BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
NGÔ XUÂN THANH
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
NGÔ XUÂN THANH
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 9.34.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Công Nghiệp
PGS.TS. Lê Văn Hƣng
HÀ NỘI - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
NCS xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân NCS, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận án này là hoàn toàn trung thực
và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. NCS xin
chịu trách nhiệm về đề tài luận án của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
i
Nghiên cứu sinh
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, NCS cảm ơn GS.TS. Nguyễn Công Nghiệp; cảm ơn
PGS.TS. Lê Văn Hưng, các thầy đã toàn tâm, toàn ý hướng dẫn NCS về mặt
khoa học để hoàn thành bản luận án này.
NCS cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm; các cán bộ, giảng
viên Khoa Quản trị kinh doanh, Khoa Tài chính, Viện Đào tạo sau đại học -
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội về những ý kiến đóng góp
thẳng thắn, sâu sắc và giúp đỡ nhiệt tình để NCS hoàn thành nhiệm vụ học tập
cũng như nghiên cứu của mình.
NCS xin tỏ lòng biết ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp nơi
đã động viên NCS những lúc khó khăn nhất để NCS vượt qua và hoàn thành
luận án.
Nhân đây, NCS xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới lãnh đạo
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã quan tâm và chỉ đạo,
bạn bè và đồng nghiệp, những người đã sát cánh và ủng hộ, đọng viên NCS
để hoàn thành bản luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
ii
Nghiên cứu sinh
Contents
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT .......................................... 0
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH ........................................ viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ.......................................................................... ix
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ x
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 3
4. Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án................................................... 5
8. Kết cấu của Luận án .................................................................................... 6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ................................ 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách tài chính
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa .................................................................. 7
1.1.1. Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận, thực trạng
chính sách tài chính, tín dụng đối với DNNVV; tổng quan về chính sách
tài chính đối với DNNVV ........................................................................ 7
1.1.2. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các chính sách huy động,
phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa .................................................................................. 15
1.1.3. Nhóm thứ ba: Nghiên cứu, phân tích các chính sách hỗ trợ tài chính
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua ngân sách nhà nước, lãi suất,
thuế, phí ................................................................................................. 17
1.1.4. Nhóm thứ tư: Nghiên cứu, phân tích kinh ngiệm các nước về chính
iii
sách tài chính đối với DNNVV và bài học cho Việt Nam ....................... 22
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài về chính sách tài
chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ..................................................... 26
1.2.1. Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận chính sách tài
chính, tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ................................... 27
1.2.2. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu về thực trạng triển khai chính sách hỗ
trợ tài chính, tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia ....... 28
1.3. Khoảng trống tác giả tiếp tục nghiên cứu trong luận án .................... 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................... 34
Chƣơng 2. LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ................................................................ 35
2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa ................ 35
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa............................................. 35
2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa........................................ 37
2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa ............................................ 40
2.2. Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ...................... 44
2.2.1. Khái niệm chính sách tài chính ..................................................... 44
2.2.2. Đặc điểm của chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa ......................................................................................................... 45
2.2.3. Vai trò của chính sách tài chính trong việc phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường .................................................. 47
2.2.4. Nội hàm của chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
............................................................................................................... 50
2.2.5. Tác động của chính sách tài chính đến sự phát triển của doanh
nghiệp nhỏ và vừa .................................................................................. 58
2.2.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả và yếu tố tác động đến chính sách tài
chính doanh nghiệp nhỏ và vừa .............................................................. 60
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài chính đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............ 66
iv
2.3.1. Malaysia ....................................................................................... 66
2.3.2. Singapore ..................................................................................... 67
2.3.3. Hàn Quốc ..................................................................................... 68
2.3.4. Nhật Bản ...................................................................................... 69
2.3.5. Trung Quốc .................................................................................. 70
2.3.6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................. 71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................... 73
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI .......... 74
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM ................................... 74
3.1. Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam . 74
3.1.1. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động .............................. 74
3.1.2. Tỷ trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa ............................................... 76
3.1.3. Lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ..................................... 76
3.1.4. Số lượng đăng ký thành lập mới ................................................... 77
3.1.5. Tình hình doanh nghiệp quay trở lại hoạt động ............................. 77
3.1.6. Đóng góp của DNNVV cho ngân sách nhà nước .......................... 78
3.2. Thực trạng chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại Việt Nam ................................................................................................. 78
3.2.1. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính
- tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam ...................... 78
3.2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa ......................................................................................................... 84
3.2.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam ... 91
3.2.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa...... 95
3.3. Đánh giá thực trạng vận hành chính sách tài chính đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam ................................................................. 96
3.3.1. Kết quả đạt được .......................................................................... 96
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ......................................... 105
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................. 123
v
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ...... 124
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM ................. 124
4.1. Bối cảnh tình hình kinh tế trong và ngoài nƣớc trong thời gian tới
tác động đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa............................ 124
4.1.1. Bối cảnh trong nước ................................................................... 124
4.1.2. Bối cảnh quốc tế ......................................................................... 126
4.2. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách tài chính doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam ........................................................................... 129
4.2.1. Quan điểm .................................................................................. 129
4.2.2. Mục tiêu ..................................................................................... 130
4.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam ........................................................................... 131
4.3.1. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính
- tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam .................... 131
4.3.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa ....................................................................................................... 134
4.3.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam . 142
4.3.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.... 146
4.4. Điều kiện thực hiện giải pháp ............................................................ 147
4.4.1. Đối với Chính phủ ...................................................................... 147
4.4.2. Đối với bộ, ngành có liên quan ................................................... 149
4.4.3. Đối với các hiệp hội ................................................................... 149
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ............................................................................. 150
KẾT LUẬN ................................................................................................... 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 154
PHỤ LỤC...................................................................................................... 165
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ ĐĂNG TRÊN CÁC TẠP CHÍ KHOA HỌC
VÀ KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ .......................................................... 170
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI
vi
CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM ... 171
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
STT Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
CNHT Công nghiệp hỗ trợ 1
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa 2
FDI 3 Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GTGT Giá trị gia tăng 4
NHNN Ngân hàng Nhà nước 5
NHTM Ngân hàng thương mại 6
NSNN Ngân sách nhà nước 7
TCTD Tổ chức tín dụng 8
TNDN Thu nhập doanh nghiệp 9
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt 10
vii
UBND Ủy ban nhân dân 11
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
STT Từ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
EU European Union Liên minh Châu Âu 1
FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do 2
OECD 3
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Organization for Economic Cooperation and Development
viii
WB World Bank Ngân hàng Thế giới 4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên hình Nội dung Trang
Biểu đồ 3.1 Tổng số DNNVV, 2011 - 2020 75
Biểu đồ 3.2 Tổng dư nợ tín dụng DNNVV, 2011 - 2020 80
ix
Biểu đồ 3.3 107 Lãi suất cho vay của Việt Nam và một số quốc gia khác trong khu vực
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Nội dung Trang
Bảng 2.1 Tiêu chí xác định DNNVV tại Việt Nam 36
Bảng 3.1 79
So sánh thời hạn của các loại cho vay theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
Bảng 3.2 Số thu NSNN từ đất, 2011 - 2019 105
x
Bảng 3.3 110 Tỷ lệ vốn chủ sở hữu của DNNVV đang hoạt động có kết quả sản xuất - kinh doanh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở trên thế giới, các DNNVV chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp các
nước. Các DNNVV đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.
Họ là những người có đóng góp lớn trong việc tạo ra phần lớn việc làm tại các
nền kinh tế đang phát triển. Tại Việt Nam, DNNVV đã và đang trở thành một
bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm khoảng
98,1% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các DNNVV đóng góp đáng kể
vào tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn
trong nước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong quá trình vận hành, các DNNVV đã tạo ra một đội ngũ doanh
nhân và công nhân, với kiến thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng
được các yêu cầu mới trong cạnh tranh. Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển
các DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.
Thời gian qua, với việc ra đời các luật, nghị định, văn bản hướng dẫn,
đặc biệt là Luật Doanh nghiệp (2005, 2014), Luật Đầu tư (2005, 2014), Luật
Hỗ trợ DNNVV 2017, Luật Thuế GTGT, TNDN, xuất - nhập khẩu… đã có
tác động tích cực đến việc phát triển DNNVV ở Việt Nam, tạo môi trường
thông thoáng, bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Tất cả các chính
sách này đã tạo hành lang, cơ chế chính sách cho DNNVV hoạt động, trong
đó chính sách tài chính đối với DNNVV đóng vai trò quan trọng, tạo nền tảng
cũng như giúp cho DNNVV phát triển. Theo đó, các doanh nghiệp có căn cứ
để huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh hiệu
quả, bên cạnh hệ thống chính sách thuế, phí hỗ trợ miễn, giảm, giãn,giúp cho
DNNVV có thêm nguồn tài chính để phục hồi khi gặp khó khăn trong sản
xuất - kinh doanh do môi trường vĩ mô trong và ngoài nước thay đổi tác động
1
xấu đến hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh chính sách tài trợ vốn, hỗ trợ khó khăn cho DNNVV, chính
sách tài chính thuế, phí của Nhà nước cũng giúp cho DNNVV có những căn
cứ để thực hiện những nghĩa vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ, đảm bảo
nghĩa vụ của DNNVV với NSNN.
Tuy nhiên, với các chính sách được thực thi, các DNNVV vẫn còn gặp
không ít khó khăn, do hệ thống chính sách tài chính chưa đáp ứng nhu cầu
phát triển của DNNVV. Nhiều chính sách được ban hành nhưng chậm có văn
bản hướng dẫn, làm cho DNNVV lúng túng trong thực hiện; một số chính
sách còn khó khăn trong thực thi về huy động nguồn lực, phát triển sản xuất -
kinh doanh, quay vòng sản phẩm… Không chỉ vậy, các chính sách hỗ trợ cho
DNNVV còn chưa đủ mạnh để tạo thế và lực cho DNNVV hoạt động và phát
triển. Ngoài ra, các chính sách tài chính về nguồn vốn, đầu tư, phân phối của
DNNVV cũng bộc lộ những bất cập trong thực hiện, dẫn tới mất ổn định thị
trường, cơ cấu thị phần mất cân đối, tài chính ngầm vẫn còn tồn tại...
Yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn thiện chính sách tài chínhđối với
DNNVV ở Việt Nam để giúp các doanh nghiệp phát triển, vượt qua khó khăn,
thách thức, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường trong nước và quốc tế. Do đó, luận án“Chính sách tài chính đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam”đảm bảo sự cần thiết, khách quan
của vấn đề nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất được hệ thống các giải pháp có tính khoa học và thực tiễn
nhằm hoàn thiện chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu lý luận về chính sách tài chính đối với DNNVV; nghiên
cứu kinh nghiệm về chính sách tài chính đối với DNNVV của một số quốc gia
2
và chỉ ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; đánh giá thực trạng chính sách
tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam; đề xuất giải pháp hoàn thiện chính
sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Về lý luận: Luận án tập trung làm rõ cơ sở lý luận của chính sách tài
chính đối với DNNVV tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án phân tích thực trạng kết quả chính sách tài chính
DNNVV tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020, chỉ ra những vấn đề hạn
chế, bất cập của chính sách tài chính DNNVV hiện hành và đề xuất giải pháp
hoàn thiện các chính sách chính sách tài chính DNNVV tại Việt Nam.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án sẽ phải trả lời các câu hỏi nghiên
cứu sau:
- Nội dung chính sách tài chính DNNVV? Có những tiêu chí nào để
đánh giá chính sách tài chính DNNVV? Các nhân tố ảnh hưởng đến
DNNVV?
- Thực trạng triển khai chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt
Nam ra sao? Có gì bất cập? Nguyên nhân do đâu?
- Những quan điểm, định hướng hoàn thiện chính sách tài chính đối với
DNNVV tại Việt Nam trong thời gian tới?
- Giải pháp nào cần triển khai thực hiện để hoàn thiện chính sách tài
chính đối với DNNVV tại Việt Nam?
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Là chính sách tài chính đối với DNNVV.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu lý luận, thực trạng các
chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam gồm: chính sách huy động,
phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng; chính sách hỗ trợ tài
3
chính - tín dụng; chính sách thuế (thuế TNDN, thuế GTGT); chính sách tài
chính đất đai (tiền thuê đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp). Từ đó, đề xuất
giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính đối với DNNVV.
Trong nghiên cứu, Luận án có sử dụng cụm từ “tín dụng”, tuy nhiên ở
phạm vi luận án chỉ xem xét về hoạt động cho vay, không xem xét toàn bộ
hoạt động tín dụng của TCTD.
Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu kinh nghiệm của quốc tế
(nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của một số nước về chính sách tài chính
DNNVV) và thực tiễn trong nước ở phạm vi vĩ mô nền kinh tế (nghiên cứu hệ
thống chính sách tài chính DNNVV tại Việt Nam ở phương diện vĩ mô, trong
đó có tính đến yếu tố vi mô). Đồng thời, Luận án nghiên cứu cũng dựa trên cơ
sở lý luận chung nhất mang tính dẫn đường chính sách.
Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu của Luận ángiai đoạn 2011 -
2020, tuy nhiên đối với những chính sách phát sinh sau năm 2011 thì luận án
tập trung nghiên cứu từ khi chính sách có hiệu lực đến năm 2020.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp thống kê, so
sánh, điều tra khảo sát… Trong đó, phương pháp phân tích được sử dụng
trong luận án giúp phân chia hệ thống vấn đề (như hệ thống chính sách tài
chính - tín dụng đối với DNNVV) thành những vấn đề nhỏ (các chính sách
đơn lẻ…) để tác giả thực hiện phân tích, đánh giá. Từ phân tích các vấn đề
đơn lẻ, luận án sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp lại các nhận phân
tích, nhận định.
Đối với quá trình thực hiện luận án, tác giả cũng thu thập dùng phương
pháp thống kê nhằm thống kê các thông tin, số liệu, dữ liệu liên quan đến đề
tài; đồng thời tác giả sử dụng phương pháp so sánh như so sánh tình hình thực
hiện với kế hoạch… để đưa ra các nhận định.
Đối với phương pháp diễn dịch thì được tác giả sử dụng trong luận án
4
để nghiên cứu điểm riêng của các vấn đề lý luận, kinh nghiệm, thực tiễn…, từ
đó rút ra các nhận định chung. Với phương pháp quy nạp được tác giả sử
dụng khi phân tích, nhận định những vấn đề riêng, từ đó đưa ra các nhận định
chung nhất.
Đối với phương pháp điều tra khảo sát: Luận án tập trung khảo sát
thông qua phát phiếu đối với 200 doanh nghiệp trong cả nước, trong đó tập
trung vào DNNVV được thụ hưởng các chính sách mà luận án phân tích, đánh
giá.
Bên cạnh đó, luận án còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết
hằng năm trong các báo cáo của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Tổng cục Thuế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… và
các địa phương liên quan để phân tích và đưa ra các nhận định. Đây là các
nguồn số liệu thứ cấp có tính tin cậy, chính sách, giúp cho việc nhận định,
phân tích, đánh giá của tác giả có căn cứ.
Cách tiếp cận trong nghiên cứu: Là đứng trên giác độ quản lý nhà nước
để phân tích, nhận định, đánh giá về chính sách tài chính đối với DNNVV, từ
đó đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt
Nam trong thời gian tới. Việc nghiên cứu chính sách tài chính đối với
DNNVV được tiếp cận theo nội dung chính sách mà không theo chu trình
chính sách, bởi việc tiếp cận theo nội dung chính sách sẽ đảm bảo tính tập
trung vào vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra, việc nghiên cứu chính sách tài
chính đối với DNNVV được tiếp cận theo hướng mở rộng, trong đó có xem
xét đến chính sách tín dụng (dự nợ tín dụng) của DNNVV; việc tiếp cận chính
sách tài chính theo theo hướng mở rộng sẽ giúp cho việc đánh giá việc chính
sách tài chính đối với DNNVV được toàn diện.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Việc nghiên cứu luận án này giúp hệ thống hóa hệ thống chính sách tài
chính đối với DNNVV, giúp làm sáng tỏ lý luận tài chính, chính sách tài
chính về chức năng, vai trò và cách vận dụng trong thực tế. Quá trình nghiên
5
cứu sẽ giúp chỉ ra những quy luật vận động của hệ thống thống chính sách đối
với DNNVV, từ đó chỉ ra được những hạn chế, nguyên nhân tồn tại, những
mặt đạt được đảm bảo tính logic, khoa học để làm cơ sở hoàn thiện các chính
sách tài chính này.
Chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam được áp dụng nhiều
năm trở lại đây cũng như trên thế gới, do vậy, việc nghiên cứu luận án này có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao, giúp hoàn thiện hệ thống chính tài chính
đối với DNNVV tại Việt Nam, đóng góp tích cực vào việc giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của
DNNVV, ổn định tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Việc nghiên cứu luận án cũng giúp đúc rút ra những kinh nghiệm thực
tiễn về hỗ trợ phát triển cho DNNVV, đây là những kinh nghiệm tốt để ban
hành chính sách trợ giúp DNNVV về sau đảm bảo hiệu quả cao nhất.
8. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của Luận án được trình
bày trong 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách tài chính đối
với DNNVV
Chương 2: Lý luận về chính sách tài chính đối với DNNVV
Chương 3: Thực trạng chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính đối với DNNVV
6
tại Việt Nam
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách tài
chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thông qua nghiên cứu, rà soát cho thấy, các nghiên cứu liên quan đến
chính sách tài chính sách tài chính đối với DNNVV ở Việt Nam khá đa dạng.
Các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khách nhau được
chia thành các nhóm nội dung, cụ thể:
1.1.1. Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận, thực
trạng chính sách tài chính, tín dụng đối với DNNVV; tổng quan về chính
sách tài chính đối với DNNVV
Sách chuyên khảo (2020), “Chính sách tài chính đối với phát triển xuất
khẩu của DNNVV ở Việt Nam” [19], do Đinh Văn Sơn chủ biên thì đã đưa ra
tổng quan chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của DNNVV. Chỉ
ra vai trò của các DNNVV đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Tác
giả đi vào nghiên cứu, phân tích các vấn đề tác động đến xuất khẩu của
DNNVV, đặc biệt cũng chỉ ra lý luận về chính sách tài chính đối với việc phát
triển xuất khẩu của DNNVV (chính sách thuế; chính sách chi ngân sách;
chính sách phát hành chứng khoán và dịch vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành;
các chính sách và dịch vụ tài chính khác) và việc thực hiện chính sách này
ở Việt Nam.
Nghiên cứu chỉ ra, đối với từng doanh nghiệp, mức thuế phải nộp cao
hay thấp đều ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, đến luồng tiền của doanh
nghiệp, do đó quyết định đến quy mô tích lũy và luồng tiền của doanh nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thường thực hiện thông qua ưu đãi thuế
7
như miễn thuế, giảm thuế, áp dụng thuế suất thấp, hoàn thuế…
Chi ngân sách có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ DNNVV đẩy
mạnh xuất khẩu. Việc chi NSNN này thông qua xây dựng các công trình giao
thông, kết cấu hạ tầng kinh tế, viễn thông…phục vụ phát triển chung của nền
kinh tế; chi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp; chi NSNN phục vụ đào tạo
nguồn nhân lực DNNVV; chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học giúp cho
các DNNVV ứng dụng các thành quả của khoa học và công nghệ; chi ngân
sách cho việc tiếp cận thông tin và xúc tiến thương mại.
Đối với chính sách tín dụng và dịch vụ tín dụng, tác giả cũng chỉ ra tín
dụng đối với DNNVV là vô cùng quan trọng, Chính phủ và các tổ chức tài
chính thường hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV dưới hình thức cho vay, cho
thuê tài chính, bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Ngoài ra, còn có các chính
sách khác hỗ trợ DNNVV xuất khẩu như: Chính sách tỷ giá, dịch vụ hối đoái,
dịch vụ thanh toán quốc tế, bảo hiểm…
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng thì tác giả cũng đưa ra quan
điểm, định hướng chính sách tài chính đối hoạt động xuất khẩu của DNNVV
tại Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Trường Sơn đã phân tích đặc điểm, vai trò của
DNNVV; nhận diện các đặc điểm cấu trúc bên trong của các DNNVV và tác
động của nó đến sự phát triển trong cuốn sách “Phát triển DNNVV ở Việt
Nam hiện nay” [60]. Nghiên cứu cũng chỉ ra những khó khăn của DNNVV
Việt Nam như rào cản trong tiếp cận vốn, khó khăn của doanh nghiệp theo
ngành kinh tế, bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các nguyên nhân của các khó
khăn này và đề xuất các giải pháp tháo gỡ.
Phân tích các nhân tố tác động đến quá trình phát triển của DNNVV,
tác giả chỉ ra là do các yếu tố về mặt bằng sản xuất; nhân tố liên quan đến
chính sách thuế, phí; nhân tố vốn; nhân tố con người; nhân tố công nghệ;
nhân tố thị trường; nhân tố môi trường kinh doanh. Trên cơ sở đó tác giả cũng
đưa ra các mô hình về đánh giá tác động của các nhân tố đến quá trình phát
8
triển của DNNVV.
Không chỉ vậy, tác giả cũng nghiên cứu lý luận về dịch vụ ngân hàng
đối với DNNVV. Dịch vụ ngân hàng cơ bản cung ứng cho DNNVV gồm:
Dịch vụ huy động vốn, dịch vụ tín dụng; dịch vụ thanh toán. Thực trạng tiếp
cận tín dụng ngân hàng của các DNNVV và giải pháp phát triển dịch vụ ngân
hàng nhằm hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam.
Trong cuốn sách“Phát triển DNNVV: Kinh nghiệm Việt Nam và Đức”
của Hội đồng Lý luận Trung ương (2017) [31], nhóm tác giả đã nghiên cứu
vai trò, tầm quan trọng, cơ hội, thách thức của của DNNVV trong nền kinh tế;
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển DNNVV
cùng những biện pháp để đổi mới sáng tạo DNNVV tại Việt Nam trong thời
gian tới.
Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội - Lê Văn
Tâm - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 1996 [34a]. Tác giả nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp
nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội trên góc độ chuyên ngành quản lý kinh tế. Từ
thực tế tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp trong
quá trình cổ phần hóa, chuyển đổi mô hình hoạt động, tác giả đưa ra định
hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các DNNVV trên địa bàn
Hà Nội. Tư liệu về hoạt động, phát triển của các DNNVV chủ yếu trước năm
1995, đồng thời giới hạn ở các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp.
Trong cuốn sách “Sách trắng DNNVV năm 2017” của Cục Phát triển
doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017) [5]: Cuốn sách đã đưa ra tổng
quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 2015 - 2017; thực trạng DNNVV; khung khổ
pháp luật và các chương trình - chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam.
Về thực trạng DNNVV ở Việt Nam, cuốn sách đã khái quát về những
nội dung như số lượng doanh nghiệp, một số tiêu chí cơ bản của DNNVV, lao
động trong khu vực DNNVV, hiệu quả sản xuất - kinh doanh của khu vực
9
DNNVV, đóng góp của DNNVV, trách nhiệm đối với người lao động, vấn đề
đối thoại xã hội và vai trò với người lao động, khu vực DNNVV trong bối
cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và thể chế Việt Nam.
Về khung khổ pháp luật và các chương trình - chính sách hỗ trợ
DNNVV ở Việt Nam về thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV
ở Việt Nam, cuốn sách cũng chỉ ra rằng, các DNNVV có vị trí đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam đã triển khai những chính sách hỗ
trợ DNNVV từ năm 2001 nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các
DNNVV như: chính sách trợ giúp tài chính, chính sách mặt bằng sản xuất,
chính sách đổi mới nâng cao năng lực công nghệ và trình độ kỹ thuật, chính
sách về thông tin và tư vấn, chính sách trợ giúp phát triển nguồn nhân lực,
chính sách vườn ươm doanh nghiệp, chính sách giảm thuế... Tuy nhiên, phần
lớn các chính sách hỗ trợ này chưa đúng trọng tâm, trọng điểm khiến cho
nguồn lực hỗ trợ DNNVV bị phân tán, dàn trải và không phát huy được hiệu
quả. Trên cơ sở các đánh giá, cuốn sách cũng đưa ra các định hướng, kiến
nghị hoàn thiện chính sách.
Luận án Tiến sĩ kinh tế của Phạm Văn Hồng (2007) về “Phát triển
DNNVV ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” [75a] đã nghiên cứu sự
phát triển của DNNVV trong quá trình hội nhập quốc tế. Luận án cũng giới
hạn nghiên cứu sự phát triển DNNVV trong những năm đổi mới (sau năm
1987), nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời. Luận án đã đề xuất quan
điểm mới về các tiêu chí xác định DNNVV thông qua quá trình nghiên cứu lý
luận về phát triển DNNVV. Đồng thời, đánh giá thực trạng DNNVV và môi
trường thể chế phát triển DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
thông qua các cuộc khảo sát ở các đại phương trên cả nước. Trên cơ sở thực
trạng, luận án đã xây dựng phương hướng và giải pháp phát triển DNNVV ở
Việt Nam hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo Luận án Tiến sĩ của Phạm Xuân Hòa (2014) về “Hoàn thiện
10
chính sách thuế nhằm hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam” [76] thì tác giả
đã nghiên cứu cơ sở lý thuyết DNNVV, chính sách thuế hỗ trợ DNNVV ở
Việt Nam cũng như những hạn chế cần hoàn thiện.
Trong nghiên cứu “Cơ sở lý luận về NHTM, hoạt động tín dụng ng n
hàng và cơ sở lý luận về DNNVV” của Lê Thị Hồng Yến [33], tác giả đã
nghiên cứu cơ sở lý luận DNNVV, trong đó đưa ra khái niệm, phân loại, vai
trò, ưu thế, hạn chế, nhu cầu vay vốn, khả năng tiếp cận vốn của DNNVV.
Nghiên cứu cũng chỉ ra, có khoảng 80% lượng vốn ngân hàng cung cấp cho
DNNVV, tổng số vốn NHTM cho DNNVV vay chiếm 40% tổng dự nợ.
Tác giả cho rằng, việc DNNVV tiếp cận vốn ngân hàng còn nhiều hạn
chế, chỉ có 32,38% doanh nghiệp tiếp được nguồn vốn nhà nước (chủ yếu là
NHTM); 35,24% khó tiếp cận; 32,38% không thể tiếp cận được. Nguyên nhân
của tình trạng này là do: (i) DNNVV xây dựng phương án đầu tư, sản xuất -
kinh doanh còn nhiều hạn chế; các vấn đề đăng ký kinh doanh của DNNVV
vẫn còn phức tạp; (iii) DNNVV thiếu tài sản đảm bảo; (iv) DNNVV chưa
chấp hành tốt chế độ kế toán theo quy định; (v) Trình độ công nghệ còn hạn
chế. Cuối cùng, nghiên cứu cũng chỉ ra sự cần thiết phải phát triển tín dụng
cho DNNVV.
Về luận văn thạc sĩ “Phát triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang”của Diêm Đăng Việt (2009) [17], bên cạnh việc nghiên cứu thực trạng
phát triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và đưa ra phương hướng và
giải pháp phát triển, tác giả cũng nghiên cứu về cơ sở lý luận DNNVV ở Việt
Nam. Theo đó, phân tích khái niệm, vai trò, xu thế phát triển, các yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển, các tiêu chí đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất -
kinh doanh của DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam.
Theo tác giả Trần Thị Minh Hải (2016) trong bài viết “Chính sách tài
chính cho DNNVV” [83], DNNVV đóng một vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, do đó thời gian qua Chính phủ đã kịp thời ban hành
nhiều cơ chế về chính sách tài chính hỗ trợ cho khu vực này. Nghiên cứu đã
11
chỉ ra nguồn vốn của DNNVV gồm nguồn vốn bên trong và bên ngoài.
Nguồn vốn từ bên ngoài gồm, nguồn tài trợ từ bên ngoài: Các nguồn thông
qua hoạt động trên thị trường chứng khoán, các nguồn không thông qua thị
trường chứng khoán; nguồn tài chính từ bao cấp ngân sách: Chủ yếu đối với
các doanh nghiệp dịch vụ phúc lợi, hay các doanh nghiệp đang được khuyến
khích thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của chính phủ. Bên cạnh đó,
tác giả cũng đề xuất giải pháp để doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các nguồn
vốn này.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền (2017) trong bài viết “Hỗ trợ DNNVV tiếp
cận hiệu quả nguồn vốn tín dụng ngân hàng” [52] cho rằng, hỗ trợ DNNVV
tiếp cận vốn ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu của Quốc hội, Chính phủ.
Theo đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ
DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng, gần đây nhất là Luật Hỗ trợ DNNVV
2017. Chính sách này được kỳ vọng sẽ mở ra bước ngoặt mới trong việc tìm
kiếm các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DNNVV tiếp cận hiệu quả nguồn
vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, tác giả nhận định, số lượng DNNVV tiếp cận
vốn ngân hàng còn thấp, hiện chỉ có khoảng 36% DNNVV đang hoạt động
tiếp cận được vốn ngân hàng, do chủ yếu các DNNVV chưa tạo được niềm tin
đối với các ngân hàng và thiếu tài sản đảm bảo.
Bài viết cũng đưa ra kiến nghị để DNNVV tiếp cận được nguồn vốn
của ngân hàng thì đòi hỏi sự cố gắng từ nhiều phía, không chỉ từ việc thay đổi
tư duy của các TCTD, mà còn là sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp.
Trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tăng
cường tiếp cận tín dụng thông qua n ng cao năng lực quản trị và minh bạch
hoạt động tài chính” của Trung tâm Thông tin kinh tế - VCCI [87], Trường
Đại học Thăng Long (2018) thì chỉ đi vào phân tích thực trạng tín dụng ngân
hàng cung cấp cho DNNVV trong thời gian qua, các tồn tại và nguyên nhân
làm cho DNNVV trong việc tiếp cận vốn, thông qua đó đề xuất các giải pháp
nâng cao năng lực quản trị và minh bạch hoạt động tài chính của DNNVV để
12
tăng cường khả năng tiếp cận vốn. Tuy nhiên, các bài viết chưa nghiên cứu
tổng thể chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam mà chỉ đi vào
nghiên cứu thành phần của chính sách.
Bài viết “Những khó khăn trong tiếp cận tín dụng của các DNNVV và
một số giải pháp khơi thông dòng vốn cho loại hình doanh nghiệp này” của
Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Việt Anh [41]: Các tác giả cũng chỉ ra những
khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng của DNNVV gồm thủ tục vay vốn
phức tạp và thiếu tài sản đảm bảo là hai rào cản cơ bản khiến cho các
DNNVV không vay được vốn; các sản phẩm tín dụng dành cho DNNVV
chưa phong phú, một số doanh nghiệp không tìm được các sản phẩm tín dụng
phù hợp, do đó cũng không tiếp cận được vốn vay ngân hàng; các doanh
nghiệp tư nhân có ít ưu thế hơn so với các doanh nghiệp nhà nước, và các
doanh nghiệp nhỏ có ít ưu thế hơn so với các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp
cận tín dụng ngân hàng; đối với các doanh nghiệp đã vay được vốn, khó khăn
lớn nhất là làm sao để duy trì được việc tiếp cận các khoản vay một cách ổn
định; quy mô vốn vay và thời hạn khoản vay chưa thỏa mãn được nhu cầu của
doanh nghiệp. Bài viết cũng đề xuất các giải pháp khơi thông nguồn vốn tín
dụng ngân hàng cho DNNVV: Phát triển thị trường tín dụng dành cho
DNNVV thông qua đa dạng hóa nhà cung cấp, tăng cường cạnh tranh trên thị
trường nhằm nâng cao năng lực cho vay và hình thành các sản phẩm mới;
nâng cao chất lượng hệ thống chấm điểm tín dụng của các TCTD và năng lực
thẩm định của cán bộ tín dụng, nhằm tăng cường chất lượng cho vay, giảm tỷ
lệ nợ xấu, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng; nâng cao hiệu quả hoạt động
bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV.
Phan Thị Linh (2015), “Giải pháp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho
DNNVV” [78], chỉ ra DNNVV tiếp cận vốn ngân hàng tỷ lệ thấp (32,38%), tỷ
lệ nợ xấu tăng cao. Các DNNVV khó đáp ứng các điều kiện “ngặt nghèo” về
cho vay vốn của các ngân hàng về tài sản đảm bảo, tính chuẩn mực hệ thống
báo cáo tài chính. Trong khi các quỹ bảo lãnh không muốn đóng vai trò là “bà
13
đỡ” để mở rộng tín dụng cho các DNNVV. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh lãi
suất thiếu hợp lý và chậm xử lý nợ xấu cũng tạo thêm khó khăn cho DNNVV
trong việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng.
Nghiên cứu cũng chỉ ra khi chính sách hỗ trợ khó khăn cho DNNVV
mà chậm đi vào thực thi cũng sẽ làm cho doanh nghiệp có thể lâm vào tình
trạng phá sản. Trên cơ sở nghiên cứu sơ lược thực trạng nhu cầu về vốn cho
các DNNVV, tác giả đưa ra các giải pháp kiến nghị về phía Nhà nước, ngân
hàng và doanh nghiệp cần phải triển khai nhằm tăng lượng vốn cho DNNVV.
Hai tác giả Đỗ Tất Cường, Ngô Thị Ngọc Anh (2018) trong bài viết
“Cơ chế tài chính để doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững” [23] cho
biết, cơ chế tài chính hiện hành hỗ trợ DNNVV Việt Nam phát triển bền vững
gồm: Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng từ các NHTM và tổ chức tín
dụng; tiếp cận tín dụng thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng và quỹ phát triển
DNNVV; hỗ trợ tín dụng cho DNNVV đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật và
công nghệ; hỗ trợ xúc tiến, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp; hỗ trợ
thông qua mua sắm công, dịch vụ công. Bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ rõ
những vấn đề đặt ra đối với cơ chế tài chính hiện hành hỗ trợ DNNVV Việt
Nam phát triển bền vững như thủ tục vay còn phức tạp, doanh nghiệp thiếu tài
sản đảm bảo, sản phẩm tín dụng còn chưa phong phú, doanh nghiệp tư nhân
có ít ưu thế hơn doanh nghiệp nhà nước trong việc tiếp cận tín dụng ngân
hàng, doanh nghiệp tư nhân khó duy trì được các khoản vay, mất cân đối giữa
các kênh huy động vốn (kênh huy động từ ngân hàng; huy động trên thị
trường chứng khoán; huy động từ cổ phiếu và trái phiếu). Tác giả đã đưa ra
hàm ý chính sách nhằm phát huy nguồn vốn cho DNNVV.
Nghiên cứu “Nghiên cứu chính sách ưu đãi thuế cho DNNVV đổi mới
và sáng tạo” của Nguyễn Thanh Nga, Đặng Thị Hậu [51], chỉ ra chính sách
ưu đãi thuế cho đổi mới, sáng tạo tại một số quốc gia châu Á, đặc biệt là Việt
Nam. Trong đó có ưu đãi thuế GTGT (Thông tư số 219/2013/TT-BTC),
14
TNDN (miễn thuế đối với thu nhập nhận được từ hợp đồng nghiên cứu khoa
học), ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng, đổi mới công nghệ sản xuất (lĩnh
vực đầu tư thuộc địa bàn ưu đãi của Nghị định số 218/2013/NĐ-CP.
1.1.2. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các chính sách huy
động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kỷ yếu “Giải pháp tín dụng cho DNNVV” của Báo Diễn đàn doanh
nghiệp, Vụ Truyền thông - NHNN (2017) [2]: Kỷ yếu cũng chỉ ra, tại Việt
Nam hiện nay, DNNVV chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng thu ngân sách và thu hút hơn 5
triệu lao động. Bên cạnh việc đóng góp cho sự phát triển kinh tế, rõ ràng cộng
đồng DNNVV đang đóng góp cho sự ổn định, tạo công ăn việc làm, góp phần
khắc phục rủi ro cho nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển ổn định, bền
vững. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn của DNNVV đang gặp khó khăn mà đến
cả từ nội tại DNNVV và phía đơn vị cho vay, bảo lãnh. Kỷ yếu cũng phân
tích chính sách cho vay của các tổ chức tín dụng.
Nguồn vốn dành cho DNNVV đến từ các nguồn sau: NSNN (trợ cấp,
bảo lãnh, bảo hiểm, ưu đãi, giảm thuế…); nguồn vốn nước ngoài; huy động từ
thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu); đối tác (trả chậm, tín dụng thương
mại…); nguồn vốn tín dụng, bảo lãnh, chiết khấu, thuê tài chính; vốn tự có,
vốn góp. Theo đó, lãi suất cho vay trong các chương trình kết nối, các sáng
kiến, các gói tín dụng của các NHTM thường thấp hơn mặt bằng lãi suất
chung từ 0,5 - 1,5%.
Kỷ yếu cũng chỉ ra các nguyên nhân làm cho tín dụng DNNVV còn
chưa cao: Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thời gian qua; nguồn lực NSNN
rất hạn chế; một số chương trình, gói hỗ trợ chưa phát huy; thiếu thông tin/tổ
chức cung cấp thông tin về DNNVV; quy định minh bạch hóa thông tin đối
với DNNVV con thấp; bảo lãnh DNNVV vay vốn chưa được đẩy mạnh; nợ
xấu cần có thời gian để xử lý triệt để và nhanh hơn (sau Nghị quyết 42 của
15
Quốc hội) chưa xử lý dứt điểm; thiếu các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp: Đào
tạo, tư vấn, thông tin; thị trường vốn chưa phát triển; môi trường kinh doanh
có cải thiện, nhưng còn phức tạp, chi phí không chính thức còn cao. Trên cơ
sở đó, các bài viết cũng đưa ra các giải pháp như: Các bộ, ngành, địa phương
trong triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV; khuyến khích các tổ
chức tín dụng phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng, trong đó có các sản
phẩm tín dụng đặc thù cho đối tượng DNNVV; tăng cường liên kết ngân hàng
với doanh nghiệp…
Bài viết “Phát triển nguồn tài chính cho DNNVV tại Hà Nội”của Trần
Thị Thanh Tú, Đinh Thị Thanh Vân (2015) [84], các tác giả đã phân tích các
nguồn tài chính cho DNNVV; đánh giá thực trạng nguồn tài chính cho
DNNVV tại Hà Nội, trong đó có cơ cấu nguồn tài chính cho DNNVV theo
tính chất vốn, cơ cấu nguồn tài chính trong một số ngành cụ thể, thực trạng
nguồn vốn vay ngân hàng của các DNNVV tại Hà Nội… và đề xuất giải pháp.
Trong nghiên cứu “Tiếp cận tài chính của DNNVV”của Vietnam
survey và Hồ Chí Minh survey (2018), đã đưa ra vai trò, đặc điểm của
DNNVV ở Việt Nam thông qua những đóng góp của khối này cho nền kinh
tế; tiêu chí xác định DNNVV của một số quốc gia (châu Âu, Hoa Kỳ, Canada,
Mehico, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Việt Nam).
Nghiên cứu cũng chỉ ra tiếp cận tài chính của DNNVV thông qua các
dịch vụ tài chính, tín dụng và những rào cản thông qua khảo sát thực tế và đưa
ra các hàm ý chính sách để các DNNVV tiếp cận các nguồn vốn chính thức
thuận lợi hơn nữa thông qua các biện pháp: Khắc phục tình trạng bất cân xứng
thông tin giúp kết nối doanh nghiệp với các NHTM; tiếp tục mở rộng các
chương trình bảo lãnh tín dụng; bổ sung thêm tiêu chí thời gian hoạt động vào
bộ tiêu chí phân biệt DNNVV; các ngân hàng có thể triển khai rộng rãi hình
thức bao thanh toán để tháo gỡ khó khăn về vốn cho các DNNVV.
Trong nghiên cứu “Đổi mới phương thức hỗ trợ tín dụng cho DNNVV:
Kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị cho Việt Nam” của Trung tâm
16
Thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2018)
[88]: Nghiên cứu đã phân tích khung lý luận về hỗ trợ tín dụng cho DNNVV,
kinh nghiệm của Nhật Bản, Mehico, Đài Loan trong hỗ trợ tín dụng cho
DNNVV và bài học cho Việt Nam. Thực trạng hỗ trợ tín dụng của DNNVV
tại Việt Nam và đề xuất giải pháp.
Tác giả Nguyễn Văn Thịnh (2018) trong bài viết “Cụ thể hóa các giải
pháp hỗ trợ cho DNNVV” [63], đã nghiên cứu cụ thể hóa nhiều giải pháp hỗ
trợ với DNNVV trong Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, Luật Hỗ trợ DNNVV.
1.1.3. Nhóm thứ ba: Nghiên cứu, phân tích các chính sách hỗ trợ tài
chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua ngân sách nhà nước, lãi
suất, thuế, phí
Cuốn sách “Tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV”của các tác giả Hồ
Xuân Phương, Đỗ Minh Tuấn, Chu Minh Phương (2002) [30] đã đi sâu
nghiên cứu DNNVV và vai trò của chính sách tài chính trong việc phát triển
DNNVV. Nghiên cứu DNNVV trong nền kinh tế thị trường, những ưu thế và
hạn chế, vai trò của DNNVV. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng nghiên cứu kinh
nghiệm của một số nước trong việc sử dụng chính sách tài chính hỗ trợ phát
triển DNNVV và rút ra bài học cho Việt Nam.
Trong phần chương II của cuốn sách có phân tích chính sách tài hỗ trợ
DNNVV ở Việt Nam, gồm chính sách hỗ trợ vốn; chính sách thuế, phí và lệ
phí; cơ chế tài chính trong chính sách xuất khẩu đối với DNNVV; cơ chế tài
chính đối với các lĩnh vực khác. Đồng thời chỉ ra những vướng mắc trong các
cơ chế này, từ đó đưa ra quan điểm chỉ đạo và giải pháp hoàn thiện.
Trong cuốn sách “Chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam”của Bùi Thị
Quỳnh Thơ (2017) [16]: Tác giả nghiên cứu chính sách hỗ trợ DNNVV và
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới; thực trạng việc thực hiện chính
sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam; một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc
17
thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam trong thời gian tới.
Trong phần lý luận về chính sách hỗ trợ DNNVV và kinh nghiệm của
một số quốc gia trên thế giới, tác giả đã chỉ ra khái niệm, đặc điểm, vai trò,
nhu cầu và chính sách hỗ trợ trực tiếp cho DNNVV.
Về thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam,
tác giả đã khái quát tình hình sản xuất - kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam,
thực trạng và đánh giá thực trạng việc thực hiện các chính sách hỗ trợ
DNNVV trong thời gian qua ở Việt Nam. Trong đó, tác giả chỉ ra chính sách
hỗ trợ cho DNNVV ở Việt Nam gồm: Chính sách đăng ký kinh doanh, gia
nhập, rút khỏi thị trường; chính sách thúc đẩy phát triển DNNVV; chính sách,
chương trình trợ giúp phát triển DNNVV. Trên cơ sở các đánh giá, tác giả
cũng đưa ra các định hướng, kiến nghị hoàn thiện chính sách.
Luận án Tiến sĩ của Phùng Thanh Loan (2019) về “Chính sách tài
chính hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam” [79] đã hệ thống hóa và làm rõ
một số lý luận cơ bản về DNNVV, chính sách tài chính hỗ trợ phát triển
DNNVV như: khái niệm, nội dung, tác động và nhân tố ảnh hưởng. Trong đó,
tập trung vào ba chính sách bộ phận là chính sách thuế, chính sách tín dụng,
chính sách tài chính đất đai. Luận án đã tổng hợp kinh nghiệm của các nước
trên thế giới trong việc sử dụng các chính sách tài chính nhằm hỗ trợ phát
triển DNNVV, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam. Về mặt thực tiễn, Luận án
đã phân tích làm rõ thực trạng phát triển DNNVV và chính sách tài chính hỗ
trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2017. Trong đó tập trung
phân tích chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách tài chính đất đai hỗ
trợ phát triển DNNVV để chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế
cũng như những nguyên nhân hạn chế đó. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng
luận án đã đề xuất hai nhóm giải pháp gồm nhóm giải pháp hoàn thiện chính
sách tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam đến năm 2030 và nhóm
giải pháp về điều kiện thực hiện.
Luận án Tiến sĩ “Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV ngoài
18
quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long” của Nguyễn Thiện Phong
(2007) [53]: Tác giả đã nghiên cứu lý luận về DNNVV (khái niệm, vai trò,
đặc điểm), DNNVV ngoài quốc doanh và chính sách hỗ trợ DNNVV ngoài
quốc doanh (chính sách đầu tư, thuế, tín dụng, về thị trường chứng khoán, hỗ
trợ phát triển thị trường, chính sách khác). Từ đó nghiên cứu thực trạng và đề
xuất giải pháp hòa thiện chính sách tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV ngoài
quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Luận văn thạc sĩ “Chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Thị Ngọc Mai (2008)
[50]: Tác giả đi vào nghiên cứu lý luận và chính sách hỗ trợ DNNVV; thực
trạng phát triển DNNVV ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó phân tích chính sách hỗ trợ cho DNNVV tại Việt Nam, gồm: Chính
sách thuế; tín dụng; đất đai, khuyến khích đầu tư; xúc tiến mở rộng thị trường;
trợ giúp thông tin; đào tạo nguồn nhân lực; công nghệ và kỹ thuật cho
DNNVV.
Đề tài cấp cơ sở “Đánh giá tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất đối
với DNNVV” của Nguyễn Bích Ngọc (2010) [37] tập trung phân tích, đánh
giá tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất đối đến hoạt động sản xuất - kinh
doanh của DNNVV. Nghiên cứu cũng nhận thấy, chính sách hỗ trợ lãi suất
không đến được đối tượng cần hỗ trợ; chính sách hỗ trợ không giúp mở rộng
thị trường trong giai đoạn khủng hoảng và suy thoái kinh tế; sử dụng nguồn
vốn cho vay hỗ trợ lãi suất sai đối tượng ngày càng phổ biến; tình trạng vay
đảo nợ của DNNVV thường được diễn ra… Tác giả cũng chỉ ra những bài
học thực tiễn thông qua việc thực thi chính sách hỗ trợ lãi suất năm 2009 tại
Việt Nam, từ đó đề tài đưa ra các hàm ý chính sách cho Việt Nam.
