VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thu Hạnh
CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN
TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 2016
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Hà Nội - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thu Hạnh
CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN
TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 2016
Ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 9 22 90 11 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Võ Kim Cương
Hà Nội - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Luận án này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Võ Kim Cương. Các số liệu, đánh giá, kết luận
nghiên cứu được trình bày trong Luận án này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thu Hạnh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Võ Kim Cương
đã luôn tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu để hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các thầy, cô Khoa Sử học, Học Viện
Khoa học xã hội đã đóng góp ý kiến và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập tại Khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn Viện Sử học, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam,
nơi đã cho tôi cơ hội được làm việc, học tập, và hoàn thành được luận án này.
Tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những người đã luôn giúp
đỡ tôi trong suốt bốn năm học tập vừa qua.
Hà Nội, ngày …… tháng ….. năm 2020
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thu Hạnh
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 2
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ......................... 3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ................................................................. 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................... 5
7. Cấu trúc của luận án ............................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................ 6
1.1. Các nghiên cứu trong nước ................................................................................. 6
1.1.1. Các công trình về chính sách đối ngoại của Mỹ ............................................. 6
1.1.2. Các công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Trung Đông ............................................................................................................... 8
1.1.3. Các công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran ....... 8
1.2. Các nghiên cứu nước ngoài ................................................................................. 9
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ .......................... 9
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông ........ 11
1.2.3. Các công trình nghiên cứu trực tiếp về chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) ..................................................................................................................... 12
1.3. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án .. 22
1.4. Những vấn đề luận án tiếp tục làm rõ .............................................................. 23
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 2016 ............................................................. 25
2.1. Yếu tố Iran .......................................................................................................... 25
2.1.1. Vị trí chiến lược của Iran trên bản đồ địa chính trị thế giới ......................... 25
2.1.2. Tình hình Iran sau năm 1979 ........................................................................ 28
2.2. Yếu tố Mỹ ............................................................................................................ 34
2.2.1. Chính sách của Mỹ với Iran trước năm 1979 ............................................... 34
2.2.2. Tiềm lực quốc gia và chiến lược toàn cầu của Mỹ ....................................... 41
2.2.3. Lợi ích và chính sách của Mỹ ở Trung Đông ............................................... 44
2.2.4. Tác động của các nhóm lợi ích đối với quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran ....................................................................................................... 50
2.3. Các yếu tố quốc tế ............................................................................................... 54
2.3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực ......................................................................... 54
2.3.2. Ảnh hưởng của các cường quốc trong vấn đề Iran ....................................... 59
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 70
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN (1979 - 2016) ............................................................................. 73
3.1. Nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) ................................. 73
3.1.1. Mục tiêu của chính sách ................................................................................ 73
3.1.2. Nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) ............................. 76
3.2. Quá trình triển khai chính sách ........................................................................ 84
3.2.1. Giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1991 .......................................................... 84
3.2.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2016 .......................................................... 99
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 122
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT VỀ VIỆC TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN .......................................................................................................... 124
4.1. Nhận xét chung ................................................................................................. 124
4.1.1. Đánh giá về tính hiệu quả của việc triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 – 2016) ........................................................................................................ 124
4.1.2. Tính thống nhất và vận động trong chính sách của Mỹ với Iran qua các đời Tổng thống Mỹ (1979 - 2016) .............................................................................. 128
4.2. Đánh giá tác động của chính sách của Mỹ đối với Iran tới các bên liên quan .......... 132
4.2.1. Đối với Iran ................................................................................................. 132
4.2.2. Đối với Mỹ .................................................................................................. 139
4.2.3. Tác động đối với khu vực Trung Đông và thế giới .................................... 146
4.3. Một số vấn đề đặt ra đối với chính sách của Mỹ với Iran sau năm 2016 .... 152
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 160
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 161
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 161
BẢNG THỐNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
AIPAC The American Israel Public Affairs Committee Ủy ban các vấn đề công của người Mỹ gốc Do Thái
ARMISH US Army Mission Headquarters Phái đoàn chỉ huy quân sự Mỹ
AWACs Airborne Warning and Control Systems Hệ thống điều khiển không lưu và cảnh báo sớm
Cục phát triển quốc tế Mỹ AID The Agency for International Development
Central Intelligence Agency Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA
CENTO The Central Treaty Orgnization Tổ chức Hiệp ước Trung tâm
DCA Defense Cooperation Agreement Hiệp định Hợp tác Quốc phòng
EIA US Energy Information Administration Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ
European Union Liên minh châu Âu EU
IAEA International Atomic Energy Agency Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế
ILSA Iran and Libya Sanctions Act Đạo luật trừng phạt Iran và Libya
Islamic States Nhà nước Islam giáo (tự xưng) IS
JCPOA Joint Comprehensive Plan of Action Kế hoạch hành động chung toàn diện (Thỏa thuận hạt nhân Iran)
Joint Plan of Action Kế hoạch hành động chung JPA
Gulf Cooperation Council Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh GCC
GENMISH US Military Mission to the Imperial Iranian Gendarmarie Phái đoàn quân sự Mỹ hỗ trợ Lực lượng Hiến binh Hoàng gia Iran
Đoàn cố vấn quân sự Mỹ ở Iran MAAG Military Assistance Advisory Group
SAVAK Lực lượng an ninh quốc gia Iran SAVAK
Technical Assistance Field Teams Các đội trợ giúp kỹ thuật TAFTs
UAE The United Arab Emirates
US CENTCOM The United States Central Command Các tiểu Vương quốc Arab thống nhất Trung tâm chỉ huy quân sự của Mỹ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau cuộc cách mạng năm 1979, Iran với những thay đổi lớn về thể chế chính trị
cũng như đường lối ngoại giao đã trở thành một trong những tâm điểm trong chính
sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Đối với các nhà cầm quyền Mỹ, bên
cạnh chương trình hạt nhân gây tranh cãi, việc Iran theo đuổi một đường lối ngoại giao
độc lập, “không Xô không Mỹ chỉ có Islam là trên hết”, chủ trương “xuất khẩu cách
mạng” tiềm ẩn nhiều thách thức, đe dọa đến những lợi ích sống còn của Mỹ ở khu vực
Trung Đông. Do đó, chính sách của Mỹ đối với Iran từ sau năm 1979 đã có sự thay đổi
mang tính bước ngoặt, từ đồng minh chuyển sang đối đầu. Vấn đề giữa Mỹ và Iran đã
trở thành một đề tài thu hút được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu lịch sử và
chính trị trên toàn thế giới. Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran
sau năm 1979 có ý nghĩa lớn cả về lí luận và thực tiễn.
Về mặt thực tiễn, trước hết, chính sách của Mỹ đối với Iran có tác động mạnh mẽ
không chỉ đến Iran mà còn đến tình hình khu vực Trung Đông và trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Mỗi một sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Iran có thể dẫn
đến những căng thẳng chính trị ở khu vực Trung Đông nói riêng và trên thế giới nói
chung đồng thời tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là thị trường dầu
mỏ. Do đó, việc hiểu đúng về chính sách của Mỹ đối với Iran là đặc biệt cần thiết
trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế - chính trị
toàn cầu.
Bên cạnh đó, Mỹ và Iran đều là những quốc gia có mối quan hệ hợp tác đối với
Việt Nam. Sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, Mỹ và Việt Nam đã và đang
xây dựng được quan hệ hợp tác toàn diện, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đóng góp
tích cực đối với sự phát triển của Việt Nam. Trong khi đó, Iran cũng là một đối tác tin
cậy đối với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, việc nghiên cứu về chính sách của
Mỹ đối với Iran sau năm 1979 sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết đúng đắn về chính
sách cũng như mối quan hệ giữa hai quốc gia này, từ đó tránh được thế mắc kẹt trong
mối quan hệ này đồng thời tận dụng được những cơ hội từ quá trình cạnh tranh và hợp
tác giữa Mỹ và Iran.
Về mặt lí thuyết, nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với Iran từ sau năm 1979 -
2016 sẽ góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa siêu cường với một quốc gia thuộc thế
giới thứ ba. Sự đấu tranh, hợp tác trong mối quan hệ đó là bài học đặc biệt quan trọng
đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhằm lựa chọn chính sách phù hợp
1
trong mối quan hệ với các cường quốc trên thế giới.
Từ những luận điểm vừa nêu, có thể thấy việc nghiên cứu về chính sách của Mỹ
đối với Iran (1979 - 2016) vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn. Tuy
nhiên, hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu một cách
hệ thống và toàn diện về vấn đề này. Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Chính
sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến năm 2016” là đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu của luận án là tập trung nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với Iran
từ năm 1979 đến năm 2016 dưới cách tiếp cận của ngành lịch sử thế giới; Trên cơ sở
phân tích, lý giải nội dung chính sách và quá trình triển khai, luận án sẽ làm rõ hơn về
những thay đổi của chính sách qua các đời Tổng thống Mỹ cũng như tác động của
chính sách này đối với mỗi nước và các bên liên quan.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu và phân tích những yếu tố tác động đến quá trình hoạch định chính sách
của Mỹ đối với Iran từ 1979 đến năm 2016.
- Phân tích nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến 2016 cũng
như những thay đổi trong chính sách ấy so với các giai đoạn khác.
- Phân tích và đưa ra những số liệu cụ thể để làm rõ quá trình triển khai chính
sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến năm 2016.
- Đánh giá tác động của những chính sách trên đối với cả Iran và Mỹ. Từ đó nhận
xét những thách thức đặt ra đối với nước Mỹ trong việc duy trì ảnh hưởng và lợi ích ở
một khu vực chiến lược và trọng yếu như Trung Đông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm
1979 đến năm 2016.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
*Về mặt thời gian
Phạm vi thời gian nghiên cứu được lựa chọn trong luận án là từ năm 1979 đến
năm 2016. Lý do cho việc lựa chọn mốc mở đầu và mốc kết thúc này là:
+ Với mốc mở đầu, cuộc Cách mạng Islam (1979) bùng nổ và thắng lợi đã đưa
Iran bước sang một giai đoạn phát triển mới dưới sự lãnh đạo của Khomeini, đồng thời
nó cũng chấm dứt sự phụ thuộc vào chính quyền Washington dưới thời Mohammad
Reza Shah. Iran từ vị thế là đồng minh thân cận nhất của Mỹ trở thành một trong
những đối địch của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Do đó, có thể nói rằng, mốc 1979 là
2
một mốc thời gian đặc biệt quan trọng, mở đầu cho những thay đổi to lớn trong chính
sách của Mỹ với Iran trong suốt bốn thập niên tiếp theo.
+ Với mốc kết thúc, năm 2016, Tổng thống Obama phê chuẩn sắc lệnh bãi bỏ lệnh
cấm vận đối với Iran, đưa quan hệ Mỹ - Iran đứng trước ngưỡng cửa mới. Xuất phát
những lý do vừa nêu, tôi chọn năm 2016 làm mốc kết thúc cho giai đoạn nghiên cứu của
mình.
+ Trong thực tiễn triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016),
nghiên cứu sinh chia ra làm hai giai đoạn: 1979 - 1991, và 1991 - 2016. Nghiên cứu
sinh lựa chọn năm 1991 làm mốc phân chia bởi lẽ năm 1991 là năm bước ngoặt trong
lịch sử thế giới với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Trật tự thế giới và quan hệ quốc tế cũng thay đổi mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia,
dân tộc trong đó của Mỹ và Iran. Những thay đổi to lớn trong bối cảnh quốc tế đã dẫn
đến sự điều chỉnh trong mục tiêu, các vấn đề ưu tiên cũng như thực tiễn triển khai
chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran trước và sau năm 1991.
*Về mặt không gian: Luận án chủ yếu phân tích các sự kiện diễn ra ở Mỹ, Iran và
các sự kiện ở khu vực Trung Đông có liên quan đến chính sách của Mỹ đối với Iran.
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp luận
Luận án là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành lịch sử thế giới, được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Marxist. Trong quá trình nghiên cứu và
khai thác tài liệu tham khảo, luận án quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Marx - Lenin về
chính sách đối ngoại giữa các quốc gia, sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để giải
quyết các vấn đề nghiên cứu nhằm đảm bảo tính logic và khoa học. Ngoài ra, những nội
dung được trình bày trong luận án bám sát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc đánh giá về chính sách của các nước lớn, coi đây là định hướng quan trọng trong
nghiên cứu.
Để giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu, luận án chủ yếu dựa vào cách tiếp
cận toàn diện có trọng tâm. Khi nghiên cứu chính sách của Mỹ với Iran từ sau năm
1979, bên cạnh việc tìm hiểu toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế - chính trị ngoại giao
- quân sự, luận án sẽ xoáy sâu vào những vấn đề mang tính cốt lõi như: cuộc khủng
hoảng con tin, tham vọng xuất khẩu cách mạng của Iran, chiến tranh Iran - Iraq (1980 -
1988), cuộc khủng hoảng hạt nhân, cấm vận kinh tế… để chỉ ra và nắm bắt được
những nội dung quan trọng nhất cấu thành nên chính sách của Mỹ đối với Iran.
Ngoài ra, luận án còn dựa trên cách tiếp cận khu vực. Trong thời đại toàn cầu hóa
hiện nay, những vấn đề chính trị của quốc gia gắn chặt với nền chính trị toàn cầu, đặc biệt
là trong trường hợp của Mỹ và Iran. Iran nằm ở Trung Đông – một khu vực mà Mỹ có
3
những lợi ích quan trọng và lâu dài. Do đó khi nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ
đối với Iran, cần đặt nó trong chính sách chung của Mỹ đối với toàn bộ khu vực Trung
Đông.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận án, nghiên cứu sinh đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu khác nhau trong đó chủ đạo là phương pháp lịch sử. Với phương pháp lịch sử, tác
giả sử dụng nhiều sự kiện, phát biểu, nhận xét của các chính trị gia, nhân vật tiêu biểu
trong thời kì từ năm 1979 đến năm 2016. Từ đó, làm rõ chính sách ngoại giao của Mỹ
đối với Iran sau khi cách mạng Iran nổ ra (1979).
Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp logic nhằm làm rõ những biến
đổi, vận động cũng như những đặc trưng riêng biệt trong chính sách đối ngoại của Mỹ
với Iran từ sau năm 1979 đến năm 2016.
Ngoài ra, để luận án mang tính khoa học, chặt chẽ và thuyết phục, tác giả còn sử
dụng các phương pháp liên ngành như: phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu thông
qua các biểu đồ, số liệu, tranh ảnh…
4.3. Nguồn tư liệu
Trong luận án, nghiên cứu sinh sử dụng nhiều nguồn tư liệu gốc. Đa phần, các số
liệu trong bài được trích từ các công bố của các cơ quan trong hệ thống chính trị liên
bang Mỹ như: Bộ Ngoại Giao Mỹ, Quốc hội Mỹ, Cục Tình báo Trung ương Mỹ
(CIA), Bộ Quốc phòng Mỹ, Bộ Tài chính Mỹ và các tổ chức quốc tế uy tín như: Liên
Hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Cơ quan Năng lượng Nguyên tử thế giới (IAEA)…
Bên cạnh nguồn tư liệu quan trọng này, nghiên cứu sinh còn sử dụng các cuốn
sách chuyên khảo, tham khảo của các nhà xuất bản lớn trên thế giới (Routledge,
Springer, Oxford University Press, Cambridge University Press…) và các tài liệu
nghiên cứu của các viện nghiên cứu hàng đầu thế giới như: Viện nghiên cứu
Brookings (Brookings Institute), Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (Center
for Strategic and International Studies - CSIS), RAND corporation…
Để những nghiên cứu trong luận án mang tính cập nhật, nghiên cứu sinh còn sử
dụng thông tin từ trang web chính thức của Bộ ngoại giao Việt Nam, của Mỹ… và một
số các tờ báo tin tức uy tín của nước ngoài như Thời báo New York, Bưu điện
Washington, hãng tin CNN, hãng tin Reuters…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên ở Việt Nam đề
cập đến chính sách của Mỹ đối với Iran giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2016. Trước
đó, chưa có công trình, cuốn sách nào nghiên cứu về vấn đề này một cách có hệ thống.
4
Những kết quả nghiên cứu trong luận án sẽ góp phần lấp vào những khoảng trống tri
thức ở Việt Nam hiện nay trong nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với Iran nói riêng
và đối với toàn bộ khu vực Trung Đông nói chung.
Luận án sử dụng nguồn tư liệu tham khảo có độ tin cậy và cập nhật cao. Do đó,
luận án sẽ góp phần cung cấp thông tin, tư liệu cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên,
các đọc giả có nhu cầu nghiên cứu và tìm hiểu về chính sách của Mỹ đối với Iran cũng
như các vấn đề có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án “Chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến
năm 2016” là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về chính sách của Mỹ đối với
Iran trong vòng gần 40 năm (1979 - 2016), làm rõ sự tiếp nối và sự thay đổi của chính
sách từ góc nhìn của một nhà nghiên cứu Việt Nam.
Thêm vào đó, nghiên cứu về Mỹ và chính sách đối ngoại của siêu cường này
luôn là một vấn đề quan trọng đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc
nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến năm 2016 sẽ
góp phần làm sáng tỏ chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông nói riêng và
chiến lược toàn cầu của Mỹ trong 40 năm qua. Điều này là rất cần thiết trong bối cảnh
Việt Nam đang đẩy mạnh quan hệ với Mỹ và hội nhập quốc tế.
Về ý nghĩa thực tiễn, vấn đề chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran là một bài
học thực tiễn có tính tham khảo tốt, góp phần phục vụ cho việc hoạch định chính sách
đối ngoại của Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, các diễn
biến chính trị trên thế giới sẽ không chỉ tác động đến các quốc gia liên quan trực tiếp
mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, khu vực khác trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Việc hiểu đúng bản chất về chính sách và mối quan hệ giữa các nước lớn rất cần
thiết đối với Việt Nam, giúp Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội và tránh được
những thách thức từ quá trình cạnh tranh, hợp tác giữa các nước lớn.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được
chia làm 4 chương, bao gồm:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Các yếu tố tác động đến chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979
đến năm 2016.
Chương 3. Nội dung và quá trình triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran từ
năm 1979 đến năm 2016.
Chương 4. Nhận xét về việc triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm
5
1979 đến năm 2016.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu trong nước
1.1.1. Các công trình về chính sách đối ngoại của Mỹ Ở Việt Nam, Mỹ và chính sách đối ngoại của quốc gia này là đối tượng nghiên
cứu được quan tâm đặc biệt. Đã có nhiều chuyên gia về lĩnh vực này như: Trần Thị Vinh, Nguyễn Thái Yên Hương, Nguyễn Thiết Sơn… Tuy không có nhiều đề tài, công
trình nghiên cứu đề cập trực tiếp tới chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến
năm 2016, nhưng nội dung nghiên cứu trong các cuốn sách viết về Mỹ và chính sách
đối ngoại của Mỹ được chấp bút bởi các học giả trong nước là một nguồn tư liệu tham
khảo quan trọng giúp nghiên cứu sinh có một cái nhìn tổng quan về chính sách đối
ngoại của Mỹ nói chung. Từ đó, định hình được rõ nét hơn về chính sách của Mỹ với
Iran trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Trong số các chuyên gia về Mỹ ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Yên
Hương (Học viện Ngoại giao) đã công bố và xuất bản được nhiều cuốn sách, bài báo
như: cuốn “Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ” (2003),
“Can thiệp nhân đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ” (2005), “Hoa Kỳ: Văn hóa
và chính sách đối ngoại” (2008), “Tôn giáo Mỹ và việc sử dụng vấn đề tôn giáo trong
chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” (2014)…
Cuốn “Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ” (2003)
đề cập tới một nội dung quan trọng trong chính sách của Mỹ với Iran từ sau năm 1979,
đó là trừng phạt kinh tế. Những lý thuyết cơ bản nhất về trừng phạt kinh tế đã được đề
cập trong nghiên cứu của Nguyễn Thái Yên Hương. Cuốn sách đã chỉ ra và phân tích
một số trường hợp cụ thể về trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của Mỹ như trường hợp của Iraq, Việt Nam, Nam Phi, Cu Ba, Trung Quốc và Nam Tư. Những ví
dụ này là những dữ liệu quan trọng để so sánh với Iran - quốc gia với gần 40 năm
hứng chịu các lệnh trừng phạt kinh tế từ Nhà Trắng.
Cuốn sách tham khảo “Tôn giáo Mỹ và việc sử dụng vấn đề tôn giáo trong chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” (2014) đã đề cập đến quá trình
hình thành, các đặc trưng cơ bản cũng như vai trò của tôn giáo trong nền chính trị Mỹ. Trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, tôn giáo nhiều lần được sử dụng như một thứ vũ khí để tấn công các “đối tượng” của chính quyền Mỹ, trong đó có một số quốc gia ở
Trung Đông. Như vậy, dù không liên quan trực tiếp đến chính sách của Mỹ đối với
Iran, nhưng các nội dung nghiên cứu trong cuốn sách “Tôn giáo Mỹ và việc sử dụng vấn đề tôn giáo trong chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” giúp
6
nghiên cứu sinh có thêm hiểu biết về chính sách đối ngoại của nước Mỹ nói chung và
việc sử dụng tôn giáo trong ngoại giao nói riêng. Những kiến thức nền này là rất cần
thiết để nghiên cứu sinh có thể tìm hiểu và phân tích chính sách của Mỹ với Iran.
Một chuyên gia khác về Mỹ là Trần Thị Vinh (Đại học sư phạm Hà Nội) cũng có
nhiều công trình liên quan đến Mỹ và chính sách đối ngoại của nước này. Trong số đó, nổi bật là cuốn “Chủ nghĩa tư bản thế kỉ XX và thập niên đầu thế kỉ XXI: một cách tiếp
cận từ lịch sử”. Nội dung của cuốn sách xoay quanh những thay đổi của chủ nghĩa tư
bản trong suốt thế kỉ XX đầu thế kỷ XXI. Mỹ - quốc gia đứng đầu thế giới tư bản
chiếm dung lượng nhiều nhất trong cuốn sách. Giáo sư đã khắc họa sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Mỹ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong đó có chính sách
đối ngoại. Những kiến thức được trình bày trong cuốn sách giúp nghiên cứu sinh có
một cái nhìn toàn diện hơn về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Mỹ cũng như
những nét chính trong chính sách đối ngoại của quốc gia này.
Viện nghiên cứu châu Mỹ (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) là một trung tâm nghiên cứu lớn về các quốc gia châu Mỹ ở Việt Nam. Viện đã công bố nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Một trong số đó là cuốn sách “Hoa Kỳ: Cam kết và mở rộng (chiến lược toàn cầu mới của Mỹ)” do Lê Bá Thuyên làm chủ biên do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản vào năm 1997. Cuốn sách đã phân tích chiến lược đối ngoại mới dưới thời Tổng thống Bill Clinton – “cam kết và mở rộng” trong đó củng cố các cam kết với các đồng minh chiến lược cũng như mở rộng phạm vi dính líu của Mỹ trên toàn thế giới, trong đó có khu vực Trung Đông. Những nội dung trong cuốn sách đã giúp nghiên cứu sinh có một cái nhìn rõ hơn về chính sách đối ngoại chung của Mỹ dưới thời của Bill Clinton – một giai đoạn trong phạm vi thời gian mà luận án tập trung nghiên cứu.
Nguyễn Thiết Sơn (Viện nghiên cứu châu Mỹ) cũng là một nhà nghiên cứu chuyên sâu khác về Mỹ. Một trong những công trình nổi bật của ông là “Nước Mỹ đầu thế kỉ XXI”. Cuốn sách chỉ có 263 trang nhưng đã chỉ ra được những nét lớn về nước Mỹ trong những năm đầu thế kỷ XXI, trong đó có vấn đề chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế. Tác giả Nguyễn Thiết Sơn nhấn mạnh sự nhất quán trong đường lối đối ngoại của Mỹ đó là “khẳng định và duy trì địa vị lãnh đạo thế giới”. Cuốn sách cũng tóm lược những điều chỉnh trong chính sách của nước Mỹ sau sự kiện khủng bố ngày 11/9. Đường lối đối ngoại của Mỹ với từng khu vực hay các nước lớn như: châu Âu, châu Á, các quốc gia Mỹ Latinh, châu Phi, các nước Nga, Trung Quốc, Nhật Bản đã được tác giả phân tích khá sâu… Ở Trung Đông, chính sách hậu thuẫn Israel và mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Iraq là những vấn đề được tác giả tập trung làm rõ. Những thông tin này khá hữu ích, bởi khi phân tích về chính sách của Mỹ với Iran phải đặt trong chiến lược chung của Mỹ ở khu vực Trung Đông.
7
Mặc dù ít đề cập trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án, nhưng những kiến thức chung về chính sách đối ngoại của Mỹ được trình bày trong các công trình
nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đã giúp nghiên cứu sinh hiểu rõ hơn đối tượng nghiên cứu của mình, đồng thời đặt chính sách của Mỹ với Iran trong mối quan hệ biện chứng với chiến lược toàn cầu của Washington hiện nay.
1.1.2. Các công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu
vực Trung Đông
Cuốn sách “Nước Mỹ: vấn đề, sự kiện và tác động” (xuất bản năm 2004) của Vũ Đăng Hinh là một công trình khoa học có chiều sâu về tình hình nước Mỹ trong lịch sử đương đại. Một phần nhỏ trong cuốn sách có đề cập tới chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông. Vũ Đăng Hinh và nhóm tác giả của ông nhấn mạnh tới tình hình Trung Đông cũng như tầm quan trọng của khu vực này đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Theo đó, các quốc gia Trung Đông có một vai trò rất lớn trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ - một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ đầu thế kỷ XXI. Tuy dung lượng không nhiều, nhưng những phân tích và đánh giá của các tác giả đã giúp nghiên cứu sinh tiệm cận gần hơn đến những vấn đề cốt lõi và quan trọng nhất trong chính sách của Washington ở Trung Đông trong những thập niên gần đây.
Bên cạnh đó không thể không nhắc đến các nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiền (Viện nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông). Nguyễn Thanh Hiền đã công bố nhiều nghiên cứu liên quan đến tình hình Trung Đông cũng như chính sách của các nước lớn đối với khu vực này. Một trong số những công trình đó là cuốn “Biến động chính trị - xã hội tại Bắc Phi - Trung Đông và những tác động tới Việt Nam” (2015). Cuốn sách đã đi sâu phân tích những biến động lớn của tình hình khu vực Bắc Phi và Trung Đông giai đoạn trước và sau Mùa xuân Arab. Một phần trong cuốn sách đề cập tới lợi ích và chính sách của Mỹ đối với khu vực Bắc Phi và Trung Đông trong giai đoạn trước và sau Mùa Xuân Arab. Chiến lược “Đại Trung Đông” được định hình từ thời Tổng thống George W. Bush được đặc biệt nhấn mạnh. Sự điều chỉnh trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông từ thời Bush (con) đến Obama cũng được phân tích sâu. Những nội dung nghiên cứu này đã cung cấp cho nghiên cứu sinh nhiều thông tin quan trọng và những luận điểm đánh giá sâu sắc liên quan đến chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông nói chung và Iran nói riêng.
8
1.1.3. Các công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran Liên quan trực tiếp đến luận án là bài viết “Các vấn đề của Iran hiện nay” đăng trên tạp chí Châu Phi và Trung Đông số 7 (11) (tháng 7/2006) của nhà nghiên cứu Đỗ Trọng Quang. Bài viết chủ yếu đề cập tới các vấn đề thách thức mà Iran đang phải đối mặt hiện nay. Ngoài những mâu thuẫn giữa phái thủ cựu và phái cải cách trong nội bộ nền chính trị Iran, những khó khăn trong việc phát triển các chương trình hạt nhân thì Mỹ - với chính sách đối ngoại tương đối cứng rắn với Iran trong nhiều năm qua cũng là một trở ngại lớn cho sự phát triển của quốc gia Islam giáo này. Theo những phân tích của tác giả, “đòn phủ đầu” khó có thể xảy ra như kịch bản với Iraq, nhưng mối quan hệ
giữa Iran và Mỹ vẫn còn nhiều nút thắt chưa được gỡ bỏ, trọng tâm là sự can dự của Iran trong cuộc xung đột Arab - Israel và chương trình hạt nhân của nước này. Để đối phó với một Iran ngày càng hùng mạnh ở Vịnh Ba Tư, Mỹ một mặt tiếp tục kiềm chế Iran; mặt khác, cũng tranh thủ cơ hội hợp tác để đạt các mục tiêu chiến lược trong khu vực. Bài viết của tác giả tuy ngắn gọn nhưng đã đề cập tới những nét khái quát nhất trong mối quan hệ giữa hai nước và chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran đầu những năm 2000. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài tạp chí với dung lượng có hạn, bài viết hầu như chỉ đề cập một cách chung chung về chính sách của Mỹ đối với Iran. Hơn nữa, phạm vi thời gian nghiên cứu trong bài chỉ dừng đến năm 2006, do đó, có nhiều sự kiện, dữ liệu mới chưa được cập nhật.
Bài viết thứ hai của Nguyễn Trọng Quang - “Quan hệ Hoa Kỳ - Iran trong nửa thế kỷ”, đăng trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay (số tháng 3/2007) đã đề cập tới những nét lớn trong quan hệ giữa Mỹ và Iran kể từ sau cách mạng Islam năm 1979. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đề cập tới chính sách của Hoa Kỳ với Iran trước và sau năm 1979, đường lối của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988), chủ trương để thay đổi chế độ chính trị ở Iran cũng như đối sách của Mỹ với chương trình hạt nhân của cường quốc ở Trung Đông này. Về cơ bản, bài nghiên cứu đã chỉ ra được những điểm chính trong chính sách của Mỹ với Iran tuy còn khá sơ lược. Những nội dung nghiên cứu là một tài liệu tham khảo quan trọng trong hoàn cảnh ở Việt Nam có rất ít các bài nghiên cứu, công trình khoa học đề cập tới chính sách của Nhà Trắng với Tehran. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài tạp chí, chính sách của Mỹ với Iran chưa được phân tích một cách đầy đủ và rõ nét. Các số liệu trong nghiên cứu của tác giả Đỗ Trọng Quang không còn cập nhật (bài báo được công bố từ năm 2007). Ngoài ra, cơ sở hình thành cũng như tác động của chính sách của Mỹ với Iran chưa được đề cập trong bài viết.
9
1.2. Các nghiên cứu nước ngoài 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ Khi nói tới nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ, không thể không nhắc tới các cuốn sách của Henry Kissinger - một trong những chính khách, học giả có tầm ảnh hưởng lớn đối với tiến trình lịch sử nước Mỹ. Ông đã xuất bản nhiều cuốn hồi ký, sách chuyên khảo về chính sách đối ngoại của Mỹ: “Nuclear Weapons and Foreign Policy” (1957), “American foreign policy” (1977), “White House Years: The First Volume of His Classic Memoirs” (1979), “Diplomacy” (1994), “Does America Need a Foreign Policy?: Toward a Diplomacy for the 21st Century” (2001), “Crisis: The Anatomy of Two Major Foreign Policy Crises” (2003), “World Order” (2014)… Trong số đó, nghiên cứu sinh đặc biệt quan tâm tới cuốn “American foreign policy” (xuất bản 1977). Với 445 trang nội dung, cuốn sách đã nêu bật được cách thức Mỹ tiếp cận với thế giới. Nhiều nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ đã được đề cập và phân tích sâu: chiến lược ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản để bảo vệ các lợi ích sống
còn của Mỹ; vị thế và những nỗ lực của Mỹ trong tiến trình hòa bình Trung Đông; triển vọng trong mối quan hệ giữa Mỹ và các khu vực lớn như Mỹ latinh, châu Á, châu Phi… Những phân tích trong cuốn sách là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng, giúp nghiên cứu sinh nắm rõ hơn về chính sách đối ngoại của Mỹ trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt (Chiến tranh lạnh).
James M. McCormick, giáo sư Đại học bang Iowa cũng là một nhà nghiên cứu chuyên sâu về chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong số các công trình đã được công bố của ông, cuốn “American policy and process” (tái bản lần thứ 5 vào năm 2010) là một trong những cuốn sách tham khảo quan trọng và toàn diện về chính sách đối ngoại của Mỹ. Có hai phần chính trong công trình này. Phần thứ nhất, giáo sư James M. McCormick tập trung đi vào chính sách của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Theo đó, chính sách đối ngoại của Mỹ được phân tích theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể: chính sách của Mỹ thời kỳ tiền Chiến tranh lạnh, trong Chiến tranh lạnh, sau chiến tranh Việt Nam và chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau vụ 11/9. Ở phần hai của cuốn sách, James M. McCormick phân tích về quá trình hoạch định và xây dựng chính sách đối ngoại của nhà cầm quyền Mỹ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các yếu tố chi phối đến quá trình này như: vai trò của Tổng thống, Quốc hội, các yếu tố kinh tế - chính trị - quân sự, vai trò của các đảng phái, các nhóm lợi ích, vai trò của truyền thông cũng như ý kiến của công luận. Cách dựng khung nghiên cứu trong công trình này cũng như những nội dung được phân tích trong đó là tư liệu tham khảo hữu ích giúp nghiên cứu sinh có thêm nhận thức và tiếp cận gần hơn với các quan điểm của các nhà nghiên cứu quốc tế đối với chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung và với trường hợp của Iran nói riêng.
Giáo sư Glenn P. Hastedt là tên tuổi lớn trong nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ. Một trong những công trình khoa học tiêu biểu nhất của ông là “American Foreign Policy: Past, Present, and Future” (được tái bản lần 11 vào năm 2018 bởi Nhà xuất bản Rowman & Littlefield). Cuốn sách đã tập trung phân tích vào những nội dung quan trọng nhất liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ: bối cảnh quốc tế và những yếu tố nội tại tác động đến chính sách đối ngoại, quá trình hoạch định và thực thi chính sách, công cụ thực thi chính sách cũng như những tác động và bài học lịch sử cần được xem xét. Trong lần tái bản thứ 11, nhiều nội dung nghiên cứu mới đã được bổ sung và phân tích bao gồm: chiến tranh mạng (internet), máy bay không người lái, những đánh giá về chính sách đối ngoại của Obama, tổ chức khủng bố IS, sự tham gia của nữ giới trong chiến tranh, thỏa thuận khí hậu, thỏa thuận hạt nhân Iran… Nhìn chung, cuốn sách là một công trình khoa học toàn diện, công phu với nhiều thông tin, phân tích quan trọng liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ. Thông qua cuốn sách, nghiên cứu sinh có thêm một góc nhìn mới, chân thực về chính sách đối ngoại của Mỹ từ quá khứ đến hiện tại.
10
Cuốn “US foreign policy” (xuất bản lần đầu tiên vào năm 2008 và tái bản lần gần
đây nhất vào năm 2018 bởi Nhà xuất bản Đại học Oxford) của hai nhà nghiên cứu Michael Cox và Doug Stokes cũng là một trong những cuốn sách tham khảo có chất lượng về chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong nội dung đầu tiên của cuốn sách “Rethinking America”, các tác giả đã đưa ra những lý thuyết chủ yếu về chính sách đối ngoại của Mỹ, đặc biệt nhấn mạnh đến chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ (American Exceptionalism). Ở phần thứ hai của cuốn sách “Historical context”, các tác giả đã tập trung đi sâu vào quá trình lớn mạnh của nước Mỹ từ năm 1776 - 1945. Dựa trên sức mạnh đó, các tác giả đã đưa ra những nhận định, phân tích về chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, những thay đổi trong thập niên 1990 cũng như sự hình thành và phát triển của chiến lược sức mạnh thông minh trong chính sách đối ngoại của Mỹ thế kỉ XXI. Trong phần ba của cuốn sách “Institution and processes”, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ được chỉ ra và phân tích như: ảnh hưởng trong nước, truyền thông, sự thay đổi khu vực… Phần thứ tư và cũng là phần quan trọng nhất của cuốn sách - “The United States and the world” đề cập tới chính sách của Mỹ với từng khu vực như: Trung Đông, EU, Nga, châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Mỹ Latinh. Những nội dung được phân tích trong phần này, đặc biệt chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông đã giúp tác giả có một cái nhìn toàn cảnh hơn về chính sách của Mỹ đối với các khu vực trên thế giới. Phần thứ 5 của cuốn sách “Key issues” đi vào những vấn đề trọng tâm trong chính sách của Mỹ bao gồm: chủ nghĩa khủng bố toàn cầu, tình hình tôn giáo, vấn đề giới tính và các vấn đề liên quan đến môi trường thế giới. Phần cuối cùng của cuốn sách đã đưa ra một số nhận định, đánh giá và dự báo về những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong tương lai. Nhìn chung, cuốn sách đã phản ánh một cách khá toàn diện và thấu đáo về chính sách đối ngoại của Mỹ. Chính vì thế, cuốn sách là một tài liệu tham khảo tốt, giúp nghiên cứu sinh có thêm những hiểu biết và nhận thức quan trọng liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ từ thời lập quốc đến nay.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung
Đông
11
Cuốn sách “US foreign policy in the Middle East from crisis to change” (2009) của tác giả Yakub Halabi là một trong những nghiên cứu có chiều sâu và khá toàn diện về chính sách của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Cuốn sách phân tích chính sách của Mỹ đối với Trung Đông theo từng giai đoạn lịch sử từ năm 1945 - 2009. Theo đó, những sự kiện quan trọng như cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973, cuộc Cách mạng Islam ở Iran năm 1979 và vụ khủng bố ngày 11/9/2001 được coi là những dấu mốc quan trọng nhất đánh dấu những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông. Phần nội dung viết về những biến động ở Iran và ảnh hưởng của yếu tố Iran đến chính sách của Mỹ trong giai đoạn từ năm 1979 - 2001 là những nội dung có liên quan đến luận án. Những phân tích, dữ liệu được chỉ ra trong toàn bộ cuốn sách là tư liệu tham khảo có giá trị, giúp nghiên cứu sinh tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách đa chiều
hơn.
Một trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu khác về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Trung Đông là cuốn sách “US foreign policy in the Middle East - From American Missionaries to the Islamic state” do Geoffrey F. Gresh và Tugrul Keskin chủ biên (2018). Cuốn sách đã đề cập tới rất nhiều vấn đề quan trọng trong chính sách của Mỹ ở khu vực Trung Đông như: những lợi ích về kinh tế và văn hóa truyền thống của Mỹ ở Trung Đông; Tác động của Chiến tranh lạnh đối với sự hình thành chính sách mới của Mỹ ở khu vực Trung Đông thời hậu chiến; Các đồng minh của Mỹ và sự cân bằng quyền lực ở khu vực trong lịch sử hiện đại; Biến động chính trị và sự gia tăng tình trạng bất ổn ở khu vực Trung Đông trong giai đoạn đương đại cũng như đối sách của Mỹ trong việc ổn định lại trật tự khu vực… Đặc biệt, trong nội dung “The United States - Iran: the view of the hard-line conservatives in the Islamic Republic” (Mỹ - Iran: quan điểm của những người thủ cựu không khoan nhượng của nhà nước Cộng hòa Islam) đã đề cập một phần đến thực trạng chính trị ở Iran sau năm 1979 cũng như chính sách của Mỹ đối với chính quyền “bảo thủ”ở Iran. Những tri thức trong cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho nghiên cứu sinh nhằm tiếp cận gần hơn với các vấn đề nghiên cứu.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu trực tiếp về chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 -
2016)
Trái ngược với tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, chính sách của Mỹ đối với Iran là một trong những vấn đề được giới chuyên gia quốc tế đặc biệt quan tâm. Trong mảng nghiên cứu này, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu lớn với những công trình tiêu biểu, đặc biệt là ở Mỹ, Iran và một số quốc gia khác.
12
*Các công trình nghiên cứu tổng quát về chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran Kenneth Katzman là một trong những chuyên gia hàng đầu về các vấn đề liên quan tới Iraq, Iran, Afghanistan và khu vực vùng Vịnh nói chung tại Trung tâm nghiên cứu của Quốc hội Mỹ. Nhiệm vụ của trung tâm nghiên cứu này là cung cấp cho Quốc hội Mỹ những phân tích chuyên sâu về các quốc gia, các vấn đề trên thế giới. Chính vì vậy, những nghiên cứu của Kenneth Katzman về Iran được coi là chính thống và có ảnh hưởng đáng kể tới chính quyền Mỹ trong việc điều chỉnh chính sách với Tehran. Trong số các công trình đã được công bố của Kenneth Katzman, đáng chú ý là các cuốn sách: The warriors of Islam: Iran’s revolutionary guard, The Persian Gulf states: post-war issues… Bên cạnh những cuốn sách này, các báo cáo thường niên của Kenneth Katzman cho Quốc hội Mỹ cũng là một nguồn tư liệu quý với những phân tích cụ thể, chuyên sâu được minh họa bởi những con số thực tế. Chẳng hạn như: báo cáo về “Các lệnh trừng phạt Iran” (Iran sanctions) được công bố vào các năm 2010 và 2016; “Iran: chính trị, nhân quyền và chính sách của Mỹ” (Iran: politics, human right and US policy); “Iran: những quan ngại của Mỹ và những phản ứng bằng chính sách” (Iran: US concerns and policy responses). Đây là nguồn tư liệu chính thống, giúp
nghiên cứu sinh tiệm cận gần hơn chính sách của chính quyền Mỹ đối với Iran giai đoạn sau năm 1979.
Zbigniew Brzezenski là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu khác về Iran ở Mỹ. Ông là một trong những người có vai trò rất lớn trong việc định hình chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1979 khi còn là cố vấn cấp cao cho Tổng thống Jimmy Carter. Ông đã công bố một số nghiên cứu liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran. Một trong số đó là cuốn sách “Iran: Time for a new approach” (Iran: thời điểm cho cách tiếp cận mới) (2004). Zbigniew Brzezenski cùng nhóm tác giả của ông đã chỉ ra những vấn đề nổi cộm nhất trong mối quan hệ Mỹ - Iran cũng như chính sách của Washington với quốc gia Trung Đông này: Thứ nhất, các vấn đề đối nội của Iran, đặc biệt là sự “thiếu dân chủ” của chính quyền nước này; Hai là, cách Iran tiếp cận với thế giới, nói cách khác là chính sách đối ngoại của Iran; Ba là, chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran và cuối cùng là sự dính líu của Iran trong các cuộc xung đột vũ trang ở khu vực. Từ những vấn đề vừa nêu, Zbigniew Brzezenski khẳng định sự cấp thiết trong việc thay đổi cách tiếp cận đối với Iran. Theo đó, Zbigniew Brzezenski phân tích những điều chỉnh trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Bên cạnh việc ngăn chặn và duy trì các lệnh cấm vận với Iran, chính quyền Mỹ phải cân nhắc đến khả năng hợp tác, đàm phán với Iran nhằm giải quyết các vấn đề trọng tâm như: chương trình hạt nhân và sự can dự của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực để bảo vệ các lợi ích của Mỹ ở Trung Đông mà vẫn tránh một cuộc đối đầu trực tiếp với Iran. Nhìn chung, cuốn sách đã cung cấp những thông tin, những góc nhìn mới liên quan đến chính sách của Mỹ với Iran trong những năm 1990, 2000. Những thông tin đó là nguồn tài liệu đáng tin cậy, giúp tác giả tiệm cận gần hơn quá trình vận động, thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, cuốn sách chỉ đề cập tới chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran trong một khoảng thời gian nhất định (1990 - 2000), phần phân tích về chính sách của Mỹ với Iran trước những năm 1990 chỉ mang tính chất điểm tên, không phân tích sâu. Ngoài ra, thời điểm xuất bản của cuốn sách này là năm 2004. Do vậy, rất nhiều thông tin quan trọng liên quan đến chính sách của Mỹ với Iran sau năm 2004 chưa được nhắc đến trong cuốn sách. Những điểm còn trống đó sẽ được làm rõ hơn trong luận án của nghiên cứu sinh.
13
Một chuyên gia khác về Iran và chính sách của Mỹ đối với Iran là giảng viên Ali M. Ansari của khoa Lịch sử hiện đại thuộc trường Đại học St. Andrews. Ông là người gốc Iran, hiện là Giám đốc của Viện Iran học (the Institute of Iranian) thuộc trường Đại học St Andrew. Ali M. Ansari đã thực hiện nhiều nghiên cứu về các vấn đề lịch sử chính trị của khu vực Trung Đông, đặc biệt là Iran. Năm 2003, ông xuất bản cuốn sách đầu tiên về “Lịch sử hiện đại của Iran từ năm 1921”. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu được đánh giá cao. Sau đó, ông tiếp tục các nghiên cứu về Iran, về chính sách đối ngoại của quốc gia Islam cũng như vấn đề Iran trong quan hệ quốc tế. Liên quan đến phần chính sách của Mỹ đối với Tehran, ông đã xuất bản được công trình “Confronting
Iran: A failure of American foreign policy and the roots of mistrust” (Đối đầu Iran: Một thất bại trong chính sách đối ngoại của Mỹ và nguồn gốc của sự thiếu niềm tin). Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2006 bởi nhà xuất bản Basic Books. Nội dung của cuốn sách khá phong phú, có nhiều phần hữu ích đối với nghiên cứu sinh như: mối quan hệ của Iran - Mỹ, Iran - phương Tây trong thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX; Cuộc đảo chính nổi tiếng năm 1953 ở Iran và quan hệ của Mỹ và Iran từ năm 1953 cho đến trước cuộc cách mạng Islam; Lịch sử đối đầu giữa Mỹ và Iran kể từ sau năm 1979; Tình hình chính trị hiện nay ở Iran, đặc biệt là phong trào cải cách của Tổng thống Khatami… Đó là tư liệu tham khảo quý đối với nghiên cứu sinh trong việc tiếp cận góc nhìn của những người Iran về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran cũng như mối quan hệ giữa hai quốc gia này. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, cuốn sách này đã được xuất bản từ khá lâu (năm 2006) nên các số liệu được đưa ra đã không còn mang tính cập nhật. Cuốn sách được viết theo hướng chỉ ra những thất bại và nguyên nhân thất bại trong chính sách ngoại giao của Mỹ với Iran cho nên nội dung chính sách, quá trình triển khai còn chưa thật sự đầy đủ. Phần liên quan đến chính sách cấm vận, đặc biệt là kinh tế còn khá sơ lược.
14
Sasan Fayazmanesh là một tên tuổi đáng chú ý trong số những chuyên gia về Iran ở Mỹ. Ông đã xuất bản được nhiều cuốn sách đề cập tới chính sách của Mỹ với Iran cũng như quan hệ giữa hai nước như: “The United States and Iran: sanctions, wars and the policy of dual containment”, “Containing Iran: Obama’s policy of tough diplomacy”… Đó đều là những cuốn sách có chất lượng với hàm lượng khoa học cao. Trong những cuốn sách được xuất bản của ông, nghiên cứu sinh được tiếp cận cuốn: “The United States and Iran: sanctions, wars and the policy of dual containment” (Mỹ và Iran: trừng phạt, chiến tranh và chính sách ngăn chặn kép) (2008). Đây là cuốn sách đề cập trực tiếp nhiều vấn đề nghiên cứu mà tác giả luận án muốn làm sáng tỏ trong đề tài của mình. Với 258 trang nội dung, Sasan Fayazmanesh đã làm nổi bật được nhiều vấn đề xoay quanh mối quan hệ giữa Mỹ và Iran cũng như chính sách của Nhà Trắng đối với Tehran kể từ sau năm 1979. Trong phần 2 của cuốn sách, Sasan Fayazmanesh đã đề cập tới nguồn gốc của chính sách cứng rắn mà Nhà Trắng áp đặt lên Tehran. Cuộc cách mạng Islam năm 1979 cùng với vụ khủng hoảng con tin ở Tehran đã tạo ra những nút thắt khó có thể gỡ bỏ trong quan hệ giữa hai quốc gia. Trong các phần tiếp theo của cuốn sách, chính sách của Mỹ mà trọng tâm là “ngăn chặn kép” và “cấm vận” đã được Sasan Fayazmanesh chỉ ra và phân tích khá rõ. Tuy nhiên, những trang viết của ông thiên nhiều về lý thuyết, phần thực tiễn triển khai chính sách chưa được đề cập nhiều. Đây chính là phần mà nghiên cứu sinh muốn đi sâu tìm hiểu trong luận án của mình. Bên cạnh đó, Sasan Fayazmanesh cũng chỉ ra những đối tượng có liên quan như Israel hay Liên Hợp quốc cũng như vai trò của họ trong mối quan hệ giữa Mỹ và Iran. Những phân tích này đã giúp nghiên cứu sinh có cách tiếp cận mang tính tổng quát hơn, đặt vấn đề Mỹ - Iran trong mối quan hệ quốc tế để từ đó hiểu rõ hơn về những thay đổi trong
chính sách của Mỹ với Tehran sau năm 1979.
“The United States and Iran: policy challenges and opportunities” (2009) (Mỹ và Iran - những thách thức về chính sách và cơ hội) của hai nhà nghiên cứu Alethia H. Cook and Jalil Roshandel cũng là một công trình đáng chú ý về quan hệ Mỹ - Iran cũng như chính sách của Nhà Trắng với quốc gia Trung Đông này. Trong phần đầu tiên của cuốn sách “Iran/US political history” (Lịch sử chính trị Mỹ/Iran) đề cập đến những nét chung nhất về nền chính trị của Mỹ và Iran từ khi hai nước thiết lập quan hệ đồng minh thân thiết (1945 - 1979). Những nội dung này là một nguồn tư liệu tham khảo quý giá để tác giả luận án có một cái nhìn rõ hơn về nền chính trị và mối quan hệ giữa hai quốc gia này. Phần thứ hai của cuốn sách có tên: “Modern Iranian politics” (Nền chính trị Iran hiện đại). Phần này đề cập nhiều tới tình hình chính trị của Iran sau cuộc cách mạng Islam năm 1979. Trong những nội dung tiếp theo, các tác giả đã đề cập những vấn đề gai góc nhất trong mối quan hệ Mỹ - Iran như: vị thế chính trị của Iran trong khu vực, chương trình phát triển hạt nhân và “hoạt động hậu thuẫn cho khủng bố” của Tehran. Những nút thắt chính trị này đã trực tiếp tạo nên mối căng thẳng giữa hai quốc gia trong gần 30 năm qua. Phần cuối cùng của cuốn sách, hai tác giả đã dành một dung lượng lớn để phân tích một cách toàn diện chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran. Những nội dung này sẽ trở thành nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu sinh trong quá trình hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, cuốn sách “The United States and Iran: policy challenges and opportunities” chỉ tập trung đi vào mảng chính trị trong mối quan hệ giữa Mỹ - Iran. Những vấn đề thuộc về lĩnh vực quân sự, kinh tế chưa được đề cập tới. Khi nhắc tới mối quan hệ Mỹ - Iran mà không đề cập tới cấm vận kinh tế sẽ không thể hiểu một cách toàn diện về chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1979.
15
Bên cạnh các nhà nghiên cứu, chuyên gia vừa nêu, khi nhắc tới chính sách của Mỹ đối với Trung Đông nói chung và Iran nói riêng không thể không nhắc tới RAND – một trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ với nhiều công trình nghiên cứu chất lượng. Nghiên cứu sinh đã tìm hiểu và được biết RAND đã cho xuất bản nhiều cuốn sách liên quan trực tiếp tới chính sách của Nhà Trắng với Iran. Trong số những công trình nghiên cứu sinh tiếp cận được, cuốn sách “Dangerous but not Omnipotent: Exploring the Reach and Limitations of Iran power in the Middle East” (Tạm dịch: Nguy hiểm nhưng không tuyệt đối: Tìm hiểu về phạm vi và giới hạn quyền lực của Iran ở khu vực Trung Đông) (2009) là một công trình nghiên cứu công phu, có giá trị. Cuốn sách được thực hiện bởi nhóm tác giả Frederic Wehrey, David E. Thaler, Nora Bensahel, Kim Cragin. Cuốn sách đã phân tích về quá trình vươn lên thành một cường quốc khu vực của Iran. Những tham vọng và hành động thực tế của Iran nhằm khuếch trương ảnh hưởng ở Trung Đông. Sự trỗi dậy của Iran đã tạo ra những nghi ngại, lo sợ cho các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là Saudi Arabia và Israel. Trên cơ sở những phân tích về mối đe dọa của Iran trong khu vực, các tác giả đã nêu lên những đối sách và chiến lược lâu dài của Mỹ với quốc gia Islam giáo này nhằm đảm bảo các lợi ích của Mỹ và bảo
vệ các đồng minh thân cận ở Trung Đông. Cuốn sách đã cung cấp cho nghiên cứu sinh những kiến thức quan trọng về vai trò và ảnh hưởng của Iran ở Trung Đông dưới góc nhìn từ phía Mỹ. Nội dung cuối cùng trong cuốn sách - chính sách của Washington đối với Tehran có những thông tin quan trọng, đáng tin cậy để đưa vào trong luận án. Tuy nhiên, do nội dung chính của cuốn sách tập trung nhiều hơn vào sự trỗi dậy của Iran, phần chính sách của Mỹ viết khá sơ lược, phần triển khai thực tế, hệ quả và tác động hầu như chưa được nhắc đến.
Donette Murray là một nhà nghiên cứu nổi tiếng khác về chính sách của Mỹ ở Trung Đông nói chung và Iran nói riêng. Trong số những công trình nghiên cứu của bà liên quan tới chính sách của Mỹ với Iran, đáng chú ý là cuốn “US foreign policy and Iran: American - Iranian relations since the Islamic revolution” (Chính sách đối ngoại của Mỹ và Iran: quan hệ giữa Mỹ - Iran từ sau cuộc cách mạng Islam) (2010). Những nghiên cứu của bà trong cuốn sách chủ yếu đi sâu phân tích về chính sách của Mỹ đối với Tehran từ sau cuộc cách mạng Islam (1979) và tác động của nó đến quan hệ giữa hai nước. Chính sách của Mỹ qua từng đời Tổng thống được khắc họa rõ nét từ Carter đến George W. Bush (con) để người đọc có thể hiểu được những thay đổi quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Mỹ với Iran. Chính sách ngăn chặn và các biện pháp cấm vận cũng được đề cập trong nghiên cứu của Donette Murray. Tuy nhiên, cuốn sách này vẫn chủ yếu dừng lại ở mức lý thuyết, thực tiễn triển khai của những chính sách này chưa được đề cập thỏa đáng.
16
Robin Wright - một nhà phân tích chính sách đối ngoại của Mỹ, cũng có nhiều bài nghiên cứu, cuốn sách đề cập trực tiếp tới Iran cũng như chính sách của Washington với quốc gia này như “In the Name of God: The Khomeini Decade” (1989), “The Last Great Revolution: Turmoil and Transformation in Iran” (2000), “The Iran Primer: Power, Politics, and U.S. Policy” (2010). Liên quan trực tiếp tới nội dung luận án, cuốn “The Iran Primer: Power, Politics, and U.S. Policy” (2010) (Thông tin cơ bản về Iran: Sức mạnh, chính trị và chính sách của Mỹ) do bà làm chủ biên là một tài liệu tham khảo có giá trị và hàm lượng khoa học cao. Trong phần đầu tiên của cuốn sách, các tác giả đã đi sâu phân tích tình hình của Iran từ sau cuộc cách mạng năm 1979 trên các khía cạnh: chính trị, quân sự, sự kiểm soát vũ khí hạt nhân, các phong trào xã hội. Đây là những lý do chủ yếu để chính quyền Mỹ vin vào và áp đặt lệnh cấm vận lên quốc gia Islam giáo này. Trong phần tiếp theo của cuốn sách, một dung lượng lớn đề cập tới các lệnh trừng phạt của Washington đối với Tehran, trong đó nhấn mạnh các lệnh trừng phạt về tài chính. Vai trò của Liên Hợp quốc trong việc gia tăng các lệnh trừng phạt lên Iran cũng được các tác giả nêu cụ thể. Các tác giả đã khéo léo phân tích những thay đổi, điều chỉnh của chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran qua các đời Tổng thống từ Carter đến Obama. Qua đó, người đọc có thể hình dung ra được điểm chung xuyên suốt và cả những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1979. Nhìn chung, cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng về tình hình Iran và những đối sách của Mỹ với quốc gia
Trung Đông này. Tuy nhiên, trong toàn bộ cuốn sách, phần lớn các nội dung nghiên cứu được tiếp cận dưới góc độ chính trị học, không phải sử học. Hơn nữa, một số nội dung quan trọng trong chính sách của Mỹ đối với Iran chưa được nhắc đến, đặc biệt là về mặt quân sự.
Alex Ewards là một nhà nghiên cứu chuyên sâu khác về Trung Đông. Trong số các tác phẩm đã được xuất bản của Alex Ewards, cuốn sách “Dual containment policy in the Persian Gulf: the USA, Iran and Iraq, 1991 - 2000” (2014) (Tạm dịch: Chính sách ngăn chặn kép tại vùng Vịnh: Mỹ, Iran và Iraq) là một công trình khoa học có chất lượng khá tốt. Nội dung cuốn sách đã cung cấp những tư liệu quý báu về chính sách của Mỹ ở vùng Vịnh, cụ thể là với Iran và Iraq trong suốt nhiệm kỳ của Tổng thống Bill Clinton. Alex Ewards đề cập tới vấn đề lí thuyết của chính sách ngăn chặn, nội dung chính sách ngăn chặn kép Iran - Iraq cũng như quá trình triển khai thực tế. Những nội dung này là một nguồn tư liệu tham khảo quý đối với nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ tập trung phân tích chính sách của Mỹ đối với Iran dưới thời Tổng thống Bill Clinton, chỉ dừng lại ở năm 2000. Do đó, cuốn sách chỉ cung cấp một phần tư liệu cho luận án.
17
Ở Iran, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran được coi là một trong những vấn đề nghiên cứu được đặc biệt quan tâm. Một trong những chuyên gia hàng đầu về Mỹ ở Iran là Foad Izadi (Đại học Tehran - University of Tehran, Iran). Ông đã công bố nhiều nghiên cứu có chất lượng đề cập đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran như: Post - 9/11 US public diplomacy: the case of Iran (2007), Obama’s Iran policy and American competing policy communities (2013), US public diplomacy: A theoretical treatise (2016), The Iran factor in US - China relations: Guarded Engagement vs Soft Balancing (2017)… Trong đó, bài viết “Obama’s Iran policy and American competing policy communities” (Tạm dịch: Chính sách Iran của Obama và các nhóm chính sách cạnh tranh ở Mỹ) là một trong những nghiên cứu có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến luận án. Trong nghiên cứu của mình, Foad Izadi sử dụng khung lý thuyết mạng lưới vấn đề của Hugh Heclo và phương pháp phân tích mạng lưới của William Domhoff nhằm mục đích làm sáng tỏ nguồn gốc của chính sách Iran của Obama. Theo Foad Izadi, đã có rất nhiều cuộc tranh luận về chính sách của Mỹ đối với Iran với sự tham gia của khoảng 182 chuyên gia, chính trị gia từ tháng 01/2008 đến tháng 01/2009 tác động đến sự định hình chính sách của Obama. Dựa trên các khuyến nghị chính sách của họ, nghiên cứu của Foad Izadi đã phát hiện ra sự tồn tại của 4 nhóm chính sách sau: Không tham gia, Tương tác diều hâu, Cam kết chiến lược và Thay đổi cơ bản. Đáng chú ý, Nhóm chính sách “Không tham gia” và nhóm “Cam kết diều hâu” đều coi Iran là mối đe dọa lớn đối với lợi ích của Mỹ và Israel cũng như phủ nhận hoàn toàn vai trò của Iran trong việc giải quyết các thách thức khu vực. Nhóm “Cam kết chiến lược” thì cho rằng Iran không hẳn là kẻ thù đe dọa đến lợi ích của Mỹ, ngược lại Mỹ và Iran vẫn có khả năng hợp tác trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau. Cả nhóm chính sách “Cam kết chiến lược” và “Thay đổi cơ bản” đều cho rằng Hoa Kỳ nên ngừng theo đuổi việc thay đổi chế độ ở Iran. Theo
nghiên cứu của Foad Izadi, những tư tưởng, quan niệm của các nhóm chính sách “Cam kết chiến lược” và “Thay đổi cơ bản” có tác động nhiều hơn đến Obama. Điều này dẫn đến sự mềm mỏng trong chính sách của chính quyền Obama trong các vấn đề Iran. Từ những phân tích của Foad Izadi, nghiên cứu sinh có thêm góc nhìn rộng hơn liên quan đến sự định hình chính sách của Mỹ đối với Iran dưới thời của Obama. Tuy nhiên, đây chỉ là một nội dung nhỏ trong toàn bộ luận án. Bởi ngoài yếu tố các nhóm lợi ích, còn nhiều yếu tố quan trọng khác tác động đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran. Bên cạnh đó, nội dung và quá trình triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran chưa được đề cập trong nghiên cứu của Foad Izadi. Những nội dung còn thiếu này sẽ được nghiên cứu sinh làm rõ trong luận án.
Mohammad Jamshidi cũng là một nhà nghiên cứu nổi bật khác về Mỹ ở Iran. Các nghiên cứu của Mohammad Jamshidi chủ yếu đề cập tới chính sách của Mỹ với Iran cũng như mối quan hệ giữa hai nước dưới góc nhìn của chuyên ngành quan hệ quốc tế. Một trong những công bố của Mohammad Jamshidi mà nghiên cứu sinh tiếp cận được là bài viết “The Islamic Awakening and Transformation of the United States Policy towards Iran” (2014) (Tạm dịch: Sự thức tỉnh của Islam giáo và sự chuyển biến trong chính sách của Mỹ đối với Iran). Trong nghiên cứu này, Mohammad Jamshidi cho rằng chính sách của Mỹ dưới thời Obama được thúc đẩy từ những lý thuyết về địa chính trị. Mùa xuân Arab đã làm thay đổi căn bản thế giới Islam ở khu vực Trung Đông. Mohammad Jamshidi đánh giá rằng hệ quả mà mùa xuân Arab để lại, đặc biệt là tình hình chính trị nội bộ ở nhiều quốc gia Trung Đông, là có lợi cho Iran. Chính quyền Obama vì thế cho rằng Iran đang trở thành đối thủ mạnh mẽ nhất trong thế giới Islam đối với sự thịnh vượng và lợi ích của Mỹ. Điều này đã thúc đẩy chính sách ngăn chặn của Obama đối với Iran, đặc biệt là chương trình hạt nhân của nước này. Theo Mohammad Jamshidi, chính sách của Obama đối với Iran xoay quanh 3 ưu tiên chủ yếu, bao gồm: Tăng cường cô lập Iran trong khu vực và trên thế giới; Xuyên tạc, phá hoại hình ảnh của Iran ở trong khu vực; Tăng cường sức ép tối đa bằng các lệnh cấm vận… Nhìn chung, nghiên cứu của Mohammad Jamshidi đã phần nào làm sáng tỏ những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Iran dưới thời của Tổng thống Obama. Tuy nhiên, nội dung của bài viết chỉ cung cấp tham khảo cho một nội dung nhỏ trong luận án, bởi ngoài Obama, chính sách của Mỹ với Iran dưới thời các Tổng thống khác hầu như không được đề cập tới. Vấn đề còn bỏ ngỏ này sẽ được nghiên cứu sinh tiếp tục trong luận án của mình.
* Các công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với cuộc khủng hoảng con tin
(1979)
18
Cuốn sách “US foreign policy and the Iran hostage crisis” (2004) (Tạm dịch: Chính sách đối ngoại của Mỹ và cuộc khủng hoảng con tin tại Iran) của tác giả David Patrick Houghton đã đề cập khá sâu sắc, toàn diện về cuộc khủng hoảng con tin nghiêm trọng ở Tehran năm 1979 cũng như những đối sách mà chính quyền Carter
thực hiện nhằm giải cứu các công dân Mỹ. Thông qua cuốn sách, nguồn gốc dẫn đến vụ bao vây Đại sứ quán Mỹ ở Tehran và bắt cóc các công dân Mỹ tại sứ quán đã được chỉ ra và phân tích. David Patrick Houghton đã phân tích các biện pháp cụ thể mà chính quyền Mỹ đã triển khai nhằm giải cứu các con tin, trọng tâm là chiến dịch giải cứu Móng vuốt Đại bàng và các nỗ lực ngoại giao. David Patrick Houghton cũng đánh giá tác động của sự kiện đến quan hệ giữa hai nước cũng như những thay đổi trong chính sách của Mỹ với Tehran. Những thông tin, phân tích trong cuốn sách đã cung cấp cho nghiên cứu sinh những hiểu biết quan trọng liên quan đến chính sách của Mỹ đối với một trong những vấn đề nhạy cảm nhất trong quan hệ Mỹ - Iran. Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ đề cập tới một khía cạnh nhỏ trong chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1979. Bởi bên cạnh cuộc khủng hoảng con tin (1979), còn rất nhiều vấn đề quan trọng khác trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran cần được làm rõ như: chiến tranh Iran - Iraq, chương trình hạt nhân, chính sách “xuất khẩu cách mạng” của Iran…
Một cuốn sách tham khảo khác cũng đề cập tới cuộc khủng hoảng con tin ở Iran và đối sách của Mỹ là “Taken Hostage: The Iran Hostage Crisis and America's First Encounter with Radical Islam” (Tạm dịch: Bắt cóc con tin: Cuộc khủng hoảng bắt cóc con tin tại Iran và lần đầu đối mặt của Mỹ với Hồi giáo cực đoan) do tác giả David Farber chấp bút. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2009. Cuốn sách là một bức tranh toàn cảnh về vụ bắt cóc con tin năm 1979 cũng như phản ứng, đối sách của Mỹ đối với sự kiện này. Cuốn sách có độ tin cậy cao với nhiều thông tin được trích từ các tài liệu tuyệt mật của chính phủ Mỹ. Những thông tin này là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị đối với nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, cuốn sách thiên về mô tả và phân tích diễn biến sự kiện cũng như thái độ đối diện với cuộc khủng hoảng của chính quyền Mỹ. Phần liên quan đến chính sách của chính quyền Mỹ trong nỗ lực giải cứu con tin chỉ được đề cập hạn chế.
*Các công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iran -
Iraq (1980 - 1988)
19
Cuốn sách “The Iran - Iraq War: New International Perspectives” (2013) do hai tác giả Nigel John Ashton, Bryan R. Gibson chủ biên đã đưa ra những nhận thức mới, thông tin mới liên quan đến cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ XX này. Bên cạnh các phần nội dung bàn về bối cảnh và diễn biến của cuộc chiến, thái độ của các quốc gia láng giềng, của Liên Xô và quốc tế, thì cuốn sách có một phần quan trọng đề cập tới chính sách của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq. Với 49 trang nội dung, các tác giả đã tập trung phân tích về những phản ứng ban đầu của chính quyền Tổng thống Jimmy Carter cũng như những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với cả Iran và Iraq trong suốt thời gian cuộc chiến diễn ra, theo đó, Mỹ dần ngả về phương án hỗ trợ Iraq. Sự hỗ trợ của Mỹ và các quốc gia Arab khác cho Iraq cũng được mổ xẻ với nhiều thông tin cập nhật từ các tài liệu mới công bố từ chính quyền Mỹ. Những thông tin đó
là nguồn tham khảo có giá trị và đáng tin cậy để nghiên cứu sinh có thể nắm rõ hơn chính sách của Mỹ đối với một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến Iran. * Các công trình của Mỹ nghiên cứu về chính sách cấm vận của Mỹ với Iran Hossein Alikhani là một chuyên gia về Iran ở Mỹ. Ông đã xuất bản khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Iran. Một trong số đó có cuốn sách “Sanctioning Iran: anatomy a failed policy” (Trừng phạt Iran: mổ xẻ một chính sách thất bại) được xuất bản vào năm 2000. Cuốn “Sanctioning Iran: anatomy a failed policy” có nhiều nội dung quan trọng, giúp nghiên cứu sinh tiếp cận gần hơn với một trong những phần quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran sau năm 1979 - Chính sách cấm vận. Hossein Alikhani đã nêu lên được những vấn đề quan trọng nhất liên quan tới chính sách cấm vận của Mỹ với Iran như: nguồn gốc, nội dung, và cách thức triển khai trên thực tế. Đây là những nội dung liên quan trực tiếp đến hướng nghiên cứu trong luận án của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, nội dung trong cuốn sách của Hossein Alikhani chỉ dừng lại ở năm 2000. Những sự kiện quan trọng sau đó liên quan đến chính sách cấm vận của Mỹ với Iran cũng như mối quan hệ giữa hai nước vẫn là một dấu hỏi.
Một chuyên gia khác nghiên cứu về chính sách cấm vận của Mỹ là Hossein G. Askari - một giáo sư gốc Iran. Ông đã công bố nhiều nghiên cứu chuyên sâu trong các cuốn sách về Trung Đông như như: “Case studies of US economic sanctions: The Chinese, Cuban and Iranian experience” (2003), “Economic sanctions: Examining their phylosophy and efficacy” (2003), “Conflict in the Persian Gulf: orgins and evolution” (2013)… Trong số các công trình đã được công bố đó, cuốn “Case studies of US economic sanctions: The Chinese, Cuban and Iranian experience” (Nghiên cứu trường hợp về trừng phạt kinh tế của Mỹ: Trung Quốc, Cu Ba và Iran) có nhiều nội dung thiết thực, phục vụ cho quá trình làm luận án của tác giả. Những thông tin, số liệu được các tác giả trích dẫn giúp nghiên cứu sinh có thêm những hiểu biết quan trọng về nguyên nhân cơ bản, nội dung và quá trình áp đặt các lệnh trừng phạt của Mỹ lên Cộng hòa Islam Iran từ năm 1979 đến năm 2003. Tuy nhiên, những phân tích trong cuốn sách mang nặng góc nhìn của kinh tế học, các số liệu chỉ dừng lại ở năm 2003. Trong khi đó, các lệnh cấm vận của Mỹ sau năm 2003 có nhiều điều chỉnh được áp dụng.
* Các công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với chương trình hạt nhân của
Iran
20
“Iran’s nuclear future - Critical US policy choices” (Tương lai hạt nhân của Iran: Những lựa chọn chính sách chủ yếu của Mỹ) (2011), một công trình do RAND xuất bản là một trong những cuốn sách tham khảo tiêu biểu liên quan đến chính sách của Mỹ đối với tham vọng phát triển hạt nhân của Iran. Cuốn sách đã giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn tổng quát về các chương trình phát triển hạt nhân của Iran và mối đe dọa đối với những lợi ích của Mỹ. Những lựa chọn chính sách của Nhà Trắng đã được phân tích có
chiều sâu. Đây sẽ là một phần quan trọng trong luận án. Tuy nhiên, những phân tích của nhóm tác giả thiên nhiều về lý thuyết, những giả định, phần triển khai trên thực tế còn khá sơ sài.
Một công trình nghiên cứu khác của RAND liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran là cuốn “Containing Iran: strategics for addressing the Iranian nuclear challenge” (2012). Cuốn sách được trình bày một cách hệ thống về lịch sử phát triển chương trình hạt nhân của Iran đồng thời nêu bật được đối sách của Mỹ trước những thách thức mà chương trình hạt nhân của Iran tạo ra. Cuốn sách là tài liệu tham khảo quan trọng giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn đầy đủ hơn về một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Tuy vậy, bên cạnh chương trình hạt nhân, còn nhiều khía cạnh khác liên quan đến chính sách của Mỹ với Iran chưa được đề cập trong công trình nghiên cứu này. Những khoảng trống đó sẽ tiếp tục được làm rõ trong luận án.
* Các công trình của Mỹ nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với sự can dự của
Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông
“Xuất khẩu cách mạng” và sự dính líu của Iran trong các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những vấn đề trung tâm trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có công trình nghiên cứu độc lập về vấn đề này mà thường được phân tích chung với các nội dung khác trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran.
Anthony H. Cordesman, một chuyên gia của Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS) đã có nhiều năm theo đuổi các vấn đề chính trị và quan hệ quốc tế ở Trung Đông, trong đó có Iran. Một trong những công trình đáng chú ý của Anthony H. Cordesman về Iran là cuốn “Iran’s military forces and warfighting capabilities: The threat in the Northern Gulf” (năm 2007). Cuốn sách của Anthony H. Cordesman đã đề cập tới những vấn đề trọng tâm liên quan đến Iran, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự. Anthony H. Cordesman chỉ ra và phân tích sự thay đổi vai trò của Iran ở khu vực, đề cập chi tiết đến quy mô, tổ chức của quân đội Iran, chương trình hạt nhân và chương trình tên lửa của Iran. Đặc biệt, trong chương 12 của cuốn sách, Anthony H. Cordesman đã phân tích khá sâu về chính sách hỗ trợ cho các lực lượng người Shi’ite ở Trung Đông nhằm mở rộng ảnh hưởng và tăng cường can thiệp ở khu vực Trung Đông. Những nội dung nghiên cứu này là một tài liệu tham khảo quan trọng, giúp nghiên cứu sinh hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại của Iran và nguyên do Mỹ coi Iran là “mối đe dọa nghiêm trọng” đối với lợi ích của người Mỹ ở khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, những phân tích liên quan đến chính sách hậu thuẫn của Iran cho các nhóm Shi’ite của Anthony H. Cordesman còn khá sơ lược, chưa chi tiết. Những điểm còn trống trong nghiên cứu của Anthony H. Cordesman sẽ được nghiên cứu sinh bổ sung, hoàn thiện trong luận án này.
21
Cuốn “Iran military power: Ensuring regime survival and securing regional
dominance” (Sức mạnh quân sự của Iran: Bảo vệ sự tồn vong của chế độ và duy trì sự thống trị khu vực) của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ (2019) cũng là một công trình đáng chú ý đề cập tới chính sách hậu thuẫn cho các nhóm vũ trang Shi’ite của Iran. Nội dung của công trình nghiên cứu này phân tích một cách hệ thống và chi tiết về sức mạnh quân đội của Iran, đặc biệt là chương trình hạt nhân, sức mạnh quân sự và chính sách quốc phòng. Theo những phân tích của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ, Iran có nhiều tham vọng vươn lên trở thành cường quốc ở Trung Đông, mở rộng ảnh hưởng thông qua việc hỗ trợ cho các nhóm vũ trang Shi’ite trong các cuộc xung đột diễn ra ở Trung Đông. Nghiên cứu này đã chỉ ra những trường hợp điển hình như: các nhóm vũ trang người Shi’ite ở Iraq, lực lượng Hezbollah ở Lebanon, lực lượng Hamas ở dải Gaza, lực lượng Houthi ở Yemen… Những nội dung vừa nêu là một nguồn tư liệu tin cậy, giúp nghiên cứu sinh có thêm nhiều thông tin quan trọng liên quan đến chính sách đối ngoại của Iran, đặc biệt là sự hậu thuẫn của nước này đối với các tổ chức vũ trang Shi’ite trong khu vực; đồng thời tiệm cận gần hơn với quan điểm chính thống của chính quyền Mỹ trong vấn đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu trên của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ mang góc nhìn của phía Mỹ đối với Iran, do vậy một số đánh giá chưa thật sự chính xác và khách quan.
Ngoài các công trình được nêu ở trên, nghiên cứu sinh còn tham khảo một số công trình của các nhà nghiên cứu tiêu biểu khác. Nguồn tư liệu quý giá này giúp nghiên cứu sinh có một cái nhìn tổng quát về chính sách của Mỹ đối với Iran nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung và tiếp cận gần hơn tới những nội dung nghiên cứu của mình.
1.3. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án Sau một quá trình tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu vấn đề chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến 2016, nghiên cứu sinh nhận thấy rằng vấn đề này đã được nghiên cứu khá nhiều, đặc biệt là các công trình nghiên cứu quốc tế. Nhiều công trình nghiên cứu đi trước đạt chất lượng tốt, phản ánh một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về chính sách của Mỹ với Iran trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Về cơ bản các công trình nghiên cứu đi trước đã làm rõ được các nhân tố tác động cũng như quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran từ sau năm 1979 như các vấn đề xuất phát từ phía Iran, các vấn đề bên trong nước Mỹ và các vấn đề quốc tế có ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ đối với Iran. Theo đó, hầu hết các công trình đều phân tích sâu và đánh giá những thay đổi của Iran sau năm 1979 là yếu tố quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với quốc gia Trung Đông này. Bên cạnh đó, lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông cũng như chiến lược toàn cầu của Mỹ là những yếu tố bên trong có tính chất quyết định đến thái độ và phản ứng của Mỹ trong các vấn đề liên quan đến Iran. Những kết quả nghiên cứu này sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong các phân tích của nghiên cứu sinh trong Chương 2.
22
Các tác giả đi trước cũng đã nghiên cứu một cách có hệ thống về nội dung cũng
như quá trình triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran, đặc biệt là những nghiên cứu của Bzigniew Brzezenski - người được coi là “cha đẻ” của chính sách ngăn chặn Iran sau năm 1979. Những nghiên cứu này tạo điều kiện cho nghiên cứu sinh tiệm cận gần hơn quan điểm chính thống của chính quyền Mỹ trong vấn đề Iran. Bên cạnh đó, các công cụ thực hiện cũng như thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran cũng được phản ánh khá rõ qua những công trình nghiên cứu đi trước. Theo đó, trừng phạt, ngoại giao, vũ lực được cho là những công cụ phổ biến nhất mà chính quyền Mỹ đã sử dụng trong nhiều thập niên để thực hiện các mục tiêu đề ra trong chính sách đối ngoại đối với Iran. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh có thể triển khai Chương 3 của luận án một cách hoàn chỉnh và có chiều sâu hơn. Một số công trình đi trước cũng đề cập tới tác động của chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran đối với các bên liên quan, trong đó thường nhấn mạnh đến Mỹ và Iran. Đặc biệt, khi đánh giá về tính hiệu quả trong việc triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran, có hai luồng ý kiến khác nhau: một bên đánh giá chính sách của Mỹ đối với Iran đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đặc biệt là Thỏa thuận hạt nhân, nhưng bên còn lại cho rằng Mỹ đã thất bại trong việc áp dụng một chính sách cứng rắn với mục tiêu ngăn chặn Iran. Những tranh luận này giúp nghiên cứu sinh có một góc nhìn đa chiều hơn về chính sách của Mỹ đối với Iran trong một giai đoạn đầy biến động.
1.4. Những vấn đề luận án tiếp tục làm rõ Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về lịch sử nghiên cứu vấn đề, nghiên cứu sinh nhận thấy vẫn còn tồn tại những vấn đề chưa được giải đáp thỏa đáng. Trên cơ sở đó, trong luận án này, nghiên cứu sinh sẽ tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2016 dưới cách tiếp cận của chuyên ngành lịch sử thế giới. Theo đó, chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn này sẽ được mô tả, phục dựng bằng các sự kiện lịch sử, các bài phát biểu, đánh giá của các chính trị gia, các nhân vật lịch sử đương thời. Đồng thời đặt chính sách của Mỹ đối với Iran trong bối cảnh chung của tình hình thế giới khi đó để thấy được mối liên hệ không tách rời trong chính sách của Mỹ với Iran với những biến động của quốc tế giai đoạn từ năm 1979 - 2016. Với cách tiếp cận vừa phân tích, luận án sẽ tạo được điểm nhấn khác biệt khi phần lớn các công bố trước đó, đặc biệt là các công bố ở nước ngoài thường được tiếp cận dưới góc nhìn của các ngành khoa học khác như: chính trị học, kinh tế học hay quan hệ quốc tế.
- Phân tích một cách hệ thống và có chiều sâu các yếu tố chính tác động đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran giai đoạn 1979 - 2016, đặc biệt là những thay đổi của Iran sau năm 1979. Ngoài các yếu tố đã được nhiều nhà nghiên
cứu đi trước tập trung phân tích, nghiên cứu sinh bổ sung thêm những yếu tố ít được chú ý đến: yếu tố Trung Quốc, Liên Hợp Quốc và tác động của các nhóm cử tri, các
23
nhóm lợi ích, đặc biệt là cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái đối với chính sách của Mỹ
đối với Iran. Bên cạnh đó, luận án đưa ra góc nhìn riêng của một nhà nghiên cứu Việt
Nam về chủ trương hỗ trợ các tổ chức Shi’ite ở khu vực Trung Đông của Iran, trong
đó có những tổ chức bị Mỹ liệt vào danh sách “khủng bố” như Hezbollah, Hamas… và
tác động của chủ trương này đến sự lựa chọn chính sách của Mỹ.
- Trình bày, phân tích mục tiêu và những nội dung chủ yếu trong chính sách đối
ngoại của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016). Từ việc phân tích những điều chỉnh quan trọng
về mục tiêu và nội dung chính sách, nghiên cứu sinh sẽ làm rõ những thay đổi trong việc
triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran trước và sau năm 1991. Việc phân chia quá trình triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran thành hai giai đoạn nhỏ (1979 - 1991 và
1991 - 2016) là điểm mới trong nghiên cứu sinh so với các nghiên cứu đi trước, làm nổi
bật cách tiếp cận vấn đề từ góc nhìn lịch sử thế giới. Trong mỗi một giai đoạn, nghiên
cứu sinh sẽ lựa chọn đi sâu vào một số vấn đề quan trọng nhất trong chính sách của Mỹ đối với Iran.
- Đưa ra những phân tích, đánh giá dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu Việt
Nam về tác động của chính sách của Mỹ đối với Iran đến các bên liên quan. Trong đó,
nhấn mạnh thêm ảnh hưởng của chính sách này đối với trật tự và sự ổn định ở khu vực
Trung Đông cũng như tình hình thế giới. So sánh chính sách của Mỹ đối với Iran
trước, trong và sau giai đoạn 1979 - 2016 để thấy được tính vận động của nó.
- Đánh giá một số tác động của chính sách của Mỹ đối với Iran đến tình hình Việt Nam trong bối cảnh nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế - chính
trị toàn cầu. Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ chính sách của Mỹ đối với Iran cũng
như quan hệ giữa hai quốc gia này, đặc biệt là vấn đề xử lý khủng hoảng trong ngoại
24
giao, vấn đề ngoại giao đa phương…
Chương 2
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH
CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 2016
2.1. Yếu tố Iran 2.1.1. Vị trí chiến lược của Iran trên bản đồ địa chính trị thế giới Một trong những cơ sở quan trọng nhất quyết định đến chính sách của Mỹ đối
với Iran xuất phát từ vị trí địa chính trị - địa kinh tế đặc biệt quan trọng của Iran.
Iran nằm ở vùng trung tâm của lục địa Á - Âu (xem phụ lục 1). Phía Tây Bắc của quốc gia Islam giáo này tiếp giáp với Armenia, Azerbaijan; Phía Bắc giáp với biển Caspi; Phía Đông Bắc giáp với Turkmenistan; Phía Đông giáp với Afghanistan, Pakistan; Phía Nam giáp với Vịnh Ba Tư và Vịnh Oman; Còn phía Tây giáp với Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq. Với diện tích khoảng 1,75 triệu km2 [99; tr.1], Iran xếp thứ hai ở khu vực Trung Đông (sau Saudi Arabia) và lớn thứ 17 trên thế giới (rộng hơn diện tích của các nước Tây Âu bao gồm Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cộng lại và gấp 4 lần của diện tích của quốc gia láng giềng Iraq) về diện tích quốc gia. Một quốc gia có diện tích rộng với quy mô dân số lớn như Iran lại nằm ngay cạnh những đồng minh chiến lược của Mỹ như Israel, Saudi Arabia, Kuwait… Điều này khiến cho Iran trở thành một trong những tâm điểm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Xét về mặt địa chính trị, vị trí của Iran có hai điểm đặc biệt: Thứ nhất, quốc gia này nằm sát eo biển Hormuz - một trong những nút giao thông đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia vùng Vịnh nói riêng và hoạt động vận chuyển dầu mỏ của thế giới nói chung; Thứ hai, Iran – với dãy núi Zagros hùng vĩ được coi là một “cây cầu” quan trọng nối liền nhiều vùng chiến lược của lục địa Á - Âu.
