiếp, diễn biến và tác động của chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962
đến cả Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong luận án “Quan hệ Ấn Độ - Miến Điện (1962 – 2011)”, Luận án tiến sĩ
Lịch sử thế giới, Huế, 2017, tác giả Nguyễn Tuấn Bình có đề cập đến quan điểm
của Miến Điện đối với cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962,
đó là quan điểm trung lập nhưng bản chất là ủng hộ Trung Quốc.
Nhìn chung, ở Việt Nam, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ
năm 1962 có rất ít học giả nghiên cứu, nếu nghiên cứu cũng chỉ đề cập một cách
24
chung chung. Đặc biệt, các nhân tố quốc tế trongcuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ năm 1962 hầu như chưa ai phân tích.
1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án
Qua tìm hiểu các nguồn tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài “Nhân tố
quốc tế trong cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962” có thể đi
đến một số kết luận ban đầu, đó là, các học giả Ấn Độ, Trung Quốc và quốc tế rất
quan tâm nghiên cứu và đã cho ra đời nhiều công trình lớn, nhỏ viết về cuộc chiến
tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
Các học giả đã nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau, mỗi học giả có cách
tiếp cận và lý giải khác nhau về tranh chấp lãnh thổ cuộc chiến tranh Trung Quốc -
Ấn Độ năm 1962. Các công trình đã nghiên cứu những nội dung:
Một là, điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử của các khu vực biên giới, khu vực
tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc.
Hai là, nguyên nhân chiến tranh, quá trình hình thành đường biên giới mà
Ấn Độ và Trung Quốc tuyên bố: yếu tố trong nước, những nhà cầm quyền của Ấn
Độ và Trung Quốc; những tác động, can dự của các cường quốc đến quá trình hình
thành biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Ba là, diễn biến chiến tranh, đánh giá mức độ chuẩn bị, sự chủ động, bị động
của hai bên tham chiến, sự can dự của bên ngoài vào tiến trình chiến tranh.
Bốn là, đánh giá kết quảcủa chiến tranh, quá trình hòa giải giữa hai nước sau
lệnh ngừng bắn.
Năm là, hệ quả, tác động của chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm
1962 đến quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ, quan hệ khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào phân tích, đánh giá toàn diện
và chuyên sâu về các nhân tố quốc tế tác động đến cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962. Mặt khác mỗi học giả có nhìn nhận khác nhau
dựa trên những nguồn tài liệu và quan điểm tiếp cận khác nhau. Riêng ở Việt
Nam, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 hầu như chưa
được nghiên cứu.
25
1.4. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định
mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết những vấn
đề chính sau:
Một là,phân tích, đánh giávai trò của các nhân tố quốc tế đối với nguyên
nhân cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
Hai là,phân tích, đánh giá tác động của các nhân tố quốc tế khi cuộc chiến
tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ.
Ba là, phân tích, đánh giá vai trò của các nhân tố quốc tế đối với tiến trình
hòa giải thời hậu chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
Bốn là, phân tích, đánh giá những tác động của chiến tranh Trung Quốc – Ấn
Độ năm 1962 đến quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ, quan hệ trong khu vực và quốc tế.
26
CHƯƠNG 2.NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG NGUYÊN NHÂNCỦACUỘC
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962
2.1. Khái quát lãnh thổ tranh chấp giữa Trung Quốcvà Ấn Độ
Cùng tựa lưng vào dãy núi Himalaya hùng vĩ, Trung Quốc và Ấn Độ có
chung đường biên giới rất dài. Hầu hếtcác khu vực dọcbiên giớiTrung Quốc - Ấn
Độ Độ rộng lớn,thưa thớthoặc khôngcó người ởvìtrên độ cao rất lớnvà khí hậukhắc
nghiệt. Biên giới Ấn Độ-Trung Quốc trải dài từKashmirởphía tây bắc chạy dọc
theodãy Himalayađếnngã baMiến Điện,Trung Quốc vàẤn Độ,
gầnđèoTaluởArunachalPradesh. Về chiều dài của biên giới chung giữa Ấn Độ với
Trung Quốc có nhiều số liệu khác nhau, theo Ấn Độ tổng chiều dài khoảng trên
4000 km (4.250 km) [201; tr.1], theo Trung Quốc là khoảng 2000 km[230; tr.1]. Diện tích lãnh thổ tranh chấp (khoảng 125.000 km2) [230; tr.1], được phân chia
thành ba khu vực chính: khu vực phía tây, khu vực trung tâm và khu vực phía
đông(Xem phụ lục 1).
2.1.1. Khu vực phía tây
Khu vựcphía tâybiên giới Ấn Độ-Trung Quốc nằm ở phía tây bắc của Ấn Độ
tiếp giáp Tân Cươngvà Tây Tạngcủa Trung Quốc, có nhiều nguồn khác nhau về
chiều dài đường biên giới khu vực này. Theo Trung Quốc khoảng 600 km, đường
biên giới chạy dọc theo dãy Karakoram, hiện nay cũng là đường kiểm soát thực tế
(LAC) [234; tr.62].Tuy nhiên, Theo Ấn Độ khoảng1770 km, là đường W H
Johnson, bắt đầutừngã babiên giới củaẤn Độ, Trung Quốc vàAfghanistanvàchạyvề
phía đôngđến đỉnhGya[201; tr.1-2](Xem phụ lục 2).Khu vực phía tây hiện có khoảng hơn (38.000 km2) [138; tr.7]tranh chấp, chia thành hai khu vực nhỏ là Aksai
Chinvà ranh giới giữa Ladakh với Tây Tạng.
Trước hết,mộtcao nguyênrộng lớn,không có người sinh sống ởphía đông
bắcLadakhtrên độ caokhoảng 4500m đến gần 6000m đượcgọivới nhiều tên khác
nhaunhư:AksaiChin, đồng bằng trung tâm, đồng bằngKuen Lun,đồng
bằnggiữa,đồng bằngđátrắng lớn.Chúng đượcbao bọc bởidãyKarakoramở phía
tây,dãy ChanglunghoặcChangchenmoở phía nam,dãyKuen Lunở phía bắc, phía
27
đôngtiếp giápvới Tây Tạng quađèo Lanakla.Cao nguyên được chiathành hai
phầnbởi một đỉnhgọi làLaktsanghoặcLakTsungchạy từphía tây bắc
củaLanaklahướng tớiKarakoram, chiacao nguyênthành haikhu vực.Phầnphía bắc
chảyvàoQaraQashrồi tiếp tục chảyvề phía bắc đếnTân Cương.Phần phía nam,
giữaLaktsangvàChangChenmo, chảy vàoShyoksau đógia nhậpsông Ấn.Khu vựcphía
bắc làAksaiChinvàphía nam AksaiChinlàvùng đồng bằng Lingithang (Lingzitang).
Chúng cũng đượcgọi là“Đồng bằngsoda”vì đượcbao phủ bởilớp “muốimỏng tinh khiết”.Aksai Chin có diện tích khoảng 27.000 km2[234; tr.19] (hoặc 33000 km2)
[69; tr.69]nằm ở phía đông bắccủaKashmir, phía đông củaShyok, giáp
vớivùngNgarivà một phầnphía nam giáptỉnhRudokcủaTây Tạng.
Aksai Chin không có giá trị kinh tế nhưng có
vịtríchiếnlượcgiữabanướcPakistan,ẤnĐộvàTrungQuốc. Khu vực này là tuyến giao
thông duy nhất nối Tân Cương với phía tây của Tây Tạng [229; tr.254]. Aksai Chin
được ví như “thanh gươm Damocles” treo trên đầu Ấn Độ. Trong trường hợp xung
đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc xảy ra, các đơn vị thiết bị hạng nặng của Trung
Quốc có thể chạy xuyên qua Aksai Chin, dễ dàng tiến tới New Delhi. Sau đó quét
qua Mumbai, các trung tâm kinh tế của Ấn Độ và đánh bại Ấn Độ một lần nữa
[85].Aksai Chin hiệndo Trung Quốc quảnlý. Vì sự giằng co giữa hai bên nên vùng
đất này trở thành một trong những điểm nóng của xung đột biên giới trong khu vực
Châu Á.
Khu vực thứ hai là đường ranh giới giữa Ladakh với Tây Tạng từ thung lũng
Changchenmo tới khu vực của người Spiti phía đông Punjab. Ladakh là một cao
nguyên thuộclưu vực sôngẤn với độ caotrên 3.600m, cách thung lũng Srinagar gần
350 km về phía đông bắc.Toàn bộ khu vực này bị cô lập với phía nam bởi dãy
Himalaya. Dãy Himalaya có độ cao trung bình là 5.000 m, không có mưa, không có
cây cối gây thiếu oxy trầm trọng cho tất cả mọi hoạt động của con người và máy
móc;mùa đông bị bao phủ bởi băng và tuyết.
Phần lớn diện tích tranh chấp ở phía tây biên giới Ấn Độ - Trung Quốc nằm
28
ở khu vực Aksai Chin. Ở phía nam hồ Panggong có một số điểm tranh chấp nhỏ,
gần Chushul và Demchok trên sông Ấn.
2.1.2. Khu vực trung tâm
Ranh giớikhu vựctrung tâmdài khoảng 600 km [201; tr.3], hoặc 545 km
[266], hoặc 450 km [230], bắt đầu từđỉnhGya, mũiđông nam khu vựcLadakhcủa
bangJammuvàKashmir, chạy giữasôngSpitivàsông Parechạy lênđỉnh củaLeoPargial,
sau đó,nó theochính giữa lưu vực sôngSutlejvàsông Hằngđếnngã ba ranh giới
củaẤn Độ,Nepal và Tây Tạng.Đoạngiữanàychiathànhhai phầnbịgián đoạn bởibiên
giới Ấn Độ - Nepalgọi làphía tâyvàphía đôngkhu trung tâm [201; tr.3]. Ở khu vực
này tồn tại rất nhiều các điểm tranh chấp như Spiti, Bara Hoti, Nilang và gần đèo Shipki thuộc UttarPradesh nhưng tranh chấp không lớn (2.000 km2) [230] hoặc(200 dặm2) [138; tr.7]. Địa hình củakhu vực nàybao gồm nhiều dãy núi lộn xộnvàgập
ghềnh ởđộ caotừ 5.486 mđến 6.096m, có rất nhiều sông băngvàlà đầu nguồncác con
sông Hằng,YamunavàAlaknanda.
2.1.3. Khu vực phía đông
Đường biên giới phía đôngtheo tuyên bố của Ấn Độ là đường Mc Mahon.
Đường này xuất phát từ ngã ba Ấn Độ - Bhutan-Tây Tạngchạy về phía đôngđến ngã
ba ranh giới Ấn Độ - Miến Điện- Trung Quốc ở đỉnh 8.158mcách đèo Diphu 8 km
về phía Bắc. Chiều dài đường Mc Mahonlà hơn 1.120 km [201; tr.6], hoặc 1.325
km [266], hoặc hơn 1.400 km [263](Xem phụ lục 3,4).
Trung Quốc phủ nhận hiệu lực của đường Mc Mahon và tuyên bố một đường
ranh giới khác chạy dưới chân dãy Himalaya. Đường biên giới của Trung Quốc xác
định tạo một khoảng trống mũi phía đông namBhutan, chạy dọc theo phía nam dãy
Himalaya và sau đó quay về phía đông bắcđến ngã ba Ấn Độ, Miến Điện và Trung
Quốc [132; tr.63].
Hiện nay, lãnh thổ giữa hai đường này là bang Arunachal Pradesh của Ấn
Độ, có diện tích khoảng 83.743 km² [240].Arunachal Pradesh là bang lớn nhất
ởđông bắc Ấn Độ.Trong tiếng Sanskrit, Arunachal Pradesh có nghĩa là “vùng đất
của các dãy núi đón bình minh"[196; tr65],cũng có biệt danh là “bang hoa lan của
29
Ẩn Độ” hay “thiên đường của các nhà thực vật học”. Arunachal Pradesh là một
vùngvới những dãy núi cao đến 5.000 m,rất dốc và những ngọn đồihiểm trở,thung
lũng gồ ghề, cólượng mưarất lớn. Các đỉnh núi tuyết phủ dày, dưới chân
rừngrậmbao phủ và người dân địa phương gọi là đồi Aka, đồi Dafla vv. Phía tây
Arunachal Pradesh là phân khu Kameng. Ở phần phía tây bắc của Kameng có Tu
viện Tawang, tu viện Phật giáo lớn nhất thế giới(Trung Quốc và Ấn Độ tranh cãi về
quyền sở hữu).
Lịch sử hình thành Arunachal Pradesh bắt đầu từ năm 1826. Sau cuộc chiến
tranh với Miến Điện, nước Anh đã giành được Assam qua hiệp ước Yandaboo và
lúc đầu họ gọi vùng phía bắc của Assam này là vùng biên giới Đông Bắc (NEFT),
sau này đặt lại là vùng ngoại vi Đông Bắc (NEFA). Năm 1972, NEFA được đổi lại
là Arunachal Pradesh và đến năm 1987, Arunachal Pradesh trở thành một bang của
Ấn Độ.Arunachal có nhiều tộc người thiểu số sinh sống, phần lớn người dân có
nguồn gốc Tạng - Miến, một số khác có nguồn gốc từ Assam, Nagaland, khoảng
13% dân cư của Arunachal theo đạo Phật.
Arunachal Pradesh có nguồn tài nguyên rất phong phú.Khoảng 80% diện tích
đất là rừng thường xanh tạo ra giá trị lâm sản rất lớn. Khí hậu, đất đai rất thuận lợi
để phát triển nông nghiệp với các loại cây trồng như: ngô, kê, lúa mì, đậu, mía,
gạo,… Nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào như: thạch anh, đá vôi, đá cẩm thạch,
dầu mỏ và cả kim loại antimon. Rất nhiều danh lam, thắng cảnh, di tích văn hóa thu
hút khách du lịch khắp nơi trên thế giới. Dòng sông Brahmaputra (Trung Quốc gọi
là Yaluzangbu) bắt nguồn từ Tây Tạng chảy vào Arunachal Pradesh cung cấp nguồn
nước tưới chính cho hoạt động nông nghiệp của vùng, đồng thời có tiềm năng thủy
điện rất lớn. Trung Quốc dự định xây một đập thủy điện khổng lồtrên dòng sông
này với công suất dự tính gấp 2 lần đập Tam Hiệp. Arunachal có một con đường sắt
nối liền với đại bộ phận Ấn Độ nhưng con đường này phải đi qua một dải đất hẹp
dài 160 km, rộng trên 100 kmthường gọi là hành lang Siliguri. Mỗi khi tình hình
căng thẳng thì Trung Quốc lại triển khai lực lượng đến hành lang này để gây áp lực
với Ấn Độ [110; tr.58].
30
Đối với Ấn Độ, ngoài giá trị kinh tế mang lại với thu nhập bình quân đầu
người ở Arunachal Pradesh cao nhất so với các vùng thuộc đông bắc Ấn Độ và
nhiều nguồn lực đáng kể khác, khu vực này còn có vai trò phòng thủ quốc gia quan
trọng để chống lại các hành động xâm lược từ phía Trung Quốc. Phía bắc Arunachal
Pradesh có dãy Himalaya – một rào cản tự nhiên tuyệt vời che chắn mà Trung Quốc
rất khó vượt qua.
Đối với Trung Quốc, vùng đất này có vị trí rất quan trọng bởi nó được coi là
vùng đất giàu có nhất của Tây Tạng, với diện tích lớn gấp 2,5 lần diện tích của Đài
Loan và rộng bằng tỉnh Giang Tô. Trung Quốc xem nơi đây là một phần lãnh thổ
không thể tách rời của Trung Quốc với tên gọi là Nam Tây Tạng.
Như vậy, hai quốc gia khổng lồ ở châu Á với đường biên giới rất dài này, theo
thời gian đã hình thành nên những khu vực tranh chấp căng thẳng. Trong suốt hơn
nửa thế kỉ qua, việc chưa đạt được một thỏa thuận cuối cùng về phân định lãnh thổ
cũng là chừng ấy thời gian vấn đề này gây nhức nhối, căng thẳng trong quan hệ giữa
hai cường quốc khổng lồ vẫn được thế giới nhìn nhận như là “Rồng Hoa – Hổ Ấn”.
Trong các khu vực tranh chấp trên toàn tuyến biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, đáng
chú ý hơn cả là những tranh chấp tại hai khu vực chính: Aksai Chin thuộc Ladakh
thuộc khu vực phía tây và bang Arunachal Pradesh thuộc khu vực phía đông.
2.2.Bối cảnh quốc tế
Cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ với Trung Quốc diễn ra đầu thập niên 60 của
thế kỷ XX. Đây là thời kỳ quan hệ quốc tế diễn biến hết sức căng thẳng, phức tạp,
đầy biến động.
Thứ nhất,sự tác động sâu sắc của Chiến tranh lạnh. Quan hệ quốc tế thời
kỳ này nằm trong khuôn khổ của cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường là Liên
Xô và Mỹ. Đây là cuộc đọ sức vừa về sức mạnh thực lực vừa về ý thức hệ giữa
TBCN (đứng đầu là Mỹ) và XHCN (đứng đầu là Liên Xô). Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, do đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa Liên Xô và Mỹ nên hai nước dần
chuyển từ quan hệ đồng minh sang đối đầu ở các vấn đề quốc tế. Từ sự mâu thuẫn
của Liên Xô và Mỹ dẫn đến quan hệ quốc tế dần bị chia thành hai phe TBCN và
31
XHCN cạnh tranh và chạy đua gay gắt. Để củng cố quyền lực, tầm ảnh hưởng của
mình, cả hai siêu cường Xô và Mỹ đều ra sức tuyên truyền về sự đối đầu giữa
TBCN và XHCN; tăng cường viện trợ vật chất; đẩy mạnh xây dựng đồng minh
song phương hoặc đa phương với mục tiêu thúc đẩy sự hình thành một mô hình
giống mình ở những khu vực có khoảng trống quyền lực trên thế giới. Từ đó đã
hình thành các khối quân sự, khối chính trị, khối kinh tế đối lập; chạy đua vũ trang
và gây ra một số cuộc xung đột.Khơi mào bởi những hành động của phe TBCN: bài
diễn văn của tổng thống Mỹ Truman, Kế hoạch Marshall viện trợ cho Châu Âu và
thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO năm 1949. Đáp lại những
hành động của phe TBCN, phe XHCN thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế năm
1949 và Tổ chức Hiệp ước Vacsava năm 1955. Sự ra đời của hai khối quân sự đã
chính thức xác lập cục diện hai cực và đánh dấu việc Chiến tranh Lạnh đã bao trùm
thế giới. Cuộc chạy đua vũ trangtrước hết trên các lĩnh vực tên lửa liên lục địa, công
nghệ vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, khinh khí cầu gián điệp…) và quan trọng hơn cả là vũ
khí hạt nhân – mối đe dọa lớn nhất và là nguyên nhân gây căng thẳng nhất cho cuộc
Chiến tranh Lạnh. Bên cạnh chạy đua vũ trang là các cuộc chiến tranh, xung đột cục
bộ như chiến tranh giữa Pháp và 3 nước Đông Dương, Chiến tranh Triều Tiên,
chiến tranh Mỹ - Việt Nam, … đặc biệt vào năm 1962 với các cuộc khủng
hoảngquốc tế nhưcuộc nội chiến ởCongo,sự căng thẳngĐông-TâytạiBerlin, cuộc
Khủng hoảng tên lửa Cuba từ 1/10 đến 14/11/1962. Đó là sự đối đầu căng thẳng đến
tột cùng giữa Liên Xô và Mỹ thậm chí nó chỉ cách cuộc chiến tranh hạt nhân trong
gang tấc khi Liên Xô chuyển các tên lửa hạt nhân đến Cuba và hướng về Mỹ. Quan
hệ quốc tế thời kỳ này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Chiến tranh lạnh và quyền lực
của Mỹ và Liên Xô.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 chịu ảnh hưởng
sâu sắc bởi cuộc chiến tranh lạnh.Trung Quốc là nước chủ động trong cuộc chiến
tranh với Ấn Độ.Vì thế, giới lãnh đạo Trung Quốc đã có những chuẩn bị và tính
toán kỹ lưỡng cho hành động của mình. Trung Quốc tấn công Ấn Độ từ 20/10 nhằm
tận dụng bối cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ leo thang. Vào giữa tháng
32
10/1962 là giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng của quan hệ Liên Xô và Mỹ xoay quanh
khủng hoảng tên lửa Cuba.Việc Liên Xô đưa tên lửa hạt nhân của mình đến tận
Cuba và chĩa sang lãnh thổ Mỹ, đồng thời là những lời lẽ đe dọa căng thẳng của
lãnh đạo cấp cao hai nước đã đẩyhai siêu cường Xô – Mỹ đứng trước nguy cơ nổ ra
cuộc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn.
Trong bối cảnh chiến tranh lạnh leo thang, sự kiện khủng hoảng Cuba đã thu
hút hầu hết sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Việc bị cuốn vào cuộc khủng hoảng
Cuba làm cho thế giới ít quan tâm đến các sự kiện khác. Các lãnh đạo Trung Quốc
đã lựa chọn hoàn cảnh này để tấn công Ấn Độ với tính toán sẽ giảm đi rất nhiều các
phản ứng từ quốc tế. Cả Mỹ và Liên Xô đều đang vướng vào cuộc đối đầu trực tiếp,
hết sức căng thẳng với kẻ thù số một của mình nên sẽ không thể can thiệp vào cuộc
chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ. Mỹ sẽ không thể nhanh chóng giúp Ấn Độ chống
lại Trung Quốc. Hơn nữa, Liên Xô phải cần đến sự ủng hộ của Trung Quốc trong
cuộc đối đầu với Mỹ tại Cuba. Vì thế, bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh đã tác
động mang tính quyết định đến thời điểm Trung Quốc phát động cuộc tấn công Ấn
Độ là giữa tháng 10/1962, trùng với thời điểm cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba lên
cao nhất.
Nhưng cũng rất nhanh chóng, Liên Xô và Mỹ đã đạt được thỏa thuận giải
quyết xung đột tên lửa hạt nhân tại Cuba bằng việc Liên Xô rút tên lửa khỏi Cuba
ngay trong tháng 10/1962 đã làm thay đổi tình hình. Việc giải quyết hòa bình với
Liên Xô giúp Mỹ có thể dễ dàng đưa ra những phản ứng nhanh chóng, mạnh mẽ và
can thiệp vào cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ. Còn Liên Xô cũng có thể đưa
ra lựa chọn phù hợp mà không phải phụ thuộc vào Trung Quốc. Chính điều này đã
tác động mạnh đến cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ, Ấn Độ có thêm
sự giúp đỡ chống Trung Quốc và Trung Quốc có thêm kẻ thù. Điều này buộc lãnh
đạo Trung Quốc phải tính toán lại và đưa ra quyết định ngừng chiến và rút quân sau
một tháng gây chiến.
Mặc dù là hai trụ cột của phe XHCN nhưng do cạnh tranh vai trò đứng đầu
trong khối nên giữa Trung Quốc và Liên Xô đã tồn tại nhiều mâu thuẫn khó giải
33
quyết, một trong những mâu thuẫn đó liên quan đến mối quan hệ thân thiện giữa Ấn
Độ và Liên Xô. Trung Quốc đã nhiều lần đề cập việc Liên Xô hoặc trung lập hoặc
ủng hộ Ấn Độ trong vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc với Ấn Độ là “không phù
hợp” với chủ nghĩa cộng sản. Việc Liên Xô bị vướng vào cuộc khủng hoảng với Mỹ
tại Cuba chính là cơ hội để Trung Quốc hành động với Ấn Độ. Liên Xô sẽ bị vướng
và không thể can thiệp vào cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ, như thế sẽ có lợi
cho Trung Quốc. Hơn thế nữa, việc Trung Quốc tiến đánh Ấn Độ cũng là một phép
thử với Liên Xô. Trung Quốc đã nhiều lần cho rằng Ấn Độ là quốc gia tư bản theo
đuôi đế quốc và Liên Xô phải đứng về phía mình chống lại Ấn Độ nhưng Liên Xô
không làm như vậy. Việc Trung Quốc tấn công Ấn Độ sẽ buộc Ấn Độ phải cầu viện
phương Tây vì thế buộc Liên Xô phải thể hiện rõ quan điểm chống lại Ấn Độ, nếu
không, Trung Quốc có cớ để làm giảm uy tín của Liên Xô trong phe XHCN.
Thứ hai,sự tranh giành ảnh hưởng trong thế giới thứ ba. Sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các lục địa Á,
Phi, Mỹ Latin, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị cũ tan vỡ từng mảng
lớn và đến giữa những năm 1960 đã sụp đổ về cơ bản. Các quốc gia mới giành độc
lập non trẻ lựa chọn mô hình, hướng đi phù hợp cho riêng mình. Trong số các quốc
gia Á, Phi, Mỹ Latin mới giành được độc lập, Ấn Độ và Trung Quốc nổi lên là hai
quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn. Hai nước này ra sức vận động và thể hiện vai trò
của mình trong thế giới thứ ba. Ngay sau khi giành được độc lập, Thủ thướng Nehru
đã thể hiện mong muốn cùng Trung Quốc giữa vai trò lãnh đạo châu Á nói riêng và
thế giới thứ ba nói chung chống lại ảnh hưởng của trật tự hai cực Liên Xô – Mỹ.
Ngày 2/10/1949, trong một lá thư gửi các Bộ trưởng các bang của Ấn Độ, Nehru
nói: “Ngày nay, thế giới nhận ra tương lai của châu Á sẽ được xác định mạnh mẽ
bởi tương lai của Ấn Độ. Ấn Độ ngày càng trở thành trung tâm của châu Á”[234;
tr.39]. Tuy nhiên, ngay từ đầu, Trung Quốc đã tỏ thái độ không muốn chia sẻ vai trò
lãnh đạo châu Á với bất kỳ quốc gia nào. Trung Quốc luôn coi mình là “quốc gia
trung tâm” của châu Á và không để một quốc gia nào thách thức vị trí đó của Trung
Quốc. Chính sự cạnh tranh này cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến mâu thuẫn và
34
xảy ra chiến tranh giữa hai nước. Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh với Ấn Độ
để phô trương sức mạnh của mình trước các quốc gia mới độc lập. Trung Quốc tấn
công Ấn Độ còn để chứng minh sự yếu kém của Ấn Độ, phục vụ cho việc cạnh
tranh vị trí lãnh đạo trong thế giới thứ ba.
Thứ ba, sự ra đời và hoạt động của Phong trào không kiên kết. Phong trào
Không liên kết ra đời từ cao trào giải phóng dân tộc làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân
cũ và trong bối cảnh Chiến tranh lạnh căng thẳng. Chính sách Không liên kết là biểu
thị ý chí của các nước độc lập non trẻ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin đoàn
kết đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế,
bảo vệ hoà bình thế giới để tồn tại và phát triển. Sự ra đời Phong trào Không liên
kết đánh dấu một sự thay đổi trong quan hệ quốc tế, đó là sự xuất hiện một lực
lượng thứ ba đứng độc lập và xen giữa hai hệ thống của Trật tự hai cực Ianta. Trong
quá trình vận động thành lập và hoạt động, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có những
hoạt động mạnh mẽ để tranh chấp ảnh hưởng trong Phong trào này. Cả Trung Quốc
và Ấn Độ đều đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo trong Phong trào Không liên kết.
Việc tấn công và đánh bại Ấn Độ sẽ buộc Ấn Độ phải cầu viện và nhận viện trợ từ
bên ngoài và như vậy sẽ không còn trung lập nữa cũng như không có sức mạnh để
các nước nhỏ đi theo và các nước sẽ phải lựa chọn ngả theo Trung Quốc.
2.3. Bối cảnh khu vực
Khu vực Nam Á khi đó gồm 7 quốc gia là Afghanistan, Bhutan, Ấn Độ,
Maldives, Nepal, Pakistan và SriLanka, trong đó, hai quốc gia có vai trò và tầm
quan trọng lớn nhất là Ấn Độ và Pakistan. Sự chia cắt Ấn Độ vào năm 1947 do Kế
hoạch Mountbatten đã để lại những hệ lụy rất lớn đối với an ninh và quan hệ quốc
tế tại khu vực Nam Á. Kể từ khi tách ra và thành lập hai quốc gia dân tộc riêng, Ấn
Độ và Pakistan trở nên thù địch và tranh chấp lãnh thổ ở vùng Kashmir.Cả Ấn Độ
và Pakistan đều luôn coi nhau là kẻ thù và là mối đe dọa đối với an ninh của mình.
Pakistancủng cốmối quan hệquân sự vớiMỹvàAnhthông quamộtloạt các thỏa thuận,
bắt đầu vào năm 1954.NgoàiHiệp địnhan ninhchunggiữa Mỹ và Pakistan năm 1954,
Pakistan gia nhập Tổ chứcHiệp ướcĐông Nam Á(SEATO) vào năm 1954,Hiệp
35
ướcBaghdad năm 1955vàthỏa thuậnan ninhsong phương Pakistan - Mỹ năm
1959.Do đó,Thủ tướng Ấn Độđổ lỗi chokẻ thù Pakistanmang Chiến tranh
lạnhđếnNam Á. Theo Ấn Độ, sự thiết lập liên minh quân sự Mỹ - Pakistan không
chỉ nhằm mục đích ngăn cản sự bành trướng của cộng sản mà còn nhằm vào “chủ
nghĩa trung lập” của J. Nehru. Mâu thuẫn, tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan đã
gây ra tình trạng căng thẳng tại khu vực Nam Á. Trong khi quan hệ Ấn Độ -
Pakistan ngày càng xấu đi thì quan hệ Trung Quốc – Pakistan ngày càng thân thiện,
gần gũi. Hai nước có những tuyên bố ủng hộ nhau, những chuyến thăm viếng của
lãnh đạo cấp cao hai nước và các thỏa thuận, hiệp ước biên giới chung Trung Quốc
– Pakistan được triển khai hoạch định và kí kết trong thời gian này.
Mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan và mối quan hệ thân thiện Trung Quốc –
Pakistan cũng có những tác động rất lớn đến cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc
– Ấn Độ năm 1962. Mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan là điểm có lợi quan trọng cho
Trung Quốc. Trung Quốc muốn chứng minh mình đúng trong tranh chấp lãnh thổ
với Ấn Độ bằng việc mình giải quyết được tranh chấp lãnh thổ với các nước láng
giềng nhưng Ấn Độ thì không (chứng minh bằng quan hệ với Pakistan). Hơn nữa,
việc tấn công Ấn Độ cũng là thể hiện sự ủng hộ của mình đối với Pakistan. Đây
cũng là một nhân tố tác động đến hành động gây chiến của Trung Quốc đối với Ấn
Độ năm 1962.
2.4. Di sản của người Anh thời thuộc địa với vấn đề tranh chấp biên giới,
lãnh thổ giữa Trung Quốc và Ấn Độ
Có thể thấy rằng, tronggiai đoạnbành trướng, các đế quốcmở rộng lãnh thổ
của họcho đến khi gặpsự kháng cự củamột láng giềngmạnh,hoặc mộtrào cản tự
nhiênbuộc phải dừng lại, hoặc cạn kiệtnguồn lực [153; tr.19]. Sự mở rộngcủa đế
quốcAnh tạiẤn Độgặp phảihai yếu tố đầu tiên là dãy Himalaya vàsự kháng cựcủa
Trung Quốc.
Vòng cung mênh môngcủa dãy Himalayangăn cáchphía bắc của Ấn Độ tách
rờiphía tâycủa Trung Quốc,đã từnglà nơichạy đuacủa các đế quốc. Khu vực Trung
tâmcủabiên giớiẤn Độ - Trung Quốc, đã là nơicủanhiều tiểu quốcphong kiếnnhỏ
36
giữ vai trò là những“con tốt” củasự cạnh tranhđế quốc và làcác quốc giavùng đệm
giữaTrung Quốcvà Ấn Độ. Tuy nhiên, tạicác mũiphía tâyvà phía đôngcủa
dãyHimalaya (ngày naylà AskaiChinvàArunachalPradesh), địa hìnhkhắc
nghiệtkhông cho phép cócác chính thểđộc lập đóng vai trò như làcác quốc giavùng
đệm giữaẤn Độ và Trung Quốc. Vào thế kỉ XIX, người Anh không coi Trung Quốc
là mối quan tâman ninh của họmàchỉlà một “con tốt”trong“Trò chơi lớn” nhằm
chống lại đế quốcNgaở phía Bắc.Mọi sự chú ý của người Anhđối với an ninhđã bị
thu hút về phía người Nga, mục tiêu cơ bản vàliên tục của người Anhlàgiữngười
Ngacàng xa càng tốtcácđồng bằng Ấn Độ.
Trong chính sáchbiên giớicủa Anh, Trung Quốc đóng mộtvai trò trung tâm
đểchống lạimối đe dọacủa Nga,bảo vệ Ấn Độ. Hai trường pháicủatư duy chiến
lượcnổi lênliên quan đếnchính sáchbiên giớicủa Anh gồm: Thứ nhất,trường phái
cấp tiến muốn nước Anhtiến lên phía trước đương đầutrực tiếp với người Ngavàđẩy
người Nga càng xacàng tốt.Thứ hai,trường pháiôn hòachorằng chi phívà rủi rorất
lớn nếucố gắngthiết lậpranh giớiở đất nướcxa xôi. Trường phái này đề xuấtrằng các
giới hạnnên dừng lại ởnơi chúng có thểđược hỗ trợ dễ dànghơnvà đểkìm giữNgatốt
nhấtnênđặt mộtquyền lựcthứ ba ở giữa“sư tử vàgấu”. Có nhiều quốc gia có thể giữ
vai trò này như Afghanistan hoặc quốc gia nhỏ như Hunza, nhưng Trung Quốc là sự
ưu tiên số một.
Maxwellnhận xét“lịch sử chính sáchcủa Anh ở biên giới phía bắc Ấn
Độlàmộtsự thay đổi luân phiêncủahai trường phái cấp tiến vàôn hòaảnh hưởng cả
ởLondonvà Ấn Độ” [153; tr.20].Trường pháicấp tiếnchiếm ưu thếtrong nửađầu thế
kỷXIX. Các nhà chiến lượccủa trường phái nàylo sợ ảnh hưởng lớn của Nga
ởAfghanistansẽgây nguy hiểm chosự kiểm soátcủa Anhở Ấn Độ.Họchủ trươngthiết
lậpmột sự hiện diệncủa Anh tạiAfghanistanđể ngăn chặnNga. Những quan điểm
nàydẫn đếnmộtcuộc chiến tranhvới Afghanistanvàkết quả là sự thất bạinhục nhã,tốn
kémmà hầu như không mang lạilợi ích gì cho đế quốc Anh.Trong khi đó, Trung
Quốcđã tồn tại một thời gian dàitại khu vực,trước khi cả Nga vàAnhtiếp cậndãy
37
Himalaya, đã được trường pháiôn hòaghi nhậnnhưlà một “con tốthoàn hảo”.
Ngược lạivới logicvà những quan niệmchủ quyền đế quốcAnhhiện đại,
Trung Quốc là một đế quốctruyền thống, có ranh giới được xác địnhmột cách lỏng
lẻovànhạt nhòaở vùng“đấtkhông cócon người”.Huân tước Curzon, Phó vương Ấn
Độ từ năm 1899 đến năm 1905,nhận xétvào đầuthế kỷXX“Ý tưởngphân địnhbiên
giớilà một khái niệmhiện đại, tìm thấyrất ít hoặckhông có trongthời cổ đại...phân
giới cắm mốcđãkhông bao giờxảy raở các nướcchâu Á, ngoại trừ dướiáp lực của
châu Âu”[68].
Vào thế kỷ XIX, nhà Thanhngày càng suy yếu, bất lựcvàtình trạng bất ổnkéo
dài. Yếu kémnội bộcủa Trung Quốcđã dẫn đếndễ bị tấn công từbên ngoài. Bắt đầu
bằngHiệp ướcNam Kinh năm 1842, được ký kết sau khingười Anh đánh bạinhà
ThanhtrongChiến tranhthuốc phiện lần thứ nhất. Tiếp đó, Trung Quốc đã buộc phải
kýmộtloạt cáchiệp ướcbất bình đẳngvới cáccường quốc phương Tây nhưAnh, Pháp,
Nga, Đức, Nhật Bảnvà sau đótất cả các quốc gia này đềutuyên bốphạm vi ảnh
hưởngtrênlãnh thổ Trung Quốc.Các vụ nổi loạnởmiền Trungđã thu hútchú ý củanhà
Thanhvà từ đó mất đi sự quan tâmđến các vùng biên cương. Về phía bắc dãy
Himalaya, sau khi nhà Thanh sụp đổ, Tây Tạng đạt đượcmức độtự chủ lớn hơn. Ở
Phía nam dãy Himalaya, nước Anhvững vàngkiểm soáttrực tiếp những Sultanđịa
phương, duy trìquyền bá chủbằng cách giữảnh hưởng chặt chẽ chính sách đối
ngoạicủacác tiểu quốcở biên giớiphía bắc Ấn Độ.
Ở phía tâycủa ranh giớiHimalayagiữa Ấn Độvà Trung Quốc, người Anh đã
làm việc đểxác định ranh giớigiữaLadakhvà Tây Tạngsau khihọ đánh bạiliên
minhngười Sikhvàonăm 1881 và giành quyềnkiểm soátKashmir.Ladakhlà một phần
củaTây Tạngcho đến thế kỷthứ X thìtách ratrở thànhmộtvương quốc độc lập. Thế kỷ
XIV, người Muslimchinh phục đếnLadakh nhưng phải rút lui.Sau đó, họ quay trở
lạivào thế kỷ XVIvà vương quốc Ladakh trở thànhmộtnước chư hầucủađế
quốcMoghul. KhiMoghul suy tàn, Ladakhtáikhẳng địnhquyền độc lập.Do ảnh
hưởng Phật giáo,sức hútvăn hóavà chính trịcủaLhasa, Ladakhcó xu hướngbị húttrở
lạiTây Tạng. Vì vậy, trong thế kỷXIX, Ladakhđược coinhư là một phầnTây Tạng.
38
Năm 1834,DograsGulabSingh (người sáng lập ra triều đại Dogra và là
Maharaja đầu tiên của Jammu và Kashmir),xâm chiếmLadakh và bắt Ladakhtriều
cốngchonhững người cai trịSikhởPunjab.DograsGulabSinghcũng thực hiện những
dự định nhằmchinh phụcTây Tạng. Mùa xuân năm1841, DograsGulabSinghđánh
bạicác lực lượngTây Tạng, giànhtất cảlãnh thổ. Dograsở lại Tây Tạng vào mùa
đông, bị bao vâyvàtất cả lực lượng của ông bị tiêu diệt. Người Tây Tạnggiải
phóngLadakhnhưnglại bịquân độităng cườngcủa Dogras GulabSingh đánh bạiở
Leh.Với sự cân bằng của cuộc chiến tranh,các nhà lãnh đạocủa hailực lượng đã
kýmột hiệp ướckhông xâm lược vàotháng 10/1842. Theo đó,ràng buộccác bênphải
tôn trọnglãnh thổcủa nhaunhưng khôngxác định rõ ràng ranh giới giữa họ [35;
tr.53].
Người Anhđã theo dõisự thâm nhậpcủa GulabSinghvớisự lo lắngrằng,Trung
Quốc sẽđổ tộichính phủ Anh xúi giụcngười Sikh xâm lượcvào lãnh thổcủa họvìnăm
1846, người Anh đã thừa nhậnGulabSinghlàhoàng tửcủa JammuvàKashmir. Người
Anh lo sợrằng,đểcướp bócvà trả thù,GulabSinghcó thểsẽtiến hành cuộc tấn công
khác vàoTây Tạng vàkhả năngnước Anhsẽbị lôi kéo vào [153; tr.25]. Để ngăn chặn
việc làm này, Anh buộc GulabSingh kí Hiệp ước Amritsarngăn cấmông tamở
rộnglãnh thổmà không cósự đồng ýcủa Anh.Để GulabSinghhành động bí mật,
Anhđưa raviệc phân địnhranh giớigiữa Tây TạngvàLadakhvớihy vọng loại bỏ tất cả
cáctranh chấpở phía đôngnơi cómộtranh giớikhông ổn định [138; tr.65].
Người Anhđã thông báo choChính phủTrung Quốc vềviệc phân định ranh
giới,mời cảchính quyền LhasavàTổng đốcQuảng Châutham gia. Tuy nhiên, Tổng
đốc Quảng Châu tìm cách lảng tránh khi cho rằng, biên giới của vùng lãnh thổ
giữaTây TạngvàLadakhđãấn định đầy đủ vàrõ ràng, tốt nhất là tuân theosự sắp
xếpcổ xưa này,tránhbổ sungsửa chữa [77; tr.62].
Vì cả Trung QuốcvàTây Tạngđều không muốnhợp tác nên không cóphân
địnhranh giớigiữa Tây Tạng với Ladakhvàonăm 1846.Tuy nhiên,người Anhmuốnvẽ
một đườngbiên giới xa hơn để không cho GulabSinghmở rộngvượt ra khỏi ranh giới
đó. Vì vậy, cácquan chức Anhđược chỉ thịkhảo sátcácvùng biên giới vàvẽ mộtbản
39
đồ. Vào năm 1846và 1847, các thành viênđã vẽ mộtranh giớitiến thêm về phía bắc
hồPangongđến sôngSpiti,nhưng họdừng lại ở phía bắc
giữahồPangongvàĐèoKarakoram.
Năm 1865,điều tra viêncủa Anhlà WHJohnson, với sự hỗ trợcủa Cục
trưởngtình báo quân sựJohnArdagh, đề nghịranh giớinằm dọc theodãy
núiKuenLunvàđề xuấtđườngJohnson, theo đó đặt AksaiChinởKashmir. Đường
nàyđượcdựatrênđồn tiền tiêucủahoàng tử KashmirtạiShahidullah, theo đường phân
thủy của dãy KuenLun.Trung Quốcđã từ chốisự sắp xếp này. Tuy nhiên,
đườngJohnsonđã được dùng làm ranh giớiKashmirtrongmộttập bản đồđược xuất
bảnvào năm 1868và làm cơ sở cho nhiều bản đồkhác.
Đầu thập niên 1880,Trung Quốcbắt đầuchuyển sự chú ýtớibiên giới phía nam
của họ, nơi màngười Anhvà người Ngađangthăm dò.Vào năm 1890,Đại
úyYounghusbandđược cử đếnPamirsvới mục tiêukiểm tra các yêu sách củaTrung
Quốcở đó vàmờiTrung Quốctham gia. Người Trung Quốcnói
vớiYounghusbandrằng ranh giớicủa họchạydọc theodãyKarakoramvàđường phân
thủygiữasông Ấn vàlòng chảoTarim. Năm 1892,Trung Quốc đã dựng lênmột cột
mốc đánh dấuranh giớitạiđèo Karakoramvà ghilãnh thổ củaTrung Quốc bắt đầuở
đó.
Vào năm 1890, quan chứcTrung Quốctuyên bốAksaiChinlà lãnh thổcủa họ.
Năm 1896, Macartneyđã trao choquan chứccủa Trung Quốc ởKashgarbản sao của
mộttập bản đồcho thấyranh giớilàWHJohnsonđã vẽ và đưa AksaiChintrong lãnh
thổcủa Anh. Trung Quốcphản đốivà nóivới Macartney rằngAksaiChinlà của Trung
Quốc.Báo cáonàyđến tayngười đứng đầuchính quyền Anh ở Ấn Độ, Macartneybình
luận rằng “có lẽ một phầnAksaiChinlàcủaTrung Quốcvàmột phầncủa Anh” [77;
tr.69].
Trong khi đó, tạiLondon, mộtchiến lược giacó tầm ảnh hưởngcủa trường
pháicấp tiếnđãthúc giụcrằng, đểlường trước sự tiến lên củaNgavàoẤn Độ, nên
nhậpkhông chỉtoàn bộAksaiChin, mà còn hầu hếtlãnh thổmà đường
củaJohnson1865đãtrao choKashmir vào trongranh giớicủa
40
họ.TướngSirJohnArdagh, khi đólà Giám đốctình báo quân sựcủaBộ Tổng tham
mưuAnh nói lên quan điểm của phái cấp tiến,đệ trình lênBộ Ngoại giaovàvăn
phòngẤn Độ một báo cáovàotháng 1/1897. Ardagh lập luận rằng Nga đã tìm cách
mở rộng biên giới của mình và có khả năng sáp nhập Tân Cương hoặc ít nhất là
Kashgardo sự yếu kém của Trung Quốc. Vì thế cần đẩy biên giới vượt qua dãy
Karakoram và chạy dọc theo dãy Kuen Lun để thiết lập một vùng đệm giữa Nga và
các thành phố của Ấn Độ thuộc Anh [140; tr.24-26].
Từ chốigiải phápcủaArdagh,Phó vương,Huân tướcElginchorằng nước
Anhnên giải quyếtranh giớiTrung Quốc-Kashmir bằngcách tiếp cậntrực tiếpvớiBắc
Kinh. Năm 1898, Londonchấp thuậnranh giới theođề
nghịcủaMacartneyrằngAksaiChinnênđượcchiagiữa Anhvà Trung Quốcdọc theo
ranh giớidãyLakTsang. Theo đó, đểlại Trung Quốctoàn bộthung lũngKarakash, gần
nhưtất cả AksaiChin;nhưngđể lại Ấn Độđồng bằng muốiLingziTangvà toàn bộ
thung lũngChangChenmo [153; tr.34].
Biên giới mới đượctạogọi làđườngMacCartney-MacDonald và đề xuất này
được công sứ của Anh tạiBắc Kinh, ClaudeMacDonald chuyển tới Trung
Quốcvàotháng 3/1899 nhưng Trung Quốckhông trả lời. Anhsử
dụngđườngMacDonaldcho đến khinhà Thanh sụp đổ vào năm 1911. Khi chính
Trung Quốc mất quyền kiểm soátTân Cương và Tây Tạng, cả Anh và Nga đều lo
ngại bên kia lợi dụng tăng cường ảnh hưởng. Vì thế, Anh và Nga bắt đầu đàm phán
vào năm 1912 nhằm mở rộng Công ước Anh-Nga 1907. Mặc dù đã đạt được một số
thỏa thuận dự kiến trong, Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã chấm dứt mọi cuộc
đàm phán.Người Anhlại tiếp tụcsử dụngđườngJohnsonlàbiên giớichính thức và
đườngnày là đường biên giớicủa Ấn Độđộc lập. Trung Quốckhôngchấp nhậnđường
biên giới đượcAnhđề nghị. Trung Quốc dựng lênmốc giớitạiđèoKarakoramtrên
tuyến đườnghành hươngcổ giữaTân CươngvàLadakh.
Khu vực tranh chấp lớn thứ hai giữa Ấn Độ và Trung Quốc là khu vực phía đông,
trước kia gọi là ngoại vibiên giớiĐông Bắc(NEFA), hiện naylà ArunachalPradesh.
41
ArunachalPradeshlà một bang của Ấn Độ màTrung QuốcgọilàNamTây Tạng.
Lịch sử hình thành vùng biên giới phía đông cũng hết sức phức tạp, mang đậm dấu
ấn người Anh khi cai trị Ấn Độ.
Năm 1826,người AnhđưaAssam vàolãnh thổẤn Độ.Lúc đầu,chủ yếulà thung
lũngBrahmaputra.Địa hìnhhiểm trở, người dân các bộ lạcở đây không mến
khách.Sau lần thâm nhập, người Anh vào cao nguyên, họ đã đến vùng đất phía đông
của Bhutan tiếp giáp lãnh thổ của Anh. Với con mắt của những nhà buôn, họ nhận
thấy ngay tiềm năng để xây dựng một tuyến đường thương mại nối Tây Tạng với
Ấn Độ. Năm 1844, một quan chứccủa Anhcho rằngAnh và Trung Quốctiếp giápvà
con đườnggần nhất màsản phẩmcủacác tỉnhtây bắc của Trung Quốc,đông củaTây
Tạng có thể đượcđưa vàolãnh thổ của Anh [139; tr.299].Vùng đất nàyđược gọi làdải
đất Tawang,có tu việnTawangở phía đông bắc. Người Anhthiết lậpmột hội chợhàng
năm tạiUdalguri, gần cực nam Tawangđể khuyến khíchhoạt động của tuyến đường
thương mạiquan trọng thông quavùng lãnh thổnày.
Mối lo ngại của Anh vẫn là người Nga tiến về phía Ấn Độ. Vì vậy, mục tiêu
của Anh là biến Tây Tạng thành vùng đệm. Curzontin tưởng rằng, giống như biên
giớiphía tây bắc, Tây Tạng đã trở thành mộttấm váncho“Trò chơi lớn”. Công
ướcLhasa 1904,đã ràng buộcngười Tây Tạngphải từ chốinhập cảnh chođại diện của
bất kỳcường quốc nước ngoàinào, trừ ngườiAnh. Hiệp địnhAnh – Nga năm
1907cam kếtchung tránh dính líu tới Tây Tạng,không tham gia vàoviệc đàm phán
vớingười Tây Tạngmà không quaTrung Quốc, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổcủa Tây
Tạngvà tránhcan thiệp vàoquản trịnội bộ của họ. Tây Tạngđược thiết lậpnhư làmột
quốc gia đệmcùngđược Nga và Anh chấp nhận.Trong thời kì này, yếu tố Trung
Quốc không được Anh quan tâm nhiều.Chủ quyềncủa Trung Quốcđối với Tây
Tạngkhông được xem trọng,ảnh hưởng của Anhở Tây Tạnglà rất lớn.
Nhưngtrong thập kỷđầu tiên củathế kỷ XX,chính sáchcủa Trung Quốcở Tây
Tạngthay đổi mạnh mẽ.Trung Quốctăng cường kiểm soát như: mở rộngsự hiện
diệnquân sựở Tây Tạng; thay thếthần quyềnvàbộ máy chính quyềncũ bằng bộ
máydo Trung Quốc kiểm soát, làm giảm tầm ảnh hưởng củaĐức Đạt Lai Lạt Ma
42
vàsức mạnh củacácgiáo phẩmtu việnnhằmngăn chặnvà đẩy lùiảnh hưởngcủa
Anhdọc theo biên giớiẤn Độ-Tây Tạng. Từ năm 1910,Trung Quốcthực thi quyền
lựccó hiệu quảở Tây Tạngvà từ đây, chính sách giữngười Ngatránh xaẤn Độcủa
người Anhđãbị lỗi thời,Ấn Độđã mấtvùng đệm Tây Tạng. ỞLondon,tờ Morning
Postlên tiếngcảnh báo: “MộtĐế quốcvĩ đại, sức mạnh quân sựtrong tương
laimàkhông ai có thểđoán trướcđã bất ngờxuất hiệntrênkhu vực Đông Bắcbiên
giớicủaẤn Độ...mộtáp lựcképđặt lêncácnguồn lựcphòng thủ củaĐế quốcẤn Độ....
Trung Quốcđã đếncửacủaẤn Độvà thực tếphảiđược tính đến” [153; tr.42].
Tháng 5/1910, Trung Quốcchiếm giữRima, thuthuếngười dânvàmở mộtcon
đườngchạy quavành đaicác bộ lạc đếnAssam. Việc làm này của Trung Quốcngay
lập tứcgia tăng mối đe dọachiến lượcđếnAssam. Trường phái cấp tiếnnhanh
chónghình thànhvàcác tranh luậnbắt đầu tăng nhanh cảở Ấn Độ vàLondonchomột
bước tiếncủachính quyềnAnh ởphía đông bắcđểlường trướcđộng tháitiếp theocủa
Trung Quốc. Thống đốc củaĐôngBengalvàAssam đề xuấttuần tratích cực hơn,vượt
ra ngoàibiên giớivà cải thiệncác tuyến đườngthương mại tới cáclàng mạc chính
[187; tr.222]. Cựu Phó vương,Huân tướcMinto, đề xuấtđườngbên ngoài (Outer
Line)nên được mở rộngbao gồmlãnh thổcủa tất cả các bộ lạc. Tuy nhiên, các đề
xuất này đều không được chấp thuận. Tân Phó vương,Huân tướcHardinge, cho
rằng, nó không cần thiết, nhiều rủi ro và nếu Trung Quốc tấn công Ấn Độ thì Anh
sẽ tấn công Trung Quốc từ phía biển.