Bài viết “Hoàn thiện chính sách thuế hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam” của
Đoàn Thanh Hà (2016) [21] thì tác giả đã phân tích các công cụ hỗ tợ cho
DNNVV bằng các chính sách thuế (TNDN, GTGT, TNCN, thuế tài nguyên,
19
quản lý thuế) và đề suất các giải pháp hoàn thiện. Tuy nhiên, việc phân tích
các công cụ hỗ trợ về thuế chỉ là các quy định, chưa phân tích đánh giá thực
trạng, nguyên nhân.
Trong bài viết “Chính sách tài chính và vấn đề tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Viết Lợi (2016) [64], thì tác giả thực hiện
nghiên cứu về chính sách tài chính hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp: Hỗ trợ doanh nghiệp về mặt bằng sản xuất thông qua các chính sách
miễn, giảm tiền thuê đất; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn thông
qua giảm nghĩa vụ thuế TNDN; hỗ trợ trong việc tiếp cận nguồn vốn phục vụ
hoạt động sản xuất - kinh doanh cho DNNVV; hỗ trợ làm tăng tổng cầu của
các doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giải phóng hàng tồn
kho của doanh nghiệp bằng cách điều chỉnh mức thu nhập chịu thuế TNCN;
hỗ trợ doanh nghiệp giảm hàng tồn kho, tiếp cận thị trường thông qua các
chính sách chi xúc tiến thương mại; cải thiện môi trường kinh doanh, môi
trường đầu tư. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những thách thức đối với
doanh nghiệp và các chính sách tài chính hỗ trợ thời gian tới.
Trong nghiên cứu “Chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV: Thực trạng và
một số kiến nghị” của Nguyễn Thị Quỳnh, Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thanh
Tú (2016) [55], các tác giả đã nghiên cứu về chính sách tài chính hỗ trợ
DNNVV hiện nay gồm: Tín dụng ngân hàng cho DNNVV, bảo lãnh tín dụng
cho DNNVV vay vốn, Quỹ bảo lãnh cho DNNVV tại các địa phương, Quỹ
phát triển DNNVV. Nội dung nghiên cứu cũng chỉ ra do lãi suất cho vay
giảm, các DNNVV vay nhiều hơn, dẫn đến tổng dư nợ và nợ xấu tăng lên,
mặc dù vậy, DNNVV vẫn thiếu vốn sản xuất - kinh doanh. Dù lãi suất đã
giảm, nhưng việc tiếp cận mức lãi suất thấp còn khó khăn, phần lớn doanh
nghiệp vẫn phải chi trả lãi suất cao hơn mức niêm yết của các ngân hàng.
Ngay cả khi tiếp cận được vốn vay lãi suất cao, thời gian vay vốn ngắn khiến
các doanh nghiệp khó quay vòng.
Về bảo lãnh tín dụng, mặc dù DNNVV có nhu cầu bảo lãnh tín dụng
20
gia tăng, nhưng khả năng đáp ứng của quỹ còn hạn chế. Về bảo lãnh cho các
DNNVV ở các địa phương cũng chưa được hiệu quả tại 10 địa phương có
quỹ.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một số kiến nghị về chính sách tài
chính nhằm hỗ trợ các DNNVV vượt qua khó khăn trong bối cảnh toàn cầu
hóa.
Phan Ngọc Trung, Phạm Thị Kim Ánh (2016), “Giải pháp hỗ trợ tài
chính cho các DNNVV của Việt Nam” [77]: Các tác giả đã quy mô của các
doanh nghiệp theo ngành. Nguồn tài chính hỗ trợ các DNNVV gồm: Tín dụng
ngân hàng, các quỹ đầu tư và thuê mua tài chính. Đặc biệt các tác giả thực
hiện đánh giá thực trạng tiếp cận nguồn vốn của các DNNVV về khả năng
tiếp cận nguồn tài chính, trong đó vốn các DNNVV vay ngân hàng chiếm
45,31%, còn lại vốn tự có là 36,25% và vốn khác. Nghiên cứu cũng đưa ra
các giải pháp về vốn hỗ trợ cho DNNVV như các ngân hàng cần thiết lập các
cơ chế cho vay đối với DNNVV; giải quyết thông tin bất cân xứng giữa doanh
nghiệp và ngân hàng; có chính sách thuế hợp lý hỗ trợ ngân hàng; tạo lập môi
trường kinh doanh thuận lợi cho DNNVV phát triển.
Bài viết “Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DNNVV hiện nay”
của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến, Nguyễn Thị Hoa (2015) [54] cho thấy,
những vướng mắc của DNNVV là tầm nhìn và thiếu hoạch định bài bản của
nhà quản lý; khả năng tiếp cận vốn và thông tin pháp luật còn hạn chế; tái cấu
trúc nguồn nhân lực, sản phẩm; mở rộng và phát triển… Các tác giả đã thực
hiện đề xuất giải pháp tháo gỡ các khó khăn này.
Phan Thị Linh (2015) trong nghiên cứu “Giải pháp tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng cho DNNVV”, chỉ ra DNNVV rất khó đáp ứng các điều kiện cho
vay vốn của ngân hàng; đồng thời nguồn vay từ quỹ bảo lãnh cho DNNVV
cũng thấp, trong khi tỷ lệ về rủi ro về bảo lãnh cao (gần 27%). Việc tiếp cận
khó khăn về nguồn vốn là do độ chễ thực thi chính sách và ngân hàng lo ngại
rủi ro cũng như tăng trưởng nóng về tín dụng có thể gây ra lạm phát cho nền
21
kinh tế.
Tác giả Nguyễn Thị Cúc (2016) trong nghiên cứu “N ng cao hiệu quả
vốn vay cho các DNNVV” [43] cho thấy, tỷ lệ tiếp cận vốn của DNNVV Việt
Nam rất thấp chỉ 32% do nguyên nhân nội tại là chính, bên cạnh việc thiếu am
hiểu cơ chế, chính sách của DNNVV. Do tiếp cận vốn hạn chế, nên các
DNNVV tiếp cận nguồn vốn sẵn có trong nền kinh tế gồm: Vốn chủ sở hữu,
vốn từ các tổ chức tín dụng, từ các quỹ hỗ trợ của Chính phủ, vốn từ các tổ
chức quốc tế và doanh nghiệp đối tác.
Theo nghiên cứu “Cụ thể hóa các giải pháp hỗ trợ cho DNNVV” của
Nguyễn Văn Thịnh (2018) [63], sau khi Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 được ban
hành, Chính phủ đã cụ thể hóa Luật để hướng dẫn hỗ trợ cho DNNVV. Theo
đó, Chính phủ ban hành các Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018
của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín
dụng cho DNNVV, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính
phủ quy định chi tiết đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, Nghị định số
39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Hỗ trợ DNNVV. Đặc biệt, nghiên cứu cũng chỉ ra các hình thức hỗ
trợ cho DNNVV gồm: (i) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, hỗ trợ đầu tư khởi nghiệp
sáng tạo và Quỹ phát triển DNNVV; (ii) Hỗ trợ tư vấn; (iii) Hỗ trợ phát triển
nguồn nhân lực; (iv) Hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh; (v) Hỗ trợ
DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; (vi) Hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết
ngành, chuỗi giá trị.
1.1.4. Nhóm thứ tư: Nghiên cứu, phân tích kinh ngiệm các nước về
chính sách tài chính đối với DNNVV và bài học cho Việt Nam
Cuốn kỷ yếu Hội thảo “Chính sách hỗ trợ DNNVV - kinh nghiệm từ
Nhật Bản” [4] chủ yếu chỉ nghiên cứu sâu kinh nghiệm diễn biến chính sách,
kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc hỗ trợ DNNVV và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
Trong cuốn sách “Chính sách hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam”của Bùi Thị
22
Quỳnh Thơ (2017) [16], bên cạnh các nghiên cứu đã chỉ ra nghiên cứu đã nêu
ở Nhóm thứ ba, tác giả còn nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Đài Loan. Theo đó Nhật Bản đưa ra các
chính hỗ trợ cho DNNVV gồm: Chính sách tài chính; chính sách liên quan
đến hợp đồng phụ; chính sách thuế; chính sách về giải pháp công nghệ; chính
sách quản lý; chính sách trong việc tái cơ cấu, đổi mới; chính sách nguồn lực
con người; chính sách mở rộng thị trường ra nước ngoài; chính sách phát triển
doanh nghiệp mới; chính sách mở rộng kênh bán hàng; hỗ trợ vượt qua rủi ro
kinh doanh đối với doanh nghiệp khởi nghiệp. Còn tại Hàn Quốc thì việc hỗ
trợ DNNVV theo các loại doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa,
gồm các loại hỗ trợ chính: Hỗ trợ các hoạt động thương mại, giao dịch hàng
hóa cho DNNVV; các quy định về vấn đề đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực
phù hợp hỗ trợ DNNVV; các quy định về đổi mới công nghệ hỗ trợ cho
DNNVV và các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm; các quy định liên quan đến
các chính sách ưu đãi về tài chính cho DNNVV (miễn, giảm và giãn thuế;
DNNVV tùy từng điều kiện và lĩnh vực hoạt động cụ thể, được giảm thuế 5 -
30%, miễn một số thuế GTGT, lệ phí trước bạ đối với bất động sản phục vụ
hoạt động nghiên cứu phát triển của DNNVV…
Trong bài viết “Kinh nghiệm của Nhật Bản trong chính sách hỗ trợ
DNNVV” của Hà Thị Kim Duyên (2015) [26] cho thấy, ở Nhật Bản có 99%
DNNVV, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện trợ giúp cho các DNNVV như cải
tiến các công cụ tài chính cơ bản cho DNNVV từ tài chính, nâng cấp tổ chức
và quản lý, chỉ đạo (giai đoạn 1045 - 1954); ban hành Luật Khuyến khích hiện
đại hóa DNNVV (giai đoạn 1963 - 1972); ban hành Luật Cơ bản cho
DNNVV (giai đoạn 1985 - 1999); sửa đổi chính sách đối với DNNVV (giai
đoạn 2000 - 2015). Tác giả cũng phân chỉ ra chính sách hỗ trợ của Nhật Bản,
thực trạng ở Việt Nam và một số đề xuất.
Bài viết “Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV
và bài học cho Việt Nam” của Nguyễn Thế Bính (2013) [42] đã nghiên cứu
23
kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore,
Thái Lan, Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức về chính sách hỗ trợ phát triển
DNNVV, từ đó đưa ra bài học cho Việt Nam.
Nguyễn Hà Phương (2012) nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản và
Mehico trong bài viết “Kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài chính hỗ trợ
phát triển DNNVV” [47], từ đó đưa ra bài học cho Việt Nam. Kinh nghiệm
của Nhật Bản cho thấy, hệ thống tài chính tài trợ vốn của nước này bao gồm
các tổ chức tài chính quốc doanh phục vụ chính sách và các tổ chức tài chính
bảo lãnh tín dụng…
Luận án Tiến sỹ kinh tế “Tăng trưởng tín dụng ng n hàng đối với
DNNVV Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn” (2014) của Nguyễn
Văn Lê [60a]. Luận án nhấn mạnh vai trò của tín dụng ngân hàng đối với
DNNVV, phân tích sự cần thiết phải mở rộng hoạt động này trong nền kinh
tế khó khăn cũng như các yếu tố ảnh hưởng và một số tiêu chí đánh giá tăng
trưởng tín dụng ngân hàng cho DNNVV. Bên cạnh đó, đúc kết những bài học
phù hợp nhất cho việc tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia Đài Loan, Hàn
Quốc và Ireland, đặc biệt khi các quốc gia này ở trong điều kiện kinh tế vĩ mô
bất ổn. Phân tích tác động của kinh tế vĩ mô bất ổn đến hoạt động sản xuất
kinhdoanh của DNNVV Việt Nam, các chính sách của Chính phủ về tăng
trưởng tín dụng ngân hàng đối với DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất
ổn. Trên cơ sở đánh giá, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy ngân
hàng dành cho DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn.
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), “Pháp luật hỗ trợ DNNVV của Hàn
Quốc và một số kiến nghị tham khảo” [49], tác giả đi vào nghiên cứu về pháp
luật hỗ trợ DNNVV tại Hàn Quốc với các nội dung: Các quy định về hỗ trợ
các hoạt động thương mại, giao dịch hàng hóa cho các DNNVV; các quy định
về vấn đề đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực phù hợp hỗ trợ cho các
DNNVV; các quy định về đổi mới công nghệ hỗ trợ cho các DNNVV và các
24
doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm; các quy định liên quan đến các chính sách ưu
đãi về tài chính cho DNNVV; các chính sách hoạt động hỗ trợ cho DNNVV
của cơ quan quản lý DNNVV. Từ đó đưa ra khả năng áp dụng chính sách,
pháp luật hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam.
Nguyễn Thu Thủy, Đỗ Đình Long (2018) nghiên cứu về “Chính sách
tín dụng cho DNNVV ở một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam” [58]
cho thấy, trong các chính sách hỗ trợ DNNVV thì chính sách tín dụng đóng
vai trò là trọng tâm. Các tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản,
Đài Loan về việc huy động vốn hỗ trợ cho DNNVV. Trong đó, việc hỗ trợ tài
chính cho các DNNVV ở Nhật Bản được thực hiện bởi nhiều tổ chức khác
nhau, DNNVV được tiếp cận nhiều tổ chức tài chính để vay vốn. Còn Chính
phủ cho DNNVV vay trực tiếp, chủ yếu là các khoản vay dài hạn không có lãi
hoặc lãi suất thấp để DNNVV đầu tư nâng cao trình độ công nghệ, mua sắm
các phương tiện hiện đại phục vụ sản xuất - kinh doanh. Bên cạnh đó, cho vay
không cần tài sản thế chấp cũng được áp dụng khá phổ biến.
Đối với Đài Loan, Chính phủ hỗ trợ cho DNNVV thông qua biện pháp
khuyến khích ngân hàng cung cấp tín dụng cho DNNVV thông qua điều
chỉnh lãi suất, quy định tỷ lệ cung cấp tín dụng cho DNNVV hằng năm và
thành lập các quỹ cấp vốn cho DNNVV. Các tác giả cũng đưa ra những gợi ý
cho Việt Nam.
Bài viết “Hỗ trợ DNNVV: Kinh nghiệm tại Nhật Bản, Liên minh ch u
Âu và những gợi ý cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hà (2018) [57]
nhận thấy, Nhật Bản hỗ trợ cho DNNVV dưới dạng trợ cấp về vốn thông qua
khoản vay thông thường với lãi suất thấp; hỗ trợ về công nghệ; hỗ trợ về pháp
lý; đầu tư trực tiếp cho DNNVV thông qua các công ty xúc tiến. Bên cạnh đó,
EU thì hỗ trợ cho DNNVV thông qua biện pháp chính là cải thiện môi trường
kinh doanh. Nghiên cứu cũng đưa ra những gợi ý cho việc xây dựng chính
sách hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam.
Trong bài viết “Chính sách hỗ trợ tài chính đối với các DNNVV ở một
25
số quốc gia trên thế giới” của Vũ Văn Thực (2019) [97] đã chỉ ra kinh
nghiệm của Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) về triển
khai chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV. Cụ thể, Nhật Bản thực hiện
hỗ trợ tài chính, lãi suất cho DNNVV thông qua cải cách về chính sách tài
chính, hỗ trợ lãi suất ưu đãi bên cạnh các khoản tín dụng ưu đãi với mức lãi
suất cho vay thấp hơn lãi suất thương mại trên thị trường. Đặc biệt, Chính phủ
Nhật Bản còn đưa ra các chính sách giúp các tổ chức nhà nước và ngoài nhà
nước phát triển đa dạng nhằm hỗ trợ vốn thông qua đổi mới kỹ thuật và công
nghệ cho các DNNVV. Đáng chú ý, Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ vốn để
thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ này sẽ tài trợ cho việc phát hành
hành trái phiếu của các DNNVV.
Đối với Singapore, quốc gia này đã thực hiện hỗ trợ cho DNNVV
thông qua xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ (như chính sách thuế phát triển
ngành kinh tế mũi nhọn); giành 1 khoản ngân sách nhằm thực hiện bảo lãnh
cho DNNVV vay vốn phục vụ cho mục đích đầu tư vào sản xuất - kinh
doanh. Bên cạnh đó, Hàn Quốc thực hiện hỗ trợ cho DNNVV thông qua việc
giãn, giảm, hoàn thuế; hỗ trợ nguồn nhân lực thông qua bổ sung đào tạo ở các
trường về DNNVV. Đáng chú ý, Đài Loan (Trung Quốc) thì cho thành lập
quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ DNNVV để hỗ trợ tài chính cho DNNVV, đồng
thời khuyến khích các ngân hàng cho DNNVV vay vốn trong trường hợp
thiếu hoặc không có tài sản đảm bảo, yêu cầu các ngân hàng thành lập phòng
tín dụng DNNVV để tư vấn nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài về chính sách tài
chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các nghiên cứu về chính sách tài chính đối với DNNVV cũng được
quan tâm và nghiên cứu nhiều ở nước ngoài. Đã có rất nhiều nghiên cứu lý
thuyết của các nhà kinh tế nổi tiếng liên quan tới chính sách tài chính đối với
DNNVV. Cùng với sự phát triển của các lý thuyết về chính sách tài chính đối
với DNNVV là các nghiên cứu ứng dụng vào thực tế về vấn đề này ở các
26
quốc gia khác nhau như:
1.2.1. Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận chính
sách tài chính, tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ở nội dung này, tùy theo đặc điểm của các quốc gia, nhiều tác giả cũng
tham gia nghiên cứu và đưa ra các nhận định mang tính lý luận nguồn tài
chính cho DNNVV, sự cần thiết phải hỗ trợ DNNVV… Đơn cử là:
Nghiên cứu về “International Benchmarking of Countries’ Policies
and Programs Supporting SME Manufacturers”, by Stephen J. ezell and Dr.
Robert D. Akinson, 2011 [117] cho rằng, sản xuất rất quan trọng đối với “sức
khỏe” của một quốc gia. DNNVV chiếm tới 98% cơ sở kinh doanh ở hầu hết
các nền kinh tế, do đó nó hình thành nên xương sống của ngành sản xuất ở tất
cả các quốc gia. Do đó, việc Chính phủ cần thực hiện hỗ trợ cho DNNVV vì
các lý do: (i) Bất kỳ quốc gia nào cũng rất khó để cân bằng tài khoản thương
mại của mình nếu không dựa vào lĩnh vực sản xuất; (ii) Sản xuất là động lực
chính cho tăng trưởng và rất quan trọng đối với một quốc gia, trong khi
DNNVV là nòng cốt của việc sản xuất; (ii) Sản xuất là nguồn chính của hoạt
động nghiên cứu và phát triển và đổi mới; (iii) Các ngành sản xuất và dịch vụ
không thể tách rời và bổ sung cho nhau.
“Financing Difficulties of SMEs from Its Financing Sources in China”,
Journal of Service Science and Management, 7 (2014), 196. Jiang, J., Lin, Z.,
Lin, C. [106], sau khi nghiên cứu về DNNVV ở Trung Quốc cho thấy, có
khoảng 85,6% (2008) DNNVV thiếu vốn, chủ yếu là do vốn vay từ bên ngoài,
do các ngân hàng lo ngại rủi ro hoạt động của các DNNVV, các DNNVV
thiếu tài sản đảm bảo, thiếu sự bảo lãnh.
Các tác giả đã chia các nguồn lực tài chính của DNNVV thành hai loại
là nguồn tài chính bên trong và nguồn tài chính bên ngoài. Nguồn tài chính
bên trong thường là nguồn được lựa chọn đầu tiên và quan trọng để tiếp cận
vốn, chủ yếu là lợi nhuận giữ lại và khấu hao. Nguồn tài chính bên ngoài
được tiếp cận từ các đối tượng kinh tế độc lập, có thể hỗ trợ tài chính trực tiếp
27
bằng trái phiếu, cổ phiếu và tài chính gián tiếp từ các khoản vay ngân hàng
hoặc các nguồn tài chính từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Mặc dù viêc
tiếp cận tài chính bên ngoài có thể cung cấp vốn đúng thời điểm cần thiết
nhưng thường mất chi phí huy động vốn cao.
Bài viết “UK SMEs are Finding more Ways to Raise External Finance
as Optimism Increases”, 2013 [101]. Theo Doherty, R., ngoài các nguồn tín
dụng truyền thống từ vay ngân hàng, thấu chi, thẻ tín dụng, thì có một nguồn
vốn được nhiều DNNVV quan tâm (22%), đó là huy động vốn từ chính cộng
đồng. Phương thức huy động vốn này được đánh giá là ưu việt hơn phương
thức truyền thống và thu hút sự chú ý của các quỹ cứu trợ, tài trợ vốn cho
công ty khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học và các dự án công cộng.
Nghiên cứu về “Japan’s Policy on Small and Medium Enterprises and
Micro Enterprises”, Small and Medium Enterprise Agency, Ministry of
Economy, Trade and Industry, September 2013 [116]. Nghiên cứu này đưa ra
khái khung khái niệm về DNNVV và siêu nhỏ, trong đó DNNVV ở Nhật Bản
có khoảng 4,2 triệu, chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp, đồng thời nghiên cứu
cũng hệ thống hóa các thay đổi chính sách qua các năm đối với các DNNVV
từ năm 1945 - 2013…
“Development of Small and Medium Enterprises in the ASEAN
Economies” by Yuri Sato (2015) [118]. Tác giả đã nghiên cứu về vai trò,
những đóng góp của DNNVV cho nền kinh tế khoảng 30 - 58% GDP ở mỗi
nước và đóng góp cho xuất khẩu khoảng 9 - 35%. Bên cạnh đó, tác giả cũng
chỉ ra các nhu cầu hỗ trợ cho DNNVV gồm: Hỗ trợ phát triển thị trường, cung
cấp công cụ quản lý cơ bản để DNNVV tăng cường tiếp cận tín dụng, phát
triển các tổ chức để tháo gỡ rào cản tài chính đối với DNVV, phát triển nguồn
nhân lực khởi nghiệp.
1.2.2. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu về thực trạng triển khai chính sách
hỗ trợ tài chính, tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia
28
Về nội dung này, phải kể đến các các nghiên cứu như:
“International Benchmarking of Countries’ Policies and Programs
Supporting SME Manufacturers”, by Stephen J. ezell and Dr. Robert D.
Akinson, 2011 [117]. Nghiên cứu này cho thấy các nước Argentina, Úc, Áo,
Canada, Đức, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Hàn Quốc,
Trung Quốc… cũng thực hiện chính sách hỗ trợ cho DNNVV như cung cấp
các khoản vay để mở rộng quy mô và phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên
cạnh các hỗ trợ về tài chính cho các DNNVV thì các nước cũng thực hiện hỗ
trợ cho các DNNVV những nội dung khác như: Hỗ trợ trong đào tạo, xuất
khẩu; cung cấp thông tin cho doanh nghiệp; đào tạo kỹ năng trong thiết kế sản
phẩm; cung cấp tài trợ nghiên cứu và phát triển trực tiếp; tài trợ cho các
chương trình nghiên cứu tiền cạnh tranh; cung cấp dịch vụ kiểm toán; tư vấn
cho DNNVV đổi mới quy trình kỹ thuật và sản xuất; hỗ trợ chuyển giao công
nghệ...
“Small and Medium Enterprises Financing” by Alper Aras, Regional
Advisor, Macroeconomic Policy and Financing for Development Division,
ESCAP (2017) [100]. Tác giả nghiên cứu ở châu Á - Thái Bình Dương cho
thấy, sau khủng hoảng tài chính toàn 2008, các ngân hàng hạn chế cho vay
đối với DNNVV. Tỷ lệ cho vay của ngân hàng đối với các DNNVV đạt trung
bình 18,5% GDP ở các nước tiên tiến và 5,3% đối với các nước phát triển
vàkém phát triển. Để cải thiện khả năng cho vay của các ngân hàng đối
vớiDNNVV, Chính phủ các nước cũng thực hiện các biện pháp can thiệp
khác nhau nhằm tăng cường vốn vay cho các doanh nghiệp.Những can thiệp
của Chính phủ liên quan đến bắt buộccác ngân hàng cho DNNVV vay với tỷ
lệ dư nợ nhất định hoặc trợ cấp lãi suất cho các ngân hàng (Bangladesh, Ấn
Độ) hoặc thành lập tổ chức thực hiện cho DNNVV vay (Philippines). Tuy
nhiên, có khoảng 81 - 82% giá trị các khoản vay của ngân hàng thì DNNVV
phải đáp ứng tài sản đảm bảo (trong khi ở OECD là 64,8%).
Nguồn tài chính cung cấp cho DNNVV gồm có: Các tổ chức tài chính
29
phi ngân hàng; ngân hàng tư nhân; ngân hàng quốc doanh; khác.
Trong nghiên cứu về “Small & Medium Enterprise Development
Policies in 6 ASEAN Countries” by Organization for Small & Medium
Enterprises and Regional Innovation, Japan (2008) [110]. Tác giả đi vào
nghiên cứu chính sách phát triển DNNVV ở Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Tác giả đi vào nghiên cứu vai trò của
DNNVV đối với nền kinh tế và hệ thống chính sách đã được ban hành ở các
nước để hỗ trợ cho DNNVV phát triển.
“Small and Medium Enterprises Development Policies of 4 ASEAN
Countries” by Dr. Pussadee Polsaram, Dr. Panid Kulsiri, Ms. Lissara
Techasermsukkul, Ms. Thaw Dar Htwe, Ms. Kanittha Kwanchainond (2011)
[102]. Các tác giả nghiên cứu 4 nước gồm Brunei, Cambodia, Lào, Myanmar
cho thấy, hỗ trợ tài chính cho DNNVV được thực hiện theo dạng quỹ và tài
trợ, trong đó nghiên cứu cũng đưa ra chính sách tài chính, thuế đối với
DNNVV (Brunei).
“Small and Medium Enterprise Policies in Japan and ASEAN-Member
Countries” by Organization for Small & Medium Enterprises and Regional
Innovation, Japan, March 2007 [111]. Nghiên cứu chỉ ra chính sách công đối
với DNNVV gồm nhiều chính sách được hình thành từ năm 1945 - 2007. Đến
năm 2007, chính sách công đối với DNNVV ở Nhật Bản gồm: Luật Cơ bản
DNNVV (1999) sửa đổi; Luật Hỗ trợ DNNVV 2000. Đồng thời nghiên cứu
cũng so sánh chính sách, trong đó có chính sách hỗ trợ DNNVV ở nước nước
ASEAN.
Theo “Japan’s Policies for Small and Medium Enterprises” by
Hirofumi Ono Director General, JETRO Viennam (2014) [105], tác giả đã hệ
thống hóa cụ thể các chính sách đối với DNNVV tại Nhật Bản cùng với quá
trình sửa đổi về mặt chính sách.
“Evolution of SME Policy in Japan and Korea: Experience and Policy
Implications” by China Institute for Science and Technology Policy, School
30
of Public Policy and Management Tsinghua University [103]. Các tác giả cho
thấy, việc hỗ trợ tài chính để thúc đẩy các DNNVV được ban hành vào năm
1956 với mục đích nâng cao năng suất của các DNNVV thông qua việc sử
dụng các thiết bị hiện đại. Về sau, chính sách dành cho DNNVV của Nhật
Bản đều được dựa trên Luật Cơ bản (1963).
Về nghiên cứu “Policy of small and medium-sized enterprises
in China” by Małgorzata Powiertowska, Uniwersytet Mikołaja Kopernika w
Toruniu, 2015 [108]. Việc hỗ trợ cho DNNVV ở Trung Quốc được pháp luật
quy định.
“Financing Small and Medium Enterprises in China: Recent Trends
and Prospects beyond Shadow Banking” by Kellee S. Tsai, May 2015 [107].
Tác giả cho rằng, các DNNVV đại diện cho xương sống của nền kinh tế
Trung Quốc, nhưng họ thiếu tiếp cận tín dụng ngân hàng. Do đó, các
DNNVV dựa vào một loạt các nguồn thay thế, bao gồm tài chính phi chính
thức, tài chính phi ngân hàng và tài chính ngầm.
“Small & Medium Enterprise Development Policies in Thailand” by
Mr. Kota Nagai Associate Economist, Institute for International Trade &
Investment (ITI) [109]. Nghiên cứu cho thấy, năm 2006, Malaysia đã chi
ngân sách hỗ trợ cho sự phát triển của DNNVV, trong đó có chi thúc thẩy khả
năng xuất khẩu, tổ chức tiếp thị xuất khẩu tại nhà và ở nước ngoài, xúc tiến
xuất khẩu trong khu vực cụ thể; tạo quỹ để lập kế hoạch hỗ trợ xúc tiến toàn
diện cho DNNVV. Hỗ trợ cho DNNVV Thái Lan chủ yếu đến từ các ngân
hàng và các tổ chức tài chính công (như Ngân hàng Phát triển Thái Lan). Bên
cạnh đó, DNNVV cũng nhận hỗ trợ từ ưu đãi của hệ thống thuế (thông
thường thuế suất thuế TNDN là 30%, trong khi đó đối với các DNNVV có thu
nhập lên tới 1 triệu là 15%, với thu nhập hơn 1 triệu và lên tới 3 triệu là 25%,
với thu nhập là hơn 3 triệu là 30%)…
“Financing Small and Medium-Sized Enterprises in Thailand: The
Importance of Bank Loans and Financing Diversification” by Ramcharran,
31
Harri (2017) [113], the Journal of Entrepreneurial Finance: Vol. 19: Iss. 2, pp.
Nghiên cứu của tác giả chỉ ra rằng, nguồn cung cho vay đối với DNNVV từ
ngân hàng khoảng 80% và các tổ chức tài chính công khoảng 20% (2014).
Các khoản vay cho DNNVV có xu hướng giảm dần từ sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008 cùng với tỷ lệ nợ xấu đối với khoản cho vay của ngân
hàng cũng giảm theo, từ khoảng 7% xuống 2%.
“Small and Medium Enterprises in the Context of Regional
Development and Innovations” by Ruchkina, G., Melnichuk, M., Frumina, S.,
& Mentel, G. (2017), Journal of International Studies, 10 (4), 259-271 [114].
Bài viết nghiên cứu về tổng quan về kinh nghiệm phát triển của các DNNVV
ở các quốc gia khác nhau và đo lường tác động của việc hỗ trợ của Chính phủ
đối với DNNVV…
1.3. Khoảng trống tác giả tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Thông qua tổng quan nghiên cứu ở trong và ngoài nước được trình bày
ở trên, tác giả nhận thấy:
Một là, về nghiên cứu lý luận, các nghiên cứu trước lý luận mặc dù đã
nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế,
song chưa đề cập đến lý luận về chính sách tài chính đối với DNNVV, nhất là
nội hàm và vai trò, đặc điểm của chính sách tài chính đối với DNNVV. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu cũng chưa đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả
và yếu tố tác động đến chính sách tài chính đối với DNNVV.
Hai là, về nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế chính sách tài chính đối với
DNNVV thì các công trình nghiên cứu mặc dù đã chỉ ra các chính sách tài
chính của các nước đối với DNNVV, tuy nhiên việc phân tích chính sách của
một số nước còn chưa được sâu, chưa cập nhật được đến năm 2020, đáng chú
ý các nghiên cứu này chỉ ra các bài học kinh nghiệm còn chưa sát, nên việc áp
dụng các bài học kinh nghiệm vào chính sách còn chưa cao, thể hiện sự bất
cập của nhiều chính sách tài chính đối với DNNVV chưa được sớm sửa đổi.
Ba là, về thực tiễn, việc đánh giá thực tiễn, chỉ ra các hạn chế và
32
nguyên nhân của chính sách tài chính đối với DNNVV ở các công trình
nghiên cứu chưa mang tính hệ thống, thể hiện ở việc các công trình chỉ đi
nghiên cứu ở khía cạnh huy động vốn qua ngân hàng hoặc huy động vốn của
DNNVV thông qua các quỹ… mà chưa có nghiên cứu đánh giá chính sách tài
chính đối với DNNVV ở tất cả các khía cạnh gồm: (1) Chính sách huy động,
phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng đối với DNNVV; (2)
Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với DNNVV; (3) Chính sách thuế,
phí đối với DNNVV; (4) Chính sách tài chính đất đai đối với DNNVV. Từ đó
cũng cho thấy các công trình chỉ đưa ra một số giải pháp cụ thể mà chưa đưa
ra tổng thể các hệ thống giải pháp gồm 4 nhóm giải pháp nêu trên.
Đáng chú ý, thời gian nghiên cứu của các công trình nghiên cứu chưa
bao quát được cả giai đoạn 2011 - 2020.
Với các lý do trên, tác giả nhận thấy còn khoảng trống cả về lý luận,
kinh nghiệm và thực tiễn để nghiên cứu chính sách tài chính đối với DNNVV
tại Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài chính sách tài chính đối với DNNVV tại
Việt Nam sẽ đảm bảo tính hệ thống, tính sâu chuỗi, logic, khoa học… về lý
luận, thực tiễn, giúp cho việc hoàn thiện chính sách tài chính đối với DNNVV
33
tại Việt Nam trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tổng quan nghiên cứu ở trong và ngoài nước được trình bày ở Chương
1 cho thấy, đã nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến chính sách tài
chính đối với DNNVV. Nội dung của các đề tài nghiên cứu khá rộng, ở nhiều
khía cạnh khác nhau, đã có đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chính sách tài chính đối với DNNVV, trong đó có các nghiên cứu còn đưa ra
định hướng và giải pháp khá cụ thể. Đây là những tài liệu tham khảo tốt phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu hầu hết đề cập đến những vấn đề cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế, thực
trạng và giải pháp chính sách tài chính đối, tín dụng đối với DNNVV chủ yếu
chỉ ở một khía cạnh cụ thể, chưa mang tính bao quát, xuyên suốt của vấn đề
nghiên cứu của đề tài luận án này.
Trên cơ sở đánh giá tổng quan các vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề
tài, tác giả nhận thấy còn nhiều khoảng trống nghiên cứu chính sách tài chính
đối với DNNVV tại Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu trong Chương 1 là
cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
chính sách tài chính đối với DNNVV mà các nghiên cứu khác chưa đề cập
34
đến.
Chƣơng 2.
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
2.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo các nghiên cứu, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về DNNVV.
Ngoài các yếu tố không gian, việc phân loại DNNVV cũng bị ảnh hưởng bởi
những thay đổi theo thời gian, do đó các tiêu chí định nghĩa về DNNVV
thường được các quốc gia điều chỉnh để phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô
thay đổi cũng như môi trường kinh tế cụ thể.
Nghiên cứu ở các nước cho thấy, không có định nghĩa được chấp nhận
phổ biến về DNNVV. Ở một số nước, định nghĩa thường căn cứ vào quy mô
của lực lượng lao động. Bên cạnh đó, một số nước định nghĩa DNNVV còn
kết hợp thêm các tiêu chí, chẳng hạn như doanh thu và/hoặc tài sản, mặc dù
các định nghĩa dựa trên tài sản và doanh thu ít phổ biến. Hơn nữa, ở một số
quốc gia như Nga, định nghĩa DNNVV khác nhau áp dụng trong các lĩnh vực
khác nhau. Theo định nghĩa của Nhóm WB về DNNVV bao gồm các doanh
nghiệp có tối đa 300 nhân viên và tổng doanh thu hằng năm lên tới 15 triệu
USD. Tuy nhiên, theo Wolfgang Lehmacher (2009), cũng có nghiên cứu đưa
ra định nghĩa về DNNVV có từ 0 - 500 nhân viên, với giới hạn trên 250 nhân
viên là định nghĩa được đưa ra phổ biến nhất.
Việc sử dụng tiêu chí phân loại DNNVV ở các quốc gia khác nhau
không hoàn toàn giống nhau, song các tiêu chí thường được sử dụng gồm:
Tổng tài sản, số lao động, doanh số, doanh thu và vốn. Nhiều nước thuộc
cộng đồng chung châu Âu, Philippines, Thái Lan, Bolivia, Colombia… lại sử
dụng tiêu chí tổng tài sản để phân loại doanh nghiệp. Đối với Hàn Quốc thì sử
35
dụng tiêu chí doanh thu để phân loại DNNVV trong lĩnh vực sản xuất phần
mềm và thương mại; tiêu chí tiêu chí tổng nguồn vốn đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất.
Ở Việt Nam, Luật Hỗ trợ DNNVV quy định DNNVV bao gồm doanh
nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham
gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một
trong hai tiêu chí: (i) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; (ii) Tổng
doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. Luật cũng quy định
doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác định
theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng;
thương mại và dịch vụ đã được Chính phủ quy định chi tiết trong Nghị định
số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Hỗ trợ DNNVV.
Bảng 2.1. Tiêu chí xác định DNNVV tại Việt Nam
Tổng doanh thu năm
Tổng nguồn vốn
Số lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội bình quân trong năm
Loại hình doanh nghiệp/Lĩnh vực
≤100 người
≤ 50 tỷ đồng
≤ 20 tỷ đồng
≤ 50 người
≤ 100 tỷ đồng
≤ 50 tỷ đồng
≤ 3 tỷ đồng
≤ 10 người
≤ 3 tỷ đồng
≤ 10 tỷ đồng
≤ 200 người
≤ 200 tỷ đồng
≤ 100 tỷ đồng
Doanh nghiệp nhỏ Nông, lâm nghiệp, thủy sản Công nghiệp, xây dựng Thương mại, dịch vụ Doanh nghiệp siêu nhỏ Nông, lâm nghiệp, thủy sản Công nghiệp, xây dựng Thương mại, dịch vụ Doanh nghiệp vừa Nông, lâm nghiệp, thủy sản Công nghiệp, xây dựng Thương mại, dịch vụ
≤ 100 người
≤ 300 tỷ đồng
≤ 100 tỷ đồng
36
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Nghị định số 39/2018/NĐ-CP
2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các loại hình doanh nghiệp đều có những đặc điểm riêng, trong đó
DNNVV cũng có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và
phát triển [75], cụ thể:
- Các DNNVV có tính năng động, linh hoạt, các quyết định quản lý
được thực hiện nhanh, trước những thay đổi của thị trường; có khả năng
chuyển hướng kinh doanh và chuyển đổi mặt hàng kinh doanh nhanh; tăng
giảm lao động dễ dàng, nơi làm việc của người lao động có tính ổn định.
Do đặc tính cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nên DNNVV luôn
trong tâm thế phải đổi mới để thích nghi với thị trường. Tính linh hoạt và khả
năng tùy biến và phân biệt sản phẩm cao hơn có thể mang lại cho các
DNNVV lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu so với các công ty lớn
hơn, vì họ có thể đáp ứng nhanh khi thị trường thay đổi. Một số thị trường
quốc tế thích hợp bị chi phối bởi các DNNVV đổi mới thường là đối tác
chính của các công ty đa quốc gia lớn hơn trong việc phát triển sản phẩm
mới hoặc phục vụ thị trường mới. Đồng thời, hội nhập toàn cầu làm gia tăng
cạnh tranh cho các DNNVV ở thị trường địa phương, trong một số trường
hợp có tác động đột phá, đòi hỏi kiến thức thị trường phải được nâng cao,
đồng thời giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ không
hoạt động quốc tế.
- Các DNNVV có lợi thế so với các doanh nghiệp lớn về khai thác các
ngành nghề truyền thống của từng địa phương; bám sát nhu cầu thị trường, thị
hiếu của người tiêu dùng. DNNVV được phân bổ trải dài khắp toàn quốc,
không chỉ ở các thành phố, mà còn có cả ở vùng nông thôn. Với các doanh
nghiệp tại nông thôn thì tiếp cận nhiều với các sản phẩm của các làng nghề,
do đó sẽ rễ ràng tiếp cận các sản phẩm này để lên các ý tưởng kinh doanh về
các sản phẩm truyền thống theo nhu cầu của thị trường trên cơ sở quảng bá
của địa phương.
37
- Các DNNVV với lợi thế trong khai thác các nguồn lực sẵn có ở địa
phương đã tạo ra các tác động ngoại lai như: Tạo ra nhiều việc làm, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư ở các địa phương hoặc duy trì và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc, giúp giảm chênh lệch giàu nghèo, giảm sự
cách biệt giữa thành thị và nông thôn, góp phần ổn định kinh tế - xã hội.
Đặc điểm này khác hẳn với các doanh nghiệp lớn hay khối doanh
nghiệp nước ngoài. Theo đó khối doanh nghiệp nghiệp này chủ yếu đóng ở
các thành phố lớn, các khu công nghiệp, công nghệ cao mà ít khi đóng trụ sở
tại các địa phương. Dựa vào các DNNVV ở các địa phương nhằm tổng hợp
nhu cầu và/hoặc cung cấp hàng hóa dịch vụ, lao động để các DNNVV làm
cầu nối nhằm kết nối với các chuỗi giá trị thị trường, trong đó có việc kết nối
với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để
tạo thành các chuỗi giá trị đen xen trong nền kinh tế.
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt nguồn vốn tự có cũng như bổ
sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng sản
xuất - kinh doanh. Đây là điểm yếu của các DNNVV bởi khi hoạt động thì
những nguồn tài chính DNNVV tiếp cận được rất hạn chế bởi các DNNVV
thường không hoặc có ít tài sản đảm bảo/tài sản thế chấp để vay vốn từ bên
ngoài, nhất là từ các TCTD, dẫn đến tổng lượng vốn của DNNVV thường
không đáp ứng cho nhu cầu hoạt động, theo đó DNNVV phải tính toán thận
trọng khi ra các quyết định đầu tư.
Trong mỗi quyết định về sản xuất - kinh doanh, DNNVV đều phải tìm
kiếm, cân đối các nguồn lực sẵn có hoặc lập kế hoạch nguồn lực cho việc ra
các quyết định, trong khi đó khối doanh nghiệp lớn lại rễ ràng trong việc tiếp
cận nguồn lực khi có năng lực tài chính tốt.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình dộ công nghệ kỹ thuật thường yếu kém,
lạc hậu. Nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa
phần các doanh nghiệp nhỏ rất chật hẹp. Xuất phát từ quy mô vừa và nhỏ, nên
nhiều DNNVV thường dùng tài sản của chính họ để mở văn phòng, công ty
38
hoặc chỉ dành được phần nhỏ nguồn lực để thuê mặt bằng kinh doanh, điều
này làm cho DNNVV luôn phải tính toán, cân đối các chi phí về mặt bằng để
đạt hiệu quả sản xuất - kinh doanh tối ưu nhất.
Trên thực tế, DNNVV rất khó tiếp cận những mặt bằng có sự hỗ trợ của
nhà nước, bởi các chính sách mặc dù có như khối doanh nghiệp lớn thường có
ưu thế hơn khi tiếp cận mặt bằng do thường được sự ưu ái nhất định. Còn
khối doanh nghiệp FDI lại có nhiều chính sách ưu đãi trong việc thu vốn đầu
tư nước ngoài của nước sở tại. Dẫn đến DNNVV luôn bị thiệt thòi khi tiếp
cận đất đai.
- Trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức năng
còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, đặc
biệt là những kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị kinh doanh, họ quản
lý bằng kinh nghiệm và thực tiễn là chủ yếu. Trong khi đó, việc tập huấn miễn
phí của Nhà nước lại không nhiều, nên DNNVV luôn phải tìm cách học hỏi
kiến thức quản trị, điều hành từ những kinh nghiệm đúc rút thông qua trải
nghiệm thực tế.
Trong quá trình hoạt động, DNNVV thường phải tự trau rồi kiến thức
của mình chủ yếu từ các hoạt động thực tế, trong đó học hỏi kinh nghiệm từ
thị trường là nhiều nhất, đôi khi những bài học có được chính là từ những thất
bại trước đó.
- Trình độ lãnh đạo, chuyên môn quản lý sản xuất - kinh doanh của
các DNNVV còn hạn chế, lao động ít được đào tạo, công nhân phải tự nâng
cao tay nghề là chính, ít có đầu tư cải tiến công nghệ và đổi mới sản phẩm.
DNNVV thường là kinh doanh một hoặc một vài sản phẩm, dịch vụ mà ít
khi sản xuất, do vậy, họ không cần nhiều lao động và kỹ năng của lao động
này thường do lao động tự trang bị để đáp ứng yêu cầu của DNNVV. Đáng
chú ý, các DNNVV có vốn ít, trong khi để đổi mới sản phẩm và công nghệ
cần nhiều chi phí, nên DNNVV chỉ tập trung vào việc khai thác nhu cầu đối
với sản phẩm mà ít chú trọng đến khâu đổi mới sản phẩm và công nghệ.
39
- Các DNNVV dễ khởi nghiệp nhưng chịu rất nhiều rủi ro trong kinh
doanh: Các nghiên cứu tại Singapore chỉ ra rằng, có 83% DNNVV sau 5
năm phải giải thể nếu không có sự trợ giúp từ Chính phủ. Những rủi ro của
DNNVV tập trung chủ yếu là thiếu nhân viên có kỹ năng (64%), chịu lãi
suất và tiền thuê đất cao (9%), cạnh tranh cao và chi phí hoạt động tăng [22].
- Thiếu thông tin thị trường, yếu trong hội nhập và khó tham gia chuỗi
thị trường của các ngành hàng. Đặc điểm này xuất phát từ tính kém hiểu biết
của đội ngũ DNNVV về trình độ công nghệ cũng như lo sợ thất bại trong
việc xuất khẩu sản phẩm bởi không hiểu biết về pháp luật thương mại quốc
tế, các cam kết của Việt Nam với các nước; dẫn đến chỉ có số ít DNNVV ăn
theo những chuỗi giá trị của doanh nghiệp lớn.
Trong hội nhập, DNNVV tham gia với tư cách là tham gia vào chuỗi
giá trị của ngành hàng hoặc tham gia xuất khẩu trực/gián tiếp. Tuy nhiên,
các DNNVV thường chỉ biết việc hội nhập với nước nào, khu vực nào,
nhưng làm thế nào để đưa hàng hóa sang các nước đối tác gặp nhiều trở ngại
do việc tổng hợp và chắt lọc thông tin để ra quyết định rất hạn chế.
