BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------
DƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA
THUỘC VÙNG DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
Luận án tiến sĩ kinh tế
Hà Nội, Năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA
THUỘC VÙNG DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 9340410
Luận án tiến sĩ kinh tế
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS Nguyễn Thị Nguyên Hồng
2. TS. Trần Thị Bích Hằng
Hà Nội, Năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu được
nêu trong luận án có nguồn gốc rõ ràng và trung thực. Những kết luận được rút ra từ
luận án là không trùng lặp và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học
nào khác./.
Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2021
Nghiên cứu sinh
Dương Thị Hồng Nhung
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, Nghiên cứu sinh xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám
hiệu và Quý Thầy Cô Trường Đại học Thương mại đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất để Nghiên cứu sinh hoàn thành luận án này.
Nghiên cứu sinh xin chân thành cảm ơn tập thể giảng viên hướng dẫn khoa
học của luận án đã rất tận tình, tâm huyết và trách nhiệm, giúp Nghiên cứu sinh
những quy chuẩn về phương pháp nghiên cứu, nội dung và kiến thức quý báu để
Nghiên cứu sinh hoàn thành luận án.
Nghiên cứu sinh xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tổng cục Du lịch, Viện
Nghiên cứu Phát triển Du lịch, Sở Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của các
địa phương thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc, các
cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức đã nhiệt tình hỗ trợ,
cung cấp tài liệu và trả lời phỏng vấn, điều tra.
Cuối cùng, Nghiên cứu sinh xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, sinh viên đã tận tình hỗ trợ, giúp đỡ Nghiên cứu sinh trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2021
Nghiên cứu sinh
Dương Thị Hồng Nhung
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii
MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................... viii
DANH MỤC HÌNH VẼ ................................................................................................. ix
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ......................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và các câu hỏi nghiên cứu .......................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 4
4. Những đóng góp mới của luận án ............................................................................... 5
5. Kết cấu của luận án ..................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .................................................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu đề tài ..................... 7
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................. 7
1.1.2. Kết luận và khoảng trống nghiên cứu ................................................................ 16
1.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 17
1.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu ............................................................................ 18
1.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu .......................................................................... 21
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA .......................................... 23
2.1. Một số khái luận cơ bản về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia .................. 23
2.1.1. Khu du lịch quốc gia ........................................................................................... 23
2.1.2. Phát triển khu du lịch quốc gia .......................................................................... 26
2.1.3. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia ........................................................ 29
2.2. Nội dung nghiên cứu về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia ............. 32
2.2.1. Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia ................................................. 32
2.2.2. Quy trình chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia ................................. 42
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia .......... 47
2.3.1. Các yếu tố phạm vi vĩ mô quốc gia ..................................................................... 47
2.3.2. Các yếu tố phạm vi địa phương cấp tỉnh ............................................................ 49
2.4. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia và bài học
rút ra cho Vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc .................................... 52
iv
2.4.1. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia
trong và ngoài nước ...................................................................................................... 52
2.4.2. Bài học rút ra cho các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc ...................................................................................... 63
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH
QUỐC GIA THUỘC VÙNG DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ DUYÊN
HẢI ĐÔNG BẮC .......................................................................................................... 65
3.1. Khái quát về sự phát triển du lịch tại vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải
Đông Bắc và các khu du lịch quốc gia thuộc Vùng ..................................................... 65
3.1.1. Khái quát về sự phát triển du lịch tại vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và
Duyên hải Đông Bắc ..................................................................................................... 65
3.1.2. Khái quát về các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng
và Duyên hải Đông Bắc ................................................................................................ 67
3.2. Kết quả phân tích thực trạng về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc .......................... 72
3.2.1. Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc ...................................................................................... 72
3.2.2. Thực trạng quy trình chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc .......................................................... 72
3.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc ....................... 103
3.3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố phạm vi vĩ mô quốc gia.......................................... 104
3.3.2. Ảnh hưởng của các yếu tố phạm vi địa phương cấp tỉnh ................................. 107
3.4. Đánh giá chung về thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc
vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc .................................. 112
3.4.1. Thành công và nguyên nhân ............................................................................. 112
3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................................... 114
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA THUỘC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC ..................................................................... 120
4.1. Bối cảnh, phương hướng và mục tiêu phát triển du lịch vùng Du lịch Đồng bằng
Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc ........................................................................... 120
4.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch hiện nay ................................................................. 120
4.1.2. Mục tiêu phát triển du lịch vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
...................................................................................................................................... 122
v
4.1.3. Phương hướng phát triển du lịch vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên
hải Đông Bắc ............................................................................................................... 123
4.2. Quan điểm và định hướng hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc .................................. 126
4.2.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia vùng du lịch
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc ........................................................ 127
4.2.2. Định hướng hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia vùng Du
lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc................................................. 128
4.3. Giải pháp hoàn thiện chính phát triển các khu du lịch quốc gia vùng Du lịch Đồng
bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 . 129
4.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện quy trình chính sách………… ......... ……………129
4.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các chính sách……………… ........ ……………….129
4.3.3. Nhóm giải pháp đặc thù về chính sách để phát triển du lịch tại các khu du
lịch quốc gia ................................................................................................................ 145
4.4. Một số kiến nghị ................................................................................................... 147
4.4.1.Kiến nghị với các cơ quan trung ương………………………… ........ …………..147
4.4.2. Kiến nghị với các cơ quan địa phương……………………… ....... …………….148
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN………………………………..…………………………xi
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..xvii
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL : Ban quản lý
CQQL : Cơ quan quản lý
CSVCKT : Cơ sở vật chất kĩ thuật
CSHT : Cơ sở hạ tầng
DNDL : Doanh nghiệp du lịch
ĐBSH&DHĐB : Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
ĐH : Đại học
ĐVT : Đơn vị tính
GDĐT : Giáo dục đào tạo
GTGT : Giá trị gia tăng
HĐND : Hội đồng nhân dân
KDL : Khu du lịch
KDLQG : Khu du lịch quốc gia
MTV : Một thành viên
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NCS : Nghiên cứu sinh
NĐ : Nội địa
NNL : Nguồn nhân lực
Nxb : Nhà xuất bản
QĐ : Quyết định
QG : Quốc gia
QLNN : Quản lý nhà nước
QT : Quốc tế
SPDL : Sản phẩm du lịch
TCDL : Tổng cục Du lịch
TDTT : Thể dục, Thể thao
vii
TNDL : Tài nguyên du lịch
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TP : Thành phố
TW : Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân
VHTTDL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
VNCPTDL : Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
SỐ TÊN BẢNG TRANG BẢNG
Bảng 1.1. Số lượng phiếu điều tra các DNDL tại các KDLQG
21 thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB
Bảng 2.1. Các chính sách du lịch chủ yếu 33
Ban quản lý tại các KDLQG thuộc vùng Du lịch
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả phỏng vấn chuyên gia về chính sách
34 du lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG
ĐBSH&DHĐB
Bảng 3.1. 84
Kế hoạch phát triển các KDLQG vùng Du lịch Bảng 4.1. 126 ĐBSH&DHĐB đến năm 2030
ix
DANH MỤC HÌNH VẼ
SỐ HÌNH TRANG
85 Hình 3.1. TÊN HÌNH
Đánh giá của DNDL về nội dung xác định, lựa chọn vấn đề
và xây dựng phương án
86
87 Hình 3.2. Đánh giá của DNDL về nội dung lựa chọn phương án tối ưu
Hình 3.3. Đánh giá của DNDL về quyết định ban hành chính sách
88 Hình 3.4.
90 Hình 3.5.
91 Hình 3.6. Đánh giá của DNDL về xây dựng chương trình hành động
và phổ biến rộng rãi cho doanh nghiệp
Đánh giá của DNDL về việc ra văn bản hướng dẫn và tập huấn
cho doanh nghiệp
Đánh giá của DNDL về việc thông tin, tuyên truyền chính sách
đến các doanh nghiệp
Hình 3.7. Đánh giá của DNDL về tổ chức quỹ thực hiện chính sách
Hình 3.8.
Hình 3.9.
Hình 3.10. 99
Hình 3.11. 99
Hình 3.12. 100
Hình 3.13. 100 92
Đánh giá của DNDL về công tác kiểm tra chấp hành
96
chính sách
Đánh giá của DNDL về công tác thanh tra chấp hành
97
chính sách
Đánh giá của DNDL về mức độ phù hợp của chính sách với
đường lối của Đảng và Nhà nước
Đánh giá của DNDL về sự đồng bộ, nhất quán, minh bạch,
ổn định và có tính kế thừa của chính sách
Đánh giá của DNDL về tính khoa học và khả thi
của chính sách
Đánh giá của DNDL về khả năng đáp ứng nhu cầu
của chính sách
Hình 3.14. Đánh giá của DNDL về sự ủng hộ của dân cư chính sách
Hình 3.15. Đánh giá của DNDL về điều chỉnh chính sách 100
103
Hình 3.16. 104
Hình 4.1. 122
Hình 4.2. 123 Đánh giá của DNDL về mức độ ảnh hưởng các yếu tố đến
chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB
Mục tiêu về khách du lịch của vùng ĐBSH&DHĐB
đến năm 2030
Mục tiêu về tổng thu từ khách du lịch và đóng góp của du lịch
trong GDP của vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2030
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong nhiều thập kỷ qua, du lịch đã có sự tăng trưởng và đa dạng hóa mạnh mẽ
để trở thành một trong những khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Không
chỉ vậy, đây cũng là ngành được chính phủ các quốc gia xem xét như một phương tiện
tạo thêm nhiều việc làm cho người dân, góp phần ổn định xã hội trong suốt những năm
qua. Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới, năm 2019 lữ hành và du lịch chiếm
10,3% GDP toàn cầu và 330 triệu việc làm, tức là gần 1/10 việc làm trên thế giới. Cũng
vào năm 2019, lĩnh vực này đạt mức tăng trưởng 3,5%, cao hơn cả mức tăng trưởng
kinh tế toàn cầu là 2,5%. Vì vậy, kiểm soát và quản lý ngành Du lịch đáp ứng nhu cầu
phát triển quốc gia luôn cần được khuyến khích và hỗ trợ, nhằm đảm bảo sự phát triển
này tương thích với các thế mạnh về tự nhiên, văn hoá và các giá trị địa phương.
Đối với các điểm đến du lịch, đặc biệt là các khu du lịch quốc gia (KDLQG), là
những khu vực có tài nguyên du lịch (TNDL) đa dạng, có sức hấp dẫn với ưu thế về
cảnh quan thiên nhiên và/hoặc giá trị văn hóa, có ranh giới xác định, có kết cấu hạ tầng,
cơ sở vật chất kỹ thuật (CSVCKT), dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu
lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch thì càng cần có sự kiểm soát và
quản lý chặt chẽ từ phía nhà nước để đảm bảo phát triển lâu dài và hiệu quả. Tuy nhiên
thực trạng hiện nay cho thấy, tại các KDLQG vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng
với tiềm năng du lịch, các hoạt động du lịch còn chưa đồng bộ, thiếu sự liên kết và
chưa mang tính dài hạn, chưa thể hiện được vai trò và tính chất của điểm đến du lịch
cấp quốc gia. Do vậy, chính sách quản lý nhà nước (QLNN) tại các KDLQG là rất cần
thiết để đảm bảo hoạt động du lịch tại đây phát triển một cách bền vững và có trách
nhiệm để mang lại những đóng góp tích cực và đáng kể vào sự phát triển của mỗi vùng,
mỗi quốc gia, mỗi khu vực và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030, ngày 22 tháng 01 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
201/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển bảy vùng du lịch bao gồm: vùng
Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc,
vùng Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông
Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ. Các vùng du lịch này tập trung phát triển những sản
phẩm đặc trưng theo từng vùng, từ đó tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch cho từng
vùng và cả nước.
2
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc (ĐBSH&DHĐB) là một vùng
đất rộng lớn, có thể phát triển nhiều loại hình du lịch, nằm quanh khu vực hạ lưu sông
Hồng bao gồm 11 tỉnh/thành phố là Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng
Yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng và Quảng Ninh. Với
TNDL phong phú, theo Quyết định số 2163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030”, Vùng có 9 KDLQG, gồm: Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc
Việt Nam (Hà Nội), khu du lịch (KDL) Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội), KDL Tam Đảo
(Vĩnh Phúc), KDL Tam Chúc (Hà Nam), KDL Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương),
KDL Hạ Long – Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng), KDL Vân Đồn (Quảng Ninh),
KDL Trà Cổ (Quảng Ninh) và KDL Tràng An (Ninh Bình). Tuy nhiên, đến tháng
7/2021, vùng ĐBSH&DHĐB mới chỉ có duy nhất một KDLQG được công nhận chính
thức, đó là KDLQG Trà Cổ, Thành phố Móng Cái, Quảng Ninh (theo Quyết định số
1501/QĐ-BVHTTDL ngày 24/4/2019). Do đó, nghiên cứu xây dựng, áp dụng các
chính sách QLNN nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG; đồng thời hoàn thiện các
chính sách đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa góp phần bảo tồn giá trị TNDL, vừa
đảm bảo khai thác hiệu quả và bền vững các yếu tố tài nguyên.
Hiện nay, các KDLQG đã được xác định trong Quy hoạch du lịch tại vùng
ĐBSH&DHĐB vẫn chưa có chính sách du lịch riêng của Vùng và cũng chưa có chính
sách du lịch riêng cho KDLQG. Các chính sách hiện đang triển khai tại đây bao gồm
các chính sách phát triển du lịch nói chung như: Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên
và môi trường du lịch; Chính sách phát triển sản phẩm du lịch (SPDL); Chính sách đào
tạo phát triển nguồn nhân lực (NNL); Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) và cơ
sở vật chất kĩ thuật (CSVCKT) du lịch; Chính sách tài chính; Chính sách xúc tiến,
quảng bá du lịch; Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch,...Tuy vậy, việc triển
khai một số chính sách QLNN chưa thực sự hiệu quả, cụ thể: Chính sách phát triển
CSHT và CSVCKT du lịch chưa thích hợp; Chính sách đào tạo và phát triển NNL du
lịch còn yếu kém; Chính sách xúc tiến, quảng bá chưa được quan tâm đúng mức cả về
trình độ chuyên môn và nguồn tài chính hỗ trợ xúc tiến du lịch; Chính sách đầu tư du
lịch chưa kích thích đầu tư kinh doanh du lịch; Chính sách phát triển sản phẩm chưa
khuyến khích khai thác hợp lý tiềm năng du lịch, chưa phát triển thị trường du lịch của
vùng tương xứng với vị thế và tiềm năng du lịch, chưa thúc đẩy ngành du lịch địa
phương phát triển,... Do đó, sự phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB còn chưa thực sự mang lại hiệu quả. Để có điều kiện hội nhập vào trào
lưu phát triển du lịch của cả nước, của khu vực và quốc tế, khai thác hiệu quả các tiềm
3
năng du lịch, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước thì việc đề ra, thực
hiện chính sách phát triển các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB trong giai đoạn trước mắt
và tầm nhìn lâu dài là một yêu cầu cần thiết và cấp bách.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học (NCKH), các đề tài
trong và ngoài nước nghiên cứu về sự phát triển du lịch tại các vùng du lịch nói chung
và tại vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng. Những công trình nghiên cứu này đã cung cấp
cơ sở lý luận và quan điểm, cách tiếp cận về sự phát triển du lịch tại đây, những vấn đề
lý luận về KDL, chính sách phát triển du lịch, tình hình phát triển du lịch vùng
ĐBSH&DHĐB. Từ đó có thể khẳng định, việc nghiên cứu chính sách phát triển
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB là rất quan trọng, có ý nghĩa và cần được quan tâm
nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do đó, nghiên cứu sinh (NCS) đã quyết định lựa chọn đề
tài “Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng
Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc Việt Nam” làm luận án tiến sĩ kinh tế. Thông qua
nghiên cứu này, NCS mong muốn đóng góp một phần cho việc hoàn thiện những chính
sách nói trên để có thể khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch của vùng.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và các câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Đề xuất được giải pháp và kiến nghị chủ yếu hoàn thiện
chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án
xác định nhiệm vụ bao gồm: 1) Tổng quan tình hình nghiên cứu và xác định phương
pháp nghiên cứu của luận án; 2) Hệ thống hóa và bổ sung cơ sở lý luận về chính sách
phát triển các KDLQG tại vùng du lịch; 3) Tổng quan kinh nghiệm chính sách phát
triển một số KDLQG trên thế giới và tại Việt Nam và rút ra các bài học vận dụng trong
hoàn thiện chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB của
Việt Nam; 4) Khảo sát, phân tích và đánh giá toàn diện nội dung và quy trình chính
sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB và các yếu tố ảnh
hưởng, rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân từ thực trạng; 5) Đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du
lịch ĐBSH&DHĐB.
Câu hỏi nghiên cứu: Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đăt ra các câu
hỏi nghiên cứu sau:
4
Một là, Cơ sở lý luận về chính sách phát triển các KDLQG tại vùng du lịch như
thế nào? Kinh nghiệm nào về chính sách phát triển KDLQG trên thế giới và tại Việt
Nam mà KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB có thể áp dụng?
Hai là, Nội dung các chính sách phát triển các KDLQG được quy hoạch tại vùng
ĐBSH&DHĐB thế nào? Quy trình chính sách phát triển KDLQG tại vùng
ĐBSH&DHĐB như thế nào? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến chính sách phát triển
KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB?
Ba là, Quan điểm và phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG
vùng ĐBSH&DHĐB như thế nào và cần có các giải pháp và kiến nghị gì để hoàn thiện
chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chính sách phát triển các KDLQG tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.
Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nội dung nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách phát triển KDLQG và quy trình
chính sách nhằm phát triển các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.
Tại các KDLQG, có nhiều nhóm chính sách phát triển KDLQG như chính sách
kinh tế, chính sách văn hóa, chính sách du lịch,… Tuy nhiên, trong phạm vi luận án
của mình, NCS tập trung vào các chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch tại các
KDLQG.
Qua khảo sát thực tế và phỏng vấn chuyên gia tại các KDLQG được quy hoạch,
NCS đã giới hạn nghiên cứu 8 chính sách du lịch, cụ thể là: Chính sách bảo tồn, tôn
tạo tài nguyên và môi trường du lịch; Chính sách tài chính; Chính sách kích cầu du
lịch; Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch; Chính sách đầu tư CSHT và
CSVCKT du lịch; Chính sách phát triển SPDL; Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
và Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch.
Các chính sách du lịch trong phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm các chính
sách của Nhà nước và các chính sách của địa phương.
- Về phạm vi không gian nghiên cứu: Luận án giới hạn nghiên cứu tại các
KDLQG được xác định theo Quyết định số 2163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo Quy hoạch, vùng du lịch ĐBSH&DHĐB gồm 9
KDLQG: KDL Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội), KDL Ba Vì –
5
Suối Hai (Hà Nội), KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc), KDL Tam Chúc (Hà Nam), KDL Côn
Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương), KDL Hạ Long – Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng),
KDL Vân Đồn (Quảng Ninh), KDLQG Trà Cổ (Quảng Ninh) và KDL Tràng An (Ninh
Bình). Trong đó, tính đến tháng 7 năm 2021 chỉ có duy nhất một KDLQG được công
nhận chính thức, đó là KDLQG Trà Cổ, Thành phố Móng Cái, Quảng Ninh (theo Quyết
định số 1501/QĐ-BVHTTDL ngày 24/4/2019), còn lại 8 KDLQG vẫn đang được quy
hoạch hoặc sắp được quy hoạch chính thức.
- Về phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận án giới hạn nghiên cứu thực trạng giai
đoạn 2015 – 2019, một số vấn đề được xem xét trong bối cảnh năm 2020 và đề xuất
giải pháp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
4. Những đóng góp mới của luận án
Về lý luận: Luận án đã hệ thống hóa và tập trung làm rõ hơn một số cơ sở lý
luận về chính sách phát triển KDLQG tại vùng du lịch, bao gồm xác định các chính
sách phát triển du lịch tại các KDLQG, xác định nội dung và quy trình chính sách phát
triển KDLQG, tìm hiểu và đánh giá tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách
phát triển KDLQG tại Vùng du lịch.
Về thực tiễn
- Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số KDLQG tiêu biểu ở Việt Nam
và thế giới (tại Trung Quốc và Hàn Quốc), rút ra được 8 bài học kinh nghiệm về chính
sách phát triển KDLQG vận dụng cho vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB trong thời gian tới.
- Đánh giá được thực trạng 8 chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc
Vùng và quy trình chính sách phát triển KDLQG, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố cấp vĩ mô và cấp tỉnh tới thực trạng chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng
du lịch ĐBSH&DHĐB, rút ra được những thành công, hạn chế và nguyên nhân để làm
căn cứ đề xuất các giải pháp, kiến nghị.
- Đề xuất được các nhóm giải pháp và kiến nghị Chính phủ, Bộ, Ban, Ngành
nhằm hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB
Việt Nam trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho các
KDLQG tại các vùng du lịch khác ở Việt Nam nói chung trong thời gian tới. Cụ thể:
+ Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch: Luận án có thể được sử dụng để
hỗ trợ công tác hoạch định chính sách, quản lý và khai thác TNDL tại các KDLQG của
các vùng du lịch ở Việt Nam để phát triển du lịch.
6
+ Đối với chính quyền địa phương tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB (cụ thể là tại
các địa phương có KDLQG được xác định trong Quyết định số 2163/QĐ-TTg): Luận
án đề xuất các định hướng giúp chính quyền địa phương quản lý TNDL tại địa phương
có các chính sách nhằm nâng cao nhận thức của người dân địa phương trong việc gìn
giữ và bảo tồn các giá trị tự nhiên – văn hóa của địa phương, phối hợp và hỗ trợ các
DNDL khai thác TNDL nhằm phát triển các KDL hiệu quả và bền vững.
+ Đối với công ty lữ hành: Luận án gợi ý giúp công ty lữ hành xây dựng, khai
thác và phát triển các SPDL mới, mang tính lâu dài và hiệu quả tại vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB.
+ Đối với các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở giaó dục nghề nghiệp du lịch:
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về quản lý, khai thác và bảo
vệ TNDL, nghiên cứu về phát triển du lịch tại các KDL.
5. Kết cấu của luận án
Nội dung chính của luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu đề tài;
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển các KDLQG
Chương 3. Thực trạng chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB;
Chương 4. Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các
KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB.
7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu đề tài
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS tổng hợp các công trình liên quan
đến đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm 4 vấn đề: 1) KDL,
KDLQG; 2) QLNN về du lịch; 3) Chính sách phát triển du lịch, chính sách phát triển
KDL; và 4) Nghiên cứu về du lịch tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.
1.1.1.1. Khu du lịch, khu du lịch quốc gia
Hiện nay, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục hình thành, phát triển các KDL và
KDLQG. Các KDL này thường gắn với các địa danh lịch sử, các vùng kinh tế theo
một chiến lược và quy hoạch quốc gia hoặc địa phương. Trong thời gian vừa qua, đã
có một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về KDL, KDLQG.
Các công trình nghiên cứu này đã đưa ra cách nhìn tổng quát về KDL và KDLQG,
những tác động của các KDL đối với tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xã hội tại khu
vực đó. Những công trình này chủ yếu dưới dạng các bài báo khoa học, các đề tài
nghiên cứu, một số sách chuyên khảo và tham khảo.
Trên thế giới, các tác giả thường nghiên cứu khái quát về sự phát triển du lịch
tại KDL hoặc vùng du lịch ở nước ngoài và các vấn đề liên quan đến sự phát triển đó.
Các công trình nghiên cứu đã khái quát bức tranh phát triển của các KDL, kinh nghiệm
phát triển của các nước và vùng lãnh thổ trong quá trình hình thành và hoạt động của
các KDL. Cụ thể như các giai đoạn phát triển KDL vùng ngoại ô, ven biển hoặc khu
nghỉ mát tại các các quốc gia như Mỹ, Canada, Trung Quốc, Đức, Úc,... và mối quan
hệ giữa chính phủ và địa phương trong phát triển KDL như lập chính sách, xây dựng
kế hoạch và giải quyết các tác động trong kinh doanh du lịch tại địa phương. Đây là
các nội dung chính trong các công trình “Tourism in Developing Countries” của hai
tác giả Martin Oppermann và Kye - Sung Chon (1997) và “The Business of Rural
Tourism International Perspectives” của tác giả Stephen J. Page và Don Getz (1997).
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua cũng đã khái
quát được những vấn đề lớn về KDL, vai trò và điều kiện hình thành, phát triển các
KDL Việt Nam, các KDL biển quốc gia và các KDL nói chung. Bên cạnh đó, các
công trình đã đúc kết được những kinh nghiệm thực tiễn phát triển các KDL khác
nhau tại các quốc gia điển hình trên thế giới để từ đó tổng kết, đúc kết thành những
8
bài học kinh nghiệm quý giá trong khai thác và phát triển du lịch tại các KDL của
Việt Nam. Có thể kể đến như đề tài NCKH cấp Bộ của VNCPTDL năm 2004 về
“Phương hướng phát triển du lịch - Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến,
điểm du lịch ở Việt Nam” đã tổng hợp hệ thống lý luận về khu, tuyến, điểm du lịch,
trong đó đề cập đến cách tiếp cận về KDL như một địa điểm nghỉ dưỡng; vai trò, ý
nghĩa của các KDL đối với sự phát triển của du lịch Việt Nam; Các điều kiện để hình
thành, phát triển và quản lý các KDL; Những nhóm tiêu chí chính để xây dựng KDL.
Đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của một số nước trong việc xác định tiêu chí xây dựng
các KDL (chủ yếu nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước như Trung Quốc, Thái
Lan, Hoa Kỳ...) làm cơ sở cho việc xác định tiêu chí xác định và quản lý các KDL ở
Việt Nam. Cùng cách tiếp cận đó, đề tài NCKH cấp Bộ của VNCPTDL (tác giả Lê
Văn Minh) năm 2006 về “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển KDL”
phân tích ở góc độ sâu hơn về đầu tư phát triển KDL. Đề tài đã tổng hợp kinh nghiệm
của một số quốc gia điển hình trong việc quản lý tài nguyên và phát triển du lich,
trong đầu tư phát triển KDL, trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng để phát
triển du lịch tại các KDL. Đề tài NCKH cấp Bộ của VNCPTDL năm 2011 về “Hiện
trạng và giải pháp phát triển các KDL biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung bộ”
lại tiếp cận ở góc độ rộng hơn là một khu vực địa lý du lịch, trong đó tiến hành tổng
hợp và hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về phát triển KDL biển, đánh giá đặc
điểm các KDLQG biển tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ và các nhân tố tác động đến
nó trong quá trình phát triển, đồng thời cũng tiến hành tổng kết kinh nghiệm phát
triển của một số KDLQG biển nước ngoài.
Ngoài việc đưa ra những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý
và phát triển các KDL nói chung và một số KDL đặc trưng, như KDL biển, những đề
tài nói trên cũng đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá thực trạng phát triển du lịch tại
các KDL cụ thể và đưa ra các nhóm giải pháp phù hợp. Cụ thể, đề tài NCKH cấp Bộ
của VNCPTDL năm 2004 về “Phương hướng phát triển du lịch - Nghiên cứu xây
dựng tiêu chí các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam”, đề tài NCKH cấp Bộ của
VNCPTDL năm 2011 về “Hiện trạng và giải pháp phát triển các KDL biển quốc gia
tại vùng du lịch Bắc Trung bộ”, đề tài NCKH cấp Bộ của VNCPTDL năm 2006 về
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển KDL”, ...
1.1.1.2. Quản lý nhà nước về du lịch
QLNN và nâng cao vai trò của QLNN về du lịch có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chính vì thế, trong thời gian vừa qua đã có
rất nhiều các các công trình nghiên cứu về QLNN về du lịch.
9
Trên thế giới, các công trình cụ thể của các tác giả David Jeffries (2007) trong
cuốn “Governments and Tourism”, tác giả HwanSuk Chris Choi và Ercan Sirakaya
(2006) trong bài viết “Sustainability indicators for managing community tourism”, tác
giả Arvid Flagestad và Christine A. Hope (2001) trong bài báo “Strategic success in
winter sports destinations: a sustainable value creation perspective”,… đã đề cập tới các
vấn đề có liên quan đến vai trò QLNN từ TW đến địa phương, bao gồm các vấn đề: Cách
thức mà các quốc gia và vùng khác nhau đối phó với những cơ hội và nguy cơ do du lịch
gây ra; Cách thức nhận định những cơ hội và thách thức từ hoạt động du lịch; Những bài
học kinh nghiệm nào có thể được áp dụng ở những quốc gia và vùng khác; Chức năng
bổ sung của khu vực công và tư nhân trong ngành du lịch. Không chỉ bao gồm các vấn
đề chung liên quan đến vai trò của Chính phủ, trong các nghiên cứu khác mà còn đề cập
đến những vấn đề cụ thể thể hiện vai trò QLNN đối với hoạt động du lịch tại mỗi quốc
gia, mỗi vùng. Các vấn đề được đề cập bao gồm: công tác xã hội hóa hoạt động du lịch,
phát triển du lịch dựa trên cộng đồng hay xã hội hóa du lịch là một trong những chủ
trương, định hướng quan trọng của Nhà nước trong quản lý các hoạt động du lịch quốc
gia và hoạt động du lịch tại các địa phương khác nhau; Phát triển du lịch bền vững nhằm
đảm bảo phát triển thành công điểm đến du lịch cũng như KDL,…
Tại Việt Nam, các công trình phân tích chủ yếu dựa trên một số nội dung cơ bản
sau: Về vai trò của Nhà nước trong phát triển du lịch, để phát triển du lịch bền vững
cần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Vai trò quản lý và điều tiết được thể hiện
thông qua các vấn đề cơ bản như: tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty địa
phương, tạo ra các cơ hội đầu tư kinh doanh mới, xoá bỏ các rào cản hoạt động không
hiệu quả, tạo ra lợi thế cho vùng và các doanh nghiệp trong vùng trong phát triển du
lịch (Luận án tiến sĩ của Nguyễn Mạnh Cường (2015), ĐH Kinh tế quốc dân về “Vai
trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh”).
Trong quản lý nhà nước về du lịch, ngoài việc thể hiện vai trò trong phát triển
du lịch, thì các góc độ tiếp cận về kinh tế, pháp luật hay các yếu tố đảm bảo an toàn
cho du khách và sự phát triển du lịch cũng được coi là những công cụ rất quan trọng.
Ở góc độ pháp luật, luận án tiến sĩ của Trịnh Đăng Thanh (2004), QLNN bằng
pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, đã đưa ra cơ sở lý luận về sự cần thiết phải QLNN bằng pháp luật
đối với hoạt động du lịch; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch trước yêu cầu mới.
Qua luận án, tác giả đã nghiên cứu khái quát các vấn đề QLNN đối với hoạt động du
lịch nói chung và ở từng địa phương nói riêng. Trong khi đó, đề tài NCKH cấp Bộ
10
của VNCPTDL (2006) về “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn
cho khách du lịch tại Việt Nam” lại tiếp cận QLNN nhằm đảm bảo an toàn xã hội tại
Việt Nam. Trong luận án, tác giả đã tiến hành tổng quan các vấn đề lý luận về an toàn
của khách du lịch; Tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia, một số địa phương,
KDL ở Việt Nam trong việc đảm bảo an toàn cho khách du lịch (Nghiên cứu một số
biện pháp đã được áp dụng tại một số quốc gia; một số địa phương; khu, điểm du
lịch ở Việt Nam trong việc đảm bảo an toàn cho khách du lịch). Tác giả cũng đã đánh
giá thực trạng vấn đề an toàn của khách du lịch ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp vĩ mô từ Nhà nước nhằm đảm bảo an toàn cho
khách du lịch ở Việt Nam.
Về kinh tế, vai trò QLNN rất quan trọng để thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển
của kinh tế du lịch. Để làm được điều này, trước hết các xác định cách thức đo lường
sự đóng góp của du lịch trong nền kinh tế cũng như những tác động của nó tới nền
kinh tế nói chung. Cụ thể, tác giả Phan Thị Thu Hương (2016) trong luận án tiến sĩ
Nghiên cứu ứng dụng tài khoản vệ tinh du lịch ở cấp tỉnh, thành phố (Minh họa tại
Thừa Thiên Huế), trường ĐH Kinh tế quốc dân, đã sử dụng cách tiếp cận tài khoản
vệ tinh du lịch để nghiên cứu xây dựng tài khoản vệ tinh du lịch cấp tỉnh ở nước ta
hiện nay, luận án đã xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng tài khoản
vệ tinh du lịch ở Việt Nam. Luận án đã đề xuất các bước cũng như phương pháp tính
tác động kinh tế của hoạt động du lịch thông qua đóng góp của hoạt động du lịch vào
tăng trưởng kinh tế địa phương, cũng như ước tính việc làm tạo ra từ hoạt động du
lịch ở phạm vi cấp tỉnh; Luận án đề xuất phương pháp ước tính tổng lượt khách du
lịch ở phạm vi cấp tỉnh trên cơ sở tính toán được các hệ số phản ánh tỷ lệ khách nội
địa và khách quốc tế đến trong ngày tại các địa phương, đây là chỉ tiêu cơ bản là cơ
sở cho việc tính tài khoản vệ tinh du lịch ở phạm vi cấp tỉnh; Còn tác giả Nguyễn Thị
Hương (2016), “Nghiên cứu thống kê tác động tổng hợp của du lịch đến tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam” trong Luận án tiến sĩ, ĐH Kinh tế quốc dân của mình đã đưa ra
các thảo luận và xác định các chỉ tiêu có liên quan giữa Tài khoản vệ tinh du lịch
(TSA) và phương pháp đo lường tăng trưởng theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA),
trên cơ sở đó đưa ra những phân tích về sự tác động của du lịch quốc tế và du lịch nội
địa đến tăng trưởng kinh tế theo cách đánh giá trực tiếp, gián tiếp và tổng hợp. Luận
án đã đề xuất một số khuyến nghị ở góc độ QLNN nhằm đẩy mạnh tác động của du
lịch đến tăng trưởng kinh tế và tăng cường công tác thống kê đánh giá tác động của
du lịch đến tăng trưởng kinh tế nói chung.
Vấn đề về NNL du lịch có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển du lịch nói
11
chung và trong thực hiện các hoạt động du lịch nói riêng, bởi nhân lực du lịch là yếu
tố then chốt, là chìa khóa để phát triển du lịch, giữa du lịch và NNL du lịch có sự tác
động qua lại lẫn nhau, du lịch tạo ra việc làm, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội của
một quốc gia, đến lượt mình, nguồn nhân lực du lịch với số lượng, chất lượng và cơ
cấu phù hợp lại quyết định đến sự phát triển du lịch tại quốc gia đó. Như vậy, ở góc
độ QLNN, phát triển NNL du lịch được coi là một trong những giải pháp quan trọng
hàng đầu giúp phát triển du lịch. Tại Việt Nam, công tác phát triển nguồn nhân lực
du lịch cũng rất được Nhà nước coi trọng. Để đảm bảo đạt được các mục tiêu, thực
hiện được các chủ trương của Nhà nước thì phát triển nguồn nhân lực du lịch, đảm
bảo cả số lượng, chất lượng và cơ cấu, đáp ứng được yêu cầu của ngành là rất cần
thiết. Cụ thể, tác giả Vũ Đức Minh (2007) trong bài báo Đào tạo NNL cho ngành Du
lịch Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học Thương mại, đã đề cập đến
thực trạng đào tạo NNL cho ngành Du lịch trong hệ thống các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đào tạo lại tại các DNDL ở Việt Nam.
Qua đó, đề xuất các giải pháp về đào tạo nhằm phát triển NNL cho ngành Du lịch Việt
Nam, trong đó có giải pháp đối với các cơ sở đào tạo, giải pháp đối với DNDL.
1.1.1.3. Chính sách phát triển du lịch, chính sách phát triển khu du lịch
Để phát triển du lịch thì rất cần những chính sách hỗ trợ. Vì thế, nghiên cứu
về các chính sách du lịch là một trong những hướng nghiên cứu khá phổ biến trên thế
giới và ở Việt Nam hiện nay. Các chính sách hỗ trợ sẽ đảm bảo phát triển và quản lý
du lịch theo đinh hướng chung của mỗi quốc gia, từ đó đảm bảo sự phát triển bền
vững và mang lại hiệu quả. Đây là công cụ quản lý của nhà nước đối với sự phát triển
du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các vùng, các KDL nói riêng.
Trên thế giới, tác giả David Scowsill (2015) trong bản báo cáo “Governing
National Tourism Policy” của trong World Travel & Tourism Council và tác giả S.
Medlik (1995) trong cuốn sách “Managing Tourism”, đều thống nhất rằng: Các chính
sách hỗ trợ sẽ đảm bảo phát triển và quản lý du lịch theo đinh hướng chung của mỗi
quốc gia, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững và mang lại hiệu quả. Đây là công cụ
quản lý của nhà nước đối với sự phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại
các vùng, các KDL nói riêng.
Tại Việt Nam, để có thể thúc đẩy du lịch phát triển xứng tầm với tiềm lực sẵn
có thì cần phải có một chiến lược đúng đắn và những chính sách phù hợp. Các nhóm
chính sách này bao gồm:
12
- Chính sách tài chính phát triển du lịch. Để phát triển du lịch đòi hỏi phải có
nguồn vốn và tài chính phù hợp để đầu tư, thực thi và phát triển các hoạt động du lịch
và ngành Du lịch Việt Nam. Cụ thể, về các kênh huy động vốn đầu tư và hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư cho phát triển du lịch, tác giả Nguyễn Thị Bằng (1996), trong Luận
án phó tiến sĩ Kinh tế, ĐH Tài chính - Kế toán Hà Nội về “Những giải pháp huy động
và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Du lịch Việt Nam” đã phân tích thực trạng
huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư phát triển du lịch khá khiêm tốn trước năm 1996
và đề xuất các giải pháp về huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư, làm cơ sở xây dựng
các chính sách của Nhà nước cho đầu tư phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2005.
Luận án đã đề cập huy động vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư cho du lịch trong giai
đoạn trước (trước năm 2005) và đề xuất, kiến nghị các định hướng về chính sách
nhằm huy động và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển du lịch Việt Nam cho các giai
đoạn sau đó.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư, các chính sách, giải pháp tài chính mà ngành Du
lịch Việt Nam đã áp dụng trong thời gian vừa qua cũng là nội dung quan trọng trong
nghiên cứu chính sách phát triển du lịch. Tác giả Chu Văn Yêm (2004) trong Luận
án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính về “Các giải pháp tài chính nhằm phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2010”, đã phân tích thực trạng du lịch Việt Nam từ năm
1996 đến 2002; đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân phát
triển du lịch Việt Nam, đặc biệt những giải pháp tài chính mà ngành Du lịch Việt
Nam đã áp dụng nhưng chưa đạt được hiệu quả cao. Từ đó đề xuất một số giải pháp
tài chính để phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, trong đó có một số giải pháp
chủ chốt như các chính sách để tăng cường đầu tư từ ngân sách Nhà nước, giải pháp
về tín dụng, bảo hiểm tạo nguồn ngân quỹ cần thiết cho hoạt động du lịch cũng như
sự phát triển của ngành Du lịch.
- Các chính sách đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực (NNL) du lịch: Nhân
lực là yếu tố quyết định đến việc thực thi và triển khai mọi hoạt động, trong đó có du
lịch. Nghiên cứu về chính sách phát triển du lịch, chính sách phát triển NNL du lịch
luôn được chú trọng và quan tâm. Các tác giả Đinh Thị Hải Hậu (2014) trong Luận án
tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính về “Huy động vốn đầu tư cho phát triển NNL du lịch
việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Trần Sơn Hải (2010) trong luận án
tiến sĩ kinh tế Học viện Tài chính về “Phát triển NNL ngành Du lịch khu vực duyên hải
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên”, Trần Quang Hảo (2008), trong bài viết trên Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 4/2008 về “Đâu là điều kiện cần thiết để phát triển NNL du lịch”
đều đề cập đến vấn đề này. Trong đó, theo tác giả Trần Quang Hảo, điều kiện cần thiết
13
để phát triển NNL du lịch là các định hướng chính sách phát triển NNL du lịch Việt
Nam. Tác giả đã đề cập đến việc giải bài toán phát triển NNL du lịch trong đó giải pháp
đã thực hiện trong thời gian qua là liên kết giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động
với cơ sở đào tạo để tạo ra NNL đáp ứng yêu cầu xã hội chưa đạt được kết quả mong
muốn. Lý do chính của những hạn chế trong hoạt động giáo dục đào tạo chủ yếu xuất
phát từ cơ chế, chính sách và hoạt động quản lý về giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế,
bất cập. Tác giả đã đề xuất giải pháp để phát triển NNL du lịch là cần có sự quan tâm
giải quyết cụ thể, khoa học, đồng bộ, tích cực hơn từ Chính phủ, các Bộ, ngành, địa
phương, của cả hệ thống giáo dục đào tạo, có sự phối hợp thực sự chặt chẽ, nghiêm túc
với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Muốn phát triển được nhân lực du lịch thì phải có vốn, vậy huy động vốn từ đâu
và như thế nào là nội dung mà tác giả Đinh Thị Hải Hậu trong luận án của mình đã đề
cập. Theo đó, tác giả đã đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư cho phát triển NNL
du lịch Việt Nam trong những năm qua và chỉ ra những kết quả đạt được và nguyên
nhân, những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đã đề xuất các
giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn đầu tư cho phát triển NNL du lịch Việt Nam
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đối với vùng du lịch, công trình nghiên cứu
tiêu biểu tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên của tác giả Trần Sơn Hải
đã nghiên cứu về vấn đề phát triển NNL ngành Du lịch trên địa bàn thuộc 5 tỉnh duyên
hải Nam Trung bộ và 5 tỉnh Tây Nguyên bằng cách tiếp cận liên ngành giữa phương
pháp luận nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, phương pháp luận nghiên cứu phát
triển ngành Du lịch và phương pháp luận nghiên cứu phát triển vùng của khoa học
vùng. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển đất nước thông qua phát
triển vùng, điển hình là ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc – Trung - Nam, thì việc kết
hợp giữa phát triển ngành và phát triển vùng là đặc biệt có ý nghĩa mới đối với chiến
lược quản lý hành chính công trong tương lai gần của đất nước. Luận án đã làm sáng
tỏ một số nội dung cơ bản liên quan đến phát triển NNL du lịch như khái niệm, các đặc
điểm đặc trưng của NNL ngành Du lịch, số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động, nội
dung QLNN đối với phát triển NNL ngành Du lịch. Trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các
giải pháp, chính sách đồng bộ nhằm phát triển NNL ngành Du lịch tại khu vực khảo
sát; đồng thời đề xuất những kiến nghị cụ thể đối với các bên có liên quan đến phát
triển NNL ngành Du lịch như Bộ GDĐT, Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), Ủy ban nhân dân
(UBND) các tỉnh trong khu vực để các giải pháp, chính sách có tính khả thi, mang lại
hiệu quả như mong muốn.
14
- Các chính sách khác: Bên cạnh những chính sách cho từng lĩnh vực cụ thể
thì để phát triển du lịch Việt Nam vẫn rất cần các chính sách khác mang tính tổng
hợp. Các chính sách này cần được triển khai toàn diện và trên các khía cạnh khác
nhau của hoạt động du lịch. Về mặt lý luận, VNCPTDL (2014), trong đề tài cấp cơ
sở về “Tổng quan hệ thống chính sách phát triển du lịch Việt Nam,” nhóm tác giả xác
định: xuất phát từ tính chất của ngành du lịch là một ngành liên ngành, liên vùng và
có tính xã hội cao, các chính sách đối với ngành Du lịch vì thế cũng mang tính phức
tạp và đa dạng. Các chính sách phát triển du lịch không chỉ có những chính sách nội
bộ trong ngành mà còn có sự tham gia của nhiều ngành khác có liên quan vì bản thân
du lịch không thể tự phát triển du lịch nếu không có sự tham gia, hỗ trợ của các ngành
khác. Từ lý luận đó, nhóm tác giả đã nghiên cứu và trình bày tổng quan và hệ thống
hóa các chính sách phát triển du lịch Việt Nam từ năm 2005 đến 2014, như chính
sách phát triển sản phẩm, chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch, chính sách đầu tư
CSHT và CSVCKT du lịch,…; và đã tiến hành phân tích thực trạng các chính sách
này tại Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn nữa chính sách phát
triển du lịch trong giai đoạn tới.
Để phát triển du lịch rất cần dựa vào TNDL. Trong đề tài NCKH cấp Nhà nước
của VNCPTDL về “Cơ sở khoa học cho các chính sách, giải pháp quản lý khai thác
TNDL ở Việt Nam”, tác giả Trịnh Quang Hảo (2002), nhận định, muốn khai thác và
quản lý hiệu quả TNDL thì rất cần phải có các chính sách phù hợp. Tác giả đã hệ
thống và tổng quan những vấn đề lý luận chung về TNDL, quản lý khai thác TNDL,
phân tích hiện trạng quản lý khai thác TNDL hiện nay ở Việt Nam, đưa ra những khó
khăn bất cập và nguyên nhân, nhằm tìm cách tháo gỡ và có các chính sách, giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý khai thác TNDL ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số kiến
nghị chính sách nhằm tháo gỡ những bức xúc hiện nay trong quản lý khai thác TNDL.
Còn với các dịch vụ du lịch, chẳng hạn như dịch vụ lữ hành, việc vận dụng
chính sách liên kết, hợp táccùng phát triển là điều rất cần thiết. Đó cũng là nội dụng
mà luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội của Nguyễn
Trùng Khánh (2012) về “Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á và gợi ý chính sách cho Việt
Nam” đề cập. Tác giả đã cố gắng hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan
đến liên kết, hợp tácphát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế như: khách du lịch, dịch vụ lữ hành du lịch, khách sạn... Tác giả cũng khẳng
định tính chất dịch vụ thương mại của hoạt động lữ hành du lịch; chỉ ra các điều kiện
phát triển dịch vụ lữ hành du lịch, bao gồm các điều kiện về cung và cầu,... Từ đó,
15
tác giả đã phân tích thực trạng phát triển ngành du lịch lữ hành của Việt Nam, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong lĩnh vực dịch vụ lữ hành du lịch. đề
xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị về chính sách phát triển dịch vụ lữ hành du
lịch cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.1.4. Nghiên cứu về du lịch tại vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải
Đông Bắc
ĐBSH&DHĐB được coi là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa với truyền
thống lâu đời và đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là khu vực có mức độ phát
triển kinh tế tương đối tốt của Việt Nam, đặc biệt là kinh tế du lịch.
Trong lĩnh vực du lịch, đề tài NCKH cấp Bộ của VNCPTDL (2015) về
“Nghiên cứu xây dựng sản phẩm đặc thù vùng đồng bằng sông Hồng” và đề tài
NCKH cấp Bộ của tác giả Trần Thị Bích Hằng (2019), “Phát triển SPDL vùng
ĐBSH&DHĐB giai đoạn 2020-2030” đã đánh giá tiềm năng phát triển SPDL đặc thù
vùng Đồng bằng Sông Hồng nói riêng và vùng ĐBSH&DHĐB nói chung; Làm rõ
các TNDL đặc sắc và lợi thế so sánh của Vùng làm căn cứ để xác định SPDL đặc thù.
Đánh giá hiện trạng phát triển SPDL đặc thù, công tác tổ chức, liên kết phát triển
SPDL vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB. Xác định các
nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển SPDL đặc thù của từng vùng.
Xây dựng hệ thống SPDL đặc thù vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB. Đề xuất các kiến nghị và giải pháp phát triển sản phẩm đặc thù vùng
Đồng bằng Sông Hồng và vùng du lịch ĐBSH&DHĐB,…
Ngoài các lĩnh vực cụ thể, tại một vài địa phương tiêu biểu trong vùng
ĐBSH&DHĐB cũng có những đề tài nghiên cứu có liên quan đến kinh tế nói chung
và du lịch nói riêng, có thể được sử dụng để hỗ trợ nghiên cứu cho luận án của NCS.
Các công trình này nghiên cứu ở góc độ tổ chức hoạt động du lịch và phát triển du
lịch bền vững tại một địa phương cụ thể trong vùng ĐBSH&DHĐB, cụ thể là tại Hà
Nội và Quảng Ninh. Tại Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân (2013)
của Nguyễn Văn Đức về “Tổ chức các hoạt động du lịch tại một số di tích lịch sử
văn hóa quốc gia của Hà Nội theo hướng phát triển bền vững” đã nêu ra các hoạt
động du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa ở Hà Nội chưa đảm bảo được nguyên tắc
bảo tồn và phát triển bền vững, chưa có sự phối hợp giữa các đơn vị quản lý di tích
lịch sử văn hóa với các doanh nghiệp lữ hành để phát triển SPDL bền vững. Luận án
đã tổng hợp cơ sở khoa học về tổ chức các hoạt động du lịch tại các di tích lịch sử
văn hóa, đưa ra thực trạng tổ chức các hoạt động du lịch tại một số di tích lịch sử văn
hóa quốc gia của Hà Nội. Từ đó, đề tài cũng đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
16
tổ chức các hoạt động du lịch tại một số di tích lịch sử văn hóa quốc gia của Hà Nội.
Đây là nguồn thông tin tham khảo để định hướng quản lý hoạt động du lịch tại các
điểm du lịch cụ thể nói riêng và các điểm du lịch nói chung ở vùng ĐBSH&DHĐB
nói chung hiện nay. Tại Quảng Ninh, tác giả Nguyễn Đăng Tiến trong Luận án tiến
sĩ, Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam (2016) về “Nghiên cứu, đánh giá tài nguyên du lịch và điều kiện sinh khí hậu
phục vụ phát triển du lịch bền vững khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng” đã nghiên cứu
và làm sáng tỏ những mặt thuận lợi và hạn chế của điền kiện tự nhiên, nhân văn và
điều kiện sinh khí hậu cho việc triển khai các hoạt động du lịch và từng loại hình du
lịch phục vụ phát triển du lịch trên quan điểm phát triển bền vững. Những vấn đề lý
luận, thực tiễn nghiên cứu góp phần hoàn thiện về phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu đánh giá điều kiện tự nhiên, nhân văn và sinh khí hậu phục vụ mục đích
của con người, trong đó có hoạt động du lịch. Luận án đã xác lập cơ sở khoa học và
tài liệu tham khảo có giá trị cho việc hoạch định chiến lược và thiết kế tổ chức không
gian phát triển du lịch trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội chung của khu vực
Quảng Ninh – Hải Phòng. Đồng thời kết quả này là tài liệu chỉ dẫn cho các cấp chính
quyền địa phương cụ thể hóa kế hoạch, tổ chức hoạt động du lịch, thực thi các giải
pháp cho quản lý phát triển du lịch bền vững tại địa phương và vùng du lịch.
1.1.2. Kết luận và khoảng trống nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu trên, bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, bao gồm cả phương pháp định tính và định lượng, đã phần nào khái quát được
hệ thống những chính sách, những quy định của Nhà nước, của chính quyền địa
phương đối với du lịch và phát triển du lịch, hệ thống những kinh nghiệm về phát
triển du lịch, về nhân lực du lịch của các địa phương và của các quốc gia, vùng lãnh
thổ điển hình. Cụ thể, các nghiên cứu đã giải quyết được những vấn đề:
Một là, hệ thống hóa các lý luận cơ bản về KDL nói chung như khái quát về
KDL, vai trò và điều kiện hình thành, phát triển các KDL, kinh nghiệm và các giai
đoạn phát triển một số KDL trên thế giới và ở Việt Nam nói chung.
Hai là, một số vấn đề cơ bản về QLNN về du lịch, như vai trò QLNN từ trung
ương (TW) đến địa phương trong phát triển du lịch bền vững, quản lý và điều tiết các
vấn đề về kinh tế, pháp luật, an ninh chính trị và an toàn xã hội cho du khách tại các
địa điểm du lịch. Vai trò QLNN được thể hiện rất rõ thông qua các chính sách kinh
tế - xã hội nói chung và chính sách du lịch nói riêng để đảm bảo sự phát triển du lịch
tại điểm đến.
17
Ba là, chính sách phát triển du lịch và chính sách phát triển KDL, trong đó
chủ yếu bao gồm các chính sách tài chính, chính sách đào tạo, phát triển NNL du
lịch, chính sách về TNDL , chính sách hợp tác, liên kết phát triển du lịch tại Việt
Nam nói chung,…
Bốn là, khái quát về các yếu tố môi trường, hệ thống pháp luật, du lịch và kinh
tế nói chung trong sự phát triển du lịch bền vững vùng Đồng bằng Sông Hồng và tại
một số các địa phương cụ thể vùng ĐBSH&DHĐB.
Những công trình nghiên cứu này chưa nghiên cứu và tiếp cận một cách hệ
thống và toàn diện chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng Du lịch
ĐBSH&DHĐB. Chưa chỉ ra đầy đủ các chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch và
những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện và hoàn thiện chính sách du lịch nhằm phát
triển du lịch nói chung và tại các KDLQG nói riêng thuộc vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB.
Nhận thấy những khoảng trống của những công trình nghiên cứu đã được công
bố, NCS thấy rằng việc lựa chọn đề tài: “Chính sách phát triển các KDLQG thuộc
vùng du lịch ĐBSH&DHĐB Việt Nam” sẽ kế thừa phần nào kết quả trong các công
trình nghiên cứu trước về các lý luận cơ bản về vùng du lịch, KDL nói chung, về
QLNN về du lịch, về chính sách phát triển du lịch và chính sách phát triển vùng du
lịch và tại điểm du lịch, về các yếu tố môi trường, hệ thống pháp luật, du lịch, văn
hóa – xã hội và kinh tế nói chung trong sự phát triển bền vững của vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB và tại một số các địa phương cụ thể thuộc Vùng. Từ đó, tiếp tục
nghiên cứu, phát hiện và làm rõ các vấn đề sau:
- Các chính sách du lịch đang được áp dụng tại các KDL và KDLQG
- Quy trình thực hiện chính sách phát triển các KDLQG
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quy trình chính sách phát triển các KDLQG
- Thực trạng triển khai chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các
KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế nói chung và cách tiếp
cận liên ngành, liên vùng và hệ thống thường được áp dụng trong nghiên cứu các đề
tài về du lịch nói riêng. Trên cơ sở phương pháp luận nói trên và xuất phát từ mục
18
tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp phân tích, thống
kê, tổng hợp, đối chiếu, dự báo. Đặc biệt, phương pháp so sánh được sử dụng trong
luận án nhằm phân tích, đánh giá thực trạng chính sách và quy trình chính sách phát
triển KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận án sử dụng kết hợp cả nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng trong thu thập và phân tích dữ liệu, cụ thể như sau:
1.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
1.2.1.1. Đối với dữ liệu thứ cấp
Các nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập để thực hiện luận án này bao gồm:
- Về dữ liệu thứ cấp nghiên cứu cơ sở lý luận, NCS đã tiến hành thu thập, tổng
hợp và xử lý thông tin từ việc nghiên cứu tài liệu, các công trình NCKH, các sách,
báo, tạp chí về du lịch có liên quan đến luận án, bao gồm: chính sách và quy trình
triển khai chính sách phát triển du lịch tại các KDL và các KDLQG hiện nay, các bài
học kinh nghiệm về chính sách phát triển KDLQG tại một số KDLQG tiêu biểu trên
thế giới và tại Việt Nam.
- Về dữ liệu thứ cấp nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp, kiến nghị, NCS
đã tìm kiếm và tiếp cận các thông tin về các văn bản, Quy định, Nghị quyết, Quyết
định, Chỉ thị, Thông tư,… của Chính phủ và các địa phương về phát triển du lịch tại
các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB; Các số liệu thực tế về doanh thu và
lượt khách đến trong giai đoạn 2015 - 2019 từ các CQQL du lịch từng địa phương, số
liệu dự báo về mục tiêu lượt khách và doanh thu từ khách du lịch đến năm 2030,…
1.2.1.2. Đối với dữ liệu sơ cấp
Để thu thập dữ liệu sơ cấp phục vụ nghiên cứu, NCS đã sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu và phương pháp điều tra xã hội học với các doanh nghiệp có hoạt động
kinh doanh du lịch, gọi tắt là doanh nghiệp du lịch (DNDL), tại các KDLQG được
xác định trong Quy hoạch, là đối tượng chính thụ hưởng chính sách.
a. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để làm rõ thực trạng nghiên cứu về chính sách phát triển các KDLQG tại vùng
du lịch ĐBSH&DHĐB, NCS đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với 15 chuyên
gia, là những người làm việc trực tiếp hoặc có liên quan đến lĩnh vực du lịch tại:
Trường Đại học (ĐH) Thương mại, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội, và đại diện các CQQL du lịch tại địa phương có KDLQG được quy hoạch vùng
ĐBSH&DHĐB, như các Sở Du lịch Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Sở
19
VHTTDL Hà Nam và đại diện đội ngũ quản lý của các công ty du lịch như Viettravel,
Hanoitourist, Leadtravel, Vietsense (Xem Phụ lục 01).
Thời gian phỏng vấn từ tháng 6/2019 đến tháng 8/2019, mỗi buổi phỏng vấn
tiến hành trong khoảng 30-40 phút.
Nội dung phỏng vấn tập trung vào ba vấn đề chính: 1) Các chính sách được áp
dụng để phát triển các KDLQG; 2) Thực trạng chính sách phát triển các KDLQG
vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, bao gồm: Các chính sách đang được áp dụng tại
KDLQG của Vùng; Nội dung quy trình chính sách phát triển các KDLQG và những
khó khăn trong việc triển khai chính sách; và 3) Các giải pháp, kiến nghị để hoàn
thiện các chính sách phát triển KDLQG tại địa phương (Xem Phụ lục 02).
