LUẬN VĂN:
Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh rằng,
chính quyền trung ương yếu hay mạnh, đất nước thịnh hay suy, sự nghiệp thành hay bại
đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ chức xây dựng chính quyền cơ
sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là
gốc của chính quyền cách mạng. Chính quyền cơ sở có vững vàng thì nhà nước và chế
độ mới vững vàng. Quan điểm đó đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết công việc của
người dân, là nơi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã
hội ở địa phương. Chính quyền cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị
của nước ta.
Vì vậy, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở là đòi
hỏi khách quan của chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều kiện tất yếu đảm
bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở phường, xã, thị trấn", các cấp chính quyền cơ sở thường xuyên
được chăm lo củng cố, kiện toàn bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, đem lại sự đồng
thuận xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở ngày càng được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn, được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong thực tiễn. Tuy
nhiên, đứng trước nhu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, hệ thống chính trị
cấp cơ sở bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó vấn đề cán bộ, công chức làm việc ở chính
quyền cơ sở là một hạn chế quan trọng làm chất lượng hoạt động của hệ thống chính
quyền cơ sở bất cập trước đòi hỏi thực tiễn. Điều này khiến cho chính quyền cơ sở trở
thành khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống chính quyền cơ sở có vai trò
hết sức quan trọng, họ là những người thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp quan hệ với
nhân dân; tổ chức vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước và các hoạt động về đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân ở địa phương.
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều
bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là chất lượng, trình độ đào tạo;
năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới.
Để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cơ sở đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo tính kế thừa, chuyển tiếp giữa
các thế hệ một cách liên tục và vững chắc cần phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp
cơ sở có sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt
ra và nhân dân đòi hỏi ". Bên cạnh chính sách bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ, công chức
đang làm việc thì vấn đề thu hút đội ngũ trí thức được đào tạo cơ bản về làm việc ở
chính quyền cơ sở là một giải pháp rất đáng quan tâm, đặc biệt là thu hút những sinh
viên đã tốt nghiệp ở các trường đại học, một bộ phận đông đảo của đội ngũ trí thức,
những người có trình độ, tuổi trẻ, nhiệt huyết và họ là những người đang có nhu cầu tìm
kiếm việc làm.
Thế nhưng, trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở trẻ tuổi, có
trình độ đại học không đơn giản. Hầu hết các sinh viên ra trường, kể cả sinh viên cử tuyển
cũng tìm cách ở lại thành phố lập thân, lập nghiệp; một phần vì họ muốn tiến thân với
những kiến thức đã được trang bị trong giảng đường đại học, một phần vì phần lớn sinh
viên vẫn có quan niệm về làm việc ở phường, xã là không tương xứng với trình độ mà họ
được đào tạo. Hơn nữa, sinh viên mới ra trường về công tác tại cơ sở thì dù có lý lịch tốt
như thế nào, năng lực giỏi tới đâu cũng chỉ là nhân viên bình thường, rồi từng bước phấn đấu
rất gian nan, ở nhiều địa phương sinh viên về làm việc ở chính quyền cơ sở không được phân
công nhiệm vụ đúng với khả năng của họ, những kiến nghị, sáng kiến của sinh viên mới tốt
nghiệp đại học không được coi trọng do định kiến "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt";
trong khi đó công việc luôn đòi hỏi trách nhiệm cao do thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với
dân nhưng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức công tác ở chính quyền cơ sở còn chưa
tương xứng. Qua quá trình phấn đấu, họ rất dễ nản lòng, vì trong môi trường ấy họ rất lạc
lõng, thiệt thòi nên sẵn sàng bỏ việc đi tìm việc khác nhiều tiện nghi hơn, dễ tiến thân hơn.
Cũng trong tình trạng chung đó của cả nước, hệ thống chính quyền cơ sở ở Nghệ
An cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở ở đây chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Trong thời
gian qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp chính quyền ở Nghệ An cũng đã đưa ra nhiều
giải pháp, chính sách để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ
sở nhưng vẫn chưa có một chính sách nào để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong
khi đó, tại Hội nghị Trung ương chín khoá X, Đảng ta đã đưa ra chủ trương: " Nghiên cứu
chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ
tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công tác" [33, tr.57].
Trước thực tiễn đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải hoạch định một chính sách cụ thể
thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở nhằm trả lời cho
câu hỏi: Làm thế nào để sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc, gắn bó lâu dài và phát
huy hết khả năng, năng lực của họ ở hệ thống chính quyền cơ sở?
Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài " Chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở " làm luận văn thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu chính sách nâng cao chất
lượng và thu hút nguồn nhân lực có trình độ về làm việc ở chính quyền cơ sở đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau: Xây dựng Đảng,
Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế chính trị, Chính trị học... Các công trình nghiên cứu của
các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các sách, báo, tạp chí...
Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu như:
- Đề tài khoa học do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên (2002): "Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đề tài khoa học Độc lập cấp Nhà nước do GS, TS Hoàng Chí Bảo chủ nhiệm:
"Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố tăng cường hệ thống chính trị cơ sở trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay". Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Kỷ yếu khoa học tập I,II,III.
- Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Nguyễn Đăng Thành chủ nhiệm (2002):
"Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt
Nam" Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học.
- GS, TS Hoàng Chí Bảo (2002) "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và
những vấn đề đặt ra", Thông tin chính trị học, (2) tr. 13 - 18.
- Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Nxb Lao động Thương binh và xã
hội.
- Đề tài của TS Vũ Hoàng Công (2002) "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm,
xu hướng và giải pháp" - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Liên quan đến đề tài còn có luận văn:
- "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay - vấn đề và giải pháp", Luận văn
thạc sĩ Cấn Thị Dung (2003).
- "Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ
An", Luận văn thạc sĩ Trần Ngọc Danh (2005)
- "Hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kom Tum
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Võ Trọng Khoa (2007).
- "Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Trang (2008)
Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết
về vấn đề thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở đã được đăng tải trên các tạp
chí, các kỷ yếu khoa học, trên mạng Internet...
Nhìn chung, trên các bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ
bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực
tiễn nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trong đó, một giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức làm việc ở chính quyền cơ sở là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao; chu trình
hoạch định chính sách và những quy định cụ thể về chính sách chế độ đối với cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn... Đó là nguồn tư liệu quý giá và những gợi ý về phương pháp
luận giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài của mình.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại
học về làm việc ở chính quyền cơ sở dưới góc độ chính trị học, đặc biệt là đối với một
tỉnh có nhiều đặc thù như ở Nghệ An vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Vì vậy, tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần luận giải những vấn đề mà lý
luận và thực tiễn đã và đang đặt ra từ đó đề xuất một chính sách mới giải quyết phần
nào vấn đề đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quy trình hoạch định chính sách công, phân tích
nhu cầu lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất việc xây dựng và ban hành, triển khai chính
sách này nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ đề xuất các quá
trình cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công.
- Phân tích nhu cầu khách quan của việc lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế ở Nghệ An).
- Xác định nội dung, ban hành và đưa ra một số giải pháp có tính định hướng
cho việc triển khai thực hiện chính sách đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề hoạch định
chính sách; nghiên cứu thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học và chính quyền cơ sở ở
Nghệ An từ sau Đại hội Đảng lần thứ X.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý thuyết về chính sách
công; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách thu hút nguồn nhân lực cho chính
quyền cơ sở, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu
của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp logic và lịch sử.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Kết hợp phương pháp xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực
tiễn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu hút sinh viên
tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
- Góp phần hệ thống hoá những bước cơ bản trong quy trình hoạch định chính
sách công
- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở
và vai trò của chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc ở
chính quyền cơ sở.
- Đề xuất những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực thi chính sách thu hút
sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở đạt hiệu quả cao.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận văn có thể được dùng tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, công
tác nhân sự, công tác quản lý nhà nước; cung cấp những luận cứ khoa học cho các
nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng
dạy ở các Trung tâm Chính trị, Trường Chính trị tỉnh và trường đại học nước ta nói
chung, ở Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có 2 chương và
5 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định
chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học
về làm việc ở chính quyền cơ sở
1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công
1.1.1. Các cách tiếp cận chính sách công
1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công (Public Policy)
Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong khoa học hành chính nhưng
thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.
Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các phương tiện
thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, chính sách là
chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một
vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo
đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Hay
“Chính sách cũng là những hoạt động nên hay không nên làm do nhà nước quyết định
lựa chọn”[50, tr.45].
William Jenkin: “Chính sách cũng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn
nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt được mục tiêu đó”. (William Jenkin, 1978) [50, tr.56].
Căn cứ từ hiện thực chính sách ở nước ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà
nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số quan niệm về chính sách:
- Từ cách phân biệt "chính sách" theo "nghĩa rộng" và "chính sách" theo "nghĩa
hẹp". Các tác giả Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:" chính sách với
nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh
đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội ) tác động lên đối tượng
quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn
"chính sách" theo nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối,
nhiệm vụ trong một thời gian nhất định"[35, tr.45].
- Trong bài "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", tác giả Vũ Hoàng Công đưa ra
định nghĩa: "chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể
hiện thái độ quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động
nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội "[63, tr.200].
- Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành, "chính sách là tập hợp những văn bản theo
một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trình
hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể -
đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giá trị "[63, tr.12].
Về nghĩa hẹp, các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc
khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của
Chính phủ, chính sách của một bộ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách
của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội...
Các tổ chức, các hiệp hội, đoàn thể...có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp
dụng trong phạm vi một tổ chức, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm
giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ
chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư",
tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước
ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công.
Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói chung, nhưng chủ yếu tập trung vào
việc nghiên cứu các chính sách công nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản
lý của nhà nước.
Vậy chính sách công là gì?
ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ "chính sách công"
được sử dụng rất phổ biến. Cụ thể nêu ra một số quan điểm sau:
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R.
Dye, 1985) [23, tr.103].
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn có liên quan lẫn nhau, bao
gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các cơ quan chức
năng nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992) [36, tr.85].
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình
nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995)
[50, tr.158].
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/
chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của
công dân. (B. Guy Peters, 1999) [50, tr.92].
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một
nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson,
2003) [50, tr 109].
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính
quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu
chính sách đã được chấp thuận một cách hình thức, cũng như các quy định và thông lệ
của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004) [50,
tr.95]
B. Guy Peter: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”. (B. Guy
Peter, 1990) [50, tr.130].
Hoa Kỳ: Chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền thi hành đến
dân [18, tr.183].
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính
phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi
nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối
với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cho nền kinh tế,
khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn lực công một cách có
hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong
ngắn hạn lẫn trong dài hạn.
Nói cách khác, chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực
hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài
nguyên đất nước.
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn đang
là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới đây chúng tôi muốn
dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài
và trong nước để cùng tham khảo trước khi đi đến một định nghĩa thích hợp.
William Jenkin cho rằng: " Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên
quan đến nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc
lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó" [50, tr.75].
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập hợp
các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài.
- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói cách
khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà
nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
Thomas R.Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song định
nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái mà Chính
phủ lựa chọn làm hay không làm" [23, tr.45]. Ba mặt quan trọng của định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục tiêu"
hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình hành động riêng
biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tình với chính
sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách ra đời không
phải vì sự nhất trí về mục tiêu mà bởi vì nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với
chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm
khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh
những mục tiêu nhất định của Chính phủ).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựa chọn
làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng như việc quyết
định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp Chính phủ ra quyết định không
can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là những đề
xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện trên thực tế.
Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm hoặc không làm,
chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.
Wiliam N. Dunn cho rằng: "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn
liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước
hay các quan chức nhà nước đề ra" [50, tr.123]. Ông dùng thuật ngữ "sự lựa chọn" - đây là
điểm đáng lưu ý để tránh nhầm lẫn giữa chính sách với các khái niệm khác như các quyết
định hành chính.
Theo Peter Aucoin," Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính
phủ tiến hành" [36, tr.134]. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng
biệt của Chính phủ (quết định của chính quyền tỉnh về sự phát triển ở một vùng cụ thể)
vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng ( chính sách môi trường và quyết định
không hành động của nhiều chính phủ). Thông thường, thuật ngữ "chính sách" được sử
dụng theo nghĩa thứ hai - một chính sách được cấu thành từ một loại quyết định.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của
nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân" [36, tr.