2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ở các nước rên thế giới, Hande Karadag, 2016; Muller, et.al, 2014;
OECD, 2014; Chowdhury, 2011 đã chỉ ra DNNVV là động lực của phát triển
kinh tế - xã hội do vai trò quan trọng của chúng trong tăng trưởng GDP, tạo
việc làm mới. Đối với từng lĩnh vực, thông qua đặc tính năng động, sáng tạo,
DNNVV đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển, giải quyết các vấn đề việc
làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng của
mỗi quốc gia.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm
nghèo và tăng trưởng bao trùm của kinh tế
Ở nhiều quốc gia, DNNVV đều chiếm tỷ lệ cao trong tổng số doanh
nghiệp (từ 97 - 99%) và được xác định là “động lực tăng trưởng”, là “xương
sống” của nền kinh tế. Theo Tờ trình Luật Hỗ trợ DNNVV, các nước đã phát
40
triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, EU… và các nước đang
phát triển trong khu vực châu Á như Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn
Độ… đều rất coi trọng vai trò của khu vực DNNVV. Trong khu vực OECD,
các DNNVV chiếm khoảng 99% tổng số doanh nghiệp. Họ cung cấp nguồn
việc làm chính khoảng 70% công việc và là những người đóng góp chính cho
việc tạo ra giá trị, tạo ra khoảng 50 - 60% GTGT. Theo Tổ chức Tài chính
Quốc tế (2010), tại các nền kinh tế mới nổi, các DNNVV đóng góp tới 45%
tổng số việc làm và 33% GDP. Khi tính đến sự đóng góp của các doanh
nghiệp không chính thức, các DNNVV đóng góp hơn 50% số việc làm và
GDP ở hầu hết các quốc gia không phân biệt mức thu nhập. Ngoài ra, phát
triển DNNVV có thể góp phần đa dạng hóa kinh tế và giúp nền kinh tế phục
hồitrong những thời điểm khó khăn.
Theo Báo cáo giám sát DNNVV châu Á 2020 được ADB công bố, giai
đoạn 2010 - 2019, các DNNVV là một động lực then chốt trong các nền kinh
tế Đông Nam Á - chiếm khoảng 97% số doanh nghiệp và 69% lực lượng lao
động quốc gia; đóng góp khoảng 41% tổng sản phẩm quốc nội cho quốc gia
đó.
Sự đóng góp của các DNNVV vào động lực đổi mới đã tăng lên trong
những thập kỷ gần đây, khi tăng trưởng thu nhập, nhu cầu thị trường nhiều
hơn và công nghệ thay đổi đã cho phép các DNNVV tăng cường lợi thế so
sánh từ nguồn lực hạn chế và khả năng hạn chế để thu được những thành
công, tăng cường đóng góp cho nền kinh tế cả nước.
Các DNNVV tham gia nhiều trên thị trường toàn cầu có thể giúp tăng
cường sự đóng góp cho phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội, bằng cách tạo cơ
hội mở rộng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện cho sự lan tỏa của công
nghệ và bí quyết quản lý, mở rộng và đào tạo kỹ năng và nâng cao năng suất.
Theo OECD (2009, 2017b), các DNNVV tạo ra cơ hội việc làm trên các
khu vực và khu vực địa lý, sử dụng các phân khúc lớn của lực lượng lao động,
bao gồm cả lao động có tay nghề thấp và tạo cơ hội phát triển kỹ năng. Họ
41
cũng giúp hỗ trợ nhân viên tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và xã
hội. Do đó, các doanh nghiệp vừa tạo ra việc làm và GTGT là một kênh quan
trọng để giảm nghèo, đặc biệt nhưng không chỉ riêng ở các nền kinh tế mới
nổi và thu nhập thấp. Về vấn đề này, nâng cao năng suất trong một số lượng
lớn các doanh nghiệp nhỏ, bao gồm cả phân khúc truyền thống và nền kinh tế
phi chính thức, có thể giúp Chính phủ đạt được cả mục tiêu tăng trưởng kinh
tế và hòa nhập xã hội, bao gồm thoát khỏi bẫy năng suất thấp cũng như cải
thiện chất lượng việc làm cho công nhân lành nghề.
Trên khắp các quốc gia ở mọi cấp độ phát triển, các DNNVV đóng vai
trò quan trọng trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs)
bằng cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện và bền vững, cung cấp việc
làm cho đất nước, thúc đẩy công nghiệp hóa bền vững và thúc đẩy đổi mới,
giảm bất bình đẳng về thu nhập.
Nhiều tài liệu đã thảo luận về quan điểm rằng, phát triển kinh tế đi kèm
với xóa đói giảm nghèo với các DNNVV đóng vai trò chính trong việc cải thiện
kinh tế vĩ mô và xã hội thông qua doanh thu, tạo việc làm và phân công lao
động [115].
- Giúp chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
Để góp phần vào chuyển dịch kinh tế, Chính phủ, các địa phương có thể
ban hành các chính sách thu hút đầu tư để khuyến khích các DNNVV đầu tư,
kinh doanh…, qua đó lực lượng lao động sẽ được dịch chuyển sang các
ngành, nghề hay lĩnh vực mới, giúp tạo ra năng suất, giá trị tăng thêm cho
ngành, nghề hay lĩnh vực đó.
Việc DNNVV phân bố ở các vùng, miền khác nhau giúp cho các địa
phương phát triển mũi nhọn kinh tế. DNNVV giúp chuyển đổi cơ cấu nền kinh
tế chủ yếu là do phần lớn các DNNVV muốn được hưởng các ưu đãi do chính
sách thu hút tạo ra nhằm giảm chi phí, mang lại lợi ích cho DNNVV. Nhờ đó,
Nhà nước có thêm được nguồn thu cho NSNN thông qua DNNVV đóng thuế,
42
phí trong quá trình hoạt động.
Việc chuyển dịch cơ cấu rễ nhận thấy nhất đó là việc Chính phủ các
nước ban hành các chính sách thu hút khối DNNVV ở những vùng có kinh tế
khó khăn, các vùng trọng điểm cần phát triển bằng những chính sách hỗ trợ về
đất đai, thị trường, thuế, phí, xúc tiến thương mại... Nhờ những chính sách này
mà DNNVV tiếp cận, đồng nghĩa với việc cơ cấu của những vùng, miền này
được phát triển theo.
- Tăng khả năng sáng tạo để phục vụ nhu cầu khách hàng
Mặc dù không phải tất cả các DNNVV đều sáng tạo, song theo Baumol
(2002) và OECD (2010a), các doanh nghiệp mới và nhỏ thường là động lực
thúc đẩy tăng trưởng GDP, vì họ có thể khai thác các cơ hội công nghệ hoặc
thương mại đã bị các doanh nghiệp lớn bỏ qua. Theo Eurostat (2014), các
DNNVV chiếm khoảng 20% bằng sáng chế, đổi mới trong các lĩnh vực liên
quan đến công nghệ sinh học ở châu Âu. Các DNNVV cũng góp phần tạo ra
giá trị bằng cách áp dụng đổi mới được tạo ra ở nơi khác và điều chỉnh nó theo
các bối cảnh khác nhau thông qua các thay đổi gia tăng và bằng cách cung cấp
các sản phẩm mới hoặc phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng.
DNNVV cũng giúp phục vụ khách hàng có quy mô nhỏ,trong khi các doanh
nghiệp lớn lại ít quan tâm.
EU/OECD (2016) cho rằng, các doanh nghiệp nhỏ cũng giúp giải quyết
các nhu cầu xã hội thông qua thị trường,tham gia cung cấp hàng hóa, dịch vụ
công cộng. Đây là trường hợp của các doanh nghiệp xã hội, góp phần giảm
nghèo và thất nghiệp. Ở nhiều nước, các doanh nghiệp xã hội gia tăng trong
những năm gần đây. Đơn cử, theo EU (2016), tại Pháp năm 2014, quy mô của
nền kinh tế - xã hội chiếm 10% GDP. Tại Bỉ, trong giai đoạn 2008 - 2014, số
lượng việc làm trong các doanh nghiệp xã hội tăng 12% và năm 2015 chiếm
17% tổng số việc làm tư nhân. Theo SEUK (2015), tại Anh, năm 2015 có 41%
43
doanh nghiệp xã hội tạo việc làm cho nền kinh tế so với 22% DNNVV.
2.2. Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.2.1. Khái niệm chính sách tài chính
Kinh tế học của David Begg cho rằng, chính sách tài chính là chính sách
chi tiêu và thuế khóa của Chính phủ, theo đó chính sách tài chính đối với
DNNVV là chính sách chi tiêu và thuế khóa của Chính phủ đối với DNNVV.
Theo Đặng Thị Việt Đức, Phan Anh Tuấn đưa ra khái niệm chính sách
tài chính Quốc gia là tập hợp các mục tiêu, biện pháp được Chính phủ quốc gia
đề ra để tác động đến hệ thống tài chính quốc gia, khiến cho hệ thống đó phục
vụ hữu hiệu việc thực hiện các mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2012) cho rằng, chính sách tài
chính quốc gia bao gồm các chủ trương, chính sách, đường lối và biện pháp về
tài chính trong một thời kỳ tương đối lâu dài do các chính phủ hoạch định và tổ
chức thực hiện trong từng giai đoạn nhất định đối với quốc gia.
Dựa trên các khái niệm về chính sách tài chính, theo quan điểm của tác
giả thì chính sách tài chính là chính sách trong hệ thống chính sách của quốc
gia, trong đó quy định các mục tiêu, biện pháp, lộ trình thực hiện nhằm tác
động đối các chủ thể, khánh thể của hệ thống tài chính quốc gia. Ở góc độ
DNNVV thì đây là việc huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng của DNNVV trên cơ sở hệ thống chính sách tài chính quốc gia
nhằm phát triển DNNVV trong từng giai đoạn cụ thể.
Thực tiễn cho thấy, trong mỗi giai đoạn phát triển của DNNVV, chính
sách tài chính đối với DNNVV ởcác quốc gia thường được thay đổi theo hướng
điều chỉnh, sửa đổi phù hợp với ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
trong từng thời kỳ; đồng thời tập trung giải quyết các thách thức đối với sự phát
triển của các DNNVV. Bên cạnh đó, các chính sách này cũng quy định hệ
thống cơ quan Chính phủ là đầu mối về hỗ trợ DNNVV với vai trò điều phối
44
triển khai chính sách cho DNNVV. Các đạo luật cũng thể hiện rõ trách nhiệm
của Chính phủ trong việc đảm bảo các nguồn lực để tổ chức thực hiện hỗ trợ
DNNVV.
Nhằm thích ứng với những thay đổi của thị trường, thay đổi của bối cảnh
trong và ngoài nước (do khủng hoảng, khó khăn của nền kinh tế), các nước đều
có những thay đổi chính sách theo hướng ưu đãi, tăng tài trợ, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quốc gia đều kỳ vọng các chính sách tài chính đối
với DNNVV phải được ổn định trong một thời gian dài, nhằm tạo sự bình đẳng
cho doanh nghiệp, giúp cho Nhà nước giảm được khoản tài trợ NSNN cho
DNNVV.
2.2.2. Đặc điểm của chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Chính sách tài chính đối với DNNVV là chính sách khó được đo lường
một cách chính xác do khi thực hiện chính sách tài chính, DNNVV không chỉ
chịu sự tác động của hệ thống chính sách này, mà còn chịu sự tác động, ảnh
hưởng bởi các quan hệ kinh tế - xã hội khác ở trong cũng như ngoài nước. Đơn
cử như khi thực hiện chính sách tài chính hỗ trợ thiên tai thì ngoài chịu sự tác
động của thiên tai thì đối tượng chịu sự điều chỉnh của chính sách hỗ trợ thiên
tai còn chịu sự tác động, điều chỉnh của các chính sách hỗ trợ khác, nên khi
đánh giá hiệu quả của chính sách là khó tách bạch chính xác được từng chính
sách.
Chính sách tài chính đối với DNNVV có đặc điểm có tính chễ về mặt
thời gian, bởi khi đi vào thực hiện cơ quan nhà nước phải mất thời gian thu
thập, xử lý thông tin và ra quyết định chính sách. Bên cạnh đó, độ chễ này còn
thể hiện trong việc triển khai thực hiện do còn liên quan đến khâu phổ biến, rà
soát hồ sơ của đối tượng, sau đó các đối tượng thụ hưởng mới tiếp cận được
nguồn tài chính từ các chính sách tài chính.
Chính sách tài chính đối với DNNVV tác động đến nhiều đối tượng trong
nền kinh tế, không chỉ là DNNVV, mà còn gián tiếp tác động đến đối tượng
45
liên quan đến hoạt động của DNNVV, đồng thời còn tác động đến thị trường cả
trong và ngoài nước mà các DNNVV tham gia. Đặc điểm này tương đồng với
rất nhiều chính sách khác hệ thống chính sách của quốc gia vì mỗi chính sách
thường liên quan đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế, do vậy việc ban hành
chính sách sẽ ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế.
Các mục tiêu của chính sách tài chính đối với DNNVV là một bộ phận
của chính sách kinh tế - xã hội, có thể mang tính ngắn hạn và/hoặc dài hạn và
hướng vào mục tiêu phát triển DNNVV nhằm đóng góp tích cực cho nền kinh
tế. Mục tiêu chính sách tài chính đối với DNNVV là phát triển DNNVV ổn
định và bền vững, đồng thời đem lại lợi ích cho nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
chính sách tài chính đối với DNNVV khó có thể đem lại lợi ích cho tất cả mọi
DNNVV, khi đó chính sách được lựa chọn là chính sách đem lại lợi ích cho đa
số mọi người. Thước đo chính để đánh giá, so sánh và lựa chọn chính sách phù
hợp là lợi ích mang tính xã hội mà chính sách đó đem lại.
Chính sách tài chính ngắn đối với DNNVV có thể là các quyết định của
nhà nước; kế hoạch tài chính trong một giai đoạn hay có thể là các hỗ trợ trong
một thời kỳ nhất định của Nhà nước cho các DNNVV. Trong khi đó, chính sách
tài chính dài hạn đối với DNNVV là các chính sách mang tính xuyên xuốt, chỉ
được sửa đổi, bổ sung khi có những bất cập nảy sinh. Tuy nhiên, việc phân loại
chính sách tài chính ngắn hạn hay dài hạn đối với DNNVV chỉ mang tính chất
tương đối khi xem xét về thời gian thực hiện, bởi có những chính sách mặc dù
được thiết kế mang tính dài hạn nhưng quá trình thực hiện thấy bất cập thì nhà
nước có thể cho dừng lại.
Chính sách tài chính đối với DNNVV không chỉ là những cách thức được
đưa ra mà nó còn bao hàm cả quá trình thực hiện chính sách đó. Khi Nhà nước
đưa ra văn bản về chính sách tài chính đối với DNNVV đã được các cấp có
thẩm quyền thông qua thì đó vẫn chưa phải là chính sách tài chính đối với
DNNVV. Chính sách tài chính đối với DNNVV bao hàm cả hành vi thực hiện
những kế hoạch được thể hiện trong chính sách và mang lại những những kết
46
quả trong thực tế. Việc hiểu chính sách tài chính đối với DNNVV một cách
giản đơn là những chủ trương, chế độ đối với DNNVV mà Nhà nước ban hành,
điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách và những
kết quả thực tiễn thu đựơc thì chính sách đó chỉ là những khẩu hiệu.
Việc xây dựng chính sách tài chính đối với DNNVV có sự tham gia từ
nhiều phía, nhiều tổ chức khác nhau, trong đó Nhà nước với tư cách là người tổ
chức và quản lý DNNVV sẽ chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực thi. Tuy
nhiên, ngày nay chính sách tài chính đối với DNNVV không chỉ do các cơ quan
tổ chức của Nhà nước xây dựng mà nó có sự tham gia của nhiều cơ quan tổ
chức ngoài nhà nước. Đây là đặc điểm phổ biến trong việc xây dựng chính sách
kinh tế xã hội nói chung và chính sách tài chính đối với DNNVV nói riêng, bởi
khi xây dựng chính sách thì liên quan đến nhiều đối tượng có các quyền và
nghĩa vụ khác nhau hoặc có lợi ích liên quan đến chính sách, vì lý do đó, Chính
phủ các nước thường xây dựng chính sách trên cơ sở tiếp thu các ý kiến phản
hồi từ các đối tượng liên quan đến chính sách; ý kiến các nhà khoa học; nhà
quản lý thực thi chính sách; tổ chức quốc tế;… để hoàn thiện và ban hành chính
sách dựa trên dự đồng thuận lớn của các đối tượng.
2.2.3. Vai trò của chính sách tài chính trong việc phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường
Để phát triển DNNVV đòi hỏi phải khai thác và sử dụng các tiềm năng
của DNNVV. Theo đó, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ phát triển
DNNVV để giúp họ tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho xã hội, đóng góp tích cực
vào sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống công cụ thường được Nhà nước sử
dụng gồm: Công cụ hành chính, luật pháp, kinh tế, tài chính, thị trường... Công
cụ tài chính, trong đó chính sách thuế, phí; chính sách tín dụng; chính sách đầu
tư... có vai trò quan trọng trong việc phát triển DNNVV [30]. Tổng kết nghiên
cứu thực tiễn cho thấy, vai trò của chính sách tài chính trong việc phát triển
DNNVV trong nền kinh tế thị trường gồm:
- Chính sách tài chính giúp thúc đẩy các tổ chức, cá nh n đầu tư trực
47
tiếp tạo lập hoặc mở rộng quy mô hoạt động DNNVV
Để thực hiện mọi quá trình sản xuất - kinh doanh, trước hết các doanh
nghiệp phải có vốn để thành lập, tiếp đến là vốn để thực hiện hoạt động sản
xuất - kinh doanh. Chính sách tài chính được Nhà nước ban hành sẽ giúp cho
doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng có căn cứ để chuẩn bị các nguồn
vốn cho việc thành lập và mở rộng hoạt động của mình. Khi đã thành lập, dựa
vào các chính sách tài chính - tín dụng, doanh nghiệp phải lựa chọn phương
pháp và hình thức huy động vốn kinh doanh phù hợp, đáp ứng các nhu cầu vốn
để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách kịp thời, liên tục
với chi phí thấp nhất. Bên cạnh đó, bằng các chính sách ưu đãi (ưu đãi đầu tư,
ưu đãi thuế, ưu đãi từ các khoản vay ngân hàng) đối với doanh nghiệp mới
thành lập, Nhà nước kích thích các cá nhân bỏ vốn thành lập doanh nghiệp để
sản xuất - kinh doanh theo nhu cầu.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn mong muốn mở rộng các
hoạt động để tăng thu nhập, lợi nhuận cũng như nâng cao đời sống của người
lao động. Để thực hiện được điều này, các chính sách ưu đãi cũng kích thích
các doanh nghiệp đầu tư thêm vốn để mở rộng hoạt động của mình, góp phần
tích cực vào việc phát triển nền kinh tế thông qua đóng góp của khối doanh
nghiệp cho NSNN.
- Thúc đẩy DNNVV tích lũy vốn, mở rộng khả năng huy động vốn từ bên
ngoài, giúp DNNVV mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh
Các DNNVV chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp ở các quốc
gia, song các doanh nghiệp này lại hạn chế về vốn, hay ít vốn, dẫn đến việc hạn
chế trong đầu tư cho hạ tầng để phục vụ sản xuất - kinh doanh. Với chính sách
tín dụng ưu đãi, hỗ trợ lãi suất đã giúp cho DNNVV tăng thêm vốn kinh doanh,
bởi Nhà nước đã thực hiện trợ cấp 1 khoản bằng với số chênh lệch lãi suất ưu
đãi so với lãi suất thông thường cho DNNVV. Điều này cũng được coi là việc
doanh nghiệp đã giảm được chi phí đầu tư, giúp tăng lợi nhuận và tích lũy vốn
48
cho DNNVV.
Không chỉ vậy, thông qua chính sách bảo lãnh tín dụng, Nhà nước cũng
giúp bảo lãnh DNNVV - đối tượng thường không có nhiều tài sản để bảo lãnh
khi đi vay ngân hàng, thông qua các quỹ bảo lãnh DNNVV để các DNNVV
tiếp cận được nguồn vốn tín dụng, ngân hàng với chi phí hợp lý.
- Hướng dẫn, điều tiết các DNNVV hoạt động theo định hướng phát triển
của Nhà nước
Chính sách chính sách tài chính giúp cho Nhà nước điều chỉnh các quan
hệ của DNNVV trong nền kinh tế. Thông qua các quyết định của Nhà nước tác
động lên các chủ thể là các DNNVV hoạt động trong nền kinh tế, hướng họ
tuân theo mục tiêu chung của quốc gia trên cơ sở những quy định của pháp luật
hiện hành. Đặc biệt, khi phát triển các DNNVV, Chính phủ các quốc gia
thường ban hành các chính sách định hướng phát triển DNNVV trong các thời
kỳ nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể về giải quyết lao động, đóng góp cho nền
kinh tế đất nước cũng như ban hành các Luật, nghị định, thông tư để hướng
dẫn, định hướng sự phát triển của các DNNVV trong từng thời kỳ.
Thông qua chính sách ưu đãi thuế, phí ở các ngành nghề khác nhau, đã
hướng các DNNVV phát triển ở những ngành nghề cần ưu tiên phát triển, vùng
miền núi, hải đảo, ở các địa phương xa trung tâm, địa bàn hẻo lánh, nhằm khai
thác các tiềm năng, lợi thế của địa phương, giúp nâng cao thu nhập cho người
dân, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Với chính sách tín dụng ưu đãi cho các DNNVV ở vùng miền, các sản
phẩm khác nhau đã hỗ trợ các DNNVV tiếp cận được các nguồn vốn có lãi suất
thấp từ các TCTD, NHTM để tham gia phát triển sản xuất - kinh doanh đối với
từng sản phẩm, hay vùng, miền được ưu đãi.
- Giám sát và kiểm tra, đánh giá hoạt động sản xuất - kinh doanh của
DNNVV
Bối cảnh quốc tế và trong nước đều có những thay đổi nhất định trong
49
từng thời kỳ, do đó hệ thống khung khổ chính sách tài chính đối với DNNVV phải
được kiểm tra, đánh giá để có những điều chỉnh kịp thời, giúp tháo gỡ những “nút
thắt” chính sách, tạo điều kiện cho DNNVV phát triển ổn định, bền vững.
Do sự giới hạn về nguồn lực, thông thường các chính sách hỗ trợ đối với
các DNNVV chỉ được thực hiện đối với một số nhóm đối tượng nhất định,
trong khoảng thời gian cụ thể. Sau thời gian thực hiện chính sách, cơ quan quản
lý doanh nghiệp về mặt chính sách tài chính (cơ quan chủ trì soạn thảo) đều
thống kê, báo cáo cấp có thẩm quyền những thành tựu và hạn chế của từng
chính sách. Việc đánh giá tính hiệu quả của chính sách thường phải dựa vào
hiệu quả hoạt động của các DNNVV được hỗ trợ từ chính sách. Sau những đợt
hỗ trợ từ chính sách tài chính, DNNVV phải đánh giá tích cực hoặc có những
số liệu về doanh thu, lợi nhuận... khả quan so với trước khi thực hiện chính sách
thì chính sách đó được coi là hiệu quả.
Bên cạnh đó, thông qua chính sách thuế, phí, kế toán... đối với DNNVV,
Nhà nước sẽ kiểm tra, giám sát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp
thông qua các báo cáo thuế, báo cáo tài chính tháng, quý, năm, làm cơ sở để
Nhà nước ban hành các chế tài hay định hướng hoạt động DNNVV.
2.2.4. Nội hàm của chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa
2.2.4.1. Chính sách huy động, ph n phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng
Từ góc độ nguồn lực phát triển và phân bổ nguồn lực phát triển trong
quản lý kinh tế, “nguồn lực tài chính - tín dụng” là một loại nguồn lực kinh tế,
thể hiện về mặt giá trị của toàn bộ của cải trong xã hội, bao gồm cả tiền tệ,
các nguồn lực vật chất và tài sản khác được quy đổi thành tiền tệ để thực hiện
phát triển kinh tế - xã hội. Có thể phân thành 4 loại cơ bản: Nguồn lực tài
chính - tín dụng của Nhà nước, nguồn lực tài chính - tín dụng của doanh
nghiệp, nguồn lực tài chính - tín dụng của cộng đồng và nguồn lực tài chính -
50
tín dụng từ tài trợ và hỗ trợ quốc tế.
Trong đó, nguồn lực tài chính - tín dụng của Nhà nước có nhiều quan
điểm khách nhau, tuy nhiên có thể hiểu đây là khối lượng giá trị được biểu thị
bằng hình thái tiền tệ, tín dụng của Nhà nước được hình thành thông qua quá
trình tạo lập, sử dụng những quỹ tiền tệ khác nhau. Nguồn lực tài chính - tín
dụng của doanh nghiệp là những giá trị thể hiện bằng tiền tệ, tín dụng của
doanh nghiệp được hình thành thông qua quá trình hoạt động sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Nguồn lực tài chính - tín dụng của cộng đồng thể
hiện là những tài sản tiền tệ, tín dụng của cộng đồng dân cư được hình thành
thông qua hoạt động kinh tế của người dân cũng như trong hoạt động vay
mượn, cho thuê vốn của người dân với các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Nguồn lực tài chính - tín dụng từ tài trợ và hỗ trợ quốc tế: Đây là những
nguồn lực tài chính - tín dụng của các tổ chức quốc tế tài trợ và hỗ trợ cho
một tổ chức hoặc cá nhân ở nước được tài trợ thông qua. Nguồn lực này
không phát sinh thường xuyên mà chỉ phát sinh khi có quan hệ, hợp tác của tổ
chức/cá nhân nước ngoài với tổ chức tài trợ ngoài nước.
Chính sách huy động nguồn lực tài chính - tín dụng đối với DNNVV
bao gồm các giải pháp sử dụng công cụ tài chính - tiền tệ nhằm thúc đẩy sản
xuất - kinh doanh cho DNNVV, đảm bảo các DNNVV phát triển ổn định, bền
vững, góp phần gia tăng nguồn lực đóng góp cho nền kinh tế. Bên cạnh việc
huy động nguồn lực, thì cũng có khía cạnh khai thác, động viên nguồn lực tài
chính - tín dụng cho DNNVV, gồm những giải pháp sử dụng các công cụ tài
chính để khơi dậy, giải phóng các nguồn lực tài chính trong các thành phần
kinh tế, các chủ thể kinh tế khác nhau, nhằm đưa chúng vào quá trình vận
động của DNNVV để tạo ra của cải, vật chất cho DNNVV nói riêng và cho
nền kinh tế - xã hội nói chung.
Theo Giáo trình lý thuyết tài chính - tiền tệ (2007), xét ở góc độ
phương thức huy động, nguồn vốn của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể
huy động từ nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp; vốn tín dụng ngân hàng
51
và tín dụng thương mại; vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu; vốn nội
bộ. Mỗi loại vốn này lại có hình thức, công cụ tài chính huy động khác nhau,
song đều nhằm mục đích thu về một lượng vốn nhất định cho doanh nghiệp.
Về chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng đối
với DNNVV, đây là những chính sách hướng vào các giải pháp sử dụng công
cụ tài chính huy động được để phân bổ và sử dụng hợp lý nhằm nâng cao giá
trị gia tăng cho DNNVV khi sử dụng vốn, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tiết
kiệm và hiệu quả.
Chính sách tài chính đối với DNNVV là một nhánh trong tổng thể
chính sách tài chính quốc gia. Xét ở góc độ nào đi nữa thì chính sách tài chính
cũng phải thể hiện được nội dung huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả
trong các thời kỳ lịch sử, tương ứng với từng đối tượng cụ thể, trong đó có
DNNVV.
Trong từng chính sách tài chính, nội hàm là phần quan trọng, mang tính
quyết định đến thành công hay thất bại của từng chính sách. Nội hàm chặt chẽ
và có tính khả thi sẽ giúp thúc đẩy DNNVV huy động được nguồn lực, nội
hàm mà thiếu tính khả thi thì sẽ tạo ra những khó khăn trong quá trình huy
động, phân phối và sử dụng các nguồn lực cho DNNVV.
2.2.4.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng
Xét từ góc độ vĩ mô, chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng là tổng thể
các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ về tài chính - tín dụng để tác động
vào người hỗ trợ và đối tượng hưởng hỗ trợ.
Xét ở góc độ vi mô (DNNVV), nguồn vốn hỗ trợ DNNVV gồm có: (1)
Nguồn vốn tín dụng có hỗ trợ, bảo lãnh của Nhà nước; (2) Nguồn vốn hỗ trợ
từ NSNN; (3) Nguồn vốn hỗ trợ từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất,
tiền sử dụng đất và các khoản khác phải nộp NSNN theo quy định của pháp
luật; (4) Nguồn vốn hợp pháp từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài.
Bảo lãnh tín dụng là việc Nhà nước cam kết thực hiện nghĩa vụ tài
52
chính thay cho bên được bảo lãnh nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh. Như vậy, nguồn vốn tín dụng có hỗ trợ, bảo lãnh của Nhà nước cho
DNNVV về bản chất đó là việc Nhà nước thực hiện bảo lãnh (do các quỹ bảo
lãnh thực hiện) hay chịu trách nhiệm trực tiếp thay cho các DNNVV đối với
các khoản vay ưu đãi mà TCTD cung cấp. Thường các khoản vay bảo lãnh
phải phù hợp với điều kiện, tính chất do tổ chức đứng ra bảo lãnh quy định. Ở Việt
Nam, việc bảo lãnh được thực hiện chủ yếu thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Nguồn vốn hỗ trợ từ NSNN cho DNNVV bao gồm các nguồn NSNN
hỗ trợ cho DNNVV thông qua việc DNNVV tham gia các chương trình mà
Nhà nước khởi xướng (như chương trình xúc tiến thương mại, chương trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn, chương trình phát triển công nghiệp hỗ
trợ…). Việc hỗ trợ này có thể thông qua tài trợ ngân sách trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các chương trình khác của Nhà nước (ví dụ: hỗ trợ lãi suất
vay… khi DNNVV tham gia các chương trình mà Nhà nước khởi xướng).
Nguồn vốn hỗ trợ từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử
dụng đất và các khoản khác phải nộp NSNN theo quy định của pháp luật:
Thông thường, Nhà nước muốn phát triển ngành, lĩnh vực cụ thể, theo đó Nhà
nước sẽ ban hành các ưu đãi về miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền
sử dụng đất và các khoản khác phải nộp NSNN đối với đối tượng tham gia,
trong đó có các DNNVV. Cùng với đó, trong quá trình phát triển, DNNVV
nói riêng và các chủ thể/thành phần trong nền kinh tế, ngoài những thuận lợi
thì sẽ gặp phải khó khăn, thách thức trong những giai đoạn cụ thể (như ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế, địa chính trị, dịch bệnh…), do đó, để giúp
đối tượng trong nền kinh tế giảm bớt thiệt hại, khắc phục khó khăn để phát
triển, các nước thường hay ban hành những chính miễn, giảm thuế, phí, lệ
phí…, góp phần đẩy mạnh phát triển và tăng sự đóng góp cho nền kinh tế của
đối tượng được hỗ trợ trong tương lai.
Về nguồn vốn hợp pháp từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
53
ngoàithì đây là nguồn vốn tài trợ mà tổ chức trong nước hoặc nước ngoài tài
trợ cho toàn bộ hoặc một vài DNNVV trong những giai đoạn khó khăn cụ thể.
Việc tài trợ có thể theo hình thức tài trợ toàn bộ khoản đóng góp, tài trợ một
phần hoặc tài trợ không lấy lãi suất.
Việc tài trợ toàn bộ có thể thông qua viện trợ không hoàn lại không
thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài dành cho các cơ quan, tổ chức được thành lập hợp pháp tại nước sở tại
nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ nhân đạo, không vì mục đích
lợi nhuận. Bên cạnh đó, các khoản viện trợ không hoàn lại của các cơ quan, tổ
chức nước ngoài cho DNNVV tại nước sở tại, mà việc tiếp nhận phải được ký
kết chính thức theo quy định của Luật Điều ước quốc tế và các khoản viện trợ
không hoàn lại trong các thỏa thuận về vốn ODA được ký kết nhân danh Nhà
nước hoặc Chính phủ các nước.
Bên cạnh đó, nguồn vốn hợp pháp tài trợ cho DNNVV còn có các
khoản quà biếu, quà tặng cho cơ quan, tổ chức không vì mục đích hỗ trợ nhân
đạo, từ thiện; các khoản tài trợ theo các hình thức thỏa thuận hợp tác, hợp
đồng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công nghệ có phát sinh lợi nhuận để
phân chia; viện trợ quốc tế khẩn cấp của Chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức
phi chính phủ nước tài trợ, cá nhân nước tài trợ để khắc phục hậu quả thiên tai
tại nước sở tại, trong đó có DNNVV tại nước sở tại được thụ hưởng.
2.2.4.3. Chính sách thuế, phí
Chính sách thuế, phí đối với DNNVV bao gồmchính sách thuế, phí về
TNDN, GTGT, TNCN, TTĐB… đối với DNNVV. Bên cạnh đó, nội hàm
chính sách này còn bao hàm cả chính sách thuế, phí chung cho DNNVV trong
cả nước. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng giúp cho DNNVV vận hành
trong quá trình sản xuất - kinh doanh.
Bên cạnh đó, ở các quốc gia còn quy định chính sách miễn, giảm, giãn,
gia hạn thuế, phí cho các DNNVV trong từng giai đoạn khó khăn của nền
kinh tế, giúp cho DNNVV tận dụng được vòng quay của vốn, tiết giảm được
54
chi phí, gia tăng lợi nhuận. Việc miễn, giảm, giãn, gia hạn thuế, phí nhằm tạo
điều kiện giúp đỡ DNNVV khắc phục những khó khăn do những nguyên nhân
khách quan làm giảm thu nhập hoặc nhằm thực hiện một số chủ trương chính
sách kinh tế - xã hội, khuyến khích DNNVV nói riêng, người nộp thuế nói
chung tích cực hoạt động. Việc miễn, giảm, giãn, gia hạn thuế, phí không diễn
ra thường xuyên, nên nó thường được quy định bằng một số sắc thuế cụ thể.
Việc miễn thuế, phí được thực hiện thông qua hình thức ưu đãi thuế,
phí cụ thể, theo đó một phần thu nhập, giá trị tài sản hoặc giá trị hàng hóa
được Nhà nước cho phép không phải đưa vào tính thuế, phí. Mặc dù đối
tượng miễn thuế càng rộng thì cơ sở thuế càng hẹp nhưng để đạt được những
mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định, các quốc gia, trong đó có Việt Nam vẫn áp
dụng miễn thuế cho những đối tượng nhất định trong một số sắc thuế. Miễn
thuế, phí thực hiện đối với DNNVV thông qua miễn thuế, phí của một hoặc
một số hàng hóa, dịch vụ nhất định. Đây là những hàng hóa, dịch vụ mà Nhà
nước khuyến khích hoặc đang bị ảnh hưởng từ yếu tố khách quan tác động,
làm cho DNNVV sản xuất - kinh doanh những mặt hàng này gặp khó khăn
trong khâu tiêu thụ (thị trường đầu ra hoặc giá thấp).
Giảm thuế, phí là Nhà nước cho phép đối tượng nộp thuế, phí giảm một
khoản tiền đáng lý ra phải nộp cho Nhà nước. Với chính sách giảm thuế, phí
cho DNNVV, theo đó DNNVV sẽ được giữ lại phần tiền được giảm để tạo
thêm nguồn lực cho phát triển. Tuy nhiên, nguồn tiền này không phải
DNNVV cũng sử dụng hiệu quả, chỉ những DNNVV sử dụng nguồn tiền này
mới thấy rõ được những lợi ích mà Nhà nước tạo điều kiện cho bản thân
doanh nghiệp.
Giãn hoặc gia hạn thuế, phí là Nhà nước cho phép đối tượng nộp thuế,
phí được tiếp tục sử dụng số tiền thuế, phí đáng lý phải nộp cho ngân sách tại
một thời điểm nhất định, theo đó đối tượng nộp thuế được phép sử dụng số
tiền này và nộp vào thời điểm hết thời gian gia hạn. Quá trình gia hạn dài hay
ngắn thường tùy thuộc vào khoảng thời gian nhất định, thông thường được
55
tính toán dựa trên số tiền dự kiến gia hạn cũng như đối tượng, phạm vi
DNNVV được hưởng và dự kiến thời gian ảnh hưởng của các yếu tố bất lợi
đến đối tượng nộp thuế, phí nói chung và DNNVV nói riêng. Trên cơ sở khó
khăn của đối tượng nộp thuế nói chung, DNNVV nói riêng mà Nhà nước sẽ
căn cứ vào tình hình khó khăn của từng nhóm đối tượng nộp thuế mà quy
định các điều kiện giãn hoặc gia hạn thuế, phí cụ thể. Số tiền DNNVV được
gia hạn thì DNNVV vẫn phải nộp vào NSNN khi hết thời điểm gia hạn theo
từng chính sách gia hạn. Do đó, DNNVV cần phải chuẩn bị nguồn tiền để nộp
vào NSNN không những khoản tiền đến thời điểm gia hạn mà còn khoản tiền
thuế, phí nộp vào thời điểm đúng hạn định kỳ được quy định bởi các sắc thuế.
2.2.4.4. Chính sách tài chính đất đai
Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nói chung và
DNNVV nói riêng là những quy định cho phép DNNVV tiếp cận với những
nguồn lực về đất để phục vụ sản xuất - kinh doanh. Tùy thuộc vào mỗi quốc
gia, chính sách tài chính đất đai với DNNVV có phạm vi rộng, hẹp khác nhau,
song những chính sách này thường tập trung vào hỗ trợ DNNVV tập trung đất
đai cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ DNNVV giảm chi phí thuê đất trong từng
lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích hay huy động DNNVV tham gia phát triển.
Tập trung đất đai là liên kết nhiều mảnh ruộng đất của nhiều chủ sở hữu
khác nhau lại thành mô hình cánh đồng lớn (Trí Lâm, 2016). Việc tập
trungđất đai sẽ giúp cho DNNVV mở rộng sản sản xuất - kinh doanh quy mô
lớn phù hợp với xu hướng phát triển của từng loại hình DNNVV trong nền kinh
tế, nhất là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Khi Nhà nước có chủ trương hỗ trợ tài chính đất đai cho DNNVV, Nhà
nước sẽ ban hành chính sách về vấn đề này thông qua chính sách tài chính tập
trung đất thông qua dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp; cho thuê đất nông
nghiệp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất; chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nông nghiệp; góp quyền sử dụng đất.
Đối với chính sách tài chính tập trung đất thông qua dồn điền, đổi thửa
56
đất nông nghiệp, là một chính sách về tài chính nhằm hỗ trợ DNNVV tập
trung ruộng đất trong nông nghiệp để mở rộng sản xuất - kinh doanh thông
qua việc Nhà nước hỗ trợ tài chính cho DNNVV thực hiện hỗ trợ quyền
chuyển đổi đất nông nghiệp giữa các hộ nông dân trong cùng một địa bàn sản
xuất từ các mảnh ruộng nằm phân tán ở các vị trí khác nhau thành các ô, thửa
lớn tập trung tại một vị trí để DNNVV có thể tiếp cận, phục vụ DNNVV tập
trung để phục vụ cơ giới hóa và thâm canh mang lại hiệu quả cao. Tại Trung
Quốc, Hiến pháp Trung Quốc không cho phép người dân sở hữu đất đai,
người nông dân chỉ có quyền sử dụng đất trong vòng 30 năm. Với thời gian
sử dụng ngắn, người nông dân, các hộ gia đình cũng như doanh nghiệp gặp
khó khăn khi mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đứng trước trở ngại này, năm
2007, Chính phủ Trung Quốc đã nâng cao hạn điền sử dụng đất lên 70 năm và
cho phép người dân được chuyển nhượng, cho thuê và cầm cố quyền sử dụng
mảnh đất (ruộng) của mình trên thị trường để giao dịch. Sự thay đổi này đã
tạo ra một bước ngoặt cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai ở Trung Quốc
khi các hộ gia đình và doanh nghiệp có thể thuê đất nông nghiệp để phát triển
mô hình nông trang quy mô lớn. Nhờ có chính sách mới mà các trang trại lớn
đã mọc lên ở nhiều tỉnh, đặc biệt một số tỉnh còn thu hút được cả các doanh
nghiệp nước ngoài tìm đến mua, thuê đất để đầu tư. Bển cạnh đó, rất nhiều
quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Áo… đã thành
lập các ngân hàng đất đai. Ngân hàng đất nông nghiệp đóng vai trò trung gian
kết nối người mua với người bán, người thuê với người cho thuê đất. Đa phần
ngân hàng đất đai sử dụng NSNN để mua/thuê lại đất và sau đó bán/cho thuê
lại. [Nguyễn Quang Thuấn, 2020].
Về chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV trong việc cho thuê đất nông
nghiệp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là việc Nhà nước tạo điều kiện hỗ
trợ doanh nghiệp nói chung, DNNVVnói riêng thuê đất được chủ động trong
việc sản xuất, canh tác trên đất trong một thời gian nhất định quy định trong
hợp đồng thuê đã được các bên ký kết. Chính sách này không chỉ hỗ trợ
57
DNNVV được thuê đất để thực hiện các phương án sản xuất - kinh doanh, mà
còn đảm bảo cho người nông dân được hưởng lợi từ cho thuê đất mà ít phải
đối mặt với các rủi ro. Hình thức trả tiền thuê đất có thể thực hiện theo theo
từng vụ, từng năm hoặc cho cả thời gian thuê hoặc thỏa thuận khác.
Đối với chính sách hỗ trợ tài chính trong việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nông nghiệp. Hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông
nghiệp là hình thức người nông dân chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp
cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Về bản chất, đây là việc bán đất nông
nghiệp. Người nông dân sẽ không còn quyền đối với đất sau khi đã chuyển
nhượng. Tuy nhiên, căn cứ vào nhu cầu sản xuất nông nghiệp ở từng vùng,
miền, khả năng tập trung và mục đích tập trung của DNNVV mà Nhà nước có
thể xem xét có hỗ trợ tài chính đối với loại hình nay hay không.
Về hỗ trợ DNNVV giảm chi phí thuê đất trong từng lĩnh vực mà Nhà
nước khuyến khích DNNVV tham gia phát triển, thì tùy vào chủ trương chính
sách của Nhà nước về phát triển các ngành (như nông nghiệp công nghệ cao,
công nghiệp hỗ trợ…) mà Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ DNNVV
tham gia hoạt động vào các lĩnh vực này thông qua các ưu đãi miễn, giảm,
giãn tiền thuê đất hoặc hỗ trợ DNNVV được kéo dài thời gian thuê nhưng vẫn
thực hiện ưu đãi trong giá thuê đất phù hợp với phương án sản xuất - kinh
doanh của DNNVV.
2.2.5. Tác động của chính sách tài chính đến sự phát triển của doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Về mặt lý luận, chính sách nói chung hay chính sách tài chính đối với
DNNVV nói riên chỉ tác động theo hai hướng là tích cực và tiêu cực. Việc chỉ
ra các tác động tích hoặc tiêu cực đối của chính sách tài chính đối với
DNNVV sẽ giúp cho việc xây dựng, hoàn thiện chính sách được nhanh
chóng, góp phần sớm đưa chính sách vào thực tế.
- Tác động tích cực
Ở khía cạnh này, chính sách tài chính đối với DNNVV được xây dựng
58
và thực thi kịp thời sẽ giúp cho DNNVV được thụ hưởng chính sách nhanh
chóng. Thông qua đó, DNNVV có cơ sở vận dụng chính sách để tiếp cận các
nguồn lực tài chính, tín dụng phục vụ cho sản xuất - kinh doanh, giúp nâng
cao doanh thu, lợi nhuận cho DNNVV. Đối với chính sách hỗ trợ về tài chính,
tín dụng, chính sách này ngoài việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận được nguồn vốn,
còn giúp doanh nghiệp tiết giảm được chi phí vay vốn hoặc thông qua các
nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước mà DNNVV có thêm vốn, điều này sẽ trợ lực
cho DNNVV, nhất là ở những thời điểm DNNVV gặp khó khăn.
Về chính sách hỗ trợ về thuế, phí, đất đai…, khi các chính sách này
được thực thi kịp thời sẽ tác động làm giảm chi phí thuế cho DNNVV, giúp
DNNVV có thêm nguồn tài chính ở trong những giai đoạn mà DNNVV được
thụ hưởng chính sách hỗ trợ. Không những vậy, ở những lĩnh vực có chính
sách hỗ trợ, sẽ thúc đẩy DNNVV tham gia đầu tư phát triển các lĩnh vực này
để hưởng các ưu đãi về chính sách, thông qua đó, Nhà nước cũng đạt được
mực tiêu thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
- Tác động tiêu cực
Trên thực tế, không phải chính sách nào cũng có tác động tích cực và ở
đây, chính sách tài chính đối với DNNVV cũng không phải ngoại lệ. Điều đó
có nghĩa là, nếu chính sách tài chính đối với DNNVV không hướng đúng đối
tượng, quy mô và phạm vi; điều kiện thụ hưởng… của chính sách không thỏa
đáng thì sự tiếp cận của đối tượng chính sách không được như ý muốn, điều
này sẽ dẫn đến nguồn lực chuẩn bị cho việc thực thi chính sách không được
triển khai, dẫn đến lãng phí nguồn lực, đặc biệt là không kích thích sản xuất -
kinh doanh, cũng như nâng cao năng lực của DNNVV.
Ở khía cạnh khác, chính sách tài chính đối với DNNVV cũng có thể
làm cho doanh nghiệp ở những ngành, nghề, lĩnh vực cần tập trung phát triển
không đạt được, nếu hệ thống chính sách này gây nhiều khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn, hoặc nguồn lực hỗ trợ DNNVV không đủ mạnh để thúc đẩy
59
phát triển DNNVV.