Cách thức thực hiện: Phỏng vấn sâu được tiến hành thông qua các cuộc hẹn
gặp trực tiếp và phỏng vấn qua điện thoại. Nội dung phỏng vấn được ghi chép đầy đủ
và lưu trữ trong máy tính.
Phân tích dữ liệu phỏng vấn sâu: Dữ liệu thu thập từ các cuộc phỏng vấn được
sắp xếp, phân loại để phục vụ cho quá trình phân tích và tổng hợp các vấn đề liên
quan đến chính sách phát triển các KDLQG được nghiên cứu trong luận án.
b. Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp điều tra xã hội học thông qua phiếu khảo sát dành cho các DNDL
tại các KDLQG đã được xác định trong Quy hoạch vùng ĐBSH&DHĐB, họ là những
người chịu ảnh hưởng trực tiếp và cũng hưởng lợi trực tiếp từ các chính sách này.
- Thời gian thực hiện từ tháng 10/2019 đến tháng 12/2019.
- Thiết kế phiếu khảo sát căn cứ nội dung nghiên cứu của đề tài. Để đánh giá
các thông tin dữ liệu trong Phiếu khảo sát, luận án sử dụng thang đo Likert 5 mức độ.
Phiếu khảo sát được thiết kế làm hai phần: Phần I là các thông tin chung về
DNDL. Phần II tập trung vào các chính sách thực tế đang được áp dụng, các yếu tố
ảnh hưởng tới chính sách và một số nội dung trong quy trình chính sách, ngoài ra
phiếu điều tra còn có các câu hỏi mở liên quan đến đánh giá của doanh nghiệp về
những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng các chính sách đó hiện
nay, từ đó đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách phát triển.
Nội dung các câu hỏi được xây dựng đơn giản, dễ hiểu nhưng đảm bảo được
mục tiêu của nghiên cứu. (Xem Phụ lục 03).
- Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu: Do NCS không có được danh sách và địa
chỉ liên lạc của tất cả các đối tượng trong tổng thể và cũng không đủ điều kiện khảo sát
tất cả, cho nên mẫu nghiên cứu của đề tài này được chọn theo phương pháp lấy mẫu xác
20
suất thuận tiện, tức là chọn mẫu dựa trên khả năng có thể tiếp cận được tới các đối tượng
nghiên cứu một cách thuận tiện nhất (Nguyễn Văn Thắng, 2015).
Trong luận án, NCS xác định kích thước của mẫu dựa theo yêu cầu của phân tích
nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis). Cụ thể, theo Hair và các tác giả
(2006), kích thước mẫu tối thiểu để sử dụng EFA là 50, tốt hơn là 100 và tỷ lệ số quan
sát/biến đo lường là 5:1, nghĩa là 1 biến đo lường cần tối thiểu 5 quan sát. Số quan sát
hiểu một cách đơn giản là số phiếu khảo sát đủ điểu kiện cần thiết; biến đo lường đơn
giản là một câu hỏi đo lường trong bảng khảo sát. Công thức chọn mẫu là: n=5xm.
Trên cơ sở đó, với 28 biến trong phiếu khảo sát (Phụ lục 03) tại mỗi KDLQG
thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, số lượng phiếu tối thiểu cần điều tra tại mỗi
KDLQG là: n = 5 x 28 = 140.
Kích thước mẫu này lớn hơn kích thước tối thiếu (50 hoặc 100), vì vậy cỡ mẫu
này đã đảm bao yêu cầu nghiên cứu.
Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB có 9 KDLQG đã được xác định trong Quy hoạch
nên tổng số phiếu điều tra tối thiểu của cả vùng sẽ là: 140 x 9 = 1.260 phiếu.
- Cách thức khảo sát: NCS tiến hành phát phiếu cho các DNDL tại các KDLQG
vùng ĐBSH&DHĐB, bao gồm cả các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, lưu trú, ăn
uống, vận chuyển và bán vé thăm quan tại điểm du lịch, thông qua hai hình thức: phát
phiếu trực tiếp và gửi phiếu online.
Trong đó, tổng số phiếu phát ra là 1.800 phiếu, số phiếu thu về là 1.467 phiếu,
số phiếu đủ điều kiện phân tích là 1.389 phiếu (đạt 77,17%), số phiếu không đủ điều
kiện phân tích là 78 (phiếu không đủ điều kiện phân tích là phiếu phát trực tiếp nhưng
người được khảo sát không trả lời đầy đủ các câu hỏi, còn đối với các phiếu online
đều có gắn * bắt buộc phải trả lời hết các câu hỏi nên tất cả phiếu thu về đều đủ điều
kiện phân tích). (Bảng 1.1).
Tùy từng địa phương trong vùng ĐBSH&DHĐB, dựa trên cơ sở quy mô và
mức độ phát triển du lịch tại đó mà số lượng phiếu phát ra và thu về sẽ khác nhau.
Các địa phương có tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch sẽ phát ra và thu được
nhiều phiếu hơn do ở đó có nhiều DNDL, ngược lại ở các địa phương khác có điều
kiện phát triển du lịch du lich ít hơn thì số phiếu phát ra và thu về cũng sẽ nhỏ hơn.
Theo đó, kết quả thu được như Bảng 1.1.
Qua thống kê từ kết quả phiếu điều tra cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp
có hoạt động kinh doanh tại các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB với nhiều lĩnh
vực kinh doanh khác nhau, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
21
có kết hợp với kinh doanh cung ứng dịch vụ vận chuyển du lịch, bán vé thăm quan
tại điểm du lịch (có/không kèm trong chương trình du lịch của doanh nghiệp), các
dịch vụ vui chơi, giải trí và dịch vụ khác (tổ chức team building, sự kiện,…); Ngoài
ra, các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú, bên cạnh việc kinh doanh dịch vụ chính thì
còn tổ chức cung ứng thêm các dịch vụ thăm quan tại điểm du lịch và các dịch vụ
khác. Bên cạnh đó, với các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú và ăn uống có địa chỉ
gần hoặc trong phạm vi khu/điểm du lịch tại địa phương, còn các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành, vận chuyển và kinh doanh các dịch vụ khác lại có phạm vi hoạt động
tương đối rộng tại hầu hết các điểm du lịch trong khu vực thuộc vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB nói riêng và Việt Nam nói chung, do tính chất và bản chất của hoạt
động kinh doanh lữ hành có sự đa dạng và phong phú về các tour và dịch vụ du lịch,
điều này giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh có khả năng tiếp cận khách hàng tốt
hơn, từ đó có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng trên thị trường du lịch hiện
nay. Do vậy, một doanh nghiệp có thể được điều tra tại nhiều KDLQG khác nhau.
Bảng 1.1. Số lượng phiếu điều tra DNDL tại các KDLQG
thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB
Số phiếu đủ Các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB Tỷ lệ
(%) Số
phiếu
phát ra
150 điều kiện
phân tích
144 96.00
150
200
250
150
250 126
162
168
124
168 84.00
81.00
67.20
82.67
67.20
Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam
(Hà Nội)
Điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội)
KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
KDL Tam Chúc (Hà Nam)
Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương)
Điểm du lịch Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh-Hải
Phòng)
KDL Vân Đồn (Quảng Ninh)
KDL Trà Cổ (Quảng Ninh)
Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình)
Tổng cộng
166
200
83.00
165
200
82.50
166
250
66.40
1800
1389
77.17
(Nguồn: Tổng hợp của NCS)
1.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
1.2.2.1. Đối với dữ liệu thứ cấp
- Phương pháp thống kê mô tả: Được sử dụng để hệ thống hóa các chính sách
du lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG, những nhân tố ảnh hưởng đến nhóm
22
chính sách này.
- Phương pháp tổng hợp: Sử dụng để tổng hợp hoạt động và kết quả kinh doanh
du lịch tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB, ngoài ra,
NCS còn sử dụng phương pháp này để tổng hợp các chính sách du lịch, quy trình chính
sách phát triển du lịch và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển KDLQG
thuộc Vùng.
- Phương pháp so sánh: Áp dụng để thẩm định số liệu, thông tin trên cơ sở
mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn để đánh giá từng nội dung chính sách và quy
trình chính sách phát triển du lịch giữa các KDLQG thuộc vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB trong thời gian vừa qua.
- Phương pháp phân tích: Áp dụng để phân tích số liệu thông tin, làm rõ hơn
bản chất, mức độ và nguyên nhân của các thực trạng chính sách và các yếu tố ảnh
hưởng đến chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.
1.2.2.2. Đối với phân tích dữ liệu sơ cấp
Đối với phiếu khảo sát DNDL tại các KDLQG đã được xác định trong Quy
hoạch vùng ĐBSH&DHĐB, NCS phân tích các dữ liệu sơ cấp bằng cách:
Bước 1: Dùng phần mềm excel để xử lý dữ liệu
Bước 2: Đưa ra kết luận về mức độ đánh giá của doanh nghiệp theo mức sau:
: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức rất tốt
: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức tốt 4 ≤
: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức trung bình 3 ≤
: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức kém 2 ≤
: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức rất kém 1 ≤ 𝑋 = 5
𝑋 < 5
𝑋 < 4
𝑋 < 3
𝑋 < 2
23
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA
2.1. Một số khái luận cơ bản về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
2.1.1. Khu du lịch quốc gia
2.1.1.1. Khái niệm khu du lịch quốc gia
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về KDL. Dưới góc nhìn của nhà quy hoạch,
tác giả Edward Inskeep (Tourism Planning: An Integrated and Sustainable Development
Approach, 1991) đã viết: “KDL là một khu vực cung cấp đồng bộ các dịch vụ và tiện
nghi đặc thù cho khách du lịch, đặc biệt là những tiện nghi được thiết kế phù hợp phục
vụ các mục đích, nhu cầu du lịch. Các KDL thường thể hiện tính tổng hợp cao, được qui
hoạch mới hoặc kế thừa một vài KDL cũ chưa được quy hoạch nhưng vẫn đang hoạt
động, cung ứng các tiện nghi và dịch vụ cho du khách”. Cũng theo tác giả này, khái niệm
về KDL được hiểu là “một khu vực lãnh thổ thống nhất có nhiều tiềm năng phát triển du
lịch trên cơ sở các yếu tố đặc thù về du lịch ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Tư tưởng cơ bản của khái niệm trên bao gồm: 1) KDL là một SPDL, trong đó,
sản phẩm là một tài nguyên và đi kèm với nó là quá trình phát triển tài nguyên đó ;
2) Sự phát triển KDL có thể do Nhà nước, tư nhân hoặc các tổ chức phi lợi nhuận tiến
hành; Thành phần cơ bản của SPDL trong KDL là giá trị hấp dẫn của TNDL được
hỗ trợ bởi các dịch vụ và các trang thiết bị phục vụ.
Ở Việt Nam, điều 6, Luật Du lịch Việt Nam 2017, KDL được định nghĩa là
“khu vực có ưu thế về TNDL, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu đa dạng của khách du lịch. KDL bao gồm KDL cấp tỉnh và KDLQG ”.
Như vậy có thể hiểu, KDL là nơi có TNDL, có không gian diện tích đủ rộng,
được quy hoạch đầu tư phát triển để trở thành nơi cung cấp đồng bộ các dịch vụ và
tiện nghi du lịch đặc thù phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch; đem lại hiệu quả
kinh tế - xã hội và môi trường.
KDLQG là một khái niệm mới trên thế giới. Hiện nay chưa có quan niệm
chung về KDLQG. Các quốc gia trên thế giới vẫn sử dụng quan niệm về KDL nói
chung và xác định các KDLQG trên cơ sở giá trị nguồn TNDL tại đó mang giá trị cấp
quốc gia (Ví dụ: Trung Quốc, Hàn Quốc,…). Tiêu chuẩn này khác nhau ở mỗi nước,
vì thế, quan điểm về KDLQG ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Ở Việt
Nam, KDLQG là danh hiệu do Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quyết định công nhận cho một KDL đáp ứng đủ điều kiện tiêu chuẩn tương
24
ứng của một KDLQG, đó là các điều kiện, tiêu chí về tài nguyên, cơ sở hạ tầng,
CSVCKT du lịch, các dịch vụ du lịch, an ninh,…
Theo khoản 2, điều 26, chương IV của Luật Du lịch Việt Nam 2017 và Điều
13, Chương IV, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP về Quy định một số điều của Luật
Du lịch 2017, các điều kiện công nhận KDLQG cũng được quy định cụ thể. Trong
đó, các tiêu chí xác định bao gồm:
1) “Có TNDL đa dạng, đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên
hoặc giá trị văn hóa, có ranh giới xác định”. Cụ thể, theo quy định của Nghị định
168/2017/NĐ-CP, phải có ít nhất 02 TNDL, trong đó có TNDL cấp quốc gia; có ranh
giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Tỷ lệ bản đồ
phụ thuộc vào yêu cầu quản lý và địa hình khu vực. Trong đó, việc điều tra, đánh giá,
phân loại TNDL được căn cứ kết quả điều tra, đánh giá về giá trị, sức chứa, mức độ
hấp dẫn, phạm vi ảnh hưởng và khả năng khai thác TNDL phục vụ phát triển du lịch;
TNDL được phân loại thành TNDL cấp quốc gia và TNDL cấp tỉnh. TNDL cấp quốc
gia có giá trị, sức chứa, mức độ hấp dẫn, phạm vi ảnh hưởng tầm quốc gia, trách nhiệm
quản lý, bảo vệ và khai thác TNDL cấp quốc gia thuộc thẩm quyền của Nhà nước.
2) “Có trong danh mục các khu vực tiềm năng phát triển KDLQG được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. Các danh mục này được xây dựng theo
từng thời kì nhất định, có thể có sửa đổi, bổ sung,… Chẳng hạn như theo Quyết định
số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030”, cả nước có 46 KDL được định hướng quy hoạch phát triển thành du lịch quốc
gia. Tuy nhiên, đến năm 2015, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đồng ý bổ sung Khu
di tích Núi Sam (tỉnh An Giang) vào Danh mục các KDLQG và Khu di tích Núi Sam
đã được chính thức công nhận trở thành KDLQG vào ngày 13/7/2018.
3) “Có kết cấu hạ tầng, CSVCKT, dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ, đáp ứng nhu
cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch, bao gồm: a) Có cơ sở kinh
doanh dịch vụ ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe đạt
tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đáp ứng tối thiểu 500.000 lượt khách mỗi năm; hệ
thống cơ sở lưu trú du lịch đáp ứng tối thiểu 300.000 lượt khách lưu trú mỗi năm,
trong đó có cơ sở lưu trú du lịch được công nhận hạng từ 4 sao trở lên; b) Có hệ thống
điện lưới, hệ thống cung cấp nước sạch; c) Có nội quy, hệ thống biển chỉ dẫn, thuyết
minh về KDL; có hệ thống biển chỉ dẫn, biển báo về giao thông, các cơ sở dịch vụ,
các điểm tham quan; d) Cung cấp dịch vụ thuyết minh, hướng dẫn du lịch”.
25
4) “Có kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông quốc gia; đảm bảo
đi lại và thông tin thuận lợi, xuyên suốt, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế và
công nghệ hiện đại”.
5) “Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường
theo quy định của pháp luật, bao gồm: a) Có hệ thống thu gom và xử lý rác thải, nước
thải tập trung theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; bố trí nhân lực làm
vệ sinh môi trường; b) Có bộ phận bảo vệ, cứu hộ, cứu nạn; c) Công khai số điện
thoại, địa chỉ của tổ chức quản lý KDL; d) Có bộ phận thông tin hỗ trợ khách du lịch;
có hình thức tiếp nhận và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của khách du lịch;
đ) Nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ, được thông gió và đủ ánh sáng, được bố trí đủ,
tương ứng với số lượng khách du lịch vào thời kỳ cao điểm; e) Áp dụng các biện pháp
phòng, chống cháy nổ theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, tại Việt Nam, KDLQG được hiểu là các KDL đảm bảo đầy đủ các
điều kiện theo quy định của Luật Du lịch 2017 và Nghị định 168/2017/NĐ-CP (như
trên phân tích) và sẽ được Chính phủ nước Việt Nam công nhận chính thức. Đây là
quan điểm duy nhất ở Việt Nam về KDLQG và cũng là cách tiếp cận của NCS khi
nghiên cứu luận án.
2.1.1.2. Đặc điểm khu du lịch quốc gia
KDLQG là khu vực địa lý có sức hấp dẫn về du lịch và có các hoạt động kinh
doanh du lịch đảm bảo chất lượng. KDLQG có những đặc điểm riêng biệt, khác với
các điểm hấp dẫn du lịch khác. Các đặc điểm của KDLQG được khái quát như sau:
- Được tổ chức hình thành, khai thác kinh doanh theo quy định của luật pháp
quốc gia, được sự quản lý của các Bộ, ban, ngành cấp quốc gia. Tùy thuộc vào từng
KDLQG mà sẽ xây dựng cách thức tổ chức quản lý khác nhau. Tổ chức hình thành
KDLQG nhất thiết phải có dự án và luận chứng kinh tế kỹ thuật và phải qua thẩm
định theo trình tự quy định của pháp luật.
- Có khả năng mở rộng, gồm nhiều điểm hấp dẫn du lịch có sự liên kết với
nhau. KDLQG cần có sự phân biệt rõ ranh giới hành chính, tuy nhiên, tùy từng
KDLQG mà quy mô và diện tích của nó sẽ có sự khác nhau. Trong đó có xác định
các điểm tham du lịch trong cùng phạm vi địa giới hành chính, tạo ra cụm điểm du
lịch liền kề, hấp dẫn, có nét đặc trưng chung, thu hút du khách trong và ngoài nước.
- Có sức hấp dẫn đặc biệt, được xây dựng và hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế, bao gồm các yếu tố hấp dẫn đặc
biệt như TNDL được xếp hạng quốc gia (phong cảnh thiên nhiên, di tích lịch sử, văn
26
hóa) và các sự kiện ở mức độ ít nhất là thu hút được thị trường trong vùng, ngoài ra
còn có sức hút với thị trường cả nước và quốc tế. Tùy thuộc từng KDLQG sẽ có các
đặc điểm TNDL khác nhau, tạo ra nét hấp dẫn riêng, thu hút du khách.
- Có giá trị và quy mô đủ lớn về nguồn tài nguyên và giá trị khai thác trong du
lịch theo quy định của từng quốc gia, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường
cho địa phương và quốc gia, bao gồm tất cả các đối tượng có liên quan như khách du
lịch, người dân địa phương, DNDL và chính quyền sở tại.
- Mang tính đặc trưng riêng của vùng (về lịch sử, văn hóa, tự nhiên, nhân tạo)
có thể tạo nên sự khác biệt và cạnh tranh được với các KDL khác. Tính cạnh tranh về
giá trị tài nguyên được xét cấp vùng hoặc cấp quốc gia, mang lại nét khác biệt và hấp
dẫn đặc biệt hơn với du khách so với các điểm đến du lịch khác.
- Được quy hoạch và đầu tư đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch bền
vững. KDLQG phải nằm trong quy hoạch tổng thể du lịch quốc gia, quy hoạch phát
triển kinh tế vùng lãnh thổ và theo những định hướng chiến lược phát triển du lịch
thống nhất chung của quốc gia.
- Các KDLQG có thể được xây dựng khép kín hoặc không khép kín, trong đó
có thể có hoặc không có dân cư địa phương sinh sống. Tùy thuộc vào đặc trưng của
giá trị TNDL từng vùng, các KDLQG khác nhau sẽ được xây dựng và tổ chức theo
các cách khác nhau. Trên cơ sở tính bền vững hoặc nhạy cảm của TNDL tại đó, có
thể được khoanh vùng hoặc không, do vậy có thể có hoặc không cho phép sự tham
gia của người dân địa phương trong các hoạt động du lịch.
2.1.2. Phát triển khu du lịch quốc gia
2.1.2.1. Khái niệm phát triển khu du lịch quốc gia
KDLQG là danh hiệu do người đứng đầu quốc gia ra quyết định công nhận
trên cơ sở các điều kiện được quy định rõ ràng theo tiêu chuẩn từng quốc gia (theo
Luật Du lịch 2017 và Nghị định 168/2017/NĐ-CP của Việt Nam). Vấn đề cốt lõi để
phát triển KDLQG là khai thác được TNDL để đáp ứng tốt nhu cầu của khách du lịch.
Vì vậy phát triển KDLQG trọng tâm là phát triển du lịch tại các KDLQG. Đây là quan
điểm NCS sử dụng trong luận án.
Theo cách tiếp cận truyền thống, phát triển du lịch tại các KDLQG là việc mở
rộng quy mô, cơ cấu SPDL, đồng thời tăng chất lượng dịch vụ du lịch tại KDLQG.
Theo cách tiếp cận về kinh tế du lịch, phát triển du lịch tại các KDLQG là việc
tăng khả năng cung dịch vụ du lịch tại đây, đồng thời kích thích tăng cầu tiêu dùng
27
dịch vụ du lịch của du khách, bên cạnh đó, tăng cường các điều kiện hoạt động và
môi trường hoạt động kinh doanh du lịch tại các KDLQG.
Như vậy, phát triển du lịch tại các KDLQG là sự gia tăng về số lượng, đảm
bảo cơ cấu hợp lý các loại hình dịch vụ du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du
lịch tại KDLQG nhằm cung ứng tốt hơn cho khách du lịch và đem lại lợi ích ngày
càng cao cho các đối tượng liên quan khác (như chính quyền địa phương, công ty du
lịch và cộng đồng dân cư), từ đó đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế và phát triển bền
vững cho các KDLQG và địa phương có KDLQG đó.
2.1.2.2. Nội dung phát triển khu du lịch quốc gia
Trên cơ sở khái niệm về phát triển KDLQG được NCS đề xuất ở trên, nội dung
phát triển KDLQG bao gồm các vấn đề sau:
- Quy hoạch, phát triển KDLQG nhằm đảm bảo phát triển cơ cấu hợp lí các lĩnh
vực trong ngành du lịch và giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác, đảm bảo
mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan. Xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển
luôn là một trong những nhiệm vụ QLNN quan trọng đối với sự phát triển của bất kỳ
ngành/lĩnh vực kinh tế - xã hội nào, trong đó có ngành/lĩnh vực du lịch. Quy hoạch
phát triển các KDLQG là quy hoạch ngành và du lịch được xác định là ngành kinh tế
tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Đối với mọi cấp, quy hoạch
du lịch là rất cần thiết để có thể quản lý và thành công trong sự phát triển ngành du lịch
tại điểm đến. Kinh nghiệm cho thấy những địa phương phát triển du lịch không có quy
hoạch đều gặp phải những vấn đề về xã hội và môi trường, giảm lợi ích về kinh tế,
không thể nào cạnh tranh một cách hiệu quả đối với bất kỳ một điểm đến khác đã có
quy hoạch du lịch. Theo đó, để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả và lợi ích đạt được,
việc lập quy hoạch phát triển du lịch tại KDLQG phải đảm bảo phù hợp với chiến lược
và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của vùng du lịch, chiến lược
phát triển ngành du lịch; bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu du lịch, đồng
thời phát huy được thế mạnh để tạo ra SPDL đặc thù của từng địa phương, từng vùng
nhằm sử dụng hợp lý, hiệu quả TNDL tại các KDLQG.
- Bảo vệ, tôn tạo TNDL, các giá trị văn hóa và môi trường du lịch ở các
KDLQG, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và tăng mức độ thỏa mãn sự trải nghiệm
của du khách. Môi trường tự nhiên và xã hội cần được bảo vệ, tôn tạo và phát triển
mới đảm bảo chất lượng SPDL và phát triển du lịch bền vững. Bộ, cơ quan ngang bộ
trong phạm vi quyền hạn ban hành các quy định, UBND các cấp tại các vùng du lịch
phải có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với
28
thực tế tại địa phương. Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm xử lý các
loại chất thải phát sinh trong quá trình kinh doanh. Khách du lịch, dân cư tại vùng du
lịch có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ giá trị di sản văn hóa, bản sắc văn hoá, thuần
phong mỹ tục của dân tộc; có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình
ảnh đất nước, con người và du lịch Việt Nam.
- Nghiên cứu, đầu tư xây dựng và phát triển SPDL, tăng quy mô, sô lượng
và chất lượng SPDL tại các KDLQG, đảm bảo gìn giữ và phát huy được các giá trị
TNDL. Để có SPDL và phát triển du lịch, cần có sự liên doanh, liên kết cả trong và
ngoài ngành du lịch, cả địa phương với trong và ngoài nước. Nhu cầu của thị trường
thì lớn nên cần kích cầu du lịch một cách phù hợp, chú trọng khâu đầu tư vào SPDL
cần liên kết để theo kịp, trước hết là với các DNDL tại vùng du lịch. Cần có dịch vụ
cho khách “dừng chân” như các dịch vụ vui chơi giải trí. Đảm bảo tuyệt đối an toàn
phương tiện tàu thuyền, văn hoá ẩm thực, du lịch tìm hiểu phong tục tập quán sinh
hoạt cộng đồng dân tộc. Ngay trong việc đầu tư xây dựng SPDL tại các KDLQG tại
các vùng du lịch tối thiểu cũng cần tới sự liên kết của ba nhà: Nhà nước, nhà đầu tư
và nhà tổ chức du lịch.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, đầu
tư phương tiện cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên
dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao tại các KDLQG, tăng tiện nghi và
nâng cao mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách tại đây. Quy hoạch phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước và từng địa
phương, đảm bảo an ninh, an toàn, trật tự xã hội và vệ sinh môi trường tại các KDLQG.
Phát triển mạng lưới giao thông thuận tiện và nhanh chóng, tạo điều kiện phát huy hiệu
quả hoạt động phục vụ du lịch. Đầu tư đổi mới, nâng cấp và hiện đại hóa các phương
tiện vận chuyển khách du lịch đa dạng, cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ. Ưu tiên
các dự án quan trọng, tăng cường công tác quản lý các công trình xây dựng một cách
hiệu quả. Bên cạnh đó, việc đầu tư nâng cấp chất lượng CSVCKT, thiết bị, công nghệ
phục vụ du lịch hiện đại cũng rất quan trọng. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
các tuyến, điểm và KDL hiện đại. Hiện đại hoá các phương tiện thông tin liên lạc và
các trang thiết bị phục vụ du khách.
- Đào tạo, phát triển NNL du lịch đảm bảo đủ số lượng, cao về chất lượng và
hợp lý về cơ cấu tại địa phương phát triển du lịch. Phát triển NNL du lịch cần tăng
cường số lượng và nâng cao chất lượng của lực lượng lao động trong ngành du lịch,
từ đó góp phẩn khẳng định chất lượng dịch vụ cung ứng, gồm: lao động thuộc các cơ
quan QLNN về du lịch từ TW đến địa phương, lao động trong các DNDL gồm đội
29
ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ lao động nghiệp vụ trong các khách sạn - nhà
hàng, công ty lữ hành, vận chuyển du lịch..., lao động làm công tác đào tạo du lịch
trong các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
- Xúc tiến, quảng bá du lịch: Xúc tiến, quảng bá du lịch để thu hút vốn đầu tư,
tiêu thụ sản phẩm cần được quan tâm. Các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội
nghị, hội thảo cần tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân về du lịch.
Ngành Du lịch và các DNDL tại các KDLQG cần tham gia vào nhiều hội chợ du lịch
của khu vực và quốc tế nhằm quảng bá các SPDL của KDLQG để thu hút khách.
2.1.3. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
2.1.3.1. Khái niệm chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
Có rất nhiều quan điểm về chính sách, dưới đây là một số khái niệm cơ bản:
Theo tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy và Bùi Thị Hồng Việt (Chính sách kinh tế
- xã hội, 2012) “Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định
và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính sách xác định những
chỉ dẫn chung cho quá trình quyết định. Chúng chỉ ra phạm vi hay giới hạn cho phép
của các quyết định nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào có thể và những
quyết định nào không thể”. Như vậy, chính sách chính là định hướng hành động và
cả những giải pháp cần thiết để hiện thực hóa những định hướng đó. Mọi chủ thể đều
có chính sách của riêng mình như Nhà nước có chính sách của Nhà nước, địa phương
có chính sách của địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội – văn hóa cũng có
những chính sách riêng của mình.
Theo tác giả Phan Kim Chiến (Phân tích chính sách, 2012), “chính sách là
tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và các công cụ mà Nhà nước sử dụng
để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề, thực hiện
những mục tiêu nhất định”. Chính sách của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề đặt
ra của quốc gia và địa phương, đối với cả nền kinh tế - văn hóa – chính trị – xã hội,
hoặc có thể đối với từng ngành riêng biệt. Các chính sách được thực hiện thông qua bộ
máy các ngành, các cấp có liên quan (chiều ngang), hoặc từ TW đến địa phương và đến
cá nhân (chiều dọc). Chính sách được thể hiện qua các văn bản bao gồm Nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm ở TW và địa phương; Ở
cấp TW bao gồm luật, pháp lệnh, nghị quyết (của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội), Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ,
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan
30
TW của tổ chức chính trị - xã hội, Thông tư liên tịch; Ở cấp địa phương bao gồm Nghị
quyết của Hội đồng Nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của UBND,…
Theo tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy và Bùi Thị Hồng Việt (Chính sách kinh tế
- xã hội, 2012), “chính sách bao hàm các biện pháp nhất định để thực hiện các mục
tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mỗi chính sách bao gồm hai bộ phận: định hướng, mục tiêu cần đạt và các giải pháp
để thực hiện mục tiêu, định hướng đó”.
Trong khi đó, KDLQG là một đối tượng quản lý, là đối tượng tác động của
chính sách, chính sách phát triển KDLQG là các chính sách tác động vào quá trình hình
thành, hoạt động, phát triển du lịch tại các KDLQG nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
trong những giai đoạn nhất định. Có rất nhiều các chính sách khác nhau được ban hành
và thực thi tại các KDLQG, bao gồm cả các chính sách về du lịch và các chính sách
khác. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án, NCS đã giới hạn các chính sách phát triển
KDLQG là các chính sách du lịch nhằm phát triển các hoạt động du lịch tại các KDLQG.
Vì vậy, có thể hiểu, chính sách phát triển KDLQG là tổng hợp các quan điểm,
chủ trương, biện pháp, chương trình và phương thức hành động về du lịch của Nhà
nước (TW và địa phương), tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội tại các KDLQG,
nhằm đạt được các mục tiêu phát triển du lịch.
Đối tượng thụ hưởng của các chính sách phát triển KDLQG là các tổ chức,
các DNDL và các hộ gia đình và cá nhân tại các KDLQG, tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động du lịch, mở rộng hợp tác giữa du lịch Việt
Nam với khu vực và quốc tế.
Chính sách gồm nhiều quyết định có liên quan đến nhau. Chính sách phát
triển KDLQG phải thực hiện các mục tiêu Nhà nước đã đề ra, dựa trên các quyết định
về các vụ việc xã hội cần giải quyết có liên quan đến KDLQG.
Chính sách không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước mà còn bao gồm những
hành vi triển khai thực hiện dự định đó. Nhà nước triển khai bố trí ngân sách cho
công tác quy hoạch; hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị du lịch, KDL, điểm
du lịch; hỗ trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo TNDL và môi
trường du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo, phát triển NNL
du lịch.
Nhiệm vụ của các chính sách này là tập trung giải quyết một hoặc một số vấn
đề bức xúc của xã hội đặt ra. Chính sách phát triển KDLQG của Nhà nước cần tập
trung huy động mọi nguồn lực, kêu gọi đầu tư dựa trên các dự án được quy hoạch
31
phát triển các KDLQG, để du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của
KDLQG , của địa phương, của đất nước.
Mục tiêu của chính sách phát triển KDLQG là thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Chính sách phát triển KDLQG là một trong những
công cụ quản lý của Nhà nước nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG, nằm trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung và thường được áp dụng cụ thể ở từng địa
phương có KDLQG.
2.1.3.2. Vai trò của chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
Phát triển du lịch tại bất kỳ địa phương nào cũng cần các chính sách hỗ trợ
và làm khuôn khổ cho sự phát triển du lịch tại đó. Vì vậy, các chính sách phát triển
du lịch có vai trò quan trọng đối với mỗi một địa phương, một khu vực. Với các
KDLQG, vai trò của chính sách phát triển du lịch được thể hiện thông qua vai trò
với chính quyền địa phương, vai trò đối với doanh nghiệp và vai trò đối với cộng
đồng dân cư địa phương.
Đối với chính quyền địa phương: Các chính sách phát triển KDLQG đưa ra
các biện pháp, quy định để định hướng cho chính quyền địa phương thực hiện các
chiến lược, chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc mỗi địa phương. Dựa
trên ưu thế du lịch của từng địa phương, chính sách phát triển KDLQG phải định
hướng phát triển những đặc trưng riêng biệt, tạo ra sự đa dạng SPDL, nâng cao chất
lượng và số lượng các loại hình dịch vụ du lịch để đáp ứng được nhu cầu của du
khách khi đến những KDLQG thuộc địa phương và quốc gia đó.
Chính sách phát triển KDLQG tạo cơ sở pháp lý cho địa phương thực hiện
và điều chỉnh các kế hoạch, quy hoạch đầu tư xây dựng CSHT và CSVCKT du
lịch. Dựa trên các chủ trương và chính sách của Nhà nước, địa phương triển khai
thực hiện chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG theo đúng định hướng, quy
hoạch tổng thể của vùng miền và quốc gia, từ đó đảm bảo thực hiện được các mục
tiêu kinh tế – văn hóa – môi trường theo định hướng và quan điểm của Nhà nước
cũng như của địa phương có KDLQG.
Đối với các doanh nghiệp du lịch: Chính sách phát triển KDLQG tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hoạt động thuận lợi, nhận được sự hỗ
trợ phù hợp và hiệu quả từ sự quản lý của chính quyền địa phương. Các doanh nghiệp
du lịch là đối tượng chủ yếu của chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG, do đó
chính quyền địa phương sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch phát triển hoạt
32
động kinh doanh tại các KDLQG, doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và cung ứng sản phẩm của mình dễ dàng và thuận lợi hơn.
Chính sách phát triển KDLQG còn tạo điều kiện cho địa phương có các KDLQG
khuyến khích phát triển nguồn lực du lịch theo hướng nâng cao chất lượng SPDL và phát
triển bền vững. Các chính sách này sẽ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp du lịch đầu tư CSVCKT, nâng cao trình độ nguồn nhân lực, phát triển chất
lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch.
Đối với cộng đồng dân cư địa phương: Cộng đồng là nền tảng phát triển của
mọi xã hội. Cộng đồng có thể được hiểu ở những mức độ, quy mô khác nhau từ làng,
bản đến bộ tộc, dân tộc, quốc gia. Tác động của cộng đồng lên các giá trị tài nguyên,
trong đó có TNDL và qua đó ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững. Khi có các
chính sách phát triển du lịch phù hợp với cộng đồng dân cư địa phương tại các KDLQG,
họ sẽ tự nâng cao trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan, môi trường, bản sắc văn
hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng
cao hình ảnh đất nước, con người và du lịch tại địa phương mình. Qua đó, sẽ đáp ứng
được các yêu cầu phát triển du lịch của địa phương, nhu cầu của du khách đến cũng
như mong muốn của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, vì thế, vừa đảm bảo mang
lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương, vừa đảm bảo giữ gìn và phát huy bản sắc
và các giá trị văn hóa tại địa phương, vừa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho họ.
2.2. Nội dung nghiên cứu về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
2.2.1. Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
Luận án đã giới hạn phát triển KDLQG tập trung vào phát triển du lịch tại
KDLQG, bao gồm phát triển cả quy mô, cơ cấu, số lượng các sản phẩm dịch vụ du
lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch tại đó, từ đó làm nổi bật giá trị của các
KDLQG, nâng cao hiệu quả và hiệu suất khai thác, mang lại nhiều lợi ích cho địa
phương từ các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội từ việc phát triển du lịch. Do
đó, để phát triển du lịch tại các KDLQG cần có sự kết hợp của nhiều chính sách
phát triển nhằm giải quyết các lĩnh vực khác nhau liên quan đến du lịch.
Trong phạm vi luận án, NCS đã giới hạn nghiên cứu tập trung vào các chính
sách du lịch để phát triển du lịch tại các KDLQG. Qua nghiên cứu sơ bộ, NCS nhận
thấy các chính sách du lịch bao gồm các chính sách tác động vào việc duy trì và bảo
vệ môi trường du lịch và TNDL, tạo điều kiện cho các thành phần trong nền kinh tế
có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch một cách thuận lợi và hiệu quả
33
nhất bằng các hỗ trợ vật chất và phi vật chất (liên quan đến ngân sách và các điều
kiện kiện kinh doanh khác nhau), kích thích nhu cầu du lịch, cung cấp và đảm bảo
các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng); tác động tới giá SPDL;
tác động đến số lượng khách du lịch; tác động việc liên kết, hợp tác giữa các địa
phương và giữa các doanh nghiệp trong tổ chức và quản lý nguồn lực du lịch (như
nhân lực, vật lực, tài lực,…), trong đó đặc biệt là NNL du lịch,... (Bảng 2.1)
Chính sách du lịch
Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài
nguyên và môi trường du lịch
Chính sách tài chính
Chính sách kích cầu du lịch
Chính sách đào tạo và phát
triển NNL du lịch
Chính sách đầu tư CSHT và
CSVCKT du lịch
Chính sách phát triển SPDL
Chính sách xúc tiến, quảng bá
du lịch
Bảng 2.1. Các chính sách du lịch chủ yếu
Nguồn
John S. Akama (1998) ; David A. Fennell, Ross
Kingston Dowling (2003)
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009);
James Mak (2008); Vũ Đức Minh (2009)
Alan Jefferson, Leonard John Lickorish (1991);
Stephen Page, Joanne Connell (2006); William
Revill Kerr (2003)
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009);
Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001); Jonh R.
Walker, Josieelyn T. Walker (2011)
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009);
Jonh R. Walker, Josieelyn T. Walker (2011); Vũ
Đức Minh (2009)
James Mak (2008); Nese Kumral, A Özlem Önder
(2014); Vũ Đức Minh (2009)
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009);
Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001); James
Mak (2008); John R. Walker, Josieelyn T. Walker
(2011); Vũ Đức Minh (2009)
Bill Bramwell, Bernard Lane (2000); Derek Hall,
Greg Richards (2002); Vũ Đức Minh (2009) Chính sách liên kết, hợp tác
phát triển du lịch
Nguồn: Tác giả luận án tổng hợp
Thông qua kết quả phỏng vấn chuyên gia, NCS nhận thấy các chuyên gia đều
thống nhất để phát triển du lịch cần tập trung vào 8 chính sách du lịch cơ bản sau: Chính
sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch; Chính sách tài chính; Chính
sách kích cầu du lịch; Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch; Chính sách đầu
tư CSHT và CSVCKT du lịch; Chính sách phát triển SPDL; Chính sách xúc tiến, quảng
bá du lịch và Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch (Bảng 2.2).
34
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả phỏng vấn chuyên gia
về chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG
STT Các chính sách
Số ý kiến
đồng ý Số chuyên gia được
phỏng vấn (15)
Tỷ lệ
(%)
1 15 100
Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi
trường du lịch
2 Chính sách tài chính
3 Chính sách kích cầu du lịch
4 Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch
5 Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch
6 Chính sách phát triển SPDL
7 Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
8 Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
9 Chính sách khác 15
15
15
15
15
15
15
0 100
100
100
100
100
100
100
0
Nguồn: Kết quả phỏng vấn chuyên gia
Từ kết quả khảo sát đó, NCS đã xác định và tập trung nghiên cứu 8 chính sách du
lịch cơ bản nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG như sau:
2.2.1.1. Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Chính sách này bao gồm các nội dung liên quan đến phân loại, đánh giá tài
nguyên và môi trường du lịch, bên cạnh đó còn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận
động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để
xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động khai thác, bảo vệ tài nguyên và
môi trường của mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tại các vùng du
lịch có KDLQG. Đây là các chính sách chủ yếu do cấp TW ban hành, nhằm quản lý
TNDL cấp quốc gia và địa phương, trên cơ sở đó, các địa phương có TNDL có cơ sở
để khai thác, quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường du lịch.
Phần lớn các chính sách này thường ưu tiên các dự án phát triển du lịch gắn
liền với sử dụng năng lượng thay thế, tiết kiệm năng lượng, áp dụng mô hình 3R
(Reduce, Reuse, Recycle) góp phần giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu. Mở
rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia
thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, nội dung các chính sách
này còn nhằm ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị
ô nhiễm, suy thoái.
35
2.2.1.2. Chính sách tài chính
Chính sách này bao gồm các ưu đãi về tài chính, tín dụng và ưu tiên bố trí ngân
sách và thành lập các quỹ phát triển du lịch.
- Chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích, ưu đãi về tài
chính, tín dụng đối với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư và kinh doanh
trong lĩnh vực bảo vệ, tôn tạo TNDL và môi trường du lịch; tuyên truyền, quảng bá
du lịch; phát triển NNL du lịch; nghiên cứu, đầu tư, xây dựng SPDL mới; hiện đại hóa
hoạt động du lịch; xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, CSVCKT du lịch, nhập khẩu
phương tiện cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên
dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch cao cấp và KDLQG; phát triển du lịch tại nơi
có tiềm năng du lịch nhưng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa,
nhằm sử dụng lao động, hàng hóa và dịch vụ tại chỗ, góp phần nâng cao dân trí, xóa
đói, giảm nghèo. Để thực hiện chính sách này, các hành động cần thi hành bao gồm:
giảm tiền thuê đất, ưu tiên cho cơ sở lưu trú và KDL sử dụng nhiều diện tích đất cho
tạo cảnh quan và bảo vệ môi trường; được cấp và cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi,
nợ hạn dài,… để kích thích và tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài địa
phương tới khai thác và kinh doanh du lịch, tạo ra cơ hội và khả năng phát triển du
lịch tại địa phương, cũng như tại các KDLQG ở địa phương đó.
- Chính sách bố trí ngân sách: Mục tiêu là ưu tiên cho công tác quy hoạch; hỗ
trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị du lịch, KDL, điểm du lịch; hỗ trợ công
tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch,
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phát triển nguồn lực du lịch,... Để thực
hiện điều này cần xem xét, đánh giá và phân loại các dự án với các tiêu chí rõ ràng,
minh bạch để có cơ sở phân phối ngân sách phù hợp. Du lịch là một ngành kinh tế
tổng hợp và có tính lan tỏa, ngoài mang lại lợi ích kinh tế vi mô cho doanh nghiệp
kinh doanh thì nó còn có thể thúc đẩy kinh tế địa phương nói chung và ngành du lịch
của địa phương nói riêng, phát triển. Tuy nhiên, có thể do điều kiện hạn chế về nguồn
lực tài chính và khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài mà nhiều doanh nghiệp kinh
doanh du lịch hiện nay vẫn chưa đủ ngân quỹ để thực hiện các nhiệm vụ này. Vì thế,
việc phân loại, xác định các dự án ưu tiên và bố trí một khoản ngân sách của TW,
hoặc/và của địa phương để hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp kinh doanh du lịch
địa phương giúp cho họ có đủ điều kiện để quảng bá, khai thác và phát triển du lịch
tại địa phương một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững, xứng đáng với tiềm năng
của Vùng, là rất cần thiết.
36
- Chính sách về quỹ hỗ trợ phát triển du lịch: Mục tiêu là khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành quỹ hỗ trợ phát triển du lịch từ các nguồn
đóng góp của các chủ thể hưởng lợi từ hoạt động du lịch, nguồn đóng góp tự nguyện
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Để thực hiện các chính sách này cần giảm
và cho chậm nộp thuế trong các trường hợp cần thiết; sử dụng lãi suất từ tiền ký quỹ
của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế gửi ngân hàng thương mại để thành lập quỹ hỗ
trợ phát triển du lịch; vận động, khai thác và tiếp nhận đóng góp cho quỹ hỗ trợ phát
triển du lịch của mọi tổ chức và cá nhân tình nguyện.
2.2.1.3. Chính sách kích cầu du lịch
Kích cầu là biện pháp kinh tế với mục đích làm tăng tổng cầu, kích thích tăng
trưởng kinh tế. Kích cầu có thể là chính sách của nhà nước và cũng có thể là biện
pháp của doanh nghiệp. Đối với các chính sách của nhà nước, kích cầu thường chỉ
được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, sự phát triển của ngành Du lịch liên
quan trực tiếp tới nhiều ngành khác và bản thân nó cũng sẽ tác động tới nhiều ngành
khác nhau trong nền kinh tế. Vì thế, bất cứ sự biến động nào ảnh hưởng tới nền kinh
tế thì cũng đều tác động trực tiếp tới ngành du lịch. Trong quá trình vận động của nền
kinh tế, các yếu tố môi trường thường biến động bất ngờ và khó lường, ảnh hưởng rất
lớn tới điều kiện và quá trình sản xuất, kinh doanh. Khi yếu tố môi trường bất lợi,
tăng trưởng kinh tế bị giảm sút, thậm chí là khủng hoảng thì chắc chắn ngành du lịch
cũng sẽ bị suy thoái và tổn thất nặng nề. Lúc đó, các chính sách kích cầu du lịch sẽ là
đòn bẩy quan trọng để giúp ngành phục hồi và phát triển.
Nội dung của các chính sách kích cầu du lịch bao gồm giảm thuế hoặc tăng
chi tiêu hoặc cả hai.
- Giảm thuế: Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế năm 2008 - 2009, Chính
phủ Việt Nam thông qua Bộ Tài chính đã đưa ra chính sách miễn, giảm, giãn liên
quan đến 3 loại thuế thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp và thuế GTGT.
+ Với thuế thu nhập cá nhân: Chính phủ có thể ban hành các chính sách miễn
thuế thu nhập cá nhân đối với tiền công, tiền lương của người lao động trong bối cảnh
thu nhập của họ bị giảm sút vì kinh tế suy thoái, thời gian miễn giảm có thể linh hoạt,
tùy vào điều kiện phục hồi của nền kinh tế. Hoặc Chính phủ có thể thực hiện linh hoạt
bằng cách giãn thuế trong giai đoạn đầu, sau đó thực hiện giảm thuế. Nhu cầu du lịch
là nhu cầu không thiết yếu, vì thế khi điều kiện kinh tế gặp khó khăn, một trong những
lựa chọn đầu tiên cần giảm bớt hoặc cắt bỏ của người tiêu dùng sẽ là đi du lịch. Vì
37
vậy, để kích cầu du lịch, Nhà nước có thể xem xét các chính sách giảm thuế thu nhập
cá nhân với người tiêu dung, từ đó sẽ kích thích nhu cầu du lịch tăng lên. Các điểm
đến du lịch, đặc biệt là các KDLQG sẽ có nguồn cầu ổn định, sự phát triển du lịch tại
đó cũng được đảm bảo hơn.
+ Với thuế thu nhập doanh nghiệp: Tại một số quốc gia, chính phủ có thể xem
xét thực hiện giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 30%, đây là tỷ lệ tham chiếu cho tính
toán mức giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng khi
mà kinh tế bị đình đốn, doanh nghiệp rất khó xoay xở với các khoản chi phí sản xuất,
kinh doanh. Gánh nặng thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ làm cho họ càng ít có khả năng
duy trì và đảm bảo ổn định, chưa nói đến tăng trưởng, hoạt động kinh doanh của
mình. Nhất là với các doanh nghiệp du lịch, việc khách hàng không lựa chọn nhu cầu
du lịch trong giai đoạn này làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh du lịch bị bế tắc,
các khoản chi phí gián tiếp, chi phí hao mòn tài sản vô ích,.. vẫn tăng lên. Nhiều
doanh nghiệp du lịch không chịu nổi sức ép đó đã phải tuyên bố phá sản. Hoạt động
cung du lịch bị thiếu hụt tạo ra sự mất cân bằng cho phát triển du lịch ngay khi kinh
tế được phục hồi, và kết quả là điểm du lịch như các KDLQG không thể vực dậy, duy
trì và không có cơ hội để phát triển.
+ Với thuế GTGT: Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng hoặc bị đình trệ, tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao, người dân không có thu nhập, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
mua của người tiêu dùng nên nếu Chính phủ đồng ý áp dụng thuế GTGT 0% đối với
doanh thu đón khách du lịch quốc tế vào Việt Nam; hoàn thuế GTGT cho khách du
lịch quốc tế khi mua hàng của Việt Nam mang ra; giảm 5% thuế GTGT đối với doanh
thu từ kinh doanh du lịch nội địa thì nó sẽ có tác dụng kéo giá cả hàng hoá, dịch vụ
du lịch xuống thấp. Từ đó, có thể kích cầu du lịch nội địa, giúp giải quyết khó khăn
của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hoạt động du lịch tại các điểm du lịch, đặc biệt
là KDLQG, có thể phục hồi và phát triển.
- Tăng chi tiêu của Chính phủ: Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm
rất mạnh, bao gồm cầu tư nhân và cầu doanh nghiệp, thậm chí tăng trưởng âm. Chỉ có
cầu của Chính phủ gần như không bị tác động, đó là chi tiêu cho các gói hỗ trợ doanh
nghiệp và đặc biệt là đầu tư công. Vì vậy chi tiêu của Chính phủ có thể kích cầu tăng
trưởng. Về cơ bản, trong lĩnh vực du lịch, các khoản chi tiêu của Chính phủ bao gồm:
+ Chi đầu tư công tập trung vào lĩnh vực CSHT đã được phê duyệt và đúng
thời điểm mà nền kinh tế cần. Tuy nhiên chỉ bố trí vốn từ ngân sách nhà nước cho
những công trình thật sự cần thiết, có hiệu quả cao, đồng thời kiểm soát chặt chẽ đầu
tư công nhằm chống dàn trải, lãng phí, thất thoát, tham nhũng.
38
+ Chi các gói hỗ trợ: Các gói hỗ trợ còn được gọi là các “gói kích cầu” với
khoản ngân sách của Chính phủ dùng để hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch đang gặp
khó khăn trong sản xuất và kinh doanh du lịch với các khoản cho vay ngắn hạn qua
ngân hàng với lãi suất thấp hơn và thời gian trả nợ dài hơn.
2.2.1.4. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch
Đào tạo và phát triển NNL du lịch nhắm nâng cao chất lượng, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của NNL tại các KDLQG, đặc biệt là NNL du lịch, đáp ứng yêu cầu
phát triển du lịch và hội nhập quốc tế. Nội dung của chính sách này bao gồm:
- Phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục du lịch, chuẩn hóa chất lượng giảng viên
du lịch, giáo trình du lịch và khung đào tạo du lịch; nâng cao chất lượng CSVCKT đào
tạo đảm bảo sự đồng bộ và hiện đại phù hợp yêu cầu phát triển NNL du lịch nói chung.
- Hỗ trợ ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển các trường đào tạo nghề
du lịch đạt chuẩn. Nhà nước có cơ chế, chính sách đặc thù và hỗ trợ đầu tư đồng bộ
cho các trường nghề được lựa chọn để đạt các tiêu chí của trường nghề chất lượng
cao; đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa để những
trường nghề khác xây dựng đạt các tiêu chí của trường nghề chất lượng cao và được
đánh giá, công nhận. Cụ thể: Ưu đãi về tín dụng đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy
nghề theo quy định của pháp luật; Ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh, cung
ứng dịch vụ gắn với đào tạo theo quy định của pháp luật; Hỗ trợ đào tạo cán bộ quản
lý, giáo viên dạy nghề; sử dụng chương trình, giáo trình theo hướng tiếp cận trình độ
của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN và quốc tế.
- Khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp. Các
DNDL tại các KDLQG cần phối hợp với các tổ chức, trung tâm chuyên về đào tạo
nhân sự du lịch như Vụ Tổ chức cán bộ - Tổng cục Du lịch, Trường Cao đẳng Quốc
tế Pegasus, thuộc Tập đoàn Giáo dục Kinderworld (Singapore)…, giúp nhân viên có
thể được bồi dưỡng nghiệp vụ, tự nâng cao trình độ chuyên môn ngay cả khi đang
làm việc. Cần tổ chức định kỳ các khóa đào tạo nhân sự, được cải thiện và phát triển
theo phân luồng nhân sự như mới và cũ, quản lý cấp cao và nhân sự cấp dưới,… để
có giải pháp đào tạo NNLhiệu quả.
Hiện nay có rất nhiều chương trình đào tạo mà doanh nghiệp có thể tham khảo
như Đào tạo Inhouse, đào tạo Public, Team Building và cả giải pháp đào tạo trực tuyến.
Tạo điều kiện để nhân viên tự học và tự phát triển cũng nên là một trong những
chính sách cần có. Việc cung cấp các tài liệu kỹ năng định kỳ qua email, hoặc tài trợ
39
kinh phí học tập (một phần hoặc toàn bộ), tổ chức các chương trình thi đua có thưởng…,
cũng là cách để nhân viên tự học và hành ngay tại doanh nghiệp.
2.2.1.5. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
Chính sách này chủ yếu ưu tiên hỗ trợ đầu tư CSHTdu lịch, huy động nguồn lực
để tập trung đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng cơ sở cung ứng dịch vụ du lịch,
hình thành những trung tâm du lịch tại các KDLQG tầm vùng miền và quốc gia.
Về CSHT, ban hành chính sách về xác định và lựa chọn các công trình CSHT
nền tảng, trọng điểm như hệ thống đường giao thông, điện, nước, nhà vệ sinh công
cộng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch tại các địa phương có thế mạnh đặc biệt
về du lịch, như các KDLQG; Có cơ chế khuyến khích xã hội hóa trong công tác đầu
tư phát triển du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia góp vốn đầu tư
dưới các hình thức khác nhau, đặc biệt có cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn
trong dân để đầu tư phát triển du lịch như hỗ trợ giải phóng mặt bằng để xây dựng
các tuyến giao thông, ưu đãi về vốn, miễn giảm thuế cho các công trình mang tính
công cộng như các công trình cung cấp điện năng, thông tin liên lạc,…
Về CSVCKT du lịch, cần đảm bảo chất lượng, hiện đại, tiện nghi, đồng bộ đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch, bao gồm hệ thống khu, điểm du lịch, cơ sở lưu trú du
lịch, nhà hàng, cơ sở dịch vụ tư vấn du lịch, cơ sở dịch vụ đặt giữ chỗ, đại lý, lữ hành
và hướng dẫn; hệ thống phương tiện, cơ sở dịch vụ phục vụ vận chuyển khách du
lịch, các cơ sở dịch vụ phục vụ tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, thể thao, hội
nghị,... Những chính sách liên quan cần đảm bảo môi trường kinh doanh và đầu tư
thông thoáng, minh bạch và thuận lợi nhằm thu hút sự tham gia đầu tư, sản xuất, kinh
doanh của mọi thành phần kinh tế tại vùng du lịch. Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư
theo hướng xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư gắn với các địa điểm và tiêu
chí lựa chọn nhà đầu tư cụ thể, hướng đến khuyến khích thu hút các nhà đầu tư chiến
lược có uy tín, có thương hiệu đầu tư vào các KDLQG, nhất là các dự án nhằm khai
thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh riêng có của địa phương để tạo ra các SPDL độc
đáo, tạo sự khác biệt hấp dẫn du khách, khuyến khích phát triển bền vững, đặc biệt là
các công trình, dự án du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch cộng đồng tại các
KDLQG. Thống nhất và công khai ưu đãi về chính sách thuế, phí, lãi suất cho các dự
án du lịch trong khu vực bằng các văn bản cụ thể.
2.2.1.6. Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
Nội dung của các chính sách này thể hiện việc ưu tiên, hỗ trợ phát triển các loại
hình du lịch dựa trên TNDL thế mạnh và đặc thù của từng địa phương có KDLQG
40
trong nội bộ vùng du lịch. Nội dung của các chính sách này bao gồm những hỗ trợ của
Nhà nước và các địa phương về kinh phí, các điều kiện và thủ tục nhằm nghiên cứu thị
trường, định hướng phát triển sản phẩm đặc trưng cho từng KDLQG dựa trên thế mạnh
nổi trội và hấp dẫn về TNDL và các sản phẩm có tính liên kết vùng nhằm kết nối các
chuỗi giá trị để tạo thành những SPDL hấp dẫn theo từng nhóm loại hình SPDL phù
hợp với thị trường khách mục tiêu; các ưu tiên nhằm phát triển các SPDL thân thiện
môi trường, tôn trọng yếu tố tự nhiên và văn hóa địa phương, ưu tiên các dự án phát
triển du lịch gắn với liền với bảo tồn môi trường và đa dạng sinh học tại các KDLQG.
2.2.1.7. Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
Chính sách này nhằm mục tiêu xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng chuyên
nghiệp, nhằm vào thị trường mục tiêu, lấy SPDL và thương hiệu du lịch là trọng tâm;
quảng bá du lịch gắn với quảng bá hình ảnh các KDLQG tại địa phương. Nội dung
của chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch bao gồm:
Xây dựng thương hiệu điểm đến gắn với các KDLQG. Cụ thể, các chính sách
cần chú trọng nghiên cứu thị trường nhằm tìm ra phân đoạn thị trường hợp lý, trong
đó cần tập trung phân tích thị trường khách tiềm năng nội địa và quốc tế. Nghiên cứu
điểm đến để chỉ ra được những mặt mạnh, hạn chế trong quá trình hoạt động của tất
cả các điểm tham quan, dịch vụ trên địa bàn, tìm ra những giải pháp và hướng đi phù
hợp, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, đáp ứng nhu cầu của du khách. Xây
dựng logo và slogan nhận diện du lịch tại điểm đến có KDLQG đảm bảo mang lại ấn
tượng và hiệu quả, mô phỏng đầy đủ các loại hình tiềm năng, dịch vụ, giúp du khách
dễ dàng liên tưởng. Sau đó cần giới thiệu, thực hiện và phát triển thương hiệu trên
các kênh thông tin khác nhau: Tờ rơi, tập gấp, internet, trang thông tin điện tử, truyền
hình, báo chí, tổ chức sự kiện,…và thông qua các hãng lữ hành. Ngoài ra, cần xác
định SPDL đặc trưng của địa phương để đầu tư nâng cấp các điều kiện đón - phục vụ
khách (hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, nhân lực, giao thông,…) nhằm giữ gìn hình
ảnh và thương hiệu điểm đến của KDLQG.
