ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------
LƢU VĂN CHUNG
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
Hà Nội - 2016
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------
LƢU VĂN CHUNG
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60 31 01 06
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ VŨ HÀ
XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CHẤM LUẬN VĂN
Hà Nội - 2016
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
không sao chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài
liệu, thông tin đƣợc đăng tải trên các tác phẩm, công trình nghiên cứu, tạp chí
và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Tác giả luận văn
Lƣu Văn Chung
1
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập, nghiên cứu tại trƣờng Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sỹ với đề tài: “Chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”.
Qua luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Vũ Hà – Trƣờng Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, định hƣớng, hƣớng dẫn và giúp đỡ có giá trị lớn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Tác giả cũng xin bày tỏ sự biết ơn tới Ban Giám hiệu trƣờng Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, toàn thể giảng viên và chuyên viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Bộ phận sau đại học – Phòng Đào tạo nhà trƣờng đã tổ chức chƣơng trình đào tạo, trang bị cho tác giả những kiến thức và hỗ trợ trong nhiều quy trình liên quan trong quá trình đào tạo, học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận văn tại trƣờng.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thành viên của Hội đồng đánh giá kết quả nghiên cứu sơ bộ luận văn thạc sĩ của tác giả, đã đƣa ra những nhận xét và góp ý thẳng thắn, chân thành, có giá trị cao góp phần quan trọng giúp tác giả hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo cơ quan cùng toàn thể cán bộ chủ chốt và đồng nghiệp đã tạo điều kiện về công tác, nhiệm vụ, hỗ trợ tài chính và động viên, giúp đỡ, cho phép tác giả thuận lợi học tập, nghiên cứu và hoàn thành chƣơng trình thạc sỹ.
Sau cùng, tác giả xin đƣợc biểu thị lòng cảm ơn to lớn tới gia đình, bạn bè, những ngƣời thân thƣơng đã dành sự quan tâm, hỗ trợ và động viên không thể thiếu trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng nhƣ hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn
Lƣu Văn Chung
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................. i
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................................. ii
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................. iii
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
4. Những đóng góp mới của đề tài ........................................................................ 4
5. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 5
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA
HỌC.......................................................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 6
1.1.1. Các nghiên cứu về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam .................................... 6
1.1.2. Nghiên cứu về các chính sách trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam ...... 8
1.1.3. Đánh giá chung ............................................................................................... 11
1.2. Cơ sở khoa học về chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô...................... 11
1.2.1. Cơ sở lý luận về ngành công nghiệp ôtô ....................................................... 11
1.2.2. Các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô .............................................. 16
1.2.3. Kinh nghiệm về việc áp dụng chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
của một số nƣớc trên thế giới .......................................................................................... 19
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................. 34
2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu ............................................................................. 34
2.1.1. Tiếp cận thực tiễn và hệ thống ....................................................................... 34
2.1.2. Tiếp cận theo quan điểm duy vật biện chứng ................................................ 34
2.2. Khung khổ phân tích .................................................................................... 34
1
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 36
2.3.1. Phƣơng pháp duy vật biện chứng................................................................... 36
2.3.2. Phƣơng pháp kế thừa ...................................................................................... 36
2.3.3. Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp .............................................................. 37
2.3.4. Phƣơng pháp so sánh ...................................................................................... 39
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ÔTÔ Ở VIỆT NAM .............................................................................. 41
3.1. Thực trạng ngành công nghiệp ôtô Việt Nam .............................................. 41
3.1.1. Tổng quan về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam .......................................... 41
3.1.2. Một số vấn đề cơ bản về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam ........................ 47
3.2. Thực trạng áp dụng chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế .............................................................. 60
3.2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính và thuế ................................................................ 60
3.2.2. Chính sách thu hút đầu tƣ ............................................................................... 65
3.2.3. Chính sách kích cầu thị trƣờng ....................................................................... 69
3.3. Tác động của các chính sách hỗ trợ đối với ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam ..................................................................................................................... 75
3.3.1. Đánh giá chung ............................................................................................... 75
3.3.2. Nguyên nhân ................................................................................................... 78
CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ÔTÔ Ở VIỆT NAM .............................................................................. 82
4.1. Dự báo tình hình phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế ...................................................................................... 82
4.1.1. Bối cảnh chung về hội nhập kinh tế quốc tế về ngành công nghiệp ôtô ..... 82
4.1.2. Định hƣớng phát triển ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam ..................... 84
4.1.3. Dự báo tình hình phát triển của ngành công nghiệp ôtô tại Việt Nam ........ 86
2
4.2. Một số gợi ý chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong
thời gian tới ......................................................................................................... 91
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 98
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 AEC Cộng đồng Kinh tế ASEAN
2 ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
3 ATIGA Hiệp định thƣơng mại hàng hóa ASEAN
4 CHLB Cộng hòa liên bang
5 CKD Xe lắp ráp trong nƣớc với 100% linh kiện nhập khẩu
6 CNHT Công nghiệp hỗ trợ
7 CV Xe thƣơng mại (Commercial Vehicles)
8 EU Liên minh Châu Âu
9 FDI Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
10 GDP Tổng sản phẩm trong nƣớc
11 GM General motors
12 HNKTQT Hội nhập Kinh tế quốc tế
Xe đƣợc lắp ráp từ linh kiện không đồng bộ từ nguồn 13 IKD nhập khẩu và các linh kiện nội địa hóa
14 OICA Tổ chức quốc tế các nhà sản xuất ôtô
15 PC Xe du lịch (Passenger Cars)
16 R&D Nghiên cứu và Triển khai
Xe lắp ráp trong nƣớc có một số linh kiện đã đƣợc 17 SKD nội địa hoá
18 TMT Công ty Cổ phần ôtô Cửu Long
19 UNECE Ủy ban Kinh tế Châu Âu thuộc Liên Hợp quốc
20 VAMA Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam
21 WTO
Tổ chức Thƣơng mại thế giới
i
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Bảng Nội dung Trang
1 Bảng 3.1 Sản lƣợng tiêu thụ ôtô một số quốc gia trên thế giới 48
ii
DANH MỤC HÌNH
STT Hình Nội dung Trang
Sản lƣợng ôtô các nƣớc Đông Nam Á giai đoạn 1 Hình 3.1 49 2012 – 2013
Tỷ trọng ôtô lắp ráp trong nƣớc và ôtô nhập khẩu
2 Hình 3.2 nguyên chiếc trên thị trƣờng trong một số năm gần 52
đây
Doanh số bán xe ôtô du lịch và xe ôtô thƣơng mại trên 3 Hình 3.3 53 thị trƣờng trong một số năm gần đây
Tỷ lệ nội địa hóa ngành ôtô của các nƣớc Đông Nam 4 Hình 3.4 58 Á
5 Hình 4.1 Dự báo cơ cấu ôtô lƣu hành đến năm 2019 86
6 Hình 4.2 Dự báo tiêu thụ ôtô (2015 – 2019) 87
iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đƣợc bắt đầu vào những năm 1990
với sự xuất hiện của hai công ty ôtô có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
là Mekong và VMC. Sau gần 25 năm hình thành và phát triển, đến nay đã có
nhiều Doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ôtô ra đời trong nƣớc. Con số 25 năm so
với các nƣớc trong khu vực lại là non trẻ vì ngành ôtô của Việt Nam ra đời
sau đến cả 40 - 50 năm. Tuy nhiên, Nhà nƣớc Việt Nam, với mục đích thu hút
đầu tƣ và xây dựng một ngành công nghiệp ôtô để theo kịp các nƣớc trong
khu vực, cho nên kể từ khi ra đời cho đến nay, ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam đƣợc coi là ngành trọng điểm và là ngành luôn đƣợc ƣu đãi nhất trong số
các ngành công nghiệp. Sự ƣu đãi đặc biệt này đƣợc thể hiện qua những chính
sách hỗ trợ cho ngành công nghiệp ôtô nhƣ chính sách về thuế quan của Bộ
Tài chính, chính sách thuế ƣu đãi về tỷ lệ nội địa hóa, thuế nhập khẩu cho linh
kiện lắp ráp và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy vậy, kết quả của một quá
trình phát triển đƣợc ƣu đãi của ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam là sau
hơn 20 năm vẫn không đem lại gì cho đất nƣớc: không phát triển về kỹ thuật,
không phát triển về đào tạo nhân sự, không tạo điều kiện tối ƣu để phát triển
ngành sản xuất linh kiện theo tiêu chuẩn thế giới và đặc biệt hơn là không tạo
đƣợc chỗ đứng trên thị trƣờng trong nƣớc. [5]
Bên cạnh đó, xu hƣớng quốc tế hóa, hội nhập kinh tế thế giới ngày càng
diễn ra mạnh mẽ. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam gia nhập WTO chúng ta
có những cam kết phải thực hiện nhƣ việc giảm thuế nhập khẩu, chính sách rõ
ràng, xóa bỏ bảo hộ tạo sân chơi bình đẳng… Tiến trình hội nhập kinh tế của
các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã thực
hiện một bƣớc chuyển lớn bằng việc ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC) vào ngày cuối cùng của năm 2015 là cơ hội phát triển của ngành công
1
nghiệp ôtô khu vực cùng với sự cạnh tranh lớn hơn giữa các quốc gia, các nhà
sản xuất, dù còn có những trở ngại cho sự phát triển của ngành này. Việt Nam
đã nỗ lực mời gọi các hãng sản xuất ôtô hàng đầu thế giới đến đầu tƣ vào
ngành công nghiệp ôtô nhằm thúc đẩy cơ hội chuyển giao công nghệ và phát
triển công nghệp phụ trợ; trong khi vẫn tiếp tục các chính sách ƣu đãi về thuế
nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nƣớc tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên, sau
khi AEC ra đời, mức thuế 50% đánh vào xe nhập khẩu từ các nƣớc ASEAN
sẽ giảm xuống 0% vào năm 2018 theo điều khoản của Hiệp định thƣơng mại
hàng hóa ASEAN (ATIGA), tiên lƣợng một sự cạnh tranh gay gắt trên thị
trƣờng ôtô mà sự chênh lệch sức mạnh lớn thuộc về các đối thủ từ các nƣớc
trong khu vực, một tình thế không mấy khả quan là rất có thể Việt Nam yếu
thế ngay trên sân nhà. Không khó để hình dung tình thế ngành công nghiệp
ôtô của Việt Nam đang ở “ngã ba đƣờng” khi các nhà nhập khẩu ôtô nguyên
chiếc cạnh tranh gay gắt với các nhà sản xuất và lắp ráp ôtô trong nƣớc khi
tiến trình tự do hóa nền kinh tế [30]. Các công ty lắp ráp xe trong nƣớc lo ngại
về việc thực thi điều khoản của ATIGA về bãi bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu
xe nguyên chiếc. Đến lúc đó, hàng loạt mẫu xe từ các nƣớc Indonesia,
Philippines hay Thái Lan sẽ sớm xuất hiện tại Việt Nam với giá thành thấp
hơn đáng kể. Vì vậy nếu chính phủ Việt Nam không có giải pháp hỗ trợ phù
hợp và kịp thời, sẽ rất khó để cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam có thể trụ
lại trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các nƣớc trong khu vực và thế giới. Xuất
phát từ tính thời sự của vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài “Chính sách hỗ trợ
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế” làm đề tài nghiên cứu.
- Sự phù hợp của đề tài với chuyên ngành đào tạo:
Chƣơng trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Quốc tế trang bị cho học viên
phƣơng pháp tƣ duy khoa học, có khả năng phát hiện, phân tích, đánh giá các
2
vấn đề về kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế. Việc nghiên cứu về sự phát
triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu
và rộng của đất nƣớc là vấn đề thời sự. Trong đó, các chính sách hỗ trợ của
chính phủ là một trong những nhân tố chính ảnh hƣởng đến sự phát triển của
ngành này, đặc biệt có sự tƣơng tác với các quan hệ kinh tế quốc tế. Do đó, đề
tài “Chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế” là hoàn toàn phù hợp với chuyên ngành đào tạo.
- Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm trả lời những câu hỏi sau:
+ Thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam?
+ Chính phủ đã và nên tiếp tục thực hiện chính sách gì để hỗ trợ cho
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam phát triển?
+ Những gợi ý mới về chính sách nhằm hỗ trợ cho ngành công nghiệp
ôtô Việt Nam?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là phân tích và đánh giá việc thực hiện của
các chính sách đã áp dụng để hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô trong nƣớc, đồng
thời dựa trên những bài học kinh nghiệm của các nƣớc khác đã thành công
trong việc hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất ôtô của mình từ đó rút ra bài
học và đóng góp ý kiến giúp cho ngành công nghiệp ôtô của đất nƣớc phát
triển.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung khổ lý thuyết về chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô;
- Phân tích thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam;
- Phân tích các chính sách hỗ trợ và đánh giá mức độ đạt đƣợc trong việc
thực hiện các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam;
3
- Đề xuất một số gợi ý chính sách hỗ trợ cho sự phát triển ngành công nghiệp
ôtô Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích vào các chính sách hỗ trợ chính đã đƣợc
Việt Nam thực hiện trong thời gian 2007 – 2015, đó là nhóm các chính sách
ƣu đãi về tài chính và thuế, các chính sách về thu hút đầu tƣ, chính sách kích
cầu thị trƣờng và các chính sách khác.
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn nghiên cứu về sự phát triển ngành công
nghiệp ôtô dƣới sự tác động của các chính sách hỗ trợ đã và đang đƣợc thực
hiện trong nƣớc Việt Nam, và có thể mở rộng sang một số nƣớc có ngành
công nghiệp ôtô phát triển nhƣ Mỹ, Nhật và một số nƣớc khác trong khu vực
nhƣ Thái Lan, Malaysia để so sánh và rút ra bài học kinh nghiệm.
- Thời gian: Luận văn tổng hợp và phân tích số liệu nghiên cứu tập
trung trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2015. Tuy nhiên, để sử
dụng phƣơng pháp so sánh và các lập luận nhằm làm sáng tỏ quan điểm của
mình, tác giả có sử dụng một số dữ liệu ở thời điểm trƣớc thời gian trên.
4. Những đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hóa khung khổ lý thuyết về chính sách hỗ trợ ngành công
nghiệp ôtô;
- Phân tích đƣợc thực trạng ngành công nghiệp ôtô Việt Nam;
- Tổng hợp và đánh gía các chính sách hỗ trợ chính của Việt Nam đối
với ngành công nghiệp ôtô;
- Đề xuất một số gợi ý chính sách hỗ trợ cho Việt Nam nhằm phát triển
ngành công nghiệp ôtô.
4
5. Kết cấu luận văn
Luận văn đƣợc chia thành 4 chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở khoa học
Chƣơng 2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 3. Thực trạng ngành công nghiệp ôtô và áp dụng các chính
sách hỗ trợ của Việt Nam
Chƣơng 4. Một số gợi ý chính sách hỗ trợ nhằm phát triển ngành công
nghiệp ôtô việt nam trong thời gian tới
5
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam với lịch sử phát triển hơn 20 năm
qua, đƣợc xác định là lĩnh vực quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc và luôn là trọng tâm của những chính sách ƣu đãi, hỗ
trợ từ phía chính phủ. Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, đây là đề tài thu hút
sự chú ý của nhiều học giả trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên các bài viết trong
nƣớc hầu nhƣ tập trung vào phân tích sự phát triển toàn ngành công nghiệp
ôtô Việt Nam hoặc ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô hoặc chính sách bảo hộ
ngành công nghiệp ôtô trong nƣớc, hiếm hoi những tài liệu nào nói rõ về công
cụ hay chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Thông
qua các công trình nghiên cứu, các bài báo cáo hay qua các tạp chí chuyên
ngành, các học giả muốn gửi gắm thông điệp riêng đến chính phủ Việt Nam
những đóng góp nhằm phát triển ngành công nghiệp sản xuất ôtô trong nƣớc.
1.1.1. Các nghiên cứu về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
Tác phẩm “The automotive industry in Vietnam: prospects for
development in a globalizing economy” (Ngành công nghiệp ôtô ở Việt Nam:
triển vọng phát triển trong nền kinh tế toàn cầu) của Timothy J. Sturgeon
(1998), Viện Công nghệ Massachusetts của Mỹ, nghiên cứu khá toàn diện và
sâu sắc, cung cấp một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về tình trạng hiện tại của
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam, thảo luận về những xu hƣớng vĩ mô trong
ngành công nghiệp ôtô thế giới và chính sách hiện tại mà Việt Nam đang áp
dụng, từ đó đƣa ra các khuyến nghị rất hợp lý và có ý nghĩa ngay tại thời điểm
này nhƣ: phát triển hạ tầng giao thông, xây dựng một cơ chế chính sách ổn
định và minh bạch, thiết lập chuỗi cung ứng và tăng cƣờng hợp tác quốc tế.
Tuy nhiên, do đƣợc viết vào năm 1998 nên bài nghiên cứu đã không lƣờng
6
trƣớc đƣợc các thay đổi chính sách cũng nhƣ vấn đề phát sinh đối với ngành
công nghiệp ôtô đến nay đặc biệt trong giai đoạn HNKTQT.
Tác phẩm “The Automobile Industry in Vietnam, Remaining Issues in
Implementing the Master Plan” (Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam, những
việc cần làm để triển khai thực hiện quy hoạch ngành) của Kenichi Ohno và
Mai Thế Cường (2004) tại Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) năm 2004,
đánh giá sâu sắc về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam, đặt ra một số vấn đề
cần đƣợc xem xét trong việc thực hiện và điều chỉnh quy hoạch tổng thể
ngành trong tƣơng lai. Cùng với những chia sẻ kinh nghiệm hữu ích, tác giả
đƣa ra những khuyến nghị chính sách nhằm phát triển ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam. Tuy nhiên, sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa các chính sách ở Việt
Nam là nguyên nhân khiến các khuyến nghị của Kenichi Ohno chƣa có ý
nghĩa thực tiễn.
Tác phẩm “Vietnam’s Industrial Policy Formulation: To Become a
Reliable Partner in Integral Manufacturing” của Kenichi Ohno (2006) tại
Diễn đàn Phát triển Việt Nam VDF năm 2006, đã chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu
tồn tại trong chính sách phát triển công nghiệp sản xuất ôtô, từ đó đƣa ra quan
điểm cần có một chính sách mới nhằm cải thiện hiện thực này. Từ việc nghiên
cứu chính sách của Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản, tác giả muốn gửi gắm
kết quả đến các nhà hoạch định chính sách Việt Nam góp phần xây dựng
chính sách để phát triển ngành công nghiêp sản xuất ôtô trong nƣớc.
Tác phẩm “Developing the Vietnamese Automobile Industry” của
Takayasu (1998), Viện nghiên cứu Sakura, Nhật Bản, thảo luận về phƣơng
pháp tiếp cận với sự phát triển của một ngành công nghiệp ôtô tại Việt Nam
trên cơ sở phân tích về tình hình trong nƣớc và quốc tế xung quanh ngành
công nghiệp ôtô. Tác giả đƣa ra một loạt các vấn đề khó khăn đang phải đối
mặt của ngành và nêu rõ 3 yếu tố khi xây dựng và triển khai thực hiện một
7
chính sách phát triển ngành công nghiệp ôtô phải đặc biệt chú trọng. Đó là,
thứ nhất chính phủ Việt Nam nên duy trì mối quan hệ tốt với các công ty nƣớc
ngoài để có thể tận dụng tối đa các nguồn lực kinh doanh của họ; thứ hai, mỗi
công cụ chính sách có thể sẽ đƣợc sử dụng để thu hút các nhà sản xuất phụ
tùng nƣớc ngoài và thúc đẩy các nhà sản xuất các bộ phận địa phƣơng; thứ ba,
chính phủ nên nhắm đến chính sách của mình đối với việc sản xuất các loại xe
có tỷ lệ nội địa hóa cao. Bài viết chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết, chƣa có số liệu
thống kê minh họa chi tiết. Các lý lẽ nhận xét hoàn toàn trên quan điểm cá
nhân. Do đó tính thuyết phục của nó chƣa cao.
1.1.2. Nghiên cứu về các chính sách trong ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam
Bài nghiên cứu của T.S Nguyễn Bích Thủy (2008): “Industrial policy
as determinant localization: the case of Vietnamese automobile industry”, đại
học Waseda Nhật Bản, cung cấp các số liệu điều tra thực tế về thực trạng nội
địa hóa của các hãng xe tại Việt Nam thông qua khảo sát với bảng câu hỏi
phân phối cho các hãng xe thuộc hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam
VAMA. Nghiên cứu này tập trung vào các mối quan hệ giữa chính sách công
nghiệp và nội địa hóa để tìm ra những quy định khác nhau có tác dụng tốt trên
nội địa hóa. Nghiên cứu cũng phát hiện ra tình trạng thực tế của nội địa hóa
các sản phẩm ôtô, nguyên nhân của sự trì trệ trong nội địa hóa các sản phẩm
xe và vai trò của chính sách hiện hành trong nội địa hóa Cuối cùng bài viết đi
đến kết luận rằng chính sách của chính phủ, thị trƣờng và công nghiệp hỗ trợ
là ba yếu tố quyết định đến thành công của chính sách nội địa hóa. Do vậy,
chỉ khi tác động vào 3 yếu tố này mới phá vỡ đƣợc sự yếu kém trong ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi nhằm cung cấp các số
liệu sơ cấp về tỷ lệ nội địa hóa và tìm kiếm nhân tố tác động mạnh nhất, bài
viết chƣa đƣa ra các công cụ chính sách cụ thể.
8
Tác phẩm “Driving Development? The Problems and Promises of the
Car in Vietnam” của Arve Hansen (2016), Trung tâm Phát triển và Môi
trường, Đại học Oslo, Na Uy, phân tích về triển vọng và những vấn đề của
ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chú trọng phát
triển ngành công nghiệp ô tô nội địa nhƣ một ngành mũi nhọn của đất nƣớc
trong nỗ lực nâng cấp ngành công nghiệp, nhƣng song song với đó, Chính
phủ lại có những động thái nhằm kiềm chế sự phát triển của ngành thông qua
các công cụ nhƣ thuế phí rất cao đánh vào xe ô tô, khiến chúng trở nên xa xỉ
và chỉ có một lƣợng dân chúng mới có đủ khả năng sở hữu và sử dụng. Tác
phẩm phân tích những chính sách liên quan đến sự phát triển của ngành công
nghiệp ô tô cũng nhƣ bàn luận về một số nguyên do dẫn đến sự chƣa thành
công của ngành này tại Việt Nam. Tác giả biện luận rằng, sự thất bại này phản
ánh những điểm yếu trong chiến lƣợc phát triển của Việt Nam, đồng thời cũng
sẽ dẫn đến những vấn đề tiềm ẩn khi sự sở hữu ô tô tƣ nhân ngày càng đƣợc
nở rộng. Tác phẩm cũng chỉ ra sự tiến thoái lƣỡng nan của các nhà hoạch định
chính sách Việt Nam khi muốn đồng thời đạt đƣợc thành quả của tiến trình
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nƣớc và sự an toàn về môi trƣờng, năng
lƣợng và các vấn đề xã hội mà đƣợc coi là nguyên nhân căn bản của chính
sách hạn chế sở hữu ô tô tƣ nhân tại Việt Nam.
Tác phẩm “Ảnh hưởng của các chính sách tới sự phát triển của ngành
công nghiệp hỗ trợ ôtô Việt Nam” của Nhâm Phong Tuân và Trần Đức Hiệp
đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, tập 30, số 4
(2014) tập trung phân tích sự ảnh hƣởng của các chính sách tới phát triển
ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô của Việt Nam trong những năm qua, nhƣ nhóm
chính sách thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, nhóm chính sách phát triển các doanh
nghiệp mới, nhóm chính sách khu, cụm công nghiệp, nhóm chính sách hỗ trợ
tài chính và thuế. Kết quả phân tích chỉ ra rằng ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô
9
đã có những bƣớc phát triển đáng ghi nhận, song chƣa tƣơng xứng với tiềm
năng phát triển của toàn ngành công nghiệp ôtô. Từ đó, bài viết đề xuất một
số giải pháp thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển hơn nữa trong thời
gian tới.
Bài nghiên cứu của Phan Tuấn - Cục Hải quan Hà Nội và Nguyễn Thị
Vân Anh – Bộ Tài chính Việt Nam (2008): “Impacts of the protection policy
for the vietnam’s automobile industry” (Tác động của chính sách bảo hộ cho
công nghiệp ôtô Việt Nam), nhằm mục đích chính trả lời cho câu hỏi: liệu các
chính sách bảo hộ của chính phủ có thành công đƣợc hay không? Qua việc
phân tích định tính và dữ liệu thu thập từ nhiều nguồn, tác giả đã kết luận rằng
cho đến nay nó là một thất bại cả về các mục tiêu chính sách quan trọng lẫn
thặng dƣ phúc lợi xã hội. Bài viết này đƣợc giới hạn trong một phân tích ban
đầu về tác động của các chính sách bảo vệ trên ba bên chủ yếu, liên quan trực
tiếp: ngƣời tiêu dùng, các nhà sản xuất trong nƣớc và chính phủ. Hơn nữa, do
các hạn chế về số liệu, tài liệu chƣa thể cung cấp chi tiết tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu
trong ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam và đánh giá chính xác trên tổng
thiệt hại xảy ra phúc lợi từ chính sách.
Luận văn thạc sĩ của Đặng Minh Sang (2011): “Phân tích chính sách
bảo hộ ngành công nghiệp ôtô ở Việt Nam”, trường Đại học Kinh tế Luật -
ĐHQG thành phố HCM, trên cơ sở phân tích cụ thể và tổng quát các chính
sách bảo hộ và phát triển ngành công nghiêp ôtô Việt Nam từ khi ngành này
ra đời năm 1992 cho đến nay, đề tài đã chỉ ra những thành tựu cũng nhƣ hạn
chế cơ bản của các chính sách này. Từ đó đƣa ra những kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả trong việc phát triển ngành công nghiệp ôtô nói riêng cũng nhƣ
hiệu quả cho toàn xã hội nói chung. Tuy nhiên bài viết lại chƣa nói rõ đƣợc cơ
sở để phân tích số liệu hay nguồn thông tin, không đề cập đến phƣơng pháp
10
nghiên cứu đƣợc sử dụng trong bài. Khoảng không gian và thời gian nghiên
cứu cũng không đề cập đến thời kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1.1.3. Đánh giá chung
Qua các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đƣợc tổng hợp ở trên, mỗi một
công trình đều có một nội dung nổi bật nhất định. Các bài nghiên cứu sâu, về
nội dung rất sắc sảo, nhƣng lại chƣa có tác phẩm nào đi vào phân tích các
công cụ chính sách nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
mà chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng ngành công nghiệp ôtô, chỉ ra điểm
mạnh điểm yếu các chính sách bảo hộ hiện tại để khuyến nghị chính sách phù
hợp. Có một đề tài phân tích sâu về chính sách nội địa hóa nhƣng lại không
đƣa ra công cụ chính sách để thực hiện việc nội địa hóa. Một số tác phẩm
đƣợc thực hiện nghiên cứu ở thời điểm cách xa hiện tại, có giá trị đối chiếu
tham khảo, không còn nhiều ý nghĩa thực tiễn ở thời điểm hiện tại. Luận văn
này ngoài mục đích nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ nội dung và việc thực
hiện các chính sách hỗ trợ, sự phù hợp của nó với sự phát triển công nghiệp
ôtô trong thời kỳ hội nhập, còn có sự bổ sung phƣơng pháp nghiên cứu lấy cơ
sở phân tích số liệu để mang tính thuyết phục hơn, hi vọng sẽ mang lại ý
nghĩa thực tiễn cao.
1.2. Cơ sở khoa học về chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
1.2.1. Cơ sở lý luận về ngành công nghiệp ôtô
Ngành công nghiệp ôtô ra đời từ những năm cuối thế kỷ XIX, danh
hiệu ngƣời sáng chế ra chiếc ôtô đầu tiên thuộc về ngƣời Đức – Karl Benz
(1885), nhƣng ôtô chỉ thực sự đƣợc công nhận khi ngƣời Anh và ngƣời Pháp
cải tiến kỹ thuật. Thời kỳ sau thế chiến thứ 2 là thời kỳ phát triển mạnh của
ngành ôtô khi hàng loạt các loại ôtô mới với thiết kế, cấu tạo và tốc độ vƣợt
trội đƣợc cải tiến. Đến những năm 1960, ngành công nghiệp ôtô mới thực sự
bùng nổ với sự ra đời của hàng loại các hãng ôtô nổi tiếng nhƣ Renault của
11
Pháp, Fiat của Italia, BMW của Đức, General Motors và Ford của Mỹ,
Toyota, Honda, Nissan,… của Nhật,…
Hiện nay công nghiệp ôtô đƣợc xem là một trong những ngành công
nghiệp phát triển nhất thế giới, mạng lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các
doanh nghiệp sản xuất ôtô và cho quốc gia của họ. Dẫn đầu thế giới hiện nay
trong lĩnh vực ôtô là các cƣờng quốc Mỹ, Đức và Nhật Bản. Trong tƣơng lai,
ngành ôtô vẫn đƣợc xem là ngành công nghiệp trọng điểm vì xã hội ngày
càng phát triển, nhu cầu con ngƣời ngày càng cao, một số quốc gia còn đặt ra
mục tiêu “ôtô hóa”, chính vì vậy ngành công nghiệp ôtô sẽ luôn tiến lên theo
nhu cầu tăng theo thời gian.