Đặc biệt, trong trường hợp chính sách tài chính đối với DNNVV thiếu
chặt chẽ, tức có nhiều kẽ hở hay có khoảng trống chính sách, thì sẽ làm cho
DNNVV không chăm lo phát triển, chỉ luôn đi tìm cách để thụ hưởng hoặc
lách chính sách, làm cho nguồn lực của chính sách bị lợi dụng, từ đó mục tiêu
chính sách không đạt được.
2.2.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả và yếu tố tác động đến chính
sách tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.2.6.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả chính sách tài chính đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Số lượng DNNVV và vốn kinh doanh của DNNVV
Trong quá trình thực hiện chính sách tài chính - tín dụng đối với
DNNVV, nếu các chính sách này tạo thuận lợi cho DNNVV như hỗ trợ việc
đăng ký, kinh doanh, hỗ trợ về mở rộng thị trường, hỗ trợ giảm thuế, phí; hỗ
trợ tích tụ đất đai, thuê đất, mặt nước… sẽ giúp cho các chủ thể trong nền
kinh tế tích cực đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp; đồng thời những
DNNVV đang tạm ngừng hoạt động quay trở lại thị trường sẽ tăng nên khi
mà DNNVV kỳ vọng vào chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ. Cùng
với số lượng DNNVV tăng lên, vốn kinh doanh của DNNVV cũng được tăng
lên, lượng vốn này đến từ các doanh nghiệp đăng lý mới, cùng với DNNVV
bổ sung vốn sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn này có thể đến từ vốn vay
thương mại, vốn ưu đãi của Nhà nước.
Như vậy, dựa trên việc gia tăng số lượng cũng như gia tăng vốn kinh
doanh của DNNVV cho thấy, hiệu quả của chính sách là hữu ích hay hạn chế.
- Doanh thu, lợi nhuận của DNNVV
Trong kinh tế học, doanh thu thường được xác định bằng giá bán nhân
với sản lượng. Theo chuẩn mực kế toán số 14 thì doanh thu chỉ bao gồm tổng
giá trị của các lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được. Như
60
vậy, khi doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng tăng doanh thu là tăng
lượng tiền của doanh nghiệp, đồng thời tăng lượng hàng bán ra thị trường khi
được thị trường chấp nhận. Tổng doanh thu tỷ lệ thuận với tổng lợi nhuận.
Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm
nhờ đầu tư sau khi đã trừ các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi
phí cơ hội. Lợi nhuận cũng là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng
chi phí. Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí
sản xuất.
Doanh thu của DNNVV tăng lên phản ánh doanh nghiệp phát triển
được kênh sản xuất - kinh doanh, tức là doanh nghiệp bán được nhiều hàng
hóa, giúp thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Còn lợi nhuận tăng lên phản
ánh doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Việc doanh thu và lợi nhuận tăng phản
ánh chính sách tài chính, tín dụng của Nhà nước đối với doanh nghiệp có hiệu
quả, nhất là các chính sách hỗ trợ thị trường, xúc tiến thương mại; chính sách
hỗ trợ cho vay; giảm giãn tài chính, thuế… Tuy nhiên, nếu doanh thu, lợi
nhuận của doanh nghiệp mà giảm thì phản ánh chính sách tài chính - tín dụng
đối với doanh nghiệp chưa hỗ trợ tích cực cho sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Số thuế nộp NSNN của DNNVV
Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, theo quy định của các
Luật Quản lý thuế, Luật Thuế GTGT, TNDN, TTĐB, Sử dụng đất phi nông
nghiệp…, DNNVV phải có nghĩa vụ đóng góp cho NSNN, tức là phải nộp
thuế theo pháp luật của Nhà nước. Căn cứ vào kết quả sản xuất - kinh doanh,
DNNVV xác định được doanh thu và lợi nhuận, đồng thời tính toán các khoản
thuế phải nộp cho NSNN trong từng thời kỳ. Số thuế nộp cho NSNN càng cao
thì càng thể hiện doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh hiệu quả, ngược lại thì
doanh nghiệp doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Việc doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả hay không còn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
61
khác nhau, trong đó chính sách tài chính, tín dụng đóng vai trò khá quan trọng.
Bên cạnh đó, trong mỗi giai đoạn phát triển đất nước, nhu cầu về vốn
đều được đặt ra, mà lượng vốn này được đóng góp từ các chủ thể của nền
kinh tế, trong đó DNNVV là bộ phận quan trọng. Do đó, căn cứ vào lượng
vốn mục tiêu cần để phát triển hạ tầng đất nước, Chính phủ các nước thường
nhìn nhận kết quả hoạt động của doanh nghiệp để điều chỉnh chính sách, nhất
là tài chính, tín dụng để thúc đẩy phát triển của doanh nghiệp để tăng đóng
góp cho NSNN. Hay nói cách khác, nhìn vào số thuế mà doanh nghiệp nộp
trong từng giai đoạn thì có thể đánh giá hiệu quả chính sách của Nhà nước,
trong đó có chính sách tài chính - tín dụng.
2.2.6.2. Các yếu tố tác động đến chính sách tài chính đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa
a. Yếu tố khách quan
- Môi trường chính sách
Môi trường chính trị - xã hội, kinh tế đều là môi trường của chính sách
và có thể tác động đến việc chính sách ở các khâu xây dựng, thực thi. Trong
quá trình xây dựng chính sách, nhà hoạch định chính sách cần tính toán được
những nhân tố tác động của môi trường bên ngoài để đưa vào đánh giá tác
động về mặt chính sách trong thực thi sau này. Việc môi trường chính sách
tác động đến chính sách thường được các nhà phân tích đo đếm, cũng như
phản ánh, làm nền tảng cho nhà quản lý hoàn thiện chính sách.
- Chất lượng chính sách
Tính đúng đắn của chính sách tài chính đối với DNNVV là tiền đề cơ
bản cho việc thực thi có hiệu quả chính sách này. Sự đúng đắn, phù hợp của
chính sách tài chính đối với DNNVV với quy luật khách quan và sự phát triển
DNNVV, thể hiện lợi ích công, thúc đẩy sự phát triển DNNVV, mang lại lợi
ích thiết thực cho đối tượng chính sách (tổ chức, cá nhân...) thì sẽ có được sự
thừa nhận, ủng hộ đối tượng thụ hưởng chính chính sách tài chính, góp phần
62
nâng cao hiệu quả thực thi chính sách này. Ngược lại, sẽ không có được sự
thừa nhận, ủng hộ của đối tượng chính sách, làm cho quá trình thực thi chính
sách tài chính đối với DNNVV không được triệt để.
Chính sách tài chính đối với DNNVV đúng đắn thể hiện ở sự đúng đắn
về nội dung, phương hướng cũng như việc hoạch định chính sách dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn đầy đủ.
Bên cạnh đó, tính rõ ràng, cụ thể của chính sách tài chính đối với
DNNVV cũng giúp cho đối tượng thực thi chính sách là các DNNVV được rõ
ràng khi thực thi. Tính rõ ràng, cụ thể của chính sách tài chính đối với
DNNVV là yếu tố then chốt để thực thi chính sách này có hiệu quả, là căn cứ
cho hoạt động thực thi chính sách của chủ thể thực thi chính sách, cũng là cơ
sở để tiến hành đánh giá và giám sát quá trình thực thi chính sách tài chính
đối với DNNVV.
Để thực thi thuận lợi một chính sách tài chính đối với DNNVV, về mặt
kỹ thuật, chính sách đó cần phải rõ ràng, cụ thể, tức sự rõ ràng về phương án
chính sách, mục tiêu chính sách, biện pháp chính sách và các bước triển khai.
Đồng thời, tính rõ ràng và cụ thể của chính sách tài chính đối với DNNVV
còn yêu cầu mục tiêu chính sách cần phù hợp với thực tế và có thể thực hiện
được, có thể tiến hành so sánh và đo lường được. Phương án chính sách tài
chính đối với DNNVV cần chỉ rõ kết quả đạt được, đồng thời cần xác định rõ
thời gian hoàn thành. Trong thực thi chính sách, sự thiếu rõ ràng, cụ thể của
chính sách tài chính đối với DNNVV sẽ dẫn đến sự khó khăn trong thực hiện,
từ đó ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thực thi chính sách.
- Sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính sách
Đối tượng chính sách tài chính đối với DNNVV ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả thực thi chính sách. Chính sách có đạt được mục đích đề ra hay
không, không chỉ phụ thuộc vào chất lượng chính sách và năng lực của chủ
thể thực thi chính sách này, mà còn phụ thuộc vào thái độ của đối tượng chính
sách. Theo đó, nếu đối tượng chính sách tài chính tiếp nhận và ủng hộ chính
63
sách thì việc thực thi chính sách sẽ thuận lợi. Còn nếu đối tượng chính sách
không tiếp nhận chính sách, không ủng hộ chính sách thì việc thực thi sẽ khó
khăn, từ đó làm cho chi phí thực thi chính sách tăng lên. Việc chỉ có một bộ
phận đối tượng chính sách tiếp nhận chính sách cũng làm cho quá trình thực
thi chính sách trở nên khó khăn hơn.
Do đó, sự tiếp nhận và ủng hộ của DNNVV đối với chính sách tài
chính đối với DNNVV là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
hiệu quả thực thi chính sách này. Mục tiêu chính sách tài chính đối với
DNNVV thường đa dạng (không chỉ phát triển DNNVV, mà còn phát triển cả
các lĩnh vực khác của nền kinh tế mà DNNVV tham gia...). Mức độ hưởng
ứng và tiếp nhận chính sách của đối tượng chính sách vừa liên quan đến sự
tính toán về mặt chi phí - lợi ích của đối tượng chính sách tài chính đối với
DNNVV, vừa liên quan đến mức độ điều chỉnh của chính sách này đối với
hành vi của đối tượng chính sách là hành vi của các DNNVV. Chính sách tài
chính đối với DNNVV nếu mang lại lợi ích thiết thực cho đối tượng chính
sách hoặc mức độ điều chỉnh của chính sách đối với hành vi của đối tượng
chính sách không lớn thì thường dễ được đối tượng chính sách tài chính đối
với DNNVV tiếp nhận, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính
sách tài chính đối với DNNVV.
Trái lại, nếu đối tượng chính sách tài chính đối với DNNVV cho rằng
chính sách đó không mang lại lợi ích cho họ, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến
lợi ích của họ, hoặc mức độ điều chỉnh của chính sách đối với hành vi của đối
tượng chính sách là lớn thì đối tượng chính sách thường ít tiếp nhận chính
sách, thậm chí là cản trở thực hiện chính sách. Vì vậy, để tăng cường sự tiếp
nhận của đối tượng chính sách để phát triển DNNVV, việc hoạch định chính
sách tài chính đối với DNNVV cần phù hợp với quy luật phát triển của khu
vực doanh nghiệp, nhất là DNNVV, thể hiện được lợi ích cơ bản của người
dân, doanh nghiệp hoặc xác định mức độ phù hợp trong điều chỉnh hành vi
đối với đối tượng chính sách tài chính đối với DNNVV.
64
b. Yếu tố chủ quan
- Tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng chính sách
Chính sách công nói chung, chính sách tài chính đối với DNNVV nói
riêng đều được các cơ quan liên quan của Chính phủ xây dựng. Tuy nhiên,
không phải lúc nào việc lựa chọn nhóm xây dựng chính sách đều tốt, việc các
thành viên kém về năng lực, kỹ năng hoặc bị chi phối bởi lợi ích nhóm có thể
tác động làm chệch hướng chính sách, như chệch hướng đối tượng thụ hưởng.
Do vậy, để việc xây dựng được chính sách tài chính đối với DNNVV được
khách quan, giúp cho DNNVV phát triển thì cơ quan có thẩm quyền (bộ,
ngành, địa phương) cần lựa chọn những người am hiểu nhất về chính sách tài
chính đối với DNNVV.
- Các đơn vị đánh giá phân tích chính sách
Đơn vị đánh giá, phân tích chính sách có vai trò khá quan trọng trong
việc xây dựng chính sách tài chính đối với DNNVV. Do đó, một số quốc gia
ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ La-tinh và châu Âu đã thành lập các đơn vị đánh
giá, phân tích chính sách của các bộ, với mục đích chính là để tạo và duy trì,
củng cố dữ liệu và để làm rõ vai trò, trách nhiệm của các chức năng chính
sách trong các bộ của Chính phủ hoặc trong các cơ quan điều phối của Chính
phủ. Điều này giúp cho chính sách được hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng mục tiêu
kỳ vọng của chính sách, thỏa mãn được đối tượng chính sách.
Thông thường, việc xây dựng chính sách đều dựa trên việc tổng kết,
đánh giá thực trạng triển khai hoặc đánh giá nhu cầu cần xây dựng chính sách
(đối với những lĩnh vực DNNVV chưa có chính sách). Do đó, các tổ chức, cá
nhân tham gia cần phân tích, đánh giá vai trò, mục tiêu của chính sách cần
hướng đến hoặc hạn chế những tiêu cực trong những điều, khoản của chính
sách hiện hành không có lợi cho các bên.
Việc đánh giá, phân tích chính sách cần ít nhất hai đơn vị tham gia trở
lên để tạo sự khách quan trong đánh giá chính sách, đồng thời cơ quan tổng
hợp cũng xác định được độ vênh trong phân tích, đánh giá để có những điều
65
chỉnh thích hợp.
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài chính đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.3.1. Malaysia
Malaysia có 98,5% doanh nghiệp là DNNVV (trong đó 76,5% là doanh
nghiệp siêu nhỏ, 21,2% doanh nghiệp nhỏ và 2,3% doanh nghiệp vừa). Có
89,2% DNNVV kinh doanh trong ngành dịch vụ; 5,3% thuộc ngành sản xuất;
4,3% thuộc ngành xây dựng; 1,1% thuộc ngành nông nghiệp; 0,1% thuộc
ngành mỏ, khai khoáng. [28]. Malaysia xây dựng hệ thống BLTD thống nhất
từ cấp trung ương đến cấp địa phương, phân chia theo lĩnh vực hoạt động và
thực hiện theo 3 mô hình (BLTD của Chính phủ, BLTD của các hiệp hội,
BLTD của khu vực tư nhân). Tại Malaysia, DNNVV có thể tiếp cận vốn vay
thông qua:
- Luật Hỗ trợ DNNVV: Luật này quy định hỗ trợ về tài chính, tín dụng,
hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ, hỗ trợ xúc tiến, mở rộng thị trường, hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực đối với DNNVV.
- Hệ thống bảo lãnh các khoản vay đặc biệt (được thành lập từ năm
1981): Tài trợ cho các doanh nghiệp có các dự án đặc biệt, doanh nghiệp xuất
khẩu.
- Tập đoàn BLTD Malaysia do Chính phủ thành lập từ năm 1972 nhằm
BLTD cho các DNNVV, với số vốn góp từ các NHTM và các công ty tài
chính của Chính phủ. Hiện nay, Hệ thống BLTD chung có mức BLTD là 90%
và phí bảo lãnh khoảng 0,5 - 1% giá trị bảo lãnh. Đến năm 2018, Tập đoàn
BLTD Malaysia đã bảo lãnh 67,1 tỷ RM cho hơn 453,8 nghìn DNNVV. [28]
- Chính phủ (Ngân hàng Trung ương Malaysia) thành lập Quỹ đặc biệt
và đổi lên là Quỹ Ngân hàng Trung ương cho DNNVV, gồm Quỹ cho các
doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ và Quỹ các doanh nghiệp mới để giúp
đỡ các DNNVV được vay vốn với lãi suất thấp, từ 4 - 6%/năm. Việc vay vốn
66
này có thể được thông qua các NHTM, các tổ chức tài chính phát triển và Tập
đoàn BLTD Malaysia. Quỹ đã hỗ trợ khoảng 80 nghìn DNNVV với số tiền là
7,4 tỷ RM.
- Chính phủ cũng xây dựng các chương trình hỗ trợ vốn cho DNNVV
từ năm 2006) để khuyến khích giới trẻ khởi nghiệp tại nước này.
- Chính phủ quy định thuế suất TNDN 19% cho DNNVV, thấp hơn so
với thuế suất phổ thông (24%), tạo điều kiện cho DNNVV có thêm nguồn tài
chính để hoạt động.
2.3.2. Singapore
Số lượng DNNVV ở Singapore chiếm 99% tổng số doanh nghiệp cả
nước, giải quyết 62% số lao động và đóng góp 48% tổng giá trị gia tăng của
nền kinh tế. Singapore thực hiện hỗ trợ DNNVV dưới các hình thức:
- Thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV: Hỗ trợ về tài chính, tín dụng;hỗ trợ
nâng cao năng lực công nghệ; hỗ trợ xúc tiến, mở rộng thị trường; hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực.
- Hỗ trợ vay vốn nhằm nâng cao sức cạnh tranh của DNNVV.
- Bố trí một khoản ngân sách cho DNNVV; BLTD cho DNNVV vay
vốn ưu đãi phục vụ cho sản xuất - kinh doanh và tăng cường các hướng dẫn
về chính sách tín dụng để cung cấp các dịch vụ tài chính cho các DNNVV.
- Cung cấp các khoản viện trợ không hoàn lại để đào tạo doanh nghiệp
thông qua Quỹ phát triển kỹ năng Singapore nhằm hỗ trợ nâng cao kỹ năng,
đào tạo lao động tại nơi làm việc. Có hơn 35 nghìn công ty (doanh nghiệp) tại
Singapore đã được hưởng nhiều lợi ích từ Quỹ phát triển kỹ năng Singapore.
- Thành lập các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ DNNVV như cơ chế hỗ trợ
kỹ thuật, cơ chế khuyến khích đổi mới công nghệ…
- Phát triển các Quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào các DNNVV công
nghệ cao (năm 1985, Quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập và do Ủy ban Phát
triển kinh tế chịu trách nhiệm).
- Ưu đãi về thuế để khuyến khích xây dựng và phát triển các ngành,
67
lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Đối với thuế TNDN, Singapore thực hiện các chương trình miễn thuế một phần cho các DNNVV (mức miễn là 50%
hoặc 75%), toàn phần cho các doanh nghiệp thành lập từ năm 2005, trợ cấp
100% vốn nhà xưởng và máy móc có giá trị không quá 01 nghìn SGD…;
doanh nghiệp khởi nghiệp ở Singapore được miễn thuế tối đa 200 nghìn
SGD/năm trong ba năm đầu hoạt động.
- Hình thành các nhóm kinh tế trong DNNVV tại địa phương để giúp
DNNVV tăng cường cạnh tranh, xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao trong quá
trình hoạt động.
- Quy định thuế suất thuế TNDN đối với DNNVV chỉ khoảng 0 - 8,5%.
2.3.3. Hàn Quốc
Hàn Quốc có số lượng DNNVV chiếm khoảng 99,9% tổng số doanh
nghiệp cả nước, đóng góp trên 102,9 triệu USD từ việc xuất khẩu và giải
quyết được việc làm cho hơn 87,7% trên tổng dân số đang ở độ tuổi lao động.
Hệ thống hỗ trợ tài chính cho DNNVV bao gồm hệ thống BLTD thuộc Ngân
hàng Trung ương, các cơ cấu tài chính khác thuộc Chính phủ.
Hàn Quốc thực hiện chính sách hoàn thuế đối với các DNNVV. Chính
sách này được thực hiện từ năm 1980, trong đó tập trung vào những doanh
nghiệp đầu tư và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, bao gồm: Hoàn lại 15%
chi phí đầu tư cho nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; miễn thuế
VAT, thuế trước bạ đối với nhà cửa và đất đai phục vụ các mục tiêu nghiên
cứu phát triển.
Chính sách ưu đãi thuế: Năm 2014, Hàn quốc đã đưa ra những quy
định về các chính sách miễn, giảm và hoàn thuế đối với các DNNVV đang
hoạt động trong mọi lĩnh vực. Đối với các doanh nghiệp nhỏ được giảm 5%,
10%, 15%, 20% hay 30% hay miễn một số thuế như thuế GTGT, thuế trước
bạ đối với bất động sản phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Đến nay, hệ thống BLTD của Hàn Quốc đã hỗ trợ tài chính cho
DNNVV được thành lập và chia theo ba kênh chính: Quỹ BLTD Hàn Quốc,
Quỹ BLTD công nghệ Hàn Quốc và Quỹ BLTD địa phương. Ngoài ra, các
DNNVV có thể huy động vốn qua các kênh như phát hành trái phiếu, tiền gửi
nhận được từ Quỹ quản lý vốn theo Luật Quản lý quỹ công cộng… Ngoài
68
hoạt động BLTD, Quỹ BLTD này còn cung cấp các dịch vụ tư vấn, đào tạo về quản lý đối với nhân lực của các DNNVV được quỹ bảo lãnh.
Tại Hàn Quốc, vấn đề về nguồn nhân lực luôn được đặt lên hàng đầu.
Luật Hỗ trợ nguồn nhân lực cho các DNNVV, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã
tạo điều kiện cho các DNNVV đáp ứng được nhu cầu nhân sự trước những
ảnh hưởng nặng nề về tình trạng thất nghiệp từ khủng hoảng kinh tế thế giới
2007.
Về phía các cơ sở đào tạo giáo dục, các trường có nhiệm vụ phải bổ
sung vào chương trình đào tạo các môn học về DNNVV, cũng như việc đưa
vào hoạt động kiến tập và thực tập của sinh viên là môn học chính hay các tín
chỉ bắt buộc. Điều này giúp tạo cơ hội để sinh viên thực hành với môi trường
làm việc thực tế và chuyên nghiệp, mở ra những cơ hội nghề nghiệp cho sinh
viên sau khi tốt nghiệp. [69]
2.3.4. Nhật Bản
Để hỗ trợ vốn cho các DNNVV, Nhật Bản đã thực hiện cung cấp vốn
vay quy mô nhỏ cho các doanh nghiệp siêu nhỏ nhằm cải thiện hoạt đọng
kinh doanh thông qua Tổ chức tài chính nhân dân; hỗ trợ vốn cho DNNVV
theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thông qua Tổ chức tài chính
DNNVV; cho DNNVV vay vốn để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh
thông qua Ngân hàng Tín dụng Shinkin; cho các DNNVV bị suy yếu vay
thông qua Ngân hàng Trung ương Hiệp hội Công thương Shoko Chukin.
Hiệp hội BLTD (thành lập năm 1965): Thực hiện bảo lãnh cho
DNNVV vay vốn từ NHTM tư nhân. Đến năm 2019, Nhật Bản có 52 Hiệp
hội BLTD tại 47 địa phương trên cả nước. [56]. Hệ thống BLTD nhận bảo
lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các thể chế tài chính tư nhân. Thực hiện
BLTD cho DNNVV vay vốn từ NHTM tư nhân. Hiệp hội BLTD có chức
năng mở rộng các khoản tín dụng bổ sung và thực hiện BLTD cho các
DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt hoạt động từ năm 1998, có chức năng
như một mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những khó khăn về tín dụng cho
DNVV,giúp hạn chế tình trạng DNNVV bị phá sản.
Trợ giúp về vốn: Hỗ trợ có thể dưới dạng các khoản cho vay thông
thường với lãi suất thấp (DNNVV phải có kế hoạch nâng tỷ lệ GTGT hằng
69
năm lên tối thiểu 3%) hoặc các khoản vay ưu đãi đặc biệt. Nhật Bản cũng xây dựng kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý các doanh nghiệp nhỏ (theo kế
hoạch cho vay Marukei), theo đó DNNVV không cần phải có thế chấp hoặc
bảo lãnh khi vay vốn.
Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản thành lập các công ty xúc tiến đầu tư
phục vụ các DNNVV với mục tiêu tăng cường nguồn vốn cho DNNVV mở
rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao mức độ tập trung hóa các ngành công
nghiệp, giúp đỡ các DNNVV khi niêm yết chứng khoán và gia tăng nguồn
vốn chủ sở hữu, hướng dẫn kinh doanh và áp dụng khoa học - công nghệ cho
DNNVV.
Chính phủ còn thưc hiện hỗ trợ về công nghệ thống qua việc cho
DNNVV vay trực tiếp (vay dài hạn) không có lãi hoặc lãi suất thấp để thúc
đẩyđổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, Chính
phủ cho DNNVV vay thông qua các cơ quan hỗ trợ của Chính phủ, các tổ
chức tài chính công liên quan đến hỗ trợ phát triển DNNVV như Hội đồng tài
chính nhân dân, Hội đồng tài chính DNNVV, Ngân hàng Trung ương của các
hợp tác xã thương mại và công nghiệp. [69].
2.3.5. Trung Quốc
Trung Quốc xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính với nguồn vốn
hoạt động chủ yếu từ NSNN và xã hội hóa để BLTD đối với DNNVV. Đến
năm 2019, Trung Quốc có hơn 4 nghìn tổ chức tài chính thực hiện bảo lãnh
cho DNNVV vay vốn để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh. [62]
Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khi đầu tư
ra nước ngoài hoặc tham gia thị trường xuất khẩu, Trung Quốc đã thành lập
Quỹ đào tạo cho các giám đốc, nhà quản lý những kiến thức về các thị trường
trọng điểm. Thành lập Tổ chức phát triển doanh nghiệp, có văn phòng ở hơn
30 nước trên thế giới với trách nhiệm tập hợp và cung cấp thông tin về thị
trường, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đi khảo sát ở nước ngoài, hỗ trợ tổ
chức các hội nghị, hội thảo ở nước ngoài, thành lập cổng thông tin điện tử cho
các giám đốc tư vấn trực tiếp với các chuyên gia kinh tế hàng đầu về kinh
nghiệm và các thông lệ quốc tế.
Năm 2010, Chính phủ Trung Quốc đã nâng mức khởi điểm chịu thuế
70
GTGT đối với doanh nghiệp nhỏ từ 05 - 20 nghìn CNY tính theo doanh thu hằng tháng, so với mức chịu thuế trước đây là 02 - 05 nghìn CNY. Bên cạnh
đó, Trung Quốc cũng áp dụng với đối tượng nộp thuế theo quy mô vừa và nhỏ
có doanh thu hằng tháng dưới 100 nghìn CNY được miễn thuế GTGT.
Mức tính thuế môn bài đối với doanh nghiệp nhỏ được nâng lên 05 - 20
nghìn CNY, so với mức 01 - 05 nghìn CNY trước kia Chính phủ còn miễn lệ
phí ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ khi vay vốn trong thời gian từ tháng
11/2011 - 10/2014; các doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp trong
một số ngành nghề như công nghệ cao, tài chính được miễn thuế trong thời
gian 03 - 05 năm.
Về thuế TNDN, DNNVV có mức mức thu nhập từ 03 triệu CNY trở
xuống và tổng giá trị tài sản dưới 30 triệu CNY sẽ được ưu đãi thuế TNDN.
Trung Quốc quy định thuế suất thuế TNDN 10 - 20% đối với DNNVV, trong
khi mức phổ thông là 25%.
2.3.6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore, Malaysia, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc về chính sách tài chính - tín dụng đối với
DNNVV, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau cho Việt Nam:
Thứ nhất, ở các nước, DNNVV chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp,
đồng thời DNNVV có vai trò trong việc tạo công ăn việc làm, đóng góp giá trị
gia tăng cho nền kinh tế, theo đó các nước cũng ban hành nhiều chính sách tài
chính - tín dụng đối với DNNVV để giúp DNNVV tiếp cận được các nguồn
vốn ưu đãi để giảm chi phí hoạt động, nhất là trong điều kiện kinh tế vĩ mô có
nhiều biến động (Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc).
Thứ hai, kinh nghiệm các nước cũng rất đa dạng trong việc hỗ trợ
DNNVV, tuy nhiên trọng tâm của việc hỗ trợ vẫn là hỗ trợ qua các quỹ tài
chính, tín dụng hoặc miễn, giảm thuế đối với DNNVV hoặc bảo lãnh cho
DNNVV vay vốn. Tuy nhiên, mức hỗ trợ của các nước khá khác nhau về tỷ
lệ, dựa trên những tính toán của Chính phủ và nguồn vốn của các định chế tài
chính để hỗ trợ cho DNNVV ở những năm đầu, ở từng thời điểm hoặc áp
dụng cho cả thời gian dài hoạt động của DNNVV. Do đó, việc vận dụng mô
hình nào cần được cân nhắc trên cơ sở bối cảnh, nguồn lực cụ thể của từng
71
nước.
Thứ ba, việc đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng được chú trọng
(Singapore, Trung Quốc), điều này sẽ giúp cho việc quản trị được nâng cao,
nhờ đó mà nâng cao được kết quả kinh doanh của DNNVV. Do đó, việc bố trí
tạp trung nguồn lực tài chính để tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho
DNNVV cần được quan tâm.
Thứ tư, đối với các DNNVV thành lập trong những lĩnh vực mà các
nước khuyến khích như phát triển công nghệ cao, nghiên cứu phát triển sản
phẩm mới… đều được các nước tiến hành ưu đãi đối với các DNNVV này.
Việc phát triển sản phẩm mới, giàu hàm lượng khoa học công nghệ sẽ giúp
nâng cao khả năng cạnh tranh của DNNVV, đồng thời giúp DNNVV thu
được lợi nhuận lớn, tuy nhiên để tiến hành phát triển các loại sản phẩm này
DNNVV phải đầu tư mất nhiều chi phí trong thời gian dài. Do đó, việc hỗ trợ
về tài chính, tín dụng của Nhà nước là rất cần thiết (Singapore, Hàn Quốc,
Trung Quốc).
Thứ năm, việc chuẩn bị kế hoạch vốn cho những khoản vay cho
DNNVV là một sáng kiến tốt, bởi trong trường DNNVV đi vay bị rủi ro trong
kinh doanh mà không trả được nợ thì việc xây dựng kế hoạch sẽ rất quan
trọng. Khi xây dựng kế hoạch thì cần xây dựng cả phương án xử lý rủi ro đối
với trường DNNVV không trả được nợ, giúp đảm bảo an ninh tài chính của
72
các định chế tài chính cho vay.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Chương 2 của Luận án đã phân tích và nghiên cứu các vấn đề lý luận
về chính sách tài chính đối với DNNVV. Theo đó đưa ra nội hàm của chính
sách tài chính đối với DNNVV gồm chính sách huy động, phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng; chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng;
chính sách thuế, phí; chính sách tài chính đất đai đối với DNNVV. Bên cạnh
đó, Chương 2 cũng đã phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của DNNVV
cũng như chính sách tài chính đối với DNNVV trong nền kinh tế thị trường.
Kết quả cho thấy DNNVV có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Không chỉ vậy, Chương 2 của Luận án cũng phân tích các tiêu chí đánh
giá hiệu quả và yếu tố tác động đến chính sách tài chính DNNVV. Phân tích
cho thấy kết quả thực hiện chính sách, thời gian hoạt động của chính sách có
tác động đến các chính sách tài chính - tín dụng đối với DNNVV. Còn môi
trường chính sách, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng chính sách, các đơn vị
đánh giá phân tích chính sách lại tác động đến tác động đến chính sách tài
chính đối với DNNVV.
Chương này cũng tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore,
Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc về chính sách tài chính đối với
DNNVV, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu lý luận về chính sách tài chính đối với DNNVV là
cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu trong những nghiên cứu tiếp
73
theo.
Chƣơng 3.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
3.1. Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam
3.1.1. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động
Để gia tăng số lượng DNNVV theo đúng chủ trương của Đảng, Chính
phủ đã ban hành kế hoạch phát triển DNNVV trong các giai đoạn cụ thể.
Theo đó, ngày 07/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1231/QĐ-
TTg kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 - 2015, trong đó đặt ra mục
tiêu: Số DNNVV thành lập mới giai đoạn 2011 - 2015 dự kiến đạt 350 nghìn
doanh nghiệp; tính đến ngày 31/12/2015, cả nước có 600 nghìn doanh nghiệp
đang hoạt động; tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực DNNVV chiếm
25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc; DNNVV tạo thêm khoảng 3,5 - 4
triệu chỗ làm việc mới trong giai đoạn 2011 - 2015… Nghị quyết số 35/NQ-
CP ngày 16/5/2016 đưa ra mục tiêu về phát triển DNNVV đến năm 2020. Cụ
thể: Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh,
phát triển bền vững, cả nước có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động, trong
đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh. Khu vực tư nhân
Việt Nam đóng góp khoảng 48 - 49% GDP và 49% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 30 - 35% GDP.
Năng suất lao động xã hội tăng khoảng 5%/năm. Hằng năm, có khoảng 30 -
35% doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh các kế hoạch của Chính phủ, các chính sách đối với doanh
nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng ngày càng được hoàn thiện, tạo nền
74
tảng pháp lý quan trọng để cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển.
Biểu đồ 3.1. Tổng số DNNVV, 2011 - 2020
900000
809098
800000
733576
691168
700000
600000
495010 517900
500000
433453
393915
365181
400000
338916
300000
216941
200000
100000
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Đơn vị tính: Doanh nghiệp
Nguồn: Số liệu từ báo cáo năm 2011 - 2020 của Tổng cục Thống kê
Theo số liệu công bố hằng năm của Tổng cục Thống kê và tính toán
của tác giả, giai đoạn 2011 - 2020, số lượng DNNVV tăng nhanh nhất, chiếm
khoảng 97,4% tổng số doanh nghiệp. Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước có
khoảng 809.098 DNNVV, tăng 73,19% (tương đương gần 600 nghìn doanh
nghiệp) so với thời điểm ngày 01/01/2011. Do năng lực vốn hạn chế, nên
phần lớn các doanh nghiệp thành lập ở Việt Nam là các doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Tuy nhiên, xu hướng này cũng phù hợp với các
nước khu vực và trên thế giới là phần lớn các doanh nghiệp trong nền kinh tế
chủ yếu là DNNVV.
Mặc dù DNNVV tăng trưởng khá nhanh, song so sánh với kế hoạch
đưa ra thì vẫn chưa đạt, cụ thể đến năm 2010, cả nước mới có 278.360 doanh
nghiệp, chỉ đạt 85% so với yêu cầu tại Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg phê
duyệt kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm giai đoạn 2006 - 2010; năm 2015 cả
nước có 433.453 doanh nghiệp, đạt 72,24% so với yêu cầu trong Quyết định
số 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 về kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn
2011 - 2015.
Theo Nghị quyết số 35/NQ-CP, đến năm 2020, cả nước phải có 1 triệu
DNNVV, trên cơ sở DNNVV hoạt động đến năm 2015, thì mỗi năm phải có
98.428 doanh nghiệp, trong khi đó năm 2016 cả nước chỉ có thêm 61.557 75
doanh nghiệp (đạt 62,54% kế hoạch), năm 2017 có 12.850 doanh nghiệp (đạt
11,34% kế hoạch)… Với thực tiễn số lượng DNNVV như vậy, thì mục tiêu cả
nước có 1 triệu doanh hoạt động đến năm 2020 đã không khả thi, dẫn tới việc
lập và triển khai kế hoạch còn chưa sát thực tế, đồng thời cho thấy môi trường
hoạt động và chính sách có nhiều vấn đề đặt ra.
3.1.2. Tỷ trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày
31/12/2011, tổng số là 316.941 doanh nghiệp, chiếm 97,6%; trong đó doanh
nghiệp siêu nhỏ chiếm 66,8%; doanh nghiệp nhỏ chiếm 28,8%; doanh nghiệp
vừa chiếm 2,1%. Tuy nhiên, đến cuối năm 2020, tổng số DNNVV là 809.098,
trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm khoảng 75%, doanh nghiệp nhỏ chiếm
khoảng 22%, còn lại là doanh nghiệp vừa chiếm khoảng 3,6%, cho thấy bộ
phận doanh nghiệp nhỏ có xu hướng giảm, còn doanh nghiệp siêu nhỏ và
doanh nghiệp vừa tăng lên. Điều này cho thấy, tiềm DNNVV ngày càng có
tiềm lực mỏng bởi sự gia tăng của doanh nghiệp siêu nhỏ là bộ phận có tiềm
lực tài rất yếu.
3.1.3. Lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả, giai đoạn 2012 -
2019, số lượng DNNVV tăng nhanh, song số lao động của doanh nghiệp này
lại tăng thấp hơn so với doanh nghiệp lớn. Giai đoạn 2011 - 2020, số
DNNVV tăng bình quân khoảng 9%/năm, song số lượng lao động của
DNNVV tăng chậm hơn so với doanh nghiệp lớn (số lao động hiện đang làm
việc trong doanh nghiệp lớn tăng khoảng 34%, trong khi đó đối với DNNVV
chỉ tăng khoảng 23% so với thời điểm 01/01/2012; bình quân giai đoạn 2011 -
2020, doanh nghiệp lớn có số lao động tăng khoảng 6% và DNNVV chỉ tăng
khoảng 5%.
Đáng chú ý, tại các DNNVV, tổng số lao động thì lao động làm việc
trong ngành công nghiệp, xây dựng chiếm khoảng 54%, ngành thương mại và
dịch vụ chiếm khoảng 44%, còn lại là ngành nông nghiệp chỉ khoảng 2%. Bên
cạnh đó, số lượng lao động trong hai ngành công nghiệp và xây dựng, thương
76
mại và dịch vụ tăng khá nhanh qua các năm, trong khi lao động trong ngành
nông nghiệp lại ổn định. Điều này cho thấy xu hướng dịch chuyển lao động
bất cân xứng, do Việt Nam vẫn là nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu
(chiếm hơn 70% tỷ trọng trong cơ cấu ngành kinh tế cả nước).
3.1.4. Số lượng đăng ký thành lập mới
Giai đoạn 2011 - 2015, số lượng DNNVV thành lập mới đạt 15.150
doanh nghiệp/năm, với số vốn đăng ký trung bình là 6,9 tỷ đồng/doanh
nghiệp. Tuy nhiên, đến giai đoạn 2016 - 2020, bình quân hằng năm cả nước
có khoảng 12.415 DNNVV thành lập mới, với số vốn đăng ký là 1,31 triệu tỷ
đồng, trong đó tốc độ tăng số DNNVV thành lập mới khoảng 47,67%, với số
vốn đăng ký tăng gần 24%. Cũng trong gia đoạn này, khu vực dịch vụ có số
DNNVV bình quân thành lập mới nhiều nhất với khoảng 87.687 DNNVV,
tăng khoảng 50,86% so với các năm 2014 - 2015; khu vực công nghiệp - xây
dựng có khoảng 32.863 DNNVV, tăng khoảng 42,6%; khu vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản có khoảng 1.864 DNNVV, tăng 7,7%.
Đáng chú ý, trong giai đoạn 2016 - 2020, DNNVV thành lập mới có tốc
độ tăng so với giai đoạn 2014 - 2015 của một số địa phương có nhiều doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam như Bình Dương tăng khoảng 80,16%; Đà Nẵng
tăng 69,52%; Hà Nội tăng 46,51%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 44,67%; Hải
Phòng tăng 38,78%; Đồng Nai tăng 36,75%, phản ánh những thành phố năng
động ngày càng thu hút nhiều DNNVV hoạt động.
3.1.5. Tình hình doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
Giai đoạn 2011 - 2020, tình hình doanh nghiệp DNNVV quay trở lại
hoạt động có xu hướng tăng đều qua các năm, tuy nhiên năm 2017 lại giảm,
cho thấy tín hiệu khả quan về khung khổ pháp lý ngày càng được hoàn thiện
theo hướng cải cách tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là Luật Doanh
nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017,
các Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh hằng năm của Chính
phủ… đã phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp quay trở lại
hoạt động tăng cũng lý giải cho những giải pháp quyết liệt của Chính phủ đã
giúp doanh nghiệp có được niềm tin vào sản xuất - kinh doanh, góp phần
77
quan trọng vào phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Đáng chú ý, số lượng DNNVV quay trở lại hoạt động chủ yếu là các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, đây là những doanh nghiệp hạn chế về vốn,
công nghệ, nguồn nhân lực, thương hiệu và quản trị doanh nghiệp, cho thấy
doanh nghiệp có quy mô nhỏ ngày càng tự tin vào môi trường kinh doanh của
Chính phủ, điều này giúp tạo tiền đề để gia tăng quy mô đóng góp cho nền
kinh tế vì giá trị đóng góp của khối doanh nghiệp này là khá cao trong những
năm gần tới.
3.1.6. Đóng góp của DNNVV cho ngân sách nhà nước
Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn không ngừng đóng góp cho NSNN hằng
năm. Mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình
hoạt động, nhưng giai đoạn 2011 - 2020, khối DNNVV vẫn đóng góp khoảng
31% tổng thu NSNN, khoảng 35% tổng đầu tư toàn vốn xã hội và chiếm 25%
tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc, đóng góp gần 50% vào tăng
trưởng kinh tế hằng năm. Khẳng định vai trò to lớn của DNNVV đối với phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu châu Á, DNNVV
nước ta tham gia thương mại quốc tế với tỷ lệ còn thấp so với các nước trong
khu vực ASEAN (chỉ khoảng 21%, trong khi tại Malaysia là 46%...), cho thấy
độ mở về hội nhập của DNNVV còn rất lớn trong thời gian tới.
3.2. Thực trạng chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Việt Nam
3.2.1. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
3.2.1.1. Chính sách huy động về tài chính - tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Huy động vốn tín dụng thông thường thông qua TCTD
Đây là kênh huy động vốn khá phổ biến của các DNNVV Việt Nam.
Trước đây, việc cho tổ chức, cá nhân vay vốn của TCTD được thực hiện theo
Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết
78
định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN và một số văn
bản khác liên quan đến hoạt động cho vay. Tuy nhiên, để điều chỉnh khung
pháp lý chung điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đối với khách hàng (khách hàng không phải là TCTD) phù hợp
với quy định tại Luật Các TCTD năm 2010, Bộ Luật Dân sự năm 2015...,
ngày 30/12/2016, NHNN đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày
30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đối với khách hàng để thay thế cho Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN.
Bảng 3.1. So sánh thời hạn của các loại hình cho vay theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN và Thông tƣ số 39/2016/TT-NHNN
Quyết định số Thông tƣ số
1627/2001/QĐ-NHNN 39/2016/TT-NHNN Loại cho vay
Tháng Ngày Năm Ngày
Ngắn hạn ≤ 12 ≤ 360 ≤ 1 ≤ 365
Trung hạn >12 và ≤ 60 >360 và ≤ >1 và ≤ 5 >365 và
1.800 ≤ 1.825
>1.800 > 5 > 1.825 Dài hạn > 60
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN và
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định TCTD xem xét, quyết định
cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện theo quy định, trong đó đáng chú
ý là các điều kiện khách hàng là pháp nhân vay vốn để sử dụng vào mục đích
hợp pháp; phải có phương án sử dụng vốn khả thi và có khả năng tài chính để
trả nợ. Như vậy, các DNNVV đáp ứng các điều kiện trên sẽ được TCTD cho
vay vốn vào những hoạt động sản xuất - kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Bên cạnh đó, các DNNVV được vay ngắn hạn tối đa 1 năm, trung hạn (trên 1
năm và tối đa 5 năm), dài hạn (trên 5 năm) theo lãi suất thỏa thuận, song
không được vượt quá lãi suất trần do NHNN quy định.
Để triển khai chính sách cho vay, NHNN đã quy định các mức lãi suất
cho vay cho từng giai đoạn đối với DNNVV theo hướng giảm dần trong giai
đoạn 2011 - 2020. Cụ thể lãi suất cho vay đối với DNNVV từ chỗ được quy
79
định thỏa thuận, đến 13% năm 2012 rồi giảm đến 5% năm 2020, tương ứng
2,6 lần. Đáng chú ý, các mức lãi suất cho vay đối với DNNVV đều nằm ở
mức trung bình so với khung lãi suất trên thị trường, thậm chí còn nằm ở mức
sàn của khung lãi suất thực tế trên thị trường. (xem Phụ lục)
Với các mức lãi suất do NHNN quy định, quá trình thực hiện chính
sách cho vay của các TCTD đối với các doanh nghiệp (chủ yếu là DNNVV)
cho thấy, tăng trưởng dư nợ tín dụng năm sau đã tăng so với năm trước. Giai
đoạn 2011 - 2020, tín dụng cho vay đối với DNNVV tăng trưởng khá, đạt
798.543 tỷ đồng (năm 2011), tăng lên gần 1,8 triệu tỷ đồng (cuối năm 2020),
tương ứng tăng 125,41% (trung bình tăng 12,54%/năm).
Biểu đồ 3.2. Tổng dƣ nợ tín dụng DNNVV, 2011 - 2020
2000000
1800000
1800000
1508000
1600000
1300000
1400000
1202142
1124859
1200000
1000000
798543 830744 870344 923455 919293
800000
600000
400000
200000
0
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các báo cáo của NHNN
b. Huy động vốn tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên
Về cho vay đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, ngày 12/4/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-
CP quy định chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
đến ngày 09/6/2015, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-
CP thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP cho
phép các TCTD được cho vay không có tài sản bảo đảm đối với một số đối
tượng khách hàng lên gấp 1,5 - 2 lần so với quy định tại Nghị định số
41/2010/NĐ-CP; quy định chính sách tín dụng khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công 80
nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, như quy định mức vay không có tài sản
bảo đảm từ 70 - 80% giá trị phương án, dự án sản xuất - kinh doanh; quy định
cơ chế xử lý khoản nợ khi khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan,
bất khả kháng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh đó, DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn còn được NSNN hỗ trợ theo quy định của Nghị định số 57/2018/NĐ-CP
ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn. Theo đó DNNVV có dự án đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất vay thương mại không
quá 70% tổng mức đầu tư của dự án; thời gain tối đa 5 - 7 năm, sau khi dự án
hoàn thành.
Bên cạnh đó, để triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, Nghị định số
116/2018/NĐ-CP, ngày 22/7/2015, NHNN đã ban hành Thông tư số
10/2015/TT-NHNN hướng dẫn triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của
Chính phủ, đồng thời ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư tín dụng
đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, theo đó quy định trần lãi suất cho
vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn thấp
hơn 1 - 2% so với lãi suất cho vay các lĩnh vực thông thường khác.