Xây dựng và tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch tại các KDLQG ở
cả trong và ngoài nước, đảm bảo thường xuyên và hiệu quả, gắn với các hoạt động thiết
thực và có ý nghĩa như giao lưu văn hóa, tham gia các hội chợ du lịch quốc tế, các diễn
đàn du lịch trong và ngoài khu vực,... Tuyên truyền về du lịch thông qua phương tiện
thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và
của nhân dân về vị trí, vai trò của KDLQG trong phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, từ đó góp phần duy trì và phát huy hiệu quả của công tác xúc tiến, quảng bá,
mang lại tác động tích cực cho phát triển du lịch tại các KDLQG.
41
2.2.1.8. Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
Chính sách này thực hiện về việc đẩy mạnh liên kết, hợp tác phát triển du lịch
giữa địa phương có KDLQG với các địa phương khác và các quốc gia gần kề trên cơ
sở bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với điều kiện chính trị – văn hóa – xã hội mỗi bên,
theo pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo các tuyến du lịch liên vùng, liên quốc gia, kết
nối thị trường du lịch địa phương với thị trường du lịch thuộc các tỉnh trong cả nước
và các tỉnh thành, địa phương của quốc gia khác.
Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đã ký kết; tranh thủ sự hỗ trợ
của các tổ chức trong và ngoài nước, góp phần đẩy nhanh sự phát triển và hội nhập
của du lịch địa phương, nâng cao hình ảnh, vị thế các KDLQG tại địa phương và
hình ảnh quốc gia trên trường khu vực và quốc tế. Trong đó, chủ yếu tập trung vào
các nội dung sau:
- Khuyến khích và tạo thuận lợi cho công dân các địa phương lân cận, trong
phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia đã có các thỏa thuận liên kết có thể đi du lịch
đến các địa phương của nhau (ví dụ như: miễn Visa, tăng thời gian tạm trú,...), tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch được giao lưu, hợp tác,
kí kết trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
- Tăng cường hợp tác về xúc tiến du lịch thông qua các hoạt động sau đây: Tạo
điều kiện, hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của các cơ quan đại diện du lịch quốc gia
tại các quốc gia có thỏa thuận hợp tác, các DNDL, các cơ quan xúc tiến du lịch nhằm
tăng cường hoạt động xúc tiến và đầu tư trong lĩnh vực du lịch; Hỗ trợ nhau tổ chức
các chương trình quảng bá du lịch và văn hoá ở các quốc gia, các địa phương có thỏa
thuận hợp tác thông qua việc tổ chức các cuộc hội thảo hàng năm, huy động các chuyên
gia trong lĩnh vực du lịch cũng như các cơ quan hữu quan của các địa phương liên kết;
Phối hợp tổ chức các chuyến khảo sát cho các hãng lữ hành lớn, các cơ quan thông tin
đa phương tiện của các quốc gia có thỏa thuận hợp tác nhằm quảng bá và giới thiệu
hình ảnh các KDLQG của Việt Nam, đặc biệt thông qua việc thực hiện một số phim,
các phóng sự, các sự kiện âm nhạc, thể thao, kinh tế,…
- Khuyến khích trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính,
quản lý và hoạt động kinh doanh du lịch trên quan điểm tổng thể hợp tác giữa các
quốc gia và các địa phương có thỏa thuận hợp tác gồm: Các văn bản pháp lý liên
quan đến hoạt động du lịch; Phát triển du lịch, thống kê du lịch, phát triển SPDL;
Bảo vệ và gìn giữ và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và di sản
văn hoá; Trao đổi kinh nghiệm quản lý các hãng lữ hành, khách sạn và các hình
42
thức lưu trú khác dưới hình thức gặp gỡ, hội thảo giữa các hình thức gặp gỡ, hội
thảo giữa các nhà chuyên môn; Cách thức tiếp cận các thị trường khác nhau và đa
dạng hoá SPDL của từng KDLQG.
2.2.2. Quy trình chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
Quy trình chính sách thường bao gồm các giai đoạn chính, theo trình tự thời gian
là: Xây dựng chính sách, ban hành chính sách, triển khai thực hiện, kiểm tra, đánh giá và
điều chỉnh chính sách. Ngoài ra, có thể phân chia thành các giai đoạn nhỏ hơn, tùy thuộc
vào quy mô và tính chất của chính sách được ban hành. Trên cơ sở đó có thể khái quát
các giai đoạn chính trong quy trình chính sách phát triển các KDLQG như sau:
Bước 1. Xây dựng và ban hành chính sách
Bước 2. Tổ chức thực hiện chính sách
Bước 3. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
Bước 4. Đánh giá và điều chỉnh chính sách
Cụ thể, quy trình chính sách phát triển KDLQG bao gồm:
2.2.2.1. Xây dựng và ban hành chính sách
Chủ thể ban hành các chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng du lịch bao
gồm Chính phủ và UBND các tỉnh/thành phố có các KDLQG đó.
Các chính sách của TW do Chính phủ xây dựng và ban hành, các chính sách
của địa phương do UBND các tỉnh/thành phố có các KDLQG xây dựng, ban hành và
chỉ đạo thực hiện.
Các chính sách do Chính phủ ban hành (là các chính sách của TW) là những
chính sách quản lý ở tầm vĩ mô, là công cụ hữu hiệu chủ yếu để Nhà nước thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, từ đó đảm bảo đạt được các mục tiêu về phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng của Nhà nước.
Các chính sách do UBND các tỉnh/thành phố có các KDLQG ban hành là
những chính sách quản lý cấp địa phương, có vai trò quyết định việc phát triển kinh
tế, an sinh xã hội, đặc biệt là du lịch, của địa phương. Thực hiện tốt quy trình chính
sách của địa phương sẽ có tác động tích cực tới đời sống xã hội, phát triển kinh tế, ổn
định bền vững, bảo vệ môi trường và TNDL của địa phương.
- Mục tiêu chính sách phát triển KDLQG là nhằm làm cho SPDL tại KDL đó
có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; nâng
cao trình độ nguồn nhân lực; cải thiện vị thế cạnh tranh của du lịch địa phương, phát
triển du lịch tại đó về cơ bản trở nên hiệu quả hơn, mang tính chuyên nghiệp, có hệ
thống CSVCKT tương đối đồng bộ, hiện đại.
43
- Nguyên tắc xây dựng chính sách phát triển KDLQG:
Xây dựng nội dung chính sách phát triển KDLQG phải tuân theo hướng phát
triển du lịch bền vững. Chính sách phải theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà
giữa kinh tế, xã hội và môi trường tại đó; đảm bảo phát triển theo hướng bảo tồn, tôn
tạo, phát huy giá trị của TNDL .
Chính sách phát triển KDLQG phải đảm bảo tính thống nhất giữa phát triển du
lịch quốc gia với phát triển du lịch địa phương. Các SPDL bên cạnh việc khai thác nét
đặc thù của địa phương thì vẫn phải đảm bảo sự hài hòa, thống nhất với quan điểm,
định hướng về phát triển SPDL quốc gia trong chiến lược và quy hoạch du lịch quốc
gia. Các sản phẩm địa phương vừa góp phần làm phong phú thêm các SPDL của vùng,
tăng sức hấp dẫn của vùng, vừa hỗ trợ chính sách phát triển du lịch của quốc gia và là
một nội dung quan trọng trong chính sách phát triển du lịch quốc gia.
Chính sách phát triển KDLQG phải bảo đảm phát triển du lịch vì lợi ích cộng
đồng, an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh
doanh du lịch tại đó. Chính sách phải thu hút được sự tham gia của mọi thành phần
kinh tế, mọi tầng lớp dân cư địa phương trong phát triển du lịch.
Chính sách phát triển KDLQG phải góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và
giao lưu khu vực, quốc tế để quảng bá hình ảnh vùng du lịch; thu hút được ngày càng
nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến với các KDLQG đó.
- Quy trình xây dựng chính sách phát triển KDLQG:
Quy trình xây dựng chính sách phát triển KDLQG được khái quát gồm các nội
dung chính như sau:
+ Xác định, lựa chọn vấn đề: Từ mục tiêu và dựa trên nguyên tắc phát triển
KDLQG, địa phương cần thu hút đầu tư vào SPDL có chất lượng cao, đa dạng, có
thương hiệu và khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng; đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ NNL du lịch; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch; phát triển CSVCKT
nhằm đảm bảo sự đồng bộ và hiện đại.
+ Xây dựng các phương án: Từ xác định vấn đề trong chính sách phát triển
KDLQG, địa phương cần lập các phương án, mời các doanh nghiệp tham gia buổi giới
thiệu các dự án du lịch, gửi các công văn đến các DNDL, tuyên truyền và hỗ trợ người
dân tham gia phát triển du lịch cộng đồng; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn
nâng cao trình độ đội ngũ lao động du lịch; xúc tiến, quảng bá du lịch địa phương dưới
nhiều hình thức; phân bổ ngân sách hợp lý cho phát triển CSHT du lịch.
44
+ Lựa chọn phương án tối ưu: Từ các phương án đã đưa ra, từng địa phương
cụ thể cần dựa vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế tại địa phương để chọn ra phương
án hợp lý, hiệu quả nhất để thu hút đầu tư vào SPDL của KDLQG; chọn phương án
tốt nhất về nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và lao động du lịch; phương án tối ưu
cho xúc tiến, quảng bá vùng du lịch; phát triển CSHTdu lịch đồng bộ và hiện đại.
+ Quyết định ban hành chính sách: Từ phương án tối ưu đã lựa chọn, các địa
phương cần cân nhắc ban hành quyết định về chế độ ưu đãi đầu tư vào SPDL của
vùng, cơ chế hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng tại vùng du lịch; ban hành quyết định
về việc nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và lao động du lịch, về việc xúc tiến, quảng
bá du lịch, phát triển CSHT du lịch.
2.2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển
Với các chính sách của TW do Chính phủ xây dựng và ban hành, cơ quan
QLNN cấp TW có thể chỉ đạo, phối hợp cơ quan QLNN cấp địa phương để tổ chức
thực hiện trên phạm vi toàn quốc gia hoặc tại một địa phương cụ thể.
Với các chính sách của địa phương do UBND các tỉnh/thành phố có các
KDLQG xây dựng, ban hành, cơ quan quản lý hành chính cấp địa phương sẽ có trách
nhiệm tổ chức thực hiện ngay tại địa phương.
Việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển KDLQG bao gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1. Chuẩn bị triển khai chính sách
Thành lập cơ quan tổ chức thực hiện: Phải tổ chức bộ máy QLNN về du lịch
của vùng du lịch, quy định sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN địa phương về việc
quản lý các dự án phát triển KDLQG được phê duyệt. Trong việc chuẩn bị bộ máy tổ
chức thực hiện chính sách, cần phải thống nhất sắp xếp các phần công việc cho các
bộ phận, phòng ban chức năng đảm đương tốt nhất và có sự quan tâm chỉ đạo trực
tiếp của lãnh đạo địa phương đối các phần công việc được chuẩn bị để việc triển khai
không gián đoạn, tiến độ triển khai được liên tục thuận lợi.
Xây dựng chương trình hành động: Phải lập kế hoạch thực hiện triển khai nội
dung chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch của địa phương, phải dự kiến
chuẩn bị đủ nhân lực đảm nhiệm để triển khai chính sách; dự kiến phân bổ nguồn tài
chính hợp lý cho quá trình triển khai chính sách; chuẩn bị, dự kiến thời gian triển khai
chính sách tại địa phương.
Ra văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn: Phải ra một số văn bản hướng dẫn
thực hiện; tiếp theo là tổ chức chương trình hướng dẫn, quản lý hoạt động đào tạo,
45
tập huấn, bồi dưỡng NNL du lịch; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục
vụ du lịch địa phương.
- Giai đoạn 2. Chỉ đạo thực hiện chính sách:
Thông tin tuyên truyền về chính sách: Phải tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
thông tin chủ chương, chính sách và pháp luật về du lịch của địa phương. Tổ chức
các lớp tập huấn nâng cao chất lương trình độ chuyên môn nghiệp vụ NNL du lịch,
nâng cao chất lượng SPDL của KDLQG. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong điều hành và quản lý về du lịch tại các vùng du lịch.
Tổ chức các quỹ thực hiện chính sách: Phải trích lập quỹ từ nguồn ngân sách từ
TW và của địa phương để thực hiện hoạt động xúc tiến KDLQG. Một phần quỹ phải
giao trực tiếp cho Trung tâm xúc tiến du lịch của địa phương, đơn vị này sẽ tư vấn, hỗ
trợ các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh sản phẩm đặc trưng của KDLQG tại các vùng
du lịch. Một phần quỹ giao cho chương trình tập huấn, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
NNL trong quá trình triển khai chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch.
Phân công và phối hợp hoạt động với các ban, ngành của địa phương: Phối
hợp các ban, ngành của địa phương cùng tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ,
công việc cụ thể trong chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch. Phối hợp
với các cơ quan chức năng trong thực hiện quản lý, cấp và thu hồi các giấy phép về
hoạt động du lịch của các tổ chức, doanh nghiệp ở địa phương. Tổ chức thực hiện
chính sách thu hút đầu tư du lịch trong và ngoài nước thông qua hoạt động giới thiệu
các dự án đầu tư du lịch vào các KDLQG, gửi các văn bản đến các doanh nghiệp ở
địa phương tại vùng du lịch.
2.2.2.3. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển KDLQG, cả cơ quan QLNN
cấp TW và địa phương đều cần phải thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp
hành các nội dung chính sách đã triển khai. Tuy nhiên tùy từng cấp, đối tượng thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra sẽ khác nhau. Với các chính sách của TW, cơ quản
QLNN có thẩm quyền sẽ được phân công tiến hành kiểm tra, thanh tra việc chấp hành
chính sách. Còn với các chính sách cấp địa phương, UBND địa phương sẽ cử cán bộ
chuyên môn phụ trách kiểm tra, thanh tra việc thi hành chính sách.
Dưới đây là một số nội dung kiểm tra, thanh tra chính sách phát triển KDLQG:
- Kiểm tra, giám sát đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình du lịch
có ý nghĩa quốc gia thuộc vùng du lịch. Kiểm tra, giám sát việc khai thác tài nguyên
của các DNDL, bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch bền vững tại các KDLQG
46
của địa phương. Đồng thời thu thập thông tin cơ sở từ các tổ chức, DNDL về tình
hình thực hiện chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch của địa phương.
- Thanh tra quy hoạch phát triển KDLQG làm cơ sở cho việc xây dựng quy
hoạch chi tiết phát triển tại các vùng du lịch của địa phương, thẩm định lại các khu
vực có tiềm năng du lịch và đưa ra các dự án đầu tư chi thiết, cụ thể hơn.
Việc kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời phát hiện sai phạm trong quá trình triển
khai và thực hiện chính sách để có biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài ra, việc kiểm tra,
thanh tra còn nhằm rà soát hệ thống văn bản pháp luật về du lịch hiện hành, loại bỏ những
quy định chồng chéo, không có giá trị thiết thực, không phù hợp với các cam kết; đảm
bảo các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp cam kết về du lịch của địa phương.
2.2.2.4. Đánh giá và điều chỉnh chính sách
Cơ quan nào xây dựng và ban hành chính sách thì cơ quan đó có trách nhiệm
đánh giá và điều chỉnh chính sách để đảm bảo chính sách được thực hiện hợp lý và
hiệu quả tại địa phương.
a. Đánh giá chính sách
Để đảm bảo chính sách có hiệu lực, hiệu quả tại địa phương thì cần đảm bảo
các tiêu chí sau:
- Sự phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước: Văn bản pháp luật về du
lịch hiện hành phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo các lợi ích cho quốc gia, dân tộc.
- Đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và có tính kế thừa: Sự phát triển của
hệ thống chính sách theo một quá trình mang tính lịch sử mà những chính sách ra sau
phải đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và kế thừa những ưu điểm của hệ thống
văn bản trước đó. Do đó, các chính sách đưa ra phải thể hiện được tính liên tục của
hệ thống chính sách của Nhà nước.
- Tính khoa học và khả thi: Chính sách không phải là những ý tưởng có tính
phi hiện thực mà nó phải mang tính thực tế. Chính sách phát triển KDLQG phải gắn
với những chỉ tiêu đúng đắn, phải thực hiện những cách thức tối ưu để đạt được, gắn
liền với NNL được phân công để thực hiện phù hợp, đồng thời phải gắn với những
điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và tài chính xác định. Có như vậy, kế hoạch mới
đảm bảo được tính khoa học và thực thi hiệu quả.
- Đáp ứng nhu cầu du lịch: Các chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du
lịch đưa ra phải đảm bảo thỏa mãn được các nhu cầu của DNDL và du khách tại các
vùng du lịch; chính sách phù hợp với nhu cầu du lịch thì sẽ được DNDL thực thi
47
nhanh chóng và có hiệu quả cao, kích thích nhu cầu tham quan du lịch của du khách
tại các vùng du lịch có KDLQG.
- Sự ủng hộ của dân cư: Chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch sẽ
gặp nhiều thuận lợi khi được dân cư ủng hộ như về giải phóng mặt bằng, ý thức bảo
vệ TNDL, ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa bản địa,… Do vậy, hiệu quả của chính
sách phát triển ktại các vùng du lịch KDLQG phụ thuộc rất nhiều vào mức độ ủng hộ
của dân cư địa phương.
b. Điều chỉnh chính sách
Sau khi kiểm tra và đánh giá được các mức độ thực hiện chính sách, cần phải
tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số nội dung điều chỉnh chính sách phù hợp với tình
hình thực tế của quá trình thực hiện chính sách tại các địa phương.
- Xác định nguyên nhân: Các nguyên nhân từ sự thay đổi của thực tế khách quan;
các nguyên nhân từ sự sai lệch trong quá trình thực hiện chính sách và báo cáo tổng kết,
trình các dự thảo chính sách thiếu thực tế của chính quyền địa phương; các nguyên nhân
từ sự thiếu thực tế, chưa quan tâm thích đáng của cơ quan ban hành chính sách…
- Nội dung điều chỉnh: Tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn bản quy phạm pháp
luật, các hướng dẫn thi hành Luật Du lịch, chính sách phát triển KDLQG theo hướng
đẩy mạnh phân cấp, để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế tại các vùng du lịch của địa phương. UBND cấp tỉnh phải được HĐND cùng
cấp thông qua một số điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế về chính sách phát
triển KDLQG của địa phương với các nguyên tắc các dự án thuộc cấp tỉnh và trong
phạm vi ngân sách dự phòng của tỉnh; đối với các dự án lớn thì phải được lập kế hoạch
trình Chính phủ xét duyệt. Trong phạm vi địa phương, có thể có một số chính sách
riêng và nhỏ lẻ như điều chỉnh hỗ trợ đầu tư riêng và hỗ trợ cải tiến SPDL phù hợp với
địa phương. Điều chỉnh một số mức thuế ưu đãi riêng với đầu tư vào du lịch. Tùy theo
điều kiện thực tế, điều chỉnh danh mục các dự án ưu tiên đầu tư du lịch mở rộng.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
2.3.1. Các yếu tố phạm vi vĩ mô quốc gia
Chính sách phát triển các KDLQG chịu tác động của các yếu tố vĩ mô quốc
gia chủ yếu sau:
- An ninh chính trị và an toàn xã hội: Phát triển du lịch không bao giờ tách rời
các yếu tố về an ninh chính trị và an toàn xã hội. Các yếu tố này luôn được khách du
lịch xem xét ở vị trí hàng đầu khi quyết định lựa chọn một điểm đến du lịch cụ thể,
bao gồm cả các KDLQG. Thực tiễn hoạt động du lịch cho thấy, những khu vực có
48
xảy ra khủng hoảng an ninh chính trị và gặp các vấn đề bất ổn về an toàn xã hội,
chẳng hạn như các vụ bạo động, biểu tình chính trị hoặc tình hình dịch bệnh phức tạp
hay tình hình thiên tai và các thảm họa tự nhiên tại các điểm đến du lịch, đều có những
tác động tiêu cực làm suy giảm hoạt động du lịch tại đó. Điều này ảnh hưởng không
nhỏ tới sự phát triển du lịch tại các KDLQG và các chính sách phát triển KDLQG tại
vùng du lịch. Như vậy chính sách phát triển du lịch chỉ có thể được xây dựng, thực
hiện và triển khai một cách hiệu quả tại KDLQG nếu như tại đó không gặp các vấn
đề bất ổn về an ninh chính trị và an toàn xã hội. Đây là vấn đề phức tạp và khó kiểm
soát, chịu tác động rất lớn từ cách thức quản lý và vận hành bộ máy hành chính từ
phía chính phủ và các cơ quan quản lý TW.
- Trình độ nhận thức và năng lực của cơ quan QLNN: Các cấp, các ngành có
liên quan đến chính sách phát triển KDLQG tại vùng du lịch bao gồm các cấp như cơ
quan của Chính phủ (một số chính sách có liên quan đến các địa phương), các ngành
như: Du lịch, Tài nguyên môi trường, Văn hóa,… có liên quan tới hoạt động du lịch tại
đó. Trình độ nhận thức và năng lực của đội ngũ này cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc
xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát và điều chỉnh chính sách phát
triển nhằm mang lại hiệu quả cho ngành du lịch địa phương và quốc gia.
Cụ thể, nếu các cấp, các ngành quan tâm, nhận thức được đúng các vấn đề du
lịch thực tế bức xúc, cần giải quyết ở địa phương thì chính sách phát triển KDLQG ban
hành mới đảm bảo tính hợp lý, tạo thuận lợi cho quá trình thực thi và chấp hành chính
sách ở các địa phương được dễ dàng; Bộ máy QLNN cấp TW và tại vùng du lịch có
KDLQG nếu có năng lực, trình độ quản lý tốt, trình độ chuyên môn cao thì mới có tác
động tích cực đến quá trình thực hiện chính sách phát triển KDLQG tại đó; Chính
quyền địa phương có trình độ năng lực cao, các chính sách phát triển KDLQG tại các
vùng du lịch được thực hiện hợp lý sẽ đem lại lợi ích cho các cá nhân, tổ chức và DNDL
thì mới được họ tin tưởng, hưởng ứng và ủng hộ cho quá trình triển khai thực hiện
chính sách phát triển KDLQG.
- Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các KDLQG: Nhu cầu du lịch tăng sẽ góp
phần tạo điều kiện thực hiện thành công chính sách phát triển KDLQG. Nhu cầu tăng
và ổn định tạo ra tiềm năng phát triển lâu dài và bền vững của điểm đến có KDLQG.
Qua đó, việc tuyên truyền, kêu gọi các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện
và tuân thủ theo chính sách phát triển du lịch sẽ được thuận lợi hơn, tiến độ triển khai
chính sách cũng nhanh hơn; Quy mô, chủng loại khách du lịch gia tăng, thu nhập từ
du lịch của các KDLQG cũng tăng lên sẽ giúp đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của
chính sách; Nhu cầu du lịch tại KDLQG tăng lên, đòi hỏi chất lượng dịch vụ du lịch
49
phải được nâng cao, trong đó chất lượng NNL du lịch càng phải được quan tâm hơn.
Khi đó, chính sách phát triển NNL du lịch sẽ được các cá nhân, tổ chức và doanh
nghiệp tham gia hưởng ứng sẽ tạo thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện chính
sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch của địa phương; Khi nhu cầu du lịch ở
các KDLQG phát triển thì ý thức phát huy giá trị văn hóa truyền thống được nâng
lên, các sản phẩm làng nghề sản xuất ra bán được nhiều sẽ góp phần khôi phục dần
dần các sản phẩm truyền thống khác. Khi đó, chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên
và môi trường đưa ra sẽ được triển khai nhanh chóng, đẩy nhanh tiến trình thực hiện
chính sách phát triển KDLQG tại các địa phương.
Ngoài ra, các yếu tố vĩ mô tác động đến chính sách và quy trình chính sách
phát triển KDLQG còn bao gồm xu hướng toàn cầu hóa, xu thế chung về phát triển
du lịch quốc gia và trên thế giới, xu hướng về Cách mạng công nghiệp 4.0 đều liên
quan đến bối cảnh và điều kiện thực hiện các chính sách phát triển du lịch tại các
điểm đến du lịch… Như vậy, các yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
du lịch nói chung, từ đó, tác động nhất định đến các chính sách ưu tiên tại mỗi quốc
gia, mỗi khu vực trong từng giai đoạn, làm thay đổi quy trình chính sách và kết quả
phát triển du lịch tại đó. Do vậy, khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chính
sách phát triển KDLQG, cần phải cân nhắc và xem xét đến các bối cảnh chung nói
trên để làm cơ sở điều chỉnh các chính sách cho phù hợp.
2.3.2. Các yếu tố phạm vi địa phương cấp tỉnh
Ở cấp địa phương, các chính sách phát triển KDLQG chịu sự tác động của một
số yếu tố chủ yếu sau đây:
- Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có KDLQG: Ở bất kỳ
quốc gia, địa phương hay khu vực nào, du lịch cũng chỉ phát triển được trong mối
quan hệ với kinh tế - xã hội. Kinh tế - xã hội vừa là điều kiện ra đời, hình thành nên
cung, cầu du lịch, vừa quyết định tới mối quan hệ cung – cầu và thị trường du lịch. Ở
đâu có điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo thì ở đó du lịch mới có thể phát triển mạnh
mẽ. Muốn phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải có các chính sách phù hợp.
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ mật thiết với chính sách
du lịch, chúng tác động qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính sách kinh tế -
xã hội là cơ sở hỗ trợ thực hiện các chính sách du lịch, đến lượt mình, chính sách du
lịch là yếu tố bổ sung, bổ trợ cho các chính sách kinh tế - xã hội. Đối với các KDLQG,
để phát triển được hoạt động du lịch thì cần phải có các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định tại từng địa phương, vì thế các chính sách về kinh tế - xã hội của địa phương sẽ
50
góp phần đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng, CSVCKT du lịch, điều kiện sống
của dân cư và điều kiện về môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp tại địa
phương. Nói cách khác, chính sách kinh tế - xã hội của địa phương sẽ làm khuôn khổ
và cơ sở để xây dựng các chủ trương, hướng tới các biện pháp hành động cụ thể, từ
đó đạt được các mục tiêu, kết quả mong muốn của chính sách phát triển du lịch tại
các KDLQG.
- Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương có KDLQG: Chính
sách phát triển du lịch tại các KDLQG cần đảm bảo sự thống nhất với đường lối, chủ
trương và định hướng phát triển du lịch tại địa phương, qua đó hỗ trợ, tác động lẫn
nhau, đảm bảo sự thành công trong khai thác và phát triển hoạt động du lịch tại đó. Mỗi
địa phương có đặc điểm TNDL và bản sắc văn hóa riêng, tạo nên đặc trưng của địa
phương, vì thế rất cần các chính sách riêng của địa phương để phát triển du lịch. Mỗi
địa phương xác định chủ trương, định hướng phát triển du lịch đặc thù của địa phương,
đảm bảo vừa phát huy bản sắc riêng, vừa mang lại các lợi ích kinh tế - văn hóa – xã hội
cho các đối tượng có liên quan, do đó, chính sách phát triển các KDLQG tại địa phương
cũng cần đảm bảo sự thống nhất với quan điểm phát triển du lịch của địa phương, qua
đó khai thác hiệu quả TNDL và đảm bảo phát triển du lịch bền vững tại KDLQG và tại
địa phương.
- Ngân sách địa phương chi cho phát triển KDLQG: Phát triển KDLQG tại các
vùng du lịch rất cần đến các nguồn ngân sách, trong đó không thể thiếu nguồn ngân
sách địa phương chi cho phát triển du lịch. Ngân sách trong phát triển du lịch tại các
KDLQG bao gồm các khoản chi cho công tác nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát
triển du lịch địa phương, chi cho đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch tại các KDLQG,
các khoản ngân sách nhằm tạo ra và đảm bảo NNL du lịch đủ về số lượng, đạt về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu. Ngoài ra, trong quá trình vận hành, các khoản ngân sách
cũng được sử dụng để bù đắp chi phí khấu hao, bảo trì, bảo dưỡng, thay thế và đầu tư
mở rộng mới về phương tiện vật chất và kỹ thuật du lịch liên tục phát sinh, vì thế
nguồn ngân sách là một yếu tố có vai trò rất quan trọng.
Sự phân bổ ngân sách của địa phương cho việc thực hiện chính sách phát triển
KDLQG tại các vùng du lịch sẽ tác động đến mức độ, quy mô, khả năng thực hiện và
hoàn thành các dự án phát triển du lịch của địa phương có KDLQG tại các vùng du
lịch; Tỷ lệ, số lượng nguồn ngân sách địa phương chi cho hoạt động du lịch càng lớn
thì mức độ tập trung thực hiện chính sách phát triển KDLQG tại các vùng du lịch
càng cao và ngược lại, các dự án du lịch sẽ chỉ hoạt động cầm chừng, chậm tiến độ
hoặc bị dừng lại; Nguồn ngân sách địa phương chi cho hoạt động du lịch kịp thời,
51
đúng chỗ và đủ mức có tác động thúc đẩy tiến trình thực hiện chính sách phát triển
KDLQG tại các vùng du lịch của địa phương, kích thích các hoạt động liên quan đến
du lịch, đem lại hiệu quả kinh tế cho địa phương.
- Sự phát triển của CSHT và CSVCKT du lịch tại địa phương có KDLQG: Sự
phát triển du lịch đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các hạng mục CSHT du lịch tại
các KDLQG của vùng du lịch. Chính sách về CSHT du lịch có tác động lớn đến dòng
vốn đầu tư vào vùng du lịch bởi điểm đến du lịch có khả năng tiếp cận tốt thì mới đảm
bảo khả năng thu hút khách và phát triển lâu dài, bền vững. Do đó, một hệ thống CSHT
du lịch có quy hoạch đồng bộ sẽ có ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư kinh doanh
tại vùng du lịch. Bên cạnh đó, CSHT là nền tảng của nền kinh tế, là yếu tố cơ bản của
CSVCKT du lịch. CSHT đảm bảo thì du lịch mới có thể phát triển, các chính sách liên
quan đến du lịch mới có thể đảm bảo triển khai thành công.
Sự phát triển của CSVCKT du lịch là sự phát triển của các tiện nghi sử dụng
để phục vụ, đáp ứng cho các nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch. Chất lượng của
CSVCKT du lịch có ảnh hưởng rất quan trọng đến chất lượng SPDL địa phương, ảnh
hưởng đến nhu cầu tiêu dùng các SPDL ở vùng du lịch và có tác động lớn đến thu
nhập từ du lịch của vùng du lịch. Do đó, một hệ thống CSVCKT du lịch đồng bộ sẽ
có ảnh hưởng lớn đến chính sách xây dựng SPDL và chính sách xúc tiến sản phẩm
của KDLQG.
- Nhân lực du lịch của địa phương có KDLQG: Nhân lực du lịch có vai trò rất
quan trọng trong phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói
riêng. Cụ thể, nhân lực du lịch được coi là yếu tố nguồn lực quan trọng tạo nên SPDL,
tác động vào nhận thức, tâm lý khách hàng, từ đó quyết định một phần tới cảm nhận
khách hàng về chất lượng dịch vụ cung ứng. Trong quy trình chính sách, đội ngũ nhân
lực tham gia vào tất cả các nội dung, do vậy, đây là yếu tố quyết định không nhỏ đến
sự thành công trong việc triển khai quy trình chính sách. Xem xét về thực trạng hiện
nay, có thể thấy rằng, nhân lực dồi dào ở các KDLQG đa phần thỏa mãn yêu cầu về số
lượng nhưng về chất lượng còn khá hạn chế, đặc biệt là nhân lực du lịch. Nếu đội ngũ
lao động này được cải thiện về trình độ, kỹ năng, cơ cấu, cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến
triển khai thực hiện chính sách phát triển KDLQG.
- Nhận thức của dân cư địa phương có KDLQG: Nhận thức của dân cư địa
phương sẽ quyết định mức độ tin tưởng và ủng hộ của họ dành cho các chính sách phát
triển KDLQG, khi đó, việc triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch mới được
thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả. Ngược lại, để có được lòng tin của dân chúng địa
phương tại các vùng du lịch thì chính sách đưa ra phải phù hợp với thực tế khách quan
52
tại địa phương; Dân cư tại các KDLQG được tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, chính
sách phát triển KDLQG của địa phương thì sẽ tích cực tham gia vào hoạt động xúc tiến,
quảng bá du lịch tại đó, góp phần đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả thực hiện chính sách
xúc tiến, quảng bá du lịch tại KDLQG của địa phương; Họ có ý thức hơn khi tham gia
vào các hoạt động sáng tạo ra SPDL truyền thống, nâng cao ý thức bảo tồn giá trị bản
địa và TNDL của KDLQG ở địa phương. Khi các sản phẩm truyền thống của người dân
bán được nhiều thì các SPDL truyền thống khác cũng sẽ được khôi phục dần và phát
triển trở lại.
- TNDL tại địa phương: TNDL tự nhiên và văn hóa phong phú của địa phương
cũng là nhân tố tích cực ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư vào
kinh doanh du lịch ở địa phương. TNDL của KDLQG ở địa phương quyết định quy
mô, cơ cấu phát triển du lịch, do đó quyết định tới nội dung, số lượng và hiệu quả các
chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG của vùng du lịch.
Như vậy, các chính sách phát triển KDLQG tại vùng du lịch chịu tác động của
nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cả các yếu tố vĩ mô có liên quan tới cấp quản lý TW
và những yếu tố thuộc phạm vi của địa phương. Việc xác định và phân tích các yếu
tố ảnh hưởng sẽ giúp xây dựng và triển khai, thực hiện các chính sách phát triển
KDLQG tại vùng du lịch một cách hiệu quả và thành công.
2.4. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia
và bài học rút ra cho Vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
2.4.1. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia
trong và ngoài nước
2.4.1.1. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia
ở Việt Nam
Tính đến ngày 30/10/2020, Việt Nam có 6 KDL đủ điều kiện và đã được Chính
phủ công nhận chính thức là KDLQG, đó là KDLQG hồ Tuyền Lâm (thành phố Đà
Lạt, Lâm Đồng, thuộc vùng du lịch Tây Nguyên), KDLQG Sapa (thành phố Lào Cai,
thuộc vùng du lịch Trung du và Miền núi Phía Bắc), KDLQG Núi Sam (An Giang,
thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long), KDLQG Trà Cổ (Quảng Ninh, thuộc
vùng du lịch ĐBSH&DHĐB) KDLQG Đền Hùng (Phú Thọ, thuộc vùng du lịch
Trung du miền núi Bắc Bộ) và KDLQG Mũi Né (Bình Thuận, thuộc vùng du lịch
Duyên hải Nam Trung Bộ).
Xem xét kinh nghiệm về chính sách phát triển KDLQG tại một số KDLQG
tiêu biểu tại Việt Nam có thể nhận thấy hệ thống các chính sách được thể hiện khá rõ
53
nét, điều này chứng tỏ quy trình triển khai các chính sách được thực hiện khá đảm
bảo theo đúng quy trình. Trong đó, có những chính sách đã mang lại hiệu quả cao,
tạo nên nét đặc trưng riêng của KDLQG đó. Cụ thể:
a. Khu du lịch quốc gia hồ Tuyền Lâm
Ngày 15/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 205/QĐ-
TTg công nhận chính thức KDL hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt là KDL cấp Quốc
gia, đây là KDLQG đầu tiên của cả nước.
KDLQG hồ Tuyền Lâm thuộc vùng du lịch Tây Nguyên. Với diện tích rộng
2.900 ha, tại KDLQG hồ Tuyền Lâm hiện có 10/36 dự án được triển khai và đưa vào
sử dụng như Khu nghỉ dưỡng Edensee, KDL thác Datanla, Sân golf Tuyền Lâm 18 lỗ,
Khu nghỉ dưỡng cao cấp Sacom, Đường hầm điêu khắc bằng đất sét, Khu nghỉ dưỡng
Terracotta Đà Lạt, Điểm du lịch sinh thái K’Lan, Điểm du lịch Làng Bình An, Điểm
du lịch tôn giáo Thiền viện Trúc Lâm, Vườn hoa lan Thanh Quang.
Hoạt động du lịch, dịch vụ tại KDLQG hồ Tuyền Lâm được đánh giá là phong
phú, đa dạng, từ nghỉ dưỡng cao cấp kết hợp hội nghị - hội thảo, vui chơi giải trí, thể
thao mạo hiểm đến du lịch sinh thái, văn hóa tâm linh,… Bên cạnh đó, sự hiện đại,
sang trọng và tiện nghi là những điểm chung trong tất cả các kiến trúc xây dựng cũng
như dịch vụ nơi đây.
Về sự phát triển du lịch, năm 2017 là năm đầu tiên trong hơn 10 năm qua,
lượng khách du lịch đến Đà Lạt - Lâm Đồng tăng khá cao: 5.948.300 lượt (tăng 9%
so với năm 2016); đặc biệt, khách quốc tế tăng đột biến 35,6% (400 nghìn lượt);
khách nội địa 5.548.300 lượt (tăng 7,5%); tổng thu từ du lịch trên địa bàn đạt gần
11.000 tỷ đồng,...
Đây là kết quả một phần bởi việc triển khai chính sách phát triển du lịch hợp
lý tại địa phương.
KDLQG Hồ Tuyền Lâm thuộc thành phố Đà Lạt – Lâm Đồng, đây được coi
là một trong những điểm du lịch được yêu thích hàng đầu tại Đà Lạt – Lâm Đồng.
Các chính sách về phát triển du lịch nhằm khai thác, phát triển du lịch tại thành phố
Đà Lạt – Lâm Đồng sẽ kích thích nhu cầu khách du lịch đến KDLQG Hồ Tuyền Lâm,
cũng như tăng khả năng cung về dịch vụ du lịch, cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu
tại đây, chẳng hạn như Quyết định số 2649/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lâm Đồng,
ban hành ngày 7 tháng 12 năm 2017 về “Ban hành quy định quản lý theo đồ án điều
chỉnh quy hoạch chung KDL Hồ Tuyền Lâm, Thành phố Đà Lạt đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2050”.
54
Để khai thác tiềm năng, thế mạnh cạnh tranh của địa phương tập trung phát
triển du lịch bền vững; thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà
Lạt và vùng phụ cận của tỉnh Lâm Đồng, trong đó có KDLQG hồ Tuyền Lâm, theo
Quyết định 1528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành
Nghị quyết 03 NQ/TU, ngày 13/9/2016 về phát triển thành phố Đà Lạt và vùng phụ
cận giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2030 và Nghị quyết 07-NQ/TU, ngày
16/11/2016 về phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn 2016 - 2020, định hướng
đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Bên cạnh đó còn ban hành và triển khai
một số các chính sách du lịch khác như:
Về chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, ngành Du
lịch Lâm Đồng xây dựng chủ trương và tổ chức các hoạt động nhằm bảo vệ và giữ
gìn môi trường như: Hội thảo “Phát triển đô thị Đà Lạt gắn với bảo tồn theo định
hướng quy hoạch chung thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2050”,… Qua đó, thành phố Đà Lạt đã được trao Giải thưởng “Thành phố
bền vững về môi trường ASEAN”. Những điều kiện đó đã góp phần làm cho Đà Lạt
nói chung và KDLQG Hồ Tuyền Lâm nói riêng, trở thành “điểm đến” lý tưởng, hấp
dẫn ở Việt Nam.
Về chính sách phát triển SPDL, năm 2017 ngành Du lịch Lâm Đồng đã xây
dựng khá nhiều SPDL mới dựa trên những sự kiện văn hóa, du lịch quan trọng đã diễn
ra trên địa bàn. Ngoài chỉ đạo triển khai các hoạt động văn hóa, lễ hội, các chương trình
nghệ thuật phục vụ nhân dân và khách du lịch trong các dịp lễ với hàng loạt hoạt động
“lễ hội mùa Hè”, “lễ hội mùa Đông”, “ca nhạc thời trang”, “Đêm rock Tây Nguyên”,…
Sở VHTTDL đã tích cực tham mưu UBND tỉnh triển khai nhiều hoạt động có quy mô
quốc gia và quốc tế về đầu tư phát triển du lịch, như: Ngày Cà phê Việt Nam lần thứ
nhất; Festival Hoa Đà Lạt lần thứ VII,… Còn tại KDLQG Hồ Tuyền Lâm, ngày 7 tháng
12 năm 2017, UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Quyết định số 2649/QĐ-UBND về
Ban hành quy định quản lý theo đồ án điều chỉnh quy hoạch chung KDL Hồ Tuyền
Lâm, Thành phố Đà Lạt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó đưa ra điều
chỉnh về SPDL tại đây bao gồm: Du lịch nghỉ dưỡng kết hợp hội nghị, hội thảo; Du
lịch thể thao và vui chơi giải trí chất lượng cao (như: Sân golf, casino, cáp trượt...); Du
lịch sinh thái (quan sát chim thú hoang dã, đi bộ trong rừng, du lịch tham quan bản làng
dân tộc, du lịch mạo hiểm, leo núi, đi bè, câu cá,...); Du lịch tham quan thắng cảnh bằng
đường thủy, đường bộ, cáp treo; Du lịch văn hóa, tôn giáo,... .
Về chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch, Sở VHTTDL chủ trì tổ chức
lớp đào tạo mô hình “du lịch canh nông” cho 60 học viên là chủ các hộ gia đình sản
55
xuất nông sản công nghệ cao trên địa bàn Đà Lạt; tổ chức 2 khóa tập huấn nghiệp vụ
về du lịch thể thao mạo hiểm (DLTTMH) cho 60 hướng dẫn viên của các công ty lữ
hành trong toàn tỉnh, do Hiệp hội leo núi Singapore và Tổng cục Thể dục – Thể thao
hướng dẫn và đã cấp chứng nhận cho 10 công ty đủ điều kiện tổ chức du lịch thể thao
mạo hiểm trong tỉnh, tăng chất lượng SPDL và khả năng cung ứng các SPDL đáp ứng
nhu cầu của du khách khi đến với KDLQG Hồ Tuyền Lâm.
Về chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch, Thành phố Đà Lạt đã xây dựng và
triển khai chương trình quảng bá thương hiệu “Đà Lạt - Kết tinh kỳ diệu từ đất lành”
(4 sản phẩm, loại hình là rau, hoa, cà phê Arabica và du lịch canh nông) của TP. Đà
Lạt, các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà; chỉ đạo UBND TP. Đà
Lạt phối hợp với Viện Quy hoạch xây dựng miền Nam thực hiện việc quy hoạch lại
trục du lịch, cảnh quan Bắc - Nam của TP. Đà Lạt, xây dựng hình ảnh điểm đến du lịch
và hình ảnh của KDLQG Hồ Tuyền Lâm rõ ràng và cụ thể.
Về chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch, năm 2017, UBND tỉnh đã
triển khai các chương trình liên kết phát triển du lịch giữa Lâm Đồng với các tỉnh, thành
phố trong nước như: Chương trình “4 địa phương - một điểm đến” (giữa Lâm Đồng,
Gia Lai, Đắk Lắk với Hà Nội); hay Chương trình hợp tác phát triển tour “Một chuyến
đi - nhiều điểm đến” (hợp tác phát triển du lịch giữa Lâm Đồng-Quảng Nam-Đà Nẵng
- Thừa Thiên Huế giai đoạn 2017- 2020) nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về văn hóa
và những sản vật vốn có của từng địa phương, từng vùng miền để xây dựng các tour
du lịch kết nối với KDLQG Hồ Tuyền Lâm thúc đẩy du lịch phát triển bền vững.
Trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách phát triển du lịch, để chấn
chỉnh các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động du lịch, Sở VHTTDL phối hợp với các
ngành chức năng tổ chức 425 đợt thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh; phát hiện xử phạt hành chính hàng chục trường hợp và rút Giấy phép một số
đơn vị có nhiều sai phạm; tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản chỉ đạo các địa
phương “xóa” nạn cò mồi, chèo kéo khách du lịch gây bức xúc dư luận nhằm củng
cố hình ảnh du lịch Đà Lạt nói chung và KDLQG Hồ Tuyền Lâm trong mắt du khách.
Cùng với việc ban hành các chính sách hợp lý và hiệu quả, ngành du lịch Lâm
Đồng và hoạt động du lịch tại KDLQG hồ Tuyền Lâm đã đạt những thành tựu đáng
ghi nhận, tạo điều kiện phát triển bền vững và lâu dài của ngành du lịch tại đây.
b. Khu du lịch quốc gia Sa Pa
Ngày 01/12/2017, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 1927/QĐ-TTg
công nhận KDL Sa Pa, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai là KDLQG, đây là KDLQG thứ
hai của Việt Nam.
56
KDLQG Sa Pa thuộc địa bàn toàn huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, thuộc vùng du
lịch Trung du và Miền núi Phía Bắc, đây là KDLQG duy nhất của vùng này. Diện
tích vùng lõi tập trung phát triển KDLQG Sa Pa là 1.500 ha.
Theo Quyết định số 1845/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
KDLQG Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030 thì KDLQG Sa Pa được định hướng phát
triển thành 01 Đô thị du lịch Sa Pa và 04 phân KDL, gồm: Bản Khoang - Tả Giàng
Phình; Tả Phìn; Tả Van - Séo Mý Tỷ và Thanh Kim, có sự kết nối với huyện Bát Xát.
Các chính sách phát triển KDLQG Sapa nhằm mục tiêu: Xây dựng và thực
hiện Quy hoạch tổng thể phát triển KDLQG Sa Pa đến năm 2030, Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch tỉnh Lào Cai. Đẩy mạnh xây dựng chiến lược quảng bá thương
hiệu Sa Pa-Fansipan, đồng thời quy hoạch du lịch các huyện Bắc Hà và Bát Xát, thành
phố Lào Cai. Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, đến nay đã vận động nguồn tài
trợ Quỹ phát triển du lịch với tổng số tiền hơn 8,3 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, KDLQG Sapa nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung, đã
triển khai và thực hiện một số chính sách phát triển du lịch cụ thể như:
Về chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch: Thành phố
Lào Cai xác định phát triển KDLQG Sapa cần đồng thời với bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số; phát huy tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên (khí hậu, cảnh
quan); bảo đảm an ninh, quốc phòng, ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống thiên
tai và bảo vệ môi trường; Chú trọng khai thác thế mạnh đặc trưng về cảnh quan thiên
nhiên và bản sắc văn hóa đặc sắc, đa dạng của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát
triển KDL bền vững theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm; nâng cao
chất lượng dịch vụ, khẳng định thương hiệu du lịch cho Sa Pa.
Về chính sách phát triển các SPDL: Lào Cai đã xây dựng được một số sản phẩm
du lịch nổi tiếng, đặc trưng, hấp dẫn du khách như: Giải đua ngựa truyền thống Bắc
Hà; Giải Marathone leo núi quốc tế (VMM), Giải đua xe đạp quốc tế một vòng đua hai
quốc gia Việt Nam – Trung Quốc, Giải đua xe đạp vượt núi quốc tế theo cung đường
thành phố Lào Cai – Bát Xát – Y Tý – Bản Khoang – Sa Pa, Lễ hội 4 mùa, Lễ hội trên
mây Sa Pa,… Các di tích, di sản văn hóa, danh thắng tiếp tục phát huy giá trị, tạo thành
những SPDL hấp dẫn du khách như: danh thắng ruộng bậc thang Sa Pa, Bát Xát; các
di tích Đền Bảo Hà, Đền Cô Tân An, Đền Thượng, Dinh Hoàng A Tưởng; các di sản
văn hóa phi vật thể như lễ hội, nghệ thuật truyền thống, nghề thủ công truyền thống,
chợ phiên,… Nhiều dự án KDL nghỉ dưỡng, KDL sinh thái, du lịch cộng đồng đã và
đang chuẩn bị đi vào hoạt động góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du
57
lịch tại KDLQG Sapa như: Khu vui chơi giải trí cáp treo Fansipan, khu sinh thái Topas,
KDL cộng đồng Lá Dao, các khách sạn tiêu chuẩn 5 sao,…
Về chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch: Trong 2 năm 2016, 2017,
NNL phục vụ du lịch tại KDLQG Sapa không ngừng được bổ sung với trên 3.500 lao
động được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng mới, nâng tổng số lao động du lịch được
qua đào tạo bồi dưỡng trên địa bàn tỉnh lên trên 9.500 lao động.
Về chính sách đầu tư CSHT & CSVCKT du lịch: Lào Cai nói chung và Sapa
nói riêng đang từng bước đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường huy động các nguồn lực
đầu tư phát triển KDLQG Sa Pa;
Trong công tác triển khai thực hiện chính sách, với sự quan tâm chỉ đạo quyết
liệt, thường xuyên của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy, sau 2 năm triển khai
thực hiện (2016 – 2017), du lịch Lào Cai nói chung và KDLQG Sa Pa nói riêng, đã
tăng trưởng phát triển mạnh. Việc huy động nguồn lực đầu tư phát triển du lịch được
quan tâm triển khai, tính đến hết năm 2017, tổng kinh phí huy động từ các nguồn thực
hiện Đề án là 9.145,2 tỷ đồng trong đó chủ yếu tập trung thu hút đầu tư từ khu vực tư
nhân, nguồn ngân sách nhà nước chỉ chiếm 1,3%. Hệ thống CSHT, giao thông phục
vụ du lịch tiếp tục được đầu tư, trọng tâm là các tuyến được thuộc huyện Sa Pa, Bắc
Hà, kết nối với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai. Hệ thống lưu trú tiếp tục phát triển
với mức tăng trưởng khoảng 14% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, các dự án đang được
tỉnh chỉ đạo và triển khai như: Công viên văn hóa Sa Pa, Khu vui chơi giải trí Bản
Qua,… Du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới do người dân trực tiếp
đầu tư và thực hiện phát triển với trên 200 cơ sở lưu trú homestay tập trung tại các xã
Tả Van, Tả Phìn, Lao Chải, xã Y Tý, xã Tà Chải, Na Hối, Bản Phố, Tả Van Chư, Bản
Liền, xã Nghĩa Đô. Hai năm liền (2016, 2017) Lào Cai đều được giải thưởng
Homestay Asean do các nước thành viên ASEAN trao.
Về chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch: Hoạt động xúc tiến và quảng bá
KDLQG Sapa được chú trọng thông qua nhiều hình thức phong phú không chỉ quảng
bá sản phẩm, thương hiệu của du lịch Lào Cai mà còn góp phần quan trọng kết nối
sản phẩm, tour, tuyến du lịch của các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là các tỉnh
Tây Bắc của Việt Nam.
Về chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch: Với mục tiêu khai thác hiệu
quả tiềm năng, thế mạnh sẵn có, tiếp tục phát triển KDLQG Sa Pa và xây dựng thương
hiệu du lịch Lào Cai, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XV đã xây dựng
các nhóm nhiệm vụ được xác định là: Phát huy vai trò là trung tâm kết nối tour, tuyến
58
du lịch giữa Lào Cai với các địa phương khác trong khu vực Tây Bắc và các nước
khu vực Đông Nam Á. Sự liên kết trong hoạt động du lịch đã tạo nên những chuỗi
sản phẩm du lịch và dịch vụ đồng bộ, tạo ấn tượng tốt đẹp đối với du khách trong và
ngoài nước.
Với những mục tiêu, giải pháp đồng bộ mang tính đột phá, chiến lược, KDLQG
Sa Pa nói riêng và du lịch Lào Cai nói chung, đang tiếp tục đáp ứng tốt hơn nhu cầu
ngày càng cao của du khách thập phương. Tính đến hết năm 2017 nhiều chỉ tiêu của
Đề án đạt cao như: Mức chi tiêu bình quân của khách du lịch đến Lào Cai đạt 1.335.000
đồng/khách; Tổng lượt khách du lịch ước là 3,5 triệu lượt; Tổng số cơ sở lưu trú là 961
cơ sở với tổng số trên 11.000 phòng; Số việc làm trong lĩnh vực du lịch đạt 19.200 việc
làm; Tổng thu du lịch ước đạt 9.442 tỷ đồng.
c. Khu du lịch quốc gia Núi Sam
KDL Núi Sam được Bộ VHTTDL công nhận trở thành KDLQG vào ngày
13/07/2018 tại Quyết định 2646/QĐ-BVHTTDL. KDLQG Núi Sam thuộc địa phận
phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, với diện tích khoảng 1.500
ha, có cảnh quan thiên nhiên độc đáo, hấp dẫn, với quần thể di tích lịch sử văn hóa,
được xếp hạng cấp quốc gia, như: miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, chùa Tây An, lăng
Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang và giá trị văn hóa tâm linh tín ngưỡng gắn với lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ núi Sam lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện trung bình mỗi
năm, KDLQG Núi Sam đón khoảng 5 triệu lượt khách du lịch.
Thời gian vừa qua, để phát triển du lịch tại KDLQG Núi Sam, tỉnh An Giang
đã ban hành và triển khai thực hiện các chính sách đảm bảo theo đúng quy trình, cụ
thể như sau:
Về chính sách phát triển SPDL: Thời gian vừa qua, tỉnh An Giang tập trung
xây dựng và triển khai các chính sách phát triển SPDL đặc trưng, đặc thù, cao cấp có
sức cạnh tranh cao trong khu vực, quốc gia và quốc tế, mở rộng thị trường và thu hút
khách du lịch đến tham quan nghiên cứu, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí,... Trong đó
tập trung khai thác giá trị văn hóa, lịch sử, tâm linh của KDLQG Núi Sam và bản sắc
văn hóa đặc trưng của địa phương; ưu tiên phát triển các SPDL văn hóa - tâm linh,
hành hương, lễ Bà chúa Xứ, thăm lăng Thoại Ngọc Hầu.
Về chính sách tài chính: Để phát triển du lịch tại KDLQG Núi Sam, UBND
tỉnh An Giang đã ban hành cơ chế thu hút đầu tư, chính sách ưu đãi cho các nhà đầu
tư; xây dựng cơ chế chính sách đặc thù ưu đãi về nguồn vốn, đất đai, giải phóng mặt
bằng, chính sách tài chính, thuế, tín dụng,... nhằm khuyến khích thu hút các nhà đầu
59
tư trong và ngoài nước nghiên cứu và triển khai các dự án xây dựng CSVCKT có quy
mô lớn và sản phẩm du lịch có chất lượng cao tại KDLQG Núi Sam. Tỉnh An Giang
cũng đẩy mạnh liên kết, tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến để thu hút nguồn vốn
đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong nước, thúc đẩy phát triển các mô hình liên doanh,
liên kết phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư phát triển du lịch gắn với
đảm bảo an ninh, quốc phòng và trật tự, an toàn xã hội vùng biên giới. Đặc biệt, tỉnh
có chính sách ưu tiên những dự án đầu tư có quy mô và dịch vụ chất lượng cao, thân
thiện với môi trường góp phần tạo thương hiệu cho KDLQG Núi Sam.
Về chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch: Hàng năm, tỉnh An Giang tổ chức
các hoạt động xúc tiến đầu tư du lịch cho KDLQG Núi Sam nói riêng và toàn tỉnh nói
chung. Đối với thị trường khách du lịch nội địa, tỉnh An Giang đã có chính sách kích
cầu vào mùa thấp điểm nhằm khắc phục tính thời vụ của KDLQG Núi Sam. Trong
đó, tỉnh tập trung thu hút phân đoạn thị trường du lịch gắn với mục đích lễ hội kết
hợp với hành hương; thị trường khách trẻ tuổi yêu thích khám phá, thể thao, sinh thái
trải nghiệm nông nghiệp, tham quan vườn ươm, trang trại. Tỉnh chú trọng phát triển
thị trường khách quốc tế đi đường bộ từ Thái Lan và Campuchia qua các cửa khẩu
quốc tế của An Giang; qua các hãng lữ hành tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Về chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch: Để phát triển KDLQG Núi
Sam trở thành trung tâm du lịch văn hóa tâm linh của cả nước, ngành Du lịch tỉnh An
Giang đã triển khai có hiệu quả chương trình liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Hồ Chí Minh; liên kết và mở rộng thị
trường khai thác du lịch các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Đồng thời ngành Du
lịch An Giang còn tổ chức các tuyến du lịch liên tỉnh và quốc tế như: Châu Đốc - Long
Xuyên theo Quốc lộ 91 kết nối với thành phố Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh;
Châu Đốc đi Hà Tiên theo kênh Vĩnh Tế; Châu Đốc đến BoKor, Sihanouk Ville
(Campuchia, qua cửa khẩu Tịnh Biên); Châu Đốc đi Phnompenh, Tonle Sap, Siem
Reap và Kampong Cham (Campuchia); thành phố Cần Thơ - thành phố Long Xuyên -
thành phố Châu Đốc - PhnomPenh (theo sông Hậu).