Ngành công nghiệp ôtô là sự kết hợp của rất nhiều ngành công nghiệp
từ cơ khí truyền thống đến công nghệ bán dẫn, điện tử, thông tin, vật liệu,…
Do đó, phát triển ngành công nghiệp ôtô sẽ kích thích cho hàng loạt ngành
công nghiệp khác phát triển theo. Cũng vì đó ngành công nghiệp ôtô thực chất
rất khó phân định biên giới, nghiên cứu ngành công nghiệp ôtô là một lĩnh
vực rất rộng lớn và đa dạng. Trong khuôn khổ luận văn này, khái niệm ngành
công nghiệp ôtô đƣợc bao quát trong 02 phạm vi chính, đó là ngành công
nghiệp sản xuất – lắp ráp ôtô và ngành công nghiệp hỗ trợ. Trong khi ngành
công nghiệp sản xuất – lắp ráp ôtô dễ hình dung hơn với hình ảnh các sản
phẩm đầu ra là những chiếc xe ôtô hoàn chỉnh, thì ngành công nghiệp hỗ trợ
lại mơ hồ do có quá nhiều sản phẩm về chủng loại và chức năng phục vụ cho
ngành sản xuất – lắp ráp ôtô.
Ngành công nghiệp sản xuất – lắp ráp ôtô bao gồm các hoạt động sản
xuất những bộ phận, gói linh kiện quan trọng mang đặc trƣng thƣơng hiệu
riêng của mỗi hãng xe (chiếm 30 – 40% giá trị thành phẩm) và nhập các linh
kiện, phụ tùng còn lại về tổ chức lắp ráp thành sản phẩm nguyên vẹn cuối
cùng.
12
Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành
công nghiệp hỗ trợ định nghĩa ngành công nghiệp hỗ trợ là các ngành công
nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để
cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoành chỉnh
là tƣ liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Trong bản Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ đến 2010, tầm nhìn 2020, Bộ Công
thƣơng Việt Nam phân chia ngành công nghiệp hỗ trợ thành 02 thành phần
chính: (1) Phần cứng là các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và các linh kiện lắp
ráp; (2) Phần mềm bao gồm các bộ phận thiết kế sản phẩm, mua sắm, hệ
thống dịch vụ công nghiệp và marketing. Từ các cơ sở trên, luận văn đề cập
đến ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô với ý nghĩa là tập hợp các ngành công
nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và linh phụ kiện phục vụ
cho ngành công nghiệp sản xuất – lắp ráp ôtô thành phẩm. Có thể kể đến
những sản phẩm chính của ngành nhƣ: động cơ ôtô; khung, gầm; bộ truyền
động; vỏ; nhíp, giảm chấn; các chi tiết nhựa, cao su; kính; thiết bị điện;…
Đặc điểm của ngành công nghiệp ôtô
Vốn đầu tư lớn
So với các đại đa số các ngành công nghiệp khác, ngành công nghiệp
ôtô đòi hỏi vốn đầu tƣ cao hơn rất nhiều. Mỗi chiếc ôtô khi sản xuất cần đến
20.000 – 30.000 chi tiết, bộ phận khác nhau. Các chi tiết, các bộ phận lại đƣợc
sản xuất với những công nghệ có các đặc trƣng riêng, chi tiết của loại xe này
không thể sử dụng chung cho bất kỳ loại xe nào khác, do vậy việc đầu tƣ sản
xuất theo chuỗi cung ứng yêu cầu nguồn vốn và năng lực tài chính rất lớn.
Hơn nữa, giá trị của mỗi đơn vị chi tiết phụ tùng nói riêng và giá trị sản phẩm
ôtô cuối cùng cũng là rất lớn và đòi hỏi chất lƣợng cao do liên quan trực tiếp
đến sự an toàn. Vào năm 1998, trong 10 tập đoàn trên thế giới có tài sản ở
nƣớc ngoài cao nhất đã có sự góp mặt của 06 tập đoàn là các hãng ôtô hàng
13
đầu thế giới: General Motors, Ford, Toyota, Daimler Chrysler và
Volkswagen. Sáu tập đoàn này đã đóng góp 5% tổng giá trị đầu tƣ trực tiếp
trên toàn thế giới trong thời điểm đó. Tính đến nay, riêng ngành công nghiệp
ôtô chiếm 10% tổng giá trị thƣơng mại trong các ngành công nghiệp chế tạo.
Bên cạnh đó, đặc điểm của ngành là công nghệ sản xuất luôn luôn vận
động theo chiều hƣớng vận dụng những thành tựu khoa học về công nghệ - kỹ
thật mới nhất. Vì thế, ngoài vốn đầu tƣ cơ bản nhƣ về cơ sở vật chất, về nhân
lực, các chi phí thƣờng xuyên nhƣ nguyên vật liệu, bảo dƣỡng, bảo quản hàng
hóa,… thì chi phí cho R&D trong lĩnh vực ôtô cũng chiếm một tỷ trọng đáng
kể trong cơ cấu vốn đầu tƣ của ngành.
Tốc độ vòng quay vốn chậm và nhiều rủi ro
Ngành công nghiệp ôtô là ngành công nghiệp chế tạo nên phần lớn vốn
tập trung ở dạng tài sản cố định nhƣ là các cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết
bị. Không nhƣ các ngành công nghiệp khác, sản phẩm của ngành ôtô có giá trị
lớn, ảnh hƣởng nhiều đến nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, do đó tốc độ
tiêu thụ sản phẩm củng không nhanh chóng nhƣ đa phần các sản phẩm công
nghiệp khác và cũng là nhóm hàng đƣợc chính sách của các quốc gia đặc biệt
chú ý đến nhƣ chính sách thƣơng mại, chính sách hành chính. Tiếp đó, ngành
công nghiệp ôtô gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật – một ngành
có tốc độ phát triển nhƣ vũ bão, do đó nếu không bắt kịp đƣợc xu thế sẽ có
nguy cơ không tiêu thụ đƣợc sản phẩm để thu hồi vốn.
Hơn nữa, sự phức tạp của ngành ôtô chính là ở sự đòi hỏi độ chính xác,
an toàn, chất lƣợng và kỹ thuật rất cao, do đó mỗi chi tiết của chiếc xe đều đòi
hỏi chất lƣợng cao. Chỉ xảy ra một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến làm hỏng
cả hệ thống, ví dụ nhƣ dây belt trong ôtô trị giá chỉ từ 3 – 6 USD nhƣng nếu
bị hƣ thì làm hƣ nguyên cả engine – máy ôtô. Thực tế cũng đã chứng kiến
nhiều nhà sản xuất ôtô phải trả phí tổn cực kỳ to lớn (có thể lên đến vài trăm
14
triệu hay hàng tỷ USD) khi họ phải recall (thu hồi và hủy bỏ) sản phẩm chỉ vì
01 chi tiết, linh kiện bị lỗi.
Chuyên môn hóa, hợp tác hóa trong sản xuất
Chiếc ôtô đƣợc sản xuất ra mang trong mình từ 20.000 đến 30.000 chi
tiết, vô cùng đa dạng và phức tạp. Bản thân các nhà sản xuất ôtô không thể tự
mình sản xuất ra toàn bộ số lƣợng chi tiết đó, do đó họ cần sự phối hợp và hỗ
trợ từ hàng ngàn nhà cung ứng linh kiện, từ đó cũng hình thành nên ngành
công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industry) hay ngành công ngiệp cung ứng
(Supplier Industry). Các nhà sản xuất chỉ tập trung nghiên cứu sản xuất những
chi tiết cốt lõi, đặc trƣng và mang các bí quyết riêng của mình, thông thƣờng
có tỷ trọng 20 – 40% giá trị thành phẩm và phần còn lại là đặt hàng các nhà
cung ứng về các chi tiết phụ. Và riêng mỗi doanh nghiệp lắp ráp cũng cần cả
chục nhà cung ứng linh kiện [5].
Ngoài ra, công nghệ kỹ thuật đóng vai trò then chốt là đặc thù của
ngành, quyết định năng lực canh tranh của từng thành viên trong ngành và là
yếu tố sống còn của mỗi đơn vị. Công nghiệp ôtô phát triển hơn các ngành
công nghiệp chế tạo khác chính là nhờ đến đặc trƣng này của ngành. Ngành
không ngừng tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, có các tính năng kỹ thuật
khoa học vƣợt trội với tốc độ đáng kinh ngạc. Tuy nhiên điều này cũng đặt ra
một thách thức cho ngành ở chỗ công nghiệp ôtô sẽ gặp khó khăn hơn các
ngành khác trong thay đổi và áp dụng công nghệ mới do quy mô lớn. Thế nên
việc đầu tƣ áp dụng khoa học kỹ thuật luôn làm đau đầu các chuyên gia trong
ngành, cũng từ đó đã hình thành nên xu hƣớng chia sẻ và liên kết trong
nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ giữa các hãng xe. Dựa trên đòi
hỏi khách quan và những mục tiêu chủ quan, ngành công nghiệp ôtô đã tự
chuyên môn hóa chính mình và tổ chức hợp tác sản xuất giữa các nhà sản xuất
và nhà cung ứng.
15
Từ những đặc điểm cơ bản trên của ngành ôtô có thể thấy, để một quốc
gia đi sau cả về tƣ bản và công nghệ có thể gây dựng và phát triển ngành công
nghiệp ôtô nhất thiết cần có sự hỗ trợ từ chính phủ thông quá các chính sách
hỗ trợ.
1.2.2. Các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
1.2.2.1. Khái quát về chính sách
Thuật ngữ “chính sách” đƣợc sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Từ điển bách khoa
Việt Nam đã đƣa ra khái niệm về chính sách nhƣ sau: “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đƣờng lối, nhiệm vụ. Chính sách đƣợc thực hiện
trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phƣơng hƣớng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đƣờng
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”. Nhƣ vậy, có thể hiểu một cách
đơn giản: Chính sách là chƣơng trình hành động do các nhà lãnh đạo hay
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền
của mình.
Ở cấp Nhà nƣớc, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý,
các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nƣớc ban hành các
chính sách nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng.
Chính sách định hƣớng những hành động do chủ thể lựa chọn để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong thực tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh ở mỗi giai đoạn. Từ góc độ quản lý nhà nƣớc, chính sách là những cách
thức tác động của Nhà nƣớc vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt đƣợc
mục tiêu định hƣớng. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn
định, mềm dẻo, linh động. Chính sách có tác động nhanh và kịp thời, mạnh
mẽ, toàn diện đến nhận thức, thái độ và hành vi của chủ thể bị tác động. Đặc
biệt, chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của
16
các cá nhân và từng nhóm đối tƣợng cụ thể. Chính sách có vai trò định hƣớng
cho các hoạt động kinh tế - xã hội; khuyến khích các hoạt động kinh tế - xã
hội theo định hƣớng; phát huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trƣờng và
hạn chế những mặt tiêu cực của nó; tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm
soát và phân phối các nguồn lực cho quá trình phát triển; tạo lập môi trƣờng
thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp cho các thực thể vận động,
phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động giữa các cấp độ, các bộ
phận để tạo nên tính thống nhất chặt chẽ trong quá trình vận động của thực
thể.
Nhà nƣớc ban hành các chính sách để thực hiện vai trò quản lý nhƣng
chính sách không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu thiếu các công cụ cụ
thể hóa và thực thi. Các công cụ để thực thi chính sách là: pháp luật, dịch vụ
công và ngân sách nhà nƣớc.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực thi chính sách bởi pháp luật
là những quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động do nhà nƣớc ban hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của nhà
nƣớc. Pháp luật là căn cứ xây dựng chính sách, là công cụ cụ thể hóa và thực
thi chính sách. Khi các đạo luật đƣợc ban hành và đi vào đời sống sẽ giúp cho
các quan hệ xã hội diễn ra có trật tự theo định hƣớng thống nhất với chính
sách hiện hành. Quá trình thực thi pháp luật giúp cho các đối tƣợng có ý thức
chấp hành các quy định chung, vì thế mà họ cũng nêu cao tinh thần chấp hành
chính sách tự giác. Nếu pháp luật và pháp chế của xã hột tốt, thì mục tiêu của
chính sách có thể đạt đƣợc nhanh chóng nhờ những biện pháp mềm dẻo, linh
hoạt.
Dịch vụ công đƣợc hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp
nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp
17
nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nƣớc,
các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của
cơ quan nhà nƣớc trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc
và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết
yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nƣớc
đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng cho rằng đặc trƣng chủ
yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và
cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nƣớc hoặc tƣ nhân
đảm nhiệm.
Ngân sách nhà nƣớc là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nƣớc, là
công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Ngân sách
nhà nƣớc đƣợc sử dụng nhƣ là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm đảm
bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh doanh.
Trƣớc xu thế phát triển mất cân đối của ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế,
thông qua quỹ ngân sách, chính phủ có thể áp dụng các chính sách ƣu đãi, đầu
tƣ vào các lĩnh vực mà tƣ nhân không muốn đầu tƣ vì hiệu quả đầu tƣ thấp;
hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào hàng hóa, dịch vụ của
tƣ nhân có khả năng thao túng trên thị trƣờng; đồng thời áp dụng mức thuế
suất ƣu đãi đối với những hàng hóa mà chính phủ khuyến dụng. Nhờ đó có
thể đảm bảo sự cân đối, công bằng trong nền kinh tế.
1.2.1.2. Khái quát về chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
Khái niệm chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
Theo mục 1.2.2.1 khái quát về chính sách, trong phạm vi đề tài này, ta
xem xét chính sách theo góc độ là một công cụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp
ôtô nhằm mục tiêu ổn định phát triển kinh tế hay là một công cụ quản lý kinh
tế xã hội của nhà nƣớc. Nhƣ vậy, chính sách hỗ trợ phát triển ngành công
nghiệp ôtô là một trong những chính sách kinh tế - xã hội, là tổng thể các
18
quan điểm, tƣ tƣởng, nguyên tắc, mục tiêu và giải pháp mà các quốc gia sử
dụng nhằm tạo điều kiện hay hỗ trợ cho sự phát triển ngành công nghiệp ôtô
hƣớng tới mục tiêu chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của quốc gia đó.
Mục đích của chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
Mục tiêu của một chính sách kinh tế - xã hội nói chung đều hƣớng đến
việc đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, đạt đƣợc bƣớc chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, tạo đƣợc nền
tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức.
Ngành công nghiệp ôtô là một bộ phận của nền kinh tế, phát triển ngành công
nghiệp ôtô là góp phần phát triển nền kinh tế. Vì vậy, các chính sách hỗ trợ
ngành công nghiệp ôtô nhằm mục đích tạo điều kiện để đẩy mạnh tốc độ phát
triển ngành công nghiệp ôtô, nâng cao và mở rộng thị phần trên trƣờng quốc
tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn nền kinh tế.
Phân loại chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
Nhận thấy vai trò to lớn của ngành công nghiệp ôtô và tầm quan trọng
của việc hỗ trợ cho ngành công nghiệp này, nhiều quốc gia đã xây dựng và áp
dụng rất đa dạng tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế của từng nƣớc, có
nƣớc hỗ trợ về mặt nguyên vật liệu, linh kiện, có nƣớc lại hỗ trợ về thị
trƣờng… Tuy nhiên, tựu chung lại có thể thấy các chính sách hỗ trợ cơ bản
cho ngành công nghiệp ôtô bao gồm:
- Chính sách hỗ trợ tài chính và thuế
- Chính sách thu hút đầu tƣ và kích cầu thị trƣờng
- Chính sách hỗ trợ đầu tƣ nghiên cứu phát triển
1.2.3. Kinh nghiệm về việc áp dụng chính sách hỗ trợ ngành công
nghiệp ôtô của một số nước trên thế giới
1.2.3.1. Nhật Bản
19
Nhật Bản hiện là một trong số những quốc phát triển nhất thế giới
(GDP đứng trong Top 3 của thế giới) trong đó ngành công nghiệp ôtô đóng
vai trò quan trọng cho sự phát triển ấy. Trong giai đoạn phát triển thần kỳ
(thập kỷ
6 – 7 của thế kỷ XX), hàng năm nƣớc Nhật sản xuất ra trên 10 triệu xe ôtô các
loại và xuất khẩu khoảng 70% lƣợng xe sản xuất ra. Một số hãng sản xuất ôtô
của Nhật nhƣ Nissan, Toyota, Mitsubishi, Honda... hiện đang rất nổi tiếng
trên khắp thế giới.
Sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ là yếu tố quan trọng cho sự
phát triển của ngành công nghiệp ôtô Nhật Bản. Đầu tiên phải khẳng định tầm
nhìn chính sách của chính quyền Tokio khi hƣớng đến sự phát triển của nền
công nghiệp trong dài hạn bắt đầu từ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ từ
thửa ban đầu. Ngay từ trƣớc thế chiến II, chính phủ Nhật Bản đã có nhiều
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ, đặt nền tảng
vững chắc cho ngành công nghiệp hỗ trợ tăng tốc sau khi chiến tranh kết thúc.
Từ năm 1936, Nhật Bản đã có quỹ tài chính đầu tƣ vốn giúp doanh nghiệp
trong ngành chỉ trong 3 ngày có thể vay vốn. Chính phủ Nhật Bản còn thành
lập những đơn vị bảo lãnh tín dụng có khả năng bảo lãnh cho các doanh
nghiệp khi họ vay vốn. Đến những năm 1960, ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô
của nƣớc này đã đƣợc quan tâm hình thành và hỗ trợ, khởi đầu với sản lƣợng
nhỏ và công nghệ đơn giản. Ngoài ra, cho đến nay chính phủ vẫn tiếp tục hỗ
trợ doanh nghiệp về công nghệ thông qua các trung tâm hỗ trợ máy móc thiết
bị giúp các doanh nghiệp có hạn có thể tiếp cận đƣợc máy móc, công nghệ
mới. Những sự hỗ trợ này đã giúp ngành công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản
từng bƣớc trở nên mạnh mẽ và thúc đẩy không nhỏ giúp ngành công nghiệp
ôtô nƣớc này phát triển. Toyota Motors đã nhanh chóng trở thành đại công ty
tầm cỡ toàn cầu nhờ sự hỗ trợ của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
20
Cũng trong những năm 1960, sức ép lớn nhất lúc bấy giờ là phải đƣa
vào áp dụng công nghệ tiên tiến hơn nhiều, hiện đang sử dụng ở Châu Âu,
Mỹ. Trƣớc thực tế đó, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra những chính sách có tính
pháp luật để hỗ trợ sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng
trong nƣớc. Có thể kể đến nhƣ việc ban hành Luật Hợp tác với doanh nghiệp
vừa và nhỏ (năm 1949) nhằm bảo vệ quyền đàm phán của các doanh nghiệp
phụ trợ và tạo điều kiện cho họ tiếp cận với công nghệ mới và nguồn vốn vay.
Năm 1956, chính phủ ban hành thêm Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán
chi phí thầu phụ và các vấn đề liên quan. Những chính sách này đã thu hút
ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia công nghiệp hỗ trợ. Để tiếp sức xu
hƣớng này và cũng là định hƣớng của chính phủ, Nhật Bản tiếp tục ban hành
Luật Xúc tiến công nghiệp chế tạo máy năm 1956, chỉnh sửa năm 1961 và
1966. Đến năm 1970, chính phủ ban hành Luật Xúc tiến doanh nghiệp thầu
phụ nhỏ và vừa. Những luật này là nền tảng để Nhật Bản áp dụng các chính
sách hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ. Trong giai đoạn 1961-1966, ngành công
nghiệp hỗ trợ linh kiện ôtô đƣợc hỗ trợ để giảm khoảng 30% giá thành các
linh kiện. Giai đoạn 1966-1971, ngành linh kiện ôtô tiếp tục đƣợc hỗ trợ vốn,
giúp thị phần của Nhật Bản trên thị trƣờng ôtô thế giới tăng từ 3,6% năm
1965 lên 14,2% năm 1970 và 17,9% năm 1975. [23]
Nhật Bản còn quan tâm tới việc xúc tiến các liên kết giữa các nhà cung
cấp linh kiện bằng việc thiết lập cơ sở dữ liệu về công nghệ phụ trợ. Các địa
phƣơng đều có cơ sở dữ liệu riêng với sự tham gia của chính quyền, doanh
nghiệp, nhà nghiên cứu. Các cơ sở dữ liệu này có chất lƣợng cao, cung cấp
thông tin chi tiết về các nhà cung cấp và rất dễ tiếp cận.
Các biện pháp hỗ trợ nhƣ vậy đã đƣợc duy trì suốt gần 20 năm và đã
thúc đẩy mạnh mẽ việc phát triển và hiện đại hoá ngành công nghiệp phụ tùng
nói riêng và công nghiệp ôtô nói chung của Nhật Bản.
21
Bên cạnh đó, việc cấm sản xuất ôtô thƣơng phẩm đƣợc bãi bỏ vào năm
1948, tiếp đó là việc bãi bỏ lệnh cấm sản xuất ôtô con vào năm 1950 đã tạo ra
sự phục hồi cho ngành ôtô và nền kinh tế nói chung. Ít lâu sau đó, Nhật Bản
đã có 11 hãng xe ôtô. Do sức ép của việc phải trả khoản tiền bồi thƣờng chiến
tranh nên Nhật Bản chủ trƣơng hạn chế nhập khẩu ôtô. Đƣợc đảm bảo về thị
trƣờng nên các nhà sản xuất láp ráp ôtô với những kỹ thuật nhất định đã dần
đƣa kỹ thuật từ bên ngoài vào để tăng cƣờng trình độ kỹ thuật cho mình. Cụ
thể, vào năm 1952, Nissan nhận chuyển giao kỹ thuật từ Austin của Anh; năm
1953 Isuzu với Hillman của Anh; Hino với Renault của Pháp,… Trong khi đó
các nhà sản xuất phụ tùng trong quá trình phát triển và chọn lọc đã dần tích tụ
dƣới hình thức hệ thống hoá hoặc tự chuyển sang sản xuất. Việc không tồn tại
chính sách cho ngành công nghiệp ôtô của nhà nƣớc chứng tỏ các nhà sản
xuất phải tự nỗ lực bản thân và thành công trong việc nắm đƣợc vốn từ thị
trƣờng.
Trong chiến tranh Triều Tiên năm 1952, Nhật Bản trở thành căn cứ sửa
chữa xe cấp bách cho Liên hợp quốc nên đến năm 1956, Luật Biện pháp lâm
thời để khôi phục ngành cơ khí đã đƣợc ban hành nhằm hiện đại hoá ngành
sản xuất phụ tùng ôtô. Năm 1963 việc nhập khẩu ôtô đƣợc tự do hoá nhƣng
lúc này các hãng ôtô đã có đƣợc sức cạnh tranh quốc tế. Quá trình phát triển
sau đó bị chi phối bởi chính sách công nghiệp ôtô của Mỹ - nơi vốn là thị
trƣờng xuất khẩu lớn nhất của ôtô Nhật. Vì lo ngại sẽ để mất thị trƣờng nếu
không đối phó với luật làm cho sạch môi trƣờng không khí đƣợc thực hiện ở
Mỹ năm 1970 và kế hoạch thực nghiệm các loại xe an toàn do chính phủ Mỹ
khởi xƣớng năm 1972, các hãng sản xuất lắp ráp ôtô đã đổ xô vào việc phát
triển kỹ thuật độc lập với ý muốn của chính phủ. Năm 1973 khủng hoảng dầu
lửa nổ ra, các xe tiêu thụ ít nhiên liệu đƣợc hoan nghênh ở thị trƣờng trong
22
nƣớc và kết quả là chiến lƣợc đối phó này đã thành công trong việc mở rộng
thị trƣờng ở Mỹ.
Nhƣ vậy thành công của ngành công nghiệp ôtô Nhật Bản dựa vào
chính sách hỗ trợ thị trƣờng dƣới dạng các quy định cấm nhập khẩu xe ôtô
đƣợc thực hiện đến năm 1963 và các quy chế về thuế quan; đồng thời đầu tƣ
hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ thật rộng lớn tạo cơ sở đƣợc gọi
nhƣ là “ân huệ gián tiếp” giúp phát triển ngành ôtô của quốc gia, trong khi đó
vẫn để các doanh nghiệp sản xuất ôtô tự nỗ lực bản thân. Trải qua nhiều thăng
trầm và những khó khăn nhất định, các nhà sản xuất Nhật Bản đã tự lực cánh
sinh dựa trên những sự hỗ trợ không trực tiếp của chính phủ và đã trở thành
những biểu tƣợng vững mạnh của nền công nghiệp ôtô thế giới.
1.2.3.2. Hàn Quốc
Mặc dù ra đời sau hàng chục năm so với Nhật Bản nhƣng ngành công
nghiệp ôtô Hàn Quốc đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ và ngoạn mục.
Với 20 năm, từ con số không, Hàn Quốc đã xuất khẩu hàng loạt ôtô với chất
lƣợng cao cạnh tranh với cả xe Nhật.
Để đạt đƣợc thành tựu này, Chính phủ Hàn Quốc đã có một quá trình
dài hạn thực hiện các chiến lƣợc theo các từng thời kỳ và trên thực tế đã đạt
đƣợc kết quả rất khả quan. Năm năm đầu (1962 - 1966): lắp ráp xe dạng SKD
(Semi-Knocked Down: xe lắp ráp trong nƣớc có một số linh kiện đã đƣợc nội
địa hoá). Năm năm tiếp theo (1967 - 1971) đã chuyển sang lắp ráp xe CKD ở
quy mô lớn (CKD – Completely Knocked Down: xe lắp ráp trong nƣớc với
100% linh kiện nhập khẩu). Ở giai đoạn đầu này khi ngành sản xuất ôtô bắt
đầu hình thành tại Hàn Quốc, chính phủ nƣớc này chỉ cho phép các nhà sản
xuất nƣớc ngoài gia nhập thị trƣờng với một điều kiện là phải liên doanh với
các nhà sản xuất trong nƣớc; đồng thời hạn chế nhập khẩu ôtô và phụ tùng,
chỉ cho nhập những phụ tùng và thiết bị cần thiết cho đến khi trong nƣớc sản
23
xuất đƣợc. Mục đích là để các nhà sản xuất trong nƣớc nhanh chóng nắm bắt
đƣợc công nghệ của nƣớc ngoài. Nhờ đó, các doanh nghiệp trong nƣớc đã
từng bƣớc nắm đƣợc công nghệ cao từ các đối tác nƣớc ngoài có nền công
nghiệp ôtô hàng đầu nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nƣớc Châu Âu. Có thể kể
đến nhƣ Kia Industry là liên doanh giữa Kyeongseong Precision Industry với
Mazda năm 1964; Hyundai liên doanh với Ford năm 1968... Lúc này, các
doanh nghiệp ôtô Hàn Quốc đang chủ yếu đảm nhận khâu lắp ráp.
Mãi đến năm 1975 mới có chiếc ôtô “made in South Korea” theo đúng
nghĩa đen của từ hoàn chỉnh đầu tiên ra đời, chiếc Hyundai Pony. Chiếc xe
này đƣợc thiết kế bởi ItalDesign của Italia và dựa trên công nghệ của
Mitsubishi Nhật Bản. Mẫu xe này sau đó đƣợc xuất khẩu sang Anh, Ecuador,
đánh dấu một trang mới của ngành công nghiệp ôtô xứ kim chi. Đây chính là
chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài mà chính phủ quốc gia này đã một
tay hỗ trợ xuất sắc nâng đỡ nền công nghiệp ôtô nƣớc nhà.