Kết quả thực hiện cho vay đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn cho thấy, đến cuối năm 2020, cả nước có khoảng 83
TCTD, mạng lưới hơn 1.100 quỹ tín dụng nhân dân và Ngân hàng Chính sách
xã hội tham gia cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tăng trưởng tín
dụng bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 -
2020 đạt khoảng 17,5%/năm, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung của
nền kinh tế (khoảng 14,77%); lãi suất cho vay cũng giảm mạnh trong giai
đoạn 2011 - 2020, từ trên 20%/năm vào năm 2011 xuống 12%/năm vào năm
2013 và khoảng 5 - 8%/năm giai đoạn 2014 - 2020, thấp hơn nhiều so với lãi
suất cho vay thông thường; góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng vào lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn.
Đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ, theo Nghị định số
13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về doanh nghiệp, các doanh nghiệp có tài 81
sản dùng để thế chấp theo quy định của pháp luật hay doanh nghiệp có dự án
khả thi được Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh,
thành phố trực thuộc Quỹ phát triển của bộ, cơ quan ngang bộ, Trung ương
cho vay với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vay vốn tại các NHTM hoặc hỗ trợ lãi
suất vay tối đa 50% lãi suất vay vốn tại NHTM thực hiện cho vay. Quỹ đổi
mới công nghệ quốc gia được thành lập từ năm 2013, hoạt động từ năm 2015
với vốn điều lệ 1 nghìn tỷ đồng. Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia có chức
năng cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn, hỗ trợ vốn cho
các doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện
công nghệ quy định tại Thông tư số 06/2014/TTBKHCN ngày 25/4/2014.
[15]. Quỹ phát triển quốc gia được thành lập từ năm 2003 và bắt đầu đi vào
hoạt động từ năm 2008. Vốn điều lệ khi thành lập là 200 tỷ đồng từ NSNN
cho sự nghiệp khoa học. Hằng năm, Quỹ được cấp bổ sung từ nguồn NSNN ít
nhất 200 tỷ đồng. Đối tượng được nhận tài trợ toàn phần, một phần hoặc cho
vay không tính lãi suất, lãi suất thấp bao gồm các nghiên cứu cơ bản, các
nhiệm vụ đột xuất mới phát sinh có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực
tiễn.
Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT thì được hỗ trợ lãi
suất khi đi vay theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT;
Thông tư số 01/2016/TT-NHNN ngày 04/02/2016 về hướng dẫn chính sách
cho vay phát triển CNHT. Theo đó các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản
phẩm CNHT thuộc danh mục ưu tiên phát triển được vay với lãi suất vay tín
dụng đầu tư từ nguồn tín dụng đầu tư của Nhà nước; được vay ngắn hạn bằng
đồng Việt Nam tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với mức lãi
suất cho vay theo trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN trong từng
thời kỳ (cho vay tối đa 70% vốn đầu tư).
Giai đoạn 2012 - 2020, cho vay phát triển CNHT là một trong 5 lĩnh
vực ưu tiên của các TCTD. Trước ngày 18/11/2019, các TCTD cho vay với
trần lãi suất 6,5% theo quy định tại Quyết định số 1425/QĐ-NHNN ngày
07/7/2017; từ ngày 18/11/2019 là 6% theo Quyết định số 2416/QĐ-NHNN và
năm 2020 chỉ còn 5%... Sau khoảng 5 năm thực hiện Nghị định số
111/2015/NĐ-CP về cấp tín dụng của các TCTD đối với CNHT đã có kết quả 82
tích cực, theo đó cho vay ngắn hạn theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP mặc
dù còn thấp nhưng vẫn gấp 4,7 lần so với năm 2016.
3.2.1.2. Chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng
Doanh nghiệp nhỏ và vừa phân phối nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
- kinh doanh được thực hiện theo các pháp luật chuyên ngành, tùy từng mục
đích của DNNVV đầu tư vào lĩnh vực nào thì chịu sự điều chỉnh về pháp luật
liên quan đến lĩnh vực đó. Tuy nhiên, xét theo các giai đoạn kinh doanh thì
DNNVV có thể phân phối và sử dụng nguồn vốn vào quá trình sản xuất và
vào hoạt động kinh doanh. Khi phân phối và sử dụng nguồn vốn vào sản xuất,
kinh doanh thì DNNVV chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, Bộ Luật
Dân sự. Trong đó, Luật Doanh nghiệp quy định, doanh nghiệp được “Lựa
chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn” (Điều 7)”,
“Tự do kinh doanh ngành, nghề mà luật không cấm”, “Tự chủ kinh doanh và
lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa
bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh
doanh”, “Tự do tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng”. Bên
cạnh đó, Bộ Luật Dân sự quy định “Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để
người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch đó” và “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” (Điều 189), như vậy khi DNNVV thực hiện
phân phối và sử dụng nguồn vốn phải tuân theo hợp đồng và quyền đại diện
chủ doanh nghiệp (ký kết hợp đồng với đối tác đầu tư, kinh doanh), thông qua
đó, DNNVV được hưởng lợi từ quá trình đầu tư vốn (nếu có).
Bên cạnh đó, trong quá trình phân phối và sử dụng nguồn vốn vào quá
trình kinh doanh, DNNVV còn phải chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại
trong việc “nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác” (Điều 3). Cũng theo Luật Thương mại thì DNNVV có quyền tự do thỏa
thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo
đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
83
thương mại.
3.2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
3.2.2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV
a. Chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn
Kể từ ngày 10/02/2014, hỗ trợ tài chính cho DNNVV hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được thực hiện theo Nghị định số
210/2013/NĐ-CP. Trong quá trình thực hiện Nghị định này cho thấy nhiều
bất cập, do đó ngày 17/4/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn (thay thế Nghị định số 210/2013/NĐ-CP). Theo đó,
các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được NSNN
hỗ trợ kinh phí để thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, mua bản quyền công
nghệ, mua công nghệ hoặc mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ để tạo ra sản phẩm mới, cải tiến công nghệ, công nghệ giảm thiểu
ô nhiễm môi trường, công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, tiết kiệm
năng lượng...
Thống kê của NHNN cho thấy, đến cuối năm 2020, dư nợ cho vay
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch đạt trên 27.000 nghìn
tỷ đồng; kỳ hạn dài chiếm khoảng 55% dư nợ, lãi suất ngắn hạn khoảng 5,3 -
6,5%/năm trong khi trung dài hạn khoảng 8,5 - 10%/năm.
Bên cạnh đó, năm 2011 - 2013, để thực hiện các chính sách khuyến
khích đầu tư cơ giới hóa đồng ruộng, các địa phương, nhất là ở khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long đã chủ động thúc đẩy hoạt động cho vay theo Quyết
định số 63/QĐ-TTg ngày 13/01/2010 và Quyết định số 65/QĐ-TTg ngày
02/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn
thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Đến năm 2013, Chính phủ còn
hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg
ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 89/2014/TT-BTC,
Thông tư số 82/2019/TT-BTC hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù
84
chênh lệch lãi suất do thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong
nông nghiệp: Các doanh nghiệp được NSNN hỗ trợ lãi suất vay vốn 100%
trong hai năm đầu và 50% trong năm thứ ba để mua các máy móc thiết bị
nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. [67].
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), giai đoạn 2011 - 2020,
các NHTM đã cho vay trên 12 nghìn tỷ đồng đối với hơn 37.800 khách hàng
là các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân; doanh số cho vay đạt 10.150
tỷ đồng; với hơn 28.400 khách hàng vay vốn. Dư nợ cho vay đến cuối năm
2020 (thời điểm kết thúc chương trình cho vay theo Quyết định số 63/QĐ-
TTg) là 2.350 tỷ đồng với 8.800 khách hàng còn dư nợ.
b. Chính sách hỗ trợ tài chính để đào tạo nguồn nhân lực của DNNVV
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của DNNVV trong việc quản
trị, khởi nghiệp, thành lập doanh nghiệp mới, ngày 30/6/2009, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV. Theo
đó, kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV của các bộ,
ngành và địa phương phải được lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội hằng năm, 5 năm của các bộ, ngành và địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư liên tịch số
04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 13/8/2014 hướng dẫn trợ giúp đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV, Thông tư số 49/2019/TT-BTC ngày
08/8/2019 về sử dụng kinh phí ngân sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
(thay thế Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC). Trong đó, mức
hỗ trợ từ NSNN trong tổng chi phí tổ chức một khóa đào tạo khởi sự kinh
doanh tối đa là 100%, quản trị doanh nghiệp cơ bản tối đa là 70% và quản trị
doanh nghiệp chuyên sâu là 50%. Kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực DNNVV gồm hỗ trợ một phần từ NSNN (ngân sách
trung ương, ngân sách địa phương), đóng góp và hỗ trợ của các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ cũng ban hành chính sách nâng cao
kỹ năng, kỹ xảo nghề cho người lao động gồm: Luật Việc làm 38/2013/QH13
quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm. DNNVV được vay vốn từ Quỹ quốc
gia về việc làm để hỗ trợ đào tạo việc làm cho người lao động theo Nghị định
số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ 85
quốc gia về việc làm. Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định Ngân hàng
Chính sách xã hội cho DNNVV (cơ sở sản xuất - kinh doanh sử dụng từ 30%
tổng số lao động trở lên là người khuyết tật và người dân tộc thiểu số) vay tối
đa 50 triệu đồng/01 người lao động được tạo việc làm thì không cần tài sản
đảm bảo, còn quá mức này thì DNNVV phải có đảm bảo tiền vay (mức vay
tối đa cho 1 dự án tối đa là 1 tỷ đồng).
Nghị định số 74/2019/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, theo đó cơ sở sản xuất - kinh doanh được vay
tối đa 2 tỷ đồng/dự án (Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định mức vay 1 dự án
tối đa là 1 tỷ đồng). Bên cạnh đó, thời hạn vay vốn cũng được tăng từ không
quá 60 tháng lên tối đa 120 tháng. Nghị định số 74/2019/NĐ-CP quy định đối
với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên thì cơ sở sản xuất - kinh doanh phải có
tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Đáng chú ý, để triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV về hỗ trợ đào tạo lao
động cho DNNVV, ngày 26/12/2018, Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội
đã ban hành Thông tư số 32/2018/TT-BLĐTBXH hướng dẫn việc hỗ trợ đào
tạo nghề đối với lao động đang làm việc trong DNNVV. Theo Thông tư này,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí kinh phí thực hiện chính
sách hỗ trợ đào tạo nghề đối với lao động (đào tạo nghề trình độ sơ cấp, đào
tạo dưới 3 tháng đối với lao động) đang làm việc trong doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật.
Ngày 03/5/2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng ban hành Thông tư
05/2019/TT-BKHĐT hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các
DNNVV. Trong đó mức hỗ trợ từ NSNN tối thiểu 50% tổng chi phí tổ chức
một khóa đào tạo khởi sự kinh doanh, quản trị kinh doanh DNNVV có trụ sở
tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; 100% học phí đối với học viên
khó khăn.
Theo Ngân hàng Chính sách xã hội, tính đến hết tháng 5/2019, tổng
nguồn vốn cho vay hỗ trợ tạo, duy trì và mở rộng việc làm đạt gần 17 nghìn tỷ
đồng, doanh số cho vay giải quyết việc làm từ năm 2015 đến tháng 5/2019 đạt
24.459 tỷ đồng, với gần 800 nghìn lượt khách hàng được vay vốn, góp phần
86
hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho 885 nghìn lao động.
c. Chính sách hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu và xúc tiến thương mại của
DNNVV
Về nội dung này, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
số 72/2010/QĐ-TTg ngày 15/11/2010 về việc ban hành Quy chế xây dựng,
quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia nhằm phát
triển xuất khẩu; thị trường trong nước; thương mại miền núi, biên giới và hải
đảo, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ. Để
cụ thể hóa Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg, Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư số 88/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011 hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ
NSNN để thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
Quá trình thực hiện Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg đã nổi lên những
bất cập, do đó ngày 26/02/2019, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
12/2019/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng, quản
lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia ban hành kèm theo
Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg. Theo đó, mức hỗ trợ tối đa 100% áp dụng
đối với các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển ngoại thương được hỗ
trợ từ Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại; 100% áp dụng đối
với các nội dung chương trình xúc tiến thương mại miền núi, biên giới, hải đảo và
một số nội dung chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước.
Sau gần 10 năm triển khai Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg, đến nay, Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã trở thành kênh phát triển thị trường hiệu quả. Thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, các hiệp hội, tổ chức xúc tiến thương mại đã hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận, mở rộng thị trường tại các thị trường trọng điểm, thị trường mới, nhiều tiềm năng.[59]. Giai đoạn 2010 - 2020, Bộ Công Thương đã phê duyệt 2.265 đề án xúc tiến thương mại nội địa với kinh phí khoảng 540 tỷ đồng. Các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường trong nước tập trung vào việc tổ chức hội chợ hàng Việt; phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo và đào tạo tập huấn kỹ năng kinh doanh và tổ chức mạng lưới bán lẻ. Các sản phẩm tham gia phiên chợ hàng Việt rất đa dạng, phong phú, chủ yếu là lương thực, thực phẩm thiết yếu, giầy dép, quần áo và hàng tiêu dùng truyền thống.
87
3.2.2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính đất đai đối với DNNVV
a. Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Để khuyến khích DNNVV đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, ngày 17/4/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Các chính sách tài chính đất đai ưu đãi cho DNNVV gồm có: (1) Miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với doanh nghiệp có dự án nông nghiệp; (2) Miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng thực hiện hỗ trợ tập trung đất đai cho các DNNVV theo hướng hỗ trợ kinh phí tương đương với 20% tiền thuê đất cho 5 năm đầu tiên kể từ khi dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động. Nhà nước cũng khuyến khích, mức hỗ trợ 50 triệu đồng/ha cho các doanh nghiệp nhận vốn góp từ các hộ gia đình bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án nông nghiệp tạo vùng nguyên liệu (không quá 10 tỷ đồng/dự án) và không phải chuyển sang thuê đất đối với diện tích đất nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, các DNNVV bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 phải ngừng sản xuất - kinh doanh từ 15 ngày trở lên thì được giảm 15% tiền thuê đất phải nộp của năm 2020 đối với các đối tượng trả tiền thuê đất hàng năm theo Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày 10/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
b. Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai. Sở khoa học và công nghệ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 60, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ khi xác định diện tích đất được miễn, giảm cho mục đích khoa học và công nghệ. Thủ tục, hồ sơ đề nghị miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định của pháp luật về tiền thuê đất và quản lý thuế.
Bên cạnh đó, Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ cũng quy định: (i) Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai; (ii) Sở khoa học và công nghệ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP khi xác định diện tích đất được miễn, giảm cho mục đích khoa học và công nghệ.
88
c. Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT
Để phát triển các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT, khoản 2, Điều 12, Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 quy định, DNNVV sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai. Theo đó, các dự án có tính chất đặc biệt hoặc quy mô lớn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cần hỗ trợ cao hơn mức hỗ trợ quy định tại tiết trên thì Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề xuất của ủy ban nhân dân tỉnh (nơi có đất) theo quy định của pháp luật về đất đai.
d. Đối với DNNVV bị ảnh hưởng do dịch Covid-19
Để hỗ trợ đối tượng là DNNVV bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, ngày 08/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Theo đó gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất đối với số tiền thuê đất phải nộp kỳ đầu năm 2020 của doanh nghiệp thuộc đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo quyết định, hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức trả tiền thuê đất hằng năm. Thời gian gia hạn là 5 tháng kể từ ngày 31/5/2010.
Đến ngày 22/9/2020, cơ quan thuế đã tiếp nhận 184.887 giấy đề nghị gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất, trong đó 128.619 doanh nghiệp có giấy đề nghị, chiếm khoảng 30% tổng số doanh nghiệp. Tổng số tiền thuê đất được gia hạn là 3.393 tỷ đồng, đạt 75,4% so với số tiền ước giảm ban đầu (4.500 tỷ đồng).
3.2.2.3. Hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
a. Hỗ trợ thông qua Quỹ phát triển DNNVV
Nhằm trợ giúp phát triển DNNVV theo Nghị định số 56/2009/NĐ- CP ngày 30/6/2019 của Chính phủ, Quỹ phát triển DNNVV theo Quyết định số 601/QĐ-TTg đã được thành lập ngày 17/4/2013. Từ tháng 9/2014, Quỹ đã hình thành bộ máy tổ chức và đi vào hoạt động ổn định. Tiếp đó, ngày 12/8/2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 119/2015/TT-BTC hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính của Quỹ, theo đó lãi suất cho vay của Quỹ không vượt quá 90% lãi suất cho vay thương mại, áp dụng từ ngày 01/10/2015.
89
Để đáp ứng yêu cầu phát triển DNNVV, tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, sửa đổi và bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Quỹ phát triển DNNVV để hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Nhờ đó, Quỹ phát triển DNNVV đã được bổ sung chức năng và nhiệm vụ về cho vay, đầu tư, tài trợ để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, DNNVV tham gia chuỗi giá trị bền vững, hình thành cụm liên kết ngành (Điều 20, Luật Hỗ trợ DNNVV). Trên cơ sở đó, ngày 10/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV (Thay thế cho Quyết định số 601/QĐ-TTg).
Tính đến cuối năm 2020 (sau 17 năm hoạt động của Quỹ), cả nước đã có trên 1.700 DNNVV tiếp cận được thông tin về hoạt động của Quỹ, Quỹ đã chấp thuận ủy thác cho ngân hàng để giải ngân cho DNNVV gần 200 tỷ đồng và ký hợp đồng ủy thác cho vay 14 dự án của DNNVV với tổng số vốn hơn 106 tỷ đồng, đã giải ngân trên 93 tỷ đồng [29]. Các dự án, phương án sản xuất - kinh doanh của DNNVV đã được vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ để đầu tư mua máy móc thiết bị hoặc xây dựng nhà xưởng, tiến hành sản xuất - kinh doanh.
b. Hỗ trợ thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng
Nhằm hỗ trợ nguồn vốn, tạo thuận lợi để các DNNVV sản xuất - kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế đất nước, năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV kèm theo Quyết định số 193/2001/QÐ-TTg và Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg ngày 25/6/2004 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg. Trên cơ sở đó, các địa phương triển khai thành lập các quỹ do ngân sách địa phương góp vốn để hỗ trợ cho DNNVV tăng cường thêm vốn cho quá trình hoạt động. Tiếp đó ngày 15/10/2013, Chính phủ ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg (thay thế Quyết định số 193/2001/QÐ-TTg).
Tiếp đó, ngày 08/3/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ra đời đã nâng tầm vị thế của các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV cũng như quy định chặt chẽ và có nhiều điểm mở về điều kiện DNNVV được Quỹ xem xét cấp bảo lãnh khi đáp ứng đủ các điều kiện hơn so với Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ Tướng Chính phủ.
Qua 18 năm thực hiện, đến năm 2020 cả nước có 28 tỉnh, thành phố có quỹ bảo lãnh tín dụng, tổng nguồn vốn là 1.450,6 tỷ đồng (gần 90% là vốn ngân sách). Doanh số bảo lãnh lũy kế các quỹ đạt khoảng 4.346 tỷ đồng, dư nợ cam kết bảo lãnh của các quỹ đạt khoảng 228 tỷ đồng, số trả nợ thay đạt 90
khoảng 36 tỷ đồng. Con số này đã chứng tỏ hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng chưa hiệu quả; chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp cũng như kỳ vọng của Chính phủ trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, đồng thời cũng không giúp hệ thống NHTM đẩy mạnh đầu tư vốn cho nền kinh tế [18].
3.2.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
3.2.3.1. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
a. Thuế TNDN phổ thông đối với DNNVV
Chính sách thuế TNDN được áp dụng cho các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng được Chính phủ quy định trong từng thời kỳ cụ thể, tương ứng với những biến động về môi trường kinh doanh, khó khăn của doanh nghiệp cũng như sự kỳ vọng của Chính phủ về chính sách. Luật Thuế TNDN đã đặt ra lộ trình mà Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020 đưa ra. Từ ngày 01/01/2009, thuế suất thuế TNDN đối với DNNVV giảm từ 28% xuống 25%. Đến ngày 01/01/2014, mức thuế này được giảm từ mức 25% xuống 22%, riêng DNNVV được áp dụng mức 20% ngay từ 01/7/2013. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất phổ thông là 20%.
b. Miễn, giảm, giãn thuế TNDN đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
91
Bên cạnh các chính sách thuế TNDN trên, Chính phủ còn có chính sách hỗ trợ thuế TNDN đối với các đội tượng trong các thời kỳ. Kể từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2009, nền kinh tế Việt Nam gặp không ít thách thức, khó khăn, trong đó có DNNVV. Theo đó, Nhà nước đã ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường nhằm hỗ trợ sản xuất - kinh doanh như Nghị quyết số 08/2011/QH13 ngày 06/8/2011, Nghị quyết số 29/2012/QH13 ngày 21/6/2012, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP ngày 10/5/2012 và Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP ngày 07/01/2013. Trong đó đã hỗ trợ miễn, giảm, giãn nhiều loại thuế, phí cho DNNVV như: Giảm 30% số thuế TNDN phải nộp năm 2011 đối với: DNNVV và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giầy, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội (Nghị quyết số 29/NQ-CP); giảm 30% số thuế TNDN phải nộp năm 2011 đối với: DNNVV và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giầy,
linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội (Nghị quyết số 08/2011/QH13). Năm 2012, đối với DNNVV và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến: Nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giầy, linh kiện điện tử; xây dựng công trình hạ tầng kinh tế - xã hội được giảm 30% số thuế TNDN phải nộp theo Nghị quyết số 29/2012/QH13.
Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP cũng gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế TNDN đối với số thuế TNDN phải nộp quý I và 3 tháng thời hạn nộp thuế TNDN đối với số thuế TNDN phải nộp quý II, III/2013 cho các đối tượng sau: Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng). Số thuế TNDN được gia hạn không bao gồm số thuế tính trên phần thu nhập từ các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, xổ số, trò chơi có thưởng, thu nhập từ kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (sử dụng trên 300 lao động) trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến: Nông sản, thủy sản, lâm sản, da giầy, dệt may, linh kiện điện tử; xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở được gia hạn nộp thuế đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư - kinh doanh nhà ở, không phân biệt quy mô doanh nghiệp và số lao động sử dụng.
Kết quả thực hiện chính sách thuế TNDN đối với DNNVV cho thấy, các giải pháp hỗ trợ DNNVV miễn, giảm thuế giai đoạn 2011 - 2013 theo Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP và Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP đã giảm thuế cho 197.719 DNNVV với tổng số tiền là 1.827 tỷ đồng; miễn 1,4 tỷ đồng từ thuế TNDN cho tổ chức, doanh nghiệp, giúp ổn định sản xuất - kinh doanh [71].
Đến năm 2014, các dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, có quy mô vốn đầu tư lớn và sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới phù hợp với quy định của Luật Công nghệ cao; dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cần ưu tiên phát triển cũng được giảm 30% số thuế TNDN. Miễn thuế 3 năm đối với thu nhập từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; miễn thuế 5 năm đối với thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam...
92
Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp cũng quy định doanh nghiệp sẽ được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Tuy nhiên, để được ưu đãi trên, năm tài chính của doanh nghiệp
phải đáp ứng điều kiện về doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết quả đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu của doanh nghiệp. [27]
Lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực cũng được dành sự quan tâm đặc biệt, để thúc đẩy hoạt động đầu tư của xã hội vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, kể từ năm 2009, doanh nghiệp thực hiện hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề theo tiêu chuẩn xã hội hóa được hưởng thuế suất ưu đãi về thuế TNDN 10% trong suốt thời gian hoạt động áp dụng đối với phần thu nhập từ hoạt động này; được miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo nếu thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
Cuối năm 2019, dịch Covid-19 diễn ra và đầu năm 2020 ảnh hưởng đến tình hình sản xuất - kinh doanh của DNNVV, do đó để hỗ trợ cho DNNVV, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2019/NĐ-CP ngày 08/4/2020 gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế TNDN còn phải nộp theo quyết toán của kỳ tính thuế năm 2019 và số thuế TNDN tạm nộp quý I, II của kỳ tính thuế năm 2020 của doanh nghiệp, tổ chức là người nộp thuế TNDN thuộc đối tượng được quy định tại Điều 2 Nghị định này. Thời gian gia hạn là 05 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế TNDN theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Theo số liệu của Tổng cục Thuế, tính đến ngày 22/9/2020, tổng số tiền thuế TNDN được gia hạn là 30.563 tỷ đồng, gấp 2,75 lần số ước giảm ban đầu của Bộ Tài chính (11.100 tỷ đồng).
3.2.3.1. Chính sách thuế giá trị gia tăng
a. Thuế GTGT phổ thông đối với DNNVV
93
Thuế GTGT đối với doanh nghiệp, trong đó có DNNVV được áp dụng theo Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT số 31/2013/QH13 ngày 19/6/2013, Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT, Thông tư số 219/2013/TT-BTC và Thông tư số 26/2015/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT). Trên cơ sở các quy định trên, việc quy định thuế suất thuế GTGT đối với từng hàng hóa cụ thể để sản xuất và xuất khẩu có những
mức thuế suất khác nhau. Tuy nhiên, các mức thuế suất này nằm trong các mức 0%, không chịu thuế, 5% và 10%.
b. Miễn, giảm, giãn thuế GTGT đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
Cũng như thuế TNDN, Chính phủ cũng đưa ra các chính sách giãn, giảm, miễn thuế GTGT cho các DNNVV gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể: Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 về một số một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường quy định gia hạn 6 tháng thuế GTGT đối với DNNVV kinh doanh trong các lĩnh vực xổ số, chứng khoán, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB và doanh nghiệp được xếp hạng 1, hạng đặc biệt thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty; doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giầy, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội.
Nghị quyết số 13/NQ-CP cũng quy định giảm 50% số thuế GTGT đầu ra từ ngày 01/7/2013 - 30/6/2014 đối với hoạt động đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội của doanh nghiệp. Giảm 30% số thuế GTGT đầu ra từ ngày 01/7/2013 - 30/6/2014 đối với hoạt động đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở là căn hộ có diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.
Kết quả miễn, giảm, giãn, gia hạn thuế GTGT đã miễn cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2011 - 2013 để lại cho doanh nghiệp tiền đầu tư ước khoảng 16 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Giải pháp gia hạn thuế GTGT hỗ trợ vốn khoảng 12.300 tỷ đồng cho doanh nghiệp.
94
Bên cạnh đó, để hỗ trợ DNNVV do bị tác động của dịch Covid-19, ngày 08/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất, trong đó hỗ trợ DNNVV như: Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế GTGT phát sinh phải nộp của kỳ tính thuế tháng 3 - 6/2020 (đối với trường hợp kê khai thuế GTGT theo tháng) và kỳ tính thuế quý I, II/2020 (đối với trường hợp kê khai thuế GTGT theo quý) của các doanh nghiệp, tổ chức nêu tại Điều 2 Nghị định này. Thời gian gia hạn 5 tháng kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Theo Tổng cục Thuế, tổng hợp số tiền thuế GTGT và thuế thu nhập cá nhân của hộ và cá nhân kinh doanh được gia hạn tính đến ngày 22/9/2020 là 827,8 tỷ đồng, chỉ đạt 1,34% so với số ước giảm thu NSNN ban đầu của Bộ Tài chính (ước giảm ban đầu khoảng 61.600 tỷ đồng).
Bên cạnh đó, ngày 19/6/2020, Quốc hội còn thông quan Nghị quyết giảm thuế TNDN phải nộp năm 2020, theo đó giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với trường hợp doanh nghiệp có tổng doanh thu năm 2020 không quá 200 tỷ đồng. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020. Việc thực hiện chính sách này sẽ giảm thu NSNN năm 2020 khoảng 23 nghìn tỷ đồng.
3.2.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, đất sản xuất - kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm (Khoản 2, Điều 10). Theo đó có quyền giao đất cho các tổ chức kinh tế và thực hiện có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá hoặc không đấu giá.
Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về thu tiền sử dụng đất thì Nhà nước chỉ giao đất cho các tổ chức kinh tế thực hiện các mục đích sản xuất - kinh doanh, gồm: (i) Tổ chức kinh tế được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; (ii) Tổ chức kinh tế được giao đất để xây dựng công trình hỗn hợp cao tầng, trong đó có diện tích nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê. Nghị định cũng quy định “Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà được giảm tiền sử dụng đất thì có quyền và nghĩa vụ trong phạm vi phần giá trị quyền sử dụng đất đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai” (Điều 10).
95
Bên cạnh đó, Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước của các đối tượng gồm: (1) Tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; đất sản xuất - kinh doanh phi nông nghiệp; đất xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh doanh; đất để thực hiện dự án đầu tư nhà ở để cho thuê; (2) Tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất xây dựng công trình sự nghiệp; (3) Tổ chức kinh tế sử dụng đất sông, ngòi, kênh rạch, suối để nuôi trồng thủy sản; (4) Tổ chức, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Ban Quản lý khu công nghệ cao, Ban Quản lý khu kinh tế của Luật Đất đai; (5) Tổ chức được Cảng vụ hàng không cho thuê đất để xây dựng
cơ sở, công trình phục vụ kinh doanh dịch vụ hàng không tại cảng hàng không, sân bay và đất xây dựng công trình phục vụ kinh doanh dịch vụ phi hàng không theo quy của Luật Đất đai.
Việc thu tiền thuê đất đối với nội dung (1), (2) được thực hiện trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, còn đối với nội dung (3), (4), (5) thì Nhà nước thực hiện thu tiền thuê đất hằng năm.
Ngày 09/9/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2016/NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP và Nghị định số 46/2014/NĐ-CP. Theo đó quy định thu tiền sử dụng đất khi tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất phải nộp là số tiền trúng đấu giá.
Ngoài các chính sách trên, Nhà nước cũng ban hành Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định đối tượng chịu thuế là đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất sản xuất - kinh doanh phi nông nghiệp, bao gồm: Đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất - kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm và đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh. Quy định thuế suất thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với đất ở áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần (mức thuế suất là 0,03%, 0,07% và 0,15%). [79]
3.3. Đánh giá thực trạng vận hành chính sách tài chính đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
3.3.1. Kết quả đạt được
3.3.1.1. Chính sách huy động, ph n phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Chính sách huy động về tài chính - tín dụng đối với DNNVV
- Huy động vốn tín dụng thông thường thông qua tổ chức tín dụng
Thứ nhất, nguồn vốn tín dụng cho DNNVV có xu hướng tăng lên
Việc tăng trưởng tín dụng ngày càng lớn, từ 798,5 nghìn tỷ đồng (cuối năm 2011) lên khoảng 1.800 nghìn tỷ đồng (cuối năm 2020) đối với DNNVV đã góp phần giúp cho sản xuất - kinh doanh được thuận lợi, tạo điều kiện cho DNNVV có nhiều đóng góp cho đất nước, giúp mở rộng quy mô vốn của doanh DNNVV.
Thứ hai, lãi suất cho vay ở mức thấp, thúc đẩy DNNVV phát triển 96
Để triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 20/5/2017 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, về mặt bằng lãi suất huy động và cho vay được NHNN về cơ bản ổn định, lãi suất cho vay phổ biến khoảng 6 - 9%/năm với ngắn hạn, khoảng 9 - 11%/na m với trung và dài hạn. Mức lãi suất này trong vài năm gần đây được đánh giá là khá thấp, giúp DNNVV giảm chi phí đầu vào trong sản xuất - kinh doanh.
- Huy động vốn tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên
+ Về tín dụng nông nghiệp, nông thôn
Phân tích thực trạng cho thấy, dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đến cuối năm 2020 đạt khoảng 2,2 triệu tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần so với cuối năm 2016, chiếm tỷ trọng hơn 24% tổng dư nợ tín dụng với sự tham gia của gần 85 TCTD và hơn 1.000 quỹ tín dụng nhân dân, phản ánh nguồn vốn này đã tạo đột phá trong việc khơi thông dòng vốn tín dụng chảy về nông thôn, góp phần đẩy nhanh quá trình cơ cấu, tổ chức lại sản xuất, gia tăng sức cạnh tranh và phát triển bền vững lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam; thúc đẩy ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển và có những bước tiến vượt bậc.
+ Về tín dụng cung cấp cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ
Một là, thông qua chính sách tài trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ thông qua Quỹ phát triển quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, đã giúp DNNVV phát triển được sản phẩm hàng hóa có hàm lượng cao, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế của DNNVV.
Hai là, Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTC-BKHCN đã hướng dẫn và quy định khá cụ thể về nội dung chi của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Đối với nhiệm vụ, doanh nghiệp sẽ chủ động thực hiện theo nhu cầu; đồng thời doanh nghiệp cũng được tự xây dựng và ban hành định mức chi cho các nhiệm vụ của mình. Việc đánh giá xét chọn, thẩm định nội dung và kinh phí của các nhiệm vụ được thực hiện theo Quy chế hoạt động của doanh nghiệp. Việc quy định rõ đã tạo cho doanh nghiệp có căn cứ để thực hiện.
b. Chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng
97
Trên thực tế, với hành lang pháp lý của Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và Bộ Luật Dân sự, DNNVV đã thực hiện phân phối và sử dụng nguồn vốn đảm bảo các quy định của pháp luật về sản xuất, kinh doanh về
giao kết hợp đồng và sản xuất, doanh những hàng hóa và dịch vụ mà pháp luật không cấm kinh doanh.
Kết quả phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng của DNNVV theo các chính sách cho thấy, số lượng DNNVV đang hoạt động của kết quả sản xuất - kinh doanh ngày càng tăng lên. Theo Tổng cục Thống kê và ước tính của tác giả, so với bình quân giai đoạn 2011 - 2015, bình quân giai đoạn 2016 - 2010 thì mỗi năm khu vực doanh nghiệp quy mô lớn tạo ra trên 900 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng khoảng 85%; khu vực doanh nghiệp quy mô vừa tạo ra trên 31 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 95%; khu vực doanh nghiệp quy mô nhỏ tạo ra gần 1 nghìn tỷ đồng (bình quân giai đoạn 2011 - 2015 khu vực này mỗi năm lỗ 3,95 nghìn tỷ đồng).
Đối với các doanh nghiệp có kết quả sản xuất - kinh doanh thì nguồn vốn của các DNNVV này cũng không ngừng tăng lên. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và ước tính của tác giả, nguồn vốn của DNNVV bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng khoảng 80%, trong đó doanh nghiệp vừa tăng khoảng 87%, doanh nghiệp nhỏ tăng khoảng 50%, doanh nghiệp siêu nhỏ tăng mạnh nhất khoảng 110%. Điều này cho thấy các DNNVV ngày càng tăng cường quy mô nguồn vốn kinh doanh, nhất là doanh nghiệp siêu nhỏ, giúp DNNV tăng khả năng mở rộng sản xuất - kinh doanh.
3.3.1.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
a. Chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV
- Chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
98
Một là, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được ban hành đã tạo động lực cho doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường và NHNN (2019), năm 2018 có 2,2 nghìn doanh nghiệp đầu tư mới vào nông nghiệp, nông thôn, nâng tổng số doanh nghiệp đầu tư vào vào nông nghiệp, nông thôn là 9.235 doanh nghiệp và đến cuối năm 2020 đạt trên 12 nghìn doanh nghiệp… Đây là con số đáng ghi nhận bước đầu bởi đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn luôn tiềm ẩn rủi ro, thách thức và lợi nhuận không cao so với các ngành khác.
Hai là, việc doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn đã giúp chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo ra một số phương thức sản xuất mới, có hiệu quả cao; giúp DNNVV được hưởng nhiều chính sách khuyến khích tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng, giúp tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao; tạo ra việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu nông nghiệp Việt Nam theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Ba là, việc trợ giúp các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, giúp DNNVV tiếp cận được nguồn vốn, ngân sách địa phương sẽ hỗ trợ lãi suất vay thương mại sau khi dự án hoàn thành với mức hỗ trợ bằng chênh lệch lãi suất vay thương mại so lãi suất tín dụng nhà nước ưu đãi đầu tư tính trên số dư nợ thực tế tại thời điểm xem xét hồ sơ hỗ trợ.
Bốn là, chính sách cho vay giảm tổn thất nông nghiệp cũng thúc đẩy DNNVV tăng cường liên kết sản xuất nông nghiệp với nông dân sản xuất trên cánh đồng lớn; thúc đẩy các doanh nghiệp cơ khí chế tạo máy nông nghiệp trong nước đầu tư chiều sâu, giúp cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng máy móc thiết bị sản xuất có hiệu quả.
- Chính sách hỗ trợ tài chính để đào tạo nguồn nhân lực của DNNVV
Thứ nhất, với sự ra đời của Thông tư số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC, các đơn vị tổ chức đã chuyển dịch dần từ các khóa đào tạo mang tính phổ cập sang bước đầu triển khai các khóa chuyên sâu cho các đối tượng đào tạo nhằm góp phần hình thành hoặc thúc đẩy các cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, CNHT trong các lĩnh vực ưu tiên đào tạo.
Thứ hai, việc quy định nhiều nguồn vốn hỗ trợ trong công tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, DNNVV đóng góp một phần kinh phí, đã giúp DNNVV chủ động hơn trong công tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt, quy định hỗ trợ đào tạo theo Thông tư số 32/2018/TT-BLĐTBXH đã tạo căn cứ quan trọng cho các địa phương có căn cứ để hỗ trợ cho các DNNVV đào tạo nghề cho lao động, góp phần phát triển kỹ năng nghề, nâng cao đời sống cho người lao động, nhờ đó mà nâng cao giá trị kinh tế của địa phương và vùng, miền trong cả nước.
99
Thứ ba, Quỹ quốc gia về việc làm đã có cơ hội tiếp cận các nguồn tín dụng ưu đãi để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh của
DNNVV. Quỹ đã giúp tạo ra việc làm cho 552 nghìn lao động nữ, 40 nghìn lao động là người khuyết tật và 77 nghìn lao động là người dân tộc thiểu số).
- Chính sách hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu và xúc tiến thương mại của
DNNVV
Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã hỗ trợ tích cực doanh nghiệp phát triển thị trường nội địa, tiếp cận người tiêu dùng trong nước, quảng bá tới người dân những sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng, phong phú, giá cả hợp lý. Đặc biệt, doanh nghiệp có điều kiện tạo lập kênh phân phối, hệ thống bán lẻ ở vùng phương còn khó khăn, góp phần tích cực giúp các doanh nghiệp nông thôn, miền núi, biên giới, các địa thuộc mọi thành phần kinh tế, các hợp tác xã tiếp cận người tiêu dùng trong nước. Theo Ban Chỉ đạo cuộc vận động, các đợt bán hàng Việt về nông thôn tăng lên cả về số lượng và quy mô theo từng địa bàn. Điều này cho thấy sự chủ động, tích cực, sáng tạo của các tổ chức, doanh nghiệp tham gia chương trình. [80].
Hoạt động xúc tiến thương mại đã góp phần tạo nên sự thành công của xuất khẩu trong thời gian qua với việc xuất khẩu của Việt Nam mở rộng sang nhiều thị trường đạt mức tăng trưởng cao, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam đã ký kết FTA.
- Chính sách hỗ trợ tài chính đất đai đối với DNNVV
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Việc quy định miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước tại Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Điều 13, Nghị định 13/2019/NĐ- CP làm căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT
Triển khai thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2014/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014). Theo đó, mức tỷ lệ % giá đất tính thu tiền thuê đất theo mức chung đã giảm từ 1,5% (theo quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (theo quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP), góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ DNNVV CNHT.
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
100
Các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi đầu tư tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP được Nhà nước ưu đãi và hỗ trợ thông qua miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn,
giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ tập trung đất đai; doanh nghiệp có dự án nông nghiệp (đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư) được Nhà nước giao đất hoặc được chuyển mục đích đất để làm nhà ở cho người lao động theo Điều 55, Luật Đất đai năm 2013 được miễn tiền chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất được chuyển mục đích để xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại dự án; được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đó sau khi được chuyển đổi, theo đó đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tích tụ được đất đai, tích cực đầu tư dự án nông nghiệp, nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp đầu tư và người nông dân. Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng 2,78 lần, từ 12,8 triệu đồng (năm 2010) lên 35,88 triệu đồng/người (năm 2018).
+ Đối với DNNVV bị ảnh hưởng do dịch Covid-19
Việc gia hạn tiền thuê đất cho các DNNVV theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đạt khoảng 75% số NSNN ước giảm khi ban hành chính sách đã góp phần tạo thêm nguồn thu cho DNNVV, điều này cũng đồng nghĩa với việc NSNN cho vay với lãi suất 0%, giúp các DNNVV không phát sinh lãi, tức DNNVV có thêm dòng tiền để ổn định sản xuất - kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp.
b. Hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV
- Hỗ trợ thông qua Quỹ phát triển DNNVV
Nhờ dòng vốn giải ngân từ Quỹ với lãi suất thấp (mức 2,16%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 4%/năm đối với cho vay trung, dài hạn), nhiều dự án, phương án sản xuất - kinh doanh của DNNVV được cấp vốn, góp phần không nhỏ cho việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng
Với việc ban hành các quy định pháp lý về bảo lãnh tín dụng đã giúp cho hoạt động bảo lãnh tín dụng của các ngân hàng có căn cứ để thực hiện bảo lãnh cho DNNVV về vốn tín dụng, đồng thời DNNVV có cơ sở để làm hồ sơ xin cấp vốn được thuận lợi.
Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ra đời đã bỏ điều kiện về tài sản thế chấp và tập trung vào phương án đầu tư, sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn vay dễ hơn trước. Đáng chú ý, DNNVV phá sản sẽ được Quỹ bảo lãnh tín dụng xem xét xóa nợ gốc theo quy định tại Thông tư số 57/2019/TT-BTC ngày 26/8/2019 về hướng dẫn 101
cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Việc quy định xóa nợ gốc trong những trường hợp rủi do khách quan đã và đang giúp cho DNNVV yên tâm đầu tư, đồng thời trợ giúp được DNNVV bị thiệt hại khi gặp phải rủi ro.
3.3.1.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Chính sách thuế TNDN đối với DNNVV
- Thuế TNDN phổ thông đối với DNNVV
Một là, chính sách thuế TNDN đã góp phần thực hiện các định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước. Thuế TNDN đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, tạo nguồn thu lớn, tập trung và ngày càng ổn định cho NSNN; góp phần xóa bỏ việc đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa các loại hình doanh nghiệp, nhờ đó góp phần kiến tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Hai là, việc giảm thuế suất thuế TNDN giúp cho DNNVV có thêm nguồn vốn để thực hiện đầu tư trở lại, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với các DNNVV, lực lượng quan trọng của nền kinh tế. [70].
Ba là, việc bổ sung nguyên tắc về thu thuế TNDN đối với trường hợp doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đã giúp khuyến khích hợp lý đầu tư ra nước ngoài chuyển và thu nhập về Việt Nam.
- Miễn, giảm, giãn thuế TNDN đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
Một là, kết quả thực hiện chính sách thuế TNDN đối với DNNVV cho thấy, các giải pháp hỗ trợ DNNVV miễn, giảm thuế 2011 - 2013 theo Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP và Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP, Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đã hỗ trợ cho DNNVV được hưởng ưu đãi tiết kiệm được chi phí sản xuất - kinh doanh, giúp quay vòng nhanh sản xuất - kinh doanh.
Hai là, việc bổ sung vào diện đối tượng được hưởng ưu đãi thuế TNDN ở mức cao nhất (thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo) đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT, đã giúp các DNNVV thuộc ngành CNHT có điều kiện phát triển, đảm bảo theo định hướng phát triển ngành CNHT.
102
Ba là, gia hạn nợ thuế, nộp thuế cho nhiều doanh nghiệp
Nghị quyết số 29/2012/QH13 đã giải quyết gia hạn nợ thuế cho khoảng 8.260 doanh nghiệp, với tổng số thuế được gia hạn là 347,5 tỷ đồng. Các giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp cho doanh nghiệp giúp tiết giảm chi phí, qua đó trực tiếp làm tăng tổng cầu ước khoảng 14 nghìn tỷ đồng, trong đó giải pháp miễn, giảm thuế TNDN, thuế khoán và thuế môn bài ước đưa vào tổng cầu khoảng 4.100 tỷ đồng; giải pháp giảm tiền thuê đất ước đưa vào tổng cầu khoảng 1.500 tỷ đồng (bao gồm 700 tỷ đồng giảm tiền thuê đất đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất năm 2012).
Đối với giải pháp gia hạn nộp thuế TNDN theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP cũng giúp cho DNNVV được sử dụng nguồn tiền tương ứng trong 5 tháng với lãi suất 0%; đồng thời giảm thuế TNDN 30% đối với DNNVV có doanh thu dưới 200 tỷ đồng/năm 2020 giúp cho DNNVV có thêm nguồn tài chính để phục hồi sản xuất - kinh doanh khi dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu.
b. Chính sách thuế GTGT
- Thuế GTGT phổ thông đối với DNNVV
Việc quy định thuế suất thuế ở 3 mức đã đảm bảo phù hợp với điều kiện Việt Nam, tạo thuận lợi cho DNNVV áp dụng cũng như tiệm cận dần với các mức thuế trong khu vực và thế giới. Theo Chính phủ đánh giá, Luật Thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành, hàng hóa, dịch vụ trong ngành nông nghiệp trước năm 2015 (Luật Thuế GTGT số 31/2013/QH13, Luật thuế số 71/2014/QH13…) chủ yếu thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất 5%. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2015, các sản phẩm hàng hóa phục vụ nông nghiệp (như máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp, phân bón, thức ăn chăn nuôi) đã được chuyển sang thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT đã góp phần quan trọng vào việc ưu đãi cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
103
Luật cũng quy định thời gian hoàn thuế sau ít nhất 12 tháng có số thuế chưa được khấu trừ hết và sửa mức thuế tối thiểu được hoàn đối với đầu tư và xuất khẩu là 300 triệu đồng (trước đây là 200 triệu đồng), góp phần khắc phục những bất cập hiện nay, giảm khó khăn cho quỹ hoàn thuế; góp phần phòng chống gian lận trong hoàn thuế, đồng thời có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất trong nước đẩy nhanh việc đưa dự án vào hoạt động và thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV.