Tuy vậy, đến năm 1911, sau vụ việc NoelWilliamson-một quan chức của
Anh tuần tra ở đường ngoài và bị các thành viên bộ lạcở phía bắc ám sát, Huân
tướcHardinge đã thay đổi quan điểm. Chính quyền Anh tiến hành một cuộc chinh
phạt kết hợp thăm dò Tây Tạng. Huân tướcHardinge giải thích cho sự thay đổi
chính sách của mình là nhằm đối phó với chínhsáchmở rộngcủa Trung Quốc [187;
tr.227].Ôngđã đề nghịChính phủphải trở lạiđề xuấtcủa người tiền nhiệmcủa ôngđó
là“tạo một ranh giớichiến lượcgiữa Trung QuốcvớiTây Tạng vàlãnh thổcủa bộ lạc
càng sớm càng tốt[153; tr.44]. Hardingechấp nhậnđề nghị củaMintorằngđườngbên
ngoàicần được đẩyvề phía bắc gồmlãnh thổtất cả cácbộ lạc nhưng khôngbao
43
gồmTawang.
Năm 1911và 1912,các cuộcviễn chinhtrừng phạttrả thù chocái chếtcủa
Williamsonđược tiến hành vàocác bộ lạc.9/1911,Bộ Tổng Tham mưuquân đội Ấn
Độđã chuẩn bị mộtbản ghi nhớchocác điều tra viênkèm theocác cuộc viễn chinh,
hướng dẫn họtrong việc tìm kiếmmột ranh giớichiến lượcchophía đông bắcvà người
Anhsẽ kiểm soátcác sườn núiphía trước cũng nhưcác đèo.Bản ghi nhớđề xuấtmột
ranh giớisaucác đỉnhnúiphía đông từmột điểm cách vàidặm về phía nam củaTawang
trênbiên giớiBhutan. Đề xuất nàychiếmphần dưới củadải đất Tawang, nhưng để
lạiTawangvề Tây Tạng. Tuy nhiên,ngay sau đó, những người lính đã đề nghịcắttriệt
để hơn,hiệu chỉnhkhu vựcranh giớiphía đông bắccho lợi íchcủa nước Anh.Người
đứng đầuBộ Tổng Tham mưuđã cảnh báorằng Trung Quốc sẽcó thểgây áp lựchay
ảnh hưởngthông qua“mũi nhọnnguy hiểm”(dải đất Tawang). Ông khuyến cáo
mộtđườnglý tưởnglàđưavào Ấn Độkhông chỉTawangmàcòn mộtphầnlớnphía
trênTawang, bao gồmTsonaDzong-một trung tâmhành chínhcủa người Tây Tạng.
Khi đó, Chính phủ Anh không đồng ý nhưng hainăm sau đóđãchấp nhậnđề nghịcủa
ôngđưaTawanglãnh thổ củaẤn Độ.
Từnăm 1911,Chính quyềnẤn Độđãtìm cách xác định ranh giớiphía đông
bắcđưa lãnh thổcác bộ lạcdưới sự “kiểm soát chính trị lỏng lẻo”. Điều này vấp phải
sự phản đối quyết liệt từ Trung Quốc. Tuy nhiên, sự sụp đổđột ngột củaquyền
lựcTrung Quốcở Tây Tạngnăm 1911-1912 đãmởmột cơ hội đểtiến hành các bướcđể
ngăn chặnmối đe dọadọc theo ranh giớiphía đông bắc Ấn Độ.Hơn nữa, nhận thức
được sựnguy hiểmtừ sự hiện diệntích cựccủa Trung Quốctrên biên giớiẤn Độ,
người Anh đã quyết địnhcần phải cómột thỏa thuận loại trừsức mạnhcủa Trung
Quốc khỏiTây Tạng,làm choTây Tạngtrở thành mộtvùng đệmgiữaTrung QuốcvàẤn
Độ thuộccAnh.
Đểtiếp tụcmục tiêu này, Anh đã triệu tậpmột Hội nghịtạiShimlatháng
10/1913. NgườiTrung Quốctham dự Hội nghị một cách miễn cưỡng.Dẫn đầu đoàn
đại biểu Anh tại Hội nghị là SirHenry McHahon-Bộ trưởng Ngoại giao của Chính
phủ Ấn Độ, đại diện của Tây Tạng và Ivan Chen,đại diện của Trung Quốc.
Anh đề nghịTrung Quốcchấp nhậnchia Tây Tạngthành haikhu vực là nội Tây
44
Tạng và ngoại Tây Tạng giống như thoả thuận giữaTrung Quốc và Ngatrongtrường
hợp Mông Cổ.Chủ quyềncủa Trung Quốcđối với Tây Tạngđược công nhận, nhưng
khôngcó quyền quản lýngoạiTây Tạng. Trung Quốc không chấp nhậnđề nghịcủa
Anhnhưng không thể từ chối vìsự yếu kémcũng như phương phápngoại giaocưỡng
bứccủa Anh.Đại diệncủa Trung Quốc vànhân viên tình báoở Calcutta, Hsing-chi,
nhận xét: “hiện tại, Đất nước chúng taở trong tình trạngsuy yếu; quan hệ đối
ngoạicủa chúng tarắc rốivàtài chínhcủa chúng takhó khăn. Mặc dù vậy, Tây Tạng
là hết sức quan trọngvà chúng ta phảinỗ lựctối đatrong Hội nghị này”[224; tr.166-
167]. Trung Quốc phản đối mạnh mẽ đề nghị của Anh. Chính vì vậy,Hội nghịcuối
cùng đãđổ vỡ. Mc Mahonđã lôi kéoIvanChenkí tắt vào văn bản dự thảoHiệp ước.
Ivan Chen đã bị Chính phủ Trung Quốc khiển trách nặng nề. Chính phủ Anh không
cho Mc Mahon kí kết với Tây Tạng nếu Trung Quốc không đồng ý nhưng Mc
Mahon đã kí kết với chính quyền Tây Tạng.
Hội nghịShimla kết thúc trong mớ hỗn độn ngoại giao và Chính phủ Anh
phải chấp nhậnvào thời điểm đólà Chính phủTrung Quốckhông tham gia thỏa
thuậnnào của Hội nghịShimla. Mc Mahonthừa nhận:“Đó là hối tiếcrất lớn khi tôirời
khỏi Ấn Độmà không cósự bảo đảmtuân thủchính thứccủa Chính phủTrung
Quốccho mộtHiệp địnhba bên” [224; tr.186].
Anhsắp xếpranh giớiđểnhằm phục vụ tốt nhấtlợi ích của họ. Sự sắp xếp này
cóthay đổitrong thời giandiễn ra Hội nghịShimla, với đườngbiên giới được
đẩydầnlên phía bắc. Trong mộtbản ghi nhớtháng 10/1913,Mc Mahonđã chỉ ra nước
Anhsẽ phảichấp nhậnTây Tạng sở hữutoàn bộdải đất Tawang.Đến tháng 11/1913,
ông ta lại quyết định ranh giớinên chạy quaSeLa, do đó cắt bỏphần lớndải đất
Tawangra khỏi Tây Tạngnhưngđể lạitu việnTawangbên trong Tây Tạng.Cuối
cùng,vào tháng 12/1913, người Anhcho đường biên giới chạy thẳngkhoảng 12dặm
về phía bắc Tawang vàcắt đứt “mũi nhọnnguy hiểm”Tawang. Mc Mahongiải thích
choLondonmục tiêucủa ông là để đảm bảomột ranh giớiđầu nguồnchiến lượcvà tiếp
cận ngắn nhấtvớituyến đường thương mạivào Tây Tạng. Đườngđượcvẽ trênhai
tấmbản đồđã được Tây Tạng chấp nhậntrongmột cuộc trao đổithư giữaMc
45
Mahonvàtoàn quyềnTây Tạngvào ngày24 và 25/3/1914. Về cơ bản, đường Mc
Mahon đẩy biên giới khoảng 60 dặm về phía bắc và chuyển từ chân lên đỉnh dãy
Assam thuộc dãy Himalaya.Đường này chạy theo rìa của cao nguyên Tây Tạng và
cắt dải đất Tawang ra khỏi Tây Tạng.
Mãi đến năm 1935, OlafCaroc - Thứ trưởng tại New Delhi cho rằng biên giới
đông bắc là một mặt của vấn đề và cần phải tìm ra vị trí đúng. Carocbắt đầukêu
gọimột “chính sách tiến lên”,ít nhất trêngiấy tờ.Ông đề xuất rằngcác thỏa
thuậnAnh-Tây Tạngphải được công bốngay, không chậm trễhơn nữa. Ông cũng đề
xuất, những bước đicần phải thực hiện đểcho thấyđường Mc Mahon làranh giớitrên
các bản đồchính thức. Chính phủ Anh đồng ý phải công bố các tài liệu củaShimla
và năm 1937họ đã công bố ấn bản mới khẳng định đường Mc Mahon là ranh giới
pháp lí.
Tuy nhiên, vào đầunăm 1939,H.J.Twynam-một thành viên phái ôn hòa đã
nêu nghi vấn về tính pháp lí cũng như thực tế của đường Mc Mahon. Ông chỉ ra
rằng,các thư trao đổigiữaMc Mahonvà người Tây Tạngvào năm 1914làchưa đủ thủ
tụccủa một hiệp ướcvà Chính phủđã không có bước điđể hiện thực đườngMc
Mahontừ 1914 đến 1938. Điều nàylàm ảnh hưởngbất lợi đếntính hợp pháp của nó
trongluật pháp quốc tế [153; tr.58].
Như thế, cho đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai người Anh dường như đã
chấp nhận sự thất bại của đường Mc Mahon và Đường Mc Mahonkhông đượctất cả
chấp nhận là mộttuyến biên giới, London quyết định không theo đuổichương trình
nàyđể thiết lậpquyền kiểm soátTawang.
Với sự xâm nhập củaNhật Bản trong Chiến tranhthế giới thứ hai vàcácmối đe
dọatới Ấn Độđã làm sống lạichính sáchtiến lên vàthúc đẩymột nỗ lựclàm
chođườngMc Mahoncó hiệu lực.Nhiệm vụ nàyđã được trao choJ.P.Mills, cố vấn
của Chính phủAnh về các vấn đềbộ lạc. J.P.Mills nhận thức rằng, cả về tự nhiên,
văn hóa và cả hoạt động thương mại, các bộ lạc đều nên về phía Tây Tạng hơn là về
phía Ấn Độ và đường Mc Mahon nên nằm dưới chân đồi là phù hợp. Ông cho rằng
“Về tự nhiên, các bộ tộcphù hợp vớiTây TạnghơnvớiẤn Độ.Về dòng giốngvàngôn
46
ngữhọlàMongoloid, tất cả họ đềunóingôn ngữTạng-Miến vàkhông có gì
chungvớiAssamcủa người Aryanở đồng bằng.Do đóđường Mc Mahontrên thực
tếkhông phải làranh giớitự nhiên, trong khi biên giớidọc theovùng đồng bằnglà một
sự tự nhiên”[162; tr.152].
Tuy nhiên, J.P.Mills cho rằng,sự mở rộng củachính quyềnAnhlà vì lợi íchcủa
các bộ lạc nên đã hăng hái nhận nhiệm vụ. Ông di chuyển tới nhiều vị trí, tìm cách
lấy lòng người dân và ngăn cản Chính phủ Tây Tạng thu thuế. Các nhà chức trách
Lasha phản đối đại diện của Anh tại Tây Tạng. Người Anh khẳng định sẽ không rút
khỏi DirangDzong, kể từ khiAnhcoiđó như làlãnh thổhợp phápcủa mình.Nhưng
BasilGould, quan chức địa phương đã nhượng bộđáng kể và nói với chính quyền
Tây Tạng rằngChính phủcủa ông“đã sẵn sàngthay đổiranh giới, mà cụ thể làbắt
đầu từSeLa,nónên chạyở phía nam củaTawang”[153; tr.61].
Phân tích nhữngtài liệucho thấy, quá trình người Anh cai trị Ấn Độ và tìm
cách phân định đường biên giới với Trung Quốc nhưng không được Trung Quốc
chấp nhận. Người Anh đã tự tạo ra đường biên giới với Trung Quốc đã để lại hậu
quả to lớn và trở thành một nhân tố quốc tế quan trọng gây ra mâu thuẫn, tranh chấp
lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc, là nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh
biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
47
Tiểu kết chương 2
Trung Quốc và Ấn Độ có chung đường biên giới rất dài và được chia thành 3
khu vực tranh chấp riêng biệt là khu vực phía tây, khu vực trung tâm và khu vực phía đông. Khu vực phía tây có khoảng hơn 38.000 km2tranh chấp. Phần lớn diện tích tranh chấp ở phía tây biên giới Ấn Độ - Trung Quốc nằm ở khu vực Aksai Chin
và một số điểm tranh chấp nhỏgần Chushul và Demchok trên Ấn,Phía nam hồ
Panggong. Khu vực trung tâm tồn tại rất nhiều các điểm tranh chấp như Spiti, Bara Hoti, Nilang và gần đèo Shipki, nhưng tranh chấp không lớn, khoảng 200 dặm2. Khu vực phía đông, hiện nay là bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, có diện tích
khoảng 83.743 km².
Các khu vực tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc phần lớn là những khu
vực rất cao, hiểm trở với nhiều vùng đất không có người hay sinh vật nào sinh sống
và quanh năm tuyết phủ.Tuy vậy, đây đều là những khu vực có vị trí địa chiến lược
hết sức quan trọng ảnh hưởng tới an ninh quốc gia vì vậy cả Ấn Độ và Trung Quốc
đều muốn nắm giữ.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962xuất phát từ rất
nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó có các nhân tố quốc tế
như: Bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực,đặc biệt, nhân tố quan trọng nhất liên quan
đếnquá trình cai trị Ấn Độ của thực dân Anh.
Những di sản của chế độ thực dân Anh để lại trong quá trình cai trị Ấn Độ
liên quan đến tranh chấp ảnh hưởng với đế quốc Nga vào thế kỉ XVIII-XIX vớ Trò
chơi lớn “Great Game” và những sự phân định ranh giới do người Anh tiến hành để
phân chia biên giới giữa Ấn Độ thuộc Anh với Trung Quốc ở cuối thế kỉ XIX và
đầu thế kỉ XX mà chưa được Trung Quốc đồng ý đã dẫn đến sự tranh chấp giữa Ấn
Độ và Trung Quốc sau khi giành được độc lập.Đây là nhân tố quốc tế chính tác
động gây mâu thuẫn và là nguồn gốc sâu xa của tranh chấp lãnh thổ cũng như cuộc
chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
Những nhân tố của bối cảnh quốc tế như cục diện chiến tranh lạnh, cạnh
tranh Xô – Mỹ; khủng hoảng Caribbe; cạnh tranh của Trung Quốc và Ấn Độ trong
thế giới thứ Ba, trong Phong trào Không liên kết; bối cảnh khu vực với mâu thuẫn
Ấn Độ - Pakistan cũng là những nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến thời điểm
bùng nổ và kết thúc của cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962.
48
CHƯƠNG 3. NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG DIỄN BIẾN CỦA CUỘCCHIẾN
TRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962
3.1. Khái quát diễn biến cuộc chiến tranh
Ngày 20/10/1962, quân đội Trung Quốc đã phát động cuộc tấn công trên
chiều dài hơn 1.000 km từ đông sang tây. Cuộc chiến kéo dài từ ngày
20/10/1962 đến ngày 21/11/1962, khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố rút
quân. Trong cuộc chiến tranh này, Trung Quốc tấn công chủ yếu ở 2 khu vực
tranh chấp phía tây và phía đông còn khu vực Trung tâm không có chiến sự.
Cuộc chiến tranh được tóm lược như sau:
3.1.1. Chiến sự khu vực phía tây
Cuộc chiến ở phía tây chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn 1(19/10 - 27/10),
Trung Quốc tấn công vào các đồn trong “Chính sách Tiến lên phía trước”của Ấn
Độ.Giai đoạn thứ 2 (28/10 - 18/11), không có hoạt động gây chiến nào, cả hai bên
tập trung tăng cường sức mạnh.Giai đoạn 3 (18-21/11), Trung Quốc tấn công áp đảo
hệ thống phòng thủ của Ấn Độ ở rìa phía đông sân bay Chushul. Diễn biếncụ thể ở
từng tiểu khu như sau:
Giai đoạn 1(19/10 - 27/10)
Tiểu khu Daulat Beg Oldi (DBO) theo cách gọi của Ấn Độ và Tianwendian
(Thiên Tân) theo cách gọi của Trung Quốc: Đêm 19/10/1962, Trung Quốc tấn công
và đến ngày 24/10/1962, tất cả các đồncủa “Chính sách Tiến lên phía trước”ở
thung lũng Chip Chap và Nachu Chu đã bị Trung Quốc chiếm, kết thúc giao tranh
trong Tiểu khu DBO.
Tiểu khu Heweitan (Changchenmo và Galwan):Sáng ngày 20/10/1962, quân
Trung Quốc tấn công, đến tối ngày 23/10, quân Trung Quốc đã chiếm cả 6 đồn của
Ấn Độ ở bờ bắc và nam của sông Galwan và đã đạt được tuyên bố lãnh thổ vào năm
1959 của họ trong khu vực này.
Tiểu khu Chushul: Sáng ngày 21/10/1962, Trung Quốc tấn côngvà đến chiều
ngày 22/10, Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn bờ phía bắc của hồ Pangong. Quân
đội Ấn Độ tăng cường cho Chushul. Sáng ngày 11/11, Trung Quốc tấn công,đến
19/11, Ấn Độ rút quân về phía tâyChushul.
49
Thung lũng sông Ấn: Sáng 27/10, Trung Quốc tấn công và đến chiều 28/10,
quân Trung Quốc đã chiếm dãy Kailash, thống trị bờ phía đông của thung lũng sông
Ấn. Tất cả 7 đồn của Ấn Độ đã bị chiếm.
Giai đoạn 2: Từ 29/10 đến 17/11/1962, khu vực phía tây, chiến sự tạm lắng.
Ấn Độ tăng cường tổ chức bảo vệ Leh phòng thủ Chushul. Trung Quốc tập trung
lực lượng 1 trung đoàn trong vùng lân cận của khoảng trống Spangur.
Giai đoạn 3: (18-21/11/1962): Sáng ngày 18/11, Trung Quốc tấn công
Rezangla, đồi Gurung cũng như các đồn của Ấn Độ nằm ở khoảng cách Spangur và
đồi Mugga, đêm 19/11/1962, quân Ấn Độ rút khỏi đồi Gurung, đồi Muggar, đồn
Spangur và Tokung, triển khai trên phía tây Chushul. Chiến sự phía tây kết thúc.
3.1.2. Chiến sự khu vực phía đông
Ngày 10/10/1962, Trung Quốc tấn công Punjabis ở Tseng-jong, quân Ấn Độ
rút khỏi Tseng-jong về Namkha Chu.Ngày 17/10, Trung Quốc tấn công phía đông
Tsangle chiếm ngọn đồi phía sau khu vực phòng thủ của Ấn Độ [201; tr.103].
Phân khu Kameng
Ngày 17/10, Trung Quốc chiếm đồn Tsangle ở bờ bắc Namkha Chu. Ngày
20/10/1962, Trung Quốc đồng loạt tấn công các đồn tại khu vực Namkha Chu, quân
Ấn Độ rút khỏi Rongla và tập trung tại Tsangdhar, Trung Quốc tấn công Tsangdhar.
Ngày 21/10/1962, Trung Quốc tấn công Hathongla, Chuthangmu, Brokenthang.
Trung Quốc chiếm Zimithang vào đêm 22/10 và Lumpo ngày 23/10 [234; tr.147].
Sáng ngày 23/10, Trung Quốc bao vây, tấn côngđồn Assam và Tongpeng La. Quân
Ấn Độ, rút khỏi Tawang đến Jang.
Sáng ngày 17/11, Trung Quốc tấn công và đến tối 17/11, Trung Quốc đã cắt
đứt đường liên lạc Bomdila - Dirang. Sáng 18/11, quân Trung Quốc tấn công Se La,
phần lớn quân Ấn Độ bị thương vong và số còn lại phải chạy vào Bhutan. Trưa
ngày 18/11, Trung Quốc tấn công đèo Bomdila, đến chiều, chiếm Bomdila.
Bên cạnh Kameng, ArunachalPradesh có cuộc giao tranh lớn tại Walong
thuộc huyện Lohit. Đêm 21/10/1962,một đại đội quân Trung Quốc tấn công đỉnhMc
Mahon, Madiha, Lohit II, Laila. Quân Ấn Độ rút khỏi đỉnh Mc Mahon và Di Chu,
50
tập trung tại Kibithoo. Ngày 25/10/1962, quân Ấn Độ rút quân khỏi các đơn vị
Abansiri, Siang và Lohit.
Sau ngày 27/10, hai bên ngừng giao chiến và tập trung xây dựng lực lượng.
Sáng ngày 14/11, Đại đội đặc biệt Trung Quốctấn công Yellow Pimple, cuộc chiến
quyết liệt, kéo dài đến tối khi quân Trung Quốc tăng cường lên một tiểu đoàn đẩy
lùi quân Ấn Độ về Điểm ngã ba. Rạng sáng ngày 15/11, Trung Quốc tấn công Điểm
ngã ba bằng súng cối và súng máy. Ngày 16/11, Trung Quốc tấn công tất cả các đồn
thuộc“Chính sách Tiến lên phía trước” của Ấn Độ. Các vị trí của Ấn Độ bị tàn phá,
quân Ấn Độ rút khỏi Điểm ngã ba, quân Trung Quốc tập trung hỏa lực vào Walong,
Ấn Độ rút khỏi Walong.
Tại Bộ phận biên giới Subansiri(giữa của NEFA) nằmphía đông của Bộ phận
biên giới Kameng. Tháng 10/1962, Ấn Độ chia Subansiri thành hai tiêu khu: Tiểu
khu Thung lũng Kamla(Hạ huyện Subansiri) và Tiểu khu Subansiri (Thượng
huyệnSubansiri). Sáng ngày 23/10, quân Trung Quốc tấn công vào các đồn biên
giới Asaphila, Sagamla, Tamala và Potrang. Quân Ấn Độ rút tất cả các đồn “Chính
sách Tiến lên phía trước” đến Taliha. Ngày 26/10, tất cả các đồn đồn bị quân đội
Trung Quốc chiếm.
Từ ngày 27/10, hai bên không có giao tranh, tập trung củng cố lực
lượng.Ngày 18/11, một cuộc đụng độ giữa 200 lính Trung Quốc với một đội tuần
tra của Ấn Độ,quân đội Ấn Độ rút khỏi Lemeking đến Daporijo. Sáng ngày 21/11,
quân Trung Quốc chiếm Lemeking và tiếp tục tiến tới Daporijo sau đó họ nhận
được lệnh dừng và quay trở lại Lemeking [201; tr.267].
Tại Khu vực Siang(đặt tên theo con sông chảy qua nó), phía bắc ngăn cách
với Tây Tạng qua dãy Himalaya; phía tây là khu vực Subansiri; phía đông là Lohit,
phía nam là đồng bằng Assam. Quân đội Ấn Độ chia khu vực Siang thành ba tiểu
khu: Tiểukhu Menchuka; Tiểu khu Manigong ; Tiểu khu Tuting.
Tại tiểu khu Menchukha, ngày 21/10/1962, quân Trung Quốc chiếm đóng
Lasam. Chiều ngày 23/10, quân Trung Quốc bao vây Lamang, quân Ấn Độ rút khỏi
Lamangđến Menchuka. Tại tiểu khu Manigong, ngày 24/10/1962, quân Trung Quốc
51
tấn công đồn Jem Rai (trên đường Henkar-Gingtung) đẩy quân Ấn Độ đến Henkar.
Quân Trung Quốc tấn công đồn trên đường Henkar-Dom La, tấn công Manigong
vào sáng ngày 28/10, quân Ấn Độ rút về Karo. Tại tiểu khu Tuting,ngày 24/10, quân
Trung Quốc tấn công đồn Lamdo La, Nayur La và Shoka La, quân Ấn Độrút về
Tuting. Như vậy, đến cuối tháng 10/1962, Trung Quốc đã chiếm Lamang (tiểu khu
Menchukha), Manigong (tiểu khu Manigong) và Jorging (tiểu khu Tuting) trong
khu vực Siang [201; tr.275].
Từ 28/10 đến 16/11 là thời gian tạm dừng và cả hai bên đều tranh thủ củng
cố, tăng cường lực lượng. Ấn Độ chuyển Lữ đoàn 192 đến khu vực Siang,Trung
Quốc đã tập trung một tiểu đoàn ở Manigong.
Ngày 17/11, một trận giao tranh tại Nisangong, quân Ấn Độ rút từ
Menchukha tới Along. Chiều ngày 19/11/1962, quân Trung Quốc tấn công đồn
Kepang La, quân Ấn Độ rút về Gelling sau đó về Tuting. 21/11, Trung Quốc chiếm
Gelling, 22/11 chiếm Tuting sau đó quân Trung Quốc được lệnh quay trở lại
Lemeking và Menchuka.
3.1.3. Ngừng bắn, rút quân
Sau khi cáo buộc và đổ lỗi cho Ấn Độ xâm lược, Trung Quốc đưa ra hai
quyết định đơn phương:
Bắt đầu từ 00 giờ ngày 22/11/1962, các lính biên phòng Trung Quốc sẽ
ngừng bắn dọc theo toàn bộ biên giới Trung Quốc - Ấn Độ; (2) Bắt đầu từ tháng
12/1962, các lính biên phòng Trung Quốc sẽ rút lui về vị trí 20 km phía sau đường
kiểm soát thực tế đã tồn tại ở Trung Quốc và Ấn Độ vào ngày 7/11/1962.
Với những điều kiện là:(1) Quân đội Ấn Độ không được tấn công khi quân
Trung Quốc rút lui.(2) Quân Ấn Độ cũng phải cách đường Mc Mahon ở phía đông
20 km và tuyến kiểm soát thực tế ở Ladakh và khu vực trung tâm. (3) Ấn Độ không
được chiếm giữ các vị trí trong các khu vực NEFA hoặc Chip Chap, Galwan
Pengong Tso và Demchok ở Ladakh.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố đơn phương ngừng bắn từ 21/11/1962, trong
quá trình di chuyển, hai bên vẫn có những cuộc đọ súng nhỏ cho đến cuối tháng 11.
52
Từ đầu tháng 12/1962, Trung Quốc bắt đầu bàn giao tù binh và các phương tiện
chiến tranh đã hỏng và vũ khí nhỏ cho Ấn Độ.
3.1.4. Thiệt hại của hai bên
Do nhiều nguyên nhân, không có ước tính chính xác vềthương vong cả hai
bên. Việc xác định thương vong trong chiến tranh hay do đói, rét và điều kiện khắc
nghiệt cũng không thể rõ ràng. Ngày 12/12/1962, trong thông báo vớiThượng viện
Ấn Độ, J. Nehru cho rằng, trong cuộc xung đột Trung Quốc-Ấn Độ, quân đội có
197 người chết (11 sĩ quan, 13 hạ sĩ quan và 173 lính); 291 bị thương; 6.277 người
vẫn chưa được giải trình [201; tr.377]. Ngày 26/12/1962, Hội chữ thập đỏ Trung
Quốc đã thông báo cho Ấn Độ biết rằng có 3.893 tù binh do Trung Quốc bắt[201;
tr.378] hoặc 3942 người bị bắt [234; tr.292].Theo báo cáo của quân đội Ấn Độ vào
năm 1966, phía Ấn Độ có 2.616 thương vong (gồm bị giết, bị thương). Trong đó
875 người bị quân Trung Quốc tấn công, số còn lại là do nhiều nguyên nhân như
thời tiết và tai nạn. Không có tù nhân Trung Quốc nào bị Ấn Độ bắt [201; tr.378].
Hoặc 1.383 bị chết,3.968bị bắt, 1.696 bị mất tích [41; tr.81]. Theo ước tính của Ấn
Độ, tổng số thương vong của Trung Quốc khoảng 2.500 người. Con số này có vẻ
không chính xác nhưng Trung Quốc thương vong khoảng trên 1.000 người là có cơ
sở [201; tr.378]. Phía Trung Quốc đưa ra con số hơn 5.5000 lính Ấn Độ bị tiêu diệt
và bắt giữ gần 3.000 bị bắt [234; tr.309].Trung Quốc tuyên bố 722 người bị giết và
1.697 người bị thương [58; tr.310].
3.2.Tác động của các nhân tố quốc tế trong diễn biến chiến tranh biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962
3.2.1. Mỹ và các đồng minh với diễn biến của cuộc chiến tranh
Tầm quan trọng của Nam Á đối với Mỹ
Nam Á có một vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, phía bắc tiếp giáp với
Trung Quốc và Liên Xô trên một vùng rộng lớn,phía namtiếp giáp với Ấn Độ
Dương, có dân số khổng lồ và như là một cầu nối giữa Đông Nam Á và Trung
Đông.Nam Á trở thành một trong những điểm tranh chấp ảnh hưởng giữa Mỹ với
Liên Xô, Trung Quốc. Mối quan tâm hàng đầu của Mỹtrong cuộc cạnh tranh này là
53
giữ cán cânquyền lựcthế giới có lợi cho mình. Mỹ cho rằng Liên Xô cósức mạnh
quân sựto lớn vàđang ngày càng mở rộng sựchuyên chếcủa cộng sản.Kiềm chếquá
trìnhbành trướng củacộng sản,chốnglại ảnh hưởngcủa Liên Xôlàmục tiêubao trùm
trong chính sách đối ngoạicủa Mỹ.Theo đuổicác mục tiêu này, năm 1947, Tổng
thống Trumanủng hộmột chính sách mới,chính sách “Ngăn chặn”. Ông phát biểu
“Tôi tin rằngchúng ta phảihỗ trợ các dân tộc tự do,những người đangchống lạicác
nhómvũ trangthiểu sốhoặc áp lực bên ngoài,tự quyết định vận mệnh củamình theo
cách riêngcủa họ”[208; tr.47].
Do phải tập trunggiải quyết các vấn đề ở châu Âu,trong những năm đầuẤn
Độđộc lập (1947-1950), Mỹ đãkhông dànhnhiều sự chú ýđếnNam Á, họchorằng
Anhcó khả năngvàphải chịu trách nhiệmduy trìhòa bình vàan ninhtại khu vực này.
Sự thắng lợi của Đảng Cộng sản ở Trung Quốcvàsự ra đời nước Cộng hoàNhân
dânTrung Hoa tháng 10/1949 đã nâng tầm quan trọngcủa Ấn Độ trongmắt người
Mỹ. Mỹ cho rằng khi cộng sản nắm quyền cai trị ở Trung Quốc thì Trung Quốc và
Liên Xôsẽ xâm chiếmdọc theo bờ tiểu lục địaẤn Độ vànếuẤn Độ mấtvềphe XHCN
thì tất cả cácmục tiêu thực tế, tất cả cáckhu vực ở châu Ásẽ bị mất.Mỹ có rất nhiều
động thái nhằm lôi kéo Ấn Độ về phe của mình, biến Ấn Độ thành tiền tiêu chống
lại cộng sản.
Khi Trung Quốc can thiệp vào cuộc Chiến tranh Triều Tiên,người Mỹ
chorằng cộng sảncó thể thực hiệnmột chính sáchtương tựởNam Á và nếuẤn Độ -
quốc gia đông dân thứ haitrên thế giới,nằm dướisự thống trị củacộng sảnsẽ tạo
thành mộtmối đe dọanghiêm trọngđến an ninh của Mỹ. Hơn nữa, Trung Quốc
đãdùng quân sựxác lập chủ quyềnđối với Tây TạngvàTân Cươngnhững năm 1950-
1951. Vì những lý do đó,chính sáchcủa Mỹ đối vớikhu vực Nam Á đượcđánh giá
lạihết sức kỹ lưỡng. Mặt khác,mối bận tâm chính của Mỹ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai là chương trình phục hưng châu Âu về cơ bản đã được giải quyết.Vào tháng
1/1951,một nghiên cứuviêncủa Hội đồngAn ninh Quốc gia Mỹ nhận định: “Đã đến
lúctheo đuổimục tiêucủa chúng taở Nam Ámột cách mạnh mẽhơn.Chúng tacần đánh
giáquan điểm vàchính sáchcủa các chính phủtại khu vựccũng nhưcác khả
54
năngvàhạn chếảnh hưởngcủa chúng ta. Hơn nữa,sự sụp đổ củaTrung Hoa Dân
Quốc, mối đe dọacủa Cộng sản Trung Quốc đếnẤn Độ và sự cân bằngĐông Nam
Áđã gia tăngtính cấp báchđểđạt được cácmục tiêucủa chúng tatrong khu vực này”
[36; tr.10].
Với Mỹ,Nam Áquan trọngkhông phải vì là nơi cung cấpnguồn nguyên
liệucần thiết chocông nghiệp của Mỹ, cũng không phải là lối thoátchonguồn
vốnthặng dưcủa Mỹhay là thị trườngtiêu thụhàng hóa của Mỹ. Tầm quan trọng của
Nam Á là khi được đặt trong vùng lân cận, là cầu nối giữaĐông Nam Á và
TrungĐông, haikhu vực màMỹ và các nước phương Tâycólợi ích chiến lượcvàkinh
tếquan trọng.Lợi ích của Mỹ tại Đông Nam Á gồm: Thứ nhất,các quốc gia nàyđược
tiếp giáp với cường quốc Cộng sản. Thứ hai,họ sản xuấtvật liệu chiến lượcnhư cao
suvà thiếc.Thứ ba,là vựa lúa lớn trên thế giới. Thứ tư, kiểm soát Cộng sảntại Đông
Nam Ácó thểgây nguy hiểm chotoàn bộ khu vựcTây Thái Bình Dươngvàmối đe
dọanghiêm trọng đối vớian ninh củaAustralia, NewZealand và khó khănđể bảo
vệHàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loanchống lạisự xâm lượccủa Cộng Sản [208;
tr.129]. Còn với Trung Đông, trước hết, nó cung cấp một lượng lớn dầu mỏ cho Mỹ,
Tây Âu và Nhật Bản; mặt khác, Trung Đông là cầu nối đường biển và đường hàng
không của ba lục địa Á, Phi, Âu.Nếu Nam Á thuộc quyền kiểm soát của Liên Xô
hoặc Trung Quốc sẽ đe dọa nghiêm trọng tuyến đường nối giữa Đông Nam Á với
Trung Đông và các tuyến đường hàng hải, hàng không quan trọng.
Mong muốncủa MỹtạiNam Á là xây dựng vị trítối ưu có khả năng hỗ
trợMỹvà các đồng minhcủa mìnhcả trong thời bìnhcũng nhưtrong trường hợp
cóchiến tranh, đồng thờingăn chặnLiên Xôhỗ trợquân sựtrực tiếphoặc gián tiếp đến
khu vực này. Mỹ tìm cáchđể đạt đượchai mục tiêu, đó là: ngăn chặnNam Árơi vào
pheXHCN vàđưaẤn Độtrở thành đồng minh trong phe chống cộng sản. Nam Á có
hai quốc gia có vị trí và tầm ảnh hưởng lớn là Pakistan và Ấn Độ. Một mặt, Mỹ đã
xây dựng thành công liên minh với Pakistan từ những năm 1950. Mặt khác, Mỹ cho
rằng,Ấn Độ có quy mô rộng lớn, vị trí địa lý quan trọng, thể chế dân chủ và sự ổn
định chính trị tương đối, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cán cân quyền
55
lực ở Đông Nam Á và Trung Đông.Bowles, Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ 1951 - 1953, nhận
xét “nếu Ấn Độ trở thành Cộng sản, toàn bộ khu vực rộng lớn từ Cairo đến Tokyo
sẽ gặp nguy hiểm lớn.Chúng ta sẽ bị cắt đứt hoàn toàn nguồn tài nguyên phong phú
nhất thế giới và cuối cùng phải đối mặt với sự gia tăng nguy hiểm của Cộng
sản”[113; tr.194].
Người Mỹ cũngchú trọng đếnphát triển kinh tếcủa Ấn Độ.Mỹ cho rằng, một
trong những mục tiêucủa Trung Quốckhi tấn côngẤn Độlà nhằm phá hủy cơ sở vật
chất, công cuộc xây dựng đất nước, gây rasự gián đoạnkinh tếở Ấn Độđồng thời
phát triển cộng sản xuống Nam Á.Vì vậy,Mỹđãquan tâm đếnmối quan hệ giữakinh
tếcủa Ấn Độvàsự mở rộng củachủ nghĩacộng sản. Vào tháng 9/1951,mộtbáo cáo
của CIAđãnhận định:“Nếukinh tế Ấn Độtiếp tục suy thoái thì nó sẽ tạo thuận lợi
chonhững người cộng sảnẤn Độ, đặc biệt là nếu được hỗ trợcủacộng sảnTrung
Quốc, nắm quyền kiểm soátChính phủ Ấn Độ”[113; tr.187-188].
ChesterBowlescho rằng,nếu Ấn Độthất bại, người dânchâu Ásẽ mất niềm tin
vào nền dân chủ Ấn Độ, vốn có lợi thế từtình hữu nghịvới phương Tây, có cán bộ
kỹ thuậtđược đào tạovàcác dịch vụdân sựtốt,đã thất bại trong việcbảo hộ người dân
của họ.Nếuđiều đó xảy ra, cán cân quyền lựcthế giớisẽthay đổivề phíaMoscow
[116; tr.58].
Mỹcòn quan tâm đếnsự ủng hộngoại giaomàcácnước Nam Á có thể dành cho
Mỹtại Liên Hợp Quốcvà các diễn đànquốc tế. Họ cho rằng các nhà lãnh đạo Ấn Độ
vàPakistancóuy tín lớntrên khắpchâu Á vàsự ủng hộvề mặt ngoại giaocủacác nước
nàytrong tương lai vàtại Liên Hợp Quốclà rất quan trọng [113; tr.161].
Từ những phân tích trên có thể thấy Nam Á nói chung, Ấn Độ nói riêng, có
một vị trí địa chính trị rất quan trọng và là mục tiêu, là điểm nóng tranh chấp giữa
Mỹ và đồng minh với Liên Xô và Trung Quốc. Chính yếu tố này quyết định những
chính sách cũng như phản ứng của Mỹ liên quan đến các biến động ở đây. Điều này
thể hiện nổi bật thông qua cuộc chiến tranh biên giới Ấn Độ-Trung Quốc.
Hợp tác Mỹ - Ấn Độ khi chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ
Cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962làsự kiệnquan trọng nhất
56
tronglịch sử ngoại giaocủa Ấn Độkể từ năm 1947.Nó đã dẫn đếnsự thay đổilớn
trongchính sách đối ngoạicủa Ấn Độnói chungvà trong quan hệẤn Độ - Mỹ nói
riêng. Trước khi xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ 1962, quan
điểmcủa Ấn Độ và Mỹvề việc đối phó với nhữngmối đe dọatừ Trung Quốc là rất
khác nhau. Trướcsức mạnhvà tầm ảnh hưởng của Trung Quốc,Mỹđặttrọng tâm
vàoan ninh tập thể,trong khi đó,Ấn Độchủ yếutập trung vào chính trịvà ngoại giao.
Mặt khác, Ấn Độxemquan hệquốc phòng giữa MỹvớiPakistanlàmối đe dọatrực
tiếpđến an ninhcủa riêng mình.Tháng 12/1961, Ấn Độ giải phóng Goa khỏi Bồ Đào
Nha – một đồng minh của Mỹ, đã gây ra những phản ứng gay gắt từ Mỹ. Ngoại
trưởng Mỹ John Foster Dulles gọi Goa là một tỉnh châu Á của Bồ Đào Nha.Adlai
Stevenson, Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc, thông báo cho Hội đồng Bảo an rằng việc
không lên án hành động xâm lược của Ấn Độ có thể kết thúc bằng cái chết của Liên
Hợp Quốc [159]. Quan hệ Mỹ - Ấn Độ càng thêm xấu đi khi Ấn Độ mua máy bay
MIG-21 của Liên Xô. Vì các lý do này, mối quan hệgiữa Ấn Độ với Mỹ gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí cách biệt.Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranhbiên giới Trung
Quốc - Ấn Độ năm 1962 bùng nổ, sự khác nhaugiữa các chính sách của Mỹ và Ấn
Độ được thu hẹp rất nhiều, đến mức dường như biến mất. Trên thực tế,trong một
thời gian, hai nướcdường như ởtrong một liên minhkhông chính thức.
Khiquân đội Trung Quốctấn côngẤn Độtại Ladakhvàongày 20/10/1962,các
quan chức ởDelhi, WashingtonvàLondonđều bị sốc. Ngày 21/10,Bộ Ngoại giao Mỹ
tuyên bốrằng Mỹ “đã bị sốc vớihành độngbạo lựcvà hung hăngcủaCộng sảnTrung
Quốcđối với Ấn Độ”[48; tr.613]. Các cơ quantình báo phương Tâychorằng,mùa
đôngở Himalayalạnh lẽosẽ giúp ngăn chặn bùng nổ chiến tranh.Vì thế, Mỹ và Anh
không cókế hoạch dự phòngđể đối phó vớimột cuộc chiến tranhbiên giới Trung
Quốc - Ấn Độ. Các báo cáo gửi tớiWashingtonvàLondon cho thấyQuân đội Trung
Quốc đã tấn công và đẩy quân đội Ấn Độvào sâu lãnh thổ Ấn Độ.Tổng thốngMỹ,
JohnKennedyvà Thủ tướngAnh, HaroldMacmillan có cùng quan điểm rằng vấn
đềcủa Ấn Độđã tạo ra mộtcơ hội tuyệt vờichohọthay đổi động lựcchính trịcủatiểu
lục địa Ấn Độ.Sử dụngviện trợđể đạt đượcmục tiêu tiến gần tớiẤn Độvà đưa Ấn Độ
57
tránh xa cộng sản, ngả về phía Mỹ và phương Tây.
Về ngoại giao
Jawaharlal Nehruđã yêu cầusự hợp tác ngoại giao từ Mỹ và nhận được sự
đáp lại hết sức nồng nhiệt. Sự kiện đầu tiên chính là lập trường của Mỹđối vớinhững
tuyên bốvề biên giớicủa Ấn Độ trongkhu vựcphía đông được Galbraith, Đại sứ Mỹ
tại Ấn Độ,đưa ravàongày 27/10,“đườngMc Mahonlà biên giớiquốc tếđược công
nhậnvàđược chấp thuận bằng việc sử dụnghiện tại. Chúng tôi coinó như làbiên
giớiphía bắc của vùngNEFA”[48; tr.615]. Trongmộtcuộc tranh luậntại Liên Hợp
Quốc, đại diệncủaMỹ là AdlaiStevensonđã tìm cách thu hútsự chú ý đếncuộc xâm
lược củaTrung Quốcđối với Ấn Độ.Trong bài phát biểucủa mình, ôngnói: “Trung
Quốc làmộtchế độ độc tài, tư tưởng và mục đích của nólàquyền lực. Nó làchủ nghĩa
đế quốcmới, chủ nghĩa thực dânmới,đang tìm cáchtạo ra mộtđế chế mớikhôngchỉ ở
châu Ávàphá hủy hy vọngtự dotrên toàn thế giới”[193; tr.95].
Bên cạnh đó,J. Nehru cũng yêu cầu Mỹ đảm bảo rằngPakistankhôngtấn
công Ấn Độtrong thời gian diễn ra cuộc chiếngiữa Ấn Độ vớiTrung Quốc.Đáp
lại,Tổng thốngMỹ, Thủ tướng AnhvàShah (vua)Iranyêu cầuTổng thống
Pakistankhông làmbất cứ điều gìgây nhiễu và đánh lạc hướngsự chú ýcủa Ấn
Độ.Tổng thốngKennedyđã gửiphái viêntới Pakistan. Đại sứ Mỹ
tạiPakistan,McConaughyđãnỗ lực đểcómột sự bảo đảmtừnhà lãnh đạo
PakistanrằngPakistansẽ khôngtấn công Ấn Độtrong khi cuộc chiến tranhgiữa Ấn Độ
với Trung Quốc đang diễn ra.Ông đã gặpBộ trưởng Ngoại giaoPakistan,
MuhammadAliBogra,tại Rawalpindiđể xác nhậnlời camkết chính thức.
MuhammadAliđã nhất trírằngTrung Quốcchính làmột mối đe dọalớn hơnLiên Xôvà
rằng Ấn Độ không cần lo ngạitừphía Pakistan.Ôngcũng nói vớiĐại sứ Mỹrằng một
khitranh chấptại Kashmir được giải quyết, cả Ấn Độ vàPakistancó thể cùnghợp tác
chống lạicácđe dọacủa cộng sảntừ phía bắc [116; tr.135].
Những tuyên bố và những hoạt động ngoại giao của Mỹ thể hiện sự ủng hộ
Ấn Độ như: lên án Trung Quốc xâm lược Ấn Độ, công nhận đường MC Mahon là
hợp pháp, yêu cầu Pakistan không được làm xấu thêm quan hệ với Ấn Độ trong khi
cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy ra, có tác động lớn đến cuộc
58
chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ; chúng tạo ra sự khích lệ lớn đối với Ấn Độ và
cho phép Ấn Độ tập trung lực lượng cho cuộc chiến chống Trung Quốc.
Về quân sự
Ngay sau khicuộc chiến tranhbùng nổ, quân đội Ấn Độ thất bại thảm hại và
không thểchống lạiquân đội Trung Quốc.Sáu ngày sau,J. Nehruphát đi lời kêu
gọi“Hỗ trợ và thông cảm” đến tất cảnguyên thủ quốc giatrên thế giới (trừ Bồ Đào
Nhavà Nam Phi),khẳng định Ấn Độchiến đấunhằmloại bỏsự lừa dối, che đậyvàvũ
lựctrongquan hệ quốc tế [49; tr.276].
Người MỹcoiTrung Quốc là kẻ thù,người Ấn Độxem Mỹ làngười ủng hộđáng tin
cậy nhấtđể chống lại Trung Quốc. Nehruhiểu mình rất cần sự giúp đỡ của
Kennedynhưng không muốn bị coi là từ bỏ nguyên tắc trung lập mà ông rất dày công
xây dựng và tự hào.Nehru đặc biệt không muốn tham gia một liên minh quân sự của
Mỹ.Vì thế, J. Nehrugửilời kêu gọichungtới tất cả các nước, cả Liên XôvàMỹ.Ngày
27/10/1962, khi chuyển đến Tổng thống Mỹ bức thư của Thủ tướng Ấn Độ, Đại sứẤn
Độ tạiMỹ,B. K. Nehru, nói với Tổng thốngKennedyrằng:“Sau một thời gian dàitheo
đuổi chính sáchtrung lập rất khó để Thủ tướng Chính phủ Ấn Độđưa ra mộtyêu cầu trực
tiếpcác loại vũ khítừ Mỹ” [116; tr.95].Ônghy vọng, Tổng thốngMỹ sẽcung cấpviện trợ
quân sự trên cơ sởmột sự thông cảm chứ không phải vìmột liên minh. Tổng thống
Kennedy trả lời, “tôi hiểu” và nói thêm rằngôngkhôngmuốnlợi dụng tình trạng“bất
hạnh”đểép buộc Ấn Độ tham gia vàomột liên minh. Ngày hôm sau, Tổng
thốngKennedyđã viết một bức thư cho Nehru đảm bảo rằng Mỹ hoàn toàn ủng hộ Ấn Độ
chống lại cuộc tấn công của Trung Quốccả vật chất và tinh thần“Chúng tôi hết lòng cảm
thôngvới các bạntrong tình trạng này. Các bạnđãthể hiệnsự nhẫn nhịnvàkiên
nhẫnmộtmức độấn tượngtrong việc đối phóvớiTrung Quốc. Các bạnđãthực hiệntất
cảnhững gì các lãnh tụtôn giáolớn đãkêu gọivà quá íttín đồ của họđã có thểlàm được”
[201; tr.364].
Sau khinhận được thư củaTổng thống Mỹ với nội dungsẵn sàng cung cấp
viện trợ, ngày29/10, Thủ tướng J. Nehru tuyên bốchấp nhậnviện trợ quân sự từ Mỹ.
Trong cuộc gặpGalbraith, Nehru nói rằng Ấn Độ “thực sự phải có viện trợ và sẽ
59
phải đến từ Mỹ” vì Liên Xô sẽ không cung cấp các máy bay MIG-21 như đã hứa.
Ấn Độ xin một lượng vũ khílớncủaMỹ, bao gồm12phi độimáy bay chiến đấutrong
mọi thời tiết, haiphi độimáy bay ném bomB-47 do phi hành đoàncủa Mỹ láiđểtấn
côngcác vị tríở Trung Quốcvàyêu cầu Mỹ giúp đỡ xây dựngmộtlá chắnradarcho các
thành phốcủa Ấn Độ [205]. Galbraith nói với đại sứ Anh và Canada tại New Delhi
rằng Ấn Độ đã yêu cầu viện trợ quân sự và Kennedy đã đồng ý cung cấp;cả hai đều
yêu cầu các chính phủ của họ ở London và Ottawa tham gia vào giúp đỡ Ấn Độ
[190; tr.120].
Mỹ và đồng minh phương Tâyđã thể hiện sự hưởng ứng với nhữnghành
độngmạnh mẽ trước kêu gọi củaẤn Độ. Một mặt, họ lên ánTrung Quốc, mặt khác,
nhanh chóng cung cấp viện trợ quân sự cho Ấn Độ. Máy bay Boeing 707 của
Không quân Hoa Kỳ (USAF), bay từ các căn cứ ở châu Âu và Thái Lan, bắt đầu
vận chuyển vũ khí và đạn dược đến Ấn Độ.Đến ngày 2/11, tám chuyến bay mỗi
ngày mang theo 20 tấn vật tư gồm vũ khíbộ binh, súng cối và pháo sángđến
Calcutta. Các máy bay C-130 của Không quân Mỹ sau đó đã vận chuyển vũ khí từ
Calcutta đến các sân bay gần tiền tuyến[190; tr.121]. Do đó, các thiết bị bộ binh cơ
bản đã được vận chuyển nhanh chóng để giúp quân đội Ấn Độ. Chỉ vài ngàysau khi
mởđường cung cấp, Mỹ đã gửicác thiết bịkhẩn cấpchoquân đội Ấn Độgiá trịvài
triệuUSD. Sau khi giải quyết xong cuộc khủng hoảngtên lửa Cuba, một số cố
vấncủaKennedyhối thúcmở rộngviện trợchoẤn Độvà cho rằngđó là chống lại sự
bành trướngcủa Trung Quốc khi Liên Xô bị mắc kẹt ở giữa.Tuy nhiên,Tổng thống
Kennedycho rằng ôngthấykhông có lợi choẤn Độ,Mỹ haychothế giới tự dotrong
việc tạo ra cuộc chiến này [116; tr.96].
Kennedy không đưa quân đội tham chiến trực tiếpmà ưu tiêncung cấpđạn
dược, vũ khí, phương tiện chiến tranh choẤn Độ. Đầu tháng 11, Mỹ,Anh
vàCanadabắt đầuthảo luậnvề một chương trìnhphối hợpviện trợ quân sựchoẤn Độ.
Mỹ đồng ý thanh toánđối với thiết bịquân sự bằngđồng Rupee.Chuyến không
vậnđầu tiên với các loại vũ khícơ độngcó trị giá hàngtriệuUSDđược chuyển
tớiNEFAngày 12/11 [48; tr.616].
60
KhiTrung Quốc tiếp tụctiến quânhướngtới vùng đồng bằngAssam, chính phủ
Ấn Độtrở nênhoảng loạn. Bộtrưởng Quốc phòngẤn Độđã phải đưa ra yêu cầutất cả
các loạivũ khí.J. Nehruđã kí yêu cầu đó vàgửiđến Mỹ, Anhvà Liên Xô. Trước thảm
họamàcuộc tấn côngcủa Trung Quốcvào ngày 16/11,TướngBM.Kaul cho rằngnếu
không cósự giúp đỡ lực lượngquân sựtừ Mỹthì quân độiTrung Quốc sẽ tiếp tục tiến
sâu vào Ấn Độ. T.T.Krishnamachari, Bộ trưởng kinh tế và hợp tác quốc phòng Ấn
Độ, yêu cầu Đại sứ Mỹchomáy baytiêm kích đánh chặnđể bảo vệCalcutta tránh khỏi
mọi khả năngném bom từ Trung Quốc, cũng nhưmột khoản vaynửa tỷUSD.Ngày
hôm sau,các quan chứcẤn Độyêu cầumáy bay vận tảicủa Mỹ di chuyểnquân đội Ấn
Độtừ biên giớiPakistan ở phía tâylên phía NEFAvà các máy baynày trực tiếp docác
phi hành đoànMỹđiều khiển.