65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là nhà
nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân
với tư cách là một cộng đồng.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm chính sách như sau: "Chính sách là
những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong
một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá…."[46, tr. 105].
Định nghĩa này không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách
chung chung là những chuẩn tắc (chuẩn tắc là gì?) để thực hiện đường lối, trong một
thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về
chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó.
Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế - xã hội", các tác giả đồng nhất chính sách
công với chính sách kinh tế - xã hội và đưa ra định nghĩa:"chính sách kinh tế - xã hội là
tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác
động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực
hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội ". Định
nghĩa này tuy có cố gắng nêu lên một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành chính sách kinh
tế - xã hội nước ta, song lại có những sự trùng lặp như: quan điểm - tư tưởng, giải pháp
- công cụ, đối tượng - khách thể quản lý.
Tuy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu trên,
song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất khác nhau. Thực ra,
tuỳ theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng
này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách
công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản
chất của chính sách công.
Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, chúng tôi thấy có những đặc trưng cơ
bản nhất như sau:
Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Nếu chủ thể ban hành
các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị - xã hội, cũng
như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức,
đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là
các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà
nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công , vừa là chủ thể ban hành "chính sách
tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là
những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan đó, không có
hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.
Chính sách công do nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính
sách của nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy
nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp…
ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường bắt gặp cụm từ "chính sách của Đảng và
Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành chính sách công.
Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. ở Việt Nam, Đảng cộng sản
là lực lượng chính trị chủ yếu và duy nhất lãnh đạo nhà nước thông qua việc vạch ra
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là những căn cứ chỉ đạo
để nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công
là do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các
chính sách này là sự cụ thể hoá về đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động hoặc không hành
động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không
chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao
gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.
Chính sách công trước hết thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách nhằm
làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự
định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. chính sách
công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những
kết quả thực tế.
Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của nhà
nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để
đạt được kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi.
Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá trình
hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý
khác như chiến lược, kế hoạch của nhà nước là những chương trình hành động tổng
quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách công là
chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan
lẫn nhau đang đặt ra trong xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại
hoặc có nguy cớ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách công
được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời
sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói,
vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai
đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách ). Việc giải quyết những vấn đề nói
trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết,
chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành
chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước.
Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa
chọn hành động của nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết
định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói
và hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt
hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng
hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau
trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có
thể được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực
thi, song nó còn gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc mà có tính
định hướng, kích thích phát triển.
Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ vô số các
quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà
nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) và
được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của nhà nước và các cấp, các ngành về vấn
đề này. Nghị định 44/Chính phủ của Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị
định đó đã mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ phần hoá ở nước ta. Chúng ta
có thể thấy, chính sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu như sau: "Chính sách
công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải
quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong một thời gian nhất định của đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội theo mục tiêu xác định".
Như vậy, chính sách công là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải
pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược.
1.1.1.2. Hoạch định chính sách công
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản của nhà nước sử dụng để phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu
quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy
trình chính sách, trong đó quy trình hoạch định chính sách - bước khởi đầu đặc biệt quan
trọng của quy trình chính sách.
Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên
quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định
(tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng cần có
chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào
đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính
sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy chính sách
công được hiểu là "những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển theo định hướng" [42, tr.21]. Hay chính sách công cũng chính là
"một chuỗi các quyết định hành động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung
đang được đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" [44, tr.53].
ở nước ta, chính sách thể hiện như một công cụ quản lý của Nhà nước và
được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất
quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…". Như vậy, chính
sách công là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước sử dụng để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách,
tiếp theo là thực thi chính sách và sau đó thực hiện phân tích chính sách để điều chỉnh,
bổ sung chính sách. Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình
chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học
sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại
hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế,
thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những
tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau.
xác định vấn đề chính sách
Hoạch định chính sách
Thực thi chính sách
Phân tích chính sách
phát hiện mâu thuẫn
duy tri chính sách
đánh gía chính sách
Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công
Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của nhà nước và được xây
dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để
tạo ra một chính sách công. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ban hành,
theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ dưới đây:
các uỷ ban của Quốc hội
quốc hội
vấn đề kinh tế
chín h sách cơ ban
chính phủ
vấn đề ngoại giao
Cơ quan có thẩm quyề n và dự thao
chính sách và các biện pháp cụ thể
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, xã hội kiến nghị
vấn đề xã hội.. ...
Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như
sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa
chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án đã chọn, thẩm định phương án
chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các
chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ
nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị
quyết của Chính phủ tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi năm 2002.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều
chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp
phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng bộc
lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ
quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường
do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan đặc biệt của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa
trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của
từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng
góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng
bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý
tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực
hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc thực thi không mang
lại hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính
sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu do các
bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ,
bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình
quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và
căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố để đề xuất
dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện
cụ thể của thực trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện
nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng
chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà nước không có
chính sách để điều chỉnh.
Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành
theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết
của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay,
quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy trình soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công
rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu,
công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành…
Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các
đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì còn hình
thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác,
chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các
nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách
nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách, việc dự báo
chính sách rất quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở nước ta việc dự báo chính sách
còn yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong
hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì
việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình hoạch định chính
sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của
những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh hưởng tới tính tự
giác thực hiện chính sách…). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ
quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm
quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức
một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các
phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách,
đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính sách đúng
đắn phải từ thực tế khách quan.
Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh
giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực
hiện chính sách và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực
tế.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện quy trình
hoạch định chính sách công của nhà nước ta trong thời kỳ mới. Với việc lấy Chính sách
thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh
Nghệ An ) làm trường hợp cụ thể, tác giả đề xuất một phương án mới cho quy trình
hoạch định chính sách đó là việc các nhà khoa học, những người hoạt động thực tiễn
trực tiếp chịu tác động của vấn đề chính sách đó đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách
lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan đó có thể xem xét nếu đó là
một ý tưởng hay, một vấn đề cấp thiết thì bổ sung hoàn thiện và đưa chính sách đó vào
cuộc sống.
1.1.2. Lựa chọn, hoạch định chính sách công
1.1.2.1. Lý do hoạch định chính sách
Khi hoạch định một chính sách, trước tiên phải thuyết phục được ý chí chủ thể về
sự cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng công cụ chính sách và qua chủ thể thuyết phục
các đối tượng thực thi chính sách về lợi ích kinh tế, xã hội,… của chính sách sẽ ban
hành. Đây được coi là phần mở đầu của một chính sách, để người tiếp cận có thể nắm
được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề chính sách. Toàn bộ nội dung thuyết
phục đó được gọi là lý do hoạch định chính sách.
Vấn đề chính sách được hiểu là những mâu thuẫn nảy sinh trong các lĩnh vực hoạt
động cần được giải quyết bằng chính sách để thoả mãn nhu cầu nhất định của xã hội.
Như vậy có thể thấy vấn đề chính sách là hạt nhân của chính sách, nó hướng các mục
tiêu, giải pháp cần có của chủ thể hoạch định chính sách vào giải quyết vấn đề, đồng
thời nó cũng thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào thực hiện
chính sách để giải quyết vấn đề cùng nhà nước.
Để bản chính sách có sức thuyết phục cao đối với cả người tổ chức và thực thi;
củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách của nhà nước chính sách đó cần đảm bảo
một số tiêu chí như:
- Tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội.
-Tính phức tạp của vấn đề chính sách.
- Tính thời cơ của việc ban hành chính sách.
- Khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước.
- Khả năng tồn tại của chính sách với các công cụ quản lý nhà nước.
- Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sách so với yêu cầu quản lý nhà
nước.
- Phải trình bày những căn cứ khoa học để hoạch định chính sách và những căn cứ
ban hành chính sách của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các căn cứ được nêu ngắn
gọn, xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất nước và nên hướng vào vấn đề chính
sách.
1.1.2.2. Ban hành chính sách
Sau khi nhà hoạch định dự thảo những nội dung chi tiết của chính sách, để chính
sách được chính thức ban hành phải trải qua một bước rất quan trọng, đó là quyết nghị
chính sách.
Quyết nghị chính sách là hình thức pháp lý hoá chính sách trước khi đưa vào thực
hiện để cho chính sách có được sức mạnh công quyền, thu hút được sự tham gia của cơ
quan nhà nước các cấp, của mọi tầng lớp nhân dân.
ở nước ta, với những chính sách do trung ương ban hành, theo quy định của Hiến
pháp việc quyết nghị chính sách do hai cơ quan thực hiện là Quốc hội và Chính phủ.
Quốc hội quyết định những chính sách lớn cơ bản còn Chính phủ quyết định những
chính sách cụ thể. Việc quyết nghị chính sách thường diễn ra trong các phiên họp Chính
phủ sau khi đã xin ý kiến của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản, do các thành
viên Chính phủ biểu quyết theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ. Chính sách được
ban hành dưới thể thức là nghị quyết Chính phủ theo quy định của Điều 56, khoản 1 - Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật*.
Với những chính sách do cấp Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, theo Điều 40 - Luật
Ban hành văn quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân [57] đã quy
định rõ: chính sách thông qua sau khi cơ quan tư pháp đã thẩm định dự thảo chính sách
do đại diện cơ quan soạn thảo đưa ra và khi có quá nửa tổng số thành viên uỷ ban nhân
dân biểu quyết tán thành. Chính sách chính thức có hiệu lực khi Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân thay mặt Uỷ ban nhân dân tỉnh ký ban hành.
Chính sách đã được ban hành nhưng để cho các cơ quan quản lý nhà nước và mọi
tầng lớp nhân dân biết để thực hiện, cơ qua ban hành chính sách cần phải công bố chính
sách bằng nhiều hình thức (kênh thông tin) để chính sách đến được với người dân như :
Đăng công báo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, qua các phương tiện báo chí, phát thanh
truyền hình…
1.1.2.3. Triển khai chính sách
Triển khai chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực, nói cách
khác đây là bước tổ chức thực thi chính sách để thực hiện các mục tiêu chính sách và
mục tiêu chung.
Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính
đúng đắn của chính sách được khẳng định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa nhận,
nhất là đối tượng thụ hưởng chính sách.
Thứ nhất, để triển khai chính sách một cách có hiệu quả, nhiệm vụ tiên quyết là
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết quan trọng vì * "Nghị quyết của Chính phủ được ban hành để quyết định chính sách cụ thể về xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên; bảo đảm thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; thực hịên chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo, quyết định chủ trương, chính sách cụ thể về ngân sách Nhà nước, tiền tệ, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh; thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước, các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; phê duyệt các điều ước thuộc thẩm quyền của Chính phủ."
tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó
phải có kế hoạch.
Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ
quan triển khai từ trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch gồm các bước như:
Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ
chế thực thi; Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị…; Kế hoạch
thời gian triển khai thực hiện; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến
về quy chế, nội quy tổ chức và điều hành thực thi chính sách.
Thứ hai, phổ biến tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau khi
chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp chính
quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có
hiệu quả.
Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần phải đầu tư về trình độ chuyên
môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật vì đây là đòi hỏi của thực tế khách
quan.
Việc tuyên truyền này cần phải được thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi
chính sách đang được thực thi, với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử
dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp…
Thứ ba, phân công phối hợp thực hiện chính sách: một chính sách thường được
thực hiện trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối
hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi
mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm, bởi
vậy việc phối hợp các cấp các ngành để triển khai một chính sách chủ động khoa học,
sáng tạo sẽ có hiệu quả cao và duy trì ổn định.
Thứ tư, duy trì chính sách. Đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát
huy tác dụng trong môi trường thực tế.
Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố,
như nhà nước là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để
chính sách được thực thi tốt.
Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào
thực thi chính sách. Nếu các việc này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách
là việc làm không khó.
Thứ năm, điều chỉnh chính sách, việc làm này rất cần thiết, diễn ra thường xuyên
trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (Thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh
chính sách).
Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính
sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết
sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách.Bất cứ triển khai
chính sách nào cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách được thực hiện
đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên
thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết
luận chính xác về chính sách.
Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế
của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.
Thứ bảy, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm. Khâu này được tiến hành liên
tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng
phần hay toàn bộ chính sách. ở việc đánh giá này phải được tiến hành đối với cả
các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách.
Triển khai chính sách
phân công phối hợp
kiểm tra đôn đốc
Cấp hoạch định chính sách
Cấp thực thi chính sách
điều chỉnh bổ sung
đáp ứng yêu cầu cấp dưới
duy tri tiến độ
Sơ đồ 1.3: Triển khai chính sách
1.2. Lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính
quyền cơ sở tỉnh Nghệ An - Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ban hành chính sách thu
hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở
Có thể khẳng định rằng, trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán
bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong những
nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói:"cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém".
Nghị quyết trung ương 3 khoá VIII của Đảng về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công
nghiệp hoá - hiện đại hoá tiếp tục khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công
hay thất bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng đảng"[27, tr.20]. Đại hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: một
trong những giải pháp nhằm đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phải là: "Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng
tốt, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát
hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có
đức, có tài, dù là đảng viên hay người ngoài Đảng" [31, tr.51].
Trên cơ sở những quan điểm về cán bộ, chính sách đối với cán bộ nói chung,
Đảng cũng đã đưa ra những quan điểm về đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở và vấn đề thu hút
sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Đảng ta nhận định đó là
những người trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Nghị quyết trung ương 5 (khoá IX) chỉ rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo
việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức
hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết
hợp lý và đồng bộ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở [30, tr.167-168].
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá X Đảng ta
nêu rõ chủ trương về ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công
tác ở cơ sở :
Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá…tạo bước
chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở" và
"để trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, cần
sớm ban hành chính sách thu hút để thực hiện chủ trương đưa sinh viên tốt
nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn…[32, tr.100].
Tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khoá X, Đảng ta tiếp tục
khẳng định điều này và yêu cầu tăng cường việc nghiên cứu chính sách đó. Đảng đã
khẳng định:
Nghiên cứu chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên
xuất sắc, các nhà khoa học trẻ tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công
tác [33, tr.257].
Đội ngũ cán bộ ở chính quyền cơ sở cơ sở là những người làm việc trong bộ máy
chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ này là thay mặt Đảng và Nhà nước trực tiếp lãnh đạo,
quản lý xã hội đến tận người dân. Họ trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
bảo đảm mọi quyền lực của công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân ở cơ sở, động viên quần chúng làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước. Họ là
mối liên hệ giữa Đảng với dân, là hiện thân niềm tin của dân đối với Đảng. Chính
thông qua đội ngũ cán bộ này mà ý Đảng lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng
và Nhà nước ở cơ sở ăn sâu bám rễ trong lòng quần chúng, tạo nên mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và chế độ…Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngang tầm
nhiệm vụ mới đồng thời củng cố và kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở là nhiệm vụ
hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn cách mạng.
1.2.2. Nhu cầu đòi hỏi cho việc lựa chọn
1.2.2.1. Vị trí của chính quyền, cán bộ, công chức ở cấp cơ sở
Chính quyền cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn, được bầu theo Hiến pháp và pháp luật. Theo quy định của pháp luật, "Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên". Theo Điều 2, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 thì:"Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân
dân bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự
chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ
sở".
ở nước ta, chính quyền cấp xã gồm xã, phường, thị trấn là chính quyền cơ sở, cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền địa phương. Ba loại hình này có nhiều nét chung
nhưng cũng có những điểm khác biệt. Sự khác biệt đó thể hiện ở các mối quan hệ trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, truyền thống, tính cộng đồng, địa lý, dân cư…Chính quyền
cấp xã có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà
nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ tới đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
của các cộng đồng dân cư và toàn thể người dân trong địa bàn; là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân
dân. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước đều phải được thực hiện ở cấp
xã.
Chính quyền cơ sở theo quan niệm chung còn được xác định là "trụ cột", "trung
tâm" của hệ thống chính trị cơ sở trong tổ chức, triển khai mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đảm bảo cho nó đi vào cuộc sống.
Chính quyền cơ sở với chức năng, thẩm quyền được thể chế hoá theo phân cấp cùng với
cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, công chức có thể thực hiện điều đó, mà khó có tổ chức
nào ở cơ sở thay thế được.
Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở đã đóng vai trò quan trọng trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công
vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị cơ
sở nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công
tác của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở. Có thể nói, đây là vấn đề đặc biệt
quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng
nhà nước dân chủ nhân dân cho đến nay.
Xuất phát từ quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định thành công hay thất bại của sự
nghiệp cách mạng, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[54, tr.269], "công việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"[54, tr.273]. Trong nhiều văn kiện của Đảng đều
khẳng định vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Hội nghị Trung ương 3 khoá
VIII của Đảng đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công của cách
mạng…Cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi
mới. Cán bộ nói chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền
tảng cơ sở…Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc
vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Với vị trí là "nền tảng cơ sở", vai trò
của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã được thể hiện qua bốn mối quan hệ:
với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với công việc; với
quần chúng nhân dân:
Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức chính quyền cơ
sở là mối quan hệ nhân quả. Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có phẩm chất
và năng lực tốt mới có thể cụ thể hoá, bổ sung hoàn chỉnh đường lối. Không có đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vững mạnh thì dù đường lối, nhiệm vụ chính trị
có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng
và Nhà nước.
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng
thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. ở đây, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân.
Trên ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: "Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng"[55, tr.269].
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố
"động" nhất của bộ máy chính quyền cấp xã; là người tổ chức và điều hành hoạt động
của bộ máy chính quyền cấp xã. Song đến lượt mình, cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã lại chịu sự chi phối, ràng buộc bởi quy định của tổ chức. Tổ chức bộ máy chính
quyền cấp xã buộc người cán bộ, công chức chính quyền cơ sở phải hành động theo
những nguyên tắc và khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ máy chính quyền khoa học và
hợp lý sẽ nhân sức mạnh của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã lên gấp bội. Cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã có sức mạnh khi gắn với tổ chức chính quyền và nhân
dân. Nếu tách rời khỏi tổ chức chính quyền thì cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
mất sức mạnh quyền lực và hiệu lực do nhân dân tạo nên.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đội ngũ cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã với tư cách là người thực thi pháp luật càng có vai
trò, vị trí quan trọng trong việc góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt trong
triển khai, tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã là lực lượng "nòng cốt" trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cấp
xã. Nói cách khác, mỗi cán bộ, công chức chính quyền cấp xã và đội ngũ ấy đang được
giao thực hiện khối lượng công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong
việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ của họ là
thực thi công vụ mang tính tự quản theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của thực
thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Đồng thời, chính họ cũng có khả năng đóng góp một
khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước cấp trên để xây dựng hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở gần dân có vai trò trực tiếp bảo đảm
kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn các hình thức vi
phạm pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu tranh
chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm cho
bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, nhân dân thể
hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Trong hệ thống chính trị nước ta, cán bộ cơ ở (xã, phường, thị trấn) là những
người ngoài việc trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn phải trực tiếp giải quyết hằng ngày,
hằng giờ những vấn đề dân quyền, dân sinh, dân trí ở cơ sở. Do vậy, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách nhằm đảm bảo
ổn định chính trị - xã hội, tạo ra động lực mới phát huy nội lực từ cơ sở. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nền tảng của mọi công tác là cấp xã"[53, tr.458] và
"cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công
việc đều xong xuôi"[53, tr.371].
Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
trong quá trình xây dựng đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã xác
định: xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là một trong ba vấn đề cơ bản, bức xúc nhằm đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở. Tuy nhiên, trong nhận thức và việc
làm vẫn có những ý niệm đơn giản về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã, chưa thấy hết được tính quyết định của họ đối với hoạt động quản lý hành
chính ở cơ sở. Việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với họ cũng chưa tương
xứng.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã là một lực lượng nòng cốt ở cấp
chính quyền cơ sở, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Việc chuẩn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
là đòi hỏi tất yếu, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
Theo thống kê, đội ngũ cán bộ chuyên trách và cán bộ công chức cấp xã trong
toàn tỉnh hiện nay có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bậc đại học chiếm tỉ lệ rất thấp.
Đây là khó khăn không nhỏ đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do chế độ tiền lương đối với
cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã còn thấp, không tạo được động lực để khuyến
khích cán bộ, công chức cấp xã học tập, nâng cao trình độ để thực hiện nhiệm vụ, cũng
như chưa tạo ra lực hút đủ mạnh đối với các đối tượng có trình độ chuyên môn về công
tác tại cơ sở. Vì vậy, xây dựng một chế độ ưu đãi hợp lý dành cho đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã là góp phần tạo lực hút đối với nguồn nhân lực có trình độ như sinh viên tốt
nghiệp ở các trường đại học về phục vụ chính quyền cơ sở; đồng thời giảm thiểu chi phí
dành cho việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã không đủ trình độ
và năng lực.
1.2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội và chính trị tỉnh Nghệ An
* Khái quát về kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội và chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạch định,
triển khai chính sách nói chung và chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác
tại chính quyền cơ sở nói riêng. Chính vì vậy, trước khi xem xét đánh giá thực trạng đội ngũ
cán bộ, công chức tỉnh Nghệ An và những nội dung cần có cho chính sách thu hút sinh viên
về làm việc ở xã, phường, thị trấn ở Nghệ An, cần khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh
Nghệ An.
Vị trí địa lý: Nghệ An nằm ở khu vực trung tâm Bắc miền Trung, có toạ độ địa lý
18°33′ đến 19°25′ vĩ Bắc và từ 102°53′ đến 105°46 kinh Đông, cách thủ đô Hà Nội 297
Km về phía Bắc, cách cố đô Huế 306 Km về phía Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá,
phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, phía
Đông giáp Biển Đông.
Địa hình: phức tạp, bị chia cắt bởi các hệ thống núi đồi, sông suối, hướng nghiêng
từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Địa - Kinh tế Nghệ An rất đa dạng về miền sinh thái,
có đủ các vùng núi cao, trung du, đồng bằng đô thị, ven biển, biên giới, hải đảo.
Khí hậu: Nghệ An nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt. Mùa nắng -
nóng kèm thêm gió lào, nhiệt độ nhiều ngày lên đến 38- 41oC gây khô hạn kéo dài,
thường có mưa lớn kèm theo lụt, bão. Mùa lạnh thường kèm theo khô hanh và rét đậm.
Đất đai: Diện tích đất tự nhiên là 16.487km², trong đó 3/4 là miền núi, vùng cao.
Diện tích đất nông nghiệp là 18 vạn hécta, trong đó có 3 vạn hécta đất đỏ Bazan có khả
năng trồng các loại cây công nghiệp; 115 vạn hécta có khả năng lâm nghiệp, trong đó
có 60 vạn hécta rừng với trữ lượng gỗ 40 triệu mét khối.
Điều kiện và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội :
Dân số: tỉnh Nghệ An (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009) có 2.913.055 người,
mật độ trung bình là 177 người/km². Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 1,7
triệu người, hằng năm được bổ sung trên 3 vạn lao động trẻ, trong đó 15% được đào tạo
nghề. Số người được đào tạo chủ yếu thuộc đồng bằng, thành thị, còn ở miền núi cao không đáng kể*. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 7 dân tộc anh em cùng sinh sống, người
Kinh chiếm 85% dân số sống hầu hết trên địa bàn tỉnh, tập trung chủ yếu ở đồng bằng,
thành phố, thị xã, thị trấn; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số (Thái, H' Mông,
Khơ mú, Thổ, ơ đu, Đan Lai) chủ yếu sống rải rác ở miền núi, vùng cao.
Về hành chính: Tỉnh Nghệ An có 20 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố
Vinh, thị xã Cửa Lò, thị xã Thái Hoà, 10 huyện miền núi: Quế Phong, Tương Dương,
Kì Sơn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh
Chương và 7 huyện đồng bằng: Đô Lương, Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Hưng
Nguyên, Yên Thành, Quỳnh Lưu. Có 474 đơn vị hành chính cấp xã gồm 432 xã, 25
phường, 17 thị trấn, trong đó: 115 đơn vị thuộc vùng cao; 127 vùng núi thấp và 227
thuộc vùng đồng bằng ven biển ( với 5.639 khối xóm)
Số lượng đơn vị hành chính cấp xã lớn, quy mô từng đơn vị hành chính không
đồng đều. Các xã miền núi, vùng cao thường có diện tích rất lớn nhưng dân số ít.