- Miễn, giảm, giãn thuế GTGT đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
Thuế GTGT đã miễn cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2011 - 2013 là không lớn, nhưng đã góp phần chia sẻ khó khăn cho các doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là DNNVV; đồng thời giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp duy trì, ổn định hoạt động sản xuất - kinh doanh trong điều kiện kinh tế đang còn nhiều khó khăn, đồng thời khích lệ tinh thần và tạo niềm tin cho doanh nghiệp.
Gian hạn thuế GTGT trong giai đoạn Covid-19 theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đã và đang tạo hiệu ứng tích cực cho DNNVV ổn định và từng bước tăng cường sản xuất - kinh doanh trong năm 2020, tạo tiền đề phát triển cho các năm sau.
3.3.1.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng đóng góp cho NSNN
Việc thu tiền tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất đã giúp cho các doanh nghiệp, nhất là DNNVV có căn cứ để thực hiện thuê đất để triển khai các dự án sản xuất - kinh doanh, từ đó tạo nguồn thu cho doanh nghiệp và cho NSNN.
Thứ hai, giúp DNNVV giảm chi phí. Đơn giá thuê đất được điều chỉnh giảm (từ mức chung là 1,5% giá đất xuống còn 1%, tối đa là 3%), góp phần tạo điều kiện tiếp cận đất đai, tiết giảm chi phí cho các DNNVV, hỗ trợ hoạt động sản xuất - kinh doanh thương mại dịch vụ phát triển.
Thứ ba, hỗ trợ tiền thuê đất (tối đa là 5 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê mặt bằng) trong Luật Hỗ trợ DNNVV đã tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận được mặt bằng thuê phục vụ sản xuất - kinh doanh
104
Thứ tư, việc quy định thuế suất thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với đất ở áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần, trong đó đối với đất sản xuất - kinh doanh phi nông nghiệp là 0,03% tỷ lệ này là rất thấp, nếu so sánh số tiền phải nộp thì thấp hơn cả pháp lệnh về thuế nhà đất, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận mặt bằng sản xuất - kinh doanh.
Bảng 3.2. Số thu NSNN từ đất, 2011 - 2020
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm Tổng thu
Tổng các
Trong đó
nội địa
khoản
Thuế
Thuế
Thuế
Tiền
Tiền sử
Thuế
thu từ
đất
đất phi
thuê đất
dụng
chuyển
nhà
đất
nông
nông
đất
quyền
đất
nghiệp
nghiệp
sử
dụng
đất
11
2011
560.742
58.557
1.590
5.868
51.015
72
6
2012
625.462
54.182
69
1.023
169
7.770
45.145
6
2013
756.966
54.440
69
1.447
7.629
45.290
7
2014
733.291
55.146
61
1.463
9.437
44.178
4
2015
855.926
84.814
58
1.479
15.447
67.826
5
2016
919.124
115.815
60
1.418
23.352
90.981
5
2017
1.022.586
156.330
39
1.686
29.186 125.413
2018
1.150.704
182.121
28
1.874
32.374 147.845
2019
1.207.039
168.452
18
1.986
31.751 134.696
2020
1.261.662
210.000
37.300 172.700
Tổng 7.831.840 1.139.857
474
12.376
1.759 200.114 925.089
44
Nguồn: Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
3.3.2.1. Chính sách huy động, ph n phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Chính sách huy động về tài chính - tín dụng đối với DNNVV
- Huy động vốn tín dụng thông thường thông qua TCTD
Thứ nhất, TCTD chưa đáp ứng nhu cầu vốn cho DNNVV
Mặc dù giai đoạn 2011 - 2020, tín dụng cho vay đối với DNVV tăng
trưởng trung bình 11,44%/năm, song mức tăng này được đánh giá là thấp so
với mức tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân chung cả nước cho thấy,
DNNVV là đối tượng nhận được ít khoản vay hơn các đối tượng khác từ các
TCTD, dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho sản xuất - kinh doanh. Khảo sát của
tác giả cho thấy, có 56,5% DNNVV được khảo sát phản ánh gặp khó khăn
105
trong việc tiếp cận nguồn vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng DNNVV hạn chế trong việc tiếp cận
vốn tín dụng của ngân hàng là do: thủ tục cho vay phức tạp (theo khảo sát của
tác giả, có 58% tổng số DNNVV được khảo sát khẳng định điều này), năng
lực tài chính của DNNVV hạn chế (71%), DNNVV không có tài sản đảm bảo
(66,5%) để đảm bảo điều kiện vay… Không những thế, trong khoản 1, Điều
13, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về lãi suất cho vay: “TCTD và
khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung - cầu vốn thị trường, nhu
cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp NHNN có
quy định về lãi suất cho vay tối đa tại khoản 2 Điều này”. Với quy định này,
cho doanh nghiệp rễ nhận phải lãi suất của ngân hàng ở mức cao vì tính thị
trường không được quy định rõ, chẳng hạn bình quân lãi suất huy động cho
vay của bao nhiêu tổ chức tín dụng được coi là thị trường, hay cung - cầu với
số lượng bao nhiêu khách hàng chào lãi suất hay ngân hàng đưa ra lãi suất cho
khách hàng vay được gọi là thị trường... Những nội dung này đều rất khó hiểu
và chỉ có ngân hàng mới hiểu được và định đoạt lãi suất cho vay được, dẫn
đến DNNVV bị rơi vào thế bị động trong việc xét hồ sơ vay vốn của các
TCTD.
Đáng chú ý, mặc dù Khoản 1, Điều 13, Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN đã quy định lãi suất theo cung - cầu thị trường, tuy nhiên Ngân hàng
Nhà nước lại quy định “TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay
ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay
tối đa do Thống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ…” (Khoản 2, Điều
13). Điều này phản ánh tính thị trường chịu sự chi phối của Nhà nước, cho
thấy sự bất cập của vấn đề.
Về điều kiện vay vốn, Khoản 1, Điều 7, Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN quy định “Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong khối DNNVV có doanh nghiệp tư
nhân lại không có tư cách pháp nhân, theo đó không thuộc đối tượng được
vay, làm cho doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong vấn đề vay vốn các tổ
chức tín dụng.
Bên cạnh điều kiện vay vốn quy định là pháp nhân, còn có các điều
kiện mà DNNVV vay vốn TCTD phải đáp ứng đó là DNNVV phải có: “Có 106
phương án sử dụng vốn khả thi; có khả năng tài chính để trả nợ…”. Các điều
kiện này cũng chưa được định lượng trong Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
thế nào là phương án sử dụng vốn khả thi, thế nào được gọi là người đi vay có
khả năng tài chính để trả nợ (có khả năng tài chính chiếm bao % của khoản nợ
gọi là có khả năng tài chính để trả nợ, tài chính này từ nguồn nào…), dẫn đến
DNNVV khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng vì rễ bị các TCTD loại bởi các tiêu
chí quy định trong văn bản còn rất chung chung.
Thứ tư, lãi suất cho vay còn cao so với các nước trong khu vực
Mặc dù NHNN đã giảm lãi suất cho vay trong giai đoạn từ năm 2011 -
2020, tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực như Thái Lan,
Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore thì lãi suất ho vay của Việt
Nam vẫn còn khá cao, ảnh hưởng đến chi phí vốn của doanh nghiệp, nhất là
DNNVV. Phản ánh của 50% tổng số doanh nghiệp khảo sát cho rằng, lãi suất
cho vay đối với DNNVV trong thời gian qua là cao.
Biểu đồ 3.3. Lãi suất cho vay của Việt Nam và một số quốc gia khác
trong khu vực
18 16 14 12 10 8 6 4 2 0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Malaysia
Philippines
Việt Nam
Thái lan
Singapore
Trung Quốc
Đơn vị tính: %
Nguồn: WB
Thứ năm, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng dẫn đến giảm hiệu quả trong
sản xuất - kinh doanh của DNNVV
107
Việc khó tiếp cận nguồn vốn dẫn đến DNNVV thường có quy mô nhỏ về vốn và gặp một số khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh như hạn chế về khả năng mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường; hạn chế khả năng tiếp cận thông tin; hạn chế về khả năng tiếp cận đất đai, các nguồn vốn. Những hạn dẫn tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh của DNNVV chưa cao, lợi nhuận thấp. Đáng chú ý, trong gần 10 năm, bình quân giai đoạn 2016 - 2018, doanh thu thuần, lợi nhuận bình quân trước thuế của DNNVV chỉ bằng 165,6% và 180,8% so với bình quân giai đoạn 2011 - 2015. (Phụ lục 2).
- Huy động vốn tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên + Tín dụng đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn
Theo quy định tại Điều 8, 10 và 11 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, việc xác định mức cho vay, lãi suất cho vay cho đến thời hạn vay đều dựa vào sự thỏa thuận giữa khách hàng và TCTD (trừ trường hợp được quy định tại khoản 2, Điều 10, Điều 14, Điều 15, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP). Về cơ bản, quy định này đúng với định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, phù hợp với nhu cầu thực tế đặt ra nhưng trên thực tế quy định phương thức về lãi suất thỏa thuận vẫn còn gặp một số khó khăn. Bởi vì theo quy định tại Điều 1, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của NHNN về hướng dẫn TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận, TCTD được thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận, nhưng NHNN lại chưa hướng dẫn về mức lãi suất thỏa thuận hợp lý [74], gây khó khăn cho việc DNNVV khi đi vay, đồng thời các TCTD vận dụng tùy tiện khi cho khách hàng vay.
Theo quy định tại Điều 14, Điều 15, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngân hàng sẽ xem xét và cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 70 - 80% giá trị của dự án, phương án sản xuất - kinh doanh. Nghĩa là các doanh nghiệp này khi vay vốn thì không cần phải có tài sản bảo đảm và mức vốn được vay sẽ căn cứ vào giá trị của dự án, phương án sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, lại chưa có căn cứ rõ ràng để xác định giá trị của dự án, phương án sản xuất - kinh doanh, dẫn đến các TCTD sẽ xác định các khoản vay này mang tính chủ quan.
108
+ Tín dụng đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ Mặc dù nhiều NHTM đã triển khai chương trình dành cho DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, nhưng cơ chế cho vay truyền thống buộc doanh nghiệp đi vay phải có tài sản vật chất hoặc dòng tiền ổn định; trong khi
DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thường không có tài sản thế chấp và hồ sơ tài chính yếu, nên rất khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng.
Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là nguồn lực chủ yếu trong thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng đối với hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng chính sách tín dụng của Quỹ lại chưa được triển khai trong thực tế. Trong khi chính sách hỗ trợ của Nhà nước chưa thực sự hấp dẫn, thủ tục xin xét duyệt hỗ trợ còn rườm rà, mất thời gian, dẫn đến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi và các nguồn hỗ trợ khác.
Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia trùng lặp với nhiệm vụ chi của NSNN đang thực hiện và Quỹ hoạt động như là một đơn vị sự nghiệp, 90% các hoạt động hỗ trợ, tài trợ của quỹ là không hoàn lại; nguồn vốn của Quỹ chủ yếu là nguồn NSNN. Còn với Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, đến nay quỹ chưa có khả năng tài chính độc lập, hằng năm vẫn sử dụng một phần kinh phí được NSNN cấp bổ sung vốn điều lệ để chi hoạt động thường xuyên. Thực tế về việc thành lập và sử dụng tiền từ Quỹ phát triển khoa học công nghệ còn có tâm lý “lo ngại”. Một số doanh nghiệp gặp khó khăn, khả năng tài chính chưa tốt nên chưa thành lập quỹ; doanh nghiệp chưa chủ động trích sử dụng quỹ, do chưa hiểu rõ thủ tục thanh quyết toán tài chính.
Khi doanh nghiệp trích lập quỹ, lẽ ra tiền đầu tư là của doanh nghiệp thì phải do doanh nghiệp quyết định việc sử dụng; thế nhưng, lúc sử dụng lại phải tuân theo những thủ tục kiểm soát chi chặt chẽ. Trong khi theo quy định, sau 5 năm, nếu không sử dụng hết 70% quỹ thì doanh nghiệp phải quay trở lại đóng thuế cho khoản kinh phí đã trích lập.
109
b. Chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng Như đã phân tích, mặc dù Việt Nam đã ban hành pháp luật để tạo hành lang cho DNNVV phân phối và sử dụng nguồn vốn, tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn của nhiều DNNVV vẫn chưa được hiệu quả. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV thông qua Hệ số suất sinh lời của tài sản (ROA), ROE, ROS cho thấy, trong giai đoạn 2010 - 2018, Hệ số suất sinh lời của tài sản (ROA) đạt khoảng 2,9 - 7,8% (tập trung vào giá trị bình quân khoảng 4 - 5%), tỷ lệ thuận với quy mô doanh nghiệp; nhưng đến năm 2018 giảm xuống còn 3,6%. Doanh nghiệp có quy mô càng lớn ROA thu được càng cao. Tuy nhiên, việc ROA giảm cũng cho thấy, đồng tài sản trong việc tạo ra các đồng lợi nhuận ròng đã bị giảm xuống, phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của DNNVV
ngày càng kém hiệu quả, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ (ROA khoảng 3,9 - 5,1% trong giai đoạn 2010 - 2018).
Về hệ số sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE), ROE của DNNVV trong giai đoạn 2010 - 2018 đạt khoảng 4,7 - 15%, thấp hơn doanh nghiệp lớn (12 - 14,6%), ROE có xu hướng tăng trong giai đoạn 2010 - 2011, giảm từ năm 2012 - 2018. Năm 2018, doanh nghiệp quy mô lớn ROE đạt cao nhất (13,1%); doanh nghiệp quy mô vừa đạt 3,4%; doanh nghiệp quy mô nhỏ chỉ đạt -0,8% và doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ đạt -2,0%, cho thấy khối doanh nghiệp vừa có khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu tốt doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, điều này cũng tương tự đối với cả giai đoạn 2010 - 2018.
Đối với hệ số sinh lợi trên doanh thu (ROS), giai đoạn 2010 - 2018, ROS của DNNVV tỷ lệ thuận với quy mô doanh nghiệp, đạt khoảng 3,7 - 12,2%, tuy nhiên, xu hướng này giảm dần theo các năm, đáng chú ý, năm 2018, doanh nghiệp quy mô lớn có ROS đạt 5,4%; doanh nghiệp quy mô vừa đạt 1,2%; doanh nghiệp quy nhỏ đạt -0,4% và doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ là -6,4%. Điều này cho thấy, một đồng doanh thu của DNNVV ngày càng tạo ra các đồng lợi nhuận theo hướng giảm dần, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn doanh thu kém hiệu quả.
Bảng 3.3. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu của DNNVV đang hoạt động có kết quả
sản xuất - kinh doanh
Đơn vị tính: Tỷ đồng, %
Bình quân Bình quân Loại hình doanh giai đoạn Năm 2017 Năm 2018 giai đoạn nghiệp 2011 - 2016 - 2018 2015
Doanh nghiệp siêu 50 49,6 56,9 54,2 nhỏ
39,6 37,6 Doanh nghiệp nhỏ 40,3 37,4
36,1 30,1 Doanh nghiệp vừa 31,1 31,1
27,2 24,6 Doanh nghiệp lớn 27,5 26,2
31,5 28,4 Cả nƣớc 32,4 30,5
110
Nguồn: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2016 - 2018,
nguồn vốn chủ sở hữu của các DNNVV để thực hiện hoạt động sản xuất -
kinh doanh đạt 30,5% tổng số vốn của DNNVV, thấp hơn nhiều so với giai
đoạn 2010 - 2015 (khoảng 39 - 40%), phản ánh năng lực tài chính của
DNNVV ngày càng giảm xuống, nghĩa là tình trạng “vốn mỏng” gia tăng;
theo đó DNNVV ngày càng dựa nhiều vào nguồn vốn bên ngoài, dẫn đến
DNNVV phải trả chi phí vốn ngày càng cao.
Trong giai đoạn 2016 - 2018, nguồn của DNNVV mặc dù tăng 1,771
lần so với giai đoạn 2011 - 2015, nhưng đáng chú ý là khối doanh nghiệp lớn
tăng mạnh nhất (1,7954 lần), trong khi doanh nghiệp nhỏ tăng thấp nhất
(1,487 lần), cho thấy khối doanh nghiệp lớn có ưu thế hơn về vốn so với các
khối doanh nghiệp còn lại của nền kinh tế. (Phụ lục 3)
Việc phân phối và sử dụng nguồn vốn chưa hiệu quả cũng được 66%
tổng số doanh nghiệp khảo sát đồng tình. Nguyên nhân của việc phân phối và
sử dụng nguồn vốn chưa hiệu quả của DNNVV là do chính sách của Nhà
nước thay đổi ảnh hưởng đến doanh nghiệp (60,5% DNNVV phản ánh), năng
lực kinh doanh của doanh nghiệp chưa hiệu quả (57,5%), doanh nghiệp chậm
thích ứng với môi trường kinh doanh, các yếu tố khác (28,5%).
3.3.2.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
a. Chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV
- Chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn
Thứ nhất, DNNVV đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thấp
Theo mục tiêu đặt ra đến năm 2030 là thu hút 80 - 100 nghìn doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp có hoạt động đầu tư vào nông nghiệp, trong đó
phấn đấu có khoảng 3 - 4 nghìn doanh nghiệp đầu tư với quy mô lớn, 6 - 8
nghìn doanh nghiệp đầu tư với quy mô vừa. Thế nhưng, số doanh nghiệp đầu
tư theo chuỗi mới đạt gần 5 nghìn, số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực
nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, trong đó
số doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản chiếm 1%, đây là con số quá nhỏ so với
mục tiêu đề ra [81]. Doanh nghiệp nông nghiệp nhỏ và vừa chưa thể đầu tư 111
lớn vào nông nghiệp do chưa tham gia được vào các chuỗi giá trị của những
tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Số liệu thống kê cho thấy, tham gia vào chuỗi
cung ứng khu vực và toàn cầu Việt Nam hiện mới có khoảng 21%, trong khi
Thái Lan là 36%, Malaysia là 45%.
Thứ hai, số lượng các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
và số lượng doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công
nhận còn hạn chế (hiện nay chỉ có 3 khu, 1 vùng và 32 doanh nghiệp). Thiếu
các tiêu chí xác định dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông
nghiệp sạch, gây khó khăn cho NHTM trong việc xác định đối tượng thụ
hưởng chính sách để cho vay. [68].
Thứ ba, DNNVV khó tích tụ ruộng đất để sản xuất
Nghị định số 57/2018/NĐ-CP chỉ đưa ra một số cơ chế hỗ trợ doanh
nghiệp trong tích tụ đất đai, song đối với DNNVV, khó khăn lớn nhất hiện
nay trong tích tụ ruộng đất là vấn đề cơ chế để tích tụ, chứ không phải tiền
thuê. Hiện nhiều nơi chỉ cho doanh nghiệp thuê đất 5 năm, tối đa 5 ha, trong
khi doanh nghiệp thường cần tới hàng chục ha, thời hạn lên tới 20 - 30 năm,
những vấn đề này thì Nghị định số 57/2018/NĐ-CP lại chưa gỡ bỏ được
vướng mắc về hạn điền.
Thứ tư, DNNVV khó tiếp cận nguồn vốn
Nhiều doanh nghiệp phản ánh chưa thể tiếp cận được với nguồn tín
dụng ưu đãi theo chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Nguyên nhân chính là do thủ tục phức tạp, điều kiện khó khăn, một số
quy định chưa phù hợp với thực tế, thậm chí NSNN, đặc biệt là ngân sách địa
phương không có khả năng bố trí nhiều để thực hiện những chính sách này.
[10]. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ
chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do phương án sản xuất - kinh doanh
thiếu khả thi, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn hạn chế, thông tin tài
chính thiếu minh bạch, thiếu tài sản đảm bảo. [68]
- Chính sách hỗ trợ tài chính để đào tạo nguồn nhân lực của DNNVV
Một là, phần lớn các DNNVV chưa tự bố trí kinh phí đào tạo nguồn
nhân lực. Ngân sách dành cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
cho DNNVV còn hạn hẹp, mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu đào tạo của các 112
DNNVV [89]. Nguyên nhân là do khó khăn trong thu học phí của sinh viên,
các doanh nghiệp nhỏ ở các địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và các địa
phương chưa bố trí hoặc bố trí hạn chế nguồn ngân sách địa phương cho công
tác đào tạo. Có 35/38 đơn vị báo cáo gặp khó khăn trong việc thu 50% học
phí từ học viên, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.
Thứ hai, chưa quy định tỷ lệ hỗ trợ từ NSNN để đào tạo cho DNNVV
Báo cáo của 33/33 địa phương gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư đều đánh
giá do khó khăn của ngân sách địa phương nên các địa phương chưa bố trí hoặc
bố trí rất hạn chế kinh phí cho công tác đào tạo cho DNNVV trên địa bàn.
Việc Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC ngày
13/8/2014 không quy định rõ về tỷ lệ các nguồn hỗ trợ đào tạo cho DNNVV
có thể ảnh hưởng đối với các chủ thể trong huy động các nguồn vốn, đồng
thời dẫn đến sự thiếu quyết liệt trong việc huy động nguồn để thực hiện đào
tạo cho lao động của DNNVV.
Thứ ba, nhiều chế tài chưa được cụ thể hóa là cho DNNVV khó thực
hiện. Chưa cụ thể hóa Điều 5, Luật Hỗ trợ DNNVV và Nghị định số
39/2018/NĐ-CP quy định các hoạt động về đào tạo trực tiếp tại DNNVV
trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, đào tạo trực tuyến, đào tạo trên phương tiện
thông tin đại chúng cho DNNVV, gây khó khăn cho DNNVV thực hiện.
Thứ tư, hoạt động cho vay đào tạo từ Quỹ quốc gia về việc làm còn hạn
chế. Hằng năm, NSNN bổ sung vốn cho Quỹ rất thấp, từ năm 2016 đến nay,
NSNN không cấp bổ sung vốn cho Quỹ, nguồn vốn của Quỹ chỉ được bổ
sung một phần từ tiền lãi cho vay (10% tiền lãi cho vay từ Quỹ quốc gia về
việc làm hằng năm) nên chưa đáp ứng được nhu cầu vốn tạo việc làm.
- Chính sách hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu, xúc tiến thương mại của
DNNVV
Các doanh nghiệp cho biết, hỗ trợ từ Chính phủ vẫn mang tầm vĩ mô, doanh nghiệp cần các giải pháp cụ thể, thiết thực, sát với thực tế. Đặc biệt, khi
thực hiện thương mại quốc tế, các doanh nghiệp cần đến những giải pháp
113
thanh toán toàn diện, dịch vụ ngoại hối hiệu quả, an toàn. [92]. Theo Cục Phát triển doanh nghiệp, các hoạt động hỗ trợ kết nối và tham gia vào các chuỗi giá trị cần được cải tiến để phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của doanh nghiệp
nông, lâm, thủy sản: Kết quả ở trên cho thấy còn một bộ phận lớn (92,5%) các doanh nghiệp chưa chú trọng vào hoạt động xúc tiến thương mại ngoài nước.
- Chính sách hỗ trợ tài chính đất đai đối với DNNVV
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Mặc dù Nghị định số 57/2018/NÐ-CP của Chính phủ, quy định nhiều
chính sách hỗ trợ về đất đai (miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền
thuê đất, thuê mặt nước; hỗ trợ tập trung đất đai), song theo phản ánh của các
tỉnh, DNNVV ít tiếp cận được những ưu đãi này, là do nguồn ngân sách trung
ương và địa phương hạn hẹp. Ngoài ra, các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp chưa thực sự hiểu các quy trình, thủ tục, nên còn lúng túng trong
việc chuẩn bị hồ sơ xin được hưởng hỗ trợ khi đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh đó, việc quy định về hạn điền trong các văn bản quy định về
luật đất đai đối với đất nông nghiệp là không quá 20 ha cũng gây cản trở
DNNVV tham gia đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để mở rộng quy mô sản
xuất theo các dự án cánh đồng lớn của các địa phương.
+ Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT
Các điều kiện ưu đãi đối với doanh nghiệp CNHT còn khá cao (như
chính sách ưu đãi thuế, đất đai bao giờ cũng muốn dành cho dự án lớn để tạo
tiếng vang cho địa phương), trong khi đa số doanh nghiệp CNHT là công ty
nhỏ, dẫn tới hệ lụy là doanh nghiệp nhỏ không tận dụng được chính sách.
Theo Hiệp hội CNHT, đến cuối năm 2018, trong số 25 doanh nghiệp nộp hồ
sơ xin hỗ trợ thì có 20 doanh nghiệp đủ điều kiện, trong số này chỉ có 4 công
ty trong nước, còn lại là doanh nghiệp FDI. Do đó, Nghị định số 111/2015/NĐ-CP cần được sửa đổi.
Trong khoản 7, Điều 10, Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định về thu
tiền sử dụng đất quy định “Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất mà được giảm tiền sử dụng đất thì có quyền và nghĩa vụ
trong phạm vi phần giá trị quyền sử dụng đất đã nộp tiền sử dụng đất theo quy
114
định của pháp luật về đất đai”, bên cạnh đó khoản 2, Điều 12, Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT được được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước [25]. Tiếp đến, Luật Hỗ trợ
DNNVV cũng quy định nguồn vốn hỗ trợ DNNVV gồm: “Nguồn vốn hỗ trợ
từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và các khoản
khác phải nộp NSNN theo quy định của pháp luật”. Tất cả các nội dung trên
vẫn chưa được cụ thể là hỗ trợ bao nhiêu và như thế nào, việc thiếu các cơ chế
này khiến doanh nghiệp CNHT khó khăn trong việc tiếp cận các hỗ trợ và ưu
đãi, tạo khó khăn trong việc thực hiện.
+ Đối với DNNVV bị ảnh hưởng do dịch Covid-19
Có thể thấy, tính đến ngày 22/9/2020, số tiền gia hạn tiền thuê đất là rất
nhỏ (3.393 tỷ đồng) so với tổng số DNNVV cả nước (năm 2020 có khoảng
541.753 DNNVV), bình quân một doanh nghiệp chỉ nhận được 6,2 triệu đồng
tiền gia hạn. Với giá trị gia hạn nhỏ như vậy, thì không có nhiều ý nghĩa nhiều
giúp ổn định và phục hồi sản xuất - kinh doanh.
b. Hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV
- Hỗ trợ thông qua Quỹ phát triển DNNVV
Đến tháng 12/2018, dư nợ ủy thác cho vay DNNVV chỉ đạt khoảng 90
tỷ đồng, số tiền cam kết ủy thác cho vay đạt khoảng 149,8 tỷ đồng. [66]. Tình
trạng chậm giải ngân của Quỹ là do nguyên nhân khách quan tới ngân hàng và
các quỹ hỗ trợ (nguồn tài chính của quỹ hạn chế), bản thân các doanh nghiệp
Việt Nam còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, hoạt động thiếu minh bạch.
Bên cạnh đó, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN yêu cầu doanh nghiệp
khi vay phải cung cấp báo cáo thuế hoặc báo cáo kiểm toán, trong khi các
DNNVV thường không cung cấp được hoặc báo cáo lỗ hoặc lãi rất ít. Điều
này cũng làm cho nhiều DNNVV gặp khó khăn khi tiếp cận vốn từ Quỹ. Theo
báo cáo từ Công ty Nghiên cứu thị trường InsightAsia, trong số các khó khăn lớn nhất của DNNVV ở Việt Nam, vốn được đặt lên cao nhất. Khảo của tác
giả cho thấy, 88% tổng số DNNVV khảo sát cho rằng, khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ phát triển DNNVV. Nguyên nhân chủ yếu là do
thủ tục cho vay phức tạp (64,5% tổng số DNNVV trả lời), năng lực tài chính
hạn chế của doanh nghiệp (74,5%) và lãi suất cho vay cao (10%).
- Hỗ trợ thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng
115
Thứ nhất, chưa huy động được các đối tượng ngoài nhà nước góp vốn vào Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đến cuối năm 2020, cả nước có gần 30 quỹ bảo
lãnh tín dụng được thành lập và đi vào hoạt động, với tổng vốn điều lệ trên
1.400 tỷ đồng, trong đó có gần 93% do ngân sách địa phương đóng góp, còn
lại là phần vốn rất nhỏ (7%) huy động từ khu vực tư nhân.
Thứ hai, hoạt động bảo lãnh vay vốn tiềm ẩn nguy cơ gây nợ xấu cho tổ
chức bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Phát
triển Việt Nam từ năm 2011 đến nay rất hạn chế, trong khi số bảo lãnh của
Ngân hàng Phát triển Việt Nam thường được DNNVV thanh toán rất chậm
cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam, tạo ra nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu bảo lãnh
cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam nói riêng và cho NSNN nói chung.
Thứ ba, Quỹ bảo lãnh tín dụng chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn bảo lãnh
cho DNNVV.
Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của DNNVV,
do hạn mức bảo lãnh tín dụng và các điều kiện bảo lãnh tương đối chặt chẽ
trong khi DNNVV có đặc điểm là quy mô nguồn vốn nhỏ, năng lực sản xuất -
kinh doanh, năng lực quản trị điều hành, quản trị tài chính còn hạn chế, không
có đủ tài sản thế chấp để đảm bảo nợ vay... Do đó, nhiều DNNVV không tiếp
cận được Quỹ bảo lãnh tín dụng do chưa đáp ứng đủ điều kiện để được bảo
lãnh theo quy định. Khảo sát thực tế cho thấy, 77,5% tổng số DNNVV khảo
sát cho rằng khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ, do thủ tục cho
vay phức tạp (69,5% tổng số doanh nghiệp khảo sát trả lời) và năng lực tài
chính hạn chế của doanh nghiệp (70%)
3.3.2.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Chính sách thuế TNDN đối với DNNVV
- Thuế TNDN phổ thông đối với DNNVV
Luật Hỗ trợ DNNVV có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã quy định ưu
đãi thuế cho các đối tượng DNNVV, nhưng mức thuế suất ưu đãi được quy
định trong các luật thuế cụ thể. Để các doanh nghiệp được hưởng thuế suất ưu
đãi nhưng phải chờ sửa các luật thuế theo đúng quy trình thì mới đảm bảo lộ
trình ưu đãi của Luật Hỗ trợ DNNVV, tuy nhiên việc sửa đồng bộ các luật về
116
thuế sau Luật số 71 năm 2015 chưa được thực hiện, dẫn đến ưu đãi vẫn nằm trên giấy mà chưa đi vào thực tế. Bên cạnh đó, theo khảo sát 200 DNNVV do
tác giả thực hiện cho thấy, 61,5% tổng số doanh nghiệp khảo sát cho rằng
thuế suất thuế TNDN vẫn cao, gây khó khăn cho DNNVV.
- Miễn, giảm, giãn thuế TNDN đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
+ Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ
Chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ ít
được triển khai trong thực tế. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ,
năm 2019, chính sách ưu đãi đã có, việc triển khai thực hiện còn nhiều vướng
mắc, bất cập. Nguyên nhân là do: (1) Các văn bản hướng dẫn thực hiện còn
thiếu thống nhất; (2) Thủ tục hành chính để hưởng chính sách ưu đãi thuế còn
rườm ra, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
+ Đối với lĩnh vực CNHT
Một là, theo Luật số 71 sửa đổi các luật về thuế, doanh nghiệp được
quyền lựa chọn hưởng ưu đãi về thuế TNDN theo quy định của pháp luật tại
thời điểm cấp phép (nếu có lợi hơn) hoặc theo quy định của pháp luật mới
được sửa đổi, bổ sung cho thời gian còn lại. Như vậy, theo nguyên tắc này thì
đối với các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được cấp phép trước ngày
01/01/2015 hiện đang hoạt động trước đây không thuộc diện được hưởng ưu
đãi thì sẽ có cơ hội được hưởng ưu đãi cho thời gian còn lại, kể từ ngày
01/01/2015. Tuy nhiên, Nghị định số 12/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật số 71
không quy định chuyển tiếp ưu đãi cho dự án đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh
vực không thuộc diện hưởng ưu đãi trước ngày 01/01/2015 nay đáp ứng điều
kiện ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi theo Luật số 71. Tiếp đó, Thông tư số
21/2016/TT-BTC quy định cụ thể ưu đãi thuế TNDN được áp dụng đối với
thu nhập từ thực hiện dự án sản xuất sản phẩm CNHT từ ngày 01/01/2015.
Quy định không rõ ràng này làm cho doanh nghiệp hiểu ưu đãi thuế TNDN
chỉ áp dụng đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT thực hiện từ ngày 01/01/2015.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng lúng túng khi áp dụng tiêu chí xác
định đối tượng hưởng ưu đãi quy định tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT và Thông tư số 55/2015/TT-BCT quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT. Theo đó, đối tượng hưởng ưu đãi là dự án sản xuất sản phẩm CNHT bao gồm 117
dự án đầu tư mới, dự án mở rộng và đổi mới công nghệ có ứng dụng thiết bị
công nghệ mới, quy trình sản xuất mới, với năng lực sản xuất tăng ít nhất
20%. Doanh nghiệp thực tế không biết sẽ sử dụng tiêu chí nào: Tăng tài sản
cố định, tăng công suất, tăng vốn đầu tư hay tăng doanh thu để xác định dự án
sản xuất sản phẩm CNHT của mình có thuộc đối tượng được áp dụng ưu đãi
theo diện tăng năng lực sản xuất 20% hay không.
Hai là, cơ chế hỗ trợ về thuế theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg là cơ
chế xin ưu đãi theo đề xuất của doanh nghiệp làm cho các doanh nghiệp
CNHT gặp không ít khó khăn trong xin ưu đãi. Ngay cả khi Nghị định số
111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 về phát triển CNHT được ban hành cùng
với Thông tư số 21/2016/TT- BTC hướng dẫn về khai thuế GTGT và ưu đãi
thuế TNDN theo quy định tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015
của Chính phủ về phát triển CNHT nhưng vẫn “vướng”cơ chế xác nhận ưu
đãi được quy định tại Thông tư số 55/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định
trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất
sản phẩm CNHT thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển.
Ba là, việc gia hạn thuế TNDN theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đối
với DNNVV bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 không lớn (30.563 tỷ đồng)/tổng
số doanh nghiệp bị ảnh hưởng theo thống kê cuối năm 2020 (hơn 700 nghìn
doanh nghiệp), dẫn đến hiệu quả hỗ trợ còn chưa cao. Bên cạnh đó, với chính
sách miễn 30% thuế TNDN đối với doanh nghiệp có doanh thu trong năm
2020 dưới 200 tỷ đồng thì doanh nghiệp chỉ có thể dùng nguồn tiền miễn
giảm này ở năm 2021, mà không thể sử dụng được ngay tức thì vì phải chờ
đến kỳ quyết toán năm 2020.
Đáng chú ý, về tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế TNDN, có 49% tổng
số doanh nghiệp khảo sát cho rằng khó khăn trong việc tiếp cận chính sách hỗ
trợ. Điều này cho thấy triển khai chính sách vẫn còn những khó khăn nhất
định. Theo phản ánh của các doanh nghiệp khảo sát, nguyên nhân của việc
khó tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế TNDN của Nhà nước là do thủ tục phức tạp (66% DNNVV phản ánh); thiếu minh bạch, công khai về chính sách
(19%); chi phí tiếp cận chính sách cao (13%).
b. Chính sách thuế GTGT
118
- Thuế GTGT phổ thông đối với DNNVV
Trong quá trình thực hiện, Luật thuế GTGT hiện hành đã phát sinh
nhiều vướng mắc về đối tượng không chịu thuế GTGT (phân bón; máy móc,
thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ;
chuyển quyền sử dụng đất) gây khó khăn cho doanh nghiệp và công tác quản
lý thuế.
Đối với dự án đầu tư của doanh nghiệp vi phạm quy định của Luật
Doanh nghiệp: Theo khoản 5, 6 Điều 17 Luật Doanh nghiệp thì 2 hành vi sau
đây bị nghiêm cấm: (i) Không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; (ii) Kinh
doanh ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện
kinh doanh theo quy định của Luật Đầu tư hoặc không bảo đảm duy trì đủ
điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động. Trong khi Luật Thuế GTGT
lại không quy định không hoàn thuế GTGT đầu vào đối với 2 trường hợp dự
án đầu tư trong thời điểm doanh nghiệp vi phạm Luật Doanh nghiệp, điều này
là chưa thỏa đáng.
- Miễn, giảm, giãn thuế GTGT đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
Mặc dù các chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường nhằm hỗ trợ
sản xuất - kinh doanh như Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số
29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP và Nghị quyết số
02/2013/NQ-CP, Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đã hỗ trợ DNNVV vượt qua
khó khăn, tuy nhiên, DNNVV vẫn phải thực hiện nhiều nghĩa vụ thuế khi đến
hạn thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến tình trạng không đảm bảo dòng tiền để thanh
toán các nghĩa vụ thuế.
Số tiền gia hạn theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP đạt thấp, nguyên
nhân là do ngoài việc phát sinh thuế GTGT quý I, II/2020 ít. Bên cạnh đó, thủ tục rườm rà gây khó khăn cho việc tiếp cận. Theo kết quả khảo sát doanh
nghiệp về thực trạng nhận các gói hỗ trợ lần 1 do trường Đại học Kinh tế
Quốc dân công bố cho thấy, khoảng 80% doanh nghiệp được điều tra không
nhận được gói hỗ trợ lần 1 theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP. Nguyên nhân
là do doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện và/hoặc không có thông tin về
chính sách hỗ trợ.
Đáng chú ý, về tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế GTGT, có 52,5%
119
tổng số doanh nghiệp khảo sát cho rằng khó khăn trong việc tiếp cận chính
sách hỗ trợ. Điều này cho thấy triển khai chính sách vẫn còn những khó khăn
nhất định. Theo phản ánh của các doanh nghiệp khảo sát, nguyên nhân của
việc khó tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế GTGT của Nhà nước là do thủ tục
phức tạp (57,5% DNNVV phản ánh); thiếu minh bạch, công khai về chính
sách (15,5%); chi phí tiếp cận chính sách cao (8%); yếu tố khác (21,5%)
3.3.2.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, DNNVV khó khăn về mặt bằng sản xuất - kinh doanh.
Theo Cổng thông tin doanh nghiệp, vấn đề địa điểm kinh doanh luôn
được các DNNVV quan tâm. Có tới 55% số hộ kinh doanh cá thể vẫn phải sử
dụng nhà ở của mình làm địa điểm kinh doanh. Chỉ có 2% số hộ kinh doanh
cá thể có địa điểm kinh doanh tại các trung tâm thương mại, siêu thị. Đối với
đối tượng doanh nghiệp, tỷ lệ sử dụng nhà làm địa điểm kinh doanh cũng lên
tới 33%. Chỉ có 0,8% số doanh nghiệp có địa điểm kinh doanh tại khu công
nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp. Việc tiếp cận đất với giá cả minh
bạch, thủ tục đơn giảm là tương đối khó khăn.
Khảo sát của tác giả thực hiện cũng cho thấy, 75,5% tổng số doanh
nghiệp khảo sát cho rằng khó khăn trong việc tiếp cận chính sách đất đai của
Nhà nước, là do thủ tục phức tạp (71,5% DNNVV phản ánh); thiếu minh
bạch, công khai về chính sách (54%); Chi phí tiếp cận cao (67%) và các yếu
tố khác (22,5%).
Thứ hai, quỹ đất dành cho doanh nghiệp hạn chế.
Theo nhiều cuộc thăm dò doanh nghiệp trong nước, sự khan hiếm đất
dành cho kinh doanh cũng như tác động của sự thiếu hụt này lên giá cả được
coi là hai cản trở đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp mong muốn được giao đất hoặc thuê đất từ Nhà nước (thông qua chính
quyền các tỉnh) để đảm bảo mảnh đất mình được sử dụng đã “nằm trong quy
hoạch”, không bị đòi lại trước thời hạn và có thể yên tâm đầu tư xây dựng nhà
xưởng. Tuy nhiên vì nhiều lí do khác nhau, quỹ đất công rất hạn chế và kênh
giao đất hay thuê đất trực tiếp từ chính quyền tỉnh hầu như chỉ dành cho các
doanh nghiệp quy mô lớn còn các DNNVV rất khó tiếp cận.
Thứ ba, DNNVV thiếu thông tin tiếp cận quỹ đất để phục vụ sản xuất -
120
kinh doanh.
Thông tin về thị trường đất chưa hiệu quả. Chỉ số minh bạch của thị
trường bất động sản toàn cầu, do tập đoàn Jones Lang LaSalle thực hiện, xếp
Việt Nam là 1 trong 3 nước (Việt Nam, Venezuela và Ai Cập) đứng cuối danh
sách do thiếu minh bạch về thông tin thị trường cũng như bảo hộ các quyền
liên quan đến bất động sản. Theo khảo sát của tác giả, có 54% doanh nghiệp
phản ánh việc công khai thông tin về đất đai còn thiếu thiếu minh bạch, gây
khó khăn cho việc tiếp cận đất đai đối với DNNVV.
Khoản 1, 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 quy định về các trường
hợp giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá hoặc không đấu giá
quyền sử dụng đất mà không quy định giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự
án đầu tư có sử dụng đất thông qua lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đấu thầu.
Thứ tư, DNNVV còn khó tích tụ và tập trung đất đai phục vụ sản xuất.
Quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp diễn ra còn chậm, chưa
theo kịp nhu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp nói chung, cho phát triển nông
nghiệp hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn nói riêng; đất đai manh mún đang là yếu tố cản trở người dân và
doanh nghiệp đầu tư dài hạn vào nông nghiệp. Nguyên nhân là do tại Khoản
2, Điều 129, Luật Đất đai 2013 quy định: “Hạn mức giao đất trồng cây lâu
năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 10 héc-ta đối với xã, phường, thị
trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở trung du,
miền núi”. Quy định này chưa phù hợp với triển khai cánh đồng mẫu lớn.
Bên cạnh đó, Điều 32 Luật Đầu tư quy định: Đối với dự án được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu hoặc nhận
chuyển nhượng, dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất thì thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh (không quy định dự
án của tổ chức, hay hộ gia đình, cá nhân). Quy định này chưa khả thi, vướng
mắc trong thực tiễn triển khai.
Thứ năm, quy định doanh nghiệp thuê đất trả tiền thuê đất 1 lần tạo ra
khó khăn cho doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, đất là tài sản quan trọng nhất để góp vốn liên doanh liên kết hoặc thế chấp vay vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh. Hiện nay nhà đầu tư trong nước còn gặp một số bất lợi khi thuê đất từ Nhà nước. Nhà đầu 121
tư trong nước ít khi được thuê đất của Nhà nước trả tiền trước một lần mà nếu
được không phải DNNVV nào cũng đủ khả năng trả hết một lần. Trong khi
đó nếu họ thuê đất trả tiền hằng năm thì họ không có quyền gì đối với đất
(ngoại trừ mục đích đã được xác định cho thời gian thuê), nhất là không có
quyền bán hay dùng đất để thế chấp, trừ quyền được thế chấp các tài sản trên
đất. Quy định này tạo nên một sự thiếu rõ ràng đối với quyền của chủ đất và
chủ nợ - ngân hàng, và do đó hạn chế khả năng doanh nghiệp tư nhân trong
nước sử dụng đất đi thuê để được thế chấp vay vốn.
Thứ sáu, thủ tục hành chính liên quan đến đất còn phức tạp.
Một khảo sát doanh nghiệp của GTZ khẳng định, quá trình tìm mặt
bằng sản xuất rất phức tạp nhất và tốn kém. Thông thường để được Nhà nước
giao đất, doanh nghiệp phải trải qua 7 thủ tục với thời gian trung bình mất
khoảng 230 ngày và qua rất nhiều cơ quan liên quan. Các DNNVV trong khảo
sát của IFC/FIAS cũng khẳng định trong khi có được đất trên thị trường thứ
cấp chỉ mất chưa đến 7 ngày thì thủ tục đăng ký giao dịch và xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất rất phức tạp và tốn nhiều thời gian. Gần đây
các trung tâm đăng ký đất được thành lập ở hầu hết các tỉnh thành đã góp
phần giảm bớt thủ tục rườm rà nhưng vẫn chưa rút ngắn đáng kể thời gian cấp
chứng nhận quyền sử dụng đất và các giao dịch liên quan đến đất. Mức độ
không hài lòng của doanh nghiệp trong khảo sát IFC/FIAS đối với riêng quá
trình cấp chứng nhận quyền sử dụng cũng khá cao, trong đó phần lớn doanh
nghiệp phàn nàn về thời gian xử lý của cơ quan chính quyền là quá dài.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, thuế đối với đất sản xuất - kinh doanh
phi nông nghiệp hiện ở mức 0,03% là thấp, tạo ra nguy cơ sử dụng mặt bằng
sẽ lãng phí đối với DNNVV. Đặc biệt, các mức thuế suất 0,07% và 0,15%
tương ứng với diện tích đất vượt từ trên 1 - 3 lần và trên 3 lần hạn mức sử
dụng đất ở là thấp, chủ sử dụng đất không bị tác động nhiều từ thuế, đất
không được sử dụng hết hiệu suất cho sản xuất - kinh doanh, mà còn bị bỏ
122
trống, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất đai của cả nước.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trong Chương 3 của Luận án, tác giả đã đi vào nghiên cứu thực trạng
chính sách tài chính - tín dụng đối với DNNVV Việt Nam. Nghiên cứu đã tập
trung vào thực trạng, kết quả thực hiện và nguyên nhân chính sách huy động,
phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng đối với DNNVV tại
Việt Nam: Huy động vốn về tín dụng (Huy động thông qua Quỹ BLTD, huy
động thông qua hỗ trợ lĩnh vực ưu tiên); phân phối và sử dụng nguồn lực tài
chính - tín dụng. Bên cạnh đó, Chương 3 cũng phân tích thực trạng của chính
sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV, tập trung vào chính sách hỗ trợ tài
chính, hỗ trợ tín dụng (thông qua Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ BLTD). Đặc
biệt, việc phân tích thực trạng và chỉ ra kết quả đạt được, cũng như hạn chế và
nguyên nhân của chính sách thuế GTGT, TNDN; chính sách đất đai đối với
DNNVV tại Việt Nam trong thời gian qua.
Việc nghiên cứu ở Chương 3 đã giúp nhận diện được toàn bộ thành
công, hạn chế và nguyên nhân, từ đó làm cơ sở cho tác giả hoàn thiện chính
123
sách tài chính - tín dụng đối với DNNVV Việt Nam trong thời gian tới.
