BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Hằng
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA
KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN
1941 – 1946 (QUA TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Hằng
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA
KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN
1941 – 1946 (QUA TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM)
Chuyên ngành
: Lịch sử thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng công bố ở
các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Ngọc Hằng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy
cô Khoa Sử cùng tất cả các anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn Tiến sĩ Lê Phụng Hoàng,
Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện luận văn này.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn nhưng với sự giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng của bản
thân, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô
cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 9 năm 2014
Lê Ngọc Hằng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN LUẬN .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 5
5. Đóng góp của đề tài .............................................................................................. 6
6. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................ 7
7. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................. 7
Chương 1. LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG
DƯƠNG TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG ............... 8
1.1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương ................................................................... 8
1.1.1. Vai trò của Đông Dương đối với phát xít Nhật .................................... 8
1.1.2. Sự thỏa thuận Nhật - Pháp .................................................................. 13
1.2. Phản ứng của Hoa Kỳ trước những họat động xâm chiếm Đông Dương của
Nhật ........................................................................................................................ 16
1.2.1. Chủ nghĩa biệt lập ............................................................................... 16
1.2.2. Hoa Kỳ đề nghị “trung lập hóa” Đông Dương ................................... 23
1.3. Anh hợp tác với Pháp nhằm duy trì quyền lực ở các thuộc địa Đông Nam Á
................................................................................................................................ 27
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 29
Chương 2. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ
ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH THÁI BÌNH
DƯƠNG (ĐẾN NGÀY 9.3.1945) ...................................................................... 31
2.1. Tổng thống Roosevelt chủ trương đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc tế
(International Trusteeship) ..................................................................................... 31
2.2. Phản ứng của Anh đối với chủ trương của Hoa Kỳ ....................................... 42
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 54
Chương 3. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ
ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG TỪ KHI NHẬT ĐẢO CHÍNH PHÁP
(ĐẾN 3.1946) ...................................................................................................... 55
3.1. Từ khi Nhật đảo chính Pháp đến Hội nghị Potsdam ..................................... 55
3.1.1. Nhật đảo chính Pháp ........................................................................... 55
3.1.2 Chính phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối với Đông Dương ............ 61
3.1.3. Anh xúc tiến kế hoạch hỗ trợ Pháp quay lại Đông Dương ................. 66
3.2. Từ sau Hội nghị Potsdam đến 3.1946 ............................................................ 69
3.2.1. Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và khước từ
công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ..................................... 69
3.2.2. Anh hỗ trợ Pháp tái lập quyền lực ở Đông Dương ............................. 83
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 86
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 92
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 97
1
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Chọn vấn đề “Chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh đối
với Đông Dương giai đoạn 1941 – 1946 (Qua trường hợp Việt Nam)”, tôi xuất
phát từ những căn cứ sau:
Trước hết, Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) đã để lại những hậu
quả hết sức nặng nề trong lịch sử nhân loại. Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
là một trong những bộ phận hợp thành cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
diễn ra trên bình diện lớn, gồm nhiều cường quốc tham gia và có ảnh hưởng tới
vận mệnh của đa số các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sau
khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ chính thức tham chiến đứng về phía
các nước đồng minh chống phát xít Đức – Italia - Nhật. Lúc này, Đông Dương
thuộc Pháp trước hết là Việt Nam được Nhật xem là cửa ngõ xâm nhập vào Hoa
Nam, hậu phương của quân đội Trung Hoa Dân quốc; là bàn đạp cho cuộc chiến
tranh xâm lược ở Đông Nam Á. Đông Dương đồng thời được Hoa Kỳ lựa chọn
như là một điểm trong kế hoạch phản công Nhật.
Thứ hai, trên cơ sở tìm hiểu những chính sách của các nước Đồng minh
Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương qua trường hợp Việt Nam, chúng ta có thể
thấy được những tác động của những chính sách đó đối với tình hình cùng
những chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946, đặc
biệt là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đưa đến sự ra đời của nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc –
kết thúc gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Nhưng cũng
do thái độ của Hoa Kỳ và Anh đã tạo điều kiện cho Pháp quay trở lại Việt Nam
và nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp.
2
Thứ ba là xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mong muốn được mở rộng
kiến thức, có điều kiện tìm hiểu sâu sắc vấn đề phục vụ cho việc giảng dạy ở
trường phổ thông.
Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề “Chính sách của các nước Đồng minh
Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương giai đoạn 1941 – 1946 (Qua trường hợp
Việt Nam)” để làm đề tài nghiên cứu
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách, mối quan hệ
của các nước Đồng minh đối với Đông Dương, cụ thể là Việt Nam ở những giai
đoạn khác nhau
- Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng (1997), Quan hệ Việt – Mỹ trong Cách
mạng tháng Tám, NXB Khoa học xã hội. Tác giả đã cung cấp những tư liệu để
giúp chúng ta hiểu thêm về quan hệ Việt – Mỹ, những bước dính líu đầu tiên của
Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương
- Phan Văn Hoàng (2004), Việt Nam trong chính sách của Mỹ (1940-
1956), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Mã số 50315, Thư viện trường Đại học Sư phạm,
TP.HCM. Đây là một công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với Việt
Nam trong 16 năm với những sách lược khác nhau, làm rõ vị trí của Việt Nam
trong chính sách của Hoa Kỳ, để có thể thấy rõ bản chất xâm lược và âm mưu
của Mỹ đối với Việt Nam. Qua đó góp phần lý giải vì sao Mỹ thua trong cuộc
chiến tranh Việt Nam sau này
- Dixee R. Bartholomew-Feis (2008), OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh
bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Lương Lê Giang dịch, NXB Thế
Giới- Công ty Văn hóa và Truyền thông Võ Thị. Đây là một công trình nghiên
cứu về lịch sử quan hệ Việt - Mỹ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đường
lối của hai dân tộc Việt và Mỹ gặp nhau trong một thời khắc ngắn ngủi - một
3
thời khắc vừa nguy hiểm lại vừa đầy hứa hẹn đối với tương lai của cả hai nước.
Tác phẩm cũng trình bày một cách khái quát tình hình nước Mỹ, tình hình Việt
Nam và lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, cuốn sách cũng tiết lộ
nguồn gốc và mục đích của Việt Minh cũng như vị trí của họ trong mối quan hệ
với Đồng Minh
- Là một sĩ quan tình báo Mỹ, Archimedes Patti tác giả của cuốn sách
“Tại sao Việt Nam” xuất bản năm 1995 đã trình bày thẳng thắn các sự kiện đúng
như những gì đã diễn ra và được tác giả ghi lại theo dòng thời gian, cung cấp
một nguồn sử liệu quí giá về quá khứ liên quan đến cuộc Cách mạng tháng Tám
và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời tác giả cũng đưa ra lời giải đáp cho câu
hỏi: “Tại sao nước Mỹ đã từng sát cánh với những người cách mạng, những
người cộng sản Việt Nam trên một trận tuyến chung chống chủ nghĩa phát xít”
- Gary R. Hess, Franklin Roosevelt and Indochina, The Journal of
American History, Vol.59, No.2 (Sep..,1972) 353 – 368 – Tổng thống Roosevelt
muốn thiết lập một chế độ ủy trị đối với Đông Dương nhưng đã vấp phải sự
phản đối của các nước Đông minh Anh và Pháp.
- Một công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã cung cấp những tư liệu quí
giá về cuộc Cách mạng tháng Tám là tác phẩm “Vietnam 1945: the Quest for
Power” được xuất bản năm 1995 tại Mỹ, David G.Marr tái hiện lịch sử một cách
chân thực nhất theo góc nhìn từ dưới lên (bottom-up), trình bày về cuộc tổng
khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa thu năm 1945
một cách sinh động, cụ thể và khá chân thực. Với tác phẩm này, lần đầu tiên
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được trình bày một cách sáng tỏ và đây
chính là sự nghiệp đấu tranh của quần chúng.
- Stein Tonnesson (2002), Franklin D.Roosevelt and French loss of
Indochina 9, March 1945, International Peace Research Institute, Oslo (PRIO).
Sự kiện Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9.3.1945 đã tác động mạnh mẽ đến lịch
sử Việt Nam và thế giới, cuộc Cách mạng tháng Tám thành công dẫn đến sự ra
4
đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả cũng cho thấy những
toan tính và thay đổi trong chính của Tổng thống Roosevelt đối với Đông
Dương.
- Sanford B. Hunt, IV, B.A (2004), Dropping the baton: decisions in
United States policy on Indochina, 1943-1945. Tác phẩm đã đề cập đến ý định
tái lập quyền lực của Pháp ở Đông Dương và luôn nhận được sự đồng tình, ủng
hộ của Anh, đặc biệt là sự thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông
Dương cụ thể là Việt Nam từ thời Tổng thống Roosevelt đến Tổng thống Harry
S.Truman trong khoảng thời gian 1943 – 1945.
- T. O. Smith, Britain and the Origins of the Vietnam War: UK Policy in
Indo-China 1943-1950 (Palgrave Macmillan, 2007). Tác phẩm đã đề cập đến
chính sách ngoại giao của Anh, sự can thiệp khéo léo của Anh. Nó không chỉ
làm sáng tỏ nguồn gốc chiến tranh Việt Nam mà còn nói đến lợi ích của Anh ở
khu vực Đông Nam Á, vai trò quan trọng của Anh trong giai đoạn đầu tiên của
cuộc chiến tranh Đông Dương. Qua đó, tác phẩm cũng thể hiện được mối quan
hệ giữa Anh – Pháp và sự phát triển của “mối quan hệ đặc biệt” giữa Anh – Hoa
Kỳ.
- T. O. Smith (2011), Churchill, America and Vietnam, 1941–1945,
Associate Professor of History, Huntington University, USA. Tác giả đã làm rõ
vai trò của nước Anh trong nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam, sự trở lại của
Pháp tại Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng cho thấy sự thay đổi trong quan
điểm của Mỹ về chính sách đối với Đông Dương thuộc Pháp. Và những chính
sách của Anh cũng bị chi phối bởi mối quan hệ với Mỹ.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những chính sách của các nước Đồng minh cụ
thể là chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương qua trường hợp Việt
Nam trong giai đoạn 1941 – 1946.
Chọn Hoa Kỳ và Anh vì sự khác biệt trong trong chính sách của hai nước
đối với Đông Dương. Hoa Kỳ muốn loại bỏ vai trò của thực dân Pháp, còn Anh
lại muốn duy trì vai trò của Pháp. Tại sao lại có sự khác biệt này?.
Nghiên cứu qua trường hợp Việt Nam vì lúc này Đông Dương thuộc Pháp
bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia nhưng nói đến Đông Dương là nói đến
Việt Nam và ngược lại. Bởi Việt Nam bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với
hơn 44,5% diện tích và hơn 83,5% dân số là yếu tố quan trọng nhất.
Chọn giai đoạn chính (1941 – 1946) vì sau khi Chiến tranh thế giới thứ
hai bùng nổ thì Hoa Kỳ đến năm 1941 mới chính thức tham chiến sau khi Nhật
tấn công Trân Châu Cảng và có những thay đổi trong chính sách đối với Đông
Dương. Đến năm 1946 việc Đồng Minh chiếm đóng Đông Dương được coi như
chấm dứt, và các lực lượng Pháp chiếm đóng tất cả các thành phố lớn ở Việt
Nam, các vấn đề trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam sau đó đã
chuyển từ bối cảnh một chính sách trong chiến tranh sang phạm vi mối quan hệ
Hoa Kỳ và Pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính khách quan trong cách trình bày và nhận định các vấn
đề, người viết đã sử dụng những phương pháp chuyên ngành như:
- Phương pháp lịch sử, phương pháp logic
- Phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá
6
5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh đối với
Đông Dương qua trường hợp Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946 nhằm thu
thập và hệ thống các nguồn tài liệu, góp phần làm rõ bản chất của các nước đế
quốc về vấn đề thuộc địa, cả Hoa Kỳ và Anh đều xuất phát từ lợi ích quốc gia và
nhằm khẳng định vị thế của mình trong và sau khi chiến tranh kết thúc. Cả Hoa
Kỳ và Anh đều hiểu được “mong muốn” của nhau nên trong mối quan hệ đồng
minh thì vấn đề là theo đuổi chính sách nào để bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia.
Cho nên khi tình hình thay đổi, Hoa Kỳ lập tức điều chỉnh, thay đổi chính sách
đối với Đông Dương. Tổng thống Roosevelt từng lên án chế độ cai trị của thực
dân Pháp ở Đông Dương, không muốn Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương
khi chiến tranh kết thúc và đề nghị đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị. Nhưng
khi Hoa Kỳ cần sự hỗ trợ của Anh và Pháp trong cuộc đối đầu với Liên Xô thì
Tổng thống Roosevelt đã cho Pháp tham gia vào ủy trị quốc tế ở Đông Dương
và sau đó đồng ý chỉ đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế nếu Pháp tự
nguyện làm điều đó. Đến khi Tổng thống Truman lên thay đã ủng hộ Pháp quay
trở lại Việt Nam. Cho nên những ý tưởng hay lời hứa hoa mĩ đều không có ý
nghĩa.
Và tất nhiên tìm hiểu chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Việt Nam để
thấy được tác động của những chính sách này đến tình hình Việt Nam, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tận dụng thời cơ
“ngàn năm có một” để tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành
công dẫn đến sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Những chính
sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946 cũng
giúp chúng ta lý giải được một phần tại sao Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam sau
khi nhân dân ta kháng chiến chống Pháp thành công. Để có thể hiểu được rằng:
Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình khó khăn gian khổ trong cuộc đấu
7
tranh giành độc lập, sau kháng chiến chống Pháp là đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược.
6. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu đề tài nhằm khái quát được những nét cơ bản nhất trong chính
sách của các nước Hoa Kỳ và Anh. Qua đó có thể khẳng định rằng: tuy là đồng
minh chống phát xít, nhưng mỗi nước có những “ý đồ” khác nhau và một nơi
thể hiện điều đó là Đông Dương trong giai đoạn 1941 – 1946, qua trường hợp
Việt Nam. Tùy từng thời điểm, sự thay đổi của tình hình trong nước và thế giới,
các nước đồng minh đã điều chỉnh và thay đổi chính sách của họ đối với Việt
Nam để đảm bảo lợi ích một cách toàn diện nhất. Trong bối cảnh, Hoa Kỳ và
Anh theo đuổi những kế hoạch khác nhau đối Đông Dương, Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được những điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc đưa đến sự thành công của Cách
mạng tháng Tám 1945.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần dẫn luận, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục,
luận văn có ba chương với những nội dung chính:
Chương 1: Lập trường của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương -
trước cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương
Chương 2: Chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh -
đối với Đông Dương trong Chiến tranh Thái Bình Dương (đến ngày 9.3.1945)
Chương 3: Chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương từ -
khi Nhật đảo chính Pháp (đến 3.1946)
8
Chương 1
LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG
TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG
1.1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương
1.1.1. Vai trò của Đông Dương đối với phát xít Nhật
Nhật Bản là một quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên và trong bối
cảnh, hầu hết các nước Châu Á ở những mức độ khác nhau đều phụ thuộc hoặc
trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây thì với cuộc cải cách
Minh Trị Duy tân 1868, Nhật Bản là nước duy nhất ở Châu Á thoát khỏi số phận
một nước thuộc địa hay phụ thuộc, tiến theo con đường tư bản chủ nghĩa. Là đế
quốc “sinh sau đẻ muộn”, chủ nghĩa tư bản Nhật ra đời và lớn mạnh vào thời kỳ
nhiều nước tư bản đang chuyển sang giai đoạn đế quốc. Ở phương Đông, hầu
như thị trường thuộc địa đã phân chia xong. Vì vậy, để tranh giành khu vực ảnh
hưởng, giới tư bản Nhật, một mặt ra sức tăng cường bóc lột nhân dân trong
nước, mặt khác tiến hành các cuộc chiến tranh thôn tính. Sau hai cuộc chiến
tranh với Trung Hoa (1894 – 1895) và Nga (1904 – 1905), Nhật Bản đã trở
thành một đế quốc ở Á Đông. Với thắng lợi này, vị thế của Nhật Bản trên trường
quốc tế được nâng lên. Và cũng chính từ chiến thắng oanh liệt này, người Nhật
đủ tự tin bắt đầu toan tính đến việc bành trướng, tham gia vào cuộc giành giật thị
trường, cạnh tranh lợi ích với các cường quốc phương Tây ở Châu Á. Nước
Nhật với cuộc cải cách Minh Trị Duy tân đã trở thành “anh cả da vàng”, một
tấm gương cho nhiều nước lân bang noi theo, hướng tới con đường cải cách, tự
cường dân tộc… Hơn thế nữa, nhiều sĩ phu yêu nước từ Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia… đã đến Nhật với mong muốn tìm kiếm sự hậu thuẫn của người “anh
cả” này cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ. Đây chính là bối cảnh
9
lịch sử đã dẫn Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh và nhiều chí sĩ Việt Nam đến
Nhật vào những năm 1905-1908. Trong bối cảnh đó, lần đầu tiên, chính giới
Nhật Bản “để mắt” tới Việt Nam, lúc đó đang là thuộc địa của Pháp nằm trong
Liên bang Đông Dương.
Tuy vậy cho đến giữa những năm 1930, sự lưu tâm của Nhật Bản đối với
xứ Đông Dương vẫn chưa đậm nét. Chỉ từ khi chính phủ quân phiệt Nhật bắt tay
vào việc chuẩn bị kế hoạch bành trướng, phát động chiến tranh xâm lược ở Châu
Á thì xứ Đông Dương thuộc Pháp mới được họ thực sự quan tâm đặc biệt.
Tháng 7 năm 1937, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn Trung
Quốc. Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Nhật nhanh chóng tiến xuống phía
Nam. Tháng 10 năm 1938, quân Nhật chiếm được Quảng Châu, áp sát biên giới
Việt – Trung. Cũng chính từ thời điểm này quân Nhật chính thức đặt vấn đề xâm
lược Đông Dương.
Đối với phát xít Nhật, việc chiếm Đông Dương vào thời điểm lúc bấy giờ
đóng vai trò then chốt - “chìa khoá” thành công cho mọi nỗ lực tiến hành chiến
tranh ở Châu Á. Cụ thể là, Bắc Việt Nam với tuyến đường sắt Hải Phòng – Hà
Nội – Vân Nam là một trong hai huyết mạch giao thông chính cung cấp viện trợ
quân sự từ các nước đồng minh cho chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới
Thạch. Bởi theo cách nhìn của giới cầm quyền Tôkyô thì “dây rốn của chính
quyền Trùng Khánh chạy dài tới Anh và Hoa Kỳ”. Chính giới Nhật Bản cho
rằng để đánh gục sự kháng cự của Trùng Khánh thì phải bằng mọi giá cắt đứt
tuyến đường viện trợ này. Bên cạnh đó, mục đích không kém phần quan trọng
của quân đội Nhật khi chiếm Đông Dương chính là tạo ra một bàn đạp chiến
lược cho các bước tiến công xâm lược tiếp theo. Một “điểm tựa” tối ưu để “phía
Bắc đánh Hoa Nam, Đông đánh Phi Luật Tân, Nam đánh Mã Lai, Inđônêxia,
Australia và Tây đánh Mianma, Ấn Độ”. Đây chính là một trong những nhân tố
10
giúp quân Nhật chiếm lĩnh vị trí “thượng phong” trên chiến trường Châu Á –
Thái Bình Dương tính đến năm 1943.
Tuy nhiên việc thực hiện âm mưu xâm lược Đông Dương của giới quân
phiệt Nhật vấp phải nhiều cuộc tranh luận gay gắt dẫn tới mối bất hoà sâu sắc
trong nội bộ giới lãnh đạo Tôkyô về phương thức xâm chiếm Đông Dương.
Trong khi giới quan chức ngoại giao chủ trương xâm chiếm Đông Dương một
cách hoà bình, tức là tìm cách đạt được các mục đích nói trên bằng các biện
pháp ngoại giao, thì giới lãnh đạo quân sự muốn tấn công Đông Dương, thủ tiêu
nền thống trị của thực dân Pháp và đặt Đông Dương dưới sự thống trị trực tiếp
của Nhật, nghĩa là bằng biện pháp quân sự. Mặc dù hai phương án nói trên khác
nhau căn bản về thủ đoạn, nhưng lại đồng nhất với nhau trong mục đích cuối
cùng: bành trướng chiến tranh ở Châu Á.
Tháng 9.1940, quân Nhật kéo vào Bắc Đông Dương, tiếp đó giúp đội
quân Thái Lan đánh Campuchia, rồi ép Pháp phải nhường đất cho Thái Lan.
Chính phủ thuộc địa Pháp ở Đông Dương ký hiệp định 23.9.1940 và các hiệp
định tiếp theo chấp nhận yêu cầu của Nhật chiếm đóng Đông Dương. Từ đó,
nhân dân Đông Dương sống dưới ách thống trị “một cổ hai tròng” của Pháp –
Nhật và thực dân Pháp trở thành “con chó giữ nhà” cho Nhật. Năm 1941, quân
đội Nhật tiếp tục chiếm đóng ở nhiều cứ điểm khác nhau của miền Nam Đông
Dương.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào diễn biến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương mà
trong mỗi giai đoạn cụ thể Đông Dương giữ vai trò khác nhau trong chiến lược
chiến tranh của Nhật Bản và do đó chính sách của Nhật đối với Đông Dương
cũng thay đổi theo. Trước trận Trân Châu Cảng, đối với Nhật, Đông Dương có ý
nghĩa như một căn cứ hậu cần và một căn cứ quân sự, từ đó có thể tấn công
Trung Quốc. Sau trận Trân Châu Cảng, Đông Dương vừa tiếp tục giữ vai trò là
11
căn cứ hậu cần chiến lược, vừa là bàn đạp tấn công Đông Nam Á. Tuy vậy, từ
giữa năm 1943, hình thái chiến tranh thay đổi, khi quân đội Đồng Minh bắt đầu
chuyển sang phản công, đẩy phe Trục nói chung và quân đội Nhật nói riêng vào
thế bị động, từng bước bị đẩy lùi trên khắp các chiến trường thì vị trí của Đông
Dương trong chiến lược chiến tranh của Nhật bắt đầu thay đổi. Đặc biệt là sau
khi quân Nhật bị thất bại nặng nề cả trên chiến trường Philippin (4.1945), Miến
Điện (5.1945) và trước nguy cơ thực dân Pháp ở Đông Dương tiến hành “kháng
chiến” chống Nhật khi quân Đồng Minh đổ bộ vào thì Đông Dương trở thành
“cầu nối chiến lược” có tầm quan trọng sống còn, nối liền quân Nhật trên lục địa
Châu Á với lực lượng hải quân ở Đông Nam Á. Nếu mất “cây cầu này” thì
không những toàn bộ quân Nhật ở Đông Nam Á sẽ bị đánh tan mà các cánh
quân Nhật ở Hoa Nam cũng rơi vào tình thế bị bủa vây. Chính vì thế mà quân
Nhật buộc phải giữ Đông Dương bằng mọi giá. Cho nên Nhật đã tiến hành đảo
chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương vào đêm 9.3.1945, nhằm độc chiếm xứ
thuộc địa này.
Có thể thấy rằng: Đầu những năm 1940, Đông Dương đã trở thành một tụ
điểm cho các hoạt động chính trị quốc tế tại miền tây Thái Bình Dương. Vị trí
địa chính trị của Đông Dương là rất quan trọng đối với Nhật Bản. Đông Dương
là con đường đi miền Nam Trung Quốc, nơi mà người Nhật đang chiến đấu. Một
số lượng quan trọng vật tư được chuyển đến Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch
qua Đông Dương. Đông Dương cũng là một con đường không thể thiếu để
người Nhật tiến về phần còn lại của Đông Nam Á trong tương lai.
Khi đặt vấn đề xâm lược Đông Dương, giới cầm quyền Tôkyô không chỉ
xem Đông Dương là vị trí “chiến lược quan trọng”, có thể xâm nhập vào Trung
Quốc từ phía Nam và mở rộng xâm lược xuống vùng Đông Nam Á nhằm gạt bỏ
những ảnh hưởng của các nước phương Tây khỏi khu vực này mà còn xem xứ
12
sở này là nơi cung cấp tài nguyên phục vụ chiến tranh, trong đó chủ yếu là thóc
gạo. Đông Dương, trong đó có Việt Nam được gọi là “bát cơm của Châu Á”,
ngoài cây lúa còn có nhiều loại cây công nghiệp và khoáng sản “khu vực giàu có
về lúa gạo, cao su, than đá và quặng sắt”[18, tr 192]. Qua đó, chúng ta thấy rằng
Đông Dương thuộc Pháp trong Thế chiến thứ hai đã giúp cho Nhật tạo ra một bệ
đỡ vật chất quan trọng cho các nỗ lực chiến tranh của nước Nhật tại Châu Á.
Quân phiệt Nhật Bản trong kế hoạch bành trướng, làm chủ Châu Á đã chọn
Đông Dương làm căn cứ chiến lược. Vì vậy, ngay từ đầu chính giới Nhật tìm
mọi cách nắm giữ cho được vị trí này. Ngoài ra, Đông Dương còn là nơi cung
cấp tiềm lực cho chiến tranh của Nhật ở Châu Á – Thái Bình Dương. Do vậy,
khi Nhật chiếm được Đông Dương, phát xít Nhật đã thực hiện ở đây một chính
sách thuộc địa thực sự, cuốn xứ sở này vào guồng máy chiến tranh của Nhật.
Nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của
Pháp - Nhật.
Đông Dương có vị trí kinh tế, quân sự như thế nào đối với Nhật thì nó
cũng có ý nghĩa quan trọng như thế đối với các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung
Quốc. Với Hoa Kỳ, từ năm 1941 khi Nhật nhảy vào Việt Nam, địa bàn này trở
thành mối quan ngại đặc biệt của Tổng thống Roosevelt vì chiếm được Việt
Nam sẽ có được một căn cứ quan trọng mở rộng ra khắp Đông Nam Á và vơ vét
nguồn cao su mà nền công nghiệp này rất cần. Cho nên cả Nhật Bản và Hoa Kỳ
đều có ý định chiếm lấy xứ Đông Dương. Ngày 19.7.1941, Đại sứ Hoa Kỳ tại
Pháp đã truyền đạt trực tiếp cho thống chế Petain quan điểm của Tổng thốn
Roosevelt, tuyên bố rằng, nếu Nhật thắng, họ sẽ chiếm xưa Đông Dương, nhưng
nếu quân Đồn mình thắng thì Mỹ sẽ chiếm Đông Dương [24, tr 87]. Anh và
Trung Quốc càng quan tâm về vị trí chính trị của khu vực này bởi Ấn Độ thuộc
Anh nằm gần Đông Dương và Trung Quốc thì sát biên giới các nước này.
13
1.1.2. Sự thỏa thuận Nhật - Pháp
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ở Châu Âu (1.9.1939), đầu
tháng 6.1940 phát xít Đức tấn công Pháp. Ngày 14.6.1940, nước Pháp thất thủ.
Ngay lúc này, Nhật liền chụp lấy cơ hội để ép thực dân Pháp ở Đông Dương
chấp nhận nhượng bộ. Ngày 19.6.1940, quân Nhật gởi cho toàn quyền Georges
Catroux một bản tối hậu thư đòi phải đóng cửa hoàn toàn biên giới Việt – Trung.
Cuối mùa hè năm 1940, Chính phủ Vichy đã thoả thuận công nhận những quyền
lợi tối cao của Nhật Bản trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị ở Viễn Đông với
hy vọng sự chiếm đóng của Nhật sẽ chỉ là tạm thời và giới hạn ở Bắc Kỳ. Ngày
29.6.1940, một phái đoàn quân sự Nhật đã đến Hà Nội để kiểm soát việc đóng
cửa biên giới. Đây là bước thứ nhất trong quá trình đầu hàng nhục nhã của chính
quyền thực dân Pháp trước sưc ép của quân phiệt Nhật.
Ngay từ khi phát động chiến tranh, để hợp lý hoá và hỗ trợ cho việc bành
trướng xuống phương Nam nói chung và xứ Đông Dương nói riêng, chính giới
Nhật Bản công bố cái gọi là “Khu vực Đại Đông Á thịnh vượng chung” hay còn
gọi là “Thuyết Đại Đông Á” (Dai Toa Kyoei Ken). Nội dung cốt lõi của “Thuyết
Đại Đông Á” núp dưới chiêu bài: thành lập khu vực thịnh vượng chung Đại
Đông Á, tức là sẽ xây dựng khu vực này thành khu vực thịnh vượng và phát
triển các quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia dựa theo 5 nguyên tắc: ngoại giao
liên hợp – quân sự đồng minh – kinh tế hợp tác – văn hoá giao lưu – chính trị
độc lập. Thứ hai là bảo vệ nhân dân Châu Á, giúp nhân dân Châu Á chống lại
chính sách bất công về kinh tế, chính trị của các đế quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ và
quyết tâm thực hiện thắng lợi thuyết Đại Đông Á. Tuy nhiên, thực tế lịch sử
chứng minh, giới cầm quyền Nhật đi ngược lại lời hoa mỹ đó, nó chỉ là tấm bình
phong cho sự thống trị của đế quốc Nhật Bản tại các quốc gia chiếm đóng trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Song song với việc công bố “thuyết Đại Đông Á”,
14
chính giới Nhật vạch kế hoạch xâm chiếm Đông Dương làm cơ sở cho việc xây
dựng “khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á”.