Các xã đồng bằng thì ngược lại, diện tích nhỏ nhưng dân số rất đông. Một số xã,
phường có quy mô lớn như: số xã có 10.000 người trở lên là 55 (chiếm 11,6 %), đặc
biệt xã Diễn Yên (Diễn Châu) 14.278 người, xã Nghĩa Lộc (Nghĩa Đàn) 14.183
người, Hưng Bình (TP.Vinh) 20.905 người. Số xã có diện tích tự nhiên từ 10.000 ha
trở lên là 43 (chiếm 9,07%), đặc biệt là xã Châu Khê (Con Cuông) 43.888,13 ha;
Thông Thụ (Quế Phong) 42.130,97 ha. Điều này dẫn tới khối lượng, độ phức tạp
trong quản lý điều hành của từng đơn vị xã không giống nhau. Do vậy, yếu tố số
lượng cán bộ và tổ chức bộ máy của từng xã cũng cần có quy định khác nhau nhất
định [17, tr.35].
Về văn hoá - xã hội: Nghệ An là vùng đất có nền văn hoá lâu đời, xuất hiện vào
hàng sớm nhất trong lịch sử Việt Nam với những minh chứng các di chỉ khảo cổ thời
tiền sử. Khắp nơi ở xứ Nghệ, ở đâu cũng ghi đậm dấu ấn lịch sử, văn hoá, những điển
* Theo điều tra của Sở Lao động, Thương binh và xã hội: số lao động có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên chiếm 1,5%, số có trình độ đại học trở lên là 0,8%.
tích, truyền thống về địa linh, nhân kiệt. Nằm trong mạch ngầm của truyền thống cách
mạng và đấu tranh kiên dũng, Nghệ An đã sinh dưỡng biết bao anh hùng, hào kiệt: Mai
Thúc Loan, Nguyễn Xí, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng
Lưu, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai…Đặc biệt, mảnh đất
địa linh, nhân kiệt, khí thiêng sông núi, truyền thống lịch sử văn hoá muôn đời đã kết
tinh lại trong một người con kiệt xuất của quê hương - Hồ Chí Minh, anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất.
ở các xã, bản, làng, thôn, xóm của Nghệ An đều có những phong tục, tập quán, với
nền văn hoá dân gian độc đáo. Người Nghệ An nổi tiếng bởi sự thông minh, hiếu học, cần
cù, chịu rèn luyện, trung thực, đoàn kết, thuỷ chung.
Hệ thống giáo dục đào tạo ở Nghệ An có quy mô khá lớn và toàn diện (3 trường
đại học, 4 trường cao đẳng, 5 trường trung cấp, trường chính trị tỉnh, 2 trung tâm giáo
dục thường xuyên, 19 trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và nhiều trung tâm dạy
nghề…)
Với đặc điểm tự nhiên, đất đai, tài nguyên, dân số và truyền thống văn hoá, truyền
thống cách mạng của mình, Nghệ An có nhiều thuận lợi để khai thác tiềm năng, phát
huy lợi thế phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện và vững chắc. Trong thời gian
gần đây, kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch đúng hướng, văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện.
* Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội những năm qua.
Phát huy truyền thống và những tiềm năng, lợi thế sẵn có, cùng với cơ chế chính
sách thông thoáng, Nghệ An đã tập trung khai thác nội lực, thu hút ngoại lực tạo nên
dấu ấn mới cho xứ Nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm
qua, thắng lợi có ý nghĩa lớn nhất là kinh tế phát triển nhanh và đúng hướng, tốc độ tăng
trưởng GDP khá cao, riêng năm 2008 đạt 10,6%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tích cực: nông nghiệp giảm từ 31,03% (năm 2007) xuống 30,48%, công
nghiệp, xây dựng tăng 32,01% lên 32,53%; dịch vụ tăng 36,96% lên 36,99%. Mặc dù
không điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế, xã hội khi lạm phát xuất hiện nhưng 18/22 chỉ tiêu về
kinh tế - xã hội vượt kế hoạch đề, đặc biệt một số chỉ tiêu chủ yếu như tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thu ngân sách, tổng sản lượng lương thực, giá trị sản xuất công nghiệp
và giảm tỷ lệ đói nghèo...
Các ngành kinh tế tăng trưởng mạnh đã tạo đà tăng thu ngân sách, tổng thu ngân
sách trên địa bàn đạt 2.801.514 triệu đồng, đạt 128% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh
giao. Huy động vốn đầu tư và xây dựng đạt khá: tổng nguồn vốn huy động đạt 16.619 tỷ
đồng/ KH 16.500- 17.000 tỉ đồng. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật được tăng cường đầu tư xây
dựng, nâng cấp. Bằng công sức đóng góp của nhân dân, hệ thống giao thông, thuỷ lợi ở
nông thôn từng bước được hoàn thiện. Diện mạo thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Thái Hoà
và các thị trấn, thị tứ ngày càng khang trang, xanh sạch đẹp, bộ mặt nông thôn khởi sắc.
Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, Nghệ An còn rất quan tâm phát triển các
lĩnh vực văn hoá, xã hội. Đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, phát huy truyền
thống hiếu học, phong trào thi đua học tập được phát triển mạnh. Hằng năm, số lượng
học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng không ngừng tăng. Các chương trình
văn hoá cơ sở phát huy hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao đời sống tinh thần cho
nhân dân. Đến năm 2008, toàn tỉnh có trên 85% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá,
phong trào thể dục thể thao quấn chúng phát triển mạnh.
Quốc phòng- an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững ổn định chính
trị ở tất cả các vùng, miền trong toàn tỉnh (vùng tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số và miền
núi biên giới hải đảo…
* Những khó khăn, hạn chế
Nghệ An là một tỉnh giàu tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội. Bên
cạnh những thuận lợi căn bản và những thành tựu đã đạt được, tỉnh Nghệ An đang phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức. Đó là xa các cực tăng trưởng và các trung tâm
kinh tế - văn hoá lớn của cả nước nên sức thu hút đầu tư thấp, phải vươn lên bằng nội
lực của chính mình. Diện tích Nghệ An lớn nhất cả nước, địa hình phức tạp, đồi núi
chiếm 83%, có 419 km đường biên giới, dân số đông với nhiều tộc người thiểu số và tôn
giáo; thiên nhiên khắc nghiệt, hậu quả chiến tranh nặng nề; điểm xuất phát về kinh tế
thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống hạ tầng xã hội còn yếu kém
là những rào cản không nhỏ trong quá trình phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
của tỉnh hầu như phải xây dựng lại từ đầu sau chiến tranh.
Trên 2/3 diện tích tự nhiên bao gồm 242 xã, với 1,4 triệu dân thuộc 7 dân tộc trong
đó chủ yếu là dân tộc thiểu số cùng sinh sống thuộc khu vực miền núi, vùng cao; địa
hình hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều núi đèo, sông suối; cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo nàn; đồng bào du canh, du cư còn nhiều, dân trí thấp, đời sống của các đồng bào
dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.
Tài nguyên, thiên nhiên phong phú về chủng loại nhưng trữ lượng nhỏ, lại nằm
vùng sâu, khó khai thác công nghiệp.
Công tác quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ cơ sở cũng gặp khó khăn, đặc biệt
ở huyện miền núi: Diện tích rộng, các xã, bản ở cách xa nhau, giao thông bị chia cắt,
thông tin bị gián đoạn…đặc biệt trong những mùa nước lũ.
Nghệ An có tiềm năng lớn về lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
nghề còn thấp. Sự phân bố dân số và trình độ dân trí không đồng đều, trình độ cán bộ cơ
sở còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền, đặc biệt đội ngũ cán bộ cơ sở ở
vùng cao trình độ còn rất thấp.
Bên cạnh truyền thống văn hoá với những bản sắc tốt đẹp rất đáng trân trọng, thì
con người xứ Nghệ thường nóng nảy, bảo thủ, còn ảnh hưởng không ít tư tưởng phong
kiến, tính cục bộ địa phương. Đây là một hạn chế của con người Nghệ An. Phần đông
những người đỗ đạt thường đi "thoát li", ít ở lại quê hương sinh sống, lập nghiệp, cống
hiến tài năng góp phần xây dựng quê hương. Mặt khác, do tư tưởng hẹp hòi, cục bộ nên
cũng khó khăn trong việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài về tham gia xây dựng làng xã,
quê hương.
Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và điều hành đội
ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung và chính quyền cơ sở nói
riêng. Đó cũng chính là rào cản hạn chế sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cơ sở trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An.
Một điểm đặc thù khác cũng phải lưu ý ở Nghệ An là ngay ở cơ sở xã, phường đã có
một đội ngũ đông đảo các đồng chí cán bộ đảng viên có quá trình công tác, có trình độ, còn
nhiệt huyết về nghỉ hưu tham gia công tác. Bên cạnh thuận lợi thì đó cũng là một thách thức
đòi hỏi hệ thống chính trị cơ sở, cán bộ cơ sở phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo
đức và khả năng lãnh đạo.
Cho đến nay, so với tình hình chung cả nước, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo.
Mức tăng trưởng kinh tế vẫn ở dạng tiềm năng. Nền kinh tế chủ yếu vẫn là kinh tế nông
nghiệp, đến năm 2008 trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn
(30,48%), so với công nghiệp, xây dựng (32,53%); chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm,
hiệu quả sản xuất chưa cao; sức cạnh tranh của sản phẩm nội tỉnh yếu. Tốc độ đô thị hoá
chậm. Thu nhập bình quân đầu người mới chỉ bằng 64% mức bình quân chung cả nước,
nội lực trong dân còn rất mỏng, nguồn thu ngân sách chỉ mới đáp ứng được 62% nhu
cầu thường xuyên, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao (7,84% theo chuẩn mới). Lao động thiếu
việc làm còn lớn.
Nhiều vấn đề xã hội như: Tệ nạn ma tuý, tham nhũng, lãng phí, tội phạm còn diễn
biến phức tạp, tai nạn giao thông còn nhiều, an ninh biên giới, vùng dân tộc thiểu số,
vùng tôn giáo vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại.
Đời sống của nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng ở một số đảng bộ cơ sở
còn hạn chế. Hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số
vẫn còn nhiều bất cập, cải cách hành chính chưa có bước tiến bộ đáng kể.
Với những đặc điểm và hạn chế nêu trên, gây những khó khăn nhất định trong
việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn. Do vậy, đòi
hỏi cán bộ, Đảng viên và mọi người dân Nghệ An nói chung và đội ngũ cán bộ, công
chức ở chính quyền cơ sở nói riêng phải luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, vừa tháo
vát, mưu trí, vừa phải có sức khoẻ, đồng thời phải có kiến thức trình độ nhất định về
các mặt để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của
Tỉnh trong giai đoạn mới.
Thông qua việc xem xét, phân tích kỹ những điều kiện, môi trường sống và làm
việc của người cán bộ công chức cấp xã để thấy được những thuận lợi, khó khăn
trong quá trình hoạt động công tác, cũng như trong việc phấn đấu rèn luyện, học tập
và trưởng thành đối với người cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở. Đồng thời
cũng nhìn nhận những điều kiện sinh sống, học tập, quê hương của nhưng sinh viên
tốt nghiệp đại học, đối tượng thu hút về công tác ở chính quyền cơ sở trên địa bàn
tỉnh Nghệ An. Đây cũng là những căn cứ thực tiễn để tác giả đề xuất những nội dung
thu hút và kiến nghị giải pháp đúng và phù hợp: đảm bảo giữa tính đổi mới và tính
kế thừa, vừa đảm bảo những tiêu chí tuyển dụng, chế độ đãi ngộ theo tiêu chuẩn
chung, vừa đáp ứng yêu cầu cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh
Nghệ An. Nhằm thu hút được những sinh viên có trình độ khá giỏi, phẩm chất đạo
đức tốt, có ý chí vươn lên về công tác tại chính quyền cơ sở để từng bước xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trẻ tuổi, có trình độ chuyên môn và trình độ lý luận
tốt, năng động, nhiệt huyết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới - giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
1.2.2.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở ở Nghệ An
* Khái quát chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở
tỉnh Nghệ An
Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:
Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004
của Bộ trưởng Bộ nội vụ thì các chức danh cán bộ chuyên trách như: Bí thư, Phó bí thư
và Thường trực Đảng uỷ; Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ở khu vực
đồng bằng, đô thị phải có trình độ chính trị và chuyên môn từ trung cấp trở lên. Riêng
đối với các chức danh cán bộ chuyên trách còn lại như: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ,
Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thì tiêu chuẩn phải có trình độ văn
hoá trung học cơ sở trở lên, được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực công tác.