25
Ở điểm thứ nhất, đối với Iran, các quốc gia vùng Vịnh hay thậm chí cả Mỹ, eo biển Hormuz có một ý nghĩa chiến lược về cả vận tải, kinh tế và quân sự. Eo biển này nối liền Vịnh Ba Tư với Vịnh Oman, phía Bắc giáp với Iran, phía Nam giáp với Oman. Hormuz dài khoảng 275 km và có độ rộng trung bình là 80 km. Ở nơi hẹp nhất, nằm giữa Ra’s Sharitah trên bán đảo Musandam thuộc Oman và đảo Jazineh của Iran chỉ rộng khoảng 50 km, rất thích hợp để phía Iran thực hiện việc tuần tra, giám sát cũng như phong tỏa eo biển chiến lược này khi cần. Eo biển này đạt độ sâu trung bình là 45m, phần nước sâu nằm gần với bờ biển phía Nam (phần thuộc Oman). Nhiều những điểm giáp với bờ biển của Oman sâu tới 75 – 225m [61; tr.1]. Tuy nhiên, về phía Tây của eo biển, bên trong vùng Vịnh Ba Tư, tình hình đảo ngược lại và phần nước sâu lại nằm trong vùng lãnh hải Iran. Năm 1979, chính phủ Oman đã công bố với Tổ chức tư vấn hàng hải quốc tế (IMCO) rằng chính phủ nước này không thể bảo đảm sự an toàn của các tàu đi qua đường giữa đảo Quawain có vị trí thấp hơn và bờ biển nhiều đá gập ghềnh của đảo Musandam. Do đó, không thể chở dầu đi qua eo biển Hormuz mà không phải đi qua lãnh
hải của Iran. Hơn nữa, Iran có 6 hòn đảo chiến lược (Hormuz, Lark, Queshm, Hengam, Abu Musa, cụm Tunb lớn và Tunb bé) được đặt ở lối vào Biển Oman tới Vịnh Ba Tư. Chúng có hình dạng giống một vòng cung phòng thủ của Iran chống lại các khả năng xâm lược của nước ngoài (xem phụ lục 2).
Quan trọng hơn, Hormuz được coi là con đường độc đạo để vận chuyển dầu từ Vịnh Ba Tư ra ngoài và là một trong chín tuyến đường hàng hải then chốt của thế giới. Theo tài liệu của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), vào năm 1979, trung bình mỗi ngày có khoảng 19 triệu thùng dầu được vận chuyển qua eo biển Hormuz [61; tr.5], tương đương với 1/3 sản lượng dầu mỏ của thế giới. Tính đến năm 2009, có khoảng 73% lượng dầu được vận chuyển bằng đường biển và 28% lượng dầu thương mại toàn cầu đi qua eo biển này [108; p.1]. Mỗi ngày có khoảng 15 tàu chở dầu cỡ lớn đi qua Hormuz để vận chuyển dầu đến Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu và Mỹ. Số lượng dầu được vận chuyển qua Hormuz đạt trung bình 17,4 triệu thùng dầu. Nếu so sánh với các eo biển trọng yếu khác như: Malacca (13 triệu thùng), Bab el–Mendeb (3,5 triệu) hay Suez (3,9 triệu) thì số lượng dầu được vận chuyển qua eo Hormuz tỏ ra vượt trội hơn hẳn. Nếu eo biển này bị đóng cửa, hơn 80% lượng dầu xuất khẩu từ khu vực vùng Vịnh sẽ bị đình trệ, giá vận chuyển sẽ bị đội lên và khả năng tạo ra một cơn sốc giá dầu là rất lớn. Các nhà phân tích đưa ra dự đoán, nếu eo biển Hormuz bị đóng cửa, giá dầu thế giới sẽ tăng 50% [172; tr.1]. Trong khi đó, dầu mỏ ở Trung Đông, đặc biệt là ở khu vực vùng Vịnh và sự bình ổn giá dầu là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Giá dầu ổn định sẽ giúp nền kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt hơn. Tính đến 6 tháng đầu năm 2015, Mỹ là nhà nhập khẩu dầu đứng thứ 15 ở Trung Đông. Tuy nhiên, theo tính toán, đến năm 2035, 40% lượng dầu thô của Mỹ sẽ được nhập từ khu vực này [52;tr.7]. Do vậy, với Mỹ, việc đảm bảo tự do hàng hải cho eo biển Hormuz có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc eo Hormuz được thông suốt không chỉ giúp các đồng minh của Mỹ ở khu vực vùng Vịnh có thể duy trì hoạt động xuất khẩu dầu mỏ mà còn đem lại những lợi ích kinh tế cho chính nước Mỹ.
26
Trong khi đó, vị trí nằm sát eo biển Hormuz đã tạo ra một lợi thế không nhỏ của Iran trên bàn cờ chính trị quốc tế. Iran có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử trong việc kiểm soát hoạt động hàng hải ở eo biển Hormuz. Về mặt tự nhiên và lịch sử, Iran sở hữu hầu hết đường biên giới của eo biển Hormuz và có rất nhiều tài liệu quốc tế đã chứng minh eo biển này là một eo biển của Iran trong lịch sử và tự nhiên mặc cho Hoa Kỳ, phương Tây và các đồng minh luôn cố gắng làm suy yếu các chứng minh này. Iran đã có lịch sử hàng hải hàng nghìn năm và đã từng thống trị Vịnh Ba Tư. Về pháp lý, các công ước về luật biển năm 1958 và năm 1982 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định quyền của Iran trong việc kiểm soát hoạt động hàng hải ở eo biển Hormuz đi qua lãnh hải của quốc gia này1. 1 Các lý do hợp pháp mà Iran có thể sử dụng khi phong tỏa eo biển Hormuz là Công ước Geneva về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958. Điều 4 của Công ước Geneva năm 1958 quy định: “tàu của tất cả các quốc gia, cho dù có
Nắm được lợi thế đó, Iran đã sử dụng eo biển Hormuz như một quân bài quan trọng để đối phó với Mỹ và các quốc gia Phương Tây trong suốt 40 năm qua. Trong mỗi lần Iran gặp khó khăn trong việc xuất khẩu dầu mỏ, quốc gia này lại đe dọa sẽ đóng cửa Hormuz. Năm 2011, Phó Tổng thống Iran đã để ngỏ khả năng sẽ đóng cửa eo biển Hormuz nếu có các lệnh trừng phạt mới đánh vào quốc gia này, giá dầu đã nhảy lên 2% chỉ sau một ngày sau khi Phó Tổng thống Iran tuyên bố như vậy. Những lời đe dọa của Iran nếu trở thành hiện thực có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh ở vùng Vịnh thậm chí có thể lan rộng ra phạm vi toàn cầu. Rõ ràng Iran với eo biển Hormuz có một vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động vận chuyển, xuất khẩu dầu mỏ ở vùng Vịnh nói riêng và sự phát triển bền vững của công nghiệp năng lượng toàn cầu nói chung.
Điểm đặc biệt thứ hai trong vị trí địa lý của Iran nằm ở chỗ quốc gia này nằm ở trung tâm của lục địa Á - Âu (xem phụ lục 3). Dãy núi Zagros - phần lãnh thổ phía Tây của Iran, được xem như cầu nối Vịnh Ba Tư ở phía Nam với biển Caspian ở phía Bắc. Ngoài ra, Iran còn nằm trên tuyến đường nối liền Tiểu lục địa Ấn Độ với khu vực Địa Trung Hải. Với vị trí vừa phân tích, có thể thấy Iran án ngữ cửa ngõ giao thương giữa ba châu lục Á - Âu - Phi. Vị trí trung tâm này khiến Iran trở thành một trong những điểm chiến lược trên bản đồ địa chính trị thế giới.
Quan trọng hơn, trong thời kỳ Liên Xô tồn tại, biên giới của Liên Xô tiếp giáp trực tiếp với Iran. Iran chia sẻ 1.250 dặm đường biên giới với Liên Xô [89; tr.10]. Vì lẽ đó, trong con mắt của các nhà hoạch định chính sách của Mỹ thời kỳ đó, Iran chính là bức tường thành ngăn cản sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản xuống các quốc gia Trung Đông và châu Phi. Điều này xuất phát từ việc địa hình của Iran chủ yếu là núi non. Các dãy núi cao mà quan trọng nhất là dãy Zagros đã tạo ra biên giới tự nhiên chắc chắn của Iran trước các cuộc tấn công từ bên ngoài. Không những vậy, trái với tập quán sinh sống của nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Iran thường sống tập trung ở các vùng núi. Thậm chí ngay cả thủ đô Tehran – đô thị lớn nhất của nước này cũng nằm ở vị trí chân của các dãy núi. Núi non hiểm trở nhưng vẫn có đông người sinh sống sẽ khiến cho các dãy núi nằm ở khu vực biên giới mang tính phòng thủ cao hơn. Trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh, Mỹ - Xô ở thế đối đầu thì Iran – với vị trí chiến lược của nó đã trở thành nơi tranh chấp ảnh hưởng quyết liệt giữa các cường quốc trên thế giới.
27
Xét về mặt địa kinh tế, Iran và các quốc gia vùng Vịnh khác là một rốn dầu quan trọng bậc nhất thế giới. Theo ước tính, hiện nay khu vực vùng Vịnh chiếm 57% lượng phải là quốc gia ven biển hay không, đều được hưởng quyền đi qua lãnh hải dưới cờ hiệu của quốc gia mình” [243; tr.5]. Thêm vào đó, mục 1 điều 23 của Công ước Geneva 1958 cũng quy định cho phép quốc gia ven biển được yêu cầu tàu thuyền nước ngoài rời khỏi lãnh hải của mình trong trường hợp các tàu này vi phạm luật lệ của quốc gia ven biển [243; tr.7]. Đây cũng là nội dung được Công ước về Luật Biển năm 1982 nhắc lại trong điều 25 của mục 1 [244; tr.29]. Như vậy, theo Công ước Geneva và UNCLOS, tàu thuyền nước ngoài chỉ được phép đi qua eo biển Hormuz nếu đảm bảo an ninh, trật tự và quyền lợi của nhà nước ven biển và Iran có quyền trục xuất và đình chỉ việc quá cảnh của các tàu thuyền nước ngoài vi phạm luật lệ của nước mình.
dầu dự trữ của thế giới, tương đương với 715 tỷ thùng dầu. Chỉ riêng Iran đã chiếm 11,1% trữ lượng dầu được tìm thấy của thế giới. Theo thống kê của Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ thế giới OPEC, lượng dự trữ dầu của Iran đạt 155 tỷ thùng và lượng dự trữ khí đốt tự nhiên cũng lên tới gần 34 nghìn tỷ mét khối [293]. Còn theo Tạp chí Dầu mỏ và khí Gas, lượng dự trữ dầu mỏ của Iran trong năm 2018 thậm chí còn cao hơn, với 157 tỷ thùng (xem phụ lục 4). Khi mà dầu mỏ vẫn đang là thứ nguyên liệu thống trị trên thế giới thì Iran và các quốc gia vùng Vịnh tiếp tục nắm vị trí quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài sức hút từ dầu mỏ, Iran luôn được xếp vào hàng những quốc gia có nền kinh tế lớn mạnh nhất ở khu vực Trung Đông. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2017), Iran là nền kinh tế lớn thứ hai ở khu vực Trung Đông và châu Phi chỉ sau Saudi Arabia. Năm 1978, GDP của Iran mới chỉ xấp xỉ 78 tỷ USD [283] thì đến năm 2016, GDP của quốc gia này đạt tới 412,2 tỉ USD [306] (chỉ xếp sau Saudi Arabia với 644,936 tỷ USD [310]). Thu nhập bình quân trên đầu người liên tục tăng trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI, năm 1990, bình quân một người Iran có thu nhập khoảng 7.119,3 USD thì đến năm 2016, con số đó đã tăng 2,5 lần lên 19.987,5 USD [307].
Rõ ràng, với những phân tích ở trên có thể dễ dàng nhận thấy Iran có một vị trí địa chính trị, địa kinh tế đặc biệt quan trọng ở khu vực Trung Đông. Vị trí án ngữ eo biển Hormuz – con đường độc đạo vận chuyển dầu ra khỏi Vịnh Ba Tư và việc Iran chia sẻ một đường biên giới dài với Liên Xô đã khiến Iran trở thành nơi tranh chấp của rất nhiều cường quốc trong đó có Mỹ. Đối với chính quyền Mỹ, Mỹ muốn biến Iran thành một tuyến phòng ngự quan trọng ngăn chặn sự xâm nhập của chủ nghĩa cộng sản cũng như ảnh hưởng của Liên Xô ở khu vực Trung Đông. Việc kiểm soát được hoạt động ở eo biển Hormuz sẽ giúp Mỹ đảm bảo sự lưu thông của hoạt động sản xuất và vận chuyển dầu mỏ - thứ nguyên liệu đang thống trị thế giới. Với vị trí đặc biệt này, dù là đồng minh hay đối thủ của nhau, Iran vẫn được coi là một trong những mối quan tâm đặc biệt quan trọng trong chiến lược của người Mỹ ở khu vực Trung Đông.
2.1.2. Tình hình Iran sau năm 1979 2.1.2.1. Cuộc cách mạng Islam (1979) và chính sách đối ngoại của chính quyền
mới
28
Bước vào những năm cuối thập niên 70 của thế kỉ XX, Iran đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc đại cách mạng. Chính quyền Iran bội thu ngân sách nhờ giá dầu tăng vọt từ sau 1973. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế lại không đi đôi với cải thiện đời sống xã hội. Trừ một bộ phận thượng lưu, đại đa số người dân Iran phải chịu cảnh đói khổ. Nghèo đói còn đi kèm với nạn mù chữ. Ngay ở thủ đô Tehran, chỉ 50% dân cư biết đọc biết viết. Người dân Iran không thể tiếp tục duy trì cuộc sống khốn khó thêm nữa. Trong lúc đó, lãnh tụ tinh thần của người dân Iran - Ayatollah Ruhollah Khomeini không ngừng tuyên truyền thực hiện cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ của Mohammed Reza Pahlavi, xây dựng một chính quyền mới. Dưới sự kêu gọi của Khomeini, các tín
đồ Islam thường xuyên đến các lễ đường nghe giảng về “cách mạng”. Các cuộc nổi dậy của các tín đồ Islam chống chính quyền bùng phát, ban đầu là cuộc nổi dậy ở Qom (01/1978) và sau đó lan khắp Iran. Đến năm 1979, cách mạng Islam thắng lợi. Nhà vua Iran buộc phải rời khỏi Iran sống lưu vong đến cuối đời. Sau cuộc tổng tuyển cử, Khomeini trở thành Lãnh đạo tinh thần tối cao (Supreme Leader) của Iran trong sự hân hoan của hàng triệu tín đồ.
Chính quyền Mỹ vẫn chưa kịp thích nghi với những biến động chính trị ở Iran thì cuộc bắt giữ các công dân Mỹ ở Đại sứ quán làm con tin tiếp tục giáng thêm một đòn mạnh mẽ khác vào sự tự tôn của nước Mỹ. Vào ngày 04/11/1979, một nhóm học viên quân sự Iran đã chiếm Đại sứ quán Mỹ ở Iran và bắt giữ 52 con tin người Mỹ. Các học viên tham gia vụ bắt cóc tuyên bố rằng họ chiếm giữ đại sứ quán Mỹ nhằm ngăn chặn một cuộc đảo chính tương tự với những gì diễn ra vào năm 1953. Mặc dù Khomeini tuyên bố ông không hề biết trước kế hoạch của nhóm sinh viên trên, song sau đó ông lại ủng hộ cho hành động của họ trong suốt cuộc khủng hoảng con tin. Với người đứng đầu Iran, cuộc khống chế con tin ở Tehran là “cuộc cách mạng thứ hai, và nó thậm chí còn quan trọng hơn cuộc cách mạng thứ nhất vừa diễn ra” [27; tr.22]. Sau 444 ngày thương thuyết, các công dân Mỹ đã được Iran thả ra. Tuy nhiên, sau sự kiện này, quan hệ giữa Iran với Mỹ tồn tại một hố sâu thù địch khó có thể xóa bỏ.
Thành công của cách mạng Islam năm 1979 ở Iran đã kéo theo nhiều thay đổi tất yếu, đặc biệt là về thể chế chính trị và đường lối ngoại giao của chính quyền cách mạng Iran. Với chế độ chính trị đặc trưng – dân chủ thần quyền, Lãnh tụ tối cao Ayatollah Ruhollah Khomeini mới là người nắm quyền lực cao nhất. Khomeini chủ trương theo đuổi một đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không bị chi phối bởi cả hai khối Đông và Tây. Khomeini cho rằng, không có Mỹ, không có Liên Xô, chỉ có chủ nghĩa Islam là trên hết (Neither East nor West but the Islamic) [29; tr.155]. Đây được coi là một trong hai trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của chính quyền mới.
29
Cụ thể, chính quyền mới do Lãnh tụ tinh thần Khomeini đứng đầu lựa chọn một đường lối ngoại giao cứng rắn và chống Mỹ kịch liệt. Cuộc cách mạng Islam giáo và sự quay lưng của Iran đối với Mỹ không phải là một diễn biến mang tính bộc phát mà là quá trình tích tụ trong một thời gian dài. Trong mắt người dân Iran, Mỹ là đại diện cho chủ nghĩa đế quốc phi nghĩa. Trong rất nhiều lần tuyên truyền và giảng đạo, lãnh tụ của phong trào Islam giáo tại Iran Khomeini đã quy kết Mỹ là “the great Satan” (Đại Satan) [42; tr.11]. Còn với Liên Xô, Iran cũng chủ trương giảm thiểu mối liên hệ với siêu cường này. Sau sự kiện Liên Xô đưa quân can thiệp vào Afghanistan, trong mắt của giới lãnh đạo Tehran, hình ảnh của Liên Xô không khác với Mỹ là bao. Do vậy, trong suốt thập niên 80, bên cạnh việc đóng băng hoàn toàn trong quan hệ với Mỹ, Iran cũng giữ một thái độ lạnh nhạt với phía Liên Xô. Để phá thế cô lập trong ngoại giao và kinh tế, chính quyền Iran cố gắng duy trì mối quan hệ với Tây Âu, Nhật
Bản và Trung Quốc…
Trụ cột còn lại trong chính sách đối ngoại của chính quyền mới là “xuất khẩu cách mạng” (Export of the Revolution). Vừa xuất hiện, “xuất khẩu cách mạng” đã trở thành khẩu hiệu chính để tuyển mộ quân ở Iran trong cuộc chiến tranh với Iraq kéo dài tám năm sau đó (1980-1988). Nội dung chính của “xuất khẩu cách mạng” là Chính quyền Iran sẽ ủng hộ phong trào cách mạng của lực lượng Shi’ite ở khu vực Trung Đông. Iran sẽ cung cấp viện trợ, huấn luyện cho các nhóm quân Shi’ite không chỉ ở Trung Đông mà còn mở rộng ra khắp thế giới. Lực lượng đảm nhận các hoạt động này là Các đơn vị Vệ binh cách mạng Islam Iran ở nước ngoài “Qods Force” với khoảng 5000 binh sĩ triển khai rộng khắp Trung Đông [87; tr.57]. Tướng Qasim Soleimani2 là người đứng đầu lực lượng đặc biệt này. Tính đến năm 2016, rất nhiều tổ chức vũ trang Shi’ite bị Mỹ cho là do Qods Force hậu thuẫn, chẳng hạn như: Hamas, Hezbollah, Taliban, Houthi… (xem phụ lục 5).
2 Tướng Qasim Soleimani đã thiệt mạng trong cuộc không kích bằng máy bay không người lái do Mỹ tiến hành tại Sân bay Quốc tế Baghdad (3/1/2020) 3 Chẳng hạn như vào tháng 4/1983, một vụ ném bom liều chết bằng xe tải nhằm vào Đại sứ quan Mỹ ở Beirut đã
30
Tổ chức Hezbollah ở Lebanon là ví dụ điển hình nhất cho đường lối “xuất khẩu cách mạng của Iran”. Hezbollah là một lực lượng quân sự dòng Shi’ite được thành lập năm 1982, trong cuộc chiến tranh Lebanon. Đến nay, Hezbollah được coi là một thế lực chính trị lớn không chỉ ở Lebanon mà còn là toàn Trung Đông. Hezbollah có mối quan hệ mật thiết với chính quyền Iran. Đã có nhiều bằng chứng cho thấy Iran đứng sau hậu thuẫn cho việc thành lập tổ chức quân sự Shi’ite này. Lực lượng vệ binh quốc gia Iran đã trực tiếp tham gia huấn luyện những binh sĩ đầu tiên của Hezbollah. Năm 1984, để đối phó với cuộc xâm lược Lebanon của Israel, Iran và Syria đã ký một hiệp định trong đó cam kết hỗ trợ tài chính và huấn luyện cho Hezbollah. Ngay sau đó, Iran đã gửi 800 vệ binh đến Lebanon để tham gia công tác huấn luyện. Và chỉ một vài tháng sau đó, Iran tiếp tục gửi thêm 700 vệ binh tinh nhuệ với nhiệm vụ tương tự tại 6 trại huấn luyện ở thung lũng Beka [271; tr.90]. Iran cũng là quốc gia dành nhiều viện trợ nhất cho Hezbollah cả về tài chính lẫn vũ khí. Tính đến đầu thập niên 90, trung bình mỗi năm Tehran chuyển 100 triệu USD tiền viện trợ cho Hezbollah [180; tr.7]. Nhiều nhà phân tích đánh giá, Hezbollah được coi là một công cụ chiến lược để Iran sắp xếp lại trật tự ở Trung Đông. Bằng chứng là với sự ra đời của tổ chức dân quân Shi’ite này, quân của Israel đã phải rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Lebanon trong cuộc chiến tranh năm 1982. Nhiều người Lebanon còn ca ngợi tổ chức này là những người anh hùng dân tộc. Tuy nhiên, với Mỹ và Israel, tổ chức này bị xếp vào danh sách các tổ chức khủng bố. Điều này xuất phát từ đường lối chống Nhà nước Do Thái mạnh mẽ của Hezbollah. Hezbollah đã thực hiện nhiều cuộc tấn công bằng tên lửa sang lãnh thổ Israel, hỗ trợ cho các lực lượng kháng chiến của Palestine chống lại quân đội Israel. Hezbollah cũng được cho là lực lượng chịu trách nhiệm cho một số vụ tấn công “khủng bố” vào các mục tiêu Mỹ trong thập niên 803.
Hamas - tổ chức kháng chiến có xu hướng bạo lực ở Palestine, cũng nằm trong danh sách nhận viện trợ từ Iran. Bên cạnh việc gián tiếp giúp đỡ qua Hezbollah, Tehran còn trực tiếp cấp tiền cho Hamas. Theo tài liệu mật của tình báo Canada, vào tháng 02/1999, cảnh sát Palestine đã khám phá ra một tài liệu có ghi lại việc Bộ Tình báo và An ninh Iran đã chuyển 35 triệu USD cho Hamas nhằm chống lại Israel [180; tr.7]. Tương tự, ở Iraq, theo báo cáo của quân đội Mỹ năm 2009, họ đã tìm thấy trong các kho vũ khí của các nhóm vũ trang người Shi’ite một số trang thiết bị có ghi nơi sản xuất là Iran vào 2006.
Lực lượng Taliban ở Afghanistan cũng được cho là có mối liên hệ mật thiết với Iran. Iran và Taliban từng có thời gian căng thẳng khi Iran từ chối nhà nước Taliban là chính quyền hợp pháp của Afghanistan vào thập niên 1990. Tuy nhiên, tình hình đã đảo ngược sau khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở Afghanistan (2001). Theo báo cáo của Cơ quan Tình báo quân đội Hoa kỳ (DIA), Iran đã cung cấp vũ khí, hỗ trợ huấn luyện và chuyển tiền cho Taliban để chống lại ảnh hưởng của Mỹ và phương Tây ở Afghanistan [87; tr.63].
Các nhóm vũ trang người Shi’ite ở Iraq bao gồm: Tổ chức Badr (The Badr Organization), Asaib Ahl al-Haq, và nhóm Kataib Hizballah cũng nhận được sự hậu thuẫn từ phía Iran. Mỹ đã tìm thấy các bằng chứng cho thấy trong các cuộc tấn công vào lính Mỹ ở Iraq (2004 - 2011), các nhóm vũ trang Shi’ite chống Mỹ đã sử dụng vũ khí của Iran [87; tr.60].
Hezbollah, Hamas, Houthi, các nhóm vũ trang Shi’ite ở Iraq… là những ví dụ tiêu biểu cho sự ủng hộ của Iran cho các tổ chức của người Shi’ite và tham vọng “xuất khẩu cách mạng” ở khu vực Trung Đông và châu Phi. Hoạt động của các nhóm vũ trang Shi’ite đã góp phần khuếch trương ảnh hưởng và vị thế của Iran trên chính trường Trung Đông. Tuy nhiên, điều này lại tạo ra những nghi ngại lớn từ phía các quốc gia khác trong khu vực như Israel, Saudi Arabia và cộng đồng các quốc gia Arab. Saudi Arabia lo sợ rằng chính sách “xuất khẩu cách mạng” của Iran cùng với những hoạt động hậu thuẫn cho các nhóm vũ trang người Shi’ite trên khắp Trung Đông có thể tạo ra một cuộc cách mạng tương tự như ở Iran. Điều này đe dọa trực tiếp đến sự thống trị của dòng Sunni ở Trung Đông. Israel cũng có những lí lẽ riêng để chống lại chính sách “xuất khẩu cách mạng” của Iran khi phần lớn cách nhóm vũ trang Shi’ite được Iran hậu thuẫn trong nỗ lực “xuất khẩu cách mạng” đều coi Israel là kẻ thù số một. Chính vì thế, trong quan điểm của Mỹ, chính sách “xuất khẩu cách mạng” đã đe dọa trực tiếp đến quyền lợi của các đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở Trung Đông. Không những thế, một trật tự mới có thể sẽ được thiết lập bởi Iran nếu như Mỹ không có những biện pháp “kiềm chế’ và “ngặn chặn” kịp thời.
31
Như vậy, có thể nhận thấy tình hình Iran đã có những biến đổi nhanh chóng sau cuộc cách mạng Islam 1979. Lãnh tụ tinh thần tối cao Khomeini đã xây dựng một đường được thực hiện, giết chết 63 người. Cũng trong năm đó, vào 23/10, lực lượng Hezbollah tiếp tục tấn công vào một Doanh trại của Lính thủy đánh bộ Mỹ khiến 241 lính Mỹ cùng 57 đồng sự người Pháp thiệt mạng. Đây được coi là một trong những cuộc đánh bom đẫm máu nhất do Hezbollah thực hiện cho đến nay.
lối đối ngoại độc lập, tự cường. Tuy nhiên, đối với những người đứng đầu nước Mỹ, chính sách đối ngoại mới của Iran với hai trụ cột là “không Xô không Mỹ chỉ Islam là trên hết” và “xuất khẩu cách mạng” tiềm ẩn nhiều thách thức đối với trật tự mà Mỹ đang muốn duy trì ở Trung Đông cũng như đe dọa đến lợi ích của Mỹ trong khu vực. Iran từ đồng minh chiến lược của Mỹ trở thành đối tượng cần ngăn chặn trong chính sách của Mỹ ở Trung Đông.
2.1.2.2. Chương trình hạt nhân và chương trình tên lửa của Iran Tình hình Iran sau năm 1979 có những biến đổi vượt quá tầm kiểm soát của Mỹ, một trong số đó là chương trình hạt nhân của Iran. Đối với Mỹ, chương trình hạt nhân của Iran bị coi là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với các lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông nói riêng và phạm vi toàn cầu nói chung cho dù Iran luôn khẳng định mục đích của các chương trình hạt nhân của quốc gia này hướng tới mục đích hòa bình, sản xuất điện năng.
Trên thực tế, chương trình phát triển hạt nhân của Iran đã bắt đầu từ cuối thập niên 50, khi nước này còn là đồng minh của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, sau khi cuộc cách mạng Islam bùng nổ và thành công (1979), chính quyền mới đã ra lệnh ngừng hoàn toàn chương trình hạt nhân trên khắp đất nước Iran vì cho đó là di sản của chủ nghĩa đến quốc ở Iran. Các kế hoạch xây dựng, phát triển các cơ sở hạt nhân cũng vì thế đình trệ. Đến giữa thập niên 80, việc Iraq sử dụng vũ khí hóa học tấn công binh sĩ và người dân Iran trong chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988) đã thôi thúc chính quyền cách mạng Tehran khôi phục lại chương trình hạt nhân nhằm tăng cường sức mạnh quân sự và tiềm lực của quốc gia. Với sự giúp sức của Trung Quốc, Iran đã xây dựng được thêm một số lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ để phục vụ nghiên cứu. Iran cũng tìm được nguồn cung cấp quặng uranium thể rắn quan trọng từ Nam Phi. Cuối thập niên 80, Iran mua được những chiếc máy ly tâm đầu tiên từ Pakistan – thông qua thị trường chợ đen cùng với các thiết bị thí nghiệm laser để làm giàu Uranium [120; tr.ix] … Các quan chức của Iran luôn khẳng định chương trình hạt nhân của nước này vì mục đích hòa bình. Năm 2012, trưởng phái đoàn đại diện của Iran ở Liên Hợp quốc đã phát biểu rằng: “Chúng tôi không có ý định phát triển năng lực để sản xuất bất cứ loại vũ khí hủy diệt hàng loạt nào” [167; tr.3].
32
Dù bị Mỹ cấm vận ngặt nghèo, nhưng Iran đã có những bước tiến dài với nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu hạt nhân. Số lượng các cơ sở hạt nhân tăng lên nhanh chóng. Phần lớn các cơ sở hạt nhân của Iran tập trung ở phía Tây Nam nước này. Có thể điểm ra một số cơ sở quan trọng nhất như: nhà máy làm giàu uranium Natanz và Fordow, mỏ khai thác uranium ở Garchin, Nhà máy điện nguyên tử Bushehr, nhà máy nước nặng Arak và Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ hạt nhân Isfahan… (xem phụ lục 6). Như vậy, dù đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là sức ép từ các lệnh cấm vận của Mỹ và phương Tây, nhưng Iran đã tạo được một hệ thống cơ sở hạt nhân quy mô và đa dạng về loại hình, bao gồm: mỏ khai thác uranium, nhà máy chuyển hóa uranium, nhà máy nước nặng, nhà máy làm giàu uranium, nhà máy điện nguyên tử,
các trung tâm nghiên cứu… Các cơ sở này được coi là thành tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy những tiến bộ trong chương trình nghiên cứu và phát triển hạt nhân của Iran trong nhiều thập niên qua.
Ngoài số lượng các các trung tâm hạt nhân, thành quả của chương trình hạt nhân của Iran còn được thể hiện ở chỗ nước này đã phát triển được nhiều dòng máy ly tâm làm giàu uranium thế hệ khác nhau, từ những máy thuộc thế hệ cũ IR - 1 cho đến máy li tâm hiện đại như IR - 6. Chẳng hạn như tổ hợp dành cho mục đích thương mại ở nhà máy hạt nhân ở Natanz được cho là có tới 47.000 máy ly tâm làm giàu uranium, trong đó chỉ có khoảng 9.156 máy là thuộc thế hệ thứ nhất, IR-1, còn lại là các máy thế hệ sau đã được cải tiến. Đây là tổ hợp sản xuất uranium lớn và quan trọng nhất của Iran. Tháng 7/2009, Phó Tổng thống Iran, Gholamreza Aghazadeh - người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Iran (Iran’s Atomic Ernergy Organization) giải thích rằng số lượng máy ly tâm được lắp đặt mới nằm trong chương trình có thời hạn đến năm 2015. Ngoài ra Iran còn có vô số các trang thiết bị và công xưởng liên quan đến việc chế tạo và sản xuất các máy ly tâm thế hệ mới và các thiết bị cần thiết khác cho quá trình làm giàu uranium [167; tr.15 - 16].
Sự tiến bộ vượt bậc trong trình độ nghiên cứu và phát triển hạt nhân của Iran còn được thể hiện ở cấp độ làm giàu uranium ở các cơ sở hạt nhân của nước này. Phần lớn sản phẩm tạo ra được cho là để phục vụ cho mục đích thương mại. Iran bắt đầu làm giàu uranium từ giữa tháng 4/2007. Cho đến ngày 6/8/2012, Tehran đã sản xuất được khoảng 6.876 kg uranium cấp độ thấp có chứa 5% uranium -235 [167; tr.16]. Iran cũng tiến hành sản xuất thí điểm loại hạt nhân có chứa 20% là uranium -235. Tính đến ngày 12/8/2012, Iran đã sản xuất được 20 kg uranium hàm lượng cao (chứa 20% uranium - 235) tại cơ sở hạt nhân Fordow [167; tr.17]. Mặc dù Tehran đã tuyên bố việc sản xuất uranium hàm lượng cao trên là phục vụ cho mục đích nghiên cứu (chương trình nghiên cứu TRR – Iran’s Tehran Research Reactor) nhưng Mỹ và các đồng minh vẫn đặc biệt lo ngại trước những tiến bộ trong công nghệ làm giàu hạt nhân của Iran. Nếu uranium được sử dụng trong sản xuất vũ khí hạt nhân, Iran sẽ trở thành một trong số ít các quốc gia trên thế giới sở hữu loại vũ khí nguy hiểm này.
Nhiều nhà nghiên cứu Iran, tiêu biểu như Foad Izadi cho rằng Mỹ và phương Tây đã tiến hành một cuộc chiến tranh tâm lý đối với Iran, và chương trình hạt nhân của nước này chỉ là một phần trong cuộc chiến tâm lý đó nhằm khắc sâu tâm lý sợ hãi Iran và coi chương trình này là mối đe dọa đến an ninh và hòa bình thế giới [141; tr.91]. Tuy nhiên, trên lập trường của nhà cầm quyền Mỹ, chương trình hạt nhân của Iran ngày càng tiến gần hơn đến ngưỡng Uranium hàm lượng cao đồng nghĩa với việc Iran có thể sở hữu vũ khí hạt nhân, trở thành cường quốc quân sự và tạo ra những áp lực lớn đối với sự tồn tại của Israel, lợi ích của các đồng minh cũng như vị thế của Mỹ ở khu vực này. Do vậy, chương trình hạt nhân luôn là một trong những nút thắt lớn nhất trong quan hệ Mỹ - Iran.
33
Bên cạnh chương trình hạt nhân, chương trình tên lửa của Iran cũng đang trở thành
một trong những mối đe dọa đối với Mỹ. Bắt đầu từ sau Chiến tranh Iran – Iraq (1980 - 1988), các nhà lãnh đạo Iran đã nhận ra tầm quan trọng của việc phát triển các thế hệ vũ khí mới, đặc biệt là tên lửa trong nỗ lực đối phó với những âm mưu xâm lược, phá hoại Iran từ bên ngoài. Quân đội Iran đã thực hiện một chiến lược dài hạn, được đầu tư nghiêm túc để nghiên cứu và sản xuất các thế hệ tên lửa mới. Theo đánh giá của Bộ quốc phòng mỹ, “Iran đã phát triển thêm nhiều tên lửa thế hệ mới có độ chính xác, tầm bắn và độ sát thương cao”. Quốc gia này đã sản xuất được từ các loại tên lửa tầm ngắn (Shahab 1, tầm bắn 300km) đến các loại tên lửa tầm xa (Shahab 3/Emed 1/Sejjin MRBMs, tầm bắn vươn xa tới 2.000 km) [87; tr.43]. Theo đánh giá của phía Mỹ, các tên lửa tầm trung của Iran có khả năng tấn công từ châu Âu đến Nam Á. Với tầm bắn được thiết kế, tên lửa Iran có khả năng tấn công tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông, đe dọa trực tiếp đến hoạt động của hàng chục nghìn binh sĩ Mỹ đang đồn trú ở khu vực này (Xem phụ lục 7). Trong bối cảnh quan hệ Mỹ - Iran thường xuyên căng thẳng và xung đột thì nguy cơ xảy ra các cuộc tấn công bằng tên lửa vào các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông là có thực. Trên thực tế, lãnh đạo Iran cũng nhiều lần đe dọa tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ mỗi khi Mỹ xiết chặt các lệnh cấm vận với Iran, gây ra những căng thẳng giữa hai nước. Thêm vào đó, theo các quan chức quốc phòng Mỹ, “Iran cung cấp các loại tên lửa hiện đại này cho các nhóm vũ trang mà nước này hậu thuẫn. Số vũ khí đó được các nhóm vũ trang sử dụng để chống lại Mỹ và các đồng minh khu vực” [258; tr.v-vi]. Chính vì vậy, trong quan điểm của những người đứng đầu nước Mỹ, chương trình tên lửa của Iran một thách thức rất lớn đối với sự hiện diện quân sự của Mỹ nói riêng và an ninh của các đồng minh ở khu vực Trung Đông nói chung.
Rõ ràng, tham vọng của Iran trong việc nghiên cứu và phát triển chương trình hạt nhân, chương trình tên lửa đã tạo ra những thách thức nghiêm trọng đối với các lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Sau gần bốn thập niên, Iran đã đạt được những bước tiến quan trọng trong công nghệ hạt nhân với cấp độ làm uranium chạm đến ngưỡng có thể đưa vào sản xuất vũ khí hạt nhân. Trong khi đó, Iran đang theo đuổi chính sách đi ngược lại với mong muốn và lợi ích Mỹ ở khu vực Trung Đông. Đối với chính quyền Mỹ, việc một đối thủ như Iran nắm giữ vũ khí hạt nhân tiềm ẩn những nguy cơ đe dọa trực tiếp đến an ninh khu vực cũng như lợi ích của Mỹ ở Trung Đông. Ngoài ra, tiến bộ vượt bậc của Iran trong việc sản xuất, chế tạo các loại vũ khí chiến lược, đặc biệt là các loại tên lửa chiến thuật cũng tạo ra sức ép lớn không chỉ cho các đồng minh của Mỹ như Saudi Arabia hay Israel mà còn đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của các căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Chính vì vậy, chương trình hạt nhân và chương trình tên lửa của Iran trở thành một trong những tâm điểm trong chính sách của Mỹ đối với Iran, thúc đẩy Mỹ phải có những hành động quyết liệt để ngăn chặn những tham vọng của Tehran.
34
2.2. Yếu tố Mỹ 2.2.1. Chính sách của Mỹ với Iran trước năm 1979 Như đã phân tích ở trên, Iran có một vị thế quan trọng trên bàn cờ Trung Đông của
4 Mossadegh là một nhà lãnh đạo có tư tưởng tiến bộ và cổ súy mạnh mẽ cho phong trào dân tộc Arab. Ông đã kết thúc quyền lãnh đạo của người Anh trên lãnh thổ Iran bằng cách quốc hữu hóa công ty dầu mỏ lớn nhất Iran do người Anh làm chủ - công ty dầu mỏ Anh - Ba Tư AIOC (Anglo - Iranian Oil Company), khơi dậy lòng tự hào dân tộc của người Iran, dân chủ hóa hệ thống chính trị vốn rất bảo thủ ở Tehran. Chính sách tiến bộ của chính quyền Mossadegh đã tạo được dấu ấn tốt đẹp trong lòng dân chúng Iran. Tuy nhiên chính sách đó lại khiến Mossadegh xung đột với giới tinh hoa thân phương Tây của Iran, Nhà vua Iran - Mohammed Reza Pahlevi và cả các thế lực bên ngoài trong đó có Mỹ và Anh. Cả Mỹ và Anh đều cho rằng rằng Mossadeq đã có liên hệ với cộng sản và sẽ đưa Iran đi vào quỹ đạo của Liên Xô nếu ông tiếp tục được phép nắm quyền. 5 Trước đó, vào ngày 15/8/1953 CIA đã tổ chức cuộc đảo chính đầu tiên nhưng sớm bị lộ và vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của Chính phủ Muhammad Mossadegh. Hàng chục người đã bị bắt giữ, Tướng Fazlollah Zahedi, một trong những kẻ chủ mưu được Mỹ mua chuộc trước đó, chạy trốn trong khi Nhà vua Iran Reza Pahlavi cũng tìm cách ra nước ngoài. Sau thất bại đầu tiên trong cuộc lật đổ ngày 15/8/1953, CIA tiếp tục bí mật hoạt động ở Iran, trong khi MI6 rút khỏi kế hoạch. Sự kiên trì của các mật vụ CIA đã đem lại hiệu quả thực tế.
35
người Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh. Mức độ cấp thiết hỗ trợ quân sự cho Iran đặc biệt được đẩy cao hơn sau khi Liên Xô nhiều lần trì hoãn việc rút quân khỏi Iran dù Chiến tranh thế giới thứ Hai đã kết thúc. Không những vậy, Liên Xô còn đòi quyền khai thác dầu ở khu vực phía Bắc Iran. Cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Iran (còn gọi là Đảng Tudeh) phát động một chiến dịch biểu tình và gây áp lực chính trị để giành quyền lực lớn hơn ở chính quyền trung ương, trong đó phải nhắc đến cuộc đình công của công nhân nhà máy lọc dầu liên doanh giữa Iran và Anh - Abadan. Nền chính trị Iran trở nên hỗn loạn, nhiều khả năng sẽ xảy ra một cuộc nội chiến. Thậm chí Iran có thể là quốc gia đầu tiên ở Trung Đông nằm dưới sự kiểm soát của Điện Kremlin. Trước tình thế cấp bách đó, chính quyền Mỹ đã tìm cách thiết lập mối quan hệ sâu sắc hơn với Iran, biến Iran thành một đồng minh chiến lược của Mỹ trong khu vực cùng với Saudi Arabia, Israel nhằm tạo một phòng tuyến chống lại ảnh hưởng của Liên Xô cũng như làn sóng cộng sản tràn xuống khu vực Trung Đông. Để làm được điều đó, Mỹ đã triển khai một chính sách liên minh toàn diện đối với Iran (1953 - 1979) trên tất cả các mặt chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quân sự và hợp tác trong nghiên cứu và phát triển hạt nhân. Về chính trị, Mỹ tìm cách can thiệp và chi phối nền chính trị Iran. Cuộc đảo chính năm 1953 ở Iran – chiến dịch TPAJAX [60; tr.26] được coi là minh chứng rõ nét nhất cho tham vọng này của người Mỹ. Mục tiêu của cuộc đảo chính năm 1953 là lật đổ chính quyền của Thủ tướng Mohammed Mossadeq (1951 - 1953)4 và khôi phục lại quyền lực cho Nhà vua Iran. Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA và tình báo Anh được cho là những người lập kế hoạch và chịu trách nhiệm chính trong chiến dịch lật đổ Mossadeq - chiến dịch TPAJAX. Ngày 16/4/1953, một bản nghiên cứu toàn diện có tên “các yếu tố liên quan đến việc lật đổ Mossadeq” đã được hoàn thành. “Tài liệu này đã chỉ ra rằng sự kết hợp giữa Nhà vua Iran và người đứng đầu quân đội Iran – Đại tướng Zahedi, dưới sự ủng hộ cả về đường hướng và tài chính của CIA, có thể tạo ra một cơ hội tốt để lật đổ Mossadeq” [273; tr.3]. Kermit Roosevelt được CIA chọn là người đứng đầu chiến dịch TPAJAX. Ngày 19/8/1953, quân đội Iran, được ủng hộ bởi các nhóm biểu tình đường phố đã lật đổ chính phủ của Thủ tướng Mossadeq. Chiến dịch TPAJAX thành công5. Vua Reza Pahlavi nhanh chóng trở lại nắm quyền và để đáp lại sự giúp đỡ của Mỹ, ông đã chia sẻ 40% số mỏ dầu của Iran cho các công ty Mỹ
(trong đó có 5 tập đoàn lớn và một công ty nhỏ) [170; tr.309]. Cựu Thủ tướng Mossadeq bị bắt giữ, bị giam ba năm tù, và sau này chết khi đang bị quản thúc tại gia vào năm 1967.
Sau cuộc đảo chính, Mỹ chủ động thiết lập quan hệ đồng minh chiến lược với chế độ của Vua Reza Pahlavi. Năm 1957, chính quyền của Eisenhower đã đạt được thành công lớn khi thuyết phục Shah ký vào bản Hiệp định hợp tác quân sự, theo đó Iran sẽ đảm nhận việc ngăn chặn mối đe dọa từ Liên Xô [31; tr.58]. Bước sang nhiệm kỳ của Kennedy, “Iran tiếp tục được coi là một vùng đất ổn định và quan trọng chiến lược” [37; tr.165] đối với Mỹ. Kennedy đã hỗ trợ cho chính quyền Shah trong việc đối phó với tình trạng bạo loạn ở Iran (tháng 5/1961). Chính sách thân thiện đó tiếp tục được duy trì dưới thời của Tổng thống Lyndon B. Johnson. Tuy nhiên, quan hệ giữa Mỹ và Iran chỉ thực sự thăng hoa dưới thời của Tổng thống Richard Nixon. Vị trí địa chính trị - địa kinh tế đặc biệt quan trọng của Iran cùng với sự ủng hộ của chính quyền Shah trong cuộc chiến chống lại cộng sản, đặc biệt là Chiến tranh Việt Nam đã tác động mạnh đến chính quyền của Tổng thống Richard Nixon. Nixon đưa Iran trở thành một trong hai trụ cột an ninh quan trọng nhất của Mỹ ở khu vực Trung Đông bên cạnh Saudi Arabia – Chính sách trụ cột song song (Twin pillars policy). Sự thăng hoa trong quan hệ Mỹ - Iran được thể hiện ở những chuyến thăm giữa nguyên thủ hai nước cũng như các bản ghi nhớ hợp tác quan trọng (Hiệp định quân sự năm 1968, Hiệp định quân sự 1972, Hiệp định kinh tế 1975). Mỹ còn chủ trương giảm thu thập thông tin tình báo liên quan đến các vấn đề nội bộ của Iran cũng như tin tưởng Nhà vua Iran hơn bởi “nỗ lực của chính quyền này trong việc đàn áp cuộc nổi loạn của những người cộng sản tại Dhofar cũng như nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng và bởi sự ủng hộ cao của Shah đối với các hoạt động chính trị, quân sự của Mỹ ở Trung Đông cũng như ở Việt Nam” [177; tr.311].
Về an ninh - quân sự, Mỹ coi Iran là trụ cột chính cùng với Saudi Arabia để đảm bảo an ninh ở Trung Đông (Twin pillars Policy), trong đó trọng tâm là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào Arab cấp tiến trong khu vực. Mỹ tăng cường tiềm lực quân sự của Iran bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó bao gồm: lôi kéo Iran vào các tổ chức quân sự do Mỹ cầm đầu, viện trợ quân sự, các hợp đồng bán vũ khí và tham gia vào hoạt động cố vấn quân sự, đào tạo binh lính Iran.
36
Ở biện pháp đầu tiên, Mỹ lôi kéo Iran vào trong các liên minh quân sự khu vực. Tháng 10 năm 1955, Iran gia nhập vào khối Hiệp ước Baghdad do Mỹ đỡ đầu. Năm 1958, Iraq - một thành viên trong khối tuyên bố rút khỏi Hiệp ước Baghdad sau cuộc cách mạng dân chủ trong nước diễn ra và thành công, lật đổ chế độ bảo thủ của Nhà vua Faisal III. Mỹ tiếp tục chủ trương nối tiếp Baghdad bằng một khối liên minh quân sự mới mang tên: Tổ chức Hiệp ước Trung tâm CENTO (the Central Treaty Orgnization). Vua Mohammad Reza Pahlavi quyết định tiếp tục tham gia CENTO và trở thành một đồng minh quân sự chiến lược của Washington.
Ở biện pháp thứ hai, Mỹ tiến hành viện trợ quân sự ồ ạt cho Iran trong bối cảnh phong trào Arab cấp tiến đang phát triển rầm rộ ở khu vực Trung Đông. Phần lớn viện trợ quân sự của Mỹ cho Iran được triển khai dưới Chương trình trợ giúp quân sự - MAP (the Military Assistance Program) [181; tr.5]. Viện trợ trực tiếp cho Iran được chia làm hai hình thức: cho vay quân sự (military loan) và viện trợ quân sự không hoàn lại (military grant). Từ năm 1950 - 1970, Iran là quốc gia được hưởng nhiều tiền viện trợ quân sự nhất trong khu vực Trung Đông với 1,3 tỷ USD, bỏ xa đồng minh chiến lược khác của Mỹ là Israel với 277,3 triệu USD [220; tr.23]. Điều này đã khẳng định vị thế quan trọng của Iran trong chính sách của Mỹ ở khu vực Trung Đông.
Với biện pháp thứ ba, Mỹ tăng cường bán vũ khí quân sự cho Iran. Mỹ đã ký kết nhiều hiệp định, thỏa thuận liên quan đến việc bán vũ khí cho quốc gia Trung Đông này. Năm 1968, một bản ghi nhớ chung giữa hai nước được ký kết, trong đó Mỹ cam kết sẽ cung cấp vũ khí lâu dài cho các đơn hàng từ Iran. Theo đó, Iran sẽ được hưởng 30% lượng vũ khí Mỹ xuất khẩu ra nước ngoài, lớn hơn cả Israel [275; tr.98]. Năm 1972, một hiệp định hợp tác quân sự khác giữa Mỹ và Iran được ký kết. Theo nội dung của bản hiệp định này, chính quyền của Shah sẽ được phép mua sắm bất cứ loại vũ khí, hàng hóa quân sự nào mà Iran cần, trong đó bao gồm cả vũ khí hạt nhân [189; tr.125]. Hiệp định năm 1972 đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu vũ khí của Mỹ sang Iran. Chỉ tính riêng năm 1973, giá trị các hợp đồng quân sự Mỹ bán cho Iran đạt ngưỡng hơn 2,1 tỉ USD, vượt xa Israel và chiếm 2/3 giá trị các hợp đồng quân sự dành cho toàn bộ khu vực Trung Đông [220; tr.23].
Đối với biện pháp thứ tư, Mỹ tích cực tham gia hỗ trợ cho công tác huấn luyện, hiện đại hóa quân đội Iran thông qua hệ thống cố vấn. Sự hiện diện của các cố vấn Mỹ đã bắt đầu từ trước khi quan hệ Mỹ - Iran trở nên gắn kết chặt chẽ6. Các nhóm cố vấn chủ chốt bao gồm: Phái đoàn hỗ trợ Lực lượng Hiến binh Hoàng gia Iran (US Military Mission to the Imperial Iranian Gendarmarie - GENMISH), Chỉ huy phái đoàn quân sự Mỹ ở Iran (US Army Mission Headquarters - ARMISH), Nhóm trợ giúp cố vấn quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG), Các nhóm hỗ trợ kỹ thuật (Technical Assistance Field Teams - TAFTs) [71; tr.34]. Ước tính đến năm 1973, có khoảng 3.600 cố vấn Mỹ làm việc trong các dự án liên quan đến quốc phòng. Chỉ sau đó 5 năm, số lượng cố vấn Mỹ ở Iran đã tăng lên gần gấp 3 với 10.000 sỹ quan Mỹ [194; tr.69]. Các nhóm cố vấn này đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường ảnh hưởng của Mỹ và quân đội Mỹ ở Iran trong suốt một thời gian dài.
6 Mỹ bắt đầu đưa các cố vấn quân sự vào Iran từ năm 1943, sau khi hai nước ký Hiệp định quân sự đầu tiên.
37
Không thể phủ nhận, với sự hỗ trợ của các phái đoàn cố vấn Mỹ, lực lượng quốc phòng an ninh của Iran có những biến chuyển lớn cả về lượng và chất. Một trong những minh chứng cụ thể nhất là sự ra đời và hoạt động của lực lượng an ninh SAVAK của Iran. SAVAK - lực lượng an ninh lớn nhất Iran lúc bấy giờ được coi là
một sản phẩm từ các cố vấn Mỹ. Các nhân viên của CIA đã trực tiếp tham gia vào quá trình lên kế hoạch thành lập lực lượng An ninh quốc gia Iran SAVAK (1956) [58; tr.1]. Từ năm 1957 đến năm 1961, CIA còn trực tiếp chịu trách nhiệm chính trong việc huấn luyện lực lượng an ninh này [57; tr.1]. SAVAK được đánh giá là một công cụ quan trọng của Nhà vua Iran trong việc đảm bảo sự an toàn của chế độ cũng như thủ tiêu những lực lượng đối địch và cũng quân bài quan trọng của CIA trong việc đảm bảo an ninh cho toàn bộ khu vực vùng Vịnh. Một trong những thành tựu quan trọng mà SAVAK đã đạt được đó là đẩy lùi sự phát triển của Đảng Tudeh và chủ nghĩa cộng sản ở Iran. SAVAK đã mở nhiều chiến dịch truy quét những người cộng sản Iran trên khắp cả nước. Kết quả là phần lớn các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tudeh đã bị lực lượng SAVAK bỏ tù, số còn lại lưu vong ở nước ngoài [196; tr.48]. Rõ ràng, vai trò của lực lượng cố vấn Mỹ ở Iran là rất quan trọng. Họ không chỉ duy trì ảnh hưởng của Mỹ ở Iran, cố kết quan hệ giữa chính quyền Mỹ và chế độ của Shah mà còn góp phần biến Iran thành một trong những quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh nhất ở Trung Đông lúc bấy giờ.
Về kinh tế, viện trợ và tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư được xem là những biện pháp quan trọng nhất thúc đẩy sự lệ thuộc của chính quyền vua Reza Pahlavi vào nước Mỹ.
Viện trợ kinh tế được coi là con đường ngắn nhất để Mỹ trói buộc chế độ của Shah vào nước Mỹ. Năm 1953, sau khi lật đổ chính phủ tiến bộ của Thủ tướng Mohammad Mossadegh, khôi phục quyền lực cho Shah, Mỹ bắt đầu cung cấp một lượng lớn viện trợ kinh tế cho Iran. Ngay sau cuộc đảo chính năm 1953, chính quyền Eisenhower đã viện trợ khẩn cấp cho Shah 600 triệu USD dưới dạng viện trợ kinh tế và 4,5 triệu USD viện trợ quân sự [206; tr.55]. Từ năm 1953 – 1961, viện trợ kinh tế của Mỹ dành cho Iran đạt 548,1 triệu USD, trong đó trợ cấp chiếm phần lớn với 351,1 triệu USD, còn lại 197 triệu là viện trợ dưới dạng cho vay (phải trả) [194; tr.44]. Viện trợ kinh tế tăng mạnh nhất dưới thời của Tổng thống Richard Nixon. Chẳng hạn, chỉ tính riêng năm 1972, viện trợ kinh tế của Mỹ cho Iran đạt 1,2 tỷ USD, trong đó chỉ có 401 triệu USD phải trả lại [89; tr.11].
7 Tháng 3/1975. Mỹ và Iran chính thức ký kết hiệp định kinh tế. Với bản hiệp định này, Mỹ khẳng định quan điểm luôn coi Iran là một trong những đồng minh quan trọng nhất ở Trung Đông, cả về kinh tế. Theo những cam kết của bản hiệp định, Iran sẽ dành ra 15 tỷ để nhập khẩu các hàng hóa từ Mỹ trong đó 5 tỷ được dùng trong thương mại thông
38
Bên cạnh viện trợ kinh tế, Mỹ cũng tăng cường trao đổi thương mại, mở rộng hợp tác và đầu tư ở Iran. Quan hệ thương mại giữa hai nước tăng nhanh kể từ sau cuộc đảo chính năm 1953. Điều này được phản ánh trong nhiều chỉ số, trong đó là kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước. Vào năm 1963, Iran nhập khẩu lượng hàng hóa trị giá 103,7 triệu USD từ Mỹ (trong khi đó Mỹ chỉ nhập khẩu từ quốc gia Trung Đông này 40,4 triệu USD). Bước sang thập niên 1970, hợp tác kinh tế với Iran được đẩy mạnh7. Năm 1978 được coi là đỉnh cao trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Mỹ và Iran.
Đầu tư kinh tế của Mỹ vào Iran đạt 682 triệu USD, số lượng công dân Mỹ làm việc ở Iran đạt 50.000 người, lượng hàng hóa Mỹ xuất sang Iran (không bao gồm hàng hóa quân sự) đạt 12,7 tỷ USD, đưa Mỹ trở thành nhà cung cấp hàng hóa lớn thứ hai tại thị trường Iran [194; tr.75]. Dầu mỏ được coi ngành kinh tế quan trọng nhất trong chiến lược hợp tác, đầu tư của Mỹ ở Iran. Cùng với Nhật Bản, Mỹ là một trong những bạn hàng lớn nhất của Iran trong xuất khẩu dầu mỏ. 15% lượng dầu nhập khẩu của Mỹ đến từ Iran [194; tr.75]8. Như vậy, có thể nói, trong giai đoạn Mỹ - Iran là đồng minh, Mỹ là đối tác thương mại hàng đầu của Iran. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, chính sách kinh tế của Mỹ đối với Iran, đặc biệt là viện trợ kinh tế chủ yếu phục vụ cho các mục tiêu chính trị của Mỹ. Viện trợ kinh tế khiến chính quyền Nhà vua Iran ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào Mỹ. So với nhiều quốc gia Arab tại khu vực Trung Đông, Iran có đường lối thân Mỹ rõ ràng nhất và thường xuyên đứng về phía Mỹ mỗi khi Trung Đông dậy sóng.
Liên quan đến chương trình phát triển hạt nhân của Iran, bắt đầu từ cuối thập niên 50, khi Iran còn là đồng minh chiến lược của Mỹ ở khu vực Trung Đông, quốc gia này đã khởi động việc nghiên cứu, phát triển công nghệ hạt nhân và nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía Mỹ. Trong giai đoạn từ năm 1953-1979, với tư cách là một đồng minh, Mỹ tích cực ủng hộ chương trình nghiên cứu hạt nhân vì “mục đích hòa bình” của Iran, thậm chí Mỹ còn cung cấp các trang thiết bị, chuyển giao công nghệ nghiên cứu hạt nhân cho Iran.
Năm 1957, Mỹ và Iran đã ký một thỏa thuận quan trọng, đặt nền móng cho sự hợp tác giữa hai quốc gia trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển hạt nhân. Ngay sau bản thỏa thuận, Mỹ đã cung cấp cho Iran lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ 5 - megawatt. Năm 1967, lò phản ứng này được đưa vào hoạt động trong Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân Tehran (The Tehran Nuclear Reserch Center) [73; tr.100]. Không những vậy, 93% uranium đã được làm giàu sử dụng trong lò phản ứng này là do Mỹ cung cấp. Ngày 13/3/1969, Nhà Trắng gia hạn Hiệp định hợp tác liên quan đến Sử dụng dân sự năng lượng nguyên tử (the Agreement for Cooperation concerning Civil Uses of Atomic Energy of 1957) thêm 10 năm nữa, đồng thời đẩy mạnh việc hỗ trợ cho chính quyền của Nhà vua Iran cả về cơ sở lý thuyết, nguyên liệu và các thiết bị được sử dụng trong nghiên cứu và phát triển hạt nhân.
thường, 5 tỷ dành cho việc mua sắm vũ khí và các dịch vụ liên quan và phần còn lại được dùng trong các dự án phát triển Iran, trong đó có chương trình hạt nhân [194; tr.75]. Đổi lại, Iran sẽ được phép tăng lượng dầu thô và các chế phẩm xuất khẩu sang Mỹ, khoảng 40 tỷ USD trong 5 năm từ năm 1975 – 1980 (riêng dầu thô khoảng 14 tỷ USD) [138; tr.6]. Hiệp định hợp tác đã ngay lập tức phát huy hiệu quả, đầu tư của Mỹ vào Iran đạt 1,2 tỷ USD vào năm 1975. 8 Bên cạnh nhập khẩu dầu mỏ, chính quyền Mỹ cũng khuyến khích các công ty Mỹ đầu tư vào ngành dầu mỏ của Iran. Hai mươi tư công ty Mỹ là đối tác của Công ty Dầu mỏ Quốc gia Iran (National Iranian Oil Company - NIOC) tại 11 các mỏ dầu nhượng quyền và 11 công ty Mỹ chiếm giữ 40% cổ phần tại các mỏ dầu quốc tế ở Iran. Ước tính, hoạt động đầu tư của các công ty Mỹ vào ngành dầu mỏ Iran đạt 900 triệu USD vào giữa thập niên 70 của thế kỷ trước [194; tr.75]. Tư bản Mỹ kiếm được những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc đầu tư vào ngành dầu mỏ của Iran.
39
Bước sang đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, Mỹ là quốc gia ủng hộ mạnh mẽ
nhất việc Iran phát triển các chương trình hạt nhân lên những nấc thang mới. Chính phủ Mỹ khuyến khích Iran sử dụng năng lượng hạt nhân và đưa ra những lời đề nghị với các công ty của Mỹ nhằm phát triển lĩnh vực này. Viện nghiên cứu Standford (the Stanford Research Institute) của Mỹ được cho là đã có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch xây dựng hơn hai mươi lò phản ứng hạt nhân của nhà vua Iran. Năm 1975, Tổ chức năng lượng nguyên tử Iran đã ký một Thỏa thuận với Viện Kỹ thuật Massachusetts (Massachusetts Institute of Technology) để đào tạo các nhà khoa học nguyên tử của Iran [73; tr.100]. Cũng trong năm 1975, Mỹ và Iran đã ký một thỏa thuận liên quan đến việc chuyển giao 8 lò phản ứng hạt nhân trị giá 6,4 tỷ USD. Phái đoàn năng lượng nguyên tử Mỹ sẽ cung cấp nhiên liệu cho 2 lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ và ký một điều khoản thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp nguyên liệu theo yêu cầu của phía Iran cho 6 lò phản ứng hạt nhân bổ sung với mức điện năng sản xuất ra là 8000 megawatts [73; tr.103]. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thập niên 1970, giữa Mỹ và Iran lúc này có một số bất đồng trong quan điểm liên quan đến yếu tố bảo an trong chương trình hạt nhân của Iran. Do vậy, Mỹ quyết định tạm dừng việc hỗ trợ cho Iran vào tháng 8/1976.
Rõ ràng, với những phân tích vừa nêu, có thể thấy Mỹ có một vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng những nền móng đầu tiên cho chương trình nghiên cứu và phát triển hạt nhân ở Iran. Chính Mỹ đã cung cấp những lò phản ứng hạt nhân đầu tiên cho Iran. Cũng chính Mỹ là quốc gia cung cấp uranium đã làm giàu cho các nghiên cứu của Tehran. Sự giúp đỡ của Mỹ và một số quốc gia khác (Pháp, Đức…) đã tạo nền móng để Iran có được trình độ phát triển hạt nhân như hiện nay. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Iran trong giai đoạn hiện nay có một phần trách nhiệm của chính quyền Mỹ với chính sách khuyến khích Iran theo đuổi chương trình hạt nhân trong quá khứ.
40
Như vậy, trước năm 1979, Iran đã có một vị trí rất quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong chuyến công du đến Iran cuối năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter đã ngợi ca “Iran là một vùng đất ổn định giữa một trong những khu vực bất ổn nhất thế giới” [124; tr.1], đồng thời coi Iran là một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông. Cùng với Saudi Arabia, Iran đóng vai trò là một trong trụ cột song song trong chính sách an ninh của Mỹ ở Trung Đông (Twin pillars Policy), hỗ trợ Mỹ đàn áp phong trào cách mạng trong khu vực. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, việc Mỹ biến Iran thành một đồng minh chiến lược trước hết để phục vụ cho những tính toán và lợi ích của người Mỹ ở Trung Đông. Mỹ sử dụng chính quyền vua Shah như một công cụ hiệu quả để chống lại Liên Xô, chống lại chủ nghĩa cộng sản cũng như chủ nghĩa Arab cấp tiến, duy trì một trật tự có lợi cho Mỹ. Chính sách này sớm bộc lộ những hạn chế. Những đồng đô la viện trợ của Mỹ cho chính quyền Shah chủ yếu để đảm bảo sự tồn tại của chính quyền này chứ không phục vụ cho lợi ích của đại đa số người dân Iran. Sự can dự quá sâu của Mỹ vào tình hình nội bộ của Iran cũng như thái độ thân phương Tây của
chính quyền nhà vua Iran đã tạo ra những mầm mống chống Mỹ, chống sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc ở Iran. Nhiều người Iran cho rằng chính quyền của nhà vua Reza Palhavi là “bù nhìn” cho Mỹ ở khu vực Trung Đông. Cuộc cách mạng Islam bùng nổ vào năm 1979 ở Iran là kết quả của quá trình tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân Iran và liên minh Shah – Mỹ. Mục tiêu của nhân dân Iran lúc bấy giờ không chỉ dừng lại ở việc lật đổ chính quyền quân chủ mà còn cắt đứt sự lệ thuộc của Iran vào Mỹ cả về kinh tế, chính trị lẫn an ninh, vươn lên trở thành một quốc gia hùng mạnh ở khu vực Trung Đông. Những sai lầm chiến lược trong chính sách của Mỹ đối với Iran trước năm 1979 là bài học đắt giá để các chính quyền Mỹ sau đó nhìn nhận và thay đổi lại cách tiếp cận trong các vấn đề liên quan đến Iran.
2.2.2. Tiềm lực quốc gia và chiến lược toàn cầu của Mỹ Cần phải khẳng định rằng Mỹ là một siêu cường xét trên tất cả các bình diện kinh tế - chính trị - quân sự. Trong Chiến tranh lạnh, Mỹ - Xô là hai siêu cường có sức mạnh vượt trội so với phần còn lại của thế giới, đứng đầu hai khối Tây - Đông và đối địch gay gắt. Tuy nhiên, từ sau 1991, với sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới với tham vọng xây dựng một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo.
Sức mạnh vượt trội của Mỹ trước hết thể hiện ở lĩnh vực kinh tế. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến năm 2016, Mỹ liên tục đứng ở vị trí số một trong nền kinh tế toàn cầu. Năm 1979, tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ là 2,627 nghìn tỷ USD, bỏ xa nền kinh tế đứng thứ hai thế giới là Nhật Bản với 1,055 nghìn tỷ USD và xấp xỉ gần bằng toàn bộ GDP của các nước EC cộng lại (2,641 nghìn tỷ USD) [308]. Năm 2011, Mỹ vẫn tiếp tục khẳng định vị thế số một thế giới với GDP ước đạt 15 nghìn tỷ USD, gấp 1,3 lần so với Trung Quốc - cường quốc kinh tế đã soán ngôi số 2 từ tay Nhật Bản vào năm 2010 [260; tr.4]. Theo công bố mới đây của Ngân hàng thế giới, GDP của Mỹ năm 2016 cán mốc 18,7 nghìn tỷ USD [308], tiếp tục bỏ xa Trung Quốc với 11,1 nghìn tỷ USD [308]. Thu nhập bình quân trên đầu người (GDP/người) của Mỹ cũng được xếp vào hạng một trong những quốc gia cao nhất thế giới. Năm 2011, thu nhập của người dân Mỹ trung bình đạt khoảng 48.100 USD, gấp hơn 3 lần so với mức bình quân của thế giới (11.800 USD) [260; tr.4].
Mỹ cũng là quốc gia đứng đầu về đầu tư kinh tế trên phạm vi toàn thế giới. Theo Liên Hợp quốc, năm 2010, đầu tư ra nước ngoài của Mỹ ước đạt 227,8 tỷ USD, gần gấp đôi so với Đức - quốc gia có mức đầu tư ra nước ngoài lớn thứ hai thế giới với 125,4 tỷ USD [245; tr.196]. Tính đến năm 2014, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên 316,8 tỷ USD, bỏ xa hai quốc gia theo sau là Trung Quốc với 123,1 tỷ USD và Đức với 106,2 tỷ USD [245; tr.196].
41
New York tiếp tục giữ vững vị trí là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất trên toàn cầu dù chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ các trung tâm khác như London, Tokyo, Hong Kong hay Dubai. Với gần 51 nghìn tỷ USD tính đến năm 2005,
cổ phiếu tài chính của Mỹ (bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay và tiền gửi) nhiều hơn gấp đôi so với Nhật Bản - quốc gia có nền tài chính lớn thứ hai thế giới với khoảng 20 nghìn tỷ USD [235; tr.31]. Nếu so sánh với tổng số cổ phiếu 12 quốc gia EU (38 nghìn tỷ USD), Mỹ vẫn vượt trội hơn hẳn. Mọi biến động của nền kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung hầu như đều phản ánh qua sự lên xuống của giá cổ phiếu cũng như các giao dịch trên sàn chứng khoán tại trung tâm tài chính quan trọng này.
Sức ảnh hưởng của Mỹ không chỉ thể hiện khi thịnh vượng mà còn diễn ra ngay cả khi nền kinh tế Mỹ gặp khủng hoảng, suy thoái. Chẳng hạn như cơn sốc giá dầu vào năm 1979 đã kéo theo sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ trong suốt những năm 80 của thế kỉ trước. Từ Mỹ, cuộc đại suy thoái kinh tế đã lan ra các quốc gia châu Âu, Nhật Bản... tạo nên bức tranh kinh tế toàn cầu ảm đạm trong một thời gian dài. Hay vào năm 2008, cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu từ khủng hoảng tài chính - ngân hàng ở Mỹ đã lan ra khắp thế giới. 10.000 tỷ USD bị cuốn trôi, 30 triệu người mất việc, 50 triệu người quay lại chuẩn dưới nghèo là cái giá phải trả cho cuộc khủng hoảng 2008 [297]. Như vậy, có thể thấy rằng, kinh tế Mỹ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến kinh tế toàn cầu. Mọi diễn biến từ nền kinh tế Mỹ sẽ tác động trực tiếp đến nhiều quốc gia, khu vực trên khắp thế giới. Có nhiều suy đoán cho rằng, đến năm 2050, Trung Quốc sẽ soán ngôi đầu của Mỹ trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, cho đến nay, Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất thế giới với sức mạnh phủ sóng toàn cầu.
Không chỉ thể hiện sự vượt trội trong kinh tế, Mỹ còn được coi là siêu cường số một thế giới về quân sự. Mỹ đứng đầu thế giới về chi tiêu cho quốc phòng. Trong Chiến tranh lạnh, có thời điểm chi tiêu cho quốc phòng của Mỹ chiếm tới 9% GDP vào năm 1967. Đây là mức cao nhất trong lịch sử nước Mỹ, vượt xa mức bình quân của thế giới thời điểm đó là 6,9% [309]. Sự tăng vọt cho chi tiêu quốc phòng xuất phát từ chiến lược tăng cường chạy đua vũ trang với Liên Xô và sự sa lầy của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975). Chi tiêu quân sự của Mỹ sau năm 1991 có sự điều chỉnh rõ rệt, giảm đi rất nhiều so với giai đoạn trước đó. Nhưng Mỹ vẫn là quốc gia dành nhiều ngân sách cho quốc phòng nhất trên thế giới. Năm 1991, chi tiêu cho quốc phòng của Mỹ ở mức 504,4 tỷ USD [229; tr.3], bỏ xa các quốc gia khác trên thế giới. Năm 2016, chi tiêu quốc phòng của Mỹ là 612,8 tỷ USD, cao hơn rất nhiều so với quốc gia đứng thứ hai là Trung Quốc với 215,7 tỷ đô là và Nga ở vị trí số 3 với 82,5 tỷ USD [229; tr.17,18,20].
42
Mỹ sở hữu bom hạt nhân và kho vũ khí chiến lược lớn nhất thế giới. Sau khi ký kết nhiều hiệp định cắt giảm kho vũ khí hạt nhân với Liên Xô và sau này là với Nga, số lượng vũ khí hạt nhân của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới. Ngoài ra, Mỹ còn là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất thế giới. Số lượng vũ khí được bán ra của Mỹ chiếm 57% các hợp đồng bán vũ khí của thế giới [230; tr.2].
Không chỉ đứng đầu về những chỉ số chi tiêu quân sự và vũ khí, quân đội Mỹ cũng là một trong những đội quân đông đảo nhất trên thế giới, xếp thứ ba trên thế giới chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Theo một báo cáo lên Ủy ban Quốc hội Mỹ vào tháng 9/2007, quân đội Mỹ có khoảng xấp xỉ 2,3 triệu quân nhân bao gồm cả tại ngũ và lực lượng dự bị (gồm cả lực lượng Cảnh sát biển - Coast Guard) [253; tr.1]. Theo một số liệu khác vào năm 2009, Mỹ có 1.468.539 sĩ quan đang phục vụ trong quân đội (bao gồm 43.480 sĩ quan thuộc lực lượng Cảnh sát biển) [114; tr.11]. Quân đội Mỹ luôn được đánh giá cao về độ thiện chiến và hiệu quả trên chiến trường.
Ngoài ra, sức mạnh quân sự của Mỹ còn được phản ánh qua sự mở rộng không ngừng của các căn cứ quân sự của Mỹ trên khắp thế giới. Theo các thống kê chính thức, Mỹ có khoảng 909 cơ sở quân sự phân bố tại 46 quốc gia và vùng lãnh thổ [183; tr.1]. Các địa bàn trọng điểm trong bản đồ phân bố quân sự của Mỹ là châu Âu, khu vực Trung Đông và một số quốc gia, hòn đảo thuộc châu Á - Thái Bình Dương (bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và một số hòn đảo trên Thái Bình Dương…) [85; tr.2]. Chỉ tính riêng ở châu Âu (năm 2013), có khoảng 80.000 binh sĩ Mỹ đồn trú ở ở 39 căn cứ quân sự tại 15 quốc gia khác nhau [182; tr.20]. Còn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ có khoảng 49 căn cứ chính với 154.000 binh lính đang làm nhiệm vụ, đóng tại 8 quốc gia khác nhau [182; tr.25]. Các căn cứ quân sự ở nước ngoài giúp Mỹ có thể phản ứng nhanh trước bất cứ diễn biến bất thường nào gây hại cho an ninh của nước Mỹ cũng như các đồng minh của Mỹ. Chính vì thế, nhiều đồng minh ở châu Âu, vùng Vịnh, Đông Á… phải “trông cậy” vào sự bảo hộ an ninh từ Mỹ. Mỹ còn đứng đầu khối quân sự “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây dương” - NATO với tư cách là nhà tài trợ lớn nhất. Tổ chức này hiện được coi là liên minh quân sự lớn nhất hành tinh. Rõ ràng, sự phân bố rộng khắp có trọng điểm của các căn cứ quân sự của Mỹ cùng vị thế của Mỹ đối với các đồng minh đã thể hiện sức mạnh quân sự vượt trội của Mỹ so với phần còn lại của thế giới.
Ngoài dẫn dầu về kinh tế, quân sự, Mỹ cũng là quốc gia đi tiên phong trong khoa học kĩ thuật và công nghệ. Chi tiêu cho khoa học của Mỹ đứng đầu thế giới (xem phụ lục 8). Vào năm 2009, số tiền đầu tư cho khoa học công nghệ của Mỹ lên tới 365,9 tỷ USD, bỏ xa Trung Quốc ở vị trí số 2 với 140,6 tỷ USD [292]. Dù bị Trung Quốc vượt qua ở một số chỉ số, chẳng hạn như lượng xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến công nghệ thông tin (vào năm 2011, Trung Quốc đứng đầu thế giới với 508 tỷ USD, Mỹ xếp thứ hai với 140,6 tỷ USD) [292], nhưng không thể phủ nhận, Mỹ vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt sự phát triển của khoa học công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Thung lũng Silicon và các trường đại học hàng đầu ở Mỹ như Standford, Havard… vẫn được coi là những trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu thế giới. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật càng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của Mỹ, đặc biệt là trong kinh tế, trong quân sự, củng cố địa vị siêu cường số một thế giới của Mỹ.
43
Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy Mỹ đã và đang là siêu cường có sức mạnh
vượt trội so với phần còn lại của thế giới. Xuất phát từ sức mạnh và tiềm năng khổng lồ này, các lãnh đạo Mỹ luôn nuôi tham vọng “bá quyền” (hegemony) trong đó Mỹ ở vị thế của quốc gia lãnh đạo thế giới.
Để hiện thực hóa giấc mơ “bá quyền”, Mỹ đề ra Chiến lược toàn cầu và chiến
lược này có sự biến đổi để thích nghi với từng giai đoạn lịch sử.
Trong Chiến tranh lạnh (1947 - 1991), yếu tố Liên Xô và chủ nghĩa xã hội là phần quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Những mục tiêu chủ yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh có sự thống nhất tương đối, bao gồm: 1) Ngăn chặn, đẩy lùi tiến tới tiêu diệt Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản; 2) Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế; 3) Khống chế, chi phối các nước đồng minh của Mỹ. Chính sách chủ yếu mà Mỹ sử dụng trong chiến lược toàn cầu là chính sách thực lực. Mỹ sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, chính trị của mình để thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Trong các mục tiêu đề ra, ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu quan trọng nhất, chi phối đến nội dung cũng như cách thức triển khai của chiến lược toàn cầu của Mỹ trong nhiều thập kỉ.
Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), trật tự hai cực Ianta không còn nữa, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Và điều đó đã làm thay đổi căn bản chiến lược toàn cầu của người Mỹ. Tổng thống George W H Bush (Bush cha) đã kêu gọi về “một trật tự thế giới mới”, theo đó Mỹ sẽ lãnh đạo thế giới. Tư tưởng đó của George W H Bush được tiếp nối bởi người kế nhiệm Bill Clinton, George W Bush (con) và Barack Obama. Với tham vọng “lãnh đạo thế giới”, chính quyền Mỹ đã đẩy mạnh sự hiện diện, can dự vào nhiều khu vực trên khắp thế giới. Dù có những tên gọi là và cách thức triển khai khác nhau ở mỗi một đời Tổng thống, nhưng Chiến lược toàn cầu sau năm 1991 của Mỹ luôn tuân thủ nguyên tắc bảo vệ lợi ích của nước Mỹ và vị trí “bá chủ” toàn cầu của siêu cường này. Trong bản báo cáo “Đánh giá lại chiến lược phòng thủ toàn cầu năm 1997” (the 1997 Quadrennial Defense Review) của Bộ Quốc phòng Mỹ đã nhấn mạnh rằng chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm bảo vệ “quyền lãnh đạo toàn cầu bền lâu” của nước Mỹ bằng cách giảm thiểu những cơ hội cho các siêu cường mới, các khu vực, các cường quốc mới có thể nổi lên đe dọa đến nước Mỹ [174; tr.25]. Chiến lược toàn cầu có những nội dung cơ bản và bất biến như: củng cố mối quan hệ với các đồng minh trên khắp thế giới, đẩy lùi và tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố, ngăn chặn các quốc gia, chế độ bất hảo làm tổn hại tới lợi ích của nước Mỹ, phổ quát các giá trị của dân chủ. Trong chiến lược ấy, Trung Đông luôn là một phần quan trọng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của nước Mỹ.
44
2.2.3. Lợi ích và chính sách của Mỹ ở Trung Đông 2.2.3.1. Lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông Giới chính trị Mỹ cùng nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đều đồng thuận rằng Mỹ có những lợi ích đặc biệt quan trọng ở khu vực Trung Đông nói chung và Iran nói riêng.
Vào năm 1980, Ngoại trưởng Mỹ - Edmund Muskie đã nêu ra 3 lợi ích sống còn của Mỹ ở khu vực Trung Đông, bao gồm: “đảm bảo sự ổn định của khu vực, tránh để các cuộc xung đột lan rộng; bảo vệ sự thịnh vượng, hòa bình cho Israel; duy trì quan hệ hữu hảo với nhân dân Arab” [198; tr.2]. Còn theo ý kiến của hai nhà nghiên cứu Daniel Byman and Sara Bjerg Moller, “các lợi ích của Mỹ ở khu vực này được chia làm 5 điểm chính: đảm bảo sự thông suốt của hoạt động khai thác, vận chuyển và xuất khẩu dầu mỏ, ngăn ngừa sự phổ biến của vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, bảo vệ nhà nước Israel và cải thiện dân chủ trong khu vực” [52; tr.3]. Tương tự các ý kiến trên, nhóm nghiên cứu của RAND (Karl P. Mueller, Becca Wasser, Jeffrey Martini, Stephen Watts) cũng cho rằng Mỹ có những lợi ích mang tính truyền thống ở Trung Đông, đó là “đảm bảo sự lưu thông của các tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ và khí đốt), duy trì mối quan hệ với các đồng minh chủ chốt và bảo vệ các đồng minh đó trước các mối đe dọa từ bên ngoài và cuối cùng là đảm bảo quyền tiếp cận cho cách hoạt động quân sự của Mỹ ở Trung Đông” [291].
Từ ý kiến của các chính trị gia, các học giả đi trước, có thể thấy Trung Đông có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trung Đông có những lợi ích mà Mỹ không thể bỏ qua.
Trước hết là lợi ích về mặt chiến lược. Lợi ích chiến lược đó được hiểu sự kiểm soát của Mỹ đối với hoạt động thương mại, vận tải, giao thông đi lại giữa ba châu lục Á - Âu - Phi được thực hiện qua Trung Đông. Iran nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung là cửa ngõ của ba châu lục Á, Âu, Phi. Vị trí cửa ngõ ấy biến Trung Đông trở thành điểm tối quan trọng trên bản đồ địa chính trị thế giới. Nếu làm chủ được Trung Đông đồng nghĩa với việc nắm được điểm huyết mạch trên con đường đi lại và giao thương giữa ba châu lục Á - Âu - Phi. Sẽ không hề chủ quan khi cho rằng Trung Đông là trái tim của Đông bán cầu.
Bên cạnh vị thế cửa ngõ ba châu lục, khi nói về Trung Đông không thể không nhắc tới yếu tố biển ở đây. Sự hợp nhất giữa đất liền và biển ở Trung Đông đã tạo nên nét nổi bật cho vị trí của nó. Trung Đông là con đường quan trọng nối liền hai đại dương lớn của thế giới là Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Kênh đào Suez và eo biển Hormuz thuộc khu vực này được coi là những điểm huyết mạch trên con đường giao thông quốc tế.
Ở trên không, các tuyến đường trên không của khu vực Trung Đông cung cấp các chặng bay trực tiếp từ châu Âu sang châu Á và khu vực Thái Bình Dương. Tuyến đường bay Nam - Bắc từ Châu Âu đến Liên Xô cũng phải qua không phận của khu vực này [219; tr.60]. Tầm quan trọng của các tuyến đường hàng không qua Trung Đông ngày một tăng dần với sự tham gia của các quốc gia châu Á vào nền sản xuất và thương mại quốc tế cũng như các vấn đề mang tính toàn cầu khác.
45
Như vậy, dù là đất liền, dưới biển hay trên không, Trung Đông vẫn luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự kết nối giữa các châu lục cả về thương mại, vận
chuyển và giao thông. Với một quốc gia có tham vọng thống trị địa cầu như Mỹ thì chắc chắn không thể bỏ qua một khu vực chiến lược như Trung Đông, trong đó có Iran. Nếu Mỹ chi phối được khu vực này, Mỹ sẽ kiểm soát được con đường thương mại, vận chuyển hàng hóa và đi lại giữa ba châu lục cùng với những eo biển quan trọng nhất trên thế giới. Rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các đồng minh của Mỹ như các quốc gia EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… phụ thuộc vào hoạt động vận chuyển hàng hóa qua khu vực này. Có thể nói, lợi ích chiến lược này chính là động lực mạnh mẽ nhất để Mỹ nhảy vào can thiệp ở khu vực Trung Đông nói chung và ở Iran nói riêng.