Thực chất của chính sách này là bằng những chiêu bài “đồng văn, đồng
chủng” và những hứa hẹn “giải phóng” các nước Châu Á thoát khỏi ách thống
trị của các “đế quốc da trắng”, cùng nhau xây dựng thịnh vượng chung và bình
đẳng, Nhật Bản mưu đồ tranh giành các thuộc địa rộng lớn của các đế quốc
phương Tây ở khu vực này; khai thác, vơ vét các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực
phục vụ cho các kế hoạch xâm lược.
Trước sự gia tăng sức mạnh của Nhật ở Đông Dương, Hoa Kỳ đã cảm
thấy lo ngại và kêu gọi Vichy từ chối các yêu cầu cho phép Nhật sử dụng những
căn cứ quân sự tại Đông Dương nhưng không thể cung cấp gì nhiều hơn là một
sự bảo đảm hỗ trợ mơ hồ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố với Đại sứ Pháp
vào ngày 6 tháng 8 năm 1940 rằng: “Chúng tôi đã làm và đang làm mọi thứ có
thể trong khuôn khổ chính sách đã thành lập của chúng tôi để giữ cho tình hình
vùng Viễn Đông ổn định, chúng tôi đã dần dần thực hiện các bước khác nhau,
mục đích là để gây áp lực trên kinh tế Nhật, rằng hạm đội của chúng tôi đang
đồn trú ở Hawaii, và rằng những diễn biến mà chúng tôi đang theo đuổi, như đã
được nêu ra ở trên, là đưa ra một dấu hiệu rõ ràng về ý định và hành động của
chúng tôi trong tương lai” [47]. Đại sứ Pháp trả lời rằng: “Theo ý kiến của ông,
cụm từ “trong khuôn khổ các chính sách đã thiết lập của chúng tôi” gắn kết đến
sự miễn cưỡng rõ ràng của Chính phủ Mỹ trong việc xem xét việc sử dụng quân
đội ở vùng Viễn Đông cụ thể tại thời điểm này, có nghĩa là rằng Hoa Kỳ sẽ
không sử dụng quân đội hay hải quân nhằm hỗ trợ bất kỳ vị trí nào để chống lại
mọi toan tính xâm lược của Nhật tại Đông Dương. Đại sứ sợ rằng rằng Chính
phủ Pháp, dưới áp lực hiển hiện của Chính phủ Nhật, buộc sẽ phải nhượng bộ
…”[47]. Những lo sợ của Đại sứ Pháp đã thành sự thật.
15
Cuối tháng 7.1940, chính phủ Vichy cử đô đốc Jean Decoux làm toàn
quyền mới ở Đông Dương. Nhật Bản tiếp tục trấn an Chính phủ Vichy về chủ
quyền của Pháp trên toàn Đông Dương rằng chính phủ Nhật Bản luôn tôn trọng
quyền lợi của Pháp tại Viễn Đông, đặc biệt là sự toàn vẹn lãnh thổ của Đông
Dương và chủ quyền của Pháp trên toàn Liên bang Đông Dương. Nhật Bản đã
sớm xác định rằng, phương pháp hiệu quả nhất của việc cai quản miền đất mới
“giành được” của mình là cho phép chính quyền Decoux tiếp tục chức năng điều
hành. Vì vậy chỉ cần một ít lính tráng để kiểm soát Việt Nam là quân đội Nhật
được rảnh tay để theo đuổi những mục tiêu lãnh thổ khác ở châu Á. Các nhà
quản lý Pháp, cảnh sát và giới thương gia trên thực tế phải chịu trách nhiệm duy
trì trật tự và điều hành Việt Nam như một cơ sở tiếp tế và hậu cần hiệu quả cho
quân đội Thiên triều.
Sau khi ký Hiệp ước tay ba với Đức và Italia tháng 9 năm 1940, Nhật
Bản đã ở vào vị thế mạnh hơn để đưa ra những đòi hỏi với Pháp. Tại Đông
Dương, thực dân Pháp vẫn cố cứu vãn lợi ích của họ. Decoux tìm cách trì hoãn
việc mở cửa biên giới cho quân Nhật tiến vào Đông Dương. Sáng ngày 22 tháng
9, Nhật đã tấn công Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Chỉ sau vài giờ kháng cự
yếu ớt, Pháp đã quy hàng và buộc Decoux phải khuất phục. Chiều ngày
22.9.1940, hiệp ước bổ sung quy định thể thức chiếm Đông Dương của Nhật đã
được chính phủ thực dân Pháp chấp nhận. Sự kháng cự của Pháp đã bị nhấn
chìm trước kẻ cai trị mới của Đông Dương.
Tuy nhiên, trong năm 1941 Nhật đã vượt qua việc sử dụng các căn cứ và
đưa ra đòi hỏi một sự hiện diện tương đương để chiếm đóng ở Đông Dương.
Đến tháng 7 năm 1941, quân Nhật đã tiến vào miền Nam Việt Nam mà không
gặp phải kháng cự, giành quyền kiểm soát các sân bay và hải cảng, bao gồm khu
vực xung quanh vịnh Cam Ranh và các sân bay quanh Sài Gòn. Nhật sử dụng
16
các căn cứ ở Đông Dương để hậu thuẫn cho cuộc tấn công mở rộng Đế chế Mặt
trời mọc xuống Đông Nam Á. Cộng tác và thỏa hiệp là lựa chọn thực tế duy nhất
nếu Pháp muốn duy trì quyền kiểm soát Đông Dương. Vào này 29.7.1941, Hiệp
ước Phòng thủ chung được ký kết. Để giảm bớt chi phí chiến tranh và tránh bố
trí quá nhiều quân, Nhật tiếp tục cho phép Pháp duy trì mức tự trị trong quản lý
Việt Nam. Nhưng sự thân mật hời hợt này không tạo ra tình hữu nghị đích thực,
cũng như không giấu được tình hình thực tế: Nhật là kẻ ra lệnh và khi cần thiết,
Pháp phải nghe lời. Ngược lại, Pháp được bảo đảm tiếp tục cai trị người Việt -
những người vẫn ở nấc thấp nhất của chiếc thang thuộc địa. Như Hồ Chí Minh
đã phân tích thì: “Người Nhật trở thành chủ nhân đích thực. Người Pháp trở
thành một dạng nô lệ được tôn trọng. Người dân Đông Dương phải chịu cảnh
một cổ hai tròng - làm nô lệ không chỉ cho người Nhật mà còn là nô lệ của nô lệ
- người Pháp” [3, tr 51]
1.2. Phản ứng của Hoa Kỳ trước những họat động xâm chiếm Đông Dương
của Nhật
1.2.1. Chủ nghĩa biệt lập
Trong những năm 1930, sự kết hợp của cuộc Đại suy thoái và kí ức của
những thiệt hại bi thảm trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã góp phần thúc đẩy
dư luận và chính sách của Hoa Kỳ đến với chủ nghĩa biệt lập. Những người theo
chủ nghĩa biệt lập chủ trương không tham gia vào các cuộc xung đột ở châu Âu
và châu Á và không vướng víu trong vấn đề chính trị quốc tế [51]. Mặc dù Hoa
Kỳ đã thực hiện các biện pháp để tránh xung đột chính trị và quân sự nhưng vẫn
tiếp tục mở rộng kinh tế và bảo vệ lợi ích của mình ở châu Mỹ Latinh. Các nhà
lãnh đạo của phong trào biệt lập đã dựa trên lịch sử để củng cố vị trí của họ.
Tổng thống George Washington đã chủ trương không tham gia vào các cuộc
chiến tranh và chính trị châu Âu. Đối với phần lớn thế kỷ XIX, sự mở rộng của
17
Đại Tây Dương và Thái Bình Dương Dương đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ
thưởng thức một loại “bảo mật miễn phí” và vẫn chủ yếu tách ra từ các cuộc
xung đột thế giới cũ. Tuy nhiên, trong Thế chiến thứ nhất, Tổng thống Woodrow
Wilson đã thực hiện một trường hợp cho Mỹ can thiệp vào cuộc xung đột và
quan tâm của Mỹ trong việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình. Tuy nhiên,
kinh nghiệm của Mỹ trong cuộc chiến tranh đó đã phục vụ để củng cố lập luận
của những người theo chủ nghĩa biệt lập; họ cho rằng lợi ích của Mỹ trong cuộc
xung đột này đã không biện minh cho số thương vong của Mỹ. Thực tế của một
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và sự cần thiết phải quan tâm nhiều hơn đến các
vấn đề trong nước chỉ phục vụ để củng cố ý tưởng rằng Hoa Kỳ cần phải tự cô
lập từ các sự kiện đáng lo ngại ở châu Âu. Đối với những vấn đề quốc tế, Chính
phủ Hoa Kỳ nhiều lần chọn không vướng víu tham gia hoặc can thiệp vào. Ngay
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Quốc hội Hoa Kỳ bác bỏ các thành viên trong
Hội Quốc Liên. Một số thành viên Quốc hội tỏ ra lo ngại rằng nó sẽ thu hút Hoa
Kỳ vào cuộc xung đột châu Âu.
Năm 1931, Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu và tiếp theo đẩy mạnh việc
giành quyền kiểm soát rộng lớn của vùng Đông Bắc Trung Quốc. Hoa Kỳ bày tỏ
lo ngại về các hành động gây hấn mà bản thân không cam kết với bất kỳ sự tham
gia trực tiếp hoặc can thiệp, những xung đột khác như cuộc nội chiến Tây Ban
Nha cũng hầu như không có cam kết chính thức hoặc hành động nào của Chính
phủ Hoa Kỳ. Cho nên, trong quá trình vận động tranh cử của Franklin Delano
Roosevelt, ông đã tập trung vào chủ nghĩa hoà bình. Sau khi nhậm chức, Tổng
thống Roosevelt có xu hướng nhìn thấy một điều cần thiết đối với Hoa Kỳ để
tham gia tích cực hơn trong các vấn đề quốc tế, nhưng khả năng để áp dụng
quan điểm cá nhân của mình đối với chính sách nước ngoài bị giới hạn bởi sức
mạnh của thái độ cô lập trong Quốc hội. Năm 1933, Tổng thống Roosevelt đã đề
xuất một biện pháp với Quốc hội là cấp cho ông quyền tham khảo ý kiến với các
18
quốc gia khác để đặt áp lực lên những kẻ xâm lược trong các cuộc xung đột
quốc tế. Dự luật này đã gặp sự phản đối mạnh mẽ từ những người theo chủ
nghĩa biệt lập hàng đầu trong Quốc hội, trong đó có các chính trị gia tiến bộ như
thượng nghị sĩ Hiram Johnson California, William Borah Idaho, và Robert La
Follette Wisconsin. Cũng trong năm 1935, tranh cãi về Mỹ tham gia vào Tòa án
Thế giới gợi ra sự phản đối tương tự [51]. Khi căng thẳng gia tăng ở châu Âu
trong cuộc diễn tập xâm lược của Đức Quốc xã, Quốc hội đã thúc đẩy thông qua
một loạt các hành vi trung lập, để ngăn chặn tàu Mỹ và công dân khỏi bị vướng
vào các cuộc xung đột bên ngoài. Một đạo luật về Trung lập (Neutrality Act)
được thông qua, không cho Tổng thống có quyền phán xét nước nào xâm lược,
nước nào không xâm lược trong các cuộc tranh chấp quốc tế [13, tr29].
Roosevelt than thở tính chất hạn chế các hành vi, nhưng vì ông vẫn cần Quốc
hội hỗ trợ cho các chính sách kinh tế mới của mình, ông miễn cưỡng ưng thuận.
Mặc dù bản thân Roosevelt đã chỉ trích cuộc xâm lược và sau đó sát nhập
Mãn Châu của Nhật Bản nhưng ông không có ý định can dự vào cuộc tranh chấp
xa xôi này, không muốn bị lôi kéo vào các cuộc xung đột ở châu lục khác.
Những người theo chủ nghĩa biệt lập là một nhóm đa dạng, bao gồm cả cấp tiến
và bảo thủ, chủ doanh nghiệp và các nhà hoạt động hòa bình. Roosevelt đã chấp
nhận sức mạnh của các yếu tố biệt lập trong Quốc hội cho đến năm 1937. Trong
năm đó, khi tình hình ở châu Âu tiếp tục theo chiều hướng tồi tệ hơn và lần thứ
hai Chiến tranh Trung Nhật bắt đầu ở châu Á, Tổng thống đã đưa ra một bài
phát biểu, trong đó ông so sánh sự xâm lược quốc tế như một căn bệnh rằng các
quốc gia khác phải làm việc để “kiểm dịch”. Tuy nhiên, ngay thời điểm đó
người Mỹ vẫn chưa sẵn sàng hy sinh mạng sống và sinh kế của họ cho hòa bình
ở nước ngoài.
19
Ngay từ đầu, các quan chức Hoa kỳ xem sự phát triển của Trung Quốc với
sự mâu thuẫn. Một mặt, họ phản đối cuộc xâm nhập Nhật Bản vào phía đông
bắc Trung Quốc và sự gia tăng của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong khu
vực, một phần là do ý thức của một tình bạn lâu dài với Trung Quốc. Mặt khác,
hầu hết các quan chức Mỹ tin rằng nó không có lợi ích sống còn ở Trung Quốc
có giá trị đi đến chiến tranh hơn với Nhật Bản. Roosevelt một lần nữa lên án
những hoạt động quân sự của Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn chặn sức
mạnh quân sự của Thiên Hoàng. Và cho dù, hầu hết công chúng Hoa Kỳ đều
muốn Nhật bại trận nhưng họ không ủng hộ những hành động quân sự của Hoa
Kỳ nhằm bảo vệ Trung Quốc. Rõ ràng, thiện cảm của Roosevelt còn dành cho
người Trung Quốc, mức độ lo lắng về những gì Nhật Bản có thể làm tiếp theo -
tất cả đã thuyết phục ông giúp Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách
không gây đối kháng với cả Nhật Bản lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập
Mỹ.
Đến khi người Pháp đặc biệt lo ngại Nhật Bản có thể tấn công Bắc Kỳ,
nơi những trang thiết bị có tầm quan trọng sống còn được vận chuyển bằng
đường thuỷ đến Hải Phòng và từ đó theo đường sắt đến Vân Nam hoặc Lạng
Sơn rồi theo đường bộ vào trung tâm Trung Quốc. Trong khi theo dõi tình hình
châu Á, Roosevelt đã thúc giục các cố vấn của ông tìm kiếm những biện pháp
hoà bình giúp tiếp tục mở những tuyến tiếp tế đến trung tâm Trung Quốc nhưng
vì theo đuổi chủ nghĩa biệt lập nên về mặt chính trị và quân sự ông không thể
gửi quân tới bảo vệ Đông Dương hay bất kỳ thuộc địa nào khác của châu Âu.
Đầu năm 1939, chính quyền Roosevelt đã nhận thấy mối đe dọa toàn cầu
do sự bành trướng của Nhật và Đức gây ra, Nhật xâm nhập ngày càng sâu vào
Đông Nam Á. Sự quan tâm lớn nhất của Nhật ở vùng Đông Nam Á là nắm
quyền kiểm soát Inđônêxia - nước có nhiều dầu lửa. Và Đông Dương là một căn
20
cứ tiền tiêu quan trọng để thực hiện mục đích này, bởi các hải cảng và sân bay ở
đây. Một tháng sau khi đánh chiếm đảo Hải Nam, một đảo của Trung Quốc gần
Bắc Bộ, từ lâu được coi là khu vực thuộc ảnh hưởng của Pháp, Nhật lại đánh
chiếm quần đảo Hoàng Sa. Đứng trước mối đe dọa này của Nhât đối với
Philippin, Inđônêxia và Đông Dương thuộc Pháp, Roosevelt đã ra lệnh cho hạm
đội của Mỹ đang tập trận ở vùng biển Caribe trở lại Thái Bình Dương. Tháng 7
năm 1939, sau sự chèn ép hơn nữa các quyền lợi của phương Tây ở Trung Quốc,
Hoa Kỳ đã tiến hành một bước quan trọng, hủy bỏ Hiệp ước thương mại với
Nhật [24, tr 79].
Khi chiến tranh nổ ra tại châu Âu vào tháng Chín năm 1939, Tổng thống
Franklin D. Roosevelt tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ giữ trung lập. Năm 1940,
Roosevelt đang theo đuổi nhiệm kì tổng thống thứ ba, không dám vượt qua dư
luận công chúng Mỹ về vấn đề dính líu trong chiến tranh. Roosevelt hiểu toàn
bộ khát vọng của người dân Mỹ là không muốn vướng vào những cuộc chiến
của châu Âu vốn được cho là một phần của toà nhà đế quốc. Xu thế của thời đại
là chống chiến tranh mở rộng thuộc địa. Ông phải hành động trong một hoàn
cảnh cực kỳ khó khăn: trung hoà yêu cầu đòi đứng ngoài cả tình trạng hỗn độn ở
Trung Quốc lẫn chiến tranh đang ngày một khốc liệt ở châu Âu của những người
ủng hộ chính sách biệt lập và niềm tin của chính ông rằng, Hoa Kỳ sẽ phải vào
cuộc để bảo vệ nền dân chủ và tự do thương mại cực kỳ quý giá đối với Mỹ và
bị chỉ trích trong thiết lập cũng như duy trì hoà bình thế giới. Nhận ra những khó
khăn của Roosevelt với công luận Mỹ, Anh và Pháp đều sợ rằng sự can thiệp
của Hoa Kỳ là không xảy ra.
Vào lúc này, dư luận đã chuyển từ lập trường tuyệt đối trung lập để hỗ trợ
viện trợ trong giới hạn của Mỹ cho các nước đồng minh trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp thiết bị quân sự quan trọng và hỗ trợ khác
21
cho các nước đồng minh vào tháng 09 năm 1940, mặc dù Hoa Kỳ đã không
tham chiến đến tháng 12 năm 1941. Phần lớn viện trợ này đưa vào Vương quốc
Anh và các quốc gia khác đã có chiến tranh với Đức và Nhật Bản thông qua một
chương trình “Vay – Mượn”. Trong năm 1940 và 1941, Tổng thống Franklin D.
Roosevelt chính thức viện trợ cho Trung Quốc. Chính phủ Hoa Kỳ mở rộng tín
dụng đối với Chính phủ Trung Quốc để mua vật tư chiến tranh, vì nó dần dần
thắt chặt các hạn chế về Nhật Bản. Hoa Kỳ là nhà cung cấp dầu, sắt thép và các
mặt hàng khác cần thiết cho quân đội Nhật Bản nhưng vào tháng Giêng năm
1940, Hoa Kỳ bãi bỏ các hiệp ước hiện có của thương mại với Nhật Bản. Mặc
dù điều này không dẫn đến một lệnh cấm vận ngay lập tức, nó có nghĩa là chính
quyền Roosevelt bây giờ có thể hạn chế lưu lượng thiết bị quân sự vào Nhật Bản
để ngăn chặn sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc.
Sau tháng Giêng năm 1940, Hoa Kỳ đã kết hợp một chiến lược tăng viện
trợ cho Trung Quốc thông qua các khoản tín dụng lớn hơn và chương trình “Vay
– Mượn” với một động thái dần dần hướng tới một lệnh cấm vận về thương mại
của tất cả các mặt hàng quân sự hữu ích với Nhật Bản. Trong thực tế, Nhật Bản
sẽ phải khởi động một chiến dịch chinh phục quân sự và không có ý định rút
khỏi Trung Quốc. Đồng thời, một số hiệp ước của Nhật với các quốc gia phương
Tây trở thành một mối đe dọa cho Hoa Kỳ. Thứ nhất, Nhật Bản đã ký Hiệp ước
ba bên với Đức và Ý vào ngày 27 tháng 9 năm 1940 và từ đó liên kết những
cuộc xung đột ở châu Âu và châu Á. Điều này làm cho Trung Quốc là một đồng
minh tiềm năng trong cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa phát xít. Sau đó, vào
giữa năm 1941, Nhật Bản đã ký một hiệp ước trung lập với Liên Xô. Một thỏa
thuận thứ ba với Vichy cho phép các lực lượng Nhật Bản di chuyển vào Đông
Dương.
22
Mặc dù Roosevelt đã cung cấp nhiều nguyên vật liệu bằng tất cả khả năng
của ông trong những giới hạn của pháp luật Hoa Kỳ và sự phê chuẩn của nghị
viện, nhưng ông không thể đề nghị can thiệp quân sự và ông không thể ngăn
chặn việc nước Pháp đầu hàng. Ngày 25 tháng 6 năm 1940, chính phủ Vichy của
Pháp kí Hiệp ước đình chiến với Hitle. Roosevelt tự mình nỗ lực đáng kể để
giúp các quốc gia tham gia vào cuộc đấu tranh chống phát xít Đức và muốn mở
rộng một bàn tay giúp đỡ cho những nước thiếu vật tư cần thiết để chiến đấu
chống lại quân Đức. Mặc dù Tổng thống Roosevelt muốn cung cấp hỗ trợ cho
người Anh nhưng cả pháp luật của Hoa Kỳ và những lo ngại rằng Hoa Kỳ sẽ bị
lôi kéo vào cuộc xung đột. Tướng George C. Marshall, dự đoán rằng nước Anh
sẽ đầu hàng sau sự sụp đổ của Pháp, và nguồn cung cấp do đó Mỹ gửi đến Anh
sẽ rơi vào tay người Đức. Marshall và những người khác do đó cho rằng an ninh
quốc gia sẽ được phục vụ tốt hơn bằng cách đặt thiết bị quân sự cho quốc phòng
của Tây Bán Cầu. Ý kiến của công chúng Mỹ cũng giới hạn các lựa chọn của
Roosevelt. Nhiều người Mỹ phản đối sự tham gia của Hoa Kỳ trong cuộc chiến
tranh khác. Mặc dù dư luận Mỹ nói chung hỗ trợ người Anh chứ không phải là
người Đức
Với sự sụp đổ của Pháp trước Đức Quốc xã, việc Đông Dương cuối cùng
sẽ rơi vào tay một thành viên trong phe Trục xem ra không thể tránh được. Thứ
trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đã báo cho đại sứ Pháp biết là Hoa Kỳ sẽ không tham
chiến với Nhật ở Đông Dương. Tiếp theo đó là Nhật yêu cầu Pháp phải nhượng
lại các căn cứ quân sự và không quân ở Đông Dương, để Nhật sử dụng vùng
thuộc địa này làm căn cứ tấn công Malaixia, Singapore, Inđônêxia. Một lần nữa,
lập trường của Hoa Kỳ là không thể làm gì để giúp Pháp được. Tháng 9 năm
1940, chính phủ Pháp đã chấp nhận kí Hiệp ước dâng chủ quyền Đông Dương
của mình cho Nhật
23
Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Tổng thống Roosevelt đã tuyên bố việc xuất
khẩu dầu lửa và kim loại thừa của Hoa Kỳ phải được phép của chính phủ. Ngày
26 tháng 9, một quyết định khác của tổng thống Hoa Kỳ cũng được công bố về
việc ngưng hoàn toàn việc xuất khẩu sắt vụn. Những biện pháp trên được coi là
đòn nặng đầu tiên của Hoa Kỳ đánh vào nền sản xuất công nghiệp chiến tranh
của Nhật. Hai tháng sau, ngày 27 tháng 9 năm 1940, Nhật đã phản ứng bằng
cách kí Hiệp ước tay ba với Đức và Italia, cũng thỏa thuận rằng Hiệp ước này
không chỉ chống Liên Xô mà còn chống cả “những kẻ gây chiến Hoa Kỳ” [24, tr
80]. Chính phủ Hoa Kỳ nhận thức được khả năng của một cuộc chiến tranh với
Nhật sẽ xảy ra. Vấn đề là phải chuẩn bị các kế hoạch đối phó.
1.2.2. Hoa Kỳ đề nghị “trung lập hóa” Đông Dương
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đông Dương là thuộc địa của
Pháp và khi Nhật chưa đặt chân đến Đông Dương. Hoa Kỳ chưa xác lập vị thế
của mình ở vùng đất này hay chưa có cơ hội chen chân vào Đông Dương, dòm
ngó đến Việt Nam vì sự độc quyền của Pháp. Trong khoảng thời gian nước Pháp
bị Đức tấn công, còn thuộc địa Đông Dương thì bị Nhật chiếm đóng, Hoa Kỳ tỏ
ra lo ngại và đã quan tâm nhiều hơn đối với Đông Dương, trong đó có Việt
Nam. Lúc này, ý đồ của Mỹ được thể hiện như thế nào? Khi Nhật chiếm đóng
Đông Dương nhưng chưa gây chiến tranh với Hoa Kỳ, dù là đồng minh nhưng
Hoa Kỳ đã từ chối giúp Pháp và Tổng thống Roosevelt đã đặt vấn đề muốn
“trung lập hóa” Đông Dương với Nhật.
Vào tháng 9.1940, chính phủ Pháp chấp nhận ký Hiệp ước dâng chủ
quyền của mình ở Đông Dương cho Nhật và Nhật đem quân chiếm đóng toàn
Đông Dương, làm bàn đạp tấn công Đông Nam Á. Điều này đã làm cho mâu
thuẫn giữa Nhật và các cường quốc Âu – Mỹ trở nên gay gắt, bởi họ muốn giữ
thuộc địa của mình ở khu vực Đông Nam Á nên sự có mặt của Nhật làm cho các
24
nước Đồng minh cảm thấy không hài lòng. Tuy vậy, Hoa Kỳ vẫn cố gắng né
tránh một cuộc chiến tranh với Nhật bằng những cuộc đàm phán. Lúc này, chính
phủ Hoa Kỳ đã ảo tưởng nghĩ rằng, bằng những cuộc đàm phán, Hoa Kỳ có thể
phân chia quyền lợi với Nhật ở Đông Dương.
Từ tháng 3.1941, Đông Dương trở thành chủ đề chính trong nhiều cuộc
nói chuyện giữa Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Cordell Hull và đại sứ Nhật Bản
Nômura tại Washington. Việc quân đội Nhật vào Đông Dương và sự thoả hiệp
của Pháp đã làm cho Tổng thống Roosevelt hết sức lo ngại vì điều đó đe dọa
trực tiếp đến quyền lợi của Hoa Kỳ và tạo cho Nhật Bản một căn cứ để mở rộng
xâm lược ra khắp Đông Nam Á. Với vị trí “đầu cầu” của Đông Nam Á, Việt
Nam trở thành mục tiêu mà Nhật cần xâm chiếm nhất, đó là bước quan trọng
trong chương trình của Nhật nhằm chinh phục Đông Nam Á [24, tr 79]. Ngoại
trưởng Hoa Kỳ cho rằng, việc chiếm Đông Dương của Nhật có thể là một bước
tiếp theo quan trọng hơn nhằm nắm quyền kiểm soát vùng biển phía Nam, bao
gồm các con đường thương mại cực kì quan trọng đối với Hoa Kỳ và để kiểm
soát các sản phẩm chiến lược như cao su, thiếc, và nhiều sản phẩm khác. Và
Đông Dương chưa phải là bước cuối cùng trong kế hoạch “Nam tiến” đầy tham
vọng của Nhật.
Ngày 24.7.1941, Tổng thống Roosevelt đã đưa ra quan điểm của mình:
“Không một cường quốc nào được tham gia bất cứ hành động quân sự nào để
kiểm soát Đông Dương và cũng không chia sẻ cho nước Pháp tự do của De
Gaulle”[47]. Tổng thống tuyên bố rằng Chính phủ Nhật phải ngưng không được
chiếm đóng Đông Dương bằng quân đội và hải quân, hoặc nếu thực sự đã có
những khởi sự được bắt đầu, nếu chính phủ Nhật ngưng và rút hết các lực lượng
này, Tổng thống có thể đảm bảo với chính phủ Nhật rằng ông sẽ làm tất cả mọi
thứ trong quyền hạn của mình để có được từ các chính phủ Trung Quốc, Anh,
25
Hà Lan, và tất nhiên cả chính Hoa Kỳ cùng ra một tuyên bố long trọng và có
tính ràng buộc ký với Nhật cùng cam kết, coi Đông Dương là một quốc gia trung
lập cùng một cách thức như nước Thụy Sĩ mà các cường quốc đã công nhận là
quốc gia trung lập. Với hi vọng cùng chia sẻ quyền lợi ở Đông Dương với Nhật,
tổng thống Hoa Kỳ đã đề xuất với phía Nhật thực hiện việc trung lập hóa Đông
Dương bằng một Hiệp ước của tất cả các nước quan tâm (trừ Pháp). Nhật sẽ
được đảm bảo quyền lợi được cung cấp nguyên liệu từ Đông Dương trên cơ sở
cân bằng với các nước khác. Quan điểm này đã được Chính phủ Hoa Kỳ theo
đuổi trong suốt cả năm 1941 và thậm chí Hoa Kỳ còn xúc tiến và hy vọng ký
được một Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau với nước phát xít Nhật.