Tuy nhiên, đến năm 1979 một cuộc khủng hoảng năng lƣợng nổ ra, làm
giảm đáng kể nhu cầu tiêu thụ ôtô, khiến các hãng sản xuất ôtô lâm vào tình
thế khó khăn. Trong thời gian này, Chính phủ cho xây dựng cơ sở sản xuất
loại lớn, cho phép 2 công ty sản xuất xe du lịch, một công ty sản xuất xe
thƣơng dụng với sự hạn chế về số kiểu. Nhà máy mới không đƣợc phép thành
lập. Trƣớc tình hình khủng hoảng, năm 1982 chính quyền Seoul đã triển khai
“Chính sách hợp lý hóa công nghiệp ôtô”, với mục đích ngăn chặn tình cảnh
“gà nhà đá nhau” giữa 4 nhà sản xuất lớn trong nƣớc là Hyundai Motors, Kia
Industry, General Motors Korea, và Asia Motors. Đồng thời, chính phủ cũng
lùi lại thời gian cho tự do nhập khẩu ôtô. Sau khi cuộc khủng hoảng qua đi,
những tia nắng ngày mới lại bắt đầu với nền công nghiệp ôtô Hàn Quốc khi
đạt nhiều thành tựu to lớn về xuất khẩu ôtô. Số lƣợng xe xuất khẩu tăng
nhanh (từ 100.000-700.000 chiếc/năm), với tay sang cả thị trƣờng Mỹ là kết
24
qủa trong những năm 1982-1986. Đến giai đoạn 1987-1991, ôtô đƣợc sử dụng
phổ biến trong dân chúng và đƣợc xuất khẩu với số lƣợng lớn. Lúc này,
Chính phủ bỏ hạn chế số lƣợng nhà sản xuất và số lƣợng kiểu xe.
Song song với chiến lƣợc thu hút công nghệ nƣớc ngoài, Seoul cũng rất
chú trọng vào chiến lƣợc phát triển công nghệ trong nƣớc, đầu tƣ cho nghiên
cứu và triển khai (R&D) để đảm bảo sự phát triển bền vững. Năm 2011, tổng
ngân sách dành cho R&D của Hàn Quốc vào khoảng 45 tỷ EUR, tăng 18,67%
so với cùng kỳ năm 2012 và đứng thứ 6 thế giới. Cũng trong năm đó, Hàn
Quốc đứng thứ 3 thế giới về chi tiêu cho “Chƣơng trình Nghiên cứu Phát triển
tiên phong thế kỷ 21”. Chƣơng trình này là một phần quan trọng trong chiến
lƣợc phát triển công nghệ của Hàn Quốc, nằm trong khuôn khổ kế hoạch quốc
gia với tên gọi “Tầm nhìn dài hạn cho phát triển khoa học và công nghệ
hƣớng tới 2025”, mà công nghiệp ôtô cũng là một đối tƣợng đƣợc quan tâm.
Theo đó, Hàn Quốc đã chi tiêu 4,03% GDP cho R&D, so với 3% GDP của
toàn EU trong cùng thời điểm. [22]
Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua chính sách hỗ trợ quan trọng khác của
chính phủ Hàn Quốc, đó là hình thành nên một “chuỗi cung ứng hoàn hảo”.
Thứ nhất, đặc điểm chính của ngành công nghiệp ôtô Hàn Quốc là các ngành
nguyên liệu nhƣ sắt thép, cao su... không đi trƣớc ngành công nghiệp ôtô mà
lại song song phát triển cùng ngành công nghiệp ôtô. Thứ hai, các nhà sản
xuất ôtô gắn kết rất chặt chẽ với các nhà cung cấp thông qua những hợp đồng
dài hạn, cho phép nhà cung cấp linh kiện tham gia toàn bộ quá trình phát triển
một chiếc xe ôtô, chia sẻ những thông tin quan trọng nhƣ mục tiêu chi phí, lợi
nhuận dự kiến... Chính nhờ sự chia sẻ và hỗ trợ dựa trên cơ sở những lợi ích
chung, các doanh nghiệp ôtô Hàn Quốc đã có thể giảm thời gian và chi phí
cho hoạt động thiết kế, nghiên cứu kỹ thuật... Nhờ mối liên kết chặt chẽ này,
các nhà sản xuất ôtô Hàn Quốc nhƣ Hyundai và Kia đã mạnh dạn đầu tƣ ra
25
nƣớc ngoài, kéo theo các đối tác sản xuất linh kiện, phụ tùng. Tiếp tục, họ cắt
giảm đƣợc những chi phí không cần thiết, rút ngắn thời gian sản xuất đáng kể
và tăng cƣờng quá trình trao đổi thông tin giữa các bên, giúp các nhà sản xuất
Hàn Quốc có thể giảm thời gian cho ra đời một mẫu xe mới xuống còn 3 năm,
so với 5 - 6 năm tại các quốc gia phƣơng Tây.
Có thể thấy, chính sách hỗ trợ của chính phủ Hàn Quốc tập trung vào
thu hút công nghệ nƣớc ngoài, ở thời gian đầu là sự kiểm soát chặt chẽ của
chính phủ, đồng thời đầu tƣ phát triển công nghệ trong nƣớc cho mục tiêu
phát triển bền vững. Bên cạnh đó là chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp hỗ
trợ phát triển bằng cách biến bên cung cấp linh kiên thành một mảng ghép
ngoại lai nhƣng gắn chặt với nhà sản xuất và cùng chia sẻ thông tin và các lợi
ích chung. Các chính sách của Seoul về cơ bản đã thể hiện đƣợc sự đúng đắn
và đƣa nền công nghiệp ôtô nƣớc này đạt đƣợc thành tựu nhƣ ngày hôm nay.
1.2.3.3. Thái Lan
Từ lâu Thái Lan đã mơ ƣớc trở thành một Detroit (thủ đô công nghiệp
ôtô Hoa Kỳ) của Châu Á. Nền công nghiệp ôtô của Thái Lan bắt đầu từ năm
1962, sau khi bộ luật tăng cƣờng đầu tƣ vào các ngành công nghiệp đƣợc sửa
đổi. Các công ty quan tâm đến lĩnh vực lắp ráp ôtô đƣợc liệt vào danh sách ƣu
tiên, đƣợc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% thuế nhập khẩu các
linh kiện CKD trong thời gian 5 năm. Việc sửa đổi chính sách sách này đã rất
thành công trong việc khuyến khích thành lập các nhà máy lắp ráp tại Thái
Lan, ban đầu theo hình thức liên doanh giữa các doanh nhân Thái Lan và các
nhà sản xuất ôtô nƣớc ngoài. Công nghiệp ôtô Thái Lan bắt đầu bằng việc lắp
ráp xe nay tiến đến xuất khẩu các loại xe và phụ tùng. Có thể nói ngành công
nghiệp ôtô của Thái Lan trải qua 5 giai đoạn phát triển sau:
- Giai đoạn nhập khẩu (từ năm 1961 – 1968), giai đoạn đầu: nhập khẩu
xe nguyên chiếc và xây dựng các nhà máy lắp ráp xe.
26
- Giai đoạn lắp ráp (từ năm 1969 – 1977), giai đoạn bắt đầu nội địa hoá:
nhà nƣớc kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp ôtô.
- Giai đoạn chế tạo (từ năm 1978 – 1986), giai đoạn tăng cƣờng nội địa
hoá: cấm nhập và hạn chế nhấp xe nguyên chiếc, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá,
phát triển nhanh các ngành công nghiệp hỗ trợ và các nhà cung cấp.
- Giai đoạn bắt đầu xuất khẩu (từ năm 1987 – 1992), giai đoạn phát
triển: kiểm soát chặt chẽ chất lƣợng, nới lỏng và bắt đầu tự do hoá trong sản
xuất ôtô.
- Giai đoạn từ năm 1992 đến nay, giai đoạn xuất khẩu: tự do hoá mạnh,
nới lỏng kiểm soát, chuyên môn hoá rất cao, chuẩn bị cho hội nhập và toàn
cầu hoá.
Thái Lan đã thay thế những quy định tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc bằng
cách đặt ra thuế nhập khẩu cao từ tháng 01 năm 2000. Theo đó, thuế nhập
khẩu linh kiện CKD đã tăng từ 20% lên 30%, điều đó có ý nghĩa tƣơng đƣơng
với việc thực hiện các quy định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hoá vì sẽ có lợi về
chi phí nếu thu mua phụ tùng sản xuất trong nƣớc hơn là nhập khẩu. Đến nay,
tỷ lệ nội địa hoá của các loại xe ôtô, xe máy ở Thái Lan đã đạt đƣợc nhƣ sau:
xe con đạt 72%, xe tải nhỏ cabin kép: 83%, xe tải lớn và xe buýt đạt 45%. Tỉ
lệ nội địa hoá này đƣợc coi là đáng khâm phục đối với các nƣớc Châu Á. Hiện
nay, Thái Lan là địa điểm sản xuất và lắp ráp ôtô lớn nhất trong khu vực
Đông Nam Á, đứng thứ 17 trên thế giới về sản lƣợng ôtô đƣợc sản xuất và có
khoảng hơn 2.000 nhà cung cấp linh phụ kiện trên thị trƣờng. Việc mở rộng
nhanh chóng nền công nghiệp ôtô đã sản sinh ra mạng lƣới cung ứng linh
kiện, kết quả là sự tăng trƣởng ấn tƣợng tỷ lệ linh kiện đƣợc sản xuất tại Thái
Lan.
Để có đƣợc thành công đó, Thái Lan đã đặt ra mục tiêu rõ ràng cho
từng giai đoạn phát triển và quyết tâm thực hiện đƣợc chúng một cách nghiêm
27
túc. Giai đoạn những năm 1990 trở về trƣớc, chính sách nổi bật nhất của
chính phủ Thái Lan đã trợ giúp ngành ôtô - xe máy là quy định về tỷ lệ nội địa
hóa. Bắt đầu từ cuối những năm 1990, định hƣớng của Chính phủ về những
trợ giúp cho ngành thay đổi. Điểm đáng chú ý nhất là không quy định về tỷ lệ
nội địa hóa và chấp nhận cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế. Chính phủ Thái
Lan tạo ra những kênh thông tin để lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, tìm
hiểu nhu cầu, nguyện vọng và cách thức mong muốn đƣợc trợ giúp của các
doanh nghiệp. Từ đó xây dựng một dự án với quy hoạch rõ ràng và hiện thực
thể hiện đƣợc sự am hiểu nhu cầu của thị trƣờng và các nhà doanh nghiệp.
Sang giai đoạn 2000 - 2010, Thái Lan lại có chiến lƣợc mới, đƣợc thể
hiện trong “Quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp ôtô-xe máy Thái Lan”,
với 2 điểm nổi bật: (1) Xây dựng đƣợc một khung phân tích rõ ràng và thúc
đẩy sự tham gia của các nhóm lợi ích liên quan quá trình xây dựng quy hoạch;
(2) Việc phân tích, diễn giải các dữ liệu thu thập đƣợc không chỉ đƣợc thực
hiện trong nội bộ nhóm nghiên cứu, mà còn nhận đƣợc ý kiến chuyên gia từ
khu vực nhà nƣớc và tƣ nhân, từ các nhà hoạch định chính sách, hiệp hội và
doanh nghiệp. Khi thực hiện quy hoạch, ban đầu Thái Lan cũng băn khoăn về
vấn đề bảo hộ ngành sản xuất linh phụ kiện nội địa. Tuy nhiên, những băn
khoăn này nhanh chóng tan biến khi Chính phủ xác định rõ ngành công
nghiệp ôtô Thái Lan phải cạnh tranh quốc tế và Chính phủ tôn trọng quyết
định mua sắm của các nhà sản xuất, lắp ráp… Đây cũng chính là điểm khác
biệt nhất của Thái Lan. Trong khi các nƣớc khác trong khu vực đang theo
đuổi chƣơng trình chiến lƣợc sản xuất “chiếc xe quốc gia” thì Thái Lan lại đề
cao “chiếc xe của thế giới” với chiến lƣợc rõ ràng nhằm phát triển Thái Lan
thành một trung tâm công nghiệp xe hơi hội nhập của toàn khu vực.
Bên cạnh đó, thực tế cũng đã cho thấy khi ngành công nghiệp ôtô Thái
Lan phát triển mang lại hiệu ứng giúp các nhà cung cấp mang quốc tịch Thái
28
Lan cũng phát triển. Hai chiến lƣợc chính đƣợc nêu ra trong bản quy hoạch
thành công này của Thái Lan là: (i) chiến lƣợc tạo ra một môi trƣờng kinh
doanh thuận lợi và có thể dự báo; (ii) chiến lƣợc nâng cao sức cạnh tranh của
các ngành linh phụ kiện ôtô. Trong kế hoạch hành động, các dự án hỗ trợ cho
từng mục tiêu cũng đƣợc nêu ra bao gồm 8 dự án hỗ trợ chiến lƣợc thứ nhất
và 7 dự án hỗ trợ chiến lƣợc thứ hai. Song song với đó, Chính phủ Thái Lan
vẫn luôn hoan nghênh các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nắm giữ quyền sở hữu trong
các cơ sở sản xuất, lắp ráp xe hơi và cũng luôn mở cửa cho việc tự do cạnh
tranh giữa các nhà sản xuất lớn trên thế giới.
Sự thành công của ngành công nghiệp ôtô của Thái Lan có thể kết luận
tầm vĩ mô là nhờ áp dụng các chính sách đặc biệt để kích thích thị trƣờng và
thu hút các nhà sản xuất ôtô nƣớc ngoài. Trong đó, nổi bật là 4 chính sách ƣu
đãi:
Thứ nhất, ƣu đãi thuế nội địa cho dòng xe pick-up 1 tấn. Thuế đối với
xe chở khách thông thƣờng 30-50%. Thuế áp cho pick-up loại 1 tấn (và dung
tích động cơ nhỏ hơn 3,25 lít) chỉ 3%. Mục đích của việc ƣu đãi thuế này
nhằm tập trung phát triển dòng xe chiến lƣợc trong thời kỳ đầu phát triển của
công nghiệp ôtô phù hợp với điều kiện sử dụng và kinh tế của Thái Lan; đồng
thời là dòng xe ít chịu sự cạnh tranh của nƣớc khác.
Thứ hai, chính sách phát triển xe thân thiện môi trƣờng (eco-car). Các
nhà sản xuất ôtô tiến hành đầu tƣ sản xuất xe eco-car đƣợc hƣởng các ƣu đãi
theo quy định rất cụ thể, chi tiết. Điều kiện ƣu đãi đối với doanh nghiệp và dự
án phải đạt các yêu cầu: động cơ xăng dung tích dƣới 1,3 lít; động cơ diesel
dung tích dƣới 1,4 lít; tiêu hao nhiên liệu dƣới 5 lít/100km; phát thải CO2
dƣới 120g/km; đạt tiêu chuẩn Euro 4; đạt tiêu chuẩn UNECE 94-95 về an
toàn.
29
Thứ ba, khuyến khích sản xuất các dòng xe cỡ nhỏ. Điều kiện để dƣợc
khuyến khích và ƣu đãi là doanh nghiệp, dự án phải có số tiền đầu tƣ trên 450
triệu USD; sản lƣợng tối thiểu 100.000 xe trong vòng 5 năm. Khi đó, doanh
nghiệp hoặc dự án sẽ đƣợc miễn 5 năm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn
hoàn toàn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị.
Thứ tư, khuyến khích đầu tƣ sản xuất các loại xe tƣơng lai, sử dụng
công nghệ mới.
Với sự bài bản và tầm nhìn rộng, khác biệt đƣợc thể hiện trong quy
hoạch mới cùng sự hành động đúng đắn đã đƣa nền công nghiệp ôtô Thái Lan
bƣớc sang thời đại mới, tiến gần hơn đến hiện thực giấc mơ “Detroit của
Châu Á”.
30
1.2.3.4. Bài học kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ ngành công
nghiệp ôtô
Trong những năm qua, dựa trên điều kiện lịch sử và các hình thái kinh
tế - xã hội đặc trƣng, các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan, đã chọn
lựa các hƣớng đi trong các chính sách đầu tƣ và thƣơng mại nhằm phát triển
ngành công nghiệp ôtô của nƣớc mình. Tuy có sự đa dạng trong đƣờng hƣớng
chính sách, song có thể quy tụ lại một số bài học kinh nghiệm chung nhất nhƣ
sau:
Thứ nhất, các quốc gia đều không phải là nơi khởi nguồn của nền công
nghiệp ôtô của thế giới, là những người đi sau nhưng đạt được bước tiến
nhanh và dài nhờ những chính sách hỗ trợ giá trị. Nhật Bản, Hàn Quốc hay
Thái Lan đều là những quốc gia thừa hƣởng lại những công nghệ sơ khai của
ngành công nghiệp ôtô thế giới trong những ngày đầu khởi sự trên đất nƣớc
mình. Sau những giai đoạn đầu đầy khó khăn và phải từng bƣớc vật lộn tự tìm
ra con đƣờng riêng cho mình đó chính là các chiến lƣợc cấp quốc gia về
ngành công nghiệp ôtô. Ngành công nghiệp ôtô Nhật Bản bắt đầu từ những
năm 1940 nhƣng đến đầu thập niên 1970 đã là một đế chế sản xuất ôtô của thế
giới, cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của Mỹ trên chính đất Mỹ. Hàn Quốc
khởi sự ngành công nghiệp ôtô của mình sau Nhật Bản cả chục năm, đầu
những năm 1960, đến năm 1975 đã có chiếc xe của riêng mình. Chƣa đầy 20
năm sau đó, ôtô Hàn Quốc đã xuất khẩu khắp thế giới và cũng là đối thủ cạnh
tranh của ôtô Nhật. Thái Lan hình thành nền công nghiệp ôtô vào đầu những
năm 1960, sau gần 30 năm đã có sản phẩm xuất khẩu, trải qua gần 20 năm sau
đó đã đứng hàng thứ 17 trên thế giới về sản xuất ôtô. Những thành công này
của các quốc gia do nhiều yếu tố tổng hợp thành nhƣng không thể phủ định
đƣợc chính các chính sách hỗ trợ của chính phủ đƣợc thực hiện đúng đắn đã
đƣa nền công nghiệp ôtô của các nƣớc đi đúng hƣớng và đã đạt thành tựu.
31
Việt Nam cũng là quốc gia thừa hƣởng các công nghệ sản xuất ôtô của thế
giới, và xuất phát sau Hàn Quốc và Thái Lan đến gần 30 năm. Tính thời điểm
lịch sử sẽ có giá trị khác nhau nhƣng có thể tin tƣởng rằng nếu có chính sách
hỗ trợ hợp lý, Việt Nam sẽ sản xuất đƣợc chiếc xe ôtô của riêng mình.
Thứ hai, chính sách thu hút đầu tư nhằm nhận chuyển giao công nghệ
nước ngoài đồng thời với chính sách hỗ trợ nghiên cứu phát triển trong nước.
Cả 3 quốc gia đều không phải là khởi nguồn của công nghiệp ôtô thế giới nên
chắc chắn là ngƣời đi sau và phải tìm cách tiếp cận và đƣa đƣợc công nghệ
sản xuất ôtô của các nƣớc phƣơng tây có ngành công nghiệp ôtô phát triển
trƣớc đó về nƣớc mình. Nhật Bản và Hàn Quốc đƣợc chính phủ hỗ trợ bằng
các chính sách thu hút đầu tƣ có điều kiện, các hãng sản xuất châu Âu muốn
vào thị trƣờng phải liên doanh với doanh nghiệp trong nƣớc. Chính từ đó đã
tiếp nhận đƣợc sự chuyển giao công nghệ tiên tiến. Nhƣng không dừng lại ở
đó, chính phủ hai quốc gia này cũng rất chú trọng vào sự tự nghiên cứu phát
triển công nghệ. Nhật Bản sử dụng chính sách hỗ trợ tài chính để giúp các
doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn và công nghệ mới, còn Hàn
Quốc thì dành khá nhiều ngân sách cho hoạt động R&D. Chính phủ Thái Lan
lại định hƣớng thu hút đầu tƣ để trở thành trung tâm sản xuất và lắp ráp ôtô,
rất nhiều hãng xe nổi tiếng thế giới đặt các xƣởng sản xuất tại đây. Chính phủ
Việt Nam cũng có định hƣớng tƣơng tự về thu hút đầu tƣ nhằm đạt chuyển
giao công nghệ, tuy nhiên hiệu quả không đạt đƣợc nhƣ mong muốn. Điều
này đặt ra dấu hỏi không hẳn cho chính sách thu hút và ở chỗ thực hiện nhƣ
thế nào.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ thuế và tài chính nhằm phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ cung cấp phụ tùng trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.
Các quốc gia này đều định hƣớng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong
nƣớc song hành với ngành công nghiệp ôtô. Khách quan mà nói thì các nhà
32
cung ứng linh kiện cung cấp đến 60% – 70% chi tiết cho một chiếc xe, cũng
có thể nói họ chính là nền tảng của nền công nghiệp ôtô nội địa. Nhật Bản đã
chủ trƣơng sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận
vốn và công nghệ mới nhằm tạo dựng một nên công nghiệp hỗ trợ rộng lớn và
mạnh mẽ nói chung, cho ngành ôtô nói riêng. Chính phủ Hàn Quốc có chính
sách khác hơn khi phát triển song song công nghiệp hỗ trợ với công nghiệp
ôtô và liên kết các nhà cung ứng trở thành một phần quan trọng và đƣợc chia
sẻ thông tin trong toàn bộ quá trình sản xuất của nhà sản xuất. Thái Lan cũng
áp dụng các chính sách hỗ trợ thuế nhƣ ƣu đãi thuế nội địa với một số dòng xe
định hƣớng chiến lƣợc, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ƣu đãi cho
các sản phẩm công nghệ mới, thân thiện với môi trƣờng. Ở giai đoạn đầu, cả 3
quốc gia đều áp dụng các chích sách thƣơng mại nhƣ cấm nhập khẩu ôtô hoặc
sử dụng thuế quan nhằm tăng sức cạnh tranh của các chi tiết linh kiện trong
nƣớc, các hãng xe muốn tối giản chi phí thì phải đầu tƣ sản xuất linh kiện ở
trong nƣớc, nhờ đó nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Việt Nam cũng đã thực hiện
điều tƣơng tự tuy nhiên kết quả về ngành công nghiệp hỗ trợ lại không khả
quan và tỷ lệ nội địa hóa vẫn chƣa đạt đƣợc gì nhiều.
33
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
2.1.1. Tiếp cận thực tiễn và hệ thống
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp trong lĩnh vực
kinh doanh, sản xuất ôtô ở Việt Nam. Mọi biến động của thị trƣờng và các
chính sách của chính phủ đều có tác động ít nhiều đến hoạt động kinh doanh
sản xuất của các doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ phát triển ngành công
nghiệp ôtô cũng là một thành phần trong hệ thống các chính sách thƣơng mại
quốc tế để phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Do đó đòi hỏi phải
tiếp cận thực tiễn và hệ thống mới giải quyết đƣợc mục tiêu nghiên cứu đề ra.
2.1.2. Tiếp cận theo quan điểm duy vật biện chứng
Theo cách tiếp cận này, luận văn nghiên cứu chính sách hỗ trợ ngành
công nghiệp ôtô với sự vận động và phát triển của kinh tế xã hội Việt Nam
trong bối cảnh sự vận động của nền kinh tế thế giới và các nhân tố nội ngoại
ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.
2.2. Khung khổ phân tích
Việc phân tích chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam sẽ
đƣợc thực hiện theo trình tự logic các nội dung sau:
i. Phân tích thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
ii. Phân tích các chính sách hỗ trợ và đánh giá mức độ thành công và hạn
chế trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
trong nƣớc.
iii. Đƣa ra một số gợi ý chính sách nhằm tăng cƣờng hỗ trợ ngành công
nghiệp ôtô trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
iv. Khung nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc tóm tắt qua sơ đồ sau:
34
Tổng quan
tình hình nghiên cứu
Khoảng trống nghiên cứu
Xác định khung phân tích,
áp dụng các PPNC định tính
Phân tích tác động của Các chính sách hiện tại
các chính sách hỗ trợ hỗ trợ ngành công
mà Việt Nam đang áp
nghiệp ôtô VN và mức
dụng độ thực hiện của nó
Gợi ý chính sách hỗ trợ
ngành công nghiệp ôtô
trong bối cảnh VN hội nhập
KTQT
35
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp duy vật biện chứng
Phƣơng pháp duy vật biện chứng là một bộ phận của học thuyết triết
học do Karl Marx đề xƣớng. Đặc trƣng của phƣơng pháp duy vật biện chứng
là coi một sự vật hay một hiện tƣợng trong trạng thái luôn phát triển và xem
xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tƣợng khác, nguồn gốc của sự
phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đây là các cơ sở
phƣơng pháp luận cho việc nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc về
các hiện tƣợng. Từ đặc trƣng của phƣơng pháp duy vật biện chứng, luận văn
nghiên cứu thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đƣợc đặt
trong xu hƣớng vận động và phát triển của nền kinh tế thế giới, giai đoạn từ
năm 2005 đến nay. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sự cạnh
tranh gay gắt trên thị trƣờng thế giới càng khiến cho ngành công nghiệp ôtô
chịu sự tác động qua lại rõ rệt hơn, ảnh hƣởng trực tiếp lên việc hoạch định
chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.3.2. Phương pháp kế thừa
Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tƣợng, cái mới không ra đời
từ hƣ vô, mà ra đời từ trong lòng cái cũ, từ cái trƣớc đó. Bởi vậy, nó không
phủ định "sạch trơn", không vứt bỏ hoàn toàn cái cũ. Nó chỉ gạt bỏ những yếu
tố tiêu cực, lỗi thời của cái cũ, đồng thời giữ lại những yếu tố tích cực còn
thích hợp để phát triển cái mới. Vì vậy phƣơng pháp kế thừa nhằm mục đích
tránh tạo ra các đặc điểm và hành vi đã tổn tại, thay vào đó sử dụng lại những
cái hiện có để tạo ra cái mới. Bằng phƣơng pháp này, trên cơ sở kế thừa từ
các công trình nghiên cứu liên quan đến ngành công nghiệp ôtô trƣớc đó, luận
văn với mục đích bổ sung các điểm thiếu sót nhằm lấp bớt khoảng trống, tạo
ra một chủ đề đƣợc nghiên cứu toàn diện và có ý nghĩa hơn
36
2.3.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích trƣớc hết là phân chia cái toàn thể của đối tƣợng nghiên cứu
thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để
nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ
đó giúp chúng ta hiểu đƣợc đối tƣợng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn,
hiểu đƣợc cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy. Khi chúng ta đứng
trƣớc một đối tƣợng nghiên cứu, chúng ta cảm giác đƣợc nhiều hiện tƣợng
đan xen nhau, chồng chéo nhau làm lu mờ bản chất của nó. Vậy muốn hiểu
đƣợc bản chất của một đối tƣợng nghiên cứu chúng ta cần phải phân chia nó
theo cấp bậc. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra đƣợc
cái chung, thông qua hiện tƣợng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để
tìm ra cái phổ biến. Khi phân chia đối tƣợng nghiên cứu cần phải:
+ Xác định tiêu thức để phân chia.
+ Chọn điểm xuất phát để nghiên cứu.
+ Xuất phát từ mục đích nghiên cứu để tìm thuộc tính riêng và chung.
Bƣớc tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là quá trình ngƣợc
với quá trình phân tích, nhƣng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái
chung cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại
để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra đƣợc bản chất, quy luật
vận động của đối tƣợng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phƣơng pháp gắn bó chặt chẽ quy định và
bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong cấu tạo,
trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một
cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tƣợng
nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp
vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể (có lúc trái
37
chiều) từ sự phân tích, khả năng trừu tƣợng, khái quát nắm bắt đƣợc mặt định
tính từ rất nhiều khía cạnh định lƣợng khác nhau.
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp đƣợc thực hiện qua các bƣớc nhƣ sau:
Bước 1: Xác định vấn đề cần phân tích
Các vấn đề cần phân tích trong luận văn là:
- Phân tích thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô trong nƣớc.
- Phân tích nội dung các chính sách hỗ trợ và đánh giá mức độ đạt
đƣợc trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp
ôtô trong nƣớc.
Bước 2: Thu thập thông tin cần phân tích
Sau khi đã xác định đƣợc vấn đề nghiên cứu, luận văn tiến hành thu
thập thông tin có liên quan đến ngành công nghiệp ôtô thông qua các công
trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nƣớc, các sách chuyên khảo, các bài
báo cáo, các bài tham luận trong các hội nghị, các trang web của Tổng cục
thống kê Việt Nam, trang web của hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam -
VAMA…
Trong quá trình tìm kiếm, nghiên cứu tài liệu, những thông tin liên
quan đến vấn đề nghiên cứu đều đƣợc đánh dấu lại để thuận tiện cho việc tra
cứu, tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài. Một số thông tin đã đƣợc sử
dụng bằng cách trích dẫn trực tiếp, một số thông tin đƣợc tác giả tổng hợp,
khái quát nội dung thành những luận cứ cho quá trình phân tích.
Bước 3: Phân tích dữ liệu và giải thích
Trên cơ sở những thông tin thu thập đƣợc về thị trƣờng ôtô trên thế
giới, luận văn đã soi chiếu vào thị trƣờng ôtô Việt Nam để so sánh mức độ
phát triển và khả năng có thể đáp ứng của các nhà cung cấp nội địa và giải
thích nguyên nhân dẫn đến những kết quả đó.