Khi chiến tranh mới bùng nổ, J. Nehrumiễn cưỡngmờigọi các lực lượng vũ
trangnước ngoàiđến bảo vệẤn Độ. Tuy nhiên, quân Ấn Độ liên tiếp bị thất bạitrên
chiến trườngđỉnh điểm của cuộc khủng hoảng vào ngày 19/11. Đại
sứGalbraithghitrongnhật ký của mình: “Đó là ngàycuối cùng trongsự hoảng loạn
ởDelhi, lần đầu tiên tôitừng chứng kiếnsự tan rã củatinh thầncông chúng. Nỗi sợ
hãi bao trùmvà những tin đồn như: người Trung Quốc đãchiếmTezpur, thậm chílính
dùTrung Quốc được thả xuống thủ đô, TướngKaulđã bịbắt làm tù binh” [128;
tr.487].
Không còn lựa chọn nào khác, ngày 19/11,Nehru đã viết hai bức thư cho
Kennedy kêu gọisự can thiệptrực tiếp của Mỹ.Ngoài các máy bay chiến đấu và hệ
thống radar do người Mỹ điều khiển, Nehru cũng yêu cầu hai phi đội Máy bay ném
bom B-47 tấn công ở Tây Tạng.Ấn Độ cũng muốn gửi ngay các phi công và kỹ
thuật viên sang đào tạo tại Mỹ để vận hành các máy bay ném bom phản lực tầm xa
tinh vi này. Trong bức thứ hai Nehru đã yêu cầu Kennedy cung cấp khoảng 350
máy bay chiến đấu và phi hành đoàn: 12 phi đội máy bay chiến đấu với 24 máy bay
phản lực trong mỗi phi đội và hai máy bay ném bom. Cần ít nhất 10.000 nhân viên
để vận hành các máy bay phản lực, hỗ trợ radar và tiến hành hỗ trợ hậu cần cho hoạt
động của máy bay phản lực [190; tr.138].
61
Do tình thế khẩn cấp, ngày 20/11/1962, Nehru kêu gọi Mỹ can thiệp trực
tiếpvới các phi đội máy bay ném bom và máy bay chiến đấu tổ chức các trận đánh
chống lại quân độiTrung Quốc trên lãnh thổ Ấn Độ nếu họ tiếp tục tiến lênvà bảo vệ
các thành phố của Ấn Độ. Theo Chester Bowes, J. Nehru kêu gọi Mỹ “chuyển
giaongay lập tứcmười bốnphi độimáy bay chiến đấuđể bảo vệcác thành phốphía
bắc Ấn Độvàba phi độimáy bay ném bomgiúpẤn Độtấn côngđườngliên lạccủa
Trung Quốc”[48; tr.617].
Ngày 20/11/1962, Galbrairh viết là ngày hoảng loạn tột độ ở New Delhi, sự
tan rã của tinh thần quần chúng và những tin đồn hoang đường nhất. Galbrairhgửi
gấpba khuyến nghị cho Washington: tăng cường vận chuyển hàng không, gửi thêm
ngay lập tức mười hai máy bay vận tải C-130và gửicác tàu chiến của Hạm đội bảy
vào Vịnh Bengal. Galbraith tin rằng điều cần thiết là phải biểu thị rất rõ ràng sự ủng
hộ của Mỹ đối với Ấn Độ và một nhóm tác chiến tàu sân bay của Hải quân Mỹ sẽ
báo hiệu cho Trung Quốc rằng Mỹ đang nghiêm túc [190; tr.139].
Ngay từ đầu, Tổng thốngKennedykhông muốndùng quân đội Mỹ trực tiếp
can thiệpvào cuộc chiến. Nhưngtrướcsự kêu gọigiúp đỡtuyệt vọng củaJ. Nehru, và
đề nghị của Galbraith,Kennedyđã phái mộttàu sân bayMỹđến Madrastrong
vịnhBengal. Đồng thời, ôngđã đưa racảnh báo tới Trung Quốc: “Nếu Trung
Quốctiếnthêm nữaMỹ sẽ buộc phải tham gia” [70; tr479].J. Nehruđánh giá rất cao
những giúp đỡ của Mỹ và cho rằnghaiyếu tốbuộcTrung Quốc ngừng bắnvà rút lui:
“Một là, người dânẤn Độbất ngờ dấy lên sự tức giận-mộtsự giận dữchưa từng
có.Hailà, tốc độ cácphản ứng của Mỹ”[128; tr.490-491].
Ngoài cung cấp vũ khí, phương tiện chiến tranh,Mỹ cung cấpmột phần máy
bay vận tảitheo yêu cầu của J. Nehru. Mỹ gửicho Ấn Độ12máy bayC-130 cùng
vớiphi công người Mỹđể vận chuyểnbinh lính vàtrang thiết bịquân sự của Ấn
Độ.Kennedycũngđãgửiđến Ấn Độmộtđội ngũ các cố vấn cấp caocủa Bộ Ngoại giao
vàLầu Năm Góc, đứng đầu làTrợ lýNgoại trưởng vềcác vấn đềViễnĐông - William
AverellHarriman. Tất cảbộ phậnhành chínhcủa các cơ quanNhà nướcvà Bộ Quốc
phòngđều có đại diệntrongphái đoànHarriman.Mỹ gửi phái đoàn này nhằm:“Một là,
62
đánh giáyêu cầu thực tếcủa Ấn Độ.Hai là, nghiên cứunhững tác động củaviện trợ
này tới quan hệ Mỹ -Pakistan.Ba là, chứng tỏ sự ủng hộ của Mỹđối với Ấn Độvà
gửitới Trung Quốcmột“tín hiệurăn đe”[116; tr.99].
Đại sứ Mỹ,John Kenneth Galbraithđề nghịchính phủ Ấn Độchophép Mỹdo
thámtrên bầu trời tại khu vực tranh chấpđể cung cấp cho cả hai chính phủbức
tranhchính xác hơn vềcác cuộc tấn côngcủa Trung Quốc. Ngày 11/11/1962, Thủ
tướng Jawaharlal Nehruđồng ý chocác hoạt độngdo thám vàMỹđược phép tiếp
nhiên liệuchomáy bay trinh sát(U-2) trongkhông phận Ấn Độ. Cuối tháng 11, Biệt
độiGđã đếnTaKhliđểthực hiện cácchuyến bay trên khu vựcbiên giới Trung Quốc -
Ấn Độ. Do điều kiệnthời tiết mùa đôngquá khắc nghiệt với nhiệt độ rất thấp và gió
mạnh,chuyến bay đầu tiênphải lùi tới tận ngày 5/12 vàchỉ có có thểchụp ảnh được
67% cácmục tiêu.
Về kinh tế
Mỹ tin rằngcác quốc giachâu Áquyết định lựa chọnđi theochế độ cộng sản
haykhôngcộng sảnsẽ bị chi phối rất nhiều khi họso sánhnhững tiến bộ kinh tếđược
thực hiện theohệ thống dân chủở Ấn Độ vớihệ thốngcộng sảnở Trung Quốc.Trước
năm 1959,các hợp tác kinh tếẤn Độ - Mỹchủ yếu làchống lạiTrung Quốc nhưng
còn hạn chế.Từ khi quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc suy thoái, quan hệ kinh tế Mỹ -
Ấn Độ thay đổi nhanh chóng. Mỹ viện trợkinh tế cho Ấn Độđã tăng lên mạnh mẽ và
bốn máy bay trực thăng Sikorsky S-55 và một máy bay Fairchild Packet đã được
bán cho Ấn Độ [58; tr.294].Người Mỹmuốn xây dựngẤn Độ trở thành đối trọngvới
Trung Quốc. Thượng nghị sĩSpar kman, Chủ tịchỦy ban Đối ngoại Mỹ, nhận xét
vàotháng 6/1962: “Ngay lúc này Ấn Độ đangbị thúc épvà rất khókhăn để chống
lạicộng sản Trung Quốctrênbiên giớiphía đông bắc.Hiện nay, Ấn Độ đangvận động
theo hướngmà chúng ta đãmong muốn trong một thời gian dài”[116; tr.136].
Từ 1959, Mỹ gia tăng trợ giúpkinh tế cho Ấn Độ.Trong suốt 12năm(từ năm
1947đến giữanăm 1959),Mỹ chỉ mớiviện trợ kinh tếcho Ấn Độ với giá trị khoảng
1,7 tỷ USD.Chỉ trong 4 nămtiếp theo(1959-1961), viện trợ kinh tế của Mỹ cho Ấn
Độ đã là 4tỷ USD [44; tr.49]. Mỹ dường nhưtuân theo nguyên tắc“kẻ thù củakẻ thù
63
của talà bạn ta”.Trung Quốcchorằng, Ấn Độchống Trung Quốcngày càng mạnh
hơnlà do sự gia tăngviện trợtừ Mỹ“sự gia tăng viện trợ tỉ lệ thuận với việc Chính
phủ J. Nehruphục vụchủ nghĩa đế quốcMỹ vàchống Trung Quốc” [116; tr.137].
Mối quan hệ giữaviện trợ kinh tếcủa Mỹ vàviệc Ấn ĐộchốngTrung Quốccủa
Ấn Độ,Red Flagđưa ra nhận xét vào ngày1/4/1963rằng“Ấn Độlà một trong
nhữngnướcđã nhận đượcsố tiền viện trợ lớn nhấttừ Mỹ. Đến cuốitháng 7/1962
Chính phủ J. Nehruđã nhận được hơn6.5 tỉUSD viện trợtừ Mỹ. Trong đó, hơn một
nửa được nhậnsau khi Ấn Độ trở nênđối khánghơn với Trung Quốc,từ năm 1959”
[116; tr.137].Tờ Nhân dânNhật báo số ra ngày 27/10/1962,đưa ra nhận xét
rằng“Phân tích cácsố liệu viện trợcủa MỹchoẤn Độcũng như việc Mỹ kiểm soátcác
tổ chứctài chính quốc tếtrong10 năm quacho thấyviệc viện trợ cho Ấn làmộtthước
đođối với chính sách đối ngoạicủaChính phủ J. Nehruvàđặc biệt làchính sáchchống
lại Trung Quốc” [116; tr.137].
Các nước đồng minh của Mỹ
Bên cạnh Mỹ, các đồng minh của Mỹ cũng rất tích cực ủng hộ Ấn Độ. Anh
là đồng minh thân cận nhất của Mỹ; cả Anh và Mỹ thường xuyên phối hợp chặt chẽ
trong phản ứng với cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962: kiềm
chế Pakistan, thuyết phục Pakistan không có hành động nào gây khó khăn cho Ấn
Độ khi cuộc chiến Trung Quốc – Ấn Độ diễn ra.
Ngày 21/10/1962, Thủ tướng Anh,HaroldMacmillan,đã gửi mộtthông điệp
thể hiện sự cảm thông đối vớiJ. Nehruvànhư một cử chỉủng hộ, ông ra lệnh
cácchuyến hàngvớivũ khí nhỏ, súng trường tự độngvà đạn dược viện trợ ngay lập
tức choẤn Độ.Thông cáo báo chí chính thức của Anh vào ngày 22/10/1962, cho
biết: “Chính phủ Anh đã đánh giá kỹ lưỡng về cuộc tấn công của Trung Quốc chống
lại một thành viên của Khối thịnh vượng chung. Sự thông cảm cao nhất với chính
phủ, người dân Ấn Độ và ngưỡng mộ sự kiên nhẫn, kiềm chế của Ấn Độ khi đối mặt
với sự khiêu khích lặp đi lặp lại. Chính phủ Anh đã luôn luôn công nhận Đường Mc
Mahon là biên giới của Ấn Độ” [71; tr.76].
Trước lờikêu gọi của J. Nehru, Thủ tướng Anhthể hiện mộtsự đồng cảm rất
64
cao, Macmillan phát biểu vào ngày 30/10,“Mối liên hệ của chúng ta với Ấn Độ qua
nhiều thế hệ không bị cắt đứt bởi những thay đổi hiến pháp năm 1947. Hiện vẫn còn
có những kết nối mật thiết nhất trong thương mại và buôn bán giữa hai nước” [71;
tr.76]. Ông cũng tỏ ra am hiểu và cảm thông sâu sắc với Thủ tướng J. Nehru. Sau
một bài phát biểucủa lãnh đạo đối lậpGaitskell,Macmillantuyên bố: “Chúng tacảm
thấybi kịchđã đếnvới Thủ tướng chính phủ Ấn Độ, mộtbi kịchmà chính Ngàiđã bày
tỏtrong một cụm từ rấtđau đớn,sautất cảnhững nỗ lựcđểxây dựng tình bạn vớichính
phủmới và người dân Trung Quốcdựa trêncác nguyên tắc và luân lýđạo đức, nhận
lạisự áp đặtđột ngột, tàn bạovànhẫn tâmcủachính sáchdựa trêncác tư tưởnghiện
thựcvà trần trụinhất của sức mạnh” [48; tr.616].
Ngày 20/11, một ủy ban đặc biệt gồm Thủ tướng, Tổng trưởng Bộ Ngoại
giao, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phònggặp nhau để thảo luận về phản ứng
của Anh. Cuộc họp đã xem xét một loạt các bức điện tín kêu gọi tuyệt vọng để được
giúp đỡ của J. Nehru. Macmillan nói trong cuộc họp rằng người Ấn Độ đã nhìn thấy
bước tiến của Trung Quốc vào Brahmaputra như một mối đe dọa nghiêm trọng đối
với toàn khu vực, từ Kashmir đến Nepal, cuộc tranh chấp biên giới thành một cuộc
đấu tranh lớn cho sự tồn tại chính trị, ảnh hưởng đến toàn bộ tương lai của châu Á
[71; tr.71].
Canada là đồng minh thân cận của Mỹ (sau Anh) và cũng là thành viên rất
tích cực ủng hộ và viện trợ cho Ấn Độ. Ngày 25/10/1962, Cao ủy Ấn Độ gửi Bộ
ngoại giao Canada một bức điện với nội dung chính là kêu gọi của Krishna Menon
đến Canada viện trợ ngay lập tức về máy bay vận tải, áo khoác, máy bay trực thăng,
súng cối tầm bắn 10 nghìn yards (khoảng 9140m), pháo miền núi 75mm [256].
Ngày 27/10/1962, trong một bức điện gửi đến Thủ tướng Canada thông qua cao ủy
Ấn Độ tại Ottawa, Thủ tướng J. Nehru đã trình bày quan điểm của Ấn Độ và hành
động xâm lược của Trung Quốc đồng thời kêu gọi sự thông cảm và ủng hộ của
Canada. Trong bức thư hồi đáp ngày 29/10/1962 cho Thủ tướng Ấn Độ, Thủ tướng
Canada, JohnDiefenbaker,bày tỏ sự phản đối cuộc tấn công của Trung Quốc với Ấn
Độ, thể hiện sự ủng hộ và thông cảm đối với Ấn Độ và Canada sẵn sàng làm những
gì có thể để giúp đỡ Ấn Độ. Ông nói “Chính phủ Canada sẽ hợp tác đầy đủ để giúp
65
Ấn Độ có được những thứ cần thiết để tự bảo vệ mình trong thời điểm quan trọng
này” [256]. Thủ tướng Canadacông bố vàongày 30/10/1962:“Chính phủ Ấn Độđã
nhận được mộtdanh sách cácvật tư,thiết bịvà máy baymàCanadacó thể cung cấpcho
Ấn Độ”[116; tr.100].Tuy nhiên, cũng như Mỹ và Anh, Canada cũng kèm theo điều
kiện là Ấn Độ phải đảm bảo rằng các loại vũ khí Ấn Độ nhận được chỉ để chống lại
Trung Quốc.
Một đồng minh khác của Mỹ là New Zealand, mặc dù kinh tế không phải là
mạnh nhưng cũng thể hiện sự ủng hộ đối với Ấn Độ. Ngày 16/11/1962, Thủ tướng
Chính phủNew Zealandcông bốquyết định cung cấp chăn bôngvàbơkhôgiá trị10.000
Bảng cho quân đội Ấn Độ.
Tổng thốngCharles deGaullecủaPháp, bày tỏ sự phản đổimạnh mẽcủa ông
vềTrung Quốc. Thủ tướngcủaCộng hòaLiên bang Đức, KAdenauer, coicuộc tấn
côngcủa Trung Quốcnhưmộtmối đe dọa chothế giới tự do. Thủ tướngNhật Bảnchỉ
trích Trung Quốcvàbày tỏ sựcảm thông sâu sắcvề những khó khănhiện tạicủa Ấn
Độ [201; tr.399].
Những hoạt động ngoại giao, những khoản viện trợ quân sự, kinh tế của Mỹ
và các đồng minh của Mỹ tác động rất lớn đến cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ. Chính những hoạt động này là sự khích lệ cả về vật chất và tinh thần
giúp Ấn Độ đủ sức chống lại cuộc tấn công mạnh mẽ của Trung Quốc. Còn đối với
Trung Quốc, những hoạt động của Mỹ và đồng minh là một trong những nguyên
nhân quan trọng buộc họ phải dừng cuộc tấn công vào sâu lãnh thổ Ấn Độ.
3.2.2. Liên Xô với diễn biến của cuộc chiến tranh
Hoạt độngngoại giao của Liên Xô
Liên Xô và Trung Quốc là hai đồng minh rất quan trọng, hai cường quốc
đứng đầu trong phe XHCN. Việc Liên Xô hậu thuẫn, viện trợ cho Đảng Cộng
sảnTrung Quốc giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với Quốc dân Đảng dẫn tới sự
ra đời nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 là minh chứng đầu tiên cho
sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Trung Quốc. Bên cạnh đó,Liên Xô cử các chuyên
gia giúp Trung Quốc, các thỏa thuận hợp tác kinh tế, các khoản viện trợ, các hợp
đồng mua bán vũ khí, chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc. Mặc dù có mối quan
66
hệ bề ngoài là “anh em” nhưng ngay từ những năm 1950 quan điểm của lãnh đạo
Liên Xô và Trung Quốc đã có những mâu thuẫn, thậm chí trái ngược nhau trong
nhiều vấn đề quốc tế. Bản chất của mâu thuẫn Liên Xô – Trung Quốc là do sự cạnh
tranh vai trò của mình trong phe XHCN. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều muốn xác
lập vai trò lãnh đạo số một trong phe này.
Bên cạnh mối quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô cũng rất coi trọng quan hệ
với Ấn Độ. Sự hợp tác giữa Ấn Độ và Liên Xô tại Liên Hợp Quốc đã bắt đầu ngay
cả trước khi mối quan hệ chính thức giữa hai nước được thiết lập. Khiếu nại của Ấn
Độ với Liên Hợp Quốc liên quan đến việc đối xử với người Ấn Độ ở Nam Phi được
Liên Xô ủng hộ. Hơn nữa, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, Molotov đưa ra yêu cầu
về quyền bình đẳng chủ quyền của Ấn Độ trong Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, cho
dù nhà lãnh đạo tối cao Liên Xô là Stalin tỏ ra nghi ngờ khi người Anh chia Ấn Độ
thành hai quốc gia dựa trên tôn giáo, coi Ấn Độ và Pakistan đều là công cụ của tư
bản phương Tây. Sau khi Stalin mất, khi Khrushchev nắm quyền tại Liên Xô, chính
sách của Liên Xô đối với Nam Á có sự thay đổi lớn. Khrushchev thực hiện chính
sách “tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các quốc gia trung lập và hòa bình ở
châu Âu và thế giới thứ ba...”[72; tr.70]. Khrushchev sớm nhận ra tầm quan trọng
chiến lược của Nam Á, ông coi Ấn Độ có tiềm năng to lớn.Khruschev cho rằng Ấn
Độlà nước dẫn đầu các nước Không liên kết, có thể đóng một vai trò quan trọng
trong các vấn đề quốc tế. Việc liên minh Pakistan – Mỹ hình thành đã thúc đẩy Ấn
Độ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn. Đã có các chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa
các nhà lãnh đạo cấp cao Liên Xô và Ấn Độ từ 1955, Liên Xô cũng chính thức lên
tiếng ủng hộ Ấn Độ ở nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề Kashmir, Goa.
Cùng thời điểm quan hệ Liên Xô –Ấn Độ tốt lên thì quan hệ Liên Xô –
Trung Quốc ngày càng xấu đi. Tuy vậy, sự việc Ấn Độ và Trung Quốc xảy ra tranh
chấp lãnh thổ và dẫn tới chiến tranh biên giới năm 1962 cũng gây cho Liên Xô
những khó khăn nhất định. Quan điểmcủa Liên Xôvề tranh chấpbiên giới Ấn Độ-
Trung Quốc đã đượcthể hiện lần đầu tiên qua bản tin củaTASSđêm ngày9/9/1959
67
bày tỏ sự hối tiếc và lên án các thế lực sử dụng sự kiện này để phá hoại tình hữu
nghị giữa các dân tộc, kêu gọicả hai bêntham chiếngiải quyếtcáccuộc xung đột
bằngbiện pháp hòa bình“Các nhà lãnh đạo Liên Xôbày tỏsự tin tưởng rằngcả hai
Chính phủ sẽ giải quyếtsự hiểu lầmmới xuất hiện một cách hòa bình trên cơ sở lợi
ích chungvà tinh thần hữu nghịtruyền thốnggiữa nhân dânTrung Quốcvà nhân dân
Ấn Độ”[169].Bản tinTASS cũng lên áncuộc đụng độgiữa Trung Quốc với Ấn Độ
vànhấn mạnh vềphát triểnđáng khen ngợi hợp tác hữu nghịgiữa Liên Xôvà Ấn Độlà
“phù hợp vớiý tưởngchung sốnghòa bình”[43; tr.117]. Bên cạnh đó TASScông khai
những bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc.
TrongBáo cáovề“Tình hình quốc tếvàchính sách đối ngoạicủa Liên Xô” gửi
đếnXô viết tối caongày31/10/1959,Thủ tướng Chính phủLiên Xôthể hiện sự hối tiếc
về sự cố trên biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc mà Liên Xô đánh giá một bên là
“huynh đệ” – Trung Quốc và một bên là “tình bạn hữu nghị” - Ấn Độ, mong muốn
Ấn Độ và Trung Quốc giải quyết hòa bình thông qua đàm phán, “Chúng tasẽ rất vui
nếusự cố như vậykhông lặp lạitrênbiên giới Trung Quốc - Ấn Độvànhững tranh
chấp biên giớihiện tại đượcgiải quyết thông quađàm phánhòa bình, thân thiện đạt
được sự hài lòng củacả hai bên” [169].
Hai văn bảncho thấyrõ ràngrằnglãnh đạo Xô viếtđã quan tâm và nhìn
thấytình trạng đang leo thangsự thù địchgiữa Ấn Độvới Trung Quốc, đồng thờiduy
trì quan điểmtrung lậpvới cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ.
Tuy nhiên,sự trung lậpcủa Liên Xôtrong vấn đề nàyđã cho thấy có phần
nghiêng nhất định về phía Ấn Độ.Bởi vì, theo tư duy giai cấp khi Liên Xô và Trung
Quốc đều thuộc pheXHCNthì phải ủng hộ nhau. Sự phản ứng này của Liên Xôgây
rasự phẫn nộ từcácnhà lãnh đạoTrung Quốc. Tờ Nhân dân Nhật báosố ra ngày
27/2/1963 nêu quan điểm "Đây là trường hợp đầu tiên trong lịch sử mà một nước
XHCN đã không lên án các cuộc khiêu khích vũ trang phản động của một quốc gia
tư bản mà lại lên án một quốc gia XHCN khác khi gặp phải sự khiêu khích như
vậy” [94; tr.246].Trong một bức thưbí mật gửi choỦy ban Trung ươngĐảng Cộng
sảnLiên Xôvàongày 13/9/1959, Ủy ban Trung ươngĐảng Cộng sản Trung Quốcđã
68
cho rằng phản ứng của Liên Xô sẽ tạo thuận lợi cho Mỹ, Anh và Ấn Độ trong việc
gây chia rẽ mối quan hệ Liên Xô – Trung Quốc, “Bản tinTASStạo lên niềm vui
sướngcho tư sảnẤn Độcũng như đế quốcMỹ vàAnh, những ngườiđang tìmmọi cách
tạo ra sự chia rẽ giữaTrung Quốc và Liên Xô”[169].
Trongcác cuộc thảo luậnvào cuối tháng 9/1959, giữa các nhà lãnh đạo Liên
Xô và Trung Quốc, lãnh đạo Liên Xô đã chỉ ra sựkhác biệt trong quan điểm và cách
tiếp cậncủa Trung Quốcđối với Ấn Độ. KhrushchevđếnBắc Kinhtrên đường trở về
từ chuyến thăm Mỹ. Cuộc tranh luậnvới nhữngtừ ngữ chua chátvàgay gắtđược liên
tục đưa ra giữaKhrushchevvàChenYi(Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc). Chen Yi
nói “Tôi buồnvới tuyên bốrằngviệc làm xấu đi quan hệvới Ấn Độlà lỗicủa chúng
tôi”.Khrushchev đáp “Tôi buồnbởituyên bố của ngàirằng chúng ta lànhững người
quyết định. Chúng tacần hỗ trợJ. Nehru, giúp ông ấygiữ vững quyền lực” [169].
Ngày 7/11/1959, trong một cuộc trò chuyện với một phóng viên từ tờ New
Century Weekly của Ấn Độ, Khrushchev gọi đụng độ trên biên giới Trung Quốc –
Ấn Độ là “đáng buồn” và “ngu xuẩn” và lấy ví dụ về việc giải quyết các vấn đề biên
giới của Liên Xô với Iran, ông nói rằng “một vài km đối với một quốc gia như Liên
Xô là bao nhiêu? Tôi đề nghị Trung Quốc nên từ bỏ lãnh thổ của mình để đáp ứng
yêu cầu của Ấn Độ” [2; tr.6], [234; tr.91]. Trung Quốc cho rằng Liên Xô ám chỉ
Trung Quốc nên từ bỏ đất đai của mình.
Riêng về vấn đềquan hệvới Ấn Độ, Trung Quốctuyên bố đãgặp Đại sứLiên
Xô 6lầntạiBắc Kinh trong khoảng từ ngày 10/12/1959đến 30/1/1960, vớivới mục
đích đưalập trường của Liên Xôvề trung lập hoàn toàn. Các nhà lãnh đạoLiên
Xôkhông hề lay chuyển, họcoi quan điểm cảtrên thực tế vàlý luậncủaTrung Quốc
đều không đúng [2; tr.6].
Ngày 6/2/1960, Đảng Cộng sản LiênXôgửimột Công hàm đếnĐảng Cộng
sản Trung Quốc bác bỏ cáo buộc cho rằng Ấn Độ đã xâm lược Trung Quốc“Những
người nghiêm túc không ai nghĩ rằngẤn Độ,yếu hơn rất nhiềucả về quân sựvà kinh
tếso vớiTrung Quốc, lại là nước phát động cuộc tấn côngquân sự nhằm vàoTrung
Quốc” [2; tr.6], [43; tr118], [186; tr.60], [234; tr.91]. Lãnh đạoLiên Xôcông khai chỉ
tríchcác hành độngcủa Trung Quốcđối với Ấn ĐộtạiĐại hộiđảngcầm quyềncủacác
69
nước XHCN Đông Âu. Ngày 22/6/1960, trong cuộc họp tại Bucarest, Khrushchev
nói với người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc: “Tôi hiểu thế nào là chiến
tranh,người Ấn Độ đã chết, điều đó chứng tỏ Trung Quốc đã tấn côngẤn Độ.
Chúng ta đều là cộng sản, biên giới chạy qua chỗ nào đối với chúng ta không quan
trọng”[2; tr6-7], [234; tr.91].
Quan hệ Liên Xô – Trung Quốc suy thoái mạnh vào năm 1960, với việc Liên
Xô rút 1.390 chuyên gia (kỹ sư, nhà thiết kế và nhân viên khác), hủy 343 hợp đồng
và loại bỏ 256 dự án hợp tác về khoa học và công nghệ trong vòng 1 tháng [58;
tr.294].
Ngược lại với quan hệ Liên Xô – Trung Quốc, quan hệ Liên Xô – Ấn Độ lại
thêm nồng ấm, tháng 12/1961, trong chuyến thăm Ấn Độ, Brezhnev công khai ca
ngợiẤn Độ và lên án Trung Quốc, ông nói: “Lập trường của Ấn Độ trên thế giới là
một đất nước yêu hòa bình, những hành động hung hăng của Trung Quốc ở dãy
Himalaya hoàn toàn không thể hiểu nổi”[234; tr.91].
Như vậy, giai đoạn trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc
– Ấn Độ năm 1962, trên danh nghĩa là trung lập nhưng thực tế Liên Xô đang ủng hộ
Ấn Độ trong tranh chấp, xung đột với Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ đúng vào thời điểm
cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba diễn ra căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô đã làm thay
đổi thái độ của Liên Xô về vấn đề biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Để nhận
được sự ủng hộ của Trung Quốc, ngày 25/10/1962, tờ báo Pravda(Sự Thật - tờ báo
uy tín thể hiện lập trường của Liên Xô) mongsự ủng hộ củaTrung Quốcđối với
chính sách của Moscow tại Cuba.Pravdachỉ ra rằngnếu chỉ cómộtsự lựa chọnLiên
Xôsẽ đứngsau Trung Quốc và trong trường hợp khẩn cấpnàylợi íchcủa Liên Xô
ởCubalàquan trọng hơnso với việcgiữ nguyên vị thếcủa Liên Xôở Ấn Độ.Pravdađã
ca ngợiTrung Quốc đưa ra đề xuất ngừng bắnvào24/10gọi là “biểu hiện của sự lo
lắngchân thành” để giải quyết tranh chấpbiên giớivàyêu cầu Ấn Độchấp nhậncác
điều khoảncủa Trung Quốclàm cơ sở chocác cuộc đàm phán. Pravdathể hiện nghi
ngờ vềtính hợp pháp củaĐường Mc Mahonvà cho rằng “đường Mc Mahontai tiếng”
70
bị áp đặt bởi “đế quốc vàocác dân tộcTrung Quốcvà Ấn Độ” [186; tr.75].Hơn nữa,
Pravdacáo buộcẤn Độđã bị đế quốckích độngvà làthủ phạm gây ra cuộc xung
độtvới Trung Quốc;buộc tộiĐảng Cộng sản Ấn Độđãchuyển sang chủ nghĩasô
vanhgây thiệt hạiđối với chủ nghĩa quốc tếvô sản [183].Pravdacáo buộc Ấn Độ phụ
thuộc phương Tây, “Giới phản động ở Ấn Độ đãràng buộcsố phận của họvới nước
ngoàivà các lực lượngđế quốc” [186; tr.75].Bài báo cũng cho rằng chiến tranhTrung
Quốc - Ấn Độ sẽ phục vụ lợi ích của bọn đế quốc và phản động: “Sự bùng nổcuộc
xung độtgiữa haicường quốcchâu Áphục vụlợi ích củakhông nhữngchủ nghĩa đế
quốcmà cảgiớiphản độngở Ấn Độ” [169].
Bài báocủa Pravdađãlàmxôn xao dư luận thế giới, đặc biệt làở Ấn Độ.J.
Nehrutuyên bố rằngông đã rấtđau khổvìbài báođã gây ratổn hạiđáng kểđến tình
bạncủa Ấn Độvới Liên Xô.Sự bối rốinghiêm trọngxuất hiệntrong Đảng Cộng sản
Ấn Độ,một lãnh tụ làShripadAmritDange đã gửiTrung ươngĐảng Cộng sản Liên
Xômột bức điệnđề nghịrằngphải có những hành động đểphủ nhậnmột số lời tuyên
bốcủa bài viết. Dangeđề nghịMoscow“ngăn chặntất cảcác Đảng anh emđể họkhông
viếttrên các tờ báocủa họvề đường Mc Mahon” [183]. Nhân cơ hội này, phe thân
Trung QuốctrongĐảng Cộng sản Ấn Độhoạt độngtích cực hơn và tuyên
bốrằngĐảng Cộng sản Liên Xôcuối cùng đãbị “thuyết phục về sự điên rồvới biện
pháp của mìnhvàchấp nhậnquan điểmcủa Trung Quốc” [183].
Những phản ứng của lãnh đạo Liên Xôthông qua tờ Pravdavới hy vọngnhận
được sự hỗ trợtích cựccủa Trung Quốctrong cuộc khủng hoảng Cuba. Tuy nhiên,
mọi nỗ lựccủaLiên Xôkhông thu được kết quả tương xứng.Tất cả những gì
Moscownhận được từlãnh đạoTrung Quốclà mộttuyên bốvào ngày 25/10 về vấn
đềCuba,thể hiện “sự ủng hộ đầy đủ lập trườngđúng đắncủachính phủ Liên
Xô”vàhai bài báolớnđăng trên Renmin Ribao (Nhân dân Nhật báo)vớitiêu đềđầy
hiếu chiếnvàđã chấp thuậncác hành động củaLiên Xô ởvùng Caribbe. Đây là lời
khen chính thức cuối cùng màBắc Kinh dành choMoscow. Trong khiLiên Xôcố
gắngtuyên truyền để có đượcnhiềucuộc mít tinh, biểu tìnhlớn tạicác quốc giakhác
ủng hộcácchính sách của họ nhưng Trung Quốckhông sắp xếpbất cứhoạt động nào.
71
Không những không thể hiện sự ủng hộ cần thiết đối với Liên Xô trong cuộc đối
đầu với Mỹ tại Cuba, Trung Quốc yêu cầuKhrushchev từ bỏ chính sáchmà ông đang
thực hiện với Ấn Độ.Mộtbài viếtđăng trênRenmin Ribaongày 27/10/1962 dùng những
ngôn từ cay độc nhấtchống lạiJ. Nehru, cáo buộc ông theo đuổi một“chính sách bành
trướng”vàmột “kế hoạchđầy tham vọng”để“thiết lậpmộtđế chế vĩ đạichưa từng có
tronglịch sửẤn Độ”. Bài viếtkhẳng địnhrằngJ. Nehruđãluôn đứng về phíachủ nghĩa đế
quốcvà kích độngchiến tranhvới Trung Quốcđểphục vụ lợi íchcủa đế quốc.Sau đó, trực
tiếp nhằm vào Liên Xô, bài báo yêu cầuMoscowkhông thể nhầm lẫnvềquan điểm
củaTrung Quốcchống lại Ấn Độ [186; tr.76].
Vàongày 29/10, Hội đồng Hòa bìnhthế giớido Liên Xôchi phối đã khiển
tráchphái đoàn Ấn Độkhihọ đòi hỏimộtcuộc thảo luận vềsự xâm lượccủa Trung
Quốcđối với Ấn Độ. Ngày hômsau,tại Liên Hợp Quốc, Thứ trưởng Ngoại giaoLiên
Xô,ValerianZorinnhắc lại sự ủnghộ của Liên Xôđối vớiđề xuấtcủa Trung Quốcvà
kêu gọiẤn Độchấp nhậnđề xuất. Liên Xô cũng đình chỉ các nguồn cung cấp máy
bay chiến đấu MIG theo thỏa thuận đạt được giữa hai bên vào tháng 8/1962. T.N.
Kaul - Đại sứ Ấn Độ tại Liên Xô,viết trong hồi ký của mình:“Thái độ của họ (Liên
Xô) vào cuối tháng 10/1962 thậm chí còn không trung lập mà có phần ngả về phía
Trung Quốc, như Khrushchev đã giải thích cho tôi sau này, do thực tế cuộc khủng
hoảng Cuba lên đỉnh điểm và Liên Xô không đủ khả năng buông lỏng sự sẵn sàng
chiến đấu cho một cuộc chiến tranh có thể xảy ra với Mỹ tại Cuba”[126; tr.240].
Rõ ràng, ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn
Độ, chính sách của Liên Xô đã bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Để nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc, Liên Xô đã có động thái ủng hộ Trung
Quốc trước. Đến cuối tháng 10, Khrushchevđã thấysai lầmkhi ủng hộ Trung
Quốcchống lại Ấn Độ. Những hy vọngvềmộtmặt trận thống nhấtvới Trung Quốcđã
kết thúc, chính sách với Ấn Độ mà ông đãrấtnỗ lựcxây dựng từ năm 1955đang
trênbờ vực.Khikhủng hoảnghạt nhân với Mỹ tại Cubađã được giải quyết,Liên
Xôdầnrời bỏ việc ủng hộ Trung Quốcvà trở lạilập trường trung lập, thậm chí
nghiêng về ủng hộ Ấn Độ. Ngày1/11/1962, Brezhnevtiếp Đại sứẤn Độtại
72
Moscowvàđưa ra đảm bảo vềsự ủng hộcủa Liên Xôvới Ấn Độ trongcuộc chiến
tranhbiên giớivới Trung Quốc.Ngày 2/11,Khrushchevđã gửi mộtbức thư riêngtớiJ.
Nehruthể hiện sựthông cảmvới Ấn Độvàthúc giụccác nhà lãnh đạoẤn Độmột lần
nữachấp nhậnđề xuấtcủa Trung Quốc.NhưngJ. Nehrutừ chối đề nghịcủa
Khrushchev vàKhrushchev nhanh chóngnhận ra rằngquan điểm ủng hộ Trung
Quốctrước đó của Liên Xô đãhủy hoạivị thế của Liên Xôở Ấn Độ.
Ngày5/11,tờ Pravdađảo chiềuhoàn toàn so với ngày 25/10, một bài xã luậnđã
rúttất cả sự ủng hộ lập trường của Trung Quốc trước đó.Nókhông yêu cầuẤn Độ
chấp nhậncác điều khoảncủa Trung Quốc, đồng thời bỏ khẳng địnhđường Mc
Mahonkhông phảilà biên giớicủa Ấn Độ vớiTrung Quốc.Liên Xô cũng bày tỏ quan
điểm Ấn Độ và Trung Quốc cần chấm dứt chiến tranh và đàm phán giải quyết hòa
bình. Bài xã luận chỉ rõ “Liên Xô giữ quan điểm là ngăn chặn chiến tranh và đàm
phán giải quyết hòa bình cuộc xung đột sẽ phù hợp với lợi ích của cả hai dân tộc Ấn
Độ và Trung Quốc và phục vụ sự nghiệp duy trì hòa bình ở châu Á và toàn thế giới”
[169].
Trung Quốc không quan tâm đến lời kêu gọi này và tiếp tục các hoạt động
quân sự. Ngược lại, J. Nehruđánh giá caoquan điểm mới của Liên Xô. Ông tuyên bố
rằngLiên Xô đãbị đặt vào mộttình huốngrất khó khănliên quan đến cuộc chiến
tranhbiên giớiTrungQuốc-Ấn Độ vì“Liên Xô đã và đang là đồng minhcủa Trung
Quốc.Sự bối rốicủa họlà giữa một quốc giamà họrất thân thiện vàmột quốc
gialàđồng minh của họ. Chúng tôi nhận rađiều đó vàchúng tôi khôngmong đợi họ
làmbất cứ điều gìvi phạmvới đồng minh của họ”[186; tr.77].
Hợp tácquân sự, kinh tế Liên Xô – Ấn Độ
Khi mối bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng tăng và mối quan
hệ Ấn Độ-Liên Xô ngày càng phát triển, đặc biệt sau một số xung đột trên biên giới
Trung Quốc-Ấn Độ xảy ra, nhận thức đượcđiểm yếucủa quân độiẤn Độkhi đối mặt
vớihành vi hung hăngcủaTrung Quốc, LiênXôchọn cáchcung cấpmáy bayvà trực
thăng đểtăng cườngnăng lực vận tảiđường không cho quân độiẤn Độ. Vào tháng
4/1961,Liên Xô bán cho Ấn Độ támmáy bay Antonov-12 bốn động cơphản lực cánh
73
quạt. Liên Xô cũng đào tạo và cung cấp 67phi công, hoa tiêuvàthợ cơ khíngười Nga
đi kèmmáy bay.Ngay sau đó là một lô hàng được bàn giao, bao gồm24máy bay
Ilyushin-14 và trực thăngMI-4có thểđưangườivà hàng hóalên độ caohơn
5000m.TheoZhangHan-fu, Thứ trưởng Ngoại giaoTrung Quốc, Ấn Độ đã đặt
hàng32 máy bay vận tảiAntonovAn-12, 26 máy bay trực thăngMIG, 21máy bay
chiến đấuMIGvà 24máy bay IlyushinIL-14, giữa tháng 10/1960và tháng 5/1962 [43;
tr.118-119].
Khi cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ, Liên Xô có thái độ ủng
hộ Trung Quốc bằng cách đình chỉ hợp đồng cung cấp máy bay MIG đã ký với Ấn
Độ trước đó. Tuy nhiên, khi các hành động của Liên Xô không nhận được sự ủng
hộ của Trung Quốc cho vấn đề Cuba, Liên Xô đãnhanh chóngquay lại trạng thái
cânbằng, thậm chí dần chuyển sang ủng hộ Ấn Độ với các động thái:cam kết thực
hiện hợp đồng cung cấp máy bay trước đó (vào tháng 2/1963, lô 4 máy bay đầu tiên
đã được giao để lắp ráp tại Ấn Độ); đồng ýxây dựng nhà máysản xuấtmáy bay siêu
âmMig-21 cho Ấn Độ[100]. Năm 1963, Liên Xô hứaviện trợđể xây dựngnhà máy
thépBokaro,cung cấpmáy bay vận tảiAN-12 vàmáy bay trực thăngMi4theo cácthỏa
thuậntrước đó [201; tr.396]. Tháng 9/1964, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ đã đến
thăm Moscow và đã ký thêm thỏa thuận cung cấp xe tăng hạng nhẹ và các thiết bị
liên quan, máy bay trực thăng, tên lửa và tàu hải quân, bao gồm cả tàu ngầm, thiết
bị, nguyên liệu thô và các hỗ trợ khác để thiết lập các nhà máy MIG. Với những hợp
tác ngày càng tăng từ khi chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổ, vào năm 1965-
1966, Liên Xô đã trở thành nhà cung cấp vũ khí quân sự lớn nhất cho Ấn Độ và
trong thời gian 1961-1965 viện trợ vũ khí cho Ấn Độ lên tới hơn 300 triệu USD.
Tháng 11/1965, Không quân Ấn Độ đã nhận được 30 MIG-21 từ Liên Xô, nơi cũng
hứa sẽ cung cấp 65 xe tăng hạng trung [100].Liên Xô viện trợ cho Ấn Độ tổng cộng
1.022.000.000 USD vào cuối năm 1965, nhiều hơn so với bất kỳ quốc gia nào khác
ngoàikhối XHCN. Sự trợ giúp của Liên Xô chủ yếu được giới hạn hỗ trợ trong quá
trình công nghiệp hóa Ấn Độ, Liên Xô đã thành lập các trung tâm nghiên cứu ngôn
ngữ Ấn Độ ở Tashkent, Moscow và Leningrad, hai trường học của Nga đã được đặt
tên cho Mahatama Gandhi và Lai Bahadur Shastri [207; tr.282].
74
Các nước đồng minh của Liên Xô
Các đồng minhcủa Liên Xôở Đông Âucũng chỉ tríchTrung Quốc xâm lược
Ấn Độ. Tại Đại hộicủa Đảng Cộng sảnBulgariatháng 11/1962,TodorZhivkov, Bí
thư thứ nhất, chủ trương giải quyết hòa bình và chấm dứt xung đột vũ tranggiữa Ấn
Độ vàTrung Quốcbởi vì nó không phù hợp với lợi íchcủa các dân tộcẤn ĐộvàTrung
Quốc.Tại Đại hộicủaĐảng XHCN Thống nhất Đứcvào đầutháng
1/1963,WalterUlbrichtchỉ trích hành động tấn côngvũ trangvàoẤn Độcủa Trung
Quốcmàkhông tham vấn các quốc giaXHCN khácvàbày tỏ quan điểmrằng cuộc
xung độtbiên giớilà“chống lại lợi ích củaXHCN”[186; tr.79].Các quốc gia XHCN
Đông Âu khác đã cung cấp thêm 230 triệuUSD cho Ấn Độ [207; tr.282].
Các nước đồng minh của Liên Xô hầu như phụ thuộc vào Liên Xô trong
khuôn khổ chiến tranh lạnh. Vì vậy, trong cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc –
Ấn Độ năm 1962, phản ứng ban đầu các nước này cũng hết khó khăn. Khi Liên Xô
ủng hộ Trung Quốc thì các nước này giữ im lặng, phải sau khi Liên Xô chuyển sang
ủng hộ Ấn Độ thì một số nước XHCN ở Đông Âu mới tỏ thái độ. Các nước này đều
bày tỏ quan điểm ủng hộ Ấn Độ và lên án Trung Quốc. Những phản ứng này đều do
chịu ảnh hưởng của Liên Xô và khuôn khổ của cuộc chiến tranh lạnh.
3.2.3. Pakistan
Khi những căng thẳng biên giới Trung Quốc - Ấn Độ diễn ra năm 1959,
Pakistan đề nghị hợp tác phòng thủ chung với Ấn Độ để “chống lại những kẻ thù
phía Bắc”. Dawn, một tờ báo thân Chính phủ Pakistan ở Karachi đưa ra đề xuất này
trong một bài xã luận số ra ngày7/4/1959. Nhưngngày 4/5/1959, Thủ tướng Ấn
Độ,J. Nehruđã bác bỏ đề xuất này, ông cho rằng “chống lại ai và cái gì”[201;
tr.397].Khi những căng thẳng biên giới Trung Quốc - Ấn Độ tăng lên và xảy ra các
cuộc xung đột nhỏ, quan điểm của Pakistan có những sự thay đổi đáng kể. Hai tờ
báo Urdu có thế lực là Jang và Nai Roshalinêu ý kiến trong bài xã luận bàn về cuộc
chiến tranh này. Theo đó, Trung Quốc được gọi như là “quốc gia yêu chuộng hòa
bình” và Ấn Độ bị lên án là “kích động cuộc xung đột” [201; tr.397].Sở dĩ có sự
thay đổi của Pakistan đối với vấn đề Ấn Độ - Trung Quốc là do trong cùng thời gian
khi quan hệ Ấn Độ - Pakistan xấu đi liên quan đến tranh chấp Kashmir và quan hệ
75
Pakistan – Trung Quốc lại được cải thiện nhiều.
Tờ báoNgười xem xét của Pakistansố ra ngày 8/10 ca ngợi Trung Quốc và tố
cáo Ấn Độ thù địch và gây ra cuộc xung đột với Trung Quốc. Bài báo viết: “Trung
Quốc đã quá độ lượng với Ấn Độ.Kinh nghiệm cho ta thấy rằng khi nào Quốc hội
Mỹ bắt đầu xem xét viện trợ cho nước ngoài thì Ấn Độ lại tỏ ra thù địch với Trung
Quốc. Nay là lúc Quốc hội Mỹ sắp quyết định những món tiền viện trợ đặc biệt cho
nước ngoài thì Ấn Độ lại ráo riết gây những cuộc xung đột trên biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ”[16].
Khi cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ, cũng như nhiều
nước khác, Pakistan cũng gặp những bất ngờ. Tuyên bố của Tổng thốngAyub, ngày
5/11/1962,bày tỏ lo lắng của Pakistan về ảnh hưởng của cuộc chiến tranh này:
“chúng ta đangbị xáo trộnnghiêm trọng, sự khác biệtgiữa Ấn Độvà Trung
Quốcđãnổ ramột cuộc xung độtvũ trang” [112; tr.28]. Ông khẳng định chính sách
của Pakistan là chung sống hòa bình với các nước láng giềng, “Chính sáchcủa
chúng tađã được dựatrênnền tảng hòa bìnhrộng lớn, đặc biệthòa bình vớicác nước
láng giềngcủa chúng ta” [112; tr.28].Nhưng Ayub cũng đổ lỗi cho Ấn Độ đã không
có thiện chí để giải quyết các vấn đề biên giới giữa hai nước, “Thật không may, cho
đến nay, chúng tađã thất bạiđểđạt được điều nàyvớingười hàng xómẤn Độ. Ấn Độ
thiếu thiện chíđể đạtđược một giải phápcông bằngvàdanh dựtrênKashmir” [112;
tr.28]. Ông cũng lo ngại những loại vũ khí của Mỹ, Anh và các nước khác đang đổ
dồn vào Ấn Độ sẽ làm kéo dài cuộc xung đột Ấn Độ - Trung Quốc, đồng thời nó có
thể bị sử dụng để chống lại Pakistan “mộtsố lượnglớn cácthiết bị quân sựđang được
đổ đến Ấn Độtừ Mỹ, Anhvà các nơi khác. Một mặt, nócó thểcó tác dụngmở rộngvà
kéo dàicuộc xung độtgiữa Trung Quốc- Ấn Độvà những vũ khí nàycũngcó thểđược
sử dụngchống lại nhân dân ta” [112; tr.29].. Ayub cho rằng Ấn Độ là người gây ra
những xung đột trên biên giới Ấn – Trung là do có liên quan đến tranh chấp biên
giới, lãnh thổ Ấn Độ - Pakistan ở vùng Kashmir chưa được giải quyết và đề xuất
phòng thủ chung Ấn Độ - Pakistan do Pakistan đưa ra bị Ấn Độ từ chối. Nhưng ông
cũng khẳng định mong muốn của Pakistan là Ấn Độ và Trung Quốc sẽ giải quyết
76
tranh chấp một cách hòa bình “chúng ta hy vọngrằnghai nước láng giềngcủa chúng
tasẽ có thểgiải quyếtvấn đề của họmột cách hòa bìnhvàthân thiện” [112; tr.29].
3.2.4. Các nước thuộc Phong trào Không liên kết
Phong trào Không liên kết ra đời từ cao trào giải phóng dân tộc làm sụp đổ
chủ nghĩa thực dân cũ và trong bối cảnh Chiến tranh lạnh có nguy cơ dẫn đến một
cuộc chiến tranh thế giới mới. Chính sách Không liên kết là biểu thị ý chí của các
nước độc lập non trẻ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin, đoàn kết đấu tranh
bảo vệ và củng cố độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ hoà
bình thế giới để tồn tại và phát triển. Hội nghị thượng đỉnh tổ chức tại Belgrade
(9/1961) chính thức thành lập Phong trào Không liên kết với 25 thành viên ban đầu:
11 nước châu Phi, 11 nước châu Á, 2 nước châu Âu và 1 nước Mỹ Latin. Sự kiện
này đánh dấu một sự thay đổi trong quan hệ quốc tế, đó là sự xuất hiện một lực
lượng thứ 3 đứng độc lập và xen giữa hai hệ thống của Trật tự hai cực Ianta. Các
nước Không liên kết sử dụng 10 nguyên tắc của hội nghị Băng Đung và 5 nguyên
tắc chung sống hòa bình mà Ấn Độ và Trung Quốc ký năm 1954 làm cơ sở hoạt
động. Quá trình vận động thành lập, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều hoạt động tích
cực, mạnh mẽ nhằm tranh giành ảnh hưởng trong phong trào này.
Chiến tranh biên giới Trung Quốc-Ấn Độ nổ ravào tháng 10/1962đã phá vỡ
nền tảngđoàn kếtÁ-Phi,gây ra những khó khăn rất lớn và tạo ra những biến động
trong nội bộ các nướcKhông liên kết.Cuộc chiến tranh này là một thử thách và cũng
đượcxem như làmộtthử nghiệm đối với các nướcKhông liên kết đểđánh giákhả năng
thực hiệncác nguyên tắcmà họđã tuyên bốvào một tình huốngliên quan đếnmột
trongnhững thành viênhàng đầucủa chính họ. Đây được coilà thách thức lớn nhất
màcác nước Không liên kết phải đối mặt kể từ khi thành lập. Họ chưa hề có kinh
nghiệmtrong xử lýchiến tranh giữa các thành viên trong cộng đồng của mình.
Do không đủ sức mạnh chống lại Trung Quốc, Ấn Độ đã phải kêu gọisự ủng
hộcủa quốc tế để chống lạicuộctấn côngcủa Trung Quốcđã gây căng thẳngngoại
giaonghiêm trọngđối với các nướcKhông liên kết. Tất cả các quốc gia Không liên
kếtđều bị bất ngờkhicuộc chiến tranhgiữa Ấn Độvà Trung Quốc bùng nổ. Một
77
sựlúng túng thậm chí đến mức tiến thoái lưỡng nancủacác nước này. Hầu hết
cácquốc giaphải mất một thời giankhá lâu mới có phản ứng, đồng thời xuất hiện
những chia rẽ mạnh mẽ.Các nước Không liên kết cócách phản ứngrất khác nhau,
hoặc im lặnghoàn toàn, hoặc ủng hộhoàn toàncho một tronghai bên,hoặc kêu gọinhẹ
nhàng,thận trọng hòa giải, hoặc tham giatích cựcđầy đủlà các nhà hòa giải.