Lợi ích sống còn tiếp theo của Mỹ ở Trung Đông là các lợi ích kinh tế, đặc biệt là dầu mỏ. Theo nhà nghiên cứu Anthony H. Cordesman, khu vực Trung Đông (685,6 tỷ thùng) chiếm 65,4% lượng dự trữ dầu thô của toàn thế giới (1.047,7 tỷ thùng) [75; tr.10]. Ở Mỹ, dầu mỏ không phải là tài nguyên khan hiếm. Theo công bố của EIA, tính đến năm 1979, trữ lượng dầu mỏ được tìm thấy của Mỹ là 29,81 tỷ thùng. Đến năm 2017, với việc phát hiện thêm nhiều mỏ dầu mới, con số này là 39,16 tỷ thùng dầu [284]. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, Mỹ có những lợi ích quan trọng liên quan đến nguồn “vàng đen” khổng lồ ở Trung Đông.
Thứ nhất, thông qua việc chi phối được nguồn cung, quá trình vận chuyển và giá dầu ở Trung Đông, Mỹ sẽ kiểm soát được nhiều cường quốc đang phụ thuộc vào nguồn cung dầu mỏ ở khu vực này.
Những khách hàng lớn nhất của ngành công nghiệp dầu mỏ Trung Đông là các cường quốc châu Âu (Đức, Tây Ban Nha, Italia…), Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Theo một báo cáo của Bộ ngoại giao Mỹ: “Mỹ và đặc biệt là các đồng minh của nó phụ thuộc lâu dài vào nguồn dầu nhập khẩu, một phần quan trọng trong đó đến từ vùng Vịnh. Các quốc gia vùng Vịnh cung cấp tới 25% lượng dầu cho thế giới hôm nay (những năm 1980)... Vào năm 1986, khoảng 30% lượng dầu nhập khẩu của các quốc gia Tây Âu đến từ vùng Vịnh. Con số này với Nhật Bản là 60%” [261; tr.2]. Từ năm 1990 đến năm 2002, các quốc gia Tây Âu đã nhập khẩu một lượng lớn dầu mỏ từ Trung Đông, chiếm 29 - 45% tổng lượng dầu nhập khẩu. Tương tự, lượng dầu mỏ của Trung Đông chiếm 65-76% lượng dầu nhập khẩu của Nhật Bản [75; tr.95]. Trung Quốc cũng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn cung dầu mỏ ở Trung Đông. Vào năm 1990, tỷ lệ dầu nhập từ Trung Đông chiếm 48% trong tổng số lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc. Đến năm 2011, con số này đã tăng thành 51% [165; tr.40]. Điều này nghĩa là hơn một nửa số dầu nhập khẩu của Trung Quốc đến từ Trung Đông. Theo đó, Saudi Arabia là nhà cung cấp lớn nhất của Trung Quốc (20%). Iran xếp thứ hai với 10% tổng lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc [165; tr.40].
46
Như vậy, trừ Trung Quốc, các khách hàng lớn còn lại của công nghiệp dầu mỏ Trung Đông đều là đồng minh của Mỹ. Nếu nguồn cung dầu ở Trung Đông bị gián đoạn, các cường quốc Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… sẽ chịu ảnh hưởng lớn, nguy cơ
đe dọa đến an ninh năng lượng cũng như sự phát triển kinh tế của các quốc gia này. Nói cách khác, việc kiểm soát nguồn dầu mỏ ở Trung Đông sẽ góp phần thắt chặt hơn nữa sự phụ thuộc của các đồng minh vào Mỹ. Ngay cả với trường hợp của Trung Quốc, nếu Mỹ có thể thao túng được hoạt động sản xuất khai thác, vận chuyển dầu mỏ ở Trung Đông, chắc chắn Trung Quốc cũng sẽ bị ảnh hưởng lớn, thậm chí phải đàm phán hoặc nhượng bộ Mỹ trong nhiều vấn đề quốc tế để có thể đảm bảo được nguồn cung cấp dầu ổn định từ Trung Đông.
Thứ hai, dầu mỏ ở Trung Đông, trong đó có Iran có một ý nghĩa rất lớn đối với
an ninh năng lượng của chính nước Mỹ.
Tài nguyên thiên nhiên không phải là thứ vô tận. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ đã dẫn đến nhu cầu rất lớn về dầu mỏ trong khi lượng cung là hữu hạn. Từ chỗ là một trong những quốc gia đi tiên phong trong ngành công nghiệp dầu mỏ và đứng số 1 thế giới về sản lượng dầu xuất khẩu trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, Mỹ ngày càng phụ thuộc chặt chẽ hơn vào các nguồn cung dầu từ nước ngoài, trong đó là các quốc gia ở khu vực Trung Đông. Nếu như vào thời điểm năm 1990, số lượng dầu nhập khẩu của Mỹ chỉ chiếm 18% sản lượng tiêu thụ thì đến thập niên 2000, lượng dầu nhập khẩu ngày càng tăng lên tới 20 – 35% (2010 – 35%) [263; tr.13] và giá dầu thì biến động liên tục. Chỉ tính riêng lượng dầu nhập khẩu từ Saudi Arabia đã chiếm 15% toàn bộ lượng dầu nhập khẩu của Mỹ [195; tr.12]. Nền kinh tế Mỹ trở nên nhạy cảm hơn với sự lên xuống của giá dầu. Minh chứng rõ nét nhất cho sự lệ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào dầu mỏ là cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1979. Cuộc cách mạng Islam năm 1979 và lệnh cấm nhập khẩu dầu mỏ từ Iran của Tổng thống Jimmy Carter được coi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1979 và suy thoái kinh tế Mỹ trong suốt thập niên sau đó. Trong hai năm từ năm 1979 đến năm 1981, mỗi thùng dầu nhảy vọt từ 14 USD lên 38 USD [91; tr.307], đưa đến cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài 30 tháng tại Mỹ. Giá năng lượng đi lên kéo theo lạm phát tăng mạnh. Năm 1980 lạm phát ở Mỹ đạt đỉnh với 13% [103; tr.350], buộc Cục Dự trữ Liên bang (FED) phải thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt tiền tệ. Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại với từ mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Dù kinh tế bắt đầu hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao 7,6% và đạt kỷ lục 9,7% vào 1982 [301]. Hậu quả của suy thoái tồi tệ đến nỗi các ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản xuất thép đều liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho tới tận khi cuộc khủng hoảng giá dầu tiếp theo kết thúc.
47
Rõ ràng, tăng trưởng kinh tế của Mỹ đã và đang có mối liên hệ mật thiết với giá dầu mỏ thế giới. Nguồn dầu nhập khẩu ngày càng có vai trò quan trọng đối với an ninh năng lượng của Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Trong khi đó, Iran và khu vực Vịnh Ba Tư được coi là rốn dầu của thế giới. Mỗi một diễn biến chính trị ở trong khu vực này sẽ tác động mạnh đến sự lên xuống của giá dầu thô thế giới. Chỉ cần một cơn sốc giá dầu có thể sẽ tạo ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Mỹ. Điều này buộc Mỹ
phải có những can thiệp phù hợp nhằm bình ổn giá dầu. Trong mắt của các chính trị gia Mỹ, Iran – với những thay đổi sâu sắc về cả thể chế chính trị lẫn đường lối đối ngoại sau năm 1979, trở thành một trong những “mối đe dọa” đến “hòa bình” ở Trung Đông. Chính vì thế, việc Mỹ ngăn chặn và kiềm chế Iran được coi là một việc làm bắt buộc trong nỗ lực chung nhằm giữ cho thị trường dầu mỏ ổn định.
Lợi ích quan trọng cuối cùng của Mỹ ở Trung Đông là đảm bảo an ninh cho các đồng minh chiến lược, đặc biệt là Israel. Bảo vệ nhà nước Do Thái và củng cố mối quan hệ với chính quyền Israel luôn là một ưu tiên trọng tâm của Mỹ ở Trung Đông. Mỹ chính là quốc gia tích cực vận động nhất để dọn đường cho sự ra đời của Nhà nước Do Thái vào ngày 14/5/1947. Israel trở thành đồng minh quan trọng bậc nhất của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Quốc gia Do Thái đóng vai trò như một “cảnh sát khu vực” hỗ trợ Mỹ kiểm soát trật tự ở Trung Đông, bảo vệ các lợi ích của Mỹ.
Với Saudi Arabia, vị thế của Saudi Arabia trong thế giới Arab là một trong những lí do quan trọng khiến Mỹ luôn coi trọng mối quan hệ với quốc gia vùng Vịnh này. Xây dựng được mối liên minh với Saudi Arabia cũng đồng nghĩa với việc Mỹ đã kết nối được với các quốc gia Arab khác ở Trung Đông, đặc biệt là khối GCC. Ngoài ra, dầu mỏ - nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất ở Saudi Arabia cũng là yếu tố thúc đẩy Mỹ liên minh với Saudi Arabia9. Saudi Arabia chính thức trở thành một đồng minh thân cận từ sau cuộc gặp lịch sử giữa Tổng thống Mỹ F. D. Roosevelt với Nhà vua Ibn Saud tháng 02/1945 tại hồ Great Bitter [38; tr.4]. Kể từ đó, Saudi Arabia luôn đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược của Mỹ, là cây cầu kết nối Mỹ với các quốc gia Arab khác, là đồng minh không thể thiếu trong cuộc chiến chống khủng bố cũng như đảm bảo trật tự ở khu vực Trung Đông.
9 các quốc gia Trung Đông sở hữu 54% trữ lượng dầu mỏ của thế giới trong Saudi Arabia chiếm tới 18%, cao nhất trong khối OPEC (tính đến năm 2010)
48
Ngoài ra không thể không kể đến các đồng minh Arab quan trọng khác như: Kuwait, Qatar, Jordan, UAE… Các quốc gia này đều có mối liên hệ mật thiết đối với chính quyền Mỹ, đặc biệt là trong hợp tác quốc phòng. Đối với những người đứng đầu nước Mỹ, đảm bảo an ninh cho các đồng minh cũng chính là đảm bảo cho vị thế, ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Do vậy, bảo vệ các đồng minh từ lâu cũng được coi là lợi ích sống còn của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Trong khi đó, chính sách của Iran sau năm 1979 đang trở thành mối đe dọa nguy hiểm đối với các đồng minh của Mỹ cũng như trật tự ở khu vực Trung Đông. Iran ủng hộ cho nhiều nhóm vũ trang Shi’ite có tư tưởng chống Israel kịch liệt (Hezbollah, Hamas…). Các nhóm này cũng gây ra những quan ngại đáng kể đối với Saudi Arabia cũng như các quốc gia nơi dòng Sunni nắm quyền. Các chính quyền Sunni lo sợ rằng, một cuộc cách mạng của những người Shi’ite có thể nổ ra làm lung lay địa vị thống trị của dòng Sunni như những gì đã diễn ra ở Iran năm 1979. Tham vọng vươn lên trở thành cường quốc khu vực của Iran cũng thách thức trật tự mà Mỹ muốn duy trì ở Trung Đông. Do đó, bảo vệ sự an toàn cho các
đồng minh, đặc biệt là Israel trước “mối đe dọa đến từ Iran” cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ vị thế của Mỹ ở trong khu vực.
2.2.3.2. Chính sách của chính quyền Mỹ đối với khu vực Trung Đông Chính sách của Mỹ đối với Iran nằm trong với chiến lược chung của Mỹ đối với
toàn bộ khu vực Trung Đông. Để có thể lý giải được những bước đi của Nhà trắng với Tehran, cần phải đặt trong chiến lược chung của Mỹ ở Trung Đông. Vậy chiến lược của Mỹ ở Trung Đông là gì? Chúng có tác động như thế nào đối với sự điều chỉnh chính sách của Mỹ với Iran sau năm 1979?
Trước năm 1991, khi Liên Xô vẫn là mối đe dọa hàng đầu đối với các lợi ích của
Mỹ và đồng minh, khi bóng đen Chiến tranh lạnh vẫn chi phối mạnh mẽ đến quan hệ
quốc tế, chính sách của Mỹ đối với Trung Đông tiếp tục bám sát ưu tiên chống lại sự
kiểm soát trực tiếp cũng như sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô đối với khu vực Trung Đông [261; tr.1]. Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, Mỹ đã triển khai nhiều
biện pháp khác nhau. Trong chính trị, Mỹ tăng cường liên minh với các quốc gia trong
khu vực, đặc biệt là Israel và Saudi Arabia; Tìm cách lật đổ các chính phủ chống đối
lại Mỹ; Bành trướng ảnh hưởng chính trị thông qua phổ biến các giá trị dân chủ ở
Trung Đông.
Tuy nhiên, khi Chiến tranh lạnh kết thúc, chính sách của Mỹ đối với Trung Đông
có nhiều thay đổi. Mục tiêu chống lại Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản ở Trung Đông
không còn nữa. Thay vào đó Mỹ đẩy mạnh “bá quyền” ở khu vực này với chiến lược
Đại Trung Đông. Một trong những văn kiện chính thức đề cập tới chiến lược Đại Trung
Đông là “Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ ở Trung Đông: Phân tích sau sự kiện
11/9/2001”. Theo đó, ưu tiên của nước Mỹ ở Trung Đông bao gồm: “Phổ biến các giá trị
tự do và dân chủ kiểu Mỹ; Cải cách các nước Arab theo hướng dân chủ hóa nhưng để thực hiện ý đồ chiến lược thực sự của mình là tạo ra lợi thế kiểm soát các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nhất là dầu mỏ và khí đốt ở khu vực này; Xa hơn nữa là nắm bắt và
hạn chế Trung Đông để kiểm soát sự phụ thuộc từ các đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ
là châu Âu và châu Á” [5; tr.241]. Bên cạnh những ưu tiên mới này, Mỹ tiếp tục một số
nhiệm vụ quan trọng mang tính truyền thống khác như: bảo vệ sự tồn tại của Israel, đảm bảo nguồn cung dầu ở Trung Đông luôn ổn định, từng bước loại bỏ các chế độ “bất hảo” không thuận theo Mỹ.
49
Bước sang hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, chính sách của Mỹ có một số điều chỉnh lớn nhằm thích nghi với những biến đổi của tình hình Trung Đông, đặc biệt là sự khủng hoảng chính trị - xã hội của các quốc gia Trung Đông dưới tác động của “Mùa xuân Arab”. Mỹ tìm cách cải thiện mối quan hệ với thế giới Islam; thúc đẩy tiến trình hòa bình Trung Đông giữa Israel và Palestine, gây sức ép buộc Israel tạm ngừng việc mở rộng các khu định cư tại các vùng đất của Palestine; tăng cường phối hợp với các đồng minh để giải quyết nhiều vấn đề ở Trung Đông thay vì chủ nghĩa đơn phương
của Bush; tiếp tục truyền bá dân chủ tự do nhưng thực hiện từ từ và phù hợp với bối cảnh khu vực; Cắt giảm sự hiện diện quân sự ở Trung Đông; Kiềm chế ảnh hưởng của Nga, Trung Quốc ở Trung Đông; Quan trọng hơn cả, Mỹ thay đổi các tiếp cận các vấn đề Trung Đông bằng “quyền lực thông minh” thay vì “quyền lực cứng” theo truyền thống [5; tr.248].
Nhìn chung, dù mang những tên gọi khác nhau, cách thức thực hiện có sự điều chỉnh nhưng chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông luôn thống nhất ở một điểm. Đó là phục vụ cho tham vọng bá quyền của Mỹ cũng như bảo vệ các lợi ích của Mỹ ở khu vực này. Tuy nhiên, trên con đường xây dựng bá quyền ở khu vực Trung Đông, Mỹ lại gặp phải một rào cản đáng kể, đó là Iran. Chiến lược của Mỹ mâu thuẫn sâu sắc với lợi ích của Iran ở khu vực Trung Đông. Điều đó đã biến Iran trở thành một trong những đối tượng hàng đầu mà Mỹ cần ngăn chặn, kiềm chế.
2.2.4. Tác động của các nhóm lợi ích đối với quá trình hoạch định chính sách
của Mỹ đối với Iran
Chính sách của Mỹ đối với các quốc gia, khu vực trên thế giới chịu sự chi phối đáng kể từ hoạt động vận động hành lang của các nhóm lợi ích. Vận động hành lang (lobby) là một đặc trưng của nền chính trị Mỹ. Vận động hành lang được hiểu là những hoạt động hậu trường chính trị trong đó người vận động hành lang sẽ thay mặt cho một nhóm lợi ích cụ thể trong xã hội tác động lên các nhà lập pháp, cầm quyền nhằm tạo ra hoặc thay đổi các chính sách hoặc nội dung hiến pháp theo hướng có lợi cho mình. Lịch sử của hoạt động này bắt đầu ngay từ khi nước Mỹ được thành lập và được Chính quyền Mỹ thừa nhận. Năm 1946, Đạo luật vận động hành lang (The Federal Regulation of Lobbying Act) chính thức được thông qua.
Liên quan đến chính sách của Mỹ với Iran, có khá nhiều nhóm lợi ích muốn tác động đến các quyết sách của chính quyền trong vấn đề Iran như: cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái và các nhóm lợi ích thân Israel, cộng đồng người Mỹ gốc Iran, các nhóm lợi ích thân Arab… Trong số đó, người Do Thái được cho là lực lượng có tác động mạnh mẽ nhất đến chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1979.
Người Do Thái là một cộng đồng nhỏ bé ở Mỹ. Năm 1990, có khoảng 5.515.000 [234; tr.429] người Do Thái sinh sống trên khắp nước Mỹ, chiếm khoảng 2,2% dân số nước Mỹ [305]. Tính đến năm 2016, số lượng người Do Thái ở Mỹ không biến động nhiều, tăng nhẹ lên con số 5.700.000 người [83 ; tr.274]. Tuy nhiên, vị thế và tầm ảnh hưởng của người Mỹ gốc Do Thái lại tỉ lệ nghịch với số lượng dân cư ít ỏi của họ. Người Do Thái được coi là bậc thầy về vận động hành lang trong nền chính trị ở Mỹ. Các lực lượng chính tham gia vào quá trình này bao gồm: các tổ chức vận động hành lang chuyên nghiệp (tiêu biểu nhất là AIPAC - Ủy ban các vấn đề công của người Mỹ gốc Do Thái), các chính trị gia gốc Do Thái, các trung tâm nghiên cứu tư vấn chính sách của người Do Thái và cộng đồng người Do Thái.
50
Liên quan đến chính sách của Mỹ với khu vực Trung Đông, cụ thể là Iran, cộng
đồng người Do Thái có xu hướng ủng hộ một chính sách cứng rắn, mạnh mẽ nhằm ngăn chặn và kiềm chế Iran trước hiện thực Iran ngày một lớn mạnh và có xu hướng đối đầu với Israel sau khi chính quyền cách mạng ở Iran được thiết lập vào năm 1979. Để đạt được mục tiêu thúc đẩy chính quyền áp đặt các chính sách cứng rắn đối với Iran, người Do Thái tiến hành vận động hành lang theo nhiều con đường: vận động Quốc hội, tác động đến Tổng thống, kiểm soát truyền thông và sử dụng ý kiến chuyên gia.
Với con đường vận động đầu tiên, người Do Thái cố gắng tạo ảnh hưởng lên Quốc hội Mỹ (bao gồm cả Thượng viện và Hạ viện). Các nhóm vận động của người Do Thái tìm cách can thiệp vào quá trình thảo luận và phê chuẩn chính sách của Quốc hội Mỹ nhằm duy trì các biện pháp cấm vận, ngăn chặn Iran trong bối cảnh quốc gia này đang nổi lên như là mối đe dọa cho sự phát triển của Israel ở Trung Đông. Lấy ví dụ, vào đầu những năm 90, AIPAC [190; tr.118]10 - tổ chức vận động hành lang lớn nhất của người Do Thái, được cho là có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy quốc hội Mỹ thông qua đạo luật trừng phạt Iran và Libya (ILSA - Iran and Libya Sanctions Act) [98; tr.138]. Đầu tháng 4 năm 1995, tổ chức này đưa ra một chương trình hành động quan trọng trong đó thúc đẩy chính quyền Mỹ thắt chặt hơn nữa chính sách cấm vận hiện hành chống lại Iran. Chương trình này sau đó được Thượng nghị sĩ của New York - Alfonse D’Amato hưởng ứng. Từ những gợi ý của AIPAC, Alfonse D’Amato đã đề xuất trước Quốc hội về việc cấm nhập khẩu dầu mỏ từ Iran cũng như tạm ngưng các giao dịch thương mại khác với quốc gia Trung Đông này (9/1995) và nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của cả hai viện trong quốc hội Mỹ. Đến tháng 8/1996, Tổng thống Bill Clinton đã thông qua đạo luật cấm vận Iran và Libya. Lệnh cấm vận Iran chính thức có hiệu lực. Như vậy, chiến dịch vận động dài hạn của AIPAC đã dành được thắng lợi. AIPAC đã tác động đến những cá nhân chủ chốt trong quốc hội và biến những ý tưởng trên giấy trở thành những đạo luật chống lại Iran trên thực tế. Nhà nghiên cứu Alex Adwards đã đánh giá rằng nếu không có sự vận động của những người Do Thái mà trực tiếp là tổ chức AIPAC thì Lệnh cấm vận Iran năm 1996 khó có thể được thông qua với sự đồng thuận cao của cả Quốc hội và Nhà Trắng.
51
Bên cạnh tác động lên Quốc hội Mỹ, vận động Tổng thống cũng được những người Do Thái tích cực thực hiện. Lấy ví dụ, người Do Thái và đặc biệt là AIPAC có ảnh hưởng khá lớn đến quá trình tranh cử cũng như các quyết sách của Tổng thống Mỹ George H Bush. Khi còn là một ứng cử viên Tổng thống George Bush đã sớm thể hiện quan điểm ủng hộ Israel cũng như giữ mối quan hệ gần gũi với các tổ chức Do Thái ở Mỹ như AIPAC, các tổ chức Công giáo ủng hộ cho phong trào Do Thái (the Christian Zionists). Kết quả là 40% số phiếu bầu cho Bush đến từ cộng đồng những người Thiên 10 AIPAC - Ủy ban các vấn đề công của người Mỹ gốc Do Thái (The American Israel Public Affairs Committee) là tổ chức vận động hàng lang lớn nhất của người Do Thái ở Mỹ . Tiền thân của AIPAC là tổ chức Ủy ban các vấn đề công của người Do Thái ở Mỹ (The American Zionist Committee for Public Affairs) được thành lập vào năm 1951 bởi I L Si Kennen. Đến năm 1959, tổ chức được đổi tên như hiện nay. Mục đích hoạt động của AIPAC là tiến hành vận động lên chính quyền cũng như công luận Mỹ để dọn đường cho những chính sách có lợi cho Israel. Kennen, cha đẻ của tổ chức này cũng từng thừa nhận mục đích này khi tuyên bố: “AIPAC là một tổ chức vận động hành lang ở Mỹ”.
chúa có xu hướng ủng hộ phong trào Do Thái (Zionism) [175; tr.193-195]. Đổi lại, những lãnh đạo của các tổ chức Công giáo này được phép tiếp cận với Tổng thống và các cố vấn của ông ấy. Sau sự kiện khủng bố kinh hoàng ngày 9/11, các tổ chức vận động Do Thái tăng cường tuyên truyền về chống khủng bố, chống lại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Những quan điểm này đã góp phần củng cố thêm cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại dưới thời của George H Bush, đó là đẩy mạnh cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu bên cạnh việc răn đe trừng phạt các quốc gia mà Mỹ cho là “hậu thuẫn cho khủng bố” như Iraq, Iran, Syria... Liên quan trực tiếp đến vấn đề Iran, Năm 2002, Tổng thống Bush xếp ba quốc gia Iran, Iraq và Triều Tiên vào liên minh ma quỷ (Axis of Evil). Bush tăng cường gây áp lực lên Iran với những cáo buộc liên quan đến chương trình hạt nhân của nước này. Bush duy trì chính sách trừng phạt khi gia hạn hiệu lực của Đạo luật trừng phạt Iran - Libya (ILSA) thêm 5 năm (tính từ năm 2002).
Ngoài hai biện pháp trên, những người Do Thái còn tác động lên quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ thông qua việc kiểm soát truyền thông. Người Do Thái được coi là một thế lực có ảnh hưởng lớn trong ngành truyền thông ở Mỹ, đặc biệt là ở Hollywood - kinh đô điện ảnh của thế giới. Nhiều thương hiệu truyền thông lớn thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản Do Thái, bao gồm: Tập đoàn AOL Time Warner,Walt Disney, Viacom, New World Entertainment, Universal… Các tập đoàn này sở hữu các hàng sản xuất và phát hành phim nổi tiếng khắp thế giới như: MGM, Paramount, Twentieth Century - Fox, Warner Bros, Columbia, Univesal [36; tr.8]… Về lĩnh vực in ấn, báo chí, người Do Thái tuy chỉ sở hữu khoảng 3% [191; tr.61] thị phần nhưng phần lớn trong số đó là các hãng in, các tờ báo, tạp chí có uy tín. “The New York Times” là một trong những tạp chí điển hình và nổi bật nhất nằm trong sự kiểm soát của người Do Thái. Với lợi thế nắm giữ nhiều kênh truyền thông uy tín và phổ biến, người Do Thái có thể dễ dàng tuyên truyền những nội dung chứa đầy định kiến về Iran và thế giới Islam. Những thông tin bất lợi cho Iran trên truyền thông phần nào tác động đến công luận Mỹ cũng như chính quyền nước này, cổ súy cho chính sách cứng rắn với Tehran trong suốt bốn thập niên qua.
Bên cạnh đó, người Do Thái cũng tích cực mở các trung tâm nghiên cứu, tích cực sử dụng ý kiến chuyên gia nhằm cố vấn chính quyền, tuyên truyền trong cộng đồng. Có thể kể một vài trung tâm nghiên cứu khoa học uy tín do người Do Thái lập ra ở Mỹ như: Jewish Institute for National Security Affairs (JINSA), The Middle East Forum (MEF) và WINEP. Các trung tâm nghiên cứu này có một ảnh hưởng đáng kể đến giới chính trị ở Mỹ. Chẳng hạn như WINEP được cho là có nhiều ảnh hưởng tới quan điểm và chính sách của Tổng thống George W. Bush đối với Iran, góp phần thúc đẩy Bush lựa chọn một chính sách đối đầu với Iran.
52
Với nỗ lực bền bỉ và lâu dài, người Do Thái đã tạo được ảnh hưởng đáng kể lên chính trường Mỹ, trong đó có vấn đề Iran. Sự vận động của người Do Thái được cho là một trong những nguyên nhân quan trọng và chủ yếu dẫn đến sự ra đời của đạo luật cấm vận Iran - Libya (ILSA) năm 1996. Ảnh hưởng của người Do Thái cũng là một
trong những lí do giải thích cho chính sách cứng rắn của chính quyền George W Bush đối với Tehran trong suốt 8 năm cầm quyền của ông. Và gần đây nhất, sự vận động không ngừng nghỉ của AIPAC và những người Mỹ gốc Do Thái được cho là một trong những cơ sở thúc đẩy Tổng thống Donald Trump rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân với Iran, đồng thời áp đặt trở lại các lệnh cấm vận, tạo nên sức ép tối đa đối với quốc gia Islam giáo này.
Trong khi người Mỹ gốc Do Thái ra sức vận động chính quyền Mỹ xiết chặt thêm chính sách cấm vận với Iran, người Mỹ gốc Iran dường như không quan tâm nhiều đến vấn đề này. Người Iran ở Mỹ cũng là một cộng đồng rất nhỏ bé. Theo số liệu thống kê chính thức, năm 2000, số người Iran sinh sống ở Mỹ khoảng 330.000 người. Sau mười năm, con số này tăng nhẹ khoảng 450.000 người. Trong các cuộc bầu cử, người Mỹ gốc Iran không thể tạo được những lá phiếu đại cử tri quan trọng, ảnh hưởng tới kết quả bầu cử giống người Do Thái. Họ cũng không có những tổ chức vận động hành lang lớn như AIPAC của người Do Thái. Hơn thế nữa, phần lớn người Iran sinh sống ở Mỹ hiện nay là những người di cư, tị nạn sau khi cách mạng Islam bùng nổ. Thậm chí, nhiều người Mỹ gốc Iran, đặc biệt là những người đến Mỹ sau năm 1979 có tư tưởng đối lập với chế độ chính trị hiện thời ở Iran. Theo nhà nghiên cứu Alex Edwards, “phần lớn người Mỹ gốc Iran giữ mối liên hệ hết sức phức tạp, khó đoán định đối với quê hương, họ nghi ngờ chính quyền Iran và chính sách của chính quyền này” [98; tr.135]. Do đó, một bộ phận không nhỏ người Mỹ gốc Iran cũng đồng tình với việc chính quyền Mỹ áp đặt những chính sách cấm vận với Tehran với mong muốn cải thiện được nhân quyền, dân chủ ở quê hương.
Cũng có xu hướng ủng hộ một chính sách cứng rắn với Iran sau năm 1979 là nhóm cử tri Arab và các công ty, các tập đoàn có quan hệ với các quốc gia Arab. Trong mắt nhiều người Arab ở Mỹ, Iran là một phần khác biệt trong thế giới Islam bởi ngôn ngữ và dòng Islam shi’ite đang thống trị ở quốc gia này. Thêm vào đó, chính sách đối ngoại của Iran sau năm 1979 đe dọa trực tiếp tới sự thống trị của những người Sunni ở Trung Đông. Chính vì thế, chính quyền Iran không giành được nhiều thiện cảm với những người Arab đang sinh sống ở Mỹ. Tuy không có những tổ chức vận động hành lang lớn như người Do Thái, nhưng người Arab lại có một cách khác để tác động đến quá trình hoạch định chính sách của chính quyền Mỹ với Iran nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung, đó là các tập đoàn, nhóm lợi ích thân Arab (the Pro – Arab lobby). Các nhóm này được cho là có tác động lớn trong việc vận động chính quyền Mỹ thông qua kế hoạch bán máy bay trinh thám AWACs cho Saudi Arabia - đối thủ chính của Iran ở Trung Đông [98; tr.136].
53
Như vậy, nền chính trị Mỹ với những đặc trưng riêng của nó đã tạo ra cơ hội cho các nhóm cử tri, các nhóm lợi ích khác nhau có thể tác động đến quá trình hoạch định chính sách của nhà cầm quyền Mỹ. Trong trường hợp của Iran, nhóm người Mỹ gốc Do Thái đã khá thành công trong việc vận động chính quyền thắt chặt hơn nữa chính sách cấm vận với Tehran. Một bộ phận không nhỏ người Arab, người Iran ở Mỹ cũng
có xu hướng ủng hộ một chính sách cứng rắn với Iran. Sự tác động của các nhóm cử tri thiểu số đã góp phần thúc đẩy chính quyền Mỹ áp đặt chính sách cứng rắn đối với Iran trong giai đoạn từ năm 1979 - 2016. 2.3. Các yếu tố quốc tế 2.3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 2.3.1.1. Bối cảnh quốc tế Trước năm 1991, khi Chiến tranh Lạnh vẫn bao trùm lên quan hệ quốc tế, chính sách của Mỹ đối với Iran chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi cuộc cạnh tranh Xô – Mỹ, bởi những căng thẳng giữa hai khối Đông – Tây. Sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã đảo ngược chính sách “giảm thiểu căng thẳng để chung sống hòa bình” của người tiền nhiệm Jimmy Carter (détente policy), leo thang chiến tranh Lạnh với Liên Xô. Ông đã đề ra học thuyết mang tên mình, trong đó nêu cao sứ mệnh chống lại chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới của nước Mỹ. Reagan đã phát động cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng nhằm đoàn kết phương Tây chống lại Liên Xô. Trong một bài diễn văn nổi tiếng ngày 8 tháng 6 năm 1982 trước Nghị viện Vương quốc Anh trong phòng triển lãm hoàng gia tại cung điện Westminster, Reagan nói, “bước chân tiến tới của tự do và dân chủ sẽ bỏ chủ nghĩa Marx – Lenin trên đống tro tàn của lịch sử” [214]. Ông dự đoán chủ nghĩa cộng sản diệt vong “Chủ nghĩa cộng sản là một chương khác dị thường và đáng buồn trong lịch sử nhân loại mà những trang cuối của nó thậm chí hiện nay vẫn còn đang được viết” [43; tr.278] và quy kết Liên Xô là “một đế quốc ma quỷ” [173; tr.45]. Reagan cũng tái khởi động cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô. Ở quy mô toàn cầu, chính quyền Reagan hậu thuẫn cả công khai lẫn bí mật cho các phong trào du kích chống cộng sản nhằm lật đổ các chính phủ cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn tạị châu Phi, châu Á và Mỹ La Tinh. Chẳng hạn, ở khu vực Trung Đông, Reagan đã cho phép CIA triển khai hoạt động huấn luyện, trang bị và lãnh đạo cho các chiến binh Islam giáo thuộc phong trào Mujaheddin ở Afghanistan, Pakistan chống lại sự “chiếm đóng của Liên Xô”. Sự căng thẳng trong quan hệ Xô – Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến chính sách của Mỹ với Iran trong suốt những năm 1980. Chính quyền Mỹ nhận thấy thái độ bài xích, nghi kỵ của giới chức Iran đối với Liên Xô cũng không kém gì đối với Mỹ. Do đó, dù tình hình Iran có những biến động nghịch chiều, nhưng Mỹ vẫn muốn duy trì vai trò của Iran trong cuộc chiến chống lại Liên Xô và chủ nghĩa Cộng sản ở khu vực Trung Đông.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô (1991) cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tình hình quốc tế có những biến đổi quan trọng, tác động mạnh mẽ tới sự lựa chọn chính sách của người Mỹ đối với Iran.
54
Trước hết là những thay đổi to lớn trong trật tự thế giới, Liên Xô tan rã kéo theo sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta. Lúc này, trên thế giới chỉ còn một siêu cường duy nhất là Mỹ. Với tham vọng bá quyền, Mỹ muốn xây dựng trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối. Tổng thống Mỹ George W H Bush (cha) tuyên bố về một trật tự thế giới mới: “đó là một ý tưởng lớn, một trật tự thế giới nơi mà các quốc gia khác nhau sẽ được kết nối
bằng những động lực chung để giành được những ước nguyện phổ quát của loài người: hòa bình, an ninh, tự do và thượng tôn pháp luật”. Trong trật tự mới đó, Mỹ sẽ là quốc gia lãnh đạo, “dẫn đầu thế giới trong cuộc đối mặt với các mối đe dọa đến những điều tốt đẹp và nhân đạo” [48; tr.1]. Để hiện thực hóa tham vọng bá quyền, Mỹ đã mở rộng can thiệp và “dính líu” trên phạm vi khắp thế giới. Trong đó, Trung Đông được coi là một trong những tâm điểm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ bởi vị trí địa chính trị của nó. Mỹ đã tìm cách lấp khoảng trống quyền lực mà Liên Xô đã để lại sau khi tan rã để thiết lập một trật tự khu vực mới có lợi cho Mỹ. Theo đó, Mỹ tăng cường liên minh với nhiều quốc gia trong khu vực. Đối với những quốc gia có xu hướng chống đối Mỹ như Iran hay Syria, Mỹ tìm mọi cách bao vây, cô lập các quốc gia này nhằm buộc các quốc gia này phải thuận theo trật tự mà Mỹ muốn xây dựng ở Trung Đông. Tuy nhiên, giấc mơ bá quyền của người Mỹ không hề dễ dàng khi những cường quốc khác trên thế giới cũng đang cố gắng tìm kiếm một vị trí trong trật tự thế giới mới. EU, Trung Quốc, Nhật, Nga tăng cường xây dựng ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông nói riêng và trên phạm vi toàn thế giới nói chung đồng thời tạo ra sự độc lập tương đối trong hành động đối với Mỹ. Dù không thể sánh với Mỹ, nhưng sự hiện diện trên bản đồ chính trị thế giới của các cường quốc này đáng được ghi nhận. Cục diện “nhất siêu đa cường” dần hình thành. Điều này đã tác động trực tiếp tới chính sách của Mỹ ở khu vực Trung Đông, trong đó có Iran. Mỹ vẫn là quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất ở khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, Mỹ cũng cần tính đến quan điểm và vai trò của các cường quốc khác trong nhiều vấn đề khu vực, trong đó có các vấn đề liên quan đến Iran.
Sự chấm dứt của Chiến tranh lạnh còn mở ra những thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế. Xu hướng đối đầu căng thẳng dần nhường chỗ cho xu hướng đối thoại, hợp tác cùng phát triển. Mọi mối quan hệ quốc tế đều chịu sự chi phối của xu hướng mới này. Quan hệ Mỹ - Iran cũng như chính sách của Mỹ đối với Iran cũng không phải là ngoại lệ.
55
Một chuyển biến quan trọng khác trong tình hình quốc tế trong những thập niên gần đây là toàn cầu hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh - quân sự. Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập mà không có bất cứ mối liên kết nào với các quốc gia khác. Dưới tác động của toàn cầu hóa, tồn tại nhiều vấn đề chính trị bị quốc tế hóa mà không quốc gia nào có thể tự mình giải quyết. Chẳng hạn như sự bất ổn của tình hình Trung Đông trong những thập niên gần đây có thể gây ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế toàn cầu, đặc biệt là giá dầu mỏ. Với dẫn chứng vừa nêu, chúng ta đã thấy sự liên đới và phụ thuộc giữa các quốc gia trong nền chính trị thế giới hiện nay. Điều này đòi hỏi sự chung tay giữa các nước nhằm giải quyết các vấn đề mang tính lợi ích chung. Iran là một trong những quốc gia có vị thế nổi bật trên diễn đàn chính trị ở Trung Đông. Thông qua việc hậu thuẫn cho các tổ chức vũ trang Shi’ite, Iran can dự vào nhiều cuộc xung đột ở Trung Đông, vươn lên trở thành một trong những cực mạnh
trong khu vực. Do đó, khi giải quyết các vấn đề ở khu vực Trung Đông, Mỹ không thể gạt bỏ hoàn toàn vai trò của Iran. Bằng chứng rõ nét nhất là gần đây, Mỹ phải công nhận vai trò của Iran trong tiến trình hòa bình ở Syria. Do đó, bên cạnh việc ngăn chặn Iran, Mỹ cũng cần sự hợp tác của Iran nhằm giải quyết những xung đột, vấn đề tồn tại ở khu vực này.
Và cuối cùng, không thể không nhắc đến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Các phát minh mới trong cải tiến công nghệ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng nhanh. Bên cạnh đó, những tiến bộ vượt bậc trong giao thông vận tải, trong công nghệ thông tin đã “xóa nhòa” khoảng cách địa lí giữa các quốc gia. Đồng thời cũng tạo ra những thách thức trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh vực quân sự, các thế hệ vũ khí mới liên tục ra đời. Ngày càng nhiều quốc gia tiếp cận gần hơn với công nghệ sản xuất vũ khí hạt nhân. Trung Quốc, Iran… là những ví dụ tiêu biểu cho sự vươn lên mạnh mẽ của các nước “thế giới thứ ba” trong việc phát triển các loại vũ khí chiến lược, trong đó bao gồm vũ khí hạt nhân. Thực tế, trong mối quan hệ với Iran, chương trình hạt nhân và chương trình tên lửa của quốc gia này là một trong những động lực chủ yếu khiến chính quyền Mỹ lựa chọn một chính sách cứng rắn nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng của Mỹ trong khu vực cũng như vị thế siêu cường số một thế giới của mình.
2.3.1.2. Tình hình khu vực Trung Đông Trong những thập niên gần đây, Trung Đông trở thành tâm điểm của thế giới bởi
xung đột tôn giáo - sắc tộc, dầu mỏ và sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố.
Trước hết, tình hình Trung Đông hiện nay chịu sự chi phối của các mối quan hệ cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc khu vực như: Iran - Saudi Arabia, Iran - Israel, Israel - Saudi Arabia... nhằm tranh giành ảnh hưởng và lợi ích. Các mối quan hệ cạnh tranh đó đã biến Trung Đông trở thành một thùng thuốc súng khổng lồ có thể bùng lên ngọn lửa chiến tranh bất cứ lúc nào.
56
Với trường hợp Iran - Saudi Arabia, mâu thuẫn giữa Iran và Saudi Arabia tồn tại từ lâu trong lịch sử. Mâu thuẫn này thực chất là sự cạnh tranh quyền lãnh đạo thế giới Islam ở Trung Đông khi Iran được cho là đại diện của dòng Shi’ite và Saudi Arabia được cho là đại diện của dòng Sunni. Mâu thuẫn giữa hai dòng Sunni và Shi’ite đã bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ VII TCN. Sau khi người sáng lập ra tôn giáo này là nhà Tiên tri Mohammed qua đời (632 SCN), tranh cãi trong việc lựa chọn người kế vị đã chia Islam giáo ra làm hai giáo phái chính là: Sunni và Shi’ite. So với những người Shi’ite, người Sunni có truyền thống bám trụ quyền lực vì Caliph thường là người đứng đầu về phương diện chính trị của đế chế Islam đồng thời là lãnh tụ tôn giáo của đế chế này. Sự bảo trợ của đế chế đã giúp cho dòng Sunni trở thành dòng thống trị ở nhiều quốc gia Trung Đông như Saudi Arabia, Oman, Kuwait, Qatar... “Hiện nay, có khoảng 87 - 90% người Hồi giáo trên thế giới theo dòng Sunni” [96; tr.2]. Còn với những người thuộc dòng Shi’ite, họ đã nhanh chóng tụ lại và trở thành đa số ở các nước
như Iraq, Iran, Bahrain. Họ cũng tạo thành những cộng đồng thiểu số quan trọng ở Saudi Arabia, Lebanon và Pakistan. Người Shi’ite đông hơn người Sunni ở những khu vực sản xuất dầu lửa chủ yếu ở Trung Đông, không chỉ ở Iran, Iraq mà còn ở cả Đông Saudi Arabia. Giới cầm quyền Sunni duy trì sự độc quyền về quyền lực của họ bằng cách không cho người Shi’ite tham gia quân đội và bộ máy hành chính. Trong lịch sử Islam giáo, hầu như giới cầm quyền người Sunni đã đối xử với người Shi’ite như đối với tầng lớp dưới, giới hạn họ ở các công việc lao động chân tay và không chịu chia sẻ các nguồn tài nguyên quốc gia một cách công bằng. Mâu thuẫn giữa hai dòng Sunni và Shi’ite ngày càng sâu sắc theo thời gian xuất phát từ những bất công này. Mối quan hệ cạnh tranh, đối địch giữa Iran và Saudi Arabia là minh chứng rõ nét nhất cho mâu thuẫn tôn giáo phức tạp này.
Trong giai đoạn vua Reza Pahlavi nắm quyền ở Iran, mối quan hệ giữa Iran và các quốc gia Arab tương đối hòa hoãn. Cả Iran và Saudi Arabia đều là những trụ cột quan trọng trong chính sách “trụ cột song song” của chính quyền Mỹ. Cả hai chính quyền Iran và Saudi Arabia khi đó đã bắt tay nhau để đối phó với những kẻ thù chung, đặc biệt là phong trào Arab cấp tiến trong những năm 1950, 1960.
Tuy nhiên, sau khi cuộc cách mạng Islam bùng nổ và thắng lợi ở Iran vào năm 1979, mâu thuẫn giữa Iran và khối các quốc gia Arab bùng phát trở lại. Cuộc cách mạng của những người Shi’ite ở Iran một mặt truyền cảm hứng cho mọi quốc gia Trung Đông trong việc xóa bỏ ảnh hưởng của các thế lực nước ngoài khỏi đất nước. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy cũng tạo ra tâm lí lo sợ cho những người đứng đầu tại các quốc gia mà phái Sunni nắm quyền lực như Jordan, UAE, Kuwait, Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh khác… Họ sợ hãi khi nghĩ tới một cuộc cách mạng Shi’ite khác có thể bùng nổ ở một quốc gia Arab, lật đổ sự thống trị của những người Sunni. Thay vì hợp tác như trước, nhiều quốc gia Arab lựa chọn một chính sách cứng rắn hơn với mục tiêu ngăn chặn ảnh hưởng của Iran và dòng Shi’ite Islam ở khu vực Trung Đông. Bằng chứng là ba ngày sau khi chiến tranh Iran - Iraq nổ ra, vào ngày 19/9/1980, Saudi Arabia, Kuwait, Bahrain, Qatar và UAE đồng ý cho Iraq vay 14 tỷ USD để ủng hộ Iraq trong cuộc xâm lược Iran [187; tr.68].
57
Iran và Israel từng có một mối quan hệ hợp tác tốt đẹp, đặc biệt là dưới chế độ của Shah. Tuy nhiên, bắt đầu từ thập niên 1990, quan hệ giữa Israel và Iran bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Đặc biệt, bước sang những năm 2000, Iran vươn lên trở thành đối trọng lớn nhất của Israel sau khi chế độ Taliban ở Afghanistan và Saddam Hussein ở Iraq sụp đổ. Giới chức Israel bắt đầu coi Iran là “nguồn cơn của những xung đột trong khu vực cũng như giữ mối liên hệ với các tổ chức vũ trang chống Israel như Hamas hay Hezbollah” [164; tr.17]. Trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hợp quốc vào ngày 27/9/2012, Thủ tướng Israel, Benyamin Netanyahu đã đặc biệt nhấn mạnh tới những thách thức mà Iran tạo ra đối với Israel nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung, đặc biệt là chương trình hạt nhân của quốc gia này. Do đó, với Israel, Iran là
“mối đe dọa đối với toàn bộ các quốc gia phương Tây”. Từ những phát biểu của người đứng đầu nhà nước Do Thái, có thể thấy rằng, chính quyền nước này xem Iran như một quốc gia “cực đoan, đen tối và nguy hiểm” [181; tr.229]. Từ vị thế là đồng minh, Israel và Iran đã trở thành kẻ thù của nhau, cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích ở khu vực một cách gay gắt.
Sự phức tạp trong quan hệ quốc tế ở Trung Đông sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách của Mỹ đối với khu vực này cũng như với riêng trường hợp của Iran. Trong cuộc cạnh tranh, đối đầu giữa Saudi Arabia - Iran, Israel - Iran, Mỹ đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích của các đồng minh và lợi ích của Mỹ. Điều này góp phần cổ súy giới cầm quyền Mỹ lựa chọn những chính sách cứng rắn đối với Iran.
Ngoài ra, còn có nhiều diễn biến khác ở Trung Đông cũng góp phần chi phối đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ với Iran. Trong những năm 90 của thế kỉ XX, cuộc xung đột Israel - Palestine tiếp tục diễn ra căng thẳng. Israel liên tục mở rộng các khu định cư trái phép tại các vùng lãnh thổ của Palestine, đặc biệt là dải Gaza và khu Bờ Tây sông Jordan. Đáp lại, những người thuộc tổ chức Hamas của Palestine cũng thực hiện nhiều cuộc đánh bom liều chết nhằm vào các mục tiêu dân sự của Israel, nhiều lần nguy cơ bùng nổ chiến tranh được nhắc đến. Mỹ cho rằng Iran có liên quan đến cuộc xung đột này. Iran đứng sau hậu thuẫn Hamas, tài trợ tiền và vũ khí cho tổ chức này thực hiện cuộc chiến chống lại Nhà nước Do Thái. Trong quan điểm của Mỹ, việc Iran hậu thuẫn cho lực lượng Hamas ở Palestine còn phản ánh tham vọng của Iran muốn khuếch trương ảnh hưởng của dòng Shi’ite ở Trung Đông và cạnh tranh vị thế người lãnh đạo trong thế giới Islam với những người Sunni. Những lo ngại của chính quyền Mỹ không phải là không có cơ sở khi thực tế trong lịch sử, không ít lần mưu đồ chính trị được núp bóng dưới chiến tranh tôn giáo. Hiệp ước Westphalia 1648 ở châu Âu là một ví dụ điển hình như thế khi các quốc gia châu Âu mượn ngọn cờ tôn giáo để gây chiến. Kết quả là những nước thuộc phe Tân ước (ủng hộ cho đạo Tin lành) đã chiến thắng phe Cựu ước (ủng hộ Thiên chúa giáo). Bản đồ châu Âu thay đổi mạnh mẽ sau cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, Đức và các quốc gia thuộc phe Cựu ước khác chịu thất bại nặng nề. Các quốc gia theo phe Tân ước như Pháp, Thụy Điển nổi lên như những thế lực mới có ảnh hưởng mạnh mẽ ở châu Âu. Bài học Westphalia đã khẳng định nếu các quốc gia sử dụng tôn giáo nhằm để thực hiện các mục đích chính trị sẽ có thể tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt liên quan đến cán cân sức mạnh giữa các quốc gia trong một khu vực rộng lớn. Từ thực tiễn lịch sử đó, việc Iran giương cao ngọn cờ ủng hộ cuộc đấu tranh của Hamas thực sự là một mối đe dọa không chỉ với Mỹ và Israel mà còn với các quốc gia Arab dòng Sunni ở khu vực Trung Đông.
58
Trong khi tiến trình hòa bình Trung Đông chưa đi đến hồi kết thì cơn địa chấn “Mùa xuân Arab” tiếp tục làm rung chuyển khu vực Trung Đông từ sau năm 2010 đến nay. Bên cạnh những yếu tố nội tại, sự can thiệp của Mỹ và các quốc gia Phương Tây vào “mùa xuân Arab” đã khiến cho tình hình chính trị - xã hội ở khu vực Trung Đông
và Bắc Phi càng trở nên bất ổn, trầm trọng. Nhiều bằng chứng đã chứng minh Mỹ và các đồng minh đã tài trợ cho các lực lượng đối lập tiến hành biểu tình, đấu tranh chống lại chính quyền sở tại. Hệ quả là nhiều chế độ chính trị ở Trung Đông và Bắc Phi sụp đổ sau nhiều năm tồn tại (Tunisia, Ai Cập, Libya). Ở nhiều nước, các cuộc biểu tình đòi dân chủ đã biến thành các cuộc nội chiến đẫm máu (Libya, Syria) làm cho tình hình Trung Đông trở nên hỗn loạn, vượt mọi tính toán ban đầu của Mỹ và phương Tây.
Ngoài ra, chủ nghĩa khủng bố đã và đang diễn biến đặc biệt phức tạp ở khu vực Trung Đông với một loạt các tổ chức khủng bố lớn như Al - Qadea, IS… Iran bị Mỹ cáo buộc là “quốc gia tài trợ khủng bố” [65; tr.1]. Nhiều tổ chức vũ trang Shi’ite được Iran ủng hộ như Hezbollah, Hamas bị Mỹ liệt vào danh sách khủng bố, trở thành đối tượng ngăn chặn chủ yếu của chính quyền Mỹ ở Trung Đông.
Những diễn biến phức tạp vừa nêu, trong đó có những mối đe dọa từ Iran, đã tạo ra thách thức nghiêm trọng đến các lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Mỹ buộc phải có những điều chỉnh thích hợp để bảo vệ lợi ích quốc gia cũng như ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này. Iran - yếu tố bị Mỹ cho là có nhiều hành vi gây bất ổn tại khu vực sẽ là một trong những trọng tâm trong chính sách của Mỹ ở Trung Đông.
2.3.2. Ảnh hưởng của các cường quốc trong vấn đề Iran 2.3.2.1. Liên Xô/Liên Bang Nga Ảnh hưởng của Liên Xô/Liên Bang Nga ở khu vực Trung Đông, trong đó có Iran là một trong những nhân tố có tầm ảnh hưởng đặc biệt tới chính sách của Nhà Trắng đối với Tehran. Theo nhiều nhà phân tích, sự can dự của Liên Xô/ Liên Bang Nga ở khu vực Trung Đông được thúc đẩy mạnh mẽ bởi yếu tố lợi ích. Liên Xô/LB Nga có những lợi ích sống còn ở Trung Đông. Nhà nghiên cứu Galia Golan khẳng định rằng “Liên Xô có những lợi ích truyền thống ở khu vực Trung Đông và thậm chí những lợi ích ấy đã tồn tại trước cả thời đại Xô Viết” [109; tr.8].
Lợi ích đầu tiên có thể dễ dàng nhận ra là lợi ích về mặt an ninh quốc gia. Liên Xô có đường biên giới chung với một số quốc gia thuộc khu vực Trung Đông, cụ thể là Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Chính vì vậy, Iran và Thổ Nhĩ Kì được coi là những tấm lá chắn phòng thủ cho Liên Xô trước các cuộc tấn công quân sự từ bên ngoài.
59
Một lợi ích mang tính truyền thống khác của người Nga ở khu vực Trung Đông chính là con đường tiến ra biển của người Nga. Biển Đen liền kề phía Tây Nam lãnh thổ Nga có một ý nghĩa rất quan trọng trong giao thông của người Nga. Tuy nhiên, con đường tiến ra Địa Trung Hải của Biển Đen lại bị chặn bởi hai eo biển của người Thổ Nhĩ Kỳ là Bosphorus (nối liền Biển Đen với biển Marmara) và Dardanells (là đường thông duy nhất từ biển Marmara ra biển Aegea thuộc Địa Trung Hải). Điều đó có nghĩa là các tàu thương mại hay quân sự của người Nga muốn tiến ra Địa Trung Hải từ Biển Đen bắt buộc phải đi qua hai eo biển này. Trong Chiến tranh lạnh, “kiểm soát được con đường giao thông trên biển này là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng không những mở
toang con đường thông thương trên biển cho Liên Xô mà còn ngăn chặn ý định tiến vào Liên Xô của các thế lực thù địch qua hai eo biển của người Thổ. Không những vậy, việc kiểm soát được con đường biển quan trọng ấy còn làm suy yếu sức mạnh của các nước Phương Tây mà cụ thể là nước Anh - quốc gia có rất nhiều ảnh hưởng và quyền lợi ở khu vực Trung Đông và Địa Trung Hải” [109; tr.9]. Hiện nay, vấn đề tự do hàng hải qua hai eo biển Bosphorus và Dardanells vẫn được coi là một trong những ưu tiên quan trọng trong hoạt động đối ngoại của nước Nga, thúc đẩy quốc gia này can dự vào tình hình ở Trung Đông.
Lợi ích lớn tiếp theo liên quan đến cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa Nga với Mỹ và các nước phương Tây ở khu vực Trung Đông. Khu vực này từ lâu đã được coi là một khu vực trọng yếu trong cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng, phô diễn sức mạnh giữa các cường quốc trên thế giới. Việc tạo được mối liên minh vững chắc với các chính quyền ở Trung Đông sẽ giúp Liên Xô/Liên bang Nga khẳng định được sức mạnh của một cường quốc trước Mỹ và phương Tây.
Cuối cùng là các lợi ích kinh tế của Liên Xô/Liên bang Nga ở khu vực Trung Đông nói chung và ở Iran nói riêng. Thị trường Trung Đông, trong đó có Iran, là thị trường rộng lớn. Hơn nữa, Liên Xô/Liên bang Nga cũng đã có nhiều hợp tác kinh tế mang tính truyền thống đối với nhiều quốc gia trong khu vực này: Iraq, Ai Cập, Syria… Cho nên, các lợi ích kinh tế được cho là lợi ích đáng kể kéo Liên Xô/Liên bang Nga xích lại gần Trung Đông.
Rõ ràng, Liên Xô/Liên bang Nga có những lợi ích quan trọng ở khu vực Trung Đông. Đây là nguyên nhân chủ chốt lý giải về mối quan tâm đặc biệt của chính quyền Liên Xô/Liên Bang Nga qua các thời kỳ đối với vùng đất Trung Đông nói chung và Iran nói riêng. Liên Xô và sau đó là Liên Bang Nga đã tạo được ảnh hưởng đáng kể ở khu vực Trung Đông, trở thành đồng minh của nhiều quốc gia trong khu vực như Ai Cập (thời Nasser), Iraq, Syria và gần đây là Iran.
Tuy nhiên, trước năm 1991, dù Liên Xô cũng nuôi tham vọng kết nối với chính quyền cách mạng ở Iran, tuy nhiên chính quyền của Khomeini lại chủ trương duy trì chính sách ngoại giao độc lập, “không Xô không Mỹ” chỉ có Islam là trên hết. Trong quan điểm của Khomeini, Liên Xô cũng không khác Mỹ là bao, đặc biệt là sau sự kiện Liên Xô tấn công và đóng quân ở Afghanistan, Khomeini chủ trương đóng băng quan hệ với Liên Xô.
60
Ảnh hưởng của Nga ở Iran chỉ thực sự khởi sắc sau năm 1991. Sự cải thiện trong mối quan hệ Nga - Iran xuất phát từ cả hai phía. Trước hết, về phía Nga, Nga cũng có những động lực để cải thiện quan hệ với Iran. Thứ nhất, cạnh tranh địa chiến lược với Mỹ ở Trung Đông thúc đẩy Nga xích lại gần Iran. Thứ hai, mối quan hệ giữa Nga và các quốc gia châu Âu chưa có nhiều cải thiện sau Chiến tranh lạnh. Nga rơi vào thế cô lập ở châu Âu, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng Ukraina (2014). Nga cần tìm kiếm các đồng minh mới trong và ngoài châu Âu để phá vỡ thế bao vây, cấm vận mà Mỹ và
phương Tây tạo ra. Trong bối cảnh đó, Iran - được cho là một sự lựa chọn phù hợp. Hơn thế nữa, những nghi ngại của Nga về khả năng Iran sẽ xuất khẩu cách mạng sang Azerbaijan và vùng Trung Á đã được xóa bỏ khi Iran chủ động đứng về phía Nga trong việc tìm ra một giải pháp hòa bình để chấm dứt cuộc nội chiến ở Tajikistan (1994) [239; tr.20], thậm chí Iran còn vận động cho Nga được đứng vào vị trí quan sát viên của Hội nghị toàn thể của Tổ chức Islam thế giới (2005). Quan trọng hơn cả, dưới thời của Tổng thống Putin, chính sách đối ngoại của Nga thay đổi nhanh chóng nhằm khẳng định lại vị thế của một “siêu cường” (great power) [277; tr.48], Nga đẩy mạnh sự can dự ở khu vực Trung Đông, trong đó có các vấn đề liên quan đến Iran.
Về phía Iran, sự kiện Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan năm 1989 và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô đã tháo bung những nút thắt trong quan hệ Nga - Iran. Áp lực của các lệnh trừng phạt của Mỹ và Phương Tây cũng khiến Iran xích lại gần Nga hơn. Nga được coi là một cơ hội thứ hai với Iran để tiếp tục các chương trình phát triển kinh tế, quốc phòng, trong đó có chương trình hạt nhân.
Từ những thay đổi trong quan điểm, chính sách của cả hai phía, liên minh giữa Nga - Iran dần được hình thành ở khu vực Trung Đông. Cùng với Syria, Iran nổi lên như là một trong những đồng minh quan trọng nhất của Nga ở khu vực Trung Đông. Nếu như Syria là một đồng minh truyền thống, có mối quan hệ mật thiết với Nga qua nhiều thập niên, thì Iran cũng đang ngày càng trở nên quan trọng hơn với chính quyền Nga, hỗ trợ Nga đảm bảo các lợi ích chiến lược ở khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, đối với Mỹ, chính sách của Nga trong các vấn đề liên quan đến Iran bị coi là mối đe dọa đến ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ ở Trung Đông. Có hai yếu tố gây nhiều quan ngại nhất cho chính quyền Mỹ, đó là: sự ủng hộ của Nga cho tham vọng phát triển chương trình hạt nhân của Iran và sự hình thành liên minh quân sự Nga - Iran ở khu vực Trung Đông.
61
Liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran, Nga trực tiếp hỗ trợ Iran hoàn thiện nhà máy điện hạt nhân Bushehr trị giá khoảng 1 tỷ USD [239; tr.20] khi Đức và sau đó là Trung Quốc đã từ chối hỗ trợ Iran tiếp tục công trình trọng điểm này. Nhà máy này được khánh thành vào tháng 5/2011, với công suất hoạt động ban đầu lên đến 1000 megawatt. Nga còn ký một hiệp định với Iran trong đó Nga sẽ cung cấp nguyên nhiên liệu trong vòng 10 năm để đảm bảo nhà máy điện hạt nhân Bushehr vận hành [167; tr.23]. Bắt đầu từ sau năm 2011, Nga nhiều lần sử dụng vai trò là một ủy viên thường trực ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc để phủ quyết các nghị quyết trừng phạt bổ sung đối với Iran và thậm chí bảo vệ quyền được phát triển các chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình của Tehran [140; tr.7]. Sự phản đối của Nga đã làm cho kế hoạch gây sức ép lên Iran của Mỹ gặp nhiều bất lợi. Như vậy, trong khi Mỹ ra sức ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iran thì Nga lại hỗ trợ Iran về công nghệ, thiết bị, máy móc để Iran tiếp tục thực hiện một vài dự án liên quan đến chương trình hạt nhân. Điều đó càng làm cho các nhà lãnh đạo Mỹ tin vào một liên minh chống Phương Tây giữa Nga và Iran.
Về chính sách hợp tác quân sự, lệnh cấm vận của Mỹ và các nước Phương Tây đã thúc đẩy Iran tiếp cận với nguồn cung vũ khí từ Nga. Nga đã bán cho Iran nhiều loại vũ khí tân tiến do nước này sản xuất, chẳng hạn như: xe tăng T-72, các loại phương tiện chiến đấu của bộ binh, súng tầm xa, máy bay chiến đấu Su – 24, tàu ngầm các loại… [239; tr.21]. Trong cuộc chiến tranh ở Syria (2011 - nay), phía Israel cho rằng các loại máy bay chiến đấu MiG – 29s – một dòng máy bay quân sự do Nga sản xuất, được quân đội chính phủ Syria sử dụng là do phía Iran tài trợ tiền để mua.
Không chỉ cung cấp vũ khí cho Iran, Nga còn tích cực hợp tác quốc phòng toàn diện với Iran, đặc biệt là cùng hỗ trợ cho chính quyền của Tổng thống Syria Bashar Al - Assad trong cuộc chiến chống lại các lực lượng nổi dậy được Mỹ và phương Tây hậu thuẫn cũng như lực lượng Nhà nước Islam giáo tự xưng (IS). Mức độ hợp tác quân sự giữa Nga và Iran được nâng lên một tầm mới khi Iran cho phép máy bay chiến đấu của Nga sử dụng căn cứ không quân Hamadan của Iran như một trạm nghỉ trước khi phát động các cuộc không kích mới ở Syria [262; tr.16]. Đây là lần đầu tiên Iran cho phép quân đội nước ngoài sử dụng lãnh thổ của mình kể từ sau năm 1979. Sự hợp tác của Nga và Iran trong vấn đề Syria đã làm cho kế hoạch lật đổ chính phủ Al - Assad của Mỹ và Phương Tây gặp nhiều khó khăn. Cho đến nay, các nhóm đối lập do Mỹ và phương Tây hỗ trợ ngày càng co cụm và đánh mất quyền kiểm soát tại nhiều khu vực ở Syria.
Rõ ràng, trong bối cảnh Mỹ và Phương Tây tăng cường ngăn chặn, bao vây, cấm vận Iran thì Nga lại chủ trương xây dựng mối quan hệ hợp tác sâu rộng đối với Iran. Liên minh Nga - Iran ngày càng trở nên mật thiết hơn và giúp Nga duy trì vị thế, ảnh hưởng trong khu vực, chống lại sự “bá quyền” của Mỹ. Trong bối cảnh quan hệ Nga với Mỹ và quốc gia Phương Tây đầy biến động và có chiều hướng xấu đi trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng ở Ukrania năm 2014, mối quan hệ giữa Nga và Iran ngày càng xích lại gần nhau, đe dọa trực tiếp tới những tính toán và tham vọng của Mỹ ở trong khu vực cũng như các đồng minh của Mỹ11. Do vậy, sự hiện diện của Nga ở Trung Đông nói chung và mối quan hệ Nga – Iran nói riêng là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng tác động đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran.
2.3.2.2. Trung Quốc Trong vài thập niên gần đây, Trung Quốc được biết đến như là một thế lực mới nổi ở khu vực Trung Đông. Đối với những người đứng đầu chính quyền Bắc Kinh, Trung Đông có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Trung Quốc.
62
Trong kỷ nguyên mà dầu mỏ thống trị thế giới, Trung Quốc, với trữ lượng dầu mỏ hạn chế [289]12, trở nên phụ thuộc vào nguồn cung dầu của các cường quốc dầu 11 Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong chiến lược của Nga, Iran giống như một quân cờ quan trọng trong ván bài chính trị với Mỹ. Mối quan hệ giữa Mỹ - Nga ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ của Nga với Iran cũng như thái độ của Nga với chương trình hạt nhân của quốc gia vùng Vịnh này. Trong những năm 2009 – 2010, khi mối quan hệ của Mỹ - Nga có một số cải thiện, Nga đã tạm dừng kế hoạch bán hệ thống phòng thủ tên lửa S – 300 vào giữa năm 2009. Nga cũng đồng ý áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế một cách hạn chế lên Iran vào tháng 11/2009 và tháng 6/2010. 12 Theo tạp chí Dầu mỏ và Khí đốt (Oil and Gas Journal), lượng dự trữ dầu được phát hiện của Trung Quốc hiện
mỏ trên thế giới, trong đó có các nước Trung Đông như Iran. Theo Cục Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA – US Energy Information Administration), vào năm 2017, Trung Quốc nhập 8,4 triệu thùng dầu mỗi ngày trong khi đó Mỹ nhập 7,9 triệu thùng/ngày [285]. Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành quốc gia nhập nhiều dầu mỏ nhất trên thế giới. Ở chiều ngược lại, các quốc gia Trung Đông hiện đang là nguồn cung cấp dầu mỏ lớn nhất cho Trung quốc. Do đó, dầu mỏ chính là lợi ích sống còn, là mối quan tâm lớn nhất của Trung Quốc đối với khu vực Trung Đông. Thêm vào đó, những lợi ích kinh tế lớn khác như các hợp đồng vũ khí béo bở cho các quốc gia Trung Đông, đầu tư kinh tế… cũng là những yếu tố kéo Trung Quốc xích lại gần với khu vực Trung Đông hơn.
Ngoài ra, xét về cạnh tranh địa chính trị, Trung Quốc cũng muốn khẳng định vai trò ở một trong những khu vực chiến lược như Trung Đông và chống lại sự bá quyền của Mỹ ở khu vực này (US hegemony). Trong vài thập niên gần đây, Trung Quốc đã tích cực mở rộng ảnh hưởng của mình ở Trung Đông, chủ yếu thông qua hợp tác kinh tế, đầu tư và dần được thừa nhận là một thế lực mới nổi, có vai trò đáng kể ở Trung Đông.
Xuất phát từ những lợi ích quan trọng như đã phân tích, Trung Quốc tích cực củng cố và phát triển mối quan hệ đối với nhiều quốc gia ở Trung Đông, trong đó mối quan hệ với Iran là nổi bật nhất, gây ra nhiều quan ngại nhất đối với Mỹ. Trung Quốc coi Iran là một yếu tố chiến lược để chống lại sức mạnh của Mỹ ở khu vực Trung Đông [115; tr.18]. Trên thực tế, mối quan hệ chiến lược giữa Trung Quốc và Iran trong những thập niên vừa qua đã gây nhiều lo ngại đối với những người đứng đầu nước Mỹ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là sự hậu thuẫn của Trung Quốc đối với chương trình hạt nhân của Iran. Trong khi Mỹ và các quốc gia Phương Tây tìm mọi phương cách để ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iran, thì Trung Quốc lại tích cực giúp đỡ Iran nhằm hiện thực hóa các tham vọng của quốc gia Trung Đông này. Trung quốc tích cực hỗ trợ về công nghệ và máy móc, đặc biệt là trong giai đoạn chính quyền cách mạng ở Iran tái khởi động chương trình hạt nhân vào nửa cuối thập niên 1980. Chỉ trong vòng 5 năm (1985 - 1990), Trung Quốc đã ký với Iran hai hiệp định liên quan đến việc hỗ trợ Iran trong việc nghiên cứu và phát triển hạt nhân. Dưới hiệu lực của các hiệp định hợp tác, từ năm 1988 - 1995 Trung Quốc đã cung cấp phần lớn các trang thiết bị tại trung tâm nghiên cứu nguyên tử Esfahan13 của Iran, trong đó bao gồm rất nhiều thiết bị quan trọng như lò phản ứng nước nặng (heavy water – moderated zero – power reactor), hai tổ hợp quan trọng của một lò phản ứng (mỗi một tổ hợp được điều tiết bởi nước nhẹ và than chì)... Mặc cho sự phản đối của Mỹ và các quốc gia phương Tây, Trung Quốc cho rằng họ trợ giúp Iran trong việc nghiên cứu và phát triển chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình.
63
Ngoài máy móc và thiết bị, Trung Quốc còn cung cấp nguyên liệu đầu vào trong khoảng 20,4 tỷ thùng (tính đến tháng 01/2012), con số này là quá nhỏ so với nhu cầu tiêu thụ dầu của đất nước hơn tỷ dân này. 13 Trung tâm nghiên cứu nguyên tử Esfahan thành lập với sự trợ giúp của Pháp từ thời của vua Reza Pahlavi
quy trình làm giàu uranium cho Iran. Năm 1991, Iran nhập khẩu 1600 kg sản phẩm uranium thô từ Trung Quốc, trong đó gần 1000 kg là UF6 (uranium Hexafluoride) [86; tr.29]. Động thái này của Trung Quốc khiến chính quyền Bill Clinton đặc biệt lo ngại bởi UF6 là một hợp chất quan trọng, được sử dụng làm nguyên liệu trong các lò phản ứng làm giàu uranium. Năm 1994, tiến thêm một nấc thang mới trong hợp tác hạt nhân, Trung Quốc đã chuyển cho Iran công nghệ Laser dùng để làm giàu hạt nhân trong nghiên cứu.
Những hỗ trợ ban đầu của Trung Quốc trong việc nghiên cứu và phát triển hạt nhân của Iran đã giúp cho Iran tiếp cận gần hơn với các công nghệ mới trong lĩnh vực này. Trong khi đó, việc Iran sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ là một mối đe dọa nguy hiểm vượt khỏi tầm kiểm soát của Mỹ, đe dọa phá vỡ trật tự ở khu vực Trung Đông cũng như các lợi ích sống còn của Mỹ ở khu vực này. Trên thực tế, Mỹ đã dùng rất nhiều biện pháp khác nhau, cả vận động và răn đe đối với Trung Quốc để hạn chế sự hợp tác của Trung Quốc và Iran trong các chương trình hợp tác quân sự, nghiên cứu hạt nhân.
Điểm đáng chú ý thứ hai là việc Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Iran. Trung Quốc được biết đến là một trong những quốc gia xuất khẩu nhiều vũ khí nhất sang Iran. Ngoài ra, Trung Quốc được cho là một nhân tố quan trọng trong chương trình tên lửa nói riêng và công cuộc hiện đại hóa quân đội của Iran nói chung.
Trong chiến tranh Iran - Iraq, Trung Quốc chính là quốc gia bán nhiều vũ khí nhất cho Iran trong bối cảnh Iran bị Mỹ và phương Tây cấm vận vũ khí. Theo Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA), chỉ trong năm 1985, Trung Quốc là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Iran với tổng số tiền khoảng 1 tỷ USD. Phần lớn các vũ khí mà Trung Quốc bán cho Iran đều là những vũ khí chiến thuật: tên lửa hành trình diệt tàu hạm, tên lửa đất đối không, khẩu đạn pháo, súng ống, cùng rất nhiều các loại quân trang quân dụng khác. Trong vòng 9 tháng đầu năm 1986, Bắc Kinh đã phân phối một lượng vũ khí trị giá ít nhất 300 triệu USD và trực tiếp huấn luyện cho quân nhân Iran ở Trung Quốc [64; tr.1]. Năm 1987, Trung Quốc đã trực tiếp bán tên lửa HY - 2 Silkworm cho Iran. Loại tên lửa này sau đó đã được sử dụng trong một cuộc tấn công nhắm vào tàu chở dầu của Kuwait, tạo ra căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc sau đó. Rõ ràng, trong khi Mỹ tìm mọi cách để làm suy yếu Iran thông qua cuộc chiến tranh với Iraq thì Trung Quốc lại làm cho kế hoạch này của Mỹ trở nên khó khăn hơn rất nhiều khi cung cấp các loại vũ khí chiến lược cho Tehran. Sau chiến tranh Iran – Iraq, Trung Quốc vẫn tiếp tục xuất khẩu vũ khí sang Iran với số lượng lớn. Từ năm 1993 đến năm 1996, Iran đã mua một lượng lớn vũ khí của Trung Quốc trị giá 400 triệu USD. Trong những năm 1997 – 2000, con số này tăng lên mức 600 triệu USD [86; tr.37]. Bước sang thập niên 2000, để cải thiện mối quan hệ với Mỹ, Trung Quốc giảm dần việc bán vũ khí trực tiếp cho phía Iran. Từ năm 2002 – 2005, lượng vũ khí Trung Quốc bán cho Iran chỉ đạt khoảng 100 triệu USD. Con số này thậm chí còn giảm một nửa trong giai đoạn 2007 – 2010 (50 triệu USD) [104; tr.14].
64
Tuy nhiên, đối với những người đứng đầu nước Mỹ, việc Trung Quốc bán vũ khí
cho Iran không nguy hiểm bằng việc Trung Quốc tham gia vào quá trình hiện đại hóa nền quốc phòng Iran. Thay vì bán tên lửa trực tiếp cho Iran, bước sang những thập niên 1990, 2000, Trung Quốc tìm cách hỗ trợ cho Iran trong các dự án nghiên cứu và phát triển công nghiệp quốc phòng. Vào năm 1990, Trung Quốc và Iran ký một hiệp định về trao đổi công nghệ quốc phòng, trong đó hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu tên lửa là trọng điểm. Chính vì vậy, công nghệ và ý tưởng thiết kế kiểu Trung Quốc xuất hiện ở nhiều thế hệ tên lửa khác nhau do Iran sản xuất như: tên lửa tầm ngắn Oghab, tên lửa Nazeat và tên lửa tầm xa Shahab [115; tr.7]… Thậm chí, Trung Quốc trực tiếp tham gia vào quá trình nghiên cứu và thử nghiệm nhiều loại tên lửa mới có tính sát thương lớn. Một trong những thành quả của quá trình hợp tác đó là sự ra đời của tên lửa diệt hạm C – 801 và C – 802 (1996) [86; tr.37]. Sự hỗ trợ của Trung Quốc đối với Iran trong lĩnh vực quân sự đã phần nào giúp cho Iran khắc phục được những khó khăn từ các lệnh cấm vận quân sự của Mỹ, nâng cao năng lực sản xuất vũ khí, hiện đại hóa quân đội để thực hiện các mục tiêu chiến lược của quốc gia Trung Đông này. Điều này đồng nghĩa với việc Trung Quốc đang tiếp sức cho một trong những mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với Mỹ ở Trung Đông, làm xói mòn ảnh hưởng và vị thế của Mỹ.
Điểm đáng chú ý thứ ba là sự hợp tác và đầu tư kinh tế của Trung Quốc ở Iran đã làm giảm đáng kể sức nặng của các lệnh cấm vận do Mỹ và Phương Tây áp đặt lên Iran. Trong những thập niên gần đây, Trung Quốc hiện đang là đối tác kinh tế lớn nhất của kinh tế Iran nói chung và là bạn hàng lớn nhất của ngành dầu mỏ và khí đốt Iran. Tính đến hết tháng 11/2011, kim ngạch thương mại song phương của Iran – Trung Quốc lên tới 39 tỷ USD [115; tr.16]. Trung bình, mỗi ngày Trung Quốc nhập khẩu khoảng 550.000 thùng dầu (tính đến năm 2011). Sau lệnh cấm vận của Mỹ (2011), con số này vẫn ở mức cao, khoảng 410.000 thùng dầu/ngày [150; tr.21]. Không chỉ nhập khẩu dầu với số lượng lớn từ Iran, Trung Quốc còn tham gia trực tiếp vào quá trình tìm kiếm và khai thác các mỏ dầu mới ở Iran. Gần đây, quốc gia Đông Á này chọn là nhà đầu tư phát triển hoạt động khai thác ở mỏ dầu khổng lồ Azadegan14, mỏ dầu và khí gas Yadavarun… Trong khi Mỹ ra sức hạn chế hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Iran nhằm làm suy yếu nguồn lực kinh tế chủ yếu của Tehran thì Trung Quốc lại tăng cường nhập khẩu dầu mỏ cũng như đầu tư phát triển vào công nghiệp năng lượng của quốc gia Trung Đông này. Mỹ đề ra hạn mức nhập khẩu dầu từ Iran cho một số quốc gia trong đó có Trung Quốc. Nhưng số lượng nhập khẩu thực tế của Trung Quốc luôn cao hơn hạn mức mà phía Mỹ đề nghị. Điều này đã làm giảm đi hiệu lực của các lệnh cấm vận kinh tế mà Washington áp đặt lên Iran bởi còn những nước nhập khẩu dầu với số lượng lớn như Trung Quốc, nền kinh tế Iran vẫn có tăng trưởng tốt.
14 Mỏ dầu Azadegan (gồm cả phần phía Bắc và phần phía Nam) có trữ lượng dầu mỏ khổng lồ với 26 tỷ thùng, lớn hơn tổng trữ lượng dầu mỏ đã được tìm thấy của Trung Quốc (20,4 tỷ thùng). Tuy nhiên, để đưa mỏ dầu này vào khai thác cần sự đầu tư rất lớn bởi cấu trúc địa chất phức tạp của nó. Tháng 8/2011, tập đoàn dầu mỏ Trung Quốc CNPC (China National Petroleum Corporation) đã đầu tư số vốn ban đầu là 6 triệu USD trong gói đầu tư dài hạn lên đến 8,4 tỷ USD, trở thành công ty nước ngoài nắm cổ phần lớn nhất ở mỏ dầu Azadegan (tương đương với 70% giá trị của mỏ dầu).
65
Xét một cách tổng thể, chính sách của Trung Quốc với Iran, đặc biệt sự trợ giúp
của Trung Quốc đối với chương trình hạt nhân và chương trình tên lửa của Iran đã tạo ra những thách thức lớn đối với Mỹ. Sự hậu thuẫn của Trung Quốc cả về quốc phòng và kinh tế đã phần nào làm hạn chế sự hiệu quả của các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran. Quan trọng hơn, mối quan hệ giữa Iran và Trung Quốc càng khăng khít càng làm xói mòn phạm vi ảnh hưởng của Mỹ cũng như đe dọa đến các lợi ích sống còn của Mỹ ở Trung Đông. Do đó, sự nổi lên của Trung Quốc ở Trung Đông nói chung và Iran nói riêng có tác động đáng kể đến quá trình hoạch định chính sách của Nhà Trắng đối với Iran.
2.3.2.3. Các quốc gia EU Đối với châu Âu, khu vực Trung Đông, trong đó có Iran có một vai trò quan trọng đối với an ninh năng lượng cũng như sự phát triển bền vững và nền hòa bình ở châu Âu. Với trường hợp của Iran, châu Âu cũng có những lợi ích đặc biệt quan trọng khi duy trì mối quan hệ với quốc gia Trung Đông này.
Xét về lợi ích kinh tế, theo những phân tích của nhà nghiên cứu Hossein Alikhani, Iran là một đối tác thương mại lớn của châu Âu. Năm 1995, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của EU sang Iran đạt 11,5 tỷ USD. Còn giá trị nhập khẩu hàng hóa Iran vào châu Âu lên tới 17 tỷ USD, trong đó phần lớn là dầu mỏ và khí đốt [126; tr.325]. Dưới áp lực cấm vận của Mỹ, trao đổi thương mại giữa EU – Iran vẫn tiếp tục được duy trì trong thời gian sau đó. Kim ngạch thương mại giữa Liên minh châu Âu (EU) và Iran hiện nay khoảng 20 tỷ euro. Iran nhập hàng hóa từ EU trị giá 10 tỷ euro, còn EU nhập hàng của Iran 10 tỷ euro, trong đó 9 tỷ euro là dầu mỏ (2017). Theo báo Financial Tribune, với trữ lượng dầu 157 tỷ thùng, đứng thứ tư thế giới, sản lượng 3,8 triệu thùng/ngày, trữ lượng hơi đốt 34 ngàn tỷ m3, Iran là một trong những nước cung cấp dầu và khí đốt lớn nhất cho châu Âu. Trong khi đó, dầu mỏ và khí đốt là hai thứ nguyên liệu đặc biệt quan trọng với sự phát triển của nền kinh tế châu Âu. Khác với Mỹ, châu Âu khan hiếm loại tài nguyên này và phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung từ bên ngoài. Trong khi đó, mối quan hệ bất ổn giữa châu Âu – Liên Xô và sau đó là Nga đã khiến châu Âu khó có thể tiếp cận được nguồn cung khí đốt khổng lồ từ người Nga. Iran sẽ là một sự lựa chọn thay thế an toàn và dài hạn. Chính vì vậy, dầu mỏ đã trở thành cầu nối thu hẹp khoảng cách giữa châu Âu và Iran.
Ngoài yếu tố kinh tế, trong mối quan hệ với Iran, châu Âu còn có lợi ích đáng kể về an ninh. Nếu những căng thẳng giữa Mỹ và Iran không được dàn xếp, nguy cơ một chiến tranh khu vực có sử dụng vũ khí hạt nhân có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Châu Âu với vị trí địa lí gần gũi với Iran và khu vực Trung Đông chắc chắn sẽ chịu tác động trực tiếp và chịu thiệt hại lớn. Cuộc khủng hoảng di cư năm 2015 là minh chứng rõ nét nhất cho tác động của tình hình Trung Đông đối với các quốc gia châu Âu.
66
Bên cạnh đó, những mối liên hệ mang tính truyền thống giữa các nước EU với khu vực Trung Đông nói chung và Iran nói riêng cũng góp phần thúc đẩy châu Âu can dự vào các vấn đề ở khu vực này. Trong quá khứ, sự gần gũi về mặt địa lý đã sớm kết nối châu Âu với Iran. Nhiều cường quốc châu Âu, đặc biệt là Anh đã sớm có ảnh hưởng lớn
ở Iran. Iran cũng trở thành nạn nhân của chủ nghĩa thực dân Anh. Anh cùng với Nga đã xác lập sự thống trị của họ tại quốc gia này sau cuộc cách mạng lập hiến năm 1906. Chính quyền ở Iran sau đó chỉ mang tính hình thức. Các công ty dầu mỏ của Anh sớm xác lập địa vị thống trị trong khai thác các mỏ dầu khổng lồ ở Iran. Vị trí độc tôn của Anh đối với thị trường dầu mỏ Iran chỉ suy giảm sau khi Thủ tưởng Mohammad Mosadeq quyết định quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất dầu của Iran trong những năm 1951 - 1953. Tuy nhiên, khi chính phủ của Mossadegh bị lật đổ Anh vẫn tiếp tục có quan hệ hợp tác với Iran không chỉ trong lĩnh vực dầu mỏ mà còn trên nhiều ngành kinh tế khác. Ngoài Anh, Pháp và Đức cũng từng là có mối liên hệ mật thiết với Iran. Bên cạnh Mỹ, Pháp đã từng là một nhà cung cấp vũ khí lớn cho chính quyền Shah trước năm 1979. Hi Lạp, Tây Ban Nha hay Italia là những bạn hàng quen thuộc của ngành dầu mỏ Iran. An ninh năng lượng của các quốc gia này phụ thuộc đáng kể vào nguồn cung dầu từ Tehran…
Những lợi ích kinh tế và an ninh cùng sợi dây liên kết trong quá khứ giữa các cường quốc châu Âu với Iran đã định hình nên chính sách của EU với Iran. Dù chịu sức ép lớn từ Mỹ, nhưng EU luôn cố gắng tìm ra đối sách riêng với Iran.
Một mặt, EU nhiều lần ủng hộ chính sách của Mỹ đối với Iran. Quan điểm và chính sách giữa EU và Mỹ trong vấn đề Iran cũng có một số điểm tương đồng. Chẳng hạn, trong những năm 2006 - 2007, EU đã hưởng ứng chính sách cấm vận của chính quyền Bush bằng cách áp đặt nhiều lệnh trừng phạt kinh tế quan trọng lên Iran, trong đó có việc cấm hoàn toàn việc nhập khẩu dầu thô từ Iran. Trong những năm 2010 - 2013, EU đã những hành động tương tự nhằm tạo áp lực tối đa với Iran, buộc Iran phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và EU họp bàn về việc hạn chế chương trình hạt nhân của quốc gia Trung Đông này.