38
Cũng trên cơ sở tìm hiểu và tham khảo quá trình thực hiện và kết quả
các chính sách mà các nƣớc áp dụng để hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp
ôtô, luận văn cũng đánh giá mức độ Việt Nam áp dụng và thực hiện các chính
sách đó nhƣ thế nào, giải thích vì sao lại có những kết quả đó. Kết quả thu
thập thông tin chủ yếu thể hiện dƣới hình thức phân tích định tính.
Bước 4. Tổng hợp kết quả phân tích
Với việc tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ về sự phát triển toàn
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong xu hƣớng phát triển chung của toàn
thế giới, luận văn tìm ra những tồn tại hạn chế về việc thực hiện các chính
sách hiện tại để đóng góp ý kiến cho chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam phù hợp với xu hƣớng HNKTQT, đƣa ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam tiến đến một bƣớc khởi sáng hơn.
2.3.4. Phương pháp so sánh
Phƣơng pháp so sánh là việc đặt hai hay nhiều sự vật hiện tƣợng vào
các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa
chúng.
Các bƣớc tiến hành so sánh bao gồm:
Bước 1: Xác định nội dung so sánh
Bước 2: Xác định phạm vi so sánh
Bước 3: Xác định điều kiện so sánh
Bước 4: Xác định mục đích so sánh
Bước 5: Thực hiện và tìm ra kết quả so sánh
Luận văn sử dụng phƣơng pháp này để tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác
biệt trong cơ chế, chính sách, điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam với các
nƣớc khác để thấy rõ sự chênh lệch phát triển của ngành công nghiệp ôtô.
Luận văn cũng thực hiện các bƣớc so sánh nhƣ sau:
39
Bước 1: Xác định nội dung so sánh: Luận văn so sánh sự phát triển
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam và một số nƣớc trong khu vực và thế giới.
Bước 2: Xác định phạm vi so sánh: Luận văn đƣa ra các chỉ tiêu so
sánh về kim ngạch xuất nhập khẩu, giá, chất lƣợng sản phẩm trong phạm vi từ
năm 2005 trở lại đây.
Bước 3: Xác định điều kiện so sánh: xác định các chỉ tiêu so sánh ở
mức độ tƣơng đối hay tuyệt đối để đảm bảo tính thống nhất.
Bước 4: Xác định mục đích so sánh: luận văn so sánh nhằm mục đích
thấy rõ đƣợc sự chênh lệch phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam với
các nƣớc để thấy rõ những tồn tại và hạn chế của các chính sách hỗ trợ ngành
công nghiệp ôtô mà chính phủ các nƣớc đang áp dụng.
Bước 5: Thực hiện và tìm ra kết quả so sánh: luận văn so sánh ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam với ngành công nghiệp ôtô của Mỹ, Nhật Bản,
Thái Lan, Malaysia thông qua các bƣớc trên để đƣa ra những nhận xét, đánh
giá chính xác, có tính thuyết phục, làm cơ sở để đóng góp ý kiến đối với các
chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô trong nƣớc.
40
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ÔTÔ Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
3.1.1. Tổng quan về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
3.1.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
Hoà nhịp cùng sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong
quá trình hình thành và phát triển. Quá trình đó có thể chia thành các thời kỳ
sau:
Thời kì trước năm 1975
Trƣớc năm 1954 xe ôtô sử dụng ở Việt Nam hoàn toàn là xe của nƣớc
ngoài mang từ Pháp sang với các thƣơng hiệu nổi tiếng nhƣ Renault, Peugoet,
Citroen... Phụ tùng đƣợc nhập 100% từ Pháp, trong nƣớc chỉ làm những chi
tiết đơn giản nhƣ bulông, êcu… phục vụ cho sửa chữa xe. Các hãng của Pháp
thành lập các gara vừa trƣng bày bán xe, vừa tiến hành dịch vụ bảo hành, bảo
dƣỡng và sửa chữa. Tuy nhiên, số lƣợng xe ôtô sử dụng ở Việt Nam trong
thời kì này rất ít ỏi.
Đến năm 1950, Việt Nam mở chiến dịch biên giới, khai thông biên giới
Việt Nam với các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em. Việt Nam đã đƣợc các nƣớc
bạn viện trợ một số xe ca GAT51 dùng để vận chuyển ngƣời và quân khí. Lúc
này các xƣởng quân giới sản xuất và sửa chữa vũ khí kiêm luôn việc bảo
dƣỡng và sữa chữa xe. Sau ngày giải phóng, một số xƣởng quân giới rời về
Hà Nội xây dựng thành các nhà máy cơ khí. Do sự khan hiếm về phụ tùng cho
các xe viện trợ, chính phủ Việt Nam đã đề ra chính sách về sản xuất phụ tùng
ôtô cho các loại xe này. Bộ Công nghiệp nặng thành lập các nhà máy sản xuất
phụ tùng 1, 2, 3 để sản xuất các chi tiết nhƣ động cơ, hộp số, gầm xe. Bộ Giao
thông vận tải giao cho Cục Cơ khí trực thuộc thành lập mạng lƣới sửa chữa xe
41
và sản xuất phụ tùng khắp các tỉnh từ Lạng Sơn, Hà Nội đến Nghệ An, Quảng
Bình. Một thời gian sau, Cục Cơ khí - Bộ Giao thông vận tải thành lập nhà
máy ôtô 1-5 và nhà máy Ngô Gia Tự sản xuất phụ tùng máy gầm. Các bộ
khác nhƣ Bộ Quốc phòng, Bộ Cơ khí luyện kim cũng xây dựng riêng cho
mình một nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô. Sau đó, Ban Cơ khí Chính phủ
đƣợc thành lập và đã xác định chiến lƣợc phát triển công nghiệp ôtô. Tiến
hành chuyên môn hóa từng nhà máy trong việc sản xuất phụ tùng dùng cho
từng mác xe và tiến tới làm toàn bộ chi tiết để lắp ráp xe hoàn chỉnh. Ngày
02/09/1960, hai chiếc xe đầu tiên lắp ráp tại Việt Nam đã tham gia diễu hành
trên quảng trƣờng Ba Đình. Sau hai xe này, Việt Nam không sản xuất thêm
nữa vì chất lƣợng xe có nhiều hạn chế.
Thời kì từ năm 1975 đến năm 1991
Thời kì này, tính chất kế hoạch hóa mất dần tác dụng, sự bao cấp đầu
vào, đầu ra cho các nhà máy ôtô không còn đƣợc nhƣ trƣớc, nhu cầu về phụ
tùng cũng hạn chế, thêm vào đó thiết bị kĩ thuật, máy móc lỗi thời, lạc hậu đã
không đảm bảo chất lƣợng sản phẩm. Ở miền Bắc, các nhà máy của Việt Nam
xuống cấp nghiêm trọng, đứng trƣớc nguy cơ phải đóng cửa và một số nhà
máy nhƣ cơ khí Ngô Gia Tự 3-2, niềm tự hào của đất nƣớc trƣớc kia, đã phải
cho một bộ phận công nhân nghỉ không lƣơng. Ở miền Nam Việt Nam không
có nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô, chỉ có các xƣởng sửa chữa và bán phụ tùng
xe ngoại nhập.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh
tế, làm bạn với tất cả các nƣớc trên thế giới trên cơ sở hợp tác cùng có lợi.
Trƣớc tình hình đó, Đảng và Nhà nƣớc đã nhìn thấy những điểm yếu về vốn,
về công nghệ, về con ngƣời,… của ngành trong khi nền kinh tế cần nhiều
chủng loại xe để phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Để phát triển ngành công nghiệp ôtô, Việt Nam cần có nguồn vốn lớn, trang
42
thiết bị, công nghệ hiện đại, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ để có
thể sử dụng tốt hệ thống trang thiết bị đó. Song tại thời điểm này, việc tự đầu
tƣ toàn bộ trang thiết bị, công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất xe là điều không
thể. Mặt khác, Việt Nam chƣa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lí,
công tác đào tạo cán bộ cho ngành công nghiệp này. Trên thế giới đã có một
số nƣớc đi theo con đƣờng tự đầu tƣ bằng việc vay vốn nƣớc ngoài nhƣ
Achentina, Mexico,… song vì số vốn vay quá lớn, số lƣợng xe tiêu thụ ban
đầu còn ít dẫn đến tình trạng tồn đọng nợ, tạo thành gánh nặng cho Ngân sách
Nhà nƣớc.
Chính phủ Việt Nam đã quyết định đi theo một hƣớng khác. Song song
với việc kêu gọi các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào đầu tƣ tại Việt Nam, Chính
phủ đã ban hành một loạt các chính sách về ƣu đãi đầu tƣ. Điều này đã làm thị
trƣờng ôtô trong nƣớc sôi động hơn, nhiều nhà đầu tƣ đã đến Việt Nam để tìm
hiểu thị trƣờng, nghiên cứu các hƣớng đầu tƣ có lợi nhất. Tuy nhiên do thời kì
này Việt Nam vẫn còn đang chịu sự cấm vận của Mỹ về kinh tế nên các hãng
sản xuất xe hơi lớn của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu còn dè dặt trong việc quyết
định có đầu tƣ tại Việt Nam hay không. Họ thƣờng đầu tƣ gián tiếp thông qua
một công ty của Châu Á nào đó. Mặc dù vậy, đây cũng là những tiền đề quan
trọng cho việc thành lập các liên doanh lắp ráp ôtô tại Việt Nam thời gian sau
đó.
Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
Cho đến trƣớc khi có mặt của các liên doanh lắp ráp ôtô, tại thị trƣờng
Việt Nam còn đang lƣu hành 38.212 xe ôtô thuộc các thế hệ cũ nhƣ Gat, Lada,
Zil, Volga. Thế nên phải nói rằng ngành công nghiệp ôtô Việt Nam thực sự
hình thành và phát triển kể từ sau năm 1991 – là mốc khởi đầu khi xuất hiện
liên doanh lắp ráp ôtô đầu tiên (Công ty Auto Hòa Bình). Kể từ đó đến năm
1997 là thời kỳ ra đời rầm rộ của các liên doanh của hầu hết các hãng xe nổi
tiếng trên thế giới nhƣ Ford, Toyota, Mercedes-Benz.... Đến năm 2000, một sự
43
kiện lớn quan trọng của ngành ôtô đó là sự thành lập của Hiệp hội các nhà sản
xuất ôtô Việt Nam (VAMA). VAMA ra đời với mục tiêu thống nhất hoạt động
của các doanh nghiệp ôtô Việt Nam, đại diện cho ngành góp tiếng nói với
chính phủ Việt Nam, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp ôtô và tiến tới
phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Đây đƣợc coi là một trong các
hiệp hội có sự đồng thuận và đoàn kết cao đối với các chính sách của Chính
phủ. Đến tháng 7 năm 2015, trên cả nƣớc đã có 13 liên doanh sản xuất lắp ráp
ôtô với tổng số vốn đầu tƣ là khoảng 1 tỷ USD, các liên doanh ôtô có tổng sản
lƣợng đạt 150.000 chiếc xe/năm, giải quyết công ăn việc làm cho hơn 3.000
lao động [9].
Nhƣ vậy, các liên doanh có vai trò cực kỳ quan trọng trong bƣớc đầu
tạo dựng nên ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong khi vai trò của các
doanh nghiệp ôtô trong nƣớc của Việt Nam là hết sức mờ nhạt. Có thể nói, sự
ra đời của các liên doanh trên đã cho thấy thị trƣờng xe hơi Việt Nam là thị
trƣờng đầy tiềm năng và các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đã rất chú trọng đến thị
trƣờng này. Mặt khác, điều này cũng cho thấy chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nƣớc ta trong việc phát triển ngành công nghiệp ôtô nƣớc nhà thông
qua việc liên doanh, liên kết với nƣớc ngoài. Điều này không những thu hút
đƣợc lƣợng vốn lớn vào Việt Nam mà còn tập trung đƣợc kỹ thuật sản xuất
hiện đại, phƣơng cách quản lí tiên tiến. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp
của hầu hết các nƣớc có nhiều thành tựu trên thế giới cũng đã cho thấy giai
đoạn đầu phát triển rất cần sự hỗ trợ từ bên ngoài, nhất là công nghiệp ôtô. Từ
đây có thể thấy, nếu nhƣ quan điểm xây dựng công nghiệp ôtô Việt Nam thuở
sơ khai là đi từ sản xuất phụ tùng cơ bản rồi nâng dần lên sản xuất ôtô đã
không thể hiện đƣợc nhiều tính thực tiễn thì nay đã đƣợc thay thế bởi con
đƣờng đi từ lắp ráp ôtô rồi tiến hành từng bƣớc nội địa hoá sản xuất phụ tùng
nhƣ các nƣớc ASEAN và Châu Á đã trải qua.
44
Nhƣ vậy, lịch sử hình thành ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã cho
thấy sau bao năm dò dẫm tìm con đƣờng phát triển ngành thì giờ đây con
đƣờng đó đã hiện rõ hơn và hứa hẹn một triển vọng sáng lạng trong một
tƣơng lai không xa.
3.1.1.2. Vai trò của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong nền kinh tế
quốc dân
Ôtô là một loại hàng hóa quan trọng đối với các hoạt động của xã hội.
Ngành công nghiệp ôtô luôn có vị trí quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp
nói chung và công nghiệp cơ khí nói riêng của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đây cũng đƣợc coi là ngành xƣơng sống trong nền kinh tế quốc dân của các
quốc gia phát triển nhƣ Mỹ, Nhật Bản và các nƣớc Tây Âu. Nó là sự kết hợp
của rất nhiều ngành công nghiệp, từ công nghiệp cơ khí truyền thống đến
công nghệ bán dẫn, điện tử, thông tin. Do đó, việc phát triển ngành công
nghiệp ôtô ở Việt Nam sẽ kích thích cho hàng loạt ngành công nghiệp khác
phát triển theo, đồng thời giải quyết đƣợc một số lƣợng lớn việc làm cho
ngƣời lao động, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nƣớc. Đây là ngành có
sự ảnh hƣởng rộng lớn đến các lĩnh vực quan trọng của đời sống kinh tế - xã
hội nhƣ giao thông vận tải, lao động – việc làm, trình độ phát triển năng lực
sản xuất,…
Giao thông vận tải là một yếu tố cực kì quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của một đất nƣớc, giúp cho hàng hoá đƣợc lƣu chuyển dễ dàng từ
một địa điểm này đến một địa điểm khác, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cùng
với sự phát triển vƣợt bậc về kinh tế xã hội, nhu cầu của con ngƣời ngày càng
đƣợc nâng cao, do đó nhu cầu lƣu thông hàng hoá và những đòi hỏi về đi lại
ngày càng tăng. Có thể nói trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế toàn cầu hoá
diễn ra ngày càng sôi động, ngƣời ta càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng
của giao thông vận tải. Nếu trên không trung, máy bay chiếm ƣu thế về tốc độ
45
thì dƣới mặt đất, ôtô và vận tải ôtô lại chiếm ƣu thế về năng lực vân chuyển
và khả năng cơ động. Ôtô có thể hoạt động trên nhiều dạng địa hình, từ đồng
bằng, miền núi đến miền biển, vận chuyển một khối lƣợng hàng hoá nhiều
hơn bất cứ loại phƣơng tiện vận tải nào khác. Vì vậy, nếu phát triển ngành
công nghiệp ôtô sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trƣởng của nền kinh tế đất
nƣớc.
Để đảm bảo phát triển kinh tế lâu dài, giao thông vận tải và đặc biệt là
giao thông đƣờng bộ, là kết cấu hạ tầng đầu tiên, quan trọng nhất. Trong đó
công nghiệp ôtô luôn đƣợc coi là khâu trọng tâm, cần phải đi trƣớc một bƣớc
trong chiến lƣợc phát triển. Với chính sách “mở cửa” để thực hiện Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa, ngành công nghiệp ôtô đƣợc đánh giá là một trong
số những ngành mũi nhọn giúp lôi kéo các ngành công nghiệp khác phát triển.
Bởi công nghiệp ôtô hàm chứa rất nhiều những công nghệ cơ bản nhƣ chế tạo
máy, luyện kim, đúc, khuôn mẫu, vật liệu và điện tử. Những công nghệ này
hoàn toàn có thể áp dụng sang các lĩnh vực sản xuất khác và công nghiệp ôtô
phát triển sẽ thúc đẩy những ngành công nghiệp nhƣ: điện tử, luyện kim, hoá
chất, nhựa... cùng phát triển theo. Chúng ta không thể nói Việt Nam là một
nƣớc sản xuất công nghiệp nếu chƣa có một ngành công nghiệp sản xuất ôtô
phát triển. Hàng năm, các nƣớc phát triển nhƣ Nhật, Mỹ, và các nƣớc Tây
Âu,... thu đƣợc một khoản lợi nhuận khổng lồ do công nghiệp ôtô mang lại.
Nguồn lợi nhuận từ ngành công nghiệp ôtô là điều mong muốn đối với những
nƣớc đang thực thi các biện pháp để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp ôtô phát triển sẽ tạo ra hàng triệu việc
làm với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. Theo tính toán với quy mô thị
trƣờng khoảng 500.000 xe/năm thì công nghiệp ôtô sẽ tạo ra khoảng hơn 1
triệu việc làm với sự tham gia của hàng nghìn doanh nghiệp. Điều quan trọng
nữa khi sản xuất đáp ứng đƣợc nhu cầu trong nƣớc, thậm chí là xuất khẩu sẽ
46
làm thay đổi cán cân thƣơng mại. Theo tính toán của các chuyên gia Nhật Bản
thuộc Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản, với nhu cầu về ôtô
tăng mạnh, nếu Việt Nam không có một ngành công nghiệp ôtô thì từ năm
2020 mỗi năm sẽ phải chi khoảng 3 tỷ USD để nhập khẩu xe. Nhƣ vậy có thể
nói ngành công nghiệp ôtô là ngành công nghiệp trọng điểm không riêng gì
Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới.
Có thể kết luận rằng việc phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
trong giai đoạn đất nƣớc đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
điều hết sức cần thiết, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của bản thân ngành công
nghiệp ôtô mà còn cần có sự quan tâm, định hƣớng đúng đắn của Đảng, Nhà
nƣớc và sự hỗ trợ từ các ngành sản xuất khác. Ngành ôtô cũng là một trong 6
ngành đƣợc Chính phủ Việt Nam lựa chọn là ngành công nghiệp chiến lƣợc với
đầy đủ các tiêu chí chính nhƣ: (i) có tác động về lƣơng (tăng sản lƣợng, tăng
trƣởng xuất khẩu, tạo việc làm,…), (ii) có tác động về chất (nâng cao năng
suất, chuyển giao công nghệ, nâng cấp cấu trúc ngành – năng lực cạnh tranh
quốc tế), (iii) có tiềm năng mở rộng sự liên kết (Input/Output, chuỗi cung ứng,
chuỗi giá trị toàn cầu, tăng cƣờng các cụm công nghiệp trong nƣớc). Điều này
đã cho thấy tầm quan trọng của ngành công nghiệp ôtô đã đƣợc chính phủ Việt
Nam nhìn nhận từ sớm và có tầm nhìn xa.
3.1.2. Một số vấn đề cơ bản về ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
Sau quãng thời gian 25 năm, chƣa đủ dài những cũng không phải ngắn,
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam cũng đã quy tụ đƣợc một số tập đoàn ôtô lớn
trên thế giới nhƣ Ford, Mercedes, Toyota… và cũng đã thu hút đƣợc 18 doanh
nghiệp FDI và hình thành lên 38 doanh nghiệp trong nƣớc tham gia sản xuất
với năng lực khoảng 460 nghìn xe/năm, bao gồm đầy đủ các chủng loại xe con,
xe tải, xe khách… Và ở mức độ nào đó cũng đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu ô-
tô trong nƣớc theo mục tiêu đề ra mới chỉ về mặt số lƣợng [2]. Sự phát triển
47
ngành công nghiệp ôtô ở Việt Nam đã có tác động lan tỏa kéo theo sự phát
triển của hàng loạt ngành công nghiệp khác [4], đồng thời cũng đã giải quyết
công ăn việc làm cho khoảng 80 nghìn lao động, đóng góp đáng kể cho ngân
sách nhà nƣớc (bình quân khoảng hơn một tỷ USD/năm - chỉ tính riêng các
khoản thuế) [2].
Tuy nhiên, sau gần 25 năm hoạt động, ngành công nghiệp ôtô của Việt
Nam đang đứng trƣớc nhiều khó khăn và thách thức nhƣ sức mua còn rất
thấp, số lƣợng nhà sản xuất trở lên quá lớn đối với một thị trƣờng không lớn,
các ngành công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém, công nghiệp ôtô mới chỉ ở mức
lắp ráp đơn giản. Đánh giá của Bộ Công Thƣơng (2014) cho thấy, các tiêu chí
đề ra trong quy hoạch ngành công nghiệp ôtô Việt Nam từ trƣớc tới nay, chỉ
đạt duy nhất một mục tiêu xuất khẩu linh kiện, phụ tùng, còn lại tất cả các
mục tiêu khác từ sản lƣợng xe đến tỷ lệ nội địa hóa... đều không đạt. Đây là
một thực tế, hiện nay nhiều nhà đầu tƣ vào ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
không còn chú trọng vào phát triển sản xuất, mà chuyển sang giới thiệu và
cung cấp các dòng xe nhập khẩu cho thị trƣờng với nhiều lợi thế cạnh tranh
về giá cả và mẫu mã sản phẩm. Trong số các doanh nghiệp trong ngành hiện
nay, duy chỉ có liên doanh Toyota có nỗ lực nâng cao tỷ lệ nội địa hóa thông
qua việc kêu gọi các công ty trong nƣớc cùng phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Các doanh nghiệp khác hầu nhƣ chƣa đầu tƣ hoàn chỉnh vào chế tạo các bộ
phận quan trọng của ôtô nhƣ động cơ, hộp số và hệ thống truyền động. Các
doanh nghiệp này chủ yếu mới chỉ dừng ở việc lắp ráp ôtô dạng CKD, trình
độ công nghệ sản xuất, lắp ráp gần giống nhau, tỷ lệ sản xuất trong nƣớc đạt
thấp, chủ yếu là sơn, hàn, lắp ráp và kiểm tra. Có thể nêu ra một số vấn đề về
thực trạng hiện nay của ngành công nghiệp ôtô nhƣ sau:
3.1.2.1. Thị trường nhỏ hẹp và không tương xứng với quy mô đầu tư
Hiện nay, công xƣởng sản xuất ôtô của thể giới vẫn nằm trên 3 khu vực
truyền thống với nền công nghiệp ôtô đƣợc ra đời từ rất sớm là Bắc Mĩ, Tây
48
Âu và Đông Á. Trong khi Tây Âu với nhà sản xuất lớn nhất là Đức, là nơi đầu
tiên đƣa ôtô vào sản xuất hàng loạt ngay từ những năm cuối thế kỉ 19. Bắc
Mỹ với đại diện là Hoa Kì, là nơi chứng kiến ngành công nghiệp ôtô lên ngôi
với những mẫu xe bình dân giá rẻ và bắt đầu đƣợc sản xuất hàng loạt của Ford
từ năm 1910. Trong khi đó, các quốc gia Đông Á mà đi đầu là Nhật Bản bắt
đầu nổi lên từ năm 1960, dần trở thành khu vực sản xuất ôtô lớn nhất thế giới
với vƣơn lên của Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan…
So với các các quốc gia trên thế giới, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
ra đời khá muộn. Công nghiệp ôtô Việt Nam ra đời sau từ 40 - 50 năm so với
các nƣớc trong khu vực nhƣ Thái Lan và Malaysia, cả 100 năm so với các
nƣớc có nền công nghiệp ôtô phát triển nhƣ Đức, Mỹ. Sau quá trình đổi mới,
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển
của ngành ôtô, đƣa ôtô trở thành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa. Sau hơn 25 phát triển, thị trƣờng Việt Nam đang là sân chơi của
nhiều thƣơng hiệu nổi tiếng thế giới nhƣ Toyota, Honda, Fords, GM… và cả
những doanh nghiệp nội địa nhƣ Trƣờng Hải, TMT, Vinaxuki với doanh số
bán hàng đạt gần 120,000 xe các loại mỗi năm.
Bảng 3.1. Sản lƣợng tiêu thụ ôtô một số quốc gia trên thế giới
Đơn vị: triệu chiếc
1990-99 2000-10 2011 2012 2013
Tổng 39,2 50,71 60,8 64,98 68,69 Sơ bộ 2014 72,21
Bắc Mỹ Canada Hoa Kỳ Mexico 16,36 1,27 14,55 0,54 17,97 1,59 15,4 0,98 15,22 1,59 12,73 0,9 17,11 1,68 14,44 0,99 18,33 1,74 15,53 1,06 19,37 1,79 16,5 1,08
Tây Âu
CHLB Đức 13,11 3,57 14,26 3,3 12,8 3,17 11,76 3,08 11,55 2,95 12,25 3,07
Đông Âu 1,18 2,75 3,9 4,14 4,08 3,81
49
Nga 0,78 1,56 2,56 2,93 2,78 2,36
Châu Á
Trung Quốc Ấn Độ 6,91 0,43 0,31 13,05 4,51 0,98 24,41 12,16 1,95 27,25 13,18 2,02 29,98 16,3 1,87 32,48 18,36 1,89
Nam Mỹ Brazil 1,64 0,94 2,68 1,67 4,47 2,64 4,72 2,84 4,75 2,76 4,3 2,61
Việt Nam - - 0,14 0,09 0,11 0,13
Nguồn: www.oica.net
Theo bảng 3.1 cho thấy sức tiêu thụ xe ôtô của thị trƣờng Việt Nam là
quá nhỏ bé so với thế giới. Tính đến năm 2015, Việt Nam có hơn 90 triệu dân,
trong đó tỷ lệ sở hữu xe hơi chỉ chiếm 1.85%, ông Gaurav Gupta – Tổng Giám
đốc điều hành General Motors Việt Nam cho biết. Nếu tính theo tỉ lệ hộ gia
đình sở hữu xe ôtô ở Việt Nam chỉ khoảng trên dƣới 10%, con số này ở
Philipine là 53%, Indonesia là 54% và Malaysia là 93%. Điều này cho thấy thị
trƣờng ôtô tại Việt Nam còn đang quá nhỏ hẹp. Nhìn theo hƣớng tích cực thì
điều đó cũng có nghĩa là khoảng trống còn rất lớn, có nhiều cơ hội cho sự phát
triển.
Theo thống kê của Tổ chức quốc tế các nhà sản xuất ôtô (OICA), năm
2013 Việt Nam đã xuất xƣởng tổng cộng 40,902 xe ôtô, tƣơng đƣơng khoảng
0.04% lƣợng xe sản xuất trên toàn thế giới trong cùng năm. Số lƣợng xe sản
xuất trong năm 2013 của 5 nƣớc sản xuất ôtô hàng đầu thế giới là Trung
Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đức và Hàn Quốc chiếm lần lƣợt 25%, 12%, 11%,
6.6% và 5.2% sản lƣợng toàn thế giới. Nhƣ vậy, có thể thấy ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam là tí hon giữa những ngƣời khổng lồ đến từ các quốc gia
có lịch sử nền công nghiệp ôtô lâu đời.
Trong khu vực Đông Nam Á, sản lƣợng xe ôtô của Việt Nam cũng thấp
hơn rất nhiều so với các nƣớc nhƣ Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Trong
năm 2013, trong khi Việt Nam vẫn khiêm tốn với sản lƣợng khoản 40,000
50
chiếc ôtô, Thái Lan đã nằm trong Top 10 quốc gia sản xuất ôtô nhiều nhất
trên thế giới vào năm 2013 với gần 2.5 triệu chiếc và cũng tiếp tục đứng trong
Top 10 quốc gia xuất khẩu ôtô trên toàn cầu đến năm 2015. Indonesia cũng
3000000
2500000
2012
2013
2000000
1500000
1000000
500000
0
Thái Lan
Malaysia
Indonesia
Philippines
Việt Nam
vƣơn lên mạnh mẽ trong năm 2013, đạt sản lƣợng hơn 1.2 triệu chiếc.
Hình 3.1. Sản lƣợng ôtô các nƣớc Đông Nam Á giai đoạn 2012 – 2013
Nguồn: www.oica.net
Tóm lại, có thể kết luận thị trƣờng ôtô ở Việt Nam là cực kỳ bé so với
thế giới và khu vực về cả sức mua và khả năng sản xuất trong khi đó có đến
18 doanh nghiệp FDI vùng gần 40 doanh nghiệp trong nƣớc đầu tƣ sản xuất,
lắp ráp. Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đang là một trƣờng hợp của hiện
tƣợng số lƣợng nhà sản xuất quá lớn trong một thị trƣờng không lớn. Điều đó
cho thấy có những vẫn đề đáng suy ngẫm.
3.1.2.2. Cơ cấu thị phần tập trung và tiêu thụ ôtô có chiều hướng thuận
lợi
Quy mô so với các nƣớc trên thế giới và khu vực ASEAN thì ngành ôtô
Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn nhƣng những gì đạt đƣợc trong những năm
51
gần đây cho chúng ta có thể hy vọng rằng ngành ôtô Việt Nam vẫn còn nhiều
dự địa để phát triển.