Chƣơng 4.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh tình hình kinh tế trong và ngoài nƣớc trong thời gian
tới tác động đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa
4.1.1. Bối cảnh trong nước
- Chính phủ đã và đang đẩy mạnh triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy
mạnh công tác cải cách hành chính tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng
phục vụ của Chính phủ, chính quyền các cấp đối với người dân và doanh
nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho mọi
thành phần kinh tế, xóa bỏ mọi rào cản, đảm bảo quyền tự do bình đẳng kinh
doanh của cá nhân và doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết
số 19/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia.
- Việc cải thiện môi trường kinh doanh vẫn chưa được thực hiện đồng
bộ, còn khoảng cách giữa các bộ, ngành, lĩnh vực. Tư duy trong cắt giảm thủ
tục hành chính, điều kiện kinh doanh được đánh giá là chưa thống nhất, không
đồng đều giữa nhiều bộ, ngành, địa phương, dẫn đến tỷ lệ cắt giảm khá cao
nhưng chỉ tập trung vào một số ngành.
- Các chính sách hỗ trợ DNNVV cũng đang được đẩy mạnh thực hiện ở
khắp cửa nước. Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thông tin, phát triển nguồn nhân lực,
tư vấn, công nghệ... nhằm tạo bước tiến quan trọng trong công tác hoàn thiện
chính sách hỗ trợ tích cực cho DNNVV phát triển mạnh mẽ hơn.
- Doanh nghiệp nông nghiệp được xác định có vai trò là “trụ cột” trong
việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp nước ta theo hướng sản xuất
hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
- Hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam hiện còn chậm phát triển so
124
với các nước, trong khi rủi ro về nợ xấu và thanh khoản vẫn tiềm ẩn trong hệ
thống NHTM. Điều này tạo nên những hạn chế về giải ngân nguồn vốn cho
vay đối với DNNVV, nhất là những DNNVV có tiềm lực thấp.
- Chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao
động từ lĩnh vực nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
- Việt Nam cũng chú trọng việc tăng năng suất lao động cả nước, trong
đó có khu vực DNNVV. Tuy nhiên, năng suất lao động của Việt Nam hiện
nay vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và khoảng cách chênh
lệch này vẫn tiếp tục gia tăng. Số lượng lao động vẫn gia tăng nhưng mức độ
đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế lại có xu hướng giảm dần. Đây
là điểm bất hợp lý đối với một nước có nhiều tiềm năng về lao động như Việt
Nam.
- Các chính sách hỗ trợ chưa phát huy được hiệu quả đối với khu vực
KTTN, đặc biệt là khu vực DNNVVDNNVV đang trong bối cảnh thiếu khả
năng quản lý; khó tiếp cận tài chính, tiếp cận về thị trường, về đổi mới công
nghệ và nguồn nhân lực.
- Các quy định về pháp lý liên quan đến DNNVV không chỉ hỗ trợ
DNNVV mà còn tạo ra nhiều khó khăn và gánh nặng cho các DNNVV trong
việc huy động các nguồn lực tài chính, tín dụng để phục vụ snar xuất - kinh
doanh.
- Khi mở cửa thị trường và tham gia các Hiệp định thương mại tự do,
các DNNVV còn phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh
nghiệp mạnh và tinh nhuệ trên thế giới. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại cả cơ hội và thách thức cho các DNNVV. Hội nhập quốc tế giúp
cánh cửa thị trường rộng mở cũng đồng nghĩa với tính cạnh tranh càng gay
gắt hơn, điều này sẽ tới những khó khăn cho DNNVV, nhất là các DNNVV
chưa có điều kiện chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập.
- Kinh tế số mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
125
DNNVV, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Nó tạo nhiều cơ hội tham
gia vào chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu, đồng thời đem lại sự phát triển
bình đẳng, bền vững cho các DNNVV. Tuy nhiên, các DNNVV lại đang rất
chậm tham gia đổi mới trong sản xuất - kinh doanh, vì vậy DNNVV sẽ khó
nắm bắt được cơ hội nếu không có những bước đi thích hợp về đổi với kỹ
năng, công nghệ.
- Khối doanh nghiệp FDI có nhiều ưu đãi nhưng lại đóng góp khiêm
tốn cho NSNN. Cơ chế giám sát đối với dòng vốn FDI chưa thật sự hiệu quả.
DNNN sở hữu nhiều tài sản của Nhà nước nhưng chưa thể hiện tốt vai trò chủ
đạo dẫn dắt các thành phần kinh tế phát triển. DNNVV chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm phần lớn, trong khi doanh nghiệp vừa cần phải
tăng mạnh về số lượng, song thực tế số lượng còn hạn chế.
- Trong thời gian tới, khu vực DNNVV được dự báo tiếp tục phát triển
mạnh mẽ, tiếp tục xuất hiện các doanh nghiệp vừa, từng bước phát triển và
tạo lập năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp toàn cầu. Số lượng các
doanh nghiệp tiếp tục tăng mạnh, theo đó quy mô trung bình của các doanh
nghiệp đăng ký cũng sẽ tăng lên. Năng lực cạnh tranh tổng thể của DNNVV
còn hạn chế, tuy nhiên với những lợi thế riêng của mình, khu vực này sẽ là
động lực tạo sự năng động cho nền kinh tế.
- Các doanh nghiệp trong nước đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề do
dịch Covid-19, làm cho quy mô sản xuất - kinh doanh bị thu hẹp. Trong khi
đó, các doanh nghiệp đang phải đưa ra các mô hình kinh doanh mới trong bối
cảnh dịch bệnh.
4.1.2. Bối cảnh quốc tế
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển then chốt. Chúng ta có sự
đan xen lợi ích rộng lớn chưa từng có với các đối tác, 27 đối tác chiến lược và
toàn diện cùng 59 đối tác FTA. Đến cuối 2020, Việt Nam đã chính thức tham
gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA đã chính thức ký kết sắp
có hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 FTA. Việt Nam chủ trương hội nhập rất
126
sâu và hiện nay Việt Nam không chỉ ở tầm mức hội nhập mà ở tầm mức liên
kết với một vị thế mới, bắt kịp với xu thế mới. Cơ hội đón nhận các dòng vốn
nước ngoài khi đầu tư có xu hướng dịch chuyển sang các thị trường sinh lời
cao hơn, an toàn hơn trước bối cảnh kinh tế toàn cầu chậm lại, đang mở ra.
Việt Nam đang là điểm đến đầu tư hấp dẫn, môi trường đầu tư ngày càng
được cải thiện, cùng với việc tham gia của nhiều FTA lớn và xu hướng dịch
chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang.
Kinh tế toàn cầu cũng xuất hiện một số động lực tăng trưởng mới. Cuộc
cách mạng công nghệ 4.0 sẽ tạo ra khoảng 3,7 nghìn tỷ USD vào năm 2025
nhờ các công nghệ IoT, robot và in 3D giúp cải thiện năng suất. Sự phát triển
của chiến lược Made in China 2025 của Trung Quốc và xu hướng tăng cường
ký kết FTA tại các nền kinh tế đang phát triển cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thông qua việc tối ưu hóa nguồn lực, mở rộng lưu thông vốn và hàng hóa,
tăng cường vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ.
Tuy nhiên, căng thẳng thương mại và thuế quan leo thang (nhất là quan
hệ giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc) cùng với xung đột thương mại toàn cầu gia
cùng, đi cùng với đó là chủ nghĩa bảo hộ thương mại ngày càng phát triển,
thương mại quốc tế và các hoạt động sản xuất đang sụt giảm, trong khi căng
thẳng thương mại ngày càng leo thang có thể tác động xấu đến tăng trưởng
kinh tế thế giới và làm gián đoạn chuỗi giá trị liên kết toàn cầu. Đáng chú ý,
do hậu quả dai dẳng của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế toàn cầu, làm cho
tăng trưởng GDP toàn cầu có thể đối mặt với triển vọng ảm đạm trong năm
2020 - 2023, với đầu tư tư nhân và tăng năng suất thấp hơn.
Căng thẳng thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc sẽ là ẩn số lớn nhất đối
với ngoại thương của Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, còn Trung Quốc là thị
trường xuất khẩu lớn thứ ba. Nếu tình hình căng thẳng thương mại giữa hai
nước ngày càng leo thang có thể gây ra nhiều ảnh hưởng trực tiếp tới xuất
127
khẩu Việt Nam.
Thu hút vốn đầu tư từ các đối tác của Việt Nam vẫn trên đà tăng, song
có thể bị ảnh hưởng bởi căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ - Trung Quốc.
Bên cạnh đó, cũng đang đặt ra vấn đề sản xuất - kinh doanh của khối FDI phải
đảm bảo vệ được môi trường sinh thái, nên cũng đặt ra yêu cầu về xây dựng
và hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với khối doanh nghiệp FDI trong thời
gian tới nhằm bảo vệ môi trường.
Đáng chú ý, đại dịch Covid-19 bùng phát đầu tiên tại Vũ Hán, Trung
Quốc vào tháng 12/2019, sau đó đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều nước trên
thế giới với hàng trăm triệu người bị nhiễm, hàng triệu ca tử vong do vi-rút
corona (SARS-CoV-2). Không chỉ gia tăng nhanh, diễn biễn của dịch bệnh
cũng rất phức tạp. Đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đối với nhiều quốc
gia về mọi mặt, nhất là về kinh tế - xã hội, trong đó có sản xuất - kinh doanh
các các doanh nghiệp toàn cầu. Covid-19 đã phủ bóng đen lên kinh tế toàn
cầu với tác động còn lớn hơn so với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cách
đây một thập kỷ, thậm chí đây được xem là cuộc khủng hoảng lớn nhất sau 90
năm qua kể từ cuộc đại suy thoái kinh tế 1929 - 1933.
Trong năm 2020, các chỉ số thể hiện sức khỏe kinh tế tại nhiều nước
đều sụt giảm. Nhiều quốc gia có mức tăng trưởng âm kỷ lục, thậm chí xuống
thấp nhất trong hơn một thập kỷ qua do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn,
cầu tiêu dùng suy giảm; sản xuất, đầu tư giảm mạnh. Nhiều quốc gia chịu ảnh
hưởng nặng nề bởi dịch bệnh lan rộng dẫn đến suy thoái kinh tế và phải đối
mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công, khủng hoảng tài chính, gia tăng tỷ lệ
người mất việc làm, nguy cơ bất ổn xã hội. Dịch bệnh Covid-19 bùng phát và
tác động nghiêm trọng đến kinh tế thế giới, khiến cân đối ngân sách gặp khó
khăn do nguồn thu ngân sách suy giảm trong khi phải tăng chi ngân sách để
128
ứng phó dịch bệnh và kích thích kinh tế.
4.2. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách tài chính doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
4.2.1. Quan điểm
- Chính sách tài chính đối với DNNVV cần phải được ban hành đồng
bộ, sớm đi vào thực tế
Thời gian qua, tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình trợ giúp
DNNVV còn rất chậm. Thời gian để xây dựng các văn bản quy phạm hướng
dẫn thực hiện kéo dài 2 - 3 năm ví dụ như Chương trình đổi mới công nghệ
quốc gia đến 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương
trình phát triển sản phẩm quốc gia gắn với công nghệ tiên tiến..., Quỹ phát
triển DNNVV được thành lập sau hơn 3 năm xây dựng đề án, hiện nay
DNNVV vẫn chưa tiếp cận được vốn của Quỹ. Việc tổ chức thực hiện một số
chính sách ưu đãi, hỗ trợ còn gặp nhiều vướng mắc như chính sách ưu đãi
thuế cho DNNVV, chính sách hỗ trợ DNNVV trong CNHT.
- Chính sách tài chính đối với DNNVV cần tạo điều kiện tốt nhất cho
DNNVV phát triển sản xuất - kinh doanh
Nhiều DNNVV phản ánh rằng họ không biết hoặc không tiếp cận được
với chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Một số cho rằng các chính sách và
chương trình trợ giúp chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế của doanh nghiệp,
thủ tục tham gia phức tạp và không có hướng dẫn cụ thể.
Các chính sách cần hướng đến việc giảm thiểu các thủ tục hành chính,
tạo điều kiện cho DNNVV dễ tiếp cận và thực thi.
- Chú trọng đến việc huy động mọi nguồn lực trong xã hội, nhất là
nguồn lực ngoài ng n sách để phát triển sản xuất - kinh doanh
chưa dành nguồn lực tương ứng với nhu cầu thiết yếu để hỗ trợ
DNNVV, bao gồm cả nguồn lực từ Nhà nước và các nguồn lực huy động
khác trong nền kinh tế.
Sự quan tâm và đầu tư của các địa phương đối với công tác trợ giúp
129
phát triển DNNVV còn thấp trong khi nguồn ngân sách Trung ương hạn chế.
Hầu hết các địa phương chưa chủ động bố trí ngân sách để hỗ trợ cho
DNNVV, nếu có thì cũng rất hạn chế so với nhu cầu hỗ trợ cao từ phía cộng
đồng DNNVV (chỉ mới 19% được bố trí ngân sách riêng thực hiện công tác
hỗ trợ cho doanh nghiệp).
- Chính sách tài chính đối với DNNVV cần bám sát các thông lệ quốc
tế, đảm bảo với mặt bằng chung với các nước có điều kiện tương đồng với
Việt Nam
Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, chính sách tài
chính - tín dụng đối với DNNVV cần được xây dựng và hoàn thiện cần bám
sát các thông lệ, do đó việc nghiên cứu ban hành hoặc sửa đổi các chính sách
cần học tập kinh nghiệm các nước, nhất là các nước có trình độ tương đồng
với Việt Nam.
- Hạn chế lồng ghép chính sách xã hội vào chính sách tài chính đối với
DNNVV
Các chính sách trợ giúp DNNVV quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-
CP được lồng ghép vào các chương trình của ngành và lĩnh vực (một số chính
sách trợ giúp tuy được quy định trong Nghị định 56/2009/NĐ-CP nhưng chịu
sự điều chỉnh của các Luật chuyên ngành Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Các
TCTD, Luật Đấu thầu…). Bên cạnh đó, đối tượng hỗ trợ rộng theo Nghị định
56/2009/NĐ-CP, không dành riêng cho DNNVV, các nội dung chưa thực sự
phù hợp với đối tượng DNNVV, dẫn đến việc không thể đánh giá được kết
quả hỗ trợ cho DNNVV cũng như giảm cơ hội tham gia/hưởng lợi của các
DNNVV.
4.2.2. Mục tiêu
- Tạo một hành lang pháp lý quy định những biện pháp ưu đãi cho
DNNVV như ưu đãi về thuế suất thuế TNDN, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
130
thuê mặt nước, thuế xuất - nhập khẩu.
- Có cơ chế quy định và hướng dẫn về phân bổ nguồn lực hỗ trợ cho
DNNVV ở cấp trung ương và địa phương, đẩy mạnh cơ chế thu hút các nguồn
ngoài NSNN để hỗ trợ cho DNNVV.
- Cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính một cách đồng bộ cho
DNVVV.
- Tạo một hành lang pháp lý quy định những biện pháp ưu đãi cho
DNNVV như ưu đãi về thuế suất thuế TNDN, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
thuê mặt nước, thuế xuất - nhập khẩu.
- Có cơ chế quy định và hướng dẫn về phân bổ nguồn lực hỗ trợ cho
DNNVV ở cấp trung ương và địa phương, đẩy mạnh cơ chế thu hút các nguồn
ngoài NSNN để hỗ trợ cho DNNVV.
4.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam
4.3.1. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
4.3.1.1. Chính sách huy động về tài chính - tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
a. Huy động vốn tín dụng thông thường thông qua TCTD
Để giúp DNNVV tiếp cận được nguồn vốn từ các TCTD thì NHNN cần
quy định rõ ràng, cụ thể thế nào là lãi suất thị trường (cụ thể hóa Khoản 1,
Điều 13, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN), để các NHTM có thể vận dụng
chính xác hơn, tránh việc áp lãi suất không mang tính thị trường thành tính thị
trường trong việc cho vay đối với DNNVV, nhất là đối với doanh nghiệp siêu
nhỏ (loại hình doanh nghiệp yếu thế).
Do doanh nghiệp tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, khu
vực kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện vai trò là một động lực quan trọng của
nền kinh tế. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP, tổng vốn đầu
tư toàn xã hội ngày càng tăng lên, giai đoạn 2011 - 2020, tỷ trọng đóng góp
131
trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân trên 40%, cao hơn kinh tế nhà nước
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, Nhà nước cần sớm chỉnh sửa
khung chính sách (Bộ Luật Dân sự, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) để
doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng với đầy đủ tư
cách pháp nhân khi thực hiện các giao dịch dân sự, trong đó có giao dịch dân
sự trong việc vay vốn ngân hàng.
Bên cạnh đó, cần phải quy định cụ thể về điều kiện vay vốn của tổ
chức, theo đó cần cụ thể hóa nội dụng thế nào là “Có phương án sử dụng vốn
khả thi; có khả năng tài chính để trả nợ…” trong Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN. Bởi nếu không quy định cụ thể vấn đề này thì có thể dẫn đến sự tiếp
tay cho “sự vận dụng thiếu khách quan” khi thực hiện chính sách vay vốn đối
với DNNVV, làm cho DNNVV bị thiệt thòi trong việc tiếp cận vốn ngân
hàng, đặc biệt là đối với DNNVV có quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính yếu.
Về tài sản đảm bảo, đối với DNNVV không đảm bảo các tiêu chí về tài
sản đảm bảo trong việc vay vốn ngân hàng thì có thể tìm kiếm các kênh huy
động vốn khác như thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ phát triển
DNNVV… để gia tăng nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh.
Về lãi suất cho vay của Việt Nam vẫn còn khá cao so với các nước
trong khu vực, trong khi dư địa để giảm lãi suất vẫn còn, do đó cần thực hiện
lộ trình giảm lãi suất cho vay đối với DNNVV đảm bảo DNNVV tiết giảm
thêm chi phí vay vốn, đồng thời đảm bảo mức ngang bằng với chi phí vay vốn
để thu hút đầu tư.
b. Huy động vốn tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên
Để tạo điều kiện cho DNNVV thỏa thuận được với TCTD khi đi vay
vốn theo Điều 8, Điều 10, Điều 11 của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, thì cần hướng dẫn
cụ thể về mức lãi suất thỏa thuận hợp lý tại Điều 1, Thông tư số 12/2010/TT-
NHNN ngày 14/4/2010 của NHNN về hướng dẫn TCTD cho vay bằng đồng
Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Việc quy định lãi suất
132
thỏa thuận hợp lý có thể căn cứ vào khung “trần” và “sàn”, trong đó nên quy
định khoảng cách “trần” và “sàn” của khung lãi suất theo hướng thu hẹp, đảm
bảo quyền lợi cao nhất cho DNNVV khi thỏa thuận lãi suất khi đi vay theo
Nghị định số 55/2015/NĐ-CP.
Đồng thời, phải quy định các tiêu chí để xác định giá trị của dự án,
phương án sản xuất - kinh doanh để TCTD có căn cứ duyệt vay cho doanh
nghiệp trong trường hợp không có tài sản bảo đảm (tối đa bằng 70 - 80% giá
trị của dự án, phương án sản xuất - kinh doanh) theo Điều 14, Điều 15, Nghị
định số 55/2015/NĐ-CP.
Thực hiện việc rà soát các tiêu chí các dự án sản xuất ứng dụng công
nghệ cao để cấp giấy chứng nhận cho các doanh nghiệp đủ điều kiện, đồng
thời đẩy mạnh việc khuyến khích DNNVV nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao để được hưởng các ưu đãi của chính sách.
Chỉnh sửa lại quy định doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn chỉnh
được phép dùng hợp đồng thuê đất nông nghiệp (không cần sổ đỏ/sổ hồng) để
vay ngân hàng để giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV rễ huy động
được nguồn vốn. Bên cạnh đó, cần nới rộng quy định về hạn điền trong Luật
Đất đai 2013 để DNNVV có điều kiện tích tụ được ruộng đất để phục vụ sản
xuất nông nghiệp theo cánh đồng lớn.
Đối với loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp thường không có nhiều tài
sản đảm bảo khi đi vay vốn của các TCTD, Nhà nước cần quy định cơ chế
vay riêng cho các loại hình doanh nghiệp này như chấp nhận tài sản trong
hình thành, giảm điều kiện cho vay trong các quỹ bảo lãnh…, để doanh
nghiệp này được vay vốn khi khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày
09/6/2015 của Chính phủ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất trong thời gian
tới; xác định doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là đối
133
tượng khách hàng quan trọng trong chính sách tín dụng của các ngân hàng.
Thực tế các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ về quy mô, doanh số
và thị trường, cho nên thường không có đủ nguồn lực tài chính để đầu tư đổi
mới công nghệ. Do đó, tài trợ từ Nhà nước có vai trò quan trọng, vừa là cú
huých, vừa là điểm xuất phát cho quá trình đổi mới công nghệ để tăng năng
suất, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa của
doanh nghiệp, do đó việc tài trợ, hỗ trợ của các quỹ cho các DNNVV trong
việc phát triển sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ là cần thiết.
Trước mắt, cần rà soát, đánh giá lại những khó khăn trong việc giải ngân của
các quỹ (Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học công nghệ
quốc gia) để tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận vốn của DNNVV. Bên cạnh
đó, cần có chế tài quy định các Quỹ phải cung cấp thông tin định kỳ cho các
doanh nghiệp để các doanh nghiệp này rễ tiếp cận thông tin về điều kiện cho vay.
4.3.1.2. Chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng
Do việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng của các
DNNVV trong thời gian qua (2010 - 2017) có sự chênh lệch lớn, do đó Nhà
nước và doanh nghiệp cần có cơ chế phối hợp để tăng cường đào tạo về quản
trị, nhất là quản trị tài chính, quản trị chiến lược quản trị sự thay đổi…để các
chủ doanh nghiệp được trang bị thêm kiến thức, giúp nâng cao khả năng điều
hành kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận cho DNNVV.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần quy định đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ
năng cho đội ngũ quản trị doanh nghiệp vì trong nhiều trường hợp các doanh
nghiệp lo ngại tốn chi phí nên không tự đào tạo kỹ năng, dẫn đến việc nhận
diện sự thay đổi của môi trường còn chậm, thiếu kỹ năng đối phó khi khó
khăn xảy ra. Nên quy định chủ doanh nghiệp cần thực hiện đào tạo kiến thức,
kỹ năng khoảng 1 - 2 lần/năm.
4.3.2. Chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
134
4.3.2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
a. Chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn
Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương ban hành Thông tư hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 57/2018/NĐ-CP để các doanh nghiệp có cơ sở được
thụ hưởng ngay các chính sách ưu đãi của Chính phủ. Nghiên cứu sửa đổi
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng
nâng mức cho vay tối đa, không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia
đình; mở rộng đối tượng hưởng chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông
nghiệp công nghệ cao; cho phép tài sản hình thành từ vốn vay của các dự án,
phương án ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực làm tài sản bảo đảm…
Để giúp DNNVV đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp
sạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần quy định rõ ràng, cụ thể cơ
quan nào xác nhận các tiêu chí của dự án (ứng dụng công nghệ sinh học, vi
sinh…) của DNNVV, tạo thuận lợi cho DNNVV có đủ điều kiện khi đi vay
vốn ngân hàng khi ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch vào sản xuất -
kinh doanh.
Không những vậy, DNNVV cần thực hiện nghiêm chế độ kế toán, hạch
toán để minh bạch trong số liệu khi đi vay vốn TCTD, đồng thời các NHNN
cần quy định các TCTD phải cung cấp thông tin biểu mẫu cho các DNNVV
để xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh trong việc thẩm định nguồn vốn
vay.
Đáng chú ý, vấn đề NSNN ở Trung ương địa phương còn hạn hẹp, mặc
dù Chính phủ đã có chủ trương, chính sách để các địa phương bố trí nguồn
lực cho phát triển nông nghiệp nông thôn ở các địa phương, nhưng thực tế hỗ
trợ của các địa phương còn hạn hẹp, do đó các địa phương cần huy động
nguồn lực ngoài ngân sách để bổ sung nguồn hỗ trợ lãi suất theo các chính
sách hỗ trợ lãi suất.
Do quy mô sử dụng đất nông nghiệp cho canh tác dưới 5 ha chiếm tỷ lệ
135
đến 97%, trong khi việc canh canh tác theo cánh đồng lớn cần phải có diện
tích lớn để triển khai cánh đồng lớn, áp dụng cơ giới hóa trong nông nghiệp,
do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi DNNVV khi tích tụ ruộng đất,
chẳng hạn DNNVV tích tụ ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp được Nhà
nước miễn, giảm hoặc giãn thuế trong một thời gian cụ thể, nhằm tạo sức hút
đối với các DNNVV.
b. Chính sách hỗ trợ tài chính để đào tạo nguồn nhân lực của DNNVV
Doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh thấp so với khu vực và
thế giới do năng lực tự chủ tài chính thấp, quản trị không hiệu quả, thâm dụng
vốn cao nhưng không gắn với đầu tư đổi mới công nghệ. Do vậy, việc đào tạo
nguồn nhân lực DNNVV, nhất là nhân lực quản trị DNNVV phải được đặt lên
hàng đầu. Việc nâng cao nhân lực quản trị sẽ giúp DNNVV có tầm nhìn, có
kế hoạch trong việc phát triển sản xuất - kinh doanh. Bên cạnh đó, khi quản trị
tốt thì việc chuyên môn hóa phải tốt, tức là phải coi trọng đào tạo kỹ năng
nghề cho lao động, nhất là lao động có kỹ năng trong DNNVV để họ có thể
đảm nhiệm, làm chủ được công nghệ, giúp cho năng suất lao động ngày càng
được nâng cao. Muốn vậy, nguồn tài chính giành cho công tác đào tạo nguồn
nhân lực phải được coi như là huyết mạch của công tác này.
Trong thời gian tới, do thực tế chi phí thuê giảng viên có chất lượng là
khá cao (khoảng 3 - 5 triệu đồng/ngày), trong khi định mức định mức kinh phí
thuê giảng viên thực hiện theo quy định tại Thông tư số 139/2010/TT-BTC lại
thấp, do đó cần phải sửa đổi định mức trong Nghị định này theo hướng đảm
bảo với thực tế, điều này cũng giúp giảm chi chí cho học viên trong từng khóa
học.
Bên cạnh đó, đối với những địa phương khó khăn (do Trung ương hỗ
trợ NSNN trên 50%), thì ngân sách trung ương thực hiện hỗ trợ thêm cho
ngân sách địa phương để bổ sung nguồn cho địa phương triển khai công tác
đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho lao động của DNNVV.
Sửa đổi Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC ngày
136
13/8/2014 theo hướng quy định rõ các nguồn hỗ trợ đào tạo cho DNVVV;
quy định hình thức thuyết trình để đánh giá kết quả học tập, đồng thời quy
định việc cấp chứng chỉ cho học viên có nhu cầu.
Các bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư cần cụ thể hóa Điều 5, Luật Hỗ
trợ DNNVV và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ các hoạt động
về đào tạo trực tiếp tại DNNVV trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, đào tạo
trực tuyến, đào tạo trên phương tiện thông tin đại chúng cho DNNVV.
c. Chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu và xúc tiến thương mại của
DNNVV
Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã được thực hiện theo
Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quá trình thực
hiện cho thấy những bất cập cần phải sửa đổi, cụ thể:
Bộ Công Thương cần trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia gồm các nội dung: Bổ sung các nội dung mới về xúc tiến
thương mại phát triển ngoại thương được quy định tại Điều 15, Nghị định số
28/2018/NĐ-CP, rà soát bổ sung các hoạt động diễn ra trên thực tiễn nhưng
chưa được quy định trong Chương trình hiện nay, rà soát lại các hoạt động
không khả thi, không phù hợp trong giai đoạn mới, điều chỉnh các quy định
mức hỗ trợ, nội dung hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại phù hợp với Nghị
định số 28/2010/NĐ-CP và thực tiễn triển khai hoạt động xúc tiến thương mại.
Bên cạnh đó, cần sửa đổi Điều 12 như sau: “Mức hỗ trợ tối đa 100% áp
dụng cho các hoạt động xúc tiến thương mại quy định tại Điều 9 Quy chế này.
Nội dung hỗ trợ cụ thể cho từng hoạt động xúc tiến thương mại thực hiện theo
quy định của Bộ Công Thương.
Mức hỗ trợ 100% áp dụng cho các nội dung quy định tại khoản 3,
khoản 4, khoản 7 Điều 10 và các khoản Điều 11 Quy chế xây dựng, quản lý
và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Mức hỗ trợ 70% áp
dụng cho các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 10 Quy chế xây dựng, quản
137
lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Mức hỗ trợ 50%
áp dụng cho các nội dung quy định tại khoản 1, khoản 5 và khoản 6 Điều 10
Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia.
d. Chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh
vực CNHT
Để DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT có điều kiện tiếp cận
được quỹ đất để sản xuất, ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp,
Nhà nước cần cụ quy định trong Luật Đất đai quyền ưu đãi đất đai cho
DNNVV, trong đó ưu đãi trong thời gian đủ lớn để doanh nghiệp nông nghiệp
có thể thuận lợi trong việc tiếp cận có tiếp cận đất sản xuất nông nghiệp với
diện tích đủ lớn để tiến hành cơ giới hóa trong sản xuất. Nhà nước cũng cần
đơn giản thủ tục cấp đất, chuyển nhượng đất trong sản xuất nông nghiệp hơn
vì theo phản ánh của các doanh nghiệp thì thủ tục thuê, mở rộng mặt bằng sản
xuất vẫn còn phức tạp. Do đó, Nhà nước cần thực hiện đơn giản giản hóa và
thống nhất, công khai thông tin về thủ thủ tục thuê, cấp để tạo điều kiện cho
DNNVV.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần thay thế “Điều 12 - chính sách ưu đãi đối
với dự án sản xuất hoặc tham gia các công đoạn sản xuất sản phẩm CNHT ưu
tiên phát triển, Nghị định số 111/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển
CNHT theo hướng như sau:
Một là, chính sách ưu đãi thuế: Thuế TNDN, được áp dụng ưu đãi thuế
theo quy định của Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Luật về Thuế.
Hai là, thuế nhập khẩu: DNNVV cần được miễn thuế nhập khẩu đối
với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện
để thực hiện dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển theo
quy định của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn
thi hành. [Chinhphu.vn, 2020].
138
e. Chính sách hỗ trợ tài chính đất đai đối với DNNVV
- Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/7/2019 đã đặt ra mục tiêu là thu hút
khoảng 80 - 100 nghìn doanh nghiệp có hoạt động đầu tư vào nông nghiệp.
Trong đó, phấn đấu có khoảng 3 - 4 nghìn doanh nghiệp đầu tư với quy mô
lớn, 6 - 8 nghìn doanh nghiệp đầu tư với quy mô vừa. Để doanh nghiệp nông
nghiệp thể hiện vai trò là “trụ cột” trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất
nông nghiệp nước ta theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh
tranh của nông sản Việt Nam. Việt Nam cần thu hút khoảng 80 - 100 nghìn
doanh nghiệp có hoạt động đầu tư vào nông nghiệp. Trong đó, phấn đấu có
khoảng 3 - 4 nghìn doanh nghiệp đầu tư với quy mô lớn, 6 - 8 nghìn doanh
nghiệp đầu tư với quy mô vừa. Theo đó, Nhà nước cần dành quỹ đất cho các
DNNVV nông nghiệp để triển khai các dự án nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp hữu cơ; nới rộng quy định về hạn điền; công khai thông tin đất
đai ở các địa phương cho các doanh nghiệp biết để đầu tư dự án sản xuất
trong nông nghiệp; đơn giản hóa các thủ tục thuê mua đất nông nghiệp để đẩy
nhanh quá trình tích tụ và tập trung đất đai, áp dụng sản xuất theo cánh đồng
mẫu lớn; đồng thời tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận được nguồn tín dụng
ưu đãi của NHTM.
Điều chỉnh lại quy định, doanh nghiệp tư nhân được phép nhận vốn góp
bằng quyền sử dụng đất thông qua đấu giá, đảm bảo minh bạch trong việc
định giá góp vốn. Đồng thời vẫn giữ quy định không cho phép doanh nghiệp
tư nhân trong nước được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp mà chỉ
được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp, song việc doanh nghiệp tư
nhân thuê đất cần được Nhà nước công nhận khi đi vay vốn ngân hàng thông
qua hợp đồng thuê.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần sửa đổi thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối
với việc chuyển nhượng đất nông nghiệp theo hướng ưu đãi cho hơn so với
139
thuế suất chung (2%) để tạo điều kiện cho thị trường chuyển nhượng đất nông
nghiệp được thuận lợi, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp công nghệ cao,
áp dụng được cơ giới hóa.
- Đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT
Để khuyến khích hơn nữa DNNVV tham gia phát triển lĩnh vực CNHT,
thì cần cụ thể hóa: (i) Khoản 7, Điều 10, Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy
định về thu tiền sử dụng đất quy định “Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất mà được giảm tiền sử dụng đất thì có quyền và
nghĩa vụ trong phạm vi phần giá trị quyền sử dụng đất đã nộp tiền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về đất đai”; (ii) sửa đổi Điều 12, Nghị định số
111/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển CNHT theo hướng: “Dự án sản
xuất hoặc tham gia các công đoạn sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển
được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 15 năm đầu kể từ ngày được xác
nhận ưu đãi, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 7
năm tiếp theo”. Việc cụ thể hóa này sẽ giúp cho DNNVV tiếp cận được với
các hỗ trợ về đất đai để phát triển ngành CNHT.
- Đối với DNNVV bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
Do dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, trong khi doanh nghiệp
được hưởng gia hạn tiền thuê đất với giá trị thấp, do đó, cần tiếp tục gia hạn
thời hạn nộp tiền thuê đất đối với số tiền thuê đất phải nộp kỳ thứ hai năm
2020 đối với DNNVV bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Sang đầu năm 2021,
nếu dịch bệnh còn diễn biến phức tạp thì cần tiếp tục đánh giá các doanh
nghiệp đã được gia hạn để có kế hoạch gia hạn thêm đối với các DNNVV này
hoặc cân nhắc mở rộng đối và/hoặc thu hẹp đối tượng gia hạn đối với từng
nhóm DNNVV hoạt động trong từng lĩnh vực cụ thể, giúp DNNVV hồi phục
tích cực trong bối cảnh dịch Covid-19.
4.3.2.2. Hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
a. Hỗ trợ thông qua Quỹ phát triển DNNVV
Nhằm khai thông đầu vào và đầu ra của Quỹ phát triển DNNVV, Nhà
140
nước cần thực hiện đánh giá tốc độ giải ngân và các hạn chế về cơ chế chính
sách làm hạn chế sự tiếp cận của DNNVV đối với Quỹ. Trên cơ sở đó kiến
nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan sửa đổi các điều kiện về vay vốn
của Quỹ phù hợp với tình hình thực tế.
Tăng cường công tác thông tin của Quỹ đối với các DNNVV thông qua
các kênh thông tin (internet, báo chí, e-mail…) để các DNNVV lắm bắt được
các điều kiện cho vay của Quỹ để DNNVV chuẩn bị trước các điều kiện này.
Quỹ cần đẩy mạnh cho vay thông qua thẩm định hồ sơ vay của các
DNNVV một cách minh bạch, đảm bảo hạn chế rủi ro sau giải ngân, tránh
thất thoát NSNN. Việc xét và thẩm định hồ sơ vay cần được thực hiện công
khai thông qua dịch vụ công trực tuyến, công khai thông tin về cho vay và
khách hàng vay, tránh việc “ưu ái”, tăng chi phí thủ tục cho DNNVV.
b. Hỗ trợ thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng
Quỹ bảo lãnh tín dụng là tổ chức phi lợi nhuận nên nhà nước cần có cơ
chế tài chính khuyến khích các NHTM, tổ chức hiệp hội và các doanh nghiệp
như khi góp vốn vào Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ được miễn một phần thuế thu nhập
doanh nghiệp theo tỷ lệ giữa số vốn góp so với tổng vốn hoạt động kinh doanh.
Do ngân sách cấp đủ vốn điều lệ cho các quỹ hoạt động. Theo kinh
nghiệp quốc tế thì vốn đều lệ ban đầu của các Quỹ này chủ yếu là của Chính
phủ (Đài Loan, Hàn Quốc, Indonessia). Sau một thời gian, khi quỹ hoạt động
có hiệu quả, có khả năng thu hút vốn từ các NHTM, TCTD và doanh nghiệp
thì từng bước thực hiện thoái vốn nhà nước. ngoài nguồn vốn NSNN cấp, để
đa dạng hoá các kênh huy động vốn cho hoạt động của quỹ cần ban hành văn
bản pháp lý để ràng buộc trách nhiệm góp vốn đối với các NHTM và các tổ
chức tín dụng hoạt động trên địa bàn.
Thực hiện mở rộng phạm vi nghiệp vụ bảo lãnh (bảo lãnh dự thầu, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng…) cho Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ đầu tư phát
triển địa phương, nhằm tận dụng nguồn nhân lực, năng lực của Quỹ.
Tại Việt Nam, chỉ có một mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các
141
DNNVV là do nhà nước thành lập, không vì mục tiêu lợi nhuận. Thực tế, số
lượng các DNNVV tại Việt Nam là khá lớn (trên 700 nghìn doanh nghiệp vào
năm 2017) nên nhu cầu vốn của các doanh nghiệp này là rất cao. Do đó, Quỹ
bảo lãnh tín dụng do Nhà nước thành lập không thể đáp ứng thỏa mãn nhu cầu
vốn của DNNVV. Để đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn đa dạng của các
DNNVV, Việt Nam nên có chính sách cho phép chức, hiệp hội thành lập Quỹ
bảo lãnh tín dụng.
Cần mở rộng hoạt động bảo lãnh tín dụng đối với phương án sản xuất -
kinh doanh nhưng tuỳ thuộc mô hình để phân công trách nhiệm. Nếu tiếp tục
duy trì mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng như hiện nay thì cần quy định một tỷ lệ
bảo lãnh giới hạn đối với các dự án đầu tư. Các hoạt động bảo lãnh đầu tư nên
coi là nhiệm vụ chính của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
4.3.3. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
4.3.3.1. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
a. Thuế TNDN phổ thông đối với DNNVV
Qua phân tích và theo Dự thảo Tờ trình Chính phủ của Bộ Tài chính về
việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế
TNDN hỗ trợ, phát triển DNNVV cho thấy, giai đoạn 2011 - 2013, việc miễn,
giảm, giãn thuế thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng đã có những tác động
tích cực đối với DNNVV. Theo đó để tiếp tục khuyến khích DNNVV phát
triển theo Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, cụ thể hóa
quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV, Bộ Tài chính cần trình Chính phủ trình
Quốc hội cho doanh nghiệp trong nhóm DNNVV được giảm thuế suất thuế
TNDN xuống còn khoảng 15 - 17% nhằm tăng cường thúc đẩy doanh nghiệp
phát triển và mở rộng sản xuất, đặc biệt là khuyến khích các hộ, cá nhân kinh
doanh chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp theo mục tiêu có 1
triệu doanh nghiệp vào năm 2020. Việc giảm thuế suất thuế TNDN xuống
mức 15 - 17% đảm bảo sự khuyến khích đối với DNNVV. Mức này bằng với
142
mức thuế suất ưu đãi áp dụng cho các dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, lĩnh vực chế biến nông sản, thủy sản và theo
mức thuế suất này thì mức độ khuyến khích đối với DNNVV thậm chí còn
cao hơn giai đoạn 2014 - 2015 (Giai đoạn 2014 - 2015, DNNVV áp dụng mức
thuế suất 20%, tức là được giảm 2% so với mức thuế suất phổ thông (22%).
Hiện nay, mức thuế suất phổ thông là 20% nên đề xuất mức thuế suất 15%,
17% thì DNNVV được giảm 3 - 5% so với mức thuế suất phổ thông).
Bên cạnh đó, nhằm khuyến khích chủ chuyển đổi từ hộ lên doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2019, cần miễn thuế TNDN
trong 02 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế đối với doanh nghiệp thành lập
mới từ hộ, cá nhân kinh doanh. Sau thời gian miễn thuế theo quy định tại
khoản này, trường hợp doanh nghiệp mới thành lập từ hộ, cá nhân kinh doanh
thực hiện dự án đầu tư thuộc ngành nghề, địa bàn ưu đãi thuế thì tiếp tục được
hưởng mức ưu đãi (thuế suất ưu đãi và miễn, giảm thuế) tương ứng theo quy
định của pháp luật về thuế TNDN. Hết thời gian miễn thuế và thời gian hưởng
ưu đãi thuế (nếu có), doanh nghiệp thực hiện mức thuế suất thuế TNDN theo
quy định.
Không chỉ vậy, thuế suất 15% cần được áp dụng đối với doanh nghiệp
có tổng doanh thu năm dưới 3 tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân năm không quá 10 người để tháo gỡ cho khối DNNVV này
có thêm tiềm lực để phát triển. Tương tự, cần áp dụng mức thuế suất 17% đối
với doanh nghiệp có tổng doanh thu năm từ 3 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng và có
số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người.
Đối với những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, Chính
phủ cần có thêm ưu đãi về thuế TNDN đối với DNNVV đầu tư vào các địa
bàn này. Các ưu đãi này có thể theo hướng giãn, giảm thời gian nộp thuế
TNDN 3 - 5 năm, bởi việc thu hồi vốn khi kinh doanh vào các địa bàn này là
rất chậm.
Đáng chú ý, quy định nêu trên không được áp dụng đối với các trường
143
hợp: Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu
nhập từ chuyển nhượng bất động sản (trừ nhà ở xã hội quy định tại Luật Thuế
TNDN), thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền
tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản;
thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh ở ngoài Việt Nam; thu
nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí, tài nguyên quý hiếm
khác và thu nhập từ hoạt động khai thác khoáng sản. Vì đây là các lĩnh vực
không cần khuyến khích.
b. Miễn, giảm, giãn thuế TNDN đối với DNNVV hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể
Một là, cần quy định điều kiện chuyển tiếp đối với ưu đãi cho dự án
đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh vực không thuộc diện hưởng ưu đãi trước ngày
01/01/2015 trong Nghị định số 12/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật số 71; Thông
tư số 21/2016/TT-BTC để giúp cho các doanh nghiệp có dự án thuộc diện ưu
đãi trước ngày ngày 01/01/2015 có thêm thời gian để thực hiện và được
hưởng thêm các ưu đãi.
Hai là, cần sửa đổi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT
và Thông tư số 55/2015/TT-BCT quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và
hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT theo hướng chỉ rõ
cách lựa chọn tiêu chí: Tài sản cố định, tăng công suất, tăng vốn đầu tư hay
tăng doanh thu để xác định dự án sản xuất sản phẩm CNHT của mình có
thuộc đối tượng được áp dụng ưu đãi theo diện tăng năng lực sản xuất ít nhất
20% không.
Ba là, thực hiện sửa đổi cơ chế xác nhận ưu đãi được quy định tại
Thông tư số 55/TT-BCT, nhằm giúp cho DNNVV xác định được cơ chế hỗ
trợ về thuế theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg để doanh nghiệp CNHT
được hưởng ưu đãi.
Bốn là, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích DNNVV thực hiện trích
144
tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển theo Luật Thuế TNDN
sửa đổi, bổ sung năm 2013 để đẩy mạnh việc phát triển sản phẩm có hàm
lượng khoa học cao trong thời gian tới.
Năm là, trên cơ sở đánh giá Nghị định số 41/2020/NĐ-CP, cần mở rộng
thêm đối tượng gia hạn thuế TNDN, với số tiền gia hạn thấp chứng tỏ phạm
vi gia hạn hiện tại còn ít, trong khi phần lớn DNNVV bị hưởng bởi dịch bệnh.
Đơn cử xem xét bổ sung gia hạn đối với các DNNVV hoạt động sản xuất -
kinh doanh trong các lĩnh vực: Hoạt động xuất bản; hoạt động phát thanh,
truyền hình; hoạt động điện ảnh, sản xuất chương trình truyền hình, ghi âm và
xuất bản âm nhạc; lập trình máy vi tính, dịch vụ tư vấn và các hoạt động khác
liên quan đến máy vi tính; hoạt động dịch vụ thông tin.
4.3.3.2. Chính sách thuế giá trị gia tăng
Thứ nhất, để bảo đảm minh bạch và nâng cao cơ sở pháp lý, đề nghị
cho sửa đổi, bổ sung đối với sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi
trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế
thông thường khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã ở khâu kinh doanh
thương mại thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT.
Thứ hai, về hoàn thuế GTGT
Bỏ quy định hoàn thuế GTGT đối với trường hợp cơ sở kinh doanh có
số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ lũy kế sau ít nhất mười hai tháng
hoặc ít nhất sau bốn quý, thay vào đó doanh nghiệp được kết chuyển số thuế
GTGT chưa khấu trừ hết (không hoàn) để khấu trừ vào số thuế GTGT kỳ sau
nhằm bảo đảm phù hợp với bản chất của thuế GTGT, giảm thủ tục trong kê
khai khấu trừ và nộp thuế GTGT.
Hoàn thuế GTGT đối với xuất khẩu: Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm
tra sau đối với người nộp thuế sản xuất hàng hóa xuất khẩu không vi phạm
pháp luật trong thời gian 2 năm; người nộp thuế không thuộc đối tượng rủi ro
cao theo quy định của Luật Quản lý thuế; không hoàn thuế đối với hàng hóa
nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu
145
tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải quan.
Thứ ba, nghiên cứu, bổ sung ưu đãi thuế GTGT cho sản phẩm là kết
quả hoạt động khoa học công nghệ được ghi trên Giấy chứng nhận doanh
nghiệp khoa học công nghệ; ưu đãi thuế GTGT cho sản phẩm là kết quả hoạt
động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền
công nhận.