Hiện tại, toàn tỉnh có 4987 cán bộ chuyên trách, trong đó có 2203 người chưa qua
đào tạo (chiếm tỷ lệ 44 %), 237 người có trình độ sơ cấp (5%), 1482 người trình độ
trung cấp và cao đẳng (30%), 1065 trình độ đại học và sau đại học (21%).
Theo đó, tổng số cán bộ chuyên trách cấp xã đạt chuẩn về chuyên môn so với quy
định là 2547 trường hợp (chiếm 51%), tổng số cán bộ chuyên trách cấp xã chưa đạt
chuẩn về chuyên môn theo quy định là 2440 trường hợp (chiếm 49 %) (phụ lục 1).
Thực tế cho thấy, số lượng cán bộ chuyên trách cấp xã, lực lượng lãnh đạo nòng
cốt ở cơ sở chưa đạt chuẩn về chuyên môn còn rất lớn, việc nâng cao trình độ chuyên
môn của đội ngũ này là nhiệm vụ cấp bách đối với cấp chính quyền cơ sở nhằm phục vụ
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.
Đối với công chức cấp xã
Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004
của Bộ trưởng Bộ nội vụ thì 7 chức danh công chức cấp xã như: Trưởng Công an, Chỉ
huy Trưởng Quân sự, Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng,
Văn phòng - Thống kê, văn hoá - xã hội phải có chuyên môn từ trung cấp trở lên và có
chuyên ngành phù hợp chức danh công chức đảm nhận.
Hiện tại, toàn tỉnh có 4138 công chức cấp xã, trong đó có 624 người chưa qua đào
tạo (chiếm tỷ lệ 15.1%), 102 người có trình độ sơ cấp (2.5%), 2 824 người có trình độ
trung cấp và cao đẳng (68.2%), và 587 người có trình độ đại học (14.2 %).
Theo đó, tổng số công chức cấp xã đạt chuẩn về chuyên môn theo quy định là
3411 trường hợp (chiếm tỷ lệ 82%), tổng số công chức cấp xã chưa đạt chuẩn về chuyên
môn theo quy định là 724 trường hợp (chiếm tỷ lệ 18 %) (phụ lục 2).
Căn cứ Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 và Thông tư liên tịch số
34/2004/TTLT/BNV-BTC-BLĐTBVXH ngày 14/5/2004 của liên Bộ Nội vụ - Bộ Tài
chính - Bộ Lao động Thương binh và xã hội thì đến ngày 31/12/2006, 05 chức danh
công chức cấp xã (Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Văn
phòng - Thống kê, văn hoá - xã hội) phải đào tạo chuẩn theo Quyết định số
04/2004/QĐ- BNV, nếu không đạt chuẩn phải xem xét giải quyết từng trường hợp cụ
thể. Trong khi đó, đến thời điểm cuối năm 2008, theo số liệu thống kê cho thấy chất
lượng công chức của tỉnh còn khá thấp so với trình độ chuẩn theo Quyết định số
04/2004/QĐ- BNV cũng như thực tế yêu cầu quản lý đặt ra đối với tỉnh Nghệ An
* Những ưu điểm và tồn tại hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cơ sở ở Nghệ An
Về ưu điểm:
Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Nghệ An đã từng bước trưởng
thành và có nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước qua các thời
kỳ cách mạng, trong 2 cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại của nhân dân ta. Phần đông
vẫn giữ được bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm trong chỉ đạo và thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước có sự
chuyển biến và nâng lên một bước. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn đã
năng động và sáng tạo hơn trong việc thực thi nhiệm vụ và đóng vai trò tích cực vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
góp phần trực tiếp ổn định tình hình cơ sở tạo nền tảng cho sự đổi mới về mọi mặt trong
khu nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới - công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; trước yêu cầu nhiệm vụ mới, đội ngũ cán bộ cơ sở Nghệ An còn bộc
lộ nhiều điểm bất cập cần phải được quan tâm giải quyết.
Những mặt tồn tại hạn chế:
Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ công chức xã, phường, thị trấn hiện nay khá đông về số
lượng, song còn một số lượng lớn chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống về các mặt, đặc
biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà
nước và khả năng kỹ thuật sử dụng tin học..trong tác nghiệp, nhất là ở các xã miền núi,
vùng cao dẫn đến hạn chế nhiều mặt trong quản lý điều hành cơ sở.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên trách xã còn có 44% chưa qua đào tạo về chuyên
môn, 62% chưa được đào tạo, bồi dưỡng và 32% mới bồi dưỡng ngắn ngày về quản lý
nhà nước; đặc biệt là ở các xã vùng cao thì tỷ lệ cán bộ chưa được đào tạo về chuyên
môn, chưa được bồi dưỡng, đào tạo về quản lý nhà nước còn cao hơn trung bình toàn
tỉnh rất nhiều.
Đội ngũ công chức cấp xã trên toàn tỉnh hiện đang còn 15.1% công chức chưa qua
đào tạo ở một trường lớp chuyên môn nào;50% công chức chưa qua đào tạo bồi dưỡng
về lý luận chính trị; 76% chưa được đào tạo kiến thức quản lý nhà nước…, thấp nhất
vẫn là ở vùng cao.
Đây là điểm yếu cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và ở miền núi
vùng cao Nghệ An nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, khi cả nước ta đang tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nông thôn nói riêng, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang tăng cường phân cấp và trao
quyền tự chủ cho cơ sở, đầu tư nhiều vật lực, tài lực và dành nhiều dự án, chương trình
mục tiêu nhằm hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế- xã hội nông thôn phát triển, đặc biệt là ở khu
vực miền núi, vùng cao nơi mà kinh tế xã hội còn có nhiều khó khăn thì với đội ngũ cán
bộ cơ sở hầu hết chưa được qua đào tạo cơ bản là một trở ngại không nhỏ.
Do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cộng thêm sự non yếu về trình độ lý
luận và quản lý nhà nước đã dẫn tới sự hạn chế về năng lực quản lý, điều hành công
việc. Không ít cán bộ chưa nắm chắc chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền được giao nên
giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tuỳ tiện, xử lý các công việc không đúng
pháp luật, vi phạm chính sách của Đảng và Nhà nước. Có nhiều vụ việc mới phát sinh
không nắm bắt được, dẫn đến bỏ sót một số công việc thuộc thẩm quyền của mình, xử
lý không kịp thời hoặc còn lúng túng, trong khi đó lại ôm đồm, lấn sang công việc khác
ngoài phạm vi phụ trách của mình.
Thứ hai: Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cơ sở chưa hợp lý, tuổi đời tương đối già:
Tuổi từ 35 - 45 là 1705 người chiếm 33,2%, từ 46 - 55 là 2237 người chiếm
44,9%, trên 55 tuổi là 463 người chiếm 9,3% ; độ tuổi dưới 35 chỉ có 573 người (chiếm
11,5%). Cán bộ trẻ, cán bộ nữ có rất ít, hoặc nhiều nơi không có.
Thứ ba: Độ tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ xã hiện nay không cao, lòng tin
của nhân dân, đối với cán bộ xã bị suy giảm*.
Thứ tư: về hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn điều hành, quản lý kinh tế -
* Kết quả điều tra xã hội học của Sở Nội vụ Nghệ An cho thấy: khi hỏi về phẩm chất đạo đức và uy tín của đội ngũ cán bộ xã hiện nay như thế nào thì các ý kiến trả lời như sau: tốt 50%, trung bình 36%, yếu kém 3,33% và khó trả lời là 10%
xã hội ở cơ sở của đội ngũ cán bộ cấp xã, đặc biệt là đối với cán bộ chủ chốt chưa cao.
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước nói chung và tỉnh
Nghệ An nói riêng, đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay còn nhiều hạn chế, về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay**.
Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên:
Thứ nhất: Các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của Hệ thống
chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; quan liêu, không sát cơ sở, không
sát nhân dân, không kịp ban định các chủ trương, chính sách để củng cố, tăng cường các
tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở.
Công tác chỉ đạo kiểm tra đôn đốc thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở, hướng về
cơ sở của các cơ quan chức năng cấp huyện và một số cơ quan, ban ngành cấp tỉnh chưa
thường xuyên và trách nhiệm chưa cao. Một số vụ, việc vi phạm pháp luật, tham ô, lãng
phí của cán bộ cơ sở chưa được phát hiện và xử lý kịp thời hoặc xử lý chưa nghiêm nên
chưa có tác dụng ngăn chặn, răn đe sự sai phạm của cán bộ cơ sở. Việc chấp hành pháp
chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm. Không ít chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, trong đó có cả công tác tổ chức và cán bộ chưa được thực thi một cách
nghiêm túc nên hiệu lực và hiệu quả không cao.
Thứ hai: Công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ, công chức cơ sở làm chưa
tốt. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến đội ngũ cán bộ cấp xã vừa ít được đào tạo
vừa có chất lượng thấp.
Công tác quy hoạch cán bộ cấp xã chưa được các cấp, các ngành quan tâm chú ý
thực hiện thường xuyên, chưa thành quy chế bắt buộc đối với cán bộ cơ sở. Hầu hết các
địa phương chưa làm tốt công tác quy hoạch cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ về
** Kết quả điều tra xã hội học của Sở Nội vụ Nghệ An cho thấy:76,89% số ý kiến được hỏi cho rằng nằng lực quản lý kinh tế - xã hội của cán bộ cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu nhịêm vụ trong giai đoạn hiện nay; đối với các chức danh chủ chốt xã năng lực chỉ được đánh giá ở mức trung bình. Đặc biệt một số cán bộ được đánh giá là có năng lực yếu là Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội nông dân, Phó chủ tich HĐND, Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch Hội phụ nữ.
mọi mặt của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa theo kế hoạch, còn mang tính tự phát của
từng địa phương hoặc từng cá nhân là chủ yếu; việc đào tạo cán bộ ở vùng cao, vùng
tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số chưa được chú ý đúng mức.
Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa công tác quy hoạch, tạo nguồn với công tác
đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ, đào tạo ngành nghề chưa phù hợp với vùng, miền
trong tỉnh.
Quy định tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ ở cơ sở thiếu cụ thể, dẫn đến hiện
tượng bố trí cán bộ một cách tuỳ tiện; nhiều nơi nhiều lúc còn thiên về tình cảm cá
nhân. Cán bộ được đào tạo về không được bố trí, sử dụng, trong lúc đó lại bố trí sử dụng
người chưa được qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ không phải là hiếm ở các địa
phương. Do vậy, số cán bộ được đào tạo cơ bản bổ sung cho đội ngũ cán bộ cấp xã đã
ít, số cán bộ được sử dụng hợp lý sau đào tạo lại còn ít hơn.
Thứ ba: Về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã.
Cán bộ chuyên trách cơ sở chưa được xếp vào loại cán bộ công chức nhà nước và
hưởng hệ số lương chưa tương xứng với công việc được giao; cán bộ không chuyên
trách hưởng sinh hoạt phí (chưa phải là lương), trong khi đó, trên thực tế họ làm việc
trong một môi trường, thời gian như nhau. Hoạt động của chính quyền cơ sở chưa thực
sự được coi như một hoạt động chuyên môn chuyên nghiệp. Công việc của người cán
bộ chính sách (trừ công chức xã) chưa được coi là một nghề. Còn có tư tưởng phân biệt
đối xử khác nhau giữa cán bộ công chức cấp xã với cán bộ công chức cấp trên. Do vậy,
chưa tạo được sự thu hút những người có trình độ, được đào tạo cơ bản về tham gia
công tác cơ sở, nhất là lớp trẻ được đào tạo cơ bản từ các trường đại học.