Theo hoạt động kinh doanh chính, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
đƣợc chia làm 2 bộ phận là sản xuất và phân phối. Thực tế, các doanh nghiệp
có hoạt động sản xuất cũng có kênh phân phối riêng nhƣ Trƣờng Hải, TMT,
Toyota… Trong khi đó, các doanh nghiệp phân phối chủ yếu làm đại lí cho
các hãng xe liên doanh nhƣ Toyota, Ford… hoặc nhập khẩu và phân phối xe
nguyên chiếc của các hãng lớn. Các doanh nghiệp đặc trƣng có thể kể đến
Hoàng Huy Group (chuyên phân phối xe tải Dongfeng Trung Quốc), Công ty
Cổ phần ôtô Vĩnh Thịnh (đại lí cho nhiều hãng xe), Công ty Cổ phần Dịch vụ
ôtô Hàng Xanh (đại lí Mercedes).
Theo nguồn gốc xe, có thể chia thị trƣờng trong nƣớc thành 2 phân
khúc là xe lắp ráp trong nƣớc và xe nhập khẩu nguyên chiếc. Xu hƣớng ƣa
chuộng xe nhập khẩu đƣợc thể hiện rõ qua sự tăng trƣởng thị phần của phân
khúc xe nhập khẩu (hình 3.2). Riêng trong năm 2015, số lƣợng xe lắp ráp
trong nƣớc đạt 173.040 xe, thể hiện sự lạc quan với sản xuất trong nƣớc khi
sản lƣợng tăng 48% so với năm trƣớc, nhƣng đồng thời số lƣợng xe nhập
khẩu cũng tăng nhanh chóng – tăng 74% so với năm trƣớc, đạt 71.874 xe. Sự
tăng trƣởng của dòng xe nhập khẩu là áp đảo hoàn toàn sự tăng trƣởng của
dòng xe sản xuất trong nƣớc, đã phản ánh xu hƣớng chuộng xe nhập khẩu của
ngƣời tiêu dùng nội địa. Mặt khác, sự cạnh tranh giá giữa ôtô nhập khẩu
nguyên chiếc và ôtô lắp ráp trong nƣớc càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết
khi thuế nhập khẩu của các dòng xe đến từ các nƣớc ASEAN hay các Hiệp
định thƣơng mại mà Việt Nam tham gia đang trên lộ trình tiến về 0 năm 2018,
lợi thế về giá của xe sản xuất trong nƣớc đang mất dần.
52
100%
90%
23.5
26.2
36
38.6
80%
70%
60%
50%
40%
76.5
73.8
64
61.4
30%
20%
10%
0%
2012
2013
2014
2015
Xe lắp ráp trong nƣớc
Xe nhập khẩu nguyên chiếc
Hình 3.2. Tỷ trọng ôtô lắp ráp trong nƣớc và ôtô nhập khẩu nguyên chiếc
trên thị trƣờng trong một số năm gần đây
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê 2012, 2014 và Tổng cục Hải quan
Theo mục đích sử dụng, thị trƣờng Việt Nam đƣợc chia làm 2 phân
khúc là xe thƣơng mại (Commercial Vehicles - CV) và xe du lịch (Passenger
Cars - PC). Xe thƣơng mại, đặc trƣng bởi các dòng xe tải, xe bus với mục
đích sử dụng chính là chuyên chở ngƣời và hàng hóa. Mặc dù ít đƣợc nói đến,
tuy nhiên đây là một phân khúc cực kì quan trọng. Các thƣơng hiệu lớn là
THACO, Cửu Long (TMT), Vinaxuki, Isuzu hay các dòng xe nhập khẩu nhƣ
Dongfeng, SINO… Ngƣợc lại, xe du lịch, với các dòng xe con từ 4-9 chỗ,
đƣợc nhắc đến rất nhiều trong thời gian qua. Đây là một phân khúc có sự
tham gia của rất nhiều nhà sản xuất lớn và có thƣơng hiệu mạnh nhƣ Toyota,
Ford, Honda, KIA, Mazda... Theo chiều hƣớng gia tăng số lƣợng xe qua một
số năm gần đây cho thấy, xe du lịch với mục đích sử dụng chủ yếu cho cá
nhân và gia đình tăng nhanh chóng (hình 3.3), thể hiện nhu cầu sử dụng ôtô
trong dân chúng đang thay đổi rõ rệt. Ôtô hiện đang dần dần đƣợc xóa đi hình
53
ảnh của một phƣơng tiện xa xỉ, chỉ dành cho mục đích thƣơng mại, và đã trở
250000
200000
thành một phƣơng tiện giao thông phổ biến hơn.
89327
150000
51408
100000
66130
143392
44389
50000
100439
57079
35505 0 2012
2013
2014
2015
Xe du lịch (PC)
Xe thƣơng mại (CV)
Hình 3.3. Doanh số bán xe ôtô du lịch và xe ôtô thƣơng mại trên thị
trƣờng trong một số năm gần đây
Nguồn: VAMA
Riêng trong năm 2015, số lƣợng xe du lịch VAMA đã bán đƣợc tăng
44%, xe thƣơng mại tăng đến 74% so với năm 2014, bình quân chung tốc độ
tăng trƣởng là 55% (năm 2014 đạt 43%) so với năm trƣớc. Nhìn vào bảng số
liệu này có thể thấy năm 2015 là một năm bội thu cho các hãng xe. Việc hệ
thống giao thông ngày đƣợc mở rộng, lãi xuất vay mua xe thấp, cùng với đó
sự đa dạng mẫu xe trong các phân khúc giá dƣới 01 tỉ đồng là một trong
những nguyên nhân chính dẫn tới sự tăng trƣởng đột biến này, chƣa kể đến
năm qua ngƣời mua xe để kinh doanh (cho thuê, kinh doanh Taxi, Uber,
Grab) cũng tăng vọt.
Theo nghiên cứu của FT Confidential Research thuộc Financial Times,
Việt Nam hiện chiếm 6,8% doanh số bán ôtô trong khu vực “ASEAN 5” bao
54
gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Thái Lan và có thể đạt
mức 10% trong năm 2016, cao gấp 5 lần so với mức 2% của năm 2012. “Việt
Nam hiện vẫn là nƣớc nghèo thuộc khu vực Đông Nam Á, bên cạnh 3 quốc
gia khác là Myanmar, Campuchia và Lào. Mặc dù vậy, với dân số 90 triệu
ngƣời và là một trong những nền kinh tế phát triển năng động nhất khu vực
ASEAN, Việt Nam đang ngày càng trở thành thị trƣờng tiêu thụ ôtô hấp dẫn”
Financial Time (2015) đánh giá.
Nhƣ vậy, qua sự tổng hợp và phân tích một số diễn biến và tình trạng
tiêu biểu, có thể thấy có một sự lạc quan cho tƣơng lai mở rộng thị trƣờng ôtô
của Việt Nam. Mặc dù có thể sự xâm nhập của ôtô nhập khẩu sẽ lấn át ôtô sản
xuất trong nƣớc, nhƣng theo cơ chế thị trƣờng, sự tăng trƣởng quy mô thị
trƣờng, đa dạng hóa sản phẩm với các phân khúc thị trƣờng khác nhau và sự
cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác động tích cực tạo ra nhiều cơ hội cho ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam.
3.1.2.3. Ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển
Sau hơn 20 năm xây dựng, tổng quan nhìn lại có thể nói rằng bƣớc đầu
Việt Nam đã có đƣợc ngành công nghiệp “lắp ráp ôtô”. Chúng ta đã hình
thành đƣợc một ngành công nghiệp hỗ trợ cung cấp phụ tùng cho sản xuất, lắp
ráp ôtô trong nƣớc. Sau một thời gian không ngắn nhƣng cũng chƣa dài thực
hiện các chiến lƣợc quy hoạch phát triển ngành ôtô, các doanh nghiệp Việt
Nam đã dần dần tích lũy đƣợc một số kinh nghiệm và mạnh dạn đứng độc lập
trong lắp ráp và sản xuất phụ tùng, linh kiện ôtô. Đây có thể coi là “tiền đề
quan trọng” cho việc xây dựng và phát triển ngành sản xuất ôtô trong tƣơng
lai theo định hƣớng và quy hoạch của chính phủ. [4]
Tuy nhiên, thực tế để ngành công nghiệp ôtô phát triển theo những kế
hoạch đã định quả thật cũng không phải đễ thực hiện trong một sớm một
chiều. Sau nhiều năm quy hoạch và thực hiện các chính sách hỗ trợ nhƣ vậy,
55
đánh giá chung Việt Nam đã có đƣợc ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng
ôtô những vẫn ở mức độ chƣa đáng kể. Ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành
ôtô vẫn kém phát triển cả về số lƣợng, năng lực các công ty trong ngành, số
lƣợng chủng loại và chất lƣợng sản phẩm, cũng nhƣ khả năng cung cấp. Theo
thông kê gần đây, số lƣợng các nhà cung cấp chỉ khoảng 60 công ty, trong đó
gần 30 công ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài [10]. Cũng từ đó mà chƣa có ngành
công nghiệp ôtô của ngƣời Việt Nam theo đúng nghĩa của nó.
Phần lớn linh kiện sản xuất trong nƣớc đều ở dạng công nghệ đơn giản,
giá trị thấp, chủ yếu dùng cho xe tải và xe khách. Đó là các chi tiết cấu thành
khung gầm xe, thùng xe, vỏ cabin - cửa xe, săm lốp, gƣơng, kính, ghế ngồi,
bộ dây điện, dây phanh, ắc quy, hộp số, ống xả, trục dẫn, vành bánh xe, nhíp,
ruột két nƣớc, bộ tản nhiệt, vô lăng, các chi tiết composit… Các linh kiện, phụ
tùng cốt lõi (thân, hộp số động cơ…) hầu hết đều phải nhập khẩu. Có tới 80%
đến 90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện nhƣ thép hợp kim, hợp kim
nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện vẫn phải nhập khẩu. Vật liệu làm
khuôn mẫu chủ yếu cũng phải nhập khẩu. Các nhà sản xuất khuôn mẫu hoặc
có quy mô không lớn hoặc thiếu sự liên kết phối hợp để phát triển. Các doanh
nghiệp sản xuất phôi và chi tiết đúc cho ngành chƣa nhiều và tỉ lệ sai hỏng
còn cao, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngành. Hàng năm, các doanh nghiệp
phải nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản
xuất lắp ráp và sửa chữa xe. Linh kiện, phụ tùng nhập khẩu có xuất xứ từ Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... [9]
Nhìn chung, những doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ này
chủ yếu thuộc loại vừa và nhỏ và chỉ sản xuất đƣợc một số ít chủng loại phụ
tùng đơn giản, có hàm lƣợng công nghệ thấp nhƣ gƣơng, kính, ghế ngồi, bộ
dây điện, ắc quy, sản phẩm nhựa…, một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tƣ
dây chuyền dập thân, vỏ xe. Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chƣa tạo đƣợc sự
56
hợp tác, liên kết và chuyên môn hoá với nhau giữa các khâu trong việc sản
xuất, lắp ráp ôtô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Và cũng chƣa hình thành
đƣợc hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô
lớn.
3.1.2.3. Tỷ lệ nội địa hóa còn quá thấp
Để làm chủ đƣợc sự phát triển bền vững của bất kỳ công nghiệp nào,
chính phủ các quốc gia cũng đều quan tâm đến việc gia tăng tỷ lệ nội địa hóa
của sản phẩm cuối cùng. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cũng đồng nghĩa với việc
thu hút và làm chủ công nghệ hiện đại vào Việt Nam, có sức cạnh tranh cao
trên thị trƣờng quốc tế, và góp phần giải quyết việc làm cho ngƣời lao động.
Đây cũng là một trong những tiêu chí trọng tâm trong Quy hoạch chiến lƣợc
phát triển ngành công nghiệp ôtô của chính phủ Việt Nam từ những ngày đầu
thành lập ngành. Tuy nhiên cho đến nay chỉ tiêu này vẫn là sự chƣa thành
công và “thất hứa” của tất cả các doanh nghiệp trong ngành ôtô Việt Nam.
Theo lộ trình, các nhà sản xuất ôtô trong nƣớc cần phải tăng dần tỷ lệ
nội địa hóa nhằm từng bƣớc phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam. Vậy nhƣng,
sự thật hiển nhiên là các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô đã không thực
hiện đúng các cam kết trong giấy phép đầu tƣ của mình là tăng tỷ lệ nội địa
hóa lên 40% vào năm 2005 và đến 60% vào năm 2010. Với sự “thất hứa” này
nên tính đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm của các doanh
nghiệp ôtô ở Việt Nam chỉ đạt từ 2 đến 12%. Một điều đáng ghi nhận từ sự cố
gắng của Công ty Cổ phần ôtô Trƣờng Hải (Thaco) khi vƣợt khó cùng với
quyết tâm để có một sản phẩm mang thƣơng hiệu “Made in Vietnam” thì
cũng mới đạt tỷ lệ nội địa hóa bình quân từ 15 đến 18% đối với xe con và
khoảng 33% đối với xe tải nhẹ [2]. Mục tiêu Quy hoạch đặt ra tỷ lệ sản xuất
trong nƣớc đối với động cơ và hộp số là 50 - 90% vào năm 2010, tuy nhiên
đến nay vẫn chƣa sản xuất đƣợc. Một khoảng cách chênh lệch không tƣởng
57
cho một chỉ tiêu của ngành đƣợc nhiều sự quan tâm của Chính phủ đến vậy.
Và việc nội địa hóa lại chỉ dừng lại ở các công đoạn giản đơn trong quy trình
sản xuất và lắp ráp (sử dụng các linh kiện nội địa có giá trị thấp nhƣ săm, lốp,
ắc-quy, dây điện, ghế...). Để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cần phải phát triển
công nghiệp hỗ trợ (CNHT). Sự yếu kém của CNHT trong ngành sản xuất ôtô
đang là trở lực lớn để có thể nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của ngành công nghiệp
non trẻ này.
Theo tính toán, một doanh nghiệp ôtô phải cần tối thiểu 20 nhà cung
cấp các loại linh kiện khác nhau. Nhƣng cho đến nay chƣa doanh nghiệp lắp
ráp ôtô nào tại Việt Nam có đƣợc 20 nhà cung cấp linh kiện trong nƣớc. Ngay
cả những liên doanh ôtô tên tuổi nhƣ Toyota, Ford... có hệ thống các nhà cung
cấp linh kiện lớn cũng chƣa lôi kéo đƣợc nhiều doanh nghiệp đầu tƣ vào Việt
Nam. Trên thực tế, thời gian qua, các doanh nghiệp lắp ráp ôtô chỉ có 2 - 3
nhà cung cấp linh kiện trong nƣớc. Do vậy, nhiều doanh nghiệp phải phụ
thuộc vào nguồn linh kiện nhập khẩu. Ngay nhƣ Toyota, năm 2005 nhập khẩu
linh kiện trị giá 460 triệu USD trong khi giá trị linh kiện sản xuất trong nƣớc
chỉ đạt 2,3 triệu USD.
Tính đến tháng 4 năm 2012, Việt Nam có 33 công ty doanh nghiệp hỗ
trợ cấp 1 và 181 công ty cấp 2. Trong khi tại Thái Lan, số doanh nghiệp hỗ trợ
cấp 1 là 709 với 354 công ty của Thái Lan và 355 công ty có yếu tố nƣớc
ngoài. Số nhà cung cấp cấp 2, 3 và thấp hơn nữa của ngành công nghiệp ôtô
Thái Lan là hơn 1.100 doanh nghiệp địa phƣơng. Số lƣợng doanh nghiệp
trong chuỗi sản xuất ôtô của Malaysia và Indonesia cũng lớn hơn nhiều so với
tại Việt Nam, tại Malaysia là khoảng 280 nhà cung cấp cấp 1, 200 nhà cung
cấp cấp 2 và tại Indonesia thì có 166 nhà cung cấp cấp 1 cùng với 336 nhà
cung cấp cấp 2.
58
Theo IHS Inc. (2014), Thái Lan chỉ có 16 nhà sản xuất lắp ráp ôtô,
Malaysia có 13 và Indonesia chỉ có 12 nhà sản xuất. Với cơ cấu sản xuất cân
đối nhƣ vậy, các doanh nghiệp của Thái Lan, Indonesia, Malaysia có tỉ lệ nội
100%
80%
60%
Nội địa
40%
Nhập khẩu
20%
0%
Thái Lan
Indonesia
Malaysia
Việt Nam
địa hóa ngành ôtô rất cao so với Việt Nam.
Hình 3.4. Tỷ lệ nội địa hóa ngành ôtô của các nƣớc Đông Nam Á
Nguồn: www.ihs.com
Sở dĩ công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam không phát triển đƣợc có nhiều
nguyên do, một trong số đó mà một số nhà đầu tƣ đƣa ra là dung lƣợng thị
trƣờng ôtô của Việt Nam quá nhỏ bé. Vì nhỏ bé nên các nhà đầu tƣ không
muốn lao vào sản xuất linh kiện hỗ trợ cung cấp cho các doanh nghiệp trong
nƣớc. Họ lại càng không thể mơ đến việc cạnh tranh Trung Quốc, Thái Lan,
Đài Loan... trong việc xuất khẩu linh kiện ôtô. Thái Lan có tới trên 1.500
doanh nghiệp hỗ trợ. Với tỷ lệ nội địa hóa đạt tới 70% - 80%. Đài Loan cũng
có khoảng trên 2.000 nhà đầu tƣ sản xuất linh kiện phụ tùng thay thế. Để đạt
đƣợc chỉ tiêu đã đề ra từ hơn 15 năm trƣớc (năm 2010) thì có lẽ Việt Nam vẫn
cần nhiều năm nữa để tìm đƣợc con đƣờng đi đúng hƣớng.
Các dữ liệu trên khách quan cho thấy ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
cực kì nhỏ bé và yếu kém, không chỉ so với các trung tâm sản xuất lớn của thế
59
giới mà còn so với các quốc gia trong khu vực. Ngành công nghiệp sản xuất –
lắp ráp ôtô quy mô nhỏ, sản lƣợng cầm chừng, phần lớn thị phần vẫn đang
thuộc về xe nhập khẩu. Để lý giải điều này cũng đã có nhiều nguyên nhân
đƣợc nghiên cứu. Một trong số những nguyên nhân đó là sự sinh sau đẻ muộn
của ngành ôtô Việt Nam là một bất lợi không thể chối bỏ. So với các nƣớc
hàng đầu trong ngành đã có lịch sử phát triển ngành sớm hơn đến hơn cả 100
năm, các nƣớc trong khu vực cũng sớm hơn đến 40 – 50 năm, và đặc biệt,
xuất phát điểm của Việt Nam là thấp bởi vốn là một nƣớc thuần nông nghiệp
lại vừa bƣớc qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt, thì việc Việt Nam phát triển
ngành ôtô chỉ đƣợc nhƣ hiện tại cũng có cơ sở khách quan. Tuy nhiên, bên
cạnh đó nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến “sự chƣa thành” của ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam cần xem xét đó là các chính sách của Chính phủ,
mà cụ thể ở đây là các chính sách hỗ trợ.
3.2. Thực trạng áp dụng chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chính phủ đã đƣa ra nhiều chính sách, biện pháp để xây dựng và phát
triển ngành ôtô Việt Nam. Nói cách khác, những thành tựu cũng nhƣ hạn chế
của ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam hiện nay chịu ảnh hƣởng khá lớn từ
các chính sách của chính phủ. Nghiên cứu này xem xét các chính sách hỗ trợ
cho ngành công nghiệp ôtô và sự ảnh hƣởng của chúng đối với ngành.
3.2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính và thuế
Ôtô là một ngành công nghiệp phức tạp, việc xây dựng thƣơng hiệu và
thị trƣờng đòi hỏi thời gian lâu dài, thông thƣờng đƣợc cho là không dƣới 20
năm. Với thị trƣờng nhỏ nhƣ Việt Nam, các liên doanh ôtô tập trung vào lắp
ráp hơn là sản xuất chế tạo. Với mong muốn góp phần thúc đẩy sự phát triển
của ngành ôtô, Chính phủ đã dành cho ngành công nghiệp ôtô nhiều chính
sách ƣu đãi đặc biệt về thuế và tài chính.
60
Theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành và có hiệu lực ngày
20/05/1998, xe ôtô con dƣới 24 chỗ ngồi nằm trong danh mục hàng hóa chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất từ 100-30%. Trong đó đáng chú ý thuế tiêu
thụ đặc biệt áp dụng cho ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là 100% trong khi ôtô
sản xuất lắp ráp trong nƣớc đƣợc giảm tới 95%, chỉ chịu thuế 5%. Với luật
này, Chính phủ đã bảo hộ ngành sản xuất ôtô trong nƣớc một cách mạnh mẽ.
Cũng trong thời gian này, tuỳ thuộc vào từng dự án đầu tƣ và địa bàn đầu tƣ,
các liên doanh lắp ráp ôtô hiện đang đƣợc áp dụng thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp ƣu đãi mức 15% hoặc 20% (thuế suất chung là 25%), đồng thời
đƣợc miễn thuế đến 4 năm và giảm 50% số thuế đến 8 năm kể từ khi kinh
doanh có lãi. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt cùng với các chính sách ƣu đãi về
thuế doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mới thành lập và các doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thì đây là thời điểm rất thuận lợi để các doanh
nghiệp sản xuất ôtô đầu tƣ, phát triển và có thể cạnh tranh với các sản phẩm
ôtô cùng loại nhập khẩu vào thị trƣờng Việt Nam trong cùng thời điểm.
Đến năm 2004, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đƣợc sửa đổi, bổ sung một
số điều cho các loại xe dƣới 24 chỗ ngồi giảm suất từ 85-25% (so với luật
năm 1998 là 100-30%). Các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nƣớc vẫn đƣợc
xét giảm mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt theo lộ trình: giảm 70% (năm 2004),
giảm 50% (năm 2005), giảm 30% (năm 2006), đến năm 2007 nộp đúng thuế
suất theo quy định. Nhƣ vậy, các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện, lắp ráp
ôtô có 3 năm để chuẩn bị cho việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt để đến năm
2007, khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngang bằng với thuế suất tiêu thụ đặc
biệt cho ôtô nhập khẩu nguyên chiếc. Thực tế việc giảm dần mức ƣu đãi về
thuế tiêu thụ đặc biệt đã đƣợc báo cho các doanh nghiệp trƣớc đó 5 năm và
đƣợc gia hạn thêm cho đến năm 2007. Đây là một quãng thời gian đủ dài để
các doanh nghiệp có các điều chỉnh cần thiết để từng bƣớc đổi mới công
61
nghệ, giảm thiểu chi phí sản xuất trƣớc khi nhà nƣớc rút dần “chiếc phao” ƣu
đãi này. Tiếp đó, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt mới đƣợc Quốc hội khóa XII đã
thông qua vào năm 2008. Theo luật này, các loại xe dƣới 24 chỗ đều giảm
thuế tiêu thụ đặc biệt còn từ 60-10% cho tất cả các loại xe nhập khẩu hay sản
xuất trong nƣớc. Rõ ràng luật này đã tạo ƣu đãi rất lớn về tài chính cho các
doanh nghiệp ngành công nghiệp sản xuất ôtô trong nƣớc và công nghiệp hỗ
trợ ôtô, trong bối cảnh sản xuất ôtô và công nghiệp hỗ trợ còn rất non yếu.
Theo Luật Thuế giá trị gia tăng ban hành năm 1997, ôtô là mặt hàng đã
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nên không phải nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) ở
khâu sản xuất và nhập khẩu. Luật Thuế giá trị gia tăng ban hành ngày
3/6/2008 quy định ôtô là mặt hàng chịu thuế giá trị gia tăng 10%. Nhƣ vậy, ở
thời điểm này ôtô đã đồng thời chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và chịu thêm thuế
VAT 10%. Sự chồng thuế này không chỉ ảnh hƣởng đến các doanh nghiệp sản
xuất linh phụ kiện, lắp ráp ôtô trong nƣớc mà còn ảnh hƣởng đến các doanh
nghiệp nhập khẩu ôtô của Việt Nam. Giá xe ôtô tại thị trƣờng trong nƣớc tăng
đột biến khiến sức mua thị trƣờng bị sụt giảm. Riêng đối với các doanh
nghiệp sản xuất linh phụ kiện, lắp ráp ôtô, Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật
Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2004 cùng lúc khiến cho mức chịu thuế cho các
dòng xe dƣới 24 chỗ tăng vọt, kéo theo giá xe ôtô lắp ráp trong nƣớc cũng
tăng mạnh.
Trong giai đoạn 1995 – 2005, các doanh nghiệp lắp ráp ôtô còn đƣợc
hƣởng lợi từ các chính sách thuế nhập khẩu của Nhà nƣớc dành riêng cho
ngành ôtô, đối với loại xe ôtô 5 chỗ ngồi trở xuống, thuế nhập khẩu đối với xe
nguyên chiếc là 100%, trong khi bộ linh kiện CKD2 chỉ phải chịu thuế 20%
và IKD là 5%. Thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc trong giai đoạn 2005 - 2010
diễn biến thất thƣờng, tuy vậy đến năm 2010 biểu thuế dần giảm theo lộ trình
tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc đến năm 2018.
62
Thuế nhập khẩu linh kiện bộ CKD, IKD từ những năm 1991-2001 đã
luôn ở mức thấp từ 3-25%. Đây là giai đoạn Nhà nƣớc có những chính sách
bảo hộ mạnh cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô mới hình thành. So với nhập khẩu
xe nguyên chiếc chịu thuế 100-60%, với các chính sách thuế này, các doanh
nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô đã nhập khẩu toàn bộ các bộ linh kiện, phụ tùng
ôtô với thuế suất chênh lệch rất lớn. Việc sản xuất xe lúc này chỉ là công đoạn
lắp ráp toàn bộ các bộ linh kiện đã nhập khẩu. Xét theo góc độ quay vòng vốn
trong đầu tƣ, Chính phủ đã giúp các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện và lắp
ráp ôtô hoạt động có lãi nhanh để có thể tái đầu tƣ, tiếp thu các công nghệ sản
xuất hiện đại của các hãng sản xuất ôtô nƣớc ngoài liên doanh và mở rộng sản
xuất.
Năm 2005, Bộ Tài chính ra Quyết định số 57/2005/QĐ-BTC của có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006 sửa đổi thuế suất thuế nhập khẩu ƣu đãi đối với
các mặt hàng linh kiện, phụ tùng ôtô theo hƣớng giảm từ các mức 30%, 20%
xuống còn 5%. Và đến ngày 01/01/2007 bãi bỏ thuế suất bộ linh kiện nhập
khẩu CKD và IKD. Quyết định này khiến các doanh nghiệp sản xuất linh phụ
kiện, lắp ráp ôtô chỉ nhập khẩu các linh kiện rời và các bộ linh kiện chƣa sản
xuất đƣợc trong nƣớc, có tác dụng kích thích đầu tƣ để tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Năm 2008, thuế nhập khẩu linh kiện ôtô liên tục thay đổi theo chiều
hƣớng tăng. Quyết định số 25/2008/QĐ-BTC đƣợc Bộ Tài chính ban hành
ngày 13/5/2008, tăng thuế nhập khẩu một số linh kiện, phụ tùng ôtô thêm 5-
10%. Đến ngày 12/6/2008, Bộ Tài chính tiếp tục ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-BTC tăng thuế suất nhập khẩu bộ phận xe chở ngƣời trừ loại
trên 10 chỗ ngồi đồng loạt lên 15%, thay cho các mức 3-5-10%. Đến ngày
27/2/2009, Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ số 38/2009/TT-BTC về việc điều
chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu ƣu đãi đối với linh kiện, phụ tùng ôtô
mức thuế suất nhập khẩu ƣu đãi đối với động cơ, hộp số, bộ ly hợp và bộ
63
phận… xuống mức thấp hơn mức trƣớc đó. Sau hàng loạt quyết định tăng
thuế trong năm 2008 đối với các loại linh kiện này, Bộ Tài chính đã có động
thái điều chỉnh giảm thuế đầu tiên vào năm 2009. Quyết định này của Bộ Tài
chính nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện và
lắp ráp ôtô trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Nhƣ vậy, thuế nhập khẩu linh
kiện tuy thể hiện nhiều sự ƣu đãi cho doanh nghiệp trong nƣớc, song thay đổi
liên tục, thiếu một lộ trình thay đổi rõ ràng đã gây khó khăn không nhỏ cho
các nhà sản xuất linh phụ kiện và lắp ráp ôtô trong việc đầu tƣ dài hạn và xây
dựng kế hoạch chiến lƣợc phát triển cho tổ chức.