Ngành Du lịch An Giang tăng cường hợp tác, liên kết trong phát triển sản
phẩm du lịch giữa KDLQG Núi Sam đến các điểm du lịch nổi bật trên địa bàn tỉnh
An Giang như cửa khẩu Tịnh Biên, rừng tràm Trà Sư, núi Cấm (huyện Tịnh Biên),
Khu di chỉ Óc Eo (huyện Thoại Sơn), Khu Di tích lịch sử đồi Tức Dụp (huyện Tri
Tôn), Búng Bình Thiên (huyện An Phú)...; các khu, điểm du lịch quan trọng của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long để tạo ra những sản phẩm du lịch nội vùng và liên vùng
có sức hấp dẫn,…
60
Với việc triển khai đồng thời và khá hiệu quả các chính sách phát triển
KDLQG Núi Sam, thời gian vừa qua, sự phát triển du lịch tại đây đã thu được nhiều
thành tựu đáng kể, thể hiện ở số lượng khách đến ngày càng tăng và sự phát triển của
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại đây, đảm bảo cho KDLQG Núi Sam đạt đủ
điều kiện công nhận thành một trong năm KDLQG đầu tiên của Việt Nam.
2.4.1.2. Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại một số khu du lịch quốc gia
trên thế giới
a. Khu du lịch quốc gia Goseokjeong, Hàn Quốc
KDL Goseokjeong là một trong 8 tuyệt cảnh tại Cheolwon, Gangwondo, Hàn
Quốc, được công nhận là KDLQG vào năm 1977, là một trong những thắng cảnh
tuyệt vời của Cheolwon nằm ở trung tâm của sông Hantan. Goseokjeong là một KDL
hoạt động quanh năm với những bãi cỏ rất rộng lớn và các tiện nghi giải trí. Đây cũng
là điểm khởi đầu cho các tour du lịch DMZ như Chiến trường hình tam giác Iron (Iron
Triangle Battlefield), tại Trung tâm Bảo tồn và vào mùa đông, du khách có thể chiêm
ngưỡng các đàn chim di cư.
Trong phát triển du lịch tại KDLQG Goseokjeong, chính phủ Hàn Quốc đã có
một số chính sách quan trọng để thúc đẩy phát triển du lịch tại đây, trong đó phải kể
đến các chính sách kích cầu và xúc tiến, quảng bá du lịch phong phú thông qua yếu
tố văn hóa, giải trí Hàn Quốc.
Hàng năm lượng du khách đến tham quan Hàn Quốc nói chung và các điểm du
lịch, trong đó có KDLQG Goseokjeong, không ngừng tăng lên, mang lại nguồn thu
nhập ngoại tệ khổng lồ, phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân lý giải cho
điều này chính là do sự phát triển của nền công nghiệp điện ảnh rầm rộ ra khắp thế giới.
Các nhà chức trách nhìn nhận đây chính là nhân tố để xúc tiến, quảng bá về Hàn Quốc
nói chung và du lịch tại KDLQG Goseokjeong nói riêng. Theo những báo cáo gần đây
về số lượng khách du lịch đến Hàn Quốc, hơn một nửa số khách Châu Á đặt chân tới
quốc gia này bị hấp dẫn bởi những đoạn phim quảng cáo và truyền hình, đặc biệt là
những bài hát của Hàn Quốc. Tại Goseokjeong cũng thế. Nơi đây là địa điểm quay hình
của nhiều phim truyền hình cổ trang lẫn hiện đại, show truyền hình và phim điện ảnh
nổi tiếng toàn Châu Á cũng như thế giới, tiêu biểu như phim “ Gió thổi mùa đông năm
ấy”, “Bác sĩ Jin”, “Chiến binh Baek Dong Soo”,... Thông qua các chính sách nhằm
thúc đẩy quảng bá, giới thiệu về văn hóa và cảnh quan xinh đẹp của các địa phương,
trong đó có KDLQG Goseokjeong tới bạn bè quốc tế, từ đó thúc đẩy du khách đến với
KDL này nhiều hơn.
61
b. Khu du lịch quốc gia Núi Tam Thanh, Trung Quốc
Núi Tam Thanh là một ngọn núi nằm ở phía Bắc huyện Ngọc Sơn, Thượng
Nhiêu thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, có giá trị lịch sử, phong cảnh hữu tình, nên
thơ. Với giá trị đó, năm 2005, núi Tam Thanh được công nhận là một điểm danh lam
thắng cảnh quốc gia quan trọng, một KDLQG cấp 4A (cấp cao nhất ở Trung Quốc là
5A), một di sản thiên nhiên quốc gia và một công viên địa chất quốc gia.
Để phát triển du lịch tại đây, chính phủ Trung Quốc cũng như chính quyền
tỉnh Giang Tây và thành phố Thượng Nhiêu đã xây dựng và triển khai thực hiện rất
nhiều chính sách, trong đó phải kể đến một số chính sách sau:
Về chính sách bảo tồn và tôn tạo TNDL: Núi Tam Thanh là điểm du lịch mang
giá trị tự nhiên rõ nét, các yếu tố địa chất mang giá trị lịch sử quý giá cùng với những
cảnh quan độc đáo kỳ vĩ chính là điểm nhấn của KDL này. Do vậy, tại đây, chính phủ
Trung quốc cũng như chính quyền thành phố Thượng Nhiêu luôn cố gắng gìn giữ
cảnh quan và môi trường tự nhiên, tránh ảnh hưởng tới môi trường du lịch của
KDLQG Núi Tam Thanh. Theo “Quy hoạch tổng thể thành phố Thượng Nhiêu (2007-
2020)”, kết hợp với tình hình phát triển thực tế, năm 2010, thành phố Thượng Nhiêu
đã hoàn thành công tác biên soạn “Quy hoạch hệ thống đất xanh thành phố Thượng
Nhiêu (2010-2020)” và đã xác định được mục tiêu phát triển dài hạn trong giai đoạn
2010 - 2020 về xanh hóa vườn cảnh khu trung tâm thành phố, tạo cơ sở và tiêu chuẩn
cho phát triển xanh hóa vườn cảnh khu trung tâm thành phố. Lập kế hoạch thực thi
cẩn thận một loạt công trình sinh thái xanh hóa. Vài năm gần đây, khu vực trung tâm
thành phố Thượng Nhiêu đã lần lượt xây dựng thành công hoặc đã cải tạo một loạt
các công viên thành phố như Công viên Nhân dân, Công viên Tử Dương, Công viên
hồ Long Đàm, Vườn Thực vật thành phố Thượng Nhiêu… Hiện tại, số lượng công
viên đã lên tới con số 25, loại hình công viên cũng ngày càng phong phú, làm thay
đổi lịch sử không có vườn thực vật và công viên mang tính tổng hợp của thành phố
này. Thành phố cũng đã xây dựng hoặc cải tạo hơn 20 tuyến đường cây xanh và vành
đai xanh như đại lộ núi Tam Thanh, đại lộ Quảng Tín, đại lộ Quy Phong…, cơ bản
đã hình thành xương sống xanh hóa đường xá, đồng thời, tiêu chuẩn xây dựng xanh
hóa khu cư trú và xanh hóa khuôn viên các đơn vị cũng ngày càng được phát triển.
Trình độ quản lý xanh hóa vườn cảnh thành phố ngày càng nâng cao. Hiện nay, thành
phố Thượng Nhiêu nghiêm túc thực thi chế độ quản lý vành đai xanh và “chế độ con
dấu màu xanh”, tăng cường kiểm tra quy hoạch các hạng mục xanh hóa đồng bộ và
quản lý nghiệm thu hoàn công, bảo đảm cho các phương án thiết kế được thực thi
triệt để. Thành phố Thượng Nhiêu cũng đã lẫn lượt cho ra đời 14 văn kiện và chế độ
62
quản lý ngành nghề mang tính quy phạm như “Biện pháp tạm thi hành quản lý xanh
hóa thành phố Thượng Nhiêu”, “Quy định tạm thi hành quản lý công viên khu vực
thành phố Thượng nhiêu”, công tác quản lý vườn cảnh thành phố đang từng bước đi
vào quỹ đạo chế độ hóa. Nhờ đó, dù các thành phố khác bị ô nhiễm không khí nặng
nề thì thành phố Thượng Nhiêu vẫn được đánh giá cao về môi trường trong lành, thân
thiện. Đây cũng là một trong những lí do cơ bản để thu hút khách du lịch đến thành
phố và tham quan KDLQG Núi Tam Thanh.
Về chính sách phát triển SPDL: KDLQG Núi Tam Thanh mang trong mình cả
giá trị lịch sử, văn hóa, vì thế thành phố Thượng Nhiêu luôn cố gắng duy trì và nhân rộng
giá trị văn hóa dân tộc, biến nó thành SPDL hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi
đây cũng thường diễn ra các sự kiện văn hóa lớn của quốc gia, như ngày 20/5/2018 (vốn
là Ngày đàn tranh Trung Quốc) đã lựa chọn biểu diễn tại thành phố Thượng Nhiêu, tỉnh
Giang Tây. Hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển văn hoá đàn tranh Trung Quốc, thúc
đẩy sự quan tâm, tham gia và theo dõi của khách du lịch NĐ và QT, thu hút họ đến thành
phố Thượng Nhiêu, cũng như KDLQG núi Tam Thanh.
Về chính h sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch, trong đó đặc biệt quan
trọng là hệ thống giao thông và và các phương tiện vận chuyển khi đi du lịch đến Giang
Tây, Trung Quốc. Hiện tại, phương tiện phổ biến nhất vẫn là máy bay. Ở Giang Tây
có 7 sân bay, trong đó một sân bay quốc tế. Đó là sân bay quốc tế Xương Bắc Nam
Xương. Các chặng bay quốc tế đến Giang Tây có rất nhiều hãng hàng không khai thác
như Vietnam Airlines, China Eastern Airlines, Shenzhen Airlines, Air China,… Từ
Giang Tây có rất nhiều phương tiện đi lại để lựa chọn để đến KDLQG Núi Tam Thanh.
Hệ thống đường cao tốc được đầu tư giúp du khách dễ dàng di chuyển giữa các tỉnh,
huyện. Có các tuyến xe khách, xe buýt đến thẳng những địa điểm tham quan nổi tiếng.
Ngoài ra, đi tàu thuyền cũng là một lựa chọn thêm cho du khách. Hệ thống cảng ở
Giang Tô rất phát triển. Có cả cảng phục vụ hàng hóa và hành khách. Một phương thức
khách nữa là đi tàu hỏa. Ở Giang Tây có cả tàu sắt truyền thống và tàu cao tốc. Điều
này làm cho việc tiếp cận KDLQG Núi Tam Thanh trở nên dễ dàng hơn đối với du
khách trong và ngoài nước.
Hệ thống khách sạn ở tỉnh Giang Tây và thành phố Thượng Nhiêu rất phát
triển để phục vụ cho du lịch. Đến các điểm tham quan tại Giang Tây, trong đó có
KDL núi Tam Thanh, du khách sẽ có nhiều sự lựa chọn với các cơ sở lưu trú đa dạng
và chất lượng.
Từ những chính sách đó, trong thời gian, KDLQG Goseokjeong Hàn Quốc và
KDL Núi Tam Thanh, Trung Quốc vẫn luôn phát triển ổn định và bền vững. Đây là
63
mục tiêu quan trọng trong các chính sách phát triển du lịch nói chung và phát triển
KDLQG nói riêng tại bất cứ quốc gia nào.
2.4.2. Bài học rút ra cho các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng
Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Từ những kinh nghiệm ở trên, có thể thấy các quốc gia, các địa phương đều
xác định: phát triển du lịch là một nhiệm vụ quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế vùng và đất nước. Từ việc xác định vai trò của du lịch, các quốc gia và vùng du
lịch đều chú trọng hoạch định chính sách về du lịch, tạo môi trường chính sách và
pháp luật đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy du lịch phát triển nhằm nâng cao sức cạnh
tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính sách về du lịch đều dựa trên
bối cảnh phát triển du lịch quốc tế và trong nước, xu thế thị trường khách du lịch và
các đòi hỏi bức thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
Từ các chính sách phát triển du lịch đang được áp dụng tại một số KDLQG ở
trong và ngoài nước, có thể rút ra một số bài học vận dụng cho cho các KDLQG thuộc
vùng du lịch ĐBSH&DHĐB như sau:
- Cần xây dựng và ban hành các chính sách về bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và
môi trường du lịch với các kế hoạch dài hạn và phù hợp với đặc điểm của từng quốc
gia, từng vùng và từng địa phương.
- Cần xây dựng và ban hành các chính sách về tài chính tạo điều kiện và khả
năng để khai thác và phát triển du lịch địa phương cũng như quốc gia.
- Cần quan tâm và có sự tác động phù hợp với thực trạng thị trường du lịch,
có cơ chế và biện pháp để kích cầu du lịch, quản lý và kịp thời hỗ trợ các DNDL trong
các điều kiện có sự biến động hoặc khi thị trường du lịch chưa thực sự cân bằng, từ
đó đảm bảo phát triển du lịch bền vững và hiệu quả.
- Coi trọng các chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch nhằm đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng những người làm du lịch chuyên nghiệp để xây dựng và phát triển
du lịch hiệu quả.
- Có chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch là nền tảng quan trọng để
thúc đẩy hoạt động du lịch tại bất cứ đâu, trong đó có các KDLQG. Do vậy, nên xem
xét và xây dựng các chính sách để kêu gọi, thu hút phân bổ đầu tư hợp lý, từ nhiều
nguồn, bằng nhiều cách, trong đó cần kết hợp thêm các chính sách tài chính để đảm
bảo nền tảng cho sự phát triển du lịch tại các KDLQG.
- Tập trung vào chính sách phát triển SPDL nhằm xây dựng và đa dạng hóa SPDL,
nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên cở sở phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng mang
64
tính đặc trưng và những yếu tố hấp dẫn khác trong xây dựng SPDL. Coi trọng việc nâng
cao sức cạnh tranh của SPDL, cả về quy mô và chất lượng SPDL.
- Xác định, xây dựng và ban hành các chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch phù
hợp. Trong đó, cần làm tốt chiến lược maketing, tổ chức xúc tiến sản phẩm và điểm đến
du lịch, xem đây là kênh giới thiệu SPDL đến với du khách. Coi trọng đầu tư cho chiến
lược xúc tiến du lịch: bao gồm cả nội dung, hình thức và kinh phí thực hiện.
- Chú trọng xúc tiến các chính sách liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch.
Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao, sự phát triển du lịch không chỉ bó hẹp trong một quốc gia, lãnh thổ mà luôn vươn
ra khỏi phạm vi hành chính một địa phương, quốc gia và khu vực. Việc liên kết du lịch
giữa các lãnh thổ khác nhau cho phép khai thác những lợi thế tương đối của nhau về
TNDL , về vị trí trong giao thương, về hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật và các nguồn
lực khác để phát triển du lịch. Đồng thời, liên kết du lịch giữa các chủ thể hành chính
còn tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn đối với các bên liên quan nhằm thu hút đầu
tư từ các nguồn vốn trong và ngoài nước, thu hút khách du lịch đến mỗi địa bàn nhằm
thu lợi nhuận, đồng thời giải quyết việc làm cho nguồn lao động tại địa phương.
Những kinh nghiệm trên là những bài học bổ ích về chính sách du lịch mà Việt
Nam nói chung và các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB có thể và cần vận dụng
để phát triển du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế.
65
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA THUỘC VÙNG DU LỊCH
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC
3.1. Khái quát về sự phát triển du lịch tại vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên
hải Đông Bắc và các khu du lịch quốc gia thuộc Vùng
3.1.1. Khái quát về sự phát triển du lịch tại vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và
Duyên hải Đông Bắc
a. Khái quát về vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Vùng ĐBSH&DHDB là một trong 7 vùng du lịch của cả nước, có tọa độ địa lý
từ 20000' đến 21040' vĩ độ Bắc; từ 105025' đến 108005' kinh độ Đông. Phía Bắc vùng
giáp Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang; phía Tây giáp với Phú Thọ, Hoà Bình
(thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ); phía Đông và Đông Bắc giáp với Trung Quốc
và biển Đông; phía Nam giáp với Thanh Hoá (thuộc vùng Bắc Trung Bộ). Tổng diện
tích tự nhiên toàn vùng xấp xỉ 21.063,1 km2 (nguồn: Niên giám Thống kê 2010), bao
gồm 11 tỉnh: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải
Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Quảng Ninh.
Vùng ĐBSH&DHĐB là một khu vực trải dài từ Tây sang Đông với các miền địa
hình khác nhau như rừng núi, trung du, đồng bằng, biển và hải đảo,... Vùng cũng là
nơi có lịch sử khai phá lâu đời, nôi của nền văn minh lúa nước, tập trung nhiều di tích,
lễ hội, làng nghề truyền thống, làng Việt cổ đặc trưng. Do đó vùng ĐBSH&DHĐB là
khu vực chứa đựng nguồn TNDL khá toàn diện, mang tính đa dạng, phong phú, là yếu
tố thuận lợi để phát triển du lịch. Bên cạnh đó, những đặc điểm địa lý tự nhiên và tài
nguyên tạo điều kiện để vùng ĐBSH& DHĐB có thể phát triển một nền kinh tế mở đa
dạng với định hướng chủ đạo là phát triển công nghiệp công nghệ cao, sản xuất và chế
biến lương thực, đồng thời nâng cao đời sống người dân nơi đây.
Vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB là một trong số các vùng du lịch có sức hấp dẫn
rất lớn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Có khả năng đáp ứng các yêu cầu
của nhiều loại hình du lịch với các loại đối tượng khác nhau và có khả năng tiếp nhận
số lượng lớn khách du lịch. Trong số các di tích Việt Nam thì vùng này chiếm hơn 90%
về số lượng. Số lượng các danh hiệu thế giới do UNESCO xếp hạng cũng đứng đầu
với quần thể danh thắng Tràng An, vịnh Hạ Long, Hoàng thành Thăng Long, Bia tiến
sĩ Văn Miếu Thăng Long, ca trù, dân ca quan họ, khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát
Bà, khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng,...
66
- Về mặt tự nhiên: Vùng ĐBSH&DHĐB rất nổi tiếng với cảnh tĩnh mịch trong
các cánh rừng già nguyên sinh như các Vườn Quốc gia Ba Vì (Hà Nội), đảo Cát Bà
(Hải Phòng) với hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới rất điển hình, thỏa mãn trí tò mò của
du khách và lòng say mê NCKH. Nguồn nước khoáng theo các mạch suối tự nhiên
nhằm giải khát và chữa bệnh: Kênh Gà (Ninh Bình), Quang Hanh (Quảng Ninh) đạt
tiêu chuẩn cao. Có những hang động bí hiểm lạ mắt: Hương Sơn (Hà Nội), động Vân
Trình, Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình), động Thiên Cung (Quảng Ninh). Đây cũng
là nơi có các bãi biển đẹp và nổi tiếng Trà Cổ (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng) có
sức thu hút đặc biệt, nhất là Vịnh Hạ Long, Cát Bà. Các bãi tắm khác ở phía nam
cũng có thể khai thác du lịch như Đồng Châu (Thái Bình); Quất Lâm và Hải Thịnh
(Nam Định); Bãi Ngang, Cồn Nổi (Ninh Bình),...
- Về mặt kinh tế - xã hội, vùng ĐBSH&DHĐB có đặc điểm nổi bật như: Những
nông sản nhiệt đới quý giá, đạt tiêu chuẩn và có giá trị kinh tế cao: Gạo tám thơm, Nếp
cái, nhãn Hưng Yên, vải Thanh Hà, ổi Bo Thái Bình; Hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng
hầu hết nguyên liệu trong nước gồm các mặt hàng truyền thống thỏa mãn nhu cầu của
du khách và có giá trị xuất khẩu lớn; Cư dân chuộng hòa bình, cần cù lao động, thông
minh sáng tạo và thân thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao thương kinh tế
và du lịch; Về phục vụ ăn uống, ở đây cũng có những điều kiện rất thuận lợi. Với nguồn
lương thực, thực phẩm dồi dào và đa dạng, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp đã sáng
tạo ra các món ngon như: bún ốc, bún chả, rượu Làng Vân, cốm Làng Vòng, bánh đậu
xanh Hải Dương,… được khách du lịch rất yêu thích. Về vui chơi, giải trí, vùng này
cũng có nhiều trò chơi dân gian và nhiều nơi vui chơi thu hút du khách như: trò thả
chim, chọi gà, xem rối nước,…
- Về mặt văn hóa – lịch sử: Vùng ĐBSH&DHĐB chứa đựng toàn bộ bề dày lịch
sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học minh chứng cho nền văn hóa Đông Sơn, Hòa
Bình nổi tiếng từ hồi tiền sử có giá trị: khoa học, giáo dục truyền thống, Giáo dục kiến
thức. Những lễ hội truyền thống như đền Trần, Hội Lim (Bắc Ninh), Hội Gióng (Hà
Nội), hội chùa thuật độc đáo như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), Nhà thờ Phát Diệm, cố
đô Hoa Lư (Ninh Bình), chùa Cổ Lễ (Nam Định), Chùa Phật Tích, Chùa Tây Phương
và Chùa Một Cột (Hà Nội),… Nơi đây có những bảo tàng lớn và có giá trị nhất Việt
Nam tạo điều kiện cho du khách tham quan tìm hiểu, nghiên cứu. Những Di tích lịch
sử văn hóa thường gắn liền và rất hài hòa với cảnh quan thiên nhiên nên càng tăng giá
trị của các điểm du lịch như Hạ Long, Vân Long, Ba Vì,…Châu thổ Sông Hồng có
nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về khai thác thủy sản. Phương
thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là nghề trồng lúa nước. Ở
67
đây có hàng trăm nghề làm thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp,
có thợ tay nghề cao như: nghề gốm, luyện kim, đúc đồng. Có các dân tộc tiêu biểu như:
Mường (Hòa Bình, Ninh Bình).
Ngoài ra trong Vùng ĐBSH&DHĐB có Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh tế
- văn hóa – xã hội của cả nước và với trục tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh có cửa mở ra biển Đông, đến với các nước trong khu vực và quốc tế, đây chính
là tam giác tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
b. Tình hình phát triển du lịch tại vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải
Đông Bắc
Thời gian qua, cùng với sự phát triển du lịch cả nước, vùng ĐBSH&DHĐB đã
được quan tâm phát triển du lịch và đem lại những thành quả nhất định, góp phần quan
trọng vào sự phát triển du lịch cả nước và kinh tế - xã hội của khu vực.
Giai đoạn 2015-2019, tốc độ tăng trưởng lượng khách du lịch đến vùng
ĐBSH&DHĐB khá tốt, khoảng 10,26%, trong đó đặc biệt là Hà Nội và Quảng Ninh
có tổng số lượt khách đến du lịch khá lớn (Bảng 1 – Phụ lục 05). Vùng đẩy mạnh phát
triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế. Đối với khách du lịch nội địa,
Vùng phát triển mạnh thị trường nội vùng và các vùng phụ cận, trong đó khách du lịch
đến Hà Nội chiếm tỷ lệ chủ yếu; tiếp đến các địa phương đón được khách du lịch nhiều
trong Vùng là Quảng Ninh, Ninh Bình và Hải Phòng, mục đích của nhóm khách du
lịch nội địa là nghỉ dưỡng, giải trí, nghỉ cuối tuần, lễ hội, tâm linh, mua sắm… Đối với
khách du lịch quốc tế, Vùng thu hút, phát triển mạnh thị trường gần như: Đông Bắc Á
(Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan) và ASEAN; duy trì khai thác thị trường
truyền thống cao cấp như: Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và Đông Âu; mở rộng thị trường
mới: Trung Đông, Ấn Độ.
Cùng với sự gia tăng về lượng khách, tốc độ tăng tổng thu từ khách du lịch của
Vùng cũng khá cao và ổn định, khoảng 16,33% (Bảng 2 – Phụ lục 05). Hà Nội đứng
đầu về tổng thu du lịch, tiếp đến là Quảng Ninh. Trong giai đoạn 2015 – 2019, tốc
độ tăng trưởng trung bình tổng thu từ du lịch khá lớn, ví dụ như Quảng Ninh, Hà
Nam, Bắc Ninh,…
3.1.2. Khái quát về các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Theo Quyết định số 2163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11 tháng 11
năm 2013 về “Phê duyêt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch ĐBSH&DHĐB đến năm
2020, tầm nhìn 2030”, vùng du lịch ĐBSH&DHĐB sẽ có 9 KDLQG, bao gồm:
68
(1) KDLQG Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh, Hải Phòng): Điểm du lịch Hạ
Long – Cát Bà là điểm đến du lịch thiên nhiên, kết hợp giữa tỉnh Quảng Ninh và thành
phố Hải Phòng. Nơi đây là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất miền Bắc bởi vẻ
đẹp huyền diệu, kì bí của những hang động và đảo đá, bãi biển đã tạo nên một địa
điểm du lịch lí tưởng, có sức hấp dẫn rất lớn với khách du lịch. Do chưa được xây
dựng và phê duyệt Quy hoạch phát triển KDLQG Hạ Long - Cát Bà nên vẫn chưa có
BQL Khu. Các hoạt động du lịch chủ yếu mang tính liên kết giữa 2 địa phương, chứ
chưa hình thành khối quản lý và điều hành chung.
(2) KDLQG Vân Đồn (Quảng Ninh): Sở hữu danh thắng Vịnh Bái Tử Long,
huyện đảo Vân Đồn có nhiều ưu thế để phát triển du lịch với những cánh rừng nguyên
sinh, nhiều bãi biển đẹp và hoang sơ như Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, Bãi Dài.
Bên cạnh phong cảnh thiên nhiên, Vân Đồn còn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, kiến
trúc nghệ thuật như hệ thống bến cảng cổ của Thương cảng Vân Đồn, chùa Cái Bầu,
đền Cặp Tiên thu hút hàng triệu lượt khách du lịch tham quan mỗi năm, vì thế, nơi đây
được xác định và quy hoạch trở thành KDLQG trong thời gian tới. Các hoạt động du
lịch tại huyện đảo Vân Đồn hiện nay rất phong phú, đa dạng với nhiều sản phẩm
mang tính đặc thù, trong đó du lịch biển đảo là một trong những lợi thế nổi bật, riêng
có, tạo nên giá trị thương hiệu của du lịch Quảng Ninh. Quản lý các hoạt động du lịch
tại Vân Đồn hiện nay vẫn do UBND Huyện quản lý.
(3) KDLQG Trà Cổ (Quảng Ninh): Nằm ở cực Đông Bắc của đất nước, nơi giáp
ranh giữa Việt Nam và Trung Quốc, cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng gần
200 km, KDLQG Trà Cổ có diện tích 44.036 ha. Đây là địa điểm du lịch văn hoá độc
đáo và du lịch biển hấp dẫn, với hệ thống các công trình kiến trúc văn hóa, nghệ thuật
độc đáo; nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử cấp tỉnh, cấp quốc gia như Đình
Trà Cổ, Đền Xã Tắc, bãi biển Trà Cổ,... Với hơn 15km đường bờ biển, bãi biển Trà Cổ
là một trong các bãi biển dài nhất Việt Nam thu hút hàng chục vạn du khách tới thăm
quan mỗi năm. Ngoài ra, thành phố Móng Cái nơi có cửa khẩu giao thương với Trung
Quốc từ lâu là điểm du lịch nổi tiếng ở Quảng Ninh, nhất là với những người yêu thích
mua sắm. Tài nguyên thiên nhiên phong phú; môi trường trong lành, giao thông thuận
tiện, với những lợi thế đó, ngày 24/4/2019, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Lê Quang Tùng
đã ký Quyết định số 1501/QĐ-BVHTTDL công nhận KDLQG Trà Cổ, Móng Cái,
Quảng Ninh. Cũng theo Quyết định này, việc quản lý KDLQG Trà Cổ được giao cho
UBND thành phố Quảng Ninh và Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh, phối hợp với TCDL và
Bộ VHTTDL.
(4) KDLQG Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương): Thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải
69
Dương, cách thành phố Hà Nội 70 km. Nơi đây đã gắn bó mật thiết với cuộc đời và
sự nghiệp của các vị Anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn; Danh
nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi và là chốn tổ của Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần. Đây là vùng đất lịch sử ghi dấu ấn bởi những chiến công lẫy lừng qua nhiều
thời đại, đặc biệt là trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên
Mông thế kỷ 13 và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống
quân Minh ở thế kỷ 15. Đây cũng là vùng danh sơn huyền thoại, với những thắng
cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính. Ở đây, văn hóa Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo
cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, trở thành điểm du lịch văn hoa – lịch sử
hấp dẫn. Không chỉ có giá trị lịch sử - văn hóa, Côn Sơn - Kiếp Bạc còn được thiên
nhiên ưu đãi cảnh quan kỳ thú; nơi đây có danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ
Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề, là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm vào
thời Trần,... Theo định hướng Quy hoạch đã được VNCPTDL xây dựng thì KDLQG
Côn Sơn – Kiếp Bạc sẽ khai thác và phát triển các loại hình du lịch tham quan di tích
lịch sử - văn hóa, nghỉ dưỡng, sinh thái.
Dù đã được xếp vào danh mục KDLQG, tuy nhiên, do chưa xây dựng Quy
hoạch phát triển KDLQG Côn Sơn - Kiếp Bạc, nên hiện nay vẫn do BQL khu Di tích
Côn Sơn - Kiếp Bạc quản lý, với cơ quan chủ quản trực tiếp là Sở VHTTDL Hải
Dương và cơ quan quản lý về chuyên môn là Cục Di sản thuộc Bộ VHTTDL.
(5) KDLQG Suối Hai - Ba Vì (Hà Nội): Cách Hà Nội khoảng 60 km về phía
Tây, KDLQG Suối Hai - Ba Vì, nằm dưới chân núi Ba Vì. Theo Quy hoạch, các loại
hình du lịch được định hướng phát triển ở đây bao gồm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng
và vui chơi giải trí cuối tuần. Về công tác QLNN, hiện nay UBND thành phố Hà Nội
là đơn vị chịu trách nhiệm chỉ đạo và quản lý với KDL nói trên.
(6) KDL KDLQG Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội): Nằm
cách Hà Nội hơn 40 km về phía Tây, làng văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần
thuộc KDL Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội, KDLQG Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc
Việt Nam được xây dựng gồm 7 khu chức năng là khu các làng dân tộc, khu trung tâm
văn hóa và vui chơi giải trí hiện đại, khu di sản văn hóa thế giới, khu công viên bến
thuyền, khu cây xanh mặt nước hồ Đồng Mô, khu dịch vụ du lịch tổng hợp và khu quản
lý điều hành văn phòng. Với diện tích 198,61 ha, KDLQG này có địa hình gồm đồi,
núi, thung lũng, hồ nước đan xen, mô hình bản làng truyền thống của đồng bào các dân
tộc nhằm tái hiện khung cảnh thiên nhiên, văn hóa với 4 cụm làng trên khắp mọi miền
đất nước. Trong đó, cụm các làng dân tộc I gồm cảnh quan và các công trình văn hóa
đặc trưng của 28 dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ. Cụm
70
các làng dân tộc II gồm cảnh quan và các công trình văn hóa đặc trưng của 18 dân tộc
vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Cụm các làng dân tộc III là cảnh quan và các
công trình văn hóa đặc trưng của các dân tộc cư trú ở vùng bán sơn địa, cao nguyên,
đồi núi, triền sông. Cụm các làng dân tộc IV thể hiện cảnh quan và các công trình văn
hóa đặc trưng của các dân tộc cư trú ở vùng bán sơn địa, đồi núi, đồng bằng, duyên hải,
triền sông, thị trấn, thị tứ. Tại Khu các làng dân tộc, những lễ hội văn hóa truyền thống
như: chợ phiên Tây Bắc, lễ hội cầu mưa của dân tộc Cor (Quảng Nam), lễ hội trỉa lúa
của dân tộc B’râu (Kon Tum), chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ)... được tái hiện, là dịp để
du khách tận hưởng không khí hội hè sôi động, mang đậm bản sắc văn hóa từng vùng,
miền đất nước.
Hiện nay, CQQL Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam là BQL của
Làng. Đây là cơ quan trực thuộc Bộ VHTTDL, tương đương TCDL, thực hiện chức
năng QLNN trực tiếp đối với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam theo quy
định của pháp luật.
(7) KDLQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc): KDLQG nằm trên dãy núi Tam Đảo ở độ
cao trên 1.000 m so với mực nước biển, thuộc thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
KDLQG Tam Đảo cách thủ đô Hà Nội khoảng 80 km. Do nằm ở độ cao lớn nên
KDLQG có khí hậu mát mẻ dễ chịu, nhiệt độ trung bình luôn thấp hơn khoảng 5oC so
với thành phố Vĩnh Yên. Đến tham quan KDLQG, du khách có thể nghỉ ngơi, thăm
Vườn quốc gia Tam Đảo, Suối Bạc, hoặc lên Tháp truyền hình Tam Đảo. Theo định
hướng quy hoạch, KDLQG này sẽ khai thác và phát triển du lịch nghỉ dưỡng núi,
nghỉ cuối tuần, sinh thái, hội nghị hội thảo. Hiện tại, KDLQG thuộc quyền hạn quản
lý của BQL KDL Tam Đảo. Đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND huyện Tam
Đảo, có chức năng tham mưu, giúp UBND quản lý việc thực hiện quy hoạch chi tiết
thị trấn Tam Đảo; quản lý hoạt động du lịch; quản lý TNDL và hoạt động du lịch trên
địa bàn KDL Tam Đảo.
(8) KDLQG Tràng An (Ninh Bình): Là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các
di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới do UNESCO công nhận. Trước đó, nhiều di
tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc
biệt quan trọng như KDL sinh thái Tràng An, KDL Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái
Đính, cố đô Hoa Lư,... Liên kết giữa các khu vực này là hệ sinh thái rừng đặc dụng
Hoa Lư trên núi đá vôi, đất ngập nước và hệ thống sông, hồ, đầm với diện tích 12.252
ha. Quần thể di sản thế giới Tràng An mang trong mình những khung cảnh thiên nhiên
độc đáo từ đá núi, hệ sinh thái tự nhiên và những tuyến du thuyền trên sông Ngô
Đồng, suối Tiên,.... Nơi đây sở hữu những hang động đẹp như động Thiên Hà, hang
71
Tam Cốc, hang động Tràng An, …; những di chỉ khảo cổ học có giá trị như hang
Mòi, hang Bói, thung Bình, thành Hoa Lư,…; những di tích lịch sử nổi tiếng gắn với
4 vương triều Đinh - Lê - Lý - Trần như cung điện Hoa Lư, đền Vua Đinh-Vua Lê,
chùa Bái Đính,… hay những thắng cảnh khác như vườn chim thung Nham, thung
Nắng, hang Múa, rừng đặc dụng Hoa Lư,...
Hiện nay, đứng đầu và chịu trách nhiệm chính về các hoạt động du lịch tại đây
là BQL Quần thể danh thắng Tràng An. Đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND
tỉnh Ninh Bình, được thành lập theo Quyết định 150/QĐ-UBND ngày 15/3/2012 của
UBND tỉnh Ninh Bình và Quyết định số 06/2012/QĐ-UBND Ngày 10/4/2012 của
UBND tỉnh Ninh Bình quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế của BQL Quần thể danh thắng Tràng An. Theo đó BQL Quần thể danh thắng
Tràng An là đơn vị sự nghiệp đảm bảo một phần kinh phí hoạt động, trực thuộc
UBND tỉnh Ninh Bình có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý, bảo tồn,
tôn tạo, khai thác và phát huy giá trị văn hóa – du lịch.
(9) KDL Tam Chúc (Hà Nam): Cách Hà Nội khoảng 55 km, KDLQG Tam
Chúc thuộc thị trấn Ba Sao và 3 thôn Vồng, Khuyến Công và Khả Phong thuộc xã
Khả Phong, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Theo Quyết định số 526/QĐ-TTg, ngày
15 tháng 05 năm 2018, về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KDLQG Tam
Chúc, tỉnh Hà Nam đến năm 2030, KDL này sẽ phát triển 6 khu chức năng gồm khu
trung tâm đón tiếp, khu văn hóa tâm linh Tam Chúc, khu bảo tồn tự nhiên Quèn Vồng
và hồ Tam Chúc, khu nghỉ dưỡng chăm sóc sức khỏe và du lịch cộng đồng Tam Chúc,
khu sân golf Kim Bảng và hồ Ba Hang và trung tâm dịch vụ hậu cần phục vụ hoạt
động KDL tại Thị trấn Ba Sao. Nơi đây là vùng ngập nước núi đá vôi, trong khu vực
và lân cận có nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh như: động Vòng,
chùa Bà Đanh,... KDL hồ Tam Chúc có vị trí đặc biệt là gạch nối giữa KDL Chùa
Hương với khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, chùa Bái Đính, Tràng An, Tam Cốc
tạo thành một quần thể các KDL sinh thái vùng ngập nước. Về công tác quản lý,
UBND tỉnh Hà Nam sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo và phối hợp các Sở, Ban, ngành có
liên quan trong việc quản lý và phát triển KDLQG này.
Tuy nhiên, đến thời điểm NCS thực hiện Luận án, trừ KDLQG Trà Cổ (Quảng
Ninh) đã được công nhận chính thức và KDL Tam Chúc (Hà Nam) đã được phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển KDLQG, các KDLQG còn lại mới chỉ tồn tại dưới hình
thức các điểm tham quan hoặc các KDL cấp địa phương, chưa xác định được phạm vi
giới hạn không gian cụ thể. quy mô và hoạt động du lịch còn khá hạn chế, chưa có
chính sách riêng cho từng khu mà chủ yếu vẫn là các chính sách du lịch chung cho
72
cả địa phương có KDLQG đó. Do đó, các địa phương này rất cần xây dựng và thực
thi các chính sách du lịch hợp lý để khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch, mang lại lợi
ích cho địa phương và quốc gia.
3.2. Kết quả phân tích thực trạng về chính sách phát triển các khu du lịch quốc
gia thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
3.2.1. Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Qua kết quả khảo sát của NCS, tại các địa phương có KDLQG vùng
ĐBSH&DHĐB, các chính sách được ban hành và triển khai khá đầy đủ. Tuy nhiên
mức độ thể hiện của các chính sách ở từng địa phương là khác nhau. Ngoài ra, trong
các chính sách được triển khai thời gian qua, thông qua các văn bản, quyết định, thông
tư, nghị định,… có những chính sách được ban hành độc lập (riêng về một nội dung
như: bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch; xúc tiến, quảng bá du lịch…
nhưng cũng có những chính sách tổng hợp, bao gồm nhiều nội dung như các nghị
quyết, đề án về phát triển du lịch địa phương,… Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của
NCS, hiện nay, các chính sách du lịch được ban hành là các chính sách để phát
triển du lịch nói chung tại địa phương, nhằm tạo điều kiện phát triển du lịch tại địa
phương, trong đó có phát triển du lịch tại các KDLQG, chưa có chính sách chuyên
biệt nào dành riêng cho phát triển du lịch tại các KDLQG.
Cụ thể, thực trạng các chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch tại các
KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB được ban hành bao gồm:
3.2.1.1. Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Môi trường du lịch có vai trò quan trọng trong việc khai thác và phát triển các
hoạt động du lịch. Trên cơ sở đó, tại các địa phương có KDLQG hiện nay thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB, các chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
được triển khai khá đầy đủ, được thể hiện thông qua các chủ trương, định hướng và
các hoạt động xuyên suốt, nhất quán.
Môi trường là vấn đề vĩ mô nên các chính sách về môi trường chủ yếu do cấp
TW ban hành. Cụ thể, ở cấp TW, Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội khoá IX
của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ IV ngày 17/12/1993
đã thông qua, gồm 7 Chương với 55 Điều. Trong đó thể hiện những nội dung QLNN
về bảo vệ môi trường, lập quy hoạch, xây dựng tiềm lực cho hoạt động dịch vụ môi
trường ở TW và địa phương. Bên cạnh đó, để hưởng ứng phong trào nói không với
rác thải nhựa, Bộ VHTTDL đã ban hành Công văn số 1857/BVHTTDL-TCDL về
73
bảo vệ môi trường, hạn chế sử dụng túi nilon, ống hút nhựa, cốc nhựa dùng một lần.
Bộ đề nghị các Sở VHTTDL, Sở Du lịch thực hiện và chỉ đạo các cơ sở kinh doanh
dịch vụ du lịch, KDL, điểm du lịch triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường. Đây
là cơ sở quan trọng để các địa phương có KDLQG xây dựng và triển khai thực hiện
các biện pháp và chiến lược nhằm đảm bảo khai thác TNDL hiệu quả nhưng vẫn bảo
vệ môi trường và phát triển bền vững.
Ở cấp địa phương, các địa phương thuộc Vùng cũng đã ban hành và triển khai
các chính sách riêng của mình về bảo vệ môi trường. Tiêu biểu phải kể đến một số
địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB như:
Tại Ninh Bình, Nghị quyết 15-NQ/TU ngày 13/7/2009 của Ban chấp hành
Đảng bộ Tỉnh về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Kế
hoạch số 07/KH-UBND ngày 17/7/2009 của UBND tỉnh Ninh Bình xác định một
trong những định hướng quan trọng trong phát triển du lịch là cần bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững như: tổ chức phân loại và đánh giá TNDL, đầu tư xây dựng hệ
thống xử lý chất thải, đảm bảo vệ sinh môi trường, góp phần làm gia tăng giá trị
TNDL và phát triển bền vững.
Tại Hà Nội, Sở Du lịch Hà Nội cũng đã ban hành Văn bản số 435/SDL-
QLCSLT về việc triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường, hạn chế sử dụng túi nilon,
ống hút và cốc nhựa dùng một lần tại các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn.
3.2.1.2. Chính sách tài chính
Chính sách tài chính liên quan đến các ưu đãi về tín dụng, bố trí ngân sách địa
phương và xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển du lịch tại các KDLQG. Cụ thể:
- Về bố trí ngân sách địa phương, thực hiện các các ưu đãi về tài chính, tín
dụng cho các doanh nghiệp để kêu gọi, thu hút vốn đầu tư nhằm phát triển du lịch tại
địa phương. Có thể kể đến một vài chính sách tiêu biểu ở một số địa phương trong
vùng ĐBSH&DHĐB như:
Tại Vĩnh Phúc, UBND Tỉnh đã phê duyệt Quyết định số 29/2017/QĐ-UBND
ngày 28 tháng 8 năm 2017 về việc hỗ trợ chi phí lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư trực
tiếp thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại các KDL trọng điểm của Tỉnh.
Tại Hà Nam, để tạo điều kiện phát triển du lịch địa phương cũng như phát triển
KDL Tam Chúc, thời gian vừa qua (ngày 7/9/2018), UBND tỉnh đã ban hành Quyết
định số 1606 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, xác định cơ chế đầu tư vào phân
khu chức năng thuộc KDL Tam Chúc được quy định cụ thể, rõ ràng như hỗ trợ kinh
74
phí giải phóng mặt bằng, quy định thời hạn thuê đất và các chính sách ưu đãi về thuế
khác. Với các nhà đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh, bảo tồn sinh thái trong các
khu chức năng được hưởng các ưu đãi về đất theo Nghị định 46/2014/NĐ-CP của
Chính phủ và các ưu đãi về thuế,…
- Về xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển du lịch: Thời gian vừa qua, Chính phủ đã
ban hành Quyết định 49/2018/QĐ-TTg về thành lập, phê duyệt Điều lệ của Quỹ hỗ
trợ phát triển du lịch. Chức năng, nhiệm vụ của quỹ là xây dựng kế hoạch, bố trí kinh
phí tổ chức triển khai hoạt động xúc tiến du lịch, hỗ trợ các hoạt động phát triển du
lịch phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam.
Còn tại các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB, việc thành lập quỹ hỗ trợ phát
triển du lịch chưa được triển khai cụ thể. Cho đến nay, chưa có địa phương nào trong
Vùng xây dựng và thành lập được quỹ riêng để hỗ trợ phát triển du lịch của địa
phương cũng như của KDLQG tại địa phương đó.
3.2.1.3. Chính sách kích cầu du lịch
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều biến động, như: Biến đổi khí hậu gây ra
tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn ở tỉnh Vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long, diễn biến mưa bão, xói lở, lũ lụt nghiêm trọng ở các tỉnh Miền Trung,… và đặc
biệt nhất là tình hình dịch bệnh COVID-19 từ cuối năm 2019 đến nay, đã làm nhiều
ngành kinh tế bị khủng hoảng, tổn thất cực kì nghiêm trọng. Trong đó, ngành Du lịch
được đánh giá là một trong số những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Trước bối
cảnh đó, các chính sách kích cầu của Chính phủ trong thời gian vừa qua đã hỗ trợ rất
lớn cho ngành du lịch như: cho phép gia hạn thời gian nộp thuế, hoặc miễn thuế đối
với một số dịch vụ; hỗ trợ giảm giá điện, giảm lãi suất cho vay đối với DNDL; hỗ trợ
hướng dẫn viên du lịch,...
Còn tại các địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB, việc nhận định tình
hình và kịp thời ban hành các chính sách kích cầu đi kèm với các gói kích cầu nhằm
hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong bối cảnh kinh tế khó khăn đã mang
lại nhiều kết quả khả quan. Có thể kể đến một số địa phương tiêu biểu như:
Tại Quảng Ninh, ngay sau khi đợt dịch đầu tiên được không chế, Quảng Ninh
đã lập tức thông qua gói kích cầu du lịch trị giá gần 200 tỷ đồng (Nghị quyết số
256/2020/NQ-HĐND ngày 14/5/2020 của HĐND tỉnh). Với gói kích cầu này, du
khách được miễn phí tham quan Vịnh Hạ Long, Bảo tàng Quảng Ninh, Khu di tích và
danh thắng Yên Tử trong thời gian từ ngày 14/5 đến 1/6/2020 và các ngày lễ trong năm
2020,… Tiếp theo, khi đợt dịch COVID-19 lần 2 lắng xuống, tỉnh đã thông qua nghị
75
quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung Nghị quyết số 256/2020/NQ- HĐND ngày
14/5/2020 về một số giải pháp hỗ trợ kích cầu du lịch tỉnh Quảng Ninh năm 2020 với
gói kích cầu khoảng 100 tỷ đồng. Theo đó, tiếp tục giảm giá vé thu phí vào điểm tham
quan và tham quan lưu trú,… Không dừng lại ở đó, để kích cầu du lịch nghỉ đêm trên
vịnh, Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 266/2020/NQ-HĐND ngày 9/7/2020 điều
chỉnh, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết số 256/2020/NQ-HĐND ngày
14/5/2020 về một số giải pháp hỗ trợ kích cầu du lịch tỉnh Quảng Ninh năm 2020.
Các gói kích cầu mà Quảng Ninh tung ra ngay lập tức phát huy hiệu quả, du
khách về với các điểm đến ngày một tăng, trong đó có KDLQG Trà Cổ. Các hoạt
động văn hóa, thể dục thể thao nhằm kích cầu du lịch nội địa gắn với việc thực hiện
tốt công tác phòng chống dịch COVID-19 theo đúng chỉ đạo của TW, của tỉnh, đảm
bảo tốt an ninh trật tự, vệ sinh môi trường. Đây là hoạt động thiết thực hưởng ứng
phong trào kích cầu “Người Việt Nam đi du lịch tại Việt Nam”, đáp ứng nhu cầu
tham quan, giải trí của người dân và du khách khi đến với KDLQG Trà Cổ.
Tuy nhiên, đó chỉ là một trong số những hoạt động trong gói kích cầu du lịch
của TP Móng Cái. Trong 6 tháng đầu năm 2020, Thành phố Móng Cái đã ban hành
trên 20 văn bản chỉ đạo, điều hành về quản lý và phát triển hoạt động du lịch. Nhờ
vậy, ngay sau khi dừng việc thực hiện giãn cách xã hội, phòng, chống dịch Covid-19,
KDLQG Trà Cổ – Móng Cái đã thu hút được rất đông khách du lịch tới đây.
Tại Ninh Bình, ngay sau khi tình hình dịch bệnh COVID-19 được bước đầu
kiểm soát, Sở Du lịch Ninh Bình, Thường trực Ban chấp hành Hiệp hội Du lịch, chi
hội Khách sạn, chi hội Lữ hành đã cùng nhau họp bàn giải pháp phòng chống dịch
COVID-19. Cụ thể, Tỉnh đã ban hành Thông báo số 19/TB-UBND của Chủ tịch
UBND tỉnh ngày 22/4/2020 về các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 và tháo
gỡ khó khăn trong phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh trong thời gian
tiếp theo như: kết hợp công bố các chương trình kích cầu của hàng không và du lịch,
các giải pháp được đề cập trong đó bao gồm: miễn, giảm thuế TNDN, giảm thuế đất,
áp dụng giảm giá điện,…
Những chính sách kích cầu liên quan đến giảm thuế và chi các gói hỗ trợ của
Chính phủ và chính quyền các địa phương được ban hành kịp thời đã hỗ trợ rất lớn cho
các DNDL trong thời điểm khó khăn. Đây chính là động lực quan trọng để thúc đẩy sự
phát triển du lịch nói chung tại Vùng và tại các địa phương có KDLQG.
3.2.1.4. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch
Nhân lực có vai trò quan trọng trong việc thực hiện và triển khai các hoạt động
76
du lịch ở bất cứ địa phương nào, trong đó có các KDLQG. Cùng với các chính sách
đào tạo và phát triển NNL nói chung, thời gian qua tại các địa phương có KDLQG
vùng ĐBSH&DHĐB đã triển khai thực hiện một số chính sách đào tạo và phát triển
NNL du lịch. Trong đó, có những chính sách vĩ mô được ban hành từ TW và cũng có
những chính sách do địa phương xây dựng, ban hành và triển khai, cụ thể là:
Ở cấp TW đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã xác định nhiệm vụ, giải pháp về đào tạo
và phát triển NNL du lịch như: thu hút đầu tư cho đào tạo NNL du lịch; tăng cường
năng lực cho các cơ sở đào tạo du lịch cả về CSVCKT, nội dung, chương trình và đội
ngũ giáo viên. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng khoa
học-công nghệ tiên tiến trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển NNL du lịch,...
Cùng với đó, thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính
phủ về Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-
NQ/TW; thực hiện Thông báo kết luận số 469/TB-VPCP ngày 06/10/2017 của Văn
phòng Chính phủ về tình hình đào tạo nhân lực du lịch, theo đó, Bộ GDĐT ban hành
Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 hướng dẫn cơ chế đặc thù đào
tạo nhân lực du lịch trình độ ĐH giai đoạn 2017-2020 theo hướng đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế.
Ở cấp địa phương, các địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cũng xây
dựng, ban hành và triển khai hàng loạt các văn bản, Nghị quyết, thông tư, Quy định,
Quyết định,… trong đó có các nội dung về đào tạo và phát triển nhân lực du lịch trong
kế hoạch, nhiệm vụ phát triển du lịch nói chung. Chẳng hạn như, thành phố Hải phòng
ban hành Nghị quyết 15/NQ-HĐND năm 2017 về Nhiệm vụ và giải pháp phát triển
du lịch Hải Phòng giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030; Thành phố Hà
Nội ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 26/6/2016 của Ban Thường vụ Thành
ủy Hà Nội về “Phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2016-2020 và những năm
tiếp theo”; Tỉnh Ninh Bình ban hành Quyết định 1124/QĐ-UBND năm 2018 về phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030; Tỉnh Hà Nam ban hành Quyết định 1606/QĐ-UBND về việc Phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2050,…
Nội dung cơ bản của những chính sách trên đều đề cập đến các định hướng,
hướng dẫn và các nhóm giải pháp về đào tạo và phát triển NNL du lịch trên cơ sở
lồng ghép du lịch vào trong các chương trình đào tạo, tăng cường liên kết nhà trường
và doanh nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào đào tạo và phát triển
77
NNL du lịch, nâng cao năng lực cho đội ngũ lao động cả kể kĩ năng, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, ngoại ngữ và đạo đức nghề nghiệp, nhanh chóng tạo ra sự hội nhập
và nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động trong khu vực, áp dụng tiêu chuẩn
chung đánh giá năng lực lao động du lịch để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ,
du lịch cung ứng tại địa phương.
Về cơ bản, việc ban hành và triển khai những chính sách nhằm khuyến khích
đào tạo và phát triển NNL du lịch địa phương đã giúp đội ngũ lao động du lịch tại các
địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB bước đầu đáp ứng được yêu cầu số
lượng và dần từng bước đảm bảo yêu cầu về chất lượng trong bối hiện nay.
3.2.1.5. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
CSHT và CSVCKTDL là yếu tố không thể thiếu trong phát triển du lịch nói
chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói riêng. Các địa phương có KDLQG
vùng ĐBSH&DHĐB hiện nay đều có các chính sách từ cấp TW đến cấp địa phương
nhằm xác định, kêu gọi và khuyến khích đầu tư từ các tổ chức khác nhau ở cả trong
và ngoài nước, trong đó thường ưu tiên các dự án phát triển kinh tế - xã hội, dự án
phát triển công trình dịch vụ, giao thông, nông nghiệp nông thôn,... có liên quan đến
phát triển du lịch của địa phương. Cụ thể:
UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Công văn số 7317/UBND-KGVX về
thực hiện kiến nghị của Đoàn giám sát của Thường trực HĐND Thành phố về thực
hiện Quy hoạch phát triển du lịch thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030, Nghị quyết số 12/2012/NQ-HĐND ngày 13/7/2012 của HĐND Thành phố
và Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 06/6/2016 của Thành ủy Hà Nội, để xây dựng các
đề án, kế hoạch phát triển du lịch Hà Nội như: cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều
kiện để doanh nghiệp dễ tiếp cận, cải cách hành chính theo hướng tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin,...
Tỉnh Ninh Bình đã ban hành nhiều chính sách, cơ chế ưu đãi, hỗ trợ và khuyến
khích đầu tư CSHT và CSVCKTDL như: Quyết định số 28/2012/QĐ-UBND ngày
23/11/2012 của UBND tỉnh về ban hành Quy định về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết số 15/NQ-TU ngày 13/7/2009 của BCH
Đảng bộ tỉnh về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Kế hoạch
số 07, ngày 17/7/2009 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 15 của Tỉnh ủy;
Nghị quyết số 12-NQ/BCSĐ UBND tỉnh, Kế hoạch số 18/KH-UBND ngày
08/3/2017 của UBND tỉnh về tăng cường QLNN về du lịch và quản lý quy hoạch,
khai thác có hiệu quả để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nhờ
78
vậy, CSHT tại các khu, điểm du lịch trong tỉnh được tiếp tục quan tâm đầu tư, các
hạng mục công trình của dự án xây dựng CSHTKDL sinh thái Tràng An, dự án nạo
vét tuyến giao thông thủy Bích Động - Hang Bụt và Thạch Bích - Thung Nắng,…đã
và đang được thực hiện.
UBND Tỉnh Hà Nam ban hành Quyết định 1606/QĐ-UBND về việc phê duyệt
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050, trong định hướng phát triển du lịch chủ yếu có nội dung về Danh mục dự án, đề
án ưu tiên đầu tư, gồm các nhóm dự án phát triển CSHT, nhóm dự án thuộc KDLQG
Tam Chúc, nhóm dự án phát triển các KDL khác, CSVCKT phục vụ du lịch,…
Ngoài ra, các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB cũng xây dựng các chính sách
vốn đối tác công tư để đầu tư xây dựng công trình CSHT và CSVCKT du lịch. Nhờ
đó, các địa phương đã hoàn thành nhiều hạng mục hạ tầng trọng yếu như sân bay, cao
tốc, cầu cảng, thu hút thêm các doanh nghiệp tham gia các dự án đầu tư CSVCKT du
lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG.
3.2.1.6. Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
Để du lịch thực sự trở thành một hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế cao thì
cần phải có các chính sách phát triển SPDL. Liên quan đến chính sách phát triển
SPDL, vì cần khai thác yếu tố đặc thù mang tính đặc trưng của địa phương nên phần
lớn các chính sách này là do địa phương xây dựng và ban hành.
- Về các chính sách phát triển các SPDL đặc thù và thân thiện môi trường trên
cơ sở đặc trưng TNDL tại KDL, có thể kể đến một số chính sách tiêu biểu trong Vùng
du lịch ĐBSH&DHĐB như sau:
Tại Hà Nội, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số
31/2014/QĐ-UBND quy định về chính sách khuyến khích phát triển làng nghề thành
phố Hà Nội nhằm xây dựng các SPDL mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng trên cơ
sở khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống bị mai một và phát triển các làng
nghề kết hợp du lịch. Với chủ trương đó, tại KDLQG Làng Văn hóa – Du lịch các
dân tộc Việt Nam, được sự chỉ đạo của Bộ VHTTDL, BQL đã xây dựng một số SPDL
hấp dẫn như: tổ chức thành công 3 sự kiện thường niên: Ngày hội "Sắc Xuân trên mọi
miền Tổ quốc", các hoạt động chào mừng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Tuần
"Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam", tổ chức chương trình "Gói
bánh chưng xanh cùng người nghèo ăn Tết" năm 2018 với nguồn kinh phí 100% xã
hội hóa; Xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức 12 sự kiện theo quý, định kỳ hàng
tháng, tổ chức hơn 21 lễ, hội các dân tộc,...
79
Tại Ninh Bình, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã ban hành các nghị quyết, quy định, kế
hoạch để quản lý, phát triển du lịch, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Di sản, góp
phần hình thành và phát triển các SPDL như: Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày
13/7/2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển Du lịch đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 và Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 17/8/2016 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh về bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới Quần thể danh thắng Tràng An trong phát triển du lịch giai đoạn 2016 – 2020…
Kết quả đạt được là KDL Quần thể Danh thắng Tràng An không ngừng phát triển,
lượng khách đến tham quan tăng mạnh theo từng năm.