Chế độ chính sách đối với cấp xã nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng như
tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, hưu trí …, tuy đã được điều chỉnh nhiều lần, song
nhìn chung vẫn còn mang tính tình thế chưa có hệ thống chính sách đồng bộ, lâu dài,
mang tính chiến lược (từ việc đào tạo, thu hút, bồi dưỡng đến việc bố trí, sử dụng, chế
độ đãi ngộ,…); ngoài các chính sách chung, chưa có chính sách cụ thể mang tính đặc
thù cho từng vùng, từng khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
* Mục tiêu đào tạo, bổ sung cán bộ, công chức cấp xã.
Từ thực trạng chất lượng chuyên môn của cán bộ chuyên trách và công chức cấp
xã, đặt ra nhu cầu phải nâng cao cũng như bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ đạt và
trên chuẩn cho cấp xã là rất lớn.
Đối với cán bộ chuyên trách: Đến năm 2010 thì 100% cán bộ có trình độ trung cấp
trở lên, trong đó có từ 50% đến 60% có trình độ cao đẳng, đại học. Nh vậy, nhu cầu bổ sung, thay thế đối với cán bộ chuyên trách giai đoạn năm 2010 là 2440 cán bộ*.
Đối với công chức cấp xã: Đến năm 2010 thì 100% công chức có trình độ chuyên
môn trung cấp phù hợp với chức danh đảm nhận, trong đó có 30% đến 40% có trình độ
cao đẳng, đại học. Như vậy, nhu cầu bổ sung thay thế đối với 05 chức danh công chức
cấp xã (trừ 02 chức danh Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng chỉ huy quân sự) là 726
người.
1.2.2.4. Tình hình sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nghệ An
Đối tượng thu hút của "Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác
tại chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An)" là những sinh viên đã tốt nghiệp đại
học, tuổi đời chưa quá 35, họ có những đặc điểm riêng: tuổi đời còn trẻ, có tri thức, đã
được đào tạo chuyên môn vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và
sáng tạo. Đây cũng là đối tượng xưa nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã
hội.
Ngày nay, vai trò của sinh viên trong bức tranh xã hội ngày càng được ghi nhận
đậm nét. Trong Hiến chương nhân bản 2000 được 86 học giả và các nhà hoạt động xã
hội tên tuổi trên thế giới cùng ký tên đã nhận xét:"Hiến chương nhân bản II được công bố
năm 1973 để ứng xử các vấn đề phát sinh trên hiện trường thế giới, kể từ đó: sự trỗi dậy của
chủ nghĩa Phatxit, chiến tranh lạnh …và sự xuất hiện của sức mạnh sinh viên trong các
* do chỉ tiêu Kế hoạch Chương trình 4 đề ra đến năm 2010: Đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã phải có trình độ trung cấp chuyên môn; trong khi đó tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV thì chỉ cần trình độ văn hoá trung học cơ sở và được bồi dỡng về nghiệp vụ đối với các chức danh: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
trường đại học" [74].
ở Việt Nam, những sinh viên tốt nghiệp đại học là những trí thức mới của đất
nước, chính họ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa
học kỹ thuật, nên rất cần có những người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo, có
khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biến đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự
thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong "Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp
Tết Nguyên đán 1946" đã viết: "Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi
trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Và người căn dặn: "Thanh niên sẽ làm chủ nước
nhà. Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên"[55, tr.259].
Giáo sư, Tiến sĩ người Mỹ Joseph Stiglitz đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 vì
những cống hiến xuất sắc trong nghiên cứu khoa học về quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển, trong chuyến thăm và làm việc ở nước ta
cuối tháng 6 - 2001 cũng nhận xét về thế hệ trẻ ở các nước đang phát triển: "môi trường
mới đòi hỏi tư duy phải đổi mới nhanh nhạy để phù hợp và giới trẻ thích nghi dễ dàng
hơn so với những người già. (…) chính họ đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc
hình thành một tư duy kinh tế mới" [74].
Tuổi trẻ là nền tảng cho một đời người. Với sinh viên mới tốt nghiệp đại học, họ
vừa trải qua những năm tháng ngồi trên ghế giảng đường đại học là quãng thời gian vô
cùng quan trọng trong quá trình lâu dài tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư
duy và bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này con người trưởng thành và bước vào
đời. Nếu điểm xuất phát tốt, họ sẽ đạt được những bước đi dài, ổn định và vững chắc
trong tương lai; ngược lại con đường đi lên sẽ gặp trắc trở khó khăn. Một đất nước Việt
Nam có phồn vinh và vững mạnh trong tương lai hay không là phụ thuộc phần lớn vào
thế hệ trẻ sau này, trong đó có sinh viên.
Nghệ An là một địa phương có truyền thống hiếu học và học giỏi, hằng năm tỉnh
Nghệ An có hàng ngàn em là tân sinh viên của các trường đại học khắp cả nước. Riêng
năm 2009, chỉ một huyện Thanh Chương đã có 700 em đậu đại học nguyện vọng 1 và
1.500 em đậu nguyện vọng 2, 3; Chỉ một trường làng ở huyện Yên Thành (Trường Phổ
thông trung học Yên Thành II) đã có 144 em đậu đại học nguyện vọng 1. Đặc biệt có
229 em đạt 27 điểm trở lên trên tổng 3.175 của cả nước, trong đó có 15 em là thủ khoa
của các trường đại học, là một trong 10 tỉnh có học sinh đậu đại học nguyện vọng 1 cao
nhất của cả nước. Đây là nguồn "tài nguyên vô giá" để tỉnh Nghệ An thu hút những sinh
viên ưu tú về xây dựng quê hương sau khi các em tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 3 trường đại học, trong đó có
một trường đại học đa ngành, một trường đại học công nghệ và một trường đại học sư
phạm kỹ thuật.
Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh là trường đại học công lập có chức năng đào tạo
giáo viên dạy nghề và kỹ sư kỹ thuật, công nghệ có trình độ đại học, hiện nay trường có
2952 sinh viên đang theo học tại 6 ngành nghề khác nhau tại các khoa đào tạo.
Bảng 1.1: Số lượng sinh viên đã tốt nghiệp của đại học sư phạm kỹ thuật Vinh
Môn / khoá 2007 2008 2009
Tin học ứng dụng 92 131 309
Công nghệ kỹ thuật điện tử viễn thông 85 159 251
Công nghệ kỹ thuật điện 89 248 455
Công nghệ chế tạo máy 71 240 360
Công nghệ kỹ thuật ôtô 78 236
Sư phạm kỹ thuật công nghiệp 58
Tổng 337 856 1759
Nguồn: Phòng Đào tạo, đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh.
Đại học Công nghệ Vạn Xuân là một trường đại học tư thục mới được thành lập,
trường có chức năng đào tạo nhân lực có trình độ đại học của nhiều ngành nghề như:
Công nghệ sinh học cây trồng; Công nghệ sinh học vật nuôi; Công nghệ sinh y học;
Công nghệ môi trường; Kế toán và kiểm toán; Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán
Tài chính doanh nghiệp; Quản trị nhân sự; Quản trị kinh doanh bất động sản; Tiếng anh
phiên dịch.
Trường đại học Công nghệ Vạn Xuân khai giảng khoá đầu tiên vào tháng 11 năm
2009 với 88 sinh viên theo học tại 4 khoa: Quản trị kinh doanh, Công nghệ sinh học,
Ngoại ngữ và nghiên cứu quốc tế; Khoa Tài chính - Ngân hàng - Kế toán.
Trường đại học Vinh là một trường đại học đa ngành, được biết đến như một
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ lớn
của đất nước, với quy mô gần 36000 sinh viên, từ 54 tỉnh thành trong cả nước theo
học tại 47 chuyên ngành ở 19 khoa khác nhau để nhận bằng cử nhân hoặc kỹ sư hệ
chính quy. Hằng năm, hàng nghìn sinh viên đã tốt nghiệp, họ là lực lượng lao động
có trình độ bổ sung vào nguồn nhân lực của cả nước. Cụ thể như, năm 2006 có 1252
sinh viên tốt nghiệp tốt nghiệp, năm 2007 là 1739 sinh viên, năm 2008 là 1836 sinh
viên và đến tháng 7 năm 2009 là 1542 sinh viên được công nhận là tốt nghiệp ra
trường (xem bảng 1.2).
Bảng 1.2: Số lượng sinh viên các khoa đào tạo của Đại học Vinh
Năm học TT Ngành Mã ngành
2006 - 2007 2007- 2008 2008 - 2009
Nhóm ngành kinh tế - tài chính, Ngân hàng, pháp lý, Đa ngành và cộng đồng
229 219 1 Cử nhân Toán 103 242
116 173 2 Toán - tin ứng dụng 109 60
189 184 3 Cử nhân Lý 105 155
216 234 4 Cử nhân Hoá 202 205
171 227 5 CN thực phẩm 204 105
172 189 6 Cử nhân Sinh 302 191
104 265 7 KH môi trường 306 38
198 315 8 Ctrị - Luật 502 86
200 445 9 Luật 503 0
739 724 10 Cửnhân Văn 604 942
11 Cử nhân sử 605 760 576 550
12 Công tác Xã hội 607 0 102 256
13 HD Du lịch 606 0 87 230
14 Cử nhân Anh 751 283 244 196
15 Quản trị KD 400 319 489 538
16 Kế toán - NH 401 6 552 936
17 Tài chính -NH 402 0 273 730
18 QTKD - HT 802 0 85 40
19 Kế toán - HT 801 0 207 128
Nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ
1 Cử nhân Tin 104 293 403 396
2 Kỹ sư CNTT 107 508 545 568
3 Kỹ sư Xây dựng 106 754 835 903
4 Điện tử VT 108 292 383 415
5 Xây dựng - HT 800 0 47 47
Nhóm ngành sư phạm
1 Sư phạm Toán 100 273 275 307
2 Sư phạm Tin 101 315 309 189
3 Sư phạm Lý 102 228 199 188
4 Sư phạm Hoá 201 215 215 229
5 Sư phạm Sinh 301 192 202 267
6 Sư phạm TD 903 243 215 227
7 Sư phạm GDCT 501 271 261 263
8 Sư phạm Văn 601 340 379 444
9 Sư phạm Sử 602 274 334 357
10 Sư phạm Địa lý 603 205 210 243
11 GD Tiểu học 901 257 222 219
12 GD Mầm non 902 182 175 193
13 Tiếng Anh 701 195 196 233
14 Tiếng Pháp 703 142 131 112
15 SP TD-Quân sự 904 143 197 212
Nhóm ngành nông - lâm - ngư
1 Nông học - HT 0 38 0
2 Kỹ sư nông học 304 180 229 282
3 Kỹ sư NT thuỷ sản 303 232 250 339
4 Kỹ sư khuyến nông 305 114 177 218
9512 11376 13430
Nguồn: Phòng Đào tạo, Đại học Vinh.
Trong 47 ngành đào tạo của Đại học Vinh có rất nhiều chuyên ngành phù hợp với
nhu cầu mà chính quyền cơ sở của tỉnh Nghệ An đang cần được bổ sung cán bộ có trình
độ như: Luật; Chính trị - Luật, Kế toán, Tài chính, các ngành trong nhóm ngành Nông -
Lâm - Ngư, …
Như vậy, có thể thấy rằng, tỉnh Nghệ An có một nguồn trí thức trẻ rất dồi dào, họ là
những sinh viên được đào tạo tại các trường đại học trên địa bàn tỉnh hoặc là con em của
địa phương theo học tại các trường đại học trên cả nước. Nhưng một thực tế, số sinh viên
về công tác tại chính quyền các phường, xã, thị trấn của tỉnh Nghệ An còn rất ít, thậm chí
có không ít sinh viên sau khi về làm việc một thời gian ở chính quyền cơ sở lại xin chuyển
công tác. Trong khi rất nhiều sinh viên của tỉnh Nghệ An chưa có việc làm ổn định, chấp
nhận làm trái với chuyên ngành được đào tạo. Tại sao lại có sự mâu thuẫn đó?
Để trả lời cho câu hỏi đó, theo tôi có một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
Thứ nhất, hiện nay, chúng ta chưa có chính sách rõ ràng nhất quán từ trung ương
đến địa phương về công tác thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở
chính quyền cơ sở.