Gần đây nhất, ngày 04/02/2016, Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Quyết định
số 229/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách thực hiện Chiến lƣợc phát triển ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và Quy
hoạch phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030. Theo đó, sẽ ƣu đãi thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án sản xuất
linh kiện, phụ tùng ôtô; dự án sản xuất, lắp ráp ôtô tại các khu công nghiệp,
khu kinh tế, khu công nghệ cao đƣợc hƣởng ƣu đãi về thuế nhập khẩu. Áp
dụng mức thuế nhập khẩu ƣu đãi MFN ở mức trần cam kết đối với các dòng
xe ƣu tiên và các dòng xe trong nƣớc đã sản xuất đƣợc; đối với các FTA khác
thực hiện theo đúng cam kết. Ƣu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho dự án
đầu tƣ sản xuất các dòng xe ƣu tiên có quy mô công suất trên 50.000 xe/năm
và dự án sản xuất các bộ phận động cơ, hộp số, cụm truyền động.
Ngoài ra, các DN lắp ráp ôtô còn đƣợc hƣởng lợi từ các chính sách ƣu
đãi khác: miễn trừ tiền thuê đất; máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập vào
để xây dựng nhà máy lắp ráp ôtô…
Nhƣ vậy, Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
sản xuất linh phụ kiện, lắp ráp ôtô nhằm mục đích giúp cho các doanh nghiệp
64
này giảm bớt khó khăn trong thời kỳ đầu sản xuất khi mà nhu cầu tiêu thụ ôtô
trong nƣớc còn thấp, doanh nghiệp có điều kiện để tái đầu tƣ nâng cao tỷ lệ
nội địa hoá, giảm giá bán phát triển để có thể mở rộng sản xuất và đầu tƣ dây
chuyền trang thiết bị. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất linh phụ
kiện và lắp ráp ôtô đã không tận dụng đƣợc lợi thế trong các thời điểm đó để
đầu tƣ sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Các doanh nghiệp liên doanh cũng không thực hiện đƣợc cam kết
về cơ cấu nội địa hóa nhƣ đã cam kết. Nhiều doanh nghiệp cam kết trong giấy
phép đầu tƣ sẽ đạt tỷ lệ nội địa hoá 30-40% sau 10 năm nhƣng đến nay sau
hơn 20 năm nhƣng hầu hết chƣa đạt đƣợc gì nhiều, vẫn tập trung chủ yếu vào
các công đoạn sản xuất đơn giản.
3.2.2. Chính sách thu hút đầu tư
Từ những ngày đầu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp ôtô nƣớc
nhà, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài để
tạo tiền đề phát triển đón đầu và lâu dài cho ngành ôtô. Ngành công nghiệp
ôtô đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ mà vào thởi điểm sơ khai các doanh nghiệp
nội địa không đủ sức tham gia vào ngành. Chính phủ đã thành lập các công ty
nhà nƣớc và chủ động mời các đối tác nƣớc ngoài đến thành lập các liên
doanh, nhƣ với các hãng xe phổ biến của thế giới nhƣ Toyota, Ford, GM,…
Các liên doanh này thực sự đã đem lại nhiều giá trị phát triển cho nền công
nghiệp ôtô Việt Nam. Đến nay, công nghiệp ôtô Việt Nam đã hình thành
đƣợc Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam – VAMA (Vietnam Automobile
Manufacturers Association) bao gồm 13 doanh nghiệp liên doanh và 06 doanh
nghiệp trong nƣớc có sức mạnh chi phối thị trƣờng và là chủ thể có thể tiếng
nói quan trọng đối với chính phủ về các chính sách liên quan đến ngành sản
xuất và thƣơng mại ôtô.
65
Việt Nam vẫn duy trì quan điểm coi ngành công nghiệp ôtô là ngành
công nghiệp rất quan trọng cần đƣợc ƣu tiên phát triển để góp phần phục vụ
có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng tiềm lực an
ninh, quốc phòng của đất nƣớc. Điều nay đƣợc thể hiện rõ trong bản “Quy
hoạch phát triển ngành công nghiệp ôtô đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020” và bản “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ôtô đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030” của Thủ tƣớng Chính phủ. Theo đó, Việt Nam đã và
đang tiếp tục có các chính sách ƣu đãi để thu hút đầu tƣ. Tuy nhiên các chính
sách này vẫn đang chủ yếu tập trung vào ƣu đãi về tài chính, thuế và ƣu đãi về
đất đai nhƣ giảm và gia hạn thời gian dài đối với thuế nhập khẩu linh phụ
kiện, VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, …, miễn trừ tiền thuê đất,… nhƣ đã
đƣợc phân tích trong nội dung trên. Các chính sách này sẽ chỉ có tác dụng hữu
hiệu trong thời gian nhất định do các ƣu thế sẽ dần bị mất đi trong quá trình
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng kinh tế quốc tế, tham gia các hiệp
định, thỏa ƣớc thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng, đặc biệt khi càng đến
gần các mốc lộ trình giảm thuế, bồng bộ hóa về mức ngang bằng với các đối
tác. Lúc đó nhân tố cần có để thu hút đầu tƣ vào ngành công nghiệp ôtô chính
là sự quan tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ, trình độ nhân lực và môi trƣờng
kinh doanh [25]. Trong khi đó, các chính sách thu hút đầu tƣ của Việt Nam
chƣa quan tâm đủ và tập trung vào phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, trình
độ nhân lực. Bên cạnh đó, các chính sách về chi phí, lệ phí đăng ký sử dụng
xe ôtô, biểu thuế tiêu thụ đặc biệt thay đổi thƣờng xuyên, khó dự đoán và
nhiều yếu tố chính sách khác khiến môi trƣờng kinh doanh ôtô ở Việt Nam
thiếu độ ổn định.
Đối với các nƣớc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, việc
thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ là một trong
những chính sách tối quan trọng cho phát triển ngành công nghiệp ôtô. Chính
66
phủ đã ban hành nhiều văn bản, nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp,
trong đó có công nghiệp hỗ trợ ngành ôtô. Các chính sách thu hút mới đang
tập trung chủ yếu ở các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tƣ tới các ƣu đãi cụ
thể cho đầu tƣ sản xuất linh kiện trong ngành lắp ráp ôtô. Tuy nhiên, chính
sách thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
còn tồn tại một số vƣớng mắc.
Thứ nhất, về lĩnh vực ƣu đãi đầu tƣ: Luật Đầu tƣ chƣa quy định công
nghiệp hỗ trợ nói chung hay công nghiệp hỗ trợ cho ngành ôtô nói riêng thuộc
lĩnh vực khuyến khích đầu tƣ. Điều này không tạo đƣợc sức thu hút các nhà
đầu tƣ tham gia vào lĩnh vực này. Để thực hiện khuyến khích đầu tƣ, cần phải
có sự điều chỉnh hoặc bổ sung lĩnh vực này vào danh mục khuyến khích đầu
tƣ.
Thứ hai, trong trƣờng hợp đƣợc bổ sung là lĩnh vực ƣu đãi đầu tƣ thì
các hình thức ƣu đãi cũng bộc lộ một số bất cập. Đó là các quy định ƣu đãi
đầu tƣ đƣa ra mức ƣu đãi chung cho tất cả các dự án thuộc lĩnh vực ƣu đãi.
Công nghiệp hỗ trợ ôtô bao gồm rất nhiều công đoạn, đòi hỏi sự đa dạng về
công nghệ và kỹ thuật nhƣng phải đảm bảo sự chuyên môn hóa và đồng bộ
hóa. Việc quy định chung nhƣ vậy không khuyến khích đầu tƣ vào công đoạn
có kỹ thuật cao hoặc lĩnh vực đem lại lợi thế cho Việt Nam.
Có thể điểm lại một số văn bản nhà nƣớc đã ban hành nhằm hỗ trợ phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ nói chung trong đó có ngành công nghiệp hỗ
trợ ngành ôtô. Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ
ngày 16/01/2009 về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng
điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục dự án đầu tƣ
sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn 2009 – 2015. Nghị định số
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và ban hành ngày
30/06/2009 nêu rõ các điều khoản về trợ giúp tài chính; ƣu đãi sử dụng mặt
67
bằng sản xuất, quỹ đất và xây dựng khu, cụm công nghiệp cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa dời xa nội thành, nội thị; hƣớng dẫn và hỗ trợ về đổi mới,
nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; định hƣớng và hỗ trợ xúc tiến
mở rộng thị trƣờng; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực theo kế hoạch phân bổ
ngân sách hàng năng của các Bộ, ngành, địa phƣơng. Tuy nhiên, Nghị định
hƣớng đến mặt bằng chung các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tác động của nó đến
ngành công nghiệp hỗ trợ là không đáng kể, không rõ ràng. Quyết định
49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt
danh mục công nghệ cao đƣợc ƣu tiên đầu tƣ phát triển và danh mục sản
phẩm công nghệ cao đƣợc khuyến khích phát triển. Quyết định 1483/QĐ-TTg
ngày 26/8/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành danh mục sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ ƣu tiên phát triển. Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày
24/2/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành
công nghiệp hỗ trợ.
Ngày 17/10/2012, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số
1556/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong lĩnh vực công nghệ hỗ trợ”. Đề án đề cập đến các nhóm giải pháp về
chính sách quy hoạch khu vực phát triển tập trung, thể chế hóa các ngành theo
từng phân cấp, hệ thống phân loại thống kê chung của Tổng cục Thống kê,
Ƣu đãi khuyến khích theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011
của Thủ tƣớng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp
hỗ trợ; Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 của Thủ tƣớng Chính
phủ về Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ƣu tiên phát triển và các văn
bản pháp luật liên quan, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc ƣu đãi, khuyến
khích các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, đề án này
không chỉ rõ ra tiến trình ƣu đãi, ƣu tiên cho từng nhóm ngành, từng tiểu
ngạch.
68
Mặc dù đã có nhiều văn bản thể hiện quan điểm và định hƣớng phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ của chính phủ, nhƣng với 02 vƣớng mắc ở trên
mà các chính sách mới chỉ đƣợc coi nhƣ khuyến khích xu hƣớng đầu tƣ để
hƣởng ƣu đãi. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu phát triển, để khắc phục tình
trạng thiếu vốn, cần phải khuyến khích các dự án quy mô vốn lớn vào công
nghiệp hỗ trợ ôtô. Những ƣu đãi chung không xét đến quy mô về vốn không
tạo động lực cho các nhà đầu tƣ tiến hành đầu tƣ lớn. Các chính sách thu hút
đầu tƣ nƣớc ngoài của Việt Nam đối với công nghiệp hỗ trợ ôtô hiện nay còn
rất sơ sài, chƣa thể hiện đƣợc sự quyết tâm phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ ôtô, cũng nhƣ chƣa thể là công cụ hữu hiệu khuyến khích sự phát triển của
ngành [3]. Các văn bản đƣợc ban hành nhƣng các cơ quan ban ngành dƣờng
nhƣ vẫn chƣa sẵn sàng cho các hành động thực tế giúp các doanh nghiệp đầu
tƣ công nghệ cao nằm trong các lĩnh vực đƣợc hỗ trợ đến gõ cửa xin hỗ trợ.
Điều này tác động không nhỏ đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Đặc biệt, khi lòng tin của doanh bị suy giảm, chủ trƣơng thu hút đầu
tƣ để nội địa hóa khó có thể thành công. [24]
3.2.3. Chính sách kích cầu thị trường
Thị trƣờng Việt Nam hiện nay vẫn coi ôtô là một mặt hàng xa xỉ với
giá thành cao kèm theo các chi phí khi sử dụng lớn. Ôtô trên thị trƣờng Việt
Nam nổi tiếng là giá cao hơn đáng kể so với các thị trƣờng trong khu vực và
trên thế giới, nguyên nhân là do các loại thuế, phí chồng gộp lên nhau đã nâng
giá thành và chi phí sử dụng ôtô lên rất cao. Cơ cấu giá thành xe tại Việt Nam
hiện nay gồm: thuế phí, chi phí sản xuất, nhập khẩu phụ tùng linh kiện. Theo
đó, riêng thuế phí đang chiếm tới 40%-50% làm cho giá thành xe tại Việt
Nam vào loại cao nhất khu vực và thế giới. Thống kê về giá của 11 chủng loại
xe cho thấy, giá tại Việt Nam đa phần ở mức cao nhất. Ở chủng loại xe
Camry, giá xe của Việt Nam cao hơn 36% so với Thái Lan và cao hơn 26% so
69
với Indonesia. Với dòng xe Yaris, giá xe Việt Nam cao hơn Thái Lan và
Indonesia lần lƣợt ở mức 124% và 81% [26]. Trong khi đó, Việt Nam hiện
vẫn là nƣớc nghèo thuộc khu vực Đông Nam Á, bên cạnh 03 quốc gia khác là
Myanmar, Campuchia và Lào, với thu nhập bình quân đầu ngƣời ở mức trung
bình thấp so với thế giới. Do đó, đối với ngƣời tiêu dùng nói chung, ôtô là
hàng hóa rất nhạy cảm về giá và các loại thuế phí.
Các chính sách kích cầu thị trƣờng ôtô Việt Nam cũng đang tập trụng
quanh việc thay đổi các biểu thuế phí từng thời kỳ phụ thuộc vào quan điểm
phát triển ngành và quản lý xã hội của chính phủ. Về cơ bản, có thể hiểu
chính sách thuế phí nói chung đối với mặt hàng ôtô đƣợc chia làm hai nhóm.
Trong đó, nhóm đầu tiên gồm các loại thuế đánh vào doanh nghiệp sản xuất
và phân phối nhƣ thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt hay giá trị gia tăng…
Nhóm thuế này sẽ thể hiện trực tiếp trên giá bán xe. Nhóm thứ hai chủ yếu
gồm các loại phí và lệ phí sử dụng thu trực tiếp trên chủ sở hữu và ngƣời sử
dụng phƣơng tiện. Tƣơng tự rất nhiều quốc gia trên thế giới, các sắc thuế phí
thuộc nhóm đầu tiên sẽ giảm dần trong khi các sắc thuế phí thuộc nhóm thứ
hai sẽ tăng lên. Khi hai nhóm này cùng lúc đƣợc điều chỉnh ở tỷ lệ cân bằng
nhau, tổng thu ngân sách nhà nƣớc từ thuế phí đối với mặt hàng này không có
nhiều thay đổi và nếu thay đổi thì sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ phƣơng tiện sử dụng
hằng ngày.
Tại Việt Nam, hiện các loại thuế phí thuộc nhóm thứ nhất đang ở mức
rất cao và bắt buộc phải cắt giảm theo lộ trình thuế quan đối với các tổ chức
quốc tế tham gia nhƣ WTO hay ASEAN. Trong khi đó, nếu tính từ năm 2009
trở về trƣớc, các loại thuế phí thuộc nhóm thứ hai ở mức rất thấp, thậm chí
ngƣời tiêu dùng không có cảm giác hiện hữu. Có nghĩa, mọi chủ sở hữu
phƣơng tiện đều phải mất tổng số tiền để sử dụng chiếc xe gần nhƣ tƣơng
đƣơng nhau, trong khi tần suất sử dụng rất khác nhau, có ngƣời sử dụng hằng
70
ngày, có ngƣời thậm chí cả tuần mới đƣa xe ra đƣờng một lần. Vì vậy, yêu
cầu và định hƣớng của chính sách thuế đối với mặt hàng ôtô là giảm nhóm
thứ nhất đồng thời tăng nhóm thứ hai. Khi đó, ai sử dụng phƣơng tiện càng
nhiều, phƣơng tiện càng kém chất lƣợng thì chi phí bỏ ra càng lớn, một phần
nguồn thu đó sẽ sử dụng vào công tác tái đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông. Ngƣợc lại, ngƣời ít sử dụng phƣơng tiện sẽ mất ít chi phí hơn. Điều
này là trọng điểm tạo đƣợc sự công bằng giữa những ngƣời sử dụng ôtô. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là quá trình điều chỉnh hai nhóm thuế nêu trên
đang thiếu sự đồng bộ lớn. Theo dõi các chính sách đƣợc ban hành từ sau năm
2009, có thể thấy khá rõ là tốc độ điều chỉnh (tăng) của nhóm phí và lệ phí sử
dụng đang ở mức cao trong khi tốc độ cắt giảm các loại thuế phí thuộc nhóm
thứ nhất lại rất chậm.
Ở nhóm thứ nhất, sự thay đổi hầu nhƣ chỉ diễn ra đối với thuế nhập
khẩu ôtô nguyên chiếc và linh kiện, phụ tùng. Trong đó, thuế suất thuế nhập
khẩu đối với mặt hàng ôtô chở ngƣời dƣới 10 chỗ ngồi giảm từ 1-11% tùy
loại sau 2 đợt điều chỉnh áp dụng cho năm 2010 và 2011. Trong khi đó, tốc độ
tăng mức lệ phí và số loại phí sử dụng lại rất nhanh. Đáng kể nhất là quyết
định tăng lệ phí trƣớc bạ lên mức 20% tại Hà Nội và 15% tại Thành phố Hồ
Chí Minh cùng lệ phí đăng ký biển số tăng gấp 10 lần tại Hà Nội từ
01/01/2012 (từ 2 triệu tăng lên đến 20 triệu). Điểm đáng lƣu ý là lệ phí trƣớc
bạ là sắc thuế tính sau tất cả các loại thuế thuộc nhóm thứ nhất nên sức tác
động lớn hơn rất nhiều.
Về nhóm lệ phí, trong hơn 10 năm từ năm 2003 đến 2016, các nhà
hoạch định chính sách đã không ngừng thay đổi và tăng lệ phí trƣớc bạ đối
với việc sở hữu ôtô. Ngày 12/5/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
47/2003/NÐ-CP về việc sửa đổi bổ sung điều 6 Nghị định số 176/1999/NÐ-
CP ngày 21/12/1999 của Chính phủ về lệ phí trƣớc bạ, có hiệu lực từ ngày
71
11/6/2003. Theo đó, ôtô chịu mức lệ phí trƣớc bạ theo tỷ lệ là 2%, riêng với
xe ôtô từ 7 chỗ ngồi trở xuống nộp lệ phí trƣớc bạ lần đầu là 5%. Vào cuối
năm 2008 lệ phí trƣớc bạ dành cho ôtô đƣợc điều chỉnh tăng, với mức sàn
10% và mức trần 15% đối với các loại xe du lịch dƣới 10 chỗ ngồi (Nghị định
số 80/2008/NĐ-CP ký ngày 29/7/2008). Thuế trƣớc bạ tăng kéo theo giá xe
tăng trƣớc khi quy định mới có hiệu lực do tâm lý khách hàng muốn mua xe
trƣớc khi phí tăng, làm cầu tăng mạnh khiến giá mỗi chiếc xe bán ra tăng
thêm ít nhất 500 USD, thậm chí tới 3.000 USD.
Đến đầu tháng 5/2009, do kinh tế khó khăn, Chính phủ quyết định giảm
50% lệ phí trƣớc bạ. Bên cạnh đó, 50% thuế VAT đã đƣợc giảm từ đầu tháng
2/2009 cho ôtô đến hết năm. Nhƣ vậy trong chƣa đầy 12 tháng, chi phí để sở
hữu xe đã giảm rất lớn, giá xe ngay lập tức giảm mạnh khiến cầu lại tăng
nhanh. Ông Akito Tachibana – Giám đốc Toyota Việt Nam, kiêm Chủ tịch
VAMA 2009, trong một văn bản kiến nghị gửi tới Bộ Công Thƣơng đã lý giải
rằng: Nhờ chính sách giảm 50% thuế VAT (từ 01/02/2009) và 50% lệ phí
trƣớc bạ (từ 01/5/2009) kịp thời của Chính phủ đã giúp thị trƣờng ôtô ấm dần
lên và tái diễn cảnh khách hàng xếp hàng chờ nhận xe. Tuy nhiên, cũng cần
chú ý đến một lời cảnh báo, rằng nếu những ƣu đãi trên chấm dứt vào ngày
31/12/2009, thì thị trƣờng sẽ chịu ảnh hƣởng nặng nề khi giá xe đột ngột tăng
trở lại.
Đến đầu năm 2011, Bộ Tài chính ban hành biểu thuế mới giảm thuế
nhập khẩu đối với xe dƣới 10 chỗ từ 1-11%. Ngƣời tiêu dùng đang trong hy
vọng sẽ đƣợc sở hữu chiếc xe ôtô đáng mơ ƣớc khi giá thành giảm. Song
nhƣng sự kỳ vọng này sớm bị dập tắt khi Chính phủ ban hành Nghị định số
45/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 có hiệu lực từ 01/9/2011, quy định tăng
khung lệ phí trƣớc bạ ôtô từ 10-15% lên 10-20%, và mức thu cụ thể sẽ do các
tỉnh, thành tự quyết tuỳ điều kiện địa phƣơng. Với chính sách này, sau đó
72
chính quyền Hà Nội đã quyết định nâng lệ phí trƣớc bạ lên 20% với ôtô, bắt
đầu từ 01/01/2012 và nâng phí cấp biển xe ôtô lên 20 triệu đồng. Còn tại
Thành phố Hồ Chí Minh, lệ phí trƣớc bạ nâng lên 15% từ 01/01/2012. Sự đổi
chiều đột ngột này dƣờng nhƣ lại là một cú hích có tác dụng tích cực đến thị
trƣờng khi tâm lý ngƣời tiêu dùng một lần nữa đã đẩy nhu cầu mua xe tăng
mạnh vào cuối năm 2011 để… tránh chi phí cao. Tuy nhiên đây chỉ là một sự
tăng cầu ảo. Sau đó, cũng chỉ vì phí trƣớc bạ đƣợc áp dụng cùng đủ loại thuế
và phí khác nên năm 2012 tiêu thụ ôtô giảm mạnh, ở mức 40% so với năm
trƣớc đó [28].
Vào cuối năm 2012, nhằm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh, Bộ Tài chính đã đệ trình lên Chính phủ đề xuất giảm một nửa phí
trƣớc bạ ôtô mới và áp phí 2% với xe đăng ký từ lần thứ hai trở đi. Đến đầu
năm 2013, Chính phủ đã ra Nghị định số 23/2013/NĐ-CP giảm một loạt thuế
phí, trong đó có thuế trƣớc bạ đối với ôtô dƣới 10 chỗ ngồi. Hà Nội đã việc
điều chỉnh lệ phí trƣớc bạ và áp dụng mức thu lệ phí trƣớc bạ lần đầu là 15%
(mức cũ là 20%) từ ngày 01/04/2013 và giảm tiếp còn 12% từ ngày
12/07/2013 đối với ôtô chở ngƣời dƣới 10 chỗ ngồi. Đánh giá về mặt chính
sách có thể thấy trong năm 2013 này, trên địa bàn thành phố Hà Nội tồn tại ít
nhất 3 mức thu phí trƣớc bạ dành cho ôtô dƣới 10 chỗ (kể cả lái xe) đăng ký
lần đầu - 20%, 15% và 12%. Đây đƣợc xem nhƣ một sự thiếu ổn định về
chính sách, gây nhiều trở ngại cho sự tăng trƣởng thị trƣờng.
Tiếp tục nuôi giấc mơ ôtô Việt Nam và để kích thích tăng trƣởng lại thị
trƣờng ôtô, từ nửa cuối năm 2015 các cơ quan quản lý Việt Nam đã đƣa ra
nhiều động thái chính sách ƣu đãi ngành phát triển ngành công nghiệp ôtô nội
địa. Bộ Công thƣơng đề xuất dự thảo và sau này đã đƣợc chính phủ chấp
thuận thông qua Quyết định số 229/QĐ-TTg ký ngày 04/02/2016 về cơ chế,
chính sách ƣu đãi để phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Theo đó,
73
ngƣời tiêu dùng, tổ chức cá nhân, mua xe tải nhẹ đến 3 tấn, xe nông dụng nhỏ
đa chức năng sẽ đƣợc hỗ trợ theo chính sách hiện hành về giảm tổn thất trong
nông nghiệp (đƣợc vay tới 100% giá trị hàng hóa; hỗ trợ 100% lãi suất trong
2 năm đầu, 50% trong năm thứ 3. Nhà nƣớc sẽ hỗ trợ chênh lệch lãi suất trong
một số trƣờng hợp…). Bộ Tài chính cũng công bố Dự thảo mới nhất về sửa
đổi Luật sửa đổi các điều liên quan đến Luật thuế. Trong đó, nhóm ôtô dƣới 9
chỗ ngồi đƣợc điều chỉnh mạnh nhất về thuế tiêu thụ đặc biệt xuống còn 20%.
Ngoài ra, việc Chính phủ ban hành một số chính sách hỗ trợ ngành bao
gồm: Luật siết chặt tải trọng cấm xe quá tải quá khổ từ năm 2014, từ đó các
đơn vị kinh doanh vận tải sẽ phải đầu tƣ mua thêm xe mới, lộ trình giảm thuế
nhập khẩu theo Hiệp định Thƣơng mại hàng hóa ASEAN(ATIGA) không
những góp phần thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng xe hơi trong các năm tiếp theo
mà còn đảm bảo cho tốc độ tăng trƣởng trong ngắn hạn.
Nhƣ vậy, có thể thấy các chính sách kích cầu và kiểm soát cầu thị
trƣờng ôtô Việt Nam là dễ thay đổi và khó dự đoán. Sự thay đổi chính sách
quá nhiều và quá nhanh trong thời gian ngắn trong vòng trên dƣới 10 năm
khiến thị trƣờng ôtô trong thời gian qua liên tiếp chuyển từ thái cực này sang
thái cực khác, tạo ra thiếu sự ổn định. Việc tăng mức lệ phí và số lƣợng các
loại phí sử dụng quá nhanh trong khi các loại thuế phí nhóm thứ nhất khiến
việc thỏa mãn nhu cầu sử dụng ôtô của ngƣời dân gặp trở ngại lớn. Góc độ nào
đó, điều này tạo nên sự thiệt thòi cho ngƣời tiêu dùng bởi họ phải chịu các
mức phí cao trong khi hạ tầng giao thông chƣa tƣơng xứng. Còn đối với ngành
công nghiệp ôtô, khi sức mua sụt giảm mạnh sẽ kéo theo những khó khăn lớn
cho kế hoạch sản xuất, lắp ráp của mỗi doanh nghiệp. Khi chi phí để sở hữu
một chiếc xe tăng lên đồng nghĩa với khả năng nhu cầu của thị trƣờng sẽ giảm,
chắc chắn các doanh nghiệp ôtô phải xem xét lại kế hoạch sản xuất. Những
thay đổi thƣờng xuyên và với mức độ lớn đã và sẽ làm gián đoạn đáng kể các
74
dây chuyền sản xuất, chuỗi cung cấp và các hoạt động thƣơng mại của những
bên tham gia vào ngành ôtô do xuất hiện những mức cầu cao điểm và thấp
điểm giả tạo trên thị trƣờng, lúc thì cầu cao đột biến doanh nghiệp không đủ
sản phẩm để cung buộc phải tăng sản xuất, đến lúc cầu lại giảm nhanh chóng
doanh nghiệp lại dƣ thừa sản lƣợng. Trong tình huống nào cũng đều làm
doanh nghiệp chịu tổn thất chi phí và rủi ro, hơn thế nữa họ sẽ không có đƣợc
một định hƣớng ổn định để an tâm tiếp tục đầu tƣ, dẫn đến việc sau bao nhiêu
năm tỷ lệ nội địa hóa vẫn chƣa đạt đƣợc gì nhiều.
Bên cạnh các chính sách ƣu đãi về tài chính và thuế, chính sách thu hút
đầu tƣ và chính sách kích cầu thị trƣờng, Chính phủ Việt Nam cũng đã quan
tâm đến chính sách hỗ trợ đầu tƣ nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, đƣợc thể hiện trong Quyết định
229/QĐ-TTg ban hành ngày 04/02/2016. Theo đó, các nhiệm vụ nghiên cứu,
phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ liên quan đến các sản xuất các
dòng xe ƣu tiên đƣợc xem xét hỗ trợ từ nguồn vốn kinh phí sự nghiệp khoa
học và công nghệ theo quy định. Công tác đào tạo nguồn nhân lực, thuê
chuyên gia tƣ vấn kỹ thuật trong nƣớc và quốc tế liên quan đến sản xuất các
dòng xe ƣu tiên sẽ đƣợc hỗ trợ một phần kinh phí. Đây cũng là lần đầu tiên
Việt Nam đƣa ra một quy định về dòng xe ƣu tiên, chiến lƣợc để ngành công
nghiệp ôtô có cơ sở định hƣớng phát triển quy mô hơn và vững chắc hơn.
Dƣờng nhƣ các chính sách của chính phủ Việt Nam đang dần đi theo hƣớng
tăng độ ổn định, đồng bộ nhiều bộ ban ngành và hiện thực hơn.