Thứ tư, nghiên cứu để xem xét gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số
thuế GTGT phát sinh phải nộp của kỳ tính thuế tháng 10, 11, 12/2020 (đối với
trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo tháng) và kỳ tính thuế quý III,
IV/2020 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo quý) đối với
DNNVV bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Trên cơ sở gia hạn hết thuế GTGT hết
năm 2020, có thể cân nhắc gia hạn thêm nếu dịch bệnh còn diễn biến phức tạp.
4.3.4. Chính sách tài chính đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về cơ cấu lại sản
xuất nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền
nông nghiệp sản xuất lớn, công nghệ cao; đồng thời giúp DNNVV mở rộng
hạn điền khi đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, do đó Nhà nước cần phải sửa
quy định trong Luật Đất đai 2013 về hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho
mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 20 ha đối với xã, phường, thị trấn ở đồng
bằng; không quá 60 ha đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Thứ hai, cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền các cấp cần quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để các hộ gia đình
nông dân thấy những lợi ích của tích tụ, tập trung đất đai, giới thiệu những mô
hình, những điển hình thành công để mọi người học tập; vận động, thu hút
đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp. Nhà nước vừa có chính sách ưu
đãi, hỗ trợ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ ba, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 118 Luật Đất đai 2013 theo
hướng bổ sung quy định: Ngoài hình thức giao đất, cho thuê đất theo hình
thức đấu giá quyền sử dụng đất, nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư còn được
146
giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đấu thầu (Khoản 3, Điều 1 Luật Đấu thầu) để đảm bảo sự thống
nhất trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ tư, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp Bộ Kế hoạch
và Đầu tư xem xét, ban hành Thông tư hướng dẫn bảo đảm quy định rõ dự án
của tổ chức, hay hộ gia đình, cá nhân do UBND cấp tỉnh quyết định chủ
trương đầu tư.
4.4. Điều kiện thực hiện giải pháp
4.4.1. Đối với Chính phủ
Một là, tiếp tục rà soát, đánh giá tình hình thực hiện và hiệu quả của các
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, dần thu gọn chính sách hỗ trợ vào một số văn
bản nhất định để tạo tạo điều kiện cho việc thực hiện, đồng thời cũng tránh
cho việc dàn trải nguồn lực. Hướng tới ban hành Luật Hỗ trợ DNNVV, trong
đó quy định các nhóm vấn đề hỗ trợ DNNVV, đặc biệt có quy định vấn đề hỗ
trợ về vốn cho các doanh nghiệp khó khăn về vốn, nhất là đối với các doanh
nghiệp thuộc diện được miễn, giảm và gia hạn về các chính sách nộp thuế,
phí… ; khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia hỗ trợ
các doanh nghiệp.
Hai là, cần tập trung xây dựng có chế phối hợp giữa các cơ quan liên
quan để nâng cao tính thực thi một số chính sách hỗ trợ DNNVV như đã được
quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP để chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
được đi vào cuộc sống.
Cùng với đó, cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thực hiện vai
trò quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thì phải nâng cao tính công khai,
minh bạch trong thực thi nhiệm vụ, quyền hạn, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giám sát hoạt động thông qua các kênh khác nhau như website, báo
chí, bản tin....; công khai quy trình, thủ tục, điều kiện kinh doanh, kết quả giải
quyết kiến nghị, khiếu nại của doanh nghiệp trên trang thông tin điện tử kịp
thời để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tích cực, đem lại hiệu
147
quả cho bản thân các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Ba là, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên
quan: Nghiêm túc thực hiện các Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP của Chính
phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh để
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ tại Thông báo số 66/TB-VPCP ngày 27/4/2016 về tình hình
triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, các luật về Thuế. Theo
đó, tích cực triển khai các chế độ, chính sách kịp thời nhằm tạo hành lang cho
các doanh nghiệp thực hiện thuận lợi.
Bốn là, Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do
kinh doanh của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Doanh
nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật
không cấm; tiếp tục thực hiện chủ trương Chính phủ “kiến tạo”, lấy doanh
nghiệp là đối tượng phục vụ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh
doanh và phát triển để xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện những quy
định của pháp luật liên quan đến doanh nghiệp; Nhà nước bảo đảm sự ổn
định, nhất quán, dễ dự báo của chính sách; ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện
môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi, an toàn và thân thiện; Nhà nước
bảo đảm quyền bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt loại
hình, thành phần kinh tế trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực như: Vốn, tài
nguyên, đất đai... và đầu tư, kinh doanh.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước theo hướng đơn giản hóa
khâu tiền kiểm, tăng cường hậu kiểm gắn với điều kiện, quy định cụ thể và
thanh tra, kiểm tra, giám sát; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cần bảo
đảm mục tiêu ngăn chặn, phát hiện và xử lý vi phạm đồng thời hỗ trợ, hướng
dẫn doanh nghiệp tuân thủ các quy định của pháp luật.
Năm là, rà soát lại việc hỗ trợ cũng như chức năng, nhiệm vụ của các
Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, Quỹ Phát triển doanh nghiệp, Quỹ hỗ trợ quốc gia
về việc làm, Quỹ đổi mới quốc gia… để tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác
148
hỗ trợ theo hướng trọng tâm, trọng điểm cho DNNVV, cũng như đổi mới các
hình thức hỗ trợ đa dạng hơn, phù hợp trong bối cảnh nền kinh tế thay đổi tạo
ra các khó khăn cho DNNVV, đáp ứng nhu cầu của các DNNVV về vốn.
4.4.2. Đối với bộ, ngành có liên quan
- Các bộ, ngành thu thập ý kiến phản hồi của các DNNVV trong việc
thực thi các chính sách, từ đó chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan rà soát chính
sách, đặc biệt là những bất cập trong chính sách tài chính, tín dụng đối với
DNNVV để có phương án điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, tạo
điều kiện cho DNNVV phát triển.
- Hằng năm, các bộ, ngành phải lắng nghe ý kiến doanh nghiệp, hiệp
hội DNNVV, VCCI thông qua hội nghị, hội thảo, phản hồi của DNNVV
trong quá trình thực thi chính sách để trao đổi, giải đáp những vướng mắc của
DNNVV khi tiếp cận nguồn lực tài chính, tín dụng nói chung và nguồn vốn
hỗ trợ nói riêng. Trên cơ sở đó thực hiện đánh giá kết quả đạt được hạn chế và
nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với
DNNVV để trình cấp thẩm quyền sửa đổi.
4.4.3. Đối với các hiệp hội
- Các Hiệp hội, ngành hàng cần đẩy mạnh vai trò trong việc kết nối
thông tin, xúc tiến thương mại, hỗ trợ người dân và DNNVV mở rộng thị
trường trong và ngoài nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Chủ động thu thập thu thập các kiến nghị của các DNNVV để kiến nghị
Chính phủ, các bộ, ngành để điều chỉnh chính sách sát thực tiễn.
- Chủ động nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để đẩy
mạnh công tác tuyên truyền để các DNNVV tại các địa phương nắm, vận
dụng đúng chính sách. Có kế hoạch, lộ trình hỗ trợ ngân sách cho các
DNNVV theo các chương trình của Chính phủ ban hành, đồng thời tạo cơ chế
để khuyến khích DNNVV tăng cường đầu tư, phát triển sản xuất - kinh doanh,
qua đó DNNVV đóng góp trở lại cho ngân sách.
- Chủ động phối kết hợp với các bộ, ngành, hiệp hội để đề xuất các giải
149
pháp tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong quá trình hoạt động.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Phát triển DNNVV cả về số lượng và chất lượng là xu thế tất yếu của
các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, DNNVV có vai trò và vị thế vô cùng
quan trọng trong việc kiến tạo môi trường vĩ mô ổn định, bền vững. Do vậy,
trên cơ sở bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, việc đưa ra quan điểm, định
hướng chính sách cho việc phát triển DNNVV trong giai đoạn này là rất cần
thiết, một mặt đảm bảo hệ thống chính sách tài chính, tín dụng đối với
DNNVV được đồng bộ cụ thể, mặt khác giúp DNNVV tiếp cận chính sách
được thuận lợi, giảm được các chi phí không chính thức, đồng thời giúp
DNNVV huy động được nguồn vốn tài chính, tín dụng cho phát triển sản xuất
- kinh doanh.
Với quan điểm, định hướng chính sách được đưa ra trong Chương 4,
tác giả đã đưa ra hệ thống các giải pháp bao gồm: (i) Sửa đổi, bổ sung các cơ
chế chính sách có thể vận dụng chính xác hơn, tránh việc áp lãi suất không
mang tính thị trường thành tính thị trường trong việc cho vay đối với
DNNVV, nhất là đối với doanh nghiệp siêu nhỏ; quy định cụ thể về điều kiện
vay vốn; (ii) Chỉnh sửa khung chính sách để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận
được nguồn vốn vay ngân hàng với đầy đủ tư cách pháp nhân khi thực hiện
các giao dịch dân sự; (iii) Hướng dẫn cụ thể về mức lãi suất thỏa thuận hợp
lý; (iv) Quy định các tiêu chí để xác định giá trị của dự án, phương án sản
xuất - kinh doanh để TCTD có căn cứ duyệt vay cho doanh nghiệp trong
trường hợp không có tài sản bảo đảm; (v) Mở rộng đối tượng hưởng chính
sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao; cho phép tài sản
hình thành từ vốn vay của các dự án, phương án ứng dụng công nghệ cao
trong lĩnh vực làm tài sản bảo đảm; sửa đổi một số quy định theo hướng quy
định rõ các nguồn hỗ trợ đào tạo cho DNVVV; (vii) Bổ sung các nội dung
mới về xúc tiến thương mại phát triển ngoại thương; (viii) cụ thể hóa: (1)
150
Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền sử dụng đất quy định “Tổ
chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà được giảm
tiền sử dụng đất thì có quyền và nghĩa vụ trong phạm vi phần giá trị quyền sử
dụng đất đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”; (2)
Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định DNNVV hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp hỗ trợ được được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; nội
dung “Nguồn vốn hỗ trợ từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử
dụng đất và các khoản khác phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của
151
pháp luật” trong Luật Hỗ trợ DNNVV 2017…
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu tổng quan, lý luận, kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn
triển khai… chính sách tài chính đối với DNNVV, tác giả nhận thấy:
Thứ nhất, về tổng quan nghiên cứu, tác giả đã tham khảo các công trình
nghiên cứu có liên quan đến luận án và chỉ ra 06 nhóm vấn đề, trong đó có 04
nhóm nội dung nghiên cứu ở trong nước và 02 nhóm nội dung nghiên cứu liên
quan đến luận án. Từ đó tác giả đã chỉ ra được khoảng trống nghiên cứu của
luận án.
Thứ hai, về lý luận, tác giả đã phân tích 09 đặc điểm, 03 vai trò của
DNNVV; 07 đặc điểm, 04 vai trò của chính sách tài chính đối với DNNVV
trong nền kinh tế thị trường, trong đó có nội hàm của chính sách tài chính đối
với DNNVV gồm: Chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực
tài chính - tín dụng; chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng; chính sách thuế;
chính sách tài chính đất đai đối với DNNVV. Bên cạnh đó, luận án cũng phân
tích và chỉ ra 03 yếu tố tác động và 03 tiêu chí đánh giá hiệu quả chính sách
tài chính DNNVV, điều này đã giúp cho việc phân tích mang tính chính sách
tài chính đối với DNNVV được khoa học và logic hơn. Hệ thống lý luận được
phân tích đã giúp cho việc “soi đường” trong việc phân tích thực tiễn triển
khai chính sách tài chính đối với DNNVV.
Không những vậy, đề tài đã nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore,
Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc về chính sách tài chính đối với
DNNVV, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ ba, về thực tiễn, Luận án đã tập trung phân tích thực trạng, kết quả
thực hiện và nguyên nhân chính sách huy động, phân phối và sử dụng các
nguồn lực tài chính - tín dụng đối với DNNVV tại Việt Nam. Về phân tích
thực trạng của chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNNVV, tác giả đã chỉ ra
05 kết quả đạt được của chính sách huy động tài chính - tín dụng đối với
152
DNNVV; 02 kết quả của chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính
- tín dụng; 16 kết quả của chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với
DNNVV; 10 kết quả của chính sách thuế, phí đối với DNNVV; 04 kết quả
của chính sách tài chính đất đai đối với DNNVV. Đặc biệt, tác giả cũng chỉ ra
10 hạn chế và nguyên nhân của chính sách huy động tài chính - tín dụng đối
với DNNVV; 05 hạn chế và nguyên nhân của chính sách phân phối và sử
dụng nguồn lực tài chính - tín dụng; 17 hạn chế và nguyên nhân của chính
sách thuế, phí đối với DNNVV; 06 hạn chế và nguyên nhân của chính sách tài
chính đất đai đối với DNNVV. Đây là những căn cứ quan trọng để đề xuất
các giải pháp hoàn thiện chính sách.
Thứ tư, về giải pháp, trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm, đánh giá thực
trạng chính sách tài chính đối với DNNVV tại Việt Nam trong thời gian vừa
quan; 05 quan điểm và 05 mục tiêu, Luận án đã đưa ra 12 giải pháp hoàn
thiện chính sách huy động tài chính - tín dụng đối với DNNVV; 02 giải pháp
hoàn thiện chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng; 26
giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính - tín dụng đối với DNNVV;
13 giải pháp hoàn thiện chính sách thuế, phí đối với DNNVV; 04 giải pháp
hoàn thiện chính sách tài chính đất đai đối với DNNVV. Đây là những giải
pháp mang tính lý luận và thực tiễn cao.
Thứ năm, sau khi nghiên cứu Luận án, tác giả cũng nhận thấy các
hướng nghiên cứu tiếp theo đối với vấn đề liên quan đến luận án gồm: Chính
sách tài chính đối với DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; chính sách tài chính đối
với DNNVV công nghệ cao; chính sách tài chính đối với DNNVV nông
nghiệp, nông thôn; chính sách tài chính thúc đẩy DNNVV gia tăng xuất khẩu
theo các hiệp định thương mại tự do; chính sách tài chính đối với DNNVV
thúc đẩy sản xuất - kinh doanh trong bối cảnh hậu dịch Covid-19 gắn với
153
chuỗi giá trị toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Báo cáo của Chính phủ tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp DNNVV.
[2] Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Vụ truyền thông - NHNN (2017), Giải
pháp tín dụng cho DNNVV, Kỷ yếu hội thảo, ngày 05/10/2017.
[3] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Tờ trình về việc ban hành Thông tư
hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV.
[4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản
(JETRO) và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (2017), Chính sách hỗ trợ
DNNVV - kinh nghiệm từ Nhật Bản, Kỷ yếu Hội thảo, tháng 3/2017.
[5] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Sách trắng DNNVV Việt Nam.
[6] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm
2017, 2018, 2019, 2020.
[7] Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Báo cáo Thực trạng ứng dụng
Khoa học và Công nghệ, công nghệ cao trong doanh nghiệp nông nghiệp;
đánh giá chính sách và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng Khoa học và
Công nghệ trong nông nghiệp, Hội nghị toàn quốc thúc đẩy doanh nghiệp đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
[8] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2019), trả lời kiến nghị cử tri
gửi tới kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, http://quochoi.vn.
[9] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), Báo cáo tình hình
thực hiện Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.
[10] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2018b), Hội nghị toàn
154
quốc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
[11] Bộ Tài chính (2019), Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo Nghị
quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế TNDN hỗ trợ, phát triển
DNNVV, tháng 3/2019.
[12] Bộ Tài chính (2019), Báo cáo kinh nghiệm quốc tế về hỗ trợ, phát
triển DNNVV, tháng 3/2019.
[13] Bộ Tài chính (2019), Tờ trình Chính phủ về việc x y dựng dự án
Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế TNDN hỗ trợ, phát triển
DNNVV, tháng 3/2019.
[14] Bộ Tài chính, Unicef (2019), Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2019:
Cải cách chính sách tài chính nhằm tạo động lực đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam, ngày 19/9/2019.
[15] Bùi Tư (2019), Quỹ Khoa học và Công nghệ quốc gia sẽ hoạt
động theo cơ chế tự chủ, http://thoibaotaichinhvietnam.vn/, ngày 25/5/2019.
[16] Bùi Thị Quỳnh Thơ (chủ biên) (2017), Chính sách hỗ trợ DNNVV
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội.
15. Cổng thông tin doanh nghiệp, Tình hình hỗ trợ DNNVV giai đoạn
2011 - 2015 của Hà Nội.
[17] Diêm Đăng Việt (2009), Phát triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế.
[18] Đặng Đức Anh (2017), Chỉ bảo lãnh những doanh nghiệp chứng
tỏ được khả năng tồn tại, https://baodautu.vn/, ngày 19/10/2017.
[19] Đinh Văn Sơn (2009), Chính sách tài chính với phát triển xuất
khẩu của DNNVV ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính.
[20] Đoàn Hoài Đức (2019), Hoạt động Hỗ trợ DNNVV tiếp cận tín
dụng, http://www.vnba.org.vn/, ngày 13/8/2019.
[21] Đoàn Thanh Hà (2016), Hoàn thiện chính sách thuế hỗ trợ
DNNVV tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ II, tháng 11/2016.
155
[22] Đoàn Tranh, Đặc điểm của DNNVV, http://kqtkd.duytan.edu.vn/.
[23] Đỗ Tất Cường, Ngô Thị Ngọc Anh (2018), Cơ chế tài chính để
doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, Thông tin và Dự báo kinh tế - xã
hội, số 145+146, tháng 01/2018.
[24] Đỗ Thị Kim Tiên (2017), Tiêu chí đánh giá chính sách trong xây
dựng pháp luật, http://nguoibaovequyenloi.com/, ngày 03/01/2017.
[25] Hà Công Tuấn (2018), Đất đai nhỏ lẻ là nút thắt lớn nhất cản
dòng đầu tư vào nông nghiệp, http://www.antv.gov.vn.
[26] Hà Thị Kim Duyên (2015), Kinh nghiệm của Nhật Bản trong
chính sách hỗ trợ DNNVV, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 608, tháng 12/2015.
[27] HL/TTXVN (2019), Nghị định 13 gỡ “nút thắt” cho doanh
nghiệp, https://bnews.vn/, ngày 24/02/2019.
[28] Hoàng Mạnh Hùng (2019), Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ
trợ DNNVV và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, chuyên đề đặc biệt
2019.
[29] Hoàng Thị Hồng (2020), Các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp huy động vốn, http://vnba.org.vn/, ngày 06/10/2020.
[30] Hồ Xuân Phương, Đỗ Minh Tuấn, Chu Minh Phương (2002), Tài
chính hỗ trợ phát triển DNNVV, Nhà xuất bản Tài chính.
[31] Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), Phát triển DNNVV Kinh
nghiệm Việt Nam và Đức, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
[32] Huy Thắng (2019), Có 50/63 địa phương có đề án, chính sách trợ
lực doanh nghiệp nhỏ, Chinhphu.vn, ngày 04/7/2019.
[33] Lê Thị Hồng Yến, Cơ sở lý luận về NHTM, hoạt động tín dụng
ng n hàng và cơ sở lý luận về DNNVV, academia.edu.
[34] Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương (2019), Đổi mới
công nghệ trong doanh nghiệp: Một số vấn đề cần quan t m, Tạp chí Việt
Nam, số 5/2019.
[35] Ngọc Hải (2019), Đổi mới chính sách tín dụng phục vụ phát triển
156
nông nghiệp, nông thôn.
[36] Ngọc Tú (2019), Quỹ Quốc gia về việc làm: Hiệu quả từ những
đồng vốn vay, https://baomoi.com, ngày 29/8/2019.
[37] Nguyễn Bích Ngọc (2010): Đánh giá tác động của chính sách hỗ
trợ lãi suất đối với DNNVV, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở.
[38] Nguyễn Hiền (2018), Hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
cho DNNVV, http://www.mpi.gov.vn, ngày 24/8/2018.
[39] Nguyễn Hoài (2019), TPDN: Nhà đầu tư cá nh n phải rất cẩn
trọng, http://vneconomy.vn/, 05/9/2019.
[40] Nguyễn Như So (2017), Phát triển nông nghiệp công nghệ cao:
Cần giải quyết 5 vấn đề, Ý kiến thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội tại kỳ
họp thứ 4, Quốc khóa XIV.
[41] Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Việt Anh, Những khó khăn trong tiếp
cận tín dụng của các DNNVV và một số giải pháp khơi thông dòng vốn cho
loại hình doanh nghiệp này, wesite của NHNN, 23/12/2014.
[42] Nguyễn Thế Bính (2013), Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ
trợ phát triển DNNVV và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội
nhập, Số 12 (22), tháng 09 - 10/2013.
[43] Nguyễn Thị Cúc (2016), N ng cao hiệu quả vốn vay cho các
DNNVV, Tạp chí Tài chính 632 kỳ 1, tháng 5/2016.
[44] Nguyễn Đăng Thành (2015), Đánh giá chính sách công ở Việt
Nam: Vấn đề và giải pháp, http://www1.napa.vn/blog/danh-gia-chinh-sach-
cong-o-viet-nam-van-de-va-giai-phap.htm.
[45] Nguyễn Cảnh Hiệp (2020), Mở rộng khả năng tiếp cận vốn ng n
hàng nhằm hạn chế tín dụng đen đối với DNNVV, Tạp chí Thị trường Tài
chính Tiền tệ số 1 + 2 năm 2020.
[46] Nguyễn Đức Quỳnh (2019), Chính sách tín dụng cho doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng
157
4/2019.
[47] Nguyễn Hà Phương (2012), Kinh nghiệm quốc tế về chính sách tài
chính hỗ trợ phát triển DNNVV, Viện Chiến lược Ngân hàng.
[48] Nguyễn Hữu, Đặng Thành (2018), Thu hút đầu tư cho nông nghiệp
- Kỳ 3: Chung tay gỡ khó cùng doanh nghiệp, https://www.nhandan.com.vn,
ngày 19/8/2018.
[49] Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), Pháp luật hỗ trợ DNNVV của
Hàn Quốc và một số kiến nghị tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
tháng 10/2016.
[50] Nguyễn Thị Ngọc Mai (2008), Chính sách hỗ trợ phát triển
DNNVV ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
[51] Nguyễn Thanh Nga, Đặng Thị Hậu (2018), Nghiên cứu chính sách
ưu đãi thuế cho DNNVV đổi mới và sáng tạo, Tạp chí Thông tin và Dự báo
kinh tế - xã hội, số 153, tháng 9/2018.
[52] Nguyễn Thị Hiền (2017), Hỗ trợ DNNVV tiếp cận hiệu quả nguồn
vốn tín dụng ngân hàng, Tapchitaichinh.vn, ngày 26/11/2017.
[53] Nguyễn Thiện Phong (2007), Chính sách tài chính hỗ trợ phát
triển DNNVV ngoài quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long, Luận án
Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
[54] Nguyễn Thị Hải Yến, Nguyễn Thị Hoa (2015), Một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho DNNVV hiện nay, Tạp chí Công Thương, số 1+2.
[55] Nguyễn Thị Quỳnh, Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thanh Tú
(6/2016), Chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV: Thực trạng và một số kiến
nghị, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng.
[56] Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2019), Hỗ trợ tín dụng cho DNNVV ở
một số quốc gia và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng
158
7/2019.
[57] Nguyễn Thu Hà (2018), Hỗ trợ DNNVV: Kinh nghiệm tại Nhật
Bản, Liên minh châu Âu và những gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 32, tháng 10/2018.
[58] Nguyễn Thu Thủy, Đỗ Đình Long (2018), Chính sách tín dụng
cho DNNVV ở một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, số 13, tháng 5/2018.
[59] Nguyễn Thùy Vân (2018), Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại
quốc gia trong tình hình mới, http://tapchitaichinh.vn, ngày 08/4/2018.
[60] Nguyễn Trường Sơn (2014), Phát triển DNNVV ở Việt Nam hiện
nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
[61] Nguyễn Văn Nhật (2020), Tín dụng ngân hàng đối với phát triển
ngành CNHT Việt Nam, http://tapchitaichinh.vn/, ngày 03/5/2020.
[62] Nguyễn Văn Thành, Đặng Thành Lê (2019), Kinh nghiệm quốc tế
về hỗ trợ chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công
nghiệp, Tạp chí Quản lý Nhà nước.
[63] Nguyễn Văn Thịnh (2018), Cụ thể hóa các giải pháp hỗ trợ cho
DNNVV, Tạp chí Tài chính, số 684, kỳ 1, tháng 7/2018.
[64] Nguyễn Viết Lợi (2016), Chính sách tài chính và vấn đề tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính kỳ I, tháng 6/2016.
[65] Nguyễn Vũ (2019), Đầu tư vào nông nghiệp: Tiếp cận đất đai
đang là cản trở lớn, http://vneconomy.vn, ngày 16/01/2019.
[66] Nguyễn Xuân Hằng (2019), Giải pháp n ng cao khả năng tiếp cận
vốn cho khu vực DNNVV, Tạp chí Ngân hàng - Chuyên đề đặc biệt 2019.
[67] NHNN (2018), Kết quả thực hiện chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn, chinhphu.vn, ngày 29/7/2018.
[68] NHNN (2018a, c), Kết quả thực hiện chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn, http://baochinhphu.vn, ngày 29/7/2018.
[69] Phạm Thái Hà (2018), Chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV ở một
159
số quốc gia và bài học cho Việt Nam, Tapchitaichinh.vn, ngày 11/3/2018.
[70] Phạm Thị Hiền Thảo (2019), Hoàn thiện quy định về ưu đãi thuế
TNDN đối với DNNVV, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, ngày 29/5/2019.
[71] Phạm Thị Minh Tâm (2019), Kỳ vọng vào chính sách mới về phát
triển doanh nghiệp , http://sokhcn.vinhphuc.gov.vn/, ngày 11/7/2019.
[72] Phạm Thị Oanh (2019), Phát triển CNHT ở Việt Nam, Tạp chí Tài
chính kỳ 2 tháng 7/2019.
[73] Phạm Thị Thu Hồng, Nguyễn Thị Hoa (2019), Thuế TNDN nhỏ và
vừa: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý Ngân
quỹ Quốc gia số 209, tháng 11/2019.
[74] Phạm Thị Tuyết Giang (2018), Pháp luật về ưu đãi đầu tư trong
lĩnh vực nông nghiệp - bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học - Đại
học Vinh, tập 47, số 3B.
[75] Phạm Văn Kim (2016), DNNVV đối với phát triển công nghiệp
phụ trợ ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế.
[76] Phạm Xuân Hòa (2014), Hoàn thiện chính sách thuế nhằm hỗ trợ
phát triển DNNVV ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế.
[77] Phan Ngọc Trung, Phạm Thị Kim Ánh (2016), Giải pháp hỗ trợ
tài chính cho các DNNVV của Việt Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị số 01,
www.tapchicongsan.org.vn, ngày 04/6/2019.
[78] Phan Thị Linh (2015), Giải pháp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
cho DNNVV, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 11/2015.
[79] Phùng Thanh Loan (2019), Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển
DNNVV ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
[80] Thùy Dung (2019), Cần nhiều hoạt động xúc tiến thương mại,
https://www.qdnd.vn, ngày 20/7/2019.
[81] Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (2019),
Kỷ yếu Diễn đàn doanh nghiệp đồng hành cùng nông nghiệp, nông dân, nông
thôn năm 2019.
160
[82] Trần Công Thắng (2019), Gỡ rào cản tích tụ ruộng đất.
[83] Trần Thị Minh Hải, Chính sách tài chính cho DNNVV, Tạp chí Tài
chính kỳ 2 số tháng 5/2016.
[84] Trần Thị Thanh Tú, Đinh Thị Thanh Vân (2015), Phát triển nguồn
tài chính cho DNNVV tại Hà Nội, Tạp chí khoa học - Đại học Quốc gia Hà
Nội, số 3, 21 - 31.
[85] Tri Nhân (2018), Khơi thông nguồn lực từ NSNN cho DNNVV,
https://baomoi.com, ngày 01/9/2018.
[86] Tiếp cận đất đai: Những khó khăn của khu vực tư nh n, truy cập
từ https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/tiep-can-dat-dai-nhung-kho-khan-
cua-khu-vuc-doanh-nghiep-tu-nhan-7160/.
[87] Trung tâm Thông tin kinh tế - VCCI, Trường Đại học Thăng Long
(9/2018), Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tăng cường tiếp cận tín dụng thông
qua n ng cao năng lực quản trị và minh bạch hoạt động tài chính, Kỷ yếu hội
thảo khoa học quốc gia.
[88] Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương (2018), Đổi mới phương thức hỗ trợ tín dụng cho DNNVV: Kinh
nghiệm quốc tế và một số kiến nghị cho Việt Nam, Chuyên đề số 15.
[89] Trần Thị Huyền Trang (2017), Giải pháp giúp DNNVV nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tapchicongthuong.vn, truy cập ngày 18/4/2017.
[90] TTXVN (2018), Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2013 (Bài 1): Nhìn
lại gần 4 năm thực hiện, https://bnews.vn, ngày 12/10/2018.
[91] Văn phòng điều phối nông thôn mới Thừa Thiên Huế (2019), Đổi
mới chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn,
http://www.nongthonmoithuathienhue.vn/, ngày 17/6/2019.
[92] VCCI (2017a), Kỷ yếu Hội thảo Hỗ trợ thương mại quốc tế cho
DNNVV, ngày 31/10/2017.
[93] VCCI (2018b), Tài liệu diễn đàn Giải pháp thúc đẩy các nguồn
161
vốn cho DNNVV, ngày 07/8/2018.
[94] Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2013), Kết quả khảo sát
đánh giá tác động của các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
trong thời gian qua.
[95] Vietnam survey và HCM survey (2018), Tiếp cận tài chính của
DNNVV”, cefr.uel.edu.vn, ngày 10/5/2018.
[96] Võ Thị Thảo (2016), Đổi mới cơ chế thu tiền sử dụng đất, thuê
đất, thuê mặt nước, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 11/2016.
[97] Vũ Văn Thực (2019), Chính sách hỗ trợ tài chính đối với các
DNNVV ở một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ
số 1+2/2019
[98] Vương Thị Hương Giang, Nguyễn Thị Mai Hương (2016), Chỉ số
đánh giá hoạt động tài chính của doanh nghiệp và thực tế áp dụng, Tạp chí
Tài chính kỳ II tháng 12/2016.
[99] Xuân Anh (2019), Đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao: Khó
tiếp cận nguồn lực, http://www.mpi.gov.vn, ngày 22/4/2019.
Tiếng Anh
[100] Alper Aras, Regional Advisor (2017), Small and Medium
Enterprises Financing, Macroeconomic Policy and Financing for
Development Division, ESCAP, 4/2017.
[101] Doherty, R. (2013), UK SMEs are Finding more Ways to Raise
External Finance as Optimism Increases, British Business Bank.
[102] Dr. Pussadee Polsaram, Dr. Panid Kulsiri, Ms. Lissara
Techasermsukkul, Ms. Thaw Dar Htwe, Ms. Kanittha Kwanchainond
(4/2011), Small and Medium Enterprises Development Policies of 4 ASEAN
Countries.
[103] Evolution of SME Policy in Japan and Korea, Evolution of SME
Policy in Japan and Korea: Experience and Policy Implications, School of
162
Public Policy and Management Tsinghua University.
[104] Financing Technology Entrepreneurs & Smes in Developing
Countries: Challenges and Opportunities, page 15-18.
[105] Hirofumi Ono Director General (November 19, 2014), Japan’s
Policies for Small and Medium Enterprises, JETRO Viennam.
[106] Jiang, J., Lin, Z., Lin, C., (2014), Financing Difficulties of SMEs
from Its Financing Sources in China, Journal of Service Science and
Management, 7, 196.
[107] Kellee S. Tsai (May 2015), Financing Small and Medium
Enterprises in China: Recent Trends and Prospects beyond Shadow Banking.
[108] Małgorzata Powiertowska (2015), Policy of small and medium-
sized enterprises in China, Uniwersytet Mikołaja Kopernika w Toruniu.
[109] Mr. Kota Nagai Associate Economist, Small & Medium
Enterprise Development Policies in Thailand, Institute for International Trade
& Investment (ITI).
[110] Organization for Small & Medium Enterprises and Regional
Innovation, Japan (2008), Small & Medium Enterprise Development Policies
in 6 ASEAN Countries.
[111] Organization for Small & Medium Enterprises and Regional
Innovation, Japan (March 2007), Small and Medium Enterprise Policies in
Japan and ASEAN-Member Countries.
[112] OECD (2017), Enhancing the Contributions of SMEs in a Global
and Digitalised Economy, Meeting of the OECD Council at Ministerial Level.
[113] Ramcharran, Harri (2017), Financing Small and Medium-Sized
Enterprises in Thailand: The Importance of Bank Loans and Financing
Diversification, the Journal of Entrepreneurial Finance: Vol. 19: Iss. 2, pp,
9/2017.
[114] Ruchkina, G., Melnichuk, M., Frumina, S., & Mentel, G. (2017),
Small and medium enterprises in the context of regional development and
163
innovations, Journal of International Studies, 10 (4), 259-271.
[115] Shigehiro Shinozaki (2012), A New Regime of SME Finance in
Emerging Asia: Empowering Growth-Oriented SMEs to Build Resilient
National Economies, ADB Working Paper Series on Regional Economic
Integration, 12/2012.
[116] Small and Medium Enterprise Agency, Ministry of Economy,
Trade and Industry (2013), Japan’s Policy on Small and Medium Enterprises
(SMEs) and Micro Enterprises, 9/2013.
[117] Stephen J. ezell and Dr. Robert D. Akinson (2011), International
Benchmarking of Countries’ Policies and Programs Supporting SME
Manufacturers, The information Technology & Innovation Foundation.
[118] Yuri Sato (2015), Development of Small and Medium Enterprises
in the ASEAN Economies.
[119] Wolfgang Lehmacher (2009), Executive Summary Small and
Medium Enterprises (SMEs) are a major contributor to the economies of most
countries around the world, representing large percentages,
https://slideplayer.com/slide/6201985/.
[120] World Bank Group (2018), Opportunities through Credit
164
Reporting, Secured Lending and Insolvency Practices, May 2018.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam
của ngân hàng, 2010 - 2020
Lãi suất cho Lãi suất cho Thời điểm có vay phổ biến STT Tên văn bản vay đối với hiệu lực trên thị DNNVV trƣờng
1 Thông tư số 14/4/2010 - Theo thỏa 2010:
12/2010/TT-NHNN 07/5/2012 thuận 15,27%
2011: 17 -
20%
2012: 12 -
15%
2 Thông tư số 08/5 - Bằng lãi suất 2012: 12 -
14/2012/TT-NHNN 10/6/2012 tiền gửi tối đa 15%
bằng VNĐ kỳ
hạn 1 tháng
trở lên do
NHNN quy
định +
3%/năm
3 Thông tư số 11/6 - 13%/năm 2012: 12 -
20/2012/TT-NHNN 23/12/2012 15%
4 Thông tư số 24/12/2012 - 12%/năm 2012: 12 -
33/2012/TT-NHNN 25/3/2013 15%
2013: 9 -
11%
165
5 Thông tư số 26/3 - 11%/năm 2013: 9 -
Lãi suất cho Lãi suất cho Thời điểm có vay phổ biến STT Tên văn bản vay đối với hiệu lực trên thị DNNVV trƣờng
09/2013/TT-NHNN 12/5/2013 11%
6 Thông tư số 13/5 - 10%/năm 2013: 9 -
10/2013/TT-NHNN 27/6/2013 11%
7 Thông tư số 28/6/2013 - 9%/năm 2013: 9 -
16/2013/TT-NHNN 17/3/2014 11%
2014: 7 - 9%
8 Quyết định số 18/3 - 8%/năm 2014: 7 - 9%
499/QĐ-NHNN 28/10/2014
9 Quyết định số 29/10/2014 - 7%/năm 2014: 7 - 9%
2174/QĐ-NHNN 14/3/2017 2015: 6 - 9%
2016: 6 - 9%
2017: 6 - 9%
10 Quyết định số 15/3 - 7%/năm 2017: 6 - 9%
277/QĐ-NHNN 09/7/2017
11 Quyết định số 10/7/2017 - 6,5%/năm 2017: 6 - 9%
1425/QĐ-NHNN 18/11/2019 2018: 6 - 9%
12 Quyết định số 19/11/2019 - 6%/năm 2019: 6 - 9%
2416/QĐ-NHNN 16/3/2020
13 Quyết định số 17/3 - 5,5%/năm 2020: 6 - 9%
420/QĐ-NHNN 12/5/2020 -
14 Quyết định số 13/5/2020 đến 5%/năm 2020: 6 - 9%
920/QĐ-NHNN nay
166
Nguồn: Nguyễn Cảnh Hiệp và tác giả tổng hợp
Phụ lục 2. Kết quả sản xuất - kinh doanh của DNNVV, 2011 - 2018
Bình
quân giai Bình quân Năm 2018 đoạn Loại hình giai đoạn Năm 2017 Năm 2018 so với 2016 - doanh 2011 - (Tỷ đồng) (Tỷ đồng) năm 2017 2018 so nghiệp 2015 (Tỷ (%) với 2011 đồng) - 2015
(%)
Doanh thu thuần
Doanh 401440 576929 614783 106,6 142,5
nghiệp siêu
nhỏ
2303593 3180669 3526971 110,9 138,6 Doanh
nghiệp nhỏ
Doanh 1176091 2042929 2298427 112,5 173,4
nghiệp vừa
Doanh 8546237 14859495 17197428 115,7 172,9
nghiệp lớn
Cả nước 12427360 20660022 23637554 114,4 165,6
Lợi nhuận trƣớc thuế
Doanh -12961 -26232 -39520 150,7 294,9
nghiệp siêu
nhỏ
-3946 -2030 -14789 728,5 Doanh
nghiệp nhỏ
Doanh 15744 36214 28121 77,7 194,8
nghiệp vừa
167
Doanh 459351 869583 921748 106 181,8
Bình
quân giai Bình quân Năm 2018 đoạn Loại hình giai đoạn Năm 2017 Năm 2018 so với 2016 - doanh 2011 - (Tỷ đồng) (Tỷ đồng) năm 2017 2018 so nghiệp 2015 (Tỷ (%) với 2011 đồng) - 2015
(%)
nghiệp lớn
Cả nƣớc 458189 877534 895748 102,1 180,8
168
Nguồn: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020
Phụ lục 3. Nguồn vốn của DNNVV đang hoạt động có kết quả sản xuất -
kinh doanh, 2011 - 2018
Đơn vị: Tỷ đồng, %
Bình
Năm quân giai Bình quân Loại hình 2018 so đoạn giai đoạn doanh Năm 2017 Năm 2018 với năm 2016 - 2011 - nghiệp 2017 2018 so 2015 với 2011 -
2015
1.486.163 2.401.536 3.981.904 165,8 201,6 Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
2.800.473 4.016.144 4.976.609 123,9 148,7 Doanh
nghiệp
nhỏ
1.374.910 2.595.009 2.874.832 110,8 185,7 Doanh
nghiệp
vừa
Doanh 1.316.3791 2.398.4021 27.091.925 113 179,5
nghiệp lớn
Cả nƣớc 18.825.338 32.996.710 38.925.270 118 177,1
169
Nguồn: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ ĐĂNG TRÊN CÁC TẠP CHÍ KHOA HỌC
VÀ KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ
1. Huy động vốn cho DNNVV qua tổ chức tín dụng và phát hành trái
phiếu, Tạp chí Tài chính, số 714, kỳ 1 tháng 10/2019.
2. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín
dụng đối với DNNVV tại Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, số
21 (534) - 2019.
3. Chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín
dụng đối với DNNVV tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Phát triển
DNNVV của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, tổ
chức tại Hưng Yên, ngày 15/11/2019.
4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tài chính đối với
DNNVV và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính
170
Tiền tệ, tháng 4/2021.
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
(Dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa)
-------------------------------------
(Các thông tin trong Phiếu khảo sát chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu Luận án
Tiến sĩ của Nghiên cứu sinh Ngô Xuân Thanh - Trường Đại học Kinh doanh
và Công nghệ Hà Nội, với đề tài “Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam”, làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện
chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong thời
gian tới. Nghiên cứu sinh xin cam kết những thông tin ghi trên phiếu khảo sát
sẽ được giữ bí mật và chỉ được công bố một cách trung thực, khách quan để
phục vụ duy nhất cho nghiên cứu này)
Thông tin về Nghiên cứu sinh (NCS):
- Họ và tên: Ngô Xuân Thanh
- Cơ quan công tác: Viện Chiến lược và Chính sách tài chính - Bộ Tài
chính
- Địa chỉ cơ quan: Số 7 Phan Huy Chú, Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Địa chỉ nhà riêng: P209-CT4A Khu đô thị Xa La, P. Phúc La, Q. Hà
Đông, Hà Nội
- Điện thoại: 0986.223.356
- Email: ngoxuanthanhvcl@gmail.com
Thời gian khảo sát: Năm 2021
NỘI DUNG CÂU HỎI KHẢO SÁT
1. Tên doanh nghiệp (Có thể điền hoặc không):…………………………..
2. Địa chỉ doanh nghiệp:……………………………………………………
171
3. Loại hình doanh nghiệp?
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp nhỏ
Khác…………………………………………………………………….
4. Ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp là gì?
Nông, lâm nghiệp, thủy sản
Công nghiệp, xây dựng
Thương mại, dịch vụ
5. Hình thức huy động vốn của doanh nghiệp là gì?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Từ Quỹ Bảo lãnh tín dụng
Từ Quỹ phát triển doanh nghiệp
Khác
6. Khả năng tiếp cận và vay vốn từ ngân hàng và tổ chức tín dụng của
của doanh nghiệp nhƣ thế nào?
Khó
Dễ
Bình thường
7. Nguyên nhân tác động đến khả năng tiếp cận và vay vốn từ ngân
hàng và tổ chức tín dụng của doanh nghiệp là do?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Thủ tục cho vay phức tạp
Năng lực tài chính hạn chế của doanh nghiệp
Không có tài sản đảm bảo
Lãi suất cho vay cao
Khác
8. Khả năng tiếp cận và vay vốn từ Quỹ Bảo lãnh tín dụng của của
doanh nghiệp nhƣ thế nào?
172
Khó
Dễ
Bình thường
9. Nguyên nhân tác động đến khả năng tiếp cận và vay vốn từ Quỹ Bảo
lãnh tín dụng của doanh nghiệp là do?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Thủ tục cho vay phức tạp
Năng lực tài chính hạn chế của doanh nghiệp
Lãi suất cho vay cao
Khác
10. Khả năng tiếp cận và vay vốn từ Quỹ phát triển doanh nghiệp của
của doanh nghiệp nhƣ thế nào?
Khó
Dễ
Bình thường
11. Nguyên nhân tác động đến khả năng tiếp cận và vay vốn từ Quỹ
phát triển doanh nghiệp của doanh nghiệp là do?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Thủ tục cho vay phức tạp
Năng lực tài chính hạn chế của doanh nghiệp
Lãi suất cho vay cao
Khác
12. Doanh nghiệp tự đánh giá thế nào về việc phân phối, sử dụng nguồn
lực tài chính, tín dụng của bản thân doanh nghiệp trong giai đoạn
2011 - 2020?
Hiệu quả
Chưa hiệu quả
13. Nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp phân phối, sử dụng nguồn lực
tài chính, tín dụng chƣa hiệu quả trong giai đoạn 2011 - 2020 là gì?
173
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Do chính sách của Nhà nước thay đổi ảnh hưởng đến doanh nghiệp
Do năng lực kinh doanh của doanh nghiệp chưa hiệu quả (như trình độ
nguồn nhân lực thấp…)
Do doanh nghiệp chậm thích ứng với môi trường kinh doanh
Khác
14. Doanh nghiệp có đƣợc thụ hƣởng chính sách hỗ trợ (miễn, giảm, gia
hạn…) về thuế GTGT không?
Có
Không
15. Khả năng tiếp cận chính sách hỗ trợ (miễn, giảm, gia hạn…) thuế
GTGT của doanh nghiệp nhƣ thế nào?
Khó
Dễ
Bình thường
16. Nguyên nhân của việc khó tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế GTGT
của Nhà nƣớc là gì?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Do thủ tục phức tạp
Không minh bạch, công khai về chính sách
Chi phí tiếp cận cao
Khác
17. Doanh nghiệp đánh giá chính sách giảm/gia hạn thuế GTGT nhƣ thế
nào?
Có hiệu quả
Không có hiệu quả
18. Đánh giá gì về thuế suất GTGT theo các quy định hiện hành?
Cao
Thấp
174
Phù hợp
19. Doanh nghiệp có đƣợc thụ hƣởng chính sách giảm/gia hạn thuế thu
nhập doanh nghiệp (TNDN)?
Có
Không
20. Khả năng tiếp cận chính sách hỗ trợ (miễn, giảm, gia hạn…) thuế
TNDN của doanh nghiệp nhƣ thế nào?
Khó
Dễ
Bình thường
21. Nguyên nhân của việc khó tiếp cận chính sách hỗ trợ về thuế TNDN
của Nhà nƣớc là gì?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Do thủ tục phức tạp
Không minh bạch, công khai về chính sách
Chi phí tiếp cận cao
Khác
22. Doanh nghiệp đánh giá chính sách giảm/gia hạn thuế TNDN nhƣ thế
nào?
Có hiệu quả (như giúp giảm chi phí đầu vào; ổn định và mở rộng thị
trường…)
Không có hiệu quả
23. Đánh giá gì về thuế suất TNDN theo các quy định hiện hành?
Cao
Thấp
Phù hợp
24. Doanh nghiệp tiếp cận chính sách đất đai của Nhà nƣớc nhƣ thế
nào?
Dễ tiếp cận
175
Khó tiếp cận
Khác
25. Nguyên nhân của việc khó tiếp cận chính sách đất đai của Nhà
nƣớc?
Có thể lựa chọn nhiều hơn 1 câu trả lời
Do thủ tục phức tạp
Không minh bạch, công khai về chính sách
Chi phí tiếp cận cao
Khác
26. Doanh nghiệp đánh giá nhƣ thế nào chính sách hỗ trợ về đất đai của
Nhà nƣớc?
Có hiệu quả (như giảm chi phí cho doanh nghiệp…)
Không có hiệu quả
176
Ý kiến khác.