Sở dĩ các nước trong Phong trào Không liên kết rơi vào tình trạng lúng túng
là do vai trò và tầm ảnh hưởng của cả Ấn Độ và Trung Quốc. Với tầm vóc lãnh thổ,
quy mô dân số, Ấn Độ và Trung Quốc rất tích cực vận động thành lập và xác lập vai
trò của mình. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có vai trò trụ cột trong phong trào
Không liên kết. Hơn nữa, các nước trong Phong trào Không liên kết hầu hết là
những nước mới giành được độc lập, hoàn cảnh đất nước khó khăn, quy mô lãnh
thổ và dân số đều ở mức trung bình hoặc nhỏ nên họ đều không muốn tranh thủ sự
ủng hộ hai nước lớn nhất trong nhóm.
Tuy nhiên, sau khi tính toán hầu hết các nước chọn con đường trung lập. Đây
là những lựa chọn phù hợp và không làm ảnh hưởng đến quan hệ của từng nước với
cả Ấn Độ và Trung Quốc.Tuy vậy, do lợi ích quốc gia với từng vị trí địa lý khác
nhau, lợi ích chiến lược kinh tế, an ninh khác nhau, một số nước có quan điểm ủng
hộ Trung Quốc hoặc một số ủng hộ Ấn Độ. Có thể điểm qua phản ứng riêng lẻ của
các nước theo từng khu vực như sau:
Các quốc gia Không liên kết ở Châu Á
Các quốc giaKhông liên kếtởchâu Á là những nướcbị ảnh hưởng nhiềunhất
bởihậu quả khôn lường củacuộc chiến tranh“giữahai người khổng lồ”ngay gần
mình. Hầu hếthọnhìn thấymối liên hệ củacuộc chiến tranh nàyđến an ninhquốc gia
của mình. Phản ứngcủa họ đối vớicuộc chiến tranhlà rất thận trọngvà lựa chọn im
lặng là chủ yếu. Chỉ duy nhất Sri Lanka lên tiếng đáp lại lời kêu gọi của Thủ tướng
J. Nehru vào ngày 26-27/10/1962, ban đầu Sri lanka có biểu hiện của sự cảm thông
với Ấn Độ nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang thái độ trung lập nghiêm ngặt và
là thành viên tích cực nhất trong việc tìm kiếm giải pháp hòa giải giữa Ấn Độ và
Trung Quốc.
78
Cộng hòaYemenđang bị cuốn vàomộtcuộc nội chiếnbạo lực chống lạinhững
người theo trào lưu chính thốngđang đượcArab SaudivàJordan hỗ trợ. Tuy nhiên, họ
đã bày tỏsự ủng hộvới Ấn Độ.
LebanonvàIraqgiữlập trườngtrung lập. Mặc dù Thủ tướng
Lebanon,RashidKararni,đãbày tỏphản đối cuộc xâm lược củaTrung Quốc khiông
đến thămẤn Độ vào tháng 1/1963, nhưng trước và sau đó ông không có tuyên bố
nào. Iraqcóphản ứng kháthờ ơvới kêu gọi củaJ. Nehruvàra thông cáochính thứccho
rằngquan điểm độc đoánvà ngoan cốcủa cả haibên tranh chấpđãdẫn đếncuộc chiến
tranh này. Đồng thời, kêu gọiẤn Độvà Trung Quốctrở lạivới phương pháphòa bình.
Tuy nhiên, ở giai đoạnsau, trong mộtchuyến thăm chính thứctới Ấn Độ(3/1964),
Tổng thốngAsif đồng ý rằng:“nếutheo đuổilợi íchlãnh thổmà phạm tội xâm lượcthì
kết quả phải bị tước bỏ khỏi kẻ xâm lược”[106].
Afghanistankhông đáp lạilời kêu gọigiúp đỡ củaJ. Nehru. Chỉ sau khingừng
bắn,Afghanistan mới tỏniềm hy vọngmộtgiải pháp hòa bìnhcho cuộc tranh chấp.
Báo chí của chính phủAfghanistan cũngduy trìthái độ trung lậphoàn toànvề vấn đề
này. KabulTimes,tờ báo tiếng Anh hàng ngàychỉcó ởKabul, thậm chíkhông xuất bản
cáctin tức vềcuộctấn côngcủa Trung Quốcvào ngày 20/10 vàcác bản thông báo sau
đó đãđược xuất bảncảở Delhivà Bắc Kinhđều giữmộtlập trườngtrung lập nghiêm
ngặt.
Sự trung lậpcủa Afghanistanvà việc từ chốilên ánTrung Quốc nhưmột kẻ
xâm lược xuất phát từ mối quan hệ với Trung Quốc. Sau khi thiết lậpquan hệngoại
giao vớiAfghanistan, Trung Quốcđãquan tâmđáng kể đối vớingười hàng xómcó vị
trí chiến lược quan trọng ở khu vực Trung Á. Hơn nữa,trong khoảng thời giankhisự
thù địchgiữa Trung Quốc vàẤn Độnổ ra, Afghanistanvà Trung Quốcđang trong quá
trìnhgiải quyếtranh giớicủa họthông qua cáccuộc đàm phánsong phương. Trên thực
tế, trong chuyến thămBắc Kinh vào tháng 9/1959, Bộ trưởng Ngoại
giaoAfghanistanđã bị Trung Quốcthuyết phục trong việc cùng Ấn Độmởcác cuộc
đàm pháncấp cao nhấtđể giải quyếttranh chấp biên giới. Mặc dùAfghanistanphản
ứngtích cực vớiđề xuất4điểmcủa Tổng thốngNasservà tổ chức cuộc họphòa giải,
79
nhưng khihội nghịthất bại, Afghanistanduy trìsự im lặng nghiêm ngặt vềvấn đềnày.
Nepallựa chọn quan điểmtrung lậpvới tranh chấp Trung Quốc - Ấn Độ.
TulsiGiri, Bộ trưởng Ngoại giaoNepal, tuyên bố ngày24/10/1962: “quan hệcủa
Nepalvà Ấn Độsẽvẫn gần gũi,… quan hệ kinh tếvàvăn hóacủa Nepalvới Trung
Quốclàkhông lớn nhưnhững ngườiẤn Độ. Tuy nhiên, Nepalcómột ranh
giới600dặmvới Trung Quốc, Trung Quốc bây giờ đãnổi lên nhưmột cườngquốc, mối
quan hệthân thiệntuyệt vờivới người láng giềngphía bắc của chúng tanênlà mục
tiêutự nhiêncủachính sách đối ngoạicủa đất nước” [120; tr.208-209].
Trước khi xảy ra chiến tranh biên giới Trung Quốc-Ấn Độ, quan hệ giữa
Nepal và Ấn Độ khá căng thẳng khi Nepal cáo buộc Ấn Độ hậu thuẫn các lực lượng
phiến quân chống lại Chính phủ Nepal“các phần tửchốngquốc giađã nhận đượctất
cả các loạitrợ giúp, cơ sở vật chấtvà hợp tác củaẤn Độ. Ngayngày 30/9/1962, Bộ
Nội vụ Nepal còn cáo buộc Ấn Độđồng lõa với phiến quân trong cuộc tấn côngvào
quân Chính phủ”[213;tr.4845]. Tuyên bố của trưởng đoàn đại biểu Nepal tại LHQ,
Corala,“Trong khiNepal, Miến Điện, Indonesia giải quyết được các bất đồng với
BắcKinh thì chỉ riêng có Ấn Độ lại không thể sống hòa bình với Trung
Quốc”[15].Tuần báo Nayasamacủa Nepal cũng viết: “Vấn đề biên giới giữa Nê-pan
và Trung Quốc đã được giải quyết, tại sao cuộc tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ
với Trung Quốc lại ngày càng căng thẳng”. “Nguyên nhân duy nhất của tình trạng
này là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa bành trướng Ấn Độ”[16].
Phát biểu vàongày 26/10, Đại diện thường trựcNepal tạiĐại hội đồngLiên
Hợp Quốc, RishikeshShah, tuyên bố “chúng tôi không muốnphán xétvềnhững giá trị
củatranh chấpbiên giới Trung Quốc-Ấn Độ. Là mộtđất nước thân thiện,chúng tôi hy
vọngvàcầu nguyện tranh chấpđược giải quyếtmà khôngsử dụng vũ lựcvàthông qua
cáccuộc đàm phán trêntinh thần hiểu biết” [225; tr.43].
Trong khi đó, quan hệ giữa Trung Quốc và Nepal tiến triển khá tốt.
Ngoạitrưởng Trung Quốc, Trần Nghị,phát biểu tạibuổi đón tiếpnhân dịpkỷ niệm đầu
tiên Hiệp địnhranh giớiTrung Quốc -Nepal vàotháng 4/1961,hứa hẹn sẽcung
cấpviện trợ choNepaltrong trường hợpbị gây hấn.
80
Tuy vậy, khi Chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy ra, Nepal không
tận dụng cơ hội để tấn công Ấn Độ.Thay vào đó Nepalđã khéo léo sử dụngcơ hội
này đểgây áp lựcđối với Ấn Độrút lạisự cảm thôngvàhỗ trợcho phe đối lậptrong
nước. Chính điều nàybuộcQuốc hộiNepallưu vongra một tuyên
bốvào8/11/1962,từCalcutta,kêu gọiđảng viên trung thànhcủa mìnhchấm dứtphong
tràochống lại chế độhoàng gia. Trongmộtcuộc phỏng vấnbáo chí ngày10/11/1962,
vuaMahendrađãthể hiện thái độ hòa dịu đối với Ấn Độ. Ôngcho biết:
“đâylàmộttrường hợp tranh chấpgiữa Ấn Độvà Trung Quốc, Nepalcho
rằnghọnêngiải quyết nóthông quasự hiểu biếtlẫn nhau sẽ là thích hợp hơn”[42;
tr.91].Ông cũng bày tỏ tình cảm đối với J. Nehru: “Quá trìnhnỗ lựclâu dài chosự
nghiệp hòa bìnhmàtóccủa ôngJ. Nehruđãchuyển thành màu xámvà tôinghĩrằng ông
ấy sẽ không bị tụt hậu trongviệc giải quyết cuộc chiến tranhhiện nay” [42; tr.91].
Nepal luôn cho thấy lập trường trunglập nghiêm ngặt của mình.
Ngày21/11/1962, trongmộtbuổi họp báo, vuaManendra,khẳng định lạiquan
điểmtrung lậpcủa Nepal. Nepalbày tỏsự đánh giá caohành động đơn phương rút
quân của Trung Quốc, RishikeshShahphát biểu:“cử chỉhòa bình, hữu nghị và thiện
chí nàycủaChính phủTrung Quốcsẽđượcđáp lạimột cáchphù hợp”vàông cũng đánh
giá“cả Ấn Độvà Trung Quốcđều sẽkhông giành chiến thắng nếumất châu Á,...bày tỏ
hy vọng của Nepal“chúng tôikhông có gìchỉ có tình bạnvàthiện chí đối vớihai nước
láng giềnglớn là Trung Quốcvà Ấn Độ” [225; tr.44].
Tuy nhiên, sự trung lậpcủa Nepal chỉ đơn giảnlàlánh xa cuộc tranh chấp,
vuaMahendranói rằng: “Chính sáchcủa chúng tôilà trung lậpvàkhông can thiệpvào
công việc củacác quốc giakhác.Cho dùkhác biệt rõ rànggiữa Ấn Độvà Trung Quốc,
chúng tôi tin rằng không đến mức độ màbất kỳ bênthứ banàocầntham gia”[42;
tr.113]. Sự trung lập của Nepal là rất dễ hiểu bởi sự nhỏ bé về lãnh thổ, ít dân và đặc
biệt là có vị trí nhạy cảm nằm kẹp giữa cả Ấn Độ và Trung Quốc.
Miến Điện cũng là quốc gia châu Á đặc biệt, nằm giữa Ấn Độ và Trung
Quốc vì thế ngoại giao Miến Điện cũng bị đặt vào tình huống khó khăn. Khi Ấn Độ
và Trung Quốc có những xung đột lẻ tẻ trên biên giới, dư luận Miến Điện tỏ ra ủng
81
hộ Trung Quốc. Báo Tiền phongMiến Điệnngày 4/10/1962 nêu rõ: “Ấn Độ đã gây
sự với nhiều nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc, Pakistan, Nepal. Nếu chính
sách của Ấn Độ vẫn không thay đổi thì trong tương lai Ấn Độ sẽ ngày càng cô lập
với các nước Á – Phi” [16].
Khi chiến tranh biên giới Trung Quốc-Ấn Độ bùng nổ, Miến Điện đã phớt
lờlời kêu gọi giúp đỡcủa J. Nehru. Mặt khác,khi phái đoàn ngoại giaoẤn Độdo bà
LaxmiMenondẫn đầu thămRangooncũng chỉ nhận được sự im lặng. Trongcác cuộc
thảo luậntại Hội nghị Colombo, Miến Điệnđược xemnhư đangđại diện choTrung
Quốc. Tướng NeWinđề cập đếnHội nghị Colombolà bên thứ bathân thiện vàliên tục
cảnh báochống lại “bất kỳ nỗ lực thông quasự phán xétvề đúng vàsai, những ưu
điểm vànhược điểmcủa các quan điểmhaibên tranh chấp” [225; tr.48]. Điều nàylà
phù hợp vớilập trườngcủa Trung Quốcvàngược lạivới J. Nehru.Miến Điệnkhông
chỉphản đốithông quacác nghị quyếtkhông đượcTrung Quốc chấp nhận, mà còn
đánh giá caonhững ý địnhhòa bìnhcủaTrung Quốc vàcác biện phápTrung
Quốcđãthực hiện.
Sở dĩ Miến Điện lựa chọn giải pháp nghiêng về ủng hộ Trung Quốc là do họ
có vị trí địa lý nhạy cảm và lãnh thổ nhỏ. Một lý doquan trọng nữa là Trung
Quốcđãchấp nhậngiải quyếttranh chấp biên giớivớiMiến Điệnthông quamột hiệp
ướcbiên giớivàhiệp ướckhông xâm lượcvào tháng 1/1960. Giữa năm 1962, Thủ
tướngUNu vàTổng thốngNeWinđã tham dự mộtlễ kỷ niệm lớntạiBắc Kinh. Mối
quan hệ thân thiết giữa Miến Điện và Trung Quốc đang ở vào thời kì tốt đẹp nhất.
Chính vì thế khi phải lựa chọn trong cuộc chiến tranh này, Miến Điệnkhông
chỉchọnthờ ơvới yêu cầugiúp đỡ của Ấn Độ,màcó mộtkhuynh hướngrõ rệtủng hộ
quan điểmcủa Trung Quốc.
Giống với thái độ của Miến Điện, Campuchia cũngưu tiênphớt lờlời kêu
gọigiúp đỡcủaJ. Nehru, lựa chọnđứng trung lậpvớicuộc xung đột Trung Quốc-Ấn
Độ. Đồng thời, Campuchiacòn tích cựcphản đốinỗ lực củaẤn Độđể giành đượcsự
ủng hộ củacác nước Á-Phichống lạisự xâm lượccủa Trung Quốc. Trong quá trình
tham gia Hội nghị hòa giải Colombo, Campuchia thường nghiêng về ủng hộ Trung
82
Quốc. Sự lựa chọn này liên quan đến mối quan hệ gắn bó, những cam kết, những
nguồn viện trợ của Trung Quốc cho Campuchia.
Indonesia, một trong nhữngquốc gia tích cực trong Phong trào Không liên
kết cũng như đoàn kếtÁ–Phi,đã phải đối mặtvớimộtsự lựa chọnkhó khăn.Ấn Độ
cómối liên hệlịch sửvớigiới lãnh đạo Indonesia và kỳ vọnghọcông khaiủng hộcác
tuyên bố củaẤn Độ. Trong khi, Trung Quốc, quốc giađãphát triểnmộttình bạn thân
thiếtmãnh liệt vớiIndonesia,cố gắng sử dụngnhững sự ủng hộcủa Indonesiađể trình
bàyquan điểm Trung Quốcvề cuộc xung độttrên các diễn đànquốc tế.Tuy nhiên,
Tổng thốngSukarnođã luôn giữ được trạng thái trung lập, không bị cuốn vào tranh
cãi Trung Quốc – Ấn Độ. Sukarnocũngđã thể hiện sự lạnh lùng vớilời kêu gọi của
Tổng thốngNassermời ôngđến hội nghịhòa giảigồm 10quốc giamà nhiều người coi
làmột động tháiủng hộẤn Độ [132; tr.89].Mặt khác, tờ Ngôi Sao phương Đông xuất
bản ngày 12/10/1962,cho rằng“thái độ của Ấn Độ đối với vấn đề biên giới Trung Ấn
đã chặn đường đi tới giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp biên giới do lịch sử để
lại”[16].
Ban đầu, Indonesiaduy trìtính trung lập nghiêm ngặt, Bộ trưởngNgoại giao
Subandriobác bỏmọi khả năngtham giahòa giảitrong vấn đề này“trừ khicó một
điểmcủa cuộc họplà cả hai nước có thểchấp nhận” [132; tr.90]. Tuy nhiên, cùng với
thời gian,Tổng thốngSukarnodần dần thay đổi. Ngày 17/11,ôngtiết lộ rằngmình
đang nỗ lực làm việcđểmang lại hòa bìnhtrong vấn đề tranh chấpbiên giới Trung
Quốc-Ấn Độ.Subandriophát biểu vào ngày 18/11rằng“Indonesiacó thể không giữthụ
độngvàsẽtìm ra một cáchđể giải quyếtcuộc xung đột” [132; tr.90]. Tổng
thốngSukarnochấp nhậnđề xuấthòa giảicủa bàBandaranaikevàđóng mộtvai trò tích
cựctrongcáccuộc họp hòa giải6 quốc giaởColombotrongtháng 12/1962. Tuy nhiên,
người đại diện choIndonesiatại hội nghị, Subandrio,tuyên bốrằng hội nghịchắc chắn
sẽ khôngcan thiệp vào“bản chất củacuộc xung đột giữa Ấn Độvà Trung Quốc”
[132; tr.91].
Như vậy, các quốc gia thuộc Phong trào Không liên kết khu vực châu Á là
những nước chịu tác động lớn nhất từ cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn
83
Độ năm 1962. Một số nước như Miến Điện, Cambuchia ủng hộ Trung Quốc,
Yemen ủng hộ Ấn Độ. Các quốc gia còn lại là Lebanon, Iraq, Afghnistan, Nepal,
Indonesia lựa chọn thái độ trung lập.
Các nước Không liên kếtở châu Phi
Ởchâu Phi, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc-Ấn Độnăm 1962 đã gây
ramộtloạt cácphản ứng rất khác nhau.
Các nước gồm Algeria, Congo, Morocco, Tunisia,Somaliahoàn toànbỏ qua,
không có bất cứ phản ứng nào. AlgeriavàMoroccokhông trả lời thưcủa Tổng
thốngAi Cập (Nasser)mời họtham dựmộthội nghịgồm 10quốc giađể làm trung gian
hòa giải. Ở giai đoạn sau, các nước nàytiếp tục im lặngtrước một nỗ lựccủaChuÂn
Laitrong suốt tháng 12/1963để gợi raphản ứng của họ. MalivàSudangửiđề nghị
chính thứccủa mình đến haibên tranh chấpvềmộtgiải pháp hòa bìnhvà đàm
phánngay trongtuần đầu tiên khi chiến sự bùng nổ.Tuy nhiên, sau này, phản ứng của
Mali là tích cực ủng hộ quan điểm của Trung Quốccho rằng nước này đã “chiến
đấubảo vệ chủ quyềnvàtoàn vẹn lãnh thổcủa mình”[79; tr.187].Trong khi đó,
Sudantiến gần hơnđến quan điểm của Ấn Độ “lên ánviệc sử dụngvũ lựctrong việc
giải quyếttranh chấp biên giới”[106]. Về cơ bản,Mali và Sudanduy trì sự hờ hững
đối vớicuộc chiến tranhTrung Quốc-Ấn Độ.
Ethiopialà quốc gia Không liên kếtduy nhất ở châu Phi tích cực đáplại lời
kêu gọicủaJ. Nehru,mô tảTrung Quốc là một kẻ xâm lượcvàđề nghị hỗ trợ tích cực
Ấn Độtrong cuộc chiến chốnglại Trung Quốc.
Ba nước trung lập châu Phi có sự quan tâmđặc biệttớinhững diễn biếncủa
cuộc chiến tranh Trung Quốc-Ấn Độ và tích cực đưa racác đề xuấthòa giảicụ thể,đó
làGuinea, GhanavàAi Cập. Tuy nhiên, mức độtham gia vàxu hướngcủa họ là khác
nhau. Guineađãđưa ra mộtđề xuấtđểxoa dịu sựcăng thẳngbiên giới Trung Quốc-Ấn
Độ gồm 4 điểm:(I) Mộtlệnh ngừng bắnngay lập tức.(II) Lực lượngcủa cả hai bên
rút lui20 kmtừranh giớitự nhiên; (III) Một cuộc gặptrực tiếp củaChính phủ hai
nướcnhằmgiải quyết cáctranh chấp bằngbiện pháp hòa bình; (IV) Mộtsự lên
ánngay lập tứctất cả mọi can thiệpcủa nước ngoài”[225; tr.36].
84
Những đề xuất nàyđã cómột sự thiên vịnhất địnhvớilập trường của Trung
Quốc. Tham chiếubiên giớitự nhiênsẽ cho Trung Quốcmột sự biện hộvà chỉ tríchcái
gọi làđường biên giớicủa đế quốcmà Ấn Độđã cố gắnghợp pháp hóa. Mặt khác, việc
lên ántất cả nước ngoài can thiệpđã gián tiếpxác nhận vềsự viện trợvũ khícủa
phương Tây cho Ấn Độ. Vì vậy, Trung Quốchoan nghênhnhững đề xuấtvà cho
rằng“hợp lý, có tính xây dựngvàcó lợi chogiải pháp hòa bình”. Ngược lại, Ấn
Độkhông ủng hộ vì thấy chúngmơ hồ, “những đề xuất này đã đượctưởng tượngmà
không có nhiềuhiểu biết về cácvấn đề liên quan, họkhông nói rõvà làm rõranh
giớitự nhiên”[213; tr.4953]. Ngay sau khi bị Ấn Độtừ chốixem xétcácđề xuất này,
Guineakhông còn quan tâmvàtừ đó không đề cập đếnchúngnữa.
Thái độcủa Ghanacó biến động mạnh, phản ứng ban đầucủaTổng
thốngNkrumahgần nhưthù địch vớiẤn Độ. Ông phản đốimạnh mẽquyết địnhcủa
Anhviện trợquân sự của Ấn Độ. Ngày 28/10/1962, Tổng thốngNkrumahviết thư cho
Thủ tướng Anhvà bày tỏ quan điểm của ông“vô cùng buồn rầuvà đau đớnkhi biết
rằngnước Anhsẽ cung cấp choẤn Độ mọihỗ trợtrong cuộc chiếnchống lại Trung
Quốc”;và Thủtướng Anh“nênkiềm chếbất kỳhành độngnào có thểlàm trầm trọng
thêmtình trạngđáng tiếc, không cóvấn đề gì làđúng và saicủa cuộc chiến tranhhiện
naygiữa Ấn ĐộvàTrung Quốc”. Kết thúc lá thư, ông gọiquyết địnhcủa nước Anhlà
“xét đoán vội vàngvấn đề” và xin“đánh giá từng vấn đề trongsự phù hợpcủa nó”
[225; tr.37].
Thái độ chống đối Ấn Độcủa Ghanacó lẽ xuất pháttừsự ganh
đuagiữanhómCasablancamàGhana là thành viênvới nhómMonroviamàNigerialà
thành viênmà khi đó,Nigeriađãthể hiện ủng hộẤn Độ rõ ràng. Ngoài ra, quan hệ
ngoại giaocủa Ghana với Trung Quốcphát triển mạnh.Trung Quốckhi đó đãđưa
ramột khoản vaykhông tính lãiđáng kểvàmột lời đề nghịhợp táckinh tếvàkỹ thuật
với Ghana. Tuy nhiên, cùng vớithời gian, sự thù địchcủa Ghanađối với Ấn Độdần
giảm xuống. Tổng thốngNkrumahđã có sự ủng hộnhất địnhvới đề xuấtgầnvới yêu
cầucủa Ấn Độlà biên giới trở vềvị tríngày 8/9/1962.Đề xuất tương tựcủaTổng
thốngNasserđã bị Trung Quốc từ chối, trong khi Ấn Độhoan nghênh. Tại Hội nghị
85
Colombo, thái độcủa Ghanalàtương đốicó lợi choẤn Độ.
Ai Cậplàthành viênKhông liên kếtđầu tiênphản ứng và rất tích cực làm cầu
nối hòa giải giữaTrung QuốcvàẤn Độ.Chỉ vài giờ sau khi nổ rachiến sựquy môlớn,
Tổng thốngNasserđã gửi mộtthông điệp chungđếnhaibên tranh chấpbiểu thị“sẵn
sàng làm việc cùng vớicác nước Á, Phigiúp Trung QuốcvàẤn Độ tìm kiếm một giải
pháp đểgiải quyếtvấn đề biên giớihai nướctrong hòa bình mà cả hai bên chấp nhận
được” [220; tr.433]. Ông cũng thông báovới Ấn Độ và Trung Quốc rằng ôngđãliên
lạc vớicác chính phủAfghanistan, Indonesia, Algeria, Sudan, Mali, Morocco, Sri
Lanka, Ghana, GuineavàCampuchia đểtham khảo ý kiếnvề vấn đềnày.
Ngày 26/10,Nasserđưa ra đề xuấtcả Ấn Độvà Trung Quốc nêntrở lại vớitình
trạngtrướcngày 20/10,chấm dứtngay lập tứcchiến sựvàsau đó tham gia vàođàm
phánhòa bình. Ngày 31/10/1962, Hội đồng Tổng thốngAi Cậpđã ban hànhmột Đề
xuấtgồm bốnđiểmcải tiếntrêncơ sở đề nghịkhông chính thứctrước đócủa Ấn Độ. Vì
vậy, đề xuất củaAi CậpđượcẤn Độ ủng hộ. Ngược lại, Trung Quốc đề cập đếnđề
xuấtba điểmchính của họ làcơ sở duy nhấtđể có thể hòa giải.
Mặc dùđề xuất4điểm và hội nghị 10 nước thất bại,Ai Cậptiếp tụctheo
đuổicác nỗ lựcngoại giaocủa mình. Tổng thốngNassercố gắng đàm phánvớiThứ
trưởng Ngoại giaoTrung Quốc,HwangChen trên cơ sở ông nhận nhiệm vụ đặc biệt
từ Ấn Độ. Mặc dù, những nỗ lực củaAi Cập khôngđạt được kết quả, Ấn Độ vẫn tận
dụng được sự ủng hộ của Ai Cập tại Hội nghị Colombo.
Trong quá trìnhthảo luậntạiHội nghị Colombo, phái đoàn Ai Cậpthườngthiên
vềquan điểm của Ấn Độ. Họ không chỉ thành côngtrong việc đạt đượcsự hài
lòngcủaẤn Độ về nguyên tắc không đạt được lãnh thổ thông quaxâm lược, quan
trọng hơn đạt được nguyên tắctrong văn bảncuối cùnghai bênphải rút khỏilãnh
thổđã được thừa nhận của Ấn Độ hoặckhỏilãnh thổ màẤn Độđã thực thichính quyền
dân sự. Cả hai nguyên tắcnày đều có lợi vớilập trườngcủa Ấn Độ.
Đề cập đếnnhững nỗ lực củaAi Cậpgiúp Ấn ĐộtạiHội nghị Colombo,ấn
phẩm chính thứctại Cairocho biết:“Mặc dùôngSabrykhông thể làm choHội nghị
Colombo thông qua đầy đủ các đề xuất, ông đã thành côngvớimộtmức độ
86
rấtlớntrong việc đưa tới đề xuấtColombomộtnội dung thực tế. Những đề xuất
nàykhôngtrao chotất cả những gì Ấn Độmong muốn, nhưngvề cơ bản chúngyêu
cầuquân đội Trung Quốc trở lại bên kiađường biên giớitrướccuộc xâm lược” [132;
tr.71].
Các nước thuộc Phong trào Không liên kết châu Phi bị phân hóa, đa số giữ
thái độ trung lập như Algeria, Congo, Morocco, Tunisia, Somalia; Etiopia ủng hộ
Ấn Độ. Ghana có thái độ chuyển biến rõ ràng, lúc đầu phản đối Ấn Độ nhưng sau
đó dần chuyển về trung lập và có phần nghiêng về Ấn Độ. Ai Cập giữ thái độ trung
lập nhưng có những quan điểm có lợi cho Ấn Độ.
Các nước Không liên kếtở khu vực Mỹ Latin và châu Âu
Cuba, Cộng hòa Síp vàNam Tưlà ba nước Không liên kếtnằm ngoài cáckhu
vực Á-Phi và ítbị ảnh hưởngbởi cuộc chiến tranh ở châu Ánày. Cuba, quốc gia duy
nhất của MỹLatinđã tham dựhội nghị thượng đỉnhBelgrade, sau này lạilàmộtthành
viênít hoạt động củacộng đồngKhông liên kết.Gần như trùng với cuộc chiến tranh
Trung Quốc-Ấn Độ, Cuba phải đối mặt vớimột trongnhững cuộc khủng hoảngtồi tệ
nhấttronglịch sử của mình. Cuộc khủng hoảng tên lửa giữa hai siêu cường Xô – Mỹ
diễn ra ngay trên lãnh thổ Cuba. Cubađãkhông nhữnghoàn toànđắm chìm trongtrò
chơichiến tranhcủahai siêucườngmà cònphụ thuộc hoàn toàn vào chính sách đối
ngoạicủa Liên Xô. Ban đầu, Liên Xôcóquan điểmmơ hồđối vớixung độtTrung
Quốc-Ấn Độ. Vì vậy, Cuba lựa chọn im lặngtrong cuộc chiến tranhnày.
Ngược lại với Cuba, Cộng hòa Síp – một quốc gia trung lập ở Địa Trung Hải
có quan điểmthẳng thắnủng hộẤn Độ. Tổng thốngArchbishopMakariosphản ứngđầy
thiện cảmvới lời kêu gọi ngày 27/10của J. Nehru và lập tức đưa ramột tuyên bố,
trong đó mô tảcuộc tấn côngcủa Trung Quốclà “vô cớvàphi lý”. Sauđó, ông có
mộtchuyến thămnhà nước10ngày đếnẤn Độ ngay trong khi cuộc chiến tranh đang
diễn ra [132; tr.94].
Nam Tư làmột trong nhữngnhân vật chínhcủa Phong trào Không liên kếtvàcó
tình hữu nghị sâu sắc với Ấn Độ.Mặt khác, Nam Tư lại đang mâu thuẫn sâu sắc với
Trung Quốc trong phong trào cộng sản quốc tế. Vì vậy, Nam Tư được kỳ vọng ủng
87
hộ mạnh mẽ Ấn Độ. Tuy nhiên, lúc đầu, Nam Tư lại lựa chọn im lặng.Phải mất
gầnhai tuần sau khi J. Nehru phát đi lời kêu gọi giúp đỡ,Chính phủNam Tư mới
phản hồi với mộtkêu gọigiải quyết hòa bìnhtranh chấp. Nam Tưthể hiện một thái độ
ít quan tâmtronghoạt độnghòa giải.
Nam Tưduy trìquan điểmthận trọngtrong một thời giankhá lâu.Tuy nhiên, khi
Liên Xôthể hiệnsự “tỉnh ngộ”vớichính sáchcủa Trung Quốc và thay đổi thái độ,
Nam Tưcũng trở nênthẳng thắnhơn,thể hiệnsự đoàn kếtvới Ấn Độ.EdardKardelj,
PhóTổng thốngNam Tư, trong chuyến thămẤn Độvào cuối tháng 12/1962,truyền tải
dấu hiệu đầu tiênthoát khỏilập trườngtrung lập củaNam Tư. Trongmột cuộc họp
báo, ông nói rằng, “Trung Quốccố gắng áp đặtbằng vũ lựcvớiẤn Độchắc chắn là
nguyên nhângâyảnh hưởng tiêu cựcđối vớisự nghiệp hòa bìnhvàtiến bộ xã hội”
[214; tr.4992]. Tuy nhiên khi đó, ông vẫn từ chối ủng hộ Ấn Độ. Mãi đến tháng
2/1963, Nam Tưmớichính thức cho rằngthực tếTrung Quốcxâm lược Ấn Độ vàủng
hộ Ấn Độ.
Ngược lại với sự im lặng của chính quyền, truyền thôngvàbáo chíNam Tư
ủng hộlập trườngcủa Ấn Độ. Vào tháng 10 và tháng 11/1962, trên các tờ báo khác
nhau của Nam Tư xuất hiện nhiều bài viết với các cuộc khảo sát phản đối và xúc
phạm Trung Quốc. Tờ báoPolitika,Nam Tưngày 13/10/1962,đưa tin “Bắc Kinh kích
độngcuộc xung đột tạiNEFA” vàngày 21/10,Oslobojenjibáo cáo rằng“cho đến gần
đây, Trung Quốc đã công nhậnranh giới McMahon”. Oslobojenji tiếp tụctrích
dẫntuyên bố của NarodnaArmijavàongày 9/11, “từnăm 1950,Trung Quốcđãbí
mậtchiếm đóngkhu vựcrộng lớnLadakh”[225; tr.54].
Cách đưa tin của báo chí Nam Tư làm Trung Quốc rất tức giận,đến mức
Trung Quốc cho rằng Nam Tư đang ủng hộmộtcách“đê hèn” choẤn Độ. Trung
Quốccũng từ chốichấp nhậnNam Tưlàm trung gian vìchính phủkhôngkiểm soátđược
báo chí:“Người dân Trung Quốctuyệt đốikhông cho phéptập đoàn TitocủaNam Tư,
kẻ xu nịnhđế quốc Mỹ, thọcmũivàovấn đềbiên giớiTrung -Ấn...Khimột“quốc gia
Không liên kếtcốgắng đột nhập vàohàng ngũ cácquốc gia châu Á, châu Phi, bị dính
líu tới cáchoạt độngbẩn thỉuđểtham giahòa giảitranh chấpTrung Quốc-Ấn Độ[225;
88
tr.54].Trung Quốcphản ứng mạnh mẽđểngăn chặn trướcmọi khả năngNam Tưtham
giavào các hoạt độnghòa giảicùng với các nướcÁ-Phikhác.
Như vậy, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là một
sự kiện đặc biệt với các nước thuộc Phong trào Không liên kết mà cả Trung Quốc
và Ấn Độ đều là thành viên tích cực. Chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ
bùng nổ gây bất ngờ và xáo trộn rất mạnh cho các thành viên Không liên kết. Ban
đầu các nước bị “sốc”. Tuy nhiên, khi thời gian trôi đi, các nước buộc phải bày tỏ
quan điểm của mình. Trên cơ sở phân tích lợi ích của từng nước, mức độ chịu ảnh
hưởng từ cuộc chiến tranh này mà mỗi nước có sự lựa chọn khác nhau. Sự lựa chọn
này ít nhiều có sự tác động nhất định đến cuộc chiến tranh cuộc chiến tranh Trung
Quốc - Ấn Độ.
89
Tiểu kết chương 3
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ ngày 20/10/1962
gây rúng động toàn thế giới. Do bị bất ngờ, lực lượng yếu, trang bị thiếu thốn không
thể đương đầu với quân đội Trung Quốc hùng mạnh, Ấn Độ đã phải kêu gọi với
toàn thế giới “cảm thông” và “giúp đỡ” chống lại Trung Quốc. Tùy vào lợi ích quốc
gia, chính sách đối ngoại, vị trí địa lý… các quốc gia, từ là các cường quốc đến các
quốc gia nhỏ đều có những phản ứng khác nhau.
Do có lợi ích chiến lược và lo ngại sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản tại
Nam Á, vốn đã muốn hợp tác với Ấn Độ từ rất lâu nên Mỹ nhanh chóng chớp thời
cơ này. Những phản ứng rất nhanh thể hiện sự cảm thông sâu sắc, những lời hứa
cũng như những khoản viện trợ ngay lập tức cho Ấn Độ bao gồm từ các loại vũ khí
chiến đấu thông thường, các trang thiết bị cho người lính, lương thực, thuốc men,
chăn màn… đến vận chuyển binh sĩ, do thám biên giới và bảo vệ bầu trời các thành
phố của Ấn Độ. Quá trình viện trợ của Mỹ vẫn tiếp tục được duy trì kể cả sau khi
Trung Quốc rút quân 21/11/1962 và còn kéo dài đến trước khi cuộc chiến tranh biên
giới Ấn Độ - Pakistan xảy ra năm 1965.
Khác với Mỹ, cuộc chiến tranh này là một thử thách với Liên Xô. Mặc dù,
giữa Liên Xô và Trung Quốc đã có những rạn nứt trong quan hệ từ khá lâu, đặc biệt
khi xung đột nhỏ lẻ trên biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy ra từ năm 1959, Liên
Xô đã có những phê phán và cho rằng Trung Quốc là thủ phạm. Nhưng khi chiến
tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy ra lại đúng vào thời điểm cuộc khủng
hoảng tên lửa trên biển Caribbe lên đến đỉnh điểm và nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt
nhân với Mỹ là rất lớn, Liên Xô đã phải lựa chọn khó khăn giữa một bên là người
bạn “thân thiện” - Ấn Độ và một bên là “anh em cộng sản” - Trung Quốc. Vì đều
thuộc phe XHCN và mong muốn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc về
vấn đề Caribbe, ban đầu Liên Xô lựa chọn đứng về Trung Quốc, lên án Ấn Độ và đế
quốc gây ra chiến tranh, tạm dừng các khoản viện trợ và các hợp đồng vũ khí với
Ấn Độ trước đó. Tuy nhiên, ngay sau khi không nhận được hồi đáp xứng đáng từ
Trung Quốc và vấn đề Cuba được giải quyết, Liên Xô đã có những thay đổi. Bắt
90
đầu bằng xu hướng quay về trung lập với cuộc chiến tranh rồi sau đó dần nghiêng
sang ủng hộ Ấn Độ. Các hoạt động ngoại giao, viện trợ kinh tế, hợp đồng vũ khí
được nối lại và ngày càng tăng cường trong những năm tiếp theo.
Pakistan là quốc gia rộng lớn và có tầm ảnh hưởng thứ hai tại Nam Á, lại có
biên giới chung với cả Ấn Độ và Trung Quốc, hơn nữa giữa Pakistan và Ấn Độ
đang có tranh chấp ở vùng Kashmir, vì vậy phản ứng của Pakistan là hết sức quan
trọng. Năm 1959, khi xảy ra xung đột nhỏ ở biên giới Trung Quốc - Ấn Độ,
Pakistan đề nghị Ấn Độ phòng thủ chung nhưng Ấn Độ từ chối. Khi những xung
đột tăng lên, Pakistan có những thay đổi và cho rằng xung đột biên giới Trung Quốc
- Ấn Độ là do Ấn Độ gây ra còn Trung Quốc là “quốc gia yêu chuộng hòa bình”.
Khi cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ xảy ra vào tháng 10/1962,
Pakistan đứng về phía Trung Quốc tố cáo Ấn Độ gây ra chiến tranh. Tuy nhiên, do
sức ép từ đồng minh của họ là Mỹ và Anh, với yêu cầu là Pakistan không được
khiêu khích làm mất ổn định biên giới Ấn Độ - Pakistan, nên trong suốt quá trình
diễn ra chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962, Pakistan không gây
hấn với Ấn Độ.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ bùng nổ gây ra sự chia rẽ
mạnh mẽ trong các nước Không liên kết. Tùy đánh giá tầm quan trọng và mức độ
ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ đối với từng nước Không liên kết nên mỗi
nước có những cách phản ứng khác nhau. Chỉ có một vài nước là Ethiopia, Síp và
Sri Lanka ủng hộ Ấn Độ. Tuy nhiên Sri Lanka rất nhanh chóng chuyển sang trung
lập nghiêm ngặt. Sau này có thêm một vài nước có lập trường khá nghiêng về ủng
hộ Ấn Độ như Ai Cập, Nam Tư. Một vài nước ủng hộ Trung Quốc như Campuchia,
Miến Điện. Còn hầu hết các nước có hoặc là trung lập hoặc thậm chí không quan
tâm, không theo dõi cũng như không bày tỏ quan điểm.
91
CHƯƠNG 4. NHÂN TỐ QUỐC TẾ SAU CUỘC CHIẾN TRANHBIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962 VÀ VIỆC THÚC ĐẨY HÒA GIẢI
QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ
4.1. Mỹ, Anh và các đồng minh
Mặc dùTrung Quốc tuyên bố ngừng chiến và rút quân vào ngày 21/11,
MỹvàAnhvẫn tiếp tục triển khai các cam kết ủng hộ và viện trợ cho Ấn Độ. Trung
Quốc công bốlệnh ngừng bắntrước khi phái đoànHarrimanrời Washington, phái
đoànHarriman vẫn đến Ấn Độvào ngày 22/11vàgặp ngay Thủ tướng J.
Nehru.Nhiệm vụ quan trọnglà thuyết phục đượcngười Ấn Độphải thực tếtrong vấn
đề yêu cầu viện trợ này.
Phái đoàn Harriman, cùng vớimột nhóm từAnh đã hỗ trợđáng kểcho Ấn Độ
vàđồng thờicũng épJ. Nehrumởcuộc đàm phán vớiPakistanđể giải quyết cáctranh
chấpKashmir.Vì Ấn Độ và Pakistanxích lại gần nhauđược xem làcần thiết đểtăng
cườngphòng thủở tiểu lục địa trước sức mạnh củaTrung Quốc.Phái đoàn
Harrimancho rằngnếu không cóđược giải phápvề quan hệ Ấn Độ-Pakistan, viện trợ
quân sựcủa Mỹ choẤn Độ sẽ đẩyPakistanvề phía Trung Quốc. Trongbáo cáo của
mình, phái đoànHarrimanủng hộviện trợ quân sựchoẤn Độtrongtrường hợp khẩn
cấp.
Ngày29/12/1962, Tổng thốngMỹ vàThủ tướngAnh đã thống nhất
tạiNassaucung cấp120 triệu USD viện trợ quân sự cho Ấn Độ, Mỹ cung cấpmộtnửa
số đó [116; tr.616].Theo thỏa thuậnnày, Ấn Độ nhậnvũ khí hạng nhẹ, máy móc,vũ
khívà đạn dược. Đáp lạiđề nghịviện trợcho phòng thủ trên khôngcủa Ấn Độ,tháng
1/1963,một phái đoàn không quân với 15thành viêncủa Mỹ và Khối thịnh vượng
chungđến Ấn Độ. Mục đích của họlà kiểm tranhu cầumáy baycủa Ấn Độ cầnthiết nếu
Trung Quốctấn côngtrở lại. Nhiệm vụ làxác địnhsố lượng công việctrên mặt đất
vàthiết bịradarcần thiết nhận đượccủa MỹvàKhối thịnh vượng chungcho phi độiđánh
chặnđểbảo vệcác thành phốcủa Ấn Độvàmạng lưới đường sắttrongtrường hợpbị
Trung Quốc không kích. Họ đãxem xétđề nghịcủa Ấn Độđối với viện trợquân
sựtrongthời điểm đó, phái đoànnày kết luậnrằng Ấn Độkhông thực sựcầnmáy bay
92
chiến đấusiêu âmở giai đoạn nàyđể chống lại bất kỳloại máy bay ném bomhoặcmáy
bay chiến đấunào của Trung Quốc có thểtriển khaichống lại Ấn Độtrong tương lai.
Thay vào đó, phái đoàn khuyến cáomột sốradarvàthiết bị truyền thôngchomộthệ
thống cảnh báo sớmlà đủvàkhông quân Ấn Độcó thểđược tăng cườngvớimộtvàimáy
bayvàtên lửa không đốikhông. Tổng thốngKennedynóirằng Mỹ sẽhồi đáp lạiyêu
cầuviện trợ của Ấn Độđối vớimáy baytrong trường hợpTrung Quốc tấn côngvào các
thành phốcủa Ấn Độ [116; tr.100].
Tháng 2/1963, một nhóm người Mỹđến Ấn Độnhằm đánh giákhả năngcủa
Ấn Độvề việc mở rộng sản xuấtvũ khí.Tháng 6/1963, tạiBirchGrove,Mỹ vàAnhđã
quyết địnhviện trợthêm60 triệu USD; người đứng đầuchính phủMỹvàAnhcam
kếttiếp tụcviện trợ quân sự với số lượngkhông xác địnhcho phépẤn Độđáptrả bất
kỳmột cuộc tấn côngnào của Trung Quốc trong tương lai.Cũng trong tháng
6/1963,Tổng thống Ấn Độ,Radhakrishnanđến thăm Mỹ vànhận đượcsự trấn
anrằngẤn Độ có thểtrông cậy vào sự đồng cảmnồng nhiệt vàhỗ trợ hiệu quảcủa Mỹ,
cả hai đồng ý rằngđất nước của họchia sẻmột mối quan tâmphòng thủtương hỗđể
ngăn chặncác mưu đồ xâm lượccủa Trung Quốcchống lạitiểu lục địa [116; tr100].
Cuối cùng, mộtHiệp địnhđào tạokhông quân Mỹ-Khối thịnh vượng chungđã được
ký kếtvào tháng 8/1963và diễn tậpphòng khôngchungđã được tổ chứcở Ấn Độ
vàotháng 12/1963 [48; tr.616].
Có khoảng 200 thỏa thuận hỗ trợ kinh tế giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Ấn
Độ hoặc các công ty tư nhân Ấn Độ. Ít nhất 600 công ty và tổ chức tư nhân Mỹ
đang tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế và học thuật của Ấn Độ.
Trong năm tài chính kết thúc vào ngày 5/6/1968, tổng giá trị viện trợ kinh tế của Mỹ
cho Ấn Độ là khoảng 690 triệu USD. Tổng cộng Mỹ đã cung cấp cho Ấn Độ
khoảng 8 tỉ USD gồm cả viện trợ và cho vay, trong hai mươi năm (1947-1968)
[207; tr.122].
Bên cạnh Mỹ và Anh, các đồng minh phương Tây khác của Mỹ tiếp tục ủng
hộ Ấn Độ. Ngày 23/11/1962, Cao ủy Ấn Độ tại Canada đã chuyển thông điệp của
Ấn Độ với nôi dung chấp nhận điều kiện là các loại vũ khí chỉ dùng để chống Trung
93
Quốc. Ngày 19/3/1963,Ấn Độ công bố rằngCanadađã đồng ýcung cấp choẤn
Độhaimáy bay Dakotavà nămmáy bay vận tải.Tháng 5/1963, T.T, Krishnamachari
đại diện của Ấn Độký vớiCanadamột thỏa thuậntheo đóCanadađãcho Ấn Độvay
12.500.000 Đô la Canadađể mua16máy bay vận tảiCaribon, Canada hỗ trợ như một
món quà một nửa lãi suất chokhoản vay nàylên tới2 triệuĐô la Canada [116;
tr.101].Ngày28/12/1962, Thủ tướng Chính phủNew Zealand tuyên bố rằngNew
Zealandcho Ấn Độvay250.000 Bảngđể mualenchoquân đội[116;
tr.100].Ngày22/11/1962, Bộ trưởng Ngoại giaocủa Australia, SirGarfieldBarwick,
tuyên bốrằng đất nước ôngsẽ chuyểnmột món quà choẤn Độgồm chăn bông,quần
áoquân đội, áolentrị giá300.000 Bảngvà cũng sẽcho Ấn Độ vayvũ khí hạng nhẹvà
đạn dượctrị giákhoảng 800.000 Bảng.Ngày10/3/1963, ông tuyên bố rằngcác mặt
hàngđã hứađã đượcgửi đi đến Ấn Độ vàAustralia đãquyết định tăngmức độgiúp đỡ
lên 2triệu Bảng (trong đó 820.000 Bảng gồm súng trườngvà đạn dượcđãđược gửi
đinhư một món quàchứ không phải khoản vaynhư làkế hoạch ban đầuvàmột món
quà với 303 súng trường trị giá 205.000 BảngmàChính phủ Ấn Độđãyêu cầu[116;
tr.101].
Như vậy, sau khi chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ kết thúc, Mỹ và
đồng minh tiếp tục thể hiện sự ủng hộ Ấn Độ với các khoản viện trợ quân sự, kinh
tế ngày càng tăng. Chính những khoản viện trợ này đã giúp Ấn Độ ổn định tình
hình, tăng cường đầu tư nâng cấp quốc phòng để chống lại Trung Quốc.
4.2. Liên Xô
Liên Xô đã cố gắngđưaẤn Độ vàTrung Quốcvào bàn hội nghịđểđàm phán về
vấn đềbiên giớivà kết thúcchiến sự.Tại một cuộc mít tinhkỷ niệmBốn mươi năm
năm Cách mạng tháng Mười Nga 1917, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ
trưởngLiên Xô - Kosygincho rằngcác cuộc đàm phántrên cơ sở hòa bình sớmđược
tổ chứcgiữa Ấn Độ vàTrung Quốcsẽ là một giải pháp phù hợp. Ông nói: “một giải
phápchính xáccủa cuộc xung độtbiên giới Ấn Độ-Trung Quốc là mộtthỏa thuận
ngừng bắntrêncơ sở hợp lý” [186; tr.78].
Nhận xét về sự thay đổi thái độ của Liên Xô, Kaul – Đại sứ Ấn Độ tại Liên
94
Xô, viết: “Khi thời gian trôi đi và Ấn Độ cho thấy một tinh thần quyết tâm chống lại
sự xâm lược của Trung Quốc, Liên Xô đã rất ấn tượng. Thái độ của họ trở nên đồng
cảm hơn với Ấn Độ, cả trong tuyên bố công khai và thậm chí nhiều hơn như vậy,
trong cuộc trò chuyện riêng tư của họ”[169].
Liên Xôcũngủng hộcác nỗ lựcđiều đìnhcủa 6 quốc giatrung lập châu Ávà
châu Phitổ chức tạiSriLankavào tháng 12/1962 vàđề xuấtColombo.
Mặc dù luôn thận trọng, giữ thái độ trung lậpgiữa Trung Quốc vàẤn
Độ,Khrushchevvẫn ngầmnhấn mạnh rằngcác nhà lãnh đạoTrung Quốcphải chịu trách
nhiệm vềcuộc chiến tranhbiên giớivới Ấn Độ. Vào ngày 12/12/1962,trong một báo
cáocủa Xô viếttối cao,Khrushchev chỉ tríchcác nhà lãnh đạoTrung Quốcvề vụ tấn
côngvũ trangtrongbiên giới phía bắc Ấn Độ.Ôngchỉ tríchTrung Quốckhông hành
động để đòi lạiHồng Kông và Macao, ngược lại ôngca ngợi rằngvới việcgiải
phóngGoa, Ấn Độ đãchứng tỏ chốngchủ nghĩa đế quốchơn so Trung Quốc.
Khrushchevtrách Trung Quốcđã xâm lược vũ trang vào Ấn Độ.Ôngnói Liên
Xôđau đớnđặc biệt khimáuđãđổ giữa“người anh emTrung Quốcvàngười bạncủa
chúng ta, Ấn Độ,giữa mộtđất nước XHCN vàđất nước theo chính sách Không liên
kết”[186; tr.79]. Khrushchevhoan nghênhhành động ngừng bắn vàrút quâncủa
Trung Quốc: “Trung Quốc một mình ngừng bắn và rút quân, cố nhiên là rất tốt”[2;
tr.8]. Nhưngkèm theo sausự hoan nghênhnàylại là sự bác bỏmạnh mẽcác hành
độngcủa Trung Quốc“Làm saobạn có thểgọi đây là mộtbướchợp lýkhi nó chỉ
đượcthực hiện sau khirất nhiềumạng sốngđãbị cướp đi? Nó sẽ tốt hơn nếucácbên
đãkhôngdùng đếnchiến tranh”[186; tr.79]. Khrushchevcho rằng Trung Quốc chấp
nhận sai lầm và đang hối hận vì hành động xâm lược Ấn Độ. Ông nói“có những
ngườisẽ nói rằngTrung Quốc đang rútquânvề ranh giớimà tại đócuộc xung đột
nàynổ ra.Nó cho thấyrằng, ngườita thể hiệnsự quan tâmvàân hận vềnhững gìđã xảy
ra” [186; tr.80].