15 4 chữ C ở đây là: Comprehensive, Cooperative, Critical if needed, Constructive always.
67
Mặt khác, chính sách của EU với Iran cũng có sự độc lập tương đối với Mỹ. Trong thập niên 90 khi Mỹ cấm vận Iran, EU lại tăng cường hợp tác với Iran, đặc biệt là từ sau khi Tổng thống Iran Mohammad Khatami lên nắm quyền với chính sách đối ngoại mở và tiến bộ hơn so với những người tiền nhiệm. Thay vì các hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại thông thường. EU và Iran thiết lập các kênh đối thoại trực tiếp nhằm thúc đẩy quan hệ giữa hai bên đồng thời giải quyết các bất đồng còn tồn tại. Cho đến nay, các kênh đối thoại này vẫn được châu Âu đặc biệt chú trọng. Trong chuyến thăm Tehran năm 2016, Cao ủy EU, Phó chủ tịch Ủy ban châu Âu - Federica Mogherini khẳng định: “Chúng ta hướng tới một cuộc đối thoại có phạm vi toàn diện, hợp tác trên các lĩnh vực mà chúng ta có lợi ích chung, nhân dân chúng ta có lợi ích chung, một cuộc đối thoại mà chúng ta thẳng thắn trao đổi, chạm đến cả những lĩnh vực mà chúng ta biết chúng ta còn bất đồng với nhau, tìm kiếm một nền tảng chung. Chúng ta có thể gọi đó là “cuộc đối thoại 4 chữ C15”: Toàn diện, hợp tác, chỉ trích nếu cần thiết và luôn luôn xây
dựng” [290].
Bên cạnh chương trình đối thoại với Iran, Anh, Pháp, Đức đứng ra nhận trách nhiệm dẫn dắt cuộc đàm phán về vấn đề hạt nhân với Iran. Châu Âu đóng vai trò là cây cầu trung gian nối Mỹ với Iran trên bàn thương lượng [274; tr.190]. Những lợi ích kinh tế khổng lồ và ảnh hưởng truyền thống của các nước châu Âu ở Iran nói riêng và Trung Đông nói chung đã buộc các quốc gia này phải tìm ra đối sách để trung hòa quyền lợi đối với cả Mỹ và Iran. Trong lịch sử, Đức đã từng đứng ra làm bên trung gian cho Mỹ và Iran trong nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng con tin trong vụ bắt cóc tại Đại Sứ quán Mỹ ở Tehran năm 1979. Sự kiện Thỏa thuận hạt nhân ra đời được cho là một trong những thành tựu ngoại giao nổi bật và quan trọng, mang đậm dấu ấn của các quốc gia châu Âu.
Rõ ràng, chính sách của châu Âu với Iran có sự kết hợp giữa hợp tác và ngăn chặn. Quan điểm của châu Âu cũng có những tác động nhất định đến Mỹ. Dưới tác động của trật tự thế giới mới và toàn cầu hóa, Mỹ không thể đơn phương hành động trong mọi trường hợp. Sự hợp tác với các đồng minh như EU rõ ràng sẽ làm tăng sức mạnh của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Do đó, trong một số trường hợp, Mỹ buộc phải cân nhắc giữa việc trừng phạt Iran và việc đảm bảo các lợi ích của các đồng minh châu Âu. Chẳng hạn, Mỹ từng cho phép một số quốc gia châu Âu nhập khẩu dầu mỏ Iran với hạn mức nhất định được phía Mỹ quy định. Việc Mỹ tham gia vào bàn đàm phán với Iran liên quan đến chương trình hạt nhân cũng được coi là một ví dụ điển hình cho ảnh hưởng của EU trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran.
16 5 quốc gia này sau đó trở thành ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc.
68
2.3.2.4. Liên Hợp quốc Liên Hợp quốc (LHQ) chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương LHQ được phê chuẩn bởi Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Anh, Hoa Kỳ16 và đa số các quốc gia ký trước đó. Mục đích hoạt động của tổ chức liên kết lớn nhất hành tinh cũng được quy định rất rõ trong Hiến chương năm 1945: “1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; 2) Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hoà bình thế giới; 3) Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo; 4) Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm đạt được những mục đích chung nói trên” [242; tr.3]. Đến nay, Liên Hợp quốc đã trải qua hơn 70 năm phát triển, trở thành tổ chức toàn cầu rộng rãi nhất với sự tham gia của hầu như toàn bộ các quốc gia độc lập của hành tinh. Vai trò và hoạt động của Liên hợp quốc được mở rộng về mọi mặt, nỗ lực hoạt động hướng tới thực hiện các tôn chỉ mục đích đã được đề ra, qua đó đem lại những tác động tích cực, to
lớn đến đời sống quốc tế và từng dân tộc. Từ 51 quốc gia thành viên khi được thành lập năm 1945, số lượng thành viên tham gia vào Liên hợp quốc phát triển tăng lên lên 193 quốc gia [311], hoạt động trên tất cả các lĩnh vực từ giải quyết và ngăn ngừa xung đột, giải trừ quân bị và không phổ biến, chống khủng bố, bảo vệ người tỵ nạn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, cho đến thúc đẩy dân chủ, nhân quyền, bình đẳng giới, phát triển kinh tế và xã hội…
69
Với trọng trách và vai trò lớn như đã nêu ở trên, Liên Hợp quốc không thể đứng ngoài những mâu thuẫn xung đột giữa Mỹ và Iran trong vòng gần 40 năm qua (1979 - 2016), đặc biệt là chương trình hạt nhân của quốc gia Trung Đông này. Liên hợp quốc có quan điểm và hành động rất nhất quán liên quan đến các vấn đề an ninh toàn cầu, trong đó có vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân. Năm 1968, các thành viên của Liên hợp quốc đã thông qua Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (The Treaty on the Non- proliferation of Nuclear Weapons 1968). Sau những thảm họa đã xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki, nhân loại đã nhận ra mối nguy hại khủng khiếp của vũ khí hạt nhân đến sự phát triển và thịnh vượng của xã hội loài người. Do vậy, nhiệm vụ chống lại việc phổ biến vũ khí không chỉ của riêng quốc gia nào mà còn là của toàn nhân loại. Hiệp ước năm 1968 được coi là tuyên ngôn chính thức của Liên hợp quốc liên quan đến vấn đề hạt nhân. Theo đó mọi hành động sản xuất, chế tạo, phổ biến loại vũ khí đặt biệt nguy hiểm này bị cấm [136; tr.1-5]. Iran cũng đã tham gia vào Hiệp ước quan trọng này. Liên quan trực tiếp đến chính sách phát triển hạt nhân của lãnh đạo Iran từ giữa thập niên 1980 cho đến nay, Liên hợp quốc đã thể hiện một chính sách khá cứng rắn. Theo đó, tổ chức này ủng hộ quyền được phát triển và nghiên cứu hạt nhân vì các mục đích hòa bình, tuy nhiên, khi Iran vượt ngưỡng “an toàn”, Liên hợp quốc có những chế tài nghiêm khắc nhằm ngăn chặn việc quốc gia này sở hữu vũ khí hạt nhân. Một loạt các Nghị quyết của Liên hợp quốc đã được thông qua nhằm giải quyết vấn đề khủng hoảng hạt nhân của Iran: Nghị quyết 1696 (2006), 1747 (2007), 1803, 1835 (2008), 1929 (2010), 2231 (2015) khi các cuộc thanh sát của Cơ quan năng lượng Nguyên tử quốc tế IAEA chỉ ra rằng Iran làm giàu uranium vượt ngưỡng sản xuất thương mại hay nghiên cứu. Chẳng hạn, trong Nghị quyết số 1747 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, lệnh cấm vận đã được ban bố nhằm ngăn chặn khả năng Iran sản xuất, thu thập và sở hữu vũ khí hạt nhân: Cấm xuất khẩu sang Iran mọi hàng hóa, nguyên vật liệu, trang thiết bị, hàng hóa và công nghệ liên quan đến hoạt động hạt nhân hoặc phát triển hệ thống phân phối vũ khi hạt nhân cho Iran; Cấm cung cấp cho Iran sự hỗ trợ về mặt công nghệ hay tài chính liên quan đến hoạt động phát triển hạt nhân; Cấm Iran xuất khẩu các thiết bị hoặc nguyên nhiên liệu có liên quan đến công nghệ hạt nhận; Đóng băng tài khoản của các cá nhân, tổ chức dính líu đến các chương trình tên lửa và hạt nhân [246; tr.2-3]. Đây được coi là lệnh cấm vận khắt khe nhất mà Liên Hợp quốc thông qua để trừng phạt Iran vì tham vọng phát triển hạt nhân của nước này. Những hành động mạnh tay của Liên hợp quốc đối với chương trình hạt nhân của Iran là hợp lí và thống nhất với tôn chỉ hoạt
động của tổ chức này. Việc một cường quốc hạng trung như Iran sở hữu vũ khí hạt nhân không chỉ gây mất cân bằng sức mạnh ở Trung Đông mà còn tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ các cuộc chiến tranh với quy mô và sức tàn phá khủng khiếp.
Chính sách cứng rắn của Liên hợp quốc đối với vấn đề hạt nhân của Iran là một cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có thể triển khai chính sách ngăn chặn đối với Iran. Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày một sâu sắc, Mỹ không thể hành động một mình. Đối với chính quyền Mỹ, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, mà đại diện trực tiếp ở đây là Liên Hợp quốc sẽ tăng thêm áp lực cần thiết để Iran phải dừng chương trình hạt nhân và các hoạt động can thiệp vào các cuộc xung đột trong khu vực.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không phải lúc nào Liên Hợp quốc cũng có chính sách xuôi chiều với Mỹ trong các vấn đề liên quan đến Iran. Là một tổ chức toàn cầu, mọi quyết nghị của Liên Hợp quốc đều là kết quả của tập thể các quốc gia. Mỹ dù là quốc gia tài trợ nhiều nhất cho Liên hợp quốc cũng khó có thể thao túng lên toàn bộ các quyết định của tổ chức này với các vấn đề quốc tế. Trên thực tế, một số lần Mỹ đề xuất các lệnh trừng phạt mới lên Hội đồng Bảo an nhưng không được sự chấp thuận do gặp phải sự phản đối của các thành viên khác trong Hội đồng, đặc biệt là Nga và Trung Quốc – các quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với Iran. Chẳng hạn, vào năm 2011, Nga và Trung Quốc đã phản đối dự thảo trừng phạt do Mỹ soạn thảo vì cho rằng Iran vẫn đang thực hiện đầy đủ cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc thanh sát các cơ sở, chương trình hạt nhân của nước này. Kết quả là dự thảo này đã không thể được thông qua.
Rõ ràng, Liên Hợp quốc cũng có một vai trò đáng kể trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Iran trong vòng gần bốn thập kỷ qua. Để tăng áp lực lên Iran, Mỹ rất cần sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Chính sách cứng rắn của Liên Hợp quốc trong vấn đề hạt nhân của Iran là một cơ sở quan trọng để Mỹ triển khai chính sách ngăn chặn đối với Iran. Tuy nhiên, Liên Hợp quốc là một thực thể độc lập với Mỹ, Mỹ chỉ là một thành viên của tổ chức này và không thể lũng đoạn mọi hoạt động của Liên Hợp quốc. Tổ chức này cũng có những quyết định đi ngược lại với mong muốn của chính quyền Mỹ trong các vấn đề liên quan đến Iran, phần nào thể hiện vai trò là trung gian hòa giải trong các xung đột, các cuộc đối đầu giữa Mỹ và Iran. Do vậy, trong quá trình hoạch định chính sách đối với Iran, các chính trị gia Mỹ buộc phải cân nhắc đến các quyết định cũng như vai trò trung gian hòa giải của Liên Hợp quốc đối với Iran để có được sự ủng hộ cao nhất trong quá trình triển khai chính sách.
Tiểu kết chương 2 Như vậy, có thể nhận thấy rằng, chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố: yếu tố Iran, yếu tố Mỹ và các yếu tố tác động từ bối cảnh khu vực và thế giới.
70
Trong các yếu tố đã đề cập, yếu tố Iran đóng vai trò quyết định, then chốt nhất dẫn
đến sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Iran, từ đồng minh chiến lược chuyển sang ngăn chặn, đối đầu. Trong bối cảnh sau năm 1979, tình hình quốc tế và khu vực chưa có nhiều biến động khi Chiến tranh lạnh và cạnh tranh Xô - Mỹ vẫn tiếp tục chi phối thế giới trong đó có khu vực Trung Đông, thì những diễn biến ở Iran sau năm 1979 chính là nguyên nhân trực tiếp và quan trọng nhất dẫn đến những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với quốc gia Trung Đông này. Thái độ chống Mỹ kịch liệt của chính quyền cách mạng Iran cùng với chủ trương “xuất khẩu cách mạng”, phát triển chương trình hạt nhân đã tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đối với vị thế và lợi ích của nước Mỹ ở Trung Đông. Điều đó buộc người Mỹ phải thay đổi cách tiếp cận cũng như chính sách đối với Iran. Thay vì coi Iran là “trụ cột an ninh” ở khu vực, Mỹ đã đưa Iran vào danh sách các quốc gia thù địch, cần phải ngăn chặn và kiềm chế. Ngoài ra, không thể không nhắc tới vị trí địa chiến lược của Iran trên bản đồ chính trị thế giới. Vị trí án ngữ eo biển Hormuz, nằm trong rốn dầu lớn nhất thế giới và có đường biên giới dài tiếp giáp với Liên Xô đã biến Iran trở thành mối quan tâm hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực Trung Đông.
Bên cạnh tình hình Iran sau năm 1979, những yếu tố bên trong nước Mỹ cũng góp phần quan trọng định hình nên chính sách của Mỹ đối với Iran. Bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ vươn lên vị thế là siêu cường hàng đầu thế giới và duy trì địa vị đó cho đến ngày nay. Sức mạnh của Mỹ là điều kiện tiên quyết để Mỹ hiện thực hóa giấc mơ “bá quyền” bằng chiến lược toàn cầu. Thêm vào đó, không thể không nhắc đến lợi ích cũng như chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông. Dầu mỏ, vị trí địa chiến lược đã kéo nước Mỹ xích lại gần Trung Đông. Nước Mỹ kiên trì theo đuổi chính sách bá quyền, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông thông qua việc phổ biến các giá trị dân chủ, tìm kiếm đồng minh, thậm chí là can thiệp quân sự… Tuy nhiên, như đã phân tích, giấc mơ bá quyền của người Mỹ mâu thuẫn sâu sắc với các mục tiêu chiến lược của Iran ở trong khu vực. Điều đó càng khoét sâu những căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Iran. Ngoài ra, đặc trưng của nền chính trị Mỹ, đặc biệt là ảnh hưởng của các nhóm lợi ích cùng hoạt động vận động hành lang cũng tác động đáng kể đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran. Cộng đồng người Do Thái được cho là có vai trò nổi bật và tích cực nhất. Các tổ chức vận động hành lang của người Do Thái như AIPAC cùng với hệ thống truyền thông do người Do Thái nắm giữ đã tác động đáng kể đến sự lựa chọn chính sách của nhà cầm quyền Mỹ đối với Iran.
71
Thêm vào đó, không thể không nhắc đến ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế và khu vực đến sự hình thành chính sách của Mỹ với Iran sau năm 1979. Những biến đổi trong quan hệ quốc tế, sự biến mất và hình thành của các trật tự thế giới trong giai đoạn từ năm 1979 - 2016 đã tác động đáng kể đến mối quan hệ Mỹ - Iran cũng như những quyết sách của Nhà trắng đối với quốc gia Trung Đông này. Thêm vào đó, tham vọng và chính sách của các cường quốc như Liên Xô/Liên Bang Nga, Trung Quốc EU và Liên Hợp Quốc cũng tác động không nhỏ đến chính sách của Mỹ đối với Iran.
72
Tất cả các yếu tố cả trong và ngoài nước kể trên đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn chính sách của Mỹ đối với Iran. Từ vị thế là một đồng minh thân cận của Mỹ, Iran trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với các lợi ích của Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Điều đó đã buộc chính quyền Mỹ phải lựa chọn một cách tiếp cận mới, cứng rắn hơn đối với Tehran để đảm bảo vị thế của Mỹ cũng như một trật tự có lợi cho Mỹ ở khu vực chiến lược quan trọng này.
Chương 3
NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH
CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN (1979 - 2016)
3.1. Nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) Cuộc cách mạng Islam (1979) và cuộc khủng hoảng con tin ở Tehran đã tạo ra
bước ngoặt lớn trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Chỉ sau một thời gian ngắn, Iran
từ vị thế một đồng minh quan trọng bậc nhất của Washington ở khu vực Trung Đông trở thành kẻ thù của nước Mỹ. Những biến động ở Iran buộc Mỹ phải thay đổi cách
tiếp cận cũng như chính sách trong các vấn đề liên quan đến quốc gia Trung Đông này.
Ngăn chặn (the containment policy) được coi là chính sách bao trùm và quan trọng
nhất trong chiến lược lâu dài của Mỹ đối với Iran trong suốt bốn thập kỉ sau đó.
3.1.1. Mục tiêu của chính sách Nếu như ở giai đoạn trước năm 1979, khi Iran còn là đồng minh chiến lược của
Mỹ ở khu vực Trung Đông, mục tiêu trong chính sách của Mỹ với Iran chủ yếu xoay quanh 2 vấn đề: thứ nhất, duy trì Iran như là một trong những trụ cột an ninh, ngăn
chặn ảnh hưởng của Liên Xô cũng như hỗ trợ Mỹ đàn áp các phong trào Arab cấp tiến,
phong trào cộng sản ở Trung Đông; Thứ hai, đảm bảo sự thông suốt của hoạt động vận
chuyển dầu mỏ qua eo biển Hormuz, tăng cường hợp tác kinh tế với Iran đặc biệt trong
lĩnh vực dầu mỏ. Thì sau năm 1979, mục tiêu trong chính sách của Mỹ đối với Iran có
những thay đổi mang tính bước ngoặt. Trong gần 4 thập kỷ (1979 - 2016), mục tiêu
bao trùm trong chính sách của Mỹ với Iran xoay quanh việc ngăn chặn tham vọng
vươn lên trở thành cường quốc khu vực của quốc gia Trung Đông này (đặc biệt là
tham vọng phát triển chương trình hạt nhân cũng như vai trò của Iran trong các cuộc
xung đột ở khu vực), tiến tới thay đổi “hành vi” của Iran trong các vấn đề chính trị và
an ninh của khu vực theo hướng có lợi cho Mỹ. Tuy nhiên, tùy vào bối cảnh lịch sử cụ
thể, một số mục tiêu ngắn hạn của Mỹ trong các vấn đề Iran có những điều chỉnh nhất
định.
Từ năm 1979 đến năm 1991, khi Liên Xô còn tồn tại và là một cực đối lập với Mỹ trong Chiến tranh lạnh, chính sách của Mỹ đối với các quốc gia trên thế giới (trong
đó có Iran) vẫn chịu sự chi phối mạnh mẽ từ mục tiêu số một lúc bấy giờ là ngăn chặn Liên Xô. Theo một tài liệu tuyệt mật liên quan đến chính sách đối với Iran của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (1985), các mục tiêu cấp thiết cần phải thực hiện ngay đó là: “1) Ngăn ngừa sự suy yếu rạn nứt của Iran, giữ cho nó như một vùng độc lập chiến
lược chia cắt Liên Xô với Vịnh Ba Tư. 2) Hạn chế phạm vi và cơ hội hành động của Liên Xô ở Iran trong lúc định vị lại vị thế của chúng ta để đương đầu với những thay đổi trong
73
nền chính trị ở Iran. 3) Duy trì sự tiếp cận với nguồn dầu mỏ vùng Vịnh và đảm bảo sự
lưu thông liên tục ở eo biển Hormuz. 4) Chấm dứt sự hỗ trợ của Chính phủ Iran cho chủ
nghĩa khủng bố cũng như các nỗ lực gây bất ổn cho các chính phủ khác trong khu vực”
[66; tr.1].
Ngoài các mục tiêu trước mắt vừa nêu, chính quyền Mỹ cũng đặt ra những mục
tiêu dài hạn, quan trọng và mở rộng hơn, đó là:
“1) Xây dựng lại vai trò mang tính xây dựng và trung lập như một thành viên triển vọng của Iran trong cộng đồng chính trị chống cộng sản, trong khu vực Trung Đông và trong nền kinh tế dầu mỏ thế giới; 2) Tiếp tục cuộc chiến ở Iran chống lại ảnh hưởng của Liên Xô nói chung và sự đóng quân của Liên Xô ở Afghanistan nói riêng; 3) Sớm kết thúc cuộc chiến tranh giữa Iran - Iraq mà không cần sự dàn xếp từ Liên Xô và không làm biến đổi hoàn toàn cán cân sức mạnh trong khu vực; 4) Loại bỏ những hành vi vi phạm nhân quyền trắng trợn ở Iran; 5) Tiến tới bình thường hóa quan hệ Mỹ - Iran trong ngoại giao chính thức, trong quan hệ văn hóa và trong các hoạt động trao đổi thương mại, kinh tế; 6) Giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp lý và tài chính theo những phán quyết của tòa án quốc tế Hague (Hiệp định Algiers); 7) Và cuối cùng tiết chế Iran trong chính sách định giá của khối OPEC” [66; tr.2].
74
Có thể thấy rằng các mục tiêu trong chính sách đối với Iran mà Mỹ trong giai đoạn sau năm 1979 cho đến trước khi Liên Xô tan rã tập trung chủ yếu vào việc duy trì vai trò nhất định của Iran trong việc chống lại ảnh hưởng của Liên Xô ở khu vực Trung Đông cho dù Iran không còn là đồng minh của Mỹ. Mỹ cho rằng “về mặt lịch sử, chúng ta có chia sẻ một lợi ích chiến lược với Iran, vị trí địa lí của Iran đã biến quốc gia này thành vùng đệm giữa một vùng biên giới rộng lớn của Liên Xô với vùng Vịnh. Tham vọng định hình lại khu vực Trung Đông thể hiện qua sự kiện Liên Xô chiếm đóng vùng phía Bắc của Iran cũng như sự kiện Liên Xô đưa quân sang Afghanistan. Dĩ nhiên chính phủ Iran chỉ trích chính sách đó của Liên Xô” [261; tr.9]. Điểm chung đó cho phép Mỹ kì vọng về vai trò kiềm chân Liên Xô của Iran ở khu vực Trung Đông. Bên cạnh đó, Mỹ cũng quan tâm đặc biệt đến những thay đổi về chính trị ở Iran cũng như chính sách đối ngoại mới của chính quyền cách mạng ở Tehran. Việc ngăn chặn Iran “xuất khẩu cách mạng”, “hậu thuẫn cho khủng bố” ở khu vực Trung Đông được xem là mục tiêu quan trọng tiếp theo trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 1991 - 2016, cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và những biến động lớn trong tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là chương trình hạt nhân của Iran, mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran đã có một số điều chỉnh lớn. Theo đó, những mục tiêu an ninh có liên quan đến Liên Xô không còn tồn tại, thay vào đó Mỹ tập trung giải quyết các vấn đề nổi cộm liên quan đến Iran, bao gồm: thứ nhất, ngăn chặn bằng mọi giá ảnh hưởng và vị thế của Iran ở Trung Đông, tiến tới thay đổi các “hành vi” của chính quyền Tehran theo hướng có lợi cho Mỹ như cựu Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ - Wendy Sherman đã phát biểu “Chúng ta theo đuổi một mục tiêu tối thượng: một Iran biết tôn trọng các nghĩa vụ và cam kết quốc tế, tôn trọng các quyền của người dân Iran cũng như các quốc gia láng giềng của Iran và đóng một vai trò mang
tính xây dựng trong khu vực” [265; tr.11]; Thứ hai, bảo vệ các lợi ích sống của của người Mỹ ở Trung Đông.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng có những nhận định tương tự liên quan đến mục tiêu trong chính sách của Mỹ với Iran sau năm 1991. Zbigniew Brzezenski - cha đẻ của chính sách ngăn chặn Iran cũng cho rằng mục tiêu của Mỹ đối với Iran là “làm thay đổi theo hướng tích cực những mục tiêu chính trị của Iran bằng cách đặt ra cái giá cho các hành vi của Iran trong khu vực” [47; tr.38]. Còn học giả David S. Oualaalou khẳng định rằng mục tiêu của chính sách đó là: “thay đổi chế độ ở Iran hoặc ngăn chặn nó” [202; tr.xxv]. Gần tương tự với quan điểm của David S Oualaalou, nhà nghiên cứu Tiberiu Troncata cho rằng chính sách xuyên suốt của Mỹ với Iran từ năm 1980 là ngăn chặn để ngăn ngừa những mối đe dọa mà quốc gia này có thể tạo ra đối với các lợi ích sống còn của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Theo đó, mục tiêu của chính sách ngăn chặn Iran - Iraq là “chặn đứng các mối đe dọa từ Iran và Iraq đến lợi ích của Mỹ, cô lập và làm suy yếu Iran và Iraq cả về chính trị và kinh tế, duy trì cân bằng quyền lực ở Trung Đông” [212; tr.79]. Trong cuốn sách “Rogue States and U.S. Foreign Policy: Containment After the Cold War” (Các quốc gia bất hảo và chính sách đối ngoại của Mỹ: ngăn chặn sau Chiến tranh Lạnh) của hai nhà nghiên cứu Robert S. Litwak, Robert Litwak đã nhận định rằng: “những mục tiêu đã được tuyên bố của chính sách của Mỹ đối với Iran là dung hòa hành vi của Iran và thúc đẩy quá trình xã hội hóa của Iran vào trong trong xã hội thế giới” [179]. Một số nhà nghiên cứu ở Iran cũng có những nhận định tương tự với các học giả phương Tây khi đánh giá về mục tiêu trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Theo Mohammad Jamshidi (Đại học Tehran), ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Mỹ với Iran nhằm biến Iran thành một quốc gia bị cô lập, phá hoại hình ảnh của chính quyền Iran ở trong khu vực, ngăn cản các quốc gia khác học tập theo mô hình chính trị của nước Cộng hòa Islam này [143; tr.68-72].
75
Từ ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, có thể nhận thấy mục tiêu ngăn chặn, tiến tới thay đổi chính sách và các hành vi của Iran ở Trung Đông được coi là mục tiêu quan trọng nhất sau năm 1991. Dĩ nhiên, bảo vệ lợi ích của Mỹ cũng là mục tiêu tối thượng trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Để thực hiện được hai mục tiêu bao trùm đó, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran mà cụ thể là chính sách ngăn chặn cần phải thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, ngăn ngừa Iran sở hữu vũ khí hạt nhân (nuclear weapon) và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác (weapons of mass destruction), theo đó hạn chế dần năng lực nghiên cứu và sản xuất hạt nhân của quốc gia Islam này; Thứ hai, ngăn chặn sự hậu thuẫn của Iran cho các nhóm vũ trang người Shi’ite cũng như sự dính líu của Iran trong các cuộc xung đột trong khu vực; Thứ ba, bảo vệ hoạt động khai thác và vận chuyển dầu mỏ ở vùng Vịnh - rốn dầu lớn nhất thế giới, đặc biệt là việc vận chuyển dầu mỏ qua eo biển Hormuz - nơi Iran đang có lợi thế trong việc kiểm soát; Thứ tư, bảo vệ các đồng minh của Mỹ trước “mối đe dọa” đến từ Iran, đảm bảo an ninh và trật tự ở Trung Đông, từ đó nâng cao ảnh hưởng và vị thế của Mỹ ở khu vực này.
Như vậy, trong suốt giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2016, những mục tiêu dài hạn được đặt ra trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran có sự ổn định tương đối. Những mục tiêu đó xoay quanh việc ngăn chặn những mối đe dọa từ Iran, giữ gìn sự ổn định của khu vực đặc biệt là hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, bảo vệ các đồng minh của Mỹ cũng như các lợi ích chiến lược của Mỹ ở trong khu vực. Tuy nhiên, để phù hợp với những thay đổi trong tình hình quốc tế, khu vực và Iran, Mỹ cũng có sự điều chỉnh trong một số mục tiêu ngắn hạn. Theo đó, sau năm 1991, tham vọng của Mỹ trong việc duy trì vai trò đối kháng với Liên Xô của Iran được loại bỏ do lúc này Liên Xô đã tan rã. Mỹ tập trung nhiều hơn vào các mối đe dọa từ phía Iran, đặc biệt là chương trình hạt nhân của Iran cũng như sự can dự của quốc gia này vào các cuộc xung đột ở Trung Đông.
3.1.2. Nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) Những mục tiêu vừa được phân tích ở trên đã chi phối mạnh mẽ nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran. Từ sau cuộc cách mạng Islam năm 1979, Iran đã trở thành “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Mỹ. “Ngăn chặn” (containment) đã trở thành chính sách bao trùm và quan trọng nhất trong chiến lược dài hạn của Mỹ với Iran.
Vậy chính sách ngăn chặn là gì? Khái niệm chính sách ngăn chặn được lần đầu tiên nhắc tới vào năm 1946. Cha đẻ của khái niệm này là George F. Kennan - cố vấn tại Sứ quán Mỹ ở Moscow. Trước những diễn tiến nhanh chóng ở Liên Xô và khu vực Đông Âu sau năm 1945, Kennan đã gửi một một bức điện tín dài 8000 chữ về Washington DC và một bài báo mang tên “Nguồn gốc hành động của Liên Xô” (The sources of Soviet conduct) đăng trên tạp chí Các vấn đề đối ngoại (7/1947). Trong bức điện và bài báo trên, Kennan đã nêu lên những mối đe dọa từ phía Liên Xô và theo ông “không thể xảy ra việc cùng tồn tại một cách hòa bình dài lâu” [166; tr.1]. Để ngăn chặn được Liên Xô và sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, điều cốt lõi là phải có một chính sách dài hạn, kiên nhẫn nhưng cương quyết ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô nhằm làm Liên Xô yếu dần và cuối cùng sẽ bị tan rã. Rất nhanh sau đó, những lý luận về chính sách ngăn chặn Liên Xô của Kennan đã được Tổng thống Truman vận dụng trong thực tiễn. Truman đã phát động một cuộc chiến không tiếng súng nhằm bao vây, cô lập, ngăn chặn tiến tới tiêu diệt hoàn toàn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản - Chiến tranh Lạnh. Trong phạm vi của Chiến tranh lạnh, chính sách ngăn chặn còn được triển khai đối với nhiều trường hợp khác như Hi Lạp, Triều Tiên, Việt Nam, Cu Ba…
76
Trường hợp của Iran sau năm 1979 cũng có nhiều điểm tương đồng với những gì diễn ra ở Liên Xô sau năm 1945. Đối với những người đứng đầu nước Mỹ, những thay đổi chính trị sau cuộc cách mạng Islam năm 1979 ở Iran, đặc biệt là cuộc khủng hoảng con tin đã tác động mạnh đến quá trình hoạch định chính sách của Mỹ với cựu đồng minh này. Thay vì hậu thuẫn tối đa cho Iran như trước đây, Mỹ đưa Iran vào danh sách các quốc gia cần phải được “ngăn chặn” (containment) và “kiềm chế” (restraint). Theo
đó, Mỹ sẽ ngăn chặn, bao vây, cô lập Iran bằng mọi công cụ có thể vận dụng như “trừng phạt, khuyến khích, ngoại giao và quân sự” [47; tr.38] nhằm vô hiệu hóa những chính sách, hành động nguy hiểm của Iran, bảo vệ trật tự ở Trung Đông cũng như những lợi ích sống còn của người Mỹ ở khu vực này.
Về lịch sử hình thành chính sách ngăn chặn của Mỹ với Iran, chính sách này bắt đầu được hình thành từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Cha đẻ của chính sách này là cố vấn an ninh cấp cao của Chính phủ Mỹ - Zbigniew Brzezinski. Vào đầu năm 1980, Zbigniew Brzezinski đã đề xuất những ý tưởng liên quan đến ngăn chặn Iran, Iraq (differentitated containment policy), sau này trở thành chính sách xuyên suốt của Washington đối với Tehran. Là một nhà hoạch định chính sách thuộc trường phái lý thuyết gia chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế, ông đã đưa ra một khung chính sách cứng rắn liên quan đến cả Iran và Iraq17. Zbigniew Brzezinski chủ trương ngăn chặn Iran và Iraq để bảo vệ cho các đồng minh thân cận là Israel và Saudi Arabia. “Trong suốt thập niên 80 (theo Zbigniew Brzezinski), Mỹ luôn cố gắng duy trì vai một vai trò (không chính thức) để cân bằng sức mạnh giữa Iran và Iraq, không để một trong hai quốc gia này giành được bá quyền khu vực, gây hại cho lợi ích của Mỹ” [46; tr.4-5]. Để đạt được mục tiêu đề ra, Mỹ cần thúc đẩy và lợi dụng chiến tranh Iran - Iraq nhằm làm suy yếu cả hai quốc gia này.
Như vậy, với sự khởi xướng của Zbigniew Brzezinski, chính sách ngăn chặn Iran đã bắt đầu được định hình. Theo thời gian, chính sách này dần hoàn thiện và trở nên toàn diện hơn so với ý tưởng ban đầu của Zbigniew Brzezinski. Xét một cách tổng thể, chính sách của Mỹ đối với Iran có sự ổn định tương đối. Theo đó việc đối phó và ngăn chặn những mối đe dọa từ phía Iran được coi là ưu tiên cao nhất đối với chính quyền Mỹ. Các mối đe dọa đó bao gồm: “nền chính trị thiếu dân chủ ở Iran”, cách thức Iran tiếp cận với thế giới, chương trình hạt nhân của Iran, sự dính líu của Iran vào các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông, đặc biệt là ở Afghanistan, Iraq, tiến trình hòa bình Trung Đông cũng như “sự hậu thuẫn” của Iran cho “khủng bố” [47; tr.12-37].
Tuy nhiên, như đã phân tích, do bối cảnh quốc tế khu vực và Iran có nhiều biến động nên chính quyền Mỹ cũng thay đổi một số mục tiêu trong chính sách đối ngoại với Iran. Điều này tất yếu kéo theo những điều chỉnh về nội dung, thực tiễn triển khai chính sách. Có thể thấy rõ sự điều chỉnh trong nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran trong các giai đoạn trước và sau năm 1991.
Trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1991, chính sách của Mỹ đối với Iran xoay quanh bốn vấn đề cơ bản: Thứ nhất, giải quyết cuộc khủng hoảng con tin năm 1979; Thứ hai, tăng cường cấm vận kinh tế; Thứ ba; ngăn chặn Iran “xuất khẩu cách mạng”; Thứ tư, can thiệp vào cuộc chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988).
17 Ngay sau cách mạng năm 1979 ở Iran, Zbigniew Brzezinski đã đưa ra ý tưởng thực hiện một cuộc đảo chính để giúp Shah chống lại lực lượng cách mạng ở Iran nhưng bị Tổng thống Jimmy Carter bác bỏ.
77
Liên quan đến cuộc khủng hoảng con tin (1979 - 1981). Giải cứu các con tin Mỹ được coi là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu đối với chính quyền Mỹ. Để giải quyết được vấn
đề này, Mỹ đã phải triển khai rất nhiều biện pháp khác nhau từ đàm phán, trừng phạt kinh tế, thậm chí triển khai một chiến lược quân sự bí mật trong nỗ lực giải cứu các công dân Mỹ.
Vấn đề quan trọng thứ hai là Mỹ bắt đầu áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế lên Iran. Cấm vận kinh tế vừa là một chính sách đồng thời cũng là một công cụ để chính quyền Mỹ thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu khác. Mỹ chủ trương triệt tiêu mọi nguồn lực kinh tế của Iran ở nước ngoài, đóng băng tài sản của Chính phủ Iran ở các ngân hàng ở Mỹ và các quốc gia đồng minh của Mỹ. Bên cạnh đó, để hạn chế sức mạnh kinh tế Iran về dài hạn, Mỹ áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế toàn diện lên Iran. Đây không phải là lần đầu tiên Mỹ áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế đối với một quốc gia. Tình hình ở Iran cũng tương tự như những gì đã diễn ra với Cu Ba sau năm 1959 và Việt Nam sau năm 1975…
Vấn đề cốt lõi thứ ba trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran giai đoạn 1979 - 1991 là tham vọng “xuất khẩu cách mạng” của Iran. Theo CIA, sau khi cách mạng Islam bùng nổ và thắng lợi ở quốc gia này, các nhà lãnh đạo của chính quyền mới hướng đến tham vọng xuất khẩu cách mạng của người Shi’ite ra khắp Trung Đông. CIA cũng đánh giá rằng “nỗ lực xuất khẩu cách mạng của Iran đe dọa đến lợi ích của Mỹ ở Trung Đông. Các đồng minh của Mỹ ở khu vực này có lí do để lo lắng nếu Iran đóng một vai trò năng nổ hơn. Sự hậu thuẫn của Iran có thể dẫn tới sự phá hoại và tấn công của các công nhân dầu mỏ tại các mỏ dầu bởi lẽ người Shi’ite sinh sống tập trung ở các khu vực sản xuất dầu mỏ thuộc các quốc gia vùng Vịnh” [59; tr.1]. Để đối phó với vấn đề này, Mỹ tiến hành một loạt các biện pháp như: tăng cường sự hiện diện quân sự với học thuyết Carter, tăng cường tiềm lực quân sự cho các quốc gia vùng Vịnh nói riêng và toàn Trung Đông nói chung thông qua viện trợ quân sự, các hợp đồng bán vũ khí…
Cuối cùng, liên quan đến cuộc chiến tranh Iran - Iraq, các nhà cầm quyền Mỹ chủ trương lợi dụng mối quan hệ căng thẳng giữa Iran – Iraq lúc bấy giờ để thúc đẩy một cuộc chiến tranh nhằm ngăn chặn cả Iran lẫn Iraq. Nếu chiến tranh xảy ra, Mỹ không cần phải can thiệp trực tiếp mà vẫn có thể làm suy yếu sức mạnh của cả hai cường quốc ở Trung Đông đồng thời hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô trong cuộc chiến này. Cố vấn Zbigniew Brzezinski chủ trương: 1) tận dụng sự bất hòa trong mối quan hệ của Iran và Iraq nhằm hỗ trợ cho mục tiêu lật đổ chính quyền cách mạng Iran. Theo đó, chính quyền Mỹ chủ động làm tan băng trong mối quan hệ với Saddam Hussein cho dù Iraq lúc đó đang bị xếp vào các quốc gia khủng bố; 2) thúc đẩy cuộc chiến tranh giữa Iran – Iraq nổ ra, coi đó là công cụ quan trọng và chủ yếu để giải phóng các con tin của Mỹ trong vụ bắt cóc ở Đại sứ quán Mỹ ở Tehran (1979); 3) sử dụng những cựu quan chức của Iran lưu vong ở nước ngoài, đặc biệt là Tổng tư lệnh dưới thời của Shah – Oveisi làm “người đưa tin” để thúc giục Saddam Hussein tấn công Iran [101; tr.12 - 28].
78
Bước sang giai đoạn từ năm 1991 - 2016, những vấn đề trọng tâm trong chính sách
của Mỹ đối với Iran có những điều chỉnh nhất định. Trước đó, dù Iran phá vỡ quan hệ đồng minh với Mỹ và bị Mỹ đưa vào danh sách các quốc gia “tài trợ cho khủng bố”, cần phải được giám sát và ngăn chặn nhưng Mỹ vẫn để ngỏ khả năng duy trì vai trò chống Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản của Iran. Nhất là khi phía Iran cũng chủ trương “không Xô, không Mỹ chỉ có Islam là trên hết”. Tuy nhiên, khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ không còn lý do để duy trì vai trò chống Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản của Iran. Thay vào đó, Mỹ tập trung vào các mối đe dọa từ phía Iran đến các lợi ích sống còn của Mỹ ở Trung Đông. Có ba vấn đề nổi bật nhất trong chính sách của Mỹ đối với Iran thời kỳ này, đó là: chương trình hạt nhân của Iran; Sự can dự của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông và cấm vận kinh tế. Trong đó, ngăn chặn chương trình hạt nhân được coi là vấn đề cốt lõi và quan trọng nhất trong chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn từ năm 1991 - 2016.
Liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran, thực chất vấn đề này đã bắt đầu tạo ra sự chú ý đối với giới cầm quyền Mỹ từ cuối thập niên 1980 - thời điểm Iran tái khởi động hoạt động các cơ sở nghiên cứu hạt nhân. Tuy nhiên, như đã phân tích ở chương trước, tình hình chỉ thực sự nghiêm trọng khi bước sang những năm 1990 -2000, Iran liên tiếp xây dựng và đưa các cơ sở hạt nhân mới vào hoạt động. Thêm vào đó, khả năng làm giàu uranium của quốc gia này ngày càng tiến bộ. Iran đã tự làm giàu uranium 19,7% - mức độ có thể ứng dụng sản xuất vũ khí hạt nhân. Khả năng Iran sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ là một kịch bản rất xấu đối với nhà cầm quyền Mỹ. Cựu Thứ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ, Wendy Sherman đã từng phát biểu trong một phiên điều trần trước Nghị viện rằng “Từ lâu chúng ta đã nhận ra rằng chương trình hạt nhân của Iran đã tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với an ninh quốc gia cũng như các lợi ích của chúng ta ở khu vực Trung Đông. Chế độ ở Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể làm Trung Đông trở nên bất ổn, đặt các đồng minh và đối tác của chúng ta vào nguy hiểm và hủy hoại các quốc gia không có vũ khí hạt nhân trên toàn cầu” [265; tr.7]. Do vậy, chính quyền Mỹ đã tập trung nhiều nguồn lực, áp dụng nhiều công cụ khác nhau nhằm ngăn chặn Iran có thể sở hữu loại vũ khí chiến lược này. Có ba biện pháp đã được Mỹ triển khai trên thực tế. Trước hết, Mỹ “áp đặt các lệnh trừng phạt hiệu quả lên Iran trong trường hợp cần thiết” [266; tr.23], đặc biệt là cấm vận vũ khí cũng như các thiết bị có thể được ứng dụng trong việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt đối với Iran. Bên cạnh đó, Mỹ cũng tăng cường sức ép lên cộng đồng quốc tế “để làm gián đoạn hoặc làm chậm lại khả năng thu thập các thiết bị được sử dụng trong chương trình máy li tâm và các chương trình hạt nhân khác của Iran từ nước ngoài” [266; tr.23]. Cuối cùng, Mỹ tìm cách đàm phán với Iran khi thuận lợi nhằm đạt được một thỏa thuận hạt nhân với Iran theo hướng có lợi nhất cho Mỹ và các đồng minh.
79
Ngăn chặn sự can dự của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực và chính sách hậu thuẫn cho các tổ chức vũ trang người Shi’ite cũng là một trong những ưu tiên đặc biệt trong chính sách Mỹ sau năm 1991. Mỹ cho rằng sự hậu thuẫn của Iran cho các nhóm vũ trang người Shi’ite như Hezbollah, Hamas - các tổ chức bị Mỹ liệt vào danh
sách khủng bố, gây ra sự bất ổn trong khu vực, làm chậm lại tiến trình hòa bình Trung Đông, đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của Israel, cũng như các lợi ích khác của Mỹ. Để đối phó với chính sách trên của Iran, Mỹ đã triển khai đồng loạt nhiều biện pháp khác nhau: củng cố mối quan hệ với các đồng minh trong quân sự thông qua các hiệp định hợp tác quốc phòng, tăng cường các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông, tăng cường viện trợ quân sự cũng như các hợp đồng bán vũ khí cho các quốc gia Trung Đông, can thiệp quân sự trong trường hợp cần thiết.
Cấm vận kinh tế vẫn tiếp tục là một nội dung cốt lõi trong chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 1991. Việc triển khai cấm vận kinh tế toàn diện lên Iran sẽ tạo điều kiện để Mỹ có thể đạt được các mục tiêu quan trọng trong đó có việc dừng chương trình hạt nhân cũng như sự can thiệp của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực.
Những nội dung chính trong chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 - 2016 cơ bản xoay quanh những vấn đề đã được phân tích ở trên. Tuy nhiên, trong một nền chính trị mà Tổng thống có quyền lực cao nhất như ở Mỹ, khi phân tích nội dung chính sách của Mỹ đối với Iran cũng cần lưu ý đến những điều chỉnh trong các quyết sách và triển khai thực tế của mỗi một Tổng thống. Tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử và cả những thay đổi trong lòng nước Mỹ, các ông chủ của Nhà Trắng sẽ có những điều chỉnh nhất định trong các vấn đề ưu tiên cũng như thực tiễn triển khai chính sách ngăn chặn đối với Iran.
Với Tổng thống Jimmy Carter, dấu ấn cá nhân của Jimmy Carter trong vấn đề Iran trước hết được thể hiện ở việc ông quyết định không can thiệp vào Iran khi cuộc cách mạng Islam bùng nổ. Nhiều nhà bình luận cho rằng việc chế độ quân chủ thân Mỹ nhanh chóng sụp đổ ở Iran một phần lớn là do sự thờ ơ của nước Mỹ. Quyết định không can thiệp của Jimmy Carter thể hiện rõ tính cách cũng như chiến lược mới của Jimmy Carter. Thay vì theo đuổi mục tiêu kiềm chế Liên Xô giống như những người tiền nhiệm, Jimmy Carter đặt vấn đề “dân chủ và cải thiện dân chủ trên thế giới” là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Với trường hợp của Iran, dù chính quyền của Shah khi đó là “một trong hai trụ cột song sinh” của Mỹ ở Trung Đông, Jimmy Carter không hài lòng hoàn toàn với cách cai trị độc đoán của nhà vua Iran. Do vậy, khi cách mạng Iran diễn ra, Jimmy Carter hầu như không có bất cứ sự can thiệp nào để trợ giúp người bạn đồng minh Reza Pahlavi. Jimmy Cater cũng gạt bỏ một kế hoạch đảo chính tương tự như năm 1953, nhằm can thiệp vào nền chính trị Iran lần nữa, lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của Khomeini, đưa Shah trở lại ngai vàng. Thậm chí, Jimmy Carter còn muốn công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính quyền mới ở Iran nếu không có cuộc bắt cóc con tin tại Đại sứ quán Mỹ ở Tehran.
80
Hai là, trong suốt nhiệm kỳ của Carter, ưu tiên trong chính sách đối ngoại với Iran xoay quanh vấn đề giải phóng con tin. Chính quyền của Carter sử dụng trừng phạt như là một công cụ hỗ trợ cho những nỗ lực giải cứu con tin của chính quyền Mỹ chứ không ưu tiên cho các biện pháp quân sự. Thay vào đó, chính quyền của Carter chủ trương
đứng đằng sau hậu thuẫn cho Iraq để chống lại người láng giềng Iran. “Washington tin rằng nếu những kẻ cuồng tín Islam giáo ở Tehran đánh bại Iraq, đường ống dẫn dầu qua Vịnh Ba Tư có thế bị gián đoạn hay thậm chí sẽ bị dừng hoàn toàn. Bên cạnh đó sự an toàn của Israel - đồng minh then chốt của Washington ở khu vực có thể gặp nguy hiểm” [42; tr.4]. Chính vì vậy, Mỹ sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Iraq trong cuộc chiến tranh xâm lược Iran với tham vọng tạo sức ép đẩy nhanh quá trình phóng thích con tin và tiến tới làm suy yếu Iran. Tuy nhiên, với việc Jimmy Carter không thể giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1981, những chính sách liên quan đến Iran hầu như vẫn chỉ ở dạng ý tưởng.
Bước sang thời của Ronald Reagan, chính sách của Mỹ đối với Iran có sự tiếp nối chính sách ngăn chặn của chính quyền Jimmy Carter song có phần cứng rắn, mạnh mẽ và quyết liệt hơn [101; tr.28]. Đối với Reagan, Iran là mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với lợi ích của Mỹ ở Trung Đông. Điều này được thể hiện trong các phát biểu của ông: “Iran, Lybia, Bắc Triều Tiên, Cuba và Nicaragua” là “liên minh các quốc gia khủng bố” “đang thực hiện các cuộc chiến tranh nhằm chống lại nước Mỹ”. Và Mỹ - “một nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố, có quyền được tự vệ theo luật pháp quốc tế” [272; tr.1]. Chính quyền Reagan cho rằng Iran đứng sau cuộc khủng hoảng con tin ở Lebanon. Theo đó, Hezbollah – nhóm dân quân người Shi’ite được Iran đỡ đầu đã thực hiện tổng cộng gần 96 vụ bắt cóc con tin, chủ yếu là công dân Mỹ và Phương Tây [218; tr.51]. Trong đó có cả những quan chức cấp cao của Mỹ như Cục trưởng William Buckley hay Hiệu trưởng trường Đại học Mỹ ở Beirut – David Dodge... Iran cũng được cho là đứng đằng sau các nhóm vũ trang ở Bahrain cũng như tham vọng sáp nhập Iraq vào lãnh thổ Iran nếu Iran giành được chiến thắng. Xuất phát từ những lo ngại đó, Iran đã trở thành một trong số chín ưu tiên trong Học thuyết của Reagan [213; tr.1]. Việc ngăn chặn ảnh hưởng của Iran thông qua chiến tranh Iran - Iraq cùng với các lệnh trừng phạt khắt khe trở thành ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách của Reagan đối với Iran.
81
So với Ronald Reagan, George H W. Bush theo đuổi một chính sách có phần mềm mỏng hơn với Iran. Trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Iran đã có một vài trợ giúp đáng kể cho các quốc gia Phương Tây trong việc đánh bại quân của Saddam Husesein trong cuộc chiến lần này. Vì thế, thái độ của nhiều quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ với Iran có biến chuyển nhất định. Một số quốc gia châu Âu đã nối lại quan hệ và đặt sứ quán tại Tehran, thậm chí dỡ bỏ một phần các lệnh cấm vận đối với Iran. Chính quyền của Bush (cha) cũng có những động thái mới liên quan đến Iran. Mỹ đồng ý nới lỏng các lệnh trừng phạt cũng như đồng ý nhập khẩu dầu mỏ từ Iran. Kể từ sau khi Mỹ áp đặt các lệnh cấm vận đầu tiên lên Iran, đây là lần đầu tiên chính quyền Mỹ có những động thái xuống thang như vậy. Điều này phản ánh độ mềm mỏng nhất định trong chính sách của chính quyền Bush (cha) với Iran. Tuy nhiên, khi đối mặt với cuộc khủng hoảng con tin, Bush (cha) kiên định theo tư tưởng “không thỏa hiệp với khủng bố” từ thời Ronald Reagan. Bush (cha) đã nhiều lần thể hiện quan điểm cứng rắn trong việc gây sức
ép buộc Iran phải tác động đến Hezbollah nhằm thả công dân Mỹ. Ông từng ra lệnh tái đóng băng tài khoản của Iran ở Ngân hàng của Mỹ trị giá 567 triệu đô la. Hành động kiên quyết của Bush đã buộc Iran phải có những động thái tác động lên Hezbollah. Đến năm 1991, con tin người Mỹ cuối cùng đã được thả ra. Bush (cha) cũng kiên quyết ngăn chặn tham vọng phát triển chương trình hạt nhân của Iran bằng việc ra một loạt sắc lệnh cấm vận để trừng phạt Iran. Như vậy, điểm cốt yếu trong chính sách của Bush (cha) vẫn là ngăn chặn. Chính quyền Bush (cha) chủ động thương thuyết với phía Iran về vấn đề thả các công dân Mỹ bị bắt làm con tin ở Lebanon, nhưng ông cũng sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ trước những “hành vi” có hại cho lợi ích quốc gia của Mỹ, đặc biệt là chương trình hạt nhân của Tehran.
Bill Clinton là một trong những tổng thống để lại nhiều di sản quan trọng trong vấn đề đối ngoại với Iran với chính sách “ngăn chặn kép” - Dual containment. Cũng giống như những người tiền nhiệm, Tổng thống Bill Clinton coi Iran là một mối đe dọa đối với hòa bình Trung Đông và những lợi ích của Mỹ. Bill Clinton dành nhiều tâm huyết cho tiến trình hòa bình Trung Đông, nhằm giải quyết cuộc xung đột dai dẳng giữa Israel và Palestine. Chính vì vậy, đối với Clinton, việc Iran hậu thuẫn lực lượng Hamas ở Palestine và Hezbollah ở Lebanon được ông đặc biệt quan tâm. Cả hai tổ chức vũ trang này được cho là phải chịu trách nhiệm cho nhiều cuộc tấn công nhằm vào Israel và bị chính quyền Mỹ, Israel xếp vào danh sách khủng bố. Do đó, “Iran và những tổ chức mà nước này hậu thuẫn như Hamas, Hezbollah phải chịu trách nhiệm trước những hành động phá hoại tiến trình hòa bình ở Trung Đông” [147; tr.19]. Xuất phát từ quan điểm đó, chính sách “ngăn chặn” được hình thành từ thời Jimmy Carter tiếp tục là kim chỉ nam cho chính quyền Bill Clinton đối với các vấn đề liên quan đến Iran. Trong 8 năm cầm quyền của Bill Clinton, chương trình hạt nhân của Iran là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt. Bên cạnh việc áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế, Bill Clinton còn thông qua một số đạo luật cấm vận liên quan đến việc chống phổ biến vũ khí hủy diệt ở Iran, tiêu biểu như Đạo luật chống phổ biến vũ khí hạt nhân Iran (Iran Nonproliferation Act of 2000) được thông qua vào ngày 14/3/2000 [93; tr.71].
Các biện pháp quân sự không phải là sự lựa chọn của Bill Clinton với trường hợp của Iran. Ông chủ trương tăng sức ép bằng cấm vận kinh tế cũng như tận dụng mâu thuẫn giữa Iran – Iraq nhằm làm suy yếu Iran từ đó thay đổi hành vi của quốc gia này ở khu vực Trung Đông. Cấm vận kinh tế được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất của Mỹ dưới thời Bill Clinton. Chính Clinton đã thông qua Đạo luật cấm vận Iran – Libya (ILSA) (1996). Đạo luật này đánh mạnh vào khả năng huy động vốn đầu tư của Iran, đặc biệt là trong lĩnh vực dầu mỏ. Mọi khoản đầu tư trên 20 triệu đô la vào Iran đều bị cấm [68; tr.3-4]. Song song với các lệnh trừng phạt cứng rắn nhằm tạo áp lực tối đa, chính quyền Bill Clinton cũng nhiều lần để ngỏ khả năng đàm phán với Iran nhằm giải quyết những bất đồng giữa hai nước.
82
Còn đối với Tổng thống George W Bush (Bush con), chính sách đối với Iran phải
phục vụ cho chiến lược chống khủng bố của nước Mỹ. Trong “Chiến lược an ninh quốc gia” năm 2002, ông đã khẳng định “Nước Mỹ đang có một cuộc chiến tranh chống lại những kẻ khủng bố trên phạm vi toàn cầu. Kẻ thù của chúng ta không phải là một chế độ chính trị, một cá nhân, một tôn giáo hay một hệ tư tưởng. Kẻ thù của chúng ta là chủ nghĩa khủng bố - chủ trương sử dụng bạo lực nhằm vào những người vô tội để đạt được các mục tiêu chính trị” [49; tr.5], và “Ưu tiên trước nhất của chúng ta là chặn đứng và phá hủy hoàn toàn các tổ chức khủng bố trên phạm vi toàn cầu” [49; tr.5]. Bush đặc biệt chú ý đến chính sách hỗ trợ của Iran cho các nhóm vũ trang bị Mỹ coi là khủng bố như: Hezbollah, Hamas, Taliban... Chính vì vậy, George W Bush theo đuổi một chính sách đặc biệt cứng rắn với Iran. Trong hai nhiệm kỳ của Bush, chính quyền Mỹ không chủ động đưa ra các đề nghị đàm phán như Tổng thống Bill Clinton và các cộng sự của ông đã làm. Trong quan điểm của Bush, chính quyền Iran có liên hệ chặt chẽ với khủng bố, và chính quyền Bush sẽ không thương lượng với “khủng bố”. Bush chủ trương tăng cường sức ép lên Iran bằng cách gia hạn nhiều đạo luật cấm vận, cũng như áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế mới lên quốc gia Trung Đông này. Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Tổng thống Bush không ít lần bày tỏ công khai mong muốn “thay đổi thể chế chính trị ở Iran” [169; tr.130]. Đồng thời Bush luôn để ngỏ khả năng can thiệp quân sự để giải quyết các vấn đề xung đột với Iran [147; tr.19]. Vào tháng 8/2005, Tổng thống Bush cảnh báo “Các biện pháp vũ lực vẫn đang được đặt lên bàn lựa chọn để buộc Iran phải tuân thủ các yêu cầu quốc tế liên quan đến việc dừng việc làm giàu uranium” [169; tr.130]. Đây chính là điểm khác biệt của George W Bush đối với các đời tổng thống khác trong vấn đề Iran. Tuy nhiên, dù nhiều lần đe dọa sử dụng vũ lực với Iran, nhưng trên thực tế, Bush chưa một lần biến lời nói thành hành động. Điều này xuất phát từ nhiều lí do. Thứ nhất, so với Iraq, tiềm lực quốc phòng và kinh tế của Iran vượt trội hơn hẳn. Thứ hai, để ổn định tình hình Iraq sau cuộc chiến tranh năm 2003, Mỹ cần sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo người Shi’ite ở Iraq – lực lượng kiểm soát phần phía Nam và phía Đông lãnh thổ Iraq. Thứ ba, Iran đang nắm quyền kiểm soát eo biển Hormuz – tuyến hàng hải đặc biệt quan trọng đối với hoạt động vận chuyển dầu thô từ Vùng Vịnh ra quốc tế. Và cuối cùng, nếu Iran sở hữu vũ khí hạt nhân, việc Mỹ gây chiến có thể tạo ra một thảm họa hạt nhân không chỉ ở Trung Đông mà có thể ảnh hưởng tới toàn nhân loại, trong đó có chính nước Mỹ.
83
Trong khi đó, với chính quyền của Tổng thống Barack Obama, ngăn ngừa chương trình hạt nhân của Iran được coi là ưu tiên hàng đầu trong suốt 8 năm cầm quyền của mình. Obama theo đuổi một chính sách tương đối mềm mỏng và linh hoạt với Iran. Trong quan điểm của Obama, Mỹ cần phải thúc đẩy Iran hạn chế sự phát triển của chương trình hạt nhân thông qua các biện pháp ngoại giao và xây dựng lại mối quan hệ với Iran sau nhiều thập kỷ đối đầu căng thẳng. Thỏa thuận hạt nhân với Iran và quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận được coi là những thành tựu lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống Barack Obama.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, dù cách mà Obama triển khai chính sách đối với Iran có phần linh hoạt, mềm mỏng hơn so với những người tiền nhiệm, nhưng trung tâm của chính sách ấy vẫn là ngăn chặn. Theo đó, dù không sử dụng vũ lực, nhưng đối với trường hợp Iran “Mỹ sẽ truyền tải những thông điệp cứng rắn, trực tiếp rằng nếu Iran không thay đổi “hành vi” Iran sẽ phải trả một cái giá rất đắt” [102; tr.99], cụ thể là áp lực tối đa từ các lệnh cấm vận. Chẳng hạn, để phản ứng lại với sự bất hợp tác của Iran trên bàn đàm phán cũng như việc chính quyền Iran đàn áp Phong trào Xanh trong nước (Green Movement) trong năm 2009, chính quyền Obama đã tăng cường các lệnh cấm vận kinh tế. Chính sách này của Obama nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các đồng minh và Liên hợp quốc trong suốt những năm 2010 - 2013, gây ra những khó khăn lớn cho Iran trong phát triển kinh tế [147; tr.22].
Nhìn chung, chính sách của Mỹ với Iran trong suốt giai đoạn từ năm 1979 - 2016 có sự thống nhất tương đối khi ngăn chặn được coi là chính sách trọng tâm, bao trùm lên quan điểm và hành động của chính quyền Mỹ trong các vấn đề liên quan đến Iran. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, đặc biệt là những thay đổi trong tình hình Iran, trong quan hệ quốc tế trước và sau năm 1991, những nội dung được ưu tiên trong chính sách của Mỹ đối với Iran được điều chỉnh cho phù hợp. Nếu như giải cứu con tin và chiến tranh Iran - Iraq được coi là hai điểm then chốt trong chính sách của Mỹ với Iran trước năm 1991, thì chương trình hạt nhân của Iran cùng sự can thiệp của quốc gia này vào các xung đột khu vực mới là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Mỹ sau năm 1991. Ngoài ra, các vấn đề ưu tiên cũng như cách thức triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) còn phụ thuộc vào quan điểm và chiến lược của mỗi một Tổng thống Mỹ từ Jimmy Carter đến Barack Obama.
3.2. Quá trình triển khai chính sách 3.2.1. Giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1991 3.2.1.1. Giải quyết cuộc khủng hoảng con tin (1979 - 1981) Trong những năm 1979 - 1981, việc giải cứu các công dân Mỹ bị bắt cóc ở Đại sứ quán Mỹ ở Tehran được coi là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu đối với nước Mỹ. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng con tin lớn đến mức trong suốt nửa nhiệm kỳ còn lại của Tổng thống Jimmy Carter, việc giải phóng các công dân Mỹ được coi là một trong những ưu tiên cao nhất, tác động mạnh mẽ đến các quyết sách của Nhà Trắng đối với Iran trong cả thập niên sau đó. Thậm chí nó cũng được cho là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của Jimmy Carter trong cuộc vận động tranh cử cho nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ sự bất mãn của người Iran đối với chính quyền Mỹ. Việc Mỹ chấp nhận cho Nhà vua Iran tị nạn và chữa bệnh ung thư bị coi là một nguy cơ tiềm ẩn đối với chế độ mới được thiết lập ở Iran. Nhiều người Iran cho rằng việc Mỹ chấp nhận cho vua Iran tị nạn để chữa bệnh có thể là khởi đầu cho một cuộc đảo chính giống như Mỹ đã từng thực hiện vào năm 1953.
84
Ngày 04/11/1979, gần 300 sinh viên quân sự đã bao vây, tấn công và giành
quyền kiểm soát Đại sứ quán Mỹ ở Tehran – một tình huống kịch tích mà ngay cả chính quyền cách mạng Iran cũng bất ngờ [125; tr.51]. Ibrahim Asgharzadeh, Abbas Abdi và Mohsen Mirdammadi là ba thủ lĩnh đóng vai trò trung tâm trong toàn bộ kế hoạch chiếm giữ đại sứ quán.100 nhân viên của Đại sứ quán bị bắt giữ làm con tin, trong đó có 66 công dân Mỹ [72; tr.35-36]. Đây là tình huống rất nguy hiểm bởi lẽ tại thời điểm cuối năm 1979 vẫn còn 70.000 công dân Mỹ đang sinh sống và làm việc tại Iran [88; tr.45]. Ngày 17/11/1979, để thể hiện thiện chí, Lãnh tụ tinh thần tối cao Khomeini đã hạ lệnh thả một số con tin là phụ nữ và người Mỹ gốc Mỹ, chỉ còn 52 nhà ngoại giao Mỹ và các nhân viên khác bị giam giữ. Tuy nhiên, quá trình thương thuyết sau đó giữa Mỹ và Iran đã diễn ra vô cùng khó khăn dẫn đến cuộc khủng hoảng con tin kéo dài tới 444 ngày.
Để tạo áp lực lên chính quyền cách mạng ở Iran nhằm thúc đẩy việc giải phóng các con tin, Mỹ ngay lập tức phản ứng bằng việc phong tỏa tài sản của chính phủ Iran ở Mỹ, đồng thời tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iran vào ngày 7/4/1980. Mọi vấn đề có liên quan tới nước Mỹ và lợi ích Mỹ trên đất Iran sẽ được ủy nhiệm cho Đại sứ quán Thụy Sỹ ở Tehran giải quyết. Tương tự, Iran cũng rút đại sứ về nước, các vấn đề của Iran tại Mỹ sẽ được Sứ quán của Pakistan đứng ra đại diện. Iran chỉ duy trì đại diện của mình ở New York, nơi Liên Hợp quốc đóng trụ sở.
18 Các máy bay thực hiện nhiệm vụ của Mỹ liên tục gặp trục trặc, tự đâm lẫn nhau, tạo ra một vụ nổ lớn gần thủ đô Tehran của Iran. Để tránh sự truy đuổi của quân đội Iran, tất cả biệt kích và đội hậu cần của Mỹ đã lên máy bay EC- 130. Họ tháo chạy vội vàng tới mức không kịp phân loại tài liệu và hủy những chiếc máy bay trực thăng, vốn gần như còn nguyên vẹn. Ngày hôm sau, hình ảnh xác những chiếc máy bay cháy đen trên sa mạc Persian được phát đi toàn thế giới, biểu tượng cho sự hạ nhục chưa từng có đối với một siêu cường như Mỹ. Trong số 5 chiếc trực thăng bị bỏ lại có một chiếc bị hư hại nhẹ trong khi 4 chiếc còn khá nguyên vẹn. Sau đó, Hải quân Iran đã sử dụng chiếc CH-53D số 2 và số 8 mà biệt kích Mỹ bỏ lại và coi đó như một biểu tượng chiến thắng “đế quốc” của Iran. Như vậy, nỗ lực giải cứu con tin Mỹ bằng một chiến dịch quân sự đã thất bại ngay từ khâu chuẩn bị.
85
Năm tháng sau vụ bắt giữ con tin diễn ra (4/1980), Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã viện đến mọi biện pháp phi bạo lực để giải quyết cuộc khủng hoảng con tin như: ngưng nhập khẩu dầu mỏ từ Iran, cắt đứt quan hệ ngoại giao, yêu cầu sự can thiệp từ Liên Hợp quốc, gửi nhiều đoàn thương thuyết của bên thứ ba, huy động nguồn lực chất xám từ các chuyên gia Iran đang sinh sống và làm việc ở các trường đại học ở Mỹ [125; tr.2]… Nhưng tất cả những nỗ lực của chính quyền Mỹ đều không thể đem đến kết quả như mong đợi. Sự nôn nóng của chính quyền Carter đã đạt đến đỉnh, đặc biệt là khi mức tín nhiệm của cử tri Mỹ giành cho Tổng thống chạm đáy. Ông đã chỉ đạo Bộ quốc phòng Mỹ thực hiện một chiến dịch giải cứu con tin với tên gọi “Móng vuốt đại bàng” (Eagle Claw). Ngày 24/4/1980, Tổng thống Jimmy Carter phát lệnh thực thi chiến dịch “Móng vuốt đại bàng” từ hàng không mẫu hạm USS Nimitz. Tuy nhiên, chiến dịch Móng vuốt Đại bàng tiếp tục trở thành sự thất vọng của nước Mỹ. Chiến dịch đã thất bại ngay từ khâu chuẩn bị18. Sự thất bại này tiếp tục hạ thấp uy tín của Tổng thống Jimmy Carter trong vấn đề giải quyết cuộc khủng hoảng con tin ở Tehran. Sau những thất bại trong việc tạo sức ép lên Iran bằng việc áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tehran hay chiến dịch giải cứu tuyệt mật,
Mỹ buộc phải thay đổi cách tiếp cận với chính quyền Iran với hi vọng mau chóng lấy lại sự tự do cho các công dân Mỹ. Thông qua Đức, hai nước đã có những lần tiếp xúc để bàn bạc về việc thả con tin. Sự nhượng bộ của Mỹ đã mang đến kết quả là Iran chấp nhận sẽ trả tự do cho các công dân Mỹ thông qua việc kí kết Hiệp định Algiers (Algiers Accords). Trong nội dung của hiệp định này, có nhiều điều khoản thể hiện sự nhượng bộ của Mỹ trước Iran. Điều khoản quan trọng nhất là phía Mỹ phải cam kết sẽ không được tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Iran: “Mỹ cam kết rằng kể từ thời điểm hiệp định có hiệu lực, chính sách của nước Mỹ sẽ không can thiệp vào tình hình nội bộ của Iran dù là trực tiếp hay gián tiếp, dù bằng chính trị hay quân sự” (The United States pledges that it is and from now on will be the policy of the United States not to intervene, directly or indirectly, politically or militarily, in Iran’s internal affairs) [25; tr.1]. Với điều khoản thứ nhất trong Hiệp định, Mỹ buộc phải chấm dứt hoàn toàn ảnh hưởng đối với Iran đã tồn tại trong hơn 20 năm (1953-1979) và thừa nhận sự tồn tại của nhà nước cách mạng ở Iran. Bên cạnh đó, Mỹ còn phải trả lại một phần tiền thuộc về chính phủ Iran bị đóng băng trong các ngân hàng của Mỹ. Dưới hiệu lực của Hiệp định Algiers, các công dân Mỹ đã được thả ra vào đúng ngày Ronald Reagan nhậm chức Tổng thống (20/1/1980), chấm dứt 444 ngày khủng hoảng căng thẳng.
Cuộc khủng hoảng con tin kết thúc nhưng hệ lụy của nó đối với quan hệ Mỹ - Iran cũng như vị thế của nước Mỹ ở Trung Đông là vô cùng lớn. Mỹ đã phải chịu nhượng bộ Iran trong nhiều vấn đề, quan trọng nhất là Mỹ cam kết không can thiệp vào Iran. Như vậy, điều đó đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ đánh mất ảnh hưởng lên một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân nhất nhì khu vực Trung Đông. Iran sẽ không còn là đồng minh giúp Mỹ chống lại phong trào dân tộc Arab và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một tổn thất lớn đối với nước Mỹ bởi Iran là thế lực lớn khu vực, có sức ảnh hưởng đáng kể lên nhiều quốc gia như Lebanon, Syria, Yemen cũng như cộng đồng người Islam dòng Shi’ite ở khắp khu vực Trung Đông. Việc “để mất” Iran sẽ tạo ra những khó khăn nhất định đối với Mỹ trong việc tiếp cận các vấn đề liên quan đến khu vực Trung Đông.
Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, cuộc khủng hoảng con tin chấm dứt giúp Mỹ gỡ được thế bị động trong việc lựa chọn chính sách đối với Iran. Nếu như cuộc khủng hoảng con tin vẫn còn kéo dài, Mỹ khó có thể đưa ra những chính sách quyết liệt và cứng rắn đối với Iran. Do vậy, dù Mỹ phải nhượng bộ Iran để đổi lấy sự tự do cho các công dân Mỹ nhưng đó chỉ là sự nhượng bộ nhất thời, quan trọng hơn Mỹ có thể lấy lại thế chủ động trong cuộc cạnh tranh chiến lược dài hạn với Iran ở khu vực Trung Đông.
86
3.2.1.2. Cấm vận kinh tế Cấm vận hay trừng phạt kinh tế “có nghĩa là các hành động do một hoặc nhiều nước trong cộng đồng quốc tế chống lại một hoặc nhiều nước khác với một hoặc cả hai mục đích sau: nhằm trừng phạt nước chịu trừng phạt thông qua cách tước bỏ khỏi họ
một số lợi ích hoặc buộc họ phải tuân thủ một số yêu cầu nhất định mà nước đưa ra lệnh trừng phạt cho là quan trọng” [10; tr.14]. Cấm vận kinh tế là một trong những nội dung xuyên suốt trong chính sách của Mỹ với Iran sau năm 1979. Cấm vận kinh tế vừa là một chủ trương chính sách, vừa là một công cụ để Mỹ ép buộc, thúc đẩy Iran phải nhượng bộ, đàm phán với Mỹ thậm chí thay đổi các hành vi của Iran trong khu vực.
Một vấn đề đặt ra là tại sao chính quyền Mỹ kiên trì sử dụng cấm vận kinh tế như một trong những chính sách quan trọng nhất trong chiến lược ngăn chặn Iran? Điều này xuất phát từ nhiều lý do:
Thứ nhất, trong thời gian nhà vua Mohammad Reza Pahlavi năm quyền, nền kinh tế Iran có độ phụ thuộc nhất định vào nguồn viện trợ cũng như các bản hợp đồng đầu tư của Chính phủ và các tập đoàn của Mỹ. Trong hai thập niên đóng vai trò là đồng minh chiến lược của Mỹ, Iran đã nhận được hơn 2 tỷ 147 triệu USD từ Washington, 1/3 trong số đó là viện trợ kinh tế (750,9 triệu USD) [220; tr.23]. Hơn thế nữa, mặc những nỗ lực hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế toàn diện của Shah – một người từng được học ở Thụy Sỹ, nền kinh tế Iran phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu dầu mỏ. Dầu mỏ được coi là “yết hầu” trong nền kinh tế của quốc gia Trung Đông này. Trước năm 1979, Mỹ cũng là một trong những khách hàng lớn của ngành dầu mỏ Iran. Trong suốt thập niên 70, số lượng dầu mỏ Mỹ nhập từ Iran chỉ thấp hơn so với Saudi Arabia. Năm 1973, trung bình mỗi ngày Mỹ nhập 223 nghìn thùng dầu từ Iran thì đến năm 1978, con số này đã tăng hơn 2 lần, lên 555 nghìn thùng dầu mỗi ngày [286]. Những yếu điểm này của nền kinh tế Iran là cơ sở để người Mỹ chọn lựa trừng phạt kinh tế như một công cụ quan trọng hàng đầu nhằm buộc Iran phải xuống thang với Mỹ trong nhiều vấn đề mâu thuẫn giữa hai nước.
87
Thứ hai, kinh nghiệm thành công trong việc áp đặt cấm vận kinh tế với một số quốc gia Trung Đông trong quá khứ như với Ai Cập, Syria đã thúc đẩy Mỹ lựa chọn cấm vận kinh tế như là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để ngăn chặn Iran. Lấy Ai Cập làm ví dụ. Trong những năm 1963 - 1965, Chính quyền Mỹ đã áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế lên Ai Cập. Nguyên do của lệnh trừng phạt này liên quan tới những hoạt động can thiệp của chính quyền Ai Cập trong các cuộc xung đột ở các quốc gia láng giềng. Ai Cập và Syria đã thiết lập một liên kết để thành lập nước Cộng hòa Arab thống nhất (the United Arab Republic - UAR). Vào năm 1963, UAR đã can thiệp quân sự vào Yemen. Hành động này đã dấy lên những quan ngại đối với chính quyền Mỹ. Mỹ cho rằng sự can thiệp của UAR ở Yemen sẽ làm mất ổn định tình hình ở Saudi Arabia - đồng minh lược của Mỹ. Tổng thống John F. Kennedy đe dọa cắt mọi viện trợ bao gồm các chuyến tàu thực phẩm nhân đạo cho UAR nếu quốc gia này không chịu rút quân trước thời điểm năm 1963 kết thúc. UAR bắt đầu đồng ý rút lui vào đầu năm 1964. Nhưng cũng chính trong khoảng thời gian này, phong trào tẩy chay nước Mỹ lan nhanh ở Ai Cập, dẫn tới những cuộc tấn công nhằm vào công dân và tài sản của Mỹ tại quốc gia Trung Đông này. Cùng phong trào tẩy chay nước Mỹ, Tổng thống Nasser đã xác nhận hỗ trợ tài chính và quân sự cho lực lượng “nổi dậy” ở Congo. Tất cả những sự kiện
ấy giống như giọt nước tràn ly đẩy nhanh sự căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Chính quyền Mỹ tiếp tục siết chặt lệnh trừng phạt đối với UAR, nội dung chủ yếu của nó liên quan đến vấn đề tài chính. Mỹ tạm ngưng việc cung cấp các gói viện trợ mới cho Ai Cập cũng như chương trình trợ giúp lương thực PL 480 với hi vọng buộc người đứng đầu Cairo chấm dứt những hoạt động nguy hiểm cho an ninh khu vực ở Congo [45; tr.122]. Vào tháng 10 năm 1965, Mỹ đã bãi bỏ phần lớn các nội dung trong lệnh trừng phạt với UAR, nhưng Tổng thống Lyndon Johnson vẫn đóng băng gói trợ giúp lương thực PL 480 trị giá 37 triệu đô la. Lệnh trừng phạt kinh tế từ Washington dường đã có những tác động nhất định tới chính sách đối ngoại của chính quyền Cairo. Nasser bắt đầu có những động thái giảng hòa với nước Mỹ, đồng thời bổ nhiệm thủ tướng mới có tư tưởng trung lập. Các quan sát viên của Mỹ đã nhận định rằng việc rút quân khỏi Congo xuất phát từ sự thất bại trong chính sách đối ngoại của Nasser, nhưng lệnh trừng phạt kinh tế của Mỹ cũng góp một phần áp lực không nhỏ dẫn đến những thay đổi trong hành động của Ai Cập. Đáp lại thiện chí từ Cairo, chính quyền Mỹ đã cấp gói viện trợ mới thuộc chương trình PL 480 trị giá 50 triệu đô la cho Ai Cập [45; tr.123]. Rõ ràng, chính sách cấm vận đã phần nào làm thay đổi đường lối cứng rắn của Nasser trong cách giải quyết các cuộc xung đột ở Trung Đông, Châu Phi cũng như ngăn chặn sự lan mạnh của chủ nghĩa dân tộc Arab sang các quốc gia láng giềng. Mặc dù có nhiều bất đồng với chính quyền Washington, nhưng sự cần thiết của các gói viện trợ Mỹ đã buộc Ai Cập phải ứng xử mềm mỏng hơn theo hướng mà Mỹ mong muốn. Bài học của Ai Cập trở thành một điển hình và nhiều nhà hoạch định chính sách ở Mỹ nhìn vào đó để áp đặt chính sách cấm vận với nhiều quốc gia khác có xu hướng đi ngược lại với các lợi ích của nước Mỹ, trong đó có Iran.
Quay trở lại các biện pháp cấm vận của Mỹ đối với Iran, ngay sau khi cuộc khủng hoảng con tin nổ ra, Mỹ đã nhanh chóng thực hiện các biện pháp trừng phạt kinh tế ngặt nghèo nhằm gây khó khăn cho chính phủ mới ở Tehran trong việc giải quyết các khó khăn kinh tế sau cách mạng, trong đó có ba mốc đáng chú ý nhất:
88
Dấu mốc quan trọng đầu tiên là việc Tổng thống Jimmy Carter hạ lệnh cấm nhập khẩu dầu mỏ từ Iran (4/11/1979). Trong lệnh trừng phạt, Washington đặc biệt chú trọng tới công nghiệp dầu mỏ bởi đó là ngành kinh tế quan trọng bậc nhất ở Iran thời kì đó. Nguồn ngân sách quốc gia của Iran phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động xuất khẩu dầu. Dưới hiệu lực của lệnh cấm vận, sản lượng nhập khẩu dầu mỏ từ Iran của Mỹ nhanh chóng giảm xuống. Thậm chí, từ năm 1987 - 1990, con số này chạm đáy xuống 0 thùng dầu (xem phụ lục 9). Để tránh sự thiếu hụt nguồn cung, Mỹ tăng cường nhập khẩu dầu mỏ từ Iraq từ 56.000 thùng nửa đầu năm 1987 lên 323.000 thùng trong năm tiếp theo [233; tr.84]. Mỹ còn tác động đến các đồng minh nhằm hạn chế nhập khẩu dầu từ Iran để tăng thêm áp lực cho Tehran. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… vẫn tiếp tục nhập khẩu dầu từ Iran. Nhiều công ty, tập đoàn nước ngoài phớt lờ các lệnh trừng phạt của Mỹ để đầu tư vào ngành công nghiệp “vàng đen” của Iran. Do đó, chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ đối với
Iran trong giai đoạn 1979 - 1991 chưa thật sự tạo được hiệu ứng như Mỹ mong muốn.
Dấu mốc quan trọng thứ hai là sự kiện Tổng thống Mỹ ra lệnh đóng băng các tài khoản gửi của chính phủ Iran ở các ngân hàng của Mỹ (14/11/1979) khi phải đối diện với cuộc khủng hoảng con tin tồi tệ năm 1979, Mỹ đã phong tỏa toàn bộ tài sản của chính phủ Iran ở nước ngoài. Trong Sắc lệnh số 12170 có viết rõ rằng: “Tôi, Jimmy Carter, Tổng thống của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nhận thấy rằng tình hình ở Iran gây nguy hại đến an ninh quốc gia, chính sách đối ngoại cũng như nền kinh tế của Hoa Kỳ… Do đó tôi ra lệnh phong tỏa ngay lập tức các tài khoản của chính phủ Iran… nằm dưới quyền tài phán của Hoa Kỳ cũng như các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền của Hoa Kỳ” [54; tr.457]. Tuy nhiên, với việc ký kết hiệp định Algiers, bên cạnh cam kết không can thiệp vào nền chính trị của Iran, Mỹ phải trả lại Iran một phần trong số 12 tỷ USD mà phía Mỹ đã phong tỏa nhằm đáp trả sự kiện bắt giữ con tin trước đó. Cụ thể, phía Mỹ đã phải trả lại cho Iran 1.632.917,779 ounce vàng cùng 7 tỷ 955 triệu tiền gửi đảm bảo của Iran trong các ngân hàng của Mỹ.
Dấu mốc đáng chú ý thứ ba là Chính quyền Ronald Reagan ban hành Sắc lệnh cấm vận kinh tế toàn diện lên Iran (số 12613) vào ngày 30/10/1987, trong đó qui định rõ: không một loại hàng hóa, thực phẩm hay dịch vụ nào có nguồn gốc từ Iran có thể được xuất sang Mỹ nếu chúng bị phát hiện có xuất xứ ở Iran hoặc được vận chuyển qua Iran từ sau ngày lệnh trừng phạt có hiệu lực [208; tr.256]. Sắc lệnh số 12613 của Tổng thống Ronald Reagan đã đánh dấu sự thay đổi trong chiến lược trừng phạt của Mỹ chuyển từ tập trung vào một số ngành kinh tế chủ đạo (dầu mỏ) sang trừng phạt lên toàn bộ nền kinh tế Iran. Điều này khiến nền kinh tế của quốc gia Trung Đông này sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong bối cảnh Iran đang dồn sức vào cuộc chiến tranh với Iraq. Sắc lệnh số 12613 đã thể hiện thái độ cứng rắn của chính quyền Reagan trong chiến lược ngăn chặn Iran.
89
Bên cạnh việc áp đặt các lệnh cấm vận với Iran. Mỹ còn gây sức ép lên cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các đồng minh của Mỹ trong việc áp đặt các lệnh cấm tương tự đối với Iran. Cụ thể, Mỹ đã gây sức ép lên các đồng minh Tây Âu, buộc các quốc gia này áp đặt lệnh trừng phạt lên Iran cũng như gây sức ép đối với Liên Xô bỏ phiếu thông qua Nghị quyết trừng phạt của Liên Hợp quốc. Tuy nhiên, ban đầu, 9 thành viên của EC không hoàn toàn đồng tình với yêu cầu này của Mỹ bởi hầu hết các quốc gia này đều có quan hệ kinh tế với Tehran, trong đó có việc nhập khẩu dầu mỏ. Ngày 9/4/1980, Mỹ đe dọa sẽ có hành động quân sự đối với Iran nếu các đồng minh không áp đặt lệnh cấm vận. Đến ngày 10/4, các quốc gia EC vẫn trì hoãn việc đưa ra quyết định cuối cùng và tiếp tục theo đuổi các nỗ lực đàm phán, thương thuyết với phía Iran nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng con tin. Tuy nhiên, khi những nỗ lực mang tính xây dựng không phát huy được hiệu quả, 9 quốc gia EC tuyên bố trừng phạt lên Iran vào ngày 22/4/1980. Lệnh trừng phạt chính thức được thông qua trong các cuộc họp ngày 17 - 18/5/1980 [122; tr.317]. Như vậy, dù không muốn phá vỡ mối quan hệ với Iran, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu dầu mỏ từ quốc gia này, nhưng dưới sức ép của
Mỹ, các đồng minh Tây Âu buộc phải lựa chọn phương án áp đặt lệnh trừng phạt Iran. Sau khi cuộc khủng hoảng con tin được giải quyết, mối quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh Tây Âu liên quan đến vấn đề Iran vẫn tiếp tục diễn ra căng thẳng. Mỹ liên tục tạo sức ép buộc các nước này duy trì lệnh cấm vận với Iran và đưa Iran vào danh sách các quốc gia tài trợ khủng bố. Sức ép từ phía Mỹ buộc các nhà lãnh đạo châu Âu phải duy trì trạng thái “đi dây cân bằng” (tightrope) giữa một bên là quan hệ với Mỹ và một bên là Chính sách đối thoại với Tehran của Hội đồng châu Âu được thông qua vào năm 1992 tại Endinburg.