3.3. Tác động của các chính sách hỗ trợ đối với ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam
3.3.1. Đánh giá chung
Trong gần 25 năm nuôi dƣỡng và theo đuổi ƣớc mơ sản xuất chiếc xe
ôtô “Made in Vietnam”, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện quan điểm và nỗ lực
75
của mình qua nhiều chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô nội địa và đã đạt
đƣợc những thành tựu nhất định.
Ngành công nghiệp ôtô không đơn thuần là cơ khí, máy nổ mà còn kéo
theo hàng trăm ngành nghề khác nhau phát triển. Những bộ phận trong ngành
xe hơi là những công nghệ cao từ các kết quả nghiên cứu áp dụng của tóan
học, vật lý học, hóa học, vật liệu (hệ thống nhún, hệ thống thắng, dầu nhớt,
bánh xe, bố thắng...) và của cả ngành điện tử (chip điện tử, chip design...).
Sản phẩm xe hơi là sản phẩm có thị trƣờng tiêu thụ cao (nếu làm chủ đƣợc
cách thức kinh doanh) vì thế nếu xây dựng đƣợc ngành công nghiệp xe hơi thì
sẽ thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển bền vững hơn (từ tiếp thu công nghệ
đến đào tạo nhân lực, sử dụng lao động...). Bỏ công nghệ xe hơi là bỏ đi một
trong những cơ hội để phát triển toàn diện.
Từ một đất nƣớc lạc hậu và bị tàn phá bƣớc ra khỏi chiến tranh và
những cấm vận kinh tế, Việt Nam đã mạnh dạn xây dựng ngành công nghiệp
ôtô trong bối cảnh đất nƣớc đang non yếu về mọi nguồn lực (vốn và công
nghệ). Từ một liên doanh ôtô đầu tiên đánh dấu sự khởi sinh ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam năm 1991, đến nay với sự hỗ trợ, thu hút đầu tƣ nƣớc
ngoài và xúc tiến quảng bá của chính phủ, Việt Nam đã có đƣợc 13 liên doanh
với các hãng xe nổi tiếng thế giới nhƣ Toyota, Audi, GM, Ford, Mercedes-
Benz, Kia, Isuzu,… và 04 doanh nghiệp ôtô nội địa. Đây đƣợc coi là một
thành công đáng ghi nhận của định hƣớng phát triển ngành công nghiệp ôtô
của Việt Nam. Sự tăng trƣởng của các doanh nghiệp sản xuất – lắp ráp ôtô
liên doanh và trong nƣớc đã kéo theo sự phát triển của hệ thống các nhà sản
xuất linh kiện, phụ tùng. Đƣa đến cho Việt Nam một nền tảng khoa học công
nghệ cao, giải quyết lƣợng lớn việc làm và tăng trƣởng kinh tế.
Tuy nhiên, nhìn lại một cách tổng thể, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
đƣợc cho là chƣa đạt đƣợc nhƣ những gì đáng lẽ đã nên có. Điều này phụ
76
thuộc vào nhiều yếu tố, trong khuôn khổ nghiên cứu này sẽ tập trung vào các
yếu tố liên quan đến chính sách hỗ trợ và các chính sách khác liên quan của
chính phủ.
Để xây dựng nền công nghiệp ôtô quốc gia, nhiều nƣớc đã đƣa ra
những biện pháp hỗ trợ cùng bảo hộ nền sản xuất trong nƣớc. Nhật, Trung
Quốc, Ấn Độ, Inđonesia, Malaysia, Thái Lan... đều thực hiện chính sách này.
Những nƣớc phát triển thì tập trung vào hỗ trợ, khuyến khích đầu tƣ vào công
nghệ mới để đáp ứng hàng rào kỹ thuật ngày càng cao (tiêu chuẩn an toàn,
tiêu hao nhiên liệu, mức hạn chế khí thải), làm lợi thế cạnh tranh và cũng là
bảo hộ đối với các đối thủ cạnh tranh. Những nƣớc tiến chậm hơn thì thƣờng
sử dụng các công cụ thuế. Ở giai đoạn đầu phát triển, các nƣớc thƣờng áp
dụng các chính sách hỗ trợ tín dụng và nhiều ƣu đãi khuyến khích đầu tƣ. Về
nguyên lý thì vấn đề bảo hộ và hỗ trợ cho ngành công nghiệp sản xuất xe ôtô
Việt Nam là đúng, nhƣng có lẽ còn nhiều ngƣời chƣa nhìn thấy sự phức tạp
của công nghiệp ôtô nên đã đƣa ra những phƣơng án lỏng lẻo, không có cái
nhìn chiến lƣợc và nghĩ chỉ cần áp dụng thuế là xong. Hậu quả là hơn 20 năm
hỗ trợ nhiều ƣu đãi lớn kèm bảo hộ vẫn không đem lại một nền công nghiệp
ôtô theo đúng nghĩa cho đất nƣớc: Không phát triển về kỹ thuật, đào tạo nhân
sự phát triển không nhiều, chủ yếu là thợ lắp ráp lành nghề, không có kỹ sƣ
chuyên thiết kế xe, không có bộ phận R&D phát triển dòng xe mới, không tạo
điều kiện tối ƣu để phát triển ngành sản xuất linh kiện theo tiêu chuẩn thế
giới. Công nghệ đƣợc bảo trợ là công nghệ lỗi thời về kỹ thuật vì không áp
dụng tiêu chuẩn kỹ thuật cao để giảm tiêu hao năng lƣợng, giảm ô nhiễm môi
trƣờng, bảo đảm an toàn giao thông tối ƣu cho ngƣời sử dụng xe và cho
những ngƣời sử dụng những phƣơng tiện giao thông khác. Biện pháp đƣợc áp
dụng chủ yếu là chính sách thuế, rồi “ngồi uống trà” chờ đợi các hãng ôtô
77
đem công nghệ tiên tiến đến Việt Nam. Sự thất bại của phƣơng pháp này có lẽ
đã là điều đƣơng nhiên.
Nếu không nhanh chóng có chiến lƣợc mới thì có thể nói là ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam sẽ sớm “tắt đèn đi ngủ”, nƣớc ta sẽ là thị trƣờng của sản
phẩm ôtô từ Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và Hàn Quốc. Nhƣng bài toán
của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam không phải không có lời giải. Vấn đề là
chúng ta có muốn giải bài toán đó hay không.
3.3.2. Nguyên nhân
Các chính sách không phù hợp là một trong những yếu tố chính kìm
hãm sức phát triển của ngành ôtô Việt Nam. Trƣớc tiên phải kể đến chính
sách ƣu đãi kèm theo bảo hộ. Với mục tiêu bảo vệ các doanh nghiệp ôtô non
trẻ trƣớc sự cạnh tranh của đối thủ bên ngoài, Việt Nam đã đi theo mô hình
dựng lên hàng rào bảo hộ bằng thuế quan rất cao. Giải pháp này là một con
dao hai lƣỡi. Tuy đạt đƣợc mục tiêu bảo vệ các doanh nghiệp lắp ráp, nhƣng
nó lại đẩy giá ôtô lên gấp hai, ba lần mặt bằng giá của thế giới. Mặt khác, việc
duy trì các chính sách ƣu đãi đặc biệt về tài chính và thuế quá lớn của Nhà
nƣớc đối với ngành công nghiệp ôtô ở nƣớc ta đã không mang lại ý nghĩa nhƣ
mong muốn mà ngƣợc lại đã làm cho các doanh nghiệp trở nên trì trệ trong
việc đầu tƣ, đổi mới công nghệ để tăng tỷ lệ nội địa hoá, cũng nhƣ bóp nghẹt
sức phát triển của thị trƣờng ôtô nội địa.
Quan trọng nhất là việc chọn hƣớng đi chƣa hợp lý. Quan điểm phát
triển công nghiệp ôtô của Việt Nam là muốn tự sản xuất gần nhƣ tất cả, đƣợc
thể hiện qua mục tiêu và chính sách nội địa hoá. Để thực hiện mục tiêu này,
Việt Nam đã áp dụng những biện pháp hành chính, nhƣ đƣa cam kết về tỷ lệ
nội địa hoá thành điều kiện để xem xét cấp giấy phép đầu tƣ; đánh thuế cao
đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu để ép doanh nghiệp lắp ráp đầu tƣ sản
xuất linh kiện tại chỗ. Nhƣng với một thị trƣờng mà lƣợng xe tiêu thụ chỉ vài
78
chục ngàn chiếc mỗi năm, chủng loại xe lại đa dạng, thì chẳng mấy ai dám bỏ
ra số tiền đầu tƣ lớn để mỗi năm chỉ sản xuất đƣợc vài ngàn bộ linh kiện.
Chiến lƣợc phát triển ngành này hiện mới chỉ chủ yếu quy tụ vào biện
pháp đánh thuế nhập khẩu kinh kiện, thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc để làm
áp lực những nhà đầu tƣ thực hiện nội địa hóa sản phẩm linh kiện. Đây là việc
“không tƣởng” vì các hãng ôtô, ngay tại chính hãng, cũng chỉ sản xuất chiều
sâu đƣợc khoảng 30 - 40% các chi tiết của một chiêc xe, phần còn lại đƣợc
những nhà sản xuất linh kiện cung cấp. Với thị trƣờng nhỏ bé mà Việt Nam
lại muốn điều phối tỷ lệ nội địa hóa chỉ thông qua chính sách ƣu đãi thuế, thì
không có nhà đầu tƣ nào muốn đầu tƣ sản xuất linh kiện thật sự.
Theo ông Jesus Metelo N. Aris Jrc - Chủ tịch hiệp hội Các nhà sản xuất
ôtô Việt Nam thì: “Hiện nay ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đang có quy
mô sản xuất còn khá nhỏ so với các nƣớc trong khu vực, bên cạnh đó hiện tại
mức thuế tiêu thụ đặc biệt của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đang khá cao,
trung bình là 45% và nhƣ vậy là cao hơn các quốc gia khác trong khu vực
khoảng 20%. Đây có thể nói chính là những hạn chế khiến cho ngành công
nghiệp ôtô của VN chƣa đạt mục tiêu đã đề ra”.
Một sai lầm của các cơ quan hoạch định chính sách đối với ngành công
nghiệp ôtô trong thời gian qua là họ không thấu hiểu đƣợc sự phức tạp của
ngành công nghiệp ôtô. Vốn đầu tƣ trong ngành công nghiệp ôtô rất cao vì đó
là ngành cơ khí chính xác, độ an toàn, chất lƣợng, kỹ thuật cao. Ví dụ: dây
belt trong xe ôtô giá trị chỉ từ 3-6 USD, nhƣng nếu bị hƣ thì làm hƣ nguyên cả
động cơ, và nhiều ví dụ khác nữa... nên những nhà sản xuất ôtô có thƣơng
hiệu chỉ mua những linh kiện mà họ tin tƣởng vào chất lƣợng để không ảnh
hƣởng đến thƣơng hiệu của họ. Trong thời gian qua chúng ta đã thấy nhiều
nhà đầu tƣ (điện thoại, ôtô...) phải trả phí tổn cực kỳ to lớn (có thể lên đến vài
79
trăm triệu hay hàng tỉ USD) khi họ phải thu hồi và hủy bỏ (recall) sản phẩm
chỉ vì một chi tiết, linh kiện bị lỗi.
Kế đến là sự thiếu đồng bộ về chủ trƣơng và chính sách. Ông Trần
Tuấn Anh – Nguyên Thứ trƣởng Bộ Công Thƣơng cho biết: Sự yếu kém của
ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam còn thể hiện ở chỗ là chƣa đồng bộ trên
toàn diện, ở đây chúng ta thấy rõ ràng nhất là để tham gia vào chuỗi cung ứng
sản phẩm ôtô trên quy mô toàn cầu, thì bắt buộc chúng ta phải có sự phát triển
của các nhà sản xuất, đặc biệt là sản xuất các chi tiết, linh kiện cho ngành
công nghiệp ôtô. Tức là nó phụ thuộc rất nhiều vào ngành công nghiệp hỗ trợ,
mà các ngành công nghiệp hỗ trợ của chúng ta thì chƣa có điều kiện để phát
triển ở thị trƣờng nội địa trong thời gian vừa qua, nó có nhiều nguyên nhân
nhƣng nguyên nhân chủ quan là các chính sách, các cơ chế chƣa đủ mạnh,
chƣa đủ hấp dẫn để thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
“Cái vòng luẩn quẩn của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam” là Nhà
nƣớc một mặt kêu gọi phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm giá xe, nhƣng
mặt khác lại đề ra chính sách hạn chế sử dụng ôtô bằng cách áp dụng thuế tiêu
thụ đặc biệt, các biểu thuế, phí và lệ phí sử dụng cao và dễ thay đổi. Các
chính sách này mục đích chính là để kiểm soát và hạn chế sự gia tăng nhanh
chóng số lƣợng phƣơng tiện tham gia giao thông khi hạ tầng cơ sở còn chƣa
kịp đáp ứng. Trong khi đó, ngành công nghiệp ôtô và công nghiệp hỗ trợ
muốn phát triển thì dung lƣợng thị trƣờng phải lớn, lƣợng tiêu dùng phải cao
để có thể quay vòng thu hồi vốn nhanh để tái đầu tƣ. Bên cạnh đó, các chính
sách này cũng có tác dụng kích cầu có chủ đích hoặc là hiệu ứng phụ tạo ra
các điểm cầu ảo. Khi chính sách thay đổi và tạo ra những điểm cầu giả tạo
đƣơng nhiên sẽ tác động không tốt tới sản xuất. Nhu cầu xe tăng đột ngột
khiến nhà sản xuất và nhà cung cấp linh kiện không thể đáp ứng kịp, nhu cầu
giảm thấp thì sản lƣợng lại dƣ thừa. Thiếu và thừa đều làm mất đi tính ổn định
80
của sản xuất và làm nản lòng doanh nghiệp. Hậu quả là cho tới nay, Việt Nam
vẫn không có một ngành công nghiệp ôtô đúng nghĩa, các doanh nghiệp, cả
trong nƣớc lẫn liên doanh, mới chỉ dừng ở mức lắp ráp với tỷ lệ nội địa hoá
rất thấp và thậm chí đang có xu hƣớng bỏ sản xuất quay sang nhập khẩu “bán
buôn”.
Lý do phổ biến nhất để hạn chế tiêu dùng ôtô, mà các nhà hoạch định
chính sách đƣa ra là “đƣờng xá chật hẹp, ô nhiễm môi trƣờng, tai nạn giao
thông...”. Rõ ràng luận cứ này không có sức thuyết phục. Cần biết, số lƣợng
xe ôtô ở Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 18 xe/1.000 dân (năm 2015), trong khi
từ năm 2007 ở Trung Quốc đã là 24 xe/1.000 dân, Thái Lan 152 xe/1.000 dân,
Hàn Quốc 228 xe/1.000 dân, Mỹ 682 xe/1.000 dân... Có một so sánh nữa để
cung cấp thêm luận cứ, đó là CHLB Đức và Việt Nam có diện tích gần nhƣ nhau (khoảng 330.000 km2), dân số tƣơng tự nhau (khoảng 90 triệu dân),
nhƣng số lƣợng ôtô ở Việt Nam là khoảng 670.000 chiếc và 18 triệu xe gắn
máy, số lƣợng xe ôtô ở Đức là 40 triệu chiếc. Bình quân diện tích mặt bằng sử
dụng 8 xe gắn máy bằng 1 xe ôtô, nhƣng ở Đức vẫn có chỗ đậu xe, và giao
thông không bị ùn tắc hay ô nhiễm. Dĩ nhiên việc so sánh giữa một nƣớc đang
phát triển với một nƣớc phát triển nhƣ nƣớc Đức là khập khiễng, nhƣng chúng
ta cũng cần nhớ là Việt Nam đang phấn đầu đến năm 2020, tức là chỉ trong
vòng 5 năm nữa, phải cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp phát triển.
81
CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ Ở VIỆT NAM
4.1. Dự báo tình hình phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
4.1.1. Bối cảnh chung về hội nhập kinh tế quốc tế về ngành công
nghiệp ôtô
Quá trình HNKTQT của Việt Nam đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ với nhiều
hình thức, theo lộ trình từ thấp tới cao, hƣớng tới tiếp thu những nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế của nền kinh tế và thị trƣờng toàn cầu. Việt Nam từng
bƣớc mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trƣờng trong nƣớc với nền kinh tế và thị
trƣờng khu vực, thế giới thông qua thiết lập các mối quan hệ song phƣơng về
thƣơng mại, đầu tƣ, tài chính và tham gia vào các thể chế đa phƣơng trong
những lĩnh vực này. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của tất cả các tổ
chức quốc tế lớn; đã tham gia, ký kết, và đàm phán tổng cộng 15 hiệp định
thƣơng mại tự do (FTA). Xét về số lƣợng FTA, Việt Nam đang đứng thứ 5/10
so với các thành viên ASEAN khác. Trong những năm tới quá trình
HNKTQT đặt trọng tâm vào việc thực hiện các FTA, trong đó có các FTA
quan trọng với các đối tác chiến lƣợc nhƣ Nhật Bản, EU và các FTA khu vực
quan trọng nhƣ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) và Hiệp
định Đối tác Toàn diện khu vực (RCEP). Về mức độ hội nhập, Việt Nam hội
nhập sâu rộng nhất là trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang dần dần xóa bỏ các rào cản
thuế quan và nhiều rào cản phi thuế quan. Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
còn non trẻ, đi sau các nƣớc tiên phong trên thế giới một thời gian rất dài. Việc
phát triển sau cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức khi cạnh tranh với các
quốc gia có thâm niên lâu năm và trình độ công nghệ cao. Chính vì thế Chính
phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô nội
82
địa phát triển, mà một trong những kênh quan trọng, chủ yếu là dùng chính
sách thuế quan để tạo khoảng cách lợi thế cho các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, theo tiến trình HNKTQT và thực hiện các cam kết song phƣơng và
đa phƣơng, các rào cản thuế quan này dần bị xóa bỏ. Khả năng cạnh tranh hạn
chế và việc không đƣợc bảo hộ nữa có thể sẽ dẫn đến sự phá sản ở các doanh
nghiệp trong nƣớc còn quá nhỏ và chƣa đủ khả năng cạnh tranh hay sự rút lui
của các doanh nghiệp FDI nƣớc ngoài về lắp ráp và chuyển sang nhập khẩu và
thƣơng mại.
Theo cam kết gia nhập, Việt Nam đã và đang phải dỡ bỏ hàng rào thuế
quan theo lộ trình giảm thuế nhập khẩu tóm tắt nhƣ sau:
- Cam kết gia nhập WTO:
+ Các loại ô tô có động cơ dung tích dƣới 2,5 lít: cắt giảm từ 90%
xuống còn 70% sau 7 năm gia nhập (năm 2014).
+ Các loại ô tô có động cơ dung tích trên 2,5 lít: cắt giảm từ 90% xuống
còn 52% sau 12 năm gia nhập (năm 2019).
Riêng loại 2 cầu thuế nhập khẩu cắt giảm từ 90% xuống còn 47% sau
10 năm gia nhập (năm 2017).
+ Các loại xe tải không quá 5 tấn: cắt giảm từ 80% xuống còn 50% sau
12 năm gia nhập (2019).
+ Các loại xe tải khác: cắt giảm từ 60-80% xuống còn 50-70% sau 5
năm và 7 năm gia nhập.
- Cam kết trong CEPT/AFTA: Theo cam kết ôtô nguyên chiếc nhập
khẩu từ khối ASEAN về Việt Nam sẽ đƣợc giảm thuế suất thuế nhập khẩu
xuống theo lộ trình: 50% vào 2015 xuống 40% vào 2016, 30% vào 2017 và 0%
vào 2018. Riêng mã hàng vừa chở ngƣời vừa chở hàng là 15% và tiến về 0%
vào 2018.
- Cam kết theo Hiệp định ASEAN – Trung Quốc:
83
+ Xe chở ngƣời: cắt giảm xuống mức 50% vào 2018. Đối với loại xe
đƣợc thiết kế đặc biệt (đi trên tuyết, xe ô tô chơi gôn) đã đƣợc cắt giảm xuống
50% vào năm 2006.
+ Xe tải: phần lớn đã đƣa vào lộ trình giảm thuế. Xe tải dƣới 5 tấn: mức
thuế suất 100% năm 2005 và sẽ cắt giảm xuống mức 45% vào năm 2014; Xe
tải từ 5 tấn đến 10 tấn: mức thuế 30% và 60% năm 2005 và sẽ cắt giảm xuống
30% vào năm 2012.
- Cam kết trong khu vực ASEAN, ASEAN – Trung Quốc, ASEAN –
Hàn Quốc đối với phụ tùng, linh kiện ôtô: 5% (trong ASEAN) và cắt giảm
xuống 0% vào năm 2018 (ASEAN – Trung Quốc). Trong WTO, mức cam kết
là 15 – 25%, thời hạn tập trung vào các mốc 2009, 2012, 2014 tùy chủng loại.
Nhƣ vậy, các thời điểm thực hiện các cam kết giảm thuế nhập khẩu ô tô
và linh phụ kiện đã tới hoặc trong thời gian ngắn sắp tới.
4.1.2. Định hướng phát triển ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam
Ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam đƣợc coi nhƣ bắt đầu hình thành
từ những năm 1990, tuy nhiên cho đến tận tháng 10/2004 Chính phủ mới phê
duyệt quy hoạch ngành ô tô nhƣng mãi đến tháng 07/2007 mới phê duyệt Quy
hoạch đầu tiên của ngành công nghiệp hỗ trợ và đến tháng 02/2011 mới ban
hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về chính sách
phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ, trong đó có ngành sản xuất, lắp
ráp ô tô. Sau khi nếm trải những thất bại nặng nề, không đạt đƣợc các mục
tiêu, dù là cơ bản, của các bản Quy hoạch trên, dù vậy, Việt Nam vẫn thể hiện
quyết tâm có đƣợc ngành công nghiệp ô tô nội địa. Minh chứng rõ nhất là
việc “ra đời” Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số Quyết định
số 1168/2014/QĐ-TTg ngày 16/07/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ) và Chiến
lƣợc phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến
84
năm 2035 (ban hành kèm theo Quyết định Quyết định số 1211/2014/QĐ-TTg
ngày 24/07/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ). Đáng chú ý, sau một thời gian
dài “cân lên, đặt xuống”, với nhiều lần dự thảo lấy ý kiến của các bộ, ngành,
hiệp hội, Thủ tƣớng đã ký Quyết định 229/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách
thực hiện chiến lƣợc và quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô. Theo
Quyết định 229, hàng loạt chính sách về thuế, đất đai, tín dụng, kích cầu thị
trƣờng… đƣợc đƣa ra để “cứu” ngành công nghiệp ô tô. Ví dụ nhƣ dự án đầu
tƣ dây chuyền máy móc, thiết bị để sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô, lắp ráp ô
tô và xe chuyên dùng của các doanh nghiệp trong nƣớc đƣợc vay vốn từ Ngân
hàng Phát triển Việt Nam; mua xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp,
nông thôn có sức chở đến 3 tấn, xe nông dụng nhỏ đa chức năng đƣợc hỗ trợ
theo quy định về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; áp
dụng mức thuế nhập khẩu ƣu đãi tối huệ quốc ở mức trần cam kết đối với các
dòng xe ƣu tiên và các dòng xe trong nƣớc đã sản xuất đƣợc...
Quyết tâm theo đuổi công nghiệp ô tô của Việt Nam đƣợc thể hiện qua
các văn kiện của Chính phủ là rõ ràng. Vấn đề mà giới doanh nghiệp hay “kêu
ca”, phàn nàn lâu nay là cơ chế chính sách thuế, phí không ổn định, dàn trải
thì vƣớng mắc này nay đã đƣợc tiếp thu. Trong Quyết định 229, các chính
sách, cơ chế ƣu đãi đƣợc thực hiện nhất quán trong thời gian tối thiểu 10 năm,
phù hợp với xu thế hội nhập nhằm đạt mục tiêu phát triển ngành công nghiệp
ô tô Việt Nam.
Cũng theo Quyết định 229, Chính phủ đã làm rõ đƣợc dòng xe ƣu tiên
làm mũi nhọn phát triển ngành: Xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp,
nông thôn có sức chở đến 3 tấn; xe khách tầm trung và tầm ngắn chạy liên
tỉnh, huyện, nội đô... phù hợp với điều kiện địa hình, hạ tầng giao thông trong
nƣớc với giá thành hợp lý, an toàn và tiện dụng; xe cá nhân chở ngƣời đến 9 chỗ ngồi, kích thƣớc nhỏ, có dung tích xi lanh từ 1.500 cm3 trở xuống, xe tiết
85
kiệm nhiên liệu, giá cả phù hợp với ngƣời tiêu dùng; các loại xe chuyên dùng
nhƣ xe chở bê tông, xi téc, cứu hỏa, cứu thƣơng, vệ sinh môi trƣờng... và các
loại xe đặc chủng phục vụ an ninh - quốc phòng; xe nông dụng nhỏ đa chức
năng (kết hợp vận tải hàng hóa với một hay nhiều tính năng nhƣ làm đất, bơm
nƣớc, phát điện, phun thuốc sâu...) để đáp ứng nhu cầu của ngƣời tiêu dùng ở
nông thôn và miền núi.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, có chính sách, cơ chế ƣu đãi và
chính sách ổn định trong thời gian dài mới chỉ là điều kiện cần, việc thực hiện
những chính sách ƣu đãi này nhƣ thế nào để thực hiện thành công “giấc mơ”
ô tô Việt mới là điều quan trọng. Câu hỏi về quá trình thực thi các chính sách
sẽ ra sao vẫn còn bỏ ngỏ. Trên thực tế, trong một thời gian tƣơng đối dài,
ngành công nghiệp ô tô luôn đƣợc coi là ngành quan trọng và đƣợc các ƣu đãi
nhất thông qua các chính sách thuế ƣu đãi về tỷ lệ nội địa hóa, vay vốn ƣu
đãi… song giá ô tô Việt Nam vẫn cao đến mức khiến các nƣớc phát triển cũng
phải giật mình, tỷ lệ nội địa hóa vẫn rất thấp. Những hồ nghi về một tƣơng lai
nhƣ hoạch định vẫn là có cơ sở.
Nhƣ vậy, để thực hiện thành công “giấc mơ” ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào tinh thần quyết tâm mà còn phụ thuộc vào
ý chí thực hiện từ cơ quan Nhà nƣớc cho đến các doanh nghiệp. Nhất là trong
bối cảnh thuế suất thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ các đối tác song
phƣơng và đa phƣơng về Việt Nam đang trong lộ trình cắt giảm và sẽ nhanh
chóng giảm còn 0% vào những năm sắp tới, thì đây sẽ là áp lực không nhỏ
cho mục tiêu của Việt Nam.
4.1.3. Dự báo tình hình phát triển của ngành công nghiệp ôtô tại Việt
Nam
Mặc dù, hiện tại nền công nghiệp ôtô Việt Nam có nhiều ý kiến cho
rằng đã khó có thể chạm đến giấc mơ, nhƣng quan điểm của chính phủ Việt
86
Nam vẫn gần nhƣ không đổi. Công nghiệp ôtô tiếp tục là ngành đƣợc quan
tâm và chiến lƣợc phát triển mũi nhọn. Các dấu hiệu thị trƣờng và các động
thái chính sách mới của chính phủ đang tạo ra những điểm tích cực có thể tin
tƣởng vào một khởi sắc mới cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.
Xu hướng thị trường
So với thế giới và trong khu vực, Việt Nam có tỷ lệ sở hữu xe hơi chỉ
chiếm 1.85% dân số và trên dƣới 10% hộ gia đình. Tổng thu nhập bình quân
đầu ngƣời tại Việt Nam đang tăng khá ổn định. Đây là những yếu tố tạo đà
phát triển rất tốt cho ngành công nghiệp ôtô. Song, chúng ta có thể thấy rằng
ngành ôtô chƣa tăng trƣởng đúng theo cách mà lẽ ra ngành này nên đạt đƣợc.
Vì thế khi nhìn vào GDP và nhìn vào giá xe hơi, không khó để nhận ra những
khoảng lặng hoặc đoạn đứt gãy không có cùng xu hƣớng giữa hai yếu tố này.
Điều đó cho thấy thực tế rằng ngành công nghiệp lắp ráp ôtô tại Việt Nam
chƣa phát triển tốt.
Bên cạnh đó, nhiều dấu hiệu thị trƣờng cho thấy nhu cầu tiêu thụ ôtô tại
Việt Nam tiếp tục tăng trƣởng vẫn còn khá lớn khi so sánh với các thị trƣờng
khác trong khu vực. Ông Tuấn Anh – Đại diện Toyota Việt Nam đánh giá thị
trƣờng Việt Nam chỉ tƣơng đƣơng 5%-10% so với Thái Lan và Indonesia,
trong dài hạn thì thị trƣờng Việt Nam là tiềm năng. Dự báo của Toyota Việt
Nam, thị trƣờng ôtô sẽ bùng nổ sau năm 2020 khi thu nhập đầu ngƣời đạt
3.000 USD/năm. Khi đó quy mô thị trƣờng sẽ đạt trên 400.000 xe, hơn gấp
đôi năm 2010. Dân số Việt Nam đông, hiện trên 90 triệu ngƣời, nếu ôtô hóa,
thị trƣờng Việt Nam có thể lớn hơn Thái Lan.