Bất chấp những cố gắng của chính quyền Roosevelt, chính phủ Hoa Kỳ và
Nhật Bản vẫn nhảy theo những điệu nhạc khác nhau. Trong khi, Roosevelt cố
ngăn chặn sự bành trướng của quân Nhật vào phần còn lại của Việt Nam và sự
lan rộng hơn nữa của chiến tranh Thái Bình Dương bằng đề nghị trung lập hoá
Đông Dương thuộc Pháp thì Nhật Bản đã bác bỏ đề nghị đó. Bởi nếu đồng ý với
Tổng thống Roosevelt thì Nhật chấp nhận chia sẻ quyền lợi của mình, trước khi
đánh chiếm Đông Dương, Nhật đã đưa ra “Thuyết đại Đông Á”. Tham vọng của
Nhật là độc chiếm các nước Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á và cả Australia,
New Zeland, để biến các nước này thành thị trường hàng hóa của Nhật. Đồng
thời đối với một nước đông dân, nghèo tài nguyên như Nhật thì rất cần khai thác
nguyên liệu và sản phẩm. Trên thực tế, ngay cả bản thân Tổng thống Roosevelt
cũng nhận thấy ít có hy vọng được Nhật chấp nhận, vì chấp nhận đề nghị đó có
nghĩa là là Nhật phải nhân nhượng và chia sẻ quyền lợi mà Nhật vừa mới giành
được từ tay Pháp. Điều này sẽ tạo ra trở ngại lớn trong việc sử dụng Đông
Dương làm bàn đạp để tiếp tục thực hiện kế hoạch bành trướng - chìa khóa chiến
lược cho toàn Đông Nam Á của Nhật.
26
Ngày 17.11.1941, cả Roosevelt lẫn Cordell Hull trực tiếp đến gặp Nomura
để thuyết phục Nhật chấp nhận đề nghị trung lập hóa Đông Dương, nhưng thất
bại. Tiếp tục, ngày 26.11, Hoa Kỳ đã trao cho Nhật một công hàm đề nghị triệu
tập một hội nghị quốc tế gồm Mỹ, Nhật, Anh, Hà Lan, Trung Hoa và Thái Lan
nhằm bảo đảm cho nền trung lập của Đông Dương, trong đó sáu nước có quyền
ngang nhau trong việc trao đổi mua bán hàng hóa với Đông Dương. Như vậy,
thực chất của chính sách “trung lập hóa Đông Dương” mà Mỹ đưa ra nhằm hạn
chế, ngăn chặn đà xâm lược của Nhật đang tiến triển tại đây, chủ trương này đã
đánh dấu sự thay đổi cách nhìn cũng như chính sách của Mỹ đối với vấn đề
Đông Dương.
Đến cuối mùa hè năm 1941, quân Nhật tiến vào miền Nam Việt Nam.
Đáp lại, Mỹ đóng băng các tài sản của Nhật. Tuy nhiên, việc này không cho thấy
dự định nhằm “bảo vệ” Việt Nam hay thậm chí Trung Quốc trước Nhật Bản.
Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục các cuộc thảo luận với Tokyo với hy vọng
trì hoãn, thậm chí có thể tránh một cuộc chiến tranh trên Thái Bình Dương. Như
là một phần của nỗ lực để được Nhật đồng ý cho một hiệp ước không xâm lược,
ngày 6.12, Hoa Kỳ vẫn hy vọng Nhật có thể thay đổi lập trường, Tổng thống
Roosevelt đã gởi cho Nhật hoàng một thông điệp đề nghị Nhật rút khỏi Đông
Dương, để cho Đông Dương được trung lập, hai nước Hoa Kỳ và Nhật đảm bảo
không xâm lược lẫn nhau. Nhưng sự kiện ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi Nhật
tấn công Trân Châu Cảng đã đẩy Hoa Kỳ đến chỗ không còn sự lựa chọn nào
khác là phải nhảy vào vòng chiến chống lại liên minh ba nước Đức – Italia –
Nhật[13, 30], đồng thời đặt vấn đề tương lai của Đông Dương vào một bối cảnh
hoàn toàn khác những chiến lược của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
27
1.3. Anh hợp tác với Pháp nhằm duy trì quyền lực ở các thuộc địa Đông
Nam Á
Đông Nam Á là nơi có nhiều thực dân xâm lực nhất, bởi đây là khu vực
hấp dẫn, có tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lí thuận lợi, dân số đông.
Khu vực này được coi là hành lang, cầu nối giữa phương Đông và phương Tây.
Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam ở Đà Nẵng và từng bước thiết lập
quá trình cai trị ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Đông Dương trở thành thuộc địa
của thực dân Pháp. Trong danh sách các nước thực dân thì Anh là nước đứng
đầu và để “mặt trời không bao giờ lặn ở nước Anh”, thực dân Anh cũng ra sức
chạy đua với Pháp chinh phục các miền đất ở phía tây Đông Dương. Sau ba
cuộc chiến tranh xâm lược 1824-1826, 1852, 1885 Miến Điện trở thành thuộc
địa của thực dân Anh. Anh cũng lần lược chiếm được Mã Lai, Singapore.
Ngay sau khi chiếm được thuộc địa ở Đông Nam Á, thực dân Anh và
Pháp đã tiến hành các phương thức, sử dụng những thủ đoạn khác nhau để khai
thác, bóc lột người dân thuộc địa. Mặc dù hình thức thống trị của thực dân ở
thuộc địa không giống nhau, tính chất thuộc địa ở mỗi nước có nét khác nhau
nhưng cùng một mục đích là bóc lột để mang về lợi nhuận cao nhất cho chính
quốc, biến các nước thuộc địa ở Đông Nam Á thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa, cung cấp nguyên nhiên liệu và là căn cứ chiến lược. Chính sách cai trị hà
khắc và bóc lột dã man của thực dân Anh, Pháp đối với nhân dân thuộc địa ở
Đông Nam Á đã dẫn đến phong trào đấu tranh bùng nổ mạnh mẽ, trãi qua nhiều
giai đoạn khác nhau. Để duy trì quyền lực, cả Anh và Pháp đều ra sức đàn áp để
dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân thuộc địa. Đối với thực dân Anh, họ
không muốn phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương phát triển sẽ “làm
gương” cho nhân dân thuộc địa của Anh ở khu vực Đông Nam Á. Cho nên Anh
đã hợp tác với Pháp để duy trì quyền lực của mình.
28
Những năm 1930 chính quyền thực dân Anh - Pháp thẳng tay đàn áp, truy
tìm bắt bớ những người cộng sản yêu nước tại hầu khắp các nước Đông Nam Á
và một số nước châu Á và người An Nam khiến bọn thực dân, phong kiến rất lo
sợ cho sự tồn vong của chúng chính là Nguyễn Ái Quốc. Mùa xuân năm 1930,
sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (đến tháng 10 năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương).
Nguyễn Ái Quốc lúc đó tên là Tống Văn Sơ tiếp tục ở lại Hồng Kông hoạt động
cách mạng. Người ở lại ngôi nhà số 186 phố Tam Lung, Cửu Long – Hương
Cảng và nơi đó trở thành trụ sở liên lạc bí mật giữa Nguyễn Ái Quốc và một số
đồng chí khác.
Uy tín và vai trò của Nguyễn Ái Quốc làm cho đế quốc Pháp phải hoảng
sợ và tìm mọi cách để ám hại. Pháp cảnh báo và đề nghị sự can thiệp của chính
quyền Anh vì Pháp cho rằng hoạt động của Nguyễn Ái Quốc không chỉ nguy
hiểm đối với tất cả các thuộc địa của Châu Âu ở Viễn Đông mà hoạt động của
ông còn mở rộng đến tận Singapore, sang cả vùng Ấn Độ. Nhà cách mạng này
luôn là ưu tiên số một trong việc bắt giữ và từ năm 1929 mặc dù chưa bắt được
nhưng Tòa đại hình tại Vinh đã tuyên tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc. Ngày
6.6.1931 một kế hoạch bắt Tống Văn Sơ được mật vụ Pháp ở Đông Dương và
mật thám Anh ở Hồng Kông thực hiện một cách tinh vi, bí mật tránh không cho
truyền thông, báo chí biết nhằm bí mật đưa Nguyễn Ái Quốc từ Hồng Kông về
Đông Dương mà cụ thể là An Nam giao cho chính quyền thực dân, phong kiến
thủ tiêu. Toàn quyền Rôbanh đã điện từ Hà Nội báo tin cho Bộ Ngoại giao Pháp
và Tổng Lãnh sự Pháp tại Hồng Kông mở cuộc vận động chính quyền Hồng
Kông giao Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền Pháp bằng cách dẫn độ về Đông
Dương hoặc giam giữ ở một nơi xa xôi nào đó của Anh chứ tuyệt nhiên không
được trả tự do. Nằm trong âm mưu dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương để
29
thi hành án tử hình, nhà cầm quyền Pháp dùng mọi thủ đoạn để vận động Chính
phủ Anh và Hội đồng Hành pháp Hồng Kông sớm trục xuất Nguyễn Ái Quốc.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công nước
Pháp. Mùa hè năm 1940, nước Pháp thất thủ trước những đòn tấn công như vũ
bão và chớp nhoáng của quân đội Hitle. Tướng De Gaulle không chấp nhận đầu
hàng, kêu gọi nhân dân tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại phát xít Đức. Ngày
17.6.1940, để tránh sự truy lùng của Đức, De Gaulle đã đến thành phố London,
ông bát bỏ việc nước Pháp đầu hàng và bắt đầu xây dựng một phong trào kêu
gọi mọi thành phần Pháp ở hải ngoại đoàn kết chống lại nước Đức Quốc xã.
Trong một thời gian dài, Hoa Kỳ đã không công nhận tướng De Gaulle là đại
diện cho nước Pháp tự do và họ muốn thương thượng với chính phủ Vichy. Thủ
tướng Churchill đã không bỏ rơi nước Pháp, tạo điều kiện cho De Gaulle được
hoạt động lưu vong ở nước Anh. Hành động “che chở” cho De Gaulle của chính
phủ Anh cũng nhằm giữ vững địa vị của Anh ở các thuộc địa của mình, Anh
không muốn nhìn thấy sự thất bại của nước Pháp sẽ tạo điều kiện thổi bùng một
làn sóng đấu tranh ở các thuộc địa của Pháp, nó sẽ thúc đẩy và mở đường cho
nhân dân ở các thuộc địa của Anh nổi dậy, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á.
TIỂU KẾT
Đông Dương, trong đó có Việt Nam là nơi có nguồn tài nguyên vô cùng
phong phú, đặt biệt là lúa gạo. Nhật Bản xem đây là bàn đạp cho cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Nam Á. Sau khi Pháp thất thủ, thực dân Pháp ở Đông
Dương rất hoang mang, không còn trông mong gì được vào sự chi viện về quân
sự hoặc hậu thuẫn về chính trị của chính quốc. Năm 1940, Nhật Bản từng bước
xâm nhập và kiểm soát Đông Dương trong sự khuất phục và hợp tác của Pháp
với hi vọng có thể duy trì sự hiện diện ở xứ thuộc địa này.
30
Trước những hành động xâm nhập của phát xít Nhật vào Đông Dương,
chính phủ Hoa Kỳ đã từ chối viện trợ cho Pháp và muốn thương lượng với Nhật,
đưa ra đề nghị “trung lập hóa” Đông Dương nhưng những nổ lực của Tổng
thống Roosevelt đã không được Nhật đáp lại vì chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ
tức là Nhật phải chia sẻ quyền lợi của mình. Trong khi đó, trước cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương thì chính phủ Anh đã tích cực hợp tác với Pháp để duy
trì quyền lực ở Đông Nam Á vì Anh hiểu rõ rằng một sự xáo trộn hệ thống thuộc
địa ở Đông Nam Á, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến thuộc địa của Anh ở khu vực
này.
31
Chương 2
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI
VỚI ĐÔNG DƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG
(ĐẾN NGÀY 9.3.1945)
2.1. Tổng thống Roosevelt chủ trương đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc
tế (International Trusteeship)
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày 14.8.1941 Tổng thống
Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston S.Churchill cùng nhau ra
Tuyên bố chung Hiến chương Đại Tây Dương. Điều 3 của Hiến chương này nói
rằng Anh và Hoa Kỳ tôn trọng quyền của tất cả mọi dân tộc được lựa chọn hình
thức chính quyền lãnh đạo họ, Anh và Hoa Kỳ cũng mong muốn nhìn thấy chủ
quyền và các hình thức nhà nước tự trị của các dân tộc trước kia bị người khác
dùng vũ lực tước mất được tái lập lại. Những cam kết được tuyên bố trong Hiến
chương Đại Tây Dương đã hình dung ra một thế giới được xây dựng trên sự hài
hòa chứ không phải là sự cân bằng quyền lực của thế giới cũ. Lời lẽ trong Hiến
chương Đại Tây Dương xem chừng rất tiến bộ nhưng đó chỉ là thủ đoạn nhằm
xoa dịu phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, giữ cho hậu phương yên ổn để Hoa Kỳ và
Anh có thể tập trung đối phó với phe trục Đức – Italia – Nhật. Ở mức độ nào đó,
điều này cũng cho thấy mối quan tâm của Hoa Kỳ đến Đông Dương đang nằm
dưới sự cai trị của Pháp. Nó ám chỉ một khái niệm mơ hồ về tự do, dân chủ, hòa
bình và an ninh, chủ quyền, bình đẳng, và hợp tác. Ngoài ra, nó đóng vai trò như
một “phần mềm ác tính” (Trojan horse), mở đường cho việc thâm nhập của Hoa
Kỳ vào thị trường thuộc địa [44, tr 12]. Đối với người Mỹ, nó giống như hồi
chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới [42, tr 22]. Có thể nói
rằng, Điều Ba của Hiến chương Đại Tây Dương dần dần phát triển thành khái
32
niệm ủy trị của Tổng thống Franklin D. Roosevelt trong khoảng thời gian vài
năm [42, tr 23]. Rõ ràng, Hiến chương Đại Tây Dương đã chứng minh rằng,
Tổng thống đã tìm cách tạo ra một trật tự quốc tế mới dựa trên sự hài hòa, dân
chủ và kết thúc của đế quốc cũ. Các giá trị Mỹ đã được tán thành cho người Mỹ
lãnh đạo trật tự thế giới mới. Nhưng lúc này, Hoa Kỳ vẫn chưa chính thức tham
chiến cho đến bốn tháng sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng.
Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Hoa Kỳ không chỉ đối phó
với Nhật mà còn đánh nhau với Đức – Italia ở chiến trường Châu Âu. Có thể
thấy lúc này, Hoa Kỳ thật sự quan tâm đến Đông Dương, không chỉ vì vai trò
của Đông Dương đối với Nhật mà từ lâu tổng thống Franklin D. Roosevelt đã
muốn gạt Pháp ra khỏi Đông Dương để giữ vai trò trung tâm trong tương lai của
Đông Dương sau khi chiến tranh kết thúc. Bởi Hoa Kỳ cũng là một nước đế
quốc, lẽ tất nhiên Hoa Kỳ luôn chạy đua để giành thị trường, thuộc địa khẳng
định vị thế của mình, để có thể tồn tại – vì đó là bản chất của chủ nghĩa đế
quốc. Và ngay lúc này, tình hình diễn ra ở chiến trường Châu Á – Thái Bình
Dương đã không cho phép Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc chiến mà phải đặt vấn đề
tương lai của Đông Dương trong một khung cảnh khác hẳn chiến lược của Hoa
kỳ dự tính trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ứng phó với những thay đổi chính
trị và chủ nghĩa dân tộc ở Đông Nam Á là những thách thức quan trọng mà Hoa
Kỳ gặp phải trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự gián đoạn được gây ra bởi lực
lượng Hoa Kỳ để xác định mong muốn của họ trong cuộc đấu tranh của các dân
tộc Châu Á chống lại chủ nghĩa đế quốc Châu Âu. Người Nhật đã lật đổ địa vị
của người Châu Âu ở Đông Nam Á. Trong khi Nhật chiếm đóng Đông Nam Á,
Đông Dương thuộc Pháp đã nhận được sự chú ý quan trọng của Hoa Kỳ bởi
Tổng thống Roosevelt quyết tâm ngăn chặn sự thống trị trở lại của Pháp[38, tr
353]. Ngay khi ý định “trung lập hóa” Đông Dương thất bại vì không được sự
33
đồng ý của người Nhật, Hoa Kỳ đã chyển sang chiêu bài đặt Đông Dương, trong
đó có Việt Nam dưới hình thức “ủy trị quốc tế”.
Ngày 7.12.1941, sau khi quân đội Nhật Bản tấn công hạm đội Mỹ ở cảng
Trân Châu, Mỹ mới thực sự tham chiến trong phe đồng minh chống phe phát xít
Đức – Italia - Nhật, thái độ của Hoa Kỳ trở nên kiên quyết hơn với kế hoạch của
Tổng thống Roosevelt về chế độ ủy trị quốc tế nhằm phá thế độc quyền của
Anh và Pháp ở Đông Nam Á, trong đó có Đông Dương. Kế hoạch ủy trị là một
trong những mục tiêu sau chiến tranh của Roosevelt cho một khu vực đã là một
phần của đế quốc Châu Âu. Bản cam kết của Hiến Chương Đại Tây Dương đã
thừa nhận quyền tự quyết của con người, được áp dụng cho tất cả các khu vực
trên thế giới, đúng như chính sách cơ bản về chủ nghĩa đế quốc, nhưng đối với
hầu hết các vùng thuộc địa, chính sách vẫn sẽ là một mục tiêu mơ hồ và vô vị
chứ không phải là cơ bản đối với chính sách và hành động cụ thể.
Roosevelt lần đầu tiên đặt ra câu hỏi về Đông Dương vào tháng 1.1943 tại
cuộc họp với các Tham mưu trưởng. Trong khi thảo luận về một loạt các chủ đề,
ông nói ngắn gọn rằng, tại thời điểm cuộc xâm lược Bắc Phi, Robert Murphy đã
vượt quá thẩm quyền của mình trong việc đảm bảo rằng thuộc địa Pháp sẽ được
khôi phục sau chiến tranh. Tổng thống cho rằng ông: “đã không chuẩn bị để
thực hiện lời hứa” [42, tr 27]. Roosevelt đã nói thêm rằng, một vài lãnh thổ của
Pháp sẽ không được trả về cho Pháp và ông cũng đã bày tỏ “nghi ngờ” về sự
phục hồi của Pháp ở Đông Dương. Sự nghi ngờ về sự phục hồi Đông Dương
dường như chỉ mới bắt đầu được đúc kết. Bởi sự đảm bảo của Murphy không
phải duy nhất. Một năm trước, Roosevelt đã gởi cho đại sứ của mình ở Pháp một
thông báo đến nhà lãnh đạo Vichy rằng ông là người bạn tốt nhất của Pháp và
được chuyển tiếp bởi Bộ trưởng Cordell Hull, đã khẳng định rằng: “từ Pháp ở
trong tâm trí Tổng thống bao gồm cả thuộc địa của đế quốc Pháp” [38, tr 355].
34
Trong giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, Roosevelt và chính sách
của Hoa Kỳ đã tuyên bố đảm bảo khôi phục thuộc địa của Pháp. Vào tháng 12
năm 1941, tại thời điểm Hội nghị Đại Tây Dương, Cordell Hull đã ban hành một
tuyên bố “liên quan đến thỏa thuận ký kết giữa Pháp [Vichy] và Chính phủ Nhật
Bản liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp”. Tuyên bố của Hull “thông cảm”
với mong muốn của người Pháp để duy trì lãnh thổ của họ [42, tr 26].
Nhưng đến khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến, dưới sự lãnh đạo của Tổng
thống Franklin D. Roosevelt đã có một cái nhìn xa về tương lai chế độ thuộc địa
của các nước phương Tây trong một thế giới thời hậu chiến. Tầm nhìn này đã
được Roosevelt tâm sự với Elliott, con trai ông, ngay từ những ngày đầu của
cuộc chiến: “Con chớ có khi nào nghĩ rằng người Mỹ sẽ chết ở Thái Bình
Dương đêm nay, nếu chẳng phải là chết cho lòng tham lam thiển cận của Anh,
Pháp và Hà Lan”[13, tr 32]. Nhìn thấy trước sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản
đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Roosevelt muốn các nước phương
Tây trả lại độc lập cho các thuộc địa của họ, nhất là ở Á châu sau khi Chiến
tranh thế giới chấm dứt. Trước đây, Roosevelt cũng như nhiều nhà lãnh đạo
khác, chưa có một ý niệm rõ rệt về các nước Đông Dương và vẫn nghĩ rằng
Đông Dương là một nước với ba chục triệu dân nghèo và thiếu học. Vì vậy, qua
kinh nghiệm của Hoa Kỳ ở Philippin ông thấy cần có một cơ chế của Liên Hiệp
Quốc để bảo trợ và hướng dẫn họ trong một thời gian từ hai mươi đến ba mươi
năm, trước khi họ có đầy đủ khả năng và điều kiện độc lập. Mặc dù nước Anh
không tán thành sáng kiến này, Tổng thống Roosevelt biết rằng Thủ tướng
Churchill căm ghét sự xáo trộn hệ thống thuộc địa ở Đông Nam Á [26, tr 131],
ông vẫn chỉ thị cho các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ thảo luận với các nhân vật
người Anh mỗi khi có dịp, về việc các nước Âu châu cần phải chấm dứt chế độ
thuộc địa ở Á châu.
35
Nếu trước đây, Hoa Kỳ từng tuyên bố ủng hộ Pháp trong việc khôi phục
lại thuộc địa thì bấy giờ để loại bỏ chủ quyền của Pháp, Tổng thống Roosevelt
đặc biệt chỉ trích chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Trong một phiên
họp với Hội Đồng Chiến Tranh Thái Bình Dương năm 1942, Tổng thống Hoa
Kỳ đã cho biết là ông không muốn thấy chế độ thuộc điạ Pháp được phục hồi ở
Đông Dương “phải loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương bằng mọi giá”[47].
Quan điểm của Tổng thống là: “Đông Dương không nên trả cho Pháp mà cần
được đặt dưới quyền ủy trị của quốc tế. Pháp chiếm đóng xứ này… đã gần một
trăm năm mà dân chúng ở đây còn khổ cực hơn lúc ban đầu… Nhân dân Đông
Dương có quyền được hưởng những điều kiện tốt đẹp hơn” [42, tr 32]. Theo
Bernard Fall, Roosevelt từng đề nghị với De Gaulle là ông muốn gửi một số
chính trị gia Philippin sang làm việc với chính phủ Pháp để giúp Pháp thiết lập
“một chính sách tiến bộ hơn ở Đông Dương” như Mỹ đã làm đối với Philippin
nhưng de Gaulle chỉ đáp lại bằng một “sự im lặng suy tư”.
Tổng Thống Hoa Kỳ cảm thấy không hài lòng về chuyện Vichy đã “bán
đứng” Đông Dương cho Nhật, thường trích dẫn việc Pháp cai trị ở đó là một ví
dụ trắng trợn của đàn áp và bóc lột của chủ nghĩa thực dân, và nói về quyết tâm
của mình đưa Đông Dương vào dưới một ủy trị quốc tế sau chiến tranh. Khi
nước Pháp bị Đức tấn công thì địa vị của Pháp đã không còn được Hoa Kỳ coi
trọng. Chính sách đối với Đông Dương là kết quả của phần lớn thái độ của
Roosevelt đối với Pháp. Sau thất bại của Pháp trong cuộc chiến với Đức năm
1940, Roosevelt cho rằng Pháp là một quốc gia đã suy yếu, nó không còn xứng
đáng với vị thế của một cường quốc. Đông Dương đã trở thành mối bận tâm của
Roosevelt khi Nhật Bản bắt đầu gây áp lực đối với chính quyền Pháp ở đây. Đối
với Roosevelt, Pháp đã cư xử đáng xấu hổ khi chống lại Nhật cũng như đối với
Đức. Tổng thống Roosevelt không những đã không muốn giúp đỡ Pháp giành lại
quyền kiểm soát vùng thuộc địa ở Viễn Đông mà còn thúc giục những người
36
lãnh đạo đồng minh cùng với ông thiết lập sự ủy trị quốc tế để thay thế cho
chính quyền Pháp. Đông Dương là một bộ phận của đế quốc Pháp, trong đó “các
hoạt động chính trị” của Pháp sẽ được quy định duy trì ở mức tối thiểu. Và Hoa
Kỳ muốn nhân cơ hội Anh, Pháp, Hà Lan đang suy yếu trong chiến tranh, dùng
cách này hay cách khác nhòm ngó các thuộc địa cũ của các nước này ở khu vực
Đông Nam Á.
Tổng thống Roosevelt đã nêu lên quan điểm của ông đối với vai trò của
người Pháp ở Viễn Đông. Ông coi chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân chính của
Chiến tranh thế giới thứ hai. Roosevelt đã thúc ép đưa vấn đề quản trị ở Cairo,
Tehran và Yalta và ông được sự tán thành của Tưởng Giới Thạch và Stalin [26,
tr 18]. Nhân dịp này Roosevelt tiết lộ rằng: Ông đã làm việc rất chăm chỉ để
ngăn chặn Đông Dương đang được khôi phục về cho Pháp, người mà trong hàng
trăm năm qua đã làm được gì cho những người Đông Dương dưới sự cai trị của
họ. Cuối cùng người Đông Dương vẫn còn nghèo và thất học như họ đã từng và
tình trạng này không được phép tiếp tục. Ông nghĩ rằng Đông Dương, những
người chưa sẵn sàng lựa chọn các tổ chức cho riêng mình nên được đặt dưới một
chế độ ủy trị của Liên Hợp Quốc đến khi họ có thể tự quản [44, tr 44]
Tại hội nghị Cairo vào tháng 11 năm 1943, Roosevelt nêu vấn đề Đông
Dương với Tưởng Giới Thạch và ngỏ ý muốn giao phần đất này cho Trung Hoa
bảo trợ, nhân danh Liên Hiệp Quốc. Lúc này, Tổng thống Mỹ muốn xây dựng
Trung Hoa thành một đồng minh có thế lực ở Á châu trong thời kỳ hậu chiến và
rất hài lòng khi Tưởng Giới Thạch từ chối nhận trách nhiệm một mình mà muốn
có sự hợp tác và giúp đỡ của Hoa Kỳ. Tại Hội nghị Tehran một tuần sau đó,
Roosevelt cũng than phiền với Stalin về chính sách thuộc địa của Pháp và cho
biết là ông đã thảo luận với Tưởng Giới Thạch về một cơ chế bảo trợ có nhiệm
vụ chuẩn bị cho dân tộc Đông Dương được độc lập trong một thời gian nhất
37
định, có lẽ 20 hay 30 năm. Stalin đồng ý và còn nói thêm rằng ông không muốn
“các nước Đồng minh đổ máu để trả lại Đông Dương… cho chế độ thuộc địa cũ
của Pháp”.
Vào tháng 3 năm 1943, Anthony Eden đến Washington để thảo luận cho
những vấn đề sau chiến tranh, Roosevelt đã đề cập đến kế hoạch ủy trị. Ông đã
chính thức đề nghị là sau chiến tranh thay vào việc trao trả lại Đông Dương cho
Pháp thì nên đặt Đông Dương dưới một sự ủy trị quốc tế và chuẩn bị cho nền
độc lập của Đông Dương sau này. Lúc này, Ngoại trưởng Anh nhanh chống
phản đối đề nghị can thiệp vào đế quốc Pháp: “Tôi nghĩ vấn đề này là một đòn
nặng cho Pháp, Anh không thể chấp nhận việc đưa nước Pháp xuống thành một
cường quốc loại hai” [24, tr 95]. Ông đã thấy sự ủng hộ từ Thứ trưởng Sumner
Welles. Wells đã nhắc nhở Tổng thống rằng Chính phủ Hoa Kỳ được ghi nhận
cho việc phục hồi thuộc địa của Pháp. Tổng thống nói rằng ông nghĩ điều đó chỉ
áp dụng cho Bắc Phi. Ông vẫn cho rằng “Đông Dương nên được lấy đi từ Pháp
và đặt dưới một chế độ ủy trị quốc tế” [42, tr 31]. Ngay sau khi những quan
điểm của Roosevelt được biết đến, Nhà trắng và Bộ Ngoại Giao tiếp tục theo
đuổi sự độc lập về chính sách đối với Đông Dương, không chắc chắn chính sách
của Hoa Kỳ sau chiến tranh được tồn tại, chỉ với một nhận thức mờ nhạt về kế
hoạch của Tổng thống.