Đi xa hơn nữa, Khrushchevcònám chỉ Trung Quốcphải đưaralệnh ngừng
bắn,rút quânlà do sợ hãikhả năng can thiệpquân sự của Mỹ; bóng giórằng Trung
Quốcđã đầu hàngMỹ “đã có một sốcáo buộcrằng Trung Quốc ngừng chiến bởi vì
95
Ấn Độđãbắt đầu nhận đượcviện trợ vũ khí củađế quốc MỹvàAnh. Vì vậy,Trung
Quốcnhận ra rằngnếuxung đột vũ trangtiếp tục,nó có thểbiến thànhmột cuộc chiến
tranhquy mô lớnsẽ dẫn đếntổn thất nặng nề hơn” [186; tr.79].Khrushchevcũng đưa
ra nhận địnhcuộc chiến tranh Trung Quốc-Ấn Độ đã tiết lộ chothế giớinhận thức
thực sựvề chế độcộng sản Trung Quốc. Ông tuyên bố, “Những hành động của
Trung Quốcsẽ được những ngườiyêu chuộng hòa bình đánh giátheo giá trịthực sự
của chúng. Thật vậy,lý docuộc chiến tranh này là gì? Trung Quốcđãtừngphát động
xâm lượcẤn Độ?Và tất nhiênchúng tôi cũngbác bỏhoàn toàný nghĩ rằngẤn Độmuốn
bắt đầumột cuộc chiến tranhvới Trung Quốc”[2; tr.15].
Ấn Độhoan nghênhTuyên bố của Khrushchev, ngược lại,Trung Quốcthể
hiệnsự phản đối gay gắt. Ngày 15/12/1962, tờ Nhândân Nhật báo đã đăng bài viết
với những ngôn từ giận dữ. Những lời chỉ tríchcủa Khrushchevlàm tổn thương họrất
nhiều. Bài viết tố cáo Liên Xô đứng về phía Ấn Độ chống lại Trung Quốc, trong khi
Ấn Độ mới là kẻ gây ra cuộc xâm lược này“một số người đãchỉ tríchquan điểm
đúng của Trung Quốc vềvấn đề biên giớiTrung Quốc -Ấn Độnhư thểTrung Quốcđã
gây ramột thảm họa…Bài viết tiếp tục tố cáo lãnh đạo Liên Xô đã không phân biệt
đúng –sai,“Đối vớimột người cộng sản,yêu cầu tối thiểulà nên thực hiệnmột sự
phân biệtrõ ràng giữa kẻ thùvà đồng chí, nêntàn nhẫnđối với kẻ thùvà tử tế vớiđồng
chícủa mình.Nhưngcó những ngườiđảolộn điều này. Thỏa hiệp và nhượng bộ đối
vớiđế quốcnhưng lại coicác Đảng anh emlà kẻ thùkhông đội trời chung” [2; tr.16].
Liên Xô bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc cho rằng họ đã vi phạm chủ
nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa quốc tế vô sản và đả kích các nhà lãnh đạo Trung
Quốc vì đã chống lại chính sáchthực tế, khôn ngoan và yêu chuộng hòa bình của
Liên Xô. Đồng thời Liên Xô ca ngợi J. Nehrulà“hiểu biết sâu sắc về sự nguy hiểm
rất lớn của thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc” và nhất là việc“từ chối từ bỏ chính
sách Không liên kết”[186; tr.83].
Trong một bức thư bí mật tới các Đảng cộng sản Đông Âu, Đảng Cộng sản
Liên Xô bày tỏ sự gay gắt đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bức thư nói rằng,
Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ mà không hề thông báo trước cho Liên Xô. Liên
96
Xô sẵn sàng làm trung gian hòa giải, Ấn Độ sẵn sàng đàm phán. Ngược lại, Trung
Quốcsử dụng các cuộc đàm phán “chỉ để đạt được thời gian cho hành động gây
hấn. Sự gây hấn của Trung Quốc vô cớ chống lại Ấn Độđã đặt Liên Xô trong một
tình thế rất khó khăn”[186; tr.83]. Đồng ý Đường Mc Mahon lànhân tạonhưng
ngườiTrung Quốc biết rằng không có lý do để kích động hoạt động quân sự để đẩy
Ấn Độ vào vòng tay của tư bản, như các nhà lãnh đạo Liên Xô đã luôn luôn nhấn
mạnh trong nhiều cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Các chính sách
của Liên Xô và Ấn Độ có nhiều điểm chung.Ấn Độ đã cố gắng thực sự tìm thấy con
đường độc lập và trung lập tuyệt đối và đã có nhiều yếu tố XHCN ở Ấn Độ và đáng
khích lệ.
Như vậy, khi cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ kết thúc, Liên
Xô dưới danh nghĩa trung lập và tuyên bố mong muốn Ấn Độ và Trung Quốc đàm
phán hòa bình để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế, Liên Xô đã công
khai chỉ trích hành động xâm lược của Trung Quốc đối với Ấn Độ, ca ngợi chính
sách của Ấn Độ. Bên cạnh đó là những hợp tác toàn diện Liên Xô – Ấn Độ ngày
càng bền chặt, đó là cơ sở quan trọng để Ấn Độ đầu tư phát triển quốc phòng, tăng
cường lực lượng để chống lại Trung Quốc.
4.3. Pakistan
Sau khi Trung Quốc tuyên bố đơn phương rút quân, Pakistan vẫn nêu lập
trường của mình về tranh chấp và cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ. Trong bài
phát biểu tại Quốchội ngày 22/11/1962,Bộ trưởng Ngoại giaoPakistan,
MohammedAli, đã đổ lỗi cho Ấn Độ gây ra tình trạng xung đột trên biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ, ông nói “cuộc xung độtnày xuất pháttừchính sách ngoại giaokhông
thực tếvàgiả dốicủa Ấn Độ. Nếu Ấn Độthành thật vớichính sách dựatrêncác nguyên
tắchòa bìnhvàquan hệ láng giềngtốt đẹp mànhàlãnh đạocủa họđãtuyên bố vớicả thế
giớitrong những năm qua thìcuộc xung độthiện nay đãcó thểđược ngăn chặn”[112;
tr.29]. MohammedAli cũng ám chỉ việc các nước phương Tây đã ồ ạt viện trợ vũ
khí cho Ấn Độ mà không hề thảo luận với họ. MohammedAli cho rằng việc viện trợ
như vậy chỉ làm cho Ấn Độ đẩy cuộc chiến tranh lên cao hơn và điều này trái với
97
nguyên tắc của Liên Hợp Quốc“Các nước bạn bèvàđồng minh khácvũ trang tận
răng cho Ấn Độđể kích độngẤn Độtham gia vào mộtcuộc xung đột lớn. Điều
nàylàtrái vớicác nguyên tắc vàmục đíchcủa Hiến chương Liên Hợp Quốcmàkhông
chỉPakistanmà tất cả nhữngquốc giayêu chuộng hòa bìnhphảituân thủ...” [112;
tr.30]. Ông cũng nhấn mạnh chiến tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc chỉ là tranh
chấp ở biên giới chứ không phải sự xung đột về hệ tư tưởng.Tiếp theo,
MohammedAli đánh giá cao hành động rút quân đội của Trung Quốc “Trung
Quốcđãtái khẳng địnhsự sẵn sàng rútlui 12 kmvề phía sauđường kiểm soátthực tếđã
tồn tạivào07/11/1959. Đólàmột hành độngcủangười có địa vịrất cao.Đây là bằng
chứngmong muốnchân thành của họđể hạn chếxung đột,giải quyếttranh chấp biên
giới” [112; tr.30]. MohammedAli cũng “phản đốichính phủMỹ khihọcông bốcông
nhận đối với Đường Mc Mahon”.Ông cho rằng Ấn Độ đang lừa gạt cả thế giới để
được ủng hộ, “Ấn Độđang việc bé xé ra to vàgây náo loạnđểlừa gạtcác cường
quốcAnh, Mỹnhằm nhận được cácthiết bị quân sự” [112; tr.31]. Đồng thời,
MohammedAli bày tỏ sự lo âu với việc Ấn Độ duy trì một lực lượng quân sự mạnh
có thể lúc nào đó sử dụng để chiếm lấy Kashmir,“chúng tacó lý do đểlo âuvề việc
các lực lượng quân sựẤn Độ đang được xây dựng nhanh chóng… Bất cứ lúc
nàolãnh đạoẤn Độ cũng có thểsử dụngsức mạnhđang tăng lên từng ngàycủa mình
đểchiếm lấyAzadKashmirhoặcmột số phần lãnh thổ kháccủa chúng ta” [112; tr.31].
Trước sức ép của Mỹ và phương Tây, Pakistan không lợi dụng cuộc chiến
tranh Trung Quốc - Ấn Độ để tấn công Ấn Độ nhưng cũng đã tận dụng cuộc chiến
tranh này để giải quyết một phần tranh chấp Kashmir với Ấn Độ. Trong khi Trung
Quốc và Ấn Độ vẫn tranh cãi mạnh mẽ về các đề xuất tại Hội nghị Colombo, Trung
Quốc và Pakistan đã tiến hành đàm phán phân định biên giới giữa hai nước một
cách rất tích cực. Bắt đầu từ ngày 12/12/1962, đại diện Chính phủ hai nước đã gặp
nhau thảo luận tại Bắc Kinh. Ngày 28/12/1962, Trung Quốc và Pakistan ra Thông
cáo chung, thông báo việc hai nước đã đạt được mộtthỏa thuậntrên nguyên tắcvề địa
điểm vàliên kết của ranh giớithực tếhiện tạigiữahai nước, đồng thời thể hiện sự vui
mừng vì nhanh chóng đạt được thỏa thuận này, “…Haibên đềurất hài lòng vớiviệc
98
đạt đượcnhanh chóngthỏa thuậntrên nguyên tắcvềvấn đề biên giớido lịch sử để
lạivà hai bên cùngđồng ý rằnghiệp địnhranh giớidự kiếngiữahai nước cầnđượcký
kếtcàng sớm càng tốt. Hiệp địnhbiên giới là biện pháp bảo vệđầy đủ các quyềnvà
lợi ích củacả hai quốc gia, chứng minhhiệu quả đàm phánlàmộtphương pháp hòa
bìnhđể giải quyếtcác tranh chấpquốc tếtrêncơ sở thiện chívà tôn trọnglẫn nhau”
[112; tr.32].
Trong khi giữa Ấn Độ và Pakistan còn đang tranh chấp về vấn đề Kashmir,
ngày 2/3/1963, Trung QuốcvàPakistan đã kí Hiệp định biên giới giữa hai nước với
7điều khoản. Theo đó, hai bên đồng ý phân chia ranh giới giữa Tân Cương của
Trung Quốc với các vùng đất thuộc Kashmir mà Ấn Độ và Pakistan còn đang tranh
chấp và nhường hơn 5.000 km2cho Trung Quốc[112; tr.36].
Ngày 3/3/1963, phát biểu của Chen Yi tại bữa tiệc mừng hai nước kí Hiệp
định biên giới đã tỏ rõ sự vui mừng và nêu cao tình hữu nghị của hai nước. “Việc ký
kết Hiệp định này cấu thành một cột mốc quan trọng của tình hữu nghị Trung Quốc
–Pakistan… Quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Pakistan đã được phát triển
đều đặn kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước chúng ta, đặc biệt
trong vài năm qua. Đây là kết quả của sự nỗ lực chung của Chính phủ hai nước
chúng ta. Đặc biệt là Tổng thốngPakistanbất chấp áp lực bên ngoài, đã chọn việc
khôi phục ghế hợp pháp của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc và bây giờký với Trung
Quốc Hiệp định biên giới” [112; tr.38].
Ngay khi cuộc chiến kết thúc, Pakistan, với sự hỗ trợ ngầm của Anh, đã yêu
cầu Ấn Độ kiểm soát chung trên thung lũng Kashmir. Dường như Ấn Độ đã chuẩn
bị thừa nhận một số vùng đất ở Kashmirnhưng Pakistan cho rằng không chỉ là thung
lũngmà còn các huyện Doda-Kishtwar để kiểm soát nguồn nước của các dòng sông
lớn [155].
Như vậy, ngay từ đầu quan điểm của Pakistan đã đứng về phía Trung Quốc
và lên án Ấn Độ. Tuy nhiên, do sức ép từ Mỹ và Anh, Pakistan không có hành động
99
gây hấn trên biên giới với Ấn Độ. Nhưng, lợi dụng tình trạng khó khăn của Ấn Độ,
Pakistan đã cùng với Trung Quốc đàm phán phân chia biên giới quốc gia, trong đó
có việc chia vùng Kashmir mà Ấn Độ và Pakistan còn đang tranh chấp. Kể từ đó,
một phần lãnh thổ Kashmir mà Ấn Độ tuyên bố chủ quyền đã bị Pakistan thừa nhận
thuộc về Trung Quốc. Quan hệ hợp tác Trung Quốc – Pakistan ngày càng toàn diện
từ sau cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962.
4.4. Sri Lanka
Cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ đặt ra một thách thức rất lớn đối với Sri
Lanka - một quốc gia vừa là thành viên của Phong trào Không liên kết, vừa là láng
giềng của Ấn Độ và có mối quan hệ thân thiện với cả hai nước Ấn Độ và Trung Quốc
nói riêng. Sri Lanka, dưới sự lãnh đạo của bà Bandaranaike, là thành viên Không
liên kết tích cực nhất, kiên trì nhất trong việc kêu gọi và tham gia trong suốt quá
trình hòa giải giữa Ấn Độ và Trung Quốc.
Phản ứngban đầu của Sri Lankakhi cuộc chiến tranh mới nổ ra là khá
nghiêng về ủng hộẤn Độ, đáp lạithưcủa J. Nehru, bà SirimevoBandaranaikeđã thể
hiện sự cảm thông: “Tôi cho rằng những hậu quảnghiêm trọng có thểxảy ra
khôngchỉ đơn thuầnvớiẤn Độ mà cònvới phần còn lạicủa thế giới. Tôiđánh giá rất
caoviệcẤn Độ khônglàmbất cứ điều gìđểlàm phương hại đếntính toàn vẹnlãnh
thổhoặc lòng tự trọngcủa mình, chấp nhận tham gia cuộc đàm phándướiáp lựccủa
vũ lực”[213; tr.4916].Tuy nhiên, ngay sau đó,Chính phủcủa bà Bandaranaiketrở
lạilập trường trung lập. Quan điểm trung lập và nỗ lực hòa giải của bà Bandaranaike
được thể hiện rõ nhất trong việc kêu gọi tổ chức một hội nghị hòa giải với sự tham
gia của các nước trung lập Á, Phi và toàn bộ quá trình diễn ra hội nghị hòa giải
trong suốt từ cuối năm 1962 đến 1964.
Sự kiên trì và cố gắng phi thường của bà Bandaranaike từ khâu vận động tổ
chức hội nghị hòa giải của 6 nước trung lập Á, Phi, sẵn sàng sắp xếp nơi tổ chức tại
thủ đô của nước mình cho đến các hoạt động thăm viếng Ấn Độ và Trung Quốc để
vận động lãnh đạo hai nước này nhượng bộ và đến tham gia Hội nghị. Đặc biệt, vai
trò của bà Bandaranaike được thể hiện rõ hơn mỗi khi Hội nghị hòa giải Colombo
100
bế tắc do quan điểm đối lập giữa Trung Quốc và Ấn Độ hay những bất đồng giữa
chính các nước tham gia.Trước hết, quan điểm và vai trò của bà Bandaranaike được
thể hiện trong việc đề nghị tổ chức một hội nghị 6 nước tại thủ đô Colombo của Sri
Lanka. Trong khi hầu hết các nước Không liên kết Á, Phi tìm cách lảng tránh, bà
Bandaranaike lại rất tích cực kêu gọi hai bên giải quyết tranh chấp bằng đàm phán
hòa bình. Đây là một việc làm thể hiện ước muốn “hai hàng xóm khổng lồ” của
mình giảm bớt căng thẳng.Thứ hai, trongbức thưgửi tớinăm quốc giatrung lập vào
ngày21/11/1962, bà Bandaranaikechỉ rasự cần thiếtcủa việc đảm bảonhómchứ
không phải làhành động cá nhânđể xoa dịucuộc khủng hoảng.Bà lưu ý rằng: “Một
sốthủ tướngcủa các quốc giaKhông liên kếtđã thực hiệnphương pháp tiếp cậntương
tự, nhưngphương pháp tiếp cậncá nhânđãkhông đạtnhiều thành công.Tình hình
ngày càng xấu đi có thểdẫn đếnsự bùng nổ chiến tranh vàtấn công vàogốc rễ
củaKhông liên kết. Do đó, vấn đề vô cùngkhẩn cấp là thủ tướng cácnướcKhông liên
kếtcầngặp gỡ, hỗ trợ, tham khảo ý kiến của nhauvà quyết địnhmộtcách tiếp cận
chungngay lập tứccho Ấn Độvà Trung Quốc”[220; tr.433].
Ngay việc lựa chọn và mời các nước tham dự hội nghị hòa giải chiến tranh
Trung Quốc – Ấn Độ cũng là một việc khó khăn với bà Bandaranaike. Với quan
điểm trung lập rõ ràng, lựa chọn khách quan, bà Bandaranaike đã thành công trong
việc thuyết phục các bên đồng ý danh sách các nước tham gia hòa giải gồm 6 quốc
gia là Ai Cập, Indonesia, Ghana, Campuchia, Miến Điện và SriLanka tham gia Hội
nghị Colombo.
Các nước tham gia hội nghị thống nhất quan điểm trung lập và không phán
xét bên nào đúng, bên nào sai. Tuy vậy, khi Hội nghị bắt đầu cũng là lúc xuất hiện
những chia rẽ, thậm chí bế tắc do những đề xuất của các nước có khi lệch về bên
này hoặc bên kia. Tạiphiên họp đầu tiên vào tối ngày 10/12/1962, Ai cập có quan
điểm ủng hộ Ấn Độ, Miến Điện và Campuchia ủng hộ Trung Quốc dẫn tới bế tắc.
Sự bế tắc nàycuối cùngđã được giải tỏabởiSriLanka, IndonesiavàGhana,vào ngày
cuối cùngcủa Hội nghị. Theoquyết định củaHội nghị, bà Bandaranaike được ủy
quyền truyền đạt đầy đủ đến hai bên tranh chấp. Tháng 1/1963, phái đoàn của bà
101
Bandaranaike đã lần lượt đến Bắc Kinh và New Delhi để truyền tải nội dung đề
xuất.Phản ứng ban đầucủacả Bắc Kinh vàNewDelhithực sựtích cực. Trong chuyến
thăm đến Bắc Kinh (từ ngày 1 đến ngày 4/1/1962),Bandaranaikenhận được sự tiếp
đón nồng hậu và sự đánh giá cao của Trung Quốc.Tương tự như
vậy,tạiNewDelhi,Bandaranaikelàm rõnhững đề xuấtđem đến sự hài lòngcủa Ấn
Độvàgợi ramột sự chấp nhậnchính thứccủa J.Nehrungay cả trước khivấn đề
nàyđược trình lênQuốc hội Ấn Độ. Đâylà một khởi đầutốtvà sau sự lưu lại tạm
thờiở Bắc Kinh vàNewDelhi, bàBandaranaikechia sẻsự lạc quancủa mình vớichính
kháchtrung lậpkháckhi bàkhẳng định rằng “Những đề xuất này chứng tỏ mộtcơ
sởchấp nhận được chocác cuộc đàm phántrực tiếpkhi cả Ấn Độvà Trung Quốc
đãphản ứng tích cựcvới chúng”[53; tr.2-3].
Tuy nhiên, sáng kiến này của hòa giải Colombo sớmbịsa lầy.Quan điểm của
Ấn Độ và Trung Quốc là khác xa và khó có thể dung hòa. Dư luận ở Ấn Độ yêu cầu
Sri Lanka phải đứng về phía mình lên án Trung Quốc xâm lược Ấn Độ. Trong khi
đó, dư luận cũng như chính phủ Trung Quốc cho rằng điểm 3 và 4 trong đề xuất 6
điểm của Hội nghị Colombo cần phải làm rõ. Thủ tướngSriLanka cũng bác bỏ cáo
buộcrằnglập trường của bà chống lạiẤn Độ: “Cónhiều người ởđất nước này vàở
nước ngoàicáo buộcrằngchúng tôi khôngtrung lập bởi vìchúng tôi đãmắc nợmột
bên vìnguồn cung cấpgạo... Nếu chúng tôithực hiệnhai mặtchúng tôi khôngthể
đóngvai tròtrung gian”[217].Vào ngày 23/1/1964, tại Thượng việnSri Lankabàphàn
nànrằng “báo chícủa Ấn Độtiến hànhtuyên truyền giả dốivàcố tình làm hại bà, cáo
buộc bàđangđi theo conđườngcủaBắc Kinh, trong khi Trung Quốcđã đặt câu hỏi
vềphạm vi thực sự của Hội nghị Colombovàcáo buộc rằngcác chi tiếttrao cho họđã
được soạn thảotạiNewDelhi”[173; tr.162-163]. Mặc dù các cáo buộc, chỉ trích của
các giới từ cả hai phía Trung Quốc và Ấn Độ, thái độcủa Sri Lankavớicuộc chiến
tranh Trung Quốc - Ấn Độ luôn trung lập.
Không nản lòng trước những khó khăn mà Hội nghị Colombo gặp
phải,bàBandaranaikethực hiệnmộtcách tiếp cận mớitrong chuyến thămcủaChu Ân
LaiđếnSriLankavào tháng 2/1964.Bàđãthuyết phụcChu Ân Laixem xét thu hồi7đồn
102
tạikhu vựcLadakhđểchuẩn bị nền tảngchođối thoạiẤn Độ-Trung Quốc trong khuôn
khổĐề xuất Colombo. Chu Ân Lai đồng ý rằng Trung Quốcsẵn sànglàm như
vậykhiôngđề cậptrong điều kiệnkhátích cựcnỗ lực hòa giảicủa các nước tham
dựColombo.BàBandaranaike tiếp tục tiếp cậnJ.Nehruvà nhận được phản ứng tích
cực.Tuyên bố tạiHạ Nghị việnvàongày 12/4/1964,J. Nehrucho rằngsẽ xem xétmột
thỏa thuận mà theo đóhai bên không duy trì bất kỳđồn nào trongkhu vực20
kmvềphía Trung Quốc của đường kiểm soátthực tế.
Từ những quan điểm và hành động của Thủ tướng Bandaranaike cho thấy,
Sri Lanka đã luôn giữ quan điểm trung lập rõ ràng. Khác với sự trung lập của nhiều
nước khác, Sri Lanka là nước tích cực, kiên trì và có nhiều đóng góp nhất cho hoạt
động hòa giải giữa Trung Quốc và Ấn Độ thông qua việc vận động và tổ chức hội
nghị hòa giải tại thủ đô Colombo của Sri Lanka.
Sở dĩ Sri Lanka có quan điểm trung lập và rất tích cực làm cầu nối hòa giải
quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ là phục vụ lợi ích dân tộc của họ. Sri Lanka
ngay sát Ấn Độđồng thời có mối quan hệ tốt với cả Trung Quốc và Ấn Độ.Việc duy
trì quan điểm trung lập và tích cực làm cầu nối hòa giải sẽ gây được thiện cảm với
cả Trung Quốc và Ấn Độ, điều đó rất có lợi cho lợi ích quốc gia cũng như nâng cao
vai trò của Sri Lanka trong khu vực và Phong trào Không liên kết.
4.5. Hội nghị hòa giải Colombo của các nước Không liên kết
Tuy phản ứng của riêng từng nước Không liên kết là rất khác nhau nhưng vai
trò của các nước Không liên kết với việc hòa giải tranh chấp biên giới giữa Trung
Quốc và Ấn Độ thông qua hội nghị 6 tại Colombo, thủ đô Sri Lanka vào tháng
12/1962 là rất quan trọng.
Các quốc gia Không liên kếtđã nỗ lực tổ chức mộthội nghị6quốc giatrung lập
ởColombovào tháng 12/1962gồmAi Cập, Indonesia, Ghana, Campuchia, Miến Điện
và SriLanka.Trung Quốc hưởng ứng với đề xuất tổ chức Hội nghị hòa giải tại
Colombo. Chu Ân Laicũng cảnh báocác cường quốc,khôngđể Hội nghị Colombo bị
lừabởituyên truyềncủa Ấn Độliên quan đếnsự xâm lượccủa Trung Quốc. Phản
ứngban đầucủa Ấn Độlàkháthờ ơ và chỉvào phút cuối cùngmớiquyết định
103
gửimộtphái đoàn ngoại giaođếnColombođể được tư vấn. Ấn Độ khônghy vọng
sẽthu được nhiều từ chương trình nghị sựnàycủaHội nghị, nơi mà đa sốngười tham
gialà những ngườiđã thể hiện khuynh hướng thiên vềlập trườngcủa Trung Quốc.J.
Nehruđã bày tỏrất rõ ràng rằngnếu Trung Quốc khôngra khỏi lãnh thổ Ấn Độbằng
cáchrút lui vềvị trítrướcngày 8/9/1962 thìkhông cócuộc đàm phán.
Hội nghị có sự tham dựcủaHoàng thân
NorodomSihanoukcủaCampuchiavàTướng NeWincủaMiến Điện, Thủ
tướngBandaranalie của Sri Lanka, Thủ tướngAliSaJory của Ai Cập, Bộ trưởng
Ngoại giaoR.Subandrio của Indonesia là vàBộ trưởngTư phápKKOforiAtta của
Ghana.Phu nhân của Chu Ân Laidẫn đầu phái đoànTrung Quốc, LaxmiMenon,
Công sứlễ tântrongBộ Ngoại giao, cùng vớiS.Gopal, Giám đốc bộ phậnlịch
sửcủaBộ Ngoại giaođại diện đoàn Ấn Độ.
Hội nghị Colombo đã được tổ chứctrong bối cảnhcả Trung Quốc vàẤn
Độtiến hành ngoại giaokhẩn trương, căng thẳngđểgiành giành được sự ủng hộ
củacác nướcÁ-Phivớilập trường của mình. J. Nehrubị mắc kẹtvới yêu cầurút các lực
lượngđếnbiên giới thời điểm ngày 8/9/1962, Trung Quốc nhấn mạnh vị tríngày
7/11/1959 làđường kiểm soátthực tế.Trong khi Ấn Độđang cố gắngvận độngdư luận
chống lạisự xâm lượcbởisự mở rộngchủ nghĩa đế quốc của Trung Quốc, Trung
Quốc đã tạo dựngmột hình ảnh củamột nước yêu chuộng hòa bình,đang cố
gắngthương lượng vớimột người hàng xómngoan cố.
Hội nghịkhai mạc vàongày 10/12/1962, những người tham giaquyết tâm
khôngcho phép vận độngtuyên truyềnchống lạibất kỳ bên tranh chấp nào. Có mộtsự
nhất trítức thờigiữa họlà khôngphán xétcáctranh chấpvà hành độngriêng biệt
làmmộtbên thứ bathân thiện.Thiết lậptinh thần chungcủa Hội nghị, trong bài phát
biểukhai mạc, bàBandaranaikemiêu tảHội nghị như là một“cuộc tranh cãi trong gia
đình” [216; tr.7].BàBandaranaikecũng nhấn mạnhphạm vihạn chếcủa Hội
nghịkhibà phát biểu: Hội nghịcủa chúng tatất nhiênsẽ không cung cấpmộtgiải
phápmột sớm một chiềucho một vấn đềmàsẽđòi hỏi nhiềucuộc đàm phánkhó khăn
vàvất vảtrước khi nóđượcgiải quyết cuối cùng. Đây không phảilà ý địnhcủa chúng
104
tavàchúng ta không cóquyền xét xửvề các tranh chấpcủa người khác”[216;
tr.7].Thủ tướng Ai Cập,AliSabrygọivai trò củanhững người tham gia“là những
người bạn trong việc tạo rabầu không khíthích hợp choẤn Độvà Trung Quốcgặp
gỡ”[40; tr.4080]. OforiAttacủaGhanacũnglặp lạiquan điểm chunglàkhôngđưa rabất
kỳ phán quyếtnào vềđúng vàsai củacác bên. Để ngừng bắncó hiệu quả hơn, ông đề
nghị“thành lập mộtkhu vựccùng rút quângiữa hai lực lượngcóthể chấp nhận được,
khu vực nàycầnđượctrung hòa vàduy trì,nếucần thiếtchỉcócảnh sátkhông vũ
trangtrên cả haibên cho đến khihoàn thành phân giới cắm mốccuối cùng” [40;
tr.4079].
Ngược lại vớisựtích cực xây dựngđề xuấtcó thể đưa Ấn Độvà Trung Quốcđến
bàn đàm pháncủaSriLanka, GhanavàAi Cập, ba nước Indonesia, Miến Điện
vàCampuchiabi quan hơnvềvai trònhư làcác nhà hoạch địnhhòa bình của họ. Đại
biểuIndonesia,Subandriocho rằng“một vấn đềđối mặt...nếuchúng ta khôngthể tìm thấy
mộtgiải pháp phải thông quahội nghịnày...Sau này, chúng tasẽcó thểphán xétmà
không cần chạmvàobản chất củacuộc xung độtai làkẻ xâm lược”[216; tr.16].Hoàng
thân Sihanoukcủa Campuchia cũng bày tỏ hoài nghivề khả năngcủa Hội nghịcó thể
cung cấp mộtgiải pháp sẽ được cả hai bên chấp nhận. Ông nói, “Chúng ta không thể
che giấusự bi quancủa chúng taliên quan đếnviệc tiếp nhậncủaẤn Độ vàTrung
Quốc”[40; tr4980].Tướng NeWincủaMiến Điệncho rằng“Chúng ta, bênthứ ba,nếu
làmtheo hướng đó córất íthoặc không có kết quả”[216; tr.10]. Ông nhấn mạnhvề vai
trò củangười tham gialà“trung lập,thân thiện vàvô tư”vàcảnh báohọtránhphê phánai
đúng, aisai “nếu chúng ta không thể hiệnlập trườngcủa chúng ta là trung lập,thân
thiện vàvô tư.Chúng tađang tìm cáchhòa giải,khôngphân xửvàhai chức năng
nàykhông đi cùng nhau” [132; tr.123].
Như thế, những người tham giaHội nghị Colomboý thức rõ vềvai trò hạn
chếcủa họ làtrung gianvàhoàn toànbiết rằngđề xuấthòa bìnhcủa họsẽkhông được
chấp nhậntrừ khi họthể hiệntrung lậpvà công bằng rõ ràng.Tất cảhọđều từ chốiphán
xétvề đúng, sai củatranh chấpvàkhông có ý địnhhành động như mộtphát ngôn
viêncủamột trong haibên tranh chấp. Tuy nhiên, khicác cuộc thảo luận diễn ra, ý
105
kiến khác nhaugiữa các thành viênbắt đầu bộc lộ.
Khiphiênđầu tiên được mởvào tối10/12, Ai Cậpđề xuấtmột khu phi quân
sựtrênkhu vựcphía tâybiên giớivới nguyên tắc“không có lợi íchlãnh thổ thông
quahoạt độngquân sự”vànhư thế có biểu hiệncho thấysự ủng hộẤn Độ. Đề xuất
nàyđã gặpphải sự phản đốimạnh mẽ từMiến Điệnkhi cho rằng nó không thực tế
vàTrung Quốcđãbác bỏ. Lần lượt,Ai Cậpphản đốiđề nghịủng hộ Trung Quốcdo
Miến Điện vàCampuchiađưa raxác nhậncác điều khoảncủathỏa thuận ngừng bắncủa
Trung Quốcchứa trongcông thứcbađiểmcủa Chu Ân Lai.Sabrykhẳng định“Hội nghị
phảitự dođể làm chođề nghịngay từ đầukhông phụ thuộc vàolậptrường mà hai
bênđãđưa ra trước đó”[115; tr340].Quan điểmtrái ngượcnhaucủaAi Cậpvà Miến
Điệnkhiến nhiềungười nhận xét rằngPhong trào Không liên kếtđang bịliên kếtđối
vớiẤn Độvà Trung Quốc,Ai Cậpđang ủng hộẤn Độ, Miến Điện vàCampuchiaủng
hộTrung Quốc.
Hội nghịtiếp tụcbế tắc vào ngày thứ hai,nhất làliên quan đếnđề xuấtcủaAi
Cậptạo ramộtkhu phi quân sựởLadakhcó ranh giớiphía bắc vàphía đông của nótrên
ranh giới ngày 8/9, nơi Trung Quốc bắt đầu thực hiện cuộc xâm lược. Chống lại đề
xuất này, Miến Điệnủng hộđiều kiệnngừng bắncủa Trung Quốc rằngranh giới phía
đông bắc của khu phi quân sự. Sự bế tắc cuối cùngđã được giải tỏavào ngày cuối
cùngcủa Hội nghị khiSriLanka, IndonesiavàGhana,cùng nhauđưa ra mộtcông
thứcmà nội dungđược Ai Cậpđề xuất nhưngđược định nghĩatheo cáchphù hợpvới
quan điểmcủa Miến Điện. Từ đó, mộtbộ cácnguyên tắcthống nhấtmà sau đóđược
biết đến làĐề xuấtsáu điểm Colombo.
Sáuđiểmcủa Đề xuất Colombolà:
1. Hội nghịcho rằng sựtồn tạitrên thực tếgiai đoạnngừng bắn là điểm khởi
đầutốt cho mộtgiải pháp hòa bìnhcuộc xung độtTrung Quốc-Ấn Độ.
2. (a) đối với phầnphía tây biên giới, Hội nghị yêu cầu thực hiệnlời kêu
gọiChính phủTrung Quốcthực hiệnrútđồn bốt quân sựcủa họ20 kmnhưđã được đề
nghịtrong bức thưcủa Thủ tướngChu ÂnLaigửi đến Thủ tướng J. Nehrucủangày
21/11vàngày 28/11/1962.
(b)Hội nghịsẽ làm mộtkiến nghị lênChính phủ Ấn Độđề nghị Ấn Độ giữ vị
tríquân sựhiện có của họ.
106
(c) Trong khi chờ một giải phápcuối cùng củatranh chấp biên giới, khu
vựcbỏ trống củaviệc rútquân đội Trung Quốcsẽ là mộtkhu phi quân sựđược quản lý
bởiđồn dân sựcủa cả hai bênđượcthoả thuận, không ảnh hưởng đếnquyền lợi củasự
hiện diệncủa cả Ấn Độ vàTrung Quốctrong khu vực đó.
3. Đối vớiphầnphía đông biên giới, Hội nghị cho rằngđường kiểm soátthực
tếtại các khu vựcđược công nhận bởicảhai chính phủcó thể xemnhư là một
đườngngừng bắnvào các vị trítương ứngcủa họ,khu vực còn lạitrong khu vực nàycó
thểđược giải quyếttrongcác cuộc thảo luậntương lai.
4. Đối vớicác vấn đề củaKhu vực Trung tâm biên giới, Hội nghị cho rằng
chúngsẽđược giải quyết bằngbiện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực.
5.Hội nghịtinrằng những đề nghịcó thể giúp củng cốlệnh ngừng bắn, thực
hiện đầy đủ sẽmở đường chocác cuộc thảo luậngiữa các đại diệncủa cả hai
bênnhằm mục đíchgiải quyếtcác vấn đềnảy sinhở vị tríngừng bắn.
6.Hội nghịmongmuốn rằngmộtphản ứng tích cựcđối vớiđề xuất sẽkhông ảnh
hưởng đếnvị thếcủa một tronghai chính phủliên quan đếnranh giới cuối cùng” [54;
tr1-2].
Đề xuất Sáu điểm nàynhằmcủng cốngừng bắncho đến khicác cuộc đàm
phántrực tiếp có thểđượcsắp xếpgiữa haibên vàđưa ramột gợi ýliên quan đếnviệc bố
trí quân độicho đến khiđi đến giải pháp cuối cùngvề tranh chấpbiên giới.Theoyêu
cầu củaHội nghị, Đề xuấtColombođượcgiữ kíncho đến khi được bàBandaranaike
truyền đạtđầy đủ đến cả haibên tranh chấp với sự hỗ trợ tích cực của các chính
kháchcòn lạitrừTướng NeWin.Subandriohỗ trợbà Bandaranaike tạiBắc Kinh
trongchuyến thăm từ 31/12/1962 đến 7/1/1963.OforiAttavàAliSabryđi cùng bàđến
NewDelhitừ 10 đến 17/1/1963. Như vậy, sự khởiđầu hòa giảiColombođược đánh
dấu bằngmộtsự phối hợp tốtvàcường độ cao,hoạt động nhómcủanhững người tham
gia.
Phản ứng ban đầucủacả Bắc Kinh vàNewDelhithực sựtích cực. Trong chuyến
thăm đến Bắc Kinh,bàBandaranaikeđạt đượcthành công với sự chấp nhậncủa Trung
107
Quốc về các nguyên tắc. Tương tự như vậy,tạiNewDelhi,bàlàm rõnhững đề
xuấtđem đến sự hài lòngcủa Ấn Độvàgợi ramột sự chấp nhậnchính thứccủaJ. Nehru.
Đâylà một khởi đầutốt, bàBandaranaikechia sẻsự lạc quancủa mình“những đề xuất
này cuối cùng sẽchứng minh mộtcơ sởchấp nhận được chocác cuộc đàm phántrực
tiếpkhi cả Ấn Độvà Trung Quốc đãphản ứng tích cựcvới chúng”[53; tr.2-3].
Tuy nhiên,Đề xuất này sớmbịrơi vào tranh luận và bế tắcdo Trung Quốc
không chấp nhận các giải thíchđược đưa ra tạiNew Delhi ngày 13/1/1963.ChuÂn
Laimiêu tả chúnglàxa lạ vớicác đề xuấtban đầuđược trình bàyởColombovàcáo
buộcchúngbị Ấn Độthao túng.
Tuy nhiên, trongmộtthông cáo báo chí,ông Subandrio bác bỏ cáo buộcnày
vàkhẳng địnhrằngchúng là mộtphầnkhông thể tách rờicủaĐề xuất Colombovàcùng
một bộcác giải thíchcũngđã được trao choChính phủ Trung Quốc. SriLankacũngbác
bỏ cáo buộcnày. FelixR.Dias, ngườitừng tháp tùngbàBandaranaikeđến Bắc
KinhvàNewDelhi, đã nói vớiHạ việnvàongày 5/4/1963“không cóbất kỳsự khác biệt
tronglời giải thíchcủaĐề xuất Colombo đã được đưa đếnThủ tướng Chính phủ
cảhai nước”[55; tr.1].
Mặc dù J. Nehru tán thành, dư luận ở Ấn Độ phản đối các đề xuất của Hội
nghị Colombo, hầu hết các đảng phái (trừ Đảng Cộng sản) phản đối cả ở trong và
ngoài Quốc hội. Trong khiBharatiyaJanaSanghcho rằng “Hội nghị Colombo đã
hoàn toànkhông đề cập vấn đềTrung Quốc là kẻ xâm lược”.SwatantravàPraja của
Đảng Xã hộikhẳng định“cái gọi làcác nướcKhông liên kếtkhông phải thực sựKhông
liên kết”[132; tr.136]. Báo chícũng phản ứngmạnh mẽ chống lại Đề
xuấtColombo.Chỉ cómộtít nhìn thấy chúngđúng đắn, tờ Economic weekly: “Mục
tiêucủa Hội nghị Colombokhông phải làđưa rabản án đúng sai trongcuộc xung đột
Trung Quốc-Ấn Độ, mà nótạođiều kiệnkhả thichoẤn Độvà Trung Quốcbắt đầu đàm
phánđểgiải quyếtcácvấn đềbiên giới”.Tờ Eastern Economist tại New Delhingày
14/12/1962viết “lập trườngcứng nhắccủachúng ta (Ấn Độ) trong khi kẻ thù xâm
lượctạo ramột chương trìnhlinh hoạt có thểhạchúng ta trongmột sai lầmngoại
giao”[132; tr.136]. Dư luận không tin tưởng vào sự tính toán của Chính phủ,"Nếu
108
thời gian cần thiếtchocác cuộc đàm phánđượcsử dụng để chuẩn bị chomục
đíchchiến tranh sẽ đạt được tất cả mọi thứ” [132; tr.136].
Trung Quốc cũngkhôngchấp nhậnnhững đề xuấtnày, đặc biệt làsau khi Ấn
Độcó đượcgiải thíchtốt vềmột sốkhía cạnhquan trọng của chúng. Nếu chấp nhậncác
điều kiệnnày, cáclợi thếmàTrung Quốc đãđạt được sausự xâm nhậpvàoẤn Độsẽvô
hiệu hóa. Trung Quốc sẽ mất mặttrước các nướcÁ-Phivà giảmuy tín trong việc vận
động đểlãnh đạotrong khu vựcnày.Trung Quốc muốn đàm phán trực tiếp mà không
phải có điều kiện trước. J. Nehrudứt khoátbác bỏ đề nghịcủa Trung Quốcvềcác cuộc
đàm pháncó điều kiệnnhư vậyvà khẳng địnhthực hiệntrước tất cả cácnội dungcủa
Đề xuấtColombo. Quan điểm của Ấn Độ và Trung Quốc là khác xa và khó có thể
dung hòa. Trung Quốctiếp tụctranh luận, “Nhiệm vụcủaHội nghị Colombolàm trung
gianvàkhôngphân xử. Những đề nghị nàychỉkhuyến cáo vàkhông phải là mộtbản
ánmàTrung Quốc phảichấp nhận”[112; tr.257]. Ấn Độ vận động các nước tham gia
Hội nghị Colombo ủng hộ các quan điểm của họ, theo Ấn Độ phải có bên thắng,
bên thua.
Các đề nghị sửa đổi của cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đã bị Sri Lanka phản
đối. Tương tựOforiAttacủaGhanatuyên bố vào23/1/1963, tại Hong kongrằng,
“không cầnTrung Quốcvà Ấn Độđồng ý vớitất cả Đề xuất Colombotrước khi
vàobàn hội nghị”[55; tr.5]. Cùng quan điểmnày, Hoàng thânSihanoukđã nóitại
PhnomPenhrằng“các vấn đềkỹ thuậtliên quan đếntranh chấp biên giớilàđể Trung
Quốc vàẤn Độgiải quyếtvàrằng nếuHội nghịcan thiệpnóchỉlàm trầm trọng
thêmcuộc khủng hoảng”[40; tr.5053].Indonesia cũng quyết định không nhấn mạnh
vàoviệc Trung Quốcchấp nhậnđề nghị.
Mặc dùgặp nhiều trở ngạinày, sáu nướctham dự Hội nghị Colombovẫn kiên
trìvới những nỗ lựchòa giảicủa họ trong những năm1963-1964.
Bandaranaike,Nasser, SihanoukvàNkrumahvừa thực hiệnnhững nỗ lựccá nhân
vừatheo nhóm để làm sống lạiĐề xuấtColombo.
Trong chuyến thămđến Bắc KinhvàNewDelhivào tháng 1,tháng
2/1963,SihanoukvàOforiAttađóng vai trò nhưcác điều phối viênkỳ vọng
giữahaibên.Sihanouktruyền đạtđến NewDelhisau chuyến thămcủa ôngđến Bắc Kinh
109
là Trung Quốcsẵn sàngđàm phánbiên giớitạikhu vực phía đôngnếu Ấn Độkhông
phản đốiviệc thành lậpđồn kiểm tracủa họtrongkhu phi quân sựở khu vựcphía tây.
Tổng thốngNkrumahđề nghịtriệu tậpmột cuộc họp các quốc giatại Colombo ở
cấpNgoại trưởngvào tháng 10/1963 vớiđại diệncủaẤn Độvà Trung Quốclà quan sát
viênđể giải quyếtbế tắcgiữa haibên. Tuy nhiên, đề xuấtcủaNkrumah không nhận
đượcbất kỳ phản ứng tích cực nào. Tháng 11/1963, Tổng thốngSukarnođã gợi ýtổ
chức một“Bandungthứ hai”tạo thuận lợi choẤn Độ và Trung Quốc giải quyếtkhimà
Đề xuất Colombođã thất bại. Nhưngđề nghịnàycũng không đượccác nước Không
liên kếtchấp nhận vì nócóý nghĩarõ ràng chuyển giaonhững hòa giảitừ khuôn
khổPhong trào Không liên kếtđến khuôn khổcác nước Á-Phi.Thủ tướngAliSabrytới
thăm Bắc Kinhtìm kiếm nhữngkhả nănggiải quyết nhữngbế tắcđối với việc rút
lui7đồn của Trung Quốctrên ranh giới. Mặc dùkhông thểthuyết phục Trung Quốctừ
bỏđiều kiện tiên quyết là Ấn Độrút quânđội khỏi các đồn trước khi tổ chứccuộc hội
đàm, AliSabry đãcó đượcmột sự bảo đảmtừ phía Trung Quốcrằng họ sẽ khôngkhởi
động bất kỳhành động gây hấnnào trên biên giớivàthậm chí nếuẤn Độsự khiêu
khích,Trung Quốcsẽ chỉhành động sau khi thông báocho sáu quốc giatrung
lậpvàdành cho họđủthời gian để cố gắng tham gia hòa giải”[132; tr.146].
Mặc dùnhững nỗ lựchòa giải củanhóm trung lập vẫn tiếp tục, khả năng Ấn
Độvà Trung Quốcnối lạicác cuộc đàm phántrực tiếpđã trở nênngày càng khó khăn.
Thông qua các hoạt động ngoại giao,Thủ tướng Sri Lanka đã thuyết phụcẤn Độđưa
ra cam kếtrằngquân đội nước nàysẽ không di chuyển lên đếnđườngMc Mahon.Tuy
nhiên, khibà chưa kịptruyền tảithông tin đóđến Trung Quốc, Trung Quốcđã thiết
lập7đồn kiểm tratrong khu vựcLadakh. Đối vớiẤn Độ, nólà một cú sốcnghiêm
trọngvìviệc thành lập cácđồn kiểm tratrong khu vựcphi quân sựsẽ là mộtchủ đềthảo
luậnchung. Vì thế, Ấn Độ đã rút lạisự đảm bảotrước đó.
Cái chết của J. Nehru đã làm cho Đề xuất Colombo trở nên bế tắc. Lãnh
đạokế nhiệm ở Ấn Độđã có quan điểmcông khaithù địchvà chống lạimọicuộc trao
đổi vớiTrung Quốc.Nhiều quan chức mớixemĐề xuất Colombochỉ như là
mộtphương tiện đểphỉ bángTrung Quốcchứ không phải làmộtcách hữu hiệuđể đàm
110
phánhòa bình. Ấn Độnhấn mạnhviệc Trung Quốcrút quânlàđiều kiện tiên
quyếtchocác cuộc đàm phántiếp theo.SwaranSingh, Bộ trưởng Ngoại giaoẤn Độđã
nêu tại Hạ Nghị viện vàongày 25/9/1964, “Chúng tôi sẽkhông đi đếnbàn hội
nghịtheo các điều khoảncủa Trung Quốc”[132; tr.151].
Trung Quốccũngkhông quan tâm đến Đề xuấtColombo.Sau khi hoàn
thànhchuyến thăm đến 13quốc giaÁ–Phi, Chu Ân Laiđã rút lạilời đề nghịcủa ông
vềviệc hủy bỏ7đồn trongkhu vựcphía tâyvà nhấn mạnh rằng“NewDelhiphải đếnbàn
đàm phántrước, sau đó Trung Quốc mới xem xétviệc công bốhủy bỏ7đồn này”[172;
tr.261].
Như vậy,Đề xuất Colombođãbị vô hiệu giữamột cuộc đấu tranhngoại
giaoliên tục củacả Ấn Độ và Trung Quốc.Ngày7/9/1964,trên cơ sở củaHội nghị
thượng đỉnhCairo,Thủ tướng Ấn Độ, LalBahadurShastridứt khoáttuyên bố rằng“....
mặc dùchúng tôi chấp nhậnĐề xuấtColombo, chúng tôikhông có đượcmột phản
ứngthân thiện từphía Trung Quốc".Ông cũng kêu gọi: “Các cuộc đàm phánthực
sựphảiđược giải thoát khỏitất cả cácđiều kiện tiên quyết. Căn cứcủa họ phải làranh
giớithông thường haytruyền thốngvàkhông chấp nhận bất kỳranh giới mớinào được
tạo rabằng vũ lực”[106; tr.9-10].
Tại hội nghị Cairo, Ấn Độ tích cực vận động các quốc gia Không liên kết
ủng hộ quan điểm của mình và ít nhiều giành được sự ủng hộ với tuyên bố “Tôn
trọng chủ quyềncủa các quốc giavà các vấn đềtoàn vẹnlãnh thổcủa các quốc
gia”[167; tr.21]. Ấn Độ đã sử dụng nó để lên án Trung Quốc xâm lược Ấn Độ lên
Liên Hợp Quốc.
Trước khi Hội nghị Cairo diễn ra, Trung Quốc đã tuyên bố sẵn sàngđàm
phánbất cứ khi nào,bất cứ đâuvớiĐề xuấtColombolàm cơ sở.Tuy nhiên, ngày
9/10/1964, Trung Quốc buộc tộiẤn Độkêu gọichống Trung Quốcvà nhận thấyyêu
cầurút 7đồn là không hợp lý. Trung Quốccho rằng“sự tham gia của Thủ tướng Ấn
Độ tronghội nghịcác nướctrung lậpởCairođanglàmbiến dạngvàxuyên tạcquan điểm
củaTrung Quốc vềvấn đề biên giớiTrung Quốc-Ấn Độ. Thúc đẩytham vấn giữacác
quốc giatham dự Hội nghị Colombosau lưngTrung Quốclà không công bằng...
111
nógây khó khăn hơncho sáuquốc giaColombo đểtiến hànhhòa giảitrong tương
lai”[112; tr.318], [132; tr.154].
Sáunước trong Phong trào Không liên kếtđã tổ chứccác cuộc thảo luậnkhông
chính thức vềtriển vọngđàm phánthêm giữahaibên tranh chấptrên cơ sởđề xuấtColombo.
TheobàBandaranaike, “... nhữngtrao đổi quan điểmlàhữu ích nhấtvà chúng tôiđồng
ýrằngchúng ta nênkiên trì nhữngnỗ lực chungđểmang lạiđàm phánhòa bình vớiviệc giải
quyếttranh chấptrong khu vựcvàthế giới”[57].
Tuy nhiên, đây làdịpcuối cùngcác quốc giatham dự Hội nghị Colombotổ
chứccác cuộc thảo luậnkhông chính thứcliên quan đếnĐề xuất Colombo. Mâu
thuẫntạiHội nghị Thượng đỉnhCairođãchặnđứng tất cả cáccơ hộihòa giảithêm.Cả
Trung Quốc và Ấn Độ đềuphát động mộtcuộc chiến tuyên truyềnchính thứcchống
lại nhau. Cuối cùngvào ngày 21 và 22/12/1964,ChuÂn Laiđóngtất cảcác con đường
chocác cuộc đàm phántrong khuôn khổĐề xuất Colombovớituyên bốtrước phiên
họpđầu tiêncủaHội nghịnhân dân toàn quốclần thứ bakhi ônggọiyêu cầu rút7đồn
trong khu vựcphía tâycủa Ấn Độlà “vô cùngkhông hợp lý”.Ôngnói,“chúng ta sẽ
không rútmột đồn nào hết....nếuẤn Độxác định khôngcócuộc đàm phán, không có
vấn đềgì, chúng ta có thểchờ đợi”[132; tr.156].
Đến cuốinăm 1964cả Ấn Độvà Trung Quốcđều không quan tâm đến Đề xuất
Colombo. Trung Quốc tập trung chú ýtới những mâu thuẫnnội bộcủa mìnhmà sau
nàyđã mở đường chocuộc Cách mạngvăn hóa.Ấn Độ cũngchuyển hướngđối
phóvớikhả năngngày càng tăngcủamột cuộc chiến tranhvớiPakistan, mà cuối
cùngnổ ravào tháng 9/1965.Các nước tham gia Hội nghịhòa giải
Colombocũngkhông còn quan tâmđến cuộc tranh chấpTrung Quốc-Ấn Độ do sự
thay đổiđột ngộtcủa lãnh đạo trongphần lớn sáunước. Cáclãnh đạo mớiởcác quốc
gia nàykhông mặn mà với hòa giải nữa.
Như vậy, nhóm sáu nước thuộc Phong trào Không liên kết đã nỗ lực tạo ra
một kênh hòa giải cho những mâu thuẫn Trung Quốc – Ấn Độ tại Hội nghị Colombo.