3.2.1.3. Đối phó với tham vọng “xuất khẩu cách mạng” của Iran Như đã phân tích ở Chương 2, sau khi cách mạng Islam giành thắng lợi, chính quyền mới ở Iran đứng đầu là lãnh tụ tinh thần tối cao Khomeini thường xuyên đề cập tới “xuất khẩu cách mạng” và coi đây là trụ cột thứ hai trong chính sách đối ngoại. Khomeini nhiều lần kêu gọi về “một cuộc cách mạng Islam trên toàn thế giới” [67; tr.1]. Trong bài phát biểu tại lễ kỉ niệm 1 năm ngày lật đổ chế độ quân chủ ở Iran, Khomeini đã tuyên bố rằng “Chúng tôi sẽ xuất khẩu cách mạng ra khắp thế giới bởi vì cuộc cách mạng của chúng tôi chính là đạo Islam, cuộc cách mạng của chúng tôi sẽ tiếp tục cho đến khi những tiếng hò reo “không còn có Chúa mà chỉ có thánh Allah” sẽ chiếm ưu thế trên khắp thế giới” [67; tr.1]. Iran đã dùng xuất khẩu cách mạng như khẩu hiệu để tuyển quân trong chiến tranh Iran - Iraq. Iran cũng bắt đầu ủng hộ cho một số nhóm vũ trang Shi’ite chống Mỹ và Israel ở Trung Đông, tiêu biểu nhất là Hezbollah (được thành lập năm 1982). Trong khi đó, đối với Mỹ, “nỗ lực xuất khẩu cách mạng của Iran là mối đe dọa trực tiếp đến các lợi ích của Mỹ ở Trung Đông” [59; tr.iii], trong đó có việc bảo vệ các đồng minh và đảm bảo một trật tự khu vực có lợi cho Mỹ. Chính vì vậy, việc ngăn chặn tham vọng này được chính quyền Mỹ đặc biệt quan tâm. Mỹ đã triển khai nhiều biện pháp khác nhau cả về kinh tế, chính trị, quân sự nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của Iran ở khu vực cũng như việc Iran đứng sau hậu thuẫn nhiều tổ chức dân quân Shi’ite có xu hướng đối đầu với Mỹ và Israel.
90
Trước hết, Mỹ cắt đứt hoàn toàn viện trợ quân sự cho Iran. Chính quyền Mỹ đã ngưng toàn bộ hoạt động cung cấp vũ khí cho Iran kể từ sau 13/11/1979. Việc bán vũ khí cho Iran bị nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Năm 1984, Iran bị Mỹ xếp vào danh sách các quốc gia chống lưng cho khủng bố [259; tr.304], theo đó quốc gia này sẽ bị hạn chế không được tiếp cận các loại vũ khí, quân trang quân dụng của Mỹ. Năm 1987, Tổng thống Ronald Reagan thông qua Lệnh cấm xuất khẩu các ứng dụng quân sự hiện đại, chính thức loại bỏ Iran ra khỏi các khách hàng có thể tiếp cận với vũ khí hiện đại của Mỹ. Trong những năm 1989 – 1991, nhiều thông tin tình báo cho thấy Iran đã mua sắm được một lượng lớn vũ khí hóa học và sinh học, Mỹ đã lập tức dừng hoàn toàn việc xuất khẩu các sản phẩm, thiết bị, hàng hóa có thể được sử dụng để sản xuất vũ khí hóa học và sinh học cho Iran [237; tr.407-411]. Như vậy, Iran từ chỗ là quốc gia được Mỹ viện trợ quân sự và cung cấp vũ khí nhiều nhất khu vực Trung Đông thì sau năm 1979, quốc gia này bị Mỹ cấm vận vũ khí. Mọi viện trợ quân sự
cùng các hợp đồng bán vũ khí cho quốc gia Trung Đông này đều bị cấm nghiêm ngặt. Cấm vận trong quân sự đã được chính quyền Mỹ tích cực sử dụng trong cuộc đối đầu với Iran bên cạnh các lệnh trừng phạt kinh tế và ngoại giao khác. Việc sử dụng các lệnh cấm vận liên quan đến việc cung cấp vũ khí hiện đại, trong đó có vũ khí nguyên tử, vũ khí hóa học và các chế phẩm liên quan không chỉ giúp Mỹ kiềm chế tham vọng phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt mà còn hạn chế được khả năng hỗ trợ vũ khí của Iran cho các tổ chức vũ trang Shi’ite trong các cuộc đối đầu, xung đột với Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở khu vực Trung Đông.
Biện pháp thứ hai được Mỹ tích cực triển khai là tăng cường sự hiện diện của quân đội Mỹ ở khu vực Trung Đông, đặc biệt là ở vùng Vịnh. Đối mặt với những sự kiện bất thường ở vùng Vịnh, đặc biệt là “sự bất hợp tác” của chính quyền mới ở Iran, Tổng thống Jimmy Carter đã có bài phát biểu đanh thép. Theo đó ông khẳng định: “Mọi nỗ lực nhằm giành quyền kiểm soát Vịnh Ba Tư đều bị coi là cuộc tấn công trực diện vào lợi ích sống còn của nước Mỹ và cuộc tấn công như vậy sẽ bị chúng ta đè bẹp bằng mọi giá, kể cả bằng vũ lực” (Nguyên văn: An attempt by any outside force to gain control of the Persian Gulf region will be regarded as an assault on the vital interests of the United States of America, and such an assault will be repelled by any means necessary, including military force) [146; tr.129]. Chỉ hai tháng sau đó, Lực lượng Phối hợp phản ứng nhanh – Rapid Deployment Joint Task Force, đã được thành lập với địa bàn hoạt động chính là Trung Đông. Đây là lần đầu tiên Mỹ chính thức triển khai quân với quy mô lớn ở khu vực này. Đơn vị phản ứng nhanh được coi là tiền thân của các Trung tâm Chỉ huy Quân sự của Mỹ ở Trung Đông - US CENTCOM (1983). US CENTCOM dưới thời của Tổng thống Ronald Reagan được phát triển rộng hơn với nhiều chức năng, nhiệm vụ so với thời kỳ trước đó, trở thành một trung tâm chỉ huy cho toàn bộ khu vực Trung Đông và một phần Bắc Phi, bao gồm: Afghanistan, Bahrain, Djibouti, Ai Cập, Eritrea, Ethiopia, Jordan, Iran, Iraq, Kenya, Kuwait, Oman, Pakistan, Qatar, Saudi Arabia, Seychelles, Somalia, Sudan, UAE, Yemen [288]. Điểm đáng lưu ý là khu vực US CENTCOM hoạt động chiếm hơn 70% dự trữ dầu mỏ của thế giới, án ngữ những eo biển quan trọng bậc nhất thế giới như Hormuz hay Suez và quan trọng hơn, địa bàn của US CENTCOM có xu hướng bao quanh Iran. Như vậy, với sự mở đường của học thuyết Carter, Mỹ đã bắt đầu tăng cường sự hiện diện quân sự tại Trung Đông, trọng tâm là Vùng Vịnh nhằm bảo vệ các lợi ích của Mỹ và đồng minh trước các mối đe dọa, thách thức trong khu vực, trong đó có Iran với tham vọng xuất khẩu cách mạng.
91
Bản hiệp định hợp tác liên quan đến quân sự với Oman cũng được cho là một nỗ lực quan trọng để Mỹ tăng cường cơ sở quân sự tại khu vực vùng Vịnh. Ngay sau cuộc cách mạng ở Iran, đặc biệt là sự kiện bắt cóc con tin ở đại Sứ Mỹ, Mỹ đã nhanh chóng hối thúc chính quyền Oman cho phép tiếp cận với các cơ sở quân sự của quốc gia này với mục đích kiểm soát tình hình ở Iran. Kết quả là ngày 21 tháng 4 năm 1980, Mỹ và Oman ký kết hiệp định về tiếp cận cơ sở quân sự (Facilities Access Agreement). Chỉ
một ngày sau đó, Mỹ đã sử dụng căn cứ không quân của Oman trên đảo Masirah để tiến hành cuộc giải cứu các con tin trong vụ bắt cóc ở Đại sứ quán Mỹ (Chiến dịch Móng vuốt đại bàng – Operation Eagle Claw) [157; tr.15]. Rõ ràng, trong trường hợp của Oman, sự kiện ở Iran là yếu tố trực tiếp thúc đẩy Mỹ liên minh quân sự với nước này trong nỗ lực kiềm chế và giành lại quyền kiểm soát ở khu vực vùng Vịnh. Với bản hiệp định về tiếp cận các cơ sở quân sự, Oman trở thành quốc gia đầu tiên ở vùng Vịnh ký một hiệp định hợp tác quân sự chính thức với Mỹ.
Như vậy, cùng với sự can thiệp quân sự của Liên Xô ở Afghanistan thì những diễn biến chính trị năm 1979 và thái độ thù địch của chính quyền mới ở Tehran đối với Mỹ trong suốt thập niên sau đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc Mỹ tăng cường việc bố phòng ở khu vực vùng Vịnh nói riêng và toàn bộ Trung Đông nói chung.
Biện pháp quan trọng thứ ba là Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và bán vũ khí cho các đối trọng chính của Iran ở Trung Đông, trong đó chủ yếu là Israel và Saudi Arabia, Iraq. Cần nhìn nhận một cách rộng hơn rằng mục đích chính việc Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và bán vũ khí cho các quốc gia như Israel hay Saudi Arabia là để phục vụ những tính toán chiến lược ở khu vực này. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Iran được cho là một trong số những lý do thúc đẩy Mỹ triển khai việc hỗ trợ tài chính và vũ khí cho các đồng minh. Với trường hợp của Saudi Arabia, sự thay đổi chế độ chính trị ở Iran đã làm đảo ngược quan điểm của quốc gia này với Iran. Mục tiêu “xuất khẩu cách mạng” đã đe dọa trực tiếp đến sự thống trị của người Sunni ở Saudi Arabia cũng như phần lớn các quốc gia Arab khác. Chính vì thế, Iran đã trở thành đối trọng trực tiếp tranh giành bá quyền với Saudi Arabia ở Trung Đông. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ tìm cách tận dụng mâu thuẫn đang bùng phát giữa Saudi Arabia và Iran để kiềm chế Iran. Mỹ coi việc hỗ trợ cho Saudi Arabia là một nhiệm vụ cấp bách. Trong suốt thập niên 80, Mỹ tăng cường hỗ trợ cho Saudi Arabia trên phương diện quân sự như: viện trợ tài chính; tăng cường sự hiện diện quân sự ở vùng Vịnh đảm bảo an ninh cho Saudi Arabia trước các mối đe dọa từ bên ngoài, đặc biệt là từ Liên Xô và Iran; Cử các phái đoàn chuyên gia quân sự (US Military Training Mission in Saudi Arabia) để trực tiếp huấn luyện cho quân đội Saudi Arbia cũng như cố vấn các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia [205; tr.142]…
92
Ngoài viện trợ quân sự, như đã nêu, Mỹ còn tăng cường các hợp đồng bán vũ khí cho Saudi Arabia, đặc biệt là các loại vũ khí chiến lược. Trong suốt thập niên 80, 90, Mỹ cung cấp khoảng 60% vũ khí nhập khẩu của Saudi Arabia và trên 90% với trường hợp của Israel [241; tr.158]. Các hợp đồng bán vũ khí của Mỹ cho quốc gia này có dấu hiệu tăng trong thập niên 80. Từ năm 1983-1992, Mỹ và Saudi Arabia ký kết hàng loạt hợp đồng vũ khí trị giá 30 tỷ 232 triệu 225 nghìn USD. Con số này thậm chí còn lớn hơn giá trị của các hợp đồng trong suốt 32 năm trước đó (từ năm 1950 đến năm 1992, giá trị của các hợp đồng vũ khí chỉ đạt khoảng 21,88 tỷ USD) [256; tr.2-3]. Từ năm 1950 – 1982, số vũ khí được Mỹ chuyển giao thực tế cho Saudi Arabia quy ra tiền đạt 8 tỷ 826 triệu 766 nghìn USD. Tuy nhiên chỉ trong vòng 8 năm, từ năm 1983 – 1991, con số này tăng lên gấp đôi với 17 tỷ 832 triệu 977 nghìn USD. Phần lớn các loại vũ khí được Mỹ
chuyển giao cho Saudi Arabia theo các hợp đồng đã ký kết đều là những vũ khí thế hệ mới, tối tân và hiện đại nhất. Tiêu biểu như vào năm 1981, Mỹ đã bán Hệ thống kiểm soát và cảnh báo sớm AWACs (Airborne Warning and Control System) cho Saudi Arabia – một trong những vũ khí chiến lược quan trọng nhất trong không quân để “bảo vệ các mỏ dầu ở vùng Vịnh” cũng như tăng cường khả năng phòng thủ của Saudi Arabia theo những cam kết trước đó giữa Mỹ và Saudi Arabia [254; tr.5]. Việc Mỹ chuyển hướng viện trợ quân sự và vũ khí sang cho Saudi Arabia – một đối thủ của Iran trong khu vực đã thể hiện những tính toán của Mỹ. Mỹ muốn thông qua Saudi Arabia để ngăn chặn, kìm hãm Iran. Trên thực tế, một lượng lớn vũ khí Mỹ chuyển giao cho Saudi Arabia đã được phân phối lại cho Iraq nhằm chống lại Iran trong Chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988).
Bên cạnh Saudi Arabia, Mỹ cũng tăng cường viện trợ quân sự cho một đồng minh chiến lược khác là Israel. Nếu như trước năm 1979, viện trợ quân sự của Mỹ cho Israel thường duy trì ở mức vài trăm triệu USD thì con số này đã tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn 1979 – 1991. Năm 1979, viện trợ quân sự (bao gồm cả cho vay và trợ cấp quân sự) đạt tới 4 tỷ USD trong tổng số 4 tỷ 888 triệu USD (chiếm 81%) [221; tr.25-26]. Đây là một sự thay đổi lớn trong chính sách viện trợ của Mỹ dành cho Israel bởi ở giai đoạn trước đó, viện trợ kinh tế bao giờ cũng chiếm phần nhiều hơn so với viện trợ quân sự. Từ giữa thập niên 80 trở đi, khi quan hệ Mỹ - Xô căng thẳng trở lại cùng với những diễn biến bất thường ở Trung Đông như việc nhiều công dân Mỹ bị bắt cóc ở Lebanon hay chiến tranh Iran - Iraq đã khiến cho người Mỹ bất an. Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho Israel để thực hiện vai trò “cảnh sát khu vực” (policeman) ở Trung Đông, ngăn chặn Iran cũng như sự trỗi dậy của phong trào dân tộc Arab. Nếu như trước đó, viện trợ quân sự của Mỹ bao gồm cả cho vay (loan) và trợ cấp (grant), thì ở những năm 1985 - 1991, trợ cấp là chủ yếu. “Grant” là dạng viện trợ đặc biệt theo đó Israel sẽ không phải hoàn trả lại tiền hay các vũ khí, thiết bị chiến tranh đã được phía Mỹ cấp. Trong khoảng thời gian từ năm 1985 - 1991, Mỹ đã viện trợ quân sự không hoàn lại cho Israel hơn 12 tỷ USD, chiếm hơn nửa tổng số viện trợ của chính phủ Mỹ cho quốc gia Do Thái này [221; tr.25-26]. Thực tế này không chỉ phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa hai đồng minh mà còn là sách lược của người Mỹ trong việc ngăn chặn Iran thông qua Israel. Chẳng hạn như trong bê bối Iran - Contra, Israel chính là bên trung gian chuyển vũ khí của Mỹ cho Iran.
93
Ngoài Saudi Arabia, Israel, một số quốc gia có vị trí gần gũi với Iran về mặt địa lý cũng nhận được sự hỗ trợ quân sự của Mỹ. Lebanon – quốc gia mà ảnh hưởng Iran mạnh mẽ nhất thông qua tổ chức quân sự Hezbollah là mục tiêu lôi kéo mới của Mỹ. Để hỗ trợ cho chính phủ Lebanon đứng vững trước sự lớn mạnh của Hezbollah, Mỹ đã cũng cấp các gói viện trợ quân sự cho quân đội quốc gia nước này. Chỉ trong nửa đầu thập niên 80, Mỹ đã hỗ trợ khoảng 145 - 190 triệu USD dưới dạng trợ cấp và cho vay (Grants and loans) cho quân đội Lebanon [23; tr.1]. Viện trợ chủ yếu bao gồm huấn luyện quân sự và thiết bị chiến tranh. Khoản viện trợ quân sự quan trọng này đã góp phần cũng cố
quyền lực của chính quyền Lebanon trong suốt cuộc nội chiến năm 1982, trong bối cảnh Hezbollah, tổ chức dân quân Shi’ite được Iran hậu thuẫn giành được tin tưởng cao của người dân Lebanon sau khi có công đẩy lùi quân Israel ra khỏi phần Nam của lãnh thổ quốc gia này.
Jordan – một đồng minh truyền thống khác của Mỹ ở phía Đông Địa Trung Hải cũng nhận được những hỗ trợ đáng kể về quân sự từ phía Mỹ. Đối với chính quyền Mỹ, việc củng cố mối quan hệ với Jordan là rất cần thiết trong bối cảnh ảnh hưởng của Iran ở phần Đông Địa Trung Hải bao gồm các quốc gia Mashreq như: Lebanon, Syria, Jordan, Palestine ngày càng tăng lên. Chính quyền Syria tỏ rõ thái độ ngả về Iran. Lebanon trở thành nơi tranh chấp ảnh hưởng của nhiều cường quốc, trong đó có Iran thông qua tổ chức vũ trang Hezbollah. Do đó, việc duy trì mối quan hệ đồng minh với Jordan sẽ giúp Mỹ cân bằng ảnh hưởng với Tehran. Năm 1991, Mỹ viện trợ cho Jordan hơn 56 triệu USD, trong đó 20 triệu USD dành cho quân sự [225; tr.21].
Như vậy, để đối phó với chiến lược xuất khẩu cách mạng của Iran, Mỹ đã viện tới nhiều biện pháp khác nhau từ ngừng hoàn toàn việc xuất khẩu vũ khí sang Iran kèm theo các lệnh cấm vận vũ khí, tăng cường sự hiện diện quân sự ở vùng Vịnh, tăng cường tiềm lực quân sự của các đồng minh bằng viện trợ quân sự và các hợp đồng bán vũ khí. Những hợp đồng bán vũ khí cho các quốc gia Trung Đông đã mang lại những khoản lợi nhuận kếch xù cho ngành công nghiệp quốc phòng của Mỹ. Từ năm 1987-1991, chỉ tính riêng ở vùng Vịnh, Mỹ đã thu về 8,1 tỷ USD lợi nhuận từ các hợp đồng bán vũ khí [241; tr.158]. Không những vậy, trên thực tế các biện pháp được Mỹ triển khai đã phần nào phát huy hiệu quả, khiến cho chiến lược xuất khẩu cách mạng của Iran không được như kỳ vọng, bởi lẽ không có một cuộc cách mạng Islam Shi’ite nào diễn ra ở Trung Đông sau đó.
94
3.2.1.4. Can dự vào cuộc Chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988) Ngày 22/9/1980, Iraq mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran. Cuộc chiến tranh Iran - Iraq nổ ra đúng vào giai đoạn quan hệ giữa Mỹ và Iran chuyển từ đồng minh chiến lược sang đối địch. Mỹ đang mắc kẹt trong việc tìm ra một đối sách hiệu quả để đối phó với Iran, đặc biệt là cuộc khủng hoảng con tin ở Tehran năm 1979. Chiến tranh Iran - Iraq đã tạo cơ hội để Mỹ có thể xoay chuyển tình thế trong mối quan hệ với Iran. Bên cạnh đó, sự can dự của Mỹ trong cuộc chiến này còn nhằm mục đích ngăn chặn Liên Xô lợi dụng cuộc chiến tranh này để mở rộng ảnh hưởng ở vùng Vịnh [261; tr.2]. Liên Xô có quan hệ gần gũi với Iraq kể từ năm 1971, khi hai nước ký kết hiệp định hợp tác quân sự [207; tr.565]. Sau các cuộc tấn công của Iran vào một số tàu chở hàng cỡ lớn của Liên Xô qua Vịnh Ba Tư vào tháng 5/1987, Liên Xô cũng điều các tàu quân sự đến khu vực này với mục đích bảo vệ tàu bè và hàng hóa [261; tr.5]. Tuy nhiên, đối với Mỹ, sự hiện diện quân sự của Liên Xô ở Vùng Vịnh có thể là sự mở đầu cho sự thống trị của Liên Xô đối với khu vực này, đe dọa tới những lợi ích sống còn của Mỹ. Do vậy, trong chiến tranh Iran - Iraq, ngoài mục tiêu ngăn chặn Iran thì ngăn chặn Liên Xô cũng là một nhiệm vụ hàng đầu của Mỹ.
Chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến này rất rõ ràng, để tránh viễn cảnh Iran đánh bại được Iraq, kiểm soát được Vịnh Ba Tư - rốn dầu của thế giới, Mỹ đã lựa chọn ngăn chặn Iran, ủng hộ và viện trợ cho Iraq trong cuộc chiến kéo dài 8 năm với Iran. Đây được coi là chủ trương nhất quán của chính quyền Mỹ từ thời Jimmy Carter đến Ronald Reagan. Để hỗ trợ cho Iraq, Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp khác nhau: bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Baghdad sau một thời gian dài đóng băng; viện trợ cho Iraq, đặc biệt là về mặt tài chính, vũ khí; Tăng cường bố phòng ở vùng Vịnh và triển khai quân để đánh phủ đầu Iran khi cần thiết.
Trước hết, Mỹ đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với Iraq. Trước những chiến thắng liên tiếp của quân đội Iran vào đầu năm 1982, Mỹ đã vội vã xóa bỏ Iraq ra khỏi danh sách các quốc gia hỗ trợ khủng bố, đồng thời nối lại quan hệ với Baghdad [118; tr.20]. Trong bức thư của Tổng thống Ronald Reagan được đặc phái viên khu vực Trung Đông Donald Rumsfeld chuyển tới Saddam Hussein (tháng 12/1983), đã khẳng định, Mỹ sẽ làm hết khả năng để giúp Iraq tránh được thất bại và tiếp tục tồn tại. Viện trợ là bước đi tiếp theo của chính quyền Mỹ nhằm hỗ trợ cho Iraq chống lại
Iran. Viện trợ cho Iraq bao gồm: viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự.
Viện trợ kinh tế là một công cụ quan trọng mà Mỹ sử dụng nhằm giúp Iraq có đủ tiềm lực duy trì cuộc chiến. Ngay sau quyết định bình thường hóa quan hệ, chính quyền Mỹ đã dành phần lớn 300 triệu USD trong Cục Hợp tác Tín dụng của Bộ Nông nghiệp Mỹ ACC (The US Department of Agriculture’s Commodity Credit Cooperation) cho Iraq [233; tr.84]. Mỹ cũng thông qua khoản viện trợ 484 triệu USD để phục vụ cho dự án khôi phục đường ống dẫn dầu của Iraq [42; tr.85]. Sự thay đổi thái độ của Nhà Trắng với Iraq đã phản ảnh ý đồ của những người đứng đầu nước Mỹ. Mỹ không muốn bất cứ bên nào chiến thắng trong chiến tranh Iran - Iraq. Nhưng thất bại của Iraq sẽ là một thảm họa đối với trật tự khu vực, de dọa trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của Mỹ ở Trung Đông. Do vậy, việc Mỹ liên tiếp dành những khoản viện trợ kinh tế khổng lồ cho Iraq là một điều dễ hiểu.
95
Bên cạnh viện trợ kinh tế, viện trợ quân sự của Mỹ cho Iraq cũng được đẩy mạnh. Mỹ hỗ trợ cho quân đội của Saddam Hussein vũ khí và phương tiện chiến tranh – điều mà Mỹ đã ngừng thực hiện từ sau năm 1967. Tổng giá trị của các lần viện trợ, cung ứng công nghệ và vũ khí chiến tranh cho Iraq lên tới 5.5 tỷ USD trong thập niên 80 [42; tr.173]. Ngày nay, những bằng chứng về việc Mỹ hỗ trợ vũ khí cho Iraq đã được công bố. Chẳng hạn như vào năm 1983, khi thấy khả năng chiến thắng ngày càng ít dần, Saddam Hussein đã sử dụng vũ khí hóa học để chống lại quân đội Iran cũng như tấn công vào các làng của người Kurds ở Iraq. Một nghi vấn được đặt ra là ai đã cung cấp vũ khí hóa học cho Saddam Hussein. Câu trả lời là chính quyền Mỹ. Mỹ cùng với Liên Xô và một số quốc gia châu Âu đã cung cấp những thiết bị cần thiết để phía Iraq sản xuất vũ khí hóa học. Trong các tài liệu mật mà CIA đã công bố, Mỹ biết việc Iraq sử dụng vũ khí hóa học để chống lại Iran nhưng Mỹ không có bất cứ phản ứng nào cho dù việc sử dụng vũ khí hóa học trong chiến tranh đã bị cấm từ năm 1925
theo quy định của Nghị định thư Geneva [62; tr.1]. Chính quyền của Reagan làm ngơ trước hành động vi phạm luật pháp quốc tế và nhân quyền của Iraq chỉ với mục đích “ngăn chặn” và làm suy yếu Iran. Không những vậy, Mỹ còn gián tiếp hỗ trợ cố vấn, huấn luyện cho quân đội Iraq. Trong thời gian đầu của cuộc chiến, một số sĩ quan chỉ huy của Mỹ đã được cử đến Saudi Arabia. Trong khi đó, trong chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988), Saudi Arabia là một trong những đồng minh quan trọng của Baghdad. Phía Mỹ cũng cung cấp thông tin tình báo tuyệt mật cho quân đội Iraq từ mùa xuân năm 1982 [121; tr.1].
Trong khi tích cực viện trợ cho Iraq, Mỹ lại tăng cường sức ép đối với Iran khi liên tiếp áp đặt các lệnh cấm vận lên quốc gia Trung Đông này. Mỹ đã đưa Iran vào danh sách quốc gia khủng bố vào năm 1984 kèm theo đó là một loạt lệnh trừng phạt trọng tâm là kinh tế và quân sự. Ngày 13/02/1984, Chính quyền Mỹ đã ký lệnh cấm hỗ trợ, cho vay quốc tế hay chuyển vũ khí cho Iran. Ngày 29 tháng 10 năm 1987, Mỹ ban hành Đạo luật cấm nhập khẩu tất cả các loại hàng hóa có nguồn gốc từ Iran, đặc biệt là dầu mỏ… Những lệnh trừng phạt này đã gây khó khăn nhất định cho Iran.
Tuy nhiên những nỗ lực trợ giúp của Saddam Hussein không đem lại kết quả như mong đợi. Quân Iraq tỏ ra yếu thế trên chiến trường trước một Iran hừng hực khí thế cách mạng. Khả năng Iran giành chiến thắng và vươn lên địa vị thống trị toàn bộ khu vực vùng Vịnh hiện hữu rõ nét hơn bao giờ hết.
19 Nguồn gốc của cuộc chiến tàu chở dầu trên Vịnh Ba Tư bắt đầu xuất hiện từ giai đoạn đầu trong chiến tranh Iran – Iraq. Để nhằm triệt hạ sức mạnh của Iran, Iraq đã chủ trương tấn công vào các tàu chở vũ khí và sau đó là các tàu chở dầu của Iran từ năm 1981. Trong một động thái để trả đũa lại, Iran quyết định tấn công lại các tàu của Iraq cùng các quốc gia hỗ trợ cho Iraq theo đuổi cuộc chiến tại Vịnh Ba Tư. Mỹ muốn nhảy vào cuộc chiến giữa Iran và Iraq nhưng thiếu một lí do thuyết phục. Và “tanker war” đã tạo cho người Mỹ một cơ hội không thể tốt hơn để có thể trực tiếp hỗ trợ cho hải quân Iraq chống lại Iran. 20 Nguồn: The Washington Post, 13 October 1987 (p. A12) and the New York Time 10 January 1988 (p.E3).
96
Trong nỗ lực giúp Iraq xoay chuyển cục diện chiến tranh, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở Vùng Vịnh (binh lính, các hệ thống phòng thủ chiến lược) cũng như trực tiếp tham chiến trong cuộc chiến tàu chở dầu - “tanker war”19. Trong hai năm 1986 – 1987 các cuộc tấn công vào các tàu chở dầu ngày một tăng ở Vịnh Ba Tư. Iran, Iraq được cho là hai quốc gia phải chịu trách nhiệm cho các vụ tấn công này. Chỉ tính riêng năm 1986 đã có 110 vụ tấn công vào các tàu chở dầu đi qua Vịnh [63; tr.1], trong đó có nhiều tàu của Kuwait. Điều này buộc chính quyền Kuwait phải hành động. Ngày 01/11/1986, Kuwait đã kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế nhằm đảm bảo quyền tự do đi lại qua Vịnh Ba Tư cũng như bảo vệ các tàu chở dầu của quốc gia này. Mỹ ngay lập tức dẫn đầu liên quân quốc tế đến vùng Vịnh. Theo báo cáo mật đã được công bố của CIA, trong “tanker war” hải quân Iran đã tạo ra “mối nguy hại lớn” cho tự do hàng hải và an ninh khu vực với việc sử dụng một chiến thuật đa dạng để tấn công vào tầu chở dầu của đối phương. Những vũ khí tối tân đã được Iran sử dụng trong cuộc chiến tàu chở dầu như máy bay chiến đấu F-4, tên lửa… Năm 1986, Iran tấn công 66 tàu chở dầu thì đến năm 1987, số tàu chở dầu bị Iran đánh chìm lên đến con số 91 tàu20. An ninh hàng hải ở Vịnh Ba Tư bị đe dọa nghiêm trọng bởi những cuộc tấn công từ cả hai phía Iran và Iraq. Hơn
thế nữa, với ưu thế về vũ khí và con người, Iran có thể sẽ giành được quyền kiểm soát Vịnh Ba Tư trong cuộc chiến tàu chở dầu. Do đó, Mỹ càng đẩy cao quyết tâm can dự vào cuộc chiến tàu chở dầu 1987 - 1988 dưới danh nghĩa lực lượng gìn giữ an ninh quốc tế theo lời kêu gọi của Kuwait nhằm đảm bảo không để Iran có thể giành thắng lợi.
Theo thống kê chính thức được công bố bởi Học viện Hải quân Mỹ, chính phủ nước này đã chi 69 triệu USD cho các hoạt động quân sự ở vùng Vịnh trong năm tài khóa 1987 và 10 - 15 triệu mỗi tháng trong năm tiếp theo [294]. Mỹ cũng triển khai các hệ thống phòng thủ quan trọng nhằm bảo vệ hoạt động vận chuyển dầu ở Vịnh Ba Tư cũng như ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở vùng Vịnh21. Nhờ sự hỗ trợ của các loại vũ khí tối tân, quân Mỹ đã hộ tống thành công được nhiều tàu chở dầu của các quốc gia trung lập khi đi qua Vịnh.
Để ngăn chặn Iran giành chiến thắng, Mỹ còn có những đáp trả quân sự cứng rắn vào các mục tiêu của Iran trên Vịnh Ba Tư. Đây là nấc thang cao nhất trong chính sách can dự của Mỹ trong chiến tranh Iran - Iraq. Một số trận đối đầu giữa Mỹ và Iran đã diễn ra, góp phần xoay chuyển tình thế chiến tranh, buộc Iran phải chấm dứt chiến tranh dù trước đó Iran đang giành được ưu thế lớn trước Iraq.
97
Chẳng hạn ngày 19/10/1987, quân Mỹ đã có đòn trả đũa Iran vì hành động tấn công và làm đắm tàu chở dầu Sea Isle City mang cờ hiệu Kuwait. Lính thủy đánh bộ Mỹ (SEALs) cùng với các lực lượng đặc nhiệm khác đã tấn công và phá hủy hoàn toàn một cơ sở dầu mỏ cùng hệ thống cấp điện gần đó của Iran (nằm ở phía Đông Bahrain). Chiến dịch Bọ Gậy - Praying Mantis (18/4/1988) là một ví dụ tiêu biểu khác cho sự can thiệp quân sự của Mỹ trong Chiến tranh Iran - Iraq. Chiến dịch Praying Mantis được coi là trận đánh lớn nhất của Hải quân Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai [257; tr.1]. Lý do quân đội Mỹ triển khai chiến dịch Praying Mantis là để trả đũa việc Iran phóng thủy lôi tấn công vào một tàu hộ tống của Mỹ trên Vịnh Ba Tư22. Ngày 18/4, hải quân Mỹ mở cuộc tấn công với lực lượng gồm tàu sân bay USS Enterprise, hai tuần dương hạm, 4 khu trục hạm, ba tàu hộ vệ tên lửa và một tàu vận tải đổ bộ. Mục tiêu của nhóm tàu chiến Mỹ là các giàn khoan dầu Sassan, Rakhsh và Sirri trên vùng biển Iran, được dùng để theo dõi tuyến đường biển qua eo biển Hormuz. Với sức mạnh vượt trội, Hải quân Mỹ đã nhanh chóng phá hủy hoàn toàn hai giàn khoan Sassan và Sirri. Giàn khoan Rakhsh được bảo toàn bởi Lầu Năm Góc hạ lệnh dừng 21 Cụ thể, Mỹ đã triển khai hai hệ thống phòng thủ quan trọng ở trên Vịnh Ba Tư vào giữa năm 1987. Một là các máy bay RPV có khả năng bay liên tục trong vòng 5 giờ với bán kính bay là 100 dặm. Dòng máy bay này được coi là loại tối tân ở thời kỳ đó với giá lên đến 400.000 USD/chiếc. Máy bay RPV được các chuyên gia quân sự đánh giá cao về khả năng tấn công trực diện vào lực lượng hải quân của đối phương cũng như phòng thủ dọc bờ biển với độ rủi ro rất thấp. Hệ thống thứ hai là hệ thống tên lửa hành trình gắn đầu đạn hạt nhân tầm thấp Tomahawk (the tomahawk conventional cruise missile) với tốc độ di chuyển khoảng 550 dặm/giờ, khả năng công phá trong vòng bán kính 1,5 dặm. Hệ thống tên lửa này bắt đầu được triển khai ở Vịnh Ba Tư từ đầu năm 1987, sớm hơn so với máy bay RPV. Trên thực tế, trong “tanker war” Mỹ chưa từng sử dụng loại tên lửa hành trình này nhưng việc Mỹ triển khai loại vũ khí có khả năng sát thương, hủy diệt cao ở khu vực Vịnh Ba Tư đã thể hiện rõ nét ý đồ ngăn chặn Iran và Iraq của Mỹ. 22 Ngày 14/4, tàu hộ vệ tên lửa USS Samuel B. Roberts trúng thủy lôi khi đang hộ tống một tàu chở dầu mang cờ Kuwait. Vụ nổ đã khiến tàu USS Samuel B Robert bị hư hỏng nặng và phải đưa về cảng Dubai (UAE) để sửa chữa. Mỹ đã tiến hành một cuộc điều tra khẩn cấp và đưa ra kết luận rằng các thủy lôi của Iran chính là thủ phạm. Lầu Năm Góc lập tức lên kế hoạch tấn công trả đũa mang tên Praying Mantis (Bọ ngựa) nhằm trả đũa Iran.
cuộc tấn công để giảm căng thẳng với Iran. Trong quá trình tấn công các giàn khoan, Mỹ còn phá hủy, đánh đắm nhiều tàu quân sự hiện đại của Iran lúc bấy giờ trong đó có tàu khu trục Sahand (bị đánh chìm hoàn toàn), tàu khu trục Salaban (hỏng nặng), và nhiều xuồng tuần tra cao tốc (Boghammer) [81; tr.8-9]... Trong suốt cả chiến dịch này, Mỹ chỉ mất hai sỹ quan, còn phía Iran thương vong nặng nề với 56 sỹ quan thiệt mạng. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia quân sự, hậu quả của trận đối đầu Praying Mantis (1988) đối với Iran còn nặng nề hơn so với những gì cuộc chiến 8 năm với Iraq gây nên. Nó được coi là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Iran kết thúc chiến tranh với Iraq cùng năm đó. Với việc không có quốc gia nào giành được chiến thắng tuyệt đối, Mỹ đã thành công trong mục đích ngăn chặn cả Iran - Iraq thông qua cuộc chiến khốc liệt này. Cuộc chiến này đã khiến cho cả Iran và Iraq bị suy yếu. Riêng với Iran, quốc gia này đã mất 200.000 người trong chiến tranh. Tổng thiệt hại về kinh tế lên tới 500 tỉ USD [74; tr.3].
Bên cạnh đó, Chiến tranh Iran - Iraq cũng phản ánh rất rõ chiến lược của chính quyền Mỹ (Reagan) trong cuộc chiến chống lại Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là trong bê bối Iran - Contra (Irangate). Khi chiến tranh Iran - Iraq đang diễn ra quyết liệt, một mặt Mỹ ủng hộ và viện trợ cho Iraq, mặt khác Mỹ lại bán vũ khí cho Iran, và lấy một phần tiền đó để hỗ trợ cho lực lượng phiến quân Contra ở Nicaragoa chống lại chính phủ cánh tả Sanditinas [251; tr.xv]. Việc Mỹ “can thiệp” và “dính líu” vào nền chính trị của một quốc gia độc lập, có chủ quyền không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, hành động viện trợ 3,5 triệu USD từ 18 triệu USD tiền bán vũ khí cho Iran [247; tr.46] để hỗ trợ cho nhóm phiến quân đối lập Contra ở Nicaragua của chính quyền Mỹ lại thổi bùng lên ngọn lửa giận dữ trong dư luận trong nước và quốc tế. Thứ nhất, chính quyền Mỹ đã tự phá vỡ quy tắc “không đàm phán với khủng bố” khi bán vũ khí cho Iran để đổi lại việc Iran sẽ dùng ảnh hưởng của họ, chỉ đạo Hezbollah phóng thích các con tin người Mỹ. Thứ hai, chính quyền Mỹ đã đi ngược lại với nguyên tắc dân chủ trong nền chính trị Mỹ khi ủng hộ cho một nhóm phiến quân vốn nổi tiếng vì giết chóc và buôn bán vũ khí trái phép… như Contra. Bê bối này đã ảnh hưởng nặng nề đến uy tín của Tổng thống Reagan, chỉ trong vòng một tháng sau khi bê bối Iran - Contra được tiết lộ, tỉ lệ ủng hộ Tổng thống Ronald Reagan đã giảm từ 67% xuống còn 46% [53; tr.242].
98
Nhìn chung, cuộc chiến tranh Iran - Iraq đã thể hiện rõ nét nhất chính sách của Mỹ đối với Iran. Mỹ tận dụng cuộc chiến này như một thứ vũ khí làm suy yếu và ngăn chặn cả Iran lẫn Iraq. Với việc không một quốc gia nào giành được chiến thắng trong cuộc chiến giữa Iran và Iraq, Mỹ đã thành công trong việc làm suy yếu cả hai quốc gia này, đồng thời đảm bảo sự thông suốt của hoạt động sản xuất dầu mỏ và duy trì một trật tự có lợi cho Mỹ ở Vùng Vịnh. Cuộc chiến này cũng phản ánh một thực tế rằng Chiến tranh Lạnh vẫn là cái bóng bao trùm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, theo đó, ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở Trung Đông vẫn được coi là mục tiêu trọng tâm.
Thực tế, trong cuộc chiến tranh tàu chở dầu (tanker war), Mỹ đã ngay lập tức triển khai quân ở Vùng Vịnh sau khi Liên Xô bắt đầu điều tàu quân sự đến vùng biển này nhằm bảo vệ các tàu bè của họ. Mỹ cũng sẵn sàng chuyển một phần tiền từ việc bán vũ khí cho Iran để tài trợ cho phiến quân chống Cộng Contra ở Nicaragoa với mục đích chấm dứt sự hiện hữu của một chính phủ cánh tả tại quốc gia Trung Mỹ này.
3.2.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2016 Chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1991 đến năm 2016 vẫn tiếp tục nhất quán với giai đoạn trước là ngăn chặn. Tuy nhiên, so với thập niên 80 của thế kỷ trước, cách thức thực hiện của các chính quyền sau này có nhiều điều chỉnh. Điều này trước hết xuất phát từ những thay đổi trong quan hệ quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa đã thúc đẩy liên kết giữa các quốc gia không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực khác trong đó có chính trị. Đối với Mỹ, Iran vẫn là một đối tượng cần phải ngăn chặn. Tuy nhiên, với vị thế và ảnh hưởng ngày càng tăng của Iran trong khu vực, Mỹ cũng cần hợp tác với quốc gia này nhằm giải quyết những vấn đề chung trong khu vực, như tiến trình hòa bình Trung Đông giữa Israel - Palestine và gần đây là tiến trình hòa bình cho Syria… Do đó, quá trình triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1991 đến năm 2016 được đặc trưng bởi sự tồn tại song song giữa xu thế đấu tranh và đàm phán giữa hai nước thay vì sự đối đầu gay gắt trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Trong phạm vi của nội dung này, nghiên cứu sinh tập trung đi sâu phân tích về việc triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran qua các vấn đề: cấm vận kinh tế đối với Iran, ngăn ngừa sự can dự của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực Trung Đông và ngăn chặn chương trình hạt nhân của quốc gia Trung Đông này.
3.2.2.1. Cấm vận kinh tế đối với Iran Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cấm vận kinh tế tiếp tục là chính sách trọng tâm của Mỹ đối với Iran. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Iran rất cần sự hợp tác, đầu tư, trao đổi thương mại với các quốc gia khác để tồn tại và phát triển. Nắm được yếu điểm này, Mỹ tiếp tục tăng cường sức ép lên Iran bằng cách áp đặt nhiều lệnh trừng phạt mới. So với giai đoạn trước, điểm khác biệt lớn nhất là chủ trương cấm vận Iran của Nhà Trắng nhận được sự ủng hộ nhất định của các đồng minh châu Âu và Liên Hợp quốc. Sự đồng thuận trong việc áp đặt cấm vận giữa EU, Liên Hợp quốc và Mỹ đã tăng sức ép gấp nhiều lần đối với Iran và được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Iran ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và Phương Tây để giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân ở quốc gia này.
Trong suốt giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2016, Iran liên tiếp phải hứng chịu
các lệnh cấm vận của Mỹ (Xem dưới bảng thống kê 3.1).
Bảng 3.1. Thống kê các lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Iran (1991 - 2016)
Tên Đạo luật
99
Sắc lệnh số 12957, 12959 Thời gian Tháng 3 - 5/1995 Nội dung chủ yếu của lệnh trừng phạt + Tạm ngừng mọi hoạt động đầu tư từ Mỹ vào Iran, trong đó bao gồm cả dầu mỏ.
8/1996 Đạo luật cấm vận Iran và Libya
Sắc lệnh số 13059 8/1997 + Cấm xuất khẩu các hàng hóa của Mỹ sang Iran Trừng phạt các công ty có khoản đầu tư trên 20 triệu USD vào ngành dầu mỏ của Iran Tiếp tục gia hạn lệnh cấm xuất khẩu hàng hóa sang Iran
9/2006 Mã hóa các lệnh cấm thương mại của Mỹ Đạo luật Ủng hộ nền Tự do ở Iran
7/2010 Đạo luật đầu tư và cấm vận toàn diện lên Iran
Sắc lệnh số 13553 9/2010
Sắc lệnh số 13590 11/2011
Sắc lệnh số 13599 2/2012
Sắc lệnh số 13608 5/2012
Sắc lệnh số 13622 7/2012
8/2012 Đạo luật giảm thiểu sự đe dọa của Iran và vấn đề nhân quyền ở Syria
2/2013 Đạo luật Iran tự do và chống phổ biến vũ khí hạt nhân
Sắc lệnh số 13645 6/2013
(Nguồn: Sanctions against Iran: a guide to targets, terms, and timetables, Belfer Center for science and international affairs - Havard Kennedy School, US, June 2015, tr.5-11 và Kenneth Katzman, Iran sanctions (CRS report - prepared for members and committees of Congress), Congressional Research Service, US, 4/2019)
Cấm bán các sản phẩm liên quan đến khí gas cho Iran cũng như các hoạt động hỗ trợ cho công nghiệp khí gas của quốc gia này. Đóng băng tài khoản của những cá nhân liên quan đến các cáo buộc vi phạm nhân quyền ở Iran Trừng phạt những hành động đóng góp cho sự duy trì và mở rộng nguồn lực dầu mỏ của Iran Đóng băng mọi tài khoản của chính phủ Iran trong phạm vi Mỹ kiểm soát Trừng phạt các các nhân, tổ chức trốn tránh hoặc không thực hiện theo các lệnh trừng phạt của Mỹ với Iran Trừng phạt các tổ chức tín dụng nước ngoài có giao dịch mua bán xăng dầu với Iran + Trừng phạt mọi hành động hỗ trợ cho lĩnh vực xăng dầu của Iran + ủy quyền kiểm soát nguồn trữ lượng dầu mỏ của Iran cho một bên thứ ba +Trừng phạt các cá nhân, tổ chức dính líu đến công nghiệp năng lượng, vận chuyển, đóng tàu… của Iran + Trừng phạt các bên thực hiện việc cung ứng kim loại cho Iran. + Trừng phạt các cá nhân, tổ chức có dính líu đến ngành công nghiệp tự động ở Iran +Phong tỏa các tài khoản ngân hàng có giao dịch bằng đồng “rial” - đơn vị tiền tệ của Iran
100
Từ những thống kê được thể hiện ở trên bảng 3.1, có thể dễ dàng nhận ra, các lệnh trừng phạt kinh tế tập trung dày đặc trong những năm 2010 - 2013. Đây cũng chính là giai đoạn chính quyền Barack Obama chủ trương tăng cường áp lực tối đa lên Iran, buộc Iran phải ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân.
Các lệnh cấm vận đó được duy trì đến tận năm 2016, khi Obama kí sắc lệnh gỡ bỏ một phần các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Iran.
Cũng từ bảng thống kê trên, có thể dễ dàng nhận thấy ngành công nghiệp năng lượng của Iran (bao gồm cả dầu mỏ và khí gas) phải hứng chịu nhiều lệnh trừng phạt nhất từ chính phủ Mỹ. Như đã phân tích, công nghiệp khai thác và chế biến dầu mỏ được coi là ngành kinh tế quan trọng bậc nhất đối với Iran. Iran nắm giữ khoảng 10% dự trữ dầu thế giới, lợi tức từ công nghiệp dầu mỏ đóng góp tới khoảng 65% nguồn thu của chính phủ Iran. Do đó, để có thể “ngăn chặn” thành công việc phổ biến vũ khí hủy diệt ở Iran cũng như chính sách “can dự” của quốc gia này ở Trung Đông, Mỹ tập trung cấm vận vào ngành công nghiệp năng lượng - nguồn thu chủ yếu của ngân sách Iran. Các lệnh trừng phạt Mỹ đưa ra với mục đích làm giảm sút việc sản xuất, buôn bán, vận chuyển và lợi nhuận của ngành công nghiệp dầu mỏ của Iran.
Các công ty của Mỹ bị cấm mua hoặc tạo điều kiện cho các giao dịch liên quan dầu mỏ của Iran từ năm 1995. Với sự đồng thuận từ các quốc gia châu Âu, Mỹ đã áp đặt lệnh cấm vận đối với hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Iran, làm cho sản lượng xuất khẩu của Iran từ 2,5 triệu thùng/ngày giảm xuống còn 1,1 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2011. Từ năm 2011 đến năm 2015, Mỹ còn sử dụng ảnh hưởng của mình để áp đặt hạn mức nhập khẩu dầu mỏ từ Iran đối với một số quốc gia như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Thổ Nhĩ Kỳ. Chẳng hạn như đối với Trung Quốc, trước lệnh cấm vận năm 2011 của Mỹ, lượng dầu nước này nhập khẩu từ Iran là 550.000 thùng/ngày thì sau lệnh cấm vận giảm còn 410.000 thùng/ngày. Nhật Bản từ 325.000 thùng/ngày xuống còn 190.000 thùng/ngày [216; tr.15]. Nếu quốc gia nào nhập quá hạn mức do Mỹ quy định sẽ chịu sự trừng phạt của Mỹ.
Bên cạnh việc cấm vận hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Iran, Mỹ còn tìm cách hạn chế quốc gia này sử dụng và khai thác các mỏ dầu mới. Việc bán các mỏ dầu của Iran cho các nhà đầu tư nước ngoài bị cấm theo quy định của Mỹ. Iran chỉ có thể sử dụng các mỏ dầu đó để đổi lại các hàng hóa thiết yếu (có nguồn gốc từ khắp nơi trên thế giới) cho người dân hoặc chỉ được mua hàng hóa với quốc gia mà chính quyền Iran đã bán mỏ dầu [216; tr.12-13].
Mỹ cũng hạn chế năng lực vận chuyển dầu cùng các loại hàng hóa khác của Iran. Dưới các lệnh trừng phạt của Mỹ và EU, các công ty phải tạm ngừng việc cung cấp sự đảm bảo cho các công ty và các tàu chở dầu của Iran. Các lệnh cấm vận của Mỹ hạn chế việc cung ứng các tàu chở dầu cỡ lớn (Vessels) cùng các dịch vụ đi kèm cho ngành công nghiệp vận chuyển và đóng tàu của Iran [216; tr.13].
101
Mỹ đánh vào năng lực đầu tư vào hoạt động sản xuất dầu mỏ. Theo đó, các lệnh cấm vận của Mỹ buộc các tập đoàn, công ty nước ngoài ngừng bán các thiết bị có thể dùng trong hoạt động khai thác và chế biến dầu cho Iran. EU, Nhật Bản và Hàn Quốc - các đồng minh của Mỹ cũng có những lệnh cấm tương tự khi ngừng việc cung cấp các trang thiết bị phục vụ trong ngành sản xuất dầu mỏ và khí gas cho Iran. Đây là một điểm mới so với giai đoạn trước đó khi chính quyền Mỹ chỉ tập trung vào việc cấm
vận hoạt động xuất khẩu dầu của Iran. Đạo luật cấm vận Iran - Libya (ILSA) là một minh chứng rõ nét nhất cho ý đồ này của những người đứng đầu Nhà Trắng. Mỹ cấm mọi khoản đầu tư nước ngoài quá 20 triệu USD vào ngành công nghiệp dầu mỏ Iran. Nếu điều này được thực hiện triệt để sẽ gây nhiều khó khăn cho Iran trong việc tiếp cận các công nghệ mới nhất để nâng cao năng suất, chất lượng của ngành dầu mỏ trong nước.
Bên cạnh công nghiệp năng lượng, tài chính - ngân hàng là lĩnh vực kinh tế thứ hai mà Mỹ tập trung các lệnh trừng phạt. Đối với Mỹ, các ngân hàng ở Iran được coi là một công cụ của chính quyền nước này để củng cố và mở rộng ảnh hưởng của Iran trong khu vực. Mỹ nhiều lần quy kết Iran hỗ trợ các nhóm “khủng bố” (như Hezbollah, Hamas…) bằng cách chuyển tiền cho các nhóm này thông qua các ngân hàng của Iran. Hơn thế nữa, tài chính ngân hàng được coi là ngành kinh tế đặc biệt quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới, sự ổn định và thịnh vượng của ngành tài chính ngân hàng sẽ đảm bảo cho sự phát triển của một quốc gia dân tộc. Do vậy, Mỹ đã ban hành khá nhiều đạo luật có nội dung trừng phạt ngành tài chính ngân hàng của quốc gia Trung Đông này. Từ năm 2007 trở đi, Mỹ tiến hành trừng phạt 10 ngân hàng lớn nhất ở Iran, trong đó có Ngân hàng Trung ương Iran (the Central Bank of Iran), Ngân hàng Mellat, Ngân hàng Saderat Iran, Melli Iran, Tejarat, Maskan, Keshavarzi, Parsian, Pasargad, Sepah với nhiều lý do khác nhau như: hỗ trợ khủng bố, hỗ trợ cho việc nghiên cứu và phát triển vũ khí hủy diệt ở Iran… [216; tr.13]. Các ngân hàng này bị cắt đứt mối liên hệ với hệ thống tài chính của Mỹ. Mỹ còn tăng cường sức ép với nhiều đồng minh khi buộc họ phải lựa chọn giữa giao dịch với các ngân hàng của Iran và giao dịch với Mỹ. Đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm các lệnh trừng phạt của Mỹ sẽ phải đối mặt với các án phạt của chính phủ Mỹ.
Trên thực tế, Mỹ từng xử phạt khá nhiều ngân hàng vi phạm các lệnh cấm vận của Mỹ khi vẫn duy trì các giao dịch tài chính với Iran. Chẳng hạn, vào năm 2004, Ngân hàng lớn nhất Thụy Sỹ - UBS đã bị Cục Dự trữ Liên bang Mỹ phạt 100 triệu USD vì đã vi phạm lệnh cấm chuyển tiền dollar cho một số quốc gia trong đó có Iran [299]. Tháng 12/2005, một ngân hàng của Hà Lan - ABN Amro cũng bị Cục Dữ trữ liên bang phạt 80 triệu USD vì những vi phạm tương tự khi có liên hệ với Ngân hàng của Iran là “Melli Iran Bank”. Tháng 12/2009, Quỹ tín dụng Suisse phải trả khoản án phạt lên tới 536 triệu USD cho các cơ quan nhà nước liên bang Mỹ khi hỗ trợ các giao dịch của Iran với các Ngân hàng của Mỹ [150; tr.33]. Tháng 6 năm 2012, ngân hàng ING của Hà Lan phải đóng mức phạt kỉ lục lên đến 619 triệu USD vì những giao dịch liên quan đến Iran và Cuba [150; tr.33]. Những án phạt vừa nêu buộc các quốc gia, các tổ chức tài chính hàng đầu trở nên e dè và thận trọng hơn trong việc hợp tác với Iran.
102
Ngoài việc áp đặt các lệnh trừng phạt, Mỹ còn vận dụng các thiết chế khác nhằm cô lập hệ thống tài chính - ngân hàng của Iran với phần còn lại của thế giới. Năm 2011, Bộ Tài chính của Mỹ xếp Ngân hàng Trung ương Iran và toàn bộ nền tài chính của quốc gia này là mối đe dọa đối với hệ thống tài chính toàn cầu với lý do Ngân
hàng Trung ương Iran có liên quan đến các hoạt động “rửa tiền” [150; tr.29]. Lần đầu tiên, điều 311 của Đạo luật yêu nước (US Patriot Act) được kích hoạt với một Ngân hàng trung ương của một quốc gia. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Iran sẽ phải chịu nhiều hình thức trừng phạt nặng nề của Mỹ vì liên quan đến các hoạt động rửa tiền, khủng bố… Ngoài ra, Mỹ còn tìm mọi cách hạn chế việc Iran thu mua đồng USD, gây ra rất nhiều khó khăn cho quốc gia này trong nhiều giao dịch quốc tế.
Ngoài hai ngành năng lượng, tài chính - ngân hàng, các lệnh trừng phạt của Mỹ vươn tới mọi hoạt động kinh tế khác của Iran. Bắt đầu từ năm 1987, mọi hàng hóa có xuất xứ hoặc trung chuyển qua Iran đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ với Mệnh lệnh số 12613 của Tổng thống Ronald Reagan [208; tr.1]. Mỹ còn gia tăng sức ép buộc các đồng minh thi hành chính sách tương tự với Iran.
Đầu tư nước ngoài luôn là một nguồn lực quan trọng đối với mọi quốc gia. Nắm được quy luật đó, Mỹ đã tìm cách hạn chế sự đầu tư vào Iran nhằm nhân đôi những khó khăn của Iran trong việc giải quyết bài toán nguồn vốn. Với Đạo luật trừng phạt Iran và Libya (1996), đầu tư của nước ngoài vào hoạt động khai thác và chế biến dầu mỏ của Iran bị hạn chế. Mọi khoản đầu tư lớn hơn 20 triệu USD đều bị coi là vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ và cá nhân, tổ chức đầu tư sẽ phải đối diện với các án phạt của chính quyền Mỹ [68; tr.1].
23 6 ngân hàng bị EU cấm vận bao gồm: Ngân hàng Trung ương Iran, Ngân hàng Mellat, Ngân hàng Saderat Iran, Ngân hàng Melli Iran, Ngân hàng Tejarat, Ngân hàng Sepah.
103
Thêm vào đó, như đã đề cập, từ năm 1991 – 2016, trong nhiều thời điểm các lệnh trừng phạt của Mỹ được tiếp thêm sức nặng khi cả EU và Liên Hợp quốc cũng áp đặt một số lệnh trừng phạt đối với Tehran. Khác với giai đoạn trước, các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là EU tỏ ra đồng thuận thậm chí hưởng ứng theo các lệnh cấm vận của Washington đối với Tehran. Bóng đen của cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran đã bao phủ lên an ninh và hòa bình ở châu Âu. Thách thức đó buộc các quốc gia EU phải điều chỉnh chính sách với Iran trong đó có việc áp đặt một loạt lệnh trừng phạt lên Iran trong những năm 2006 - 2007 và 2011 - 2013. Tài chính - ngân hàng là một trong những ngành kinh tế đầu tiên EU chọn để trừng phạt Iran. EU cấm vận 6/10 ngân hàng nằm trong danh sách trừng phạt của Mỹ23. Lệnh trừng phạt đối với các ngân hàng Iran của EU cũng giáng một đòn nặng nề đối với ngành tài chính ngân hàng của quốc gia Trung Đông này. Bên cạnh lĩnh vực tài chính – ngân hàng, EU còn gây sức ép với Iran và chương trình hạt nhân của quốc gia này thông qua các lệnh cấm vận ở nhiều lĩnh vực khác (xem phụ lục 10). Từ năm 2007 đến năm 2012, các lệnh cấm vận của EU đối với Iran ngày một khắt khe hơn. Chẳng hạn, với Quyết định của Hội đồng số 2012/35/CFSP, EU đã cấm nhập khẩu dầu mỏ và khí gas từ Iran. Việc EU dừng nhập khẩu từ Iran đã tạo ra sức ép rất lớn đối với quốc gia vùng Vịnh này bởi lẽ một số quốc gia EU như Tây Ban Nha, Italia, Hi Lạp… là những khách hàng thường xuyên và quan trọng của ngành công nghiệp năng lượng Iran. Liên hợp quốc cũng có những động thái tương tự trong giai đoạn cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran căng thẳng nhất. Chẳng hạn,
Liên hợp quốc đã áp đặt lệnh trừng phạt lên một ngân hàng của Iran (Ngân hàng Sepah) vì cho rằng Ngân hàng này có liên quan đến việc phổ biến vũ khí hủy diệt.
Rõ ràng, trong giai đoạn sau năm 1991, các lệnh trừng phạt của Mỹ với Iran ngày một khắt khe hơn. Sức nặng của các lệnh cấm vận được tăng lên đáng kể nhờ sự sự ủng hộ của châu Âu và Liên Hợp quốc, tạo ra nhiều khó khăn hơn đối với chính quyền Iran, đặt Iran trước sự lựa chọn: một là tiếp tục chính sách đối đầu với Mỹ và Phương Tây, tiếp tục chịu bao vây, cấm vận; Hai là hợp tác với phương tây trong vấn đề hạt nhân cũng như điều chỉnh chính sách đối ngoại để đổi lấy sự nới lỏng cấm vận, tránh một cuộc khủng hoảng toàn diện có thể xảy ra.
3.2.2.2. Ngăn chặn sự can dự của Iran vào các cuộc xung đột ở khu vực Trung
Đông
Bước sang những năm 1990 - 2000, Iran bắt đầu đẩy mạnh sự hỗ trợ cho các nhóm vũ trang Shi’ite ở khu vực Trung Đông, tiếp tục thực hiện tham vọng “xuất khẩu cách mạng”. Rất nhiều nhóm vũ trang được Iran hậu thuẫn có xu hướng chống đối Israel và Mỹ kịch liệt như Hezbollah, Hamas, Taliban, Houthi, các nhóm vũ trang Shi’ite ở Iraq. Đối với Mỹ, việc Iran hỗ trợ các nhóm vũ trang chống lại Mỹ và Israel là một mối đe dọa trực tiếp đến lợi ích của nước Mỹ. Một loạt các biện pháp đã được chính quyền Mỹ triển khai trên thực tế, bao gồm: thứ nhất, tăng cường liên minh quân sự với các quốc gia Trung Đông, trọng tâm là vùng Vịnh bằng các hiệp định hợp tác quân sự; Thứ hai, thiết lập căn cứ quân sự vây quanh Iran; Thứ ba, củng cố năng lực quốc phòng cho các đồng minh bằng viện trợ; Thứ tư, tăng cường hợp đồng bán vũ khí cho các đồng minh; Và cuối cùng, Mỹ can thiệp vào các cuộc xung đột ở Trung Đông có liên quan đến Iran.
104
Liên quan đến biện pháp thứ nhất, Mỹ tăng tốc việc ký kết các hiệp định quân sự với một loạt các quốc gia ở vùng Vịnh nói riêng và trên toàn khu vực Trung Đông nói chung. Đầu thập niên 1990, Mỹ kí hiệp ước hợp tác quốc phòng với Bahrain (Defense Cooperation Agreement - DCA) thay thế cho hiệp định năm 1971 [155; tr.16]. Năm 1991, Kuwait là quốc gia vùng Vịnh tiếp theo ký hiệp định hợp tác quốc phòng với Mỹ [156; tr.8]. Kuwait sau đó trở thành một trong những đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở vùng Vịnh, đóng một vai trò chiến lược trong chính sách của Mỹ ở khu vực Trung Đông, trong đó có việc ngăn chặn Iran. Năm 1992, Qatar chính thức trở thành đồng minh của Mỹ sau khi ký DCA. Năm 1994, một bản hiệp định quân sự giữa Mỹ và UAE được ký kết, đưa UAE trở thành thành viên tiếp theo trong liên minh quân sự của Mỹ ở vùng Vịnh [159; tr.18]. Nội dung của các hiệp định hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và các quốc gia vùng Vịnh vẫn chưa được công khai. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia, điểm quan trọng nhất trong các hiệp định hợp tác quân sự giữa Mỹ và các quốc gia Trung Đông bao gồm: Mỹ cung cấp vũ khí, trang thiết bị cho quân đội của quốc gia đồng minh, hỗ trợ quân đội quốc gia đó trong công tác huấn luyện binh sĩ. Đổi lại, Mỹ được phép tiếp cận với các cơ sở, kho tàng quân sự của đối tác; Mỹ được phép duy trì một số lượng binh sĩ nhất định ở quốc gia đồng minh để đảm nhận
vai trò đảm bảo an ninh cho đồng minh đó cũng như vùng Vịnh. Với trường hợp của Jordan, tuy hai nước chưa ký kết một hiệp định hợp tác quân sự riêng rẽ, nhưng những bản ghi nhớ hợp tác chung giữa hai nước là cơ sở quan trọng để Mỹ triển khai các hoạt động quân sự ở Jordan. Bằng chứng là Jordan hiện đang là một trong những quốc gia được thụ hưởng nhiều nhất từ chương trình Đào tạo và huấn luyện quân sự quốc tế (IMET – International Military Education and Training) [225; tr.15]. Năm 1996, quốc gia này được Mỹ công nhận là đồng minh quân sự nằm ngoài khối NATO…
Như vậy, bằng một chiến lược cụ thể và dài hạn, Mỹ đã thiết lập liên minh quân sự với nhiều quốc gia Arab ở khu vực Trung Đông. Đáng lưu ý là phần lớn hiệp định quân sự giữa Mỹ và các quốc gia này liên tục được ra đời kể từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Điều này chứng tỏ những sự kiện ở Iran và chính sách đối ngoại của chính quyền Iran sau cách mạng đã góp phần tác động mạnh mẽ đến quan điểm của cả phía Mỹ và các quốc gia Arab trong khu vực Trung Đông, thúc đẩy sự hình thành của liên minh quân sự mới giữa Mỹ và các nước trong khu vực nhằm đối phó lại với Iran và sự trỗi dậy của lực lượng Shi’ite.
Biện pháp quân sự đáng chú ý thứ hai là Mỹ tăng cường thiết lập các căn cứ quân sự ở vùng Vịnh nhằm đảm bảo an ninh khu vực, bảo vệ các mỏ dầu và “ngăn chặn” Iran.
Các Trung tâm tâm chỉ huy của quân đội Mỹ ở Trung Đông (US CENTCOM) tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc giám sát toàn bộ hoạt động của các căn cứ quân sự Mỹ ở khu vực này. Số lượng quân của US CENTCOM không được công bố ra ngoài. Tuy nhiên, theo giới phân tích số lượng này không hề nhỏ và US CENTCOM được coi là một trong những trung tâm tác chiến lớn nhất của quân đội Mỹ ở nước ngoài. Trong các chiến dịch quân sự năm 1990 – 1991 (Desert Shield và Desert Storm), ước tính quân Mỹ lên đến 541.000 người và quân đội của các đồng minh là 258.000 binh sĩ đồn trú trải dài từ Iraq đến Kuwait [288]. Nếu so về số lượng binh sĩ thì rõ ràng US CENTCOM được đánh giá ngang ngửa với quân đội Iran. Quân đội của Iran thường xuyên duy trì ở mức trên dưới 500.000 binh sĩ [4; tr.49-61]. Trong trường hợp như quân đội Iran có bất cứ “hoạt động bất thường” hay hành động đe dọa nào đến các đồng minh của Mỹ ở vùng Vịnh, thì với lực lượng trực chiến hùng hậu ở US CENTCOM, Mỹ có thể dễ dàng phản ứng và ngăn chặn kịp thời. Điểm đặt trung tâm đầu não của US CENTCOM cũng được đặt ở những quốc gia rất gần với Iran là Kuwait, Qatar. Trong lịch sử từ khi thành lập, US CENTCOM sớm có kinh nghiệm đối mặt trực tiếp với lực lượng quân sự của Iran. Tiêu biểu nhất chính là cuộc đụng độ giữa hải quân Mỹ và Iran trong chiến dịch Spraying Mantis (18/4/1988), lực lượng US CENTCOM đã tham gia vào chiến dịch, tạo nên chiến thắng áp đảo của hải quân Mỹ trước Iran…
105
Ngoài các trung tâm US CENTCOM, Mỹ còn xây dựng nhiều căn cứ quân sự ở nhiều quốc gia thuộc khu vực Trung Đông như: Saudi Arabia, Oman, Qatar, Bahrain, UAE, Lebanon, Kuwait… Các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông ngày càng có xu
hướng bao vây và xiết chặt Iran (Xem hình minh họa phía dưới).
(Nguồn: https://www.greenleft.org.au/content/iran-back-us-crosshairs, truy cập ngày 08/8/2018) Quan sát trên bản đồ, có thể dễ dàng nhận ra khu vực Mỹ tập trung nhiều nhất là ở vùng Vịnh với một loạt các căn cứ quân sự quy mô lớn. Các quốc gia có nhiều lính Mỹ hiện diện nhất là Qatar, Kuwait, Bahrain, UAE, Saudi Arabia…
Bản đồ về phân bố các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông
Một trong những căn cứ quan trọng nhất và lớn nhất của Mỹ ở vùng Vịnh là Al Udeid ở Qatar. Đây không chỉ là nơi đặt trung tâm chỉ huy của US CENTCOM mà còn là sở chỉ huy của Trung tâm Tác chiến hỗn hợp của Không quân Mỹ (US Combined Air Operations Center), Trung tâm chỉ huy của lực lượng không quân Mỹ (US - Air Forces Central Command), Trung tâm chỉ huy các chiến dịch đặc biệt của Mỹ (US Special Operations Command Central Forwards). Để xây dựng được Căn cứ không quân Al Udeid, Mỹ đã dùng tới 1 tỷ USD và 4 tỷ USD để vận hành căn cứ này kể từ năm 1996 [110; tr.1].
Căn cứ quan trọng tiếp theo là căn cứ Căn cứ không quân Al Dhafra (UAE). Năm 2015, có khoảng 3.500 sĩ quan và nhân viên quân sự hoạt động ở Al Dhafr [56; tr.1]. Năm 2016, con số này là 3.800 người. Căn cứ quân sự này là nơi tập trung các loại máy bay hành trình hiện đại thuộc thế hệ mới nhất - 380th Air Expeditionary Wing, bao gồm: F-22 Raptor, KC-10, RQ-4 Global Hawk, E-3 Sentry, U-2 Dragon Lady. Al Dhafra được trang bị hai đường băng dài 12.012 feet (khoảng 3,6 km2) [270; tr.7]. Căn cứ quân sự này được giấu kín cho đến năm 2017 mới được Mỹ công khai với thế giới. Với hạ tầng như vậy, Al Dhafra là một “vũ khí” quan trọng của Mỹ trong nỗ lực đảm bảo trật tự, an ninh ở vùng Vịnh, trong đó có việc ngăn chặn và kiềm chế Iran.
106
Căn cứ Hải quân Fujairah cũng là một cứ điểm quan trọng của quân đội Mỹ ở khu vực Trung Đông. Điểm đặc biệt của căn cứ này là vị trí nằm ở phía ngoài Vịnh Ba Tư, gần sát với eo Biển Hormuz. Như đã phân tích, Hormuz được coi là “yết hầu” của tuyến đường vận chuyển dầu mỏ từ Vịnh Ba Tư ra bên ngoài. Iran đã từng có nhiều đe dọa sẽ đóng cửa eo biển này, và trên thực tế, đã có một cuộc chiến khốc liệt tấn công vào các tàu chở dầu trong những năm 1980 do Iran – Iraq gây ra, làm ngưng trệ hoạt động vận
chuyển và xuất khẩu dầu mỏ của các nước vùng Vịnh khác. Do vậy, với vị trí rất gần eo Hormuz, Mỹ đã tăng cường khả năng phản ứng khi Iran đóng cửa eo biển chiến lược này.
Ngoài ra, Mỹ còn có một số cơ sở quân sự quan trọng khác như: trại lính quy mô lớn – As Sayliah ở Qatar; Cảng Jebel Ali ở UAE; Căn cứ không quân Ali Al Salem và các trại quân sự Arifjan, Buhring, Patriot; căn cứ không quân thuộc lực lực lượng hải quân Mỹ ở Muharraq (Bahrain); Căn cứ quân sự Rafo Masiarah, Sân bay quốc tế Muscat (còn gọi là Căn cứ không quân Seeb), Rafo Thumrait, Căn cứ không quân Al Musannah, Cảng Duqm (Oman); Căn cứ không quân Incirlik (Thổ Nhĩ Kỳ); Căn cứ Không quân Muwaffaq Salti (Azraq - Jordan) cùng một số căn cứ nhỏ khác ở Saudi Arabia và Iraq…
Số lượng binh lính Mỹ đồn trú ở vùng Vịnh cũng theo đó gia tăng mạnh. Ở Iraq, trước khi Mỹ tuyên bố rút quân khỏi quốc gia này, vào lúc cao điểm, số lượng quân Mỹ ở đây lên đến 26.000 người. Ở Oman, ước tính có khoảng 4300 binh lính Mỹ đồn trú (2001) [224; tr.15]. Ở Qatar, có khoảng 13.500 quân Mỹ. Con số này thậm chí lớn hơn cả số lượng binh sĩ đang tại ngũ của Qatar (khoảng 12.000 người) [158; tr.15]. Tại UAE, Mỹ duy trì khoảng 5000 binh sĩ theo Hiệp định quốc phòng giữa hai bên [159; tr.19]. Kuwait hiện là nơi tập trung đông quân Mỹ nhất ở khu vực Trung Đông. Theo số liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ, ở Kuwait, tính đến năm 2016, có 16.595 sĩ quan và nhân viên quân sự Mỹ đồn trú [278; tr.4]. Ngoài ra không thể không nhắc tới Hạm đội số 5 của Hải quân Mỹ. Hạm đội này neo đậu ở gần Cảng Khalifa bin Salman - Barhain. Hạm đội này có trách nhiệm phản ứng nhanh trước các diễn biến bất thường ở khu vực Vịnh Ba Tư, Vịnh Oman, Biển Đỏ, biển Arab, trong đó trọng tâm là eo biển Hormuz, eo biển Babal Mandeb và kênh đào Suez [303]. Tính đến 2016, có khoảng 35.000 binh sĩ đang đóng quân ở vùng Vịnh [156; tr.8].
24 Trong chiến dịch không kích Sân bay Quốc tế ở Baghdad (03/01/2020), Mỹ đã sử dụng máy bay không người lái từ một căn cứ quân sự ở Qatar để tiến hành cuộc tấn công vào đoàn xe chở tướng Qasim Soleimani. Kết quả là vị tướng cao cấp của Mỹ đã thiệt mạng trong trận không kích. Sự kiện này cho thấy vai trò các căn cứ quân sự ở Vùng Vịnh nói riêng và Trung Đông nói chung trong chiến lược ngăn chặn Iran.
107
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, Mỹ đã bố trí một hệ thống dày đặc các căn cứ quân sự ở vùng Vịnh với đa dạng các loại hình: không quân, hải quân, các cảng quân sự, kho vũ khí cùng với lực lượng binh lính hùng hậu. Từ một vài đơn vị phản ứng nhanh quy mô nhỏ được thành lập dưới chính quyền Carter, cho đến nay, các căn cứ quân sự của Mỹ ngày càng phình to hơn, biến Trung Đông trở thành một trong những cứ điểm quân sự quan trọng bậc nhất của Mỹ trên thế giới. Ngoài các mục tiêu đảm bảo an ninh khu vực, chống khủng bố, đảm bảo sự thông suốt của hoạt động vận chuyển dầu trên Vịnh Ba Tư, các căn cứ quân sự vừa nêu còn là phòng tuyến vững chắc để đối phó với Iran. Các căn cứ này giống như một vòng tròn xiết chặt Iran ở giữa. Khi tình hình trong khu vực bất ổn hoặc Iran có những hành động vượt qua giới hạn, Mỹ có thể dễ dàng triển khai các hoạt động quân sự mang tính răn đe cần thiết nhằm bảo vệ các đồng minh cũng như các lợi ích sống còn của nước Mỹ24. Thực tế lịch sử đã chứng minh, mỗi khi
quan hệ Mỹ - Iran căng thẳng, Mỹ thường tăng cường hoạt động của các tàu quân sự, tàu giám sát tại vùng Vịnh. Như vậy, khi so sánh với giai đoạn trước (1979 - 1991), sự phát triển mạng lưới căn cứ quân sự của Mỹ chính là một trong những điểm mới trong chiến lược ngăn chặn và kiềm chế sự trỗi dậy của Iran nói riêng và củng cố vị thế của Mỹ ở Trung Đông nói chung.
Biện pháp thứ ba, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự cho các đồng minh Trung Đông. Viện trợ quân sự là biện pháp truyền thống trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong chính sách ngăn chặn Iran, viện trợ quân sự dành cho hai đồng minh Israel, Saudi Arabia cũng như các quốc gia láng giềng, lân cận với Iran được coi là cách thức để tăng cường khả năng tự đối phó với những diễn biến bất thường trong khu vực, đặc biệt là những “thách thức” từ phía Iran. Viện trợ quân sự của Mỹ bao gồm viện trợ trực tiếp (trợ cấp hoặc cho vay) và các hợp đồng bán vũ khí.
Với Israel, từ năm 1991 đến năm 2016, trung bình mỗi năm Israel nhận được khoảng hơn 3 tỷ USD viện trợ từ Mỹ, trong đó 2/3 là viện trợ quân sự. Từ năm 1949 – 1996, viện trợ quân sự của Mỹ cho Israel là khoảng 29 tỷ USD. Thì chỉ trong vòng 13 năm sau đó (1997 - 2010), viện trợ quân sự của Mỹ cho Israel đạt tới hơn 32 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007, chính quyền của Tổng thống Bush đã thông qua kế hoạch tăng viện trợ quân sự cho Israel trong thập niên tiếp theo khoảng 6 tỷ USD [221, tr.4]. Phần lớn số tiền viện trợ này sẽ được cấp thông qua quỹ FMF (Foreign Military Financing to Israel). Cũng cần lưu ý rằng, phần lớn viện trợ kinh tế của Mỹ cho Israel ở dạng trợ cấp (military grant), không phải là dạng cho vay (military loan). Đây là sự ưu đãi đặc biệt của chính quyền Mỹ với Israel so với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Đáng lưu ý hơn, Mỹ còn cấp tiền để Israel nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí thế hệ mới trong bối cảnh Iran cũng đang có những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu phát triển hạt nhân cũng như các loại vũ khí hiện đại khác25.
Bên cạnh Israel, Mỹ tích cực viện trợ quân sự cho các quốc gia láng giềng của Iran như Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước vùng Vịnh (Saudi Arabia, UAE, Kuwait, Qatar, Oman) và cả ở những quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của Iran như: Lebanon, Jordan.
25 Mỹ đã hỗ trợ tài chính để Israel sản xuất hệ thống phóng tên lửa (Iron Dome Launcher), David’s Sling, Arow, hệ thống chống tên lửa Arow (Arow I, Arow II, Arow III). Hệ thống chống rocket tầm ngắn - Iron Dome được phía Israel nghiên cứu và phát triển độc lập. Các chuyên gia của Mỹ không tham gia vào quá trình tạo ra loại vũ khí này. Dù vậy, Mỹ vẫn rót tiền cho phía Israel trong dự án Iron Dome. Đến nay, theo những công bố chính thức, Mỹ đã tiêu tốn 1,39 tỷ USD cho sự án này của Israel. David’s Sling cũng là một sản phẩm với công thức: tiền của Mỹ và trí tuệ của Israel. Từ năm 2006 đến 2018, Mỹ đã chuyển 1,39 tỉ USD trong dự án sản xuất hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung David’s Sling. Hệ thống chống tên lửa Arow cũng được coi là trọng tâm trong hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Israel. Mỹ đã tài trợ 2,9 tỷ USD để Israel phát triển loại vũ khí chiến lược này.
108
Với trường hợp - Iraq, sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ, người Shi’ite ngày càng nắm ưu thế trong chính quyền mới ở Iraq. Mỹ luôn lo sợ chính quyền này sẽ chịu tác động từ Tehran và đi ngược lại với lợi ích của Mỹ. Những khoản viện trợ khổng lồ chính là chất xúc tác kéo chính quyền Iraq xích lại gần Mỹ. Từ năm 2003 đến năm 2008, Mỹ đã viện trợ cho quân đội quốc gia Iraq 261,2 triệu USD [232; tr.4]. Sau khi Mỹ tuyên
bố rút quân khỏi Iraq (18/12/2011), Mỹ tiếp tục hỗ trợ đáng kể cho chính quyền Iraq để ổn định tình hình đất nước, chống khủng bố cũng như hạn chế sự ảnh hưởng của Iran đối với Iraq.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một ví d ụ tiêu biểu khác. Chỉ một năm sau khi cuộc cách mạng ở Iran nổ ra, Mỹ đã ký Hiệp ước hợp tác kinh tế và quốc phòng với Thổ Nhĩ Kỳ (US - Turkey Defense and Economic Cooperation Agreement), chấm dứt thời kỳ đóng băng trong quan hệ giữa Ankara và Washington [276; tr.37]. Viện trợ quân sự của Mỹ cho Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên đáng kể26, đạt khoảng 6,058 tỷ USD, trong đó viện trợ quân sự dưới dạng trợ cấp chiếm 3,289 tỷ USD, các khoản cho vay dùng vào mục đích quốc phòng đạt 2,769 tỷ USD [276; tr.4].
Trong nỗ lực đối phó với sự trỗi dậy của Iran, Lebanon, nơi sản sinh ra tổ chức vũ trang Shi’ite – được hậu thuẫn bởi Iran cũng được chính quyền Mỹ và Lầu Năm Góc đặc biệt quan tâm. Để có thể giữ được Lebanon trong vòng kiểm soát, ngăn chặn ảnh hưởng Hezbollah, Mỹ đã tăng cường viện trợ cho chính phủ cũng như quân đội của quốc gia này. Tính đến nay, Quân đội quốc gia Lebanon (Lebanese Arms Forces - LAF) đã nhận được 1,7 tỷ USD [132; tr.1].
Bên cạnh viện trợ quân sự, hợp đồng bán vũ khí (arm sales) được chính quyền Mỹ tích cực sử dụng. Từ lâu, “các hợp đồng vũ khí được coi là một công cụ cho các cường quốc” [236; tr.1]. Theo phân tích của chuyên gia Clayton Thomas, việc Mỹ tăng cường trang bị vũ khí cho các đồng minh Trung Đông xuất phát từ nhiều lí do, trong đó có việc “ngăn chặn ảnh hưởng của Iran ở khu vực Trung Đông” [236; tr.1]. Mỹ dùng các hợp đồng bán vũ khí để thắt chặt mối quan hệ đồng minh cũng như tăng cường khả năng phòng vệ của các quốc gia Arab trước những thách thức an ninh khu vực Trung Đông, đặc biệt là sự trỗi dậy của Iran.
Trong khi áp đặt các lệnh cấm bán vũ khí ngặt nghèo đối với Iran, Mỹ lại tăng cường bán các loại vũ khí chiến lược cho các quốc gia đồng minh Arab và Israel. Từ năm 2008 – 2011, vũ khí có xuất xứ từ Mỹ chiếm tới 46,2% lượng vũ khí mà các quốc gia Trung Đông nhập khẩu [236; tr.3]. Mỹ trở thành nhà cung cấp vũ khí lớn nhất ở Trung Đông (xem phụ lục 11). Các hợp đồng bán vũ khí tăng mạnh cả về số lượng lẫn giá trị. Israel là một trong những quốc gia Trung Đông nhận được nhiều hợp đồng vũ khí chiến lược nhiều nhất từ Mỹ. Bên cạnh Israel, Saudi Arabia cũng được coi là một đối tác đặc biệt quan trọng của Lầu Năm Góc và chính phủ Mỹ. Từ sau Chiến tranh vùng Vịnh (1991), Saudi Arabia thường xuyên đặt các hợp đồng vũ khí thế hệ mới có giá trị lớn. Từ năm 2009 đến năm 2016, các hợp đồng vũ khí Mỹ bán cho Saudi Arabia lên tới 138,914 tỷ USD [39; tr.41].