Cuộc họp giữa Roosevelt và Eden là dấu hiệu bắt đầu sự bế tắc giữa Hoa
Kỳ và Anh về chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Á. Sự khác biệt được thêm vào
nổi bật bởi sự bất đồng về một dự thảo tuyên bố của Hoa Kỳ về các dân tộc phụ
thuộc. Trong tuyên bố này, Bộ Ngoại giao soạn thảo và Roosevelt phê duyệt và
được gởi đến Eden trong cuộc viếng thăm của ông, kêu gọi đặt một số khu vực
của Nhật Bản kiểm soát dưới sự ủy trị và bắt buộc đế quốc thực hiện theo chính
sách dẫn đến độc lập và thiết lập thời gian cho việc thực hiện. Nhiều tháng qua,
38
trước cuộc bàn cải về tuyên bố của Hoa Kỳ sẽ được quyết định. Trong khi đó,
Roosevelt đã tập trung để đạt được sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc cho
kế hoạch về Đông Dương của ông ấy. Những nổ lực này đã được thực hiện tại
Moscow, các Hội nghị Cairo, Tehran.
Vào ngày 5.10.1943, Roosevelt đã gặp Cordell Hull trước cho cuộc khởi
hành đến Hội nghị của “Ba ông lớn” tại Moscow. Trong khi xây dựng những
mục tiêu của ông ấy sau chiến tranh, Roosevelt khẳng định lại quan điểm của
mình về Đông Dương và ông ấy đã đề nghị hình thức ủy trị cho những khu vực
khác, bao gồm cả nhiệm vụ Nhật Bản. Tuy nhiên, tại Moscow, chế độ ủy trị đã
nhận được ít sự chú ý. Cordell Hull đã tin rằng, trước khi xem xét những chính
sách đặc biệt, đó là điều quan trọng để tăng cường sự ủng hộ của Anh và Liên
Xô cho dự thảo tuyên bố của Hoa Kỳ cho các dân tộc phụ thuộc. Khi Cordell
Hull được đề nghị để trình bày, Eden đã nhắc lại sự phản đối của Anh và Bộ
trưởng Ngoại Giao Liên Xô Vyacheslav Molotov đã đề nghị cần nghiên cứu
thêm cho vấn đề.
Tại những cuộc gặp gỡ với Tưởng Giới Thạch và Stalin ở Cairo và
Tahran, Roosevelt đã quyết tâm theo đuổi chính sách về Đông Dương. Trong
cuộc nói chuyện với Tưởng Giới Thạch tại Cario, Roosevelt đã đề nghị mong
muốn đạt được một sự hiểu biết lẫn nhau về tương lai của Đông Dương, Hàn
Quốc và Thái Lan. Tưởng đã ngay lập tức đồng ý rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc
sẽ giúp đỡ Đông Dương đạt được độc lập. Trung Quốc đã thông báo trước đó
với Washington rằng họ tán thành một hình thức ủy trị cho Đông Dương.
Cuộc hành trình đến Tehran, Roosevelt đã tìm thấy Stalin là cơ sở vững
chắc cho quyết tâm của mình để làm suy giảm vị trí của Pháp. Tại đây, Tổng
thống Roosevelt một lần nữa lên án chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương Tổng
thống cho rằng sau 100 năm cai trị của Pháp đã làm cho Đông Dương trở nên tồi
39
tệ hơn trước, thực dân Pháp đã “giam hãm dân chúng Đông Dương trong vòng
lạc hậu” và tuyên bố nếu chế độ ủy trị quốc tế ở Đông Dương không được Anh
chấp nhận, Hoa Kỳ sẽ vận động để trao Đông Dương cho Trung Hoa dân quốc
ủy trị cùng với Hoa Kỳ. Stalin đã ủng hộ Roosevelt trong việc vạch ra đường lối
của đồng minh, không nên giúp Pháp nắm lại quyền kiểm soát ở Đông Dương.
Stalin nói rằng, Pháp cần bị trừng phạt hơn là hưởng một giải pháp hòa bình, và
đồng minh không nên đổ máu để đem lại sự thống trị của Pháp ở Đông Dương.
Pháp có thể và nên nhanh chóng được phục hồi địa vị cường quốc thế giới trước
đây. Nhưng lập trường của cả Roosevelt và Stalin là, để phục hồi được địa vị ấy
chỉ có thể thực hiện sau nhiều năm “lao động chân chính” của nhân dân và chính
phủ Pháp mà thôi. Ông đã ra sức vận động sự ủng hộ về chủ trương ủy trị quốc
tế của Tưởng Giới Thạch và Stalin, đồng thời cử hàng loạt viên chức ngoại giao
cao cấp vận động sự ủng hộ của nhiều cường quốc khác, nhằm gây sức ép buộc
Anh phải nhượng bộ. Mặc dù, Churchill đã phản đối để bố trí cho thuộc địa
Pháp “ủy trị quốc tế là một đòn nặng đối với Pháp...Anh không thể chấp nhận hạ
đế quốc Pháp xuống cường quốc loại hai...” [24, tr 95] nhưng Roosevelt đã nhắc
nhở ông rằng Anh đã nhận được ít phiếu hơn. Hội nghị Tahran kết thúc trong
bối cảnh hi vọng lớn cho sự tiếp tục hợp tác của Đồng minh, ủy trị cho Đông
Dương được chấp nhận bởi hai trong ba đồng minh chính của Hoa Kỳ.
Giữa tháng 1 năm 1944, đại sứ Anh ở Washington, Halifax đến gặp ngoại
trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull và tổng thống Roosevelt để hỏi rằng: Phải chăng
những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt nói rằng Đông Dương sau khi
được giải phóng khỏi tay người Nhật sẽ đặt dưới một Hội đồng ủy trị quốc tế là
kết luận dứt khoát cuối cùng? Roosevelt trả lời: Đúng là trong hơn một năm qua,
Washington đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại rằng Đông Dương sẽ không được trả
lại cho người Pháp, mà sẽ được đặt dưới quyền cộng quản của một Hội đồng ủy
trị quốc tế. Chủ trương đó đã được sự ủng hộ chân thành của Liên Xô và Trung
40
Hoa dân quốc. Mỹ không có lý do gì để tranh cãi với Anh về vấn đề này (…).
Chính phủ hoàng gia cần hiểu rằng nước Pháp đã chiếm đoạt và bòn rút Đông
Dương, với dân số 30 triệu người trong gần một thế kỷ, khiến cho dân chúng ở
đây khốn khổ hơn là lúc đầu… Dân chúng Đông Dương có quyền hưởng một
cái gì tốt đẹp hơn thế [42, tr 32]. Người Mỹ hiểu vì sao chính phủ Anh chống lại
chính sách ủy trị quốc tế do Mỹ đề ra nhưng đâu thể làm khác được. “Lý do duy
nhất họ phản đối là họ lo sợ ảnh hưởng của đến thuộc địa của họ và của Hà Lan.
Họ chưa bao giờ thích ý kiến về ủy trị bởi vì đó là trong một vài trường hợp,
nhằm độc lập trong tương lai. Đây là sự thật trong trường hợp của Đông Dương”
[38, tr 360]. Tổng thống cho rằng đó là một động cơ ích kỉ của người Anh.
Là một chính khách tư sản sâu sắc, tỉnh táo và thực dụng, Roosevelt sớm
hiểu rằng chiến tranh sẽ làm bùng nổ một cuộc nổi dậy qui mô toàn thế giới
chống chủ nghĩa thực dân châu Âu, trong đó có Đông Dương. Các nước đế quốc
nếu muốn duy trì quyền lợi của mình thì không thể áp đặt một chế độ thực dân
như thời kỳ trước chiến tranh được mà phải có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù
hợp với tình hình. Thực chất, chế độ ủy trị của Roosevelt chính là sự áp đặt chủ
nghĩa thực dân mới của Hoa Kỳ vào các nước vốn là thuộc địa của các nước
thực dân kiểu cũ như Anh và Pháp. Hơn nữa về phương diện cá nhân, Tổng
thống Roosevelt có một thái độ không mấy thiện cảm với Pháp khi ông nhận xét
về quá trình thực dân Pháp thống trị Đông Dương: “Pháp có được xứ này – 30
triệu dân – trong gần 100 năm, nhưng người dân sống tồi tệ hơn lúc bắt
đầu...Pháp đã bòn rút xứ này trong 100 năm. Người dân Đông Dương có quyền
hưởng một điều gì đó tốt hơn thế” [18, tr 198]. Tại Hội nghị Tehran, Roosevelt
đã mỉa mai nói rằng: “Người cầm quyền Pháp sẽ không được hưởng bất cứ
quyền lợi nào của hòa bình sau này, nếu ta nhìn vào sự hợp tác tội lỗi của họ với
Đức... Nước Pháp phải nhiều năm lao động mới khôi phục lại được, không phải
chỉ Chính phủ Pháp mà cả người Pháp nói chung nữa, điều cần thiết trước hết
41
đối với họ là phải trở thành người dân lương thiện đã”[50]. Thấy đại sứ Anh ra
về trong bực dọc, Ngoại trưởng Cordell Hull đã khéo léo hỏi lại Roosevelt là
liệu có thể thực hiện cam kết trước đây là hứa hẹn trả lại cho Pháp các lãnh thổ
hải ngoại sau chiến tranh để buộc Pháp tham gia thực thi chính sách dân tộc tự
quyết. Ngày 24.1.1944, trong giác thư trả lời Bộ Ngoại giao, Roosevelt thẳng
thừng bác bỏ gợi ý của Cordell Hull, khẳng định lại chủ trương ủy trị quốc tế đối
với Đông Dương và chủ trương này phải trở thành một chính sách của Chính
phủ Mỹ.
Có thể nói rằng, chủ trương ủy trị quốc tế của Hoa Kỳ được che đậy bằng
những danh từ hoa mĩ “chống chủ nghĩa thực dân”. Tổng thống Roosevelt đã
nhiều lần lên tiếng chỉ trích chế độ cai trị của Pháp ở Đông Dương: sau 100 năm
cai trị của Pháp ở Đông Dương, người dân đã tồi tệ hơn trước khi họ tới. Nhưng
thực chất, Roosevelt đưa ra chế độ ủy trị là để giành lấy Đông Dương từ tay
Pháp và Nhật, nhằm thực hiện ý định thay thế Nhật, Pháp ở Đông Dương. Hoa
Kỳ với bản chất của nó được sinh ra từ một cuộc chiến tranh giành độc lập, có
thể là không có gì khác hơn là một quốc gia chống thực dân ủng hộ chủ trương
tự quyết. Nhưng để nói rằng Hoa Kỳ hoàn toàn chống thực dân sẽ là sai lầm. Bởi
trong thế kỷ XVIII và XIX, Hoa Kỳ đã sử dụng tất cả các công cụ của chủ nghĩa
đế quốc để mở rộng lãnh thổ. Được biết đến với khái niệm “Vận mệnh hiển
nhiên” (Manifest Destiny) [44, tr 8] - là một niềm tin cho rằng Hoa Kỳ có vận
mệnh mở rộng lãnh thổ từ duyên hải Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Hoa
Kỳ trước đây sáp nhập Hawaii, Philippines và một phần của Mexico. Kiểm soát
Cuba, Haiti, dải đất rộng lớn của đại lục Trung Mỹ và nhiều đảo Thái Bình
Dương. Cho nên tuyên bố “chống chủ nghĩa thực dân” của Hoa Kỳ chỉ nhằm
che đậy bản chất thực sự của họ “Nói rằng nước Mỹ chống chủ nghĩa thực dân
thì chỉ là lừa dối người ta mà thôi” [18, tr 200]. Mối quan tâm của các nhà lãnh
đạo Hoa Kỳ không phải là giành độc lập và chủ quyền quốc gia cho Đông
42
Dương, trong đó có Việt Nam mà là mưu toan loại bỏ ảnh hưởng của Pháp ra
khỏi Việt Nam để bành trướng thế lực của họ. Cho nên khi Roosevelt lên án
thực dân Pháp không xuất phát từ “tấm lòng” của ông đối với những người
Đông Dương bị áp bức, bóc lột mà dựa trên ý đồ muốn bành trướng để được đặt
chân vào Đông Dương. Đó chỉ là cái cớ để Tổng thống Roosevetl đưa ra nhằm
loại bỏ Pháp ra khỏi Đông Dương, ông muốn danh chính ngôn thuận - lên án
Pháp để tranh thủ sự ủng hộ của các nước đồng minh khác. Điều đó cũng dễ
hiểu, bởi trong bất kì một mối quan hệ quốc tế của bất kì nhà nước nào thì lợi
ích của quốc gia phải được được đặt lên hàng đầu. Hoa Kỳ muốn thay thế chế độ
thực dân cũ bằng một chế độ thực dân mới, cất bỏ đi độc quyền của các cường
quốc thực dân trong các thuộc địa. Chính sách thực dân cũ là chính sách đơn
phương (unilateral) của một cường quốc, đi chiếm thuộc địa đất đai và độc
quyền khai thác tài nguyên, độc quyền khai thác sức lao động của dân thuộc địa,
và độc quyền nắm giao thương giữa thuộc địa và mẫu quốc. Chính sách thực dân
mới là chính sách đa phương (multilateral), mọi nước phải mở cửa (open door)
để cho Mỹ và các cường quốc tự do vào khai thác tài nguyên, tự do giao thương,
tiêu thụ hàng hóa và sử dụng nhân công rẻ. Trong những điều kiện cạnh tranh
bình đẳng này thì chắc chắn là nền kinh tế lớn lao và mạnh mẽ của Mỹ sẽ chiếm
ưu thế.
2.2. Phản ứng của Anh đối với chủ trương của Hoa Kỳ
Anh từng hợp với Pháp trong quá trình cai trị Đông Dương, điển hình là
việc chính phủ Anh bắt giam trái phép Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông năm
1931. Từ khi thành lập trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, mối quan hệ đặc biệt
giữa Anh và Hoa Kỳ đã chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Anh. Hơn nữa nó đã được xây dựng bởi kiến trúc sư trưởng - Winston
Leonard Spencer Churchill. Tuy nhiên, mối quan hệ đặc biệt mà Churchill xây
43
dựng với Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt là không vững chắc cũng
không hài hòa. Vì mục tiêu chiến tranh của Anh và Hoa Kỳ là rất khác nhau
trong các cuộc tranh luận chính sách của Đồng Minh đối với Campuchia, Lào và
đặc biệt là Việt Nam.
Chính sách của Anh đối với Đông Dương bắt đầu từ khi Tổng thống
Roosevelt có ý định đặt Đông Dương dưới hình thức ủy trị quốc tế. Nguồn gốc
mối quan hệ của Anh với Đông Dương thuộc Pháp không nằm ở London mà ở
Washington. Tổng thống muốn loại bỏ khỏi sự kiểm soát Đông Dương của thực
dân Pháp và để tạo ra một hình thức ủy trị, sau đó sẽ tiến tới sự độc lập cho
Đông Dương. Ông không có ý định khôi phục lại sự cân bằng quyền lực châu
Âu vào cuối cuộc chiến để tạo ra một “trật tự quốc tế mới dựa trên sự hài hòa,
chứ không phải trạng thái cân bằng” [43, tr 4]. Năm 1941, Anh và Hoa Kỳ thông
qua Hiến chương Đại Tây Dương, Điều ba trong số các điều lệ quy định người
dân bản địa có quyền quyết định tương lai của chính họ. Ủy trị là phương pháp
mà Tổng thống muốn người dân bản địa phát triển theo hướng độc lập. Chính
sách ủy trị cho Đông Dương của Roosevelt đã chứng minh cam kết của Hoa Kỳ
về quyền dân tộc tự quyết như đã nêu trong Hiến chương Đại Tây Dương. Tổng
thống Roosevelt có ý định trao trả độc lập cho Đông Dương từ tay Pháp, theo đó
Đông Dương sẽ được quốc tế giám hộ trước khi được chính thức trả độc lập.
Anh nghi ngờ rằng sự ủy trị dành cho Đông Dương sẽ chỉ là bước ban đầu. Ủy
trị là một khái niệm nguy hiểm. Nó sẽ thiết lập một tiền lệ cho giải phóng thuộc
địa và Roosevelt sẽ dùng tiền lệ này để áp đặt chế độ giám hộ lên các thuộc địa
khác, gồm cả Hồng Kông và Malaya của Anh. Cuộc vận động công khai của
Roosevelt cho ủy trị Đông Dương chứng minh niềm tin dữ dội của ông ấy cho tự
quyết dân tộc. Đây là một “trường hợp thử nghiệm” quan trọng chống thực dân
bởi một người hăng hái chống chủ nghĩa đế quốc. Roosevelt đã mỉa mai
44
Churchill rằng “Anh sẽ lấy đất bất cứ nơi nào trên thế giới ngay cả khi nó chỉ là
một hòn đá hoặc một bãi cát”[43, tr 4].
Thực sự, ủy trị chiếm một vị trí đặc biệt trong quan hệ Trung - Mỹ, vì
Roosevelt hình dung Trung Quốc như là một trong bốn “cảnh sát thế giới” cùng
với Anh, Liên Xô và Mỹ để bảo vệ hòa bình và an ninh sau chiến tranh. Anh sợ
sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc. Một Trung Quốc mạnh mẽ - được hỗ trợ
bởi Hoa Kỳ - có thể gây áp lực không đáng có đối với thuộc địa Anh tại Viễn
Đông. Hơn nữa, Anh nghi ngờ về tính minh bạch trong ý định của Trung Quốc
đối với Đông Nam Á, đặc biệt là một người được ủy thác ngầm. Tất nhiên,
Churchill phải tìm cách để bảo vệ tương lai của đế quốc Anh. Khi cuộc thảo
luận ủy trị đề cập đến thuộc địa của Anh, ông chủ trương một đường lối chống
ủy trị mạnh mẽ. Dù không nói ra nhưng ai cũng biết lúc này Anh và Pháp là hai
nước có nhiều thuộc địa trên thế giới. Chính vì vậy, trái với Roosevelt, Anh đã
tích cực bênh vực quyền lợi và ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương sau khi Chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc. Chính sách chống kế hoạch ủy trị của Churchill
đã được chia sẻ bởi nhiều người trong chính phủ liên minh của Anh. Tuy nhiên,
Churchill đã nhiều lần từ chối để hành động theo bất kì hướng nào đó sẽ dẫn đến
xung đột với Roosevelt và tạo ra một cuộc khủng hoảng trong mối quan hệ Anh
– Mỹ [44, tr 2].
Bộ Ngoại giao và những nhà lãnh đạo khôn ngoan đã không tin rằng
Roosevelt chỉ có ý định áp dụng ủy trị đối với Đông Dương. Roosevelt đã dự
định sử dụng Đông Dương như một tiền lệ cho giải phóng thuộc địa thế giới cũ
[43, tr 3]. Nhưng nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Anh sẽ không thể giải
quyết những mối đe dọa trong tương lai. Do đó, cuộc thảo luận của Roosevelt về
tương lai của Đông Dương thuộc Pháp là tối quan trọng để duy trì vị trí của Anh
trong khu vực. Thủ tướng Anh Winston Churchill lo ngại vấn đề Đông Dương
45
và việc Bộ Ngoại giao Anh ủng hộ Pháp sẽ cản đường cho mối quan hệ đặc biệt
giữa ông và Roosevelt. Churchill cần “lấy lòng” Roosevelt để bảo vệ Đế chế
Anh. Nhưng Bộ Ngoại giao Anh đã làm chính sách đó thêm phức tạp khi cương
quyết ủng hộ Pháp. Người Anh muốn giữ các thuộc địa của họ nên cũng không
muốn người Pháp đánh mất thuộc địa ở Đông Dương. Thiết lập một mối quan hệ
tốt đẹp và thân thiết với Roosevelt là mong muốn của Churchill. Ông tin rằng
nước Anh sẽ nhận được nhiều lợi ích từ mối quan hệ này. Churchill tin rằng một
liên minh giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Anh cuối cùng sẽ nổi lên như một lực lượng
kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới. Hơn nữa, nếu có vấn gì phát sinh như khó
khăn về đạn dược trong chiến tranh, có thể dễ dàng giải quyết bằng mối quan hệ
tuyệt vời giữa Thủ tướng và Tổng thống. Bản thân Churchill nghĩ rằng mình đã
“kết thân” được với Tổng thống Roosevelt. Nhưng có đúng là Roosevelt cũng
nghĩ như vậy? Là một nhà điều hành chính trị khôn ngoan, Roosevelt biết làm
cách nào để Churchill đặt niềm tin vào mình.
Tuy nhiên, tuần trăng mật rất ngắn gọn. Anh đã chịu một số thất bại quân
sự trong mùa xuân năm 1942. Sự sụp đổ của Singapore, nhanh chóng theo sau là
Rangoon (Myanma). Roosevelt đã thông cảm với thất bại quân sự của Anh và
ông đã tốt bụng để an ủi Thủ tướng: “Tôi muốn bạn biết rằng tôi đã thường
xuyên nghĩ đến bạn và tôi biết bạn sẽ không ngần ngại hỏi tôi nếu có bất cứ điều
gì bạn nghĩ rằng tôi có thể làm” [44, tr 15]. Lúc này, Tổng thống bắt đầu thúc
giục chính quyền tự trị cho Ấn Độ. Trước đây, Roosevelt đã đề cập đến vấn đề
Ấn Độ tự trị trong chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ đến Washington. Vào
thời điểm đó, phản ứng bực bội của Churchill đã nhắc nhở không thảo luận
thêm. Vấn đề đã không đi xa. Bây giờ, Roosevelt một lần nữa nhấn mạnh với
Thủ tướng Chính phủ về triển vọng chính quyền tự trị trong thời chiến cho Ấn
Độ.
46
Những tháng đầu năm 1943, trong những cuộc đối thoại giữa Anh và Hoa
Kỳ, phía Anh tỏ ra cứng rắn không nhân nhượng Hoa Kỳ. Anh mong muốn duy
trì nguyên trạng trước chiến tranh, tăng cường bởi một liên minh Anh-Mỹ thời
hậu chiến. Quan điểm của hai nước đồng minh là hoàn toàn trái ngược nhau.
Trong khi Hoa Kỳ chủ trương đặt tất cả các thuộc địa cũ dưới một hình thức ủy
trị quốc tế và từ đó tiến lên thành những nước tự chủ, độc lập. Anh thì lại cho
rằng trách nhiệm của tất cả các cường quốc là phải trực tiếp giúp đỡ các thuộc
địa của mình tiến lên tự chủ ở mức độ khác nhau tùy theo khả năng của mỗi dân
tộc [24, tr 95]. Stanley đã từng đưa ra các biểu hiện đầy đủ nhất cho chính sách
thuộc địa Anh. Trong một bài phát biểu trước Hạ viện, ông nói rằng “chúng tôi
có thể cam kết hướng dẫn dân tộc thuộc địa đi theo con đường để tự quản trong
khuôn khổ của Đế chế Anh” [44, tr 32]. Do sự bất đồng quan điểm trong các
cuộc hội đàm tay đôi, Hoa Kỳ nhận thấy khó lòng thuyết phục để Anh đồng ý
chủ trương ủy trị quốc tế các thuộc địa, Hoa Kỳ đã đem vấn đề này bàn luận
trong các cuộc họp ở Cairo và Teheran, mục đích là để tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của Trung Hoa và Liên Xô.
Tại Hội nghị thượng đỉnh đồng minh tại Casablanca (Maroc) tháng
1.1943, Tổng thống Roosevelt đã thấy De Gaulle là một người kiêu ngạo và có
những hành động nhằm kích động Anh chống lại Hoa Kỳ. Việc Pháp đầu hàng
Đức ở châu Âu và Nhật Bản ở châu Á đã làm cho Roosevelt không coi trọng
Pháp. Tổng thống Roosevelt cho rằng, Pháp không còn đủ sức để tham gia vào
việc quyết định tình hình thế giới. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông Dương
nhằm thúc đẩy chính sách giải phóng thuộc địa của Roosevelt và trừng phạt
Pháp. Nhưng kế hoạch của Roosevelt đối với vùng lãnh thổ thuộc địa đã không
giới hạn ở Đông Dương mà còn bao gồm các bộ phận của đế quốc Anh, tức là
Hồng Kông. Đã có một sự mâu thuẫn giữa cam kết của Hoa Kỳ từng cam kết về
bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ của Pháp và kế hoạch ủy trị về Đông Dương của
47
Tổng thống Roosevelt. Eden đã thông báo với Churchill rằng Roosevelt bây giờ
ít đảm bảo về tính toàn vẹn của đế quốc Pháp. Và Đông Dương được xem là một
sân khấu trình diễn chính trị cho chính sách quân sự của Đồng Minh trong chiến
tranh nhưng Anh cần thiết để phát triển một chính sách chặt chẽ để bảo vệ lợi
ích riêng của mình và điều khiển tình huống khó xử không lường trước được.
Vào ngày 07 tháng 01 năm 1943, tại một cuộc họp của Bộ tham mưu Hoa
Kỳ, Roosevelt bày tỏ “nghi ngờ” về khôi phục lại Đông Dương cho Pháp, và
“kêu gọi người Anh không thực hiện lời hứa hơn nữa để khôi phục lại đế chế
Pháp” [43, tr 7] Ngày 24 tháng 03, Eden và Halifax gặp Sumner Welles, Welles
đã lập luận rằng Đông Dương nên được tách ra từ Pháp và ông hy vọng rằng
nước Anh sẽ chuẩn bị để bàn giao Hồng Kông trở về Trung Quốc. Hai ngày sau,
Eden và Halifax, Roosevelt đã gặp tại Nhà Trắng. Roosevelt đã nêu vấn đề ủy trị
cho Đông Dương. Ông tin rằng các chi tiết thực tế liên quan đến ủy trị phải được
sắp xếp “mọi thứ ngăn nắp sau chiến tranh”. Roosevelt cho rằng Hoa Kỳ sẽ là
chủ nợ lớn đối với các cường quốc thực dân châu Âu, sẽ có thể ra lệnh và có
quyền quyết định hình thức của trật tự thế giới mới. Eden khẳng định nước Anh
không ủng hộ quan điểm ủy trị. Trong khi đó, một cuộc họp giữa Eden và Đại sứ
Trung Quốc đã mang lại sự đảm bảo rằng Trung Quốc không có tham vọng sở
hữu lãnh thổ ở Xiêm, Đông Dương, Miến Điện hay Malaya. Đây là một tuyên
bố quan trọng vì Anh sợ sự xâm lấn của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Tóm tắt kết quả của Hội nghị Cairo và Tehran (tháng 11-12 năm 1943)
Eden chỉ ra rằng Đông Dương sẽ đặt “dưới một số loại kiểm soát quốc tế”. Ông
lưu ý với sự quan tâm mà Stalin đã chỉ trích Pháp tại Hội nghị Tehran “người
Pháp đã không thực sự cố gắng hết sức trong chiến tranh và rõ ràng là ông coi
tình trạng của Pháp như một sự tồi tệ” [43, tr 9]. Stalin khẳng định cả ông và
Roosevelt “có cùng một ý tưởng” cho rằng Pháp không cần phải khôi phục lại
48
tất cả thuộc địa của mình. Mặc dù Hoa Kỳ có nhận được sự ủng hộ của Tưởng
Giới Thạch và Stalin thì Anh vẫn kiên quyết phản đối hay khéo léo lảng tránh
không bàn đến vấn đề thuộc địa và cho đó là “chuyện hậu chiến”. Khi Chiến
tranh thế giới thứ hai đang ở giai đoạn kết thúc, các nước đế quốc bắt đầu tính
đến việc chia chác thị trường. Đến cuối năm 1943, giải pháp cho Đông Dương
sau chiến tranh vẫn chưa ngã ngũ, mỗi nước trong khối Đồng minh tự hành động
theo quyền lợi của mình nên đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Churchill nói với Anthony Eden rằng mặc dù ông thường nghe ý kiến của
Roosevelt về Đông Dương, nhưng ông “chưa bao giờ đưa ra bất kỳ sự đồng ý
nào cho họ” đó là một vấn đề khi “chiến tranh kết thúc”. Churchill cho rằng Hoa
Kỳ không thể “lấy lãnh thổ từ Pháp bằng bạo lực mà không cần thỏa thuận với
Pháp sau khi Chính phủ Pháp đã được hình thành trên cơ sở ý chí của người
Pháp”[43, tr 10]. Bộ Ngoại giao Anh vẫn kịch liệt chỉ trích Roosevelt và chính
sách của Hoa Kỳ, cảm thấy nó được thúc đẩy bởi một sự kết hợp ảo tưởng của
quyền lực và chủ nghĩa đế quốc đô la. Anh vẫn còn hoài nghi về động cơ của
Trung Quốc đối với Đông Dương. Anh cho rằng đó sẽ là không hợp lí để ngăn
chặn Pháp tham gia một phần trong cuộc chiến tranh ở Viễn Đông. Bởi người
Pháp là “những sĩ quan có kinh nghiệm” đối với Đông Dương chứ không phải là
Anh hay Mỹ có được điều đó và Pháp có thể “cung cấp một số lượng quân đội
đáng kể từ châu Phi” [43, tr 11].
Vào ngày 11 tháng 1 năm 1944, Eden một lần nữa đề cập đến vấn đề của
Đông Dương với Churchill. Bộ Ngoại giao có nhận được một tuyên bố của Đại
sứ quán Anh tại Trùng Khánh. Báo cáo này lên án mạnh mẽ quan điểm của
Roosevelt liên quan đến tương lai của Đông Dương thuộc Pháp, không chỉ cảnh
báo về sự nguy hiểm trước mắt của một tiền lệ cho giải phóng thuộc địa của Anh
được thành lập, mà nó cũng nhấn mạnh sự nguy hiểm cho cả hai quan hệ Anh -
49
Pháp và “hợp tác sau chiến tranh ở Tây Âu” nếu “Roosevelt thành công với kế
hoạch ủy trị của mình”[44, tr 49].