Trước những thử thách khó khăn do lập trường cứng rắn của cả Trung Quốc và Ấn
Độ, với quan điểm trung lập hoàn toàn và không phán xét bên nào đúng, bên nào sai,
112
sáu nước tham dự Hội nghị Colombo đã đưa ra được bản Đề xuất mà ban đầu nó
nhận được phản hồi tích cực của cả Ấn Độ và Trung Quốc. Tuy nhiên, quá trình
truyền tải nội dung của Đề xuất này đến Ấn Độ và Trung Quốc đã gây ra những hiểu
khác nhau và nảy sinh những bất đồng. Ấn Độ và Trung Quốc liên tục phủ nhận lập
trường của nhau và kiên quyết bảo vệ lập trường của mình. Vì thế, cho dù đã có
những nỗ lực vừa cá nhân vừa tập thể cảu các nước tham gia Hội nghị Colombo
nhưng cuối cùng hội nghị đã thất bại. Hội nghị Colombo không thể giúp Trung Quốc
và Ấn Độ có được giải pháp hòa bình cuối cùng nhưng cũng góp phần quan trọng vào
việc duy trì lệnhngừng bắngiữa Ấn Độ và Trung Quốc. Đồng thời cũng giúp các nước
Không liên kết có được những trải nghiệm quý báu trong việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp ngay trong chính nội bộ của các nước này.
113
Tiểu kết chương 4
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độbùng nổ và kết thúc đều bất
ngờ sau một tháng giao chiến gây thiệt hai cho cả hai bên, đặc biệt về phía Ấn Độ.
Ngày 21/11/1962, Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngừng bắn và rút quân đã mở
ra một giai đoạn mới là các hoạt động đàm phán hòa giải giữa hai nước. Quá trình
này vẫn tiếp tục nhận được sự quan tâm và cộng đồng quốc tế có những ảnh hưởng
nhất định đến toàn bộ quá trình đàm phán giữa hai nước.
Mặc dù cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ đã kết thúc với việc
Trung Quốc tuyên bố ngừng bắn và rút quân nhưng Mỹ và các nước đồng minh của
Mỹ vẫn tiếp tục hợp tác và giúp đỡ Ấn Độ. Phái đoàn của Mỹ và Anh vẫn đến Ấn
Độ để thảo luận các vấn đề liên quan đến viện trợ của các nước này cho Ấn Độ.
Thông qua các cuộc thảo luận, Mỹ đã đồng ý viện trợ cho Ấn Độ hàng trăm triệu
USD. Có khoảng 200 thỏa thuận hỗ trợ kinh tế giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Ấn
Độ hoặc các công ty tư nhân Ấn Độ. Ít nhất 600 công ty và tổ chức tư nhân Mỹ
đang tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế và học thuật của Ấn Độ.
Ngoài Mỹ, Anh, các đồng minh khác của họ làCanada, New Zealand, Australia đều
có những tuyên bố viện trợ, cho vay và hợp tác với Ấn Độ lến đến hàng triệu USD
để chống lại Trung Quốc.
Liên Xô dần trở về trạng thái trung lập và đã cố gắngđưaẤn Độ vàTrung
Quốcvào bàn hội nghịđểđàm phán về vấn đềbiên giớivà kết thúcchiến sự.Liên
Xôcũngủng hộcác nỗ lựcđiều đìnhcủa 6 quốc giatrung lập châu Ávà châu Phitổ
chức tạiSriLankavào tháng 12/1962 vàĐề xuấtColombođể giải quyếtcuộc xung đột
Trung Quốc-Ấn Độ. Tuy nhiên, những tuyên bố của Liên Xô đa phần nghiêng về
ủng hộ Ấn Độ, ngầm khẳng định Trung Quốc đã gây ra cuộc chiến tranh đổ máu và
Trung Quốc rút quân cũng là do sợ phương Tây. Bên cạnh đó các hoạt động viện
trợ, hợp tác toàn diện giữa Liên Xô với Ấn Độ ngày càng nhiều và bền chặt giúp Ấn
Độ trở thành đối trọng của Trung Quốc. Quan hệ Liên Xô và Trung Quốc cũng
ngày càng căng thẳng.
114
Sau khi Trung Quốc tuyên bố đơn phương rút quân, Pakistan vẫn nêu lập
trường của mình về tranh chấp và cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ, đổ lỗi cho
Ấn Độ gây ra tình trạng xung đột trên biên giới Trung Quốc - Ấn Độ. Pakistan đã
tận dụng cuộc chiến tranh này để giải quyết một phần tranh chấp Kashmir với Ấn
Độ. Trong khi Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tranh cãi mạnh mẽ về các đề xuất tại Hội
nghị Colombo, Trung Quốc và Pakistan đã tiến hành đàm phán phân định biên giới
giữa hai nước một cách rất tích cực, tháng 3/1963, Trung Quốc và Pakistan đã ký
Hiệp định phân chia biên giới giữa hai nước và một phần vùng Kashmir đang còn
tranh chấp với Ấn Độ được Pakistan nhượng cho Trung Quốc. Quan hệ hợp tác toàn
diện Trung Quốc – Pakistan ngày càng bền chặt nhằm cùng chống lại Ấn Độ.
Sri Lanka là quốc gia tích cực nhất trong hoạt động hòa giải chiến tranh
Trung Quốc - Ấn Độ. Thủ tướng Sri Lanka đã tích cực vận động tổ chức hội nghị
hòa giải và cung cấp nơi tổ chức hội nghị tại thủ đô Colombus của họ. Mặc dù vấp
phải vô vàn khó khăn nhưng Sri Lanka đã nỗ lực vận động tổ chức thành công hội
nghị hòa giải và có nhiều đóng góp nhất cho việc hòa giải chiến tranh Trung Quốc –
Ấn Độ.
Sáu quốc gia thuộc Phong trào Không liên kết gồm Sri Lanka, Indonesia,
Miến Điện, Campuchia, Ghana, Ai Cập đã tích cực vận động và tham gia hội nghị
hòa giải chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ tại thủ đô Sri Lanka. Hội nghị hòa giải đã
vận động và đưa ra được đề xuất sáu điểm để ngừng bắn và tạo không khí cho các
bên đàm phán. Tuy kết quả cuối cùng của Hội nghị không đạt được như mong muốn
nhưng nó thể hiện vai trò, sự nỗ lực của một nhóm nước Không liên kết trong hoạt
động hòa giải giữa các thành viên của phong trào này.
115
CHƯƠNG 5. NHẬN XÉT VỀ NHÂN TỐ QUỐC TẾ TRONG CUỘC
CHIẾNTRANH BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ NĂM 1962
5.1. Nhận xét chung về cuộc chiến tranh
Từ những nghiên cứu về nhân tố quốc tế trong cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc - Ấn Độ chúng tôi nhận thấy rằng, Trung Quốc là nước hoàn toàn chủ
động trong cuộc chiến tranh này. Ngay từ những năm 1950, Trung Quốc đã bí mật
chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Ấn Độ. Về hậu cần, Trung Quốc cho xây
dựng các tuyến đường bộ nối từ hậu cứ ở Tây Tạng đến các vùng đất tranh chấp với
Ấn Độ, điển hình nhất là con đường cao tốc nối Tây Tạng với Tân Cương chạy qua
Askai Chin, trong khi đó Ấn Độ hoàn toàn bị động, hầu như không có bất cứ sự
chuẩn bị nào từ trước cho sự đối phó với một cuộc chiến tranh với Trung Quốc trên
vùng biên giới phía bắc hẻo lánh, xa xôi. Khi xảy ra chiến tranh, quân đội Trung
Quốc vận chuyển binh lính và hậu cần khá dễ dàng, nhanh chóng bằng đường
bộ,ngược lại, Ấn Độ hầu như phụ thuộc vào vận tải bằng máy bay trong điều kiện
vô cùng khắc nghiệt với nhiệt độ rất thấp làm đông cứng nhiên liệu bay, tốc độ gió
cao làm cho máy bay không thể cất, hạ cánh; máy bay bị các vũ khí dưới đất của
Trung Quốc phát hiện dễ dàng làm cho việc vận tải bằng máy bay càng thêm khó
khăn.
Về ngoại giao, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Ấn Độ, từ những năm
1950, Trung Quốc đã thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao trongnhóm các nước
thuộc thế giới thứ ba nhằm xây dựng một hình ảnh về Trung Quốc yêu chuộng hòa
bình, tích cực ủng hộ phong trào chống thực dân, là nước rất tích cực vận động
thành lập Phong trào Không liên kết. Sau khi Phong trào Không liên kết được thành
lập, Trung Quốc luôn là thành viên tích cực, trụ cột, có tiếng nói quan trọng. Trung
Quốc cũng tìm cách đàm phán, giải quyết vấn đề biên giới giữa Trung Quốc với
một số nước láng giềng nhỏ như Miến Điện, Nepal,… thậm chí trong các hiệp ước
với những nước này, Trung Quốc chấp nhận một số nhượng bộ về lãnh thổ để đạt
được hiệp định biên giới chung. Sở dĩ Trung Quốc chấp nhận nhượng bộ một số
lãnh thổ với những nước nhỏ gần với Ấn Độ là một chiêu bài phục vụ cho những
116
tuyên truyền của Trung Quốc liên quan đến tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ. Với ngụ
ý là Trung Quốc luôn yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng nhượng bộ và đã giải quyết
thành công vấn đề biên giới với các nước láng giềng còn Ấn Độ thì không, bằng
chứng là tranh chấp lãnh thổ Ấn Độ - Pakistan, Ấn Độ - Trung Quốc.
Trực tiếp với Ấn Độ, Trung Quốc thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao các
cấp, trong đó có cấp cao nhất, đó là các cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Chu Ân Lai
và Nehru. Thông qua các cuộc hội đàm, Trung Quốc đã ký với Ấn Độ “Năm
nguyên tắc chung sống hòa bình” và khẩu hiệu “Trung Quốc và Ấn Độ là anh em”
với những ngôn từ mĩ miều làm cho Ấn Độ không đề phòng, không có sự chuẩn bị
chống lại Trung Quốc. Tuy nhiên, đằng sau đó, Trung Quốc luôn tích cực các hoạt
độngchống lại Ấn Độ, khi xây dựng hình ảnh Trung Quốc đẹp bao nhiêu thì cũng
tìm cách tạo một hình ảnh xấu về Ấn Độ. Thông báo về quyết định tấn công Ấn Độ,
Trung Quốc tuyên truyền rằng Ấn Độ theo phe TBCN, là tay sai của đế quốc nên
Trung Quốc muốn dạy cho Ấn Độ một bài học. Đây là cách làm thường thấy của
Trung Quốc mỗi khi muốn gây chiến tranh với một nước láng giềng. Khi tiến hành
cuộc chiến tranh với Liên Xô, Trung Quốc cũng có những luận điệu tương tự như
cuộc tấn công Ấn Độ. Mao Trạch Đônggiải thích ly do tiến hành cuộc tiến công
Liên Xô năm 1969là để đáp trả lại việc Liên Xô can thiệp sâu vào Tiệp Khắc vào
năm 1968. Mao Trạch Đông truyền đi một thông điệp mạnh mẽ để làm cho Liên Xô
biết rằng Trung Quốc sẵn sàng chống lại “chủ nghĩa xét lại Xô viết” và sẽ không
dung thứ nếu Liên Xô làm điều can thiệp tương tự với Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là một cuộc chiến
tranh ngắn, chiến tranh chớp nhoáng, chỉ kéo dài khoảng 1 tháng. Trung Quốc tấn
công biên giới Ấn Độ từ 20/10 đến 21/11/1962 thì đơn phương tuyên bố ngừng bắn
và rút quân.Đây là cách hành động thường thấy của Trung Quốc khi tiến hành các
cuộc chiến tranh với các nước láng giềng. Cuộc chiến tranh Trung Quốc – Liên Xô
năm 1969 cũng diễn ra với thời gian tương tự (từ đầu tháng 3 đến đầu tháng
4/1969). Cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam năm 1979, lúc cao điểm
nhất, cũng chỉ kéo dài khoảng chưa đến một tháng (từ 17/2 đến 5/3/1979). Sở dĩ
117
Trung Quốc thường tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược chớp nhoáng với các
nước láng giềng với mục đích gây ra những bất ngờ. Thời điểm bắt đầu, kết thúc và
khoảng thời gian đó không đủ để thế giới có những phản ứng mạnh mẽ chống lại
Trung Quốc.Chọn thời điểm tấn công Ấn Độ là khi cả Liên Xô và Mỹ đều mắc kẹt
trong cuộc khủng hoảng hạt nhân tại Cuba nên không thể có phản ứng mạnh mẽ
cũng như giúp Ấn Độ. Khi Liên Xô và Mỹ giải quyết xong vấn đề khủng hoảng hạt
nhân và có những phản ứng mạnh mẽ hơn đến cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn
Độ thì Trung Quốc chủ động rút quân để tránh có những hậu quả cả trên chiến
trường lẫn ngoại giao.
Xét trên chiến trường của cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ,
Trung Quốc hoàn toàn nắm quyền quyết định, quân đội Trung Quốc luôn chiếm thế
thượng phong, luôn là người chủ động tiến công với quân số, vũ khí áp đảo quân Ấn
Độ trên mọi vị trí cả ở khu vực phía đông và phía tây. Sự chuẩn bị chu đáo, tiến
công bất ngờ với hỏa lực áp đảo đã giúp quân đội Trung Quốc đánh chiếm các vị trí
của quân Ấn Độ một cách khá dễ dàng. Ngược lại, do hoàn toàn bị động, không có
chuẩn bị, vũ khí lạc hậu, việc cung cấp hậu cần và viện quân hoàn toàn phụ thuộc
vào hàng không đã gây cho quân đội Ấn Độ quá nhiều khó khăn khi đối đầu với
quân Trung Quốc. Hầu hết các đồn bốt, các vị trí của quân Ấn Độ đều bị quân
Trung Quốc tấn công gây tổn thất rất nặng nề và bị mất vào tay quân Trung Quốc
một cách nhanh chóng. Quân Trung Quốc liên tục chủ động tấn công và dồn ép
quân Ấn Độ phải bỏ đồn bốt tháo chạy trong đêm tối, thậm chí bị lạc đường bị quân
Trung Quốc tiêu diệt và bắt sống cả sĩ quan cao cấp. Trung Quốc tiến công và tiến
rất sâu vào lãnh thổ Ấn Độ, có những nơi tiến gần đến đồng bằng. Về kết quả, quân
Trung Quốc giành thắng lợi và số binh lính bị chết và bị thương đều ít hơn quân Ấn
Độ. Đặc biệt, không có thông tin nào nói đến việc quân đội Trung Quốc bị quân đội
Ấn Độ bắt làm tù binh, trong khi binh lính Ấn Độ bị Trung Quốc bắt lên đến
khoảng gần 4000 người [234; tr.292].
Cách Trung Quốc tiến công cũng như tuyên bố ngừng bắn, rút quân khá
tương đồng trong các cuộc chiến tranh với láng giềng do Trung Quốc gây ra. Trong
118
cuộc chiến tranh với Ấn Độ, Trung Quốc giải thích lý do rút quân của mình là họ đã
hoàn thành mục tiêu của cuộc tấn công, chỉ là dạy cho Ấn Độ một bài học cũng như
đã bảo vệ được biên giới Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc buộc phải dừng cuộc
tấn công vào Ấn Độ là do nhiều nguyên nhân. Đó là, điều kiện thời tiết ở vùng
chiến sự ngày càng khắc nghiệt khi đi sâu vào mùa đông, nhiệt độ ngày càng xuống
rất thấp, gió lớn, bão tuyết, nước đóng băng làm cho vũ khí đều khó hoạt động, binh
lính thì bị bỏng lạnh, bệnh tật, chết sẽ tăng lên, việc di chuyển, hậu cần không thể
đáp ứng, nhất là khi càng tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ, xa hậu cứ của quân Trung
Quốc. Ở chiều hướng ngược lại, quân Ấn Độ ngày càng được tăng cường mạnh
hơn, quân Trung Quốc tiến công không còn giành thắng lợi áp đảo và dễ dàng như
lúc đầu, đồng thời thiệt hại tăng lên. Sở dĩ quân Ấn Độ dần tổ chức lại lực lượng,
tăng cường sức mạnh cho các cuộc giao tranh với quân Trung Quốc là do những
viện trợ và giúp đỡ mạnh mẽ của Mỹ và phương Tây, đặc biệt là việc Mỹ cử tàu sân
bay tiến vào vịnh Bengal và tuyên bố của Tổng thống Mỹ gây sức ép lên Trung
Quốc. Tổng thống Mỹ đưa ra cảnh báo đối với Trung Quốc: “Nếu Trung
Quốctiếnthêm nữaMỹ sẽ buộc phải tham gia” [70; tr479]. Trung Quốc cũng không
dám kéo dài, mở rộng cuộc chiến với Ấn Độ còn vì thái độ của Liên Xô chuyển từ
ủng hộ Trung Quốc về trạng thái trung lập nhưng thực chất ủng hộ Ấn Độ. Như thế,
Trung Quốc đang dần rơi vào trạng thái bị cô lập khi cả hai cường quốc Liên Xô,
Mỹ đều đã ngả về Ấn Độ, dư luận phương Tây lên án Trung Quốc, dư luận thế giới
kêu gọi ngừng bắn, đàm phán, giải quyết hòa bình thì Trung Quốc không thể kéo
dài thêm cuộc chiến tranh này.
5.2. Nhân tố quốc tế trong nguyên nhân của cuộc chiến tranh
Trong thời gian cai trị Ấn Độ, thực dân Anhđã tạo nên đường biên giới giữa
Ấn Độ và Trung Quốc. Đây là nhân tố quốc tế hàng đầu gây ra tranh chấp lãnh thổ
giữa Ấn Độ và Trung Quốc với biểu hiện cao nhất là bùng nổ cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962. Ấn Độ và Trung Quốc - hai quốc gia rộng lớn,
có lịch sử lâu đời tiếp giáp nhau ở vùng núi Himalaya vô cùng rộng lớn, hiểm trở,
khí hậu khắc nghiệt, nhiều dãy núi có độ cao nhất thế giới, nơi quanh năm tuyết
119
phủ, băng giá, cằn cỗi đến mức không có sinh vật nào sống được và với điều kiện
hiểu biết của con người hạn chế. Trải qua hàng ngàn năm hai quốc gia này hầu như
ít quan tâm đến biên giới xa xôi của mình cũng như biên giới chung với láng giềng.
Trước khi người Anh đến cai trị Ấn Độ, cả Ấn Độ và Trung Quốc đều cách rất xa
với các vùng đất tranh chấp hiện nay. Thời gian đầu người Anh cai trị Ấn Độ, triều
đình Mãn Thanh của Trung Quốc hầu như chưa quản lý Tây Tạng, với nỗi lo chính
của người Anh là ngăn chặn người Nga tiến xuống Ấn Độ, chính quyền thực dân
Anh muốn biến Tây Tạng thành một vùng đệm giữa Ấn Độ và Nga.
Ở khu vực phía tây, chính quyền Anh đã xúc tiến việc phân định ranh giới
giữa Ấn Độ thuộc Anh và Trung Quốc từ giữa thế kỷ XIX. Công cuộc điều tra và vẽ
bản đồ đường biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc cũng diễn ra trong thời gian dài
gần một thế kỷ. Đến đầu thế kỷ XX, Anh sử dụng đường Johnson làm đường biên
giới chính thức. Ở khu vực phía đông, mãi đến đầu thế kỷ XX, khi chính quyền
trung ương Trung Quốc có những hành động mạnh mẽ xác lập quyền cai trị của
mình ở Tây Tạng, người Anh mới nhận ra không phải người Nga mà chính là Trung
Quốc mới là mối đe dọa với Ấn Độ. Vì thế, người Anh đẩy mạnh phân định biên
giới với Trung Quốc, nỗ lực cao nhất của người Anh được thể hiện tại hội nghị
Shimla với việc cho ra đời đường Mc Mahon. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà Trung
Quốc không chấp nhận đường biên giới do người Anh đưa ra là biên giới hợp pháp
giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Khi người Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ, đồng thời
cũng để lại một sự tranh chấp biên giới, lãnh thổ rộng lớn nhất và kéo dài nhất trên
thế giới. Sự yên bình trên biên giới Ấn Độ - Trung Quốc chỉ kéo dài khoảng 10 năm
đầu sau khi ra đời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, còn thời gian sau đó là liên tiếp
xảy ra các cuộc đụng độ mà đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới năm 1962.
Tuy việc đế quốc Anh tiến hành phân chia biên giới giữa Ấn Độ và Trung
Quốc là một nhân tố quốc tế quan trọng dẫn đến sự tranh chấp biên giới, lãnh thổ và
dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962, nhưng với
những hành động và tư tưởng của Trung Quốc với các nước láng giềng trong suốt
chiều dài lịch sử thì đó cũng không phải là nguyên nhân chính. Cho dù có hay
120
không có việc người Anh tiến hành phân chia biên giới với Trung Quốc thì Trung
Quốc cũng sẽ luôn mập mờ về đường biên giới với các nước láng giềng. Để phục vụ
cho tư tưởng đại Hán, tham vọng bành trướng, mở rộng lãnh thổ của mình.Đặc biệt
với những vùng đất có vị trí địa chiến lược quan trọng, Trung Quốc luôn tìm cách
biến từ chỗ không tranh chấp thành tranh chấp để yêu cầu giải quyết rồi kéo dài quá
trình này để dùng các biện pháp bí mật tạo ra các chứng cứ hợp pháp cho lãnh thổ
của Trung Quốc. Ở vùng biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, Trung Quốc vẫn thường
xuyên lấn đất bằng các biện pháp dân sự, cho dân đưa các đàn gia súc đến chăn thả
rồi định cư, sau đó là đưa quân đội đến chiếm đóng. Điều này cũng được Trung
Quốc áp dụng đối với các vùng đất trên biên giới cả đất liền và biển của Việt Nam:
Ở các vùng biên giới đất liền với Việt Nam Trung Quốc tạo ra sự không rõ ràng sau
đó có nhiều hoạt động để sau này có chứng cứ là của Trung Quốc như: Mang người
chết sang chôn, mang các vật dụng sinh hoạt của người dân sang để,… dây dưa
không giải quyết rõ ràng mà để sau này mới giải quyết. Âm mưu của Trung Quốc là
để kéo dài và dùng những chứng cứ ngụy tạo làm chứng cứ lịch sử chứng minh
vùng đất đó là của Trung Quốc.
Nhân tố quốc tế thứ hai góp phần vào nguyên nhân cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là bối cảnh quốc tế. Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, chủ nghĩa lãng mạn phát triển rộng khắp, các nước thuộc địa, phụ thuộc ở
châu Á, châu Phi và Mỹ Latin tin tưởng nhau cùng đoàn kết chống lại chủ nghĩa đế
quốc. Sự tin tưởng này được nâng lên thành chủ nghĩa lí tưởng mà Thủ tướng Nehru
của Ấn Độ dường như là người đi đầu về chủ nghĩa lãng mạn này. Các nước thuộc
thế giới thứ ba luôn bày tỏ sự cảm thông, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong việc chống
lại đế quốc, giải phóng đất nước, xây dựng nền độc lập tự chủ. Nehru là hình mẫu
tin tưởng vào tình bạn, tình anh em, tình đồng chí, tình hàng xóm với các nước cùng
hoàn cảnh của thế giới thứ ba, đặc biệt với Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc đã
lợi dụng tư tưởng chống đế quốc đang dâng cao ở hầu hết các nước Á, Phi, Mỹ
Latin để phục vụ lợi ích quốc gia của mình. Trung Quốc đã mở rộng tuyên truyền
tất cả những cái gì thuộc về chủ nghĩa thực dân và di sản của nó để lại đều xấu xa,
cần phải lên án và loại bỏ. Áp dụng vào vấn đề biên giới với Ấn Độ, Trung Quốc tố
121
cáo đường biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc theo yêu cầu của Ấn Độ chỉ là sản
phẩm, là di sản của thực dân Anh tạo ra nên nó xấu xa, không có cơ sở pháp lý,
hoàn toàn phi pháp, đáng lên án và cần được loại bỏ. Như thế, Trung Quốc đã rất
biết hòa vào và lợi dụng triệt để chủ nghĩa lý tưởng chống đế quốc đang trỗi dậy
mạnh mẽ để lồng ghép vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ vào để lấy cái cớ tấn
công Ấn Độ. Tấn công Ấn Độ để loại bỏ di sản của chủ nghĩa thực dân.
J. Nehru là người theo đuổi chủ nghĩa lý tưởng một cách thái quá đến mức
tin tưởng tuyệt đối vào tình “anh em” với Trung Quốc. Trong những năm đầu tiên
sau khi Ấn Độ độc lập, Nehru coi Trung Quốc là đối tác quan trọng trong tầm nhìn
về tình đoàn kết, chống chủ nghĩa đế quốc. Nehru tin rằng cuộc cách mạng Trung
Quốc mang tính dân tộc hơn là cộng sản và chủ yếu là tìm cách xóa bỏ những sự
nhục nhã dưới chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Nehru ký kết Thỏa thuận Panchsheel
năm 1954 giữa Ấn Độ và Trung Quốc, từ bỏ các quyền ở Tây Tạng mà Ấn Độ thừa
hưởng từ thực dân Anh để lại. Đổi lại, Trung Quốc đồng ý với Năm nguyên tắc
chung sống hòa bình. Sự tin tưởng thái quá của Nehru dẫn đến nơi lỏng phòng bị và
chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với “người láng giềng, người anh em” Trung
Quốc. Trung Quốc tích cực chuẩn bị cho một cuộc xâm lược Ấn Độ bằng việc xây
dựng đường cao tốc nối Tây Tạng với Tân Cương chạy qua Aksai Chin, xây dựng
quân khu Tân Cương. Ấn Độ hầu như không có hoạt động chuẩn bị đáng kể nào.
Lúc đầu, Ấn Độ muốn duy trì nguyên trạng biên giới với Trung Quốc. Tuy nhiên,
các cuộc đụng độ gây chết người giữa các lực lượng biên giới Ấn Độ và Trung
Quốc vào năm 1959, đã buộc Nehru phải loại bỏ chính sách thỏa hiệp với Trung
Quốc về biên giới tranh chấp. Đến cuối năm 1961, Nehru kết luận rằng, một chính
sách mạnh mẽ hơn là cần thiết để đạt được cân bằng với Trung Quốc trong các cuộc
đàm phán. Nehru đã tìm ra giải pháp trong “Chính sách Tiến lên phía trước” để thực
hiện ba lợi ích chính của ông là duy trì chương trình nghị sự bất bạo động; xua tan
những lời chỉ trích của ông về những tuyên bố lỏng lẻo đối với phòng thủ biên giới;
củng cố vị trí Ấn Độ trên biên giới và qua đó củng cố vị thế đàm phán của mình.
“Chính sách Tiến lên phía trước” chưa góp phần củng cố được sức mạnh của Ấn Độ
ở biên giới với Trung Quốc là bao nhưng lại là cái cớ rất đúng thời điểm để Trung
122
Quốc tấn công Ấn Độ.
Trung Quốc chuẩn bị sẵn sàng và lợi dụng bối cảnh quốc tế rất thuận lợi,
chọn đúng thời điểm thích hợp để tổ chức cuộc tiến công xâm lược Ấn Độ. Vụ tấn
công xảy ra cùng thời điểm với cuộc khủng hoảng Caribe giữa Mỹ và Liên Xô, đặt
nhân loại đến sát bên bờ vực của ngày tận thế hạt nhân. Trung Quốc biết chắc chắn
cả Mỹ và Liên Xô đều quá bận bịu vào việc đối đầu nhau ở Caribe nên không thể hỗ
trợ kịp thời cho Ấn Độ. Điều này xảy ra đúng như tính toán của Trung Quốc. Trước
tháng 10/1962, mối quan hệ giữa Ấn Độ và Liên Xô là tốt đẹp, trong khi quan hệ
Liên Xô – Trung Quốc tương đối xấu, nhất là quan điểm của hai nước liên quan đến
quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc. Khi Trung Quốc nổ súng tấn công Ấn Độ, Liên Xô
phải thay đổi thái độ. Liên Xô bị Trung Quốc đặt vào một tình thế hết sức khó khăn.
Tình thế Liên Xô đã buộc phải lựa chọn ủng hộ Trung Quốc và có phần chống lại
Ấn Độ. Sở dĩ Liên Xô phải có những động thái thể hiện sự ủng hộ Trung Quốc là
dựa trên sự tính toán thiệt hơn trong các mối quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc
trong một hoàn cảnh rất khó khăn. Liên Xô cho rằng cần phải có sự ủng hộ của
Trung Quốc, nước lớn thứ hai trong phe XHCN để đối đầu với Mỹ. Có thể nói Liên
Xô không thể có lựa chọn nào khác trong bối cảnh này.
Ngoài việc tính toán đúng về phản ứng của Liên Xô, Trung Quốc cũng đã
đúng khi tạm thời loại bỏ được những phản ứng rất nhanh của Mỹ thời điểm Trung
Quốc tấn công Ấn Độ. Trong các cuộc chiến tranh, khi cần Mỹ thường phản ứng rất
nhanh. Tuy nhiên, vào thời điểm cuộc đối đầu gay gắt, trực tiếp với đối thủ lớn nhất
trên đất Cuba đã trói chân Mỹ không thể nhanh chóng giúp đỡ Ấn Độ.
Không chỉ Mỹ và Liên Xô phải tập trung giải quyết cuộc đối đầu trực tiếp tại
Cuba mà phải ủng hộ Trung Quốc hoặc không thể nhanh chóng ủng hộ Ấn Độ, việc
Trung Quốc tấn công Ấn Độ còn để chứng minh những gì Trung Quốc nói với Liên
Xô và các nước XHCN về Ấn Độ là đúng. Trong các cuộc tranh luận giữa Đảng
cộng sản và lãnh đạo cấp cao hai nước Liên Xô, Trung Quốc nửa sau thập niên
1950, Trung Quốc luôn yêu cầu Liên Xô phải đứng về phía mình và lên án Ấn Độ là
kẻ theo đuôi, là sản phẩm, tay sai của chủ nghĩa đế quốc Anh, Mỹ. Trước khi xảy ra
cuộc tấn công của Trung Quốc vào Ấn Độ năm 1962, gần như những tranh cãi này
123
càng được đẩy lên cao. Trong sự tranh cãi ấy, Liên Xô nghiêng về ủng hộ Ấn Độ,
chỉ trích Trung Quốc. Từ năm 1959, khi xảy ra những cuộc đụng độ lẻ tẻ trên biên
giới Ấn Độ - Trung Quốc, Liên Xô cho rằng Trung Quốc đã gây ra. Liên Xô tin
rằng Ấn Độ yếu hơn Trung Quốc rất nhiều về quân sự và kinh tế nên không thể chủ
động tấn công Trung Quốc, Trung Quốc đang cản trở chính sách chung sống hòa
bình mà Liên Xô theo đuổi, lãnh đạo Liên Xô công khai chỉ trích chính sách của
Trung Quốc với Ấn Độ tại Đại hội các đảng cầm quyền ở các nướcXHCN ở Đông
Âu. Ngày 22/6/1960, trong cuộc họp tại Bucarest, Khrushchev nói với người đứng
đầu phái đoàn Trung Quốc: “Tôi hiểu thế nào là chiến tranh,người Ấn Độ đã chết,
điều đó chứng tỏ Trung Quốc đã tấn côngẤn Độ”[2; tr6-7], [234; tr.91]. Ngược lại,
Trung Quốc cho rằng chính sách của Ấn Độ dưới thời J. Nehru là giả tạo, lừa gạt
thế giới, lừa gạt Liên Xô, thực chất Ấn Độ là tay sai của chủ nghĩa thực dân Mỹ,
Anh; Ấn Độ đang có âm mưu bành trướng, bá chủ ở châu Á.
Việc Trung Quốc tấn công Ấn Độ có lẽ còn nhằm mục đích hạ uy tín của Liên
Xô. Khi Ấn Độ buộc phải kêu gọi viện trợ mà Liên Xô bị mắc kẹt không viện trợ
được cho Ấn Độ sẽ làm mất đi hình ảnh đẹp của Liên Xô trong mắt người Ấn Độ.
Ngược lại, nếu Liên Xô ủng hộ, giúp đỡ Ấn Độ thì lại đi ngược lại hệ tư tưởng vô
sản, Liên Xô không ủng hộ Trung Quốc là nước trong pheXHCN mà lại ủng hộ Ấn
Độ, như thế sẽ làm giảm uy tín của Liên Xô trong chính pheXHCN. Hơn nữa, Trung
Quốc tính toán rằng cuộc tấn công quy mô lớn của họ vào đất Ấn Độ sẽ buộc Ấn Độ
phải kêu gọi viện trợ từ tư bản phương Tây mà chắc chắn khi Ấn Độ kêu gọi thì Mỹ,
Anh sẽ giúp đỡ và như thế sẽ chứng minh quan điểm trước đó của Trung Quốc về Ấn
Độ là hoàn toàn có cơ sở. Trong tranh chấp Trung Quốc-Ấn Độ, Mao Trạch Đông
nhìn thấy cơ hội buộc Liên Xô đứng về phía Trung Quốc hoặc nếu không cũng vạch
trần các nhà lãnh đạo Liên Xô là “kẻ phản bội xét lại”[222; tr.124].
Như vậy, Trung Quốc rất biết lợi dụng bối cảnh quốc tế, đặc biệt là việc đặt
Liên Xô vào một tình huống buộc phải lựa chọn theo hướng hoàn toàn theo tính
toán từ trước của mình là phải lên án Ấn Độ và ủng hộ Trung Quốc. Đặt Ấn Độ vào
một tình huống buộc phải kêu cứu và nhận được sự trợ giúp của phương Tây. Đúng
như tính toán của Trung Quốc, họ đã đạt được cả hai mục đích là buộc Liên Xô phải
124
ngả về phía mình và Ấn Độ phải ngả về phương Tây.
Để phát động cuộc chiến tranh xâm lược Ấn Độ, Trung Quốc còn lợi dụng
bối cảnh khu vực Nam Á. Đặc biệt là lợi dụng mâu thuẫn căng thẳng giữa Ấn Độ và
Pakistan liên quan đến tranh chấp vùng Kashmir. So sánh trên các mặt từ lãnh thổ,
dân số đến kinh tế, Pakistan đều thua kém Ấn Độ nên Pakistan phải tìm mối quan
hệ đồng minh với Mỹ và Anh. Một loạt sự kiện thể hiện quan hệ tốt đẹp giữa
Pakistan với Mỹ như: Hiệp địnhan ninhMỹ - Pakistannăm 1954, Pakistan gia nhập
Tổ chứcHiệp ướcĐông NamÁ (SEATO)vào năm 1954,Hiệp ướcTổ chức Trung tâm
(CENTO) vào năm 1958 vàthỏa thuậnan ninhsong phươngPakistan - Mỹnăm
1959.Cùng với tranh chấp lãnh thổ, việc liên minh Mỹ - Pakistan đã làm cho quan
hệ Ấn Độ - Pakistan ngày càng căng thẳng. Thủ tướng Ấn Độđổ lỗi
choPakistanmang chiến tranh lạnhđếnNam Á.Việc Trung Quốc tấn công Ấn Độ một
mặt cho thế giới thấy Ấn Độ có tranh chấp với nhiều nước, không chỉ có Pakistan
mà cả với Trung Quốc, qua đó đổ lỗi cho Ấn Độ là kẻ gây ra chiến tranh. Mặt khác,
tấn công Ấn Độ là cách để lấy lòng Pakistan, phương châm của Trung Quốc là “kẻ
thù của kẻ thù là bạn” từ đó tạo đồng minh tại Nam Á. Trung Quốc đã thành công
với tính toán này. Sau khi chiến tranh biến giới Trung Quốc – Ấn Độ xảy ra, quan
hệ Trung Quốc – Pakistan được xây dựng ngày càng khăng kít tạo thành các “gọng
kìm” bao vây Ấn Độ.
5.3. Nhân tố quốc tế trong diễn biến cuộc chiến tranh biên giới Trung
Quốc - Ấn Độ năm 1962
Để ngụy trang, tạo vỏ bọc cho cuộc xâm lược Ấn Độ năm 1962, Trung Quốc
gọi cuộc tấn công vào Ấn Độ năm 1962 với cái tên là “phản công để tự vệ”. Luận
điểm này của Trung Quốc gây bối rối cho các nước, đặc biệt là các nước Không liên
kết Á, Phi, Mỹ Latin. Rõ ràng Trung Quốc luôn chủ động tấn công trong các cuộc
chiến tranh với các nước láng giềng nhưng luôn tung ra nhiều luận điểm, nhiều
chiêu bài nhằm đánh lạc hướng dư luận quốc tế để hợp pháp hóa các cuộc xâm lược
của mình. Đẩy hết trách nhiệm gây ra chiến tranh cho Ấn Độ, còn mình chỉ là “phản
công tự vệ”. Từ năm 1959 trở đi, đặc biệt là năm 1962, Trung Quốc liên tiếp đăng
125
trên các trang thông tin chính thống và Tân Hoa xã tố cáo binh lính Ấn Độ lấn
chiếm, tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc. Thông qua rất nhiều thông báo đó, Trung
Quốc lấy cái cớ để “phản công tự vệ” trước quân đội Ấn Độ. Thuật ngữ “phản công
tự vệ” tiếp tục được Trung Quốc sử dụng để biện minh cho cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam năm 1979, cũng như cho việc xâm lược quần đảo Hoàng Sa, rạn san
hô Johnson và rạn đá ngầm Mischif năm 1988.
Khi Trung Quốc tấn công Ấn Độ vào ngày 20/10/1962, cả Mỹ và Liên Xô
đều đang mắc kẹt trong cuộc khủng hoảng Caribe nên không thể đưa ra những phản
ứng ngay tức khắc. Mỹ và Anh bị sốc khi nhận được tin Trung Quốc tấn công Ấn
Độ và trong gần 1 tuần đầu của cuộc chiến, chính quyền và dư luận Mỹ hầu như im
lặng. Phải đến ngày 27/10, chính quyền Mỹ mới có phát biểu đầu tiên về cuộc chiến
tranh Trung Quốc - Ấn Độ bằng việc tuyên bố Trung Quốc là độc tài, là chủ nghĩa
thực dân mới và cảm thông với Ấn Độ. Tiếp sau đó là những tuyên bố ngoại giao,
những khoản viện trợ quân sự, cam kết giúp đỡ kinh tế, ủng hộ ngoại giao cho Ấn
Độ chống Trung Quốc. Hoạt động ngoại giao rất đáng chú ý của Mỹ là làm cho
Pakistan không thể hành động trong khi cuộc chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ diễn
ra. Khi bị Trung Quốc tấn công bất ngờ, do lực lượng mỏng, không có chuẩn bị nên
Ấn Độ rất bối rối, liên tiếp thua trận một cách nhanh chóng. Để đủ sức đương đầu
với quân Trung Quốc tại biên giới phía đông, một mặt Ấn Độ kêu gọi sự giúp đỡ vũ
khí, vận tải từ Anh, Mỹ, mặt khác đề nghị Anh, Mỹ giúp đỡ bằng giải pháp ngoại
giao để Pakistan không “nước đục thả câu”, lợi dụng chiến tranh Trung Quốc - Ấn
Độ để tấn công Ấn Độ từ phía tây. Thông qua các hoạt động ngoại giao, các phái
đoàn của Anh và Mỹ đã trói thành công Pakistan, buộc Pakistan phải án binh bất
động trước cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ. Nhờ đó, Ấn Độ không
phải phân tâm cho biên giới phía tây và dồn sức đánh trả Trung Quốc.
Đối với Mỹ và phương Tây, đã từ lâu, họ muốn lôi kéo Ấn Độ vào những
liên minh chống Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ sau khi Ấn Độ đạt được
độc lập, Mỹ chưa có điều kiện thuận lợi để thực hiện tham vọng đó của mình và
cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 là một cơ hội rất tốt. Để
ghi điểm với J. Nehru và người Ấn Độ, Mỹ, Anh và đồng minh ủng hộ là rất mạnh
126
mẽ, nhất là sau khi giải quyết được cuộc khủng hoảng Caribe với Liên Xô. Những
chuyến bay chở vũ khí, các thiết bị chiến tranh lập tức đến Ấn Độ, tổ chức các
chuyến bay trinh sát trên biên giới Ấn Độ - Trung Quốc để lấy thông tin chính xác;
gửi máy bay chuyên trở binh lính, vũ khí từ biên giới với Pakistan sang phía đông.
Mặc dù, trước sự tuyệt vọng của Ấn Độ kêu gọi Mỹ chuyển giao các phi đội Mỹ
chiến đấu tại các thành phố của Ấn Độ nhưng Mỹ không can thiệp trực tiếp mà chủ
yếu gây sức ép với Trung Quốc, Mỹ đã điều tàu sân bay vào vịnh Bengal. Chính
những phản mạnh mẽ, sự giúp đỡ to lớn và khá kịp thời của Mỹ là một trong những
nguyên nhân hàng đầu buộc Trung Quốc chùn bước và tuyên bố ngừng bắn, rút
quân vào 21/11/1962.
Đối với Liên Xô, cuộc chiến tranh bất ngờ của Trung Quốc và Ấn Độ thực
sự đặt các nhà lãnh đạo của họ vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Do đang vướng
vào cuộc khủng hoảng với Mỹ tại Cuba nên Liên Xô không còn lựa chọn nào khác
là phải ủng hộ Trung Quốc và lên án Ấn Độ để đổi lại nhận được sự ủng hộ của
Trung Quốc trong cuộc đụng độ với Mỹ. Năm ngày sau khi cuộc chiến bùng nổ,
phản ứng đầu tiên của Liên Xô thông qua tờ Pravda với ý ca ngợi “đề xuất ngừng
bắn” của Trung Quốc, đề nghị Ấn Độ chấp nhận, đồng thời tỏ ra “nghi ngờ” tính
hợp pháp của đường Mc Mahon với cách gọi “đường tai tiếng” và bị áp đặt bởi “đế
quốc vào các dân tộc Trung Quốc và Ấn Độ”. Phản ứng của Liên Xô gây bối rối,
thất vọng, thậm chí đau khổ cho J.Nehru và dân chúng Ấn Độ. Trong con mắt của
người dân Ấn Độ, những gì Liên Xô ký kết và hứa trước đó gần như đã biến mất hết
và họ mất hết sự tin tưởng với lãnh đạo Liên Xô. Như thế, Liên Xô gần như mất đi
tình bạn với Ấn Độ mà các lãnh đạo hai nước mất nhiều công lao vun đắp. Các nhà
lãnh đạo Liên Xô hy vọng Trung Quốc sẽ có những động thái mạnh mẽ ủng hộ Liên
Xô trong cuộc đụng độ với Mỹ. Nhưng đổi lại, Liên Xô không nhận được sự hỗ trợ
tích cực từ Trung Quốc, thậm chí Trung Quốc còn yêu cầu Liên Xô phải từ bỏ mọi
quan hệ và phải lên án Ấn Độ là đứng về phía đế quốc, kích động chiến tranh với
Trung Quốc để phục vụ lợi ích đế quốc. Do không nhận được sự ủng hộ tích cực
tương ứng từ Trung Quốc, đặc biệt là sau khi giải quyết xong vấn đề Caribe với Mỹ,
Liên Xô đã có sự thay đổi mạnh mẽ về thái độ. Chuyển từ ủng hộ Trung Quốc sang
127
trung lập, thậm chí có phần nghiêng về ủng hộ Ấn Độ.
Nhân tố Mỹ và Liên Xô tác động rất lớn đến việc Trung Quốc tuyên bố rút
quân ngày 21/11. Việc Trung Quốc lợi dụng thời điểm cả Liên Xô và Mĩ gặp khó
khăn khi vướng vào cuộc khủng hoảng Caribe để phát động chiến tranh xâm lược
Ấn Độ đã thành công bước đầu, làm cho cả Mỹ và Liên Xô đều không kịp trở tay,
qua đó giúp Trung Quốc giành thắng lợi dễ dàng và tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ.
Khi Mỹ và Liên Xô chấm dứt đối đầu, Mỹ tích cực viện trợ cho Ấn Độ, yêu cầu
Pakistan không được có hành động chống lại Ấn Độ và Liên Xô chuyển về trạng
thái trung lập, Trung Quốc ngay lập tức phải tính toán lại rồi đưa ra tuyên bố ngừng
bắn đơn phương. Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành nhiệm vụ của cuộc phản công
tự vệ là dạy cho Ấn Độ một bài học và rút quân. Tuy nhiên, trên thực tế, việc Trung
Quốc rút quân còn có lý do rất lớn là sự lo sợ những tổn thất cả trên chiến trường
lẫn bên ngoài mà nước này phải gánh chịunếu tiếp tục leo thang chiến tranh với Ấn
Độ, khi mà Ấn Độ ngày càng nhận được sự viện trợ mạnh mẽ từ Mỹ và đồng minh
của Mỹ còn Liên Xô thì không ủng hộ mình nữa, dư luận trên thế giới bắt đầu tỏ ra
ủng hộ Ấn Độ. Nếu Trung Quốc tiếp tục kéo dài cuộc chiến chống Ấn Độ, họ sẽ
phải đương đầu trực tiếp với Mỹ. Rõ ràng, nếu điều đó xảy ra, Trung Quốc sẽ bị tổn
thất nặng nề, nhất là trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt của vùng Himalaya.
Kéo dài cuộc chiến tranh thì Liên Xô nhiều khả năng ngả hẳn sang Ấn Độ, như thế
Trung Quốc sẽ bị tấn công từ nhiều phía, cả ở trong pheXHCN và từ phía kẻ thù
TBCN. Kéo theo sau đó là đồng minh của Mỹ và Liên Xô. Như thế quá bất lợi,
thậm chí rất nguy hiểm cho Trung Quốc.
Trong khi các cường quốc Mỹ, Anh, Liên Xô có tác động mạnh mẽ đến việc
Trung Quốc buộc phải kết thúc cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ, các nước
thuộc Phong trào Không liên kết bị chia rẽ sâu sắc và nhiều cách phản ứng khác
nhau. Khi chiến tranh mới bùng nổ, các nước Không liên kết rất lúng túng, tiến
thoái lưỡng nan nên hầu hết lựa chọn im lặng. Tuy nhiên,cùng với thời gian, các
nước Không liên kết đã đưa ra được cách phản ứng phù hợp cho từng nước. Cách
thức lựa chọn tương ứng của từng nước vừa phản ánh việc họ coi trọng mối quan hệ
128
với các nước Ấn Độ và Trung Quốc cũng như ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc
đối với họ là khác nhau. Những nước chịu ảnh hưởng hoặc ở gần cả Ấn Độ và
Trung Quốc nên chịu ảnh hưởng mạnh của cả Ấn Độ và Trung Quốc thì phản ứng
mạnh mẽ hơn. Còn các nước Không liên kết ở châu Âu, Mỹ Latin, châu Phi chỉ
dừng lại ở việc kêu gọi các bên kiềm chế và giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa bình và đa số họ lựa chọn con đường trung lập thụ động. Chỉ có một nhóm
gồm sáu nước là tích cực vừa kêu gọi vừa hành động cụ thể để giúp Ấn Độ và
Trung Quốc hòa giải. Việc các quốc gia Không liên kết lựa chọn phản ứng khác
nhau cho thấy họ là những nước nhỏ, ít có tác động gây ảnh hưởng được đến Ấn Độ
và Trung Quốc cũng như tham gia vào quan hệ quốc tế. Trung lập là phản ứng phù
hợp với hoàn cảnh của các nước nhỏ và đạt được những kết quả ngoại giao của
mình. Cách phản ứng thận trọng, không đứng về bên nào chống bên còn lại là cách
lựa chọn khôn ngoan trong quan hệ quốc tế. Mặc dù làm như thế có thể gây thất
vọng cho cả Ấn Độ và Trung Quốc, khi một trong hai bên tích cực vận động để
được các nước Không liên kết ủng hộ lập trường của mình, nhưng nó cũng không
gây tổn hại lớn đến quan hệ ngoại giao cũng như lợi ích sau này của các quốc gia.
Một khi chiến tranh kết thúc, các mối quan hệ trở lại bình thường thì không có
những điều đáng tiếc phải sửa chữa.
5.4. Nhân tố quốc tế sau khi Trung Quốc rút quân và quá trình hòa giải
Mặc dù Trung Quốc đơn phương tuyên bố rút quân vào ngày 21/11/1962,
nhưng thái độ của Mỹ và đồng minh của Mỹ là không thay đổi. Những gì Mỹ và
đồng minh cam kết ủng hộ Ấn Độ vẫn tiếp tục được triển khai. Phái đoàn quân sự
của Mỹ và Anh tiếp tục lên đường đến Ấn Độ để đánh giá tình hình và bàn các giải
pháp phù hợp. Mỹ triển khai lời hứa với Ấn Độ sẽ viện trợ bằng không quân chống
lại các cuộc tấn công của Trung Quốc vào Ấn Độ; Hiệp định đào tạo không quân và
diễn tập phòng không chung giữa Ấn Độ và Mỹ; các thỏa thuận hỗ trợ kinh tế của
Mỹ cho Ấn Độ được tiếp tục cho đến năm 1968; hợp tác Ấn Độ - Mỹ ngày càng
phát triển trên nhiều lĩnh vực. Chính những việc làm của Mỹ và Anh đã góp phàn
quan trọng tăng cường lực lượng và sự tự tin của Ấn Độ trong cuộc đối đầu với
129
Trung Quốc. Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 là một cơ
hội rất tốt và Mỹ đã tận dụng nó triệt để nhằm lôi kéo Ấn Độ ngả theo mình. Tuy
vậy, Mỹ cũng lợi dụng cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ để phục vụ
cho việc giải quyết xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan. Kèm theo mỗi khoản viện trợ,
mỗi sự hợp tác với Ấn Độ, Mỹ và đồng minh đều kèm các điều khoản gây sức ép
buộc Ấn Độ có những nhượng bộ đối với Pakistan trong tranh chấp tại khu vực
Kashmir. Mỹ và đồng minh của mình cho rằng giải quyết xong vấn đề Pakistan –
Ấn Độ sẽ tạo ra đồng minh ở Nam Á chống lại Trung Quốc. Tuy vậy, vấn đề
Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan đã không thể giải quyết cho đến ngày nay.
Khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, quan hệ giữa Liên Xô và Ấn Độ cũng
thay đổi mạnh mẽ. Trên danh nghĩa, Liên Xô trở về trạng thái trung lập, kêu gọi hai
nước giải quyết tranh chấp thông qua con đường đàm phán, Liên Xô cũng tích cực
ủng hộ nhóm sáu nước Không liên kết trong nỗ lực làm cầu nối hòa giải Trung
Quốc – Ấn Độ. Tuy nhiên, Liên Xô ngày càng tiến gần về phía Ấn Độ. Một mặt,
các nhà lãnh đạo Liên Xô vừa ngấm ngầm, vừa công khai chỉ trích lãnh đạo Trung
Quốc gây ra cuộc chiến tranh. Mặt khác, Liên Xô nối lại và mở rộng thêm các
khoản viện trợ quân sự, kinh tế, hợp tác quốc phòng, khoa học giữa Liên Xô với Ấn
Độ. Đặc biệt năm 1971, Ấn Độ và Liên Xô ký Hiệp ướchữu nghị vàhợp tác. Trong
những năm 1980, Ấn Độ duy trìmột mối quan hệchặt chẽ vớiLiên Xô.Thể hiện sự
ưutiên caotrong quan hệ vớiLiên Xôtrongchính sách đối ngoạicủa Ấn Độ,
chuyếnthăm cấp nhà nướcđầu tiên của mìnhở nước ngoài,tân Thủ tướng Ấn Độ,
Rajiv Gandhi,đã đến thămLiên Xô năm 1985vàký kếthaihiệp định kinh tếlâu dài
vớiLiên Xô.Đổi lại,lần đầu tiênGorbachevtới một quốc gia thuộcthế giới thứ
balàcuộc gặp gỡ vớiRajiv Gandhiở NewDelhivào cuốinăm 1986.Mối quan hệ tốt
đẹp Ấn Độ - Liên Xô tiếp tục được duy trì cho đến khi Liên Xô sụp đổ. Việc Liên
Xô có quan hệ ngày càng tốt đẹp với Ấn Độ cũng đi cùng mối quan hệ Liên Xô –
Trung Quốc ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, việc cùng hệ tư tưởng không quan trọng
bằng lợi ích quốc gia. Trung Quốc ngày càng không bằng lòng với việc đứng dưới
cái bóng của Liên Xô trong pheXHCN và muốn khẳng định vai trò độc lập và tầm
130
ảnh hưởng của mình. Đỉnh điểm của mâu thuẫn Liên Xô – Trung Quốc đó là cuộc
chiến tranh biên giới giữa hai nước vào năm 1979, đánh dấu mối quan hệ đồng
minh, anh em Liên Xô – Trung Quốc hoàn toàn chấm dứt.