Tại Quảng Ninh, Nghị quyết số 03-NQ/TU được ban hành ngày 28/8/2020 bởi
Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố về phát triển KDLQG Trà Cổ đến năm 2025, tầm
nhìn đến 2030, trong đó xác định giá trị và thương hiệu cho các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể, gắn với phát triển SPDL tâm linh mang đặc trưng của địa phương
như: Đình Bình Ngọc; xếp hạng cấp Quốc gia đền Xã Tắc và di tích Đồn Biên phòng
209 Pò Hèn,… Hướng dẫn, lập hồ sơ đề nghị công nhận danh hiệu “Nghệ nhân nhân
dân, nghệ nhân ưu tú” cho 5 nghệ nhân để tiếp tục duy trì, sáng tạo và phát huy các
giá trị truyền thống địa phương, tạo ra các SPDL mang tính đặc thù, hấp dẫn. Tạo ra
sản phẩm mới như: Phố đi bộ Trần Phú; đầu tư nâng cấp, bảo tồn các di tích; phục
dựng Lễ tế Xã Tắc, nâng tầm Lễ hội đình Trà Cổ; xe du lịch tự lái qua biên giới; xe
ô tô điện...
- Về các chính sách liên kết phát triển SPDL giữa các KDL trong cùng một địa
phương và các SPDL liên vùng, có thể kể đến một số chính sách tiêu biểu như: Chính
sách phát triển du lịch được quy định tại Điều 5 Luật Du lịch 2017, theo đó khuyến
khích, hỗ trợ đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; hệ thống
cửa hàng miễn thuế, trung tâm mua sắm phục vụ khách du lịch.
Ngoài ra, ở các địa phương cũng có những chính sách riêng khuyến khích sự
liên kết, hợp tác phát triển SPDL mang tính liên vùng. Cụ thể, Nghị quyết số
21/2018/NQ-HĐND tỉnh Hà Nam về Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, có quy định về phát triển SPDL Hà Nam gắn kết
với các SPDL của các địa phương lân cận và trong vùng bằng cách phát triển hệ thống
tuyến du lịch, xây dựng các tuyến du lịch liên tỉnh gắn kết với các tỉnh, thành phố. Phát
triển tuyến du lịch nội tỉnh theo đường sông và đường bộ gắn kết với các khu, điểm du
lịch trên địa bàn tỉnh. Kế hoạch 93/KH-UBND thành phố Uông Bí, Quảng Ninh về
thực hiện Nghị quyết 07 - NQ/TU ngày 24/5/2014 của Tỉnh ủy Quảng Ninh về phát
triển du lịch giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có nhiệm vụ
80
về đầu tư phát triển SPDL trên cơ sở mở rộng liên kết với các địa phương khác như
Đông Triều - Quảng Yên - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái,… thành tour du lịch “vang
danh đời Trần”. Bên cạnh đó, với mục tiêu xây dựng hệ thống SPDL đa dạng, đặc sắc,
UBND Tỉnh đã quyết định phê duyệt Đề án phát triển SPDL Quảng Ninh đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 tại văn bản số 1419/QĐ-UBND. Nội dung chính của Đề
án bao gồm phát triển SPDL theo các không gian du lịch (Hạ Long, Uông Bí - Đông
Triều - Quảng Yên, Vân Đồn - Cô Tô, Móng Cái - Trà Cổ) và theo từng lĩnh vực,…
Nhìn chung, các chính sách nói trên đã tạo ra khuôn khổ, định hướng cho phát
triển SPDL tại các địa phương và các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB, qua đó
đảm bảo khai thác đúng tiềm năng, lợi thế, đạt hiệu quả kinh tế, xã hội mong muốn.
3.2.1.7. Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch bao gồm việc xây dựng thương hiệu điểm
đến và tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch. Đây là hoạt động rất quan
trọng, giúp kết nối cầu - cung trong du lịch, vì vậy cần phải có các chính sách từ cấp
TW đến địa phương để triển khai các hoạt động này.
Tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, việc ban hành và triển khai các chính sách
xúc tiến, quảng bá du lịch nói chung và quảng bá về các KDLQG nói riêng của Vùng
thời gian qua đã được quan tâm đáng kể.
Ở cấp TW, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã xác định nhiệm vụ, giải pháp trọng
tâm nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch: “Đổi mới cách thức, nội dung, tăng
cường ứng dụng công nghệ hiện đại, bảo đảm thực hiện thống nhất, chuyên nghiệp
và nâng cao hiệu quả xúc tiến, quảng bá du lịch trong nước và nước ngoài”,... Cùng
với đó, Quyết định số 4829/QĐ-BVHTTDL ngày 25 tháng 12 năm 2018 về phê duyệt
Đề án nâng cao hiệu quả xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam, trong đó xác định các
nội dung chính: “Tổ chức hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng tập trung
vào các điểm đến, sản phẩm có thế mạnh và thị trường khách du lịch trọng điểm;…”.
Những chính sách trên là cơ sở và định hướng giải pháp để xúc tiến, quảng bá
mang lại hiệu quả tích cực mong muốn, nhanh chóng và khả thi đạt được các mục tiêu
đã đề ra, phát triển ngành Du lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Ở cấp địa phương, theo quan điểm của Nghị quyết trên, các địa phương có
KDLQG thuộc Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB đã xây dựng và triển khai các chính sách
phát triển du lịch của địa phương có lồng ghép các nhóm giải pháp, nhiệm vụ về xúc
tiến, quảng bá du lịch của địa phương. Ví dụ như: thành phố Hải phòng ban hành
81
Nghị quyết 15/NQ-HĐND năm 2017 về Nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Hải
Phòng giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030; Thành phố Hà Nội ban hành
Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 26/6/2016 của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội về
Phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo; Thành
phố Ninh Bình ban hành Quyết định 1124/QĐ-UBND năm 2018 về phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm
2030; Tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Quyết định 1335/QĐ-UBND về việc Phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn 2030,…
Bên cạnh đó, một số các địa phương đã xây dựng và ban hành các chính sách
xúc tiến, quảng bá riêng về du lịch với mục tiêu, nhiệm vụ rất cụ thể và dành khoản
ngân sách khá lớn để triển khai. Chẳng hạn như UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành
Quyết định số 1770/QĐ-UBND về việc phê duyệt Các hoạt động xúc tiến, quảng bá
du lịch Quảng Ninh năm 2018. Tại KDLQG Trà Cổ, UBND Thành phố Móng Cái đã
Quyết định số 1723/QĐ-UBND ngày 27/5/2020, trong đó chú trọng đẩy mạnh hơn nữa
công tác tuyên truyền, quảng bá về Móng Cái là nơi đáng sống và là nơi đáng đến gắn
với hình ảnh “Người Móng Cái thân thiện” – điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn
đối với du khách. UBND tỉnh Hà Nam cũng ban hành Quyết định số 1877/QD-UBND
về việc Phê duyệt Đề án Xúc tiến, quảng bá du lịch tỉnh Hà Nam giai đoạn 2016- 2020.
UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 3147/QD-UBND về việc Phê duyệt Đề
án Tuyên truyền quảng bá. xúc tiến du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016- 2020,…với
mục tiêu: Giới thiệu quảng bá hình ảnh về mảnh đất, con người và các giá trị văn hóa,
các danh lam thắng cảnh, những SPDL của địa phương.
3.2.1.8. Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
Trong các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG, chính sách liên kết,
hợp tác phát triển du lịch là một trong số những chính sách cần được quan tâm triển
khai thực hiện. Việc ban hành các chính sách này thường được lồng ghép trong các
chính sách phát triển du lịch của quốc gia và của địa phương. Trong đó, nó được coi
là nhóm giải pháp, nhiệm vụ quan trọng để cụ thể hóa các mục tiêu, kế hoạch trong
phát triển du lịch nói chung.
Ở cấp TW, Quyết định số 147/QĐ-TTg ban hành ngày 22/01/2020 về Chiến
lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, trong nhóm giải pháp về hợp tác và
hội nhập quốc tế đã xác định, cần “tích cực, chủ động hợp tác song phương và đa
phương về du lịch; Ưu tiên hợp tác, liên kết khu vực để phát triển sản phẩm, quảng bá
điểm đến chung; Thực hiện hiệu quả Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về
nghề du lịch”, “đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để trao đổi kinh
82
nghiệm, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, thu hút đầu tư, đào tạo nhân lực du lịch,…”.
Trên cơ sở đó, các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB cũng ban hành những chính
sách riêng về đẩy mạnh liên kết hợp tác phát triển du lịch. Lấy ví dụ như: Chương trình
hợp tác phát triển giữa tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng theo Thông báo số 01-TB/TU/LT
ngày 3/9/2013 và Thông báo số 194-TB/TU/LT ngày 30/5/2014 giữa Tỉnh ủy Quảng
Ninh và Thành ủy Hải Phòng. Trong đó, hai bên đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch
Quảng Ninh - Hải Phòng, tập trung vào các lĩnh vực: QLNN về du lịch; phát triển
SPDL; quảng bá xúc tiến du lịch; phát triển nguồn nhân lực; bảo vệ môi trường tự nhiên
và môi trường kinh doanh du lịch; xây dựng Cát Bà, Đồ Sơn (Hải Phòng) và Hạ Long
(Quảng Ninh) trở thành trung tâm du lịch quốc tế. Hai bên thống nhất giao các cơ quan
chức năng xây dựng Quy chế phối hợp QLNN đối với hoạt động vận chuyển khách du
lịch trên khu vực Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Vịnh Lan Hạ (Hải Phòng) thống nhất
về tiêu chuẩn, quy chuẩn; cùng tạo ra hành lang pháp lý giải quyết các vấn đề chung
có liên quan, nhằm đảm bảo an toàn, an ninh, trật tự, bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục phối hợp với thành phố Hải Phòng lập
hồ sơ “Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà” trình cấp có thẩm quyền và Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc công nhận “Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát
Bà” là Di sản thế giới,…
Các định hướng và bước đi cụ thể trong liên kết, hợp tác phát triển du lịch
được các cơ quan QLNN các cấp xác định rõ ràng và xây dựng thành các quyết sách
phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc Vùng.
3.2.2. Thực trạng quy trình chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc
vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
3.2.2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành chính sách
Để phát triển du lịch tại các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cần có rất nhiều
chính sách khác nhau, bao gồm cả các chính sách của TW và chính sách của các địa
phương trong vùng du lịch ĐBSH&DHĐB. Tuy nhiên trong phạm vi của luận án,
NCS chỉ tập trung tìm hiểu và nghiên cứu chính sách du lịch và quy trình chính sách
du lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB, bao gồm cả các
chính sách của TW và chính sách của địa phương. Trong đó, với các chính sách của
TW, các địa phương của Vùng chỉ thực hiện. Vì thế, nội dung xây dựng và ban hành
chính sách được nghiên cứu với các chính sách của địa phương trong Vùng.
a. Về mục tiêu: Các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB hiện nay đều có mục tiêu nhằm cụ thể hóa các định hướng của Chiến
83
lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch quốc gia và địa phương, khai thác tính
đặc thù về TNDL để phát triển SPDL đặc trưng và mang thương hiệu du lịch vùng.
b. Về nguyên tắc: Các chính sách phát triển KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB được
ban hành tại địa phương đã căn cứ điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường thực tế địa
phương, có sự hài hòa và thống nhất với các chính sách của TW. Nhìn chung, trong
quy trình xây dựng và ban hành chính sách, đối với các chính sách của các địa phương,
thông qua kết quả phỏng vấn các chuyên gia là những người quản lý trong các BQL
KDLQG của địa phương cho thấy các địa phương đã có sự xác định và đã lựa chọn
mục tiêu phù hợp và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng chính sách.
c. Về quy trình: Việc xây dựng và ban hành chính sách phát triển KDLQG
vùng ĐBSH&DHĐB được tiến hành theo các bước: Xác định, lựa chọn vấn đề;
Xây dựng các phương án; Lựa chọn phương án tối ưu và Quyết định ban hành.
- Xác định, lựa chọn vấn đề: Căn cứ thực trạng phát triển du lịch của từng địa
phương trong Vùng, các vấn đề sẽ được xem xét và xác định ở các mức độ khác nhau.
Trong bối cảnh ngành Du lịch đang được coi trọng và tập trung phát triển ở Việt Nam
nói chung và vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB nói riêng, phần lớn các địa phương trong
Vùng đều quan tâm đến các điều kiện để phát triển du lịch như nâng cao trình độ lao
động du lịch, thu hút đầu tư, xúc tiến, quảng bá, phát triển CSHT kinh tế xã hội đồng
bộ và hiện đại,… Đây là những nội dung khá phổ biến trong các chính sách phát triển
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB.
Hiện nay ở các KDLQG của Vùng đều đã ban hành và thực hiện các chính
sách phát triển du lịch nói chung. Tuy nhiên hiệu quả của các chính sách đó đối với
địa phương không đồng đều. Ví dụ như chính sách phát triển SPDL còn chưa thực sự
phát huy, các KDLQG như điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội), khu di tích
Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương), KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc),… SPDL còn khá
đơn điệu, chưa có tính đặc trưng và chưa thật hấp dẫn.
- Xây dựng phương án: Trên cơ sở xác định vấn đề trọng tâm cần ưu tiên trong
phát triển du lịch, các địa phương trong quá trình xây dựng chính sách sẽ giao nhiệm
vụ cho các CQQL trực tiếp về du lịch thực hiện. Trong số 9 KDLQG được quy hoạch
theo Quyết định số 2163/QĐ-TTg, theo điều tra của VNCPTDL, hiện nay mới chỉ có
5 KDLQG có BQL, đó là BQL khu kinh tế Vân Đồn, Ban quản lý KDL quốc gia Trà
Cổ, Ban quản lý khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Ban quản lý quần thể danh thắng
Tràng An và Ban quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (trực thuộc Bộ
VHTTDL), còn lại chưa có BQL du lịch (Bảng 3.1).
84
Bảng 3.1. Ban Quản lý tại các khu du lịch quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hông và Duyên hải Đông Bắc
Khu du lịch quốc gia
3 KDLQG Vân Đồn
KDLQG Trà Cổ
KDLQG Côn Sơn -
Kiếp Bạc
4 KDLQG Tràng An TT Loại mô hình BQL
1 BQL KDL trực thuộc
UBND cấp tỉnh
2
Ban Quản lý khu
du lịch trực thuộc Sở
Văn hóa, Thể thao,
Du lịch (Sở Du lịch)
5 Loại hình BQL khác
Chưa có BQL du lịch 6
7
8 Ban Quản lý
BQL khu kinh tế Vân Đồn
BQL KDLQG Trà Cổ
BQL khu di tích Côn Sơn -
Kiếp Bạc
BQL quần thể danh thắng
Tràng An
BQL Làng Văn hóa - Du
lịch các dân tộc Việt Nam
(thuộc Bộ VHTTDL)
9 KDLQG Làng Văn hóa -
Du lịch các dân tộc Việt
Nam
KDLQG Ba Vì - Suối Hai
KDLQG Tam Chúc
KDLQG Tam Đảo
KDLQG Hạ Long - Cát
Bà
(Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch )
Như vậy, có thể thấy mô hình quản lý các KDLQG thuộc Vùng hiện nay rất đa
dạng, nhưng chủ yếu là trực thuộc UBND cấp tỉnh như KDL Vân Đồn, KDL Trà Cổ.
Bên cạnh đó, có một số khu du lịch trực thuộc Sở VHTTDL/Sở Du lịch như khu du
lịch Tràng An, Côn Sơn - Kiếp Bạc; Ngoài ra, một số KDL lại có mô hình đặc biệt như
KDL Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam trực thuộc Bộ VHTTDL; KDL Hạ
Long – Cát Bà trực thuộc 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nhau…Và có một số KDL
còn chưa có ban quản lý du lịch riêng. Nhiều KDLQG chưa thành lập BQL chuyên
ngành riêng, hoạt động theo (một hoặc một vài) mô hình quản lý chung; công tác quản
lý được giao cho nhiều cấp khác nhau như UBND cấp tỉnh, cấp huyện, Sở chuyên
ngành (Sở Du lịch, Sở VHTTDL), BQL Vườn quốc gia, BQL di tích…
Mỗi mô hình đều có những thuận lợi và khó khăn riêng. Một số mô hình đã đi
vào hoạt động và mang lại hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động du lịch. Như
vậy, các chính sách phần lớn được xây dựng bởi các BQL là các cơ quan chức năng
có chuyên môn về du lịch nên chính sách bám khá sát với thực tiễn của KDL đó, phù
hợp với mục tiêu phát triển của KDLQG.
Tuy nhiên, theo đánh giá của DNDL, việc xác định và lựa chọn vấn đề trọng
tâm cần giải quyết trong phát triển du lịch địa phương chỉ đạt ở mức Trung bình. Nhiều
vấn đề quan trọng trong phát triển du lịch nói chung chưa thực sự gắn với thực trạng
phát triển du lịch địa phương. Ngoài ra việc xây dựng các phương án thường được cơ
quan QLNN về du lịch thực hiện, DNDL thường bị hạn chế trong tham gia, nên cũng
85
ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả triển khai chính sách của doanh nghiệp.
3.56
3.40
3.38
3.30
3.30
3.08
3.02
2.95
2.87
4.00
3.00
2.00
1.00
0.00
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.1. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về nội dung xác định, lựa chọn vấn đề và xây dựng phương án
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Trong đó:
(1) Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội);
(2) Điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội);
(3) KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc);
(4) KDL Tam Chúc (Hà Nam);
(5) Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương);
(6) Điểm du lịch Hạ Long – Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng);
(7) KDL Vân Đồn (Quảng Ninh);
(8) KDL Trà Cổ (Quảng Ninh);
(9) Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) .
Với nội dung này, các địa phương như Hà Nội, Hà Nam được đánh giá cao hơn,
cụ thể là KDLQG Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội), KDLQG
Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và KDLQG Tam Chúc (Hà Nam). Các địa phương, nội dung này
bị đánh giá tương đối thấp, là KDLQG Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội) và KDLQG Côn Sơn
– Kiếp Bạc (Hải Dương) với mức đánh giá chỉ ở khoảng Kém, cho thấy DNDL chưa hài
lòng nội dung này trong quy trình chính sách địa phương (Hình 3.1).
Lựa chọn phương án tối ưu: Trong quá trình lựa chọn phương án tối ưu, các
địa phương đã tổ chức mời đại diện một số doanh nghiệp lớn của địa phương tham
gia góp ý cho các dự án du lịch của địa phương, đặc biệt là ở thành phố và trung tâm
lớn như Hà Nội, Quảng Ninh và Ninh Bình, đây là cơ sở giúp các địa phương lựa
chọn phương án tối ưu phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra các địa phương còn rất chủ động trong việc trưng cầu ý kiến của các
đối tượng thụ hưởng chính sách của địa phương. Hiện nay công nghệ thông tin phát
triển, người dùng internet tăng cao, trong đó có cả các DNDL và người dân. Việc
86
đăng các văn bản quy phạm pháp luật, các Quy định, Nghị quyết, Quyết định,… lên
các website chính thống của UBND huyện/tỉnh hoặc các BQL sẽ giúp tăng sức lan
tỏa và tạo ra khả năng tiếp cận dễ dàng hơn cho các đối tượng có liên quan đến chính
sách. Do vậy, việc lấy ý kiến góp ý của các đối tượng có liên quan đến chính sách
cũng dễ dàng hơn. Qua quan sát của tác giả, trên website của một số tỉnh, bao gồm
website của UBND và website của BQL KDL (trừ KDL Vân Đồn không có website
du lịch riêng), có công khai toàn bộ nội dung câu hỏi thắc mắc của người dân và
doanh nghiệp cũng như giải đáp của các cấp chính quyền về các vấn đề chính sách
phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội nói chung và về lĩnh vực du lịch nói riêng. Đây
là cơ sở giúp địa phương có thể lựa chọn các vấn đề và phương án tối ưu phù hợp với
thực tế của địa phương.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các website này hiện nay là hình thức và thiết
kế chưa thực sự thu hút và lôi cuốn các đối tượng quan tâm tham gia góp ý xây dựng
chính sách nên khả năng tiếp cận chưa cao.
3.72
3.33
5.00
3.11
3.11
3.09
3.09
3.02
2.99
2.97
0.00
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.2. Đánh giá của DNDL về nội dung lựa chọn phương án tối ưu
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Vì thế, đánh giá về nội dung này, các doanh nghiệp chỉ đưa ra mức điểm
Trung bình khoảng, trên dưới 3,00 điểm, chỉ trừ có Làng Văn hóa – Du lịch các dân
tộc Việt Nam (Hà Nội) được các doanh nghiệp khá hài lòng khi đánh giá ở mức cao
nhất với 3,72 điểm (Hình 3.2).
Quyết định ban hành chính sách: Sau khi lựa chọn phương án tối ưu trên cơ sở
tham vấn các bên liên quan, các quyết định ban hành chính sách được đưa ra. Kết quả
phỏng vấn các chuyên gia là những người quản lý trong các BQL KDLQG của địa
phương cho thấy, việc ra quyết định ban hành chính sách được thực hiện bởi cơ quan
QLNN về du lịch của địa phương hoặc UBND tỉnh/thành phố, bằng cách thông báo
rộng rãi tới địa phương, đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương,
bằng hai hình thức chính: Một là thông qua văn bản gửi trực tiếp gửi tới cơ quan quản
lý hành chính của địa phương (như UBND thành phố, tỉnh, quận, huyện, thị xã) và
các cơ quan quản lý về du lịch tại địa phương, qua đó phổ biến tới các doanh nghiệp
87
và cộng đồng địa phương; Hai là thông qua các website của cơ quan quản lý hành
chính và cơ quan quản lý du lịch của địa phương. Việc ban hành các quyết định chính
sách một cách công khai và rộng rãi như vậy về cơ bản đã giúp các chính sách được
tiếp nhận kịp thời và thi hành hiệu quả.
Khảo sát tại doanh nghiệp cho thấy, nhìn chung các doanh nghiệp đều khá
hài lòng với nội dung này, trong đó đánh giá cao nhất của doanh nghiệp vẫn là tại
Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) và thấp nhất là tại Điểm
du lịch Hạ Long – Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng) (Hình 3.3).
3.37
3.29
3.25
3.50
3.22
3.18
3.15
3.11
3.10
3.07
3.00
2.50
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.3. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về quyết định ban hành chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
3.2.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách
Chính sách của TW và địa phương đều được tổ chức thực hiện tại địa phương.
Trong công tác tổ chức thực hiện chính sách, qua điều tra thực tế, mới chỉ có một số
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB đã thành lập cơ quan quản lý chuyên trách của KDL,
đó là các BQL có tên riêng và một số trực thuộc UBND các địa phương. Để quản lý
các KDL, trong các website của địa phương đã giới thiệu và quy định sự phối hợp
giữa các ban ngành QLNN về du lịch (Bộ VHTTDL, TCDL, Sở Du lịch/VHTTDL,
BQL du lịch) và UBND địa phương để triển khai nội dung chương trình, chính sách
phát triển du lịch, trong đó bao gồm chuẩn bị đủ nhân lực đảm nhiệm triển khai chính
sách, có dự kiến phân bổ nguồn tài chính hợp lý cho quá trình triển khai chính sách tại
địa phương; tổ chức chương trình hướng dẫn, quản lý hoạt động du lịch tại các địa
phương.
Theo kết quả phỏng vấn các chuyên gia là những người quản lý trong BQL
các KDLQG của địa phương cho thấy, công tác tổ chức thực hiện các chính sách TW
và chính sách địa phương bao gồm hai giai đoạn:
a. Giai đoạn chuẩn bị triển khai chính sách
Với các chính sách của TW và chính sách của địa phương, trong giai đoạn
chuẩn bị, nội dung công việc gồm có:
88
Thứ nhất, chỉ định cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách,
quy định sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN địa phương để thực hiện chính sách.
Với lĩnh vực du lịch, cơ quan chủ trì có nhiệm vụ chính trong triển khai chính sách
phát triển du lịch bao gồm các cơ quan QLNN về du lịch và chính quyền địa phương.
Như vậy, với các chính sách TW, cơ quan có nhiệm vụ triển khai chính sách chính là
Bộ VHTTDL, với trách nhiệm chính thuộc về TCDL, còn với chính sách địa phương,
cơ quan chủ trì sẽ là UBND của địa phương cùng với Sở Du lịch (hoặc Sở VHTTDL)
địa phương.
Thứ hai, xây dựng các chương trình hành động. Trên cơ sở chính sách đã được
xây dựng, nhiệm vụ tiếp theo là các cơ quan chủ trì sẽ xây dựng kế hoạch và chương
trình hành động cùng với thời gian triển khai thực hiện cũng như thời gian duy trì
chính sách. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời gian cần thiết cho việc
thực hiện mục tiêu; Để các chính sách có thể thực hiện được thì trong văn bản chính
sách phải xác định rõ nội dung của chính sách và thời gian thực hiện.
Chẳng hạn như trong Quyết định số 3147/QĐ-UBND tỉnh Hưng Yên về việc Phê
duyệt Đề án Tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016 –
2020, chương trình hành động được xác định rõ ràng thông qua Nội dung của đề án,
trong đó quy định rõ những nội dung công việc cụ thể cần phải thực hiện thông qua mục
tiêu và định hướng của chính sách, quy định về thời gian thực hiện từ năm 2016 đến năm
2020, năm 2016 khảo sát, xây dựng, ban hành Đề án, năm 2017 – 2020 xây dựng kế
hoạch thực hiện các nhiệm vụ tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch thuộc Đề án,…
Trong nội dung này, với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách, các doanh
nghiệp được phổ biến các nội dung chương trình và kế hoạch hành động để có thể huy
động sự tham gia của họ trong triển khai chính sách.
3.68
3.44
3.44
3.28
3.27
3.27
3.23
4
3.14
2.97
2
0
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.4. Đánh giá của DNDL về xây dựng chương trình hành động và phổ biến rộng rãi cho doanh nghiệp
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Đánh giá về nội dung này tại các KDLQG được quy thuộc vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB, thông qua kết quả điều tra xã hội học cho thấy, các doanh nghiệp kinh
89
doanh đều đánh giá khá cao công tác xây dựng chương trình kế hành động. Trong đó,
Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) mức đánh giá trung bình là
cao nhất, với 3,68 điểm, xấp xỉ mức Tốt (gần 4.00), Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc
(Hải Dương) có mức đánh giá trung bình là thấp nhất, với 2,97 điểm, trong mức Kém.
Các KDLQG còn lại có mức đánh giá ở mức khoảng điểm Trung bình (Hình 3.4).
Thứ ba, ra văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn các nội dung trong chính
sách phát triển du lịch quốc gia và địa phương để phổ biến và tăng khả năng tiếp cận
chính sách.
Ở cấp TW, Bộ VHTTDL sẽ là cơ quan chủ quản tổ chức tập huấn, chẳng hạn
như chương trình tập huấn, bồi dưỡng “Nâng cao năng lực lao động ngành Du lịch” tại
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên cho toàn thể các đồng chí học viên là Lãnh đạo các
Sở VHTTDL, lãnh đạo phòng chuyên môn du lịch, Trung tâm Xúc tiến Du lịch, Lãnh
đạo và giảng viên trường đào tạo du lịch trên cả nước, trong đó có các địa phương có
KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB. Nội dung cơ bản của chương trình tập
huấn, bồi dưỡng bao gồm: Tổng quan về tình hình du lịch: các văn bản, quy định tác
động đến sự phát triển của du lịch Việt Nam trong tình hình mới, tình hình phát triển
du lịch thế giới và khu vực; Công tác QLNN về lữ hành: Những nội dung sửa đổi
Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL, công tác đào tạo và quản lý hướng dẫn viên, phát
triển du lịch nông thôn, quản lý tour du lịch; chiến lược phát triển du lịch: nội dung
chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2035 tầm nhìn đến năm 2050, Tác
động của nghị quyết 33-NĐ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến
năm 2030, tầm nhìn 2045 đến sự phát triển của du lịch Việt Nam; các vấn đề liên quan
đến quy hoạch du lịch và xây dựng quy hoạch du lịch; công tác quảng bá xúc tiến du
lịch và Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch: đề án nâng cao hiệu quả xúc tiến du lịch, các vấn
đề đặt ra trong công tác tổ chức và tham gia Hội chợ du lịch quốc tế trong và ngoài
nước, việc triển khai có hiệu quả Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch tới hoạt động xúc tiến,
quảng bá du lịch; các nội dung liên quan đến phát triển đổi mới SPDL,.…
Ở cấp địa phương, các Sở Du lịch hoặc Sở VHTTDL địa phương sẽ là cơ quan
có trách nhiệm đứng ra tổ chức và phổ biến các nội dung liên quan đến chính sách phát
triển du lịch tại địa phương, ví dụ như ngày 12,13/7/2017, Sở Du lịch Ninh Bình phối
hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức lớp Bồi dưỡng nâng cao
kỹ năng giao tiếp ứng xử cho người dân, doanh nghiệp làm dịch vụ du lịch tại Khu du
lịch Sinh thái Tràng An (Hoa Lư) và Khu du lịch núi chùa Bái Đính (Gia Viễn) với đối
tượng được tập huấn là các doanh nghiệp, người dân đang trực tiếp làm dịch vụ du lịch
tại Khu du lịch Sinh thái Tràng An và Khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính và đại
90
diện các ngành, đoàn thể chính quyền địa phương, nội dung tập huấn bao gồm việc phổ
biến, hướng dẫn và triển khai Kế hoạch 789/KH - BVHTTDL ngày 2/3/2017 của Bộ
VHTTDL về triển khai thực hiện, áp dụng Bộ Quy tắc Ứng xử văn minh du lịch trên quy
mô cả nước,….
Đánh giá về nội dung này, thông qua kết quả điều tra xã hội học cho thấy, các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại các KDL được quy hoạch thành KDLQG đều
đánh giá khá tốt việc các cơ quan QLNN về du lịch ra các văn bản hướng dẫn và tổ chức
tập huấn cho các đối tượng liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch tại đây. Trong
đó, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) được đánh giá với mức điểm
cao nhất, xấp xỉ mức Tốt, các KDL còn lại có mức điểm dao động trong khoảng Trung
bình (từ 3.00 điểm đến gần 4.00 điểm). Cụ thể, đánh giá của doanh nghiệp như Hình 3.5.
3.94
3.28
3.28
3.23
3.15
3.15
3.14
3.06
3.03
4
3
2
1
0
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.5. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về việc ra văn bản hướng dẫn và tập huấn cho doanh nghiệp
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
b. Giai đoạn thực hiện chính sách
Các nội dung cụ thể trong thực hiện chính sách bao gồm:
Thứ nhất, thông tin tuyên truyền chính sách: Qua kết quả phỏng vấn các chuyên
gia là những người quản lý trong BQL các KDLQG của địa phương cho thấy, các địa
phương đã thực hiện tuyên truyền thông tin về chính sách bằng nhiều hình thức khác
nhau, như công khai trên các website của cơ quan QLNN về du lịch ở cấp TW và địa
phương, gửi văn bản thông báo đến các doanh nghiệp kinh doanh, tuyên truyền thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng (như tivi, phát thanh) về bảo vệ môi trường,
quảng bá SPDL địa phương,… Hoặc phát động các chương trình thi đua tìm hiểu và
khuyến khích thực hiện chính sách (như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về các chính sách
và quy định pháp luật về du lịch qua các hội thi nghề về du lịch,…). Đây là cơ hội để
các thành phần tham gia trong ngành Du lịch có điều kiện nghiên cứu kỹ và nắm rõ các
điều kiện và hoạt động kinh doanh trong ngành. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy, các
văn bản gửi doanh nghiệp chưa thực sự rõ ràng, đặc biệt là trong nhiệm vụ thực hiện,
các cuộc thi tìm hiểu chính sách không được tổ chức đồng đều cả về mặt không gian
91
và thời gian, công tác tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật du lịch còn chưa thực
sự hấp dẫn, chưa thu hút đông đảo sự tham gia, dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách
chưa đi vào cuộc sống, công tác triển khai còn chậm,…
Theo kết quả điều tra xã hội học với các DNDL cho thấy: Về công tác thông tin,
tuyên truyền chính sách, các doanh nghiệp đánh giá ở mức Trung bình, cụ thể: Làng
Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) được đánh giá ở mức cao nhất, trong
khi các KDL còn lại mức điểm đánh giá tương đối thấp, chỉ ở mức xấp xỉ 3,02 – 3,14
điểm (Hình 3.6).
3.04
3.02
3.02
3.04
3.13
3.08
3.14
3.14
(9)
(8)
(7)
(6)
(5)
(4)
(3)
(2)
(1)
3.67
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.6. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về nội dung thông tin, tuyên truyền chính sách đến các doanh nghiệp
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Thứ hai, tổ chức quỹ thực hiện chính sách: Ngoài ra, ở cả cấp TW và cấp địa
phương vùng ĐBSH&DHĐB cũng đã xác định và có yêu cầu phân bổ ngân quỹ thực
hiện chính sách như Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (đã ra đời từ cuối năm 2018 và có
điều lệ hoạt động) nhằm chi cho hoạt động xúc tiến du lịch, nghiên cứu thị trường,
phát triển SPDL, đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL du lịch và thực hiện các hoạt
động truyền thông trong cộng đồng,…Đây là những hoạt động nhằm cụ thể và hiện
thực hóa các nội dung của chính sách phát triển du lịch nói chung và chính sách phát
triển du lịch tại KDLQG nói riêng; Ở địa phương cũng xây dựng và xác định các quỹ
xúc tiến du lịch của địa phương (ví dụ như Hà Nội, công bố Quyết định số 150/QĐ-
TTXT về việc Công bố công khai dự toán ngân sách kinh phí Chương trình Xúc tiến
đầu tư, thương mại, du lịch Thành phố năm 2018…), quỹ thực thiện thực hiện chương
trình tập huấn - bồi dưỡng nâng cao chất lượng nhân lực du lịch địa phương,...; tuy
nhiên các quỹ còn hạn chế, chưa phổ biến rộng khắp đến các địa phương vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB, việc phân bổ quỹ thực hiện chính sách còn chưa thực sự rõ ràng.
92
Về công tác tổ chức quỹ thực hiện chính sách, mức điểm trung bình mà các doanh
nghiệp đánh giá về các KDLQG là khá thấp. Trong đó, có 4 KDL bị đánh giá ở mức
Kém, đó là Điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội), KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc),
KDL Vân Đồn (Quảng Ninh), còn lại chỉ ở mức đánh giá Trung bình, Làng Văn hóa –
Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) vẫn là KDL được các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch đánh giá cao hơn so với các khu còn lại (Hình 3.7).
3.06
(9)
3.08
2.92
(7)
3.04
3.14
(5)
3.05
(3)
2.96
2.96
3.32
(1)
2.7
2.8
2.9
3
3.1
3.2
3.3
3.4
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.7. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về tổ chức quỹ thực hiện chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Thứ ba, phân công phối hợp hoạt động với các ban, ngành của địa phương
trong triển khai chính sách, từ cấp TW đến cấp địa phương, trong các văn bản chính
sách đã quy định cụ thể trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bên liên quan trong triển
khai thực hiện các nội dung của từng chính sách cụ thể, chẳng hạn như các phân công
công việc cho các Sở Tài chính về các nhiệm vụ bố trí ngân sách cho hoạt động được
xác định trong chính sách, Sở Kế hoạch và Đầu tư bố trí ngân sách thực hiện, Sở Tài
nguyên và Môi trường thực hiện việc quy hoạch và quản ý đất đai, các tài nguyên
khác cho phát triển du lịch theo quyết định trong chính sách,…
Tùy thuộc từng chính sách cụ thể mà quy mô về nhân sự, tài chính sẽ có sự
khác nhau và sẽ được quy định rõ ràng trong nội dung của từng văn bản chính sách
(thường được quy định rõ ở Điều 2 - mục Tổ chức thực hiện - trong các Nghị quyết,
Quyết định,… của TW và địa phương).
Tuy nhiên, công tác chỉ đạo thực hiện chính sách cũng gặp một số khó khăn
như địa hình một số KDL phức tạp. Ví dụ như đầu năm 2019, tại khu di tích Tràng
An – Bái Đính, Sở Du lịch Ninh Bình ra thông báo công khai về việc trong vùng lõi
di sản thế giới Tràng An có 20 cơ sở tự ý xây dựng và kinh doanh nhà nghỉ, khách
sạn trái phép, vi phạm Quyết định số 230/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và yêu
cầu chính quyền huyện, xã có trách nhiệm xử phạt và tháo dỡ các công trình này. Hay
93
như năm 2017, công trình trái phép gồm 2.000 bậc thang dài 510 mét đã được xây
dựng trên núi Cái Hạ, nằm trong quần thể danh thắng Tràng An. Sau thời gian dài
mới phát hiện ra sai phạm, lúc đó, nhiều cơ quan đã vào cuộc, công trình đã bị buộc
tháo dỡ vào năm 2018. Liên quan sự việc, 62 tập thể, cá nhân gồm lãnh đạo địa
phương và các sở ngành đã bị UBND tỉnh Ninh Bình yêu cầu kiểm điểm, kỷ luật vì
buông lỏng quản lý,…
Qua đó có thể thấy, trong khâu phân công và phối hợp hoạt động, nhiều địa
phương chưa thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng cùng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chung trong chính sách phát triển các KDLQG. Chẳng hạn như hiện nay nhiều công
trình sai phép tại các khu vực được quy hoạch thành KDLQG (như trên đã đề cập tại
Tràng An, Cát Bà,…) vẫn cố tình xây dựng và hoạt động, UBND chưa kịp thời nắm
thông tin và các Sở VHTTDL chưa có biện pháp can thiệp hiệu quả.
Như vậy, với thực trạng hiện tại, trong thời gian tới, các cơ quan QLNN về du
lịch cấp TW và địa phương cùng các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ du lịch
phải có sự phối hợp tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch mới đem lại thành
công cho phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc địa phương.
3.2.2.3. Thực trạng kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
Trong việc thực hiện các nội dung kiểm tra, thanh tra, qua tham vấn ý kiến chuyên
gia và quan sát thực tiễn, tác giả nhận thấy, các địa phương có KDLQG được quy hoạch
theo Quyết định 2163/QĐ-TTg thuộc Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB đã thực hiện khá đầy
đủ việc kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện các nội dung của chính sách phát triển
KDLQG như: kiểm tra, giám sát việc khai thác TNDL và bảo vệ môi trường du lịch tại
địa phương nhằm đảm bảo phát triển du lịch bền vững; kiểm tra, thanh tra các dự án đầu
tư CSHT và CSVCKT du lịch,... Cụ thể như sau:
a. Về kiểm tra thực hiện chính sách
- Với các chính sách phát triển du lịch được triển khai trong phạm vi KDL có ý
nghĩa quốc gia, việc kiểm tra, thanh tra được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc. Khi
phát hiện ra sai phạm đã xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Cụ thể, tại Ninh Bình, công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
của Nhà nước và địa phương về phát triển du lịch cũng rất được coi trọng, đặc biệt là
tại khu danh thắng Tràng An nằm trong quy hoạch phát triển thành KDLQG. Ngành
du lịch Tỉnh đã phối hợp với các ngành chức năng, địa phương đẩy mạnh công tác
kiểm tra, thanh tra nhằm quản lý môi trường du lịch, đảm bảo xây dựng CSHT và
CSVCKT du lịch không làm ảnh hưởng tới cảnh quan của KDL, bảo tồn và phát huy
94
giá trị di sản Văn hóa, Thiên nhiên Thế giới Tràng An trong xây dựng và phát triển
SPDL,... Xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của di sản kép đầu tiên của Đông
Nam Á, rút kinh nghiệm từ những sai phạm trước đó, BQL thuộc Sở Du lịch luôn chủ
động phối hợp với chính quyền địa phương, các sở, ban, ngành có liên quan theo dõi,
nắm bắt tình hình việc đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; tổ chức tuần tra,
giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về trật tự xây dựng, kinh doanh
du lịch trong khu di sản; kịp thời phát hiện, lập biên bản các trường hợp sai phạm;
kiến nghị với cơ quan chức năng xử lý vi phạm theo thẩm quyền quy định.
Trong gần 7 tháng, đã lập biên bản đối với 9 trường hợp xây dựng nhà ở và xây
dựng cơ sở lưu trú không có giấy phép xây dựng; 14 trường hợp xây dựng trên đất không
được phép xây dựng; 2 trường hợp xây dựng không đúng giấy phép xây dựng được cấp;
3 trường hợp xây dựng quá chiều cao quy định. Ngành du lịch Tỉnh cũng tích cực phối
hợp với UBND các huyện, xã trong khu Di sản tiến hành rà soát, kiểm tra, xử lý về trật
tự xây dựng và kinh doanh lưu trú du lịch của các tổ chức, cá nhân trong phạm vi Quần
thể danh thắng Tràng An, tiến hành khảo sát thực địa, xác minh vị trí của các thửa đất
cho 37 hộ gia đình trước khi cấp phép xây dựng nhà ở và 23 hộ gia đình trước khi đăng
ký kinh doanh lưu trú hộ cá thể trên địa bàn Di sản, thoả thuận để UBND huyện Hoa Lư
cấp phép xây dựng theo thẩm quyền cho 21 trường hợp. Cũng trong thời gian này, Sở
Du lịch cũng đã gửi văn bản đề nghị UBND các huyện, thành phố và Công an tỉnh dừng
cấp phép và thu hồi một số ngành nghề trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy
chứng nhận đủ điều kiện an ninh, trật tự, an toàn về phòng cháy, chữa cháy đã cấp cho
các hộ kinh doanh Homestay trong vùng lõi Di sản. Đến nay, các đơn vị đã triển khai
thực hiện nghiêm túc,… Như vậy, công tác kiểm tra đã được tăng cường nhằm ngăn
chặn, xử lý kịp thời những vi phạm của cơ sở kinh doanh homestay trên địa bàn Tỉnh.
Tại Hà Nội, theo báo cáo của Sở Du lịch năm 2017 về kết quả thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành của doanh nghiệp với các chính sách phát triển du lịch
của thành phố Hà Nội thời gian qua, như chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi
trường du lịch, chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch, chính sách phát triển
SPDL, chính sách về nhân lực du lịch,… Qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành du lịch
Thành phố đã phát hiện, xử lý 12 tổ chức và 4 cá nhân vi phạm trong lĩnh vực du lịch
với tổng số tiền phạt vi phạm hành chính lên đến 170 triệu đồng, đã chấp hành xong việc
nộp phạt 162.500.000đ. Thu hồi 01 thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế, 5 quyết định
công nhận loại hạng cơ sở lưu trú du lịch. Xử lý 93 cơ sở lưu trú, 66 doanh nghiệp lữ
hành được nhắc nhở, yêu cầu hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp chất lượng dịch vụ; Năm
2018, qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, xử lý 36 công ty kinh doanh dịch vụ
95
lữ hành (3 công ty Thanh tra Sở Du lịch Hà Nội đã ban hành 02 Quyết định xử phạt đối
với từng công ty) và 24 cá nhân hoạt động hướng dẫn viên, với tổng số tiền vi phạm:
323.000.000 đồng; Trong 9 tháng đầu năm 2019, qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát
hiện, xử lý 33 công ty 225,5 triệu đồng và phạt 15 cá nhân 53,7 triệu đồng, với tổng số
tiền 279,2 triệu đồng. Đồng thời, ngành du lịch Hà Nội đã tham gia Đoàn thanh tra của
Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc chấp hành các quy định pháp luật
trong hoạt động kinh doanh du lịch tại một số đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội, đặc
biệt là tại các khu vực có KDLQG được quy hoạch theo Quyết định 2163/QĐ-TTg.
Trong triển khai chính sách, rất cần sự tôn trọng và tuân thủ đúng định hướng quy
hoạch du lịch của địa phương. Với các dự án quy hoạch du lịch, các địa phương trong
Vùng cũng thường xuyên kiểm tra, xem xét thực trạng quy hoạch, kịp thời bổ sung các
công trình, dự án cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo khai thác và phát triển
du lịch hiệu quả, bền vững.
Chẳng hạn như, ở Hải Phòng, UBND thành phố chỉ đạo Sở Du lịch chủ trì,
phối hợp các đơn vị liên quan rà soát nội dung bản Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch bền vững quần đảo Cát Bà đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 có từ năm
2014, theo đó vào cuối năm 2017, Sở Du lịch thành phố đề xuất thay đổi một số nội
dung về định hướng không gian du lịch, loại hình du lịch, hạ tầng giao thông Cát Bà.
Ở thị trấn Cát Bà, bổ sung loại hình du lịch tâm linh (công viên ngoạn cảnh, tượng
Phật, các không gian đình, chùa,…), điều chỉnh loại hình du lịch vui chơi giải trí từ
xe trượt địa hình sang tàu hỏa leo núi; Bổ sung định hướng về cấp độ (khách sạn 5-6
sao) đối với phân khu dịch vụ lưu trú trên biển tại đảo Cát Ông, đảo Khỉ theo nguyên
tắc bảo đảm hài hòa với cảnh quan thiên nhiên. Bổ sung các loại hình du lịch vào
không gian khu vực vịnh trung tâm Cát Bà gồm: bãi tắm công cộng phục vụ nhân
dân, phát triển khu ẩm thực, KDL nghỉ dưỡng, khách sạn, dịch vụ thương mại, nhà ở
phục vụ du lịch,… Tại khu vực Phù Long, bổ sung loại hình dịch vụ hỗ trợ. Bên cạnh
đó, điều chỉnh địa bàn đối với khu công viên nước, công viên vui chơi giải trí, khu
trình diễn đa phương tiện từ khu vực vịnh Lan Hạ và công viên đại dương từ khu vực
đảo Cát Ông về Khu đô thị Cái Giá. Việc điều chỉnh như vậy đã mang lại hướng phát
triển phù hợp hơn cho du lịch Cát Bà trong thời gian tới.
Kết quả điều tra xã hội học với các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh tại các
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cho thấy, tại đa số các địa phương, việc kiểm tra được
đánh giá là khá đảm bảo, trong đó đánh giá ở mức xấp xỉ Tốt là Làng Văn hóa – Du lịch
các dân tộc Việt Nam (Hà Nội), tuy nhiên KDL Tam Chúc (Hà Nam) chỉ được đánh giá
trên mức Kém (Hình 3.8).
96
3.83
3.17
3.33
3.31
3.33
3.18
3.19
3.19
5
3.07
0
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.8. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về công tác kiểm tra chấp hành chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
b. Về thanh tra thực hiện chính sách
Trong quá trình triển khai các chính sách phát triển du lịch tại địa phương, hoạt
động du lịch tại địa phương đã có sự cải tiến đáng kể. Tuy nhiên, nhìn chung sự quản
lý của cơ quan QLNN đôi khi chưa chặt chẽ, việc phát hiện ra sai phạm có thể bị chậm
trễ, làm ảnh hưởng rất lớn tới hình ảnh và thực trạng phát triển du lịch tại địa phương.
Vì vậy bên cạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách thì công tác
thanh tra cũng rất được coi trọng. Đoàn thanh tra có thể trực thuộc các Sở, ban ngành
về du lịch ở cấp TW và địa phương, cũng có thể là cơ quan độc lập được UBND địa
phương giao thực hiện công việc. Để làm được nhiệm vụ, Thanh tra có thể dựa vào bộ
máy chuyên môn của mình và quần chúng. Cơ quan Thanh tra có trách nhiệm xem xét
các đơn thư khiếu nại, tố cáo để tìm kiếm những biện pháp giải quyết thoả đáng theo
quy định, thường được thực hiện khi có đơn tố cáo, khiếu nại từ địa phương.
Cụ thể, tại Hà Nội, để tăng cường phối hợp công tác thanh tra, kiểm tra các
nội dung hoạt động trong triển khai chính sách du lịch, giải quyết kiến nghị, phản ánh
của khách du lịch, Sở Du lịch thành phố Hà Nội đã xây dựng kế hoạch phối hợp công
tác thanh tra, kiểm tra hoạt động Du lịch và giải quyết kiến nghị, phản ánh của khách
du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2020. Kế hoạch nhằm tổ chức kiểm tra,
hướng dẫn các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch thực
hiện đúng các quy định của pháp luật, các chỉ đạo của các Bộ, ngành và thành phố
Hà Nội, đảm bảo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017
của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Nghị quyết
số 06-NQ/TU ngày 26/6/2016 của Thành ủy Hà Nội về phát triển du lịch Thủ đô Hà
Nội giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo. Đây là cơ sở đảm bảo thành phố
Hà Nội nói chung và các KDLQG nói riêng của Thành phố phát triển du lịch theo
đúng định hướng, quan điểm của chính phủ cũng như của thành phố, thúc đẩy sự tăng
trưởng và đảm bảo mang lại hiệu quả cho ngành du lịch Hà Nội.
Tại Quảng Ninh, ban Thanh tra tỉnh Quảng Ninh cũng đã tổ chức nhiều cuộc
97
thanh, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm đúng quy trình; xử lý vi phạm chặt chẽ,
nghiêm minh đúng pháp luật. Đặc biệt, tăng cường thanh tra chính sách phát triển
SPDL thông qua các hoạt động của hướng dẫn viên du lịch các đoàn khách du lịch
Trung Quốc, Tây Âu, ASEAN... chủ yếu ở các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long
như động Thiên Cung, đảo Ti Tốp, Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu, Cửa khẩu
Quốc tế Móng Cái và các điểm mua sắm phục vụ khách du lịch tại TP Hạ Long, Móng
Cái. Qua đó đã phát hiện được nhiều hướng dẫn viên có hành vi vi phạm như tự ý
thay đổi chương trình, không có thẻ, sử dụng thẻ giả, thẻ hết hạn, không đeo thẻ,
không mang theo chương trình du lịch, không quản lý khách du lịch theo chương
trình mà doanh nghiệp lữ hành đã đăng ký. Bên cạnh tăng cường kiểm tra các hoạt
động lữ hành, lực lượng thanh tra Sở Du lịch tiến hành kiểm tra việc thực hiện chính
sách về tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch như Quy chế quản lý bãi tắm du lịch;
việc chấp hành các quy định của Nhà nước và pháp luật trong hoạt động kinh doanh
dịch vụ liên quan đến môi trường biển; thực hiện công tác đảm bảo an toàn cho khách
du lịch khi sử dụng dịch vụ tại các bãi tắm du lịch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời tăng
cường kiểm tra các điểm mua sắm đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, hoạt động
các cơ sở lưu trú, xử lý nhiều trường hợp vi phạm quy định pháp luật. Ngoài kiểm tra
các hoạt động du lịch, Thanh tra Du lịch còn thường trực đường dây nóng, theo dõi
tổng hợp các hoạt động cụ thể nhằm triển khai nội dung chính sách phát triển du lịch
trên địa bàn tỉnh,...
Đối với các doanh nghiệp, công tác thanh tra phát huy hiệu quả sẽ tạo ra môi
trường kinh doanh lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch mà doanh
nghiệp cung cấp cho du khách tới với các KDLQG. Đánh giá về nội dung này, đa phần
các doanh nghiệp đều bày tỏ sự khá hài lòng với công tác thanh tra đang được triển
khai tại địa phương, đặc biệt là qua các đường dây nóng. Đây là yếu tố góp phần không
nhỏ giúp giữ gìn hình ảnh, thương hiệu của điểm đến du lịch, tăng khả năng cạnh tranh
và thu hút khách du lịch đến với các KDLQG trong thời gian tới (Hình 3.9).
3.73
3.32
3.25
3.22
3.21
3.21
3.20
3.15
3.07
4.00
2.00
0.00
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.9. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch
về công tác thanh tra chấp hành chính sách (Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
98
Qua những phân tích trên cho thấy, về cơ bản các doanh nghiệp kinh doanh tại
đây khá hài lòng với công tác này. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả lâu dài, công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách cần được tiến hành thường xuyên hơn,
với nhiều cách thức tiếp cận và thực hiện, vừa đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động
đúng quy định của Nhà nước và địa phương, tránh gây lãng phí không cần thiết, vừa
tạo điều kiện phát triển bền vững du lịch tại địa phương có KDLQG vùng
ĐBSH&DHĐB.
3.2.2.4. Thực trạng đánh giá, điều chỉnh chính sách
Đánh giá và điều chỉnh chính sách là một nội dung quan trong trong quy trình
chính sách nhằm đảm bảo tính khả thi, hợp lý và phù hợp các các yếu tố biến động
của môi trường du lịch tại các địa phương. Nội dung đánh giá và điều chỉnh chính
sách bao gồm các vấn đề sau:
a. Về đánh giá chính sách: Các chính sách được ban hành nhằm mục tiêu định
hướng phát triển du lịch tại các địa phương có KDLQG. Trên cơ sở các chính sách
được ban hành và triển khai, các cơ quan chức năng (theo quyền hạn và trách nhiệm
của mình) đã tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách tại các địa
phương. Khách thể đánh giá là doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại địa phương có
KDLQG được quy hoạch.
Tiêu chí đánh giá chính sách bao gồm: Sự phù hơp đường lối của Đảng và Nhà
nước, sự đồng bộ, minh bạch, ổn định, có tính khoa học và khả thi, đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp và du khách, nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dân cư địa phương.
Sau khi thanh tra, kiểm tra việc triển khai và chấp hành chính sách, hàng năm,
UBND các địa phương có KDLQG tổ chức các cuộc họp, hội nghị tổng kết, đánh giá
tình hình phát triển du lịch trên cơ sở triển khai chính sách du lịch tại địa phương để
từ đó có những điều chỉnh, thay đổi sao cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống nhằm
đạt được mục tiêu đã đề ra trong phát triển du lịch địa phương ở từng giai đoạn cụ
thể. Vì hiện nay chưa có chính sách phát triển du lịch của riêng KDLQG nên thường
chính sách phát triển KDLQG là các chính sách phát triển du lịch tại địa phương có
KDLQG. Thông qua các buổi họp, hội nghị đó, các cấp, các ban, ngành, đoàn thể có
trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách báo cáo tình hình thực hiện công việc
mình phụ trách để từ đó có những căn cứ đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm
vụ và rút ra những kinh nghiệm, khắc phục thiếu sót, tồn tại trong việc thực hiện
chính sách ở những giai đoạn sau đó. Nội dung cuộc họp và các báo cáo tổng kết đều
được công khai trên các phương tiện truyền thông, cho phép các đối tượng có nhu
99
cầu đều có thể tiếp cận thông tin. Đây chính là cách thức đánh giá việc thực hiện
chính sách mà tất cả các địa phương, trong đó có địa phương có các KDLQG thuộc
vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, hiện nay đang áp dụng. Các báo cáo này sau đó đều
được công khai trên các website của địa phương để các đối tượng liên quan (ví dụ
như các doanh nghiệp kinh doanh du lịch,các tổ chức, cá nhân và khách du lịch,…)
có thể tìm hiểu và nắm được thông tin.
Đánh giá về nội dung này, tùy thuộc từng tiêu chí mà mức độ hài lòng của
doanh nghiệp kinh doanh du lịch được thể hiện khác nhau, có những tiêu chí ở địa
phương này được đánh giá khá Tốt, nhưng ở địa phương khác lại ở dưới mức Trung
bình. Về tổng thể, mức đánh giá của doanh nghiệp chỉ ở khoảng Trung bình, thể hiện
doanh nghiệp tạm Hài lòng khi đánh giá các chính sách được ban hành. Cụ thể:
- Về tiêu chí sự phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước, đa phần các DNDL
đánh giá khá Hài lòng với mức điểm trung bình khoảng 3,50 – 3,79, trong đó được đánh
giá với điểm cao nhất là Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) và điểm
thấp nhất là Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương) (Hình 3.10).
4
3.79
3.58
3.58
3.6
3.52
3.5
3.58
3.5
3.52
3.52
3
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.10. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về mức độ phù hợp của chính sách với đường lối của Đảng và Nhà nước
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
- Về tiêu chí sự đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và có tính kế thừa, đa phần
các DNDL đánh giá với mức điểm dao động từ mức Kém đến Trung bình, trong đó được
đánh giá với mức điểm cao nhất tại Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) và mức
điểm thấp nhất ở KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc) (Hình 3.11).
5
3.46
3.4
3.4
3.39
3.38
3.28
3.25
3.21
2.86
0
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.11. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch
về sự đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và có tính kế thừa của chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
- Về tiêu chí tính khoa học và khả thi, đa phần các DNDL khá Hài lòng với tiêu
100
chí này, trong đó được đánh giá với mức điểm cao nhất tại Làng Văn hóa – Du lịch các
dân tộc Việt Nam (Hà Nội) và mức điểm thấp nhất ở Quần thể danh thắng Tràng An
(Ninh Bình). Tuy nhiên, mức đánh giá chung không chênh lệch quá nhiều (Hình 3.12).
4
3
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.12. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch
về tính khoa học và khả thi của chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
- Về tiêu chí khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch của doanh nghiệp kinh doanh du
lịch và du khách tại KDLQG, các doanh nghiệp đánh giá khá thấp, trong đó được đánh
giá với mức điểm mức điểm thấp nhất ở KDL Tam Đảo (Vĩnh Phúc) với 2,92 điểm,
tiếp theo là Điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội) và Khu di tích Côn Sơn – Kiếp
Bạc (Hải Dương) với 2,99 điểm, đánh giá ở mức cao nhất tại Làng Văn hóa – Du lịch
các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) (Hình 3.13).