Ngoài ra, chính sách hiện tại của nhà nƣớc đối với các vấn đề hội nhập,
giao thông – hạ tầng, v.v cũng đóng vai trò hỗ trợ để thị trƣờng ôtô Việt Nam
tiếp tục phát triển.
87
Tỷ trọng xe du lịch vẫn còn thấp: Tổng số lƣợng ôtô đang lƣu hành tại
Việt Nam tính đến cuối 2013 là 1,63 triệu xe trong đó xe du lịch chỉ chiếm
44%, khá thấp khi so sánh với mức trung bình 80% của khu vực châu Á –
Thái Bình Dƣơng theo thống kê của MarketLine. Nhƣ vậy, với dân số hiện
nay và xu hƣớng nhu cầu tăng trong thời gian tới, thị trƣờng ôtô Việt Nam
vẫn có tiềm năng lớn đặc biệt trong phân khúc xe du lịch sử dụng cho nhu cầu
8.2
9
9.8
10.7
11.7
12.7
13.9
39.3
40
40.7
41.3
42
42.6
43.2
52.5
51
49.5
48
46.4
44.7
42.9
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
2013
2014
2015
2016F
2017F
2018F
2019F
Khác
Xe du lịch
Xe thƣơng mại
cá nhân và gia đình.
Hình 4.1. Dự báo cơ cấu ôtô lƣu hành đến năm 2019
Nguồn: Bảo Việt Securities (BVSC) dự báo
Lộ trình giảm thuế
Theo Thông tƣ 165/2014/TT-BTC, biểu thuế nhập khẩu ƣu đãi đặc biệt
đối với mặt hàng ôtô từ khu vực ASEAN đã đƣợc ban hành với lộ trình giảm
dần từ 50% trong năm 2015 về mức 0% đến năm 2018. Ông Phạm Đình Thi -
Vụ trƣởng Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho biết năm 2019, cùng với thuế
xe nhập khẩu giảm về 0% theo cam kết ASEAN, giá các loại xe dung tích
dƣới 1 lít trên thị trƣờng có thể giảm tới 42% so với hiện nay. Trƣớc đó,
88
Chính phủ Việt Nam chính thức trình Quốc hội thông qua nội dung sửa đổi về
thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt. Theo đó, các dòng xe có dung tích dƣới 2 lít
sẽ giảm thuế từ 45% xuống chỉ còn 25%. Loại động cơ này thƣờng lắp trên
những dòng xe phổ thông từ cỡ nhỏ tới cỡ trung. Theo các nhà nhập khẩu,
những mẫu xe dƣới 2 lít phổ biến đều có khả năng giảm giá đáng kể. Hiện tại
xe ở tầm này thƣờng có giá khoảng 800 triệu trở lại, là mức phù hợp với khả
năng tài chính với số đông khách hàng muốn mua xe. Điều này sẽ làm cho giá
ôtô trong nƣớc giảm đáng kể góp phần kích thích nhu cầu mua sắm ôtô trong
những năm tới.
Hình 4.2. Dự báo tiêu thụ ôtô (2015 – 2019)
Nguồn: BMI, VAMA
Dựa trên mức tăng trƣởng kép 12,7% đối với xe con và 7,4% đối với xe
tải trong 5 năm tới, dự báo tỷ lệ xe con sẽ đạt 53% trong khi xe tải giảm còn
39% ở thời điểm cuối năm 2019.
Hệ thống cơ sở hạ tầng – giao thông
Hệ thống cơ sở hạ tầng – giao thông ngày càng hoàn thiện: Xét riêng
Thành phố Hồ Chí Minh – khu vực tiêu thụ ôtô lớn nhất cả nƣớc, cơ sở hạ
89
tầng dƣờng nhƣ chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đi lại ngày càng tăng khi mật độ
đƣờng giao thông hiện tại chỉ ở mức 1,4 km/km2 và diện tích dùng cho giao
thông chỉ đạt dƣới 6%. Tuy nhiên, với chủ trƣơng quy hoạch mật độ giao thông đạt 2,2 km/km2 và diện tích dùng cho giao thông đạt 12,2% đến năm
2020, cùng việc xây dựng mới cũng nhƣ cải thiện hiệu quả các hệ thống giao
thông công cộng hiện có, lƣợng xe máy sẽ giảm trong thời gian tới tạo điệu
kiện cho ôtô lƣu thông thuận tiện hơn trong nội thành. Đây cũng là một yếu tố
hỗ trợ rất quan trọng đối với tiêu thụ ôtô trong tƣơng lai.
Các yếu tố rủi ro
Rủi ro chính sách: Trong bối cảnh ôtô nhập khẩu ồ ạt vào thị trƣờng
Việt Nam trong khi cơ sở vật chất – hạ tầng giao thông trong ngắn hạn vẫn
chƣa đủ khả năng hỗ trợ, khả năng các nhà điều hành khu vực ban hành thêm
các biện pháp hành chính để tạm thời kiềm hãm đà tăng trƣởng quá mức trong
mua sắm ôtô là hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ gần đây nhất là việc TP. Hồ
Chí Minh đề xuất tăng thuế trƣớc bạ trở lại mức 15%, yêu cầu chứng minh sở
hữu ôtô phải kèm theo bãi đổ xe hoặc thậm chí là đƣa ra ý kiến phải quản lý
bằng biện pháp đấu giá có giới hạn quyền sử dụng ôtô trong thành phố, mua
bán quyền sử dụng diện tích đỗ xe.
Rủi ro cạnh tranh: Đối các nhà sản xuất ôtô trong nƣớc đó chính là sức
ép phải cạnh tranh trực tiếp với các nền công nghiệp ôtô phát triển vƣợt bậc
của các nƣớc trong khu vực ASEAN và Ấn Độ. Đông Nam Á và Ấn Độ đƣợc
coi là trung tâm của các dòng xe nhỏ với giá rẻ. Thuế suất giảm, các nhà nhập
khẩu cho rằng các dòng xe nhỏ từ Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia sẽ tràn qua
Việt Nam. Với khoảng cách khá lớn về công nghệ và quy mô sản xuất, thời
gian còn lại là không đủ để Việt Nam phát triển một ngành công nghiệp đủ
sức cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mới.
90
Nếu dự thảo giảm thuế tiêu thụ đăc biệt các dòng xe có dung tích dƣới
2 lít từ 45% xuống chỉ còn 25% đƣợc thông qua, đến cuối năm 2016, ôtô nhập
khẩu nguyên chiếc từ ASEAN loại dung tích dƣới 2 lít giá sẽ giảm 2.500-
4.000 USD, xe nhập từ Ấn Độ giảm giá 1.500-2.500 USD. Với mức giá cạnh
tranh này, các doanh nghiệp trong nƣớc gần nhƣ không cạnh tranh nổi nếu
theo đúng cơ chế thị trƣờng tự do. Đối với các nhà phân phối ôtô thì chính là
rủi ro các đại lý ôtô phải cạnh tranh với nhau khi ngày càng có nhiều đối thủ
nhận thấy cơ hội và tham gia vào chuỗi bán lẻ ôtô.
Thực tế cho thấy, ngay khi thuế nhập khẩu mới chỉ giảm từ mức 60%
xuống 50% trong năm 2013, số lƣợng xe ôtô nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt
Nam đã tăng đột biến, đứng thứ 2 sau Hàn Quốc. Cụ thể, năm 2013 tăng
75.9%, 6 tháng năm 2014 tăng 50.5%, theo số liệu của Hải Quan Việt Nam.
Nhƣ vậy, sự chiếm lĩnh thị trƣờng của xe nhập khẩu là gần nhƣ không tránh
khỏi.
Mặc dù chịu tác động rất lớn, các doanh nghiệp ôtô Việt Nam sẽ không
chịu cú sốc mạnh trong ngắn hạn. Trƣớc hết, đối tƣợng xe ôtô đƣợc ƣu đãi về
thuế nhập khẩu cần có hàm lƣợng giá trị sản xuất trong nội bộ ASEAN ít nhất
là 40%. Với điều khoản này vẫn có nhiều kỳ vọng chƣa có nhiều dòng xe giá
rẻ từ ASEAN có cơ hội tiếp cận với thị trƣờng Việt Nam trong ngắn hạn.
Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng giao thông ở Việt Nam chƣa thích ứng đƣợc với
số lƣợng lớn ôtô trong ngắn hạn. Vì vậy, xe máy vẫn là sự lựa chọn hàng đầu
đối với ngƣời tiêu dùng với tính tiện dụng và linh hoạt. Cầu xe ôtô sẽ khó
bùng nổ trong ngắn hạn khi chỉ đƣợc hỗ trợ bởi yếu tố giá.
4.2. Một số gợi ý chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
trong thời gian tới
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng về ngành công nghiệp ôtô và việc
áp dụng các chính sách hỗ trợ, và các dự báo về ngành công nghiệp ôtô, tác
91
giả đƣa ra một số gợi ý về chính sách nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của ngành
công nghiệp ôtô trong thời gian tới.
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách phát triển ngành công nghiệp ôtô theo
hướng rõ ràng, minh bạch và ổn định. Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) đƣợc một thời gian và
theo các cam kết của Hiệp định bảo hộ và ƣu đãi đầu tƣ đã ký kết với Nhật
Bản, việc áp đặt tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm công nghiệp, trong đó
có ôtô đã bị loại bỏ. Việt Nam cũng đã trở thành thành viên Cộng đồng kinh
tế ASEAN (AEC), sẽ theo tiến trình giảm thuế ôtô nhập khẩu nguyên trƣớc về
0 vào năm 2018. Để ngành công nghiệp ôtô Việt Nam có thể phát triển trong
bối cảnh hội nhập và cạnh tranh nhƣ hiện nay, Nhà nƣớc cần ban hành chính
sách thuế, phí và lệ phí ổn định trong một thời gian dài đối với sản phẩm và
linh kiện ôtô; tiếp tục khuyến khích, ƣu đãi đầu tƣ vào lĩnh vực sản xuất phụ
tùng cũng nhƣ sản xuất lắp ráp ôtô, không phân biệt thành phần kinh tế; có
chính sách ƣu đãi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tƣ kết hợp với nhau, tạo
nên các loanh doanh liên kết to lớn hơn đủ vốn và năng lực sản xuất các chi
tiết, linh kiện số lƣợng lớn, có hàm lƣợng công nghệ cao; có chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tƣ nghiên cứu, phát triển, đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho ngành công nghiệp ôtô; hoàn thiện hệ thống pháp luật
và đầu tƣ trang thiết bị tiên tiến phục vụ công tác kiểm định chất lƣợng, an
toàn phƣơng tiện.
Thứ hai, Định hướng tư tưởng rõ ràng và khách quan về vai trò của
ngành công nghiệp hỗ trợ, từ đó tạo bước đột phá trong phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ làm cơ sở cho ngành công nghiệp ôtô vươn lên. Công
nghiệp ôtô trong bối cảnh hiện nay đã trở thành ngành công nghiệp toàn cầu
và những nhà sản xuất chỉ nắm những công nghệ cơ bản, còn việc sản xuất có
thể thực hiện ở bất cứ đâu họ cảm thấy có lợi nhất. Để sản xuất ra một chiếc
92
ôtô, hãng Toyota cần khoảng 1.600 nhà cung cấp các loại chi tiết, linh kiện.
Hãng Mercedes cũng có khoảng 1.400 doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ đƣợc coi là vấn đề cốt lõi, là điều kiện không
thể thiếu của sản xuất ôtô, gắn liền với chính sách nội địa hóa và xuất khẩu
phụ tùng. Tuy nhiên không phải cứ cần những chi tiết, linh kiện nào thì cũng
phải đầu tƣ sản xuất. Do đó, cần xác định rõ loại phụ tùng, linh kiện nào Việt
Nam nên đầu tƣ, sử dụng vật tƣ trong nƣớc. Bên cạnh đó nhà nƣớc cũng cần
có định hƣớng và xây dựng các tiêu chí chọn lọc các doanh nghiệp có đủ khả
năng tham gia vào ngành sản xuất phụ tùng, tránh tình trạng để các doanh
nghiệp mơ hồ, tự xoay xở mày mò trong mịt mùng. Vai trò của nhà nƣớc
cũng cần quyết liệt và hiện thực hơn trong việc tạo dựng và duy trì mối liên
kết giữa các nhà sản xuất, lắp ráp ôtô và các nhà cung ứng phụ tùng. Chỉ có
sự liên kết chặt chẽ mới phát triển đƣợc thị phần cung ứng phụ tùng, linh kiện
của Việt Nam cho các liên doanh lắp ráp trong nƣớc và tham gia vào hệ thống
phân phối phụ tùng toàn cầu. Kinh nghiệm về phát triển ngành công nghiệp
ôtô của một số quốc gia trên thế giới đã chỉ ra rằng, việc sản xuất ra một loại
phụ tùng hay chi tiết động cơ chỉ thực sự có hiệu quả về mặt kinh tế khi đƣợc
sản xuất với số lƣợng đủ lớn.
Hiện nay, ở Việt Nam, các cơ sở sản xuất phụ tùng, linh kiện phục
vụ cho việc lắp ráp ôtô còn rất nhỏ và nhiều hạn chế. Với thực trạng thị
trƣờng ôtô và môi trƣờng đầu tƣ nhƣ hiện nay, không dễ thu hút đƣợc các nhà
sản xuất phụ tùng nƣớc ngoài quyết định đầu tƣ vào Việt Nam. Đối với những
linh kiện, phụ kiện có giá trị gia tăng cao, do quy mô thị trƣờng còn quá nhỏ
nên các liên doanh không đặt hàng trong nƣớc mà hầu hết đều nhập khẩu từ
công ty mẹ. Nhà nƣớc cần phải có chƣơng trình nội địa hóa cụ thể, giảm giá
thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lƣợng, khiến các nhà lắp ráp ôtô thấy có
lợi hơn khi mua một số nhóm linh kiện nào đó ở thị trƣờng trong nƣớc thay vì
93
nhập khẩu. Có nhƣ vậy mới kích thích đƣợc sự phát triển ngành công nghiệp
hỗ trợ, sản xuất phụ tùng phục vụ cho việc lắp ráp ôtô.
Thứ ba, Có chính sách kích cầu thị trường ôtô đúng đắn. Một số tính
toán cũng cho thấy, thuế phí đang chiếm trên dƣới 50% giá bán của các loại
ôtô sản xuất và lắp ráp trong nƣớc. Cần xác định rõ, ôtô hiện nay đã là một
phƣơng tiện giao thông bình thƣờng nhƣ các phƣơng tiện khác chứ không còn
là mặt hàng xa xỉ. Vì thế, cần phải có biện pháp hạ giá bán xe để gia tăng thị
trƣờng ô tô. Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp giảm thuế phí đơn thuần thì lại
có tác dụng nghịch. Chính nhờ có mức thuế nhập khẩu đối với xe nguyên
chiếc nhƣ thời gian qua mà xe sản xuất láp ráp trong nƣớc tạo đƣợc lợi thế
cạnh tranh đối với xe ngoại nhập. Lộ trình giảm thuế nhập khẩu thuế đối với
xe ngoại nhập nguyên chiếc đang dần đi đến điểm cuối, khiên cho chi phí
chênh lệch giữa nhập khẩu và sản xuất láp rắp ở trong nƣớc bị rút ngắn nhanh
chóng và nhãn tiền sẽ là sự đổi chiều. Các doanh nghiệp FDI sẵn sàng rút
khỏi sân chơi đầu tƣ dầy truyền sản xuất lắp ráp ô tô ở Việt Nam mà chuyển
sang nhập khẩu và kinh doanh thƣơng mại. Khi đó, giấc mơ ô tô Việt Nam sẽ
càng trở nên mỏng manh hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, các biện pháp về thuế
phí khác tạo sự khác biệt đối xử giữa xe nội địa và xe ngoại nhập sẽ vi phạm
các cam kết khi gia nhập các tổ chức quốc tế về kinh tế quốc tế.
Việt Nam có thể có các chính sách ƣu đãi nhƣ giảm lãi suất chiết khấu,
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc,… khuyến khích các tổ chức tài chính – tín dụng,
ngân hàng thƣơng mại liên kết trực tiếp với các doanh nghiệp sản xuất láp ráp
ô tô trong nƣớc thực hiện các chƣơng trình kích cầu nhƣ các chƣơng trình
mua trả góp lãi suất thấp trong dài hạn có điều kiện đảm bảo, các chƣơng
trình khuyến mại, hậu mãi đối với xe sản xuất lắp ráp trong nƣớc. Chính phủ
cũng có thể có chính sách hỗ trợ ngƣời mua ô tô thuộc diện ƣu tiên theo
Quyết định 229 chi phí đào tạo lái xe, sửa chữa xe cơ bản. Chính phủ cũng
94
cần quyết liệt hơn nữa trong việc kiểm soát và loại bỏ những chiếc xe ô tô đã
hết thời hạn lƣu hành, hạn chế nhập khẩu xe đã qua sử dụng bằng các công cụ
thuế quan, thuế môi trƣờng,… và hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật để kích thích
tiêu dùng xe sản xuất lắp ráp mới.
Thứ tư, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và định hướng
nghiên cứu sản xuất các dòng xe phù hợp với đô thị chật hẹp. Hạ tầng giao
thông đƣờng bộ yếu kém cùng với sự tăng trƣởng quá nhanh của các phƣơng
tiện giao thông, nhất là xe gắn máy trong những năm gần đây tăng mạnh, dẫn
đến tình trạng ùn tắc giao thông ở các đô thị lớn nhƣ thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội... Vì thế, một trong những giải pháp để thúc đẩy ngành công nghiệp
ôtô Việt Nam phát triển là phải đẩy mạnh đầu tƣ nâng cấp cơ sở hạ tầng nhƣ
cầu đƣờng, bến bãi đỗ xe, phƣơng tiện giao thông công cộng, hệ thống biển
báo và tín hiệu giao thông. Việc mở rộng các tuyến giao thông đô thị, các
đƣờng vành đai phải đƣợc quy hoạch dài hạn và có hệ thống, phải dự báo
trƣớc tốc độ tăng trƣởng của các phƣơng tiện giao thông trong tƣơng lai để
tránh tình trạng vừa mở xong đƣờng lại tiếp tục kẹt xe. Xúc tiến nhanh các
tuyến đƣờng sắt “siêu tốc” Bắc - Nam, các cao tốc liên tỉnh để đảm bảo trục
vận chuyển xƣơng sống cho cả nƣớc. Với hình dạng đặc biệt của lãnh thổ Việt
Nam (dài và hẹp), hệ thống giao thông vận tải có thể phù hợp với một kiểu
thiết kế xƣơng cá với những nhánh nối liền hành lang Đông - Tây và trục
chính. Cũng do đặc điểm địa dình dài và hẹp nên cần hƣớng đến các dòng xe
nhỏ, nhẹ, tiết kiệm nguyên liệu để hoạt động tốt trong khu vực nội thị đông
dân cƣ và hệ thống đƣờng xá lâu đời hạn hẹp vốn khó có thể mở rộng nâng
cấp vì có rất nhiều vấn đề khiến chi phí quá lớn. Điều này là phù hợp với đặc
thù của thị trƣờng và cũng là một gợi ý cho việc phát triển một dòng xe công
nghệ mới, sẽ giảm đƣợc sự canh tranh trực tiếp từ các đối thủ mạnh khác
trong khu vực. Nâng cấp đồng bộ về phƣơng tiện, thiết bị và dịch vụ đối với
95
hệ thống giao thông công cộng nhƣ các tuyến đƣờng sắt công cộng trong các
đô thị lớn, các tuyến xe buýt. Thiết lập làn đƣờng dành riêng cho xe buýt để
tăng tốc độ di chuyển của loại phƣơng tiện này, đáp ứng đƣợc nhu cầu đi lại
của nhiều ngƣời dân, sẽ giảm đƣợc lƣợng phƣơng tiện cá nhân nhanh chóng.
KẾT LUẬN
Ngành công nghiệp ôtô là một ngành phát triển lâu đời trên thế giới. Ở
Việt Nam, lịch sử hình thành chính thức và phát triển của ngành công nghiệp
này chƣa quá 25 năm, nên vẫn là quá non trẻ so với các nƣớc trong khu vực
và thế giới. Mặc dù, là ngƣời đi sau và còn thiếu rất nhiều nguồn lực thiết yếu
của ngành (vốn và công nghệ), chính phủ Việt Nam vẫn quyết tâm theo đuổi
ƣớc mơ “chiếc xe ôtô Việt Nam” và duy trì quan điểm coi đây là ngành công
nghiệp mũi nhọn, chiến lƣợc phát triển của đất nƣớc, bỏ công nghệ xe hơi là
bỏ đi một trong những cơ hội để phát triển toàn diện.
Chính phủ Việt Nam đã xây dựng các bản Quy hoạch phát triển có tầm
nhìn rộng để làm đƣờng hƣớng phát triển ngành công nghiệp ôtô. Cùng với đó
thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nhƣ các chính sách về ƣu đãi tài chính và
thuế, các chính sách thu hút đầu tƣ, kích cầu thị trƣờng và các chính sách
khác. Tuy đạt đƣợc một số thành tích nhƣ đã có một hệ thống các liên doanh
và doanh nghiệp trong nƣớc hình thành nên Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô
Việt Nam và hệ thống các nhà sản xuất công nghiệp hỗ trợ, nhìn chung các
chính sách của Việt Nam vẫn chƣa đạt đƣợc hiệu quả nhƣ kỳ vọng của chính
phủ thể hiện trong chính các bản quy hoạch theo thời kỳ và các chính sách.
Hệ quả là đã tạo ra một nền công nghiệp “lắp ráp” ôtô chứ chƣa thực sự là sản
xuất. Việt Nam đang thể hiện là một địa chỉ làm xƣởng lắp đặt của các hãng
xe thế giới hơn là một đối thủ tiềm năng cạnh tranh trong ngành ôtô thế giới.
Nguyên nhân về mặt chính sách có thể kể đến sự thiếu ổn định và có
phần “đỏng đảnh” của các chính sách, có lúc rất tạo thuận lợi phát triển có lúc
96
lại đột ngột quay đầu, khiến các doanh nghiệp trong ngành cũng không chắc
chắn về việc chính phủ đang thực sự hỗ trợ hay kìm chế. Các bản quy hoạch
phát triển có tầm nhìn xa nhƣng vẫn còn hạn chế về chiều rộng, do chƣa quan
tấm đến sự phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ với sự phát triển của ngành
ôtô. Dẫn đến các bộ ban ngành ban hành các chính sách khác nhau. Nơi có
chính sách ƣu đãi, thúc đẩy đầu tƣ yêu cầu các doanh nghiệp cam kết đạt tỷ lệ
nội địa hóa cao thì nơi khác lại có chính sách làm tăng chi phí, hạn chế sức
mua. Sự xung đột nhƣ vậy làm giảm hiệu quả của các chính sách hỗ trợ và
gây ra một sự lãng phí – các doanh nghiệp vẫn hƣởng lợi lớn từ ƣu đãi nhƣng
vẫn “thất hứa” không nâng đƣợc bao nhiêu tỷ lệ nội địa hóa và đất nƣớc thì
vẫn chƣa đƣợc hƣởng lợi ích từ sử dụng ôtô là phƣơng tiện giao thông và phát
triển kinh tế. Dựa trên sự tham khảo kinh nghiệm các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới, có thể nhận định bài toán của ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam không phải không có lời giải, vấn đề là chúng ta có muốn giải bài toán
đó hay không.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Linh Anh, 2007. Kích cầu thị trƣờng ôtô: Ai lợi - lợi ai?. Báo Diễn
đàn Doanh nghiệp, số 95.
2. Bộ Công Thƣơng - Viện Nghiên cứu Chiến lƣợc, Chính sách công
nghiệp, 2007. Ngành công nghiệp ô-tô Việt Nam sau gần 20 năm xây dựng.
Hà Nội, tháng 11 năm 2007.
3. Hoàng Văn Châu, 2010. Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
của Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông.
4. Nguyễn Tiến Dũng, 2005. Về chính sách phát triển ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Trung tâm Thông tin và Dự báo
Kinh tế - Xã hội Quốc gia – NCIEF.
5. Nguyễn Tiến Dũng, 2007. Thực trạng và giải pháp phát triển ngành
công nghiệp ôtô ở Việt Nam. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội
Quốc gia – NCIEF.
6. Tấn Đức, 2007. Lối đi nào cho ngành ôtô?. Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, số 26, trang 862.
7. Thúy Lan, 2007. Đi về đâu, ôtô Việt Nam?. Thời báo Kinh tế
Việt Nam, số 272, trang 862.
8. Đặng Minh Sang, 2011. Phân tích chính sách bảo hộ ngành công
nghiệp ôtô ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Trƣờng Đại học Kin tế Luật -
ĐHQG thành phố HCM.
9. Nguyễn Hữu Trƣờng, 2015. Tình hình xuất nhập khẩu ôtô nguyên
chiếc và phụ tùng, linh kiện ôtô tại Việt Nam. Viện Nghiên cứu Chiến lƣợc,
Chính sách Công nghiệp.
98
10. Nhâm Phong Tuân và Trần Đức Hiệp, 2014. Ảnh hƣởng của các
chính sách tới sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô Việt Nam. Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, tập 30, số 4, trang 12-20.
Tiếng Anh
11. Arve Hansen, 2016. Driving Development? The Problems and
Promises of the Car in Vietnam. University of Oslo, Norway.
12. Automotive Working Group, 2013. Position Paper of Automotive
Working Group. Vietnam Business Forum.
13. Kenichi Ohno, 2003. Vietnam’s Industrialization Strategy in the
Age of Globalization. National Economics University and Japan International
Cooperation Agency.
14. Kenichi Ohno, 2006. Vietnam’s Industrial Policy Formulation: To
Become a Reliable Partner in Integral Manufacturing. Vietnam Development
Forum and National Graduate Institute for Policy Studies.
15. Kenichi Ohno & Mai The Cuong, 2004. The Automobile Industry in
Vietnam, Remaining Issues in Implementing the Master Plan. Vietnam
Development Forum and and National Economics University.
16. Takayasu, 1998. Developing the Vietnamese Automobile Industry.
Massachusetts Institute Sakura, Japan.
17. Timothy, 1998. The Automotive Industry in Vietnam: Prospects For
Development In a Globalizing Economy. Massachusetts Institute of
Technology
18. Timothy, Johannes and Gary, 2008. Value Chains, Networks, and
Clusters: Reframing the Global Automotive Industry. Journal of Economic
Geography.
99
19. Truong, T. C. B. and M. L. Nguyen, 2011. Development of
Automotive Industries in Vietnam with Improving the Network Capability,
How to Enhance Innovation Capability with Internal and External Sources.
ERIA Research Project, pp.273-307.
20. Thuy, N. B., 2008. Industrial policy as determinant localization:
the case of Vietnamese automobile industry. University of Waseda Japan.
21. Tuan, P. & N. T. Van Anh, 2008. Impacts of the protection policy
for the vietnam’s automobile industry. General Department of Vietnam
Customs & Ministry of Finance.
Internet
22. Vĩnh Cẩm, 2015. Công nghiệp ôtô các nƣớc (k2): Hàn Quốc. <
http://www.saigondautu.com.vn/pages/20150527/ky-2-han-quoc.aspx>.
[Ngày truy cập: 15 tháng 4 năm 2016].
23. Văn Cƣờng, 2013. Công nghiệp phụ trợ các nƣớc (k2): Nhật Bản và
Malaysia. malaysia.aspx>. [Ngày truy cập: 15 tháng 4 năm 2016]. 24. Bùi Ngọc Huyên, 2014. Phát triển Công nghiệp ôtô Việt Nam: Có nội địa hóa đƣợc 40%?. trien-cong-nghiep-o-to-viet-nam-co-noi-111ia-hoa-111uoc-40>. [Ngày truy cập: 15 tháng 2 năm 2016] 25. Phạm Chi Lan, 2015. Cần thay đổi tƣ duy về thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. dau-tu-nuoc-ngoai>. [Ngày truy cập: 20 tháng 3 năm 2016]. 26. Tạp chí kinh tế và dự báo, 2016. Thị trƣờng ôtô Việt Nam còn nhiều dƣ địa để phát triển. 100 Viet-Nam-con-nhieu-du-dia-de-phat-trien>. [Ngày truy cập: 2 tháng 5 năm 2016]. Website 27. Bộ Công thƣơng: http://www.mot.gov.vn 28. Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam: www.vama.org.vn 29. IHS Inc.: https://www.ihs.com 30. The Economist: www.economist.com 31. Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn 32. Tổ chức quốc tế các nhà sản xuất ôtô: www.oica.net 33. Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn 101