Vào ngày 18 Tháng 1, Roosevelt đã gặp Halifax ở Washington, Roosevelt
hy vọng ý tưởng của mình sẽ được báo cáo lại cho người Pháp. Trong khi trình
bày kế hoạch ủy trị, Roosevelt khẳng định, trái với nghi ngờ của Churchill rằng
Tưởng Giới Thạch không có ý định thâu tóm Đông Dương và Stalin coi ủy trị là
giải pháp tốt nhất. Roosevelt đã không chấp nhận với Halifax rằng đảm bảo
trước đó của ông về tình trạng và sự toàn vẹn của đế quốc Pháp có bất kỳ ảnh
hưởng gì về vấn đề ủy trị Đông Dương. Halifax cảm thấy khó chịu với lập
trường của Roosevelt. Khi Halifax nêu lên câu hỏi về một tiền lệ được thành lập
mà có thể được áp dụng cho các thuộc địa của Anh, Roosevelt bác bỏ ý tưởng và
bảo vệ vị trí thuộc địa Anh, rõ ràng là “chúng tôi và Hà Lan đã làm tốt nhưng
người Pháp thì đã vô vọng”. Những hành động của Nhật Bản ở Đông Nam Á đã
cho thấy mối đe dọa đối với Ấn Độ, Australia, New Zealand và tài sản khác của
Anh. Và trong tương lai, Anh sẽ không thể đối phó với mối đe dọa này mà
không cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Thái độ của Roosevelt chỉ ra rằng Hoa Kỳ có ý
định tham gia trong việc bảo vệ Đông Dương nhưng nếu Mỹ tước đoạt Đông
Dương từ Pháp thì sự oán giận “sẽ gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sự hợp tác
sau chiến tranh của chúng tôi” với Pháp và điều này có thể dẫn đến một “ sự
không thân thiện của Pháp” cản trở an ninh của Anh ở các vùng khác [43, tr 12].
Khi Roosevelt bàn luận đến những vấn đề liên quan đến tương lai của Đế
quốc của Anh, Churchill đã rất thẳng thắn: “nguyên tắc không thể thay đổi của
tôi là không có chuyện Chính phủ mà tôi lãnh đạo sẽ mang lại một inch vuông
lãnh thổ của Anh hoặc quyền hạn của Anh ở bất kỳ phần nào trên thế giới, ngoại
trừ cho lợi thế lớn hơn” [43, tr 13]. Anh được lập Bộ tư lệnh Đông Nam Á
(South East Asia Command – SEAC) do đô đốc Mounbatten chỉ huy. Đây được
50
xem là một bước đột phá trong phản ứng của Anh đối với chủ trương của Hoa
Kỳ. Tuy nhiên, Mỹ cũng lo ngại Anh hậu thuẫn cho Pháp và Hà Lan tái lập
quyền kiểm soát ở Đông Dương và Indonesia nên trong thỏa thuận Quebec (8-
1943), vẫn đặt Đông Dương trực thuộc vào chiến trường Hoa-Ấn-Miến của đại
tướng Joseph Stilwell và đặt Indonesia trực thuộc vào Bộ tư lệnh của đại tướng
Mc Arthur. Trên bán đảo Đông Dương, lực lượng đặc biệt của SEAC là Lực
lượng 136 hỗn hợp Anh-Pháp, chỉ được giao phụ trách hoạt động quấy rối và lấy
tin tức tình báo. Mountbatten nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chấp nhận một
nhiệm vụ nhỏ của Pháp tại SEAC vì sợ người Pháp tập trung nỗ lực ở chiến
trường Trung Quốc tại Trùng Khánh thay và do đó làm giảm ảnh hưởng của
Anh trong khu vực.
Tại Hội nghị Tehran, trong nhiều khía cạnh, vị trí của Churchill trong “Ba
ông lớn” đã suy giảm từ ngày đầu tiên của hội nghị, Stalin đã thay thế vị trí của
Churchill đối với Roosevelt như đồng minh quan trọng nhất của ông, Stalin đã
nhanh chóng tận dụng được lợi thế. Churchill cảm thấy kinh hoàng trước sự bất
lực của chính mình và suy giảm sức mạnh của Anh, cái nhìn lãng mạn của ông
về một liên minh Anh – Mỹ đã không còn. Ông không thể dựa vào hỗ trợ của
Tổng thống trong thảo luận của ba ông lớn. Mặc dù, các cuộc thảo luận về tình
hình của thế giới sau chiến tranh và vị trí của các cường quốc có ý nghĩa sâu sắc
đối với chính sách của Anh đối với Đông Dương thuộc Pháp và mối quan hệ
giữa Churchill với Hoa Kỳ. Roosevelt đặc biệt thấy hài lòng bởi sự sẵn sàng của
Stalin khi tham gia vào cuộc thảo luận về các vấn đề quan tâm của mình - chống
chủ nghĩa đế quốc và Đông Dương thuộc Pháp. Roosevelt đã nói rằng, mặc dù
Churchill mong muốn phục hồi địa vị của Pháp nhưng ông đã không chia sẻ
quan điểm này. Roosevelt và Stalin đã thiết lập một chương trình nghị sự cho
thế giới sau chiến tranh. Stalin tất nhiên đồng ý với Roosevelt và tiếp tục giải
thích rằng Đông Dương không nên trả về cho Pháp với quan điểm “người Pháp
51
đã không thực sự cố gắng hết sức trong cuộc chiến tranh và tiết lộ bản chất của
một số cuộc thảo luận với Roosevelt, khẳng định thỏa thuận Xô-Mỹ rằng không
phải tất cả các thuộc địa của Pháp nên được trả lại vào cuối chiến tranh”.
Roosevelt, Stalin và Churchill gặp nhau tại Hội nghị Yalta để thảo luận về
nền móng cho thế giới sau chiến tranh. Và đối với vấn đề ủy trị, Tổng thống
Roosevelt tiếp tục nhận được sự ủng hộ từ Stalin và Tưởng Giới Thạch nhưng
Churchill thì phản đối kế hoạch. Bởi ông cho rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến
những nước có nhiều thuộc địa như Anh, Pháp, Hà Lan chứ Hoa Kỳ, Liên Xô và
Trung Quốc thì không có gì. Bộ Ngoại giao tiếp tục nhấn mạnh sự giả dối đối
với lập trường của Hoa Kỳ về ủy trị “người Mỹ coi trọng việc sử dụng lãnh thổ
của chúng ta đặc biệt là Ấn Độ và Miến Điện và các nguồn lực đáng kể mà
những vùng lãnh thổ đã cung cấp cho họ”. Chính sách của Anh là “để giúp Pháp
khôi phục lại sức mạnh và ảnh hưởng cũ của Pháp và để nuôi dưỡng mối quan
hệ thân thiết với người Pháp. Chúng tôi coi một nước Pháp mạnh mẽ và thân
thiện là một yếu tố cần thiết cho an ninh sau chiến tranh của chúng tôi”[43, tr
21]. Đó là điều quan trọng để nước Anh bảo vệ lợi ích của tất cả các cường quốc
thực dân trên cả hai ủy trị và ủy trị tự nguyện vì sợ rằng một tiền lệ được thiết
lập sẽ phá hủy tất cả các mối quan hệ thuộc địa. Tuy nhiên, điều được thể hiện
nhiều hơn so với tương lai của vùng lãnh thổ thuộc địa: sự ổn định và an ninh
Tây Âu sau chiến tranh đang bị đe doạ, phục hưng kinh tế và hòa hợp chính trị
cần thiết để đối mặt với những mối đe dọa tiềm ẩn từ Liên Xô. Sự kiện ngày
9.3.1945, Nhật chính thức chiếm Đông Dương - khiến Churchill ngả theo Pháp.
Đô đốc Lord Louis Mountbatten nhận được chỉ thị, trước sự bất mãn của Mỹ, để
hỗ trợ lính Pháp chống Nhật. Một tháng sau, tranh cãi Mỹ - Anh được giải
quyết: sau khi Roosevelt qua đời, người kế nhiệm Truman tiến hành một chính
sách thân thiện hơn với chính sách của Anh và Pháp.
52
Cuộc vận động thực thi chế độ ủy trị quốc tế và trao trả độc lập thuộc địa
là cả một quá trình đấu tranh trong suốt hai năm 1943 - 1944 và ngay từ đầu,
Hoa Kỳ đã vấp phải sự chống đối của thủ tướng Anh Churchill và ngoại trưởng
Anthony Eden. Anh mặc nhiên trở thành đại diện cho các cựu mẫu quốc khác
như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Luxemburg. Thái độ kiên quyết và lý giải khéo léo của
Anh buộc Mỹ phải nhân nhượng tại hội nghị Quebec (Canada) tháng 8.1943.
Tổng thống Roosevelt đã ra sức vận động để tiến tới xác lập chế độ ủy trị quốc
tế đối với các thuộc địa cũ. Lúc đầu, để tránh sự đối đầu với Anh, Hoa Kỳ chủ
trương các nước có thuộc địa ra một bản tuyên bố đề cập rõ chính sách giải
phóng các đất đai phụ thuộc và có thể đỡ đầu cho các dân tộc đó được tự trị.
Hoa Kỳ cho rằng, chủ trương đó hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc về quyền
tự quyết của các dân tộc đã được nêu trong “Hiến chương Đại Tây Dương” vào
tháng 8.1941. Nhưng Anh nhận thấy rằng, với chủ trương này, quyền lợi của
mình vẫn có thể bị đe dọa bởi người bạn đồng minh. Cho nên, Ngoại trưởng
Anh Eden đã đưa ra một “phản đề nghị” nêu rõ, bản tuyên bố chung Anh – Hoa
Kỳ (nếu có) cần phải nhấn mạnh đến trách nhiệm của các “mẫu quốc” trong việc
hình thành chế độ tự trị bản xú và tránh đề cập tới chế độ ủy trị quốc tế.
Tại các hội nghị đồng minh trong năm 1943 như tại Casablanca (1-1943),
Quebec (8-1943), Cairo và Tehran (11-1943), đại diện Anh nhiều lần tuyên bố:
Trách nhiệm của tất cả các cường quốc là phải trực tiếp giúp đỡ thuộc địa của mình
tiến lên tự chủ từng bước theo mức độ khác nhau, tùy theo khả năng tiếp nhận của
mỗi dân tộc (…). Thực hiện ủy trị quốc tế mà không có Pháp tham gia là một đòn
nặng đối với Pháp (…). Anh không thể chấp nhận việc hạ nước Pháp xuống vị thế
một cường quốc hạng hai… Trong các cuộc hội thoại giữa Anh và Hoa Kỳ diễn ra
trong những tháng đầu năm 1943, Anh tỏ ra cứng rắn, không nhân nhượng Mỹ.
Quan điểm của các nhà lãnh đạo hai nước hoàn toàn trái ngược nhau, Hoa Kỳ chủ
trương đặt tất cả các thuộc địa cũ dưới một hình thức ủy trị quốc tế và từ đó tiến lên
53
thành các nước độc lập, tự chủ. Anh cho rằng, “trách nhiệm của tất cả các cường
quốc là phải trực tiếp giúp đỡ các thuộc địa của mình tiến lên tự chủ ở mức độ khác
nhau, tùy theo khả năng của mỗi dân tộc……..” [24, tr 95].
Trong suốt năm 1944, Roosevelt vẫn giữ quan điểm ủy trị quốc tế của mình.
Vì thế, Hoa Kỳ tìm cách ngăn chặn Pháp trở lại Đông Dương bằng cách hạn chế
các hoạt động quân sự và tình báo của Anh, Pháp ở chiến trường Đông Dương.
Anh vẫn tỏ thái độ chống đối kịch liệt. Thực chất ý đồ của Anh là muốn liên kết với
Pháp để chống lại ảnh hưởng ngày càng lớn của Hoa Kỳ, đồng thời cũng ngăn chặn
làn sóng giải phóng dân tộc đang lan rộng ở Châu Á. Và tất nhiên Anh không muốn
tạo ra một tiền lệ, rằng những thuộc địa rộng lớn của mình ở khu vực này rơi vào
ảnh hưởng của Hoa Kỳ thông qua chế độ ủy trị quốc tế. Chính vì thế, Anh đã kiên
quyết bênh vực quyền lợi của Pháp về thuộc địa. Tháng 8.1944, Anh đề nghị Mỹ
chấp thuận cho Pháp tham gia việc giải phóng Đông Dương và cuộc chiến tranh
chống lại Nhật ở khu vực này. Tổng thống Roosevelt cũng nhấn mạnh rằng, người
Mỹ hiểu vì sao Anh lại “tích cực” chống lại chính sách ủy trị quốc tế. Mỹ đánh
đúng ý tưởng về quyền lợi của đế quốc Anh có phải vì nền độc lập của các thuộc
địa hay xuất phát từ quyền lợi của Mỹ, người Mỹ hiểu được “tâm ý” của Anh bởi
họ cũng có cùng suy nghĩ và những toan tính. Cho nên Anh cũng hiểu mọi ý đồ của
Mỹ liên quan đến các thuộc địa ở Châu Á – Thái Bình Dương. Không có lí do gì
mà Anh để thuộc địa của mình rơi vào tay Hoa Kỳ. Đối với Đông Dương, thủ
tướng Anh cũng nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của khu vực này
và đòi đặt nó dưới quyền chỉ huy chung của Bộ tư lệnh Đông Nam Á, chứ Mỹ
không được thay mặt đồng minh để quyết định. Chính vì sự phản đối quyết liệt của
Anh và Pháp trong vấn đề Đông Dương nên tổng thống Mỹ có phần dè dặt trong
việc gạt bỏ Pháp ở Đông Dương. Bởi Mỹ cũng cần sự phối hợp của Anh trong việc
chống phát xít. Để có thể thực hiện được những chính sách của mình đối với Đông
54
Dương, Hoa Kỳ cũng phải đắn đo suy tính đến việc việc thuyết phục để có sự đồng
ý của Anh.
TIỂU KẾT
Sau khi đề nghị “trung lập hóa” Đông Dương thất bại và việc Nhật tấn công
Trân Châu Cảng đã dẫn đến Hoa Kỳ chính thức tham chiến đứng về phe Đồng
minh tuyên chiến với phát xít Nhật. Lúc này, Hoa Kỳ thật sự quan tâm đến Đông
Dương, không chỉ vì vai trò của Đông Dương đối với Nhật mà từ lâu Tổng thống
Roosevelt đã muốn loại bỏ thực dân Pháp để giữ vai trò trung tâm ở Đông Dương
sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Cho nên Tổng thống Roosevlt muốn
đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế, để thực hiện được mục đích của mình,
ông đã nhiều lần lên án sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương, đặt biệt là Việt
Nam. Nhưng ý định của Tổng thống Roosevelt đã vấp phải sự phản đối của Anh vì
Anh lo sợ hình thức ủy trị sẽ tạo ra một tiền lệ nguy hiểm.
Hoa Kỳ hiểu được những suy nghĩ của người Anh vì sự “trùng hợp quyền
lợi” giữa Anh và Pháp, hai nước có nhiều thuộc địa nhất lúc bấy giờ. Thủ tướng
Churchill cũng không muốn làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đồng minh giữa Anh
và Hoa Kỳ nên trên bàn Hội nghị Churchill đã khéo léo phản đối kế hoạch của
Tổng thống Roosevelt. Cho nên, Roosevelt đã ra sức vận động sự ủng hộ của
Tưởng Giới Thạch và Stalin đối với kế hoạch cho Đông Dương. Như vậy, trong
cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương (đến ngày 9.3.1945), chính phủ Hoa Kỳ và Anh
đã theo đuổi những chính sách khác nhau đối với Đông Dương, trong khi Hoa Kỳ
muốn loại bỏ vai trò của Pháp ở Đông Dương để giữ vị trí trung tâm ở khu vực này
khi chiến tranh kết thúc thì Anh muốn duy trì quyền lực của Pháp để không làm
ảnh hưởng đến hệ thống thuộc địa của Anh ở khu vực Đông Nam Á.
55
Chương 3
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI
VỚI ĐÔNG DƯƠNG TỪ KHI NHẬT ĐẢO CHÍNH PHÁP (ĐẾN 3.1946)
3.1. Từ khi Nhật đảo chính Pháp đến Hội nghị Potsdam
3.1.1. Nhật đảo chính Pháp
Cho đến năm 1945, Đông Dương ở vào một tình trạng đặc biệt, Đông
Dương là thuộc địa của một nước phương Tây mà khi Nhật chiếm đóng, chính
quyền thuộc địa không bị người Nhật thay thế. Từ cuối năm 1940, chính quyền
Pháp, sau khi thất trận ở châu Âu đã nhanh chóng đầu hàng Nhật và để Nhật
mang quân vào chiếm đóng Đông Dương trước khi cuộc chiến Thái Bình Dương
bùng nổ vào cuối năm 1941 khi Nhật tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu
cảng.
Trong suốt thời gian chiến tranh đó, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã
“tích cực” hợp tác với Nhật, không những về phương diện kinh tế, cung cấp lúa
gạo và các nguyên liệu chiến lược cho Nhật mà cả về quân sự, để Nhật sử dụng
các căn cứ quân sự tại Đông Dương bành trướng ra khắp vùng Đông Nam Á,
đánh chiếm Philippines, Malaysia, Singapore và Indonesia. Từ năm 1940, Đông
Dương, nhất là Việt Nam, đã trở thành một căn cứ hậu cần và tiếp tế quan trọng
của Nhật Bản. Chính vì sự hợp tác của Pháp mà trong suốt thời gian này Nhật
thấy không cần thiết phải lật đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương và thay thế
bằng một chính quyền của mình. Trong những năm 1942 – 1943, Nhật không
mấy lo ngại về Đông Dương. Bởi lực lượng Đồng minh còn cánh xa Việt Nam
và mặc dù không hẳn thân mật nhưng quan hệ giữa Nhật - Pháp nhìn chung là
tạm ổn. Mặc dù Nhật muốn giữ nguyên hiện trạng tại Đông Dương để quân đội
rảnh tay tập trung vào giao chiến ở những nơi khác, nhưng vẫn tồn tại khả năng
56
thực dân Pháp đứng về phe Đồng Minh. Nếu điều đó xảy ra, quân Nhật sẽ buộc
phải ngăn chặn những hành động thù địch ở Đông Dương. Và mối quan hệ Pháp
- Nhật bắt đầu thay đổi khi chiến thắng của Đồng minh tại châu Âu tăng lên.
Đến tháng 8 năm 1944, cuối cùng Paris được giải phóng. Trong khi người Pháp
thể hiện vui mừng vì thủ đô của họ sạch bóng thù thì người Nhật càng tỏ ra cảnh
giác hơn đối với thái độ của Pháp ở Đông Dương. Ngay từ đầu, việc Nhật tỏ ra
“tôn trọng chủ quyền” của thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ là một thủ đoạn để
duy trì trật tự và đảm bảo sự hợp tác của thực dân Pháp. Vì Nhật biết rõ rằng
thực dân Pháp bị buộc phải nhượng bộ, hợp tác do tình thế không còn sự lựa
chọn nào khác. Khi tình hình thay đổi thì chắc chắn thái độ hợp tác của người
Pháp sẽ thay đổi theo. Do vậy, Nhật luôn theo dõi các hoạt động của Pháp ở
Đông Dương.
Chính quyền Pháp tại Đông Dương cũng bắt đầu có ý đồ chống lại Nhật.
Nhiều phái viên thuộc tổ chức “Nước Pháp Tự do” (Free French) của tướng De
Gaulle được Anh bảo trợ đã bắt liên lạc với những sĩ quan Pháp tại các đồn biên
giới với Trung Quốc để bí mật thành lập những tổ chức kháng chiến chống lại
Nhật. Chẳng bao lâu một hệ thống tình báo đã được thành lập bên trong Đông
Dương cung cấp các tin tức về hoạt động quân sự của Nhật cho các cơ quan tình
báo Hoa Kỳ đóng tại miền Nam Trung Quốc. Năm 1944, phong trào này đã gia
tăng mạnh thêm khi Paris được giải phóng và chính quyền De Gaulle trở thành
chính quyền chính thức của Pháp thay cho Vichy. Liên lạc trở nên thường xuyên
giữa Cơ quan tình báo của quân đội Pháp tại Hà Nội và phái bộ Quân Sự Pháp
của chính phủ De Gaulle tại Côn Minh. Chính các giới chức cao nhất trong
chính quyền và quân đội Pháp tại Đông Dương lúc đó cũng bắt đầu tìm cách liên
lạc với chính phủ De Gaulle và lo tổ chức những hoạt động để chống lại Nhật.
Được những thắng lợi của Đồng minh cả ở châu Âu và khu vực Thái Bình
Dương khích lệ, người Pháp ở Đông Dương đã dự đoán phe Trục sẽ thất bại
57
trong vòng vài tháng nữa; và đến đầu năm 1945, Pháp dần trở nên công khai hơn
trong thái độ chống phe Trục. Nhà cầm quyền Nhật đã nhận thấy được điều đó
và cảm thấy không hài lòng với người Pháp.
Tháng 10 năm 1944, quân đội Mỹ dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas
Mac Arthur đổ bộ xuống đảo Leyte của Philippines và đến tháng Giêng thì tiến
đến Luzon và đánh vào Manila dẫn đến khả năng của một cuộc đổ bộ vào Đông
Dương là chuyện rất có thể xảy ra. Đặc biệt, tháng Giêng năm 1945, máy bay
của một hạm đội Mỹ ở ngoài khơi đột nhiên xuất hiện tại Sài Gòn và ném bom
đánh đắm gần 20 chiếc tàu Nhật đang đậu tại cảng này khiến quân Nhật càng e
ngại thêm rằng sau Philippines, Đông Dương có thể là mục tiêu mới của Hoa
Kỳ. Trong khi đó, Nhật biết rõ rằng trong trường hợp đổ bộ như vậy, quân đội
Pháp tại Đông Dương sẽ trở cờ theo Đồng minh mà chống lại Nhật, không
những qua những tin tức mà họ thu lượm được về các hoạt động ngầm của Pháp
mà cả qua những chương trình phát thanh trong đó chính phủ De Gaulle luôn
luôn tuyên bố ý định sẽ chiếm lại Đông Dương bằng vũ lực. Lúc này, Nhật
không thể mạo hiểm có một kẻ thù ở sau lưng. Đề phòng Pháp có hành động
như vậy là không thể tránh được. Pháp có lý do để trông chờ một cuộc đổ bộ của
Đồng Minh vào Việt Nam.
Tháng 2 năm 1945, Wedemeyer tuyên bố rằng ông đã triển khai kế hoạch
tiến vào Đông Dương. Cuộc tấn công đã không trở thành hiện thực vì chiến lược
của Đồng minh quyết định từ Philippines tiến thẳng đến Okinawa mà không đổ
bộ lên lục địa châu Á. Dẫu vậy, những đợt oanh kích bằng không quân và hải
quân dữ dội đã khiến cho cả Nhật, Pháp và nhiều người khác ở Đông Dương lúc
đó thật sự tin rằng một cuộc đổ bộ của quân Đồng minh đang đến.
Tất cả những chuyện đó đã khiến cho Nhật quyết định đưa vào thực hiện
chiến dịch gọi là “Meigo” (Minh Nguyệt) mà họ đã hoạch định sẵn trước để lật
58
đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương nhưng trong những khoảng thời gian khác
nhau Tokyo đã quyết định để cho chính quyền Vichy của Pháp duy trì chế độ cai
trị thuộc địa lâu hơn một chút. Một cuộc đảo chính nên được thực hiện chỉ khi
tình hình đã làm cho nó hoàn toàn bắt buộc. Điều này tiết kiệm được nhiều chi
phí và công sức cho Nhật Bản [45, tr 4]. Và khi quân Nhật phát hiện ra sự phản
bội của thực dân Pháp ở Đông Dương thì sự duy trì hợp tác để cùng cai trị Đông
Dương đã không còn ý nghĩa, do đó Tổng hành dinh chiến tranh của Nhật ở
Tokyo đã đi tới quyết định dùng đảo chính quân sự thủ tiêu chính quyền thực
dân Pháp, tước vũ khí quân Pháp để trừ hậu họa và rãnh tay đối phó với quân
Đồng minh.
Chế độ thực dân Pháp đã duy trì quyền kiểm soát ở Đông Dương trong
suốt phần lớn cuộc chiến tranh Thái Bình Dương trong sự hợp tác với Nhật Bản.
Không có cuộc đảo chính của Nhật vào ngày 9.3.1945, Pháp vẫn tiếp tục cai trị
nơi này khi Nhật đầu hàng, không có “Cách mạng tháng Tám” diễn ra sau đó và
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ không được thành lập [45, tr 2]. Thay vào
đó, chính quyền thuộc địa Pháp sẽ tạm thời khẳng định chức năng của nó bởi De
Gaulle. Chính người Nhật đã tách Đông Dương ra từ chế độ thực dân Pháp,
nhưng sự giải phóng Đông Dương từ Pháp và đặt dưới một chế độ ủy trị quốc tế
cũng là một trong những mục tiêu chiến tranh của Tổng thống Hoa Kỳ
Roosevelt. Ông đã nhiều lần bày tỏ trong chiến tranh với tuyên bố không ủng hộ
chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, ông mong muốn thiết lập một chế độ ủy
trị quốc tế để chuyển sang giai đoạn độc lập cho Đông Dương thuộc Pháp.
Sau sự kiện Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ đã tuyên chiến với Nhật, tham gia
vào Chiến tranh thế giói thứ hai và đứng về phía đồng minh chống phát xít.
Nhưng trước nguy cơ Nhật đảo chính Pháp, mặc dù là đồng minh với Pháp
nhưng tổng thống Roosevelt đã từ chối hỗ trợ cho Pháp chống Nhật. Thiếu tá
59
Archimedes Patti đã ghi lại: “Trong những tuần lễ đầu tiếp sau cú 9.3, người
Pháp đã phê phán mạnh mẽ việc Mỹ đáp ứng lại những yêu cầu giúp đỡ của họ.
Họ đã xin tiếp tế đạn dược. Nhưng đạn dược của chúng ta không thích hợp với
vũ khí của họ. Họ đã yêu cầu vũ khí thì vũ khí của chúng ta chỉ để dành riêng
cho Trung Quốc. Họ đã yêu cầu chi viện đường không và mặc dầu điều đó
không có trong kế hoạch của Đồng minh ở Trung Quốc. Đội Không quân thứ 14
đã tiếp tế nhiều hơn mức phải làm. Họ đã yêu cầu được vận chuyển đến Trùng
Khánh bằng máy bay quân sự nhưng người Trung Quốc đã không cho phép”[26,
tr 82]. Bởi Roosevelt có khả năng nhìn thấy kế hoạch của mình đối với Đông
Dương được thể hiện rõ như thế nào trong cuộc chiến tranh chống Nhật. Nếu
như Pháp cai trị Đông Dương, sẽ rất khó khăn để giải phóng thuộc địa từ Pháp.
Nếu Đông Dương được cai trị hoàn toàn bởi Nhật Bản trước khi chiến tranh kết
thúc, và sau đó được giải phóng bởi lực lượng Đồng minh, Hoa Kỳ và Trung
Quốc sẽ có nhiều sức mạnh hơn ở Đông Dương. Một trong những mục tiêu
chiến tranh của Tổng thống Roosevelt là thúc đẩy một dân tộc Trung Quốc
mạnh mẽ. Nếu Nhật Bản chiếm Đông Dương, sau khi Mỹ ủng hộ các lực lượng
Trung Quốc có thể tấn công người Nhật mà không bận tâm về thái độ của Pháp
và Trung Quốc có thể nâng cao vị trí của họ trong khu vực sau chiến tranh [45,
tr 7]. Cho nên Washington đã “lạnh lùng” từ chối trước lời kêu gọi của Pháp để
chống Nhật ở Đông Dương, trong hồi kí của mình, tướng Chennault – tư lệnh
Lực lượng không quân số 14 của Mỹ ở Trung Hoa đã viết: “Lệnh từ Tổng hành
dinh chiến trường Trung Hoa nói rằng không được cung cấp vũ khí đạn dược
cho quân Pháp trong bất kì trường hợp nào. Tôi được phép tiến hành hoạt động
“bình thường” chống lại Nhật ở Đông Dương miễn là hành động ấy không dính
dáng tới việc tiếp tế cho quân Pháp. Lệnh không được giúp đỡ người Pháp của
tướng Wedemeyer được ban hành trực tiếp từ Bộ chiến tranh Mỹ” [18, tr 51]
60
Trước áp lực của Bộ Ngoại giao và thái độ phản đối của Anh đối với
chính sách của Tổng thống Roosevelt, ông đã tuyên bố: "Tôi vẫn không muốn
dính líu vào bất kỳ quyết định về Đông Dương, đó là một vấn đề sau chiến
tranh. Vì lẽ đó, tôi cũng không muốn dính líu vào bất kỳ nỗ lực quân sự hướng
tới giải phóng Đông Dương từ Nhật Bản ... từ cả quan điểm quân sự và dân sự,
hành động vào thời điểm này là quá sớm” [45, tr 10]. Tại sao ông ấy không
muốn dính líu trong bất kỳ nỗ lực quân sự để giải phóng Đông Dương. Người ta
thường cho rằng vào thời điểm này, Roosevelt đã rút lui khỏi chính sách của
ông về thúc đẩy hơn nữa vai trò củaTrung Quốc trong chiến tranh và sự phản đối
của ông đối với sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, Roosevelt tích
cực tìm kiếm những cách thức mới của việc thúc đẩy tăng cường Trung Quốc và
ông đã nhìn thấy một kết nối giữa mục tiêu này và mong muốn của mình để giải
phóng Đông Dương từ Pháp[45, 8]. Cho nên ý định “không dính líu” của
Roosevelt có thể muốn chờ đợi và xem những gì xảy ra bên trong Đông Dương.