ĐVT: Mức điểm trung bình
3.68
3.39
3.39
3.38
3.37
3.33
2.99
2.99
2.92
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
Hình 3.13. Đánh giá của DNDL về khả năng đáp ứng nhu cầu của chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
- Về tiêu chí sự ủng hộ của dân cư, thể hiện thông qua sự chấp hành và chủ động
triển khai, thực hiện các nội dung của chính sách tại địa phương. Với tiêu chí này, các
doanh nghiệp đánh giá khá tốt với mức điểm bình quân từ 3.22 – 3.63. (Hình 3.14).
4
3.63
3.5
3.48
3.45
3.45
3.44
3.44
3.4
3.5
3.22
3
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.14. Đánh giá của DNDL về sự ủng hộ của dân cư chính sách (Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
101
Trong đó được đánh giá với mức điểm mức điểm thấp nhất ở Khu di tích Côn
Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương) với 3,22 điểm và đánh giá ở mức cao nhất tại Làng Văn
hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) với 3,63 điểm.
b. Về điều chỉnh chính sách
Trong quá trình thực hiện các nội dung điều chỉnh, qua quan sát thực tiễn của
tác giả và qua tham vấn ý kiến chuyên gia là những người quản lý trong BQL các
KDLQG của địa phương cho thấy, qua một thời gian ban hành chính sách, nhiều địa
phương đã quyết định điều chỉnh một số nội dung chính sách cho phù hợp với thực
tiễn, cụ thể như: đã và đang tiếp tục hoàn thiện dự thảo một số văn bản quy phạm
pháp luật, các hướng dẫn thi hành Luật du lịch, một số chính sách phát triển du lịch
như các quyết định điều chỉnh quy hoạch, các Nghị quyết phát triển du lịch phù hợp
với bối cảnh hiện tại trong nước và thế giới để đáp ứng yêu cầu phát triển các KDLQG
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương; thực hiện một số điều chỉnh
chính sách riêng của từng địa phương như điều chỉnh một số hỗ trợ đầu tư riêng của
địa phương, cụ thể là: hỗ trợ phát triển SPDL đặc thù phù hợp với địa phương, điều
chỉnh một số mức thuế ưu đãi riêng với đầu tư du lịch,... Sự điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình thực tế và theo định hướng chung của toàn ngành du lịch đã dẫn đến các
kết quả khả quan về khách du lịch đến và doanh thu của ngành du lịch tại các địa
phương vùng ĐBSH&DHĐB (Bảng 3.1 và Bảng 3.2). Có thể kể đến một số địa
phương như:
Tại Hạ Long, Quảng Ninh, vừa ban hành chính sách điều chỉnh quy hoạch
thành phố đến 2040, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
theo Quyết định số 702/QĐ-TTg ngày 7/6/2019, theo đó phát triển Hạ Long theo
hướng tăng trưởng xanh gắn liền với thành phố du lịch biển văn minh, thân thiện
mang tầm đẳng cấp quốc tế. Theo đà phát triển này, Hạ Long trong tương lai sẽ
không chỉ là khu vực phát triển đa cực với tiềm năng, lợi thế của các vùng khác
nhau, mà còn là một trung tâm du lịch đẳng cấp quốc tế, có sức hút mạnh mẽ đối
với du khách trong và ngoài nước.
Tại Ninh Bình, Tỉnh ủy Ninh Bình đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày
17/8/2016 trong đó xác định “Bảo vệ và phát huy hiệu quả, bền vững các giá trị của
Di sản là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đơn vị, doanh nghiệp và của nhân
dân trong tỉnh” nhằm bảo tồn, phát huy giá trị Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới
Quần thể danh thắng Tràng An, được quy hoạch thành KDLQG Tràng An, trong phát
triển du lịch giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, yêu cầu các đơn vị chức năng cần kiểm
tra, rà soát các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn di sản, từ đó kịp
102
thời điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với thực tế, phát triển các hoạt
động du lịch một cách bền vững, có trách nhiệm.
Tương tự, Tại Vĩnh Phúc, trong năm 2017 vừa qua, để đảm bảo quản lý xây
dựng, phát triển thị trấn Tam Đảo theo hướng đồng bộ, bền vững, UBND tỉnh đã chỉ
đạo các cấp, ngành, địa phương liên quan triển khai rà soát, điều chỉnh quy hoạch chi
tiết 1/500 KDL Tam Đảo (đã được phê duyệt từ năm 2014) theo hướng quy hoạch
tổng thể, đồng bộ toàn bộ thị trấn Tam Đảo. Theo đó, việc đầu tiên là xác định lại vai
trò, tính chất phát triển thị trấn Tam Đảo với đặc trưng là KDL trên núi cao, nằm ở vị
trí trung tâm của Vườn Quốc gia Tam Đảo, có lợi thế về cảnh quan, địa hình, khí hậu,
sinh thái. Nhu cầu du lịch sinh thái, du lịch Vườn Quốc gia Tam Đảo càng tăng, lượng
khách du lịch đến với thị trấn Tam Đảo càng tăng. Bên cạnh đó, cần xây dựng kế
hoạch điều chỉnh lại cơ cấu sử dụng đất đai, phân khu chức năng và hạ tầng dịch vụ
du lịch trên cơ sở rà soát và điều chỉnh lại các chỉ tiêu sử dụng đất đai, mật độ xây
dựng công trình cho phù hợp thực tiễn sử dụng đất đai; Khuyến khích gộp các lô đất
nhỏ lẻ liền kề hình thành các lô đất có diện tích lớn để xây dựng công trình có quy
mô lớn, đảm bảo tính thẩm mỹ, chất lượng dịch vụ cao; thu hồi và sắp xếp lại các quỹ
đất đã giao, cho thuê của các chủ đầu tư nhưng chậm triển khai thực hiện để tổ chức
đấu giá, lựa chọn được các nhà đầu tư thực sự có năng lực và nhu cầu đầu tư. Về quy
chế quản lý quy hoạch kiến trúc, UBND tỉnh đã giao Sở Xây dựng triển khai hoàn
chỉnh đồ án thiết kế đô thị thị trấn Tam Đảo và quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc
thị trấn Tam Đảo. Trong đó tăng cường quản lý chặt chẽ kiến trúc công trình từ màu
sắc, chiều cao, mật độ xây dựng, hình thức kiến trúc đến tiến độ xây dựng công trình;
có quy định rõ về thời gian thi công xây dựng công trình theo mùa, theo năm để đảm
bảo không ảnh hưởng đến phát triển du lịch; đối với các công trình không đảm bảo
chỉ tiêu sử dụng đất, yêu cầu các chủ đầu tư tự tháo dỡ phần hạng mục thi công sai
nội dung GPXD đã được cấp. Để quản lý đầu tư, xây dựng và phát triển thị trấn Tam
Đảo theo hướng đồng bộ, tạo sự đột phá về quy hoạch, trong thời gian tới, tỉnh cần
chủ trương triển khai nhiều giải pháp. Trong đó, tập trung chỉnh tổng thể quy hoạch
chi tiết 1/500 thị trấn Tam Đảo; tiếp tục rà soát đất đai, thu hồi các quỹ đất chậm triển
khai dự án; rà soát các quỹ đất trước đây đã giao cho các cơ quan TW quản lý, đến
nay chưa xây dựng công trình hoặc sử dụng không hiệu quả để thu hút đầu tư phát
triển du lịch. Đề xuất Đề án Phát triển du lịch bền vững thị trấn Tam Đảo gắn kết với
du lịch Vườn quốc gia Tam Đảo; đẩy nhanh tiến độ lập Quy hoạch tổng thể KDLQG
Tam Đảo và nghiên cứu mô hình quản lý KDLQG Tam Đảo khi có đủ điều kiện theo
quy định.
103
Như vậy, qua một số ví dụ có thể thấy, các địa phương có KDLQG đều quan
tâm tới việc điều chỉnh chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương
trong các giai đoạn khác nhau. Nó thể hiện sự nỗ lực của địa phương trong việc tìm
hướng đi để phát triển du lịch mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, không phải đối
với mọi địa phương, công tác điều chỉnh chính sách đều mang lại kết quả mong muốn.
3.81
3.63
3.63
3.60
3.55
3.52
3.48
3.43
4.00
3.31
3.00
(1)
(3)
(2)
(9)
(7)
(8)
(4)
(6)
ĐVT: Mức điểm trung bình
(5)
Hình 3.15. Đánh giá của doanh nghiệp du lịch về việc điều chỉnh chính sách
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Có nhiều lý do, trong đó có lý do từ phía doanh nghiệp, họ không nắm được các
thông tin về việc điều chỉnh các chính sách theo từng giai đoạn, dẫn tới đánh giá của
doanh nghiệp về nội dung này thường khá hài lòng, đặc biệt là tại Làng Văn hóa – Du
lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội) và KDL Tam Chúc (Hà Nam) (Hình 3.15).
3.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các chính sách phát triển khu du lịch
quốc gia thuộc vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến những chính sách phát triển du lịch
tại các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB được đánh giá ở các mức độ khác nhau. Có
những yếu tố tại địa phương này có tác động khá nhiều nhưng ngược lại, ở các địa
phương khác thì tác động lại rất khiêm tốn. Việc đánh giá tác động của các yếu tố ảnh
hưởng đến chính sách nên được nhìn nhận một cách tổng hợp để từ đó các cơ quan
QLNN cấp TW và địa phương có thể xây dựng và điều chỉnh chính sách phát triển
du lịch hợp lý.
Qua kết quả điều tra xã hội học với các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh
tại các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB cho thấy, ảnh hưởng của các yếu tố đến
chính sách phát triển KDLQG được tổng hợp như hình 3.16. Trong đó:
(a) An ninh chính trị và an toàn xã hội
(b) Trình độ nhận thức và năng lực của cơ quan QLNN
(c) Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các KDLQG
(d) Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có KDLQG
(đ) Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương có KDLQG
(e) Ngân sách địa phương chi cho phát triển KDLQG
(g) Sự phát triển của CSHT và CSVCKT du lịch tại địa phương có KDLQG
(h) Nhân lực du lịch của địa phương có KDLQG
104
(i) Nhận thức của dân cư địa phương có KDLQG
(k) TNDL tại địa phương có KDLQG
5.00
4.66
4.46
4.46
4.36 4.40 4.39
4.40
4.40
4.44
4.50
4.30
4.00
(a)
(b)
(c)
(d)
(đ)
(e)
(g)
(h)
(i)
(k)
ĐVT: Mức điểm trung bình
Hình 3.16. Đánh giá của DNDL về mức độ ảnh hưởng các yếu tố
đến chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB
(Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS)
Hình 3.16 cho thấy các doanh nghiệp đều cho rằng các yếu tố này ảnh hưởng
khá tích cực đến các chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc
Vùng. Trong đó, chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương được coi
là quan trong nhất vì các chính sách được đưa ra nhằm đạt mục tiêu phát triển du lịch,
như vậy, chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương sẽ là yếu tố xác
định các mục tiêu cần đạt được của chính sách, điều này làm cho các chính sách trở
nên rõ ràng, cụ thể và thiết thực hơn, qua đó việc triển khai chính sách phát triển
KDLQG cũng được thuận lợi và khả năng thành công khi áp dụng chính sách cũng
cao hơn. Ngoài ra, các yếu tố khác cũng được các doanh nghiệp nhìn nhận và đánh
giá ở các mức độ khác nhau, nhưng đều ảnh hưởng lớn đến chính sách phát triển du
lịch tại các KDLQG này. Cụ thể, sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến chính
sách phát triển KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB được chia thành hai nhóm chính
như sau:
3.3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố phạm vi vĩ mô quốc gia
Các yếu tố phạm vi vĩ mô chủ yếu tác động đến chính sách bao gồm:
- An ninh chính trị và an toàn xã hội: Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB là một
trong bảy vùng du lịch của Việt Nam, nơi có Thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa –
chính trị – xã hội của cả nước. Đây được coi là khu vực có mức độ đảm bảo an ninh
chính trị cao nhất khi tập trung các cơ quan hành chính cấp cao và quan trọng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhắc tới Việt Nam là nhắc tới quốc gia
có sự ổn định chính trị được xếp vào hạng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á nói
riêng và Châu Á nói chung. Chính vì thế, hoạt động du lịch tại đây luôn luôn đảm bảo
sự an toàn cho du khách trong và ngoài nước. Điều này có vai trò rất quan trọng trong
phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc Vùng nói
105
riêng, đây cũng được coi là yếu tố rất thuận lợi cho xây dựng, ban hành và triển khai
các chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng.
Bên cạnh đó, do là trung tâm đầu não về hành chính nên khu vực vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB luôn được kiểm soát và quản lý chặt chẽ về các vấn đề liên quan đến
an toàn xã hội như dịch bệnh, các tệ nạn xã hội,... Thành phố Hà Nội thuộc vùng du
lịch ĐBSH&DHĐB cũng là nơi đặt các cơ quan hàng đầu về an toàn xã hội như Bộ
Công an, Bộ Y tế,… Vì thế, các vấn đề liên quan trực tiếp tới an toàn xã hội của người
dân địa phương, cũng như của du khách luôn được quan tâm và đảm bảo ở mức cao
nhất. Đây cũng là yếu tố thuận lợi trong phát triển du lịch nói chung và phát triển các
KDLQG thuộc Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB nói riêng, góp phần không nhỏ vào
thành công của các chính sách phát triển KDLQG được ban hành trong Vùng.
- Trình độ nhận thức và năng lực của bộ máy QLNN đối với KDLQG: Vùng
du lịch là một tổ chức lãnh thổ được định hướng theo sự phát triển chuyên ngành vì
vậy cấp vùng không có bộ máy tổ chức quản lý riêng, vùng du lịch ĐBSH&DHĐB
cũng vậy. Đối với các KDLQG thuộc Vùng, bộ máy quản lý bao gồm các cấp TW tới
các địa phương đối với các KDLQG.
Thực tế quản lý phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB như sau: Quản lý sự
phát triển du lịch trên phạm vi toàn vùng thuộc nhiệm vụ Bộ VHTTDL, trực tiếp là
TCDL; Quản lý phát triển ngành du lịch từng địa phương cấp tỉnh thuộc UBND các
tỉnh, thành phố, cơ quan tham mưu là Sở VHTTDL; Quản lý phát triển du lịch cấp
huyện, thị thuộc UBND các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh cơ quan tham mưu là
phòng Văn hóa Thông tin huyện.
Ở cấp TW, từ năm 2007 đến nay, bộ máy QLNN về du lịch từ TW đến địa
phương đã có sự thay đổi theo cơ chế quản lý đa ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Cơ chế quản lý đa ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tạo điều kiện thuận lợi để
Du lịch phát triển đồng bộ với công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hóa và phát triển
thể dục, thể thao trên toàn vùng, thể hiện ở những mặt sau:
+ Phát huy hiệu quả việc quản lý khai thác các giá trị văn hóa, các sự kiện thể
thao trên địa bàn vùng cũng như trên cả nước phục vụ cho hoạt động du lịch, góp
phần tăng cường thu hút khách du lịch.
+ Quản lý phát triển du lịch góp phần phát huy các giá trị di sản văn hóa, các
thành tựu thể thao đặc biệt là thể thao thành tích cao trên trường quốc tế.
Nội dung QLNN về du lịch cấp vùng tại các KDLQG nằm trong khuôn khổ
QLNN thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và xây
106
dựng chính sách phát triển các KDLQG. Tuy nhiên, do không có bộ máy quản lý các
KDLQG cấp vùng nên hiệu quả của công tác QLNN đối với những nội dung trên chưa
cao. Quản lý các KDLQG hiện nay vẫn là chưa thống nhất (Bảng 3.1).
Từ bảng 3.1 có thể thấy, trừ 5 KDLQG có BQL riêng, các điểm còn lại đều
chưa có ban quản lý. Hoạt động của các BQL đã có cũng tương đối đơn giản, có các
Trưởng ban (hoặc Phó ban phụ trách), các Phó ban và các phòng ban chuyên môn,
nhiệm vụ chung là quản lý các hoạt động du lịch diễn ra tại đó. Với các điểm du lịch
chưa có BQL, UBND sẽ chịu trách nhiệm quản lý chung, đồng thời có trách nhiệm
chỉ đạo và phối hợp các Sở, Ban, ngành có liên quan trong quản lý và phát triển các
hoạt động du lịch ở đây. Riêng KDLQG Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh, Hải Phòng)
chưa có cơ quan quản lý chung, nên việc quản lý các hoạt động du lịch vẫn diễn ra
mang tính độc lập giữa 2 địa phương.
Ngoài sự không thống nhất trong bộ máy quản lý, hiện nay đội ngũ cán bộ QLNN
về du lịch tại các KDLQG còn đang thiếu và yếu. Trừ 5 KDLQG có Ban Quản lý riêng,
các điểm du lịch còn lại chưa có các cơ quan quản lý chuyên ngành trong công tác xúc
tiến đầu tư, tuyên truyền và quảng bá phát triển du lịch nên hoạt động quảng bá, hỗ trợ
thu hút đầu tư, xây dựng quy chế quản lý các khu, điểm du lịch còn yếu.
Như vậy, bộ máy QLNN về du lịch tại các địa phương có KDLQG vùng
ĐBSH&DHĐB chưa thống nhất, năng lực và trình độ bộ máy QLNN còn thiếu, ảnh
hưởng rất lớn tới việc xây dựng và triển khai các chính sách phát triển KDLQG tại đây.
- Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các KDLQG: Nhu cầu khách du lịch đến với
các địa phương có KDL được quy hoạch thành KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB đang
tăng so với trước, thể hiện thông qua số lượt khách tăng lên hàng năm, góp phần tạo
điều kiện thúc đẩy quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ở địa phương (Bảng
1 và Bảng 2 – Phụ lục 05). Quy mô và chủng loại khách du lịch gia tăng, thu nhập từ
du lịch của địa phương tăng lên, tạo điều kiện thúc đẩy sự đổi mới trong cách thức
QLNN về du lịch của Sở Du lịch, Sở VHTTDL của các địa phương trong quá trình
thực hiện các chính sách phát triển KDLQG tại địa phương. Tuy nhiên, so với một số
tỉnh khác trên cả nước thì quy mô khách du lịch đến các địa phương thuộc Vùng vẫn
còn thấp, đặc biệt là khách nước ngoài. Điều này làm ảnh hưởng đến tổng thu du lịch
của Vùng và cũng làm hạn chế đến ngân sách cần thiết để xây dựng, triển khai và hoàn
thiện các chính sách phát triển các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB.
Bên cạnh đó, các yếu tố ảnh hưởng như xu hướng toàn cầu hóa, xu thế chung
về phát triển du lịch quốc gia và trên thế giới, xu hướng về Cách mạng công nghiệp
107
4.0,… đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển du lịch của Việt Nam nói chung và
tại Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB nói riêng, trên cơ sở làm thay đổi các chính sách ưu
tiên, tác động đến quy trình chính sách và hiệu quả mong muốn từ triển khai thực hiện
chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng ĐBSH&DHĐB Việt Nam.
3.3.2. Ảnh hưởng của các yếu tố phạm vi địa phương cấp tỉnh
Với các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc vùng Du lịch
ĐBSH&DHĐB, các yếu tố thuộc phạm vi địa phương cấp tỉnh chủ yếu tác động đến
chính sách bao gồm:
- Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có KDLQG: Du lịch
có mối quan hệ mật thiết với thực trạng kinh tế - xã hội ở bất cứ quốc gia, địa phương
hay khu vực nào. Với các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, chính sách kinh tế
- xã hội có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách phát triển du
lịch tại đây.
Theo "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030", trong số các địa phương có KDL được quy hoạch thành
KDLQG của Vùng có hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và Hải Phòng. Thành phố
Hà Nội, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh tạo thành tam giác kinh tế phát triển
mạnh của Vùng và có sự lan tỏa, thu hút lớn đối với các địa phương lân cận. Điều này
góp phần không nhỏ, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động của vùng và
khu vực phía Bắc, thuận lợi và tạo điều kiện tối đa cho sự phát triển du lịch tại đây.
Vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB nói chung và các địa phương có KDL được quy
hoạch thành KDLQG nói riêng, cũng là nơi có đội ngũ trí thức đông đảo và đội ngũ
lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Đây là những yếu tố đang dần thu hút
các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư mạnh mẽ vào khu vực công nghiệp của
vùng, đặc biệt là các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhờ có các chính sách kinh
tế phù hợp, bộ mặt kinh tế - xã hội địa phương thay đổi theo hướng tích cực hơn,
CSHT không ngừng được nâng cấp và mở rộng, CSVCKT ngành Du lịch và các
ngành kinh tế khác được đầu tư xây dựng với quy mô và chất lượng ngày càng cao,
đáp ứng được nhu cầu của địa phương cũng như của khu vực, quốc gia và quốc tế.
Bên cạnh đó, thu nhập địa phương tăng lên, thúc đẩy nhu cầu trao đổi hàng hóa và
kích thích chi tiêu cho dịch vụ nói chung và du lịch nói riêng, đời sống không ngừng
được cải thiện đã, tăng dần mức độ tiện nghi cho các SPDL, đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu của du khách trong và ngoài vùng.
108
Về mặt xã hội, các chính sách của Nhà nước nhằm khôi phục nét sinh hoạt
truyền thống, đặc trưng của văn hóa nông nghiệp và văn hóa làng xã đang ngày càng
phổ biến và được áp dụng rộng rãi. Như vậy, một mặt xã hội đang phát triển theo xu
hướng đô thị hóa – công nghiệp hóa, mặt khác sự trở về với cội nguồn, với những giá
trị truyền thống với những nét sinh hoạt văn hóa xưa như tập tục, tín ngưỡng đang trở
nên một xu hướng mạnh mẽ. Đấy chính là những nét đặc sắc, hấp dẫn, là nguồn tài
nguyên có giá trị để phát triển du lịch.
Ngoài hệ thống cơ chế, chính sách chung về kinh tế xã hội, vùng Du lịch
ĐBSH&DHĐB còn được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển về nhiều mặt, trong
đó có du lịch, thể hiện qua việc ban hành và áp dụng hệ thống các cơ chế, chính sách
với các ngành kinh tế - xã hội có liên quan trực tiếp tới ngành Du lịch như các chính
sách về về ưu đãi đầu tư, về phát triển SPDL đặc thù, về phát triển NNL chất lượng
cao, phát triển khoa học và công nghệ cao, bảo tồn và phát huy giá trị các làng nghề,
làng Việt cổ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch và là một trong các yếu tố
nguồn lực để phát triển du lịch Vùng. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng quan trọng, tác
động đến sự thành công trong việc ban hành và triển khai các chính sách phát triển
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB.
- Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương có KDLQG: Phát
triển du lịch tại KDLQG nào cũng luôn cần có sự thống nhất với chủ trương, định
hướng phát triển du lịch của chính vùng và địa phương đó. Trên cơ sở đó, theo báo
cáo của Bộ VHTTDL, đối với các quy hoạch tổng thể phát triển du lịch quốc gia,
vùng và KDLQG, sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đều được Bộ
VHTTDL phối hợp với các địa phương tổ chức công bố rộng rãi. Các định hướng
phát triển du lịch của các quy hoạch này được các địa phương sử dụng là căn cứ để
xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các đề án phát triển du lịch cụ thể tại
địa phương, là căn cứ để tổ chức thu hút đầu tư phát triển du lịch tại địa phương và
tại các KDLQG của Vùng.
Để triển khai thực hiện các định hướng của quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
các vùng, Bộ VHTTDL đã giao cho TCDL xây dựng các đề án phát triển SPDL đặc
thù cho các vùng du lịch, trong đó ĐBSH&DHĐB gắn với di sản thiên nhiên thế giới
và nền văn minh sông Hồng. Cũng theo "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng
ĐBSH&DHĐB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030", mục tiêu quy hoạch đặt ra đến
năm 2020, cơ bản hình thành sự kiên kết giữa các địa phương phát triển du lịch vùng
một cách toàn diện, đồng bộ; xây dựng được SPDL đặc trưng của vùng nhằm hình
thành thương hiệu du lịch riêng của vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB.
109
Để phù hợp với định hướng chung của chiến lược và quy hoạch phát triển du
lịch vùng theo hướng bền vững, ngành Du lịch các địa phương trong Vùng đã đặt ra
các định hướng phát triển. Cụ thể, thành phố Hà Nội, dựa trên đặc điểm đặc thù của
Thủ đô Hà Nội là lợi thế về truyền thống văn hóa, lịch sử, trong chiến lược phát triển,
ngành Du lịch Hà Nội đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó SPDL của địa phương cần
phải xây dựng những sản phẩm đặc trưng, tạo thương hiệu riêng biệt của vùng, miền
như du lịch MICE, vui chơi giải trí và thương mại tổng hợp chất lượng cao. Trong
khi đó, Quảng Ninh, trong quá trình phát triển, đã luôn xác định việc khai thác các
giá trị tài nguyên thiên nhiên phải đi đôi với việc bảo tồn, tôn tạo các giá trị tự nhiên,
nhân văn, đảm bảo mục tiêu phát triển gắn với việc bảo vệ môi trường cảnh quan và
phát triển bền vững, với thế mạnh là du lịch biển bảo và văn hóa tâm linh, cùng với
vị trí tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tỉnh đã xây dựng 4 trung tâm du lịch chính, mỗi
trung tâm du lịch gắn với SPDL đặc trưng, đó là: Hạ Long (du lịch cảnh quan, văn
hoá và vui chơi giải trí); Móng Cái - Trà Cổ (du lịch biển kết hợp biên mậu); Vân
Đồn - Cô Tô (du lịch tâm linh, biển đảo, vui chơi giải trí); Uông Bí - Đông Triều -
Quảng Yên (du lịch tâm linh văn hoá)... Những định hướng, quan điểm phát triển du
lịch nói trên đã góp phần hình thành nên nét đặc thù riêng của vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB nói chung và của các địa phương có KDLQG nói riêng.
- Ngân sách địa phương chi cho phát triển du lịch tại KDLQG: Vùng Du lịch
ĐBSH&DHĐB có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
và an ninh quốc phòng đối cả nước, nên được Đảng và Chính phủ và các địa phương
vùng có KDLQG được quy hoạch, hết sức quan tâm đầu tư. Hầu hết các địa phương
trong Vùng đều xây dựng các Nghị quyết để phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các
cấp ngân sách; tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức
phân bổ chi ngân sách làm cơ sở cho việc xây dựng, triển khai và đánh giá các chính
sách phát triển du lịch nói riêng, cũng như phát triển du lịch nói chung tại các địa phương
có KDLQG, điều này có ý nghĩa tích cực đối với hoạt động kinh tế và du lịch tại các
KDLQG hiện nay. Chẳng hạn như thành phố Hà Nội ban hành Nghị quyết số
13/2016/NQ-HĐND, thành phố Quảng Ninh ban hành Nghị quyết số 136/NQ-HĐND,
thành phố Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 15/NQ-HĐND,…
- Sự phát triển của CSHT và CSVCKT du lịch tại địa phương có KDLQG: Về
CSHT, vùng ĐBSH&DHĐB có hệ thống giao thông tương đối phát triển và đồng bộ
với đầy đủ các loại hình giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường không.
Đây là điều kiện thuận lợi cho việc liên kết phát triển du lịch tại các KDLQG giữa
các địa phương trong Vùng cũng như với cả nước và quốc tế. Bên cạnh đó, với các
110
trung tâm kinh tế, chính trị lớn trong vùng như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,…
việc cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc tương đối đảm bảo.
Như vậy vùng du lịch ĐBSH&DHĐB hội tụ đầy đủ các đặc điểm về điều kiện
CSHT cần thiết để khai thác và phát triển hoạt động du lịch. Đây chính là những lợi
thế làm cho vùng du lịch ĐBSH&DHĐB trở thành một trong số những vùng du lịch
hàng đầu của Việt Nam, tạo ra nhiều thuận lợi cho việc xây dựng và triển khai các
chính sách phát triển KDLQG của Vùng.
Về CSVCKT du lịch, bao gồm cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và thể
thao tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, mặc dù đã
có nhưng chưa thực sự đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng, chưa đáp ứng
được tốt các nhu cầu của du khách và đảm bảo được sự phát triển du lịch hiệu quả
trong tương lai. Điều này cũng tạo nên nhiều khó khăn trong việc triển khai thành
công các chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng.
- Nhân lực du lịch của địa phương: Dân số tại các địa phương có KDLQG được
quy hoạch thuộc Vùng ĐBSH&DHĐB rất đông so với các vùng du lịch khác trên cả
nước. Đây là nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
cho phát triển du lịch nói riêng. Trình độ dân trí vùng khá cao, do đây là khu vực có
thế mạnh về phát triển nguồn nhân lực, với hàng trăm viện nghiên cứu chuyên ngành,
các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, tạo nên lợi thế đối với việc phát
triển các sản phẩm chủ lực trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp như: lúa gạo,
cây ăn quả, thủy sản, gia cầm; cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp hóa chất và chế
biến khoáng sản.
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực là rất cần
thiết. Căn cứ Quy hoạch phát triển NNL du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, dự báo nhu cầu NNL du lịch đến năm 2030 khoảng 8,5 triệu, trong đó khoảng
3 triệu là lao động trực tiếp. Nhu cầu này được phân bổ không đồng đều theo lãnh thổ
mà sẽ tập trung ở các trọng điểm du lịch như ở vùng ĐBSH&DHĐB.
Kết quả điều tra dân số cho thấy ở những trọng điểm du lịch gắn với các đô thị
lớn như thành phố Hà Nội, Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh,… tập trung dân số cao, các
tỉnh vùng sâu vùng xa, dân số ít và mật độ thấp. Sự phân bố này khá phù hợp với nhu
cầu NNL du lịch và đây là nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch thời gian qua.
Tuy nhiên, trừ Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh là 3 địa phương rất phát triển về du
lịch, các địa phương còn lại, sự phát triển du lịch còn rất hạn chế. Có nhiều nguyên
nhân nhưng trong đó không thể không kể đến nguyên nhân từ chất lượng NNL du lịch.
111
Việc lao động du lịch bị hạn chế về trình độ, kỹ năng, cơ cấu, đặc biệt là tại 8 địa
phương còn lại, là yếu tố cản trở rất lớn đến triển khai thực hiện chính sách phát triển
KDLQG tại đây, cũng như toàn Vùng ĐBSH&DHĐB.
- Nhận thức của dân cư địa phương tại các KDLQG: Trên phạm vi cả nước nói
chung và tại vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng, cộng đồng dân cư địa phương có vai trò
rất quan trọng trong việc thực thi và triển khai chính sách phát triển KDLQG. Thực
tế, vai trò này đã được phát huy khá tốt trong cả việc trực tiếp tham gia cung ứng dịch
vụ du lịch cộng đồng và trong một số loại hình du lịch bền vững, cũng như trong việc
tạo lập không gian để bảo vệ, duy trì, phát triển các giá trị TNDL truyền thống, đặc
sắc của địa phương và với tư cách là khách du lịch nội địa.
Vùng ĐBSH&DHĐB không có nhiều thế mạnh về du lịch cộng đồng nhưng
một vài điểm đến cũng đã xây dựng và bước đầu phát triển được SPDL cộng đồng
khá ấn tượng, điển hình như tại KDL làng quê Yên Đức, Đông Triều (Quảng Ninh),
làng chài Cửa Vạn (Quảng Ninh),... Để thực hiện được các chính sách phát triển du
lịch này, các địa phương đều phải dựa vào cộng đồng dân cư, những người có vai trò
quan trọng góp phần gìn giữ, phát triển không gian văn hóa truyền thống để tạo lập
được môi trường phát triển du lịch. Nhờ đó, các chính sách phát triển SPDL được
triển khai thành công và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng nhờ vào sự thân thiện, lòng hiếu khách,
sự tham gia cung ứng dịch vụ du lịch nhiệt tình của cộng đồng dân cư sở tại đã góp
phần phát triển du lịch bền vững, điển hình như bà con xã Ninh Hải tham gia chèo
thuyền phục vụ khách du lịch tham quan Tràng An (Ninh Bình), bà con làng cổ
Đường Lâm (Hà Nội) cung cấp dịch vụ thuyết minh viên tại các ngôi nhà cổ của họ,
cung cấp dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi và bán hàng truyền thống của làng (rượu, tương,
kẹo bánh,…).
Giai đoạn vừa qua, khách du lịch nội địa đến vùng ĐBSH&DHĐB không chỉ là
người dân của các vùng du lịch khác mà còn có du khách nội vùng. Tại vùng du lịch
này, nhiều SPDL của địa phương này có tính đặc thù, khác biệt so với địa phương khác,
là yếu tố hấp dẫn khách du lịch của các địa phương lân cận trong vùng.
Tóm lại, nhờ nhận thức và thiện chí của cộng đồng dân cư địa phương vùng
ĐBSH&DHĐB mà việc triển khai thực hiện các chính sách phát triển KDLQG khá
thuận lợi. Tuy nhiên, nếu việc đào tạo, huấn luyện và kiểm soát dịch vụ cung cấp của
người dân tốt hơn, sát sao hơn thì việc triển khai và thực hiện các chính sách phát
triển KDLQG thuận lợi hơn rất nhiều.
112
- Tài nguyên du lịch: Vùng ĐBSH&DHĐB là một khu vực trải dài từ Tây sang
Đông với các miền địa hình khác nhau. Vùng là nơi có lịch sử khai phá lâu đời, nôi của
nền văn minh lúa nước, tập trung nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống, làng
Việt cổ đặc trưng,… Chính nguồn TNDL tự nhiên và nhân văn phong phú là nhân tố
tích cực thực hiện chính sách thu hút đầu tư vào kinh doanh du lịch ở địa phương, quyết
định hiệu quả các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc vùng du lịch khi
được xây dựng, triển khai và cũng là cơ sở để hoàn thiện chính sách.
Như vậy, các chính sách phát triển KDLQG tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB
chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, ảnh hưởng khá lớn đến việc xây dựng và
triển khai, thực hiện các chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB.
3.4. Đánh giá chung về thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
3.4.1. Thành công và nguyên nhân
3.4.1.1. Thành công
Trong những năm vừa qua, việc thực hiện các chính sách phát triển các
KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã đạt được một số thành công sau:
* Về hệ thống chính sách phát triển KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB:
- Hệ thống các chính sách cho phát triển du lịch tại các địa phương có KDLQG
ngày một hoàn thiện, giúp cho các cấp quản lý và các chủ thể tham gia vào ngành yên
tâm phát triển.
- Các chính sách phát triển các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB đang
từng bước phát huy tác dụng, về cơ bản đạt được những mục tiêu đề ra của ngành và
các cấp quản lý. Dưới đây là một số chính sách tiêu biểu được đề cập đến:
Trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động do rủi ro từ môi trường
kinh doanh, cụ thể là do tình trạng dịch bệnh COVID-19 (xảy ra từ cuối năm 2019
đến nay), nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch rơi vào hoàn cảnh bế tắc và khó
khăn trong kinh doanh, các chính sách kích cầu cùng với gói kích cầu được Nhà nước
và cơ quản QLNN tại địa phương đưa ra đã khích lệ và tạo dựng niềm tin cho doanh
nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết khủng hoảng trước mắt, duy trì và tạo điều
kiện giúp doanh nghiệp kinh doanh du lịch vượt qua giai đoạn này.
Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch và chính sách xúc tiến, quảng
bá du lịch đang là chính sách được chú trọng triển khai và thực hiện. Các địa phương
có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã tổ chức các chương trình đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, nâng cao trình độ kỹ năng cho các nhân viên
113
trong ngành du lịch của địa phương. Năng lực đội ngũ nhân viên của ngành du lịch
được nâng lên kết hợp với chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đã tạo ra sức thu hút,
cạnh tranh với cả nước, các địa phương đã thu hút khách du lịch tham gia trực tiếp
vào các hoạt động sinh hoạt lễ hội, thăm quan thắng cảnh, văn hóa văn nghệ, ẩm thực
và đời sống sản xuất của cộng đồng dân cư, thể hiện thông qua số lượt khách tăng lên
không ngừng qua các năm như đã phân tích ở trên. Việc triển khai các chính sách đào
tạo và phát triển nhân lực đã kích thích các cán bộ nhân viên trong ngành du lịch tại
các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB chủ động nâng cao năng lực.
Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch của một số điểm du lịch trong
phạm vi các KDLQG được quy hoạch thuộc vùng ĐBSH&DHĐB được quan tâm,
kèm với chính sách kinh tế, chính sách xây dựng SPDL mới khá hợp lý đã hình thành
một số điểm, tuyến du lịch hấp dẫn. Trên cơ sở đó, trong thời gian vừa qua, các địa
phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã xây dựng được một số sản phẩm
mới, có sức hấp dẫn và đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Bên cạnh đó, chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch nhằm mở rộng quan
hệ hợp tác giữa các tỉnh có KDLQG với các địa phương lân cận và các điểm đến khác
trong khu vực Đông Nam Á cũng đã được chú trọng.
* Về quy trình chính sách: Về cơ bản, các chính sách được xây dựng và ban
hành theo đúng quy trình, tổ chức thực hiện chính sách khá hợp lý, có kiểm tra, thanh
tra, đánh giá và điều chỉnh chính sách theo tình hình thực tế, nhận được sự đồng thuận
nói chung của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư địa phương, thu được những
thành quả nhất định về phát triển du lịch tại địa phương có KDLQG.
3.4.1.2. Nguyên nhân của thành công
Có nhiều nguyên nhân về những thành công của chính sách. Qua nghiên cứu
và phân tích thực trạng chính sách phát triển các KDLQG thuộc Vùng du lịch
ĐBSH&DHĐB, có thể đưa ra một số nguyên nhân của thành công nổi trội sau:
Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chủ trương, định
hướng phát triển du lịch nói riêng của từng địa phương đã tạo điều kiện cho kinh
tế phát triển, trong đó có kinh tế du lịch. Trong quá trình triển khai các chính sách
phát triển KDLQG, các địa phương đã thực hiện phù hợp với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các địa phương thuộc Vùng đã có cơ chế, chính sách
huy động các nguồn lực, tăng cường đầu tư phát triển du lịch để phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hoặc kinh tế quan trọng của địa phương. Các
văn bản pháp luật về du lịch và các lĩnh vực liên quan đã từng bước được cải thiện,
114
tạo hành lang pháp lý cho các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh và quản lý du lịch tại các địa
phương được thuận lợi.
Trình độ nhận thức và năng lực của cơ quan quản lý tại địa phương thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB cũng là yếu tố góp phần không nhỏ trong sự thành công của chính
sách và quy trình chính sách phát triển KDLQG ở một mức độ nhất định. Sự thống
nhất về quan điểm trong công tác lãnh đạo trong từng địa phương thuộc Vùng, giữa
các Sở, ngành, sự ổn định về chính trị đã tạo đà cho các ngành kinh tế phát triển,
trong đó có du lịch. Nhờ đó, các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đã bao quát được một
số vấn đề cấp bách và thời sự của hoạt động du lịch, nhất là những tác động quan
trọng trong quá trình thực thi chính sách, tạo sự thay đổi kịp thời về mục tiêu, phương
pháp thực hiện chính sách, nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu về phát triển du lịch
tại các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB.
Nguồn TNDL đa dạng cùng với sự đảm bảo điều kiện cơ bản của CSHT và
CSVCKT du lịch đã tạo điều kiện kích thích nhu cầu du lịch tới các địa phương có
KDLQG thuộc Vùng. Đây là động lực không nhỏ thu hút sự quan tâm của các nhà
đầu tư du lịch, qua đó, thu hút sự quan tâm chú ý của doanh nghiệp, khách du lịch và
cộng đồng địa phương, qua đó đã góp phần quan trọng vào sự thành công trong phát
triển du lịch tại đây.
Nhận thức của dân cư địa phương và các đối tượng có liên quan cũng là nguyên
nhân tạo nên sự thành công của chính sách phát triển du lịch tại đây. Các địa phương có
KDLQG đã thực hiện cơ bản công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo giá
trị TNDL để phát triển du lịch, tuy nhiên, nó chỉ thực sự thành công và triển khai hiệu
quả chính sách khi có sự đóng góp của các đối tượng liên quan. Cụ thể, cộng đồng dân
cư hưởng ứng tham gia, khôi phục và phát huy một số loại hình văn hoá, nghệ thuật dân
gian, ngành nghề thủ công truyền thống, sản xuất hàng hoá của địa phương phục vụ
khách du lịch, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa
phương. Các doanh nhân ủng hộ các chính sách phát triển du lịch và có điều chỉnh hướng
kinh doanh hợp lý. Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB, các lãnh đạo địa phương đã hăng hái, chủ động và quyết tâm trong việc
hiện thực hóa các chính sách phát triển du lịch tại địa phương.
3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.4.2.1. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc
115
vùng ĐBSH&DHĐB có những hạn chế sau:
* Về hệ thống chính sách phát triển các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB: Trong
chính sách phát triển du lịch, các chính sách bộ phận còn nhiều bất cập như:
- Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch mặc dù đã được
thực hiện nhưng môi trường du lịch vẫn đang bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến cảnh
quan cũng như cảm nhận của du khách,...
- Chính sách tài chính đã đưa ra nhưng hoạt động giải ngân chậm khiến cho
đa số các dự án chậm tiến độ, một số dự án phát triển du lịch có ngân sách được cấp
không đủ để thực hiện;
- Chính sách kích cầu du lịch mặc dù có ý nghĩa quan trọng nhưng việc tiếp
cận của doanh nghiệp với các gói hỗ trợ còn hạn chế, thủ tục xin hỗ trợ còn chưa
nhanh gọn, ngoài ra các chương trình kích cầu của Chính phủ và địa phương đã được
triển khai nhưng do bản thân các doanh nghiệp kinh doanh vừa trải qua giai đoạn khó
khăn, vẫn chưa thể chủ động cung ứng các SPDL đồng bộ và chất lượng;
- Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch đã thực hiện, nhưng trình độ NNL
du lịch địa phương vẫn còn hạn chế, chưa đảm bảo tốt về chất lượng và số lượng;
- Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch mặc dù đã được quan tâm tuy
nhiên do mỗi một địa phương trong Vùng có đặc điểm về kinh tế và tài nguyên khác
nhau nên vẫn còn tồn tại tình trạng tại một số địa phương chưa thu hút được đầu tư
đúng mức để đảm bảo điều kiện phát triển du lịch nói chung và phát triển KDLQG
tại địa phương đó nói riêng.
- Chính sách phát triển SPDL được một số địa phương trong vùng triển khai
khá hiệu quả, tạo ra các SPDL mới, mang tính đặc thù và hấp dẫn. Tuy nhiên bên
cạnh đó vẫn có một số các địa phương khác chưa có sự sáng tạo, đổi mới trong kinh
doanh và phát triển SPDL, các SPDL đơn điệu là một trong những lý do làm cho
lượng khách đến không cao.
- Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đã ban hành nhưng chưa thực sự được
quan tâm, vì địa phương chưa đủ điều kiện thực hiện quảng bá du lịch theo hướng
chuyên nghiệp;
* Về quy trình chính sách: Đa số các chính sách trong quy trình triển khai thực
hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế như tuyên truyền, thực hiện chính sách còn chậm trễ,
quá trình triển khai kết hợp giữa lợi ích của người dân và Nhà nước chưa hợp lý nên
kết quả thực hiện thu được hơn dự kiến. Dưới đây là một số bất cập nổi bật của một số
chính sách trong quá trình triển khai chính sách phát triển du lịch của các địa phương.
116
- Trong xây dựng và ban hành chính sách, việc xây dựng và ban hành các chính
sách phát triển du lịch đặc thù dành riêng cho các KDLQG là chưa có, các chính sách
phát triển du lịch tại KDLQG hiện nay đều là các chính sách phát triển du lịch chung
của địa phương, làm cho các chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng chưa thể hiện
được tính đặc thù, ưu tiên và riêng biệt.
- Trong tổ chức và thực hiện chính sách, các chính sách khi triển khai còn
nhiều bất cập, cụ thể:
Trong chính sách xúc tiến du lịch, phối hợp hoạt động của các thành viên Ban
chỉ đạo các cấp của các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB trong việc quảng bá, giới
thiệu SPDL đặc thù của địa phương còn chưa đồng bộ; công tác tuyên truyền, quảng
bá bộc lộ nhiều hạn chế; việc sản xuất, xuất bản các ấn phẩm nhằm giới thiệu những
giá trị TNDL chưa phổ biến, chưa đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người dân và
du khách.
Trong chính sách phát triển SPDL, các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB chưa
có cơ chế riêng khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đầu tư phát triển sản phẩm
mới. Các sản phẩm phục vụ du khách chưa phong phú, khả năng cạnh tranh chưa cao,
chủ yếu tập trung ở việc khai thác các yếu tố tài nguyên có sẵn, mà thiếu các điểm
vui chơi giải trí hấp dẫn. Hoạt động lữ hành, đặc biệt là lữ hành quốc tế chưa hiệu
quả. Bên cạnh đó, mức độ hỗ trợ cho chính sách phát triển SPDL tại một số địa
phương vẫn được xem là yếu và thiếu. Cụ thể là hỗ trợ vật chất cho nghệ nhân truyền
dạy văn hóa dân gian còn quá thấp; thiếu chính sách hỗ trợ kết nối doanh nghiệp du
lịch với làng nghề trong việc sáng tạo, thiết kế và cung ứng các SPDL hiện có và sản
phẩm mới;…
Trong chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, các địa
phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB chưa thực sự tập trung quan tâm
chuyên sâu đến hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, kinh phí
thực hiện cũng rất thấp. Việc tổ chức triển khai và nghiên cứu chuyên sâu về các giá
trị TNDL đặc trưng của địa phương chưa được thực hiện hiệu quả.
Như vậy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhiều, nhưng những văn bản
hướng dẫn cụ thể thì không rõ ràng, chồng chéo, dẫn đến khi thực hiện chính sách phát
triển du lịch thì các cơ quan quản lý khó nắm được trách nhiệm của mình đến đâu, việc
thanh tra giám sát và quy trách nhiệm của các cấp còn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên
quan đến du lịch trong tổ chức thực hiện chính sách còn chưa tốt. Hợp tác giữa các
117
cơ quan QLNN còn khá yếu, nên việc thực thi chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất
là các cơ quan liên quan đến tổ chức tuyên truyền chính sách; chưa chú trọng đến phổ
biến nội dung chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch chưa đi
vào đời sống của người dân địa phương.
Trong triển khai các chính sách, sự hạn chế về ngân sách của một số địa phương
vùng ĐBSH&DHĐB dẫn tới sự thiếu hụt về kinh phí (như Hải Dương, Vĩnh Phúc,…),
nên việc triển khai các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch chưa hiệu quả.
- Trong nội dung kiểm tra, thanh tra chính sách: Việc giám sát và đảm bảo
thực hiện chính sách tại các địa phương còn gặp nhiều khó khăn, các dự án phát triển
du lịch đa số chưa triển khai được hoặc đang triển khai chậm, thậm chí là có hiện
tượng cố ý sai phạm. Sự xử lý, điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh hiện
tại của địa phương cũng chưa được chú trọng kịp thời, nhiều sai phạm không được
xử lý ngay và xử lý triệt để, gây tác động tiêu cực tới tài nguyên địa phương và ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế địa phương.
3.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Qua quan sát thực tế và từ kết quả nghiên cứu thực trạng chính sách phát triển
KDLQG thuộc Vùng, NCS nhận thấy nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trên
được thể hiện ở một số mặt sau:
Trình độ nhận thức và năng lực chuyên môn của các cấp, các ngành trong cơ
quan QLNN tại các địa phương có KDLQG vẫn còn nhiều hạn chế, chưa nhận thức
đầy đủ vai trò của KDLQG nên chưa có sự đầu tư, quan tâm thích đáng, đúng mức.
Nhiều KDLQG chưa thành lập BQL chuyên ngành riêng, hoạt động theo một (hoặc
một vài) mô hình quản lý chung; công tác quản lý được giao cho nhiều cấp khác nhau,
vì vậy còn gặp nhiều khó khăn, chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính chuyên
nghiệp, còn xung đột lợi ích giữa các cấp, các ngành; khó có thể đảm bảo tính chuyên
nghiệp, hiệu quả cao trong quản lý phát triển du lịch nếu giao nhiệm vụ này cho một
BQL khu kinh tế hay BQL quần thể danh thắng - vốn không phải là đơn vị chuyên
trách trong lĩnh vực du lịch.
Tình trạng vướng mắc, chồng chéo trong công tác quản lý còn diễn ra ở hầu
hết các KDLQG. Cụ thể: sự chồng chéo giữa quản lý hành chính với quản lý du lịch;
giữa quản lý ngành du lịch với các ngành khác, lĩnh vực khác như tài nguyên và môi
trường, kinh tế và du lịch, quản lý danh thắng,... Một số KDLQG nằm trên địa giới
hành chính của nhiều địa phương (Hải Phòng – Quảng Ninh), do vậy công tác quản
lý càng khó khăn hơn, phức tạp hơn, tạo nên xung đột lợi ích theo lãnh thổ hành
118
chính. Sự phân cấp quản lý thiếu rõ ràng giữa các cấp, các ngành, các địa phương, và
các cơ quan, tổ chức quản lý khiến cho công tác quản lý thiếu hiệu quả, không phát
huy được hết vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các BQL du lịch hiện nay.
Một số BQL tại các KDLQG đã được thành lập nhưng quy định về cơ cấu tổ
chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động… đối với lĩnh vực
du lịch thiếu rõ ràng, cụ thể. Bên cạnh đó, có những BQL mà chức năng, nhiệm vụ
còn xen lẫn với các nhiệm vụ quản lý thuộc lĩnh vực khác, thuộc ngành khác (BQL
Quần thể danh thắng Tràng An, trên thực tế trực thuộc Sở Du lịch Ninh Bình, nhưng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn lại chủ yếu thuộc lĩnh vực quản lý di sản do Sở Văn
hóa và Thể thao quản lý).
Một số BQL KDLQG được thành lập, nhưng cơ cấu tổ chức bộ máy nhân sự
đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, không có nhân sự chuyên trách…, nên công
tác quản lý không hiệu quả.
Một số địa phương chưa xác định được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể của Ban Quản lý KDLQG: Là cơ quan quản lý hành chính nhà nước; là đơn vị sự
nghiệp công lập; hay là đơn vị sự nghiệp có thu… Vấn đề này, ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu lực quản lý KDLQG.
Một số BQL KDLQG thực hiện hình thức hợp tác công - tư nhưng việc phân
cấp, phân quyền, chức năng, nhiệm vụ, hoạt động giữa “công” và “tư”, chia sẻ lợi
ích… còn nhiều bất cập (ví dụ, tại KDLQG Tràng An có sự hợp tác giữa BQL Quần
thể danh thắng Tràng An và Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, nhưng BQL chủ
yếu thực hiện chức năng quản lý di sản, còn Doanh nghiệp Xuân Trường trực tiếp tổ
các hoạt động du lịch..., nên quản lý về chuyên môn nghiệp vụ du lịch, về bảo vệ môi
trường, về an ninh trật tự… còn nhiều bất cập).
Điều này dẫn tới hệ quả là các chủ trương, quy định về tổ chức hành chính; về
thuyên giảm biên chế hiện nay có những ảnh hưởng nhất định đến việc thành lập BQL
KDLQG ở nhiều địa phương và ban hành các chính sách ưu tiên, đặc thù để phát triển
du lịch tại các KDLQG .
Bên cạnh đó, đa phần trong các vị trí chủ chốt của các phòng ban nghiệp vụ,
cấp quản lý còn chưa chuyên sâu về KDLQG (vì các KDL này mới được xác định để
quy hoạch, chưa xây dựng bản quy hoạch chi tiết, trừ KDLQG Trà Cổ và KDL Tam
Chúc – Hà Nam), thường chỉ ở cấp quản lý TNDL nói chung. Trung tâm thông tin
xúc tiến du lịch các tỉnh chưa chú trọng đến công tác xúc tiến, quảng bá cho các
KDLQG của địa phương.
119
Nhận thức của dân cư địa phương tại KDLQG cũng là nguyên nhân ảnh hưởng
đến quá trình triển khai chính sách tại địa phương. Hiện nay, công tác tuyên truyền
chính sách tới người dân địa phương còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện đồng bộ, thiếu
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như đài phát thanh địa phương, phòng thông tin
của các huyện, đài truyền hình,...; chưa tuyên truyền mở rộng về quy hoạch du lịch,
những mục tiêu, những kết quả của ngành Du lịch đạt được và những định hướng
hiện tại của ngành du lịch tại địa phương,...; chưa chủ động thông báo trước tới các
chủ thể bị tác động và tuyên truyền tới người dân trong quá trình thực hiện chính sách
để tránh được một số những khó khăn mà các cấp các ngành gặp phải.
Tỷ lệ, số lượng nguồn ngân sách địa phương chi cho phát triển du lịch nói
chung, và phát triển KDLQG nói riêng, còn rất nhỏ bé so với nhu cầu, nên mức độ
tập trung thực hiện chính sách phát triển KDLQG không cao. Nhiều dự án du lịch chỉ
hoạt động cầm chừng, chậm tiến độ và bị dừng lại. Do đó, việc thực hiện chính sách
chưa đem lại hiệu quả cao cho kinh tế của các địa phương.
Nhân lực du lịch của địa phương tuy nhiều nhưng tại các KDLQG còn thiếu
và rất yếu, đa phần chỉ tạm đạt yêu cầu về số lượng nhưng chưa đảm bảo về chất
lượng. Do cơ chế, chính sách đào tạo phát triển chất lượng NNL du lịch chưa hợp lý
và cũng do đặc thù các địa phương có KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB,
trừ Hà Nội, Quảng Ninh, Ninh Bình là các địa phương khá phát triển du lịch, còn lại
đa phần các địa phương còn lại chưa thực sự phát triển nên cũng gây cản trở cho phát
triển chất lượng NNL du lịch tại địa phương nói riêng và của vùng ĐBSH&DHĐB
nói chung.
Ngoài ra, các điều kiện môi trường biến động như thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt
là dịch COVID-19 vừa qua đã làm suy giảm nghiêm trọng ngành du lịch, trong đó có
các địa phương Vùng ĐBSH&DHĐB, từ đó gây cản trở công tác thực hiện quy trình
chính sách phát triển các KDLQG thuộc Vùng.
120
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA
THUỘC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC
4.1. Bối cảnh, mục tiêu và phương hướng phát triển du lịch vùng Du lịch Đồng
bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
4.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch hiện nay
Bối cảnh du lịch luôn có sự biến động trong các giai đoạn khác nhau, tùy thuộc
vào thực trạng vấn đề mà nó phải đối mặt. Hiện nay, du lịch trong nước và quốc tế
đang phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, đòi hỏi phải có cách tiếp cận
liên ngành, liên vùng, nhằm nâng cao trải nghiệm du lịch, tích hợp công nghệ mới và
ban hành các giao thức toàn cầu về sức khỏe và an toàn để xây dựng lại niềm tin của
khách du lịch, kích thích ngành du lịch phát triển.
Như vậy, về cơ bản, bối cảnh du lịch trong nước và quốc tế được khái quát
qua bốn vấn đề chính như sau:
- Sự biến đổi trong cầu du lịch
Sở thích và hành vi của khách du lịch đã thay đổi theo hướng quen thuộc, dễ
đoán và đáng tin cậy. Các kỳ nghỉ trong nước và trong vùng, cùng với các hoạt động
ngoài trời sẽ trở thành sự lựa chọn chủ yếu của du khách trong ngắn hạn, kèm với đó
là sự thích nghi của các doanh nghiệp du lịch và các điểm đến du lịch. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý đến sự phục hồi quan trọng của du lịch quốc tế, khi du khách muốn
trải nghiệm những chuyến đi ở phạm vi xa hơn. Thông tin liên lạc minh bạch sẽ càng
trở nên cần thiết hơn đối với khách du lịch có nhu cầu. Mặc dù chu kỳ của những thay
đổi này vẫn chưa xác định rõ ràng, nhưng đây cũng là gợi ý để phát triển các mô hình
kinh doanh đang thịnh hành và đồng sáng tạo với các cộng đồng địa phương để phát
triển các sản phẩm du lịch sáng tạo và bền vững, phù hợp với mong đợi về sự trải
nghiệm của du khách.
- Sức khỏe và sự an toàn được chú trọng nhiều hơn
Sức khỏe và sự an toàn là điều tối quan trọng trong thời đại mới này. Kinh
nghiệm cá nhân, lời khuyên từ các chuyên gia và mối quan tâm về sự giãn cách sẽ
định hướng hành vi của người tiêu dùng trong ngắn hạn đến trung hạn. Các doanh
nghiệp sẽ phải cộng tác chặt chẽ hơn nữa với thành phần trong chuỗi giá trị mở rộng
của mình để đảm bảo khả năng triển khai các giao thức có chủ đề, chẳng hạn như
giao thức Du lịch An toàn trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hiện nay. Trong bối
121
cảnh này, sự tin tưởng trên cơ sở sự tương tác giao tiếp rộng rãi và luồng thông tin
chính xác giữa khách du lịch với nhân viên, với doanh nghiệp và nhà cung cấp, giữa
du khách với cộng đồng địa phương sẽ là điều kiện cơ bản để du khách lựa chọn điểm
đến du lịch, cũng như tham gia các loại hình du lịch tại điểm đến.
- Đổi mới và số hóa là yêu cầu cấp thiết
Bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp như thời gian vừa qua đã
tạo điều kiện để tích hợp công nghệ mới của ngành du lịch một cách mạnh mẽ hơn.
Sự bùng nổ mạnh mẽ của xu hướng thương mại điện tử toàn cầu với sự ra tăng không
ngừng của các đơn đặt hàng tại nhà, đã dẫn tới việc áp dụng và tiêu dùng kỹ thuật số
ngày một gia tăng. Trong lĩnh vực du lịch, du khách mong đợi nhiều hơn vào các
công nghệ không tiếp xúc, bao gồm cả sinh trắc học, để có được những trải nghiệm
du lịch an toàn và liền mạch hơn.