26 Từ năm 1976 – 1981, viện trợ quân sự của Mỹ cho Thổ Nhì Kỳ chỉ đạt khoảng 967,8 triệu USD.
109
Ngoài đặc điểm tăng nhanh về số lượng và giá trị, các hợp đồng bán vũ khí của Mỹ sau năm 1991 còn tập trung chủ yếu vào việc bán và cung cấp các loại vũ khí chiến lược như hệ thống đánh chặn tên lửa Patriot và THAAD. Năm 1992, Kuwait đã mua hệ thống đánh chặn tên lửa Patriot, và năm 1998, Mỹ chính thức giao loại vũ khí quan trọng này
cho Kuwait [156; tr.11]. Tháng 12/2007, chính quyền Mỹ đã phê duyệt hợp đồng bán hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot thế hệ PAC - 3 trị giá 9 tỷ USD cho UAE [156; tr.21]. UAE là quốc gia đầu tiên ở vùng Vịnh mua thành công hệ thống phóng thủ tên lửa THAAD (Terminal High Altitude Air Defense System) trị giá khoảng 7 tỷ USD do Mỹ sản xuất sau 3 năm thương lượng (2008 - 2011) [159; tr.13]. Năm 2012, hợp đồng bán tên lửa PATRIOT Configuration-3 cho Qatar được chính quyền Mỹ thông qua, với tổng giá trị của hợp đồng lên đến 9,9 tỷ USD [40; tr.6]. Ngoài hệ thống đánh chặn tên lửa chiến lược, nhiều vũ khí hiện đại khác cũng được Mỹ bán cho các nước Trung Đông. Chẳng hạn, năm 2008, chính quyền Mỹ thông qua hợp đồng bán 75 chiếc máy bay chiến đấu F - 35 trị giá 15,2 tỉ cho Israel. Đây là một trong những thế hệ máy bay chiến đấu tối tân nhất do Mỹ chế tạo. Trên thực tế, Mỹ đã phân phối được 50 chiếc F – 35 cho quân đội Israel [221; tr.9].
Như vậy, có thể nhận thấy các hợp đồng bán vũ khí của Mỹ cho các quốc gia Trung Đông đang có xu hướng tăng mạnh kể từ sau năm 1991, đặc biệt là sau khi Mỹ đạt được các Hiệp định hợp tác quốc phòng với nhiều quốc gia trong khu vực. Các hợp đồng vũ khí đã trở thành một trong những công cụ để chính quyền Mỹ ngăn chặn và kiềm chế Iran. Theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ, thông qua việc bán và cung cấp vũ khí cho các nước vùng Vịnh (chủ yếu là khối GCC), Mỹ đã thiết lập thành công hệ thống phòng thủ tên lửa ở Vịnh Ba Tư. Hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot (chủ yếu là thế hệ mới nhất PAC - 3) ở Kuwait, Qatar, Saudi Arabia, UAE cùng với hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD ở UAE đã tạo ra một bức tường phòng vệ chắc chắn trước các nguy cơ tấn công vào khu vực Vùng Vịnh [258; tr.73], đặc biệt là trong bối cảnh chương trình tên lửa của Iran đạt được những bước tiến vượt bậc. Do vậy, Mỹ hi vọng, bằng sự trợ giúp của các vũ khí Mỹ, đặc biệt là hệ thống tên lửa phòng thủ THAAD và Patriot PAC-3, các đồng minh của Mỹ có thể ngăn chặn các nguy cơ tấn công từ Iran cũng như các nhóm vũ trang được Iran hậu thuẫn, đảm bảo sự ổn định ở khu vực.
Biện pháp cuối cùng là Mỹ can thiệp vào các cuộc xung đột ở khu vực Trung
Đông có liên quan tới Iran.
Cuộc chiến tranh ở Syria là một trong những điển hình cho chiến tranh ủy nhiệm, giữa một bên là chính quyền của Tổng thống Bashar Al - Assad với sự hậu thuẫn của Nga, Iran và Hezbollah và bên kia là các lực lượng đối lập được Mỹ và phương Tây hỗ trợ. Ngoài ra, sự xâm nhập của tổ chức khủng bố IS ở Syria cũng góp phần làm phức tạp hóa cuộc chiến đẫm máu này. Trước khi cuộc khủng hoảng mùa xuân Arab quét qua Syria, quốc gia này được coi là “trụ cột then chốt trong chính sách khu vực của Iran” [203; tr.31]. Điều đó giải thích tại sao khi chiến tranh nổ ra ở Syria, Iran là một trong những đồng minh tích cực hỗ trợ cho chính quyền của Al - Assad nhất trong cuộc chiến chống lại các tổ chức vũ trang đối lập được Mỹ và phương Tây ủng hộ.
110
Trước những diễn biến phức tạp ở Syria trong đó có sự can dự của Iran, Mỹ bắt đầu can thiệp vào cuộc chiến ở Syria. Năm 2011, Tổng thống Obama công khai yêu cầu Tổng thống Bashar Al - Assad từ chức “Chúng tôi kiên quyết tuyên bố rằng Tổng
thống Assad phải thực hiện một cuộc chuyển giao quyền lực trong hòa bình hoặc tránh sang một bên... Vì lợi ích của nhân dân Syria, đã đến lúc Tổng thống Assad phải từ bỏ quyền lực” [203; tr.59]. Obama cũng thể hiện rõ quan điểm ủng hộ cuộc “đấu tranh vì dân chủ” của nhân dân Syria [41; tr.8]. Năm 2012, Tổng thống Obama đã ký một sắc lệnh bí mật giao quyền cho CIA và các cơ quan khác của chính phủ Mỹ ủng hộ cho các lực lượng nổi dậy “hạ bệ” Assad, trong đó lực lượng người Kurd ở phía Bắc Syria đóng vai trò trung tâm trong chiến dịch lật đổ Assad của Washington [119; tr.260]. Theo đó, Mỹ tài trợ tiền và vũ khí cho các lực lượng đối lập [129; tr.28].
Tiến thêm một bước trong việc can thiệp vào Syria, Mỹ còn trực tiếp can dự quân sự vào Syria khi các lực lượng đối lập gặp khó khăn trên chiến trường. Trong suốt năm 2013, chính quyền của Tổng thống Assad với sự hỗ trợ của đồng minh gồm Nga, Iran và lực lượng Hezbollah đã dần lấy lại được thế chủ động trên chiến trường, các lực lượng đối lập được Mỹ hậu thuẫn có dấu hiệu suy yếu. Lực lượng vệ binh Iran trực tiếp tham gia huấn luyện binh lính Syria, cũng như cung cấp vũ khí và tài chính cho chính quyền Syria đứng vững trong chiến tranh. Theo ước tính năm 2015, Iran đã chuyển cho chính quyền Assad 6 tỷ USD [26; tr.10]. Hezbollah - lực lượng được Iran hậu thuẫn thì trực tiếp triển khai quân ở Syria, đặc biệt là vùng biên giới giữa Syria và Lebanon để trợ giúp cho quân đội của Assad. Trong bối cảnh đó, lấy danh nghĩa chống lại tổ chức khủng bố IS (Islamic State), Mỹ và các đồng minh đã tiến hành các đợt không kích quy mô lớn tại Syria.
111
Ngày 11/9/2014, Tổng thống Barack Obama cho phép tấn công vào các mục tiêu khủng bố của IS ở Syria. Theo đó, Mỹ dẫn đầu một liên minh các quốc gia Arab (bao gồm Bahrain, Jordan, Qatar, Saudi Arabia và the United Arab Emirates) thực hiện các cuộc không kích [77; tr.1]. Đây là lần đầu tiên kể từ Thế chiến II, Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh mà không có một nghị quyết của Liên Hợp quốc, sự tham gia của NATO, nghị quyết của Liên đoàn Arab về ủng hộ hành động quân sự, một sự ủy quyền cụ thể của quốc hội về tiến hành chiến tranh ở nước khác và cả sự chấp thuận từ nước chủ nhà. Cụ thể, từ ngày 23/9/2014, Mỹ tiến hành 22 cuộc không kích nhắm vào Raqqah, được coi là thành trì của IS, và 30 cuộc tấn công vào Deir el-Zour, cũng là nơi IS chiếm giữ. Ngoài ra, Lầu Năm Góc cho biết Mỹ còn thực hiện riêng 8 cuộc không kích nhằm vào nhóm Khorasan có liên hệ với al-Qaeda ở phía tây thành phố Aleppo nhằm chặn đứng nguy cơ tấn công nhắm vào các lợi ích của Mỹ. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Syria cho biết có ít nhất 70 phiến quân của IS thiệt mạng và hơn 300 lính bị thương sau các cuộc không kích. Tuy nhiên, cuộc không kích này không những tiêu diệt các mục tiêu IS mà còn gây tổn hại đến nhiều cơ sở quốc phòng quan trọng của quân đội quốc gia Syria, thậm chí khiến nhiều dân thường ở Syria trong đó có trẻ em thiệt mạng. Các cuộc không kích của Mỹ đã vấp phải sự chỉ trích dữ dội từ chính quyền Iran trong nỗ lực ủng hộ người bạn đồng minh Assad. Iran cho rằng việc Mỹ viện lý do phản ứng lại trước các cuộc tấn công hóa học ở Khan Saykhun để tiến hành
không kích chỉ là một cái cớ do Mỹ tạo ra nhằm hỗ trợ cho các nhóm vũ trang đối lập, xoay chuyển cục diện trên chiến trường Syria. Người phát ngôn của Bộ ngoại giao Iran Bahram Qasemi tuyên bố: “Tehran coi lời bào chữa này như một hành động đơn phương nguy hiểm, phá hoại và vi phạm những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế” [215; tr.849].
Ngoài các chiến dịch không kích, Mỹ còn trực tiếp triển khai quân ở Syria nhằm trợ giúp cho các nhóm vũ trang đối lập ở Syria. Cuối năm 2015, những lính bộ binh Mỹ đầu tiên đặt chân tới Syria. Ban đầu Mỹ chỉ triển khai một lực lượng nhỏ với 50 thủy quân lục chiến ở Syria. Đến tháng 4/2016, số lượng quân Mỹ ở Syria tăng lên 250 người [129; tr.13]. Mỹ cũng nhanh chóng chiêu mộ, tổ chức và cố vấn cho hàng ngàn chiến binh Arab và người Kurd Syria, tập hợp trong hàng ngũ của Lực lượng Dân chủ Syria (Syrian Democratic Forces - SDF), một lực lượng đối lập chính tại Syria, và đẩy dần IS ra khỏi hầu hết các căn cứ địa của phe này. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận lại rằng, sự tham gia của Mỹ trong cuộc chiến ở Syria khá hời hợt. Mỹ không chứng tỏ được một vai trò nổi bật như Nga hay Iran trong nỗ lực xoay chuyển cục diện cuộc chiến. Nguyên do Chính quyền Barack Obama không quyết tâm hành động ở Syria một phần xuất phát từ việc ông không muốn phá hỏng cuộc đàm phán với Iran - điều mà ông cho là sẽ đem lại thế cân bằng chiến lược ở khu vực Trung Đông.
Gần đây nhất, trong cuộc nội chiến ở Yemen. Iran bị cáo buộc có liên quan gián tiếp đến cuộc nội chiến ở Yemen trong vai trò là nhà tài trợ vũ khí, tài chính cho tổ chức quân sự này. Để đối phó với tình huống khẩn cấp ở Yemen, Mỹ ủng hộ cho Saudi Arabia thực hiện các chiến dịch quân sự nhằm tiêu diệt lực lượng đối lập Houthi ở Yemen.
Houthi là một lực lượng chính trị - tôn giáo của phái Zaidi - một nhánh của dòng Islam Shi’ite. Houthi ra đời vào năm 2004 tại Sa’dah – một tỉnh phía Bắc Yemen dưới sự lãnh đạo của gia đình Houthi. Từ năm 2004 – 2010, đã có 6 cuộc xung đột giữa chính quyền trung ương Yemen với Houthi. Houthi không những không bị đánh bại, mà ngày càng có một vị thế quan trọng ở Yemen sau mỗi lần chiến thắng quân chính phủ [227; tr.1]. Khi Mùa xuân Arab quét qua Yemen, chính quyền của cựu Tổng thống Ali Abdullah Saleh sụp đổ. Phó Tổng thống Abdu Rabbu Mansour Hadi đã lên nắm quyền. Ông cố gắng tiến hành một số cải cách kinh tế - xã hội nhằm đưa Yemen ra khỏi cơn khủng hoảng. Tuy nhiên, Houthi cho rằng chính quyền đương nhiệm là công cụ của Mỹ và các quốc gia phương Tây. Cuộc nội chiến ở Yemen bùng nổ vào năm 2015 khi phái Houthi phát động cuộc chiến ủng hộ cho Cựu tổng thống Ali, chống lại Tổng thống đương nhiệm Hadi cũng như các chương trình cải cách của ông. Cuộc chiến kéo dài đến hiện nay, khiến hơn 60.000 người thiệt mạng, tạo ra cuộc khủng hoảng nhân đạo chưa từng có trong lịch sử Yemen.
112
Trong suốt cuộc chiến này, các quan chức Mỹ cho rằng Tehran đứng sau Houthi trong các chiến dịch quân sự chống lại liên minh do Saudi Arabia đứng đầu tại Yemen.
Trong một báo cáo của Cục tình báo quốc phòng Mỹ DIA có chỉ rõ rằng “Iran đã cung cấp sự trợ giúp rất lớn cho Houthi bao gồm sự cố vấn, huấn luyện và vũ khí hủy diệt” [262; tr.68]. Hải quân Mỹ từng chặn bốn lô vũ khí từ Iran đến Yemen [296]. Bản thân Iran đã tuyên bố nhiều lần rằng nước này kiểm soát thủ đô bốn nước Arab, trong đó có Sana’a (thủ đô Yemen), và phe nổi dậy Houthi đã trở nên gắn bó mật thiết với Hezbollah, lực lượng chính trị và quân sự do Iran ủy nhiệm ở Lebanon. Trên thực tế, nhà lãnh đạo Hezbollah Hassan Nasrallah đã tuyên bố lý tưởng của phe Houthi là lý tưởng của mình, cho phép truyền thông Houthi lập trụ sở ở ngoại ô phía Nam Beirut, và công khai chào đón các chiến binh Houthi tập luyện với các lực lượng của mình. Các khẩu hiệu chính trị, tuyên truyền, và cách làm việc của phe Houthi đều học theo Hezbollah. Giám đốc Cơ quan Tình báo quốc gia Mỹ, Daniel Coats đã tổng kết rằng: “Ở Yemen, sự trợ giúp của Iran cho lực lượng Houthi bao gồm việc cung cấp tên lửa đạn đạo đã làm leo thang mức độ nguy hiểm trong cuộc xung đột, tạo ra những mối đe dọa nghiêm trọng đối với Mỹ và các đồng minh. Hiện Iran vẫn tiếp tục cung cấp các trang thiết bị quân sự cho Houthi nhằm tấn công các tàu bè đi lại ở eo biển Bab el Mandeb Strait và tấn công vào sâu vùng bán đảo Arab bao gồm Saudi Arabia và UAE bằng tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình UAVs” [250; tr.30].
Sự can thiệp của Iran tại Yemen bị Mỹ coi là mối đe dọa nghiêm trọng đối với tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi. Do vậy, Mỹ đã ủng hộ liên quân do Saudi Arabia đứng đầu nhằm bảo vệ cho chính quyền của Tổng thống Hadi, chống lại Houthi. Vào tháng 3/2015, Tổng thống Barack Obama thông qua các điều khoản cung cấp hậu cần và thông tin tình báo cho các chiến dịch quân sự của Hiệp hội các quốc gia vùng Vịnh GCC do Saudi Arabia đứng đầu. Các sĩ quan thuộc Trung Tâm chỉ huy quân sự của Mỹ ở Trung Đông – US CENTCOM, cũng được triển khai để thực hiện các cam kết hỗ trợ cho Saudi Arabia ở Yemen. Ngoài ra, quân Mỹ sẽ chịu trách nhiệm tiếp nhiên liệu trên không cho máy quân của liên quân GCC từ tháng 4/201527. Sự ủng hộ và hỗ trợ của Mỹ cho chiến dịch can thiệp quân sự của liên quân các nước GCC do Saudi Arabia đã giúp cho chính quyền của Tổng thống Hadi tiếp tục trụ vững trước các cuộc tấn công liên tục của Houthi và phe những người ủng hộ Cựu Tổng thống Ali. Tuy nhiên, mặt khác, sự can thiệp Mỹ và các đồng minh đã làm nội chiến ở Yemen kéo dài, khốc liệt, để lại những hậu quả nặng nề hơn cho quốc gia nghèo nhất vùng Vịnh.
27 Chiến dịch hỗ trợ này của Mỹ kết thúc vào tháng 10/2018
113
3.2.2.3. Ngăn chặn Chương trình hạt nhân của Iran Chương trình hạt nhân của Iran là một trong những nút thắt lớn nhất trong quan hệ giữa Mỹ và Iran. Các tổng thống Mỹ từ Reagan đến Barack Obama đều coi tham vọng hạt nhân của Iran là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh nước Mỹ và các lợi ích quan trọng khác ở khu vực Trung Đông. Trong Thông điệp Liên bang 2002, Tổng thống George W Bush (Bush con) nhấn mạnh rằng “Iran theo đuổi việc phát triển các
loại vũ khí hủy diệt hàng loạt và xuất khẩu khủng bố, trong khi đó giới cầm quyền không qua bầu cử của nước này lại đàn áp hi vọng về tự do của phần lớn người dân Iran” (Iran aggressively pursues these weapons and exports terror, while an unelected few repress the Iranian people's hope for freedom) [50; tr.2]. Chương trình hạt nhân của Iran tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu trong suốt hai nhiệm kỳ của Tổng thống Barack Obama. Ngay từ khi còn là một ứng cử viên Tổng thống, Obama đã bày tỏ sự đồng thuận với quan điểm của những người Mỹ gốc Do Thái về Iran và chương trình hạt nhân cũng như chính sách đối ngoại của quốc gia này. Trong bài diễn văn dài 70 trang trước Diễn đàn chính sách AIPAC ngày 2/3/2007, ông nhấn mạnh “Cả Mỹ và Israel đều không thể bỏ qua sự phẫn nộ chỉ vì cho rằng đó là những đe dọa không có thực, nhất là khi quốc gia đó - Iran bày tỏ sự quan tâm đến việc phát triển vũ khí hạt nhân” (Neither Israel and the United States has luxury of dismissing these outrages as mere rhetoric, particularly when that nation has expressed an interest in developing nuclear weapons) [102; tr.84]. Obama khẳng định “phải hành động để chặn đứng chương trình làm giàu hạt nhân của Iran và ngăn ngừa Iran trang bị thành công vũ khí hạt nhân” [102; tr.85]. Khi đã trở thành tổng thống Mỹ, chính sách của Mỹ với Iran vẫn nhất quán với những cam kết trong chiến dịch tranh cử của ông. Vấn đề hạt nhân tiếp tục được Obama đặc biệt quan tâm. Theo đó, dù không sử dụng vũ lực, nhưng đối với trường hợp Iran “Mỹ sẽ truyền tải những thông điệp cứng rắn, trực tiếp rằng nếu Iran không thay đổi “hành vi” Iran sẽ phải trả một cái giá rất đắt” [102; tr.99], cụ thể là áp lực tối đa từ các lệnh trừng phạt kinh tế.
Trên thực tế, Iran đã khởi động lại chương trình hạt nhân từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, chương trình hạt nhân của nước này chỉ thật sự là mối đe dọa với Mỹ và các đồng minh từ những năm 1990 với việc Iran đạt được những bước tiến dài trong công nghệ nghiên cứu và phát triển hạt nhân. Chính vì vậy, trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2016, chương trình hạt nhân của Iran trở thành một trong những điểm trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran.
Để ngăn chặn việc Iran sở hữu vũ khí hạt nhân (nuclear weapon), sản xuất các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác (weapons of mass destruction), tiến đến dừng các chương trình nghiên cứu hạt nhân của nước này, Mỹ đã áp dụng đa dạng các biện pháp khác nhau, trong đó: áp đặt các lệnh cấm vận liên quan đến công nghệ hạt nhân và sản xuất vũ khí sinh học, hóa học tiên tiến đối với Iran; Vận động các đồng minh bao vây, cô lập, gây sức ép với Iran và tiến hành đàm phán khi thích hợp, giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran theo phương thức hòa bình.
114
Liên quan đến biện pháp thứ nhất, Mỹ tăng cường áp đặt các lệnh cấm vận vũ khí lên Iran, đặc biệt là các loại vũ khí hủy diệt, vũ khí công nghệ cao. Một trong những lệnh cấm vận vũ khí quan trọng nhất của Mỹ đối với Iran là Đạo luật Chống phổ biến vũ khí hạt nhân ở Iran - Iraq (The Iran - Iraq Arms Nonproliferation Act). Đạo luật này được thông qua vào tháng 10/1992 bởi Tổng thống George H W Bush
(Bush cha). Đạo luật áp đặt một số lệnh trừng phạt đối với các thực thể nước ngoài cung cấp cho Iran công nghệ để phát triển vũ khí hạt nhân hoặc “các loại vũ khí mới được cải tiến với số lượng bất thường”. Các loại vũ khí đã được cải tiến được hiểu là:
1) Các loại đạn đạo dẫn đường chính xác tầm xa, chất nổ khí nhiên liệu, tên lửa hành trình, máy bay quan sát tầm thấp, máy bay có khả năng tránh radar, máy bay quân sự tiên tiến, vệ tinh quân sự, vũ khí điện từ và vũ khí laser mà Tổng thống xác định làm mất ổn định quân sự hoặc tăng cường khả năng tấn công theo cách gây bất ổn;
(2) Các hệ thống chỉ huy, kiểm soát và liên lạc tiên tiến như vậy, hệ thống tác chiến điện tử hoặc hệ thống thu thập thông tin tình báo khi Tổng thống xác định gây mất ổn định cân bằng quân sự hoặc tăng cường khả năng tấn công theo cách gây bất ổn;
(3) Các thiết bị hoặc hệ thống khác được Tổng thống cho là có thể phục vụ cho mục đích cải tiến công nghệ. Những công nghệ này thường được hiểu là bao gồm công nghệ có thể được sử dụng để phát triển tên lửa đạn đạo [150; tr.22].
Năm 2000, Tổng thống Bill Clinton tiếp tục áp đặt một Đạo luật khác liên quan đến việc cấm phổ biến vũ khí hạt nhân đối với Iran - Iran Nonproliferation Act of 2000. Đạo luật này tiếp tục thắt chặt hơn nữa các lệnh cấm vận đối với Iran nhằm ngăn chặn quốc gia này tiếp cận và sở hữu vũ khí hạt nhân. Bất cứ cá nhân người nước ngoài bị phát hiện chuyển cho Iran hoặc hỗ trợ cho Iran các công nghệ liên quan đến phát triển vũ khí hạt nhân là đối tượng chịu lệnh trừng phạt của Mỹ [248; tr.1].
Như vậy, các lệnh cấm vận quân sự của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn 1991 - 2016 chủ yếu để ngăn ngừa việc Iran sở hữu vũ khí hạt nhân cũng như tiếp cận các công nghệ sản xuất loại vũ khí nguy hiểm này. Điều này phản ánh thực tế lúc bây giờ khi vấn đề hạt nhân của Iran được cho là nút thắt lớn nhất trong mối quan hệ giữa Iran với Mỹ. Sự cứng rắn của chính quyền Mỹ lúc đó và những nỗ lực của cộng đồng quốc tế đã từng bước khiến Iran phải nhượng bộ. Bằng chứng là từ năm 2002, Iran cho phép các quan sát viên của IAEA được phép kiểm tra, thanh sát tại một số cơ sở hạt nhân của nước này.
115
Trong biện pháp thứ hai, Mỹ tích cực vận động các đồng minh đồng thuận với chính sách trừng phạt của Mỹ, tiến tới bao vây, cô lập Iran, buộc Iran phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và phương Tây họp bàn về chương trình hạt nhân của quốc gia này. Chẳng hạn, vào mùa thu năm 2005, Tổng thống George W. Bush đã gây áp lực lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc áp đặt các lệnh cấm vận đối với Iran [190; tr.297]. Những nỗ lực của Bush cuối cùng cũng thành công. Cuối tháng 12/2006, Nga và Trung Quốc, hai quốc gia từng phản đối mạnh mẽ nhất đã quyết định thông qua lệnh cấm vận có hạn định đối với Iran. Cuối tháng 3/2007, Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc lại thông qua lệnh cấm vận thứ hai đối với Iran, theo đó, cấm xuất khẩu vũ khí sang Iran, hạn chế du lịch đối với các cá nhân hỗ trợ hoặc có liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran, đóng
băng tài khoản các cá nhân, tổ chức không tuân thủ lệnh cấm vận đầu tiên của Liên Hợp quốc [246; tr.1-4].
Biện pháp cuối cùng là đàm phán. Đàm phán hòa bình với Iran được coi là bước quan trọng nhất để đi đến Thỏa thuận hạt nhân. Trên thực tế, chủ trương đàm phán với Iran để giải quyết các nút thắt trong quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là chương trình hạt nhân của Tehran đã được nước Mỹ cân nhắc từ khá sớm. Ngay cả trong những thời điểm quan hệ giữa hai nước căng thẳng nhất, biện pháp đàm phán đã được chính quyền Mỹ cân nhắc, lựa chọn. Chẳng hạn như Tổng thống Jimmy Carter và Tổng thống Ronald Reagan đã thực hiện nhiều cuộc đàm phán cả công khai và bí mật với phía Iran để thương thuyết thả các con tin Mỹ bị bắt cóc ở Đại sứ quán Mỹ ở Tehran năm 1979 và ở Lebanon trong những năm đầu của thập niên 1980. Chính quyền của Tổng thống Bill Clinton thậm chí còn chủ động đưa ra các lời đề nghị đàm phán với Iran nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hai nước cũng như chấm dứt cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran. Chẳng hạn, vào năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị đối thoại trực tiếp với Tân tổng thống Iran lúc bấy giờ là Mohammad Khatemi [147; tr.19]. Mỹ cho rằng Mohammad Khatemi – một Tổng thống có thái độ trung lập có thể sẽ chấp nhận nhượng bộ trước Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, Mohammad Khatemi đã từ chối lời đề nghị đàm phán của Mỹ. Vào tháng 6/1998, Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright đã kêu gọi những hành động để xây dựng hiểu biết chung, đưa ra lộ trình cho việc bình thường hóa quan hệ [147; tr.19].
Tuy nhiên, xu hướng đàm phán với Iran không được tiếp tục duy trì dưới chính quyền của người kế nhiệm - Tổng thống George H Bush. Đối với Bush, Iran là một quốc gia “bất hảo” (rogue state) khi cố gắng theo đuổi chương trình hạt nhân, hỗ trợ cho các tổ chức mà Mỹ coi là khủng bố, làm bất ổn tình hình ở khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, một vị Tổng thống Mỹ đã xếp Iran vào “trục ma quỷ” (Axis of Evils) cùng với Iraq và Triều Tiên trong Thông điệp Liên bang 2002. Chính vì vậy, trong hai nhiệm kỳ của Bush, chính quyền Mỹ không chủ động đưa ra các đề nghị đàm phán như Tổng thống Bill Clinton và các cộng sự của ông đã làm. Dưới chính sách cứng rắn của Bush, cánh cửa đàm phán giữa Mỹ - Iran gần như bị phong tỏa.
116
Trong bối cảnh chính quyền Bush thờ ơ với triển vọng đàm phán hạt nhân với Iran, thì các quốc gia EU được coi là lực lượng đi đầu khởi xướng các cuộc đàm phán đầu tiên với Iran. Nhóm EU - 3 bao gồm Anh, Pháp và Đức đã có những cuộc tiếp xúc đầu tiên với các nhà lãnh đạo Iran vào đầu tháng 8. Những nỗ lực của nhóm EU - 3 đã gặt hái được những kết quả đầu tiên. Vào ngày 21/10/2003, Iran đồng ý tạm dừng việc làm giàu uranium và cho phép các quan sát viên của Tổ chức Nguyên tử Quốc tế IAEA vào thanh sát các cơ sở hạt nhân. Một năm sau đó, vào ngày 15/11/2004, Iran đồng ý “tiếp tục gia hạn thời gian tạm ngừng làm giàu hạt nhân và các quy trình liên quan” “bắt đầu đàm phán” [190; tr.297] với nhóm EU - 3. Tuy nhiên, vai trò của EU - 3 chỉ phát huy trong giai đoạn đầu tiên của tiến trình đàm phán. Sự góp mặt của Nga,
Trung Quốc, đặc biệt là Mỹ sau đó đã đẩy nhanh tiến trình đàm phán.
Đến hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, công cuộc đàm phán với Iran để giải quyết các bất đồng giữa hai nước (trong đó có vấn đề hạt nhân) được đẩy mạnh. Điều này xuất phát từ chính sách tương đối mềm mỏng và linh hoạt của Chính quyền Obama với Iran. Trong quan điểm của Obama, đã đến lúc thúc đẩy Iran hạn chế sự phát triển của chương trình hạt nhân thông qua các biện pháp ngoại giao và xây dựng lại mối quan hệ với Iran sau nhiều thập kỷ đối đầu căng thẳng. Obama quyết tâm theo đuổi việc đàm phán và ký kết một thỏa thuận hạt nhân với Iran trong hai nhiệm kỳ của ông.
Tại sao chính quyền Obama lại quyết tâm đạt được một thỏa thuận hạt nhân toàn diện với Iran ? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chính sách này của Obama: Thứ nhất, thỏa thuận với Iran giúp Mỹ hi vọng ngăn được việc Iran sở hữu bom hạt nhân và một cuộc chiến không mong đợi nữa ở vùng Vịnh. Thứ hai, nhiều người Mỹ tin rằng thỏa thuận sẽ thúc đẩy xã hội Iran, đặc biệt là những người trẻ, đi theo hướng ôn hòa và dân chủ hơn, điều rất quan trọng với sự ổn định ở Trung Đông khi Iran ít nhiều là một trong những cường quốc của khu vực. Công chúng Iran nhìn chung ủng hộ thỏa thuận này. Những người lạc quan nhất còn cho rằng nó sẽ tạo ra hiệu ứng cho phép xã hội Iran tiến hành các cải cách chính trị và văn hóa mà lâu nay họ vẫn mong đợi. Thứ ba, Mỹ cũng cần sự hỗ trợ của Iran trong cuộc chiến đối phó với tổ chức khủng bố IS. Với lực lượng quân đội hùng hậu nhất khu vực Trung Đông, Iran có thể triển khai quân cùng với Mỹ trong các chiến dịch tiêu diệt IS nếu một Thỏa thuận tốt được thông qua giữa hai nước. Cuối cùng, thỏa thuận hạt nhân sẽ giúp Mỹ có thêm lựa chọn chính sách trong khu vực, giảm bớt sự lệ thuộc của Washington vào các đồng minh truyền thống với chế độ chính trị quân chủ bảo thủ như Saudi Arabia, cân bằng các mối quan hệ của Mỹ ở Trung Đông.
28 Nowruz là Lễ đón năm mới của người Ba Tư. 29 Nhóm P5+1 bao gồm 5 nước là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc) và Đức.
117
Để đạt được thỏa thuận với Iran, đối thoại và đàm phán là công cụ quan trọng nhất, “các biện pháp quân sự sẽ không bao giờ được đặt lên bàn đàm phán” [102; tr.99]. Cách tiếp cận mới của Obama đã được phản ánh trong nhiều phát ngôn chính thức của ông, nổi bật nhất là Thông điệp mà ông gửi tới nhân dân Iran trong dịp lễ Nowruz28 ngày 21/3/2009. Ông viết “giờ là lúc cam kết dùng các biện pháp ngoại giao giải quyết các vấn đề trước đó đã tồn tại giữa chúng ta cũng như theo đuổi việc xây dựng mối quan hệ giữa Mỹ, Iran và cộng đồng quốc tế” [147; tr.21-22]. Nếu như Tổng thống Bush không mấy mặn mà với các vòng đàm phán với nhóm P5+129 và Iran thì Obama lại tích cực thúc đẩy các biện pháp ngoại giao để đi đến thỏa thuận cuối cùng với Iran, chấm dứt cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran. Mấu chốt quan trọng nhất trong quan điểm của Obama là ông không hướng tới việc dừng toàn bộ chương trình hạt nhân của Iran mà chỉ ngăn
ngừa Iran sử dụng hạt nhân để sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt. Trong bài phát biểu tại Hội nghị “Thế giới Muslim” ngày 04/6/2009, Tổng thống Obama đã thừa nhận rằng nước Mỹ có trách nhiệm lớn trong cuộc lật đổ Mossadeq và khẳng định Iran có quyền theo đuổi chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình [147; tr.22]. Sự thay đổi trong quan điểm của người đứng đầu Nhà Trắng đã góp phần quan trọng tháo bung nút thắt lớn nhất giữa Mỹ và Iran liên quan đến chương trình hạt nhân của quốc gia Trung Đông này. Thay vì cấm hoàn toàn chương trình hạt nhân, Obama nhấn mạnh sẽ chỉ hạn chế việc Iran nghiên cứu và phát triển hạt nhân vì mục đích quân sự. Luận điệu đó đã làm cho những người đứng đầu Iran dễ dàng chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và phương Tây.
Với sự quyết tâm của các bên, trong đó có Mỹ, tiến trình đàm phán với Iran được thúc đẩy nhanh chóng. Ngoài việc đàm phán 6 bên với Iran (nhóm P5+1), Mỹ còn chủ động tạo ra các kênh đối thoại song phương riêng nhằm tháo gỡ những nút thắt trong vấn đề hạt nhân một cách nhanh chóng hơn. Đầu năm 2013, Chính quyền đã bắt đầu các cuộc đàm phán trực tiếp nhưng không công khai với các quan chức Iran tại Oman để thăm dò quan điểm của Iran trong nỗ lực đi đến một thỏa thuận hạt nhân toàn diện [147; tr.23].
Những nỗ lực trên bàn đàm phán của Mỹ nói riêng và của nhóm P5+1 nói chung đã từng bước đạt được những thành quả lớn. Đầu tiên là Kế hoạch hành động chung - JPA (Joint Plan of Action)30. Về cơ bản, khi JPA có hiệu lực vào tháng 1 năm 2014, các chương trình hạt nhân của Iran được tạm ngừng, nhằm chuẩn bị thời gian đàm phán cho một Thỏa thuận chi tiết và cụ thể hơn. Theo đó, Iran đồng ý hạn chế các bước tiến mới trong hoạt động của họ tại Natanz cơ sở quy mô thương mại, cơ sở Fordow và lò phản ứng Arak. Tehran cũng được yêu cầu cung cấp cho IAEA một số thông tin bổ sung về chương trình hạt nhân của nước này, cũng như để IAEA tiếp cận một số cơ sở hạt nhân của Iran vốn không nằm trong danh sách các điểm IAEA được thanh sát theo thỏa thuận trước đó giữa hai bên [168; tr.5]. Ngoài ra, JPA cũng đặt ra một số quy định cụ thể đối với Iran về: giới hạn số lượng máy li tâm, giới hạn cấp độ làm giàu uranium…
Tuy nhiên, JPA mới chỉ là bước đệm trên con đường đi đến một thỏa thuận toàn diện hơn hơn để triển khai các cam kết trên bàn đàm phán vào trong thực tiễn. Muốn Iran dừng việc làm giàu uranium cũng như các chương trình nghiên cứu hạt nhân của quốc gia này, Mỹ và phương Tây phải tiến hành dỡ bỏ các lệnh cấm vận trước đó. Quá trình đàm phán Thỏa thuận hạt nhân cuối cùng đã diễn ra liên tực trong hai năm 2014 - 2015. Sau rất nhiều nỗ lực từ các bên liên quan, “Kế hoạch hành động toàn diện chung ra đời” - JCPOA (Joint Comprehensive Plan of Action) được hoàn thiện và thông qua vào ngày 14/7/2015.
30 JPA còn được biết đến rộng rãi với tên gọi JPOA
118
Theo thỏa thuận, các lệnh trừng phạt của Mỹ, EU và Liên Hợp quốc dần được dỡ
bỏ. Đổi lại, Iran phải đồng ý hạn chế dài hạn chương trình hạt nhân mà phương Tây nghi ngờ nhằm chế tạo bom hạt nhân. Cụ thể như sau:
Liên quan đến hoạt động làm giàu uranium của Iran, JCPOA quy định rất rõ rằng Iran chỉ được duy trì các thiết bị máy li tâm thế hệ cũ (IR-1), hạn chế việc sản xuất thêm các loại máy ly tâm đời thấp đã được cải tiến hoặc máy li tâm đời cao.
“Iran sẽ bắt đầu loại bỏ các máy ly tâm IR-1 sau 10 năm nữa. Trong thời kỳ này, Iran sẽ duy trì khả năng làm giàu uranium ở cơ sở hạt nhân Natanz với 5060 máy ly tâm IR-1”, “Iran sẽ tiếp tục tiến hành nghiên cứu và phát triển việc làm giàu uranium giàu theo hướng không tích lũy. Nghiên cứu và phát triển hạt nhân của Iran trong 10 năm sẽ chỉ bao gồm các máy ly tâm IR-4, IR-5, IR-6 và IR-8 (được nêu trong Phụ lục I), và Iran sẽ không tham gia vào các công nghệ tách đồng vị khác để làm giàu uranium như được quy định trong Phụ lục I. Iran sẽ tiếp tục thử nghiệm máy ly tâm IR-6 và IR-8, với số lượng lên đến 30 máy ly tâm IR-6 và IR-8 sau tám năm rưỡi”… “Vì Iran sẽ loại bỏ dần các máy ly tâm IR-1, nên họ sẽ không sản xuất hoặc lắp ráp các máy ly tâm khác, trừ khi được quy định trong Phụ lục I, hoặc chỉ được phép thay thế máy ly tâm đã hỏng bằng một máy ly tâm cùng loại. Iran chỉ được phép sản xuất máy ly tâm tiên tiến dành cho các mục đích được chỉ định trong bản Kế hoạch hành động toàn diện này. Từ cuối năm thứ tám, Iran sẽ bắt đầu sản xuất máy ly tâm IR-6 và IR-8 không có cánh quạt theo thỏa thuận và lưu trữ chúng tại Natanz, dưới sự giám sát liên tục của IAEA cho đến khi các thiết bị máy ly tâm này trở nên cần thiết đối kế hoạch nghiên cứu và phát triển chương trình làm giàu hạt nhân dài hạn của Iran” [139; tr.6].
Như vậy, theo Kế hoạch hành động toàn diện chung giữa Iran và nhóm P5+1, năng lực nghiên cứu và phát triển chương trình hạt nhân của Iran sẽ bị hạn chế tối đa với những quy định liên quan đến cơ sở hạ tầng và công nghệ làm giàu uranium nêu trên. Iran chỉ được duy trì việc nghiên cứu hạt nhân thông qua các thiết bị máy li tâm đời thấp (IR1). Các máy li tâm thế hệ mới như IR6 và IR8 bị hạn chế sản xuất và lắp ráp và không cải tiến thêm các loại máy li tâm đời cao hơn. Không có các máy ly tâm hiện đại, Iran khó có thể tạo ra uranium làm giàu cấp độ cao - thứ nguyên liệu tối quan trọng được dùng trong qui trình sản xuất vũ khí hạt nhân.
119
Liên quan đến cấp độ làm giàu uranium ở Iran, JCPOA cũng quy định rõ ràng Iran phải duy trì việc làm giàu uranium ở cơ sở Natanz ở mức 3,67%. “Trong thời gian 15 năm, và khi Iran cải tiến dần việc làm giàu urannium, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, đủ điều kiện cho nhiên liệu hạt nhân được sản xuất tại Iran, Iran giữ mức dự trữ uranium dưới 300 kg uranium hexafluoride (UF6) lên tới 3,67% hoặc tương đương trong các dạng hóa học khác” [139; tr.7]. Mức độ làm giàu uranium chỉ đạt 3,67% chỉ thích hợp sử dụng trong nghiên cứu và sản xuất điện năng. Mức độ này không đủ để đưa vào ứng dụng trong công nghệ sản xuất vũ khí hạt nhân. Bởi để sản xuất vũ khí hạt nhân, uranium cần được làm giàu từ mức 20% trở lên. Bên cạnh đó, Iran phải chuyển đổi cơ sở Fordow thành một trung tâm hạt nhân, vật lý và công nghệ. 1044
máy ly tâm IR-1 vẫn tiếp tục được đặt tại Fordow. Tất cả các máy ly tâm và cơ sở hạ tầng liên quan đến làm giàu khác sẽ được loại bỏ và lưu trữ dưới sự giám sát liên tục của IAEA. Như vậy, Fordow - cơ sở hạt nhân duy nhất ở Iran từng thực hiện việc làm giàu uranium tiệm cận mức 20% đã bị chuyển đổi công năng. Điều đó sẽ góp phần đảm bảo rằng Iran không thể tiến hành làm giàu uranium cấp độ cao và sử dụng chúng vào các mục đích quân sự.
Liên quan đến quy trình xử lý nước nặng, trong đó có dự án nhà máy Arak, “Iran sẽ thiết kế lại và xây dựng lại lò phản ứng nghiên cứu nước nặng hiện đại hóa ở Arak, dựa trên một thiết kế đã được thống nhất, sử dụng nhiên liệu được làm giàu tới 3,67%... Lò phản ứng sẽ hỗ trợ nghiên cứu hạt nhân vì mục đích hòa bình, sản xuất đồng vị phóng xạ cho y tế và mục đích công nghiệp… và không được phép xử lí đến cấp plutonium” [139; tr.7-8]. Ngoài uranium được làm giàu ở cấp độ cao, việc xử lí nước nặng đến cấp độ plutonium được coi là một phương cách khác để chế tạo ra các loại vũ khí hạt nhân. Với quy định vừa nêu trong JCPOA, cánh cửa còn lại để dẫn Iran tới vũ khí hạt nhân cũng bị thắt chặt.
120
Với những nội dung được quy định trong JCPOA, Mỹ và các quốc gia phương Tây đã đạt được thành công nhất định khi buộc Iran phải hạn chế việc nghiên cứu và phát triển chương trình làm giàu hạt nhân. Với mức độ làm giàu được quy định chỉ là 3,67% uranium - 325, Iran sẽ khó có thể sử dụng chúng vào mục đích quân sự, đặc biệt là sản xuất vũ khí hạt nhân. Đổi lấy sự xuống thang của Iran, Mỹ, EU và Liên Hợp quốc cam kết lộ trình gỡ bỏ các lệnh cấm vận đối với Iran. Sau JCPOA chính thức có hiệu lực, Mỹ bắt đầu gỡ bỏ các lệnh cấm vận với Iran theo những quy định của Thỏa thuận. Ngày 16/1/2016, Tổng thống Obama đã ký Sắc lệnh thu hồi các lệnh trừng phạt sau khi Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) tuyên bố Tehran đã thực hiện toàn bộ các điều khoản được quy định trong thỏa thuận hồi tháng 7/2015 giữa nhà nước Cộng hòa Hồi giáo với nhóm P5+1, bao gồm: Sắc lệnh 13574 (23/5/2011), Sắc lệnh số 13590 (20/11/2011), Sắc lệnh số 13622 (30/7/2012), Sắc lệnh số 13645 (3/6/2013) [200; tr.3693-3694]. Việc Tổng thống Mỹ ký lệnh xóa bỏ các biện pháp trừng phạt với Iran giúp Tehran dỡ bỏ được phong tỏa tài sản của chính phủ trong hệ thống tài chính quốc tế. Theo ước tính, Tehran có thể nhận lại số tiền từ 50 tới 150 tỷ USD đang bị phong tỏa. Bộ Tài chính Mỹ cũng cấp giấy phép cho các công ty Mỹ nhập khẩu lương thực, thảm và các loại mặt hàng khác từ Iran. Tổng thống Obama còn ký bản ghi nhớ mở đường cho việc xuất khẩu máy bay chở khách sang Iran. Tuy nhiên, không phải tất cả các biện pháp trừng phạt của Mỹ nhằm vào Iran đều được gỡ bỏ. Chính quyền Tổng thống Obama nhấn mạnh Mỹ vẫn tiếp tục duy trì trừng phạt Iran vì vấn đề “vi phạm nhân quyền” và “hỗ trợ khủng bố”. Ngoài ra, theo JCPOA, một số lệnh trừng phạt có thể được áp đặt lại trong 65 ngày nếu Iran vi phạm. Lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hợp quốc vẫn tiếp tục duy trì trong 5 năm, lệnh cấm mua công nghệ tên lửa còn hiệu lực trong 8 năm.
Sự ra đời của JCPOA thể hiện một bước tiến dài trong chính sách của Mỹ đối với Iran cũng như mối quan hệ giữa hai nước. Nếu những nội dung được quy định trong thỏa thuận được thực hiện, nó sẽ góp phần tháo gỡ cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran và “giảm nhiệt” những căng thẳng trong khu vực. Chính vì thế, bản thỏa thuận này được Mỹ, EU và đông đảo cộng đồng quốc tế đón chờ và ủng hộ. Bên cạnh vai trò của Mỹ, không thể phủ nhận rằng EU cũng có công lớn trong việc khởi động các cuộc đàm phán với Iran liên quan đến chương trình hạt nhân của nước này. EU đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc kết nối Mỹ và Iran cùng ngồi vào bàn thương lượng. Trong khi Tổng thống George W Bush vẫn cho rằng “răn đe” mới là biện pháp đúng đắn trong trường hợp của Iran thay vì đàm phán thì các quốc gia EU đã bắt đầu hành động, cố gắng tìm ra một giải pháp ngoại giao nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều quốc gia đồng thuận với bản thỏa thuận này thì cũng không ít quốc gia tỏ ra hoài nghi về hiệu quả thực tế cũng như ý nghĩa mà bản thỏa thuận này mang lại, trong đó có nhiều đồng minh của Mỹ như Israel và Saudi Arabia. Israel mà trực tiếp là Thủ tướng Netanyahu đã nhiều lần tiến hành vận động quốc hội Mỹ và Tổng thống Barack Obama từ chối ký Thỏa thuận hạt nhân với Iran. Sau khi JCPOA được thông qua, Netanyahu tuyên bố đó là một “sai lầm lịch sử” (historic mistake) [97; tr.3] và “Israel không bị ràng buộc bởi thỏa thuận này bởi lẽ Iran vẫn không ngừng tìm cách phá hủy chúng tôi. Chúng tôi sẽ luôn luôn tự vệ” [192; tr.170]. Saudi Arabia và UAE cũng có những quan điểm tương tự như Israel về JCPOA. Hai quốc gia này cũng không hoàn toàn đồng tình với những nội dung đã được ký kết trong Thỏa thuận hạt nhân với Iran của nhóm P5+1. “Saudi Arabia một mặt vẫn tỏ ra ủng hộ JCPOA mặt khác quốc gia này lại bày tỏ quan ngại về sự chân thành của Iran trong việc duy trì thỏa thuận như cách họ đã từng làm trong lịch sử đối với các quốc gia Arab nơi mà người Sunni nắm quyền” [192; tr.170]. Nhiều quốc gia Arab nghi ngờ về hiệu quả thực tiễn cũng như ý nghĩa mà JCPOA có thể đem lại cho sự ổn định và hòa bình ở Trung Đông. Họ cho rằng Iran khó có thể thay đổi chính sách và hành vi trong các vấn đề khu vực. Trong nội bộ chính giới cầm quyền Mỹ cũng tồn tại những quan điểm trái chiều liên quan đến Thỏa thuận hạt nhân với Iran, đặc biệt là những chính trị gia thân Do Thái. Vào tháng 8/2015, tỉ lệ ủng hộ JCPOA trong Quốc hội là 72% đối với Đảng dân chủ và chỉ 33% đối với Đảng Cộng hòa. Nhiều Thượng nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa “cam kết sẽ xóa bỏ Hiệp định P5+1 (JCPOA) trong khi quá trình đàm phán, thậm chí ngay cả khi nó đã được thông qua” [55; tr.34-35].
121
Dù còn tồn tại một số quan điểm trái chiều nêu trên, nhưng không thể phủ nhận sự ra đời của JCPOA là chiến thắng lớn về chính sách đối với cả Tổng thống Mỹ Barack Obama và người đồng cấp Iran - Hassan Rouhani. Họ đã làm được một việc mà những người tiền nhiệm của họ chưa thể thực hiện. Sự ra đời của thỏa thuận hạt nhân góp phần mở ra cơ hội để hàn gắn quan hệ giữa Mỹ và Iran và góp phần duy trì sự “trật tự” ở một trong những khu vực bất ổn nhất thế giới như Trung Đông.
Tiểu kết chương 3 Như vậy, chính sách của Mỹ đối với Iran từ sau năm 1979 - 2016 có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Iran không còn là đồng minh chiến lược của Mỹ và được hưởng nhiều đặc quyền như thời kỳ Shah trị vì. Thay vào đó, Iran đã trở thành mối đe dọa đến vị thế và lợi ích của Mỹ ở trong khu vực. Chính sách ngăn chặn được thay thế cho chính sách đồng minh nhằm chặn đứng những thách thức từ phía Iran, đặc biệt là chính sách xuất khẩu cách mạng và chương trình hạt nhân gây tranh cãi của quốc gia Trung Đông này.
Trong suốt quãng thời gian từ năm 1979 - 2016, mục tiêu của chính sách ngăn chặn xoay quanh việc thay đổi các hành vi của Iran ở trong khu vực cũng như bảo vệ lợi ích của Mỹ và các đồng minh trong khu vực. Tuy nhiên, có một số điều chỉnh nhất định trong mục tiêu chính sách của Mỹ trước và sau năm 1991. Theo đó, trước năm 1991, trong số các ưu tiên của Mỹ đối với Iran, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì vai trò chống Liên Xô của Iran ở trong khu vực. Các mục tiêu khác được xếp sau ưu tiên này. Tuy nhiên, sau năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ không còn lý do gì để tiếp tục duy trì vai trò chống Xô của Iran. Thay vào đó, Mỹ tập trung vào việc thay đổi các hành vi của Iran ở trong khu vực, đảm bảo sự ổn định trong khu vực và trên hết là bảo vệ lợi ích của Mỹ. Sự khác biệt trong mục tiêu chính sách dẫn đến những điều chỉnh trong các vấn đề trọng tâm cũng như thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran trước và sau năm 1991.
Nếu như trong giai đoạn 1979 - 1991, các vấn đề trọng tâm trong chính sách của Mỹ đối với Iran bao gồm: giải phóng con tin trong vụ bắt cóc tại Đại sứ quán Mỹ (1979 - 1981), ngăn chặn chiến lược xuất khẩu cách mạng của Iran, cấm vận kinh tế và can dự vào cuộc chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988); thì bước sang giai đoạn 1991 - 2016 ưu tiên trong chính sách của Mỹ đối với Iran có một số thay đổi, trong đó, ngăn chặn chương trình hạt nhân trở thành vấn đề trọng tâm và quan trọng nhất, chi phối mạnh mẽ đến quan điểm và sự lựa chọn chính sách của người Mỹ. Ngoài ra, việc ngăn chặn sự can thiệp của Iran trong các cuộc xung đột ở trong khu vực cũng như việc thi hành chính sách cấm vận đối với Iran được coi là hai vấn đề quan trọng khác được chính quyền Mỹ dành nhiều quan tâm.
122
Để giải quyết những vấn đề vừa nêu, Mỹ đã triển khai đồng bộ nhiều công cụ khác nhau: cấm vận, thuyết phục, ngoại giao và thậm chí là công cụ bạo lực. Trong đó, cấm vận và ngoại giao được xem là hai công cụ quan trọng nhất, được chính quyền Mỹ ưu tiên triển khai trong thực tiễn. Sự ra đời của JCPOA (14/7/2015) đã phần nào thể hiện sự nỗ lực từ cả hai phía Mỹ - Iran trong suốt quá trình đàm phán cũng như sự đúng hướng trong chính sách mà Mỹ theo đuổi trong gần bốn thập kỷ qua. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, một số đồng minh thân cận nhất của Washington ở Trung Đông như Isarel, Saudi Arabia, UAE… không đồng tình với thỏa thuận mà Mỹ và các quốc gia phương Tây kí kết với Iran. Đây có thể sẽ là mầm mống làm ảnh hưởng đến tiến
123
trình thực hiện JCPOA, thậm chí là phủ nhận nó.
Chương 4
NHẬN XÉT VỀ VIỆC TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH
CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAN
4.1. Nhận xét chung Từ những phân tích ở những chương trước, có thể thấy rằng sau năm 1979, Mỹ
đã thay đổi hoàn toàn chính sách đối với Iran, từ đồng minh chiến lược chuyển sang
đối đầu. Mỹ sử dụng những biện pháp cứng rắn nhằm ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iran cũng như tham vọng mở rộng ảnh hưởng, vươn lên thành một cường quốc
khu vực của Iran. Trong gần bốn mươi năm triển khai trong thực tiễn, chính sách của
Mỹ đã đạt được một số hiệu quả nhất định đồng thời tạo ra những tác động lớn đối với
Iran, tình hình khu vực Trung Đông, thậm chí có những tác động ngược đến chính nước Mỹ. Trong phạm vi của chương 4, nghiên cứu sinh tập trung đánh giá về tính
hiệu quả của chính sách của Mỹ đối với Iran, đồng thời phân tích những tác động của
chính sách này đối với các bên liên quan cũng như đánh giá những vấn đề đặt ra đối với chính quyền Mỹ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến Iran sau năm 2016.
4.1.1. Đánh giá về tính hiệu quả của việc triển khai chính sách của Mỹ đối với
Iran (1979 – 2016)
Một vấn đề được giới học thuật và chính trị thế giới tranh luận rất nhiều trong
những năm gần đây là chính sách của Mỹ với Iran (1979 - 2016) thành công hay thất
bại? Có nhiều luồng ý kiến khác nhau liên quan đến vấn đề này. Đa phần các học giả
trong đó có Hossein Alikhani, Ali M. Ansari… đều cho rằng, nếu đối chiếu với những
mục tiêu đề ra khi hoạch định chính sách, người Mỹ đã thất bại trong cuộc đối đầu và
ngăn chặn Iran. Số khác, trong đó có nhiều chính trị gia có xu hướng bảo thủ lại cho
rằng việc những áp lực từ chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ với Iran từ sau năm
1979 đã buộc Iran phải thay đổi hành vi trong nhiều vấn đề khu vực và quốc tế. Họ
ủng hộ chính quyền Mỹ tiếp tục duy trì những chính sách cứng rắn với Tehran nhằm
ngăn chặn và kiềm chế những tham vọng của Iran, đặc biệt là chương trình hạt nhân của nước này.
Về những mặt đã đạt được, trước hết, áp lực từ các lệnh cấm vận của Mỹ, EU và
Liên Hợp quốc buộc Iran phải đồng ý ngồi vào bàn đàm phán với phương Tây để giải quyết vấn đề hạt nhân của Iran. Chương trình hạt nhân ở quốc gia này được tái khởi động từ thập niên 80 của thế kỷ trước khi các nhà lãnh đạo Iran nhận ra rằng chỉ có vũ khí hạt nhân mới có thể bảo vệ được chế độ chính trị nước này trước những đe dọa từ
phương Tây. Sau nhiều thập niên nghiên cứu, xây dựng và phát triển, chương trình hạt nhân Iran đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể (các cơ sở hạt nhân xuất hiện ngày càng
124
nhiều, mức độ làm giàu uranium của Iran được nâng cao đáng kể). Tuy nhiên, trước
những áp lực từ các lệnh cấm vận đã buộc các nhà lãnh đạo Iran phải lựa chọn giữa phát
triển hạt nhân và kinh tế. Nếu Iran không thể điều hòa được mối quan hệ với Mỹ và
phương Tây xoay quanh vấn đề hạt nhân, Iran sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát
triển kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu dầu mỏ - ngành kinh tế đóng góp tới 70% ngân sách quốc gia. Nếu các lệnh cấm vận càng kéo dài, nguy cơ bùng phát một cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội toàn diện có thể xảy ra ở Iran, đe dọa tới an nguy của chế độ chính trị
nước này. Bắt đầu từ năm 2006, sau gần 3 thập niên chịu cấm vận, Iran đã đồng ý ngồi
vào bàn đàm phán với phương Tây, cho phép Cơ quan Nguyên tử Quốc tế IAEA có các cuộc điều tra, thanh sát tại Iran để đánh giá về chương trình hạt nhân của nước này nhằm
đổi lấy sự nới lỏng các lệnh cấm vận từ Mỹ và Phương Tây. Những áp lực của Mỹ cùng
các đồng minh chính là yếu tố cần để Thỏa thuận hạt nhân lịch sử được ký kết sau đó
(2015). Do đó, có thể nói, các lệnh cấm vận của Mỹ đã tạo ra những sức ép đáng kể điều chỉnh hành vi của những người đứng đầu Iran đối với trong nhiều vấn đề đối nội, đối
ngoại. Đây là thành công lớn nhất mà chính sách ngăn chặn của Mỹ đã tạo ra được kể từ
khi ra đời (1979).
Một thành tựu đáng kể nữa mà chính sách ngăn chặn mang lại là Mỹ đã phần nào hạn chế được sự mở rộng ảnh hưởng của Iran ở khu vực Trung Đông. Nếu như không có sự hậu thuẫn của Mỹ cùng Saudi Arabia và một số quốc gia vùng Vịnh khác trong cuộc chiến tranh 8 năm với Iran, Iraq – với lực lượng kém hơn khó có thể đứng vững dù là quốc gia chủ động gây chiến. Nếu Iran thắng lợi, lượng dầu mỏ khổng lồ của Iraq và Vịnh Ba Tư sẽ nằm dưới quyền kiểm soát của Tehran, đe dọa trực tiếp đến lợi ích của Mỹ trong khu vực. Sự hỗ trợ của Mỹ cho Chính phủ ở Lebanon đã chặn đứng tham vọng nắm quyền của tổ chức Hezbollah. Nếu Hezbollah hoàn toàn kiểm soát về mặt chính quyền, Lebanon nghiễm nhiên sẽ trở thành sân sau của Iran bởi Iran chính là quốc gia hậu thuẫn nhiều nhất cho Hezbollah kể từ khi tổ chức này ra đời vào đầu thập niên 80. Tuy nhiên, việc Mỹ duy trì sự hiện diện quân sự gần Lebanon (Jordan, Israel…) cũng như viện trợ hàng trăm triệu USD mỗi năm đã giúp chính quyền Lebanon đứng vững trước những biến động không ngừng của tình hình trong nước và khu vực. Hay như gần đây nhất, việc Mỹ đứng sau hậu thuẫn cho các cuộc không kích của liên quân Saudi Arabia đã ngăn cản phe nổi dậy Houthi thành lập một chính quyền mới tại Yemen. Cho đến nay, tình hình chiến sự ở Yemen vẫn chưa kết thúc. Những toan tính của Iran với Houthi vẫn chưa thể trở thành sự thật bởi sự can thiệp của các thế lực quốc tế khác như Saudi Arabia và Mỹ… Những ví dụ vừa nêu một lần nữa chứng minh rằng, xét về mặt chiến lược lâu dài, chính sách ngăn chặn của Mỹ đã kìm chân Iran ở nhiều nơi, khiến Iran không thể thực hiện được trọn vẹn những tham vọng của họ tại khu vực Trung Đông.
125
Tuy nhiên, những ý kiến của các học giả hàng đầu thế giới như Ali M. Ansari khi đánh giá về những chính sách của Mỹ với Iran không phải là vô căn cứ. Trong cuốn
sách: “Đối đầu với Iran: thất bại trong chính sách đối ngoại Mỹ và gốc rễ của sự mất niềm tin”, Ali M Ansari cho rằng, chính sách đối ngoại của Mỹ đã không đạt được những mục tiêu mà Nhà Trắng đặt ra. Iran vẫn tiếp tục chương trình hạt nhân cũng như tiếp tục can thiệp vào nhiều quốc gia ở khu vực Trung Đông. Giáo sư Hossein Askari của trường Đại học George Washington trong loạt ba bài nghiên cứu công bố trên Thời báo châu Á (Asia Times) cũng đồng thuận với luồng quan điểm cho rằng các chính sách cấm vận của Mỹ là “lịch sử của sự thất bại” [280].
Chính sách cấm vận của Mỹ không mang lại hiệu quả thực tế như mong đợi. Bắt đầu từ năm 1979, Mỹ đã đóng băng các tài khoản tiền gửi của Iran, nhưng sau đó số tài sản này đã được trao trả lại cho Iran sau khi Hiệp ước Algiers được ký kết (1981). Còn các loại vũ khí - tài sản quốc phòng - mà nước ngoài bán cho Iran (FMS) bị tịch thu thì vẫn bị cất giữ trong kho. Mỹ đã phải bồi thường cho Iran từng món một, theo một phán quyết của Tòa án La Haye. Kế đến, Mỹ cấm nhập khẩu dầu thô từ Iran nhưng vẫn cho nhập các sản phẩm dầu mỏ đã qua chế biến. Tiếp sau đó nữa, Mỹ cấm nhập khẩu toàn bộ sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ và cả các sản phẩm phi dầu mỏ của Iran. Nhưng không bán được cho người Mỹ, Iran bán cho các nước khác, tuy giá cả thấp hơn, nhưng Iran không thiệt hại nhiều. Vào giữa thập niên 80 thế kỷ XX, Mỹ cấm hoàn toàn việc xuất khẩu hàng hóa sang Iran. Nhưng trái ngược với tính toán của người Mỹ, hàng hóa Mỹ vẫn được bày bán tràn ngập ở Iran, thậm chí với giá bán lẻ còn rẻ hơn ở Mỹ. Như đã phân tích trong phần trước, tất cả những hàng hóa Mỹ được Iran mua lại từ Dubai một cách dễ dàng. Người Iran sẵn sàng chịu chi khoản chênh lệch từ 5 – 10% để được sử dụng các hàng hóa chất lượng cao của Mỹ. Mục tiêu lớn nhất của chính sách cấm vận là buộc Iran dừng chương trình làm giàu uranium. Tuy nhiên, Iran chỉ chấp thuận ngồi vào bàn đàm phàn khi họ đã hoàn thành xong những mục tiêu quan trọng trong chương trình hạt nhân của mình.
Thất bại của người Mỹ còn được thể hiện ở chỗ Mỹ chỉ làm chậm lại quá trình mở rộng ảnh hưởng của Iran chứ chưa thể ngăn chặn triệt để quá trình này. Thực tế, ảnh hưởng của Iran ngày càng lớn hơn ở khu vực Trung Đông. Iran tài trợ cho các tổ chức vũ trang Shi’ite ở khắp Trung Đông như Hamas ở Palestine, Hezbollah ở Lebanon, Houthi ở Yemen…. Thông qua các tổ chức này, Iran can dự vào tình hình tại nhiều quốc gia trong khu vực như Lebanon, Syria, Yemen hay tiến trình hòa bình Trung Đông. Chính sách ngăn chặn của Mỹ có thể phần nào làm chậm quá trình trở thành cường quốc khu vực của Iran, nhưng không thể khiến Iran thay đổi hoàn toàn hành vi chính trị hay những tham vọng của Tehran ở khu vực Trung Đông. Trên thực tế, ảnh hưởng của Iran ngày càng trở nên mạnh mẽ kể từ sau cuộc cách mạng Islam 1979.
126
Rõ ràng, các lệnh cấm vận cùng chính sách ngăn chặn, kiềm chế của Mỹ chưa tạo được sức ép cần thiết để buộc Iran phải thay đổi chính sách theo chiều hướng mà Mỹ
mong muốn. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến những thất bại của chính sách ngăn chặn của Mỹ trong trường hợp Iran? Có một vài lý do giải thích cho câu hỏi này.
Thứ nhất, việc nhiều đồng minh của Mỹ đã không đồng thuận với Mỹ trong việc thực hiện chính sách ngăn chặn Iran, đặc biệt là việc áp đặt các lệnh trừng phạt với Iran. Các đồng minh châu Âu và Nhật Bản nhiều lần phớt lờ trước các yêu cầu “cấm vận” Iran của Mỹ, tiếp tục nhập khẩu dầu mỏ Iran. Chính lý do này đã dẫn đến việc các lệnh trừng phạt của Mỹ không đạt được hiệu quả cao nhất, đặc biệt là ở giai đoạn thập niên 80, 90. Trong khi Mỹ coi Iran là kẻ thù số 1, thì EU – đồng minh quan trọng nhất của Mỹ lại duy trì chính sách đối thoại với chính quyền Tehran. Tình hình chỉ thay đổi vào những năm 2000, khi EU, Nhật Bản đặc biệt là Liên Hợp quốc cùng áp đặt các lệnh cấm vận ngặt nghèo với Iran. Sự đồng lòng của cộng đồng quốc tế với chính quyền Mỹ đã tạo nên một sức ép khổng lồ, buộc Iran phải xuống nước để ngồi đàm phán để bàn về chương trình hạt nhân.
Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ sự thay đổi trong quan hệ quốc tế. Bắt đầu từ cuối thập niên 80, Chiến tranh lạnh chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, khi Liên Xô – siêu cường
đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa đang trên đà khủng hoảng trầm trọng và không còn là đối
thủ trực tiếp của Mỹ. Xu hướng đối thoại bắt đầu xuất hiện. Các quốc gia cần phải hợp
tác với nhau để giải quyết các vấn đề quốc tế. Mỹ và Iran cũng vậy. Mặc dù Mỹ luôn coi
Iran là một đối tượng phải ngăn chặn, nhưng Mỹ vẫn phải đàm phán với Iran trong nhiều
vấn đề như: chống khủng bố, hay việc giải phóng các con tin Mỹ bị Hezbollah bắt giữ
trong thập niên 80… Vụ bê bối Iran – Contra là minh chứng rõ nét nhất cho nhận định
vừa nêu. Mỹ chấp nhận bán vũ khí cho Iran để đổi lấy sự tự do cho các công dân Mỹ bị
bắt cóc ở Lebanon. Rõ ràng, chính sách ngăn chặn của Mỹ với Iran đã bắt đầu xói mòn
ngay khi mới ra đời. Bước sang thế kỷ mới, xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ,
chính sách ngăn chặn của Mỹ lại càng tỏ ra kém hiệu quả hơn. Mỹ cấm vận Iran nhưng
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, Mỹ không thể không hợp tác với Iran trong nhiều
vấn đề, không chỉ trong kinh tế mà bao gồm cả chính trị, an ninh liên quan đến khu vực
Trung Đông…
Cuối cùng, chính sách “trở lại” Trung Đông mạnh mẽ của Putin được cho là rào cản đáng kể cho nỗ lực ngăn chặn Iran của Mỹ. Trong hai thập niên gần đây, Nga đã từng bước lấy lại vị thế và sức ảnh hưởng ở khu vực này thông qua mối quan hệ với một số
127
đồng minh truyền thống, đặc biệt là Syria. Đối với Iran, Nga và Iran chia sẻ với nhau những lợi ích chung liên quan đến vấn đề Afghanistan hay khu vực Caucasus… Đặc biệt, khi cuộc nội chiến ở Syria nổ ra, mối liên hệ chung với Syria đã đẩy Nga và Iran xích lại gần nhau. Hai quốc gia này đã tạo ra một liên minh hỗ trợ cho chính quyền của Tổng thống Bashar Al - Assad chống lại những nỗ lực lật đổ của các nhóm đối lập được Mỹ và phương Tây hậu thuẫn. Bản thân Nga cũng đang thúc đẩy mối quan hệ với Iran khi có nhiều động thái hỗ trợ cho chương trình hạt nhân của Iran cũng như cung cấp vũ khí cho
Iran và các đồng minh. Sự can dự của Nga trong các vấn đề liên quan đến Iran đã tạo ra
những thách thức lớn cho chính quyền Mỹ trong quá trình triển khai chính sách ngăn
chặn với Iran. Cục diện trong cuộc chiến tranh ở Syria là minh chứng rõ nét nhất cho
nhận định vừa nêu. Nếu không có sự liên minh giữa Nga - Iran - Hezbollah, rất có thể Mỹ và phương Tây đã đạt được mục đích lật đổ Assad, ngăn chặn thành công sự can dự
của Iran trong cuộc chiến phức tạp này. Rõ ràng, vai trò ngày một lớn hơn của Nga ở
Trung Đông trong đó có Iran đã góp phần làm suy giảm hiệu quả của chính sách ngăn
chặn của Mỹ đối với Iran.
Như vậy, để đánh giá một cách tuyệt đối chính sách của Mỹ đối với Iran là thành
công hay thất bại không phải là một điều dễ dàng. Trong những thất bại được chỉ ra,
chính sách của Mỹ cũng tác động đáng kể đến nền kinh tế Iran cũng như góp phần hạn
chế được tham vọng của quốc gia này, đặc biệt là trong vấn đề hạt nhân. Năm 2015, Iran chấp nhận tạm dừng chương trình hạt nhân để đổi lấy sự dỡ bỏ cấm vận của cộng đồng
quốc tế. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ hướng
tới khi triển khai chính sách ngăn chặn với Iran, thì rõ ràng Mỹ vẫn thất bại nhiều hơn.
Mỹ muốn thông qua chính sách ngăn chặn để làm giảm ảnh hưởng của Iran ở khu vực
Trung Đông. Nhưng trên thực tế, Iran ngày càng có vai trò lớn hơn thông qua việc hỗ trợ
cho nhiều tổ chức Shi’ite hoạt động khắp khu vực Trung Đông. Mỹ muốn Iran phải
chấm dứt hoàn toàn chương trình hạt nhân. Nhưng Iran chỉ tạm dừng chương trình này khi đã đạt những nước tiến quan trọng trong công nghệ hạt nhân. Saus gần 40 năm chịu
cấm vận kinh tế, dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nhưng chính quyền và nhân
dân Iran vẫn đang đứng vững và có những bước tiến đáng kể trong phát triển kinh tế - xã
hội. Quan trọng hơn, chính sách cứng rắn của Mỹ với Iran thực tế chỉ ngày càng tạo ra
hố sâu ngăn cách giữa hai nước và làm phức tạp thêm những xung đột ở khu vực Trung
Đông.
4.1.2. Tính thống nhất và vận động trong chính sách của Mỹ với Iran qua các
đời Tổng thống Mỹ (1979 - 2016)
Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran trong gần bốn thập kỷ vừa có sự thống nhất vừa có sự vận động. Chính sách ấy luôn tuân thủ nguyên tắc dựa trên lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, khi bối cảnh quốc tế và khu vực có sự thay đổi, chính sách của Mỹ đối với Iran sẽ có những điều chỉnh nhằm thích ứng với bối cảnh mới.
Trước hết cần phải khẳng định rằng, chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai
đoạn 1979 - 2016 có sự thống nhất tương đối.
128
Thứ nhất, trải qua sáu đời tổng thống từ Jimmy Carter đến Barack Obama, ngăn chặn luôn được coi là trung tâm trong chính sách đối ngoại của Nhà Trắng với Iran. Ngay cả với Tổng thống Barack Obama, người có chiến lược mềm dẻo nhất trong quan hệ với Tehran, cũng vẫn dựa trên chính sách ngăn chặn. Để tạo áp lực và buộc Iran phải ngồi vào bàn đàm phán, Obama đã tích cực sử dụng một trong những công
cụ quan trọng nhất trong chính sách ngăn chặn - cấm vận. Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2013, liên tiếp các lệnh cấm vận mới đã được chính quyền Mỹ áp đặt lên Iran.
Thứ hai, mục tiêu của các Tổng thống Mỹ đối với Iran đều xoay quanh việc thay đổi hành vi của quốc gia này ở Trung Đông, trong đó có việc hỗ trợ cho các tổ chức vũ trang bị Mỹ xếp vào danh sách khủng bố. Đồng thời hạn chế chương trình hạt nhân và tham vọng sản xuất vũ khí hủy diệt của quốc gia này. Trên tất cả, chính sách của Mỹ đối với Iran nhằm mục tiêu cao nhất là bảo vệ các lợi ích cũng như sự bá quyền của người Mỹ ở khu vực Trung Đông. Điều này được phản ánh một cách nhất quán qua các phát ngôn chính thức cũng như trong quá trình triển khai chính sách đối với Iran của những người đứng đầu Nhà trắng. Tổng thống Jimmy Carter từng nhấn mạnh “Mọi nỗ lực kiểm soát khu vực Vịnh Ba Tư của bất cứ lực lượng quân sự nào đều bị coi là những hành động gây nguy hại cho lợi ích an ninh của nước Mỹ và những hành động này sẽ bị dập tắt bằng mọi cách bao gồm cả quân sự” [193; tr.152].
Thứ ba, để thực hiện được các mục tiêu đề ra trong chính sách ngăn chặn Iran, các công cụ thường được chính quyền Mỹ sử dụng là cấm vận, ngoại giao (đàm phán, gây sức ép về ngoại giao), thuyết phục và bạo lực. Tuy nhiên, điểm chung dễ nhận thấy nhất trong chính sách của chính quyền Mỹ qua sáu đời tổng thống là đều coi cấm vận là công cụ quan trọng nhất để tăng cường sức ép tối đa, buộc Iran phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ. Bạo lực luôn là sự lựa chọn cuối cùng trong các công cụ để ngăn chặn Iran.
129
Điểm chung cuối cùng là giới hạn trong chính sách của Mỹ đối với Iran qua 6 đời Tổng thống từ Jimmy Carter đến Barack Obama. Chính quyền Mỹ luôn dừng lại trước ranh giới chiến tranh toàn diện với Iran. Các hành động tấn công quân sự có thể giúp Mỹ đạt được một số mục tiêu trước mắt, tuy nhiên về lâu dài, Mỹ sẽ phải đối mặt với làn sóng đấu tranh không chỉ của Iran mà còn là các tổ chức vũ trang ở Trung Đông được Iran hậu thuẫn như Hezbollah, Hamas, Taliban, Houthi… Trong khi đó Mỹ đang sa lầy trong nhiều vấn đề Trung Đông khác như chủ nghĩa khủng bố, sự bất ổn ở Afghanistan, Iraq, Libya…Các đồng minh của Mỹ như Israel hay các nước GCC cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị tấn công. Do đó, Mỹ khó có thể giành được một thắng lợi rõ ràng trước Iran, thậm chí có thể lập lại bài học sa lầy như đã từng xảy ra như ở Afghanistan, Iraq… Do đó, giới hạn trong chính sách của Mỹ đối với Iran qua sau đời Tổng thống từ Jimmy Carter đến Barack Obama chỉ dừng lại ở các công cụ phi bạo lực. Mỹ chỉ có hành động quân sự khi cần tự vệ. Thực tế, trong giai đoạn từ năm 1979 - 2016, đã vài lần Mỹ phải sử dụng đến vũ lực trong các vấn đề liên quan đến Iran. Chẳng hạn, trong cuộc chiến tranh tàu chở dầu (tanker war), Mỹ đã tiến hành cuộc tấn công vào các giàn khoan của Iran trên Vịnh Ba Tư trong Chiến dịch Bọ gậy (Praying Mantis operation) (18/4/1988). Tuy nhiên, hành động này của Hải quân Mỹ được coi là sự đáp trả quân sự bởi trước đó Iran đã tấn công một tàu hải quân Mỹ đang làm nhiệm vụ hộ tống các tàu chở dầu đi qua Vịnh. Ngay cả đối với Tổng thống George W Bush, dù nhiều lần tuyên bố để ngỏ khả năng tấn công, gây chiến với Iran, nhưng trên
thực tế, trong suốt 8 năm cầm quyền, Bush (con) chưa bao giờ tiến hành các cuộc tấn công quân sự nhằm vào Iran dù quan hệ hai nước lúc đó thường xuyên trong tình trạng đối đầu căng thẳng. Chính quyền Mỹ thời kỳ này thường ưu tiên cho các biện pháp can thiệp quân sự gián tiếp như: viện trợ tài chính và vũ khí cho các quốc gia đối địch hoặc các nhóm vũ trang đối địch với Iran, cung cấp các thông tin tình báo cho các đối thủ của Iran trong các cuộc xung đột trong khu vực…Gây chiến với Iran không nằm trong ưu tiên lựa chọn chính sách của chính quyền Mỹ đối với quốc gia Trung Đông này.
Rõ ràng, trong chính sách của Mỹ đối với Iran từ năm 1979 đến năm 2016 có sự kế thừa và thống nhất tương đối qua các đời Tổng thống. Sự thống nhất ấy được tạo nên trên cơ sở nguyên tắc phục vụ cho lợi ích của nước Mỹ. Trải qua gần bốn thập kỉ, chính sách ngăn chặn luôn đóng vai trò của chính sách trung tâm chi phối đến quan điểm và hành động của chính quyền Mỹ trong các vấn đề Iran.
Bên cạnh tính thống nhất, chính sách của Mỹ đối với Iran giai đoạn 1979 - 2016 thể hiện rất rõ tính vận động trong nó. Zbigniew Brzezenski đã từng khẳng định “Sự hình thành chính sách của Mỹ với Tehran không bao giờ đơn giản hay đi theo một đường thẳng” [47; tr.38]. Ở mỗi đời tổng thống, tùy theo tình hình cụ thể, sẽ có sự điều chỉnh nhất định trong chính sách đối với Iran nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất.
Sự thay đổi quan trọng có thể dễ dàng nhận thấy là mục tiêu ngắn hạn cũng như
các vấn đề trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran.
Nếu như trước năm 1991, ưu tiên hàng đầu của Mỹ vẫn là ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Cả chính quyền của Jimmy Carter và Ronald Reagan đều muốn tiếp tục duy trì vai trò ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản của Iran ở mức độ nhất định. Thậm chí, khi cần thiết, có thể thỏa hiệp với Iran nhằm đạt được mục tiêu chống lại chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn cầu. Như đã phân tích ở các phần trước, vụ bê bối Iran - Contra là ví dụ điển hình cho tính toán này của người Mỹ.
Tuy nhiên, sau năm 1991, tình hình thế giới biến động mạnh, Liên Xô sụp đổ. Với vị thế là siêu cường duy nhất trên thế giới, Mỹ tăng cường dính líu và can thiệp trên phạm vi toàn cầu nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền. Đối với trường hợp của Iran, vai trò chống Liên Xô của quốc gia này không còn nữa. Thêm vào đó, các vấn đề liên quan đến Iran đe dọa trực tiếp tới các lợi ích sống còn của Mỹ ở Trung Đông, đặc biệt là chương trình hạt nhân và sự dính líu của Iran trong các cuộc xung đột khu vực. Do vậy, mục tiêu ngăn chặn ảnh hưởng của Iran được coi là mục tiêu hàng đầu đối với những người đứng đầu nước Mỹ. Theo đó, chương trình hạt nhân của Iran và thay đổi các hành vi của Iran ở trong khu vực là những vấn đề ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran.
130
Sự điều chỉnh quan trọng thứ hai liên quan đến quá trình thực thi chính sách, nếu như Jimmy Carter, Bill Clinton hay Barack Obama có xu hướng ưu tiên cho các công cụ phi quân sự, tạo áp lực tối đa lên Iran bằng các lệnh cấm vận và luôn để ngỏ cánh cửa đàm phán với Tehran thì Ronald Reagan và George W Bush lại có xu hướng thi hành một chính sách cứng rắn hơn với Iran trong đó không loại trừ việc sử dụng các biện pháp quân sự. Điều này thể hiện chính sách của Mỹ đối với Iran có sự khác biệt
giữa những người thuộc Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa.
Các Tổng thống của Đảng Cộng hòa có quan điểm và hành động cứng rắn hơn,
hiếu chiến hơn trong các vấn đề liên quan đến Iran.
Trong quan điểm của Ronald Reagan, Iran là một quốc gia bất hảo, tài trợ cho khủng bố. Do đó, Iran là một trong các ưu tiên nhằm hiện thực hóa học thuyết Reagan. Nếu như chính sách ngăn chặn được đề ra dưới thời của Jimmy Carter hầu như chỉ tồn tại trên ý tưởng thì đến Ronald Reagan, nó được biến thành thực tiễn. Reagan xếp Iran vào danh sách các quốc gia tài trợ cho khủng bố (1984), hậu thuẫn cho Iraq về tài lực và vũ khí để chống lại Iran trong chiến tranh Iran - Iraq, áp đặt lệnh trừng phạt toàn diện lên Iran (1987).
Hai nhiệm kỳ của Tổng thống George W Bush là minh chứng khác cho sự cứng rắn của các Tổng thống Đảng Cộng hòa trong chính sách đối ngoại với Iran. Liên quan đến vấn đề chính trị của Iran, trong nhiệm kỳ thứ hai của mình,Tổng thống Bush không ít lần bày tỏ công khai mong muốn “thay đổi thể chế chính trị ở Iran” [169; tr.130], thậm chí bỏ ngỏ khả năng dùng các biện pháp vũ lực đối với Iran.
Trong khi đó, các Tổng thống của phe Dân chủ lại có cách đối phó với Iran một cách linh hoạt và mềm dẻo hơn. Họ thường ưu tiên cho các công cụ ngoại giao, thuyết phục hơn là các biện pháp cứng rắn khác.
Chẳng hạn như với trường hợp của Jimmy Carter, khi cuộc cách mạng Islam năm 1979 bùng nổ và đe dọa đến chế độ quân chủ của vua Iran Reza Palhavi, ông quyết định không can thiệp. Sau khi cách mạng Islam thắng lợi, chính quyền cách mạng được thiết lập ở Iran, Jimmy Carter và những cộng sự của ông thậm chí vẫn hi vọng về việc Mỹ sẽ công nhận chính quyền mới của Iran cũng như duy trì mối quan hệ với quốc gia vùng Vịnh này. Chỉ đến khi Đại sứ quán Mỹ bị tấn công và các nhân viên ở đó bị bắt giữ làm con tin, quan điểm của Nhà Trắng về Iran mới thực sự thay đổi.
Barack Obama được coi là một điển hình cho sự mềm dẻo và linh hoạt trong chính sách của những người Dân chủ đối với Iran. Obama chủ trương thúc đẩy các cuộc đàm phán song phương và đa phương với Iran song song với việc tăng cường áp lực cấm vận lên Iran. Chính sách “cây gậy và củ cà rốt” của Obama đã mang lại hiệu quả thực tế khi Mỹ, Iran và nhóm P5+1 đã đạt được Thỏa thuận hạt nhân lịch sử, góp phần gỡ một trong những nút thắt lớn nhất đã tồn tại nhiều thập kỷ trong mối quan hệ Mỹ - Iran.
131
Như vậy, chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2016 có sự tồn tại song song của hai thuộc tính: thống nhất và vận động. Dưới các chính quyền khác nhau, bối cảnh thế giới và khu vực khác nhau, chính sách của Mỹ với Iran luôn bám sát mục tiêu ngăn chặn, bao vây cô lập Iran và trên hết là bảo vệ lợi ích của nước Mỹ ở khu vực Trung Đông. Cấm vận đã trở thành công cụ xuyên suốt và quan trọng nhất trong bốn thập niên vừa qua. Tuy nhiên, trong sự thống nhất ấy, với mỗi đời tổng thống, chính sách của Mỹ đối với Iran cũng có những điều chỉnh quan trọng nhằm phù hợp với tình hình thực tế cũng như tư duy chiến lược của mỗi một
Tổng thống.
4.2. Đánh giá tác động của chính sách của Mỹ đối với Iran tới các bên liên quan 4.2.1. Đối với Iran 4.2.1.1. Về kinh tế Chính sách ngăn chặn của Mỹ, đặc biệt là các lệnh trừng phạt đã tạo ra những
thách thức nghiêm trọng đối với nền kinh tế Iran trong nhiều thập niên qua.
Về ngắn hạn, hệ quả tiêu cực dễ thấy nhất là sự sụt giảm sản lượng dầu xuất khẩu. Các lệnh cấm vận dầu mỏ Iran vào năm 1979, 1987, 1995 của Mỹ đã tạo ra tác động rất xấu đối với ngành kinh tế số một của quốc gia này. Chẳng hạn ba tháng sau lệnh cấm vận năm 1995 được áp đặt (từ tháng 5 đến tháng 7), Iran không thể bán quá 400.000 nghìn thùng dầu mỗi ngày – một con số rất khiêm tốn so với mức trung bình mà Iran xuất đi trước khi chịu lệnh trừng phạt. Tổng lượng dầu xuất khẩu giảm từ 30 đến 80% trong năm đó, ước tính thiệt hại kinh tế lên đến 100 - 200 triệu USD [112; tr.93].