Nếu Nhật tấn công và đánh bại quân đội thực dân Pháp, sau đó Đông Dương sẽ
trở thành một lãnh thổ cai trị trực tiếp của đối phương. Như vậy, nó có thể được
giải phóng bởi lực lượng Trung - Mỹ. Còn việc loại bỏ chế độ thực dân Pháp sau
đó sẽ được để lại cho Nhật Bản.
Cho đến đầu năm 1945 sự mơ hồ trong chính sách của Mỹ về việc tiếp tục
duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp vẫn chưa được giải quyết. Và có phải
Tổng thống Roosevelt đã cố ý giành thế chủ động ở Đông Dương cho Nhật? Vì
mục đích của Roosevelt là đặt Đông Dương dưới sự uỷ trị quốc tế nên phải kích
động để Nhật thủ tiêu chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương. Câu hỏi liệu
Roosevelt có cố ý giành “thế chủ động” cho Nhật hay không sẽ vẫn còn để ngỏ
cho các phỏng đoán. Nhưng bất chấp ý định của Roosevelt, trên thực tế, những
hành động của ông đã bật đèn xanh cho Nhật loại bỏ quyền lực của Pháp. Bởi
nếu người Pháp bị đuổi ra khỏi Đông Dương bằng vũ lực thì vấn đề tách họ khỏi
61
thuộc địa sau chiến tranh mới dễ dàng hơn. Tổng thống Roosevelt mô tả ách
thống trị của Pháp là “bòn rút” người dân Đông Dương, và ông tuyên bố nhân
dân Đông Dương “có quyền được hưởng những gì tốt đẹp hơn thế”. Ông cảm
thấy rằng thời của chủ nghĩa thực dân châu Âu đã hết và muốn giành được sự
mến mộ trong các dân tộc châu Á bằng cách góp phần vào công cuộc giải phóng
họ. Tổng thống Roosevelt đã nỗ lực thuyết phục các chỉ huy quân đội của đất
nước mình rằng nên làm gì đó nhằm chấm dứt ách thống trị phản động của
Pháp.
3.1.2 Chính phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối với Đông Dương
Khi chính thức tham chiến, Hoa Kỳ lo ngại sau khi quân đồng minh chiến
thắng, nếu các cường quốc thuộc địa chiếm lại thuộc địa cũ thì khó mà bắt họ
thực thi nghiêm chỉnh chính sách giải tán thuộc địa. Vì thế từ đầu năm 1943,
Hoa Kỳ chủ trương phải đặt ngay các thuộc địa cũ của Anh, Pháp, Hà Lan…
dưới hình thức ủy trị quốc tế sau khi giành lại từ tay phát xít, rồi sau một thời
gian thích hợp chuẩn bị các điều kiện tự lực sẽ đi tới độc lập hoàn toàn.
Công thức của Roosevelt dự định cho Đông Dương là chế độ ủy trị quốc
tế phỏng theo chế độ ủy trị của Hội Quốc liên trước kia [13, tr 33]. Ý tưởng này
đã luôn luôn tồn tại trong suy nghĩ của Roosevelt. Sẽ có vài nước tham gia chế
độ uỷ trị, nhưng Tổng thống Roosevelt muốn “Mỹ giữ vai trò trung tâm trong
tương lai của nước Việt nam thời hậu chiến” [18, tr 55]. Tuy nhiên, trong bối
cảnh Hoa Kỳ vừa phải đối phó với nhiều kẻ thù nên phải tìm một đồng minh để
giữ vai trò thứ hai sau mình. Và đồng minh mà Hoa Kỳ tin tưởng lúc bấy giờ là
Trung Hoa dân quốc. Điều đó lí giải vì sao, Hoa Kỳ trong những năm Chiến
tranh thế giới thứ hai đã giúp đỡ, viện trợ cho Trung Hoa dân quốc. Tại Cairo,
Tổng thống Roosevelt đã bàn bạc với Tưởng Giới Thạch về việc đặt Đông
Dương dưới sự ủy trị quốc tế. Tất nhiên, Tưởng Giới Thạch liền gật đầu đồng ý.
62
Nhà sử học Mỹ Walter LaFeber đã nói: “Kế hoạch của Roosevelt về giải pháp
ủy trị cho Đông Dương đặt trên cơ sở Mỹ cho rằng Trung Hoa có thể thay Pháp
làm một đại cường quốc ở Châu Á” [18, tr 55]. Lúc đầu, Tổng thống Roosevelt
đã muốn đặt Đông Dương dưới sự cai trị của Hoa Kỳ và người bạn đồng minh
của ông là Trung Hoa. Ông cho rằng Tưởng Giới Thạch là người có thể tin
tưởng được. Hoa Kỳ muốn thực hiện chế độ “ủy trị quốc tế” nhằm phá vỡ thế
độc quyền của thực dân Anh, Pháp ở các thuộc địa, dễ dàng gạt bỏ Pháp và Nhật
ra khỏi Đông Dương, gây ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở khu vực này, trực tiếp nắm
lấy Đông Dương khi có cơ hội. Và khi chưa có điều kiện can thiệp trực tiếp, Hoa
Kỳ vẫn muốn thông qua Tưởng Giới thạch để nắm lấy Đông Dương. Tháng
11.1943, tại Hội nghị Tehran, trong khi gay gắt lên án Pháp về vấn đề Đông
Dương thì Hoa Kỳ lại ra sức vận động để trao Đông Dương cho Tưởng một khi
chế độ ủy trị quốc tế không được Anh chấp thuận. Trong khi, Tổng thống
Roosevelt muốn thông qua Trung Hoa ân quốc để thực hiện ý đồ của mình thì
Tưởng Giới Thạch cũng muốn dựa vào Hoa Kỳ để thực hiện tham vọng bành
trướng, thôn tính Việt Nam. Sau đó, tại các Hội nghị, Hoa Kỳ đã công khai gợi ý
giao cho Tưởng phụ trách chiến trường Đông Dương, cho nên Tưởng Giới
Thạch càng xúc tiến mạnh mẽ việc chuẩn bị thực hiện tham vọng thay Pháp ở
Việt Nam.
Mặc dù bị Chính phủ Anh và Pháp phản đối quyết liệt và ngay cả nhiều
quan chức trong bộ máy chính quyền Hoa Kỳ không đồng tình, Tổng thống
Roosevelt vẫn kiên trì quan điểm của mình. Sau Hội nghị Tehran, Thủ tướng
Anh Churchill đã chỉ thị cho Lord Halifax đại sứ Anh tại Washington yêu cầu sự
xác nhận của Bộ Ngoại giao Mỹ về vấn đề này. Roosevelt đã trả lời dứt khoát:
“Tôi đã gặp Halifax và đã nói thẳng rằng: đúng là hơn một năm nay, tôi có ý
kiến là Đông Dương không thể trả lại cho Pháp nhưng có thể đặt dưới chế độ ủy
trị quốc tế. Pháp đã cai trị gần một trăm năm và mọi thứ đều tồi tệ hơn so với
63
trước khi họ đến. Tôi không có lý do gì để tranh cãi với Bộ Ngoại giao Anh
được. Chỉ có một lý do mà Anh chống lại việc quản trị quốc tế là vì Anh sợ ảnh
hưởng đến thuộc địa của họ” [42, tr 32]. Tiếp đó, ngày 17.2.1944, khi trả lời
những vấn đề do Bộ Ngoại giao nêu lên về thái độ của Chính phủ Hoa Kỳ đối
với các hoạt động quân sự của Pháp ở Đông Dương, Roosevelt đã nói với Thứ
trưởng Ngoại giao Mỹ rằng, bất kỳ các đội quân nào của Pháp cũng sẽ không
được sử dụng trong các kế hoạch tác chiến ở Đông Dương và nhấn mạnh rằng
các hoạt động quân sự ở Đông Dương sẽ được quân Anh, Mỹ thực hiện và bước
tiếp theo là sẽ lập một Ủy ban ủy trị quốc tế đối với các thuộc địa của Pháp[24,
tr 98]
Thực tế, trong chính sách ngoại giao của mình, Roosevelt đã tìm cách để
đạt được mục tiêu ngoại giao mà không trả những giá cần thiết. Vào giữa tháng
3.1945, Tổng thống có thể đã có một lập trường ôn hòa hơn nhưng không phải là
đã hoàn toàn từ bỏ lý tưởng về quyền ủy tri [26, tr 31]. Tổng thống Roosevelt
từng nhiều lần trì hoãn câu trả lời về chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông
Dương, ông nói đó là vấn đề của thời hậu chiến. Bởi bản thân Roosevelt phải đối
phó với sự chống đối từ nhiều phía, cả ở trong và ngoài nước, không chỉ sự
chống đối kịch liệt từ chính phủ Anh mà còn do mâu thuẫn ngay trong nội bộ
chính quyền Hoa Kỳ về chính sách thời hậu chiến.
Ngay từ tháng 2 năm 1943, Roosevelt đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ
từ Bộ Ngoại giao đối với thái độ chống Pháp và chủ trương ủy trị quốc tế của
mình. Đầu tiên, đó là mối lo ngại rằng sự sắp xếp ủy trị có thể can thiệp đến các
căn cứ quân sự muốn giữ lại ở Thái Bình Dương sau chiến tranh. Một sự lo sợ
rằng cuộc thảo luận về sự ủy trị sẽ dẫn đến tranh chấp lãnh thổ và bất đồng giữa
các đồng minh trước việc hoàn thành mục tiêu chung là đánh bại Nhật Bản. Một
số quan chức Hoa Kỳ coi trọng vị trí của Pháp trong chiến lược toàn cầu của
64
Hoa Kỳ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai nên đã không đồng ý chủ
trương ủy trị quốc tế. Hoa Kỳ nên nhận ra lợi ích của mình trong việc duy trì
mối quan hệ tốt đẹp với các nước đồng minh. Phải tỉnh táo để nhận thức được
rằng bất kỳ mối đe dọa cho an ninh của Hoa Kỳ trong tương lai sẽ đến từ cộng
sản chứ không phải là tư tưởng chủ nghĩa đế quốc. Pháp sẽ là một thành phần
quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ chống lại Liên Xô. De Gaulle đã cảnh
báo rằng, Pháp đã thất vọng bởi chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Dương, có lẽ
kết quả là Pháp chuyển về phía Liên Xô: “Nếu quần chúng ở đây thấy rằng các
ông chống chúng tôi ở Đông Dương, thì đó sẽ là một sự cực kỳ bất mãn, và
không ai biết là sự việc sẽ đưa tới đâu. Chúng tôi không muốn trở thành Cộng
sản; chúng tôi không muốn rơi vào quỹ đạo của Liên Xô; nhưng chúng tôi hi
vọng là các ông không đẩy chúng tôi vào đó.” [38, tr 364].
Ý kiến của phe ủng hộ Pháp được biểu hiện qua thái độ của William
Langdon, tổng lãnh sự Mỹ tại Côn Minh, khi tiếp một phái đoàn Việt Minh vào
tháng 09 năm 1944. Langdon xác nhận là Hoa Kỳ có quan tâm tới “tương lai
chính trị và sự thăng tiến của các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” nhưng vì người
An Nam là “công dân nước Pháp” nên không có lý do gì mà “nước Mỹ, trong
khi bỏ bao nhiêu sinh mạng và tài sản để cứu giúp nước Pháp thoát khỏi vòng nô lệ nước Đức, lại đồng thời làm cho đế quốc Pháp bị sụp đổ.” Tháng 10, thủ
tướng Anh Churchill tự ý giao cho Pháp một phần công tác của Bộ tư lệnh chiến
trường Đông Nam Á (SEAC) mà không đợi sự chấp thuận của tổng thống Mỹ.
Roosevelt đã đưa ra một chỉ thị thậm chí còn thẳng thắn hơn: “....Churchill và
tôi đã không chính thức công nhận các nhiệm vụ quân sự của Pháp ở SEAC và
thêm vào đó, tôi đã không thỏa thuận, xác định hoặc trái lại với Anh, Pháp hoặc
Hà Lan để duy trì thuộc địa ở Viễn Đông của họ”[38, tr 362].
65
Cho nên, Tổng thổng Roosevelt buộc phải điều chỉnh chủ trương ủy trị
quốc tế về Đông Dương, thông qua việc mở rộng thành phần tham gia, không
chỉ có Hoa Kỳ và Trung Hoa. Đến Hội nghị Yalta vào tháng 2.1945, tuy chống
lại ý đồ mời Pháp tham dự Hội nghị này nhưng khi đưa ra đề nghị thành lập Hội
đồng ủy trị quốc tế ở Đông Dương, Roosevelt vẫn đề nghị có một đại diện của
Pháp, một hoặc hai đại diện của Đông Dương, một đại diện Philippin, một đại
diện Trung Quốc, một đại diện Liên Xô và một đại diện của Hoa Kỳ. Bằng việc
đưa đại biểu của Pháp vào Hội đồng ủy trị, Hoa Kỳ hy vọng sẽ nhận được sự
đồng ý của Anh. Tuy nhiên, sự nhân nhượng của tổng thống Roosevelt vẫn
không có được sự ủng hộ của Anh “tất cả ý đồ của Roosevelt đều không dẫn tới
một quyết định nào tại Hội nghị” [11, tr 13] do Anh kiên quyết chống lại chủ
trương mang tính chất chống chủ nghĩa thực dân của Hoa Kỳ và “coi đó như là
một ý định nhằm vào cả thuộc địa của Anh”.
Sau hội nghị Yalta, Roosevelt đã tóm tắt thái độ của đồng minh về kế
hoạch ủy trị: Stalin thích ý kiến này. Trung Hoa cũng tán thành. Anh quốc
không ưa vì sợ đế quốc của họ bị tan vỡ. Ngay từ trước khi Chiến tranh thế giới
thứ hai chấm dứt, Hoa Kỳ đã nghĩ tới một trật tự thế giới nhằm phục vụ cho
những lợi ích của nước Mỹ. Lúc này, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho rằng sự ổn
định, phồn vinh và phục hồi vị thế của Pháp là rất quan trọng cho lợi ích của
Hoa Kỳ trong thế đối đầu với Liên Xô. Để thoả hiệp với Anh và Pháp nhằm tập
trung vào những vấn đề khác, từ đó trở đi Roosevelt không đặt lại vấn đề quản
trị quốc tế đối với Đông Dương nữa. Cho đến trước khi chết (12.4.1945), Tổng
thống Roosevelt vẫn không có một quyết định dứt khoát nào về vấn đề này.
Trong mùa thu năm 1944, Roosevelt nhận một vài báo cáo nói rằng Anh, Pháp,
Hà Lan đã đạt được ít nhất một hợp tác chính thức trong tái lập đế quốc của họ.
Tuy nhiên. bất chấp những những báo cáo này, Roosevelt đã không nổ lực cho
những kế hoạch trong tương lai của ông về ủy trị Đông Dương. Ông vẫn tiếp tục
66
tin rằng giải pháp chính trị cuối cùng có thể hoãn lại đến khi Đông Dương được
giải phóng. Trong một bản ghi nhớ đến Stettinius vào ngày 1 tháng 1 năm 1945,
Roosevelt đã bắt đầu một cách ngắn gọn: “Tôi vẫn không muỗn dính líu trong
bất kì quyết định nào về Đông Dương. Đó là một vấn đề sau chiến tranh. Tương
tự, tôi không muốn lẫn lộn bất cứ nổ lực quân sự nào đến giải phóng Đông
Dương từ Nhật Bản” [38, tr 363].
3.1.3. Anh xúc tiến kế hoạch hỗ trợ Pháp quay lại Đông Dương
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, về mặt đối ngoại, thế và lực của nước
Pháp bị suy yếu nghiêm trọng, khiến cho vị trí của nước Pháp bị sa sút rõ rệt
trên trường quốc tế. Còn ở trong nước, chính phủ của de Gaulle cũng phải đối
mặt với những khó khăn và hậu quả chiến tranh nặng nề. Nhưng ngay sau khi
lên nắm chính quyền, chính phủ De Gaulle vội vàng phái quân viễn chinh sang
Đông Dương để “khôi phục” lại thuộc địa cũ của mình.
Mưu đồ tái thiết lập sự thống trị của Pháp ở Đông Dương đã có từ rất
sớm. Mặc dù là một nước bị phát xít Đức chiếm đóng từ tháng 6.1940 nhưng ở
nước ngoài, tướng De Gaulle - người đứng đầu Uỷ ban Giải phóng nước Pháp
luôn tuyên bố sẽ khôi phục toàn bộ lãnh thổ Pháp cùng các thuộc địa của Pháp
và đã ráo riết cho xúc tiến việc tái lập lại quyền thống trị của Pháp ở Đông
Dương. Ngày 8.12.1943, De Gaulle ra một bản tuyên bố về chính sách của Nước
Pháp tự do đối với Đông Dương, khẳng định quyết tâm của Pháp sẽ “giải
phóng” Đông Dương và bảo vệ những quyền lợi của Pháp ở khu vực này. Với
tuyên bố này, thực dân Pháp không chỉ nhằm giành lại một thuộc địa giàu có mà
chúng buộc phải chia sẻ với phát xít Nhật từ tháng 9.1940, mà còn nhằm bảo vệ
hệ thống thuộc địa rộng lớn của chúng đã bị lung lay và có nguy cơ tan rã khi
nước Việt Nam giành được độc lập.
67
Được sự giúp đỡ của Anh, De Gaulle cho tổ chức Phân đội Pháp nằm
trong Lực lượng đặc biệt 136 của Bộ chỉ huy Đông Nam Á của Anh để hoạt
động tình báo, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho quân đội Pháp trở lại
Đông Dương. Đồng thời, De Gaulle cũng cho thực hiện việc bắt liên lạc với lực
lượng Pháp kháng chiến ở Đông Dương để tránh cho Pháp khỏi bị gạt ra rìa, tụt
hậu, khỏi lỡ thời cơ may mắn khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương.
Sang đầu năm 1945 khi thấy Đông Dương có nguy cơ rơi hoàn toàn vào
tay Nhật, Jean Sainteny được điều trở lại Đông Dương phụ trách phái đoàn 5
(Mission 5). Nhiệm vụ của Jean Sainteny là chỉ huy các nhóm quân Pháp kháng
chiến đang hoạt động lẻ tẻ ở dọc biên giới Việt - Trung, vùng Thượng Lào, vùng
biển Đông Bắc Việt Nam (Quảng Ninh) để thu thập tin tức về hoạt động của
quân đội Nhật ở Đông Dương và theo dõi tình hình phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc ở khu vực này, nhất là ở Bắc Kỳ và Lào để giúp de Gaulle
chuẩn bị kế hoạch tái chiếm Đông Dương.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945) De Gaulle xúc tiến ráo riết về
chính trị, quân sự cho việc trở lại của Pháp ở Đông Dương. Với sự giúp đỡ của
quân Anh, ngày 24.8.1945 Leclerc cùng Bộ tham mưu quân viễn chinh Pháp
vạch ra một kế hoạch trở lại Đông Dương. Kế hoạch này đã được Ủy ban Đông
Dương thông qua với các nội dung: Dựa vào sự có mặt của quân đội Anh để
xâm chiếm từ nam vĩ tuyến 16; Thả dù các nhân viên dân sự và lực lượng quân
sự xuống vùng quân Tưởng kiểm soát ở miền Bắc Việt Nam; Duy trì và xác
nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương; Từng bước giành lại những vùng do
quân Tưởng kiểm soát. Như vậy, cho đến tháng 8.1945 âm mưu và hành động
nhằm tái lập nền thống trị của Pháp đã được chuẩn bị kỹ càng và đầy đủ, bất
chấp cuộc Cách mạng tháng Tám đã bùng nổ và sự thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, ngày 2.9.1945.
68
Thậm chí, một tuần sau ngày nhân dân thủ đô Hà Nội khởi nghĩa giành
chính quyền (19.8.1945), tướng De Gaulle gửi sang Đông Dương một bức điện
vừa đầy vẻ trịch thượng, bề trên, vừa sặc mùi thực dân và lừa bịp: Mẫu quốc gửi
đến những người con trong liên bang Đông Dương niềm hân hoan và lòng biết
ơn... Những người con Đông Dương đã tỏ ra xứng đáng với một thực thể quốc
gia rộng rãi hơn và tự do hơn, do thái độ của họ trước đây đối với quân thù, do
lòng trung thành của họ đối với nước Pháp!...nước Pháp tuyên bố sẵn sàng thực
hiện những điều cam kết, vì lợi ích to lớn của mọi người...[50]
Trong âm mưu và hành động chuẩn bị của Pháp có sự ủng hộ tích cực của
Anh - một đế quốc có nhiều thuộc địa nhất. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ
hai, nhiều thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan ở Đông Nam Á và Nam Á bị Nhật
chiếm đóng. Vì vậy, Anh chủ trương giữ nguyên trạng như trước chiến tranh
(status quo ante bellum): Sau khi thắng Nhật, thuộc địa của đế quốc nào phải
được trả lại cho đế quốc ấy. Thủ tướng Anh Churchill luôn chống lại và phản
đối kịch liệt chế độ ủy trị quốc tế do Roosevelt đề xướng vì lo ngại rằng hình
thức này sẽ được áp dụng ở các thuộc địa của Anh và không muốn Hoa Kỳ tranh
giành quyền lợi và gây ảnh hưởng ở vùng Đông Nam Á, trong đó có Đông
Dương, một vùng nằm trong ảnh hưởng truyền thống của Pháp và Anh. Mặt
khác, việc Anh tích cực giúp Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương còn nhằm mục
đích góp phần dập tắt phong trào đòi độc lập ở đây vì sợ rằng phong trào đó sẽ
ảnh hưởng đến các thuộc địa của Anh ở Đông Nam Á.
Với các mục đích trên, Anh từng bước giúp Pháp trở lại Đông Dương
bằng cách giúp Pháp trang bị cho các đơn vị quân đội Pháp để đưa sang Viễn
đông, cho đặt Phái bộ quân sự và tình báo Pháp nằm trong Bộ chỉ huy Đông
Nam Á của Anh, luôn ủng hộ và bênh vực lập trường của Pháp về vấn đề thuộc
địa trong các Hội nghị quốc tế... Ngày 24.8.1945 Anh ký với Pháp một thỏa hiệp
69
về nguyên tắc và cách thức khôi phục lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Tiếp đó ngày 9.10.1945 Anh lại ký với Pháp hiệp định quy định về “quyền hành
chính” của Pháp ở Việt Nam, bất chấp chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Và ngày 1.1.1946, Anh ký tiếp với Pháp hiệp định “Nhường quyền
tiếp phòng” cho Pháp ở vùng Nam Đông Dương [50]. Có thể nói, khác với Mỹ
và Tưởng, thực dân Anh chính là kẻ mở đường cho những hành động vũ lực của
Pháp nhằm tái chiếm Việt Nam ngay sau cách mạng tháng Tám.
3.2. Từ sau Hội nghị Potsdam đến 3.1946
3.2.1. Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và
khước từ công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tuy tổng thống có những ý kiến mạnh mẽ về việc Đông Dương sẽ không
bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc
tế nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một
sự thỏa thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ tổng tư lệnh
Đồng minh công bố cả [26, tr 19].
Một số tài liệu của Hoa Kỳ sau này khi đề cập đến vấn đề “ủy trị quốc tế”
đã tỏ ra không đồng tình với thái độ tưởng như cương quyết, nhưng thiếu dứt
khoát của Tổng thống vào những thời điểm quyết định đã làm cho “khái niệm ủy
trị quốc tế sụp đổ ngay từ năm 1943” [24, tr 101]. Thực tế là không có một tư
liệu nào cho thấy Tổng thống Roosevelt từng ra lệnh hoặc yêu cầu việc soạn
thảo bất kỳ loại kế hoạch thực hiện để thiết lập một ủy trị cho Đông Dương [42,
tr 97]. Trong ý tưởng và thực hiện, chính sách đối với Đông Dương của
Roosevelt điển hình cho sự lãnh đạo của ông trong chính sách đối ngoại. Bản
thân Roosevelt cũng không muốn mạo hiểm để làm tan vỡ một liên minh trong
thời chiến và tận dụng tối đa sức mạnh quân sự và ngoại giao. Chính vì vậy,
70
Roosevelt thường né tránh câu trả lời khi được được hỏi. Trường hợp Đông
Dương không ngoại lệ. Kế hoạch ủy trị thường vẫn ở trong tình trạng lấp lửng.
Roosevelt đã theo đuổi nó như là một mục tiêu cụ thể, nhưng đôi khi nó đã được
xem như là một ý tưởng hoặc chỉ là một sự gợi ý. Trong vấn đề này, cũng như
nhiều người khác, Roosevelt thích nắm giữ để xây dựng chính sách chủ yếu
trong tay của chính mình chứ không phải làm việc chặt chẽ với Bộ Ngoại
giao[38, tr 354].
Cuộc đảo chính của Nhật Bản ngày 09 tháng 3 tại Đông Dương đã làm rõ
vấn đề Đông Dương hơn. Khi người Pháp hợp tác với Nhật Bản, Roosevelt có
thể theo đuổi việc chống chủ nghĩa thực dân đối với Đông Dương. Nhưng khi
Đông Dương đã bị mất liên kết của nó với chính phủ Vichy của Pháp và đã trở
thành một lãnh thổ bị chiếm đóng ở Đông Nam Á, Pháp đang tìm kiếm để giải
phóng một dân tộc bị chiếm đóng giống như người Anh tại Miến Điện,
Singapore, Malaysia và Hồng Kông, và Hà Lan ở Đông Ấn. De Gaulle đã không
bỏ lỡ cơ hội để tấn công các thái độ của Hoa Kỳ đối với Pháp bằng cách tuyên
bố trong tinh thần xảo quyệt đúng là một chính sách chống Pháp sẽ đẩy nước
Pháp đối với Liên Xô [43, tr 32].
Tuy nhiên, cho đến trước khi qua đời, suy nghĩ cuối cùng của Roosevelt
về ủy trị được tiết lộ rằng, ông đã không thay đổi quan điểm của mình,
Roosevelt đã không từ bỏ niềm tin hoặc nổ lực của mình để dân tộc thuộc địa:
“độc lập là mục tiêu cuối cùng” [44, tr 112]. Nhiều chính sách trong nước đã có
sửa đổi rõ ràng vì lợi ích cho Roosevelt và thường cho phép Tổng thống “đổi
ngựa giữa cuộc đua” để đạt được kết quả mà tổng thống mong muốn. Tính bất
nhất chính là đặc trưng của Hoa Kỳ về đường lối trong Chiến tranh thế giới thứ
hai và đó là nguồn gốc của nhiều sự hiểu lầm tiếp theo sau đó. Một mặt người
Mỹ đã nhiều lần lặp đi lặp lại với Pháp là tài sản của họ ở Đông Dương sau
71
chiến tranh sẽ được trao trả lại cho họ. Một mặt khác Hoa Kỳ lại công khai ủng
hộ Hiến Chương Đại Tây Dương về quyền Dân tộc tự quyết và cá nhân Tổng
thống Roosevelt đã cực lực ủng hộ cho một Đông Dương độc lập. Tổng thống
Roosevelt đã xem Đông Dương là một thí dụ rõ ràng nhất là phải thay thế cái
chủ nghĩa thực dân xấu xa bằng một Cơ quan quốc tế được ủy nhiệm để quản lý,
thay vì giao nó lại cho Pháp. Vấn đề không phải Roosevelt đã không biết những
gì ông muốn đạt được, mà là làm thế nào ông phải đạt được nó. Roosevelt đã dự
kiến rằng, ủy trị Liên Hợp Quốc sẽ được thiết lập tại Hội nghị San Francisco.