An ninh mạng cũng trở thành vấn đề quan trọng, đặc biệt khi làm việc từ xa
trở thành tiêu chuẩn trong ngắn hạn đến trung hạn và khi danh tính được số hóa. Mặc
dù số hóa mang lại những cơ hội to lớn, nhưng cần có các biện pháp phòng ngừa để
đảm bảo nhân viên và cộng đồng địa phương không gặp bất kì rủi ro nào.
Một điều đáng lưu ý là sự tăng tốc của chương trình thảo luận, hội thảo, hội
nghị kỹ thuật số sẽ tạo điều kiện phát triển du lịch một cách thuận lợi và nhanh chóng
nhất, mang lại nhiều lợi ích to lớn cho ngành du lịch.
- Sự bền vững trong phát triển du lịch vẫn là mục tiêu hướng tới của ngành
Từ tình trạng thất nghiệp lan rộng và các phong trào chống phân biệt chủng
tộc đến việc khôi phục môi trường sống tự nhiên và tác động đến hệ sinh thái, thế
giới đã được tiếp thêm sinh lực để giải quyết vấn đề bền vững về xã hội, môi trường
và thể chế. Đặc biệt, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về môi trường và hệ
động vật hoang dã và nạn săn trộm đã thúc đẩy việc vận động bảo vệ động vật hoang
dã cũng như bảo tồn đại dương. Các doanh nghiệp bắt buộc phải thay đổi sản phẩm
du lịch và cách thức vận hành doanh nghiệp của mình, đảm bảo thân thiện với môi
trường hơn. Với sự tham gia sâu và rộng hơn của các các đối tượng đặc biệt như phụ
nữ, người dân tộc thiểu số và trẻ em (so với các lĩnh vực khác), ngành du lịch cần có
các chính sách và chiến lược để bảo vệ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhưng
vẫn đồng thời đảm bảo giảm nghèo và bất bình đẳng trong xã hội. Đây là cơ sở và
chìa khóa đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành du lịch.
Các vấn đề khái quát trên đã tạo ra những cơ hội và thách thức mà ngành du
lịch tại các quốc gia nói chung và ngành du lịch tại các địa phương có KDLQG thuộc
122
Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB nói riêng, phải đối mặt hiện nay. Trên cơ sở bối cảnh
đó, cần nhận thức bối cảnh, chuẩn bị sẵn kịch bản, xây dựng các chiến lược và giải
pháp phù hợp để thúc đẩy sự phát triển du lịch ổn định, hiệu quả và bền vững.
4.1.2. Mục tiêu phát triển du lịch vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Mục tiêu chung: Mục tiêu cơ bản được xác định là hình thành được sự liên kết
giữa các địa phương phát triển du lịch Vùng một cách toàn diện, đồng bộ; xây dựng
được SPDL đặc trưng của Vùng nhằm hình thành thương hiệu du lịch riêng của vùng
ĐBSH&DHĐB; Phấn đấu đến năm 2030, vùng ĐBSH&DHĐB trở thành địa bàn thu
hút và phân phối khách du lịch hàng đầu của cả nước.
Mục tiêu cụ thể: Các mục tiêu cụ thể được xác định như sau:
- Về tổ chức lãnh thổ: Phát triển du lịch theo 3 tiểu vùng với những sản phẩm
đặc trưng theo từng tiểu vùng, 9 KDLQG, 8 điểm du lịch quốc gia, 2 đô thị du lịch
và một số khu, điểm du lịch địa phương làm hạt nhân liên kết toàn Vùng.
- Về các chỉ tiêu phát triển ngành: Mục tiêu phát triển du lịch vùng
ĐBSH&DHĐB được xác định thông qua các chỉ tiêu về khách du lịch, tổng thu từ
khách du lịch, đóng góp của du lịch trong GRDP, hệ thống cơ sở lưu trú và chỉ tiêu
về việc làm đến năm 2030.
36
40
30.9
30
20
10.59
8.91
10
0
2025
2030
Khách quốc tế
Khách nội địa
ĐVT: triệu lượt
Hình 4.1. Mục tiêu về khách du lịch của vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2030
(Nguồn: Quyết định số 2163/QĐ-TTg)
+ Về khách du lịch: Năm 2025 đón 8,91 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 30,9
triệu lượt khách du lịch nội địa; tăng trưởng khách du lịch quốc tế 4,6%/năm và khách
du lịch nội địa 3,2%/năm. Năm 2030 đón 10,59 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 36
triệu lượt khách du lịch nội địa; tăng trưởng khách du lịch quốc tế 3,2%/năm và khách
du lịch nội địa 3,1%/năm (Hình 4.1).
+ Về tổng thu từ khách du lịch và đóng góp của du lịch trong GRDP: Về tổng
thu: năm 2025 đạt 169.330 tỷ đồng; năm 2030 đạt 217.300 tỷ đồng. Đóng góp của du
123
lịch trong GRDP: đạt 118.500 tỷ đồng năm 2025 và đạt 152.100 tỷ đồng năm 2030
(xem hình 4.2).
250.000
217.300
200.000
169.330
152.100
150.000
118.500
100.000
50.000
0.000
2025
2030
Tổng thu từ khách du lịch
Đóng góp của du lịch trong GDP
ĐVT: tỷ đồng
Hình 4.2. Mục tiêu về tổng thu từ khách du lịch và đóng góp của du lịch trong GRDP của vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2030
(Nguồn: Quyết định số 2163/QĐ-TTg)
+ Về CSLTDL: Năm 2025 có 201.000 buồng khách sạn, tỷ lệ buồng 3 - 5 sao
đạt 20%; năm 2030 có 233.000 buồng khách sạn, tỷ lệ buồng 3 - 5 sao đạt 30%.
+ Về chỉ tiêu việc làm: Năm 2025 là 998.000 lao động (trong đó 298.000 lao động
trực tiếp); năm 2030 là 1.330.000 lao động (trong đó 392.000 lao động trực tiếp).
4.1.3. Phương hướng phát triển du lịch vùng Du lịch Đồng bằng Sông Hồng và
Duyên hải Đông Bắc
4.1.3.1. Phương hướng phát triển du lịch chung toàn vùng Du lịch Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Phương hướng phát triển du lịch chung của toàn vùng ĐBSH&DHĐB đã được
xác định trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng Sông Hồng
và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” theo Quyết định số
2163/QĐ-TTg/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 nă, 2013, cụ thể:
Về thị trường khách du lịch: đẩy mạnh phát triển thị trường khách du lịch trong
và ngoài nước. Trong đó:
- Đối với thị trường khách du lịch nội địa: Phát triển mạnh thị trường khách du
lịch nội vùng và các vùng phụ cận, chú trọng hướng tới đối tượng khách có mục đích
nghỉ dưỡng, giải trí, nghỉ cuối tuần, lễ hội, tâm linh, mua sắm; Khuyến khích phát
triển, mở rộng thị trường khách du lịch chuyên biệt và du lịch kết hợp công vụ.
- Đối với thị trường khách du lịch quốc tế: Thu hút và phát triển mạnh các
thị trường khách quốc tế gần như: Đông Bắc Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan) và ASEAN; Duy trì khai thác thị trường khách truyền thống cao cấp như:
124
Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và Đông Âu; Mở rộng thị trường khách mới: Trung
Đông, Ấn Độ…
Tuy nhiên, trong bối cảnh cuối năm 2019, đầu năm 2020, đại dịch COVID-
19 hoành hành trên toàn thế giới gây trở ngại tới toàn bộ nền kinh tế và cho đến nay
vẫn chưa được kiểm soát, hoạt động du lịch quốc tế chưa được mở cửa trở lại thì
với quyết tâm thực hiện mục tiêu kép “vừa bảo đảm an toàn phòng, chống dịch vừa
phục hồi kinh tế” của Chính phủ, TCDL đã xác định cơ cấu lại thị trường du lịch,
lấy du lịch nội địa làm mũi nhọn, trong thời gian tới đây sẽ chú trọng và tập trung
khai thác thị trường du lịch nội địa, bao gồm các đối tượng khách là người Việt Nam
và những người nước ngoài đang sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
Về phát triển SPDL:
- Ưu tiên phát triển các nhóm sản phẩm chính, gắn với các giá trị của nền văn
minh sông Hồng; gắn với tự nhiên (du lịch biển, đảo; du lịch sinh thái); gắn với đô
thị (du lịch MICE, tham quan, mua sắm); phát triển đặc thù theo các tiểu vùng;…
- Đa dạng hóa SPDL nhằm phục vụ những nhu cầu đa dạng của các đối tượng
khách như: Du lịch giáo dục, du lịch thể thao, du lịch dưỡng bệnh, du lịch du thuyền,
du lịch làm đẹp...
Về phát triển du lịch theo lãnh thổ:
- Tổ chức phát triển du lịch theo các tiểu vùng: Tiểu vùng Trung tâm (gồm Hà
Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam); Tiểu vùng Duyên hải
Đông Bắc (gồm Hải Phòng và Quảng Ninh); Tiểu vùng Nam sông Hồng (gồm Ninh
Bình, Nam Định, Thái Bình).
- Phát triển các khu, điểm du lịch quốc gia; đô thị du lịch; tuyến du lịch:
+ Phát triển các loại hình du lịch phù hợp tại 9 KDLQG : KDL Làng Văn hóa
- Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội); KDL Ba Vì - Suối Hai (Hà Nội); KDL Tam
Đảo (Vĩnh Phúc); KDL Tam Chúc (Hà Nam); KDL Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương);
KDL Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh, Hải Phòng); KDL Vân Đồn (Quảng Ninh);
KDL Trà Cổ (Quảng Ninh); KDL Tràng An (Ninh Bình);
+ Phát triển các loại hình du lịch phù hợp tại 8 điểm du lịch quốc gia: Điểm du
lịch Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội); Điểm du lịch Thành phố Bắc Ninh và phụ
cận (tỉnh Bắc Ninh); Điểm du lịch Chùa Hương (Hà Nội); Điểm du lịch Phố Hiến
(Hưng Yên); Điểm du lịch Yên Tử (Quảng Ninh); Điểm du lịch Cúc Phương (Ninh
Bình); Điểm du lịch Vân Long (Ninh Bình); Điểm du lịch Đền Trần - Phủ Giầy (Nam
Định), Đền Trần - Chùa Keo (Thái Bình);
125
+ Phát triển các loại hình du lịch phù hợp tại 2 Đô thị du lịch: Đô thị du lịch
Hạ Long (Quảng Ninh); Đô thị du lịch Đồ Sơn (Hải Phòng).
- Tuyến du lịch quốc gia:
+ Phát triển các tuyến du lịch chính: Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng
Ninh; Hà Nội - Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hà Nội - Hà Nam
- Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình; Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng
- Quảng Ninh; Hà Nội - Bắc Ninh - Hưng Yên - Hà Nam - Ninh Bình.
+ Phát triển các tuyến du lịch chuyên đề: Lễ hội, tâm linh; Tham quan, tìm
hiểu các di tích lịch sử - văn hóa theo các triều đại của lịch sử Việt Nam; Tham quan
các làng nghề, làng Việt cổ; Du khảo đồng quê các tỉnh vùng châu thổ sông Hồng;
Tham quan phố cổ: Hà Nội - Hải Phòng - Nam Định; Tuyến khám phá biển, đảo ở
các tỉnh ven biển; Khám phá, nghiên cứu hệ thống vườn quốc gia, khu bảo tồn tự
nhiên, khu dự trữ sinh quyển; Tham quan hang động; Du lịch đường sông;
Về đầu tư phát triển du lịch:
- Tổng nhu cầu vốn đầu tư: 605.000 tỷ đồng (tương đương 29,5 tỷ USD), bao
gồm vốn đầu tư từ NSNN (gồm cả vốn ODA), vốn FDI, vốn huy động từ sự đóng
góp của các tổ chức, doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong nước và các nguồn
vốn huy động hợp pháp khác.
- Các chương trình và dự án đầu tư: Ưu tiên đầu tư phát triển 9 KDLQG , 8
điểm du lịch quốc gia, 2 đô thị du lịch. Đầu tư 4 chương trình: (1) Đào tạo phát triển
nguồn nhân lực; (2) Xúc tiến, quảng bá và xây dựng thương hiệu du lịch Vùng; (3)
Bảo tồn, tôn tạo và phát triển tài nguyên; (4) Phát triển hạ tầng du lịch then chốt.
4.1.3.2 Phương hướng phát triển du lịch chung toàn vùng Du lịch Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030”, cả nước sẽ có 46 KDL được định hướng quy hoạch phát
triển thành du lịch quốc gia. Theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, cả nước có 46 địa điểm tiềm năng phát
triển khu du lịch quốc gia. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung thêm 03
địa điểm vào Danh mục các địa điểm tiềm năng phát triển khu du lịch quốc gia, cụ
thể: Khu di tích Núi Sam (tỉnh An Giang) tại văn bản số 5345/VPCP-KGVX ngày
10/7/2015; Khu du lịch Biển Hồ - Chư Đang Ya (tỉnh Gia Lai) tại văn bản số
126
1845/VPCP-KGVX ngày 27/02/2018; Khu du lịch Vườn quốc gia Xuân Sơn (tỉnh
Phú Thọ) tại văn bản số 12227/VPCP-KGVX ngày 17/12/2018; Như vậy, tới nay cả
nước có 49 địa điểm tiềm năng phát triển khu du lịch quốc gia, trên địa bàn 43 tỉnh,
thành phố.
Với nguồn TNDL phong phú và đa dạng, các KDLQG được định hướng phát
triển thành những điểm đến du lịch hấp dẫn, chất lượng được đầu tư đồng bộ cả về
CSHT & CSVC, nhân lực du lịch, TNDL và công tác xúc tiến, quảng bá, đảm bảo
đáp ứng được nhu cầu du lịch của du khách trong và ngoài nước, thúc đẩy kinh tế địa
phương và quốc gia phát triển. Theo Phụ lục II về các chương trình, dự án đầu tư phát
triển du lịch Vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Ban hành
kèm theo Quyết định số 2163/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”), kế hoạch phát triển các KDLQG vùng
ĐBSH&DHĐB được xác định cụ thể thông qua nguồn vốn tổng đầu tư vào các
KDLQG trong các giai đoạn đến năm 2030 (Bảng 4.1).
Bảng 4.1. Dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB
giai đoạn đến năm 2030
TT Dự án
1 KDLQG Hạ Long – Cát Bà
2 KDLQG Vân Đồn
3 KDL Trà Cổ
4 KDLQG Côn Sơn
5 KDLQG Ba Vì-Suối Hai
6 KDLQG Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam
7 KDLQG Tam Đảo
8 KDLQG Tràng An
9 KDLQG Tam Chúc TỔNG SỐ Đơn vị tính: Triệu USD
Giai đoạn
2021-2025 2026-2030
300
70
200
40
50
150
30
20
50
910 220
100
100
50
70
150
70
30
30
820
(Nguồn: Quyết định số 2163/QĐ-TTg)
Theo Quy hoạch, vùng ĐBSH&DHĐB có 9 KDLQG. Để phát triển các
KDLQG của vùng ĐBSH&DHĐB, dự kiến tổng vốn đầu tư sẽ là 4.020 triệu USD,
được phân thành các giai đoạn cụ thể, trong đó có giai đoạn 2021 – 2025 và giai đoạn
2026 – 2030 (Bảng 4.1). Trong đó, KDL Hạ Long – Cát Bà được đầu tư nhiều nhất
với rất nhiều các dự án đầu tư.
127
4.2. Quan điểm và định hướng hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
4.2.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia vùng du
lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
- Hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB cần
hướng tới thực hiện mục tiêu và phương hướng phát triển của vùng ĐBSH&DHĐB
đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Các chính sách được ban hành phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu, phương
hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phương hướng phát triển du lịch nói
riêng của Vùng du lịch và của từng địa phương, đảm bảo tính thống nhất, ổn định và
phát triển kinh tế xã hội nói chung của địa phương và của Vùng ĐBSH&DHĐB.
- Hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB cần
phải phù hợp với phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG của vùng
đã được xác định trong Quyết định số 2163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030” và cũng phải đặt trong bối cảnh ảnh hưởng của đại dịch
COVID – 19 đến hoạt động du lịch trên toàn cầu và đối với Việt Nam.
Nhà nước và các địa phương có KDLQG cần nhận thức đầy đủ và coi trọng
vai trò của các chính sách trong phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại
các KDLQG nói riêng, xác định rõ ràng các phương hướng về chính sách phát triển
du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói riêng, từ đó có sự đầu tư
thích đáng và phù hợp với điều kiện và tiêu chuẩn của Vùng và địa phương. Tiếp thu
và học hỏi có chọn lọc các bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch tại một số
KDLQG trên thế giới và tại Việt Nam.
- Hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB cần
đồng bộ trên toàn bộ hệ thống chính sách du lịch và quy trình chính sách nhằm phát
triển KDLQG của vùng. Các địa phương có KDLQG khi xây dựng và ban hành chính
sách phát triển du lịch phải đảm bảo tính đồng bộ cả về hệ thống chính sách, nội dung
chính sách và quy trình chính sách. Các chính sách cần có tính thống nhất, liên kết,
bổ trợ cho nhau; đồng thời nội dung phải mang tính khoa học, thực tiễn, dễ tiếp cận
với mọi đối tượng; ngoài ra quy trình chính sách cần được xây dựng rõ ràng, đầy đủ,
minh bạch và logic.
- Hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB cần
lấy các đối tượng thụ hưởng chính sách làm trung tâm. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện
128
chính sách phải dựa trên cơ sở thống nhất chủ trương với hành động, đảm bảo nhận
được sự ủng hộ và tham gia của tất cả các bên liên quan, bao gồm cả Nhà nước, chính
quyền địa phương, các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và cả khách du lịch.
- Hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB cần
góp phần đảm bảo phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB một cách bền vững.
4.2.2. Định hướng hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia vùng Du
lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc
Theo Quyết định số 147/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách
phát triển du lịch được xác định như sau:
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để tạo
điều kiện cho du lịch phát triển.
- Ban hành chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng để huy động nguồn lực
đầu tư tại các cụm du lịch, khu vực động lực phát triển du lịch, KDLQG và khu vực
có tiềm năng du lịch.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác công - tư và các mô hình quản trị tích hợp các khu
vực công và tư nhân, doanh nhân và cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch
bền vững; thiết lập các điều kiện tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, kích thích đổi
mới, khởi nghiệp sáng tạo, phát triển lực lượng doanh nghiệp, hình thành nhiều
DNDL có thương hiệu mạnh; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh
du lịch tiếp thu công nghệ mới, kỹ năng số và tiếp cận tài chính.
- Ưu tiên nguồn lực cho công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực, nghiên cứu thị
trường, xúc tiến, phát triển SPDL; phát triển du lịch cộng đồng; bảo vệ tài nguyên và
môi trường du lịch.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách tạo thuận lợi về nhập cảnh, xuất cảnh và đi lại
cho khách du lịch quốc tế; tạo điều kiện cho các hãng hàng không trong nước và quốc
tế mở các đường bay mới và trực tiếp kết nối Việt Nam với các thị trường du lịch
trọng điểm và tiềm năng.
- Hoàn thiện các quy định để quản lý và phát triển các mô hình kinh doanh
mới trong lĩnh vực du lịch phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế.
Căn cứ vào đó, có thể xác định định hướng hoàn thiện chính sách phát triển
KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB như sau:
- Cần tiếp tục rà soát hoàn thiện hệ thống các chính sách du lịch nhằm phát
triển du lịch của KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB
129
- Khắc phục các hạn chế trong quy trình chính sách du lịch nhằm phát triển du
lịch của KDLQG Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB
- Tạo lập môi trường, các điều kiện hỗ trợ để xây dựng và triển khai thực thi
quy trình chính sách du lịch nhằm phát triển du lịch của KDLQG vùng Du lịch
ĐBSH&DHĐB
4.3. Giải pháp hoàn thiện chính phát triển các khu du lịch quốc gia vùng Du lịch Đồng
bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030
4.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các chính sách
Qua phân tích thực trạng các chính sách đã được triển khai, có thể nhận thấy,
trong các chính sách phát triển KDLQG, một số chính sách bộ phận như Chính sách
bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, Chính sách tài chính; Chính sách
đào tạo và phát triển NNL du lịch; Chính sách phát triển SPDL; Chính sách xúc tiến,
quảng bá du lịch còn nhiều bất cập. Từ đó, đòi hỏi các địa phương vùng
ĐBSH&DHĐB cần có các giải pháp cụ thể đối với một số chính sách bộ phận đó để
có thể hoàn thiện được hệ thống chính sách phát triển du lịch tại đây. Cụ thể:
4.3.1.1. Hoàn thiện chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch dù đã được thực
hiện nhưng các điểm du lịch trong các KDLQG hiện nay vẫn đang trong tình trạng bị ô
nhiễm môi trường. Cần lưu ý rằng: TNDL luôn gắn với môi trường du lịch. Không thể
khai thác và phát triển hoạt động du lịch mà không quan tâm đến môi trường du lịch tại
đó. Việc bảo vệ môi trường du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị TNDL, từ đó khai
thác để phát triển các SPDL là vấn đề được nhiều nhà quản lý du lịch quan tâm.
Các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB trong những năm qua
đã thu hút phần lớn lượng khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần phát triển
ngành du lịch Việt Nam và kinh tế tại các địa phương. Tuy nhiên, các chuyên gia đều
cho rằng, một thách thức không nhỏ đối với các KDL được quy hoạch thành KDLQG
là công tác bảo vệ môi trường, việc phát triển du lịch quá nóng đã ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường du lịch trong những năm qua. Trong đó, có nhiều bất cập, khó khăn
còn tồn tại như: tại nhiều khu, điểm du lịch còn xuất hiện các chất thải rắn, rác thải,
nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để nên nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm cục bộ và tái ô
nhiễm sau xử lý vẫn xảy ra tại vài khu vực, đặc biệt là tại một số khu, điểm du lịch
nằm tại hạ lưu các lưu vực sông, suối, ao hồ, các bãi biển, đảo... Nhà vệ sinh tại các
khu, điểm du lịch còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu khi lượng khách tăng cao, trang
thiết bị phục vụ không đảm bảo chất lượng và an toàn cho du khách sử dụng.
130
Do đó, để hoàn thiện chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du
lịch, các địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cần phải:
Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, nhất là
khi du lịch đang phát triển “nóng” như hiện nay cho các doanh nghiệp du lịch, khách
du lịch, người dân địa phương và cả các cấp, các ngành quản lý du lịch địa phương;
phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh. Cần đánh giá sức chứa, sức chịu tải của các
KDL được quy hoạch thành KDLQG để định hướng phát triển phù hợp. Cần phải ưu
tiên đầu tư hạ tầng để phục vụ công tác môi trường thiết yếu tại các KDL, nhất là các
KDL trọng điểm như phải đảm bảo 100% các KDL có nhà vệ sinh đạt chuẩn. Đồng
thời, có biện pháp xử lý và ngăn ngừa sự ô nhiễm ở các điểm du lịch trong KDLQG.
Chức năng quản lý của BQL hoặc cơ quan quản lý KDLQG được quy hoạch thuộc
Vùng cần được làm rõ vì hiện nay nhiều BQL KDL đã được thành lập nhưng chưa
phát huy được vai trò và chưa có thực quyền, chưa có quy chế quản lý và bố trí cán
bộ chuyên trách về bảo vệ môi trường tại các KDL.
Không đơn thuần chỉ là tham quan, ngắm cảnh, nghỉ dưỡng, khách du lịch
đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc góp phần phát triển du lịch bền vững
tại các KDLQG hiện tại và tiềm năng. Khách du lịch nên và cần phải tham gia vào
công tác bảo vệ môi trường và TNDL. Công việc mà khách du lịch có thể làm là hỗ
trợ tài chính cho người dân địa phương, giúp đỡ, tạo điều kiện trong các hoạt động
phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói riêng. Khách du
lịch là những người tiêu dùng cuối cùng, bởi vậy cần phải giữ vai trò phát triển du
lịch bền vững: phải tôn trọng các giá trị văn hoá bản địa, sắc tộc của người dân bản
địa và giá trị tự nhiên của địa phương; tránh những hành vi, thái độ gây ra những tiêu
cực đối với người dân tại khu vực. Điều quan trọng là các khách du lịch phải nhận
thức, hiểu được đầy đủ về văn hoá, lịch sử, các nguyên tắc đạo đức, các đặc điểm địa
lý tự nhiên của khu vực đến thăm.
Để tăng cường quản lý khách du lịch tại các KDLQG được quy hoạch, ngành
du lịch các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần phải:
Chỉ dẫn giúp du khách thực hiện đúng các quy định của KDLQG, đảm bảo
vừa có lợi cho du khách và vừa có lợi cho địa phương. Địa phương cần công bố các
quy định một cách rõ ràng, dễ hiểu, ở nơi dễ tiếp cận đối với du khách, đồng thời bố
trí người và biển chỉ dẫn hợp lý cho các du khách đến tham quan.
Địa phương cần xây dựng điểm bỏ rác hợp lý, lập các biển báo chỉ dẫn nơi bỏ
rác để khách không vứt rác lung tung; bố trí nhân viên trông coi các điểm thăm quan
131
du lịch không cho bất kỳ ai vẽ ký hiệu riêng lên các di tích và TNDL tại điểm hấp
dẫn bên trong KDLQG; đảm bảo TNDL và môi trường địa phương được giữ gìn tốt,
không bị xâm hại dù vô tình hay cố ý.
Cần có những khuyến cáo đối với du khách, đặc biệt là du khách quốc tế về ý
thức tuân thủ luật pháp Việt Nam và ý thức tôn trọng tục lệ, truyền thống, văn hóa
của địa phương. Thực hiện đầy đủ các thủ tục tham quan du lịch với cơ quan QLNN
tại địa phương.
Mặt khác, ngành Du lịch các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB
cũng cần có các biện pháp bảo đảm an toàn sức khỏe, tính mạng và tài sản của du
khách; thành lập Ban Thanh tra về an ninh trật tự và đảm bảo môi trường bên trong
các KDL được quy hoạch; Ban Thanh tra phải kiểm soát chặt chẽ, không để các tệ
nạn xã hội xảy ra tại địa phương; xử lý các đối tượng bán hàng rong, hàng giả, chặt
chém, níu kéo, móc túi, xin tiền du khách làm mất mỹ quan hình ảnh về môi trường
du lịch sạch đẹp, yên bình và truyền thống hiếu khách của địa phương và những người
dân chân chất, thân thiện.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó quy
định những nội dung mới như du lịch có trách nhiệm, chi trả dịch vụ môi trường hệ
sinh thái (với đối tượng là khách du lịch), tăng cường chế tài xử phạt vi phạm nếu xả
thải ra môi trường tại điểm du lịch bên trong các KDLQG được quy hoạch.
Chú trọng công tác quy hoạch và đảm bảo thực hiện theo đúng nội dung Quy
hoạch phát triển các KDLQG đã được phê duyệt hoặc sắp được phê duyệt nhằm đảm
bảo tính khoa học, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ
đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch thiếu đồng bộ, chồng chéo, hoặc
thực hiện không đúng quy hoạch, gây khó khăn cho công tác quản lý các KDL được
quy hoạch thành KDLQG nói chung và quản lý môi trường nói riêng.
Tăng cường năng lực quản lý môi trường trong các KDLQG được quy hoạch,
phân công thống nhất đầu mối quản lý các KDL nói trên,… Cần có cơ chế phối hợp
đồng bộ giữa các đơn vị quản lý các KDLQG quy hoạch với các cơ quan hành chính
và an ninh địa phương, cơ quan quản lý TW, các công ty du lịch, đại diện các cộng
đồng nhân dân địa phương để đồng lòng, thống nhất trong việc đảm bảo môi trường
du lịch cho phát triển bền vững.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên,
định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn nhằm phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường trong
132
kinh doanh dịch vụ du lịch tại KDLQG. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; Trang bị các phương
tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này; Nâng
cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm
tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi
trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ
môi trường, phát triển du lịch bền vững.
4.3.1.2. Hoàn thiện chính sách tài chính
Chính sách tài chính đã đưa ra nhưng hoạt động giải ngân chậm khiến cho đa
số các dự án chậm tiến độ, một số dự án phát triển du lịch có ngân sách được cấp
không đủ để thực hiện, do đó để hoàn thiện chính sách tài chính của các địa phương
có KDLQG trong thời gian tới. Cụ thể, các tỉnh vùng ĐBSH&DHĐB cần tiếp tục
thực hiện huy động vốn, giảm thuế và điều chỉnh, phân cấp ngân sách địa phương
dành cho phát triển du lịch tại các KDLQG. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch các ngành,
lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các địa
phương, rút ngắn thời gian giải ngân cho các dự án chậm tiến độ bằng cách yêu cầu
xây dựng lộ trình cụ thể cho các dự án, giám sát chặt chẽ tiến độ thực hiện, đảm bảo
đúng thời gian, thời hạn thực hiện, phân bổ ngân quỹ trên cơ sở tiến độ và mức độ
thực hiện thực tế của dự án,…
Về huy động vốn đầu tư, các tỉnh vùng ĐBSH&DHĐB cần tăng cường thu hút
đầu tư phát triển du lịch. Tạo lập hình ảnh định vị là các KDLQG có quy mô và điều
kiện phát triển du lịch tầm cỡ quốc gia. Tuy nhiên, cho đến nay, trên cả phương diện
quốc gia, Việt Nam chưa xây dựng được hình ảnh định vị KDLQG rõ ràng. Do đó,
thời gian tới các địa phương cần có kế hoạch định vị du lịch của từng địa phương, coi
đây là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch cũng như thu hút đầu tư phát triển du
lịch. Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách
khuyến khích thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước để phát triển du lịch tại
các KDLQG. Với thông điệp là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và thân thiện
với nhà đầu tư phát triển du lịch, các địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB
cần tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa địa phương và nhà đầu tư. Các chính sách “giá”
mà chính quyền địa phương có thể thực hiện nhằm hỗ trợ cho nhà đầu tư bao gồm:
Ban hành chính sách về hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật như đường giao
thông, điện,… có tính chất liên vùng; Thống nhất ưu đãi về chính sách thuế, phí, lãi
suất cho các dự án du lịch trong khu vực; Có chương trình hợp tác về đào tạo, chia
sẻ, NNL du lịch…
133
Liên quan đến điều kiện kinh doanh, cần có chính sách đề nghị miễn giảm thuế
sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, kích thích các doanh nghiệp kinh doanh
phát triển các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch cũng
như người dân địa phương.
Về điều chỉnh, phân cấp ngân sách địa phương cho phát triển du lịch cần rõ
ràng, căn cứ vào tình hình thu – chi và cân đối thu chi của từng địa phương. Địa
phương nào có chưa có khả năng cân đối thu chi ngân sách địa phương thì cần hỗ trợ
phân cấp ngân sách từ TW, đảm bảo gắn việc phân cấp ngân sách với trách nhiệm,
mang lại hiệu quả kinh tế cho địa phương.
4.3.1.3. Hoàn thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch
Hiện nay, chính sách đào tạo phát triển NNL đã thực hiện nhưng trình độ NNL
du lịch địa phương đa phần vẫn còn thấp. Để hoàn thiện chính sách đào tạo và phát
triển NNL du lịch tại các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB, các địa phương trong Vùng
cần phải:
Tăng cường mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ về dịch vụ nhà
hàng, khách sạn, hướng dẫn... cho đội ngũ lao động du lịch trên địa bàn song song
với việc nâng cao chất lượng SPDL.
Từng bước mở rộng mô hình đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo giữa
nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp của người học và của các tổ chức, doanh nghiệp
sử dụng lao động, trong đó, chi đầu tư của ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Huy động vốn đầu tư cho giáo dục từ doanh nghiệp và tạo điều kiện để người
lao động trong doanh nghiệp chủ động tham gia các khóa đào tạo. Kinh phí đào tạo
được trực tiếp hạch toán vào giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh điều tra, tìm hiểu các yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn về trình độ
nhân lực của các DNDL để kịp thời cung cấp thông tin cho các cơ sở đào tạo.
Tiếp tục mở lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, tin học cho
cán bộ văn hoá xã, phường và thôn, bản nhằm nâng cao nghiệp vụ quản lý các điểm
du lịch tham quan trong KDL được quy hoạch thành KDLQG; Tập huấn kỹ năng
nghề cho người dân khi tham gia cung ứng các hoạt động du lịch tại địa phương, nhất
là ở các KDLQG.
Ngoài ra, cần khuyến khích người làm du lịch không ngừng chủ động nâng
cao tay nghề và đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu hợp pháp của khách du lịch.
Cụ thể, các giải pháp chính cần tập trung vào các nội dung sau: Xây dựng hệ
thống cơ sở giáo dục các cấp học từ giáo dục nghề nghiệp (dạy nghề, trung cấp, cao
134
đẳng) đến giáo dục đại học về du lịch. Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức
đào tạo NNL du lịch, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hóa quốc
gia cho ngành du lịch, gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng
cao chất lượng giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ, giảng viên, giáo viên. Đào tạo
mang tầm vĩ mô đồng thời cần phải dự báo được xu hướng phát triển du lịch, tránh
hiện tượng đào tạo cấp tốc không bài bản để đáp ứng nhu cầu của du khách một cách
bị động.Thay đổi những chính sách đối với lực lượng lao động trong ngành Du lịch
như: Cải thiện điều kiện lao động và nâng cao chất lượng môi truờng trong DNDL;
Đề ra nhưng quy định nhằm hoàn thiện chế độ đãi ngộ, đánh giá và khen thưởng
người lao động. Hoàn thiện hệ thống nội quy và tăng cường kỷ luật lao động; Bố trí
và phân công lao động thích hợp. Ngoài ra còn thực hiện một số giải pháp cơ bản
trong việc đào tạo NNLcho ngành du lịch như: liên kết bồi dưỡng nâng cao, đào tạo
lại và tuyển dụng mới nhân lực thực hiện chức năng QLNN về du lịch, liên kết tuyển
dụng, đào tạo và bồi dưỡng NNLphục vụ kinh doanh du lịch. Trong đó các tỉnh, thành
phố vùng ĐBSH&DHĐB sẽ tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể đó là: Đào tạo
tại chỗ: Chọn các điểm du lịch nằm trong KDLQG, tổ chức các lớp học ngắn ngày,
mời chuyên gia du lịch tới giảng bài, hướng dẫn cách làm du lịch cho người dân bản
địa ở các điểm du lịch thu hút đông khách tham quan như: KDLQG Tam Chúc (Hà
Nam), KDLQG Tràng An (Ninh Bình), KDLQG Hạ long – Cát Bà (Quảng Ninh- Hải
Phòng),... Phối hợp với các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến
binh,…tại các điểm du lịch cùng tham gia phát triển các hoạt động du lịch tại địa
phương nơi mình sinh sống. Gắn phát triển du lịch với phát triển kinh tế tại địa phương
bằng cách phát triển các nghề truyền thống, tạo sản phẩm đặc trưng của địa phương
bán cho du khách. Khuyến khích các hộ dân có đủ điều kiện làm dịch vụ lưu trú
homestay cho khách du lịch. Thường xuyên thanh, kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh
doanh dịch vụ du lịch. Tăng cường các hoạt động tham quan, trao đổi kinh nghiệm
trong hoạt động du lịch giữa các địa phương có KDLQG đã được công nhận.
4.3.1.4. Hoàn thiện chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch
Hiện nay, CSHT và CSVCKT du lịch tại các địa phương có KDLQG vùng
ĐBSH&DHĐB còn chưa đồng bộ, như hệ thống giao thông chưa hoàn thiện, hệ thống
mạng viễn thông chưa theo kịp xu thế cách mạng công nghệ 4.0,... Do đó, để phát
triển du lịch, ngành Du lịch các địa phương có KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cần có
kế hoạch kêu gọi và thu hút đầu tư phát triển CSHT và CSVCKT du lịch của địa
phương. Cụ thể :
135
Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2030
và tầm nhìn đến năm 2050 đòi hỏi phải có sự kết hợp của chính sách tài chính và chính
sách đầu tư du lịch. Sở Du lịch hoặc Sở VHTTDL các địa phương có KDLQG được
quy hoạch thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần quan tâm xây dựng và và có cơ chế kêu gọi
và thu hút đầu tư phát triển CSHT và CSVCKT du lịch của địa phương trong giai đoạn
sắp tới, trong đó cần có sự phối hợp với các cơ quan, ban ngành quyết tâm thực hiện
trên cơ sở huy động tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế trong và ngoài địa
phương. Việc thu hút đầu tư phải hướng phát triển du lịch bền vững, đảm bảo phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên của địa phương trong thời gian hiện tại và tương
lai, tối đa hoá khả năng thu hút đầu tư phát triển CSHT và CSVCKT du lịch, góp phần
thúc đẩy phát triển ngành du lịch và các ngành kinh tế khác.
Quy hoạch phát triển phải đi đôi với đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trên cơ sở
đa dạng hoá các thành phần kinh tế làm du lịch, bảo đảm sự thông thoáng và hiệu
quả phù hợp với địa phương, đảm bảo nâng cao và bảo vệ được giá trị TNDL và
bảo vệ môi trường tại địa phương.
Thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, các địa phương
cần hài hoà lợi ích của các bên (Nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp
du lịch, khách du lịch và cộng đồng địa phương) cùng tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tuân thủ và thực hiện tốt các chính sách phát triển KDLQG từ khâu dự thảo
chính sách đến công tác thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách.
Dựa vào quy hoạch đầu tư du lịch tại các KDLQG, định hướng cho các doanh
nghiệp du lịch đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch, thi hành các chính sách phát triển
du lịch tại các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã được ban hành. Kêu gọi các
doanh nghiệp du lịch tham gia ủng hộ cho các chương trình mục tiêu về phát triển du
lịch chung và phát triển du lịch tại các KDLQG được quy hoạch tại địa phương.
Ngoài ra, các tỉnh vùng ĐBSH&DHĐB cũng cần thực hiện theo phương
châm nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm, huy động vốn từ đầu tư nước
ngoài và lồng ghép với các chương trình, dự án về quy hoạch phát triển du lịch của
vùng ĐBSH&DHĐB và của Việt Nam. Có biện pháp để kích thích, động viên doanh
nghiệp tham gia đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch thông qua các chế độ, cơ chế ưu
đãi về thuế, hoạt động kinh doanh,…
4.3.1.5. Hoàn thiện chính sách phát triển sản phẩm du lịch
Thời gian qua, chính sách phát triển SPDL đã được các địa phương thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB quan tâm nhưng chưa phát huy hiệu quả. Để xây dựng và phát triển
136
được những SPDL đặc trưng tại các KDLQG để phục vụ khách du lịch đến đây, các
địa phương trong Vùng cần tập trung triển khai một số giải pháp tích cực sau:
Trước hết cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền
và nhân dân nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức vị trí, vai trò và hành động
trong phát triển du lịch. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý điều
hành của chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể nhân dân trong phát
triển du lịch.
Cần làm tốt công tác quy hoạch chiến lược về các điểm, tuyến điểm du lịch tại
địa phương, kết nối các điểm du lịch trong KDLQG được quy hoạch. Tiếp tục đổi
mới và nâng cao công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực, liên kết tuyển
dụng, đào tạo và bồi dưỡng NNL phục vụ kinh doanh du lịch từ đó góp phần tạo
SPDL có chất lượng và hấp dẫn. Đặc biệt quan tâm đến việc đào tào tập huấn đội ngũ
thuyết minh viên, hướng dẫn viên tại các điểm du lịch, giúp giới thiệu sản phẩm và
quảng bá sản phẩm tới khách du lịch trong và ngoài nước.
Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ QLNN, xây
dựng các chiến lược thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng SPDL, tiến tới
công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngành du lịch, tạo khả năng hội nhập với hoạt động
phát triển du lịch cả nước trong khu vực và trên thế giới.
Giữ gìn và phát triển các lợi thế của địa phương, ngoài những TNDL đã được
đánh giá và đưa vào khai thác, cần không ngừng phát hiện những tài nguyên còn ở
dạng tiềm năng, mang tính đặc trưng của địa phương (ví dụ: sản phẩm nông nghiệp,
công nghiệp của địa phương, các giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương…) để khai
thác nhằm tạo ra nét riêng của điểm đến du lịch, đồng thời kích thích kinh tế địa
phương phát triển. Có chính sách khai thác và khuyến khích những SPDL mới tại địa
phương, góp phần làm phong phú hệ thống TNDL tại các KDL được quy hoạch thành
KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB trong xu thế phát triển bền vững.
Về chất lượng, hiện nay, các sản phẩm dịch vụ phục vụ khách du lịch còn đơn
điệu, khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tập trung ở việc khai thác các giá trị
TNDL có sẵn mà thiếu các điểm vui chơi giải trí hấp dẫn, giúp kéo dài thời gian lưu
trú, tăng tính hấp dẫn và lôi kéo khách du lịch quay trở lại. Các tours, tuyến du lịch
tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB còn đơn điệu, chưa phát
huy tiềm năng, lợi thế, chưa đáp ứng được nhu cầu của từng loại khách, chưa tổ chức
tốt sự kết hợp tours, tuyến du lịch với các địa phương khác trong cả nước, hoạt động
lữ hành quốc tế chưa hiệu quả. Do đó, cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp
137
du lịch tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ, cụ thể:
Khuyến khích các doanh nghiệp dịch vụ cần nâng cao chất lượng dịch vụ phục
vụ khách du lịch. Nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở kinh doanh du lịch là
nâng cao sự hài lòng khách du lịch đến với các địa phương có KDL được quy hoạch
từ việc chú ý nâng cao chất lượng SPDL đến nâng cao năng lực và thái độ hành vi
phục vụ của nhân viên,… Cần nâng cao chất lượng phương tiện vận chuyển phục vụ
khách du lịch, đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng, đối với những phương tiện quá thời
gian lưu hành theo quy định thì các cơ sở nên sử dụng vào các mục đích khác. Trong
quá trình vận chuyển khách du lịch đòi hỏi nhà xe phải tạo tâm lý thoải mái cho khách,
có ý thức bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản cho khách...
Khuyến khích các đơn vị kinh doanh khách sạn, nhà hàng ở các địa phương
có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú và
ẩm thực. Các dịch vụ khách sạn hiện nay tại các địa phương này nên tăng thêm những
nét đặc trưng riêng có (chẳng hạn như du lịch tâm linh tại KDLQG Tam Chúc – Hà
Nam, du lịch văn hóa tại KDLQG Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam –
Hà Nội, du lịch sinh thái tại KDLQG Tràng An – Ninh Bình…), thể hiện được sự chu
đáo và mến khách tại các cơ sở lưu trú. Các khách sạn tại đây phải đảm bảo luôn sạch
sẽ, niềm nở, ân cần quan tâm đến mọi du khách. Các món ăn phải độc đáo, mang đặc
trưng riêng có của địa phương và đảm bảo vệ sinh...
Ưu tiên thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ nộp thuế Nhà nước cho các DNDL
tiếp tục đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch tại các
KDLQG, tăng tính cạnh tranh cho các SPDL đặc trưng của địa phương.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về SPDL, đặc biệt là các SPDL mới,
các SPDL đặc trưng trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước. Mở
rộng các hình thức quảng bá, tăng cường sự liên kết với các tỉnh, thành phố lân cận và
các địa phương khác trong cả nước nhằm thu hút đầu tư phát triển SPDL.
Tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút các nhà đầu tư
nghiên cứu, ứng dụng và cung ứng các SPDL tại các KDLQG, xã hội hóa công tác
quản lý, đầu tư xây dựng SPDL. Kêu gọi đầu tư xây dựng một số điểm du lịch trọng
tâm trong các KDLQG như: KDL Tam Chúc – Ba Sao (Hà Nam), Cảng tàu khách du
lịch quốc tế Hạ Long (Quảng Ninh),… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn đầu tư từ nguồn ngân sách của TW, của địa phương và của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước cho các dự án phát triển CSHT và sản phẩm dịch vụ, du lịch.
138
4.3.1.6. Hoàn thiện chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch tại các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB
hiện nay đã ban hành nhưng chưa thực sự được quan tâm vì địa phương chưa đủ điều
kiện thực hiện quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chưa triển khai quảng bá
trên các website lớn, thậm chí chưa có website riêng. Nội dung thông tin du lịch trên
các website hiện nay còn hạn chế về mức độ phong phú, ngôn ngữ sử dụng, đa số mới
chỉ có tiếng Việt, không có ngoại ngữ, gây khó khăn cho khách du lịch quốc tế nếu
muốn tiếp cận thông tin. Do vậy, để hoàn thiện chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
tại các KDLQG, các địa phương có KDLQG được quy hoạch cần:
Nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư về lợi ích phát triển du lịch, tăng cường
công tác giáo dục, tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch trong cộng đồng dân cư;
Kết hợp, ủng hộ và khuyến khích dân cư địa phương trực tiếp tham gia vào hoạt động
du lịch.
Phát triển xúc tiến SPDL, thực hiện đồng bộ các chiến lược sản phẩm thị
trường: Chiến lược sản phẩm cũ, thị trường cũ; Chiến lược sản phẩm cũ, thị trường
mới; Chiến lược sản phẩm mới, thị trường cũ; Chiến lược sản phẩm mới, thị trường
mới để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng SPDL.
Phát triển và mở rộng thị trường, áp dụng đồng thời nhiều chiến lược như:
nhiều sản phẩm cho nhiều thị trường, sản phẩm riêng biệt cho thị trường riêng biệt...
Tăng cường hợp tác, liên kết với các địa phương khác trên cả nước để xây
dựng tour và SPDL kết nối, tạo tính đa dạng, tăng tính hấp dẫn.
Xây dựng những website riêng của từng KDL được quy hoạch thành KDLQG
thuộc vùng ĐBSH&DHĐB. Với các website hiện có của địa phương cần cập nhật đầy
đủ, kịp thời các thông tin về du lịch tại đây, cung cấp thông tin trên trang website bằng
nhiều ngôn ngữ, đáp ứng nhu cầu cần tìm hiểu đối với du khách trong và ngoài nước.
Để triển khai công tác xúc tiến, quảng bá du lịch tại các KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB một cách hiệu quả, ngành du lịch các địa phương của Vùng cần tập
trung xây dựng kế hoạch mời gọi các nhà đầu tư trong, ngoài nước, đến khảo sát,
thăm quan để có phương án hỗ trợ, đầu tư, xây dựng khai thác, phát triển du lịch.
Trong chương trình công tác các năm tiếp theo, các địa phương cần tiếp tục chỉnh sửa
bổ sung, in ấn nội dung một số ấn phẩm tờ rơi, tập gấp, bản đồ du lịch; phối hợp với
phòng Nghiệp vụ du lịch tổ chức các chương trình kỷ niệm Ngày du lịch Việt Nam
và Ngày Du lịch thế giới, tham gia các chương trình xúc tiến, phát triển du lịch do
TCDL và các Hiệp hội Du lịch tổ chức,…
139
4.3.1.7. Hoàn thiện chính sách liên kết, hợp tác du lịch
Các địa phương cần xây dựng cơ chế khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp
trên địa bàn tích cực tham gia hợp tác đầu tư vào các dự án phát triển du lịch tại địa
phương, đặc biệt là trong phạm vi KDLQG được quy hoạch, nhưng cần theo chỉ đạo
và được sự cho phép của Bộ VHTTDL và UBND các địa phương. Tạo điều kiện cho
các DNDL tìm kiếm cơ hội đầu tư trong và ngoài địa phương qua các buổi toạ đàm với
lãnh đạo tại các địa phương có KDLQG thuộc Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, tìm hiểu
các chính sách khuyến khích đầu tư để đăng ký đầu tư vào du lịch của địa phương.
Tăng cường liên kết, mở rộng chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch cho các DNDL
trong và ngoài khu vực tham gia thông qua các hình thức như thỏa thuận, kí kết, xây
dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa các cấp quản lý (TW đến
địa phương và doanh nghiệp), nhằm đảm bảo phân chia trách nhiệm, quyền lợi hiệu
quả và công bằng.
4.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện quy trình chính sách
Thời gian qua, việc tổ chức và thực hiện chính sách tại các địa phương có
KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB khá cơ bản và đầy đủ. Trên cơ sở kết
quả điều tra xã hội học với các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh tại các
KDLQG được quy hoạch cho thấy phần lớn các ý kiến đều ghi nhận những nỗ lực
của Nhà nước và chính quyền địa phương trong quy trình chính sách. Tuy nhiên,
theo ý kiến của các chuyên gia và từ kết quả đánh giá thực trạng quy trình chính
sách, NCS nhận thấy cần bổ sung các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện một số nội
dung trong quy trình chính sách, từ đó mang lại hiệu quả cho sự phát triển du lịch
tại các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB. Cụ thể là:
4.3.2.1. Hoàn thiện xây dựng và ban hành chính sách
Hiện nay, tại các KDLQG chưa có sự thống nhất về mô hình Ban Quản lý, dẫn
tới việc xây dựng và ban hành chính sách còn nhiều hạn chế, chưa có chính sách
riêng, đặc thù, mang tính ưu tiên để phát triển KDLQG. Do đó, việc nghiên cứu, xây
dựng và đề xuất một mô hình cơ cấu tổ chức riêng, quản lý để phát triển du lịch, đảm
bảo cho phát triển bền vững tại các KDLQG cần được xử lý, phân tích. Để xây dựng
được mô hình Ban quản lý thống nhất cần dựa vào các căn cứ cơ bản sau đây:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược phát triển du lịch của địa
phương (nơi có KDLQG), trong đó cần coi trọng các giá trị tài nguyên du lịch - nhân
tố cơ bản để tạo nên sản phẩm du lịch đặc thù, tạo nên nét đặc trưng riêng, thương
hiệu riêng của khu du lịch.
140
- Lợi ích của các đối tượng tham gia trực tiếp trong mô hình quản lý phát triển
du lịch tại các KDLQG. Mô hình phát triển du lịch sẽ đem lại sự phát triển bền vững
và góp phần cải thiện đời sống cho cư dân địa phương.
- Mô hình tổ chức quản lý phát triển du lịch tại các KDLQG theo hướng bền
vững cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các nhóm đối tượng tham gia cơ
bản sau: Quản lý chuyên ngành về du lịch; Chính quyền địa phương các cấp; Ban
quản lý khu du lịch; các doanh nghiệp du lịch; cộng đồng cư dân địa phương; kác tổ
chức liên quan khác; khách du lịch.
Trong mô hình quản lý KDLQG, ngoài các nhóm đối tượng tham gia kể trên,
cần nhấn mạnh thêm vai trò của các TNDL sẵn có để phát triển SPDL và các nhân tố
tác động khác như các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, cơ sở đào tạo, tổ chức
phi chính phủ, các doanh nghiệp du lịch, các tổ chức và cá nhân hoạt động tình
nguyện… Họ có thể tham gia tư vấn kỹ thuật, cung cấp dưới các hình thức khác nhau
về NNL có trình độ về du lịch và dịch vụ và tìm kiếm ngân sách cho các hoạt động
đầu tư ban đầu của mô hình.
Việc nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức quản lý, đảm bảo phát triển bền
vững ở các KDLQG phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau:
- Mô hình quản lý KDLQG phải có Ban Quản lý KDLQG - là hạt nhân chính
trong mô hình quản lý. Cụ thể:
+ Ban Quản lý KDLQG là đơn vị sự nghiệp công lập, được phân cấp, phân
quyền rõ ràng; có cơ chế xử lý hành chính các hành vi vi phạm trong hoạt động du lịch.
+ Các thành viên trong Ban Quản lý KDLQG làm việc theo chế độ chuyên
trách. Ban Quản lý KDLQG có trụ sở đặt trong phạm vi (hoặc phạm vi gần) KDLQG.
+ Ban Quản lý KDLQG có cơ cấu tổ chức bộ máy, có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn; có quy chế hoạt động rõ ràng, do các cấp có thẩm quyền quyết định
(UBND cấp tỉnh, cấp huyện…), được đào tạo chuyên sâu về công tác quản lý du
lịch, đặc biệt là có trình độ nhận thức cao về các đặc điểm riêng có của địa phương,
như đặc điểm kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội, có thể áp dụng trong hoạt động
quản lý du lịch của địa phương.
- Hoạt động của mô hình quản lý phải gắn với việc bảo vệ nghiêm ngặt các giá
trị của TNDL; bảo vệ các hệ sinh thái, các di tích văn hóa lịch sử và các giá trị văn
hóa cộng đồng xung quanh.
141
- Mô hình quản lý KDLQG nhằm hợp lý hóa sự tham gia của cộng đồng địa
phương vào các hoạt động du lịch, dịch vụ du lịch và trực tiếp được hưởng lợi một
cách công bằng từ dịch vụ du lịch.
- Mô hình quản lý phải bảo đảm sự bình đẳng về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền
lợi của các đối tượng tham gia trong mô hình.
- Mô hình quản lý có trách nhiệm bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về phát triển
du lịch cho cộng đồng và kiến thức bảo vệ môi trường cảnh quan cho người dân địa
phương và các đối tượng khác tham gia trong mô hình quản lý.
Trên cơ sở xác định nguyên tắc và căn cứ thành lập Ban quản lý KDLQG sẽ
giúp xác định cơ quan chủ quản trong việc lựa chọn các phương án tối ưu và phù hợp
với đặc thù của từng KDLQG, thay vì chính sách phát triển du lịch chung của tỉnh
hoặc vùng.
4.3.2.2. Hoàn thiện tổ chức, thực hiện chính sách
Trong công tác thực hiện chính sách, cần chú ý các vấn đề sau:
- Làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về chính
sách phát triển du lịch nói riêng tại các KDLQG và về phát triển du lịch nói chung
tại vùng, từ đó mang lại hiệu quả cao hơn cho việc thực thi chính sách.
Việc tổ chức nâng cao kiến thức người dân về du lịch nhằm cung cấp các
kiến thức cơ bản, văn hóa ứng xử và đón tiếp khách du lịch cho cộng đồng địa
phương, góp phần bổ sung và nâng cao trình độ NNL du lịch của địa phương, từ
đó tạo ra các sản phẩm dịch vụ du lịch có chất lượng, thu hút và để lại ấn tượng tốt
cho du khách. Qua thực tế cho thấy, cộng đồng có vai trò quan trọng trong phát
triển du lịch tại các điểm đến, thể hiện ở việc giữ gìn cảnh quan môi trường, phong
cách phục vụ, cách giao tiếp ứng xử với du khách,… Ý thức cộng đồng tốt sẽ tạo
ấn tượng tốt cho du khách, góp phần tạo hình ảnh điểm đến đẹp hơn trong mắt du
khách. Do vậy, việc nâng cao nhận thức đối với các hộ dân sinh sống và làm dịch
vụ tại các KDLQG được quy hoạch hiện nay là rất quan trọng.
Thời gian vừa qua, công tác tuyên truyền chính sách tới người dân của các
địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
công việc tuyên truyền về tinh thần của chính sách chưa thực hiện đồng bộ, thiếu
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như đài phát thanh địa phương, phòng thông
tin của các huyện, đài truyền hình...; chưa tuyên truyền mở rộng về quy hoạch du
lịch, những mục tiêu, những kết quả của ngành du lịch đạt được và những định
hướng hiện tại của ngành du lịch tại địa phương...; chưa chủ động thông báo trước
142
tới các chủ thể bị tác động và tuyên truyền tới người dân trong quá trình thực hiện
chính sách để tránh được một số những khó khăn mà các cấp các ngành gặp phải.
Để nâng cao nhận thức đối với các hộ dân sinh sống và làm dịch vụ tại các KDLQG
được quy hoạch hiện nay, các địa phương KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cần tích
cực giáo dục tuyên truyền người dân tham gia vào các hoạt động du lịch tại địa
phương như tổ chức học tập bổ sung kiến thức về du lịch tại địa phương, thực hiện
phong trào cổ động các hoạt động du lịch lành mạnh, đúng tính chất, thể hiện văn
minh du lịch địa phương, khuyến khích các hộ dân trực tiếp tham gia đầu tư kinh
doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch với các quy mô lớn, nhỏ; Phát huy thế mạnh
về các nghề thủ công truyền thống, giữ gìn và phát huy các bản sắc dân tộc trong
phục vụ du lịch, nâng cao thu nhập và đời sống; Tăng cường tính cộng đồng trong
quá trình phát triển, phát triển các ngành nghề truyền thống phù hợp với xu hướng
phát triển của du lịch để tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ cho du lịch; Nâng cao ý
thức người dân trong xây dựng bản, xã, phường, thôn văn minh giàu đẹp và lành
mạnh, an toàn trật tự xã hội; Tuyên truyền cổ động ý thức bảo vệ TNDL và giữ gìn
vệ sinh môi trường du lịch của địa phương; Giáo dục, nâng cao sự ủng hộ của người
dân với các chủ trương, định hướng, kế hoạch phát triển du lịch của TW, chấp hành
tốt các chính sách phát triển du lịch minh bạch và hợp lý của địa phương.
Đồng thời, để nâng cao văn hóa ứng xử, đón tiếp khách cho cộng đồng dân
cư tại các điểm đến, ngành Du lịch các địa phương có KDLQG cần tổ chức tốt các
lớp tập huấn với đối tượng tham gia chính là cán bộ thôn, xã và đại diện hộ gia đình
tại khu vực KDLQG được quy hoạch. Người dân tham gia lớp học sẽ được giới
thiệu tổng quan về du lịch, các tiềm năng, giá trị và thế mạnh của các điểm thăm
quan trong KDLQG được quy hoạch, các kiến thức, nghiệp vụ hướng dẫn và văn
hóa giao tiếp ứng xử với du khách, tìm hiểu nghiệp vụ thuyết minh, tâm lý và phong
tục, tập quán của khách du lịch,… Sau đó, người dân được khuyến khích, động viên
và hướng dẫn thực hành ngay tại điểm tham quan trong phạm vi KDLQG được quy
hoạch đó.