Trong giai đoạn những năm 2010 - 2014, khi chính quyền Mỹ xiết chặt lại các lệnh cấm vận đối với Iran, đặc biệt là lệnh cấm vận dầu mỏ (2011) đã tạo ra một cuộc khủng hoảng mới đối với ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất của Iran. Sản lượng dầu xuất đi của Iran giảm 60%, từ 2,5 triệu thùng dầu/ngày vào năm 2011 xuống còn 1,1 triệu thùng/ngày vào năm 2014 [150; tr.63]. Theo cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Jacob Lew, các lệnh trừng phạt của Mỹ khiến Iran mất 160 tỷ USD lợi nhuận từ dầu mỏ. Cụ thể hơn, vào năm 2011, Iran thu được 120 tỷ USD từ việc bán dầu, nhưng đến năm 2013, con số này giảm xuống còn 39 tỷ USD [150; tr.54]. Nguồn lợi từ việc bán dầu của Iran thậm chí còn giảm sâu hơn trong hai năm 2014 và 2015 vì giá dầu thế giới liên tục đi xuống (Xem thêm phụ lục số 15). Sự sụt giảm lợi nhuận từ việc xuất khẩu dầu mỏ là một áp lực lớn đối với nguồn thu ngân sách của chính quyền Tehran nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Iran nói chung, bởi lẽ dầu mỏ được coi là ngành kinh tế xương sống của quốc gia Trung Đông này.
Ngoài ra, lệnh cấm vận dầu mỏ còn gián tiếp tạo ra cơn khát đồng USD ở Iran. Nhiều quốc gia có giao dịch với Iran e ngại về khả năng thanh toán ngoại tệ bằng đồng USD của nước này. Để thu gom đồng USD nhằm chi trả cho các hợp đồng quốc tế, ước tính Chính phủ Iran phải chịu thiệt hại khoảng 100 triệu USD mỗi năm [112; tr.93].
Hệ quả thứ hai là sự gia tăng của nợ công. Các lệnh trừng phạt từ Mỹ cùng với các khoản chiến phí trong cuộc chiến tranh với Iraq đã khiến nợ công của Iran tăng vọt. Năm 1988 nợ công của Iran chỉ khoảng gần 5 tỉ USD thì đến năm 1993 con số đó đã tăng lên 30 tỷ USD [112; tr.93]. Đây là một gánh nặng không nhỏ đối với một nền kinh tế đang bị bao vây, cấm vận như Iran.
132
Các lệnh trừng phạt kinh tế cũng góp phần làm suy giảm giá trị thị trường tài chính của Iran. Đồng tiền quốc gia Iran (Rial) giảm 1/3 giá trị chỉ một tuần sau lệnh cấm vận năm 1995. Chính phủ Iran nhanh chóng phản ứng bằng cách kiểm soát việc
trao đổi thương mại quốc tế. Hệ quả tất yếu là ngoại thương của Iran bị đình trệ. Chính phủ Iran cố gắng giữ cho hệ thống tiền tệ không bị sụp đổ bằng cách quy định tỉ giá tiền tệ với 3000 rial đổi được 1 USD thay vì tuân theo sự điều tiết của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế, biện pháp kìm tỉ giá tiền tệ lại không mang lại hiệu quả thực tế khi hoạt động xuất khẩu của Iran trong suốt thập niên 80, 90 không mấy khởi sắc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng biện pháp trên chỉ mang tính tạm thời và sai lầm. Việc không tuân theo quy luật thị trường chỉ khiến Chính phủ Iran sẽ tiếp tục phải áp đặt thêm nhiều sự kiểm soát ngặt nghèo khác nhằm duy trì hệ thống tiền tệ vốn đang tiềm ẩn nhiều bất ổn. Thật vậy, trong giai đoạn những năm 2011 - 2014, khi Mỹ tăng cường cấm vận Iran, giá trị của đồng tiền của quốc gia này lại một lần nữa sụt giảm mạnh, khoảng 56%. Sự sụt giảm về giá trị tiền tệ đã kéo theo tình trạng lạm phát. Theo phía Mỹ, tỉ lệ lạm phát của Iran trong giai đoạn những năm 2011 - 2013 ở mức rất cao, dao động trong khoảng 60% [150; tr.64]. Tình hình đó phản ánh những khó khăn chồng chất mà nền kinh tế Iran gặp phải dưới tác động của các lệnh cấm vận của Mỹ và cộng đồng quốc tế.
Quan trọng hơn, các lệnh trừng phạt của Mỹ, EU và sau này là Liên Hợp quốc khiến Iran khó tiếp cận được các nguồn vốn vay nước ngoài. Các tổ chức cho vay quốc tế, chẳng hạn như các ngân hàng thương mại, cơ quan tín dụng quốc tế của các Chính phủ tỏ ra e ngại trong mỗi quyết định cho Tehran vay dưới áp lực của lệnh cấm từ Mỹ. Trước cấm vận, hàng năm Iran được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho vay 2 tỷ USD nhưng khoản vay này đã bị tạm ngưng sau khi lệnh cấm vận của Mỹ được ban ra. Với những người đứng đầu Iran lúc đó, ưu tiên hàng đầu của nền kinh tế nước này là trả các khoản nợ quốc tế trước đó. Trên thực tế Iran đã trả được 5 tỷ USD trong hai năm 1989 – 1990, 2 tỷ USD trong hai năm 1992 - 1993 và 4 tỷ USD cho các năm 1996 – 1997. Việc phải trả từ 7 đến 9 tỷ USD trong những năm tiếp theo buộc Iran phải cắt giảm nhập khẩu xuống một nửa, từ 24 tỷ USD (1992 - 1993) xuống còn 12 tỷ USD (1995 - 1996) [112; tr.93]. Tất cả những thay đổi này đều là hệ quả trực tiếp từ các lệnh cấm vận của Washington.
Xét về hệ quả lâu dài, các lệnh trừng phạt của Mỹ và cộng đồng quốc tế nhằm vào Iran sẽ làm hạn chế sự đầu tư và phát triển của ngành kinh tế quan trọng bậc nhất của Iran – công nghiệp dầu mỏ và khí đốt. Công ty dầu mỏ quốc gia Iran (The National Iranian Oil Company - NIOC) từng là một trong những đối tác quan trọng của Mỹ và nhận được sự đầu tư lớn từ các nhà tư bản Mỹ. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của lệnh cấm vận, không một công ty nào của Mỹ hợp tác với NIOC. NIOC không đủ vốn để duy trì sản lượng khai thác như trước. Ưu tiên của NIOC là tìm kiếm nguồn vốn đầu tư từ các công ty nước ngoài để thay thế cho đối tác cũ là Conoco – một công ty của Mỹ. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của lệnh cấm vận năm 1997, sau hai năm kêu gọi đầu tư, chỉ có duy nhất một công ty của Pháp bỏ vốn đầu tư vào NIOC.
133
Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, các lệnh cấm vận của Mỹ chỉ có tác động làm suy yếu hoạt động ngoại thương của Iran trong một khoảng thời gian nhất định.
So với những biến đổi của nền kinh tế Iran dưới tác động của nền kinh tế toàn cầu thì hệ quả từ các lệnh cấm vận của Mỹ thường chỉ có tác động tức thì và không khó để Iran tìm ra các giải pháp đối phó. Chẳng hạn, giá dầu tăng cao vào năm 1996 đã khiến lợi nhuận từ việc xuất khẩu dầu thô của Iran tăng thêm 3 tỷ USD so với năm 1995. Rõ ràng, nếu giá dầu giữ ở mức cao, nền kinh tế Iran vẫn có thể đạt mức tăng trưởng tốt bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ. Nhờ sự tăng cao của giá dầu vào năm 1996, Iran thậm chí còn thanh toán được nhiều khoản nợ quốc tế trong suốt hai năm 1996 – 1997, lấy lại uy tín đối với các tổ chức tín dụng quốc tế. Do đó, một số nhà nghiên cứu đã cho rằng nước Mỹ chưa có công cụ hiệu quả thực sự nào để ngăn chặn mối liên kết giữa Iran với nền kinh tế thế giới, và điều đó sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả của các biện pháp trừng phạt mà Mỹ đưa ra.
4.2.1.2. Về chính trị - ngoại giao Chính sách ngăn chặn, cô lập của Mỹ đã có những tác động nhất định tới nền
chính trị Iran cũng như vị thế của quốc gia này ở khu vực Trung Đông.
Thứ nhất, việc Mỹ tăng cường mối quan hệ đồng minh với Israel, Saudi Arabia và một số quốc gia Arab khác phần nào đã làm xói mòn sức ảnh hưởng của Iran trong khu vực Trung Đông. Saudi Arabia hay Israel tỏ rõ thái độ chống đối Iran trong nhiều vấn đề khu vực. Điều này đã tác động không nhỏ tới mục tiêu chiến lược của Iran, trong đó có “xuất khẩu cách mạng”, ủng hộ cho lực lượng Shi’ite ở Trung Đông.
Lấy Saudi Arabia làm ví dụ. Quốc gia này đã có những hành động mạnh mẽ để làm giảm ảnh hưởng của Iran và xa hơn là dòng Shi’ite trong khu vực. Chẳng hạn, trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988), Saudi Arabia cùng một số quốc gia khác như Kuwait, UAE đã đứng sau hậu thuẫn cho Saddam Hussein về tài chính và vũ khí để chống lại Iran. Hay gần đây, vào năm 2012, Saudi Arabia hậu thuẫn cho các tổ chức vũ trang người Sunni ở Syria chống lại Tổng thống Bashar Al - Assad, một đồng minh thân cận của Iran. Tiếp đó vào tháng 3 năm 2015, Saudi Arabia triển khai chiến dịch quân sự tại Yemen để ngăn chặn lực lượng nổi dậy Houthi, liên minh với Iran. Riyadh cáo buộc Iran sử dụng lực lượng du kích để tiến hành một cuộc đảo chính. Sự can dự của Saudi Arbia vào những địa bàn được coi là vùng ảnh hưởng của Iran một mặt đã hạn chế được sức mạnh của Iran. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, những đối đầu quân sự giữa Saudi Arabia và Iran đã tạo ra những mối đe dọa tới hòa bình và ổn định khu vực.
134
Với sự cổ súy của Mỹ, Saudi Arabia nhiều lần vận động các đồng minh Arab khác cô lập Iran từ sau khi Iran thay đổi chế độ chính trị. Lần gần đây nhất là vào năm 2017, Saudi Arabia đã tác động đến Nhóm Bộ Tứ gồm: Saudi Arabia, Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất UAE, Bahrain và Ai Cập yêu cầu các nước trong nhóm này cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tehran; Lôi kéo Iraq bằng cách thành lập Hội đồng tác chiến chiến lược Saudi Arabia – Iraq; Hay hành động kêu gọi khẩn cấp cuộc họp giữa các bộ trưởng Arab vì cho rằng Iran đang đe dọa an ninh của các quốc gia Arab sau vụ bắn tên lửa của lực lượng dân quân Houthi (được Iran hậu thuẫn) vào thủ đô Riyadh vào ngày
04/11/2017.
Tương tự, chính quyền của Israel cũng thường xuyên duy trì chính sách đối đầu không khoan nhượng với Iran. Khi nhà nước Do Thái Israel non trẻ ra đời sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Iran là một trong số ít các quốc gia Trung Đông không gia nhập liên quân Arab tiến đánh Israel năm 1948. Tại thời điểm đó, Israel ưu tiên xây dựng quan hệ liên minh với Iran với phương châm “kẻ thù của kẻ thù là bạn” (The Enemies of My Enemy Are My Friends) [164; tr.10]. Trong khi Tehran cũng coi Tel Aviv là đối tác chính trị quan trọng để cân bằng với các láng giềng Arab khác. Ở giai đoạn “thăng hoa” của mối quan hệ ngoại giao, Iran trở thành nhà cung cấp dầu chủ yếu của Israel. Chỉ tính riêng những năm cuối thập niên 1970, 6 hợp đồng đổi dầu lấy vũ khí giữa Iran và Israel đã đạt hơn 1,2 tỷ USD [164; tr.13]. Đổi lại, Israel điều tới Iran nhiều chuyên gia nông nghiệp, hỗ trợ kỹ thuật công nghệ, giúp Iran xây dựng và đào tạo lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, khủng hoảng trong quan hệ hai nước bắt đầu xuất hiện sau cuộc Cách mạng Hồi giáo nổ ra ở Iran năm 1979. Lãnh tụ tối cao Iran Ayatollah Khomeini chỉ trích sự chiếm đóng của Israel trên các vùng lãnh thổ của người Palestine và chấm dứt mọi thỏa thuận hợp tác với nhà nước Do Thái. Lãnh tụ tinh thần tối cao Khomeini cũng ủng hộ việc thành lập lực lượng Hezbollah tại Lebanon – quốc gia Arab có đông người Shi’ite, với mục đích chính là chống lại quân đội Israel. Để đáp trả, Israel thường xuyên chỉ trích chính sách của Tehran, đặc biệt là chương trình ngoại giao của Iran. Khi vấn đề hạt nhân của Iran trở nên căng thẳng, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu từng nhiều lần đe dọa tấn công Iran nếu cộng đồng quốc tế không can thiệp để Iran chấm dứt chương trình hạt nhân. Còn Iran tuyên bố, họ sẽ không ngần ngại đáp trả bất kỳ cuộc tấn công nào của Israel.
Sự xuất hiện cùng một lúc nhiều đối trọng như Saudi Arabia hay Israel đã có những tác động thấy rõ đối với vị thế và ảnh hưởng của Iran ở trong khu vực. Mâu thuẫn giữa Iran với hai quốc gia trên càng thêm sâu sắc dưới những tác động từ Washington. Với sức ép từ Saudi Arabia, các quốc gia Arab khác trở nên thận trọng hơn trong mối quan hệ với Tehran, đặc biệt là khối GCC. Chính vì thế, ảnh hưởng của Iran ở khu vực vùng Vịnh cũng bị hạn chế đi so với giai đoạn trước năm 1979.
135
Hai là những nỗ lực cô lập Iran về mặt chính trị của Mỹ trên trường quốc tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế của Tehran. Chẳng hạn như việc Mỹ hối thúc các đồng minh châu Âu (cụ thể là 9 quốc gia EC) áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế lên Iran, trong đó trọng tâm là ngừng nhập khẩu dầu nhằm tạo sức ép lên chính quyền Tehran. Kết quả là dưới áp lực của Mỹ, 9 quốc gia EC đã phải tuyên bố cấm vận Iran vào tháng 4 năm 1982. Đây là một tổn thất lớn của Iran trong thời điểm sau cách mạng bởi các quốc gia châu Âu luôn là một đối tác quan trọng của Iran về kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp dầu mỏ. Việc các quốc gia châu Âu cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tehran cũng gây nhiều khó khăn cho Iran. Các quốc gia EC đứng về phía Mỹ trong các vấn đề quốc tế liên quan đến Iran sẽ khiến Iran phải gặp những phán quyết bất lợi tại Liên Hợp quốc hay nhiều diễn đàn hợp tác quan trọng khác… Không chỉ các
đồng minh Tây Âu, dưới sức ép của Mỹ, nhiều tổ chức quốc tế trong đó có Liên Hợp quốc cũng đã thông qua nhiều phán quyết bất lợi cho Iran. Chẳng hạn như vào năm 2006, Mỹ bắt đầu mở rộng vận động trừng phạt Iran xung quanh chương trình hạt nhân của nước này. Mỹ thay đổi chiến thuật, vận động nhiều đồng minh, nhiều quốc gia khác trên phạm vi toàn cầu ủng hộ cho chính sách trừng phạt Iran và sử dụng Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc như một công cụ quan trọng nhằm đạt cho bằng được mục tiêu là ép Iran phải ngưng chương trình hạt nhân. Mỹ vận động các đồng minh châu Âu đưa ra các sáng kiến thương thảo áp đặt các tiêu chuẩn trao đổi nguyên - nhiên liệu uranium với Iran cho đến việc soạn thảo các nghị quyết trừng phạt Iran. Nghị quyết 1737 tháng 12/2006 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc do Anh, Pháp và Đức soạn thảo và đề xuất đã đánh dấu sự đồng thuận tập thể trên phạm vi toàn cầu về các hình thức trừng phạt Iran sau khi nước này không thực thi các yêu cầu của Liên Hợp quốc trong Nghị quyết 1696 trước đó vài tháng. Rõ ràng dưới tác động của Mỹ, chính quyền Iran phải đối diện với sự quay lưng của nhiều đối tác quan trọng. Điều này ngăn trở Iran thực hiện những kế hoạch dài hạn ở Trung Đông, trong đó có việc phát triển hạt nhân, mở rộng ảnh hưởng của Iran nói riêng và sự nắm quyền của những người Shi’ite ở Trung Đông nói chung.
Ba là, các lệnh trừng phạt của Mỹ phần nào đã tác động đến hành vi ứng xử của các nhà lãnh đạo Iran đối với các vấn đề quốc tế và khu vực. Dưới áp lực từ các lệnh trừng phạt từ riêng Mỹ và một số quốc gia Tây Âu, Iran vẫn có thể tìm cách khắc phục bằng cách bán dầu cho các quốc gia khác với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, với lệnh cấm vận của Liên Hợp quốc và EU, những khó khăn về chính trị, kinh tế của Iran tăng lên nhiều lần. Việc xuất khẩu dầu mỏ sẽ càng trở nên khó khăn khi các thị trường xuất khẩu chính của Iran như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Ý… cũng hạn chế nhập khẩu dầu mỏ theo Quyết nghị của Liên Hợp quốc. Những khó khăn kinh tế chồng chất đã khiến Iran phải thay đổi chính sách đối đầu với phương Tây trước kia, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và các quốc gia phương Tây.
4.2.1.3. Về an ninh - quân sự Chính sách cứng rắn của Mỹ đối với Iran trong gần bốn thập kỷ không chỉ tạo sức ép lớn đối với nền kinh tế Iran mà còn tác động đáng kể đến nhiều lĩnh vực khác trong đó có quân sự. Có ba tác động lớn có thể dễ dàng nhận thấy:
Thứ nhất, sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh Arab của Mỹ (Saudi Arabia, Kuwait, UAE) trong chiến tranh Iran – Iraq đã làm cho cuộc chiến này thêm khốc liệt và kéo dài. Nhờ có sự trợ giúp gián tiếp của Mỹ, Iraq đã được giữ thế phòng thủ chiến lược ngay cả khi Iran đang nắm ưu thế trên chiến trường. Iran đã không thể chấm dứt cuộc chiến này bằng một chiến thắng mang tính quyết định. Trong 8 năm từ khi Iraq chính thức tuyên chiến vào ngày 22/9/1980 đến khi Iran chấp nhận ngừng bắn vào ngày 20/7/1988, có ít nhất 200.000 sĩ quan và dân thường Iran thiệt mạng. Iran đã tiêu tốn khoảng 85 tỷ USD cho cuộc chiến tàn khốc này [123; tr.4].
136
Thứ hai, các lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ còn gây ra những tác động đáng kể đến
tiềm lực quốc phòng của Iran, đặc biệt là năng lực tiếp cận với các loại vũ khí hiện đại, các loại nguyên liệu để ứng dụng trong sản xuất vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học… Trước sự thiếu hụt tài chính dành cho quốc phòng, Iran đã phải cắt giảm 10 tỷ USD trong kế hoạch mua sắm vũ khí 5 năm (tính từ năm 1989). Có hai nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm ngân sách dành cho quốc phòng của Iran: một là, dưới áp lực của Mỹ, Iran khó tiếp cận được các nguồn vốn cho vay của nước ngoài; Hai là, việc bị hạn chế xuất khẩu dầu mỏ đã ngăn cản khả năng tích trữ ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD. Hai nguyên nhân trên đã dẫn đến hệ lụy là nguồn ngân sách của Iran gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996, Iran tuyên bố các hợp đồng quân sự với rất nhiều các loại vũ khí sẽ được mua về nhưng thực tế số vũ khí Iran thu về thường ít hơn nhiều so với những tuyên bố của Chính phủ nước này. Chẳng hạn như trong các hợp đồng ghi rõ Iran sẽ mua khoảng 1000 đến 1500 xe tăng, nhưng con số thực tế chỉ là 184 chiếc xe tăng. Hay việc Iran tuyên bố sẽ mua về 100 đến 200 máy bay quân sự, nhưng trên thực tế, chỉ có 57 chiếc được vận chuyển về Iran [112; tr.95]. Tương tự, số lượng khẩu pháo thực tế được Iran mua về thấp hơn nhiều so với số lượng trên hợp đồng ký kết, 106 chiếc so với 200 – 300 chiếc. Theo báo cáo của Chính phủ Iran lên IMF, chi tiêu cho quốc phòng bao gồm chi phí triển khai các hoạt động quân sự và việc mua sắm vũ khí giảm còn 1,2 tỷ USD trong các năm 1991 – 1992, 1994 – 1995 so với mức trung bình khoảng 2 tỷ USD trong giai đoạn trước [112; tr.95]. Thực tế đã chứng minh rằng, dưới áp lực của cấm vận, cơn khát ngoại tệ ở Iran là có thật và điều này đã ngăn trở không cho Iran thanh toán số tiền còn lại trong hợp đồng mua 3 tàu ngầm quân sự, cho dù các tàu này đã được hoàn thiện vào năm 1994. Phải đến năm 1997, khi kinh tế Iran hồi phục, quốc gia này mới đưa 3 tàu ngầm hiện đại trên về nước [112; tr.95]. Sự suy giảm năng lực mua sắm vũ khí của Iran trong một thời gian ngắn đã ảnh hưởng đáng kể đến sự cân bằng sức mạnh tại khu vực vùng Vịnh.
137
Thứ ba, chính sách hậu thuẫn cho các nhóm quân sự người Sunni, người Kurd trong các cuộc xung đột ở Trung Đông của chính quyền Mỹ cũng tạo ra những thách thức an ninh lớn cho Iran, đặc biệt là các kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của Tehran. Tình hình ở Syria hiện nay là một ví dụ điển hình như thế. Syria là một đồng minh chiến lược của Iran ở Trung Đông, cả hai nước có nhiều lợi ích và mục tiêu chung, đặc biệt là cả Tehran lẫn Damascus đều hậu thuẫn cho Hezbollah. Tuy nhiên, tình hình Syria trở nên vô cùng hỗn loạn với việc các nhóm quân Islam Sunni, người Kurd đứng lên chống lại Chính phủ của Tổng thống Bashar Al - Assad, đòi ông phải từ chức (2011). Các nhóm đối lập này được Mỹ, Saudi Arabia ủng hộ cả về tài chính và vũ khí. Sự can dự của Mỹ ở Syria và nhiều quốc gia khác trong khu vực góp phần khoét sâu thêm những mâu thuẫn ở Syria, đe dọa không chỉ đến sự tồn tại của Chính phủ Al Assad – người bạn đồng minh quan trọng của Iran mà còn gây bất ổn đến an ninh và hòa bình ở Trung Đông. Iran chắc chắn cũng không thể đứng ngoài trước những ảnh hưởng tiêu cực ngày càng lan rộng do các nhóm Sunni cực đoan ở Syria, Iraq,
Lebanon, Afghanistan gây ra…
4.2.1.4. Về xã hội Hệ quả xã hội dễ dàng nhận thấy nhất đối với Iran là hiện tượng chảy máu chất xám (drain brain) sau năm 1979. Nhiều trí thức Iran – đặc biệt là những người từng được đào tạo ở Mỹ và phương Tây đã tìm cách sang Mỹ nhập cư vì lo sợ họ có thể là đối tượng trả thù của những phần tử cách mạng quá khích. Một làn sóng di cư ồ ạt của giới tinh hoa Iran sang Mỹ và một số quốc gia Tây Âu đã diễn ra (xem phụ lục 13). Từ năm 1971 - 1980, số người nhập cư được cấp phép ở lại Mỹ chỉ là 45.136 người, thì trong giai đoạn tiếp theo từ năm 1981 - 1990, có 116.172 người Iran nhập cư vào Mỹ [238; tr.277]. Phần lớn trong số họ là những lao động có trình độ cao. Đến nay có khoảng 325.000 người di cư Iran đang sinh sống ở Mỹ [237; tr.419]. Trên 50% số người Mỹ gốc Iran có bằng đại học và sau đại học. Với tỉ lệ trên, cộng đồng người Iran ở Mỹ đứng thứ 3 trong bảng đánh giá về trình độ học vấn, chỉ sau Ấn Độ và Đài Loan. Độ tuổi trung bình của họ là 35,1 tuổi, độ tuổi đang “chín” về cả vốn sống và kĩ năng làm việc. Nhiều người Iran đã thành công trên đất Mỹ, đảm nhận những vị trí việc làm đòi hỏi chất xám cao: giảng viên đại học, bác sĩ, kỹ sư… Ít người trong số đó lựa chọn quay về Iran để đầu tư, kinh doanh bởi họ lo sợ những rào cản chính trị cũng như cách mà chính quyền Iran sẽ đối xử với họ. Không những vậy, nhiều người Iran di cư giữ thái độ chống đối chính quyền cách mạng ở Iran. Họ ủng hộ chính sách cứng rắn của Mỹ đối với chế độ hiện tại ở Iran. Rõ ràng, hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang gây ra những thiệt hại đáng kể đối với sự phát triển của đất nước Iran.
Một hệ quả xã hội đáng chú ý khác là sự xuất hiện chủ nghĩa bài Mỹ ở Iran. Các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran càng làm tăng thái độ bài Mỹ của nhiều người dân Iran trong suốt thập niên 80 của thế kỷ trước.
138
Đầu tiên, phải kể đến thái độ cứng rắn của giới lãnh đạo Iran trước một nước Mỹ hùng mạnh. Từ sau năm 1979 cho đến năm 2008, Iran cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Mỹ, rút đại sứ quán của họ về nước, chỉ duy trì đại diện tại Liên Hợp quốc có trụ sở ở New York. Ngay cả khi Iran chịu ngồi vào bàn đàm phán với nhóm P5+1 trong đó có Mỹ để bàn về chương trình hạt nhân của nước này, Iran vẫn cho rằng quốc gia này không hề xuống nước với phía Mỹ. Lãnh đạo tối cao Iran Ayatollah Ali Khomeini cho rằng thỏa thuận hạt nhân với các cường quốc không báo hiệu sự chuyển đổi lớn nào trong quan hệ của Iran với Mỹ hoặc trong chính sách của Iran ở Trung Đông: “Chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại rằng chúng tôi không đàm phán với Mỹ về các vấn đề khu vực hoặc quốc tế, thậm chí các vấn đề song phương. Có một số ngoại lệ như chương trình hạt nhân mà chúng tôi đàm phán với người Mỹ để bảo vệ lợi ích của chúng tôi… Chính sách của Mỹ trong khu vực đối lập “180 độ” với chính sách của Iran” và “Chúng tôi sẽ không bao giờ ngừng ủng hộ bạn bè của chúng tôi trong khu vực và nhân dân Palestine, Yemen, Syria, Iraq, Bahrain và Lebanon. Ngay cả sau thỏa thuận này thì chính sách của chúng tôi với nước Mỹ kiêu ngạo sẽ không thay đổi” [295].
Còn đối với nhiều người dân Iran, nước Mỹ là hiện thân của một nước đế quốc đương đại. Hình ảnh hàng trăm sinh viên Iran mang theo những khẩu hiệu đầy tiêu cực “Death to America” bao vây Đại Sứ quán Mỹ trong cuộc cách mạng năm 1979 là bằng chứng điển hình nhất cho sự hiện hữu của chủ nghĩa bài Mỹ trong lòng người dân Iran. Đến nay, theo điều tra năm 2009, có tới 77% người dân Iran không có thiện cảm với chính quyền Mỹ [298]. Những bức tranh chống Mỹ vẫn xuất hiện phổ biến trên đường phố Iran như một biểu tượng cho chủ nghĩa bài Mỹ tại quốc gia Trung Đông này (xem phụ lục 12). Làn sóng bài Mỹ tiếp tục lên cao ở Iran sau vụ Mỹ tiến hành không kích, giết chết vị tướng cao cấp của họ - Qassem Soleimani (1/2020). Trong khi đó, giới hạn từ việc ủng hộ chủ nghĩa bài Mỹ đến chủ nghĩa Isalm cực đoan là rất mong manh.
4.2.2. Đối với Mỹ 4.2.2.1. Về chính trị Vấn đề Iran được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là một yếu tố có tác động đáng kể đối với các cuộc vận động tranh cử ở Mỹ, đặc biệt từ sau năm 1979. Sự thất bại của Tổng thống Jimmy Carter trong cuộc vận động tranh cử nhiệm kỳ hai đã phản ánh rõ thực tế này. Carter rời khỏi Nhà Trắng sau chiến thắng vang dội của Ronald Reagan trong cuộc tuyển cử năm 1980. Reagan giành được xấp xỉ 51% phiếu phổ thông, trong khi Carter chỉ có 41%. Reagan nhận được 489 phiếu của cử tri đoàn, chỉ để lại cho Carter vỏn vẹn sáu tiểu bang và Đặc khu Columbia với 49 phiếu [144; tr.101]. Các nhà phê bình đã chỉ ra một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của Jimmy Carter là việc chính phủ của ông đã không giải quyết hiệu quả cuộc khủng hoảng con tin ở Iran. Mặc dù nhóm thương thuyết đã đàm phán thành công với những người bắt giữ con tin, nhưng bản thoả thuận chỉ được ký vào ngày 19/01/1981 – tức là sau khi Ronald Reagan đắc cử Tổng thống. Các con tin được trả tự do năm phút sau lễ nhậm chức Tổng thống sau 444 ngày bị giam giữ. Nếu như vấn đề khủng hoảng con tin ở Tehran được giải quyết sớm hơn, cuộc bầu cử Tổng thống năm 1980 có thể sẽ có một kết quả khác.
Một ví dụ khác cho sự ảnh hưởng của yếu tố Iran tới nền chính trị Mỹ là cuộc vận động tranh cử mới nhất của tổng thống Donald Trump. Trong suốt chiến dịch tranh cử, Donald Trump đã nhiều lần khẳng định sẽ xóa bỏ thỏa thuận hạt nhân lịch sử (JCPOA) năm 2015 nếu ông đắc cử. Ông hướng tới một chính sách cứng rắn hơn với Iran nhằm giảm vai trò đang lên của quốc gia Islam này ở khu vực Trung Đông. Những cam kết này của Trump đã giành được nhiều cảm tình từ các cử tri có xu hướng bảo thủ, các cử tri thiểu số có gốc Do Thái.... Dù không phải là nguyên nhân chính dẫn đến chiến thắng của Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng, nhưng những phác thảo đầu tiên trong chính sách với Iran của Trump đã thu hút được sự chú ý đáng kể của công luận trong và ngoài nước Mỹ. Thực tế, sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Trump đã rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran vào đầu tháng 5/2018 tạo nên cú sốc lớn đối với chính trường quốc tế.
139
Qua hai ví dụ vừa nêu, có thể nhận thấy rằng, vấn đề Iran có ảnh hưởng đáng kể
trong các cuộc tranh cử cũng như trên bàn nghị sự ở Mỹ.
Tác động tiếp theo của chính sách ngăn chặn Iran đối với nền chính trị Mỹ là sự bất đồng, rạn nứt giữa Mỹ và các đồng minh, đặc biệt là các quốc gia châu Âu (EC- EU) liên quan đến vấn đề Iran. Là những đồng minh truyền thống, có những mối liên hệ mật thiết về cả an ninh – kinh tế và những lợi ích chung khác với Mỹ, nhưng châu Âu cũng có những lợi ích đặc biệt quan trọng ở Iran và xa hơn là toàn bộ khu vực Trung Đông. Châu Âu không thể vì Mỹ mà đánh mất các lợi ích kinh tế - chính trị - an ninh quan trọng trong mối quan hệ với Iran. Việc Mỹ liên tục tạo áp lực lên châu Âu trong các vấn đề liên quan đến Iran đã đặt EU vào tình huống khó xử khi phải lựa chọn giữa một bên là Mỹ và bên kia là Iran. Đã hơn một lần, các nước châu Âu hoặc trì hoãn việc áp đặt lệnh cấm vận hoặc phớt lờ các lệnh cấm của Mỹ.
Lần đầu tiên là vào năm 1980. Ngay sau cuộc khủng hoảng con tin nổ ra ở Tehran (1979), Mỹ bắt đầu áp đặt một loạt lệnh trừng phạt lên Iran đồng thời tăng cường áp lực nhằm buộc cách đồng minh châu Âu thông qua một lệnh trừng phạt tương tự với Iran. Tuy nhiên, Hội đồng các quốc gia châu Âu đã trì hoãn vấn đề này trong suốt bốn tháng đầu năm 1980. Phải đến ngày 22/4/1980, các lệnh cấm vận mới chính thức được EC thông qua.
140
Lần thứ hai vào năm 1996. Tổng thống Bill Clinton thông qua Đạo luật áp đặt lệnh cấm vận toàn diện với Iran và Libya (ILSA- Libya and Iran sanctions Act) và gây sức ép để châu Âu buộc phải đồng thuận với lệnh cấm này, nước Mỹ đã nhận được sự phản ứng gay gắt của các quốc gia EU. Đại diện của Đức tuyên bố “không thể để những vấn đề của chúng tôi bị ai đó quyết định phải làm những gì” và nước Đức sẽ không chấp thuận với lệnh trừng phạt mới của nước Mỹ. Tổng thống Pháp Chirac cũng cho rằng: “Chủ nghĩa đơn phương đe dọa tới những nguyên tắc của luật pháp quốc tế” [126; tr.323], nhấn mạnh đến việc Mỹ đơn phương áp đặt các lệnh cấm vận và buộc các Chính phủ, các công ty của châu Âu phải tuân theo. Joseph Coll I Carbo - đại diện của Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) ở Tây Ban Nha còn chỉ ra lý lẽ của châu Âu khi từ chối lệnh cấm mới của Mỹ: “Chúng tôi không thể đồng ý với cách làm của người Mỹ dưới mọi hình thức. Làm sao chúng tôi có thể đứng về phía Mỹ trong đạo luật lần này. Nếu điều đó xảy ra, chẳng phải chúng tôi cũng sẽ phải chấp thuận cách làm tương tự của chính quyền Trung Quốc khi cấm các công ty nước ngoài đầu tư vào Đài Loan hay sao?” [126; tr.323]. Ngày 08/8/1996, EU ra thông cáo phản đối chính thức đầu tiên đến Bộ Ngoại giao Mỹ thông qua Đại sứ Ireland cũng là Đại diện của Chủ tịch EU ở Washington – Dermot Gallagher. Ngày 21/8, Chủ tịch châu Âu ra tuyên bố phản đối chính thức, thể hiện quyết tâm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp, chính đáng của EU cùng các thành viên dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Sự chống đối của một số quốc gia châu Âu đã tạo ra một vết rạn lớn trong quan hệ giữa EU với Mỹ. Trên thực tế, các tập đoàn, công ty đến từ châu Âu hoàn toàn phớt lờ các lệnh cấm vận năm 1996 của Mỹ. Điển hình như vụ công ty dầu mỏ của Pháp đã hợp tác cùng một công ty dầu khác của
Nga – Gazprom và một công ty thuộc sở hữu nhà nước đến từ Malaysia – Petronas đã đầu tư 2 tỷ USD vào ngành công nghiệp dầu mỏ ở Iran. Đối với nhiều công ty của Pháp, việc Mỹ cấm vận hoàn toàn Iran còn tạo ra cơ hội hợp tác tuyệt vời với Iran. Vì Iran không thể tiếp cận các công nghệ và hàng hóa của Mỹ, các sản phẩm đến từ Pháp sẽ là một sự thay thế hợp lý…
Sự chia rẽ ấy thậm chí còn kéo dài cho đến ngày nay. Sau khi Mỹ rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân Iran (9/5/2018), nhiều người cho rằng châu Âu sẽ phải làm theo Mỹ và không thể có một quyết định độc lập về việc duy trì Thỏa thuận hạt nhân Iran. Tuy nhiên, châu Âu đã không tuân theo chiếc gậy chỉ huy của Washington và tuyên bố những biện pháp nhằm bảo vệ lợi ích của mình trong quan hệ hợp tác với Iran trước thanh kiếm trừng phạt của Mỹ. Ngày 19/5/2018, Cao ủy châu Âu về năng lượng Miguel Arias Cañete đã đến Tehran để thông báo cho các nhà lãnh đạo Iran về các biện pháp của EU nhằm bảo vệ quan hệ kinh tế, thương mại với Iran. Ông Cañete là quan chức phương Tây đầu tiên thăm Iran sau khi Mỹ tuyên bố rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân Iran ký kết năm 2015 giữa Iran với các nước P5+1 và mới đây áp đặt lại lệnh trừng phạt kinh tế chống Iran. Các biện pháp trừng phạt này cũng nhằm vào các công ty nước ngoài có quan hệ làm ăn với Iran. Ông Cañete đã gặp Phó Tổng thống Iran kiêm Chủ tịch Ủy ban năng lượng hạt nhân Iran Ali Akbar Salehi, Bộ trưởng Môi trường Isa Kalantari, Bộ trưởng Dầu mỏ Bijan Zangeneh, Bộ trưởng Ngoại giao Mohamad Javad Zarif bàn phối hợp hành động nhằm duy trì các mối quan hệ giữa Liên minh châu Âu và Iran trong bối cảnh Mỹ thắt chặt các biện pháp trừng phạt Iran [284]. Ông Cañete cho biết Liên minh châu Âu (EU) sẽ áp dụng đạo luật 1996 cho phép EU can thiệp trợ giúp nhằm bảo vệ các công ty châu Âu bị thiệt hại do bất kỳ lệnh cấm vận nào của Mỹ. Ông cũng nhấn mạnh rằng, việc Washington rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân Iran sẽ không ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh tế giữa Liên minh EU và Tehran. Như vậy, bất chấp việc Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo yêu cầu siết chặt hơn nữa các biện pháp trừng phạt Iran (21/5/2018), các nước châu Âu vẫn cho rằng không có gì có thể thay thế được Thỏa thuận JCPOA và tiếp tục duy trì việc trao đổi thương mại với Tehran. Điều này một lần nữa làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa Mỹ và châu Âu liên quan đến vấn đề Iran.
Không những vậy, các biện pháp trừng phạt các công ty châu Âu trong quan hệ hợp tác với Iran đang đẩy châu Âu thắt chặt quan hệ với Iran, Nga và Trung Quốc. Thủ tướng Đức Angela Merkel ngày 19/5/2018 đã đến thăm Nga và gặp Tổng thống Putin, Tổng thống Pháp Macron ngày 24/5/2018 thăm Moscow để bàn với Tổng thống Putin về việc phối hợp hành động đối phó với các biện pháp trừng phạt của Mỹ và duy trì thỏa thuận hạt nhân Iran.
141
Nhật Bản cũng là một đồng minh khác có quan điểm bất đồng với Mỹ liên quan đến vấn đề Iran. Đạo luật trừng phạt Iran, Libya (ILSA) của Tổng thống Bill Clinton cũng vấp phải sự phản đối từ Tokyo. Điều này không có gì là khó hiểu bởi Nhật Bản là khách hàng lớn nhất của ngành dầu mỏ Iran kể từ sau năm 1979. Và vì thế, Nhật Bản –
đồng minh an ninh chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã góp tiếng chỉ trích ILSA. Hirosho Hashimoto – người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã cho rằng việc Mỹ thông qua ILSA là một sự kiện đáng quên và các biện pháp trừng phạt kinh tế đơn phương của Mỹ đi ngược lại các giá trị của Luật pháp quốc tế [126; tr.324].
Rõ ràng, không phải lúc nào, chính sách cứng rắn của Mỹ với Iran, đặc biệt là các lệnh trừng phạt kinh tế cũng nhận được sự hưởng ứng của các đồng minh lâu năm. Việc các đồng minh từ chối thực hiện các lệnh trừng phạt của Mỹ không chỉ khiến cho hiệu quả của cấm vận giảm sút mà còn tạo ra những mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh. Xa hơn nữa, việc Mỹ kiên quyết dùng các biện pháp cứng rắn với Tehran sẽ làm Mỹ bị cô lập trên chính trường quốc tế khi các đồng minh và Mỹ không còn tìm được tiếng nói chung. Vị thế siêu cường của Mỹ có bệ phóng quan trọng là từ sự đồng thuận từ các đồng minh. Nếu mất đi bệ phóng này, Mỹ khó lòng duy trì được vị thế siêu cường của mình.
4.2.2.2. Về kinh tế Các lệnh trừng phạt kinh tế của Mỹ và việc Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iran cũng tạo ra những tác động ngược trở lại đến nước Mỹ, trong đó có kinh tế. Cái giá phải trả khi chính quyền Mỹ áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế song song với việc cô lập chính trị - ngoại giao là các khoản lợi nhuận từ việc trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai quốc gia.
Thiệt hại đáng kể nhất đối với nền kinh tế Mỹ là sự sụt giảm của xuất khẩu trực tiếp từ Mỹ sang Iran. Mỹ từng là đối tác thương mại hàng đầu của Iran với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới hàng tỷ USD mỗi năm. Do đó, khi Mỹ áp đặt cấm vận lên Iran, không những nền kinh tế Iran bị thương tổn nặng nề mà Mỹ cũng mất đi một đối tác quan trọng. Chẳng hạn như trước khi Đạo luật trừng phạt Iran - Libya chính thức có hiệu lực từ tháng 8/1996, tổng lượng hàng hóa xuất khẩu sang Iran đạt 476 triệu USD. Nhưng bước sang những năm sau đó, con số này giảm xuống nhanh chóng, thậm chí, trong hai năm 1998 - 1999, Mỹ không xuất bất cứ hàng hóa nào sang Iran (giá trị xuất khẩu = 0). Chỉ tính trong giai đoạn từ năm 1996 - 2002, kinh tế Mỹ thiệt hại khoảng khoảng 2,088 tỷ USD vì lệnh cấm vận của chính quyền nước này với Iran [137]. Trong số các mặt hàng Mỹ xuất sang Iran, vũ khí được coi là loại hàng hóa quan trọng và mang về nhiều lợi nhuận nhất cho các nhà tư bản Mỹ. Vào giữa thập niên 70, Iran trở thành bạn hàng lớn nhất của nền công nghiệp quốc phòng Mỹ, chiếm 2/3 tổng giá trị các hợp đồng bán vũ khí của Mỹ ở khu vực Trung Đông [101; tr.12]. Tuy nhiên tình hình đã thay đổi khi các lệnh cấm vận của Mỹ được áp dụng với Iran. Kim ngạch xuất khẩu từ Mỹ sang Iran sụt giảm nghiêm trọng. Các lệnh cấm bán vũ khí cho Iran đã khiến các doanh nghiệp quốc phòng Mỹ mất đi một bạn hàng lớn, thiệt hại hàng tỷ USD mỗi năm.
142
Trên thực tế, mục tiêu của các lệnh cấm vận xuất khẩu hàng hóa Mỹ sang Iran để
hạn chế quốc gia Trung Đông này được tiếp cận với các hàng hóa, công nghệ mới của Mỹ. Nhưng trái ngược với tính toán của người Mỹ, hàng hóa Mỹ vẫn được bày bán tràn lan trên đường phố và trong các siêu thị ở Iran, thậm chí với giá bán lẻ còn rẻ hơn ở Mỹ. Vì sao? Câu trả lời nằm ở Dubai - UAE. Tất cả hàng hóa Mỹ bày bán ở Iran đều được mua từ UAE chỉ với mức chênh lệch không đáng kể [32; tr.198]. Từ năm 2008, kiểu nhập khẩu hàng hóa Mỹ qua trung gian này có tốn kém hơn, chi phí cao hơn trước do Mỹ đã áp dụng biện pháp cấm vận các ngân hàng Iran. Tuy nhiên, điều đó vẫn không ngăn cản được sự xuất hiện của hàng hóa Mỹ ở quốc gia Trung Đông này. Nếu xét về mục tiêu của chính quyền Mỹ khi đưa ra chính sách cấm vận với Iran, rõ ràng, chính quyền Mỹ đã thất bại.
Ngoài ra, vì các lệnh cấm vận của Mỹ, không ít các doanh nghiệp Mỹ có quan hệ hợp tác kinh tế với phía Iran đã chịu thiệt hại nặng nề khi các khoản đầu tư vào Iran bị mất hoàn toàn. Điển hình là trường hợp của Tập đoàn dầu mỏ Conoco. Tập đoàn này đã đầu tư vào ngành khai thác dầu mỏ ở Iran với tổng số tiền hơn 3 tỷ USD. Tuy nhiên, khoản đầu tư đó đã “bốc hơi” hoàn toàn vì lệnh cấm hoạt động của chính phủ Mỹ [112; tr.95].
Không những vậy, những lệnh cấm vận Iran cũng tạo ra nhiều tác động hệ lụy gián tiếp đối với sự phát triển của kinh tế Mỹ. Thứ nhất, là sự phụ thuộc của kinh tế Mỹ vào nguồn cung cấp dầu mỏ từ các quốc gia thuộc khối GCC sẽ ngày càng tăng lên vì chính quyền Mỹ đã cấm nhập khẩu dầu từ những ông lớn khác trong ngành công nghiệp dầu mỏ như Iran, Iraq, Libya… Trong khi đó, sự đa dạng trong nguồn cung cấp dầu mới là điều mà nền kinh tế Mỹ cần. Càng nhiều nhà cung cấp, càng nhiều dầu mỏ được xuất đi đồng nghĩa với việc Mỹ có thể lựa chọn được nhà cung cấp lớn với giá cả hợp lý nhất. Nền kinh tế Mỹ cũng như an ninh năng lượng của Mỹ sẽ không quá phụ thuộc vào những diễn biến tại khu vực vùng Vịnh cũng như sự lên xuống của giá dầu. Thực tế đã chứng minh, việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung dầu từ các nước GCC khiến “sức đề kháng” của nền kinh tế Mỹ trở nên yếu hơn trước những biến động của thị trường dầu mỏ.
Cũng vẫn liên quan đến yếu tố dầu mỏ, các lệnh trừng phạt Iran đã hạ uy tín của ngành dầu mỏ Mỹ trong giới đầu tư quốc tế. Cùng với sự thoái lui hoàn toàn của các công ty Mỹ ra khỏi Iran, hình ảnh về nền công nghiệp dầu mỏ của nước này ở nhiều quốc gia Trung Đông tỏ ra lung lay và không đáng tin cậy. Chẳng hạn như lệnh cấm nhập khẩu từ Iran vào năm 1995 của Tổng thống Bill Clinton đã giáng một đòn mạnh vào thị trường dầu mỏ thế giới. Điều này dẫn đến việc các quốc gia Trung Đông có thể lựa chọn các nhà đầu tư không phải Mỹ như châu Âu hay Nhật Bản nhằm đảm bảo rằng hoạt động đầu tư cho hoạt động sản xuất dầu mỏ sẽ không bị đình trệ vì những lý do chính trị.
143
Hệ lụy đáng kể tiếp theo đối với Mỹ đó là việc bao vây, cấm vận nền kinh tế Iran đã vô tình đẩy các quốc gia Trung Á phụ thuộc nhiều hơn vào Nga. Trước năm 1979,
khi Iran vẫn là một đồng minh của Mỹ, Iran là một cánh cửa quan trọng kết nối nền kinh tế của các quốc gia Trung Á với Trung Đông. Nhưng với các lệnh cấm vận của Mỹ, các quốc gia Trung Á sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc mở rộng trao đổi thương mại với Trung Đông, đặc biệt là thiếu nguồn cung cấp dầu mỏ và khí đốt. Và đương nhiên, Nga với thị trường rộng mở cùng với khả năng cung cấp dầu mỏ khí đốt lớn sẽ trở thành ưu tiên hàng đầu cho các quốc gia Trung Á. Ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực này đứng trước nguy cơ bị suy giảm cả về mặt kinh tế lẫn chính trị.
Nhìn chung, các lệnh cấm vận của Mỹ đối với Iran không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho nền kinh tế của Iran mà còn tác động ngược trở lại đến kinh tế Mỹ. Về lâu dài, việc Mỹ liên tiếp đặt các lệnh cấm vận cùng với việc các tập đoàn của nước này thoái lui nhanh chóng khỏi thị trường các quốc gia bị cấm vận sẽ làm xói mòn lòng tin của giới đầu tư nước ngoài. Sự chi phối mạnh mẽ của chính trị đến các hoạt động kinh tế khiến cho Mỹ có thể đánh mất hình ảnh là một đối tác tin cậy hàng đầu không chỉ ở Iran, Trung Đông mà còn trên phạm vi toàn cầu.
4.2.2.3. Về an ninh - quân sự Để đối phó với những biến động ở Trung Đông trong đó có những thách thức đến từ Iran, Mỹ đã tăng cường sự hiện diện quân sự ở Trung Đông. Tính đến nay, người Mỹ đã có hàng trăm căn cứ quân sự tại khu vực Trung Đông, đặc biệt là ở vùng Vịnh. Các căn cứ quân sự như một biểu tượng khẳng định tầm ảnh hưởng vượt trội của Mỹ tại Trung Đông. Sự có mặt của các căn cứ quân sự cũng giúp Mỹ hỗ trợ kịp thời cho các đồng minh khi xảy ra xung đột, chiến tranh nhằm bảo vệ hiện trạng có lợi nhất đối với Mỹ. Cho đến nay, các căn cứ quân sự của Mỹ vẫn tiếp tục phát huy những hiệu quả nhất định trong việc đảm bảo an ninh khu vực cũng như chống khủng bố. Sự tồn tại của những đồn bốt Mỹ ở Trung Đông tiếp tục khẳng định vị thế cũng như vai trò quan trọng của Washington đối với khu vực này.
144
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, chính sách ngăn chặn Iran, bao gồm việc duy trì các căn cứ quân sự ở khu vực Trung Đông đã và đang tăng thêm gánh nặng cho ngân sách của Mỹ. Việc chính quyền Mỹ bị hút vào những diễn biến phức tạp liên quan đến Iran nói riêng và ở Trung Đông nói chung đã thúc đẩy chính quyền nước này phải tăng thêm ngân sách quốc phòng nhằm duy trì sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Trung Đông. Trung bình, tiền thuế của người dân Mỹ phải dành ra khoản tiền 10.000 – 40.000 USD để chi trả cho các hoạt động quân sự của Mỹ ở nước ngoài, trong đó, phần lớn là vận hành các căn cứ quân sự. Tổng mức chi cho các các căn cứ ở nước ngoài, bao gồm khu vực Trung Đông dao động từ 71,8 tỷ USD đến 120 tỷ USD [269; tr.9]. Thậm chí, có những thời điểm, số tiền mà Mỹ bỏ ra để duy trì hoạt động của các căn cứ quân sự còn vượt qua mức bình quân đó. Chẳng hạn, trong năm 2012, việc duy trì hoạt động của các căn cứ quân sự cũng như thực hiện các chiến dịch quân sự ở Afghanistan và Iraq đã tiêu tốn 170 tỷ USD [269; tr.9]. Hay từ khi bắt đầu triển khai lực lượng hải quân ở Bahrain, Mỹ đã phải tiêu tốn tới 2 tỷ USD, trong đó riêng giai đoạn từ năm 2010 – 2017 là 580 triệu USD [155; tr.17]. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ
cũng tăng cường trợ giúp kinh tế cho các đồng minh ở Trung Đông càng làm tăng sức ép tài chính cho ngân sách quốc gia và sự bất mãn của người dân bởi chi phí cao cho những hoạt động bên ngoài cũng đồng nghĩa với việc ngân sách dành cho an sinh xã hội và phát triển kinh tế trong nước bị thu hẹp. Theo số liệu chính thức của Quốc hội Mỹ, tổng số tiền Mỹ trợ giúp cho khu vực Trung Đông trong 30 năm (1971 - 2001) lên tới hơn 144 tỷ USD trong đó hơn một nửa dành cho quân sự với hơn 82,5 tỷ USD [220; tr.25].
Vấn đề tài chính của các căn cứ quân sự còn dẫn đến những tranh cãi về việc tại sao Mỹ lại cần nhiều căn cứ quân sự ở nước ngoài như vậy? David Vine – một chuyên gia về căn cứ quân sự thuộc Trường Đại học American University đã nhận định trong cuốn sách “Base nation: How US military bases abroad harm America and the world” rằng các căn cứ quân sự tại nước ngoài đang làm suy yếu an ninh quốc gia Mỹ cũng như “quyền lực mềm” (soft power) của Washington ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia. Giáo sư David Vine cũng cho rằng các căn cứ nước ngoài cũng có xu hướng làm gia tăng căng thẳng quân sự và ngăn cản các giải pháp ngoại giao cho các cuộc xung đột. Đối với Trung Quốc, Nga, Iran, các căn cứ của Mỹ đặt gần biên giới các quốc gia này là một mối đe dọa và nó thúc đẩy việc gia tăng chi tiêu quân sự. “Các căn cứ của Mỹ ở nước ngoài cũng khiến chiến tranh dễ bùng nổ hơn và khiến nước Mỹ bớt an toàn hơn” [269; tr.12]. David Vine cũng lưu ý rằng, việc duy trì các căn cứ ở các quốc gia như Bahrain và Qatar trên thực tế còn làm xói mòn quyền lực mềm của Mỹ ở nước ngoài và là một trong những nguyên nhân dẫn tới hủy hoại môi trường, tình trạng tái định cư, nạn mại dâm, tai nạn và tội phạm.
Thêm vào đó, chủ trương tăng cường bán vũ khí cho các quốc gia Trung Đông của chính quyền Mỹ cũng tạo ra những hệ lụy nhất định đối với an ninh của nước Mỹ. Không thể phủ nhận, nước Mỹ đã thu được hàng tỷ USD lợi nhuận từ việc bán vũ khí cho các quốc gia Trung Đông. Chỉ tính riêng trong năm 2016, 35/57 các hợp đồng bán vũ khí của Mỹ là để cung cấp cho các đối tác Trung Đông. Trị giá của các hợp đồng đó lên đến 49 tỷ USD. Năm 2017, con số này tăng mạnh lên 52 tỷ USD [236; tr.3]. Tuy nhiên, theo nhiều cách khác nhau, một lượng không nhỏ trong số các vũ khí này lại được sử dụng để chống lại chính nước Mỹ và các đồng minh của nó. Iran chính là một ví dụ điển hình như thế. Toàn bộ vũ khí nhập từ Mỹ từ thời Vua Reza Pahlavi được Vệ binh quốc gia của Iran kế thừa. Trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq, đặc biệt là trong “tanker war”, quân đội Iran đã sử dụng số vũ khí này để chống lại Iraq cũng như các thế lực đứng sau nó, trong đó có Mỹ.
145
Ngoài ra, chính sách can thiệp sâu vào Iran hay các quốc gia khác ở Trung Đông của các Tổng thống Mỹ còn đưa đến một hệ lụy nghiêm trọng khác mà cho đến ngày nay nước Mỹ vẫn phải đối mặt. Đó là chủ nghĩa khủng bố. Nước Mỹ và công dân Mỹ được coi là mục tiêu tấn công hàng đầu của nhiều tổ chức, cá nhân khủng bố, đặc biệt là các nhóm khủng bố có nguồn gốc Trung Đông. Nghiêm trọng nhất là ngày 11/9/2001, những phần tử khủng bố thuộc tổ chức Al - Qaeda đã cướp bốn chiếc máy
bay thương mại và tấn công vào các mục tiêu Mỹ. Tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại ở New York - biểu tượng của nền kinh tế Mỹ đã sụp đổ hoàn toàn sau khi bị hai chiếc máy bay khủng bố tấn công, gần 3000 người đã bỏ mạng, niềm tự hào của dân Mỹ biến thành tro bụi trong tích tắc. Lầu Năm Góc cũng chịu sự tấn công và bị tổn hại. Cuộc tấn công bất ngờ này đã tạo ra một vết thương khó lành trong lòng nước Mỹ. Sau sự kiện khủng bố ngày 11/9, Chính phủ Mỹ đã phát động cuộc chiến chống khủng bố trên qui mô toàn cầu với sự tham gia của nhiều quốc gia đồng minh. Tuy nhiên, cho đến nay chủ nghĩa khủng bố và những hệ lụy của nó chưa có dấu hiệu suy giảm. Rất nhiều tổ chức khủng bố mới được lập ra nhằm chống lại Mỹ và Phương Tây. Nhiều chuyên gia cho rằng chính sách của Mỹ ở Trung Đông nếu không có sự điều chỉnh thì chủ nghĩa khủng bố ở khu vực này có thể tiếp tục diễn biến phức tạp hơn. Sự can thiệp sâu vào nền chính trị Trung Đông, đặc biệt là các cuộc đảo chính và chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Trung Đông đã góp phần thổi bùng lên ngọn lửa bài Mỹ, chống Mỹ cực đoan trong một bộ phận dân cư ở Trung Đông. Nước Mỹ cần phải định vị lại vị thế và vai trò của mình ở khu vực Trung Đông cũng như thay đổi cách tiếp cận với các vấn đề Trung Đông, trong đó có Iran.
4.2.3. Tác động đối với khu vực Trung Đông và thế giới 4.2.3.1. Đối với khu vực Trung Đông Chính sách của Mỹ với Iran sau năm 1979, đặc biệt là chính sách cấm vận đã tác động mạnh đến tình hình sản xuất dầu mỏ nói chung và sự phát triển chung của kinh tế khu vực Trung Đông. Dưới tác động của các đạo luật cấm nhập khẩu dầu mỏ của Mỹ, Iran buộc phải tìm cách bán dầu và khí đốt với giá thấp hơn cho các đối tác khác như Nhật Bản, Trung Quốc, các quốc gia châu Âu… Điều này đã tạo ra một cuộc cạnh tranh giá cả đối với các nước khai thác dầu ở Trung Đông, gây nguy cơ tiềm ẩn làm cho giá dầu trở nên bất ổn khó lường. Không những thế, để bù đắp những thiệt hại do việc giảm giá dầu, Iran tìm mọi cách tăng sản lượng dầu khai thác. Áp lực tăng sản lượng lan sang nhiều quốc gia khác trong khu vực, Saudi Arabia trong nhiều thập niên gần đây cũng liên tục tăng sản lượng khai thác. Xu hướng này đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành kinh tế quan trọng nhất ở Trung Đông. Thực tế đã chứng minh, với mỗi biến động ở Iran, mỗi lần đạo luật cấm vận mới của Mỹ được thông qua lại tác động mạnh đến thị trường dầu mỏ Trung Đông nói riêng và toàn thế giới nói chung. Cuộc cách mạng Islam năm 1979 và một loạt các lệnh cấm vận Iran sau đó đã đẩy giá dầu lên cao ngất ngưởng, tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ đối với kinh tế Mỹ sau đó lan sang các quốc gia châu Âu trong suốt mười năm sau đó. Suy thoái kinh tế ở Mỹ và phương Tây trong suốt thập niên 80 đã làm cho nhu cầu dầu mỏ giảm mạnh. Giá dầu mỏ vì thế xuống dốc nhanh. Điều đó đã tác động trực tiếp đến nhiều quốc gia Trung Đông – nơi công nghiệp dầu mỏ được coi là xương sống của nền kinh tế.
146
Chính sách của Mỹ đối với Iran cũng tác động mạnh mẽ tới tình hình chính trị ở khu vực Trung Đông. Việc Mỹ đứng sau hậu thuẫn cho Saudi Arabia và Israel chống lại
Iran đã khoét sâu thêm những mâu thuẫn chính trị nội bộ ở khu vực này. Chẳng hạn với trường hợp của Saudi Arabia, mối quan hệ với Iran trước năm 1979 có những thời điểm đi xuống nhưng chưa đến mức căng thẳng. Tuy nhiên, sau khi chính quyền mới được thiết lập ở Tehran, lo sợ về một làn sóng cách mạng của người Shi’ite có thể trỗi dậy, đe dọa đến địa vị thống trị của người Sunni, những người đứng đầu Saudi Arabia thực hiện một đường lối cứng rắn với Iran, hỗ trợ cho lực lượng Sunni chống lại các nhóm Shi’ite do Iran hậu thuẫn. Tình hình mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo ở Trung Đông vốn đã phức tạp, nay càng rối ren hơn. Saudi Arabia chính là quốc gia đã hậu thuẫn cho Iraq trong cuộc chiến tranh Iran – Iraq (1980 - 1988). Rất nhiều vũ khí của Mỹ được chuyển đến Iraq thông qua Saudi Arabia. Trong nhiều cuộc đụng độ trực tiếp với Iran, chẳng hạn gần đây nhất là cuộc nội chiến ở Yemen, Saudi Arabia đã dẫn đầu liên quân các nước Arab tiến hành cuộc không kích nhằm tiêu diệt lực lượng nổi dậy Houthi (được Iran hậu thuẫn). Dĩ nhiên, các cuộc không kích của Saudi Arabia nhận được sự đồng thuận từ Nhà Trắng. Mỹ đã không có bất cứ phản ứng nào mặc cho nhiều cuộc không kích của Saudi Arabia đã nhắm vào các mục tiêu dân thường, trường học, công sở… tạo ra một thảm họa nhân đạo chưa từng có ở Yemen.
Một hệ quả gián tiếp khác từ các chính sách của Mỹ đối với Iran là sự đình trệ, chậm chạp của tiến trình hòa bình Trung Đông. Cuộc chiến không có hồi kết giữa những người Israel và phần còn lại của Trung Đông – các quốc gia Arab không phải là điều mà Mỹ mong muốn. Bảo vệ cho sự tồn tại của Israel là một trong những mục tiêu chiến lược của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Do đó, Mỹ và các đồng minh châu Âu đã ủng hộ cho quá trình hòa giải giữa Israel và các quốc gia Arab khác, trọng tâm là Palestine. Tuy nhiên, những chính sách cứng rắn mà Mỹ nhằm vào Iran sau năm 1979 vô tình đã tạo ra rào cản đáng kể cho tiến trình hòa bình này. Sự bao vây, cô lập của Mỹ và đồng minh buộc Iran phải tìm cách củng cố và ảnh hưởng ở Trung Đông, đặc biệt là trong cộng đồng người Shi’ite. Để làm được điều này Iran đã ủng hộ cho nhiều nhóm quân sự người Shi’ite trong đó là các nhóm có xu hướng chống Israel mạnh mẽ như: Hezbollah (Lebanon), Hamas (Palestine). Với sự hậu thuẫn của Tehran cả về nhân lực, vật lực và tài chính đã giúp cho các tổ chức vũ trang Shi’ite trên phát triển không ngừng và cũng tấn công không ngừng vào Israel. Trong khi đó, Israel, với sự hỗ trợ của Mỹ cũng không ngừng mở rộng và lấn chiếm trái phép đất đai của những người Palestine bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có vũ lực. Sẽ không có bất cứ thỏa thuận hay hiệp ước hòa bình nào được ký kết khi bom đạn, tên lửa vẫn liên tục được bắn ra từ cả hai phía. Do vậy, với vấn đề tiến trình hòa bình ở Trung Đông, ngoài vấn đề giữa hai bên liên quan trực tiếp là Palestine – Israel, cần phải giải quyết những vấn đề có liên quan gián tiếp trong đó có mối quan hệ Mỹ - Iran cũng như chính sách của hai quốc gia này đối với khu vực Trung Đông.
147
Đối với an ninh và hòa bình trong khu vực, những chính sách cứng rắn của Washington với Tehran cũng đang gián tiếp tăng thêm những rủi ro và thách thức.
Chính sách thù địch của Mỹ với Iran trong suốt thập niên 80 cùng với sự can thiệp sâu của nước này vào tình hình chính trị ở Trung Đông đã góp phần làm nảy sinh ra chủ nghĩa khủng bố. Khủng bố không những là nguy cơ đe dọa tới hòa bình và an ninh của Phương Tây mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người Trung Đông. Nhiều tổ chức khủng bố lớn, thu hút được nhiều tín đồ cực đoan, phá hoại an ninh và hòa bình khu vực như Al - Qaeda, tổ chức Nhà nước Islam tự xưng IS ra đời. Chúng đã tàn sát nhiều người dân vô tội, phá hoại sự phát triển kinh tế cũng như những di sản văn hóa quí giá trong khu vực. Hình ảnh những xác chết nằm trên phố có thể là những hình ảnh lạ lẫm ở Paris, New York hay London, nhưng nó lại đang diễn ra hàng ngày hàng giờ tại Beirut, Baghdad, Aleppo… và nhiều nơi khác thuộc Trung Đông. Khủng bố và bom đạn luôn lơ lửng trên đầu những thường dân vô tội ở khu vực này. Chính tình trạng bất ổn do khủng bố, chiến tranh gây ra đã làm cho nhiều người dân Trung Đông phải rời bỏ nhà cửa, quê hương của họ. Điển hình là trong những năm 2014 - 1015, chưa bao giờ làn sóng tị nạn từ Trung Đông sang châu Âu nhằm thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi khủng bố lại rầm rộ đến thế. Rõ ràng, vấn đề khủng bố ở Trung Đông đã ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Cuộc chiến chống lại khủng bố vẫn chưa có hồi kết, nó cần sự đoàn kết và nỗ lực của cộng đồng quốc tế, và quan trọng hơn cả là chính quyền Mỹ cần có những thay đổi về mặt chiến lược trong chính sách ngoại giao nhằm cải thiện hình ảnh của Mỹ trong khu vực.
Ngoài ra, việc chính quyền Mỹ duy trì chính sách ủng hộ một quốc gia thứ ba chống lại Iran cũng tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến một cuộc chiến tranh quy mô khu vực. Trong cuộc chiến tranh Iran – Iraq (1980 - 1988), Mỹ hậu thuẫn cho Iraq. Mỹ chủ trương khoét sâu mâu thuẫn giữa hai nước này, góp phần tạo ra cuộc chiến tranh kéo dài suốt 8 năm và gây nhiều thiệt hại cho nhân dân Iran, Iraq cũng như hòa bình khu vực Trung Đông. Iraq dùng chính những vũ khí được Mỹ, các nước phương Tây và Saudi Arabia cung cấp để bắn hạ các tàu chở dầu quốc tế đi qua khu vực vùng Vịnh, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế và an ninh cho khu vực trong suốt thời gian diễn ra “tanker war”… Cuộc chiến giữa Iran – Iraq chỉ là một ví dụ trong số nhiều cuộc xung đột có sự can thiệp của Mỹ. Vì muốn ngăn chặn, kiềm chế Iran, Mỹ đã sử dụng các quốc gia thứ ba ở Trung Đông như một công cụ đắc lực. Điều này góp phần làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn trong một khu vực vốn đã có nhiều bất ổn liên quan đến sắc tộc, tôn giáo, chủ quyền như Trung Đông. Hệ quả là khu vực này luôn nằm trong tình trạng căng thẳng, tiềm ẩn xung đột. Các cuộc chiến tranh ủy nhiệm cũng vì thế bùng phát nhiều nhất ở Trung Đông. Cuộc chiến tranh ở Syria (2011 - nay), cuộc chiến ở Yemen (2015 - nay) là một trong những minh chứng như thế.
148
4.2.3.2 Đối với quốc tế và Việt Nam Những tác động của các chính sách đối ngoại của Mỹ với Iran không chỉ gói gọn ở trong biên giới Iran hay ảnh hưởng tới khu vực Trung Đông mà còn lan sang các quốc gia và khu vực khác trên thế giới.
Các quốc gia châu Âu – đồng minh lâu năm của Mỹ cũng chịu ảnh hưởng gián tiếp từ cuộc đối đầu Mỹ - Iran. Châu Âu ở thế kẹt giữa Washington và Tehran. Mỹ là đối tác kinh tế lớn và là đồng minh quan trọng bậc nhất đối với châu Âu. Việc duy trì quan hệ đồng minh với Mỹ luôn được coi là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của châu Âu. Tuy nhiên, châu Âu cũng có những lợi ích sống còn trong mối quan hệ với Iran. Rõ ràng, trong cả hai mối quan hệ với Mỹ và Iran, EU đều có những lợi ích quan trọng và không thể bỏ rơi bất cứ bên nào. Nhưng vấn đề ở đây là Mỹ luôn thúc ép châu Âu đồng thuận với những chính sách cứng rắn với Tehran, đặc biệt là các lệnh trừng phạt kinh tế. Điều này đã gián tiếp gây ra những tổn hại kinh tế cho các quốc gia châu Âu. Nếu nguồn cung dầu từ Iran bị gián đoạn trong khi mối quan hệ giữa châu Âu và một nguồn cung dầu lớn khác – Nga, cũng luôn trong tình trạng không ổn định, châu Âu có khả năng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng an ninh năng lượng tồi tệ. Năm 1979, ngay sau cuộc cách mạng Islam ở Iran bùng nổ và thành công, giá dầu mỏ thế giới đã tăng mạnh tạo ra cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế kéo dài hơn 10 năm ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan ra châu Âu và tạo ra một bức tranh kinh tế ảm đạm cho các quốc gia châu Âu trong suốt thập niên 80. Rõ ràng, Iran có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của châu Âu. Trong khi đó, sức ép từ Washington luôn khiến châu Âu phải gồng lên lựa chọn. Giải pháp duy nhất cho châu Âu là làm trung gian hòa giải trong cuộc đối đầu Mỹ - Iran. Đức từng đóng vai trò trung gian tích cực nhất trong suốt cuộc khủng hoảng con tin năm 1979. Những nỗ lực của Đức và nhóm thương thuyết người Mỹ cùng cộng đồng quốc tế đã dẫn đến việc Iran chấp thuận trao trả tự do cho các công dân Mỹ. Gần đây nhất, châu Âu cũng giữ vai trò bắc cầu cho cuộc đối thoại lịch sử giữa Mỹ và Iran liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran. Kết quả là bản thỏa thuận hạt nhân giữa Iran và nhóm P5+1 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh, Đức) đã ra đời. Tuy số phận của Thỏa thuận hạt nhân này còn là dấu chấm hỏi sau khi Trump tuyên bố rút khỏi Thỏa thuận nhưng không thể phủ nhận đây là một trong những thành công của ngoại giao châu Âu trong việc cân bằng mối quan hệ giữa một bên là Mỹ và bên kia là Iran. Rõ ràng, chính sách của Mỹ với Iran có những tác động trực tiếp tới châu Âu cả về kinh tế, chính trị, an ninh thậm chí cả sự lựa chọn chính sách của những người đứng đầu các quốc gia châu Âu và EU. Châu Âu buộc phải tìm cách thích nghi mỗi khi mối quan hệ giữa Mỹ và Iran biến động nhằm bảo vệ những lợi ích cốt lõi của mình.
149
Đối với các quốc gia, khu vực khác trên thế giới, những diễn biến trong mối quan hệ Mỹ - Iran cũng có những tác động đáng kể. Ảnh hưởng lớn nhất và có thể dễ dàng nhận biết nhất là trong kinh tế, đặc biệt là giá dầu thế giới. Mỗi lần quan hệ Mỹ - Iran dậy sóng, thị trường dầu mỏ thế giới lại trải qua những cơn biến động mạnh. Sự lên xuống của giá dầu sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu cũng như đến từng quốc gia khu vực, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, thị trường chứng khoán và giá vàng cũng chịu tác động đáng kể từ những diễn biến liên quan đến mối quan hệ Mỹ - Iran. Điều này khẳng
định những thay đổi trong chính sách của Mỹ với Iran đã tác động trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu, không một quốc gia nào có thể nằm ngoài những biến động này trong bối cảnh toàn cầu hóa đang chi phối mạnh mẽ đến nền kinh tế của mọi quốc gia và khu vực trên thế giới.
Ngoài khía cạnh kinh tế, chính sách của Nhà Trắng với Iran cũng đang tạo ra những thách thức đáng kể đối với an ninh và hòa bình của toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Iran nhiều lần đã đẩy Mỹ - Iran đến sát bờ vực của chiến tranh. Nhiều nhà phân tích cho rằng, trong trường hợp mối quan hệ của Mỹ và Iran xuống đáy, khả năng nổ ra một cuộc chiến tranh quy mô khu vực, thậm chí là chiến tranh thế giới thứ ba có thể xảy ra (dù rất nhỏ). Khi đó, nhân loại sẽ đứng trước một thảm kịch lớn bởi chiến tranh sẽ có tính hủy diệt cao hơn nhiều với sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học… Ngay cả với những quốc gia trung lập như Việt Nam cũng không thể đứng ngoài khi một cuộc chiến tranh hạt nhân nổ ra.
Đối với Việt Nam, chính sách giữa Mỹ đối với Iran và những biến động trong mối quan hệ giữa hai nước này cũng có tác động nhất định, chủ yếu là các tác động gián tiếp.
Thứ nhất, chính sách của Mỹ với Iran và mối quan hệ giữa căng thẳng giữa hai quốc gia này trong bốn thập kỷ vừa qua tạo ra những áp lực nhất định đối với Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại giao.
150
Đối với Việt Nam, cả Mỹ và Iran đều là những đối tác quan trọng. Sau năm 1995, khi Mỹ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ, hợp tác giữa hai nước ngày càng được đẩy mạnh và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Kinh tế có thể coi là một trong những điểm sáng nhất trong quan hệ hai nước. Nếu năm 1995 (năm Việt Nam- Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ), kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước mới dừng ở mức 450 triệu USD, thì đến năm 2018 thương mại Việt- Mỹ đã được nâng lên hơn 60 tỷ USD, gấp 133 lần so với 23 năm trước. Tính chung về quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu, Hoa Kỳ đứng vị trí thứ 3 trong hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ ngoại thương với Việt Nam (sau Trung Quốc và Hàn Quốc) [304]. Trong khi đó Iran cũng có mối quan hệ rất tốt với Việt Nam. Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Iran được củng cố và phát triển, thể hiện qua nhiều chuyến thăm cấp cao: Chủ tịch nước Lê Đức Anh (tháng 5/1994) và Chủ tịch Trần Đức Lương (tháng 10/2002), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (tháng 7/1999) tới Iran; Tổng thống Iran A. H. Rafsanjani tới thăm Việt Nam tháng 10/1995... Trong lĩnh vực kinh tế và thương mại, Việt Nam và Iran đã thành lập Ủy ban liên chính phủ về kinh tế thương mại năm 1994. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng từ 30 triệu USD năm 2003 lên 80 triệu USD năm 2007 [281]. Hiện nay, con số này đã tăng lên khoảng 100 triệu USD mỗi năm. Trong chuyến công du sang Iran (2016), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Iran Hassan Rouhani đã trao đổi và cam kết sẽ thúc đẩy kim ngạch thương mại lên 2 tỷ USD trong 5 năm tiếp theo [282].
Rõ ràng cả Mỹ và Iran đều là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ - Iran thường xuyên biến đổi phức tạp, Việt Nam cần lựa chọn cách hành xử thích hợp đối với cả Mỹ và Iran để tránh thế bị mắc kẹt ở giữa đồng thời tranh thủ những cơ hội phát triển trong quá trình cạnh tranh và hợp tác giữa các nước lớn. Độc lập tự chủ về ngoại giao, không nghiêng về bất cứ bên nào trong các đối đầu, tranh chấp quốc tế tiếp tục sẽ là tôn chỉ trong đối ngoại của Việt Nam thời kỳ hội nhập. Có như vậy, Việt Nam mới có thể tận dụng được lợi ích từ các mối quan hệ với các nước lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, chính sách của Mỹ đối với Iran cũng tạo ra tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cũng đang tham gia mạnh mẽ vào hệ thống kinh tế - chính trị quốc tế. Mỗi một biến động trên thế giới đều có khả năng tác động đến Việt Nam ở những mức độ khác nhau.
Chẳng hạn, chính sách của Mỹ với Iran tác động trực tiếp đến thị trường dầu mỏ quốc tế, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu dầu thô. Trong những năm 1990, giá trị từ hoạt động xuất khẩu dầu thô đóng góp 15 – 20% GPD của cả nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng lại là quốc gia phụ thuộc khá nhiều vào việc nhập khẩu các chế phẩm từ dầu mỏ (xăng, dầu cùng các sản phẩm khác chiết xuất từ dầu mỏ…) trong bối cảnh công nghiệp chế xuất dầu ở Việt Nam chưa thật sự phát triển. Do đó, khi chính sách của Mỹ với Iran có những thay đổi, tác động trực tiếp đến thị trường dầu mỏ thế giới, Việt Nam cũng sẽ chịu những ảnh hưởng nhất định. Chẳng hạn trong năm 2018, thị trường dầu mỏ thế giới đã có những phản ứng tức thì trước sự thay đổi chính sách của chính quyền Mỹ đối với Iran, đặc biệt là lệnh cấm vận dầu mỏ Iran. Giá dầu không ổn định và biến động theo mỗi một quyết định của Tổng thống Donald Trump. Sự lên xuống của giá dầu trong năm 2018 đã tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam. Chính phủ đã nhiều lần điều chỉnh giá xăng dầu, trong đó 6 lần tăng giá xăng, 3 lần giảm. Về số dư Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Bộ Tài chính Việt Nam cho biết, đến cuối quý III, số dư quỹ này còn 3.039 tỷ đồng. So với cuối năm 2017, số dư quỹ giảm 2.066 tỷ, tương đương giảm khoảng 40% [300]. Rõ ràng, nền kinh tế Việt Nam, cụ thể là ngành dầu mỏ bị tác động một cách gián tiếp từ những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Iran. Việt Nam cần thay đổi chiến lược lâu dài phát triển ngành dầu khí, trong đó chú trọng khâu chế biến thành phẩm tại chỗ, giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu các chế phẩm dầu từ nước ngoài. Có như vậy, mỗi khi giá dầu dậy sóng, chúng ta mới có thể nắm bắt được cơ hội phát triển.
151
Bên cạnh đó, chính sách của Mỹ với Iran và những diễn biến căng thẳng giữa hai nước còn tác động đến một số ngành kinh tế quan trọng khác của Việt Nam, trong đó có hàng không. Hoạt động vận tải bằng đường hàng không từ Việt Nam sang các nước châu Âu, được thực hiện qua không phận Trung Đông. Do đó, những diễn biến ở khu vực này ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động vận chuyển hàng không của Việt Nam, trong đó có tuyến bay Việt Nam đi tới các quốc gia châu Âu và ngược lại. Thực tế, các
hãng hàng không Việt Nam đã nhiều lần thay đổi lịch trình bay đi qua khu vực Trung Đông vì những diễn biến phức tạp ở khu vực này. Gần đây nhất, ngày 8/1/2020, hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) phải điều chỉnh lịch trình di chuyển từ Việt Nam đến châu Âu sau những căng thẳng gần đây giữa Mỹ và Iran, đặc biệt là sự kiện Iran tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ ở Iraq [279]31. Thay vì lịch trình quen thuộc đi qua khu vực Trung Đông, các hãng hàng không của Việt Nam phải di chuyển vòng qua không phận vùng Trung Á. Sự điều chỉnh này đã dẫn đến sự gia tăng chi phí cho các chuyến bay bởi các lộ trình thay thế xa hơn rất nhiều so với lộ trình đi qua Trung Đông. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu suất ngành hàng không Việt Nam…
Ngoài ra, các lệnh cấm vận của Mỹ đối với Iran và các quốc gia có giao dịch, hợp tác kinh tế với Iran cũng là một vấn đề đáng lưu tâm đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Trên thực tế, đã có hiện tượng doanh nghiệp Việt Nam chịu sự trừng phạt của Mỹ khi hợp tác với phía Iran. Chẳng hạn, ngày 16/12/2020, căn cứ theo sắc lệnh số 13846 (8/5/2018), Mỹ thông báo áp dụng các lệnh trừng phạt đối với Công ty cổ phần Vận tải khí và hóa chất Việt Nam với lý do vận chuyển các sản phẩm xăng dầu từ Iran trước và sau ngày 5/11/2018 [302]. Lệnh trừng phạt cũng được áp dụng đối với giám đốc điều hành của công ty này. Mặc dù phía Việt Nam đã khẳng định Việt Nam có quan hệ hợp tác hợp pháp với Iran. Các giao dịch được thực hiện với mục đích dân sự, phục vụ dân sinh. Tuy nhiên, Mỹ vẫn áp đặt lệnh trừng phạt với công ty của Việt Nam. Việc một công ty Việt Nam chịu lệnh trừng phạt của Mỹ trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ - Iran đang trong giai đoạn tái căng thẳng một lần nữa khẳng định Việt Nam cần xác định rõ vị thế của mình trong quan hệ với cả hai quốc gia này. Trong hợp tác kinh tế với Iran, Việt Nam cần chủ động lựa chọn những lĩnh vực không chịu các lệnh cấm vận từ Liên hợp quốc và Mỹ nhằm đảm bảo sự hài hòa trong quan hệ giữa các bên.
Rõ ràng, những chính sách của Mỹ với Iran và mối quan hệ giữa hai quốc gia này cũng có ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam cả ở khía cạnh chính trị - kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta sẽ không thể đứng ngoài các biến động của thế giới, dù là nhỏ nhất. Do đó, việc theo dõi, đánh giá đúng mức những diễn biến xoay quanh chính sách của các nước lớn như Mỹ hay Iran là điều cần thiết để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.
31 Cụ thể, các đường bay khai thác thường lệ đi châu Âu (gồm Hà Nội/Tp. Hồ Chí Minh - Paris/Frankfurt/London) qua không phận Trung Đông được chuyển hướng đi theo các lộ trình khác. Các đường bay từ châu Âu về Việt Nam qua Uzebakistan và Kazakhstan thay vì đi qua không phận các nước Trung Đông như thường lệ. Các chuyến bay đi từ Việt Nam sang châu Âu cũng được thay đổi theo tuyến Trung Quốc - Mông Cổ - Nga.
152
4.3. Một số vấn đề đặt ra đối với chính sách của Mỹ với Iran sau năm 2016 Nhiều nhà phân tích và chính trị cho rằng Thỏa thuận hạt nhân JCPOA được coi là thành tựu lớn nhất trong chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn từ năm
1979 đến năm 2016. Tuy nhiên, có thể nói, Thỏa thuận hạt nhân chưa thể giải quyết được hoàn toàn những mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa Mỹ và Iran. Một số vấn đề nảy sinh thời hậu JCPOA và tạo ra những thách thức mới cho nước Mỹ trong nỗ lực ngăn chặn, kiềm chế những tính toán của Iran ở khu vực Trung Đông.
Trước hết, Thỏa thuận hạt nhân JCPOA chỉ mới giải quyết được một vấn đề liên quan đến Iran, đó là chương trình hạt nhân của nước này. Trên thực tế, các điều khoản trong JCPOA không thể chạm đến các vấn đề gai góc khác còn tồn tại giữa Mỹ và Iran, bao gồm: kế hoạch phát triển các loại tên lửa thế hệ mới của Iran, kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của Iran thông qua các tổ chức vũ trang của người Shi’ite cũng như sự can dự của Iran trong các cuộc xung đột ở khu vực. Điều này đã dẫn đến những quan điểm khác nhau về tương lai của JCPOA trong chính nước Mỹ. Trong suốt chiến dịch tranh cử, ứng cử viên Donald Trump và các cộng sự của ông đã nhiều lần chỉ trích JCPOA [168; tr.22]. Sau khi trở thành Tổng thống, Trump không giấu tham vọng sẽ xóa bỏ Thỏa thuận hạt nhân với Iran - điều mà ông cho là một thất bại của nước Mỹ. Bắt đầu từ năm 2018, các quan chức dưới chính quyền Trump bắt đầu tỏ rõ thái độ chống đối JCPOA và yêu cầu phải xem xét lại Thỏa thuận này. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson đã nhấn mạnh rằng: “JCPOA đã thất bại trong nỗ lực phi hạt nhân hoàn toàn ở Iran. Thỏa thuận này chỉ tạm dừng mục tiêu trở thành một cường quốc hạt nhân của Iran” [168; tr.22]. Ngoài vấn đề phi hạt nhân hoàn toàn Iran, vấn đề lớn thứ hai là sự can thiệp của Iran trong các cuộc xung đột ở Trung Đông chưa được xử lý thỏa đáng, có khả năng “gây nguy hại” cho lợi ích của nước Mỹ cũng như các đồng minh. Trong tuyên bố ngày 21/5/2018, Ngoại trưởng Mỹ Pompeo đã khẳng định rõ ý định Mỹ muốn ký kết một Thỏa thuận hạt nhân khác. Theo đó, thỏa thuận mới không chỉ bao gồm các điều khoản về chương trình hạt nhân mà còn hướng tới việc ngăn chặn, kiềm chế các hành vi của Iran trong khu vực như: “Iran phải chấm dứt sự ủng hộ cho các nhóm khủng bố ở Trung Đông, bao gồm Hezbollah (Lebanon), Hamas, các nhóm thánh chiến người Palestine; Iran phải tôn trọng chủ quyền của Iraq và đồng ý giải giáp vũ khí, quân đội… của các lực lượng vũ trang Shi’ite ở Iraq; Iran phải chấm dứt sự hỗ trợ về quân sự cho Houthis và tham gia vào tiến trình đàm phán hòa bình để giải quyết vấn đề Yemen” [167; tr.24]. Động thái của chính quyền Mỹ là sự phản ứng trước thực tế Iran ngày càng có một vai trò lớn hơn trong khu vực. Điều này được thể hiện một cách rõ nét trong so sánh lực lượng trên chiến trường tại các cuộc xung đột khu vực. Các lực lượng được Iran ủng hộ ở Syria, Yemen và Lebanon đang ngày càng nắm được quyền lực lớn hơn, đẩy những tính toán của Mỹ và đồng minh vào khó khăn. Các vùng chồng lấn ảnh hưởng giữa Mỹ và Iran cũng vì thế xuất hiện ngày một nhiều hơn. Rõ ràng, vẫn còn tồn tại nhiều nút thắt trong mối quan hệ giữa Mỹ và Iran thời hậu JCPOA. Những nút thắt này trên thực tế đã thúc đẩy quyết định rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân của Tổng thống Trump.