Dưới sức ép của Mỹ và phương Tây, Pakistan đã không thể hành động trong
thời gian chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ xảy ra. Tuy nhiên, khi Trung Quốc đã
tuyên bố ngừng bắn và rút quân, Pakistan đã tỏ rõ thái độ ủng hộ Trung Quốc và lên
án Ấn Độ. Một mặt, Pakistan ca ngợi hành động rút quân của Trung Quốc. Mặt
khác, tố cáo Ấn Độ đã gây ra tình trạng căng thẳng Ấn Độ - Trung Quốc; tố cáo Ấn
Độ lừa dối thế giới. Phản đối việc Mỹ công nhận tính hợp pháp của đường Mc
Mahon; thể hiện sự lo ngại vũ khí mà Ấn Độ nhận được từ Mỹ và phương Tây sẽ
được dùng để chống lại Pakistan. Hơn nữa Pakistan còn lợi dụng cuộc chiến tranh
này để đàm phán và giải quyết vấn đề biên giới với Trung Quốc, cắt một phần đất ở
vùng đang tranh chấp với Ấn Độ cho Trung Quốc. Ngày 3/3/1963, Chen Yi phát
biểu của tại bữa tiệc mừng hai nước kí Hiệp định biên giới“Việc ký kết Hiệp định
này cấu thành một cột mốc quan trọng của tình hữu nghị Trung Quốc – Pakistan…
Tổng thốngPakistanbất chấp áp lực bên ngoài, đã chọn việc khôi phục ghế hợp
pháp của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc và bây giờký với Trung Quốc Hiệp định
biên giới” [112; tr.38]. Từ đó trở thành đồng minh thân cận của Trung Quốc, cùng
tạo thành các gọng kìm chống lại Ấn Độ.
Mặc dù không có tác động lớn đến việc Trung Quốc tuyên bố rút quân,
nhưng một nhóm gồm sáu nước Không liên kết là Sri Lanka, Indonesia, Miến Điện,
Ghana, Ai Cập, Campuchia đã rất tích cực tổ chức Hội nghị hòa giải tại Colombo.
Quá trình tổ chức Hội nghị diễn ra khá căng thẳng do lập trường của cả Trung Quốc
và Ấn Độ đều không nhượng bộ. Sự nỗ lực không ngừng nghỉ của sáu nước tham
dự Hội nghị Colombo, đặc biệt là Thủ tướng nước chủ nhà, Bà Bandaranaike, đã
đưa ra một đề xuất gồm 6 điểm nhằm duy trì lệnh ngừng bắn và tạo cơ sở cho các
hoạt động đàm phán giữa Ấn Độ và Trung Quốc cho phải pháp biên giới hai nước
sau đó. Đề xuất sáu điểm của Hội nghị hòa giải Colombo được truyền tải đến các
nhà lãnh đạo hai nước Ấn Độ và Trung Quốc. Do quan điểm giải quyết của các nhà
131
lãnh đạo Ấn Độ và Trung Quốc khác xa nhau và không thể dung hòa nên cuối cùng
hội nghị Colombo kết thúc mà không đạt được sự tiến bộ nào trong quan hệ Ấn Độ
- Trung Quốc. Tuy những hoạt động của nhóm sáu nước tại Colombo không đem lại
giải pháp cuối cùng cho cuộc tranh chấp lãnh thổ Ấn Độ - Trung Quốc nhưng nó đã
thể hiện được vai trò, sự quyết tâm và giúp họ rút ra được những kinh nghiệm quý
báu trong việc giải quyết những vấn đề giữa các thành viên.
5.5. Đánh giá được và mất của Trung Quốc và Ấn Độ quacuộc chiến tranh
biên giới năm 1962
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 vừa gây ra cho
Ấn Độ và Trung Quốc những tổn thất, mất mát to lớn nhưng cũng để lại cho những
nước này những điều có lợi.
Trước hết, đánh giá những mất mát của cả hai phía
Về phía Ấn Độ,cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1962 gây ra
tổn thất.Thứ nhất, Ấn Độ là nước bại trận trên chiến trường. Những con số nói về
người chết, bị thương, người bị bắt làm tù binh đều cao hơn phía Trung Quốc rất
nhiều; các đồn bốt trong chính sách “Tiến lên phía trước” dọc biên giới phía đông
bắc với Trung Quốc bị phá hủy hoàn toàn; sự hoang mang, tuyệt vọng từ những
người lính, những người chỉ huy ngoài chiến trường, sự hoảng loạn của dân chúng
không chỉ ở vùng chiến sự, vùng xa xôi mà nó còn được thấy rất rõ ngay tại thủ đô
Delhi. Sự tuyệt vọng còn xảy ra cả ở những người đứng đầu quân đội, đứng đầu đất
nước như Bộ trưởng quốc phòng, Thủ tướng J. Nehru,… Thứ hai, sau cuộc chiến
tranh này, một phần đất tại Kashmir còn đang tranh chấp đã bị Pakistan đưa vào
Hiệp định biên giới với Trung Quốc và chuyển sang lãnh thổ Trung Quốc trên 5.000 km2. Thứ ba, cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1962 đã thúc đẩy
quan hệ Trung Quốc – Pakistan ngày càng gắn kết và nó trở thành một mối đe dọa
thường trực đến từ hai quốc gia láng giềng lớn ở phía bắc và Tây. Thứ tư, cuộc
chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1962 cũng làm cho Ấn Độ không còn giữ
được chính sách trung lập hoàn toàn. Ấn Độ buộc phải tìm kiếm những sự hỗ trợ từ
bên ngoài và như vậy chắc chắn Ấn Độ sẽ bị những ràng buộc kèm theo những sự
132
ủng hộ về ngoại giao, kinh tế, quân sự mà những nước lớn giúp đỡ. Qua đó Ấn Độ
cũng mất đi những hình ảnh trung lập trong sáng trong mắt các nước thuộc thế giới
thứ Ba. Thứ năm, những thiệt hại lớn về kinh tế do cuộc chiến tranh này gây ra gián
tiếp và trực tiếp. Từ những tàn phá về cơ sở vật chất, đường giao thông, công trình
công, nông nghiệp, được nhìn thấy ngay trong cuộc chiến đến những hậu quả lâu
dài của nó. Thứ sáu, chính phủ Ấn Độ bị giảm niềm tin trong dân chúng. Việc chính
phủ của Thủ tường J. Nehru không có chuẩn bị, hoàn toàn bị động, hoang mang, bị
thất bại nhanh chóng trước sự tấn công của Trung Quốc đã làm cho dân chúng Ấn
Độ có cái nhìn khác, sự hoài nghi về chính sách bất bạo động, chính sách trung lập
và chủ nghĩa lý tưởng mà Thủ tướng J. Nehru đang theo đuổi. Họ không còn hoàn
toàn ủng hộ mọi chính sách của Thủ tướng Nehru như trước nữa.
Về phía Trung Quốc, việc gây ra cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ đã
gây cho Trung Quốc những tổn thất nhất định, mặc dù ít nhiêm trọng hơn Ấn
Độ.Trước hết, cũng như Ấn Độ, chiến tranh đã cướp đi và làm thương tích hàng
ngàn người, thiệt hại lớn về vũ khí, phương tiện chiến tranh đến những cơ sở vật
chất phải đổ vào cuộc chiến. Thứ hai, có lẽ đây là mất mát lớn hơn mà các nhà lãnh
đạo Trung Quốc phải gánh chịu sau khi gây ra cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ
năm 1962. Từ cách Trung Quốc chuẩn bị, tuyên truyền đến cách chọn thời điểm, tổ
chức tấn công đến việc rút quân và các yêu sách của Trung Quốc đã làm cho lãnh
đạo các nước trên thế giới chợt tỉnh ra và đánh giá lại về Trung Quốc. Trung Quốc
đã lộ rõ bản chất của mình và tham vọng chống lại Liên Xô, không còn coi trọng
Liên Xô. Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã phải đánh giá lại chính sách với Trung Quốc
và ngày càng trở nên đối đầu hơn với Trung Quốc. Đó làsự mất mát sớm mà Trung
Quốc phải nhận lấy. Đối với các nước láng giềng của Trung Quốc, cuộc chiến tranh
này cho thấy sự hung hăng của Trung Quốc và tất nhiên họ cũng sẽ buộc phải rút ra
những bài học cho riêng mình và có giải pháp tương ứng trong mối quan hệ với
người hàng xóm khổng lồ này. Những tính toán ngoại giao, quốc phòng buộc phải
có sự cân nhắc mạnh mẽ hơn để tránh việc Trung Quốc tuyên truyền xuyên tạc lâu
dài và chuẩn bị cho các cuộc chiến tranh trong tương lai. Những chính sách quốc
133
phòng cũng cần được tính đến để đối phó với Trung Quốc. Như thế, có thể đánh giá
sự mất mát của Trung Quốc qua cuộc chiến tranh với Ấn Độ đó là sự “lộ mình quá
sớm” để rồi các nước tập trung đề phòng.
Bên cạnh những mất mát, cả Ấn Độ và Trung Quốc đều thu được những
điều có lợi cho mình
Về phía Trung Quốc,trước hết, việc gây ra cuộc chiến biên giới với Ấn Độ
đã giúp Trung Quốc ghi điểm trong mắt người Pakistan, “kẻ thù của kẻ thù là bạn”
qua đó giúp quan hệ Trung Quốc và Pakistan dần gần nhau và từng bước trở thành
liên minh, đối tác chiến lược quan trọng của nhau tạo thành hai gọng kìm hướng
vào Ấn Độ. Đây có thể là thắng lợi lớn nhất của Trung Quốc thông qua cuộc chiến
tranh này. Thứ hai, từ sự xích lại gần với Pakistan giúp cho việc giải quyết vấn đề
biên giới giữa Trung Quốc và Pakistan trở nên thuận lợi và nhanh chóng hơn, dễ
nhượng bộ hơn. Cụ thể của quan hệ này là Hiệp định biên giới Trung Quốc –
Pakistan được ký kết, trong đó Trung Quốc được lợi về lãnh thổ mà Pakistan cắt từ
vùng đất Kashmir đang tranh chấp với Ấn Độ cho Trung Quốc. Thứ ba, việc gây ra
chiến tranh với Ấn Độ đã giúp các lãnh đạo của Trung Quốc thực hiện một phép thử
đối với phản ứng của Liên Xô và qua đó đánh giá được chính sách với Liên Xô. Từ
sự phản ứng của Liên Xô, Trung Quốc còn chứng minh và làm xấu hình ảnh của
Liên Xô trong mắt các đối tác của Liên Xô. Làm xấu Liên Xô chính là một mục tiêu
quan trọng của Trung Quốc nhằm thay thế vai trò của Liên Xô trong pheXHCN và
phong trào giải phóng dân tộc. Thứ tư, Trung Quốc tấn công và gây ra cho Ấn Độ
tổn thất nặng nề, Ấn Độ phải tìm sự giúp đỡ từ Mỹ và phương Tây đã làm giảm uy
tín của đường lối trung lập mà J. Nehru và Chính phủ Ấn Độ đang theo đuổi mà
Trung Quốc tuyên truyền trước đó là giả tạo. Thứ năm, bối cảnh trong nước Trung
Quốc đang gặp vô vàn khó khăn, việc gây chiến với Ấn Độ còn giúp chính quyền
đánh lạc hướng sự chú ý của dân chúng. Chính quyền Trung Quốc dùng những luận
điệu tuyên truyền Ấn Độ xâm lược Trung Quốc và Trung Quốc phải “phản công tự
vệ” để thu hút sự chú ý chống lại quân xâm lược mà quên đi những đói khổ mà
những sai lầm của cuộc “Đại nhảy vọt” đang gây ra cho nhân dân Trung Quốc.
134
Khởi dậy tinh thần dân tộc để che dấu những hạn chế của nền kinh tế chỉ huy và
những mâu thuẫn xã hội trong nước. Đồng thời còn làm tạm lắng mâu thuẫn nội bộ
của Đảng cộng sản Trung Quốc về con đường xây dựng đất nước.
Về phía Ấn Độ, sau cuộc chiến tranh với Trung Quốc, Chính phủ Ấn Độ
cũng có được những điều lợi cho mình. Thứ nhất, cuộc chiến tranh này giúp Nehru
bừng tỉnh và hiểu rằng không có chủ nghĩa lý tưởng mà mình đang theo đuổi. Chủ
nghĩa lý tưởng với việc tin vào tình anh em cùng chiến hào chống đế quốc là viển
vông và cần phải loại bỏ. Thứ hai, việc bị Trung Quốc bất ngờ tấn công, cho dù
trước đó trong suy nghĩ của ông Trung Quốc sẽ không bao giờ tấn công Ấn Độ, đã
giúp Nehru có được bài học trong mối quan hệ với chính người hàng xóm luôn rêu
rao về năm nguyên tắc chung sống hòa bình,…lại sẵn sàng tấn công mình. Thứ ba,
việc Liên Xô không thể giúp đỡ Ấn Độ ngay lập tức đã giúp Thủ tướng Nehru cũng
rút ra được bài học trong mối quan hệ với nước lớn. Không thể quá kỳ vọng vào sự
giúp đỡ của họ. Qua đó Nehru cũng có điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của
mình. Thứ tư, việc quá chủ quan, không có bất cứ phòng bị hay chuẩn bị cho một
cuộc đối đầu quy mô lớn dẫn đến quân đội Ấn Độ nhanh chóng bị “nghiền nát” tại
vùng biên ải đã giúp Nehru rút ra bài học về việc phòng bị. Trong cuộc tìm kiếm sự
chung sống hòa bình của mình, J. Nehru không củng cố quốc phòng của đất nước và
không coi Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu.Sau cuộc tấn công của Trung Quốc,
J. Nehru đã nhận thức được rằng ngoại giao hòa bình không thể chống lại các mối
đe dọa đến an ninh quốc gia, cần phải duy trì lực lượng vũ trang để chống lại bất kỳ
xâm lược bên ngoài. Ấn Độ cũng thay đổi tư duy, trước năm 1962, phần lớn các nhà
hoạch định về các vấn đề quốc phòng đều cho rằng chi tiêu quốc phòng không hiệu
quả và tiêu hao tiềm lực quốc gia.Nhưng sau cuộc tấn công của Trung Quốc năm
1962, chi tiêu quốc phòng của Ấn Độ tăng đáng kể. Trước chiến tranh Trung - Ấn
1962, khoảng 4.740 triệu Rupees, trong năm 1962-1963tăng lên 8.160 triệu Rupees
sau đó tiếp tục tăng. Ấn Độ tập trung ưu tiên hàng đầu phát triển các khu vực biên
giới để có thể chống lại bất kỳ cuộc xâm lược nào từ Trung Quốc. Ấn Độ thiết lập
việc chuẩn bị quốc phòng một cách có hệ thống hơn, coi việc hoạch định quốc
135
phòng là vấn đề lâu dài. Các mục tiêu trước mắt vào năm 1963 là:1) Mở rộng và
hiện đại hóa quân đội.2) Hiện đại hoá Không quân.3) Xây dựng một cơ sở sản xuất
quốc phòng đầy đủ.4) Cải thiện và mở rộng trong các phương tiện giao thông và
vận tải.5) Thay thế các tàu quá hạn của Hải quân. Lần đầu tiên kể từ khi Ấn Độ độc
lập, năm 1964, kế hoạch Quốc phòng 5 năm được xây dựng. Năm 1964-1965, kế
hoạch phòng thủ 5 năm từ 1965-1966 đến 1969-1970 được xây dựng và thực hiện.
Chính những đầu tư quốc phòng đã giúp Ấn Độ ngày càng tự tin và trên thực tế,
trong các cuộc chiến tranh với Pakistan 1965 và 1971, Ấn Độ đều giành chiến
thắng; trong các cuộc đụng độ với quân Trung Quốc trên biên giới, quân Ấn Độ
không còn bị nép vế như năm 1962.
136
Tiểu kết chương 5
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 là cuộc chiến
tranh ngắn, chiến tranh chớp nhoáng do Trung Quốc chủ động tấn công và Ấn Độ bị
động đối phó. Là nước chủ động trong cuộc chiến nên Trung Quốc đã có những tính
toán kỹ lưỡng, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là
những hoạt động ngoại giao tích cực của giới lãnh đạo Trung Quốc nhằm từng bước
xây dựng hình ảnh một nước Trung Quốc hòa bình, thân thiện như giải quyết vấn đề
biên giới với các nước láng giềng, đặc biệt với những nước có biên giới chung với
cả Ấn Độ và Trung Quốc; tích cực trong Phong trào Không liên kết. Trực tiếp là
quân đội được chuẩn bị đầy đủ gồm: binh sỹ được tăng cường, xây dựng các quân
khu gần biên giới với Ấn Độ; huấn luyện binh sỹ chiến đấu trong điều kiện khắc
nghiệt của vùng Himalaya; xây dựng đường giao thông, hậu cần, vũ khí,… phục vụ
tốt nhất cho cuộc chiến.
Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 có nguyên nhân
cả chủ quan là vai trò và lựa chọn của các nhà lãnh đạo đương thời của Trung Quốc
và Ấn Độ. Tuy nhiên cuộc chiến này có nguyên nhân chịu sự tác động sâu sắc của
các nhân tố quốc tế. Thực dân Anh trong thời kỳ cai trị Ấn Độ và quá trình xây
dựng đường biên giới Ấn Độ - Trung Quốc của họ là nguyên nhân sâu xa của tranh
chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Nhân tố bối cảnh quốc tế với tư duy
chiến tranh lạnh, đặc biệt là sự đối đầu Liên Xô – Mỹ ở Cuba là tác nhân quan trọng
quyết định thời điểm bùng nổ cuộc chiến tranh này.
Mặc dù thế giới đang bị cuốn vào cuộc khủng hoảng hạt nhân tại Cuba, khi
chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ bùng nổvẫn thu hút sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế. Tùy theo tầm ảnh hưởng và lợi ích quốc gia, các nước trên thế
giới có những phản ứng khác nhau. Mỹ và các đồng minh của mình nhanh chóng
tận dụng cơ hội để lôi kéo Ấn Độ về phía mình nên hưởng ứng nhiệt tình và giúp đỡ
tích cực những yêu cầu giúp đỡ của Ấn Độ, kiềm chế Pakistan giúp Ấn Độ. Liên Xô
ban đầu ủng hộ Trung Quốc nhưng nhanh chóng chuyển sang trung lập và nghiêng
về phía Ấn Độ. Nhân tố Mỹ đóng một vai trò rất quan trọng liên quan đến việc
137
Trung Quốc phải tuyên bố ngừng bắn, rút quân. Các nước thuộc Phong trào Không
liên kết thì gặp vô vàn khó khăn, thách thức vì tầm ảnh hưởng của cả Ấn Độ và
Trung Quốc. Sự phân hóa mạnh mẽ trong các phản ứng của những nước này, một số
không quan tâm, không phản ứng; một số kêu gọi đàm phán hòa bình; một số ủng
hộ bên này hoặc bên kia.
Cho dù Trung Quốc đơn phương tuyên bố chấm dứt chiến tranh nhưng các
nhân tố quốc tế tiếp tục tác động đến quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc. Mỹ và đồng
minh tiếp tục duy trì ủng hộ, viện trợ cho Ấn Độ; Liên Xô trên danh nghĩa trung lập
nhưng nghiêng nhiều về phía Ấn Độ, nối lại và mở rộng thêm các hợp tác kinh tế,
khoa học, quốc phòng,… Quan hệ Liên Xô – Ấn Độ ngày càng tốt đẹp và quan hệ
Liên Xô – Trung Quốc ngày càng mâu thuẫn sâu sắc. Việc Mỹ và đồng minh viện
trợ cho Ấn Độ và kiềm chế Pakistan đã đẩy Pakistan đến gần hơn với Trung Quốc.
Sau cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962, Trung Quốc và
Pakistan trở thành liên minh chiến lược.
138
KẾT LUẬN
1. Cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962là một trong
những cuộc chiến tranh “đặc biệt” trong lịch sử thế giới hiện đại
Đây là một cuộc chiến tranh đặc biệt vì: Thứ nhất, Ấn Độ và Trung Quốc là
hai quốc gia lớn nhất, chủ chốt của phong trào chống chủ nghĩa thực dân và đều có
vai trò to lớn trong thế giới thứ ba; hai nước rất tích cực vận động và có vai trò to
lớn trong việc tập hợp, đoàn kết các nước Á, Phi tổ chức thành công Hội nghị
Bandung và thành lập Phong trào không liên kết; cùng đề xuất các nguyên tắc
chung sống hòa bình, lại xảy ra một chiến tranh khốc liệt nên dành được sự quan
tâm rất lớn từ các nước Không liên kết. Thứ hai, Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc
gia lớn nhất châu Á, đông dân nhất thế giới, có nền văn hóa lâu đời và có những ảnh
hưởng mạnh mẽ trên phạm vi thế giới. Vì thế, khi họ xảy ra chiến tranh đã gây được
sự quan tâm đặc biệt của cả thế giới, nhất là những nước láng giềng “nhỏ bé” của cả
hai “gã khổng lồ” này. Thứ ba, Ấn Độ và Trung Quốc đều có những mối quan hệ đa
dạng với nhiều nước trên thế giới. Từ những nước thuộc phe TBCN như Mỹ, Anh;
các nước thuộc phe XHCN như Liên Xô. Chính vì tầm vóc to lớn, vai trò quan
trọng và mối quan hệ đa dạng, chằng chéo của Ấn Độ, Trung Quốc mà cuộc chiến
tranh này thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các cường
quốc như Liên Xô, Mỹ và các đồng minh của họ. Thứ tư,cuộc chiến tranh biên giới
Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962 là cuộc chiến tranh ngắn, chiến tranh chớp nhoáng,
chỉ kéo dài khoảng một tháng.
2. Nhân tố quốc tế ảnh hưởng sâu sắc, xuyên suốt cuộc chiến tranh này
Các nhân tố quốc tế ảnh hưởng một cách sâu sắc tới toàn bộ cuộc chiến tranh
năm 1962 và quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ nói chung. Nguồn gốc dẫn đến mâu
thuẫn rồi xảy ra chiến tranh chịu tác động rất lớn từ các nhân tố quốc tế như di sản
của chủ nghĩa thực dân để lại, bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực. Di sản của chủ
nghĩa thực dân Anh trong quá trình cai trị Ấn Độ để lại là nguồn gốc sâu xa dẫn đến
mâu thuẫn, tranh chấp lãnh thổ gữa Trung Quốc và Ấn Độ. Những mâu thuẫn này
đã có từ trước những những năm đầu sau khi Ấn Độ giành được độc lập và Cộng
139
hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời, do còn non trẻ và rất cần sự ủng hộ của
quốc tế cũng như sự ủng hộ lẫn nhau trên các vấn đề quốc tế nên mâu thuẫn, tranh
chấp này bị ẩn đi. Nhưng từ khi Trung Quốc tăng cường kiểm soát Tây Tạng, đặc
biệt khi cả Ấn Độ và Trung Quốc tìm cách cạnh tranh ảnh hưởng trong Phong trào
Không liên kết và thế giới thứ ba thì những tranh chấp này lại nổi lên trong quan hệ
giữa hai nước. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực là nguyên nhân khách quan trực
tiếp của thời điểm bùng nổ cuộc chiến tranh. Trung Quốc đã quyết định chọn thời
điểm giữa tháng 10/1962 để mở cuộc tấn công Ấn Độ là do tính toán của các nhà
lãnh đạo Trung Quốc nhằm tận dụng tối đa hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho hành
động quân sự của mình. Hai siêu cường Liên Xô và Mỹ bị vướng vào cuộc khủng
hoảng hạt nhân rất căng thẳng không thể can thiệp vào các hoạt động khác được.
Hơn nữa, cả thế giới cũng đang bị hút vào cuộc khủng hoảng hạt nhân giữa Liên Xô
và Mỹ nên sẽ không thể quan tâm nhiều đến cuộc tấn công của Trung Quốc.
Mặc dù, không thể so sánh về mức độ ảnh hưởng với cuộc khủng hoảng hạt
nhân giữa Liên Xô và Mỹ ở Cuba, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ
năm 1962 vẫn thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. Từ những
nước lớn như Anh, Mỹ, Liên Xô đến những nước Á, Phi, Mỹ Latin, Phong trào
không liên kết đều có những phản ứng và động thái nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc
chiến tranh. Trong đó, nhân tố Mỹ và phương Tây có tác động rất quan trọng đến
việc buộc Trung Quốc phải tuyên bố ngừng bắn và rút quân. Sau khi Trung Quốc
tuyên bố ngừng bắn, các nhân tố quốc tế tiếp tục có ảnh hưởng đến quá trình tìm
giải pháp cho tranh chấp hai bên. Mỹ tiếp tục ủng hộ Ấn Độ, Liên Xô trở về trạng
thái trung lập, một số nước trong Phong trào không liên kết rất tích cực tìm giải
pháp hòa bình cho cuộc chiến thông qua việc tổ chức Hội nghị Colombo.
3. Bản thân cuộc chiến này cũng tác động ngược trở lại sâu sắc quan hệ
quốc tế, làm thay đổi nhiều mối quan hệ
Trước hết, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau cuộc chiến năm 1962,
mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trở nên căng thẳng, những nhận thức mới
được cả Ấn Độ và Trung Quốc rút ra cho mối quan hệ với nước còn lại.
140
Về phía Ấn Độ, sự thay đổi nhận thức về mối đe dọa, trước năm 1962, Ấn Độ
cho rằng mối đe dọa lớn đối với an ninh của họ chỉ có thể đến từ Pakistan. Tuy
nhiên, từ khi bị Trung Quốc tấn công vào năm 1962, Ấn Độ thay đổi hoàn toàn
quan điểm và Trung Quốc trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với Ấn Độ. Trước năm
1962, khái niệm quốc phòng không được Ấn Độ chú ý đúng mức. J. Nehru đã lãng
mạn hóa chính sách đối ngoại và chủ trương không liên kết. J. Nehru không củng cố
quốc phòng của đất nước và không coi Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu.Sau
cuộc tấn công của Trung Quốc, J. Nehru đã nhận thức được rằng ngoại giao hòa
bình không thể chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài, cần phải duy trì lực lượng vũ
trang để chống lại bất kỳ xâm lược bên ngoài. Ấn Độ cũng thay đổi tư duy, trước
năm 1962, phần lớn các nhà hoạch định về các vấn đề quốc phòng đều cho rằng chi
tiêu quốc phòng không hiệu quả và tiêu hao tiềm lực quốc gia. Nhưng sau cuộc tấn
công của Trung Quốc năm 1962, chi tiêu quốc phòng của Ấn Độ tăng đáng kể. Ấn
Độ tập trung ưu tiên hàng đầu phát triển các khu vực biên giới để có thể chống lại
bất kỳ cuộc xâm lược nào từ Trung Quốc; thay đổi các chính sách liên quan đến
việc sử dụng vũ lực. Đáng chú ý nhất là sự thay đổi về quy hoạch và quản lý quốc
phòng.Chính phủ Ấn Độ thiết lập việc chuẩn bị quốc phòng một cách có hệ thống
hơn, coi việc hoạch định quốc phòng là vấn đề lâu dài.
Về phía Trung Quốc, để chuẩn bị chiến tranh với Ấn Độ, Trung Quốc đã tìm
cáchcô lập Ấn Độ với các nước láng giềng của cả Ấn Độ và Trung Quốc. Trung
Quốc giải quyết tranh chấp biên giới của mình thông qua các cuộc đàm phán với
Nepal vàMiến Điệnnăm 1960 mà trong đó có nhữngnhượng bộ cho các quốc gia
này. Trung Quốc đã ký hiệp ước biên giới với Pakistan và sẽ giải quyết tranh chấp
biên giới của mình với Bhutan.Vì vậy, Trung Quốc đã đạt được một lợi thế ngoại
giao bằng cách cô lập Ấn Độ. Tác động của cuộc tấn công của Trung Quốc năm
1962 ảnh hưởng đến uy tín của Ấn Độ đối với Nepal và Bhutan. Ảnh hưởng của
Trung Quốc trong khu vực Himalaya tăng lên. Trung Quốc đã tiến hành thử hạt
nhân vào năm 1964 để đáp lạinhững động thái tăng cườngquốc phòng của Ấn
Độ;Trung Quốc thiết lập mối liên minh chặt chẽ với Pakistan, cung cấp viện trợ
141
quân sự, công nghệ và hạt nhân cho Pakistan; xây dựng đường cao tốc Karakoram
tới Pakistan. Trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, năm 1965, Trung Quốc ủng
hộ tích cực cho Pakistan: gây áp lực lên biên giới Trung - Ấn; gọi Ấn Độ là một
quốc gia hiếu chiến;đưa ra tối hậu thư đe dọa can thiệp vào cuộc chiến tranh, tập kết
quân đội dọc biên giới Trung Quốc - Ấn Độ; cáo buộc Ấn Độ đã thực hiện kế hoạch
của Mỹ là làm cho người châu Á chiến đấu với người châu Á và phá vỡ sự đoàn kết
Á - Phi.
Thứ hai, quan hệ Liên Xô với Trung Quốc và Ấn Độ có chuyển biến mạnh
mẽ. Từ chỗ Liên Xô và Trung Quốc có quan hệ đồng minh, sau cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ, quan hệ Xô - Trung ngày càng căng thẳng, lãnh đạo Liên
Xô nhiều lần chỉ trích Trung Quốc gây ra chiến tranh, Liên Xô rút hết chuyên gia,
chấm dứt mọi hợp tác với Trung Quốc. Trung Quốc cáo buộc Liên Xô cấu kết với J.
Nehru chống lại Trung Quốc. Trong những năm sau đó, quan hệ Liên Xô – Trung
Quốc ngày càng xấu đi, kết hợp với những tranh chấp lãnh lãnh thổ đã dẫn đến cuộc
chiến tranh biên giới Liên Xô – Trung Quốc vào năm 1969. Trái lại với quan hệ Liên
Xô – Trung Quốc, quan hệ Liên Xô – Ấn Độ ngày càng gắn kết từ các hoạt động
ngoại giao đến viện trợ của Liên Xô cho Ấn Độ và các hợp tác kinh tế, quốc phòng,
khoa học giữa hai nước và Ấn Độ - Liên Xô đã thiết lập quan hệ chiến lược.
Thứ ba, quan hệ giữa Ấn Độ với Mỹ và đồng của Mỹ, từ chỗ có quan điểm
rất khác nhau trong các vấn đề quốc tế, dưới tác động của cuộc tấn công từ Trung
Quốc năm 1962, Ấn Độ và Mỹ đã xích lại gần nhau và Mỹ là nước tích cực nhất
trong việc viện trợ cho Ấn Độ, Ấn Độ đã có cái nhìn khác đi rất nhiều đối với Mỹ;
quan hệ Ấn Độ - Mỹ được cải thiện rất nhiều. Ngược lại, quan hệ giữa Mỹ và
Pakistan không còn được như trước. Vì vậy, mặc dù là đồng minh thân cận của
Pakistan nhưng khi chiến tranh bùng nổ giữa Ấn Độ và Pakistan vào năm 1965, Mỹ
đã lựa chọn trung lập bằng cách cắt toàn bộ viện trợ quân sự cho cả Pakistan và Ấn
Độ mà việc làm này tác động nhiều đến Pakistan hơn là Ấn Độ. Chính sự nồng ấm
trong quan hệ giữa Ấn Độ và Mỹ là một tác nhân rất quan trọng đẩy Pakistan tiến
rất gần với Trung Quốc.
142
Thứ tư, cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 tác động
mạnh mẽ đối với các nước Á, Phi và Phong trào không liên kết. Ấn Độ và Trung
Quốc đều là nước chủ chốt trong Phong trào không liên kết, vì thế,các nước trong
Phong trào không liên kết đứng trước sự lựa chọn rất khó khăn dẫn đến sự phân hóa
mạnh mẽ. Tuy vậy, cuộc chiến này cũng giúp Phong trào không liên kết có cơ hội
thể hiện mình với việc một nhóm nước tích cực đứng ra làm trung gian hòa giải.
Trong Phong trào không liên kết nổi lên vai trò của 6 quốc gia là Ai Cập, Ghana,
Indonesia, Campuchia, Miến Điện, đặc biệt là Sria Lanka. Với sự tích cực của nhóm
6 nước này đã góp phần quan trọng duy trì tuyên bố ngừng chiến giữa hai nước
trong thời gian dài.
Thứ năm, từ sau cuộc chiến tranh biên giới Trung Quốc – Ấn Độ năm 1962,
quan hệ Trung Quốc – Pakistan ngày càng bền chặt. Trung Quốc đã tăng cường hỗ
trợ kinh tế và quân sự cho Pakistan, cả Trung Quốc và Pakistan ủng hộ ngoại giao
mạnh mẽ cho nhau. Trong giai đoạn 1960 - 1970, Trung Quốc đã viện trợ trị giá
106,4 triệu USD. Về quân sự, tận dụng lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ đối với
Pakistan, Trung Quốc đã cấp xe tăng T-55, các biến thể của MIG 19 và đạn dược
của Trung Quốc cho Pakistan. Trung Quốc đề xuất hợp tác quân sự và chuyển giao
công nghệ không chỉ để thiết lập liên kết quân sự với Pakistan mà còn giúp cho
chương trình Nghiên cứu và Phát triển của chính họ. Các dự án chung sản xuất
nhiều loại vũ khí từ máy bay chiến đấu đến tàu khu trục tên lửa dẫn đường. Trung
Quốc đang giúp Pakistan xây dựng và phóng các vệ tinh viễn thám và truyền thông,
ngay cả khi Pakistan được cho là đang cho phép một cơ sở thông tin liên lạc không
gian của Trung Quốc hoạt động tại Karachi.Trung Quốc thiết kế và cung cấp các lò
phản ứng nước nặng, sản xuất plutonium của Pakistan. Trung Quốc cũng hỗ trợ kỹ
thuật và vật chất cho việc hoàn thành các lò phản ứng điện hạt nhân và cơ sở tái chế
plutonium, cung cấp bản vẽ của các vũ khí hạt nhân. Về kinh tế, thỏa thuận thương
mại tự do mà Trung Quốc chiếm tới 11% nhập khẩu của Pakistan; các khoản viện
trợ không ràng buộc; hành lang kinh tế Trung Quốc – Pakistan; Pakistan là thành
viên tích cực của sáng kiến “Vành đai và con đường” của Trung Quốc; Tuyến
143
đường sắt từ cảng Gwadar của Pakistan qua dãy Karakoram đến Tân Cương. Về
ngoại giao,Pakistan là quốc gia đã giúp đỡ Trung Quốc gây dựng mối quan hệ với
phương Tây trong những năm đầu thập niên 1970, đưa Trung Quốc xích lại gần hơn
với thế giới Hồi giáo, hỗ trợ Trung Quốc trong tất cả các vấn đề quan trọng đối, đặc
biệt là những vấn đề liên quan đến chủ quyền của Trung Quốc, như Đài Loan, Tân
Cương và Tây Tạng, cũng như các vấn đề nhạy cảm khác như quyền con người.
Trung Quốc ủng hộ lập trường của Pakistan trong vấn đề Kashmir, là cường quốc
duy nhất công khai lên tiếng ủng hộ Pakistan sau vụ ám sát Bin Laden, Trung Quốc
nhấn mạnh Pakistan có lẽ không hề biết việc Osama bin Laden đang ẩn nấp trên
lãnh thổ của mình.
144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Văn Ngọc Thành, Phạm Xuân Công (2015), Phản ứng của Liên Xô với cuộc
chiến tranh Ấn Độ-Trung Quốc năm 1962, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11
(475), 2015, tr.70-79.
2. Văn Ngọc Thành, Phạm Xuân Công (2016), Thủ tướng Sirimavo Bandaranaike
với cuộc chiến chiến tranh Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962, Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 7 (179), 2016, tr.32-40.
3. Phạm Xuân Công (2019), Phản ứng của Mỹ với cuộc chiến tranh biên giới Ấn Độ
- Trung Quốc năm 1962, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, Số 7 (80),
2019, tr.26-32.
4. Văn Ngọc Thành, Phạm Xuân Công (2021), Phản ứng của Pakistan với cuộc
chiến tranh biên giới Ấn Độ - Trung Quốc năm 1962, Tạp chí Nghiên cứu Ấn
Độ và Châu Á, Số 8 (105), 2021, tr.8-13.
145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.Aga pô nốp. S(1981),Trung Quốc dưới chiêu bài bình thường hóa quan hệ với Ấn
Độ, Thư viện Quân đội sao lục.
2.Ban biên tập Nhân dân nhật báo(1963), Chân tướng của việc ban lãnh đạo Đảng
Cộng sản Liên Xô liên hợp với Ấn Độ chống Trung Quốc, NXB Ngoại Văn,
Bắc Kinh.
3.Ban biên tập Nhân dân nhật báo(1962), Qua chiến tranh Trung - Ấn bàn về cái
triết học của Nê ru (27/10/1962), Đại sứ quán nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4.Bộ Quốc Phòng: Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trường(2007), Bàn
về mối quan hệ Trung - Ấn.
5. Lê Thế Cường (2011), Quan hệ Ấn Độ - Liên Xô 1947 – 1991, Luận án tiến sĩ
lịch sử, Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
6.Đại sứ quán nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa(1962),Bản tuyên bố của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 21/11/1962, Hà Nội.
7.Eiseman Ben (1976), “Chiến tranh biên giới Trung - Ấn”, tạp chí Marine Corps
Gazette, Thư viện Quân đội dịch, năm 1978.
8.Đinh Quang Hải (2022), Quan hệ biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc với các
quốc gia láng giềng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Đinh Trung Kiên (1993), Quanhệ Việt Nam-Ấn Độ thời kì 1945-1975, Luận án
Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử, Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
10. Huỳnh Thanh Loan (2017), “Nhìn lại chiến tranh biên giới Trung Quốc - Ấn Độ
năm 1962”,Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, Viện hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam.
11. Huỳnh Thanh Loan (2019), Vấn đề biên giới trong quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc
giai đoạn 1950-2014, Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
146
12. MaxwellNeville (1978), “Hồi ký của Thủ tướng Chu Ân Lai, phỏng vấn riêng
Chu Ân Lai” đăng trên báo Anh, Sunday Times ngày 19/12/1971, Học viện
Chính trị quốc gia dịch.
13. Lê Thị Hằng Nga (2018), Quan hệ Ấn Độ - Hoa kỳ từ năm 1947 đến năm 1991,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
14. Narayaman K.R. (1989), chính sách về Trung Quốc - Những vấn đề và những
viễn cảnh, Vụ châu Á IV giới thiệu (Thông tin quan hệ quốc tế số 14), Thư
viện Quân đội sao lục.
15.Nhân dân (1962), ngày 12/10/1962, lưu trữ tại thư viện Quân đội.
16.Nhân dân (1962), ngày 17/10/1962, lưu trữ tại thư viện Quân đội.
17. Pedina.V.(1986),Chính sách của Trung Quốc ở Nam Á và Quan hệ Trung - Ấn,
Vũ Hoàng dịch, lược ghi Noakava, Thư viện Quân đội sao lục 1986.
18. Nguyễn Huy Quý (2004), Lịch sử hiện đại Trung Quốc, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
19.SearlsGuy (1978),Chính sách biên giới của Trung Quốc đế quốc ngai rồng, Thư
viện Quân đội dịch.
20.Stepanov Vladimia Iaxenhep Evgeny (1982), Biên giới Trung Quốc từ chủ nghĩa
bành trướng cổ truyền đến chủ nghĩa bá quyền ngày nay, NXB thông tấn
Nôvôxti, Mát xcơva.
21.Nhà xuất bản Sự Thật (1983),Nước cộng hòa Ấn Độ, Hà Nội.
22.Tào Đại Vi-Tôn Yến Kinh(2012),Lịch Sử Trung Quốc, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
23.TaylorFravel M. (2007),“Dịch chuyển sức mạnh và leo thang xung đột - Lý giải
việc Trung Quốc sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ, Tranh
chấp biên giới Trung - Ấn, Hoàng Sa, Trường Sa và một số tranh chấp khác”,
Tạp chí International Security, tập 32, số 3, mùa đông 08/2007, trang 44-48,
Viện Công nghệ Masachusetts (MIT), Tuấn Anh dịch, Thái Giang hiệu đính.
24. Văn Ngọc Thành, Phạm Xuân Công (2015), “Phản ứng của Liên Xô với cuộc
chiến tranh Ấn Độ-Trung Quốc năm 1962”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11
147
(475), tr.70-79.
25.Thư viện Quân đội(1978),Bản tin chuyên đề số 6/1978, Chiến tranh biên giới và
chính sách biên giới của Trung Quốc, Hà Nội.
26.Thư viện Quân đội (dịch) (1978), số 4.003, Về vấn đề biên giới Trung - Ấn, NXB
Ngoại văn, Bắc Kinh.
27.Thư viện Quân đội(1979),Chiến tranh Trung - Ấn (Từ 20/10/1962 đến
21/11/1962), Tài liệu biên soạn của C52 Bộ Tổng tham mưu, Thư viện Quân
đội sao lục.
28.Thư viện Quân đội (sao lục) (1978),Chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ 1949 đến 1963.
29.Thư viện Quân đội (sưu tầm) (1991),Bác Hồ với Ấn Độ.
30.Tổng cục Chính trị - Cục Quân huấn, Bài nói chuyện của Thủ tướng Nerhu về
vấn đề Tây Tạng tại Hạ nghị viện Ấn Độ ngày 27/4/1959, tin mật đọc cho cán
bộ nghe, số 1.
31.Viện châu Á – Thái Bình Dương(1985),“Trung Quốc và các nước châu Á 1949
– 1984”: trích từ Đại kí sự nước CHND Trung Hoa.
32. Viện quan hệ quốc tế, Tư liệu quan hệ Mỹ - Trung Quốc (từ khi cách mạng
Trung Quốc thắng lợi 1949, đến khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức với nhau 1979), Hà Nội.
B.TÀI LIỆU TIẾNG ANH
33.Abadi Jacob (1998), “The Sino-Indian conflict of 1962- a test case for India’s
policy on non-alignment”, Journal of Third World Studies, VOL. XV, No. 2
34.AbitbolAldo. D. (2009), “Causes of the 1962 Sino-Indian War A systems level
appraoch”, University of Denver, International Security, (Josef Korbel Journal
of Advanced International Studies 1.
35. Ahmad Zahiruddin (1963), Tibet and Ladakh: A History,South Illinois
University Press.
36. Arif K. (1984), America-Pakistan Relations: Documents, Lahore: Vanguard
Books Ltd. Vol. 1.
148
37. Arif Sheikh Mohd (2015), “Sino-India Border War”, Journal of Political
Sciences & Public Affairs.
38.Arostegui Joshua M. (2013),The People’s Liberation Army And The Sino-Indian
Boder Conflict Of 1962, A Thesis Presented to the Graduate Faculty of the
History Department and the Faculty of the Graduate College University of
Nebraska.
39.Arpi Claude, “The War of 1962 Herderson Brooks-Bhagat Report”, Indian
Defence Review, 26.1-Jan/Mar 11.
40. Asian Recorder (1963), vol.9, 8-14 January 1963.
41. Barnard Calvin. James (1984), The China-India Border War, CSC 1984 Subject
Area Warfighting, Marine Corps Command and Staff College.
42. Bhasin A.S. (1970), Documents on Nepal's Relations with India and China
1949-66, Academic Books Ltd, Bombay.
43. Bhutani S.K. (2012), “Sino-Indian War, 1962 and the Role of Great Powers”,
Journal of Defence Studies, Vol-6, Issue-4.
44. Bhutto Zulfikar Ali (1969), The Myth of Independence, Oxford University Press.
45.Bindra S.S. (1985),India and her neinghbours, Deep &Deep Publications, New
Delhi.
46. Birdhwar Preiri K. (2007), “India-Russia Relations: Past, Present and the
Future”, India Quarterly: A Journal of International Affairs,Volume 63 Issue
3.
47. Braz Rita (1982),Indo-U.S relations, 1965-1975, University of Massachusetts
Amherst.
48.Brecher Michael (1980), “Non-Alignment Under Stress: The West and the India-
China Border War”, Pacific Affairs. Vol. 52, No. 4 (Winter, 1979-1980).
49. Burke Samuel Martin (1973), Pakistan's Foreign Policy: An Historical
Analysis, Oxford University Press.
50. Burkitt Laurie, Andrew Scobell, Larry M. Wortzel (2003), The lessons of
History: The Chiness People’S liberation Army at 75, US.
149
51. Buzan, Barry, Rizbi Gowher, R. (1986), South Asian Insecurity and the Great
Power, the McMillan Press Ltd, London.
52. Cecil V. Crabb, Jr. (1965),The Elephant and the Grass: A Study of
Nonalignment, Frederick A. Praeger Publishers, New York.
53. Ceylon News Letter (1963), no 3, 17 January.
54. Ceylon News Letter (1963), Government of Ceylon (Colombo), no.4, 24
January.
55. Ceylon News Letter (1963), no.15,11 April.
56. Ceylon News Letter (1964), no.34, 20 August.
57. Ceylon News Letter (1964), no.47, 12 November.
58. Chakravorty PK (2017), “Sino-Indian War of 1962”, Indian Historical Review
44 (2).
59. Chandra Bipan, Mukherjee Aditya, Mukherjee Mridula (2008),India Since
Independence, Penguin Books, India.
60. Chellaney Brahma (2009), “Beware the Future, Coming Water Wars”, The
International Economy Fall.
61. Chen Jian (2001), Mao’s China and the Cold War. The University of North
Carolina Press.
62. Chen Jian (2006), “The Tibetan Rebellion of 1959 and China’s Changing
Relations with India and the Soviet Union”,Journal of Cold War Studies,
Volume 8, Issue 3, Summer 2006.
63. Cheong Daniel (2015), Rapprochement and the Sino-Indian War of 1962,
Cornell Historical Society
64. China Disregards the Colombo Proposals (1963), India, Publication Division,
New Delhi.
65. Chung Chien-peng (2004), “Domestic Politics, International Bargining and
China’s Territorial Disputes”. Politics in Asia 46. Abingdon, UK: Routledge.
66. CIA (1963), The Sino-Indian Boder Dispute, Section 2: 1929 – 1961.
67. CIA (1964), The Sino-Indian Boder Dispute, Section 3: 1961 – 1962.
150
68. Curzon George Nathaniel (1907), Frontiers: The Romanes Lecture. Delivered
in the Sheldonian Theatre, Oxford.
69.Dalal J. S.(1993),The Sino-Indian Border Dispute: India's Current Options
Paperback.
70. Dalvi J. P (1969), Himalayan Blunder: The Curtain-Raiser to the Sino-Indian
War of 1962, Thacker & Company Limited, Bombay, India.
71.Devereux David R.(2009), “The Sino-Indian War of 1962 in Anglo-American
Relations”, Journal of Contemporary History, Vol. 44, No. 1 (Jan., 2009), pp.
71-87 Published by: Sage Publications, Ltd.
72. Donaldson Robert H. and Nogee Joseph L. (1998), The Foreign Policy of
Russia, Changing System, Enduring Interests,New York: M.E. Sharpe.
73.Eekelen W.F.Van (1967),Indian Foreign Policy and Border Dispute with China,
Originally published by Martinus Nijhoff, The Hague, Netherlands.
74. Elkin Jerrold F.; Fredericks Brian (1983), “Sino-Indian Border Talks: The View
from New Delhi”, Asian Survey,Vol. 23, No. 10. (Oct., 1983).
75. Fang Tien-sze (2002), “The Sino-Indian Border Talks Under the Joint Working
Group”, Issues & Studies, vol. 38, no. 3, pp.150-183.
76. Fang Tien-Sze (2010), The Asymmetrical Threat Perceptions in China-lndia
Relations after the 1998 Nuclear Tests, Published by ProQuest LLC 2014.
77. Fisher Margaret W, Rose Leo E, Huttenback Robert A. (1963), Himalayan
Battleground: Sino-Indian Rivalry in Ladakh,Hardcover.
78. Foreign Affairs Record (1964), December, 1964.
79.Foreign Languages Press Peking (1964), “Afro-Asian Solidarity Against
Imperialism”, a Collection of Documents, Speeches and Press Interviews from
the Visits of Chinese Leaders to Thirteen African and Asian Countries, no 36.
80. Fraser-Tytler W. K. (1953),Afghanistan: A Study of Political Developments in
Central and Southern Asia,Published by Oxford University Press, London,
UK.
81. Fravel M. Taylor (2003),The long march to peace explaining china’s settlement
151
of territorial disputes, Submitted to the department of political science and the
committe on graduate studies of stanford university in partial fulfillment of the
requirements for the degree of doctor of philosophy.
82. Fravel M. Taylor (2005), “Regime Insecurity and International Cooperation:
Explaining China’s Compromises in Territorial Disputes”, International
Security 30 (2).
83. Fravel M. Taylor (2008),Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and
Conflict in China’s Territorial Disputes. Princeton Studies in International
History and Politics. Princeton, New Jersey: Princeton University Press.
84. Frazier Mark W. (2000)“China-India Relations Since Pokhran II
Assessing Sources of Conflict and Cooperation”, AccessAsia Review Vol. 3,
No. 2.
85. Freedman Joshua (2016), “Status Insecurity and Temprality in World Politics”,
European Journal of International Relations vol. 22 (4)
86. Garver John W. (1991), “The Indian Factor in Recent Sino-Soviet Relations”,
The China Quarterly, No. 125 (Mar 1991).
87. Garver John W. (2004), “India, China, The United States, Tibet, and The
Origins of the 1962 War”, India Review, Volume 3; 3:2, 9-20.
88.Garver John W. (2005),China's Decision for War with India in 1962, in New
Approaches to the Study of Chinese Foreign Policy, Robert S. Ross and
Alastair Iain johnston, Stanford University Press.
89. Garver John W. (2011), “The Unresolved Sino-Indian Border Dispute: An
Interpretation” ChinaReport 47 (2): 99–113.
90. Gerson Michael S. (2010), “The Sino-Soviet Border Conflict Deterrence,
Escalation, and the Threat of Nuclear War in 1969”, Center for Naval
Analyses.
91. Ginsburgs George (1960), “Peking-Lhasa-New Delhi”, Political Science
Quarterly. Vol. 75. No 3.
92. Ginsburgs George and Mathos Michael (1964), Communist China and Tibet: the
152
First Dozen Years, The Hague: M. NijhofF.
93. Goertz Gary (2004), “Constraints, Compromises and Decision Making.” The
Journal of Conflict Resolution 48 (1): 14–37.
94. GopalS.(1966), “India, China and the Soviet Union”, The Australian Journal of
Politics and History, Volume 12 (2) – Aug 1, 1966.
95.Government of India (1982),Foreign Affairs Records, Vol.28, No.5, Ministry of
External Affairs, New Delhi.
96. Gupta Amit R. Das and Luthi Lorenz M. (2017), The Sino-Indian War 1962:
New Perspective, Routledge 2 Park Square, Milton Park, Abingdon, Oxon
0X14 4RN and by Routledge, 711 Third Avenue, New York, NY 10017.
97. Guruswamy Mohan and Singh Zorawar Daulet (2009), India–China Relations:
The Border Issue and Beyond, Viva Books Pvt. Ltd, New Delhi.
98.Hameedy Qasim (2013), Sino-Indian War 1962-Where do India and China
Stand Today? A thesis presented to the Faculty of the U.S. Army Command
and General Staff College in partial fulfillment of the requirements for the
degree Master of Military art and Science Strtegic Studies, M.Sc, National
Defense University Pakiston.
99. Hardinge Lord, Singh Khuihwant (1966), A History of the Sikhs,London,vol.2
100. Hasan Zubeida (1968), “Soviet Arms Aid To Pakistan and India”, Pakistan
Horizon, Vol. 21, No. 4 (Fourth Quarter, 1968).
101. Hasan Zubeida (1969), “Pakistan's Relations with the U.S.S.R. in the 1960s”,
The World Today, Vol. 25, No. 1 (Jan, 1969).
102. Henderson Brooks (1963),“Henderson Brooks Report on the 1962 Sino-Indian
War: Part One”.