Ngành Du lịch các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cũng
nên mời các chuyên gia về du lịch, lãnh đạo ngành Du lịch địa phương, Vụ Lữ hành
thuộc Tổng cục Du lịch, đại diện BVHTTDL, các giảng viên cơ sở đào tạo chuyên
ngành để giảng dạy các lớp nâng cao kiến thức cộng đồng về du lịch địa phương.
- Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan đến
du lịch trong việc thực hiện chính sách.
143
Hiện nay, việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong thực thi chính sách
phát triển KDLQG chưa cao, cụ thể: Hợp tác giữa các cơ quan quản lý còn khá yếu,
nên việc thực thi chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ quan liên quan đến
tổ chức tuyên truyền chính sách; các cơ quan tuyên truyền chưa chú trọng đến phổ
biến nội dung chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch văn
hóa của tỉnh chưa đi vào đời sống của người dân địa phương. Do đó, để việc phối
kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan đến du lịch hiệu quả, ngành
Du lịch các tỉnh vùng ĐBSH&DHĐB cần phải:
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính
quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể nhân dân
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền và
người dân nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa các cấp, các
ngành, địa phương trong sự nghiệp phát triển du lịch. Trên cơ sở đó, các cấp ủy
đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm, tập trung cao cho việc lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển du lịch.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả chỉ đạo, QLNN, tổ chức thực hiện quy
hoạch, kế hoạch phát triển du lịch được phê duyệt; tăng cường đầu tư trong việc bảo
tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, các di sản văn hóa phi vật thể, các cảnh quan
thiên nhiên; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong phạm
vi KDLQG được quy hoạch thuộc Vùng.
Tăng cường phối hợp của Mặt trận Tổ quốc với các ban, ngành, đoàn thể
trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch: Tuyên truyền nâng cao nhận
thức về trách nhiệm cộng đồng dân cư với việc ứng xử văn hoá, thân thiện, chuyên
nghiệp trong hoạt các động du lịch, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và các di sản văn hóa; nâng cao nhận thức về vai trò của du lịch để thấy được đó là
một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cả về vật chất và tinh thần; góp phần tăng
thu nhập, giúp xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng cường công
tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết về phát triển du lịch tại
các KDLQG được quy hoạch thuộc Vùng.
Liên kết phát triển giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh: Liên kết tổ chức
các sự kiện nhằm thu hút khách du lịch về địa phương như tổ chức những ngày hội
văn hóa, những giải thể thao lớn, tổ chức hội thảo, triển lãm về xây dựng phát triển
sản phẩm mang tính thương hiệu của địa phương. Liên kết các tour, tuyến du lịch
144
trong và ngoài địa phương nhằm khai thác có hiệu quả sản phẩm và những lợi thế
của các địa phương.
Các địa phương trong tỉnh chủ động kết nối trong việc lập quy hoạch, kế
hoạch phát triển du lịch cũng như tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch mang
tính liên kết nhằm tạo hiệu quả cao.
4.3.2.3. Hoàn thiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
Qua tham vấn chuyên gia là những người quản lý trong BQL các KDLQG
được quy hoạch của địa phương, NCS cho rằng để giúp cho chính sách phát triển
các KDLQG được quy hoạch được tiến hành thuận lợi, các địa phương có KDLQG
thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần xem xét sự hợp lý của mục tiêu đề ra trong từng giai
đoạn, sự phù hợp của những chính sách bộ phận để có những điều chỉnh cần thiết
về các mục tiêu, phương pháp sao cho việc thực hiện chính sách phát triển KDLQG
được hoàn thiện và hiệu quả cao nhất.
Thanh tra Sở Du lịch hoặc Sở VHTTDL tại các địa phương có KDLQG thuộc
vùng ĐBSH&DHĐB cần phối kết hợp với thanh tra Bộ định kỳ hội thảo chuyên đề
về các hoạt động thanh tra, nhằm nắm bắt thông tin, giải quyết những hạn chế thông
tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch tại các KDLQG được quy hoạch.
Từ đó, tạo sự thống nhất về nhận thức cho các ngành, các cấp liên quan về quá trình
thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa phương mình, nâng cao trình độ thanh
tra và đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công việc thuộc phạm vi quản lý của ngành
Du lịch.
Thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển KDLQG được quy hoạch cần được
thực hiện định kỳ và đột xuất, tránh tình trạng cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có
hành vi đối phó hay móc nối với cán bộ kiểm tra. Từ đó đảm bảo các thông tin nhận
được trung thực và chính xác, giúp cho các cơ quan quản lý có được đủ thông tin
thẩm định quá trình triển khai thực hiện chính sách. Trên cơ sở đó, có những biện
pháp điều chỉnh kịp thời và cần thiết, để duy trì kỷ cương, đảm bảo ý thức tuân thủ
các quy định chung trong quá trình thực thi chính sách phát triển các KDLQG được
quy hoạch thuộc vùng ĐBSH&DHĐB hiện nay.
Ngoài thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo đúng Luật Thanh tra, chính quyền
địa phương cần phải rà soát lại các văn bản hiện hành, loại bỏ những quy định không
phù hợp, nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình thực hiện chính sách phát
triển KDLQG được quy hoạch. Thanh kiểm tra cần kết hợp với các ngành công an,
quản lý thị trường... kiểm soát chất lượng, chủng loại, giá cả dịch vụ du lịch và các
145
dịch vụ khác, đảm bảo lợi ích cho du khách và uy tín của các DNDL kinh doanh
chân chính, hợp pháp với hiệu quả cao nhất.
4.3.3. Nhóm giải pháp đặc thù về chính sách để phát triển du lịch tại các khu du
lịch quốc gia
Hiện nay, các chính sách phát triển KDLQG còn chưa có tính đặc thù riêng
cho KDLQG mà vẫn là chính sách chung phát triển du lịch. Vì thế, cần xác định các
chính sách riêng, mang tính đặc thù để phát triển du lịch tại các KDLQG. Cụ thể là:
- Đầu tư CSHT du lịch, giao thông trọng yếu trong phạm vi KDLQG, tăng khả
năng tiếp cận điểm hấp dẫn du lịch của điểm đến, tăng mực độ tiện lợi cho du khách
để tạo điều kiện khai thác và phát triển KDLQG hiệu quả hơn.
- Thu hút các nhà đầu tư chiến lược có tầm cỡ, đủ khả năng xây dựng, kiến tạo
và triển khai các dự án phát triển du lịch mang tính đồng bộ và chất lượng trong nội
bộ KDLQG, đảm bảo tính khả thi và hiện thực của dự án, giảm thời gian triển khai
dự án do nguồn vốn được đảm bảo đầy đủ và sẵn sàng, tăng thời gian khai thác và
vận hành bằng cách nhanh chóng đưa các dự án đầu tư vào thực tế khai thác, đáp ứng
hiệu quả và kịp thời nhu cầu của khách du lịch khi đến du lịch tại các KDLQG.
- Xây dựng các đề án phát triển du lịch chuyên đề. Mỗi vùng miền ở Việt Nam
đều có những đặc điểm riêng về các điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội và có những
đặc trưng riêng về tài nguyên du lịch. Do vậy, sự hình thành và phát triển đề án du
lịch chuyên đề ở mỗi KDLQG cũng cần có sự khác biệt, tạo ra nét đặc thù riêng theo
các chuyên đề khác nhau: Du lịch tham quan thắng cảnh (Hạ Long, Tràng An, Tam
Đảo, Cát Bà,…; Du lịch tâm linh (Tam Chúc); Du lịch lễ hội (Côn Sơn – Kiếp Bạc,
Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam,…); Du lịch thưởng thức văn hóa văn nghệ dân
gian (Rối nước, Ca Trù, Quan họ, Hát Xoan, Cải Lương…).
- Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số, hạ tầng viễn thông, mạng 5G trong phát
triển du lịch tại các KDLQG. Phát triển du lịch thông minh là xu hướng tất yếu trong
thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi những thành tựu khoa học và công
nghệ hiện đại được ứng dụng mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có du lịch. Tại Việt Nam, ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành Du lịch và phát
triển du lịch thông minh là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ, hiện đang được
triển khai rộng khắp trong toàn ngành.
Chính phủ, Bộ VHTTDL cần có cơ chế, chính sách đặc thù và ban hành những
văn bản cụ thể, quy định, hướng dẫn chi tiết về phát triển du lịch thông minh để định
hướng cho ngành Du lịch và các KDLQG trong việc triển khai thực hiện. Cơ quan
146
quản lý du lịch các KDLQG cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát
triển du lịch thông minh, có lộ trình và bước đi phù hợp. Căn cứ vào điều kiện kinh
tế – xã hội, CSVCKT, kết cấu hạ tầng, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và tiềm
năng phát triển du lịch để đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số, hạ tầng viễn thông,
mạng 5G trong phát triển du lịch tại các KDLQG.
Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin –
truyền thông theo hướng ứng dụng cho ngành du lịch, tạo nền tảng công nghệ cho du
lịch thông minh tại các KDLQG. Cần xác định và ưu tiên đầu tư cho các hạng mục
công nghệ quan trọng hỗ trợ phát triển du lịch thông minh, bao gồm: xây dựng cơ sở
dữ liệu ngành; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ; đầu tư sản xuất các phần mềm, hệ
thống, chương trình, ứng dụng, tiện ích thông minh cho ngành du lịch; nghiên cứu
ứng dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất các sản phẩm và dịch vụ du lịch thông
minh; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến cho công tác quản lý và phát triển
điểm đến là các KDLQG; ứng dụng công nghệ cho công tác thống kê du lịch; ứng
dụng công nghệ cho công tác bảo tồn, phục chế các giá trị di sản, di tích phục vụ phát
triển du lịch tại các KDLQG.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát
triển du lịch thông minh tại các KDLQG cho các thành phần, đối tượng liên quan.
Nâng cao nhận thức của người dân tại các KDLQG về du lịch thông minh, về các
hoạt động du lịch trực tuyến, những ưu điểm và những tồn tại, bất cập của nó để
khách du lịch và người dân hiểu, có những hoạt động tích cực, “thông minh”, tránh
bị lợi dụng, lừa đảo. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng
dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận du lịch thông minh. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, nâng cao hiệu quả quản lý,
từng bước điện đại hóa ngành du lịch.
- Khuyến khích ứng dụng công nghệ sạch và năng lượng xanh, kiểm soát chặt
các chuẩn mực về môi trường rác thải tại các KDLQG. KDLQG là những điểm du
lịch có lợi thế đặc biệt về nguồn TNDL cấp quốc gia, có giá trị rất lớn trong khai thác
và phát triển du lịch, vì thế cần ưu tiên các chính sách bảo vệ môi trường, trong đó
tập trung vào các nội dung như chú trọng ứng dụng công nghệ sạch và năng lượng
xanh, thân thiện môi trường, đảm bảo duy trì môi trường, hệ sinh thái, động thực vật
mang tính nguyên bản tại các KDLQG, đảm bảo khai thác mang tính hiệu quả và bền
vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ các chuẩn mực về khí thải, rác thải, hạn chế tối
đa các tác động tiêu cực của nó tới phát triển du lịch tại các khu vực này.
147
Bên cạnh đó, để đảm bảo tạo ra nhiều điều kiện ưu tiên hơn cho phát triển du
lịch tại các KDLQG cần nghiên cứu, áp dụng các chính sách sau:
- Tăng thời gian khai thác và sử dụng đất thương mại dịch vụ (từ 50 năm lên
70 năm). Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai 2013, đất thương mại dịch
vụ được các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức sử dụng do được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất hoặc được phê duyệt dự án đầu tư thì thời hạn sử dụng đất không quá 50
năm. Tuy nhiên các dự án đầu tư thương mại dịch vụ lớn và quá trình thu hồi vốn
chậm hoặc các dự án đầu tư thương mại dịch vụ tại các khu vực mà có điều kiện kinh
tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn cần thời hạn đầu tư dài hơn thì thời hạn sử
dụng đất là không quá 70 năm.
Đầu tư phát triển KDLQG bao gồm nhiều dự án đầu tư thương mại khác nhau,
có thể bao gồm đầu tư cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí,… là các dự án đầu tư
có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tốc độ quay vòng vốn khá lâu. Chưa
kể, phát triển KDLQG cần các công trình thương mại dịch vụ với quy mô và tầm cỡ
đủ lớn, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của KDL ở tầm cỡ quốc gia, vì thế, càng cần
nguồn vốn đầu tư lớn, đồng bộ và nhanh chóng. Tuy nhiên, do thời gian thu hồi vốn
chậm nên nếu bị giới hạn thời gian thuê và sử dụng đất thương mại dịch vụ như trong
Luật Đất đai 2013 sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các dự án đầu tư, đặc biệt là tại những
địa phương có KDLQG nhưng điều kiện kinh tế chưa thực sự phát triển, như KDLQG
Ba Vì – Suối Hai, KDLQG Tam Đảo, …Vì thế các chính sách gia hạn thời gian thuê
đất từ 50 năm lên 70 năm là rất cần thiết.
Ngoài ra, việc bổ sung hướng dẫn ưu tiên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất lần 2 (sau 50 hoặc 70 năm) cho các nhà đầu tư hiện hữu, tạo ra
khả năng thu hồi vốn và mang lại lợi nhuận cho các nhà kinh doanh cũng rất cần thiết.
Các hướng dẫn cần rõ ràng, cụ thể về nguyên tắc, thủ tục, quyền và nghĩa vụ đối với
bên thuê đất để tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư hiện tại đã đổ vốn
kinh doanh, góp phần phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc Vùng.
4.4. Một số kiến nghị
4.4.1. Kiến nghị với các cơ quan trung ương
- Kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhanh chóng và kịp thời công bố công
khai và rộng rãi các dự án phát triển các KDLQG vào danh mục các dự án ưu tiên
để kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các KDLQG có cơ hội
thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư lớn, nâng cấp đồng bộ CSHT và
CSVCKT du lịch, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
148
- Kiến nghị Bộ Tài chính cân nhắc, điều chỉnh và phê duyệt tăng mức hỗ trợ
đầu tư xây dựng hệ thống CSHT hàng năm tại các KDLQG hiện nay, nâng mức
ngân sách cấp cho các địa phương có đủ nguồn lực thực hiện các mục tiêu, chính
sách phát triển các hoạt động du lịch nói chung và phát triển KDLQG nói riêng của
địa phương mình trong giai đoạn 2025 – 2030 hoặc xa hơn.
4.4.2. Kiến nghị với các cơ quan địa phương
- Đề nghị Sở Giao thông Vận tải các địa phương có KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh mình và Bộ Giao thông Vận tải về
việc nâng cấp các tuyến đường bộ liên tỉnh, nối các điểm du lịch trong và ngoài phạm
vi địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ vận chuyển du lịch đến
các KDLQG đã được quy hoạch và các hoạt động kinh tế xã hội khác của địa phương.
- Đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc
đầu tư xây dựng CSHT, các công trình & khu vui chơi giải trí công cộng cho các địa
phương này và vùng phụ cận, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng
dịch vụ du lịch và nâng cao đời sống tinh thần của người dân tại các địa phương có
KDLQG đã được quy hoạch.
- Đề nghị Sở Công Thương tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Công Thương về việc mở
rộng và phát triển các trung tâm thương mại, nâng cấp các chợ lớn, chợ trung tâm của
các địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ
phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Đề nghị Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương có KDLQG thuộc
vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Thông tin và Truyền
thông về việc tăng cường hoạt động truyền thông xúc tiến, quảng bá các hình ảnh
SPDL đặc trưng của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao sự hiểu
biết của người dân và nâng cao sự tiếp cận đầy đủ thông tin của du khách về SPDL
tại các KDLQG đã được quy hoạch của địa phương.
- Đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội về việc xây dựng và phát triển các lớp đào tạo ngắn
hạn về năng lực quản lý và tác nghiệp dịch vụ du lịch tại địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc nâng cao trình độ NNLlao động du lịch và quản lý du lịch.
149
- Đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tại các địa phương có KDLQG thuộc
vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc khoanh vùng bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch tự nhiên tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch văn hóa, sinh thái và du lịch bền
vững tại các KDLQG đã được quy hoạch.
150
KẾT LUẬN
Để phát triển du lịch hiệu quả và bền vững rất cần có vai trò quản lý điều tiết
vĩ mô của Nhà nước và chính quyền địa phương. Thông qua các chính sách quản lý,
hoạt động du lịch sẽ được điều tiết để khai thác hợp lý, bền vững tiềm năng, mang lại
lợi ích kinh tế - văn hóa – xã hội cho điểm đến du lịch nói chung và các KDLQG nói
riêng. Điều này lại càng trở nên cấp thiết ở các KDLQG – nơi có giá trị TNDL ở cấp
quốc gia, việc khai thác và phát triển du lịch lại càng đòi hỏi phải xứng tầm.
Thời gian vừa qua, sự phát triển du lịch tại các KDLQG của vùng Du lịch
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc bị đánh giá là chưa xứng với tiềm
năng. Một trong những nguyên nhân gây tác động mạnh nhất chính là chính sách phát
triển KDLQG đang được triển khai ở đây vẫn còn tồn tại một số bất cập.
Chính vì vậy, NCS đã cố gắng tổng hợp, nghiên cứu, phân tích và đề xuất 2
nhóm giải pháp về chính sách để phát triển KDLQG vùng Du lịch Đồng bằng Sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc gồm: 1) Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính
sách phát triển KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, bao gồm: Chính sách
bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch; Chính sách tài chính; Chính sách
đào tạo và phát triển NNL du lịch; Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch;
Chính sách phát triển SPDL; Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch; Chính sách liên
kết, hợp tác phát triển du lịch và 2) Nhóm giải pháp hoàn thiện quy trình chính sách
liên quan đến hoàn thiện tổ chức, thực hiện chính sách và hoàn thiện kiểm tra, thanh
tra việc chấp hành chính sách. Bên cạnh đó, nhằm tạo hành lang pháp lý và điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB, NCS cũng đề xuất
một số kiến nghị cụ thể đối với các cơ quan trung ương và địa phương.
So với mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, luận án đã thực hiện được các nội dung sau:
Một là, thông qua tổng hợp, phân tích, nghiên cứu các tài liệu, luận án đã hệ
thống hóa chọn lọc các vấn đề lý luận về chính sách phát triển các KDLQG tại vùng
du lịch, các vấn đề khái luận cơ bản về KDLQG, nội dung chính sách, quy trình chính
sách và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển các KDLQG
thuộc vùng du lịch. Nghiên cứu kinh nghiệm chính sách phát triển một số KDLQG
trên thế giới và tại Việt Nam, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện
chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB của Việt Nam.
Hai là, nghiên cứu, phân tích và đánh giá một cách toàn diện nội dung các
chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, bao gồm hệ
thống 8 chính sách và quy trình chính sách đã được ban hành và triển khai. Đồng thời,
151
luận án cũng tìm hiểu và phân tích một số yếu tố chủ yếu, từ cấp vĩ mô đến cấp địa
phương, có thể ảnh hưởng đến hệ thống chính sách phát triển KDLQG và quy trình
chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng. Dựa trên cơ sở phân tích ở trên, luận án
đã đánh giá về ưu điểm và hạn chế về chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB, đồng thời chỉ ra các nguyên nhân của thực trạng đó.
Ba là, qua tổng quan mục tiêu và phương hướng phát triển du lịch của Vùng
trong thời gian tới trong Chiến lược phát triển du lịch đã ban hành, luận án đã tổng
hợp phương hướng và đề xuất quan điểm về hoàn thiện chính sách phát triển KDLQG
thuộc Vùng. Từ đó, đề xuất 2 nhóm giải pháp với các giải pháp cụ thể, kiến nghị với
các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương liên quan, góp phần hoàn thiện chính
sách phát triển KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB trong thời gian tới. Kết
quả nghiên cứu của luận án hy vọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
và tính cấp thiết về phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc Vùng. Luận án là tài liệu
mang tính cập nhật, gợi ý để các nhà quản lý tham khảo trong xây dựng các chính
sách phát triển du lịch nói chung tại các địa phương. Luận án sẽ là nền tảng cơ sở để
các vùng, miền, địa phương khác nghiên cứu, học tập.
Mặc dù đã nỗ lực hết sức trong suốt quá trình nghiên cứu, luận án không tránh
khỏi những hạn chế và sai sót nhất định. Trong khuôn khổ luận án này, còn một số
vấn đề lý luận chưa thể làm rõ hay lý giải cặn kẽ. Những thắc mắc này hiện thời chưa
thể giải thích được do sự hạn chế về thông tin và trình độ chuyên môn, cũng như thời
gian nghiên cứu.
Trong tương lai, nếu có cơ hội tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này, NCS sẽ cố
gắng vận dụng các khả năng và hiểu biết của mình để làm rõ những thắc mắc về mặt
lý luận trên, làm rõ hơn về thực trạng chính sách phát triển du lịch, đặc biệt là chính
sách phát triển KDLQG tại vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB.
xi
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Tên, số tạp chí
T
T Năm
công bố Tên bài báo, công trình
khoa học đã nghiên cứu Mức độ
tham gia công bố, tên sách,
mã số đề tài
1 2019 Tác giả Tạp chí Khoa học
Thương mại
Kinh nghiệm về chính sách
phát triển các khu du lịch
quốc gia trên thế giới và bài
học rút ra cho Việt Nam
2 2019 Tạp chí Du lịch Tác giả Bàn về chính sách phát triển
khu du lịch quốc gia
3 2019 Chủ nhiệm
Đề tài Nghiên cứu khoa
học cấp trường, mã số:
CS18 – 05 Chính sách phát triển các
khu du lịch quốc gia Việt
Nam: thực trạng và giải
pháp
4 2020 Thành viên
Strategic Impact of Covid-
on
Pandemic
19
Vietnamese
Tourism
Enterprises
International Journal of
Mechanical
and
Production Engineering
and
Research
Development
(IJMPERD), ISSN (P):
2249–6890; ISSN (E):
2249–8001
xii
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Bằng (1996), Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư
phát triển ngành Du lịch Việt Nam , Luận án phó tiến sĩ Kinh tế, Đại học Tài
chính - Kế toán Hà Nội.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Hệ thống chính sách đầu tư, tài chính
ngành VHTTDL và gia đình trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải pháp,
Đề tài khoa học cấp Bộ.
3. Nguyễn Mạnh Cường (2015), Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong phát triển du lịch bền vững tỉnh, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
4. Trần Tiến Dũng (2007), Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng,
Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Đức (2013), Tổ chức các hoạt động du lịch tại một số di tích lịch
sử văn hóa quốc gia của Hà Nội theo hướng phát triển bền vững, Luận án tiến
sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
6. Lương Thanh Hải (2013), Quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên: Hướng dẫn
phát triển du lịch bền vững tại tỉnh Kiên Giang và cụ thể cho khu vực Hà Tiên
- Đông Hồ, NXB Nông nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Trần Sơn Hải (2010), Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu vực duyên
hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính
8. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2016), Sự tham gia của cộng đồng địa phương trong
phát triển du lịch miền núi. Nghiên cứu điển hình tại Sa Pa, Lào Cai, Luận án
tiến sĩ, ĐH Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
9. Trần Quang Hảo (2008), Đâu là điều kiện cần thiết để phát triển nguồn nhân
lực du lịch, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 4/2008.
10. Trịnh Quang Hảo (2002), Cơ sở khoa học cho các chính sách, giải pháp quản
lý khai thác tài nguyên du lịch ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Nhà nước.
11. Trần Thị Bích Hằng (2019), “Phát triển sản phẩm du lịch vùng Đồng bằng sông
Hồng và Duyên Hải Đông Bắc giai đoạn 2020-2030”, Đề tài NCKH cấp Bộ
12. Đinh Thị Hải Hậu (2014), Huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực
du lịch Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Học viện Tài chính.
xiii
13. Nguyễn Lê Thu Hiền (2014), Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh
Thừa Thiên Huế, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
14. Phan Thị Thu Hương (2016), Nghiên cứu ứng dụng tài khoản vệ tinh du lịch ở
cấp tỉnh, thành phố (Minh họa tại Thừa Thiên Huế), Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
15. Nguyễn Trùng Khánh (2012), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á và gợi
ý chính sách cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam.
16. Đinh Kiệm (2012), Phát triển du lịch sinh thái ở các tỉnh vùng duyên hải cực
Nam Trung Bộ đến năm 2020, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh.
17. Phạm Trung Lương (2000), Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền
vững ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Nhà nước.
18. Nguyễn Duy Mậu (2011), Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh.
19. Vũ Đức Minh (2009), Kinh tế du lịch, Nxb Thống Kê, Hà Nội
20. Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và du lịch học,
Nxb Trẻ, Hà Nội.
21. Hồ Kỳ Minh (2011), Phát triển bền vững ngành du lịch trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng, Đề tài NCKH cấp Bộ.
22. Lê Văn Minh (2006) , Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu
du lịch, Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện nghiên cứu phát triển du lịch.
23. Trịnh Đăng Thanh (2004), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
du lịch ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Đăng Tiến (2016), Nghiên cứu, đánh giá tài nguyên du lịch và điều kiện
sinh khí hậu phục vụ phát triển du lịch bền vững khu vực Quảng Ninh - Hải
Phòng, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam.
25. Nguyễn Thị Mỹ Thanh, Nguyễn Thị Thống Nhất, Ngô Trường Thọ (2010), Các
giải pháp phát triển bền vững du lịch sinh thái tại Thừa Thiên Huế và Thành
phố Đà Nẵng, Đề tài NCKH cấp Bộ.
xiv
26. Nguyễn Thị Lệ Thúy, Bùi Thị Hồng Việt (2012), Giáo trình Chính sách kinh tế
- xã hội, Nxb Tài Chính, Hà Nội.
27. La Nữ Ánh Vân (2012), Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan
điểm phát triển bền vững, Luận án tiến sỹ, Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh.
28. Đỗ Thị Thanh Vân (2010), Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển đào
tạo nghề ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
29. Chu Văn Yêm (2004), Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2010, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
30. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2002), Cơ sở khoa học, thực tiễn và giải
pháp thực hiện xã hội hóa du lịch Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Bộ.
31. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2004), Phương hướng phát triển du lịch -
Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam, Đề tài
NCKH cấp Bộ.
32. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2004) Phương hướng phát triển du lịch -
Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam, Đề tài
NCKH cấp Bộ.
33. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2006) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu
tư phát triển khu du lịch, Đề tài NCKH cấp Bộ.
34. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2008), Cơ sở khoa học phát triển du lịch
đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài NCKH cấp Bộ.
35. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2011), Hiện trạng và giải pháp phát triển
các khu du lịch biển QG tại vùng du lịch Bắc Trung bộ, Đề tài NCKH cấp Bộ
36. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2011), Hiện trạng và giải pháp phát triển
các khu du lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung bộ, Đề tài NCKH cấp
Bộ.
37. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2014), Tổng quan hệ thống chính sách phát
triển du lịch Việt Nam, Đề tài cấp cơ sở.
38. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (2014), Quy hoạch tổng thể phát triển
du lịch đồng bằng Sông Hồng và duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm
nhìn 2030.
39. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2015), Nghiên cứu xây dựng sản phẩm đặc
thù vùng đồng bằng sông Hồng, Đề tài NCKH cấp Bộ.
xv
40. Công văn số 4929/BGDĐT- GDĐH Áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành
về du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 20 tháng 10 năm 2017
41. Công văn số 1857/BVHTTDL-TCDL Bảo vệ môi trường, hạn chế sử dụng túi
nylon, ống hút nhựa, cốc nhựa dùng một lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch
ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2019
42. Nghị định số 168/2017/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch,
Chính phủ ban hành ngày 31 tháng 12 năm 2017
43. Nghị quyết 03-NQ/TU Phát triển thành phố Đà Lạt và cùng phụ cận giai đoạn
2016 - 2020, định hướng đến 2030, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng (khoá
X) ban hành ngày 13 tháng 9 năm 2016
44. Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 26/6/2016 của Thành ủy Hà Nội về phát triển du
lịch Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo, Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2016
45. Nghị quyết 07-NQ/TU Phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn 2016 - 2020,
định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Lâm Đồng (khoá X) ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2016
46. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn, Bộ Chính trị ban hành ngày 16 tháng 01 năm 2017
47. Nghị quyết số 103/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính
trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 6 tháng 10 năm 2017
48. Nghị quyết 256/2020/NQ-HĐND Về một số giải pháp hỗ trợ kích cầu du lịch
tỉnh Quảng Ninh năm 2020, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành ngày
14 tháng 5 năm 2020
49. Nghị quyết 266/2020/NQ-HĐND Sửa đổi, bổ sung một số nội dung Nghị quyết
số 256/2020/NQ-HĐND ngày 14 tháng 5 năm 2020 về một số giải pháp hỗ trợ
kích cầu du lịch tỉnh Quảng Ninh năm 2020, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng
Ninh ban hành ngày 9 tháng 7 năm 2020
50. Quyết định số 201/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 22 tháng 01 năm 2013
xvi
51. Quyết định số 2163/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2013
52. Quyết định số 1845/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du
lịch quốc gia Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 26 tháng 9 năm 2016
53. Quyết định số 1927/QĐ-TTg Công nhận khu du lịch quốc gia Sapa, tỉnh Lào
Cai, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 01 tháng 12 năm 2017
54. Quyết định số 205/QĐ-TTg Công nhận khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm,
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 15
tháng 02 năm 2017
55. Quyết định số 29/2017/QĐ-UBND Thực hiện hỗ trợ chi phí lập hồ sơ đề xuất
dự án đầu tư trực tiếp thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh, Ủy
ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ban hành ngày 28 tháng 8 năm 2017
56. Quyết định 2649/QĐ-UBND Ban hành quy định quản lý theo đồ án điều chỉnh
quy hoạch chung Khu du lịch hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2050, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành ngày 07
tháng 12 năm 2017
57. Quyết định số 526/QĐ-TTg Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch
quốc gia Tam Chúc, tỉnh Hà Nam đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 15 tháng 05 năm 2018
58. Quyết định số 2646/QĐ-BVHTTDL Ban hành về việc công nhận Khu du lịch
quốc gia Núi Sam, tỉnh An Giang, Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch ban hành
ngày 13 tháng 7 năm 2018
59. Quyết định 1124/ QĐ-UBND Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Ủy ban nhân dân tỉnh
Ninh Bình ban hành ngày 30 tháng 8 năm 2018
60. Quyết định 1606/ QĐ-UBND Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
tỉnh Hà Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Nam ban hành ngày 7 tháng 9 năm 2018
61. Quyết định số 49/2018/QĐ-TTg Thành lập, phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt
động của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 12
tháng 12 năm 2018
xvii
62. Quyết định số 4829/QĐ-BVHTTDL Phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả xúc
tiến, quảng bá du lịch Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành
ngày 25 tháng 12 năm 2018
63. Quyết định số 1501/QĐ-BVHTTDL Công nhận Khu du lịch Quốc gia Trà Cổ,
TP Móng Cái, Quảng Ninh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 24
tháng 4 năm 2019
64. Quyết định số 147/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
22 tháng 01 năm 2020
II Tài liệu tham khảo tiếng Anh
65.
66.
John S. Akama (1998), “The evolution of wildlife conservation policies in
Kenya”, Journal of Third World Studies; Americus Vol. 15, Iss. 2, p103-117
Sherap Bhutia (2014), The Role of Tourism for Human Resource Development
in Darjeeling District of West Bengal, India, Journal of Tourism and Hospitality
Management (Vol. 2, No. 1, p. 113-128).
67. Bill Bramwell, Bernard Lane (2000), Tourism Collaboration and Partnerships:
Politics, Practice and Sustainability, Channel View Publications, Business &
Economics
68. HwanSuk Chris Choi & Ercan Sirakaya (2006), Sustainability indicators for
managing community tourism, Tourism Management (No 6, Dec 2006, p1274
– 1289).
69. David A. Fennell, Ross Kingston Dowling (2003), “Ecotourism Policy and
Planning”, Cabi Publishing
70. Arvid Flagestad & Christine A. Hope (2001), Strategic success in winter sports
destinations: a sustainable value creation perspective, Tourism Management,
(No 5, Nov 2001, p445–461).
71. Derek Hall, Greg Richards (2002), Tourism and Sustainable Community
Development, Routledge, Business & Economics
72. Edward Inskeep (1991), “Tourism Planning: An Integrated and Sustainable
Development Approach”, John Wiley & Sons Inc.
73. David Jeffries (2007), Governments and Tourism, Routledge.
74. Nese Kumral, A Özlem Önder (2014), Tourism, Regional Development and
Public Policy, Routledge, Business & Economics
xviii
76.
77.
78.
75. Anu Singh Lather & Shalini Garg and Sona Vikas (2009), Human resource
development in tourism: developing a training strategy for increasing
employability, International Journal of Tourism and Travel (Volume 2, Issue
2).
S.Medlik (1995), Managing Tourism, Butterworth - Heinemann Ltd
Soh & Juliana Kheng Mei (2008), Human Resource Development in the
Tourism Sector in Asia, The Berkeley Electronic Press.
James Mak (2008), Developing a Dream Destination: Tourism and Tourism
Policy Planning in Hawai’i, University of Hawaii Press.
79. Martin Oppermann & Kye - Sung Chon (1997), Tourism in Developing
80.
Countries, NXB International Thomson Business Press.
Stephen J. Page & Don Getz (1997), The Business of Rural Tourism
International Perspectives, International Thomson Business Press.
81. Hanqin Zhang Qiu, Terry Lam, (2004) Human resources issues in the
development of tourism in China: evidence from Heilongjiang Province,
International Journal of Contemporary Hospitality Management (Vol. 16 Issue:
1, p.45-51).
82. Richard Sharpley & David J. Telfer (2014), Tourism and Development:
Concepts and Issues, the 2nd edition, Channel View Publication.
83. David Scowsill (2015), Governing National Tourism Policy, World Travel &
Tourism Council.
84. David J.Telfer & Richard Sharpley (2014), Tourism and Development in the
Developing World, the 1st edition, Routledge.
85. David J.Telfer & Richard Sharpley (2015), Tourism and Development in the
Developing World, the 2nd edition, Routledge.
86. Gee & Chuck Y (1996), “Resort Development and Management”, East Lansing,
Mich.: Educational Institute of the American Hotel & Motel Association.
PHỤ LỤC 01
THÔNG TIN VỀ 15 CHUYÊN GIA ĐƯỢC PHỎNG VẤN SÂU
STT
CHUYÊN GIA
ĐƠN VỊ
HỌC
VẤN
KINH
NGHIỆM
GS,TS
>30 năm
Chuyên gia 1
1
Trường Đại học
Thương mại, Hà Nội
TS
>10 năm
2
Chuyên gia 2
Trường Đại học
Thương mại, Hà Nội
PGS,TS >20 năm
3
Chuyên gia 3
TS
>20 năm
4
Chuyên gia 4
Trường Đại học Khoa
học Xã hội
và Nhân văn, Hà Nội
Trường Đại học Khoa
học Xã hội
và Nhân văn, Hà Nội
ThS
>10 năm
5
Chuyên gia 5
UBND
tỉnh Quảng Ninh
ThS
>10 năm
6
Chuyên gia 6
Sở Du lịch Hà Nội
ThS
>10 năm
7
Chuyên gia 7
Sở Du lịch
Quảng Ninh
ThS
>10 năm
8
Chuyên gia 8
Sở Du lịch
Quảng Ninh
ThS
>10 năm
9
Chuyên gia 9
Sở Du lịch Hải Phòng
CN
>10 năm
10
Chuyên gia 10
Sở VHTTDL Hà Nam
CN
>10 năm
11
Chuyên gia 11
Sở Du lịch Ninh Bình
12
ThS
>4 năm
Chuyên gia 12
Công ty Du lịch và
Tiếp thị
Giao thông vận tải
Viettravel
13
ThS
>5 năm
Chuyên gia 13
Tổng Công ty du lịch
Hà Nội – Hanoitourist
14
CN
>15 năm
Chuyên gia 14
Công ty Du lịch Kỳ
quan Việt – Leadtravel
15
CN
>8 năm
Chuyên gia 15
Công ty Cổ phần dịch
vụ và du lịch Vietsense
PHỤ LỤC 02
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU CÁC CHUYÊN GIA
(Đối với các chuyên gia có nghiên cứu liên quan đến du lịch và đại diện cơ
quan quản lý khu du lịch quốc gia vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải
Đông Bắc)
Kính thưa Ông/Bà!
Tôi là nghiên cứu sinh của trường Đại học Thương mại. Hiện tôi đang nghiên
cứu đề tài luận án “Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia vùng du lịch
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc”. Tôi rất mong Ông/Bà dành chút
thời gian cung cấp thông tin trong Phiếu khảo sát dưới. Những thông tin Ông/Bà cung
cấp rất quan trọng, góp phần để luận án có thêm những đánh giá khách quan, toàn
diện; từ đó đề xuất được giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc.
Chúng tôi xin cam kết các thông tin do Ông/Bà cung cấp chỉ được sử dụng
cho mục đích nghiên cứu đề tài luận án nói trên và Ông/Bà không phải chịu bất cứ
trách nhiệm nào về các thông tin đã cung cấp.
Xin Ông/Bà trả lời các câu hỏi sau:
1. Xin ông/bà cho biết, các chính sách nào là cần thiết để phát triển các KDLQG
thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB hiện nay?
TT
Các chính sách
Ý kiến của chuyên gia
Đồng ý
Không đồng ý
1 Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi
trường du lịch
2 Chính sách tài chính
3 Chính sách kích cầu du lịch
4 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực du lịch
5 Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch
6 Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
7 Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
8 Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
9 Chính sách khác
2. Xin ông/bà cho biết, trong quy trình xây dựng chính sách, việc xác định, lựa
chọn vấn đề cần giải quyết trong chính sách được căn cứ vào những yếu tố nào?
3. Xin ông/bà cho biết việc xây dựng các phương án trong quy trình xây dựng
chính sách được tiến hành như nào?
4. Xin ông/bà cho biết phương án tối ưu trong quy trình xây dựng chính sách được
xác định như thế nào?
5. Xin ông/bà cho biết các quyết định ban hành chính sách trong quy trình xây
dựng chính sách được thực hiện như thế nào?
6. Xin ông/bà hãy đánh giá về công tác chuẩn bị triển khai chính sách phát triển
các khu du lịch quốc gia tại địa phương:
- Có lập cơ quan tổ chức thực hiện?
- Có xây dựng chương trình hành động?
- Có ra các văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn không?
7. Xin ông/bà hãy đánh giá về cách thức chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển
các khu du lịch quốc gia tại địa phương:
- Về tuyên truyền chính sách?
- Về xây dựng quỹ thực hiện chính sách?
- Về phân công và phối hợp các ban, ngành của địa phương?
8. Ông/bà có nhận xét gì về công tác kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch tại địa phương trong việc chấp hành Chính sách?
9. Xin ông/bà cho biết công tác đánh giá và điều chỉnh Chính sách phát triển các
khu du lịch quốc gia hiện nay tại địa phương được tiến hành như nào? Ông/bà nhận
xét gì về công tác này tại địa phương hiện nay ?
10. Xin ông/bà cho biết những khó khăn và nguyên nhân của những khó khăn đó
trong việc triển khai thực hiện Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia hiện
nay tại địa phương?
11. Xin ông/bà hãy đánh giá các giải pháp đã và đang được thực hiện để hạn chế
những khó khăn này?
12. Ngoài những giải pháp nói trên, ông/bà còn có các kiến nghị và giải pháp gì đề
hoàn thiện chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia tại địa phương?
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác tích cực của ông/bà!
PHỤ LỤC 03
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG
MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
Phiếu số :……
PHIẾU KHẢO SÁT
(Đối với doanh nghiệp du lịch hoạt động kinh doanh tại
Khu du lịch.............................................................................................)
Kính thưa Ông/Bà!
Tôi là nghiên cứu sinh của trường Đại học Thương mại. Hiện tôi đang nghiên
cứu đề tài luận án “Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia vùng du lịch
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc”. Tôi rất mong Ông/Bà dành chút
thời gian cung cấp thông tin trong Phiếu khảo sát dưới. Những thông tin Ông/Bà cung
cấp rất quan trọng, góp phần để luận án có thêm những đánh giá khách quan, toàn
diện; từ đó đề xuất được giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia vùng Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc.
Chúng tôi xin cam kết các thông tin do Ông/Bà cung cấp chỉ được sử dụng
cho mục đích nghiên cứu đề tài luận án nói trên và Ông/Bà không phải chịu bất cứ
trách nhiệm nào về các thông tin đã cung cấp.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ của Ông/Bà.
Xin Ông/Bà vui lòng trả lời đầy đủ các câu hỏi trong phiếu khảo sát bằng cách
đánh dấu tích () vào ô tương ứng với phương án phù hợp hoặc cho điểm đánh
giá theo mức tương ứng hoặc điền vào phần trả lời còn trống trong các câu hỏi.
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1. Tên doanh nghiệp: ..............................................................................................
2. Địa chỉ: ................................................................................................................
Website: ...............................................................................................................
Số điện thoại liên hệ: ..........................................................................................
3. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp?
□ 3.1 Lữ hành
□ 3.2 Lưu trú du lịch
□ 3.3 Vận chuyển du lịch
□ 3.4 Dịch vụ ăn uống
□ 3.5 Dịch vụ du lịch khác
4. Hình thức sở hữu doanh nghiệp?
□ 4.1 Doanh nghiệp nhà nước
□ 4.2 Công ty cổ phần
□ 4.3 Doanh nghiệp tư nhân
□ 4.5 Công ty liên doanh nước ngoài
□ 4.4 Công ty TNHH
□ 4.6 Công ty 100% vốn nước ngoài
5. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp?
□ 5.1 Dưới 5 năm
□ 5.2 Từ 5 năm đến dưới 10 năm
□ 5.3 Từ Từ 10 năm đến dưới 15 năm
□ 5.4 Trên 15 năm
6. Quy mô của doanh nghiệp hiện nay?
□ 6.1 Quy mô lớn
□ 6.2 Quy mô vừa
□ 6.3 Quy mô nhỏ
II. NỘI DUNG KHẢO SÁT
7. Xin Ông/Bà vui lòng cho biết, hiện nay khu du lịch đã và đang triển khai
những chính sách phát triển du lịch nào?
7.1. Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
7.2. Chính sách tài chính
7.3. Chính sách kích cầu du lịch
7.4. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch
7.5. Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch
7.6. Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
7.7. Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
7.8. Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
7.9. Chính sách khác
8. Xin Ông/Bà vui lòng đánh giá kết quả thực hiện theo quy trình chính sách
phát triển du lịch tại khu du lịch?
Nội dung quy trình chính sách phát triển
du lịch tại khu du lịch
Rất kém
(1 điểm)
Kém
(2 điểm)
Khá
(4 điểm)
Tốt
(5 điểm)
Mức độ đánh giá
Trung
bình
(3 điểm)
8.1. Xây dựng và ban hành chính sách
a. Xác định, lựa chọn vấn đề và xây dựng
phương án
b. Lựa chọn phương án tối ưu
c. Quyết định ban hành chính sách
8.2. Tổ chức thực hiện chính sách
8.2.1. Về chuẩn bị triển khai chính sách
a. Công tác xây dựng chương trình, kế
hoạch và phổ biến chương trình, kế
hoạch cho doanh nghiệp
b. Việc ban hành văn bản hướng dẫn thực
hiện chính sách và tố chức tập huấn chính
sách cho doanh nghiệp
8.2.2. Về thực hiện chính sách
a. Thông tin tuyền truyền về chính sách
tới các doanh nghiệp
b. Tố chức quỹ thực hiện chính sách
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
8.3. Về công tác kiểm tra, thanh tra chấp
hành chính sách của các doanh nghiệp du
lịch
a. Kiểm tra thực hiện chính sách
b. Thanh tra thực hiện chính sách
8.4. Về đánh giá và điều chỉnh chính
sách
8.4.1. Đánh giá chính sách
a. Sự phù hợp của chính sách phát triển
du lịch với đường lối của Đảng và Nhà
nước
b. Sự đồng bộ, nhất quán, minh bạch,
ổn định và có tính kế thừa của chính
sách phát triển du lịch
c. Tính khoa học và khả thi của chính
sách phát triển du lịch
d. Mức độ đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp du lịch và khách du lịch
đ. Sự ủng hộ của dân cư đối với các
chính sách phát triển du lịch
8.4.2. Điều chỉnh chính sách
9. Xin Ông/Bà vui lòng đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến triển
khai chính sách phát triển du lịch tại khu du lịch?
Yếu tố ảnh hưởng đến triển khai chính
sách phát triển du lịch tại khu du lịch
Rất kém
(1 điểm)
Kém
(2 điểm)
Khá
(4 điểm)
Tốt
(5 điểm)
Mức độ ảnh hưởng
Trung
bình
(3 điểm)
9.1. An ninh chính trị và an toàn xã
hội
9.2. Trình độ nhận thức và năng lực
của cơ quan quản lý Nhà nước
9.3. Sự phát triển nhu cầu du lịch đến
các KDLQG
9.4. Chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương
9.5. Chủ trương, định hướng phát
triển du lịch của địa phương
9.6. Ngân sách địa phương chi cho
phát triển KDLQG
9.7. Sự phát triển của CSHT và
CSVCKT du lịch tại địa phương có
KDLQG
9.8. Nhân lực du lịch của địa phương
9.9. Nhận thức của dân cư địa phương
tại các KDLQG
9.10. Tài nguyên du lịch tại địa
phương
10. Xin Ông/Bà vui lòng cho biết hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế về
các chính sách phát triển khu du lịch?
Hạn chế: ...................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Nguyên nhân của hạn chế: .......................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
11. Xin Ông/Bà vui lòng đề xuất các ý kiến hoàn thiện các chính sách phát
triển khu du lịch?
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn Ông/Bà đã dành thời gian hoàn thành phiếu khảo sát này!
PHỤ LỤC 04
KẾT QUẢ KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP
Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội)
Điểm tham quan Ba Vì – Suối Hai (Hà Nội)
Khu du lịch Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
Khu du lịch Tam Chúc (Hà Nam)
Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương)
Điểm du lịch Hạ Long – Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng)
Khu du lịch Vân Đồn (Quảng Ninh)
Khu du lịch Trà Cổ (Quảng Ninh)
Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình)
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
Lữ
Lưu trú
Vận chuyển
Dịch vụ
Dịch vụ
Tổng
hành
du lịch
du lịch
ăn uống
du lịch khác
phiếu
3.2
3.3
3.4
3.5
3.1
138
0
0
1
5
144
121
0
0
0
5
126
136
8
9
4
5
162
136
14
9
4
5
168
119
0
0
0
5
124
136
17
7
4
4
168
136
15
7
4
4
166
135
13
8
4
5
165
138
15
9
1
5
166
II. NỘI DUNG KHẢO SÁT
Câu 7: Các chính sách phát triển du lịch đã/đang được triển khai tại khu du lịch
Mã câu hỏi
Số phiếu
Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
7.1
1.389
Chính sách tài chính
7.2
1.383
Chính sách kích cầu du lịch
7.3
1.379
Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch
7.4
1.389
Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch
7.5
1.389
Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
7.6
1.388
Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch
7.7
1.389
Chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch
7.8
1.387
Chính sách khác (Ghi rõ)
7.9
0
Câu 8: Doanh nghiệp đánh giá kết quả thực hiện theo quy trình chính sách phát
triển du lịch tại khu du lịch?
8.1.a 8.1.b 8.1.c
8.3.a
8.3.b
8.4.2
Mức
điểm
8.2.1.
a
8.2.1.
b
8.2.2.
a
8.2.2.
b
8.4.1.
a
8.4.1.
b
8.4.1.
c
8.4.1.
d
8.4.1.
đ
Khu
du
lịch
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
0
0
8
0
0
0
0
0
0
0
26
7
0
6
0
3
72
52
75
72
52
72
48
48
48
74
55
45
71
68
61
4
63
81
61
46
48
48
72
72
87
26
42
58
46
43
49
5
9
11
0
26
44
24
24
24
9
44
21
34
27
27
34
1
2
3
4
5
0
35
65
28
0
0
42
58
26
0
1
2
3
4
5
3.56 3.72 3.37
0
11
72
43
0
2.87 2.99 3.25
0
24
96
42
0
0
23
112
27
0
0
24
92
56
0
3.68
12
60
41
13
12
2.91
0
16
92
54
0
3.94
0
21
63
28
14
3.28
0
23
121
18
0
3.67
0
11
86
29
0
3.14
0
24
121
17
0
3.83
0
32
67
27
0
2.96
0
37
119
6
0
3.83
0
0
84
42
0
3.33
0
23
105
34
0
3.73
0
0
86
40
0
3.32
0
38
75
49
0
3.79
0
0
76
34
16
3.52
0
0
87
56
19
3.40
0
26
55
33
12
3.25
0
54
82
21
5
3.83
0
6
62
58
0
3.41
0
7
91
64
0
3.69
0
27
73
26
0
2.99
0
47
81
34
0
3.63
0
6
68
43
9
3.44
0
6
81
66
9
3.81
0
0
62
49
15
3.63
0
0
77
72
13
3.38 3.02 3.11
3.23
2.97
2.96
2.81
3.07
3.07
3.58
2.86
3.35
2.92
3.48
3.60
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
7
14
7
16
21
13
17
23
23
0
21
7
17
6
0
3
121
123
121
128
125
111
86
98
96
87
86
98
82
81
76
4
75
33
38
54
26
27
26
34
49
62
54
63
65
72
78
5
0
0
0
0
0
0
0
0
0
19
7
0
4
9
14
3.40 3.11 3.18
3.23
3.03
3.08
3.05
3.07
3.15
3.60
3.28
3.33
3.33
3.50
3.63
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
26
23
11
25
21
11
17
0
0
0
26
6
27
16
12
3
78
82
66
78
75
86
73
86
93
76
55
62
71
65
62
4
20
19
47
21
28
27
34
38
31
34
34
56
26
43
50
5
0
0
0
0
0
0
0
0
0
14
9
0
0
0
0
2.95 2.97 3.29
2.97
3.06
3.13
3.14
3.31
3.25
3.50
3.21
3.40
2.99
3.22
3.31
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
12
11
14
12
11
17
17
13
15
0
11
7
14
6
0
3
93
91
128
98
89
121
128
128
111
102
86
93
82
91
89
4
63
66
26
58
36
23
23
44
51
60
64
68
65
62
65
5
0
0
0
0
0
0
0
0
0
19
7
7
9
14
3.30 3.33 3.07
3.27
3.15
3.04
3.04
3.18
3.21
3.58
3.40
3.36
3.39
3.44
3.55
1
2
3
4
5
0
22
78
56
0
0
21
109
36
0
1
2
3
4
5
0
22
108
35
0
0
19
112
34
0
1
2
3
4
5
0
14
122
32
0
0
3
112
53
0
0
19
128
23
0
3.02 3.09 3.10
0
14
128
30
0
3.08 3.09 3.22
0
17
108
43
0
3.30 3.11 3.15
0
12
98
56
0
3.27
0
12
118
35
0
3.14
0
3
115
50
0
3.28
0
11
121
34
0
3.14
0
10
121
34
0
3.15
0
4
121
43
0
3.23
0
17
128
21
0
3.02
0
17
128
20
0
3.02
0
17
128
23
0
3.04
0
27
126
13
0
2.92
0
19
124
25
0
3.08
0
15
128
25
0
3.06
0
13
109
44
0
3.19
0
12
109
44
0
3.19
0
9
121
38
0
3.17
0
12
106
48
0
3.22
0
12
107
46
0
3.21
0
7
123
36
2
3.20
0
0
91
64
11
3.52
0
0
91
63
11
3.52
0
0
89
60
19
3.58
0
11
86
62
7
3.39
0
11
86
62
6
3.38
0
6
86
69
7
3.46
0
6
97
63
0
3.34
0
6
97
62
0
3.34
0
7
103
58
0
3.30
0
14
82
61
9
3.39
0
14
81
63
7
3.38
0
14
85
62
7
3.37
0
6
89
62
9
3.45
0
5
89
62
9
3.45
0
6
91
68
3
3.40
0
6
87
69
4
3.43
0
8
81
65
11
3.48
0
0
89
71
8
3.52
9. Doanh nghiệp đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến triển khai chính
sách phát triển du lịch tại KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB
Mã
Số phiếu
Yếu tố ảnh hưởng
𝑿̅
1
4
5
3
2
9.1 An ninh chính trị, an toàn xã hội tại
0
746
0
0
643 4.46
địa phương có KDLQG
0
26
840
0
523 4.36
0
2
826
0
561 4.40
9.2 Trình độ nhận thức và năng lực của
cơ quan quản lý nhà nước
9.3 Sự phát triển nhu cầu du lịch đến
các địa phương có KDLQG
9.4 Chính sách phát triển kinh tế - xã
0
11
827
0
551 4.39
hội của địa phương có KDLQG
0
2
463
0
924 4.66
9.5 Chủ trương, định hướng phát triển du
lịch của địa phương có KDLQG
9.6 Ngân sách địa phương chi cho phát
0
55
724
0
610 4.40
triển du lịch tại KDLQG
9.7 Sự phát
triển của CSHT và
0
15
726
0
648 4.46
CSVCKT du lịch tại địa phương
9.8 Nhân lực du lịch của địa phương có
0
16
796
0
577 4.40
KDLQG
9.9 Nhận thức của dân cư địa phương
0
96
781
0
512 4.30
có KDLQG
9.10 Tài nguyên du lịch
0
0
781
0
608 4.44
PHỤ LỤC 05
Bảng 3.1. Tình hình khách du lịch của Vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng
và Duyên hải Đông Bắc giai đoạn 2015-2019
TT
Năm
2019
Địa
phương
Khách
du lịch
Năm
2015
Năm
2016
Năm
2017
Năm
2018
ĐVT:1.000 lượt
Tốc độ
tăng trưởng
(%)
1
Hà Nội
2
Bắc
Ninh
3
Hà Nam
4
Hải
Dương
-
-
3.954
870
5
Hải
Phòng
6
Hưng
Yên
7
Nam
Định
8
Ninh
Bình
9
Thái
Bình
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
5.270,96
4.020,31
3.260
16.430 17.802,01 18.707,14
19.690 21.822,32 23.978,10
-
-
1.100
17
915
932
-
-
3.750
797
5.909
6.706
-
-
723
-
-
2.250
859
6.197,2
7.056,20
5,6
637,4
643
-
-
874
16,6
916,67
933,27
-
-
3.390
734
5.241
5.975
11
689
700
11,5
752
763,5
715,6
5.725,87
6.441,47
5
565
570
-
-
573
15,7
850
865,7
-
-
3.125
624
5.015
5.600
10
390
400
9,5
550
559,5
600,56
5.392,64
5.993,20
6
524
530
7.025
5.470
21.920
20.570
28.945
26.040
-
-
-
-
1.600
1.400
-
23
1.266
-
1.289 2.895,6
-
-
4.300
930
6.922 8.148,2
7.792 9.078,2
20,5
979,5
1.000
-
-
2.600
970
6.680
7.650
7,1
809,9
817
20
880
900
-
-
1.884
900
6.400
7.300
6,3
714,2
720,5
8,01
22,80
27,31
6,59
10,14
20,11
35,97
5,00
9,04
TT
Địa
phương
Khách
du lịch
Năm
2015
Năm
2016
Năm
2017
Năm
2018
Năm
2019
Tốc độ
tăng trưởng
(%)
10
40,2
5.159,8
Vĩnh
Phúc
11
Quảng
Ninh
QT
NĐ
Tổng
QT
NĐ
Tổng
22,34
3.301,08
3.323,42
2.759,5
5.008
7.767,5
39
4.000
4.039
4.300
5.600
9.900
Tổng cả vùng
24,5
3.775,5
3.800
3.500
4.850
8.350
48.427,32 53.619,56
43,5
6.000
12,70
5.200 6.043,5
5.700
5.200
8.300
7.000
12,50
14.000
12.200
10,26
61.077,3 68.679,5 78.929,3
(Nguồn: Sở Du lịch, Sở VHTTDL các tỉnh, thành phố)
Bảng 3.2. Tổng thu từ khách du lịch của vùng Du lịch
Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc giai đoạn 2015-2019
ĐVT: tỷ đồng
TT Địa phương
Năm
2019
Năm
2017
383
190
102
560
152
855
298
1.800
2.727
200
736
3.200
288
1.675
Năm
Năm
2016
2015
55.000 62.000
589
205
1.350 1.500
2.166 2.374
445
585
1.421 1.764
147
1.170 1.287
6.548 13.000
Năm
2018
77.468 103.807
70.958
1 Hà Nội
1.100
710
2 Bắc Ninh
716
213
3 Hà Nam
1.980
1.780
4 Hải Dương
3.100
2.727
5 Hải Phòng
220
495,81
6 Hưng Yên
800
657
7 Nam Định
3.600
2.528
8 Ninh Bình
335
248
9 Thái Bình
2.000
1.910
10 Vĩnh Phúc
11 Quảng Ninh
17.800 23.589,6 29.487
Tổng thu của vùng 69.042 83.896 100.116,81 112.836,6 147.055
Tốc độ tăng
trưởng (%)
13,55
24,49
30,39
7,96
7,43
16,62
7,39
20,43
17,12
10,30
35,12
16,33
(Nguồn: Sở Du lịch, Sở VHTTDL các tỉnh, thành phố)