153
Hai là, giới cầm quyền Mỹ tỏ ra lúng túng trong việc lựa chọn một đối sách phù hợp nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới Iran và khu vực Trung Đông. Chính
quyền của Tổng thống Trump phá bỏ hoàn toàn những di sản về Iran mà Obama để lại. Thay vào đó, ông lựa chọn chính sách đối đầu căng thẳng với Iran ngay từ lúc ông mới lên nắm quyền. Tuy nhiên, sự cứng rắn của Trump lại không mang lại hiệu quả thực tế, mà ngược lại làm bùng phát những thù địch nguy hiểm cho sự ổn định của khu vực Trung Đông cũng như chính nước Mỹ.
Trong bản Chiến lược an ninh quốc gia (2017), Tổng thống Trump đã thể hiện rõ quan điểm cứng rắn đối với Iran: “Trong nhiều năm nay, những vấn đề có tính tiếp nối của Iran như bành trướng, sụp đổ nhà nước, học thuyết Islam cực đoan, sự trì trệ trong kinh tế xã hội, các mối thù địch đã làm rối loạn tình hình Trung Đông” [240; tr.48]. Chính quyền Trump sau đó đã từng bước phá vỡ các ranh giới của chính sách ngăn chặn, chuyển sang đối đầu (from containment to confrontation) [95; tr.6]. Trước hết là sự kiện Trump “xé bỏ” Thỏa thuận hạt nhân. Ngày 08/5/2018, chính quyền Trump chính thức rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân. Quyết định này của Trump đã phá vỡ một trong những di sản quan trọng nhất của cựu Tổng thống Obama nói riêng và nỗ lực dài hạn của chính quyền Mỹ từ sau năm 1979 nói chung. Trump tăng cường sức ép tối đa lên Iran bằng một loạt lệnh cấm vận mới với hi vọng Iran sẽ phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ về một Thỏa thuận hạt nhân khác. Thậm chí, Trump còn phá vỡ “nguyên tắc” không chủ động tấn công quân sự nhằm vào các mục tiêu Iran khi hạ lệnh tiêu diệt tướng lĩnh quân đội cao cấp của Iran. Trước những căng thẳng leo thang trong khu vực, đặc biệt là tình hình Iraq cuối năm 2019 - đầu năm 2020, chính quyền Trump cho rằng Iran phải chịu trách nhiệm cho những bất ổn đó và Mỹ cần đưa ra những đáp trả thích đáng. Trong số các lựa chọn để đáp trả Iran được các cố vấn trình lên, Tổng thống Trump đã sử dụng lựa chọn cực đoan nhất (extreme option) [78; tr.1]. Trump đồng ý tiến hành cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, giết chết vị tướng Qassem Soleimani - người đứng đầu lực lượng Vệ binh Iran ở nước ngoài tại sân bay quốc tế ở Baghdad - Iraq (02/01/2020) [162; tr.10]. Sự kiện này đã tạo ra một cú sốc lớn đối với nền chính trị - kinh tế toàn cầu, đẩy các quốc gia Trung Đông tiến sát tới bờ vực của một cuộc chiến tranh.
154
Tuy nhiên, những chính sách cứng rắn của chính quyền Trump không mang lại hiệu quả như mong đợi mà ngược lại làm bùng phát mạnh mẽ những mâu thuẫn giữa hai nước, đẩy Mỹ - Iran bước vào thời kỳ căng thẳng mới. Các lệnh cấm vận của Mỹ và sau đó vụ ám sát tướng Soleimani đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ tại Iran, khiến cho chủ nghĩa bài Mỹ tại quốc gia này lên cao chưa từng có. Quân đội Iran cũng đáp trả phía Mỹ bằng các cuộc tấn công bằng tên lửa vào các căn cứ quân sự của Mỹ ở Iraq (08/01/2020), khiến cho quân đội Mỹ ở Iraq và toàn bộ khu vực Trung Đông bị đặt vào tình trạng báo động. Rõ ràng, sự lựa chọn của Trump đã tạo ra một tình huống nguy hiểm đối với hòa bình và ổn định của khu vực Trung Đông cũng như đối với chính an ninh của nước Mỹ. Các biện pháp mạnh tay của chính quyền Trump trong chiến lược “áp lực tối đa” (Maximum expression) [147; tr.23] chỉ khiến cho giới chức
Iran ngày càng đối địch gay gắt với Mỹ cũng như mở ra một thời kỳ căng thẳng mới tại khu vực Trung Đông.
Ba là, những thay đổi nhanh chóng trong chính sách của Mỹ đối với Iran sau năm 2016 đã tạo ra những bất đồng nghiêm trọng trong mối quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh, đặc biệt là EU. Điều này đặt ra một bài toán khó đối với giới cầm quyền Mỹ trong việc hài hòa lợi ích của các đồng minh với việc tiếp tục chiến lược ngăn chặn, kiềm chế Iran. Như đã đề cập, việc Mỹ đơn phương rút khỏi thỏa thuận hạt nhân JCPOA, áp đặt trở lại các lệnh cấm vận với Iran đã tạo ra mâu thuẫn lớn giữa Mỹ và các đồng minh, đặc biệt là EU trong vấn đề Iran. Thỏa thuận hạt nhân không chỉ là thành quả của riêng chính quyền Obama, của nước Mỹ mà đó còn là nỗ lực chung của Liên Hợp quốc, của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia EU. Nếu như không có sự khởi động đàm phán về chương trình hạt nhân giữa EU và Iran từ những năm đầu thập niên 2000, rất có thể Thỏa thuận hạt nhân đã không được ký kết. EU chính là bên đã tích cực thúc đẩy cả Mỹ và Iran ngồi vào bàn đàm phán. Chính vì vậy, có thể nói, Thỏa thuận hạt nhân Iran là một biểu tượng cho sự hợp tác giữa Mỹ và các đồng minh cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, khi Mỹ đơn phương rút khỏi thỏa thuận hạt nhân mà không có bất cứ tham vấn, thông báo nào trước cho phía EU đã tạo ra bất đồng sâu sắc giữa hai bên. Việc tìm ra một tiếng nói chung trong vấn đề Iran với EU sẽ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính quyền Mỹ trong thời gian tới nhằm lấy lại lòng tin từ các đồng minh của Mỹ và tìm ra lời giải tốt nhất cho bài toán Iran.
155
Từ những vấn đề còn tồn tại đã nêu, rõ ràng, chính quyền Mỹ cần tiếp tục phải có sự thay đổi, điều chỉnh trong chính sách đối với Iran nhằm bảo vệ lợi ích cho nước Mỹ nhưng cũng đồng thời phải duy trì được sự ổn định tương đối ở khu vực Trung Đông và đảm bảo sự hài hòa lợi ích của các đồng minh. Với việc Joe Biden chính thức được công nhận là Tổng thống đắc cử của Mỹ (15/12/2020), nhiều khả năng, chính sách của Mỹ đối với Iran sẽ tiếp tục có những biến động mạnh trong thời gian tới. Từ truyền thống chính trị của Đảng Dân chủ và kinh nghiệm làm Phó Tổng thống dưới thời Barack Obama của Joe Biden, có thể suy đoán chính quyền Mỹ sẽ “giảm nhiệt” trong các vấn đề liên quan đến Iran. Các biện pháp ngoại giao, thuyết phục và cấm vận kinh tế sẽ chiếm ưu thế trong các lựa chọn chính sách của Mỹ. Chiến lược “quyền lực thông minh” có thể được sử dụng nhằm thay thế cho chính sách đặc biệt cứng rắn của Donald Trump. Vấn đề hạt nhân của Iran và việc giải quyết những di sản mà chính sách Trump để lại sẽ là ưu tiên quan trọng đối với chính quyền Mỹ trong thời gian tới. Tuy nhiên, với những mâu thuẫn chồng chéo, đặc biệt là xung đột về mặt lợi ích đã tồn tại trong bốn thập kỷ qua, quan hệ Mỹ và Iran sẽ khó có có thể cải thiện một sớm một chiều, thậm chí còn có thể diễn biến phức tạp, khó lường trong thời gian tới, ảnh hưởng sâu sắc tới hòa bình và ổn định ở khu vực Trung Đông.
KẾT LUẬN
1. Quá trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) chịu sự
chi phối từ nhiều yếu tố trong và ngoài nước Mỹ.
Cuộc cách mạng Islam và chính sách đối ngoại của chính quyền mới, đặc biệt là
chương trình hạt nhân của nước này là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự lựa chọn chính sách của chính quyền Mỹ sau năm 1979. Bên cạnh đó, không thể không
nhắc tới những yếu tố nội tại như: sức mạnh và chiến lược toàn cầu của Mỹ trong giai
đoạn từ năm 1979 - 2016, chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông cũng như
vai trò của các nhóm lợi ích, các tổ chức vận động hành lang đối với sự hình thành chính sách mới của Mỹ đối với Iran sau năm 1979. Ngoài ra, những biến đổi mạnh mẽ
trong bối cảnh quốc tế, đặc biệt là ảnh hưởng và sự can thiệp của các cường quốc như
Liên Xô/Liên Bang Nga, EU, Trung Quốc ở khu vực Trung Đông nói chung và đối với
Iran nói riêng cũng góp phần thúc đẩy sự lựa chọn chính sách của Mỹ đối với Iran.
2. Chính sách Ngăn chặn là chính sách quan trọng, bao trùm lên quan điểm và hành động của chính quyền Mỹ đối với Iran trong suốt giai đoạn từ năm 1979 - 2016.
Xuất phát từ những thay đổi trong tình hình trong nước, quốc tế và khu vực, chính sách của Mỹ có sự thay đổi hoàn toàn so với thời kỳ trước đó. Iran từ chỗ là đồng minh chiến lược trở thành đối tượng mà chính quyền Mỹ cần phải ngăn chặn, kiềm chế. Chính sách ngăn chặn Iran lần đầu tiên được đề xuất bởi cố vấn an ninh cấp cao của Tổng thống Jimmy Carter - Zbigniew Brzenzeski và sau đó dần hoàn thiện và trở thành chính sách chủ đạo, bao trùm trong suốt bốn thập niên sau đó.
Các mục tiêu trong chính sách của Mỹ với Iran từ sau năm 1979 cũng vì thế có sự thay đổi hoàn toàn, theo đó mục tiêu ngăn chặn tiến tới thay đổi các “hành vi” nguy hiểm của Iran trong khu vực, bảo vệ các quyền lợi sống còn của Mỹ ở khu vực Trung Đông là kim chỉ nam xuyên suốt trong chính sách của Mỹ đối với Iran trong bốn thập kỷ qua. Tuy nhiên, một số mục tiêu ngắn hạn có sự điều chỉnh nhất định nhằm phù hợp với bối cảnh lịch sử cũng như quan điểm của từng tổng thống Mỹ trong vấn đề Iran. Kéo theo đó, các vấn đề ưu tiên trong chính sách đối với Iran cũng có một vài thay đổi nhỏ. Trước năm 1991, chính sách của Mỹ với Iran tập trung vào bốn vấn đề chủ yếu: cuộc khủng hoảng con tin, chiến tranh Iran - Iraq, chính sách xuất khẩu cách mạng và cấm vận kinh tế đối với Iran. Sau năm 1991, ưu tiên trong chính sách đối ngoại với Iran bao gồm: chương trình hạt nhân của Iran, sự “can thiệp” của Iran trong các cuộc xung đột ở Trung Đông. Cấm vận kinh tế tiếp tục là nội dung cốt lõi trong giai đoạn này. Thực tiễn triển khai chính sách của Mỹ đối với Iran cho thấy trừng phạt, thuyết phục, ngoại giao và vũ lực như là những công cụ chủ yếu và quan trọng nhất trong các vấn đề liên quan đến Iran.
156
Nhìn chung, chính sách của Mỹ đối với Iran trong giai đoạn 1979 - 2016 có sự thống nhất tương đối khi chính sách ngăn chặn trở thành kim chỉ nam cho quan điểm
và hành động của những người đứng đầu nước Mỹ trong các vấn đề liên quan đến Iran. Tuy nhiên, với mỗi một Tổng thống, từ Jimmy Carter đến Barack Omaba những điều chỉnh nhất định về mục tiêu ngắn hạn, các vấn đề ưu tiên cũng như thực tiễn triển khai chính sách để phù hợp với những thay đổi của bối cảnh lịch sử, đảm bảo mục tiêu ngăn chặn Iran cũng như bảo vệ lợi ích của nước Mỹ.
3. Trải qua bốn thập kỷ triển khai trong thực tiễn, chính sách ngăn chặn của Mỹ
có những tác động đáng kể đến Iran nhưng đồng thời cũng bộc lộ nhiều hạn chế.
Các lệnh cấm vận của Mỹ ở một góc độ nào đó đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế Iran, đặc biệt là công nghiệp dầu mỏ. Những khó khăn trong kinh tế là một trong những yếu tố thúc đẩy Iran ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ và phương Tây để giải quyết vấn đề hạt nhân cũng như để IAEA vào giám sát các cơ sở hạt nhân tại quốc gia này.
Bên cạnh một số hiệu quả đạt được, chính sách ngăn chặn của Mỹ cũng dần bộc lộ những hạn chế của nó. Chính sách của Mỹ chưa thể để làm thay đổi hoàn toàn hành vi chính trị của Iran trong khu vực. Quốc gia này vẫn không ngừng tài trợ cho các nhóm vũ trang Shi’ite chống lại Israel và các chính phủ do người Sunni kiểm soát. Với thỏa thuận hạt nhân 2015, Iran chỉ chấp nhận việc tạm ngưng chương trình hạt nhân. Song trên thực tế, công nghệ hạt nhân của Iran đã đạt được nhiều thành tựu lớn trước khi có quyết định tạm dừng của chính quyền Tehran… Không những vậy, chính sách của Mỹ còn góp phần làm tăng thêm những bất ổn ở khu vực Trung Đông, đặc biệt là khoét sâu những mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, kích thích sự phát triển của chủ nghĩa Islam cực đoan, chủ nghĩa khủng bố… Bản thân nước Mỹ cũng chịu những ảnh hưởng đáng kể từ chính các quyết định của Nhà Trắng với Iran. Các công ty, tập đoàn của Mỹ mất đi những khoản đầu tư trực tiếp trước năm 1979 ở Iran. Mỹ mất đi một nguồn cung cấp dầu mỏ quan trọng, ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn cung dầu từ Saudi Arabia và một số nước vùng Vịnh khác. Không những vậy, việc Mỹ xiết chặt chính sách cấm vận với Iran đã đẩy Iran xích lại gần Nga và Trung Quốc – hai cường quốc được coi là đối trọng với Mỹ trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Rõ ràng, Mỹ đã và đang gặp khó khăn trong việc giải bài toán Iran cũng như cân bằng các lợi ích ở khu vực Trung Đông. Chiêu bài cấm vận kinh tế đang dần không còn phù hợp trong bối cảnh quốc tế hậu Chiến tranh lạnh, thời đại mà toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ và lan tỏa đến từng quốc gia khu vực, hội nhập và hợp tác quốc tế trở thành xu thế tất yếu trong xã hội loài người.
157
4. Sự xung đột trong vấn đề lợi ích và chiến lược giữa Mỹ và Iran có thể sẽ thổi bùng những căng thẳng giữa hai nước trong tương lai. Trên thực tế, dù quan hệ Mỹ - Iran có một số cải thiện nhất định sau Thỏa thuận hạt nhân 2015, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất đồng giữa hai nước: Thứ nhất, Thỏa thuận hạt nhân JCPOA chỉ tập trung giải quyết vấn đề chương trình hạt nhân của Iran. Còn chương trình phát triển tên lửa đạn đạo của Iran vẫn tiếp tục là vấn đề gây tranh cãi giữa hai nước vì Mỹ cho rằng chương
trình này có khả năng đe dọa đến các đồng minh của Mỹ và các lợi ích của Mỹ ở khu vực Trung Đông. Ngay trong nội bộ nước Mỹ vẫn có những chia rẽ liên quan đến Thỏa thuận hạt nhân với Iran. Trong khi phần lớn chính trị gia thuộc đảng Dân chủ ủng hộ việc Mỹ theo đuổi việc đàm phán cũng như kí kết một thỏa thuận hạt nhân với Iran thì rất nhiều người thuộc Đảng cộng hòa phản đối điều đó. Những mâu thuẫn bên trong nước Mỹ cùng sự vận động của một số đồng minh, đặc biệt là Israel đã tạo ra những mầm mống làm xói mòn Thỏa thuận hạt nhân, thậm chí phủ nhận nó ngay từ khi nó được chính quyền Obama thông qua; Thứ hai, các vùng chồng lấn ảnh hưởng giữa Mỹ và Iran ngày càng xuất hiện nhiều hơn ở Iraq, Syria, Lebanon, Yemen… Giới chức Mỹ tỏ ra quan ngại với chính sách hỗ trợ cho các tổ chức vũ trang Shi’ite như Hezbollah, Hamas, Taliban, Houthi… Iran có thể phá vỡ những mục tiêu chiến lược của Mỹ trong khu vực, đặc biệt là sự tồn tại của Israel.
Những rào cản đó sẽ khiến quan hệ Mỹ - Iran tiếp tục căng thẳng và khó đoán định. Bằng chứng là trong nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, quan hệ Mỹ - Iran chuyển biến xấu với một loạt động thái cứng rắn của Trump nhằm vào Tehran. Tuy nhiên, thực tế, chính sách đối đầu của Tổng thống Trump làm cho tình hình khu vực Trung Đông trở nên bất ổn và căng thẳng hơn. Để đối phó với các lệnh trừng phạt và sự cô lập của Mỹ, Iran tiếp tục tăng cường tài trợ cho các lực lượng vũ trang Shi’ite ở khắp Trung Đông, khởi động lại việc làm giàu urannium. Điều này về lâu dài sẽ gây nguy hại cho an ninh của các đồng minh của Mỹ như Israel và các quốc gia Vùng Vịnh. Do đó, Mỹ cần có những điều chỉnh chính sách để vừa ngăn chặn, vừa tranh thủ hợp tác với Iran vì quốc gia này vẫn luôn là một cường quốc khu vực. Sự hợp tác giữa Mỹ và Iran nếu diễn ra sẽ góp phần xoa dịu những căng thẳng, mâu thuẫn đang tồn tại trong khu vực cũng như đẩy lùi nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân ở Trung Đông.
158
5. Chính sách của Mỹ đối với Iran (1979 - 2016) cũng tác động (gián tiếp) đến một số lĩnh vực như kinh tế, ngoại giao của Việt Nam. Dưới tác động của toàn cầu hóa, những diễn biến xoay quanh quanh chính sách và quan hệ giữa các nước lớn sẽ tác động tới Việt Nam. Thực tế đã chứng minh mỗi khi Mỹ xiết chặt các lệnh cấm vận với Iran, nền kinh tế thế giới cũng chịu nhiều tác động tiêu cực, đặc biệt là thị trường dầu mỏ. Điều này đã tạo ra những thách thức đáng kể đối với một quốc gia vừa xuất khẩu dầu thô vừa bị phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu các chế phẩm dầu mỏ từ nước ngoài như Việt Nam. Thêm vào đó, Mỹ và Iran đều là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Chính sách cứng rắn của Mỹ đối với Iran và mối quan hệ căng thẳng giữa hai nước cũng tạo ra một bài toán khó đối với các nhà ngoại giao Việt Nam trong việc cân bằng mối quan hệ giữa Việt Nam với hai đối tác lớn này. Từ thực tiễn quan hệ Mỹ - Iran, Việt Nam có thể rút ra một số bài học quan trọng như: cách thức Iran thích ứng và vượt qua các lệnh cấm vận của Mỹ trong suốt 40 năm qua, tầm quan trọng của ngoại giao đa phương trong việc xử lý các vấn đề khủng hoảng quốc tế… Nếu không có sự chung tay của các quốc gia EU và Liên Hợp quốc thì Thỏa thuận hạt nhân khó có thể được thông
159
qua trong bối cảnh Mỹ và Iran có những quan điểm quá khác biệt liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran. Những bài học này là rất cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thu Hạnh (2016), “Vai trò của cử tri Mỹ gốc Do Thái với vấn đề thành
lập nhà nước Israel (1945 – 1948)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (478),
2016, tr.49 - 58.
2. Nguyễn Thu Hạnh (2018), “Tiềm lực quốc gia của Iran và đối sách của Mỹ (từ đầu
thế kỷ XXI – 2016)”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (503), 2018, tr.49 - 61.
3. Nguyễn Thu Hạnh (2019), “Vận động hành lang của người Do Thái trong quá
trình hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran (1991 – 2018)”. Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 6 (518), 2019, tr.58 - 71.
4. Nguyễn Thu Hạnh (2020), “Triển khai chính sách chống khủng bố của Mỹ ở
khu vực Trung Đông (2001 – 2016)”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7 (531),
160
2020, tr.50 – 64.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Peter Calvocoressi. 2007. Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Thomas J. Mc Cormick. 2004. Nước Mỹ nửa thế kỷ - Chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ trong và sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. William A. Degregorio. 1995. 42 đời Tổng thống Mỹ, Nxb Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam, Hà Nội.
4. Nguyễn Thu Hạnh. 2018. Tiềm lực quốc gia của Iran và đối sách của Mỹ (Từ đầu
thế kỉ XXI - 2016), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3 (503), tr. 49 - 61.
5. Nguyễn Thanh Hiền. 2015. Biến động chính trị - xã hội tại Bắc Phi - Trung Đông và
những tác động tới Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Đăng Hinh (cb). 2004. Nước Mỹ: Vấn đề, sự kiện và tác động, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
7. Học viện Ngoại giao. 2009. Đông Tây Nam Bắc - Diễn biến chính trong quan hệ
quốc tế từ 1945, Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Nguyễn Thái Yên Hương (cb). 2006. Can thiệp nhân đạo trong chính sách đối
ngoại của Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Nguyễn Thái Yên Hương. 2005. Liên bang Mỹ: đặc điểm xã hội - văn hóa, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
10. Nguyễn Thái Yên Hương (Cb). 2003. Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Thái Yên Hương (cb). 2008. Hoa Kỳ: Văn hóa và chính sách đối ngoại,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Nguyễn Thái Yên Hương (cb). 2014. Tôn giáo và việc sử dụng vấn đề tôn giáo
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa,
Hà Nội.
13. Bernard Lewis (Biên dịch: Nguyễn Thọ Nhân). 2008. Lịch sử Trung Đông 2000
năm trở lại đây, Nxb Tri thức, Hà Nội
14. Glenn E. Perry (Biên dịch: Nguyễn Kim Dân). 2009. Lịch sử Trung Đông - 14 thế
kỷ ra đời và phát triển của Hồi giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
15. Đỗ Trọng Quang. 2006. Các vấn đề của Iran hiện nay, Tạp chí Châu Phi và Trung
161
Đông số 7(11), Hà Nội.
16. Đỗ Trọng Quang. 2007. Quan hệ Hoa Kỳ - Iran trong nửa thế kỷ, Tạp chí châu Mỹ
ngày nay (3/2007), Hà Nội.
17. Arthur M. Schlesinger Jr. 2004. Niên giám lịch sử Hoa Kỳ, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
18. Nguyễn Thiết Sơn. 2002. Nước Mỹ đầu thế kỉ XXI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Lê Bá Thuyên, 1997. Hoa Kỳ: cam kết và mở rộng (Chiến lược toàn cầu mới của
Mỹ), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Trần Thị Vinh. 2011. Chủ nghĩa tư bản thế kỉ XX và thập niên đầu thế kỉ XXI: một
cách tiếp cận từ lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
21. Daniel Yergin. 2008. Dầu mỏ - tiền bạc và quyền lực, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng Anh
22. Ervand Abrahamian. 2013. The coup: 1953, the CIA and the roots of modern US -
Iranian relations, the New Press, US.
23. Casey L Addis. 2009. Us security assistance to Lebanon (CRS Report for
Congress), Congressional research Service, Washington DC, US.
24. David Albright and Christina Walrond. 2013. Update on the Arak Reactor, Institute
for Science and International Security, US.
25. The Government of Algeria. 1981. Algiers Accords, Algeria.
26. Mohanad Hage Ali. 2019. Power Points Defining the Syria-Hezbollah
Relationship, Carnegie Endowment for International Peace, Lebanon.
27. Hossein Alikhani. 2000. Sanctioning Iran: Anatomy of a failed policy,
I.B.Tauris&Co Ltd, USA.
28. Parvin Alizadeh and Hassan Hakimian (eds). 2014. Iran and the global economy:
Petro populism, Islam and economic sanctions, Routlegde Publishing House, US.
29. M. Parvizi Amineh. 2007. The Greater Middle East in the global politics: social
science perspectives on the changing geography of the world politics, Brill Press,
Leiden, Netherlands.
30. Ali M. Ansari. 2006. Confronting Iran: the failure of American foreign policy and
the root of Mistrust, Hurst & Company, London, UK.
31. Nigel John Ashton, Bryan R. Gibson. 2013. The Iran-Iraq War: New
162
International Perspectives, Routledge, US.
32. Hossein G. Askari, John Forrer, Hildy Teegen, Jiawen Yang (eds). 2003. Case
studies of US economic sanctions: The Chinese, Cuban and Iranian experience,
Greenwood Publishing group, US.
33. Hossein G. Askari, John Forrer, Hildy Teegen and Jiawen Yang (eds). 2003.
Economic sanctions: examining their philosophy and efficacy, Praeger Publishers,
US.
34. Carter Barry. 1988. International economic sanctions, Cambridge University Press,
UK.
35. Fahimeh Behrang. 2012. US foreign policy interests and Iran’s nuclear program,
University of Saskatchewan Press, Sakatoon – Cananda.
36. Daniel Bernardi, Murray Pomerance, Hava Tirosh - Samuelson. 2013. Hollywood’s
chosen people - The Jewish experience in American cinema, Wayne State
University Press, Detroil - Michigan, US.
37. Ian James Bickerton. 2019. John F. Kennedy: A Reference Guide to His Life and
Works, Rowman and Littlefield Publishing, US.
38. Christopher M. Blanchard. 2009. Saudi Arabia: Background and US relations,
Congressional Research Service, US.
39. Christopher M. Blanchard. 2018. Saudi Arabia: Background and U.S. Relations
(CRS report for Congress), Conggressional Research service, Washington DC,
US..
40. Christopher M. Blanchard. 2014. Qatar: Backgrounds and US relations (CRS
Report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
41. Christopher M. Blanchard and Jeremy M. Sharp. 2013. Possible U.S. Intervention
in Syria: Issues for Congress , Congressional Research Congress, Washington DC,
US.
42. James G. Blight, Janet M. Lang, Hussein Banai, Malcolm Byrne and John Jirman
(eds). 2012. Becoming enemy: US - Iran relations and the Iran - Iraq war (1979 -
1988), Rowman & Littlefield Publisher, Inc, UK.
43. David Boaz. 2008. The Politics of Freedom: Taking on The Left, The Right and
Other Threats to Our Liberties, CATO Institute, Washington DC – US, 2008
44. Anna Borshchevskaya. 2016. Russia in the Middle East - Motives, consequences,
prospects, the Washington Institute for Near East policy, Washington DC, US.
163
45. Lynn M. Bragg, Marcia E. Miller, Vice Chairman, Carol T. Crawford, Jennifer A.
Hillman, Stephen Koplan, Thelma Askey (eds). 1998. Overview and analysis of
current US unilateral economic sanctions, US International Trade Commission,
Washington DC, US.
46. Zbigniew Brzezinski and Brent Scowcroft. 1991. Differentiated Containment: U.S.
Policy Toward Iran and Iraq (Task Force report), The Council on Foreign Relations,
US.
47. Zbigniew Brzezenski, 2004. Iran: Time for a new approach, Council on Foreign
Relations, US.
48. President George W Bush. 1991. State of the Union Address, The White House,
US.
49. President George W Bush. 2002. The national security strategy of the United States
of America, White House, US.
50. President George W Bush. 2002. The President's State of the Union Address, The
White House, US.
51. President George W Bush. 2005. Executive Order 13382—Blocking Property of
Weapons of Mass Destruction Proliferators and Their Supporters, Federal
Register, Presidential Documents Vol. 70, No. 126, National Archives and
Records Administration, pg.38567 – 38570, Washington DC, US.
52. Daniel Byman & Sara Bjerg Moller. 2016. The United States and the Middle East:
Interests, Risks and Costs, The Tobin Project - reproduced with the permission of
Oxford University Press, UK.
53. Rodney P. Carlisle, J. Geoffrey Golson. 2008. The Reagan Era from the Iran Crisis
to Kosovo, ABC - CLIO, US.
54. Jimmy Carter. 1979. Executive Order No.12170 “Blocking Iranian Government
Property”, Washington DC, US (Source: The provisions of Executive Order 12170
of Nov. 14, 1979, appear at 44 FR 65729, 3 CFR, 1979 Comp., p. 457, unless
otherwise noted)
55. Amnon Cavari and Elan Nyer. 2016. Trends in US Congressional support for
Israel, Mideast security and policy studies, No. 121, The Begin - Sadat Center for
strategic Studies, Israel.
56. Raijiv Chandrasecaran. 2014. In the UAE, the United States has a quite, potent ally
nicknamed “Little Sparta”, Washington Post, US.
164
57. CIA. 1980. A revealing history of an unscrupulous CIA (Approved for release
19/7/2010), US.
58. CIA. 1980. CIA’s role in forming SAVAK (secret) (Approved for release 02/9/2010), US.
59. CIA. 1980. Iran: Exporting the revolution (An Secret Intelligence Assessment)
(Approved for release 27/4/2006), US.
60. CIA. 1981. The battle for Iran (C01384460 - secret) (Approved for release
21/6/2011), US.
61. CIA. 1979. The Strait of Hormuz: A Vulnerable lifeline (classified) (Approved for
release 28/8/2013), US.
62. CIA. 1984. Iraq: Use of nerve agent (secret - approved for release 09/8/2010), US.
63. CIA. 1987. The Tanker war: Ship attacks in the Persian Gulf (A Secret report was
released by CIA), US.
64. CIA. 1986. China and Iran – Iraq conflict (Top Secret) (Approved for release
24/3/2011), US.
65. CIA. 1985. State supported terrorism by Iran, Syria and Libya (top secret report)
(Approved for release 2009/11/24), US.
66. CIA. 1985. US policy toward Iran (top secret) (approved for release 07/9/2011),
US.
67. CIA. 1985. The struggle to define and control foreign policy (Top secret)
(Approved for release 2011/05/13), Directorate of Intelligence, US.
68. President Bill Cliton. 1996. H.R.3107: Iran – Libya Sanctions Act, 104th Congress
(1995-1996), Washington DC, US.
69. President Bill Clinton. 2000. Iran Nonproliferation Act of 2000, Public Law 106–
178, 106th Congress, H.R. 1883, pg. 37 - 45, US.
70. Committee on Foreign relations - United States Senate. 2007. Iran’s
political/nuclear: ambitions and US policy options, US Government Printing
Office, Washington DC, US.
71. Committee on Foreign Relations - United Stated Senate. 1976. US military sales to
Iran (A staff report), US gorvenment Printing Office, Washington DC, US.
72. Committee on Foreign Affairs - US House of representatives. 1981. The Iran
hostage crisis – A chronology of Daily developments, US Government Printing
Office, Washington DC, US.
73. Anthony H. Cordesman, Khalid R. Al-Rodhan. 2006. Iran's Weapons of Mass
165
Destruction: The Real and Potential Threat, Center for Strategic and International
Studies (CSIS), Washington DC, US.
74. Anthony H Cordesman (ed). 2012. US and Iranian strategic competition: part I,
Center for Strategic & International Studies (CSIS), Washington DC, US.
75. Anthony H. Cordesman. 2004. Energy Developments in the Middle East, Praeger
Press (Published in cooperation with the Center for Stategic and International
Studies), US.
76. Andrew Scott Cooper. 2011. The oil kings? How the US, Iran and Saudi Arabia
changed the balance of power in the Middle East, Simon & Schuster Paperbacks,
US.
77. Helene Cooper and Eric Schmitt. 2014. Airstrikes by U.S. and Allies Hit ISIS
Targets in Syria, The New York Times (online version), US.
78. Helene Cooper, Eric Schmitt, Maggie Haberman and Rukmini Callimachi. 2020, As
Tensions With Iran Escalated, Trump Opted for Most Extreme Measure, The New
York Times, US.
79. Richard W. Cottam (ed). 1988. Iran and the United States: a cold war case study,
University of Pittsburgh Press, US.
80. Michael Cox & Doug Stokes (eds). 2018. US foreign policy 3rd edition, Oxford
University Press, UK.
81. David B Crist. 2009. Gulf of conflict: a history of US – Iranian Confrontation at
Sea, The Washington Institute for Near East Policy, US.
82. Franz J Dahlkamp. 2009. Uranium Deposits of the World: Asia, Springer, US.
83. Arnold Dashefsky and Ira M. Sheskin. 2016. American Jewish year book 2016: the
annual record of North American Jewish, The American Jewish Committee, US.
84. Lynn E. Davis, Jeffrey Martini, Alireza Nader, Dalia Dassa Kaye, James T.
Quinlivan, Paul Steinberg. 2011. Iran’s nuclear future: critical US policy choices,
Research ANd Development –RAND (Project Air Force) Press, US.
85. Lynn E. Davis, Stacie L. Pettyjohn, Melanie W. Sisson, Stephen M. Worman,
Michael J. McNerney. 2012. U.S. Overseas Military Presence What Are the
Strategic Choices?, The RAND National Defense Research Institute, US.
86. Marybeth Davis, James Lecky, Torrey Froscher, David Chen, Abel Kerevel,
Stephen Schlaikjer. 2012. China – Iran: A limited partnership (Prepared for the
US – China Economic and Security Review Commission), Centra Technology,
166
Inc, US.
87. Defense Intelligence Agency (DIA). 2019. Iran Military Power: Ensuring Regime
Survival and Securing Regional Dominance, U.S. Government Publishing Office,
US.
88. Rose Mc Demott (ed). 2001. Risk – taking in international politics: prospect theory
in American foreign policy, The University of Michigan Press, US.
89. Department of Defense and Department of State. 1974. Issues Related To U. S.
Military Sales And Assistance To Iran (A report to the Congress), US General
Accounting Office, Washington DC. U.S.
90. Dean A. Derosa, Gary Clyde Hufbauer (eds). 2008. Normalization of economic
relations: consequences for Iran’s economy and the United States, Report
prepared for National foreign trade council, Washington DC, US.
91. David A Dleterle (eds). 2017. Economics: the definitive encyclopedia from theory
to practice (Volume 1) - Foundations of Economics, Greenwood Publishing
Group, US.
92. William A. Dorman and Mansour Farhang (eds). 1987. The US press and Iran: foreign policy and the journalism of deference, University of California Press, US.
93. Alex Edwards. 2014. “Dual containment” policy in the Persian Gulf: The USA,
Iran and Iraq, 1991 – 2000, Palgrave Macmillan Press, US.
94. Christian Emery. 2013. US foreign policy and the Iranian revolution: the cold war
dynamics of engagement and strategic alliance, Palgrave McMillan, UK.
95. Nader Entessar, Kaveh L Afrasiabi. 2020. Trump and Iran: From Containment to
Confrontation, Lexington Books, UK.
96. European Parliament. 2016. Understanding the branches of Islam: Sunni Islam,
European Union.
97. European Parliamentary. 2018. Future of the Iran nuclear deal How much can US
pressure isolate Iran?, European Parliamentary Research Service (EPRS), European
Union.
98. Alex Ewards. 2014. “Dual containment” policy in the Persian Gulf, the US, Iran
and Iraq, 1991 - 2000, Palgrave Macmillan, US.
99. Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO).2008. Country
Profile: Iran (Islamic Republic of), Rome, Italy.
100. David Farber. 2009. Taken Hostage: The Iran Hostage Crisis and America's First
167
Encounter with Radical Islam, Princeton University Press, US.
101. Sasan Fayazmanesh (ed). 2008. The United States and Iran: Sanctions, wars and
the policy of dual containment, Routledge, US.
102. Sasan Fayazmanesh. 2013. Containing Iran: Obama’s Policy of “Tough
Diplomacy”, Cambridge Scholars Publishing, UK.
103. Martin Feldstein. 1994. American economic policy in the 1980s, the University of
Chicago Press, US.
104. Brandon Fite. 2012. US and Iranian strategic compettion: the impact of China and
Russia, Center for Stategic and International Studies (CSIS), US.
105. Robert O. Freedman. 1991. Moscow and the Middle East - Soviet policy since the
invasion of Afghanistan, Cambridge University Press, UK.
106. Babak Ganji (ed). 2006. Politics of confrontation: the foreign policy of the USA
and Revolutionary Iran, Tauris Acedemic studies, New York, US.
107. Bryan R. Gibson. 2010. Convert relationship: American foreign policy,
Intelligence and Iran – Iraq war 1980 – 1988, Praeger, US.
108. Rick Gladstone. 2011. Noise Level Rises Over Iran Threat to Close Strait of
Hormuz, New York Times, US.
109. Galia Golan. 1990. Soviet policy in the Middle East: From World war two to
Gorbachev, The Press Syndicate of the University of Cambridge, US.
110. Michael R Gordon and Eric Schmitt. 2003. Aftereffects: Bases – US will move air
operations to Qatar Base, New York Times, US.
111. Geoffrey F. Gresh, Tugrul Keskin (eds). 2018. US Foreign Policy in the Middle
East: From American Missionaries to the Islamic State, Routledge, US.
112. Richard N Haass. 1998. Economic sanctions and American diplomacy, Council on
Foreign Relations Press, US.
113. Yakub Halabi. 2009. US foreign policy in the Middle East from crisis to change,
Published by Ashgate Publishing, UK.
114. Angela Halvorson. 2010. Understanding the Military: The Institution, the Culture,
and the People, SAMHSA Press, US.
115. Scott Harold & Alireza Nada. 2012. China and Iran: Economic, political and
military relations, RAND corps, US.
116. Hussein D. Hassan. 2007. Iranian Nuclear Sites (CRS report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
168
117. Glenn P. Hastedt. 2017. American Foreign Policy: Past, Present, and Future 11th
edition, Rowman & Littlefield Publishers, US.
118. Hearing Before the Subcommittee on Near Eastern and South Asian Affairs of
the Committee on Foreign Relations, United States Senate, Ninety-seventh
Congress, Second Session, on the Change in Department of Commerce
Regulations on Exports to Iraq, South Africa, Syria, and South Yemen. 1982.
Regulation Changes on Exports, U.S. Government Printing Office, US.
119. Hans-Joachim Heintze and Pierre Thielbörger (ed). 2016. From Cold War to
Cyber War: The Evolution of the International Law of Peace and Armed Conflict
over the last 25 Years, Springer International Publishing, Switzerland.
120. Simon Henderson & Olli Heinonen. 2013. Nuclear Iran – A Glossary of Terms,
The Washington Institute for Near East policy, US.
121. Seymour M. Hersh. 1992. US secretly gave aid to Iraq early in its war against
Iran, New York Time, US.
122. Christopher Hill and Karen E Smith. 2000. European Foreign policy: Key
documents, Routledge in association with the Seretariat of the European Parliament,
US.
123. Dilip Hiro. 1991. The Longest War: The Iran-Iraq Military Conflict, Routledge,
New York, US.
124. Dilip Hiro. 2011. Iran under the Ayatollahs (Routledge Revivals), Routledge, US.
125. David Patrick Houghton. 2001. US foreign policy and the Iran hostage crisis,
Cambridge University Press, UK.
126. House of Lords. 2007. The impact of economic sanctions (Volume II): Evidence,
the Authority of the House of Lords, UK.
127. Ronald J. Hrebenar and Bryson B. Morgan (eds). 2009. Lobbying in America: A
reference handbook, ABC - CLIO, Inc, US.
128. Gary Clyde Hufbauer, Jeffrey J. Schott, Kimberly Ann Elliott (eds). 1990.
Economic sanctions reconsidered: History and current policy, Institute for
International economics, Washington DC.
129. Carla E. Humud and Christopher M. Blanchard. 2017. Armed Conflict in Syria:
Overview and U.S. Response (CRS report for Congress), Congressional Research
169
Service, Washington DC, US.
130. Carla E. Humud (ed). 2017. Armed Conflict in Syria: Overview and U.S.
Response (CRS report for Congress), Congressional Research Service,
Washington DC, US.
131. Carla E. Humud and Christopher M. Blanchard. 2020. Armed Conflict in Syria:
Overview and U.S. Response (CRS report for Congress), Congressional Research
Service, Washington DC, US.
132. Carla E Humud. 2018. Lebanon (CRS report for Congress), Congressional
Research Service, Washington DC, US.
133. IAEA. 2010. Implementation of the NPT Safeguards Agreement and relevant
provisions of Security Council resolutions 1737 (2006), 1747 (2007), 1803 (2008)
and 1835 (2008) in the Islamic Republic of Iran (Report by the Director General to
the Board of Governors, IAEA.
134. IAEA. 2015. Implementation of the NPT Safeguards Agreement and relevant
provisions of Security Council resolutions in the Islamic Republic of Iran (Report
by the Director General), Geneve, Switzerland.
135. Shayerah Ilias. 2010. Iran’s Economic Conditions: U.S. Policy Issues (CRS Report
for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
136. International Atomic Energy Agency. 1970. Treaty on the Non – proliferation of
nuclear weapons, Austria.
137. International Monetary Fund, Country profile: Iran, various years, direction of
trade statistics, various years.
138. Iran economic news. 1975. Iran – US trade projected at $40 billion during next 5
years, Iran economic news, (Vol 2, No.8), US.
139. Iran & The E3/EU+3. 2015. Joint Comprehensive Plan of Action, Vienna, Austria.
140. I.S. Ivanov. 2014. Modern Russian - Iranian relations: challenges and
opportunities, Russian International Affairs Council, Moscow, Russia.
141. Foad Izadi (ed). 2014. Iranophobia in the US: An Orientalistic Representation of
Iran's Nuclear Program in Iranium Documentary, Islamic Revolution Studies (No
10, Issue 35), Iran.
142. Foad Izadi. 2014. Obama’s Iran Policy and American Competing Policy
170
Communities, Iranian Review of Foreign Affairs 3 (412), Iran.
143. Mohammad Jamshidi. 2014. The Islamic Awakening and Transformation of the
United States Policy towards Iran, Iranian Review of Foreign Affairs 5 (218),
Iran.
144. Andrew L. Johns. 2015. A Companion to Ronald Reagan, John Wiley and Sons Inc,
US.
145. Joint Economic Committee. 2007. Energy and the Iranian economy, US
Government Printing Office, Washington DC, US.
146. Christopher C. Joyner. 1990. The Persian Gulf War: Lessons for Strategy, Law,
and Diplomacy, Greenwood Publishing Group, US.
147. Kenneth Katzman. 2019. Iran: Internal Politics and U.S. Policy and Options (CRS
report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
148. Kenneth Katzman (ed). 2016. Iran: politics, human rights and US policy (CRS
Report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
149. Kenneth Katzman (ed). 2009. Iran: US concerns and policy responses (CRS
Report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
150. Kenneth Katzman. 2009. Iran Sanctions (CRS Report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
151. Kenneth Katzman (ed). 2016. Iran sanctions (CRS Report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
152. Kenneth Katzman. 2019. Iran sanctions (CRS report - prepared for members and
committees of Congress), Congressional Research Service, US.
153. Kenneth Katzman (ed). 2017. Iran nuclear Agreement (CRS Report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
154. Kenneth Katzman (ed). 2017. Iran’s foreign and defense policies (CRS Report for
Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
155. Kenneth Katzman. 2019. Bahrain: Reform, Security, and U.S. Policy (CRS report
for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
156. Kenneth Katzman. 2019. Kuwait: Governance, Security, and U.S. Policy (CRS
report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
157. Kenneth Katzman. 2019. Oman: Politics, Security, and U.S. Policy (CRS report
for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
158. Kenneth Katzman. 2019. Qatar: Governance, Security, and U.S. Policy (CRS
171
report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
159. Kenneth Katzman. 2011. The United Arab Emirates (UAE): Issues for U.S. Policy
(CRS Report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
160. Kenneth Katzman. 2019. The United Arab Emirates (UAE): Issues for U.S. Policy
(CRS report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
161. Kenneth Katzman, Casey L. Addis, Christopher M. Blanchard, Carol Migdalovitz,
Jim Nichol, Jeremy M. Sharp, Jim Zanotti (eds). 2010. Iran: Regional Perspectives
and U.S. Policy (CRS Report for Congress), Congressional Research Service,
Washington DC, US.
162. Kenneth Katzman, Kathleen J. McInnis, Clayton Thomas. 2020. U.S.-Iran
Conflict and Implications for U.S. Policy (CRS report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
163. Robert Kaufman. 2007. In Defense of the Bush Doctrine, University Press of
Kentucky, US.
164. Dalia Dassa Kaye, Alireza Nader, Parisa Roshan (eds). 2011. Israel and Iran - A
dangerous rivalry, RAND corps, US.
165. Abbas Varij Kazemi and Xiangming Chen. 2014. China and the Middle East:
more than oil, The European Financial Review, London, UK.
166. George F. Kennan. 1946. Incoming Telegram, Department of State, US.
167. Paul K. Kerr. 2012. Iran’s nuclear program: status (CRS report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
168. Paul K. Kerr and Kenneth Katzman. 2018. Iran Nuclear Agreement and U.S. Exit,
Congressional Research Service, Washington DC, US.
169. M. Saleem Kidwai. 2010. US Policy Towards the Muslim World: Focus on Post
9/11 Period, University Press of America, Inc, US.
170. Victor Gordon Kiernan. 2005. America, the New Imperialism: From White
Settlement to World Hegemony, Verso Press, US.
171. Henry Kissinger. 1977. American foreign policy, W.W.Norton & Company, US.
172. Clifford Krauss. 2012. Oil Price Would Skyrocket if Iran Closed the Strait of
Hormuz, New York Times, US.
173. Andrew Langley.2007. The Collapse of the Soviet Union: The End of an Empire,
Compass Point Books, US.
174. Christopher Layne. 2006. The Peace of Illusions: American Grand Strategy from
172
1940 to the Present, Cornell University Press, US.
175. Marsden Lee. 2008. For God’s sake: the Christian right and US policy, Zed Books
Llt. New York, US.
176. Alexander T.J Lennon, Camille Eiss (ed). 2004. Reshaping rouge states -
preemption, regime change and US policy toward Iran, Iraq and North Korea, the
MIT press, US.
177. David W. Lesch & Mark L. Haas. 2014. The Middle East and the United States:
History, Politics and Ideologies, West View Press, US.
178. David W. Lesch & Mark L. Haas. 2018. The Middle East and the United
States: History, Politics, and Ideologies (fifth edition), Routledge, US.
179. Robert S. Litwak, Robert Litwak. 2000. Rogue States and U.S. Foreign Policy:
Containment After the Cold War, The Woodrow Winson Center Press, US.
180. Matthew Levitt. 2012. Iran’s support for Terrorism in the Middle East, The
Washington Institute for Near East Policy, US.
181. Mordechai Levy. 2015. Iran in the minds of the Israelis, Przeglad Strategiczny,
Vol 8, Poland.
182. Michael J. Lostumbo, Michael J. McNerney, Eric Peltz, Derek Eaton, David R.
Frelinger, Victoria A. Greenfield, John Halliday, Patrick Mills, Bruce R.
Nardulli, Stacie L. Pettyjohn, Jerry M. Sollinger, Stephen M. Worman. 2013.
Overseas Basing of U.S. Military Forces An Assessment of Relative Costs and
Strategic Benefits, the RAND National Defense Research Institute, US.
183. Catherine Lutz (ed). 2009. The Bases of Empire: The Global Struggle Against U.S.
Military Posts, New York University Press, US.
184. Zvi Magen. 2013. Russia and the Middle East: policy challenges, The Institute for
National security studies, Tel Aviv, Israel.
185. Mahmood Mamdani. 2005. Good Muslim - Bad Muslim: America, the Cold war
and the roots of terror, Three Leaves Press (Random House Inc), US.
186. Mark E. Manyin (ed). 2012. Pivot to the Pacific? The Obama Administration’s
“Rebalancing” Toward Asia (CRS report to Congress), Congressional Research
Service, Washington DC, US.
187. Christin Marschall. 2003. Iran's Persian Gulf Policy: From Khomeini to Khatami,
Routledge Curzon, US.
188. James M. McCormick. 2009. American policy and process (5th edition), Cengage
173
Learning, Canada.
189. Stephen McGlinchey. 2012. Arming the Shah: US arms policy towards Iran, 1950
– 1970 (A thesis submitted to Cardiff University for the degree of Doctor of
Philosophy in International Relations), Cadiff University Press, Wales, UK.
190. John J Measheimer & Stephen M Walt. 2007. The Israel lobby and US foreign
policy, Farra, Straus and Giroux Press, New York, US.
191. Rafael Medoff. 2002. Jewish Americans and political participation: A Referrence
handbook, ABC - CLIO Inc, US.
192. Rupal N. Mehta. 2019. Delaying Doomsday: The Politics of Nuclear Reversal,
Oxford University Press, UK.
193. Heiko Meiertons (ed). 2010. The doctrines of US security policy: An evaluation
under international law, Cambridge University Press, UK.
194. John P. Miglietta (ed). 2002. American Alliance policy in the Middle East (1945 -
1992): Iran, Israel and Saudi Arabia, Lexington Books, US.
195. Elitza Mileva and Nikolaus Siegfried. 2007. Oil market structure, networks effects
and the choice of currency for oil invoicing, European Central Bank, Germany.
196. Kaveh Moravej. 2011. The SAVAK and the cold war: counter – Intelligence and
foreign intelligence (1957 - 1968) (A thesis submitted to the University of
Manchester for the degree of Doctor of Philosophy in the Faculty of Humanities),
University of Manchester Press, UK.
197. Donette Murray (ed). 2010. US foreign policy and Iran: American - Iranian
relations since the Islamic revolutions, Routledge, US.
198. Edmund Muskie. 1980. US interests in the Middle East, Bureau of Public Affairs -
United States Department of State, Washington DC, US.
199. Harry L. Myers (ed). 1997. the US policy of dual containment toward Iran and
Iraq in theory and practice, Air University, Alabama, US.
200. President Barack Obama. 2016. Executive Order 13716 of January 16, 2016,
Federal Register - Vol. 81, No. 13 - Presidential Documents, White House, US.
201. Marian Ottaway (ed). 2009. Iran, the United States and the Gulf: the elusive
regional policy, Carnegie Papers, Washington DC, US.
202. David S. Oualaalou. 2016. The Ambiguous Foreign Policy of the United States
toward the Muslim World: More than a Handshake, Lexington Books,
174
Washington DC, US.
203. Christopher Phillips. 2016. The Battle for Syria: International Rivalry in the New
Middle East, Yale University Press, UK.
204. Richard M Preece. 1987. Iran - Iraq war: implication for US policy, Congressional
Research Service, Washington DC, US.
205. William B. Quandt. 1981. Saudi Arabia in the 1980s: foreign policy, security and
oil, The Brookings Institution, Washington DC, US.
206. Rouhollah K. Ramazani. 1982. The United States and Iran: The Patterns of
Influence, Praeger Press, US.
207. Yaacov Ro'I. 1974. From Encroachment to Involvement: A Documentary Study
of Soviet Policy in the Middle East, 1945-1973, Halsted Press, Israel.
208. President Ronald Reagan. 1987. Executive Order No. 12613 “Prohibiting import
from Iran”, published in the Federal Register, Washington DC, US (Source: The
provisions of Executive Order 12613 of Oct. 29, 1987, appear at 52 FR 41940, 3
CFR, 1987 Comp., p. 256, unless otherwise noted)
209. Robert J. Reardon. 2012. Containing Iran: Strategies for Addressing the Iranian
Nuclear challenge, RAND Corporation, US.
210. Dianne E. Rennack (ed). 2016. Iran: US economic sanctions and the Authority to
lift Restrictions, Congressional Research Service, Washington DC, US.
211. Dianne E. Rennack (ed). 2010. Nuclear, biological, chemical and missile
proliferation sanctions: selected current law, Congressional Research Service,
Washington DC, US.
212. Revista Geopolitica. 2007. The Iranian geopolitical perspectives, Volume V,
no.22, Brasil.
213. Stephen S. Rosenfeld. 1986. The Reagan Doctrine: The Guns of July, Foreign
Affairs Magazin, US.
214. Robert C. Rowland, John M. Jones. 2010. Reagan at Westminster:
Foreshadowing the End of the Cold War, Texas A&M University Press, US.
215. Tom Ruys, Olivier Corten, Alexandra Hofer. 2018. The Use of Force in
International Law: A Case-Based Approach, Oxford University Press, UK.
216. Gary Samore (ed). 2015. Sanctions against Iran: A guide to targets, terms, and
timetables - Addendum to: Decoding the Iran Nuclear deal (April 2015), Belfer
Center for Science and International Affairs (Havard Kennedy School), US.
175
217. Zachary Selden (ed). 1999. Economic sanctions as instruments of American
foreign policy, Praeger Press, US.
218. Ofira Seliktar. 2012. Navigating Iran: from Carter to Obama, Palgrave MacMillan,
US.
219. Haim Shaked, Itamar Rabinovich (eds). 1980. The Middle East and the United
States: Perceptions and Policies, Transaction Books, US.
220. Jeremy M. Sharp. 2010. US foreign assistance to the Middle East, Historical to
background, Recent trends and the FY 2001 Request, Congressional Research Service,
US.
221. Jeremy M. Sharp. 2010. US foreign aid to Israel (CRS report for Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
222. Jeremey M. Sharp. 2014. US foreign aid to Israel (CRS report), Congressional
Research Service, Washington DC, US.
223. Jeremy M. Sharp. 2010. US foreign assistance to the Middle East: Historical
background, recent trends, and the FY2011 request (CRS report to Congress),
Congressional Research Service, Washington DC, US.
224. Jeremy M. Sharp. 2014. Jordan: Background and US relation (CRS report for
Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
225. Jeremy M. Sharp. 2015. Jordan: background and US relations (CRS Report for
Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
226. Jeremy M. Sharp. 2019. Jordan: Background and US relation (CRS report for
Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
227. Jeremy M. Sharp. 2019. Yemen: civil war and regional intervention (CRS report
for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
228. Michael Singh. 2017. The view from Congress: US policy on Iran, The
Washington Institute for Near East Policy, US.
229. Stockholm International Peace Research Institute. 2009. Military expenditure by
country 1988-2018, Sweden.
230. Stockholm International Peace Research Institute. 2018. The SIPRI top 100 arm-
producing and military service companies 2017, Sweden.
231. Ray Takeyh. 2009. Guardians of the revolution: Iran and the world in the Age of
the Ayatollahs, Oxford University Press, UK.
232. Curt Tarnoff. 2008. Iraq: Reconstruction assistance (CRS report for Congress),
176
Congressional Research Service, Washington DC, US.
233. Adam Tarock (ed). 1998. The superpowers’ involvement in the Iran - Iraq war,
Nova Science Pulishers INC, US.
234. The American Jewish Committee. 1993. American Jewish yearbook 1993, US.
235. The City of New York - Office of the Mayor. 2005. Sustaining New York’s and the
US’ Global Financial Services Leadership, United Senate, New York, US.
236. Clayton Thomas. 2017. Arms Sales in the Middle East: Trends and Analytical
Perspectives for U.S. Policy (CRS report for Congress), Congressional Research
Service, Washington DC, US.
237. Akbar Torbat (ed). 2005. Impacts of US trade and financial sanctions on Iran,
Backwell Publishing Ltd, US.
238. Akbar Torbat. 2002. The brain drain from Iran to the United States, Middle East
Journal, Vol. 56, No. 2 (Spring, 2002), US.
239. Dmitri Trenin and Alexey Malashenko. 2010. Iran - a view from Moscow,
Carnegie Endowment for International Peace, US.
240. President Donald Trump. 2017. National security strategy of the United States of
America, White House, Washington DC, US.
241. Spencer C. Tucker. 2008. The encyclopedia of the Arab - Israeli conflict the Arab -
Israeli conflict: a political, social and military history (Volume 1: A-F), ABC-CLIO,
US.
242. United Nations. 1945. Charter of the United Nations and statute of the international
court of justice, San Francisco, US.
243. United Nation. 1958. Convention on the High Sea 1958 (Done at Geneve on 29
April, Entered into force on 30 September 1962), Geneve, Switzerland.
244. United Nations. 1982. United Nations Convention on the law of the sea, United
Nations.
245. United Nations Conference the Mayor. 2005. Sustaining New York’s and the US’
Global report 2016 - investor nationality: policy challenges, United Nations
Publication, Geneve, Switzerland.
246. United Nations. 2007. Resolution 1747 (2007), Adopted by the Security Council at
its 5647th meeting, United Nations.
247. US Congress.1987. Joint hearings before the House select Committee to
investigate covert arms transactions with Iran and the Senate Select Committee on
177
Secret military assistance to Iran and the Nicaraguan opposition (One Hundredth
Congress, First Session), US Government Printing Office, Washington DC, US.
248. US Congress. 2000. H.R.1883 - Iran Nonproliferation Act of 2000, Washington DC,
US.
249. US Congress. 2006. Iran Freedom Support Act, Public Law 109–293, 109th
Congress, Washington DC, US, pg. 1344 - 1350.
250. U.S. Congress - Senate Select Committee on Intelligence. 2019. Statement for the Record: Worldwide Threat Assessment of the US Intelligence Community, 116th Cong, 1st sess, US.
251. United States Court of Appeals (District of Columbia Circuit), Division for the
Purpose of Appointing Independent Counsels. 1993. Final Report of the Independent
Counsel for Iran/Contra Matters: Investigations and prosecutions (Division No. 86-
6), US.
252. United States Government Accountability Office. 2008. Iran sanctions: impact
good or bad, Nova Science Publishers INC, New York, US.
253. United States Government Accountability Office. 2007. Military personnel:
Number of Formally Reported Applications for Conscientious Objectors Is Small
Relative to the Total Size of the Armed Forces (Report to Congressional
Committees), US.
254. United States General Accounting Office. 1981. Statement for the record by the US
General General Accounting Office submitted to the Committee on Foreign
relations US. Senate on US facility access initiatives in Southwest Asia and the
proposed sale of E – 3A Airborne Warning and Control System (AWACs) Aircraft
to Saudi Arabia, Washington DC, US.
255. US Government Printed Office. 2012. High Stakes and hard choices: US policy on
Iran, hearing before Committee on foreign relations United Stated Senate (One
Hundred Twelfth Congress – Second session), US.
256. US Department of Defense. 1992. Foreign military sales, foreign military
construction sales and military assistance facts, US Government Printing Office,
Washington DC, US.
257. US Department of Defense. 1989. 1988 Command history (Classified) (Aproved
for release in Oct 2000), US.
258. US Department of Defense. 2019. 2019 missile defense review, Office of the
178
secretary of Defense, US.
259. US Department of State.2017. Country Reports on Terrorism 2016, US.
260. US Department of State. 2012. Outline of US economy (2012 edition), Bureau of
International Information Programs, US.
261. United States Department of State. 1987. US policy in the Persian Gulf (special
report No.166), US.
262. US Defense Intelligence Agency. 2019. Iran Military power: Ensuring regime
survive and securing regional dominance, US government Publising Office, US.
263. US Energy Information Administration. 2019. Annual Energy Outlook 2019 with
projections to 2050, Washington DC, US.
264. United States Government Printing Office. 2005. Public Papers of the Presidents of
the United States: Administration of George W Bush (2002), Published by the Office
of the Federal Register National Archives and Records Administration, Washington
DC, US.
265. United States Senate (One hundred thirteenth Congress - second session), Hearings
before the Committee on foreign relations. 2014. Negotiation on Iran’s nuclear
program, US Government Printing Office, Washington DC, US.
266. United States Senate (One hundred ninth Congress - second session), Hearings
before the Committee on foreign relations. 2006. Iran’s political/nuclear
ambitions and US policy options, US Government Printing Office, Washington
DC, US.
267. US Senate. 2013. Iran: US and international santions have adversely affected the
Iranian economy, United States Government Accountability Office, Washington DC,
US.
268. Evangelos Venetis. 2011. The rising power of Iran in the Middle East: forming an
axis with Iraq, Syria and Lebanon, The Hellenic Foundation for European and
Foreign Policy (ELIAMEP), Greece.
269. David Vine. 2015. Base nation: How US military bases abroad harm America and
the world, Metropolitan books, US.
270. Mathew Wallin. 2018. US military bases and facilities in the Middle East,
American Security Project, US.
271. Frederic Wehrey, David E. Thaler, Nora Bensahel, Kim Cragin, Jerrold D. Green,
Dalian Dassa Kaye, Nadia Oweidat, Jennifer Li (eds). 2009. Dangerous but not
179
omnipotent: exploring the Reach and Limitations of Iranian power in the Middle
East, RAND (Project Air Force) Press, US.
272. Bernard Weinraub. 1985. President Accuses 5‚Outlaw States’ of World Terror,
The New York Times, US.
273. Donald N. Wilber. 1969. Overthrow of Premier Mossadeq of Iran (November1952
– August 1953), CIA, US.
274. Robin Wright (ed). 2010. The Iran Primer: Power, Politics, and U.S. Policy,
United States Institute of Peace Press, Washington DC, US.
275. Barbara Zanchetta. 2014. The Transformation of American International Power in
the 1970s, Cambridge University Press, UK.
276. Jim Zanotti. 2011. Turkey – US defense cooperation: prospects and challenges
(CRS report for Congress), Congressional Research Service, Washington DC, US.
277. Afshin Zargar, Touraj Hatami. 2018. The Evolution of Russian Foreign Policy and
Its Effect on Cooperation with Iran, Iranian Review of Foreign Affairs, Vol. 9, No.
2, Summer- Fall 2018, Iran.
278. Micah Zenko. 2018. US military policy in the Middle East: an Appraisal, The
Royal Institute of International Affairs, London, UK.
III/ Tài liệu mạng:
279. Lê Đức Anh. 2020. “Vietnam Airlines điều chỉnh đường bay tránh khu vực Trung
Đông”, dieu-chinh-duong-bay-tranh-khu-vuc-trung-dong-5664.html>, (20/2/2020). 280. Atimes. (20/11/2018). 281. Bộ Ngoại giao Việt Nam. 2008. “Kỷ niệm 35 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại
Nam-Iran”,
Việt giao
282. Bộ Ngoại giao Việt Nam. nr040807104143/nr040807105001/ns160315080456/view>, (08/8/2018). 283. Countryeconomy. 1978. “Iran GDP - Gross Domestic Product”, 284. EIA. “PETROLEUM OTHER 2019. & LIQUIDS”,
180 &f=A>, (06/07/2019). 285. EIA. 2018. “China surpassed the United States as the world’s largest crude oil
importer in 2017”, (10/7/2019). 286. EIA. 2020. “U.S. Imports from Iran of Crude Oil and Petroleum Products”, NIR_2&f=A>, (10/02/2020). 287. European Commission. 2018. “Commissioner Miguel Arias Cañete in Iran to
strengthen energy co-operation”, miguel-arias-canete-iran-strengthen-energy-co-operation-2018-may-18_en>, (17/5/2019). 288. Federation of American Scientists (FAS). 1997. “United States Central Command
USCENTCOM”, 289. Global Security. “People's Republic of China - Oil”, 290. Federica Mogherini. 2016. Statement in her visit to Iran (08/08/2018). 291. Karl P. Mueller, Becca Wasser, Jeffrey Martini, Stephen Watts. 2017. “U.S.
Strategic Interests in the Middle East and Implications for the Army”,
_PE265.pdf>, (01/12/2019). 292. OECD. (10/01/2020). 293. OPEC. 2019. “Iran facts and figures”, 294. Ronald O'Rourke. 1988. “The Tanker War”, 295. Bozorgmehr Sharafedin Nouri & Babak Dehghanpisheh.2015. Iran policy against
“arrogant” US won’t change, (https://english.alarabiya.net/en/News/middle- east/2015/07/18/Khamenei-policy-against-arrogant-U-S-won-t-change-)
(01/10/2018). 296. Ali Al Shihabi. 2016. Why is Saudi Arabia at war in Yemen, 181 297. Minh Sơn. 2018. “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008”, 2008-3809531.html>, (10/01/2020). 298. David Trilling. 2017. “Polling Iran: What do Iranians think?”, 299. The New York Times. 2004. “UBS Fined $100 Million Over Trading of
Dollars”, 300. Hoài Thu. 2018. “Mỗi lít xăng giảm hơn 1.000 đồng”, 3835050.html>, (20/11/2018). 301. U.S. BUREAU OF LABOR STATISTICS. 2019. “Databases, Tables &
Subject”, by Calculators
ption=specific_periods&years_option=all_years>, (01/12/2019). 302. US Department of the Treasury. 2020. “Treasury Sanctions Companies for
Petrochemicals”, Supporting Iranian Sale the of 303. US Navi. 2019. “Commander, Naval Forces Central Command U.S. 5th Fleet”,
304. Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia. 2019. “Thương mại Việt - Mỹ: Từ 450 triệu
đến hơn 60 tỷ USD”, hon-60-ty-usd/>, (01/10/2019). 305. US Census Bureau.1990. (01/10/2019). 306. World Bank. 2018. “Islamic Republic of Iran”, 307. World Bank. 2018. “GDP per capita, PPP (current international $) - Iran, Islamic
Japan”, Rep.,
(28/12/2017). 308. World Bank. 2018. “GDP (current US$) - United States”, 182 309. World Bank. 2018. “Military expenditure (% of GDP) - United States”,
(08/02/2020). 310. World Bank. 2018. “GDP (current US$) - United States”, (10/01/2020). 311. World Bank. 2018. “Saudi Arabia” arabia>, (28/12/2017). 312. Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tài Liệu Cơ bản về Liên Hợp quốc 183 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 (Nguồn: https://www.cia.gov/library/publications/resources/cia-maps-publications/map- downloads/Iran_Physiography.jpg/image.jpg ) 184 Bản đồ Iran PHỤ LỤC 2 (Nguồn: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/7a/Strait_of_hormuz.jpg) 185 Bản đồ eo biển Hormuz PHỤ LỤC 3 (Nguồn: https://www.stratfor.com/analysis/geopolitics-iran-holding-center-mountain-fortress ) 186 Biểu đồ về vị trí địa chiến lược của Iran PHỤ LỤC 4 187 Biểu đồ về dự trữ dầu mỏ của 10 quốc gia đứng đầu thế giới PHỤ LỤC 5 Biểu đồ về sự phân bố của các nhóm vũ trang Shi’ite do Iran Nguồn: “Iran Military Power: Ensuring Regime Survival and Securing Regional Dominance,” Defense Intelligence Agency (DIA), November 2019, p.58 188 hậu thuẫn ở khu vực Trung Đông PHỤ LỤC 6 Các cơ sở hạt nhân ở Iran32 1. Nhà máy làm giàu Uranium ở Natanz được coi là tổ hợp lớn nhất trong các cơ sở hạt nhân của nước này. Iran nối lại hoạt động làm giàu uranium ở nhà máy Natanz từ tháng 7/2004, sau khi tạm ngừng để đàm phán với các cường quốc châu Âu về chương trình hạt nhân. Tháng 9/2007, Iran tuyên bố đã lắp đặt 3.000 máy ly tâm. Đến năm 2013, con số này đã tăng lên 15.400 máy li tâm, trong đó 8000 máy được sử dụng vào mục đích làm giàu hạt nhân [168; tr.4]. Trong số các cơ sở hạt nhân của Iran, Natanz chính là tâm điểm trong tranh cãi giữa Iran và Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc về chương trình hạt nhân của nước này. Quá trình làm giàu uranium bắt đầu được khởi động ở Natanz từ năm 2007, với mức độ làm giàu lên đến 5% U-235 [133; tr.5]. Liên Hợp quốc bày tỏ quan ngại vì công nghệ được sử dụng cho việc sản xuất nhiên liệu cho điện hạt nhân có thể được sử dụng để làm giàu uranium tới một mức lớn hơn nhiều, đủ để có vũ khí hạt 32 Điểm màu đỏ là các lò phản ứng phục vụ nghiên cứu, điểm màu vàng là các mỏ uranium, còn lại là các cơ sở
hạt nhân. 189 nhân. 2. Fordow là cơ sở làm giàu hạt nhân quan trọng thứ hai sau Natanz. Iran đã lắp đặt tổng số 2.140 máy ly tâm IR - 1 tại cơ sở này [167; tr.17]. Việc làm giàu urannium hàm lượng cao (20% uranium -235) được thực hiện chủ yếu tại Fordow. Chẳng hạn, theo báo cáo của Cơ quan năng lượng nguyên tử thế giới, từ ngày 9/2/2010 đến ngày
21/5/2010, 172 kg UF6 đã được làm giàu33. Kết quả là 5,7 kg UF6 sau khi được rút ra từ tầng làm giàu thứ nhất đạt mức 19,7% U – 235 [133; tr.3]. Việc Iran có thể làm giàu urannium đến cấp độ gần 20-% U - 235 bị phía Mỹ coi là một mối nguy hiểm đặc biệt, bởi lẽ, bắt đầu từ cấp độ làm giàu đó, uranium có thể được dùng trong chế tạo vũ khí hạt nhân. 3. Mỏ khai thác uranium Gachin: Để đẩy mạnh quá trình nội địa hóa nguyên liệu phục vụ cho chương trình hạt nhân, Iran đã đưa mỏ Uranium ở Gachin đi vào khai thác. Mỏ Gachin cách Tehran 1500km, nằm ở phía Đông Nam dãy Zagros. Đây là mỏ quặng uranium lớn nhất của Iran được công bố từ trước đến nay. Theo báo cáo của OECD - NEA/IAEA, dự trữ quặng uranium ở mỏ Gachin khoảng 100 tấn. Phần lớn quặng ở Gachin đạt 0,2% uranium [82; tr.178]. Quá trình khai thác quặng uranium ở mỏ Gachin được bắt đầu từ năm 2004. 4. Nhà máy điện hạt nhân Bushehr là một cơ sở hạt nhân quan trọng khác của Iran. Nhà máy này được xây dựng ở thành phố cùng tên thuộc vùng tây nam Iran và giáp Vịnh Ba Tư. Kế hoạch xây dựng nhà máy Bushehr được Iran bắt đầu vào năm 1974 với sự giúp đỡ của Đức. Tuy nhiên, kế hoạch bị ngừng trệ khi cuộc cách mạng Islam nổ ra ở Iran vào năm 1979. Quá trình xây dựng được nối lại trong những năm 90 thế kỷ trước khi Iran đạt được một thỏa thuận với Nga. Tuy nhiên, phải đến năm 2011, nhà máy điện hạt nhân này mới hoàn thiện với mức đầu tư hơn 1 tỷ USD. Trước đó, phía Nga cũng cam kết cung cấp nguyên liệu cho nhà máy điện hạt nhân Bushehr trong vòng 10 năm (2005 - 2015) [167; tr.23]. Với sự giúp đỡ của Nga, Iran đã có nhà máy điện hạt nhân hiện đại đầu tiên với quy mô lớn. 5. Nhà máy tách nước nặng34 ở Arak (nằm ở phía tây của Iran): nhà máy này được Viện Khoa học và An ninh Quốc tế của Mỹ phát hiện vào tháng 12/2002. Iran tiến hành xây dựng một lò phản ứng tại đây. Theo đánh giá của Viện Khoa học và An ninh quốc tế (ISIS - Institute for Science and International Security), hoạt động của nhà máy nước nặng Arak có thể mở ra một con đường thứ hai cho Iran trong việc sản 33 UF6 là một hợp chất được sử dụng làm nguyên liệu trong các lò phản ứng làm giàu uranium
34 Nước nặng là loại nước chứa tỷ lệ đồng vị deuterium cao hơn thông thường, và được sử dụng để điều tiết phản ứng
chuỗi hạt nhân trong một lò phản ứng. Nước nặng còn được dùng để sản xuất plutonium dùng trong bom hạt nhân. 190 xuất vũ khí hạt nhân thông qua hợp chất plutonium [24; tr.8]. 6. Trung tâm công nghệ nguyên tử Isfahan (Esfahan) cũng là một mắt xích quan trọng trong chương trình hạt nhân của Iran, chức năng chính của trung tâm này là nghiên cứu và trực tiếp chuyển hóa uranium. Isfahan được cho là cơ sở đầu tiên mà Iran triển khai chương trình hạt nhân. Năm 1975, Iran đã ký một thỏa thuận với phía Pháp, theo đó Pháp sẽ hỗ trợ Iran xây dựng trung tâm công nghệ nguyên tử Isfahan, đồng thời chịu trách nhiệm đào tạo nhân công để làm việc trong trung tâm này. Cho đến nay Isfahan vẫn là trung tâm nghiên cứu về nguyên tử lớn nhất ở Iran với khoảng 3000 nhà khoa học làm việc (tính đến năm 2007) [116; tr.2]. Ngoài các cơ sở hạt nhân công khai, Iran còn có những địa điểm được cho là có hoạt động hạt nhân bí mật, mà một trong số này là khu vực thuộc tổ hợp quân sự Parchi, cách thủ đô Tehran 30 km về phía đông nam. Tổ hợp này là một trung tâm đạn dược hàng đầu của Iran dành cho việc nghiên cứu, phát triển và sản xuất các loại đạn, 191 tên lửa và chất nổ có sức công phá cao. PHỤ LỤC 7 (Nguồn: Cục Tình báo Quân đội Mỹ, 2019) 192 Biểu đồ thể hiện tầm bắn của các loại tên lửa do Iran sản xuất PHỤ LỤC 8 Biểu đồ thể hiện chi tiêu dành cho khoa học của các quốc gia hàng đầu thế giới (Nguồn: Tạp chí Tia sáng, http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Trung-Quoc-dang-rut-ngan-khoang-cach-voi- My-ve-dau-tu-cho-khoa-hoc-22899, truy cập ngày 10/1/2020) 193 Đơn vị: tỷ USD PHỤ LỤC 9 Đơn vị: nghìn thùng dầu/ngày (Nguồn: Cơ quan Thông tin về Năng lượng của Hoa Kỳ - EIA, https://www.eia.gov/dnav/pet/hist/LeafHandler.ashx?n=PET&s=MTTIM_NUS-NIR_2&f=A) 194 Biểu đồ thống kê lượng dầu nhập khẩu từ Iran của Mỹ PHỤ LỤC 10 Bảng thống kê các lệnh trừng phạt liên quan đến kinh tế của EU với Iran Tên lệnh trừng phạt Thời gian Nội dung Quan điểm chung của Hội Đóng băng một số tài khoản của Iran đồng châu Âu số 02/2007 và cấm du lịch đối với một số cá nhân 2007/140/CFSP và công ty của Iran + Cấm xuất sang Iran các sản phẩm công nghệ cao liên quan đến công nghiệp dầu mỏ và khí đốt của Iran + Tạm dừng các điều khoản liên quan Quyết định của Hội đồng 7/2010 đến bảo hiểm và tái bảo hiểm các thực số 2010/413/CFSP thể thuộc về Iran + Mở rộng danh sách các cá nhân và công ty Iran phải chịu lệnh cấm du lịch sang EU Đóng băng tài khoản và cấm du lịch đối với một số cá nhân người Iran có Quyết định của Hội đồng 4/2011 số 2011/235/CFSP liên quan đến các cáo buộc về nhân quyền + Cấm “nhập khẩu, mua hoặc vận chuyển” dầu mỏ và các sản phẩm hóa dầu của Iran vào châu Âu. + Tạm ngừng hiệu lực của các điều 01/2012 khoản liên quan đến tài chính, bảo Quyết định của Hội đồng
số 2012/35/CFSP hiểm và tái bảo hiểm liên quan đến hoạt động bán dầu thô và vận chuyển dầu thô của Iran. 195 + Tạm dừng hoạt động xuất khẩu các thiết bị trong công nghiệp hóa dầu sang Iran cũng như các điều khoản hỗ trợ tài chính và công nghệ cho Iran + Cấm bán vàng, các kim loại quý hiếm cũng như kim cương cho Iran Quyết định của Hội đồng + Tạm dừng dịch vụ tin nhắn tài chính 3/2012 số 2012/152/ CFSP tới các Ngân hàng của Iran + Cấm mua, nhập khẩu, vận chuyển khí gas từ Iran Quyết định của Hội đồng 10/2012 số 2012/635/CFSP + Cấm xuất khẩu công nghệ đóng tàu (Nguồn:The Council of the European Union, Council Decision 2012/35/CFSP, Brussels, 24 January 2012 (Available on https://eur- lex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=OJ:L:2012:019:0022:0030:EN:PDF) Và The Council of the European Union, Council Decision 2012/635/CFSP, Brussels, 16 October 2012 (Available on https://eur- lex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=OJ:L:2012:282:0058:0069:EN:PDF) và Gary Samore, Sanctions against Iran: A guide to targets, tearms and timetables, Belfer Center for Science and International Affairs – Havard Kennedy School, US, 2015, p.9) 196 sang Iran PHỤ LỤC 11 197 Biểu đồ về các nhà cung cấp vũ khí lớn cho khu vực Trung Đông PHỤ LỤC 12 Một bức tranh chống Mỹ được vẽ trên tường (Nguồn: US Defense Intelligence Agency. 2019. Iran Military power: Ensuring regime survive and securing regional dominance, US government Publising Office, US, p.12) 198 tại nơi từng Đại sứ quán Mỹ ở Tehran PHỤ LỤC 13 Biểu đồ thể hiện số lượng dân nhập cư Iran được cấp phép vào Mỹ Nguồn: Akbar Torbat, The brain drain from Iran to the United States, Middle East Journal, Vol 56, No.2 (Spring 2002), p.278 199 (1970 - 1998) PHỤ LỤC 14 200 Biểu đồ phân bố lính Mỹ ở khu vực Trung Đông 201 Biểu đồ thể hiện sản lượng sản xuất dầu mỏ của Iran dưới tác động của các lệnh
trừng phạt của Mỹ (2007 - 2018) Thời gian Nguyên cớ trực tiếp Nội dung cấm vận 4/11/1979 Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
tuyên bố cấm vận xuất khẩu
dầu mỏ từ Iran Sứ quán Mỹ ở Tehran bị một
nhóm sinh viên quân sự Iran
tấn công và giành quyền
kiểm soát. 52 công dân Mỹ ở
sứ quan bị giữ làm con tin để
đổi lấy việc Mỹ phải trục
xuất Shah về Iran 14/11/1979 Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
tuyên bố đóng băng 12 tỷ đô la
của chính phủ Iran đang gửi
đảm bảo trong các ngân hàng
Mỹ. 7/4/1980 Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
tiếp tục mở rộng giới hạn việc
cấm vận Iran. Mỹ cấm hoàn
toàn các hoạt động thương mại
và du lịch với Iran (ngoại trừ
thực phẩm và thuốc men). 13/1/1984 Mỹ ngưng toàn bộ các khoản
viện trợ, cho vay, tín dụng, trợ
giúp tài chính và việc chuyển
vũ khí cho Iran. Iran bị cáo buộc liên quan
đến vụ đánh bom tấn công
vào Doanh trại của Lính thủy
đánh bộ Mỹ ở Lenbanon
(10/1983).
Iran bị chính
quyền Mỹ xếp vào danh sách
các quốc gia hỗ trợ khủng bố. 30/3/1984 Bộ thương mại Mỹ áp đặt lệnh 202 các lệnh kiểm soát lên Iran
nhằm chống khủng bố. Mỹ tạm
ngưng việc cung cấp máy bay,
các phụ tùng máy bay và các
thiết bị phù trợ cho Iran 28/2/1987 Mỹ buộc tội Iran đã không có
những hành động cần thiết để
kiểm soát hoạt động sản xuất
các loại biệt dược gây mê
cũng như các hoạt động rửa
tiền và chuyển tiền “bẩn”. Tổng thống Mỹ viện dẫn điều
khoản 481 của Luật hỗ trợ
Nước ngoài năm 1961, tạm
ngưng hoàn toàn việc hỗ trợ
cho Iran thông qua chuỗi Ngân
hàng Xuất nhập khẩu và Tổ
chức Hợp tác đầu tư bí mật ở
nước ngoài. Đại diện của Mỹ
tại các ngân hàng quốc tế sẽ
phủ quyết các khoản vay dành
cho Iran. 23/9/1987 Việc xuất khẩu và tái xuất các
thiết bị lặn độc lập dưới nước
và các trang thiết bị liên quan
cho Iran bị ngừng lại. Iran bị Mỹ cáo buộc đã có
thái độ bất hợp tác trong tiến
trình hòa giải để kết thúc
cuộc chiến tranh Iran – Iraq
và có dấu hiệu ủng hộ cho
khủng bố quốc tế 23/10/1987 Lệnh tạm dừng được mở rộng,
bao gồm 15 sản phẩm công
nghệ cao. 30/10/1987 Iran “ủng hộ cho khủng bố”
và có các hành động quân sự
bất hợp pháp nhắm vào các
tàu chở hàng cỡ lớn mang cờ
hiệu Mỹ Tổng thống Ronald Reagan ra
Đạo luật theo đó Mỹ sẽ áp đặt
lệnh cấm lên xuất khẩu các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ của
Iran. Trừ các sản phẩm chiết
xuất từ dầu thô có nguồn gốc
Iran. (Nguồn:Kenneth Katzman, Iran sanctions (CRS report), Congressional Research Service, Washington DC, 203 December 14, 2016 và Akbar Torbat, Impacts of US trade and financial sanctions on Iran (From: The world
economy: global trade policy (vol.28 no. 3), US, 2005, p.407 - 411)) 204 205 (Nguồn: Trung tâm lưu trữ Liên bang Mỹ) 206 207 (Nguồn: Trung tâm lưu trữ Liên bang,
https://www.archives.gov/federal-register/executive-orders/1995.html#12959) 208 209 210 211 212 213 Nguồn: Trung tâm lưu trữ Liên bang Mỹ 214PHỤ LỤC 15
PHỤ LỤC 16
Bảng thống kê các lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Iran
(1979 - 1991)
PHỤ LỤC 17
Sắc lệnh số 12613 - Tạm dừng nhập khẩu từ Iran (1987)
PHỤ LỤC 18
Sắc lệnh số 12959 (Ngày 06/5/1995 )
V/v tạm dừng các giao dịch liên quan đến Iran
PHỤ LỤC 19
Sắc lệnh 13716 v/v dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận đối với Iran (2016)