103.Hershberg James G. (2011),Quietly Encouraging Quasi-Alignment: US-Indian
Relations, the Sino-Indian Border War of 1962, and the Downfall of Krishna
Menon, Slavic research center summer symposium, “alliances and borders in
the making and unmaking of regional powers”, Hokkaido University,
Sapporo, Japan.
104. Hoffmann Steven A. (1990), India And The China Crisis, University of
153
California Press Berkeley and Los Angeles, California and University of
California Press, London, England.
105.Hughes Lindsay (2016),The Indo-Russian Relationship: Old Imperatives, New
Beginnings, Independent Strategic Analysis of Australia’s Global Interests,
Future Directions International Pty Ltd, Australia.
106. India and Foreign Review (1964), 1 November 1964 pp.9-10.
107.India Lok Sabha Debates (1962), series 3, vol.10, col.3331-32.
108. India Lok Sabha Debates (1963), Series 3,vol.12,23
109.Indian Fight for Territorial Integrity (1963), Publication Division, New Delhi,
India.
110. Indian Society of International Law(1962),The Sino-Indian Boundary, Indian
Society of International Law, New Delhi.
111. Jain Girilal (1960),Pansheela and after, Asia Publishing house, Bombay,
India.
112. Jain Raijendra K. (1981), China South Asian Relation 1947 – 1980, Harvester
Press, Great Britain.
113. Jain Raijendra K. (1983), US-South Asian Relations, 1947-1982, Radiant
Publishers, Vol.1, New Delhi.
114. James, Patrick, and Zhang Enyu (2005), “Chinese Choices: A Poliheuristic
Analysis of China’s Foreign Policy during Crises”,Foreign Policy Analysis 1
(1): 31–54.
115. Jansen (1966), Afro-Asian and Non-alignment,Published by Faber and Faber,
London.
116.Javed Khalid (1992),The Sino – Indian War of 1963 and the United States: A
study of Indo-US collaboration against China. A Dissertation submit red in
partial fulfilment or the requirements for the degree of Doctor of Philosophy
in U.S. Studies, to the Area Study Center for Africa, Worth and South America,
Quaid-i-Azam University, Islamabad, Pakistan.
117. JayawardaneAmal (2005), Documents on Sri Lanka’s Foreign Policy 1947 –
154
1965, Regional Centre for Strtegic Studies, Colombo, Sri Lanka.
118. Jensen Johan Skog (2011),Indian China Policy in the prelude to War -
Historical Perspectives on the Forward Policy Decision,Master's Thesis in
History University of Oslo, Norway.
119.Jetly Nancy (1979),India China Relations 1947-1977, Radialt Publishers, New
Delhi.
120. Jha Shree Krishna (1975), Uneasy partners: India and Nepal in the post-
colonial era, Manas Publications, New Delhi.
121. Jian Chen (2006), “The Tibetan Rebellion of 1959 and China’s Changing
Relations with India and the Soviet Union”, Journal of Cold War Studies,
Vol.8, No.3 Summer 2006, pp.54-101.
122. John Lall (1989), Askai Chin and the Indo-China Conflicts, Applied
Publishers, New Delhi.
123. Joshi Sachindra (1999),The Sino-Indian Border: Is Conflict Inevitable?A thesis
presented to the Faculty of the U.S. ArmyCommand and General Staff College
in partialfulfillment of the requirements for thedegree master of Military Art
and Science Strategic Studies, Jawaharlal Nehru University, New Delhi.
124. Kalha Ranjit Singh (2014), India-China Boundary Issues: Quest for
Settlement, Pentagon Press, New Delhi, India.
125. Kaul B.M. (1967), The Untold Story, Allied Publishers, New Delhi.
126. Kaul Triloki Nath (1982), Reminiscences Discreet andIndiscreet, Lancers
Publishers, New Delhi.
127. Kemenade Willem Van (2008), “Détente Between China and India The
Delicate Balance of Geopolitics in Asia”, The Hague, NetherlandsInstitute of
International Relations ‘Clingendael’.
128. Kenneth Galbraith, John (1969), Ambassadors Journal: A Personal Account of
the Kennedy Years, Hamish Hamilton,London.
129. Kin Wah, Wun (1970),The Sino-Indian Border Confrontation of 1962: A
Himalayan Miscalculation. Hong Kong: Contemporary International Relations
155
Research Centre.
130. Kissinger Henry (2011),On China, New York, USA: Penguin Books.
131. Kler Gurdip Singh (1995) Unsung Battles of Himalayan Mountains, 1962,
Lancer Publishers, New Delhi.
132. Konwer Shubhrajeet (2009), International borders in northeast India a case
study of Indo China border, Gauhati University
133. Krishna RaoK.V. (1991),Prepare or Perish: A Study of National Security,
Lancer Publishers, New Delhi.
134. Kuisong Y. (2000), “The Sino-Soviet Border Clash of 1969: From Zhenbao
Island to Sino-American Rapprochement”, Cold War History.
135. KumarDheeraj (2009), “Indo-U.S. Relations: Historical Perspectives, Strategic
Insights”, Volume VIII, Issue 3 (August 2009).
136. Kux Denis (1992) India and the United States: Estranged Democracies 1941 –
1991,National Defense University Press, Washington, DC.
137. Lakshmi Y.(1988),Trends In India's Defence Expenditure, ABC Publishing
House, New Delhi
138.Lamb Alastair (1964), The China-India border: The origin of the disputed
boundary, Oxford University Press, London.
139. Lamb Alastair (1966), The McMahon Line: A Study in the Relations Between
India, China and Tibet, 1904 to 1914. 2 vols. Studies in Political History 13.
London, Great Britain: Routledge & Kegan Paul Ltd.
140. Lamb Alastair (1973), The Sino-Indian Border in Ladakh, Australian
Nationnal University Press Canberra.
141.Levi Werner (1963), The Sino-Indian Border War, Current History (pre-1986);
Sep 1963; 45, 000265; ProQuest Central.
142. Liao Kuang-sheng and Whiting Allen S. (1973), “Chinese Press Perceptions of
Threat: The U. S. and India, 1962” The China Quarterly, No. 53 (Jan. - Mar.,
1973), pp. 80-97; Cambridge University Press on behalf of the School of
Oriental and African Studies.
156
143.Liu Xuecheng (2010),Look Beyond the Sino-Indian Border Dispute, Presented
at the Workshop on Revisit Sino-Indian Border Dispute, Westminster
University, London.
144. Lobell, Steven E (2009), “Threat Assessment, the State and Foreign Policy: A
Neoclassical Realist Model”, In Neoclassical Realism, the State and Foreign
Policy, edited by Steven E. Lobell, Norrin M Ripsman, and Jeffrey W.
Taliaferro, 42–74, Cambridge University Press, UK.
145.Luthi Lorenz (2012), Sino-Indian Relations, 1954-1962, McGill U; Montreal.
146. Ma Rongjiu (2014), “Domestic politics and India’s foreignpolicy making in the
Sino-Indianterritorial dispute (1959–1962)”, Journal of Asian Public Policy,
Volume 7, 2014 - Issue 1.
147. Malik Mohan (2011),China and India: great power rivals, First Forum Press:
Boulder, Colorado.
148. Malone David M. and Mukherjee Rohan (2009), “India-US Relations: The
Shock of the New”, International Journal, Vol. 64, No. 4, Canada and Asia
(Autumn, 2009).
149. Mankekar D.R. (1968), The Guilty Men of 1962: Tulsi Shah Enterprises,
Bombay.
150. Mansingh Surjit (1994), “India-China Relations in the Post-Cold War Era”,
Asian Survey, Vol 34, No.3, March.
151. Mark Frazier W (2000),China-india Relations Since Pokhra II.
152.Mastny Vojtech, (2010) “The Soviet Union’s Partnership with India”, Journal
of Cold War Studies12 (3): PP.50–90.
153.MaxwellNeville (1971),India’s China War, Jaman H. Shah Jaico Publishing
house, Bombay.
154.Maxwell Neville (1999), “Sino-Indian Border Dispute Reconsidered”,
Economic and Political Weekly.
155. Maxwell Neville (2011), “China’s India war: How the Chinese saw the
conflict”, Mainstream, VOL XLIX, No 28, July 2.
157
156. Maxwell Neville (2011), “Why the Sino–Indian Border Dispute is Still
Unresolved after 50 Years: A Recapitulation”, China Report 47(2): pp. 71-82
157. Mc Garr Paul M. (2011), “After Nehru, What? Britain, the United States, and
the Other Transfer of Power in India, 1960–64”, International History Review,
33 (1).
158. McGarr Paul M. (2013), The Cold War in South Asia Britain, the United States
and the Indian Subcontinent 1945-1965, Published in the United States of
America by Cambridge University Press, New York.
159. McGarr Paul M. (2017), “The United States, Britain and the Sino-Indian
border war”, The Sino-Indian War 1962: New Perspective, Routledge 2 Park
Square, Milton Park, Abingdon, Oxon 0X14 4RN and by Routledge, 711
Third Avenue, New York, NY 10017.
160. Mc Garr Paul M. (2019), “The long shadow of colonial cartography: Britain
and the Sino-Indian war of 1962”, Journal of Strategic Studies.
161. Mcmillen Naomi (2012), “Fiftieth Anniversary of the 1962 Sino-Indian Border
War”, The national Bureau of Asian Reseach (NBR).
162. Mills J. P. (1950), Royal Central Asian Journal.
163. Ministry of External Affairs Government of India (1960), Atlas of the Northern
Frontier of India, Ministry of External affairs, New Delhi.
164.Ministry of External Affairs Government of India, (1961), Report of the Indian
Officials on the Boundary Question, Ministry of External Affairs.
165.Ministry of External Affairs Government of India(1963),Notes, Memoranda
and Letters exchanged between the Government of India and China, October
1962-January 1963, White Paper No.VIII, Published by the Manager of
Publications, New Delhi.
166. Ministry of Extrenal Affairs Government of India (1966), The Tashkent
Declaration, 10 January 1966.
167. Ministry of External Affairs Government of India (1983),Two Decades of the
Non-Aligned Documents of the Gathering of the Non-Aligned States, 196l-
158
1982, New Delhi.
168. Mitra Basanti (1962), “Sino-India Crisis and United Nations”, The Econonic
Weekly, November17, 1962.
169. Mohanty Arun (2012), “On the Soviet Stand on India - China Border
Conflict”, Mainstream, VOL L No 46, November 3.
170.Murty T.S. (1987),India China boundary: India’ Options, ABC Publishing
Housse, New Delhi.
171. Nanda B. R. (1976), Indian Foreign Policy: The Nehru Years, Vikas
Publishing House PVT Ltd.
172. Nayar Kuldip (1971),Between the Lines, New Delhi.
173. Nissanka H.S.S. (1984),Sri Lanka's Foreign Policy: A Study in Non-Alignment,
Vikas Publishing House, New Delhi,
174.Noorani A.G.(1998), “Fresh insights into the 1962 war”, Frontline Vol. 15. No.
25.
175. Norbu Dawa (2000),“India, China and Tibet” in Kanti Bajpai and Amitabh
Mattoo eds., The Peacock and the Dragon: India-China Relations in the 21st
Century, Har-Anand Publications Pvt Ltd, New Delhi.
176.Odgaard Liselotte and Nielsen Thomas Galasz (2014), “China's
Counterinsurgency Strategy in Tibet and Xinjiang”, Journal of London
Contemporary China, 21 January 2014, Vol. 23, No. 87.
177. Orton Anna (2010), India’s Borderland Disputes China, Pakistan, Bangladesh
and Nepal, Epitome Books, New Delhi.
178.Pant Harsh V. (2012),The Pakistan Thorn in China-India-U.S. Relations, The
Washington Quarterly.
179.Pedlow Gregory W. and Welzenbach Donald E. (1998),The CIA and The U-2
Programs, 1954-1974, History Staff Center for the Study of
IntelligenceCentral Intelligence Agency.
180.Phadnis Urmila (1963), “Ceylon and the Sino-Indian Border Conflict”, Asian
Survey, Vol. 3, No. 4 (Apr., 1963), pp. 189-196, Published by: University of
159
California Press.
181. Pickering Jeffrey and Kisangani Emizet F. (2005), “Democracy and
Diversionary Military Intervention: Reassessing Regime Type and
theDiversionary Hypothesis”, International Studies Quarterly, Vol. 49, No. 1
(Mar 2005).
182.Pringsheim Klaus H. (1963), “China, India, and Their Himalayan Border
(1961-1963)”, Asian Survey, Vol. 3, No. 10 (Oct., 1963).
183.Prozumenschikov M.Y. (1997), “The Sino-Indian Conflict, the Cuban Missile
Crisis, and the Sino-Soviet Split, October 1962: New Evidence from the
Russian Archives”, old War International History project Bulletin.
184.Rana Satyapau (1963),The Northern Border: India-China Border Dispute, The
books Time Company, New Delhi.
185. Rauch Carsten (2008), “Farewell Non-Alignment? Constancy and change of
foreign policy in post-colonial India”, Peace Research Institute Frankfurt
(PRIF), Germany.
186. Ray Hemen (1988),Sino-Soviet Conflict Over India, Publishers Shakti Malik
Abhinav Publications E-37, New Delhi, India.
187. Reid Sir Robert (1942), History of the FrontierAreas Bordering on Assam,
Government of As Sim Press, Shillong.
188. Renmin Ribao (2001), “Jiang Zeming’s statement in the Fourth Tibetan Work
Forum”, June 30.
189. Richards Commodore Katherine (2015), “China-India: An analysis of the
Himalayan territorial dispute”, Indo-Pacific Strategic Papers, Defence and
Strategic Studies at the Australian Defence College.
190. RiedelBruce (2015), JFK's Forgotten Crisis: Tibet, the CIA, and the Sino-
Indian War, Brookings Institution Press, Washington, DC.
191. Rinpoche Samdhong (2006),Uncompromised Truth for a Compromised
World:Tibetan Buddhism and Today's World, World Wisdom; Illustrated
edition.
160
192. Rothermund Dietmar (1969), “India and the Soviet Union”, The Annals of the
American Academy of Political and Social ScienceVol. 386, Protagonists,
Power, and the Third World: Essays on the Changing International System
(Nov., 1969), pp. 78-88.
193.Sali M.L. (1998), India China boder dispute,S. B. NangiaA.P.H. Publishing
Corporation, New Delhi.
194. Scott David (2008), “The Great Power ‘Great Game’ between India and China:
‘The Logic of Geography”, Department of Politics and History,Brunel
UniversityPublished,London,UK.
195. Shah K.K (1966), Congress General Secretary in the AICC quoted in Indian
Affairs Recordsvol.9, no.2,New Delhi.
196.Sharma Usha (2005),Discovery of North-East India, Mittal Publications.
197.Shrivastava V. K, VSM, (2016), “Sino-Indian Boundary Dispute and Indo-
Centric Reflections on China’s Military Capabilities, thoughts and Options in
the Near Future”, Vivekananda International Foundation, 3, San Martin Marg,
Chanakyapuri, New Delhi, India.
198. Singh Jasjit Edited (1990), Indian and Pakistan crisis of relationship, Lancer
publisher, New Delhi.
199.Singh Jasjit (2013), China’s India War 1962 looking back to see the future,
Published in India by Kalpana Shukla KW Publishers Pvt Ltd.
200.Singh Jasjit (2013), “China’s India War: Causes of the War”, The Centre for
Air Power Studies.
201. Sinha P.B. và Athale A. (1992), History of the conflict with China, 1962,
History Division Ministry of Defence Government of India, New Delhi.
202. Smith Warren W. (2008),China's Tibet: autonomy or assimilation,Roweman
and Littlefield: Lanham,Maryland.
203.Srikanth. H (2012), “The Sino-Indian Border Dispute Overcoming Nationalist
Myopia”, Economic & PoliticalWeekly, september 29, 2012 vol xlv II no 39
EPW
161
204.Srivastava Vivek Kumar (2003), India-China 1962 War and role of Nehru,
CSJM Kanpur University.
205. Steele Tracy Lee (2002), “The Politics Of Anglo-American Aid To Nonaligned
India, 1962, Electronic Journal ofInternational History - Article 7, ISSN
1471-1443.
206.Subrahmanyam K. (1976),Nehru and the India-China Conflict of 1962.
207. Sukhwal Bheru Lai (1969), Political Geography Of the Indian Repulic; An
Evaluation of Changing Patterns Since Indepence, University of Okilahoma.
208. Talbot Phillips and Poplai S. L. (1958), India and America: A Study of Their
Relations, Connecticut: Greenwood Press.
209. Tang Christopher (2012), “Beyond India: The Utility of Sino-Pakistani
Relations in Chinese Foreign Policy, 1962-1965”; Cold War International
History Project Working Paper.
210. Thapliyal Sangeeta (1998)“Indo-Pak Conflict and the Role of External
Powers”,Researcher,IDSA.
211. The CCP Committee of the PLA’s 18th Army, “Instructions on Marching into
Tibet”.
212. The Jamestown Foundation (2017), “China Brief”, Volume 17, Issue 1 January
13.
213. Thomas K.K. (1962),Asian Recorder, volume 8, no 4.
214. Thomas K.K. (1963), Asian Recorder, volume 9, no 3.
215. Thornton Thomas perry (1970), “South Asia And The Great Powers”, World
Affairs Institute, Vol. 132, No. 4
216. Tribune: Ceylon News Review, 15 December 1962, Colombo.
217. Tribune: Ceylon News Review, 24 February 1963, Colombo.
218.Wang Ke (2014), Rethinking Chinese Territorial Disputes: How the Value of
Contested Land Shapes Territorial Policies, University of Pennsylvania
Scholarly Commons.
219. Wasim Mohammad (2011), China – India Border Conflict: Recent
162
Perspective, Prashant Publishing House.
220. Watt Donald Cameron (l970),Survey of International Affairs 1962, no 32.
221. Welte Simon P. (2016), “Operational Art in the 1962 Sino-Indian War”,
School of Advanced Military Studies; United States Army Command and
General Staff College; Fort Leavenworth, Kansas.
222. Westcott Stephen (2017), The Intractable Sino-Indian Border Dispute: A
Theoretical and Historical Account, This thesis is presented in candidacy for
the degree of Doctor of Philosophy at Murdoch University.
223. Wiegand Krista E. (2011), “Enduring Territorial Disputes: Strategies of
Bargaining, Coercive Diplomacy & Settlement”, Studies in Security and
International Conflict. Georgia, USA: University of Georgia Press.
224. Woodman Dorothy (1969), Himalayan Frontiers: A Political Review of
British, Chinese, Indian, and Russian Rivalries, Barrie & Rockliff, London.
225. Upadhyaya Priyankar (1990), Nonaligned states and India's international
conflicts, South Asian Publishers, New Delhi.
226.Xu Yan, Zhong-Yin Bianjie Zhizhan Lishi Zhenxiang (1993), The historic truth
of the Sino-Indian border war, Hong Kong: Tian Di Publishing Co.
227. Xuecheng Liu (1994), The Sino – Indian Border Dispute and Sino – Indian
Relations, University Press of America.
228. Xuecheng Liu (2011), “Look Beyond the Sino –lndian Border Dispute”, China
Report.
229. YongnianWu (2003), "Sino-Indian border dispute: how much territory does
india occupy in china?”, Global Affairs, No.4.
230.Zhang Hongzhou and Li Mingjiang (2013), “Sino-Indian Border Disputes”,
Analysis, No.181,June2013.
231. Zhao Weiwen, Yin Zhong Guanxi Fengyun Lu (2000), Record of the vi-
cissitudes of India-China relations (1949-1999), Beijing: Shi Shi Chubanshe.
232.Zhongguo Dabaike Quanshu(1989),Junshi (A complete encyclopedia of China:
Military) Vol II, Beijing: Zhongguo Dabaike Quanshu Chubanshe.
163
233. Zhong Yin bianjiang ziwei fanji zuozhanshi (1994),History of the Sino-India
border self defensive war, Beijing: Junshi kexue chubanshe.
C. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG
234. 军事科学出版社(1994), 中印边境自卫反击作战史.
D. TÀI LIỆU MẠNG INTERNET
235. 4 signs India was USSR’s best friend in Asia (2019), nguồn:
https://www.rbth.com/history/331147-india-ussr-friendship, truy cập ngày
2/5/2021
236. 6 nguyên tắc gây chiến của quân đội Trung Quốc, nguồn:
http://www.vietnamdefence.com/Home/khqs/chientranhxungdot/6-nguyen-
tac-gay-chien-cua-quan-doi-Trung-Quoc/20135/52522.vnd, truy cập ngày
16/4/2018.
237.1962 India-China war: Why India needed that jolt, nguồn:
https://economictimes.indiatimes.com/news/politics-and-nation/1962-india-
china-war-why-india-needed-that-jolt/articleshow/16703076.cms, truy cập
ngày 4/11/2018.
238. 80.000 lính Trung Quốc tấn công Ấn Độ chớp nhoáng 55 năm trước, nguồn:
https://news.zing.vn/80000-linh-trung-quoc-tan-cong-an-do-chop-nhoang-55-
nam-truoc-post764999.html, truy cập ngày 25/4/2018.
239. Arpi Claude (2011), Why Mao attacked India in 1962, nguồn:
http://www.indiandefencereview.com/spotlights/maos-return-to-power-
passed-through-india/, truy cập ngày 20/1/2018.
240. Arunachal pradesh Profile, nguồn: http://www.arunachalpradesh.gov.in/, truy
cập ngày 20/5/2018.
241. Athale Anil (2012), The Untold Story: How Kennedy came to India's aid in
1962, nguồn: http://www.rediff.com/news/special/the-untold-story-how-the-
us-came-to-indias-aid-in-1962/20121204.htm, truy cập ngày 7/3/2019.
242. Balachandran P. K. (2012), Ceylon’s brave bid to settle Sino-Indian dispute,
nguồn: http://dbsjeyaraj.com/dbsj/archives/11946, truy cập ngày 4/2/2018.
164
243. Battle of Walong, 18 Oct – 16 Nov 1962, nguồn:
https://wenku.baidu.com/view/3c9ca787bceb19e8b8f6ba49, truy cập ngày
6/8/2018.
244. Bhaneja Balwant (1970), Soviet Foreign aid to India, nguồn:
https://asj.upd.edu.ph/mediabox/archive/ASJ-08-03-1970/bhaneja-soviet-
foreign-aid-india.pdf, truy cập ngày 17/8/2018.
245. Bhatia Nath Prem (2007),6th Kumaon at the batter for Walong, 1962,
nguồn:http://www.orbat.info/cimh/regiments/kumaon/6th_Kumaon_1962.html
, truy cập ngày 2/2/2017.
246. Biên giới Ấn – Trung: 60 năm căng thẳng chưa có hồi kết, nguồn:
https://kienthuc.net.vn/quan-su/bien-gioi-an-trung-60-nam-cang-thang-chua-
co-hoi-ket-1-1615963.html, truy cập ngày 5/12/2021.
247.Border Management, chapter III, nguồn:
http://www.satp.org/satporgtp/countries/india/document/papers/MHA09-
10/3.pdf, truy cập ngày 12/6/2019.
248. Burr William (2001), The Sino-Soviet Border Conflict, 1969: U.S. Reactions
and Diplomatic Maneuvers, National Security Archive Electronic Briefing
Book No. 49 nguồn:
https://nsarchive2.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB49/index.html, truy cập ngày
20/7/2018.
249. China and South Asia, nguồn:
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/collection/213/china-and-south-asia/6,
truy cập ngày 15/10/2017.
250. Chiến tranh Trung – Ấn 1962: Một bài học chưa cũ, nguồn:
https://trithucvn.org/the-gioi/chien-tranh-an-do-trung-quoc-1962-mot-bai-hoc-
chua-cu.html, truy cập ngày 1/2/2018.
251. Chari P.R. (2012), Sidelining Army Was A Grave Error, nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/20121018/edit.htm#6, truy cập ngày
20/3/2020.
165
252. Claude Arpi (2014), The CIA's reconnaissance operations in India, nguồn:
http://www.indiandefencereview.com/news/the-cias-reconnaissance-
operations-in-india/, truy cập ngày 11/3/2019.
253. Claude Arpi (2020), We were told that the Chinese will come in waves, nguồn:
http://claudearpi.blogspot.com/search/label/1962%20War, truy cập ngày
21/10/2020.
254. Devasia Rakshaya (2019), Evisiting Inevitability and Misperceptions: The
1962 Sino-Indian War, nguồn: https://www.e-ir.info/2019/05/26/revisiting-
inevitability-and-misperceptions-the-1962-sino-indian-war/, truy cập ngày
22/6/2020.
255. Dutta Amrita Nayak (2018), On this day in 1962, India learnt a harsh lesson
from China, nguồn: https://theprint.in/defence/on-this-day-in-1962-india-
learnt-a-harsh-lesson-from-china/137405/, truy cập ngày 21/2/2020.
256. Global Affairs Canada, Documents on Canadian External Relations,Chapter
IV – Commonwealth, nguồn: https://www.international.gc.ca/history-
histoire/dcer-drrec/volumes/29/chap_4_commonwealth.aspx?lang=eng, truy
cập ngày 1/2/2018.
257. Goldman Russell (2020), India-China Border Dispute: A Conflict Explained,
nguồn: https://www.nytimes.com/2020/06/17/world/asia/india-china-border-
clashes.html, truy cập ngày 1/10/2020.
258. Gupta Amit (2020), 4 Reasons Why India Couldn't Win a War With China,
nguồn: https://nationalinterest.org/feature/4-reasons-why-india-couldnt-win-
war-china-165053, truy cập ngày 12/2/2020.
259. Habibullah Hamaad (2021), Explained: What Are The Origins Of India-China
Border Conflicts In Ladakh & Arunachal Pradesh, nguồn:
https://www.indiatimes.com/explainers/news/india-china-border-conflicts-in-
ladakh-arunachal-pradesh-550961.html, truy cập ngày 1/11/2021.
260. Học giả Trung Quốc: Tình hình biên giới Trung - Ấn giống hệt trước khi chiến
tranh năm 1962, nguồn: https://viettimes.vn/hoc-gia-trung-quoc-tinh-hinh-
166
bien-gioi-trung-an-giong-het-truoc-khi-chien-tranh-nam-1962-
post151210.html, truy cập ngày 13/1/2021.
261. How many soldiers died in the Indo-China war in 1962?, nguồn:
https://www.quora.com/How-many-soldiers-died-in-the-Indo-China-war-in-
1962, truy cập ngày 15/7/2018.
262. How Pakistan helped India during 1962 war with China, nguồn:
http://www.rediff.com/news/slide-show/slide-show-1-how-pakistan-helped-
india-during-1962-war-with-china-kuldip-nayar-book-excerpt/20120706.htm,
truy cập ngày 15/2/2017.
263. India – China border disputes, nguồn:
http://www.ias4sure.com/wikiias/gs2/india-china-border-disputes/, truy cập
ngày 2/4/2019.
264. India-China Border War, nguồn:
http://library.cqpress.com/cqresearcher/document.php?id=cqresrre1962102400
, truy cập ngày 5/3/2017.
265. Indo-China War 1962, nguồn: https://historypak.com/indo-china-war-1962/,
truy cập ngày 23/1/2022.
266. India-China Border Disputes – What is the Doklam Issue? Nguồn:
https://www.clearias.com/india-china-border-disputes, truy cập ngày
20/5/2018.
267. India – China War 50 years later (2012), nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/specials/china.htm, truy cập ngày
12/2/2020.
268. India says 20 soldiers killed on disputed Himalayan border with China(2020),
nguồn: https://www.theguardian.com/world/2020/jun/16/india-says-soldiers-
killed-on-disputed-himalayan-border-with-china, truy cập ngàyngàyngày
20/10/2020.
269. India Today (2016), India-China War of 1962: How it started and what
happened later, nguồn:https://www.indiatoday.in/education-today/gk-current-
167
affairs/story/india-china-war-of-1962-839077-2016-11-21, truy cập ngày
15/10/2019.
270.Joydeep(2014),Why India – China War Happened?Nguồn:
http://www.mapsofindia.com/my-india/politics/why-the-india-china-war-
happened, truy cập ngày 10/3/2017.
271. Kalha R. S. (2012), Who started the fighting? Nguồn:
https://idsa.in/idsacomments/Whostartedthefighting%3F_R.S.Kalha_171012,
truy cập ngày 28/09/2017.
272. Krishnan Ananth(2018), 1962 war detrimental to both India and China,nguồn:
https://www.thehindu.com/news/%E2%80%981962-war-detrimental-to-both-
India-and-China%E2%80%99/article10156573.ece, truy cập ngày 12/2/2019.
273. KumarDinesh (2012), Can India militarily take on China today?, nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/20121020/edit.htm#10, truy cập ngày
3/5/2019.
274. Lidarev Ivan (2012),History’s Hostage: China, India and the War of 1962,
nguồn:, https://thediplomat.com/2012/08/historys-hostage-china-india-and-
the-war-of-1962/, truy cập ngày 14/3/2019.
275. Lịch sử xung đột biên giới Trung – Ấn, nguồn:
http://nghiencuuquocte.org/2020/06/23/lich-su-xung-dot-bien-gioi-trung-an/,
truy cập ngày 21/6/2020.
276. Lý giải nguồn cơn xung đột biên giới Trung - Ấn hiện nay, https://vov.vn/the-
gioi/ho-so/ly-giai-nguon-con-xung-dot-bien-gioi-trungan-hien-nay-
1061158.vov, truy cập ngày 2/11/2017.
277. MalhotraInder (2012), 1962 War: Leaders Failed India, nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/20121016/edit.htm#6, truy cập ngày
11/3/2020.
278. Malik V P (2012), No foresight, no planning saw defeat, nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/20121017/edit.htm#6, truy cập ngày
11/3/2020.
168
279. Maxwell Neville (2002), Remembering War, the 1962 india - China Conflict,
nguồn: https://www.rediff.com/news/2002/oct/08max1.htm, truy cập ngày
15/3/2018.
280. Mohan Vijay (2012), In Ladakh It was last man, last round, nguồn:
https://www.tribuneindia.com/2012/20121019/edit.htm#6, truy cập ngày
1/4/2020.
281. Mỹ can thiệp cuộc chiến tranh Trung - Ấn,https://thanhnien.vn/the-gioi/my-
can-thiep-cuoc-chien-an-trung-nam-1962-633044.html, truy cập ngày
2/7/2019.
282. Nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962, nguồn:
https://kienthuc.net.vn/quan-su/nhin-lai-cuoc-chien-tranh-bien-gioi-trung-an-
nam-1962-910787.html#p-10, truy cập ngày 15/2/2017.
283. Nhìn lại những lần biên giới Trung-Ấn "dậy sóng" trên dãy Himalaya, nguồn:
https://kienthuc.net.vn/the-gioi/nhin-lai-nhung-lan-bien-gioi-trung-an-day-
song-tren-day-himalaya-1063055.html, truy cập ngày 1/7/2019.
284. Praval K.C. (2011), 1962 War: The Chinese invasion – III,
nguồn:http://www.indiandefencereview.com/spotlights/1962-war-the-chinese-
invasion-iii/3/, truy cập ngày 25/7/2019.
285. Rahman A. (2007), CIA papers blame India for the 1962 war with China,
nguồn: https://defence.pk/pdf/threads/cia-papers-blame-india-for-the-1962-
war-with-china.6043/, truy cập ngày 5/2/2020.
286. SinghZorawar Daulet (2012),Why India and China went to war in 1962,
nguồn: https://www.tribuneindia.com/news/nation/why-india-and-china-went-
to-war-in-1962-100860, truy cập ngày 20/2/2020.
287. Sino-Indian Border War, 1962, nguồn:
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/collection/71/sino-indian-border-war-
1962, truy cập ngày 15/3/2018.
288. Sino-Indian War 1962, nguồn: http://www.koi-
hai.com/Default.aspx?id=571620, truy cập ngày 10/2/2018.
289. Soviet Union-India (1989), nguồn:
169
http://www.mongabay.com/history/soviet_union/soviet_union-india.html, truy
cập ngày 10/3/2019.
290. The Foreign Policy of Sirimavo Bandaranaike – The Colombo powers and the
Sino-Indian War of 1962, nguồn:http://infolanka.asia/sri-lanka/people/the-
foreign-policy-of-sirimavo-bandaranaike/the-colombo-powers-and-the-sino-
indian-war-of-1962, truy cập ngày 25/2/2018.
291. The Indo-China War 1962, nguồn: http://www.bharat-
rakshak.com/ARMY/history/1962war.html, truy cập ngày 4/8/2019.
292. The India-Tibet Boundary becomes the Sino-Indian boundary,
nguồn:http://www.claudearpi.net/maps, truy cập ngày 4/8/2017.
293. Nguyễn Xuân Trung (2021),Vai trò của Ấn Độ đối với sự định hình cấu trúc
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương,
https://www.tapchicongsan.org.vn/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/823146/vai-
tro-cua-an-do-doi-voi-su-dinh-hinh-cau-truc-khu-vuc-an-do-duong---thai-
binh-duong.aspx, truy cập ngày 2/12/2021.
294. Trung Quốc lép vế trước Ấn Độ trong tranh chấp biên giới, nguồn:
http://www.anninhthudo.vn/quan-su/trung-quoc-lep-ve-truoc-an-do-trong-
tranh-chap-bien-gioi/530091.antd, truy cập ngày 4/8/2019.
295. US stopped Pakistan from attacking 'vulnerable' India in 62: Ex-CIA official,
nguồn: https://tribune.com.pk/story/973912/us-stopped-pakistan-from-
attacking-vulnerable-india-in-62-ex-cia-official/, truy cập ngày 6/1/2018.
296. Vùng đất TQ - Ấn Độ tranh chấp quan trọng tới mức nào? Nguồn:
https://vietnamnet.vn/vn/the-gioi/ho-so/vung-dat-tq-an-do-tranh-chap-quan-
trong-toi-muc-nao-386915.html, truy cập ngày 2/1/2018.
170
PHỤ LỤC
Hình 1 : Các khu vực tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc Nguồn: https://www.inchincloser.com/india-takes-a-tough- stand-on-border-issue/ (truy cập 15 giờ ngày 24/9/2018)
171
Hình 2: Các khu vực tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc Nguồn: https://aspeniaonline.it/why-india-and-china-are- deadlocked-in-the-himalayas/, (truy cập 15 giờ ngày 24/9/2018)
172
Hình 3: Các khu vực tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Trung Quốc (Nguồn: http://newsinfo.inquirer.net/396457/india-asks- china-to-withdraw-troops-at-disputed-border , (truy cập 15 giờ ngày 25/1/2017)
173
Hình 4: Bản đồ khu vực phía Tây và Trung tâm
Nguồn: Alastair Lamb (1964), The China-India border: The origin of the disputed boundary, Oxford University Press, London
174
Hình 5: Bản đồ khu vực phía Đông
Nguồn: Alastair Lamb (1964), The China-India border: The origin of the disputed boundary, Oxford University Press, London
Hình 6: Đường Mc Mahon (Nguồn: http://webteach.mc.uky.edu/geo330/himalayas/maps/002.htm
175
), Truy cập 13 giờ ngày 11/1/2017)
Hình 7: The Chinese, British, and Tibetan delegations (left to right) at the Simla Convention, 1913. (Nguồn: https://sites.google.com/site/legalmaterialsontibet/home /photographs) Truy cập 20 giờ ngày 16/1/2018)
Hình 7: Henry Mc Mahon Nguồn: http://www.findagrave.com/cgi- bin/fg.cgi?page=gr&GRid=103162090, Truy cập 17 giờ ngày 25/9/2017)
176
Hình 8: The Sino-Indian Boundary Question. Peking: Foreign Language Press, 1962. Photostat of eastern sector of original map of the McMahon line with signatures and seals of Tibetan and British plenipotentiaries, Delhi 24 March 1914. (Nguồn https://sites.google.com/site/legalmaterialsontibet/home /photographs), truy cập 15 giờ ngày 3/1/2017)
177
Hình 9: Bandaranaike và Nehru Hình Nguồn:
s/2015/10/10/october-
-sirimavo- -sirimavo-
http://www.lankaweb.com/news/items/2015/10/10/october http://www.lankaweb.com/news/item the-15th-death-anniversary-of- 10-marks-the bandaranaike-buddhist-diplomacy-in-pm- bandaranaike bandaranaikes-foreign foreign-policy-won-world-respect respect-for-sri-
lanka/
178
Hình 10: Đề Xuất Colombo Nguồn: http://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journa http://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journa http://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journa ls/intlm2&div=27&id=&page=
179
Hình 11: Kennedy chào đón Nehru tại Washington tháng 11 năm 1961 Nguồn: https://www.reddit.com/r/JFK/related/2i80qr/president_jo hn_f_kennedy_visiting_his_97yearold/
Hình 12: Nehru động viên một binh sĩ bị thương tại một bệnh viện ở Tezpur, thuộc NEFA tháng 8/1963. (Nguồn:http://www.frontline.in/static/html/fl2214/storie s/20050715000807500.htm)
180
Hình 13: Khrushchev and Nehru năm 1962 Nguồn: http://www.alamy.com/stock-photo-nikita- khrushchev-and-jawaharlal-nehru-1962-32278659.html
Hình 14: Chu Ân Lai và Nehru tại New Delhi năm 1954 (Nguồn http://www.frontline.in/static/html/fl2214/stories/20050 715000807500.htm)
181
182
Nehru’s First Letter to JFK on November 19
New Delhi, 19th November 1962. Dear Mr. President,
It is now a month since the Chinese massive attack on
India started on 20th October. I think I must write to
you again to acquaint you with further developments that
have occurred since my letter of 29th October. Before I
deal with these further developments I would like to say
that we are extremely grateful to you and the Government
and people of the United States of America for the
practical support given to us. We particularly
appreciate the speed with which the urgently needed
small arms and ammunition were rushed to India.
There was a deceptive lull after the first Chinese
offensive during which the Chinese mounted a serious
propaganda offensive in the name of peace to get us to
accept their so-called three point proposals which,
shorn of their wrappings, actually constituted a demand
for surrender on their terms. The Chinese tried,
despite our rejection of these proposals to get various
Afro-Asian countries to intercede with varying offers of
mediation.
After my clear and categorical statement in Parliament
on 14th November rejecting the three point proposal of
Chou En-Lai, the Chinese who had made full preparations
to put further military pressure on us restarted their
military offensive. I am asking our Ambassador to give
you a copy of a statement on the developments in the
military situation during the last few days which I made
in the Parliament this morning. Bomdila which was the
Headquarters of our North East Frontier Agency Command,
183
has been surrounded and the equivalent of two divisions
engaged in the operations in the N. E. F. A. area are
fighting difficult rearguard actions. It is not quite
certain how many of them will be able to extricate
themselves and Join the Corps Headquarters at Tezpur
further south.
The Chinese are by and large in possession of the
greater portion of the North East Frontier Agency and
are poised to overrun Chushul in Ladakh. There is
nothing to stop them after Chushul till they reach Leh,
the Headquarters of the Ladakh province of Kashmir.
Events have moved very fast and we are facing a grim
situation in our struggle for survival and in defending
all that India stands for against an unscrupulous and
powerful aggressor.
Our Defence experts have been discussing our detailed
requirements with the technical experts in your Embassy
here and have given them a full picture of the magnitude
of the operations and the need for air transport and jet
fighters. These are absolutely necessary to stem the
Chinese tide of aggression. A lot more effort, both
from us and from our friends, will be required to roll
back this aggressive tide. I hope we will continue to
have the support and assistance of your great country in
the gigantic efforts that have to be made and sustained
to deal with the unscrupulous and powerful enemy we are
facing.
I am also writing to Prime Minister MacMillan to keep
him informed of these developments.
With kind regards, Yours sincerely, Jawaharlal Nehru
184
Nehru’s Second Letter to JFK on November 19
New Delhi, 19th November 1962. Dear Mr. President,
Within a few hours of despatching my earlier message of
today, the situation in the N. E. F. A. Command has
deteriorated still further. Bomdila has fallen and the
retreating forces from Sela have been trapped between
the Sala Ridge and Bomdila. A serious threat has
developed to our Digboi oil fields in Assam. With the
advance of the Chinese in massive strength, the entire
Brahmaputra Valley is seriously threatened and unless
something is done immediately to stem the tide the whole
of Assam, Tripura, Manipur and Nagaland would also pass
into Chinese hands.
The Chinese have poised massive forces in the Chumbi
Valley between Sikkim and Bhutan and another invasion
from that direction appears imminent. Our areas further
North Wont on the border with Tibet in the States of U.
P. , Punjab and Himachal Pradesh are also threatened.
In Ladakh, as I have said in my earlier communication,
Chushul is under heavy attack and shelling of the
airfield at Chushul has already commenced. We have also
noticed increasing air activity by the Chinese air force
in Tibet.
Hitherto we have restricted our requests for assistance
to essential equipment and we are most grateful for the
assistance which has been so readily given to us. We
did not oak for more comprehensive assistance
particularly air assistance because of the wider
implications of such assistance in the global context
and we did not want to embarrass our friends.
185
The situation that has developed is, however, really
desperate. We have to have more comprehensive
assistance if the Chinese are to be prevented from
taking over the whole of Eastern India. Any delay in
this assistance reaching us will result in nothing short
of a catastrophe for our country.
We have repeatedly felt the need of using air arm in
support of our land forces, but have been unable to do
as in the present state of our air and radar equipment
we have no defence age fret retaliatory action by the
Chinese.
I, therefore, request that immediately support be given
to strengthen our air arm sufficiently to stem the tide
of Chinese advance.
I am advised that for providing adequate air defence a
minimum of 12 squadrons or supersonic all weather
fighters are essential. We have no modern radar cover
in the country. For this also we seek your assistance.
Our needs are most immediate. The United States Air
Force personnel will have to man these fighters and
radar installations while our personnel are being
trained. U. S. fighters and transport planes manned by
U. S. personnel will be used for the present to protect
our cities and installations from Chinese air attacks
and to maintain our communications. We should if this
is possible also like U. S. planes manned by U. S.
personnel to assist the Indian Air Force in air battles
with the Chinese air force over Indian areas where air
action by the I. A. F. against Chinese communication
lines supplies and troop concentration may lead to
186
counter air action by the Chinese.
Any air action to be taken against the Chinese beyond
the limits of our country, e. g, Tibet, will be taken by
I. A. F. planes manned by Indian personnel.
Determined as we are to liberate all parts of our
territory which may pass into the hands of the Chinese
aggressors it is clear that sooner or later we would
have to neutralise their bases and airfields by striking
from the air. For this purpose I request you to
consider assisting us with two Squadrons of Bombers of
B-47 type. To man this indispensible arm we would like
to send immediately our Pilots and Technicians for
training in the United States.
The Chinese threat as it has developed involves not
merely the survival of India, but the survival of free
and independent Governments in the whole of this sub—
Continent or in Asia. The domestic quarrels regarding
small areas or territorial borders between the countries
in this sub-Continent or in Asia have no relevance
whatever in the context of the developing Chinese
invasion. I would emphasize particularly that all the
assistance or equipment given to us to meet our dire
need will be used entirely for resistance against the
Chinese. I have made this clear in a letter I sent to
President Ayub Khan of Pakistan. I am asking our
Ambassador to give you a copy of this letter.
We are confident that your great country will in this
hour of our trial help us in our fight for survival and
for the survival of freedom and independence in this
sub-Continent as well as the rest of Asia. We on our
187
part are determined to spare no effort until the threat
posed by Chinese expansionist and aggressive militarism
to freedom and independence is completely eliminated.
With kind regards,
Yours sincerely,
Jawaharlal Nehru
(Nguồn: http://historyinpieces. com/nehru-jfk-sino-
indian-war, Truy cập 15 giờ ngày 25/1/2017)
October 22, 1962 Soviet Memorandum on the Sino-Indian Border Issue
-Translation of the Soviet Memorandum-
The government of the Soviet Union has carefully studied the current
situation of the Sino- Indian border as introduced in the conversation between
Comrade Zhou Enlai and the Soviet Ambassador on 8 October of this year and
expressed its gratitude [for this introduction].
We understand the views of the Chinese comrades and recognize that the
government of the People’s Republic of China is making efforts to eliminate
conflict and settle disputes peacefully. We are confident that this route is consistent
with the interests of the entire socialist camp.
We all know that, although the Soviet Union has not issued any statement
since 1959, we consistently hold that such disputes should be resolved through
peaceful means and take into account the interests of China and India. We are
closely watching how the situation develops and agree with your views, namely that
the recent information regarding the Sino-Indian border is more worrisome.
It has become increasingly obvious that the tensions are continuing to build.
This development is only beneficial to the imperialists and the reactionary clique of
India. In the past and in the present, they are doing everything possible to sow the
seeds of hostility between the People’s Republic of China and India, to weaken the
traditional friendship between the great Chinese and Indian people, and to provoke
188
an armed conflict between them. We know very well that the imperialist clique has
used every opportunity to take advantage of the Sino-Indian border issue in the
dispute to speculate about relations between the Soviet Union and India and the
Soviet Union and China in an attempt to divide us and sow dissension between the
people of China and the Soviet Union.
Therefore, we are willing to clarify that the Soviet Union and China have an
unbreakable fraternal friendship which is based on the Marxist-Leninist doctrine
and the principles of proletarian internationalism. It is the fight against imperialism
and for world peace that brings us together.
We fully support your desire to solve the border dispute with India through
negotiations. Negotiations will prevent the further intensification of the conflict and
create a good atmosphere for its peaceful settlement.
We understand your position that the McMahon line is not an established
boundary. It is a painful historical legacy.
When this line was delimited, Indian territory was still under the rule of a
powerful colonial country—the United Kingdom. England drew and redrew the
map of this area without considering the national interests of all ethnic groups,
historical characteristics, and national characteristics. At that time, China was weak
and could not resist the United Kingdom as it deserved. Nevertheless, China does
not recognize the unilateral delimitation of the McMahon line.
Of course, it is difficult to state the specific ways to resolve the border
dispute between the People’s Republic of China and India, but we believe that the
recommendations put forward by the People’s Republic of China to hold talks
without preconditions and that the two forces should retreat 20 kilometers beyond
the 1959 border are constructive suggestions. We believe that these
recommendations are a good start for the peaceful solution to this problem which do
not damage the prestige of either side and take into account the interests of both the
People’s Republic of China and India.
As for the comments made by Comrade Zhou Enlai on the sale of airplanes
189
and helicopters to India by the Soviet Union, we are willing to tell you that, so far,
the Soviet Union has sold India eight “AH-12” airplanes and twenty “MU-4”
helicopters. Obviously, these planes have no military significance and will not
affect the balance of power.
The government of the Soviet Union, in forming its policy towards India
both in the past and at the present, begins from the desire of how to enable India to
maintain a neutral position and prevent the reactionary forces in India from pulling
India into the imperialist camp. When deciding to sell arms to India [we] considered
how this measure can be used to serve our common interests and prevent India from
becoming closer to the imperialist countries and, in particular, to prevent India’s
military clique from becoming closer to the militarists in the United States and other
Western countries.
Finally, we hope that the border conflict will be cleared up and that the Sino-
Indian border dispute will be solved in a reasonable manner.
(Nguồn:
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/121895.pdf?v=b7c4e4a5ceccf77ba
e264ce3fe79f728
October 25, 1962 Cable from the Chinese Ministry of Foreign Affairs,
'Memorandum from the Soviet Union on the Sino-Indian Border Dispute and
the Sale of Aircrafts to India'
Memorandum from the Soviet Union on the Sino-Indian Border Dispute and the
Sale of Aircrafts to India
[To] All Chinese Embassies and Charge d’Affaires:
Bulletin of the Ministry of Foreign Affairs No. 73
On 22 October, the Embassy of the Soviet Union submitted to Vice Minister
Zhang [Hanfu] a memorandum from the Government of the Soviet Union in reply
to Premier Zhou Enlai’s talks with the Ambassador of the Soviet Union on the Sino-
(1)
Indian border dispute. The key points of the memo are summarized as follows:
It expresses serious worry about the situation in the Sino-Indian border
190
and says that such a situation is only going to benefit the imperialists and the anti-
revolutionary groups in India who always attempt to damage the Sino-Indian
(2)
friendship, Soviet-Indian relations and Sino-Soviet relations.
It emphasizes the Soviet Union’s perennial stance on the peaceful
settlement of the dispute. It says that the Soviet Union fully supports our efforts to
settle the dispute peacefully and our constructive proposal to hold unconditional
negotiations and mutually withdraw by 20 kilometers. It expresses an understanding
(3)
of our stance that the McMahon Line is not an established border.
It pleads that the transport aircraft and helicopters that the Soviet Union
sold to India “have no military significance” and “will not affect the balance of
power.” It also says that this “measure is for our common interest by preventing
India from approaching the West.”
Vice Minister Zhang says that what matters is India’s encroachment on
Chinese territory while China does not encroach on India’s territory. It must be
clearly understood that India is the invader and China has been forced to defend;
that India has rejected peaceful negotiations on the Sino-Indian border dispute while
China has always insisted on such a peaceful settlement; that India crossed the
Chinese border, encroached on Chinese territory and launched full attacks against
China’s border defense units while China has been forced to fight back. It is also
noteworthy that Nehru used to instigate riots in Tibet and met the Dalai Lama some
days ago.
Indian governmental officials even claim to support and recognize the exile
government of Tibet. It is necessary to clearly distinguish right from wrong.
Ministry of Foreign Affairs
25 October 1962
October 26, 1962 Entry from the Journal of Soviet ambassador to India
Benediktov, Conversation with General Secretary of the Communist Party of
India, E.M. Nambudiripad
Today at my own initiative, fulfilling the commission of the CC CPSU, I met
191
with E.M. Nambudiripad and informed him of the statement of the CC CPSU on the
Indian-Chinese border conflict. He listened most attentively to the statement of the
CC and promised immediately to convey its contents to the members of the
secretariat of the National Council of the CPI.
Nambudiripad said that four members of the secretariat, who were in Delhi,
today carefully studied and discussed at length the Pravda article of October 25 on
the border question. "We ask that you transmit this to the CC CPSU, - he continued,
- that the publication of this article and the advice of the CPSU contained in this
letter of the CC CPSU, truly will help our party get out of the extremely difficult
position it is now in. Before this [help] there were moments when we felt ourselves
to be simply helpless, but now the party will be able to remedy this situation. We
are grateful to the CC CPSU for this help; you can transmit this personally from me
and from Comrade B. Gupta." He pointed out the whole array of difficulties the CPI
faces in correcting its earlier positions and statements on the border question. The
most typical mistake of many communists, in his words, is that they cannot clearly
distinguish [between] patriotism and bourgeois nationalism. Some of the members
of the party considered it possible [that there would be] support for the Indian
position in this dispute from a number of communist parties of the socialist
countries in light of the ideological differences between the CCP PRC and other
fraternal parties, although - he continued, - I knew that this was impossible and
incorrect. Moreover, it is very difficult in general to sharply reformulate the whole
system of views on the border conflict held by members of the party, since these
views in many cases were contradictory to those expressed in Pravda and in this
letter of the CC CPSU. In particular, the CPI for three years considered the
McMahon line the real border between the two states. Many rank and file members
of the party and some members of the leading organs, in solidarity with the
widespread opinion among the population, hold to the view that the PRC is [the]
guilty [party] in the origin and exacerbation of the border conflict." "Undoubtedly
the article in Pravda will have an influence on these comrades, he said, it will force
192
them to think through the whole question again." Members of the secretariat Nair
and Sharma at today's meeting pointed out that the Pravda article, while in fact
criticizing the position of the Indian communists and India's relation to this question
as a whole, did not express any critical comments with regard to the PRC and the
Chinese comrades.
Nambudiripad reported that the secretariat of the CPI after the discussion of
the Pravda article today reached the conclusion that "this publication in all
probability will inaugurate a new period of anti-Soviet hysteria in India." The
campaign that is going on everywhere against the PRC will, obviously, be extended
to the Soviet Union, and then to all countries of the socialist system....He expressed
the opinion of the secretariat that in connection with this statement of the Soviet
press and in connection with the pressure on India from many neutral countries
regarding a more rapid peaceful settlement of this conflict, the Indian
government...can reach the conclusion that only western countries are our true
friends...
"In this connection we very much would like to find out if Soviet leaders
could help the CPI give an understanding to the Chinese comrades that it is
extremely desirable to give the possibility to Nehru to move toward peace
negotiations and cease military actions without damage to the prestige of India and
of Nehru himself, - Nambudiripad stated. The Secretariat has unanimously reached
the conclusion that such a step by the PRC would have a huge significance for the
cause of world peace, for all progressive forces, for the anti-imperialist struggle..."
[Source: AVPRF, f. 090, op. 24, d. 6, p. 80, ll. 134-139; document obtained
by J. Hershberg; translation by K. Weathersby.]
(Nguồn: https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/113000)