Ông cần sự đồng ý của Anh và Pháp cho một đề án như vậy, ông vẫn chưa sẵn
sàng để thách thức họ một cách công khai. Các vấn đề hậu chiến thế giới vẫn
chưa xuất hiện và các khoản nợ đồng minh với Hoa Kỳ vẫn còn phải được tính
toán. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1944, Bộ Ngoại giao đã đưa ra ý kiến và vận
động Tổng thống làm rõ về chính sách hiện nay của Hoa Kỳ đối với Đông
Dương thuộc Pháp. Trong phản ứng của mình, Roosevelt đã tiết lộ rằng theo
như ông lo ngại không có gì thay đổi và không có viện trợ Mỹ được trao cho
người Pháp đối với Đông Dương. Ông sẽ quyết định về thời gian và thực hiện
chính sách của Mỹ ở Đông Dương. Ngoài ra, Roosevelt dự đoán rằng ông sẽ tự
nhiên được tham khảo ý kiến của người Anh và các cường quốc thực dân khác
về kế hoạch tương lai của họ cho khu vực Đông Nam Á. Ủy trị vẫn ở vị trí hàng
đầu trong tâm trí của Tổng thống. Ông đủ tự tin về tầm nhìn của mình và mục
đích áp đặt điều kiện khắc nghiệt trên các nước đồng minh của mình và quản lý
để thực hiện nó. Roosevelt đã tập trung vào điểm đến của mình - hội nghị hòa
bình sau chiến tranh. Ông có tầm nhìn xa để hiểu rằng Hoa Kỳ sẽ là chủ nợ lớn
duy nhất, rằng ông đã tổ chức tất cả các chương trình chính. Đây sẽ là "một nền
hòa bình của người Mỹ và tùy thuộc vào sự ra lệnh tổ chức của ông” [43, tr 34].
Do đó, Roosevelt có thể kiên nhẫn. Ông sẽ chọn khi nào thương thuyết và lập kế
hoạch hậu chiến và tái thiết. Roosevelt có thể “điều trị” các mối đe dọa ủy trị chỉ
khi nó là hoàn toàn cần thiết hoặc thậm chí quanh co nhiều hơn, khi cá nhân ông
72
mong muốn để chơi đùa với nó. Do đó sự im lặng và không hoạt động của
Roosevelt, mà đôi khi được hiểu như là bỏ rơi, chỉ đơn thuần là một phần của
kho vũ khí chính trị của ông. Có một điều mà bản thân ông đã không thể dự tính
được - là cái chết của mình trước khi hòa bình có thể được thực hiện. Kế hoạch
ủy trị đã không có cơ hội để được thực hiện. Cái chết của Tổng thống Roosevelt
đã loại bỏ các kiến trúc sư chủ chốt từ các bản vẽ tại thời điểm quan trọng nhất,
khi kế hoạch của ông có thể đã được thực thi ở Hội nghị San Francisco và
Potsdam.
Trong luận án thạc sĩ bảo vệ tại Đại học Cornell vào năm 1991, Shannon
Smith Loane đánh giá thái độ của Tổng thống Franklin Delano Roosevtl đối với
Đông Dương và triển vọng của Pháp tái chiếm thuộc địa Đông Dương của họ.
Loane cho thấy Đông Dương ban đầu đã có một vai trò to lớn vì lợi ích của
Franklin Roosevelt trong vấn đề ủy trị sau chiến tranh. Theo Loane, Roosevlt đã
thể hiện thái độ rõ ràng trong việc phản đối việc trở lại của người Pháp ở Đông
Dương nhưng đã không giải quyết được vấn đề của các đồng minh châu Âu của
Hoa Kỳ ngay từ đầu và sau đó nhìn thấy nền tảng của chính sách mới ra đời này
làm suy yếu dần các mục tiêu khác [42, tr 6]
Rõ ràng, chủ trương “ủy trị quốc tế” không xuất phát từ “thiện chí” của
Hoa Kỳ đối với nền độc lập các dân tộc thuộc địa mà vì quyền lợi của chính đất
nước họ. Tuy nhiên, chủ trương này dẫn đến mâu thuẫn và vấp phải sự phản ứng
của Anh và Pháp nên Hoa Kỳ đã thay đổi. Với sự liên quan đến Đông Dương,
Roosevelt khẳng định, ông sẽ chấp nhận sự hiện diện của Pháp chỉ trong điều
kiện Pháp đồng ý thực hiện chức năng của một ủy thác và hứa độc lập. Những
chính sách vẫn bị ghét cay ghét đắng từ Pháp. Những quan chức Hoa Kỳ đã
nhận thức khôn ngoan rằng: Pháp vẫn giữ Đông Dương trong mối quan tâm
riêng của họ, hơn thế nữa, Pháp đã lập kế hoạch cho Đông Dương dự kiến đầy
73
đủ trong hệ thống thuộc địa như một phần của nhiệm vụ văn minh của Pháp.
Như vậy là cho đến khi Roosevelt mất, Pháp và Hoa Kỳ vẫn không hòa giải
được những mâu thuẫn.
Tại Hội nghị Yalta trong vào tháng 2 năm 1945, cuộc thảo luận để tiến tới
hình thành một Hội đồng ủy trị quốc tế đã không đi đến kết quả. Theo Chính
phủ Hoa Kỳ, sắp tới sẽ có những quyết định chỉ đặt dưới hình thức ủy trị quốc tế
những lãnh thổ nào thu hồi từ tay địch trong chiến tranh và những lãnh thổ nào
tự nguyện chấp nhận chế độ ủy trị quốc tế sau chiến tranh [24, tr 102]. Trên thực
tế, điều này dường như là sự kết thúc của vấn đề ủy trị trong trường hợp của
Đông Dương. Bởi Pháp sẽ không bao giờ đồng ý với việc thành lập một ủy trị.
Sau đó, vào đầu tháng 4 năm 1945, Roosevelt cũng chỉ đạo Bộ trưởng Ngoại
giao mới Stettinius để công bố công khai các điều khoản của thỏa thuận Yalta về
ủy trị. Theo nhiều người tham gia và bàn bạc về vấn đề này, tuyên bố công khai
này trên thực tế là một sự phủ nhận về các khái niệm ủy trị cho Đông Dương.
Tuy nhiên, Roosevelt tiếp tục duy trì ít nhất một vị trí mơ hồ trong tham chiếu
đến Đông Dương, ông mặc dù sửa đổi phần nào trong cuộc trò chuyện với
Charles Taussig. Ông nói rằng suy nghĩ của mình về vấn đề này đã không thay
đổi, Đông Dương nên được lấy từ Pháp và đặt dưới một ủy trị, nhưng sau đó,
ông dừng lại một thời gian ngắn và nói: “Nhưng nếu chúng ta có được sự bảo
đảm của Pháp, chịu tham gia vào sứ mạng ủy trị, tôi sẽ đồng ý để Pháp giữ lại
các thuộc địa với điều kiện độc lập là mục tiêu cuối cùng” [42, tr 40].
Rõ ràng, Pháp sẽ không tự nguyện đặt Đông Dương dưới hình thức ủy trị
quốc tế. Tuy nhiên, đối với Roosevelt Đông Dương vẫn là một trường hợp ngoại
lệ. Trong suy nghĩ của Tổng thống, Pháp không phải là quốc gia chịu trách
nhiệm về Đông Dương và do đó cũng không có trách nhiệm thiết lập việc giải
quyết thời hậu chiến. Thực tế, Roosevelt vẫn tin tưởng rằng, ủy trị là một mục
74
tiêu có thể đạt được. Trở về từ Yalta, ông đã nói với các phóng viên về kế hoạch
của mình cho một ủy trị Đông Dương.
Dù sao thì các biến chuyển sau hội nghị Yalta cũng khiến cho tổng thống
Roosevelt phải uyển chuyển thái độ đối với Pháp. Hoa Kỳ và Anh cần có Pháp
để tăng cường khả năng ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô sau khi chiến tranh
chấm dứt. Roosevelt tỏ ý có thể chấp thuận cho Pháp trở lại Đông Dương trong
vai trò bảo trợ với điều kiện là phải cho Đông Dương độc lập thực sự sau một thời hạn nhất định. Chính sách mới này chưa được qui định rõ rệt thì ông đột
ngột từ trần ngày 12 tháng 04, ba mươi ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở
Đông Dương.
Kế hoạch ủy trị đã không dự đoán được sự nổi dậy mạnh mẽ của các dân
tộc trong giai đoạn cuối của chiến tranh mà đòi hỏi phải đẩy nhanh tiến độ độc
lập [38, 366]. Tuy nhiên, chiến tranh, dân tộc được hồi sinh, đem lại cho nó một
sức mạnh không thể kìm nén. Sự yếu ớt của Pháp khi đối mặt với Nhật Bản đã
làm mất uy tín của Pháp tại các dân tộc Đông Dương. Có thể nói đề xuất “ủy trị
quốc tế” các thuộc địa của Tổng thống Roosevelt đã không thể thực hiện. Do sự
lạnh nhạt của Anh và nổ lực vận động của Pháp, các viên chức Hoa Kỳ cũng bất
đồng ý kiến với nhau đối với kế hoạch của Tổng thống Roosevelt. Cũng đến lúc
chiêu bài “chống chủ nghĩa thực dân” không còn phù hợp với tình hình mới và
Hoa Kỳ ngay lập tức thay đổi. Vào giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai,
Hoa Kỳ không những không chống chủ nghĩa thực dân mà còn tạo điều kiện
thiết lập lại chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương.
Kế hoạch ủy trị có thể xây dựng được vị thế của Hoa Kỳ với Đông
Dương. Quan trọng nhất, Hoa Kỳ đã biết đến Việt minh, hỗ trợ họ trong chiến
tranh thông qua Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (Office of Strategic Services -
OSS) và những quan chức Hoa Kỳ, người đã liên lạc với Hồ Chí Minh, những
75
người theo Ông đã thể hiện sự ủng hộ nhiệt tình cho yêu cầu của Việt Minh
chống lại sự kiểm soát trở lại của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun đắp tình
hữu nghị với nhân viên của OSS, thông qua họ, đã chuyển tải đến Washington
sự cảm thông của Người đối với Hoa Kỳ và những ý kiến cho Hiến chương Đại
Tây Dương. Kế hoạch của Tổng thống Roosevelt giữ nhiều tiềm năng cho Hoa
Kỳ và các dân tộc Đông Dương. Với những gì đã xảy ra thì một sự sắp xếp ủy trị
quốc tế có thể ngăn chặn những cuộc đụng độ giữa Pháp và dân tộc đã phát
động cuộc đấu tranh lâu dài và khốc liệt mà đỉnh cao ở Điện Biên Phủ. Nó cũng
có thể nâng cao sự liên minh giữa các dân tộc thuộc địa bởi vì nó sẽ chỉ ra rằng
mục tiêu của chiến tranh không phải là sự tái lập những đế quốc Châu Âu.
Sau khi Tổng thống Roosevelt qua đời, phó tổng thống Harry S. Truman
lên thay, người có lập trường chống Liên Xô còn gay gắt hơn người tiền nhiệm:
“Tôi chủ trương phải có sự cứng rắn của mình trong chính sách đối với nước
Nga” [18, tr 62]. Nếu như trong chiến tranh, để chống lại chủ nghĩa phát xít,
Hoa Kỳ và các lực lượng Đồng minh cần có sự liên minh với Liên Xô, thì đến
khi chiến tranh sắp kết thúc, mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc và chủ
nghĩa xã hội trở nên gay gắt. Sau thất bại của các nước trong phe Trục, chỉ có
hai nước Liên Xô và Hoa Kỳ nổi lên như là các siêu cường quốc, một tình thế
mà Tổng thống Roosevelt đã dự kiến. Sự hợp tác trong thời kì chiến tranh giữa
hai nước đã chấm dứt, Liên Xô trở thành thù địch với các nước đế quốc, đặc biệt
là đối với Hoa Kỳ. Lúc này, Liên Xô cho rằng, khuyếch trương chủ nghĩa cộng
sản là cần thiết và chủ nghĩa cộng sản sẽ chiến thắng chủ nghĩa tư bản trên phạm
vi toàn thế giới. Điều này trở thành mối lo ngại với chính quyền của Tổng thống
Truman. Ngay từ trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, Hoa Kỳ đã
nghĩ tới một trật tự thế giới nhằm phục vụ cho những lợi ích của mình. Lúc này,
Chính phủ Hoa Kỳ cho rằng cần tập trung chống lại ảnh hưởng và sự bành
trướng của Liên Xô, Hoa Kỳ cần củng cố tinh thần đoàn kết với Anh, Pháp, Hà
76
Lan…để cân bằng sức mạnh với Liên Xô. Nếu làm cho những đế quốc này suy
yếu, hay tạo ra mâu thuẫn chia rẽ vì chủ trương ủy trị quốc tế thì sẽ không mang
lại lợi ích gì cho Hoa Kỳ. Người Pháp đã sớm thấy được và tận dụng một cách
tốt nhất sự lo sợ về tư tưởng đang tồn tại ở Hoa Kỳ - mối đe dọa Pháp có thể ngả
về phía Liên Xô “thành cộng sản”. Chính vì vậy mà De Gaulle nói thẳng với
Harry Hopkins (Phụ tá đặc biệt của Tổng Thống Roosevelt) vào tháng 3.1945:
“Như các anh biết rõ, Nga đang tiến nhanh...Chúng tôi không hiểu chính sách
của các anh. Các anh đang nhằm cái gì? Các anh có muốn tôi trở thành, chẳng
hạn, một trong những bang liên hiệp dưới sự bảo hộ của Nga? Nếu quần chúng ở
đây thấy rằng các ông chống chúng tôi ở Đông Dương, thì đó sẽ là một sự cực
kỳ bất mãn, và không ai biết là sự việc sẽ đưa tới đâu. Chúng tôi không muốn
trở thành Cộng sản; chúng tôi không muốn rơi vào quỹ đạo của Liên Xô; nhưng
chúng tôi hi vọng là các ông không đẩy chúng tôi vào chỗ đó”. Những điều bí
mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng hai, cuộc đảo chính tháng ba của Nhật và
cái chết của Roosevelt trong tháng tư trước khi bước vào Hội nghị San Francisco
đã làm cho vai trò của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó.
Trong vòng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đã tiến hành
một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi
cho việc giữ nguyên tình trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi
ý một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương
đã thay đổi dưới chính quyền Truman [26, tr 126-127]
Thực tế, Hoa Kỳ có thể hiểu được dụng ý của Pháp, Tổng thống Truman
cũng không lạ gì các luận điểm của De Gaulle được nhắc đi nhắc lại nhằm cô
lập Hoa Kỳ với chủ trương có thể xây dựng sự thống nhất Châu Âu dựa trên ba
cực: London, Paris và Matxcova. Và chắc chắn De Gaulle sẽ ngả theo Liên Xô,
nếu điều đó trùng hợp với lợi ích của nước Pháp [26, tr 380]. Nhưng bởi vì lúc
này, Hoa Kỳ cần đến vai trò của Pháp trong kế hoạch tập hợp sức mạnh chống
77
lại Liên Xô. Trong khi De Gaulle luôn luôn nhấn mạnh việc ông phải được đối
xử như đối với Mỹ, Anh và Liên Xô trong một Châu Âu sau chiến tranh, ông đã
không che giấu nổi bất bình của mình đối với ảnh hưởng của Mỹ đã gạt bỏ các
nguyện vọng của Pháp trong kế hoạch sau chiến tranh muốn được tái kiến thiết
lại đất nước trên sự hoang tàn của của Đức và trở thành một trung tâm kinh tế và
công nghiệp ở Châu Âu. Tướng de Gaulle luôn luôn bị ám ảnh bởi sự cần thiết
phải phục hồi danh dự cho nước Pháp sau khi đã phải đầu hàng Đức (6.1940),
chịu cho Nhật kiểm soát về quân sự ở Đông Dương (9.1940), rồi bị Nhật lật đổ ở
Đông Dương (3.1945). Vì vậy ngoài công cuộc kháng chiến chống Hitler, De
Gaulle còn muốn xác định vai trò của Pháp như một cường quốc trên thế giới
bằng cách thâu hồi các thuộc địa cũ ở châu Á và châu Phi. Ngay từ khi mới chạy
sang Anh quốc để lãnh đạo kháng chiến, de Gaulle đã trông cậy một phần vào
nguồn tài sản của Pháp quốc hải ngoại làm hậu thuẫn cho sứ mệnh giải phóng
quê hương. Cho đến ngày De Gaulle từ chức vào tháng Giêng năm 1946, ông
vẫn không thay đổi đầu óc thực dân lỗi thời đối với Việt Nam. Ông không chấp
nhận điều đình với Việt Minh cho đến khi nào Pháp đã phục hồi được uy quyền
ở Việt Nam. Trong chuyến đi vận động Washington vào tháng Tám 1945, mặc
dù chỉ được Tổng Thống Truman hứa sẽ không cản trở việc Pháp trở lại Đông
Dương, ông đã tuyên bố trong một cuộc họp báo: “Lập trường của Pháp về
Đông Dương rất đơn giản: Pháp có ý định thu hồi chủ quyền của mình trên toàn
Đông Dương” [18, tr 76].
Liên minh chống phát xít đứng trước nguy cơ tan rã. Để phục vụ cho
những mưu đồ sau chiến tranh, Hoa Kỳ nhận thấy cần phải nhanh chóng tranh
thủ sự ủng hộ của Anh và Pháp để cô lập Liên Xô. Do đó, Hoa kỳ dần thay đổi
thái độ đối với Anh và Pháp. Hội nghị San Francisco (4 – 6.1945) tạo cơ hội cho
việc giải quyết những tranh chấp về Đông Dương. Ngày 2.5, G. Bidault, Bộ
trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đã tuyên bố
78
một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương
phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đã đề cập đến quyền
ủy trị như đã được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên
tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông
Dương [26, tr 127]. Bidault đã khẳng định Pháp không có ý định đặt Đông
Dương dưới bất kỳ hình thức ủy trị nào, Stettinius đã đảm bảo với Bidault rằng
“không có bất kì tuyên bố nào của chính phủ thậm chí ngụ ý về chủ quyền của
Pháp đối với Đông Dương”. Địa vị của Pháp được khôi phục hoàn toàn.
Stettinius cho biết ghế thường trực thứ năm Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã
được dành cho Pháp: “Hoa Kỳ hoan nghênh bước tiến quan trọng trong sự trở lại
của Pháp để vị trí xứng đáng của mình trong các vấn đề thế giới” [43, tr 32-33].
Bidault dường như đã nhẹ nhõm và đã báo tin về Pari rằng ông đã nhận được
những sự đảm bảo mới, công nhận chủ quyền Pháp của chúng ta trên khu vực
đó. Và lúc bấy giờ, khi người Pháp đến Washington thì được Hoa Kỳ đón tiếp
một cách niềm nở, thay cho thái độ lạnh nhạt trước kia. Ngày 7.6.1945, Tổng
thống Hoa Kỳ Harry Truman quyết định tán thành việc Pháp trở lại Đông
Dương sau chiến tranh. Đến ngày 22.6, Bộ Ngoại giao Mỹ chính thức ra tuyên
bố: “Mỹ công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương” [18, tr 63]. Hiện nay,
Hoa Kỳ cần liên minh với Anh và Pháp chống lại Liên Xô trong trật tự thế giới
sau chiến tranh.
Tại Hội nghị Potsdam từ ngày 17.7 đến 2.8.1945, Hoa Kỳ và Anh đã đồng
ý rằng sự giải phóng Đông Dương sẽ được thực hiện bởi Anh ở phía Nam từ vĩ
tuyến 16 và Trung Quốc ở phía Bắc từ vĩ tuyến 16. Điều này được được xem là
rất quan trọng vì nó tạo điều kiện Pháp trở lại ở miền Nam. Từ đó, Tưởng
nhanh chóng chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” theo phương án mới,
không vượt qua Đà Nẵng để tránh va chạm với người Anh. Đây có thể xem là sự
nhượng bộ của Hoa Kỳ đối với Anh về vấn đề Đông Dương. Bởi vì Hoa Kỳ phải
79
tập trung lực lượng đổ bộ lên đất Nhật, nên buộc phải chấp nhận vị trí quân sự
hàng đầu của Anh ở Đông Nam Á, phân chia Đông Dương cho Anh và Tưởng
(thực chất đứng sau Tưởng là Hoa Kỳ). Việc Hoa Kỳ chấp nhận Anh vào miền
Nam Đông Dương, chính là “một hình thức dùng chiếc ô của Luân Đôn che chở
cho Pháp trở lại Đông Dương” và việc Tưởng vào miền Bắc chính là “bật đèn
xanh cho Tưởng thực hiện ý đồ “tiêu diệt cộng sản, phá tan Việt Minh”, lập nên
chính quyền tai sai cho Hoa Kỳ. Điều này thể hiện sự điều chỉnh của Tổng thống
Truman đối với chính sách mà Roosevelt theo đuổi về vấn đề Đông Dương, giúp
chúng ta hiểu rõ vì sao Hoa Kỳ ủng hộ thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt
Nam, rồi thay chân Pháp ở Việt Nam.
Trong chuyến viếng thăm nước Mỹ (từ 22 đến 25.8.1945), De Gaulle đã
nhận được sự khẳng định của Tổng thống Truman: “Về Đông Dương, tôi xác
nhận là Chính phủ Mỹ sẽ không làm gì để cản trở sự trở lại của nước Pháp”.
Bốn ngày sau, 29.8.1945 Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch thăm Mỹ, khi
gặp Truman đã hỏi về chính sách của Mỹ đối với Đông Dương sau khi nhắc lại ý
định của Roosevelt về vấn đề này và nhận được câu trả lời dứt khoát của Tổng
thống Mỹ: “Không có vấn đề ủy trị quốc tế cho Đông Dương nữa”. Ngày
5.10.1945, khi tướng Pháp Leclerc cho quân viễn chinh Pháp đổ bộ lên Sài Gòn,
Quốc hội Mỹ đã gửi cho đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh bức điện sau đây: “Hoa Kỳ
không hề có ý định chống lại việc khôi phục sự thống trị của Pháp ở Đông
Dương và không có một quan điểm chính thức nào của Chính phủ Mỹ động đến,
dù là gián tiếp, chủ quyền của Pháp ở Đông Dương”. Cũng trong tháng 10.1945,
khi gặp tướng Leclerc, đô đốc Anh Mountbatten đã nói rằng: “Với cái chết của
Roosevelt, Pháp có thể quay trở lại Đông Dương, vấn đề quản trị quốc tế cho
Đông Dương đã trở thành vô nghĩa” [50].
80
Vào tháng 10.1945, Hoa Kỳ công bố chính sách của họ những điểm sau
đây: “Mỹ không phản đối việc lập lại sự kiểm soát của Pháp đối với Đông
Dương và không có một tuyên bố chính thức nào phản đối – dù gián tiếp – chủ
quyền của Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, Mỹ chủ trương không giúp Pháp
khôi phục sự kiểm soát đó bằng vũ lực và Mỹ chấp nhận cho Pháp lập lại sự
kiểm soát theo ý muốn, trong đó phải có sự ủng hộ của dân chúng Đông Dương
và điều đó phải được chứng tỏ bằng những sự kiện trong tương lai” [13, tr 41].
Ủy trị Đông Dương đã chết cùng với Tổng thống Roosevelt. Tuy nhiên, Anh vẫn
còn e ngại rằng Mỹ có thể đang tiếp tục tìm kiếm một công thức ủy trị khác có
thể ảnh hưởng đến Khối Thịnh Vượng Chung. Người Pháp đã bất ổn về việc Mỹ
liên tục từ chối cung cấp việc vận chuyển chiến lược cho các lực lượng của họ,
bực bội về hỗ trợ ít ỏi của Mỹ cho các lực lượng Pháp ở Đông Dương, và ngờ
vực sâu sắc rằng Hoa Kỳ - có thể đang bắt tay với Trung Hoa - dự định ngăn cản
.việc Pháp duy trì quyền kiểm soát trên Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia
Khi Pháp tái chiếm bằng quân sự miền Nam Việt Nam và trước Hiệp
Định ngày 6.3.1946 ký với Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng sang Hoa Kỳ,
một trong số những cường quốc, yêu cầu “can thiệp ngay lập tức” vào Việt
Nam. Có ít nhất tám lần thư liên lạc từ Hồ Chí Minh gửi đến Tổng Thống Hoa
Kỳ hoặc Bộ Trưởng Ngoại Giao, từ tháng 10.1945 đến tháng 2.1946. Trong bức
thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman ngày 16.2.1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành
độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc
xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những
lập trường Mỹ đã nêu trong các Hội nghị quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Nền an ninh và tự do đó chỉ có thể được bảo đảm bằng nền độc lập của chúng
tôi khỏi mọi cường quốc thực dân và bằng sự hợp tác tự do của chúng tôi với tất
cả các nước khác. Chính là lòng tin tưởng mà chúng tôi yêu cầu nước Mỹ, với tư
81
cách là những người bảo vệ và những người chiến sĩ của công bằng thế giới, có
bước quyết định ủng hộ nền độc lập của chúng tôi. Điều mà chúng tôi yêu cầu
đã được đưa một cách hào hiệp cho Philippines. Cũng như Philippines, mục tiêu
của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Mỹ. Chúng tôi sẽ
làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác đó có lợi cho toàn thế
giới” [1, tr 39]. Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đó đã chuyển tải, trong tháng tám
và tháng chín năm 1945, thông qua nhóm OSS, đề nghị rằng Việt Nam được
hưởng “cùng một quy chế như Philippin” được sự giám hộ trong một thời gian
không xác định trước khi được độc lập. Với chiến sự bùng nổ ở Nam Việt Nam,
tháng 9, tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã bổ sung thêm các yêu cầu chính
thức gửi cho Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc để can thiệp chống lại Pháp xâm lược,
trích dẫn Hiến chương Đại Tây Dương, Hiến chương Liên Hợp Quốc, và một
chính sách ngoại giao gửi cho Tổng thống Truman vào tháng Mười năm 1945,
ủng hộ quyền dân tộc tự quyết. Liên lạc cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với Mỹ trong tháng Chín năm 1946, khi Người đến thăm Đại sứ Hoa Kỳ ở Paris
để yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ cho Việt Nam Độc Lập trong Liên hiệp Pháp.
Không có hồ sơ nào của Hoa Kỳ ghi nhận là có trả lời cho bất kỳ kêu gọi
giúp đỡ nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những chỉ thị còn tồn tại của một nhà
ngoại giao Mỹ đã tiếp xúc với Hồ Chí Minh vào tháng Mười Hai năm 1946, cho
thấy mối bận tâm của Mỹ với gốc gác cộng sản của Người và e ngại rằng Hồ
Chí Minh có thể thiết lập một nước “do cộng sản thống trị, theo định hướng của
Moscow”. Mặc dù trước đây, Hồ Chí Minh từng cung cấp cho tổ chức tình báo
Mỹ OSS những tin túc tình báo về lực lượng Nhật ở Đông Dương, Người cũng
từng cứu thoát những phi công Mỹ bị bắn hạ. Nhưng đại sứ Mỹ ở Trung Hoa
Patrick J. Hurley xem Việt Minh là “một ổ cộng sản” [26, tr 232] là “sự mở rộng
của mối đe dọa đỏ ở phương Đông của Mao Trạch Đông”[26, tr 238], ông đã “tỏ
82
ra không hài lòng với Hồ Chí Minh và việc cộng sản nắm chính quyền ở Việt
Nam” [26, tr 265] khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Khi chiến tranh Pháp - Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam xảy ra, Ngoại
trưởng Marshall nhấn mạnh rằng chúng ta không mất cái nhìn thực tế rằng Hồ
Chí Minh đã kết nối trực tiếp với Cộng sản và chúng ta phải rõ ràng rằng chúng
ta không quan tâm đến việc nhìn thấy một chính quyền của đế quốc thực dân
thay thế bởi ý thức hệ và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ và bị kiểm soát bởi
điện Kremlin. Paris đã xem Hồ Chí Minh như là một mối đe dọa ngăn cản Pháp
lấy lại đặc quyền kinh tế, văn hóa và chính trị ở Đông Dương. Hoa Kỳ, cảnh
giác về nền tảng cộng sản được biết của Hồ Chí Minh, đã e ngại rằng Người sẽ
dẫn dắt Việt Nam vào quỷ đạo của Liên Xô, và sau đó là Trung Quốc. Hoa Kỳ
bị cản trở bởi quá trình Cộng sản của Hồ Chí Minh, luôn từ chối ủng hộ Hồ Chí
Minh hoặc Việt Minh. Do đó, chính sách của Mỹ bị xoáy vòng vào giải pháp
Bảo Đại của Pháp. Không có lúc nào [cho thấy] Hoa Kỳ đã sửa soạn một chính
sách can thiệp trực tiếp một cách công khai. Làm như vậy sẽ có đụng chạm với
Anh vì quan điểm của nước này là Đông Dương là độc quyền của Pháp và là
tiếp tay cho những đảng phái chính trị cực đoan của Pháp cả cánh tả lẫn cánh
hữu. Hoa Kỳ đặc biệt e ngại rằng nếu can thiệp vào Đông Dương sẽ tăng cường
vị trí chính trị của Cộng sản Pháp. Hơn nữa, vào những năm 1946, 1947 Pháp và
Anh chuyển hướng thành một liên minh chống Liên Xô ở Âu Châu và Hoa Kỳ
ngần ngại thực hiện một đường lối mà tiềm năng là gây chia rẽ liên minh này.