Thứ hai, tư tưởng cũ "sống lâu lên lão làng" còn ảnh hưởng đến một số cán bộ
lãnh đạo. Đâu đó còn nặng tư tưởng xếp hàng, những người có kinh nghiệm thâm niên
phải được bổ nhiệm trước nên cơ hội cho các cán bộ, công chức trẻ là sinh viên mới ra
trường chưa lâu trở nên rất hạn chế, dù có năng lực tốt, tư cách đạo đức tốt, ra sức phấn
đấu vẫn phải "xếp hàng", điều này làm cho sinh viên thuộc diện thu hút dễ nản lòng và
có hướng tìm một công việc mới nhiều cơ hội tiến thân hơn.
Thứ ba, chính là chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp, mức thu nhập từ lương của
cán bộ, công chức chưa đảm bảo được đời sống của bản thân và gia đình dẫn đến tình
trạng nhiều sinh viên không muốn về chính quyền cơ sở hoặc cán bộ trẻ bỏ công sở ra
ngoài, nguồn nhân lực có chất lượng ở cơ sở đã thiếu lại càng thiếu hụt hơn.
Thứ tư, việc nhận sinh viên về làm việc không có kế hoạch, sinh viên về làm việc
ở chính quyền cơ sở được bố trí trái với chuyên ngành được đào tạo vừa không phát huy
được hết khả năng, năng lực của cán bộ, công chức vừa gây tâm lý bức xúc, chán nản
trong các cán bộ, công chức là sinh viên đã được đào tạo cơ bản.
Một lý do nữa là công tác tại chính quyền cơ sở đặc biệt là ở các xã miền núi điều
kiện công tác và điều kiện sinh hoạt còn nhiều khó khăn. Cơ hội được học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận cho cán bộ cơ sở chưa nhiều.
Trong khi đó công việc của cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở lại rất nhiều áp
lực do là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị, thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với
nhân dân.
Ngoài ra, còn rất nhiều lý do khác như, tâm lý định kiến công việc ở cấp xã không
tương xứng với trình độ đại học, sợ bị kém năng động…Tất cả những lý do đó khiến
cho mặc dù có lực lượng sinh viên tốt nghiệp đông đảo nhưng phần đông không muốn
về công tác ở chính quyền cơ sở hoặc về làm thì chỉ xem như bước đệm tạm thời mà
chưa thực sự tâm huyết, gắn bó với công việc lâu dài.
Trước thực tế đó, đòi hỏi tỉnh Nghệ An phải đưa ra một chính sách thu hút sinh viên
tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Chính sách đó nhằm giải quyết từng
bước những yêu cầu chính đáng về chế độ đãi ngộ, điều kiện công tác, cơ hội thăng tiến của
những trí thức trẻ có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có nguyện vọng về làm việc lâu dài trong chính quyền cấp xã. Chính sách sẽ
góp phần trong việc bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở những trí
thức trẻ, làm cho đội ngũ này được trẻ hoá và nâng cao hiệu quả công việc của họ. Chính
sách không chỉ thu hút được sinh viên về với chính quyền cấp xã mà còn khuyến khích họ
trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp vụ; rèn luyện, tu dưỡng để thật sự toàn tâm toàn ý
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân địa phương nơi mình công tác, góp phần vào sự ổn
định và phát triển về mọi mặt của tỉnh nhà.
1.2.3. Các yếu tố (công cụ) cơ bản cho việc lựa chọn
1.2.3.1. Tầm nhìn (vision)
Tầm nhìn là khả năng nhìn thấu khuynh hướng của tương lai, từ đó xác định được
những mục tiêu phát triển. Do vậy, tầm nhìn là giá trị về thời gian trong tương lai đối
với mỗi quyết định, lựa chọn hoặc kết quả của một quá trình lao động của người có
trách nhiệm hoạch định.
Với định hướng từ sự phân tích cơ hội và thách thức, chính sách thu hút sinh viên
tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An) xác định tầm nhìn hay
viễn cảnh trong 05 năm tới, đến năm 2015 là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã của tỉnh Nghệ An trẻ, đủ đức, đủ tài, tích cực trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp
vụ; rèn luyện, tu dưỡng; thực sự toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân,
phục vụ nhân dân địa phương nơi mình đang công tác.
Tầm nhìn này nhấn mạnh một số điểm quan trọng là:
Thứ nhất, "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Nghệ An trẻ, đủ đức,
đủ tài": chính sách hướng tới việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức là những trí
thức trẻ tuổi đã qua đào tạo, có trình độ đạt chuẩn trong đó một bộ phận đông đảo là
sinh viên tốt nghiệp đại học các chuyên ngành phù hợp, thoả mãn nhu cầu nhân lực
phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, có phẩm chất đạo đức tốt có
lập trường tư tưởng vững vàng, có ý thức phấn đấu trong học tập và công tác, tích cực
trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện, tu dưỡng.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở đó phải " thực sự toàn tâm
toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ nhân dân địa phương nơi mình
đang công tác": chính sách hướng đến điều kiện làm việc, cơ hội học tập, nâng cao trình
độ, cơ hội thăng tiến của các cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở được nâng lên một
bước; chế độ tiền lương, trợ cấp đảm bảo đời sống để cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn bám sát chuyên môn, thực sự gắn bó, thấu hiểu tâm nguyện của nhân dân, luôn đào
sâu suy nghĩ để phục vụ nhân dân tốt hơn.
1.2.3.2. Lợi ích của các bên liên quan tới chính sách
* Nhà nước
Khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền
cơ sở đi vào cuộc sống, sẽ có một đội ngũ cán bộ được trẻ hoá, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định trước khó khăn, thử thách, luôn phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện,
nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, nhiệt tình trong công tác, nhiều đồng chí có sự
đổi mới về tư duy, năng động, dám nghĩ, dám làm, sáng tạo trong vận dụng, cụ thể
hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào
thực tiễn cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ban hành và thực thi tốt chính sách này sẽ chuyên nghiệp hoá và tiêu chuẩn hoá
đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Thực hiện điều này vừa khắc phục được hạn chế đào tạo
lại sau bổ nhiệm dẫn đến tình trạng thiếu chuyên nghiệp, vừa chủ động xây dựng đội
ngũ cán bộ cơ sở chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Không chỉ mang lại lợi ích về chính trị, việc thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về
làm việc ở chính quyền cơ sở còn mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho nhà nước. Với
số sinh viên đã qua đào tạo một mặt họ làm tăng hiệu quả làm việc của chính quyền cơ
sở có kế hoạch sử dụng hợp lý nguồn ngân sách của xã, mặt khác nhà nước sẽ không
phải mất một khoản tiền lớn từ ngân sách để đào tạo và đào tạo lại những cán bộ chưa
đạt chuẩn.
* Chính quyền cơ sở
Sinh viên được xác định là nguồn lực quan trọng góp phần nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức, thúc đẩy cải cách hành chính, tạo động lực mới vào công cuộc phát
triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Sinh viên được tiếp nhận về công tác tại cơ sở là những người có đủ tiêu chuẩn,
sức khoẻ, nhiệt tình, năng nổ trước nhiệm vụ được giao. Nếu bố trí phù hợp ngành
nghề được đào tạo, khả năng của sinh viên được phát huy, nhất là ở các lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, địa chính. Về lĩnh vực tư pháp hộ tịch, các sinh
viên tư vấn giúp chính quyền cơ sở xử lý đúng các quy định, hướng dẫn theo luật
định nhất là xử lý việc có liên quan đến quyền lợi của nhân dân. Giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng thời gian luật định và hạn chế đơn thư vượt
cấp…Sinh viên về công tác ở cơ sở bước đầu góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của chính quyền; việc ban hành các văn bản đảm bảo quy trình, thể
thức. Số sinh viên được bố trí làm việc tại văn phòng cấp uỷ, Uỷ ban nhân dân đã
tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, điều hành công việc cụ thể, thiết thực,
nhất là xây dựng nghị quyết, chương trình kế hoạch thực hiện, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng đúng với chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước và sát với thực tiễn.
* Cán bộ, công chức hiện có của chính quyền cơ sở
Khi có những người công chức là sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc cùng
trong một cơ quan cấp xã, bản thân những cán bộ chủ chối sẽ có được những người
tham mưu trẻ tuổi, có trình độ, nhiệt tình với công việc để góp phần đưa ra những quyết
định đúng đắn, kịp thời và cả những quyết sách sáng tạo, mang lại hiệu quả cao.
Một mặt, việc các sinh viên mới tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ
sở, đặc biệt là các xã vùng sâu vùng cao sẽ là những người truyền đạt lại cho đội ngũ
cán bộ công chức vốn có những kiến thức mới về chuyên môn, những cách làm mới
hiệu quả hơn và đặc biệt có thể đưa tin học đến với các cán bộ, công chức ở đây và phát
huy những ứng dụng của kỹ thuật này vào công việc của chính quyền cơ sở, giúp cán bộ
cơ sở có phương pháp làm việc khoa học.
Mặt khác, bản thân đội ngũ công chức hiện đang làm việc trong chính quyền cơ sở
chưa đạt chuẩn về trình độ buộc phải bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tin học, nếu không muốn bị đào thải khi luôn có những người trẻ tuổi có
trình độ sẵn sàng tham gia vào công tác chính quyền cơ sở thay thế vị trí của họ. Như
vậy bản thân những người cán bộ, công chức cấp xã không thể cứ ỷ mãi về kinh nghiệm
hay "sống lâu lên lão làng" mà cũng phải không ngừng phấn đấu hoàn thiện mình hơn.
* Sinh viên tốt nghiệp đại học
Hiện nay, đội ngũ sinh viên ra trường hằng rất lớn. Vấn đề việc làm đang là một
mối quan tâm lớn không chỉ của riêng những sinh viên mới ra trường mà của toàn xã
hội.
Có ba vấn đề đáng quan tâm của cán bộ trẻ là: Được làm việc đúng chuyên ngành
đào tạo; bảo đảm mặt bằng thu nhập; điều kiện, môi trường làm việc tốt.
Với nội dung của chính sách, khi được ban hành và đưa vào thực thi thì sẽ đáp ứng
được phần nào những yêu cầu đó của các cán bộ trẻ.
Thứ nhất, do đã có kế hoạch từ khâu tuyển dụng, chính quyền cơ sở chỉ tuyển sinh
viên tốt nghiệp đại học đủ tiêu chuẩn vào những vị trí còn thiếu hoặc còn yếu nên sinh
viên về cơ sở được làm việc đúng chuyên ngành đào tạo, có điều kiện phát huy hết năng
lực trình độ chuyên môn của mình.
Thứ hai, với chế độ ưu đãi của chính sách thu hút, thu nhập của cán bộ, công chức
cấp xã được cải thiện một bước, ngang mặt bằng chung với các cơ quan hành chính sự
nghiệp khác.
Thứ ba, sinh viên về công tác ở chính quyền cơ sở sẽ được tạo điều kiện để thi tuyển
vào biên chế nhà nước. Liên quan đến vấn đề này, trong nội dung chính sách dành một
phần biên chế dự phòng của cấp huyện, thị xã, thành phố để tăng cường, bổ sung lực lượng
cán bộ, công chức trẻ cho cấp xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, những cán bộ trẻ là sinh viên
diện thu hút sẽ được tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức quản lý, lý luận chính trị; những
sinh viên có năng lực phẩm chất tư cách tốt sẽ được đưa vào cán bộ nguồn, cất nhắc lên vị
trí quản lý lãnh đạo hoặc thuyên chuyển lên cấp huyện, cấp tỉnh.
Về cơ sở, sinh viên được rèn luyện rất nhiều bởi thực tiễn đòi hỏi mình phải gắn
bó, gần gũi nhân dân và năng động hơn trong công việc. Có thể khẳng định, đối với cán
bộ trẻ, muốn khẳng định năng lực thì phải bắt đầu từ những viên gạch đầu tiên ở cấp
thấp nhất như xã, phường, thị trấn.
* Người dân
Xã, phường, thị trấn là nơi thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với người dân nên
muốn dân thực sự làm chủ thì vấn đề quyết định là năng lực cán bộ. Nếu cán bộ cơ sở
yếu kém hay sách nhiễu thì người dân vẫn còn bị lắm phiền hà, không đảm bảo được
dân chủ cơ sở.