Hoa Kỳ coi số phận Đông Dương là rất nhẹ so với việc phục hồi tái thiết nền
kinh tế của Âu Châu và an ninh chung trước nguy cơ bị Cộng Sản thống trị [48].
Hoa Kỳ đã cảnh giác với Hồ Chí Minh và thà rằng chấp nhận chủ nghĩa thực
dân còn ít sợ hơn là bị kiểm soát bởi Moscow. Những yêu cầu của cụ Hồ Chí
Minh đã bị làm ngơ. Nếu Tổng thống Truman ủng hộ Người vào lúc này thì có
83
thể Hoa Kỳ đã tránh khỏi một cuộc chiến tranh tốn kém, bi thảm ở Việt Nam về
sau.
Năm đầu tiên trong nhiệm kì của Tổng thống Harry Truman, chính sách
về Đông Dương đã có sự thay đổi. Cái chết Franklin Delano Roosevelt đã mang
đến một thay đổi đáng kể trong chính sách của Mỹ đã tạo điều kiện cho Pháp
quay trở lại Đông Dương. Archinredes Patti nói rằng: “Dĩ nhiên, chúng tôi đã có
một Tổng thống mới và một Bộ trưởng Ngoại giao mới, nhưng cả hai đều có thể
bị khuất phục trước những áp lực to lớn về chính trị và kinh tế từ trong và ngoài
nước” [26, tr 378]. Nhà sử học George Herring tuyên bố rằng một sự thay đổi
trong chính sách của Mỹ đến như là kết quả của một quyết định được thực hiện
bởi một số quan chức Bộ Ngoại giao đầu tháng 5 năm 1945, chấp nhận việc khôi
phục chủ quyền Pháp ở Đông Dương để đạt được hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến
chống Liên Xô. Christopher Thome và Waher LaFeber cho rằng một sự thay đổi
thực sự bắt đầu vào những năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống Roosevelt
[42, tr 5].
Lực lượng Pháp đã nhanh chóng thực hiện đặc quyền của họ, chiếm Hà
Nội vào ngày 18 tháng 3 năm 1946, và các cuộc đàm phán mở tại Đà Lạt vào
tháng Tư. Do đó, ngày 10 tháng 4 năm 1946, việc Đồng Minh chiếm đóng Đông
Dương được coi như chấm dứt, và các lực lượng Pháp chiếm đóng tất cả các
thành phố lớn ở Việt Nam, các vấn đề trong chính sách của Mỹ đối với Việt
Nam sau đó đã chuyển từ bối cảnh một chính sách trong chiến tranh sang phạm
vi mối quan hệ Mỹ và Pháp [47].
3.2.2. Anh hỗ trợ Pháp tái lập quyền lực ở Đông Dương
Hội nghị Postdam giao cho Anh và Trung Hoa vào giải giáp quân Nhật ở
miền nam và miền bắc Đông Dương từ vĩ tuyến 16. Cho nên để khôi phục chủ
84
quyền của mình ở Đông Dương thì Pháp phải thương lượng với Anh và Trung
Hoa dân quốc. Đối với Anh, việc này có thể thực hiện dễ dàng vì ngay từ đầu,
Anh đã ủng hộ việc Pháp tái chiếm Đông Dương. Thủ tướng Churchill đã thúc
giục những hoạt động của đồng minh: Nó sẽ rất xấu trong lịch sử nếu chúng ta
thất bại trong việc hỗ trợ các lực lượng Pháp bị cô lập trong việc chống lại Nhật
Bản trong khả năng tốt nhất của chúng ta hoặc nếu chúng ta loại trừ người Pháp
từ sự tham gia trong hội đồng của chúng ta liên quan đến Đông Dương [38, 45].
Nhân cơ hội này với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước
vũ khí quân Nhật nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở
lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Anh và Pháp cấu kết đàn áp cách mạng
Đông Dương vì “sợ rằng phong trào ấy “làm gương” cho các thuộc địa của
Anh” ở Nam Á và Đông Nam Á. Mặt khác, cũng để ngǎn chặn âm mưu của Hoa
Kỳ muốn tranh giành quyền lợi với Anh và Pháp ở những khu vực này. Ngày
24.8.1945, Pháp và Anh đạt được một thỏa ước theo đó Anh công nhận chủ
quyền của Pháp ở Đông Dương. Ngày 6 tháng 9 năm 1945, quân đội Anh vào
Sài Gòn, tướng Gracey - tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông Dương - đòi
giải giáp quân đội Việt Nam. Ngày 12.9.1945, quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban
nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài
Gòn. Tướng Gracey là người có tinh thần thực dân thân Pháp, ông cho rằng:
Chính quyền Đông Dương là của người Pháp nên việc người Pháp tái chiếm
Đông Dương là hiển nhiên. Và người Pháp sẽ kiểm soát được cả quân sự và dân
sự trong vòng mấy tuần lễ. Tư tưởng biến thành hành động. Vì có thái độ thiên
vị Pháp, cho nên, khi chỉ huy quân lính Anh đổ bộ vào Sài Gòn, Tướng Gracey
đã có hành động bất chính bao che cho gần hai ngàn quân Pháp trà trộn đổ bộ
vào Sài Gòn cùng một lượt với quân Anh. Trắng trợn hơn nữa, Gracey còn công
khai ban hành lệnh tước khi giới của mọi người Việt Nam, ra lệnh cho báo chí
của người Việt phải ngưng xuất bản, buộc lực lượng cảnh sát Việt Nam phải
nằm dưới quyền chỉ huy của quân đội Ạnh, thả tù binh Pháp đang bị Nhật giam
85
giữ và vũ trang chúng để chúng tấn công Việt Nam. Thái độ và hành động này
của Tướng Gracey làm cho tình hình Nam Bộ trở nên cực kỳ căng thẳng.
Ngay khi vừa mới được vũ trang, chiều ngày 22.9.1945, đạo quân Pháp
này kéo nhau đi đánh phá, giết người, cướp của ở ngay trong các đường phố.
Ngày 23.9.1945, được quân Anh giúp sức quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách
thống trị ở Việt Nam và Đông Dương. Ngày 9 tháng 10 năm 1945, Anh kí với
Pháp một thỏa ước khác, đồng ý nhượng mọi quyền theo Hiệp định Postdam ở
miền nam Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở xuống cho Pháp [18, tr 76].
Điều tệ hại là trong các cuộc hành quân tấn công và ruồng bố trong các
khu phố ở Sài Gòn đều có sự cấu kết chặt chẽ với quân lính Anh dưới quyền tư
lệnh của Tướng Gracey. Thái độ thiên lệch và hành động can thiệp thô bạo vào
nội tình Việt Nam của Tướng Anh Gracey đã khiến cho viên Tướng Tư Lệnh
Quân Đội Anh tại Viễn Đông là Đô Đốc Mountbatten phải nhắc nhở ông chỉ nên
lo việc thi hành nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, chứ không được có hành động
gì chống lại người Việt Nam.
Giữa tháng 3.1946, khi Anh rút quân khỏi miền nam Đông Dương,
Truman đồng ý để cho Anh giao lại cho Pháp nhiều trang bị quân sự trị giá hơn
70 triệu đô-la, trong đó có khoảng 800 xe quân sự của Mỹ cho Anh thuê và
mượn, “lấy cớ rằng không thể di chuyển các trang bị này” ra khỏi Việt Nam [18,
tr 79].
Tất nhiên, Anh không chỉ đơn phương giúp Pháp tái chiếm Đông Dương
mà còn có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ bởi “nước Pháp hậu chiến bị tàn phá nặng nề
không có cả trang bị quân sự lẫn nguồn tài chính để có thể tiến hành một nổ lực
quân sự lớn ở Đông Dương” [18, tr 78]. Mặc dù, Pháp đã thỏa thuận được với
86
Anh nhưng để chiếm toàn bộ Việt Nam cần có sự đồng ý của Trung Hoa dân
quốc. Và Hoa Kỳ từ cuối tháng 9 năm 1945 đã kêu gọi Trung Hoa cho Pháp dễ
dàng thu hồi quyền lực ở Việt Nam. Kết quả, ngày 28.2.1946, Pháp và Trung
Hoa kí một hiệp ước, theo đó Pháp được đưa quân ra phía bắc vĩ tuyến 16 thay
cho Trung Hoa nhưng Pháp phải dành cho Trung Hoa một số quyền lợi kinh tế.
Anh không muốn Pháp đánh mất thuộc địa ở Đông Dương vì muốn duy
trì hệ thống thuộc địa của mình ở những khu vực khác. Khi Tổng thống
Roosevelt muốn lấy Đông Dương từ Pháp để đặt dưới chế độ ủy trị quốc tế thì
Anh đã nhiều lần phản đối vì không muốn Hoa Kỳ tạo ra một tiền lệ để tranh
giành ảnh hưởng với cả Anh và Pháp, khôi phục địa vị cho Pháp ở Việt Nam sau
chiến tranh cũng chính là duy trì địa vị của Anh. Qua các năm, từ Hội nghị
Quebec lần đầu tiên cho đến cái chết của Tổng thống Roosevelt, người Anh và
người Pháp đã không ngừng nổ lực nhằm mục đích đảm bảo sự “toàn vẹn lãnh
thổ”. Việc thành lập Bộ tư lênh Đông Nam Á chính là một bước đột phá của họ
sau sự sụp đổ của Singapore. Tuy nhiên, Anh vẫn cần đến mối quan hệ với Hoa
Kỳ trong và khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Thủ tướng Churchill đã
luôn cẩn thận trong mối quan hệ “tốt đẹp” với Tổng thống Roosevelt để đem lại
lợi ích cho đế quốc Anh, ông không muốn có bất cứ hành động nào để làm ảnh
hưởng và tan vỡ mối quan hệ đó. Cho nên, Anh ủng hộ Pháp nhưng rõ ràng Anh
không thể tự mình đơn phương giúp Pháp tái chiếm Việt Nam nếu không có sự
đồng ý của Hoa Kỳ.
TIỂU KẾT
Trước sự thay đổi của tình hình thế giới, Hoa Kỳ lo ngại sức mạnh của
Liên Xô và để tạo ra thế cân bằng, Hoa Kỳ cần đến sự hợp tác của các nước
đồng minh Anh, Pháp. Cho nên Hoa Kỳ đã dần thay đổi thái độ đối với Pháp,
công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và từ chối công nhận chính phủ
87
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị Potsdam đã giao cho Anh và Tưởng Giới
Thạch vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16, đã tạo điều kiện
cho Pháp quay lại Đông Dương. Được Hoa Kỳ bật đèn xanh, ngay lập tức Anh
đã xúc tiến kế hoạch và hỗ trợ Pháp tái chiếm Đông Dương
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn 1941 – 1946 Hoa Kỳ đã liên tục thay đổi
chính sách của mình đối với Đông Dương, sau thất bại của đề nghị “trung lập
hóa” Đông Dương, Tổng thống Roosevelt có ý định đặt Đông Dương dưới chế
độ ủy trị quốc tế để loại bỏ vai trò của Pháp. Nhưng khi tình hình thay đổi, Hoa
Kỳ bắt buộc sự lựa chọn sự ủng hộ của Anh, Pháp để cân bằng sức mạnh với
Liên Xô, đối phó với sự đe dọa của cộng sản. Chính vì vậy, giai đoạn cuối của
cuộc chiến tranh, Hoa Kỳ không chống chủ nghĩa thực dân mà còn tạo điều kiện
cho Pháp tái chiếm Việt Nam, công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Nhưng chính sách của Anh đối với Đông Dương là không thay đổi, trước chiến
tranh Anh đã tích cực hợp tác với Pháp, ủng hộ và bênh vực cho quyền lực của
Pháp ở khu vực này, chính phủ Anh đã phản đối kế hoạch ủy trị của Tổng thống
Roosevelt. Anh muốn duy trì vai trò của Pháp ở Việt Nam vì không muốn sự
phát triển của phong trào cách mạng này sẽ làm gương cho những thuộc địa
khác của Anh ở Đông Nam Á. Đến cuối cùng thì cả Hoa Kỳ và Anh đã cùng ủng
hộ và tạo điều kiện cho Pháp tái lập quyền lực ở Đông Dương.
88
KẾT LUẬN
Hoa Kỳ và Anh là đồng minh chống phát xít nhưng đối với Đông Dương
trong giai đoạn 1941 – 1946, qua trường hợp Việt Nam có thể thấy mỗi nước đã
theo đuổi những chính sách khác nhau vì lợi ích của đế quốc mình. Hoa Kỳ đã
liên tục sửa đổi chính sách đối với Đông Dương. Tổng thống Roosevelt lúc đầu
muốn trung lập Đông Dương để chia sẻ quyền lợi với Nhật. Khi Nhật từ chối và
tấn công Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ chính thức tham chiến và muốn
đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị, xóa bỏ chủ quyền của người Pháp ở đây.
Tổng thống Roosevelt không ngừng lên án chế độ cai trị của Pháp ở Đông
Dương đặc biệt là đối với Việt Nam, ông đã tranh thủ sự ủng hộ của các đồng
minh khác trong vấn đề ủy trị như Liên Xô và Trung Quốc. Đến khi Tổng thống
Roosevelt qua đời vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, ông
vẫn muốn đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế. Có chăng, dưới áp lực
của Bộ Ngoại giao và sự phản đối của Anh, Tổng thống Roosevelt chỉ muốn trì
hoãn đến khi chiến tranh kết thúc. Bởi ông biết rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành chủ nợ
của các nước đồng minh nên sẽ có quyền quyết định trên bàn hội nghị mà không
cần bận tâm đến thái độ của Anh và Pháp đối với vấn đề Đông Dương.
Hội nghị Potsdam quyết định cho quân Anh và quân Tưởng vào Việt Nam
để giải giáp quân đội Nhật. Trước sự đe dọa từ sự phát triển của Liên Xô đối với
hệ thống chủ nghĩa tư bản, Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Truman đã đảo ngược
và thậm chí từ chối chính sách ủy trị của Tổng thống Roosevelt, tạo điều kiện
cho Pháp tái chiếm Việt Nam. Sự thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ lúc này,
có thể vì Tổng thống Harry S.Truman đã không hiểu được tầm nhìn của người
tiền nhiệm về vị thế của Hoa Kỳ sau khi chiến tranh kết thúc. Hoa Kỳ đã “đánh
mất cơ hội” để hợp tác với nhân dân Việt Nam vì ủng hộ Pháp thiết lập chủ
quyền ở Đông Dương, dẫn đến sự dính líu và thất bại của Hoa Kỳ trong chiến
89
tranh ở Việt Nam sau này. Với những gì đã diễn ra thì ủy trị quốc tế cho Đông
Dương là một vấn đề đáng được các nước Đồng minh xem xét hơn những gì nó
đã nhận được. Có thể, trước sự đe dọa từ sức mạnh cộng sản,Tổng thống
Roosevelt cũng làm như vậy nhưng ông đã không còn để đưa ra câu trả lời. Tuy
chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông Dương là không nhất quán, nó thể hiện sự
nhập nhằng nhưng dù là Tổng thống Roosevelt hay Truman đều xuất phát từ lợi
ích của Hoa Kỳ. Cho nên không phải vì OSS đã viện trợ cho Việt Minh năm
1945 và từ chối giúp Pháp về vũ khí, tài chính trong chiến tranh mà nghĩ rằng
Hoa Kỳ ủng hộ Hồ Chí Minh, ủng hộ Việt Minh. Đó chỉ là những bước đi trong
kế hoạch bành trướng của Hoa Kỳ sau chiến tranh.
Tương tự như vậy, chính sách của Anh đối với Việt Nam đã được hình
thành khi Tổng thống Roosevelt đưa ra kế hoạch ủy trị cho Đông Dương trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Anh sợ rằng bất kỳ thay đổi chủ quyền sau chiến
tranh ở Đông Dương sẽ đóng vai trò như một tiền lệ nguy hiểm, có thể đe dọa hệ
thống thuộc địa của riêng mình đặc biệt là Hồng Kông và Ấn Độ, và thiết lập
một phương pháp để giải phóng thuộc địa của đế quốc châu Âu, một sự xáo trộn
hệ thống thuộc địa ở Đông Nam Á sẽ ảnh hưởng đến vị thế của nước Anh. Cho
nên khi Anh phản đối kế hoạch ủy trị của Tổng thống Roosevelt và bênh vực
quyền lợi cho Pháp là để bảo vệ lợi ích cho chính mình. Anh cho rằng một nước
Pháp mạnh mẽ là cần thiết để bảo vệ an ninh của Anh ở châu Âu và có khả năng
tăng cường sức mạnh của Anh sau khi chiến tranh kết thúc. Tất nhiên, Anh
cũng hiểu rằng Anh cũng cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ trong chiến tranh và Thủ
tướng Churchill đã không muốn phá vỡ mối quan hệ với Tổng thống Roosevelt.
Cuối cùng, cuộc đảo chính của Nhật Bản ở Đông Dương và cái chết của Tổng
thống Roosevelt đã dẫn đến sự thống nhất trong chính sách của Anh để hỗ trợ
người Pháp tái chiếm Việt Nam. Cho nên trong mối quan hệ đồng minh giữa
90
Hoa Kỳ và Anh thì lợi ích của mỗi quốc gia vẫn được đặt lên trên hết, con đường
nào mang lại nhiều lợi ích nhất thì sẽ được lựa chọn.
Chính sách của các nước đồng minh Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương
trong giai đoạn 1941 – 1946 qua trường hợp Việt Nam đã cho thấy vị trí chiến lược
quan trọng của Việt Nam và Đông Dương trở thành sân khấu trình diễn cho những
chính sách chính trị và ý đồ của các nước Đồng minh. Pháp cần Đông Dương,
muốn khôi phục chủ quyền ở Việt Nam để tái thiết lại đất nước và khôi phục lại vị
trí của mình sau thất bại đối với Đức và Nhật trong chiến tranh. Hoa Kỳ muốn loại
bỏ chủ quyền của Pháp ở Đông Dương vì mục tiêu bành trướng lãnh thổ của mình
nhưng được che đậy dưới những lời lẽ hoa mỹ bằng tuyên bố chống chủ nghĩa thực
dân. Trong mối quan hệ đồng minh, mỗi nước đều biết được “ý đồ” của nhau
nhưng tùy theo tình hình và vị trí của mình để có “tiếng nói” trên bàn hội nghị và
cũng có thể hi sinh lợi ích nhỏ để đạt được lợi ích lớn hơn.
Chính sách của các nước đồng minh cũng đã tác động đến tình hình Đông
Dương, khi Hoa Kỳ muốn đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị nên đã từ chối hỗ
trợ Pháp trước hành động Nhật đảo chính Pháp, đến khi Nhật đầu hàng đồng
minh, Việt Nam đã tiến hành tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công
dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử dân tộc. Nhưng cái chết của tổng thống Roosevelt và sự thay
thế của tổng thống Harry S. Truman đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách
của Hoa Kỳ đối với Đông Dương, cũng chính sự thay đổi trong chính sách của
các nước đồng minh đã tạo điều kiện cho Pháp tái chiếm Việt Nam và nhân dân
Việt Nam phải tiếp tục đấu tranh chống thực dân Pháp sau đó là đế quốc Mỹ để
giành độc lập cuối cùng. Có thể thấy rằng, khi tình hình thay đổi, Hoa Kỳ đã
“rời bỏ” những người bạn Việt Nam đã có một thời gian ngắn tiếp xúc và liên
lạc trong chiến tranh. Chính sách ủy trị của Hoa Kỳ đối với Đông Dương thuộc
91
Pháp đã tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam giành chính quyền nhưng trước sự
đe dọa của cộng sản, Hoa Kỳ đã không công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, từ chối lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh để ủng hộ Pháp tái
chiếm Việt Nam. Nước Mỹ đã bỏ lỡ một cơ hội từng có là đồng minh với
nguyện vọng độc lập dân tộc của người Việt Nam. Đó cũng chính là nguồn gốc
của toàn bộ những thất bại sau này.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Giôdep A.Am-Tơ (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, Người dịch:
Nguyễn Tấn Cưu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa 2.
thiêng, Sài Gòn.
Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), OSS và Hồ Chí Minh, đồng minh bất 3.
ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Lucien Bodard (2004), Cuộc chiến tranh Đông Dương, Người dịch: Đoàn 4.
Doãn, Nxb Công An Nhân dân.
Trần Văn Chánh (2013), “Tản mạn về Trần Trọng Kim qua những trang 5.
hồi ký (Kỳ II): Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ?” ,Tạp chí
Nghiên cứu và Phát triển, (6-7), tr 104-105.
6. Winson S.Churchill (2002), Hồi kí Winson S.Churchill về chiến tranh thế
giới thứ hai, Tập 1,2, Người dịch: Hoàng Túy, Hoàng Hữu Phấn, Nxb
Văn hóa Thông tin.
William A Degregorio (2001), 42 đời tổng thống Mỹ, Nxb Chính trị 7.
Quốc gia.
Phillipe Devillers (2003), Paris-Saigon-Hanoi, Hoàng Hữu Đảm dịch. 8.
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Trung Dũng (2000), “Thái độ của các nước Đồng minh đối với Đông 9.
Dương trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám”, Nghiên cứu lịch sử, (4),
tr.30 – 38.
10. Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng (2000), Cách mạng tháng Tám 1945
những sự kiện lịch sử, Nxb Khọc học xã hội
93
11. Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng (1997), Quan hệ Việt – Mỹ trong Cách
mạng tháng Tám, Nxb Khoa học xã hội.
Trần Hữu Đính (2000), “Tính chủ động, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch 12.
hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám”, Nghiên cứu lịch sử, (4),
tr.16 – 21.
Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam, Nxb Lao động. 13.
Lê Mậu Hãn, Trịnh Thúc Huỳnh (2005), Cách mạng tháng Tám một sự 14.
kiện lịch sử vĩ đại của thế kỉ XX, Nxb Chính trị quốc gia.
Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch Sử Quan Hệ Quốc Tế Ở Đông Nam Á Từ 15.
Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai Đến Cuối Chiến Tranh Lạnh
(1945 – 1991), Tài liệu lưu hành nội bộ Khoa Lịch sử, Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Phụng Hoàng (2009), Lịch sử Quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế 16.
giới thứ hai (Tập 1: 1945 – 1975), Tài liệu lưu hành nội bộ Khoa Lịch
sử, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Phụng Hoàng (2002), Franklin D. Roosevelt – Tiểu sử chính trị, 17.
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Phan Văn Hoàng (2004), Việt Nam trong chính sách của Mỹ (1940- 18.
1956), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Mã số 50315, Thư viện trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ Đình Hòe (1995), Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nxb Văn hóa thông tin. 19.
Phan Ngọc Liên (2009), Sổ tay kiến thức lịch sử (Phần lịch sử thế giới), 20.
Nxb Giáo dục.
Phạm Nguyên Long, Đặng Bích Hà (1983), Về lịch sử - văn hóa ba nước 21.
Đông Dương, Viện Đông Nam Á.
Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 – 1995, 22.
T.1: Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, Nxb Công an Nhân dân, Hà
Nội.
94
Henri Navare (2004), Đông Dương hấp hối, Người dịch: Phan Thanh 23.
Toàn, Nxb Công An Nhân dân.
Phạm Thu Nga (2004), Quan hệ Việt – Mỹ 1939 – 1945, Nxb Đại học 24.
Quốc gia, Hà Nội.
Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (1999), Lịch sử thế giới hiện đại, 25.
Nxb Giáo dục.
Archimedes Patti (2001), Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. 26.
Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng Lầy của Bạch Ốc, Người Mỹ và chiến 27.
tranh Việt Nam 1945 – 1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương.
Peter.A.Poole (1985), Nước Mỹ và Đông Dương từ Rodoven đến 28.
Nichxon, Người dịch: Vũ Bách Hợp, Nxb Thông tin lý luận.
Pierre Quatrepoint (2008), Sự mù quáng của tướng Đơ Gôn đối với cuộc 29.
chiến ở Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách 30.
mạng tháng Tám 1945, Nxb Khoa học xã hội.
Lê Vinh Quốc, Huỳnh Văn Tòng (2000), Cuộc chiến tranh Thái Bình 31.
Dương, Nxb Giáo dục.
Nguyễn Huy Quý (2005), Chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb Chính trị 32.
quốc gia.
Nguyễn Anh Thái (2006), Lịch Sử Thế Giới Hiện Đại, Nxb Giáo dục. 33.
Phạm Hồng Tung (2009), Nội các Trần Trọng Kim, Bản chất, vai trò và 34.
vị trí lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia.
Phạm Xanh (2010), Góp phần tìm hiểu Lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa 35.
Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tiếng Anh
95
Alen, Douglas - Ngô Vĩnh Long (1991), Coming to Terms – Indochina, 36.
the United Stated and the War, Westview Press, Colorado.
Hammer, Ellen J. (1966), The Struggle for Indochina 1940 – 1955, 37.
Stanford University Press, California.
Hess, Gary R., Franklin Roosevelt and Indochina, The Journal of 38.
American History, Vol.59, No.2 (Sep., 1972) 353 – 368.
Koburger Jr, Charles W. (1997), Naval Expeditions: The French Return 39.
to Indochina, 1945-1946, Praeger Publishers, Westport, CT.
Maximin, Edward Rice (1986), Accommodation and Resistance, the 40.
French left, Indochina and the cold war, 1944-1954, Contributions to
the study of world history, number 2, the United States of America.
Marr, David G. (1995), Vietnam 1945: the Quest for Power, University 41.
of California Press, Berkeley.
Sanford B. Hunt, IV, B.A (2004), Dropping the baton: decisions in 42.
United States policy on Indochina, 1943-1945.
Smith, T. O. (2007), Britain and the Origins of the Vietnam War: UK 43.
Policy in Indo-China 1943-1950, Palgrave Macmillan.
44. Smith, T. O. (2011), Churchill, America and Vietnam, 1941–1945,
Associate Professor of History, Huntington University, USA.
Tonnesson, Stein(2002), Franklin D.Roosevelt and French loss of 45.
Indochina 9, March 1945, International Peace Research Institute, Oslo
(PRIO).
46. The history of the Joint Chiefs of Staff, The history of the Joint Chiefs of
Staff and the war in Viet Nam, History of the Indochina incident 1940
– 1945.
Trang web
96
Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I- Hoa Kỳ và Việt Nam 1940- 1950. 47.
Nguồn:http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snN/NguyenQuocVi.php
Trân Châu Cảng nổi nhục của hải quân Mỹ 48.
Nguồn:http://baotintuc.vn/anh/tran-chau-cang-noi-nhuc-cua-hai-quan-my-ngay-
ay-bay-gio-20131208165339421.htm
Đinh Xuân Lâm, Phạm Hồng Tung (2006), Cách mạng Tháng Tám năm 49.
1945 với giới nghiên cứu lịch sử nước ngoài. Nguồn:
http://sknc.qdnd.vn/sukiennhanchung/vivn/89/70/80/80/80/589/Default.aspx
Nguyễn Trọng Hậu (2006), Những mưu đồ và toan tính của các nước lớn 50.
đối với Việt Nam thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Nguồn:
http://sknc.qdnd.vn/sukiennhanchung/vivn/89/70/80/80/80/1169/default.aspx
American Isolationism in the 1930s. Nguồn: 51.
https://history.state.gov/milestones/1937-1945/american-isolationism
97
PHỤ LỤC
- Tên và chức danh của một số nhân vật
Tên Chức danh
Anthony Eden Ngoại trưởng Anh (1940; 1951 - 1955)
Archimdes Patti Chỉ huy trưởng OSS ở Đông Dương
Charles Fenn Sĩ quan hải quân Hoa Kỳ
Chennault Tư lệnh đơn vị không quân Hoa Kỳ mang biệt hiệu
“Hổ bay”
De Gaulles Người lãnh đạo phong trào kháng chiến nước Pháp
tự do, Tổng thống Pháp 1945 – 1946
Ngoại trưởng Hoa Kỳ (1933 – 1944)
Cordell Hull D’ Argenlieu Cao ủy Pháp tại Đông Dương (1945)
Edward Stettinius Ngoại trưởng Hoa Kỳ (1944 – 1945)
F.D.Roosevelt Tổng thống Hoa Kỳ 1933- 1945
Harry S.Truman Tổng thống Hoa Kỳ 1945 – 1953
Lord Halifax Đại sứ Anh tại Washington (1941 – 1946)
Jean Decoux Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp (1940 – 1945)
Jean Sainteny Sĩ quan tình báo Pháp (1945 – 1946)
Iosif V.Stalin Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô (1922 – 1953)
Mountbatten Chỉ huy quân Đồng minh ở Đông Nam Á
Wedemeyer Tham mưu trưởng chiến trường Trung Hoa trong
cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương
Winston Churchill Thủ tướng Anh (1940 – 1945)
98
- Một số bản đồ
+ Đông Nam Á (Southeast Asia) – Nguồn: T. O. Smith (2007), Britain
and the Origins of the Vietnam War: UK Policy in Indo-China 1943-1950,
Palgrave Macmillan
+ Đông Dương thuộc Pháp (French Indo-China) – Nguồn: T. O. Smith
(2007), Britain and the Origins of the Vietnam War: UK Policy in Indo-China
1943-1950, Palgrave Macmillan)
99
100