Thực tế cho thấy, nhiều phiền hà mà cán bộ cơ sở gây ra cho người dân không hẳn
xuất phát từ sa sút về phẩm chất đạo đức mà từ sự yếu kém về năng lực do trình độ học
vấn thấp, lại không được đào tạo đến nơi đến chốn để đảm đương nhiệm vụ, trong khi
công việc thường xuyên quá tải.
Bởi vậy, khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính
quyền cơ sở được triển khai thì người dân là đối tượng được hưởng lợi vì khi chính
quyền cơ sở có một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng nổ thì những thủ tục
hành chính sẽ được giải quyết nhanh gọn hơn, công việc của chính quyền trôi chảy, lợi
ích của người dân sẽ được đảm bảo.
Vụ việc chia tiền Tết của hộ nghèo ở nhiều địa phương đầu năm 2009 vừa qua là
một ví dụ. Việc cán bộ chính quyền cơ sở lấy tiền hỗ trợ của Nhà nước cho các hộ
nghèo ăn Tết chia đều cho cả xã hoặc chia bớt cho các hộ cận nghèo, hay có nơi giữ lại
để trừ vào các khoản phí mà những hộ nghèo được hưởng trợ cấp chưa đóng đủ đã gây
bất bình trong dư luận, mất lòng tin ở nhân dân, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp ban đầu của
một chính sách giàu tính nhân văn mà Đảng và Nhà nước ta đã ban hành. Những việc
làm đó của chính quyền cơ sở là sai, họ quên mất rằng chính sách của nhà nước phải
được thực thi một cách chính xác, công bằng ở bất kỳ nơi nào trên lãnh thổ. Nhưng suy
cho cùng, việc làm sai trái đó của các cán bộ, công chức địa phương không phải nhằm
trục lợi cá nhân, không hẳn vì suy giảm đạo đức mà phần lớn là do năng lực cán bộ cấp
cơ sở còn yếu kém.
Cán bộ cơ sở là nơi triển khai, thực hiện tất cả những chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Do đó nếu chủ trương chính sách hay đến đâu mà cán bộ, công chức
cơ sở không nắm bắt đúng, không triển khai kịp thời, không thực hiện đến nơi đến chốn
thì sẽ bào mòn niềm tin của nhân dân. Hiện nay, cán bộ, công chức cấp xã hưởng lương
không cao nên ở nhiều nơi, nhất là các xã nghèo, miền núi sau giờ làm việc phải tranh
thủ cuốc cày để nuôi sống gia đình. Và phần lớn những người này trình độ học vấn hạn
chế. "Cái khó bó cái khôn", chuyện xà xẻo, bớt xén tiền của dân nghèo qua các đợt cứu
trợ thiên tai, hỗ trợ của Chính phủ mà báo chí phản ánh lâu nay cũng là chuyện dễ hiểu.
Thế nên, việc ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở vừa mang lại cho chính quyền cấp xã những người cán bộ, công chức
được đào tạo bài bản có thể hiểu, truyền đạt, thực thi chính sách của nhà nước một cách
chính xác nhất đồng thời chính sách đưa ra chế độ ưu đãi về vật chất và tinh thần cho
những sinh viên thuộc diện thu hút khiến họ yên tâm hơn trong công tác, nỗ lực học tập,
công tác vì quyền lợi của người dân.
Chương 2
xác định Nội dung và ban hành, triển khai chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp
đại học về làm việc
ở chính quyền cơ sở tỉnh nghệ an
2.1. Nội dung chính sách
Trước yêu cầu nhiệm vụ và tình hình hiện nay, vai trò của hệ thống chính trị ở cơ
sở ngày càng trở nên đặc biệt quan trong. Việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ cơ sở có ý nghĩa quyết định nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Trong khi đó, ở Nghệ An, nhận thức về đội ngũ cán bộ xã, phường thị trấn
còn chưa đầy đủ, cách lựa chọn cán bộ ở khu vực này chưa thực sự dân chủ, phạm
vi lựa chọn hẹp, chất lượng đầu vào thấp, dẫn đến chất lượng cán bộ, công chức
không đảm bảo yêu cầu. Vì vậy cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên và nhân
dân, trước hết là ở ngay cấp cơ sở nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội về chính
sách chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại cơ sở và đào tạo bồi dưỡng
họ để tạo nguồn xây dựng đội ngũ bí thư, chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường thị
trấn có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm trước nhân
dân. Đây cũng chính là quan điểm xuyên suốt cho "Chính sách thu hút sinh viên
tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở (Qua thực tế tỉnh Nghệ An)" .
2.1.1. Đối tượng, phạm vi áp dụng của chính sách
Chính sách thu hút được áp dụng đối với người có trình độ đào tạo đại học hệ
chính quy, có chuyên ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, có
nguyện vọng về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Những người tốt nghiệp đại học hệ chính quy, về cấp xã công tác phải thoả mãn
các điều kiện sau đây:
- Có tuổi đời không quá 30 đối với nữ và không quá 35 tuổi đối với nam;
- Đáp ứng các yêu cầu sơ tuyển như: sức khoẻ, tiêu chuẩn chính trị, ưu tiên cho
người là đảng viên;
- Tự nguyện về công tác tại xã;
- Có hộ khẩu tại tỉnh Nghệ An;
- Ưu tiên những người có trình độ đào tạo đại học chính quy ở các ngành như:
Kinh tế, tài chính, địa chính, quy hoạch, giao thông, hành chính, khoa học xã hội, luật,
công nghiệp, nông nghiệp và chính trị mà tỉnh có nhu cầu tuyển dụng làm cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn.
2.1.2. Chế độ và trách nhiệm
2.1.2.1. Chế độ tuyển dụng
Đối tượng trên khi tuyển dụng về công tác ở cấp xã phải có hồ sơ sau:
1. Đơn xin tự nguyện công tác;
2. Sơ yếu lý lịch (có xác nhận của Uỷ ban nhân dân nơi đăng ký hộ khẩu thường
trú)
3. Bản sao bằng tốt nghiệp đại học (có chứng thực);
4. Bản sao bảng điểm học tập ở bậc đại học (có chứng thực);
5. Giấy chứng nhận sức khoẻ do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp (không quá 6
tháng);
6. Các giấy tờ khác có liên quan( nếu có);
7. Cam kết công tác tại xã ít nhất từ 5 năm trở lên.
Thẩm quyền tuyển dụng: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố quyết
định tuyển dụng và phân công công tác.
2.1.2.2. Chế độ ưu đãi
* Chính sách đãi ngộ
Đối tượng là sinh viên đã tốt nghiệp đại học nếu được xét tuyển vào biên chế
theo quy định hiện hành và bố trí về công tác ở cấp xã, được Uỷ ban nhân dân xã
tạo điều kiện để công tác đúng chuyên môn và ổn định đời sống.
Làm việc đúng chuyên môn được đào tạo là nguyện vọng chính đáng của
Được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự; nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ thì được nâng lương trước thời hạn.
Sau một thời gian làm việc ở xã, nếu công tác tốt được xem xét đưa vào diện quy
hoạch cán bộ chủ chốt cấp xã hoặc điều động, bổ nhiệm lên cấp trên.
Được tạo điều kiện học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị.
* Chính sách hỗ trợ
Hỗ trợ lần đầu:
Đối tượng đã nêu trên ngoài việc hưởng các chế độ chính sách theo quy định hiện hành
đối với cán bộ, công chức cấp xã còn được hỗ trợ lần đầu như sau:
- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,5 trở lên được hỗ trợ 10.000.000
đồng/người;
- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,3 đến 0,4 được hỗ trợ 8.000.000
đồng/người;
- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,1 đến 0,2 được hỗ trợ 5.000.000
đồng/người;
- Các xã còn lại được hỗ trợ 3.000.000 đồng/người.
Hỗ trợ hàng tháng (Được thực hiện trong vòng 5 năm):
Đối tượng đã nêu trên ngoài việc hưởng các chế độ chính sách theo quy định hiện
hành đối với cán bộ, công chức cấp xã còn được hỗ trợ hàng tháng như sau: - Đối với đơn vị hành chính cấp xã thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa*:
Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã hiện đang công tác và đối tượng tuyển mới
thuộc diện thu hút, ngoài tiền lương hưởng theo ngạch bậc theo bằng cấp chuyên môn
đào tạo và phụ cấp, các chính sách quy định của nhà nước còn được hưởng trợ cấp hàng
tháng bằng 1,5 lần mức lương tối thiểu.
* Các đơn vị hành chính thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa được quy định tại các văn bản sau: Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 21/UB-QĐ ngày 26/01/1993, Quyết định số 08/UB-QĐ ngày 04/3/1994, Quyết định số 68/UB-QĐ ngày 09/8/1997 của Uỷ ban Dân tộc - Miền núi; Quyết định 363/2005/QĐ-UBDT ngày 15/8/2005, Quyết định số 301/2006/QĐ-UBDT ngày 27/11/2006, Quyết định số 05/2007/QĐ-UBDT ngày 06/9/2007 của Uỷ ban Dân tộc; Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV- BLĐTBXH-BTC-UBDT ngày 05/01/2005 của liên Bộ Nội vụ - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính - Uỷ ban Dân tộc.
- Đối với các xã, phường, thị trấn còn lại:
Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã hiện đang công tác và đối tượng tuyển mới
thuộc diện thu hút, ngoài tiền lương hưởng theo ngạch bậc theo bằng cấp chuyên môn
đào tạo và phụ cấp, các chính sách quy định của nhà nước còn được hưởng trợ cấp hàng
tháng bằng 1.0 lần mức lương tối thiểu.
Thời gian được hưởng chế độ trợ cấp:
05 năm kể từ ngày được cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác đối với cán bộ,
công chức được điều động, thuyên chuyển, tuyển dụng về công tác tại xã, phường, thị
trấn thuộc diện được hưởng trợ cấp thu hút.
03 năm kể từ ngày được hưởng chế độ thu hút đối với cán bộ chuyên trách, công
chức cấp xã hiện đang công tác tại xã, phường, thị trấn
2.1.2.3. Trách nhiệm của người được được tuyển dụng
Người được hưởng chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở
cơ sở nếu tự ý bỏ việc hoặc nghỉ việc trước thời hạn 05 năm theo cam kết ban đầu thì
phải hoàn trả lại toàn bộ chế độ, chính sách hỗ trợ đã được cấp. Thời hạn hoàn trả
không quá 01 năm sau khi có quyết định thu hồi tiền hỗ trợ.
Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thu hồi kinh phí và nộp
vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điều 15 Nghị định số 54/2005/NĐ ngày
19/4/2005 của Chính phủ về chế độ thôi việc, chế độ bồi thường chi phí đào tạo đối với
cán bộ, công chức.
Nếu không thực hiện việc hoàn trả tiền chế độ đãi ngộ, chính sách hỗ trợ đúng thời
hạn thì Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý theo pháp luật.
2.2. Ban hành chính sách
2.2.1. Cơ sở pháp lý của việc ban hành chính sách
Việc ban hành các chính sách nói chung đều phải trên cơ sở pháp lý nhất định.
Đối với việc ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An phải dựa trên các văn bản pháp lý và các quy định
mang tính pháp lý sau:
Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 16/12/2002;
Căn cứ Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung ngày 29/4/2003;
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội
thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn;
Căn cứ Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004;
Căn cứ Quy định tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn ban
hành kèm theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ;
Căn cứ Nghị quyết số 169/2006/NQ- HĐND ngày 15/12/2006 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Nghệ An khoá XV, kỳ họp thứ 8 về một số chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 đến 2010;
Căn cứ Nghị quyết số 04/NQ-TU ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVI về phát triển nguồn nhân lực Nghệ An giai đoạn 2006
- 2010.
Căn cứ Quyết định số 30/27/QĐ -UBND ngày 9/4/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Nghệ An về việc quy định một số chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.
Căn cứ Nghị quyết số 07/2007/NQ-HĐND ngày 16/7/2007 của Hội đồng nhân
dân tỉnh Nghệ An khoá 10 kỳ họp thứ XV về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nghệ
An giai đoạn 2007 - 2010 và định hướng đến năm 2015; Nghị quyết số 65/2008/NQ-
HĐND ngày 16/12/2008 của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An về cơ chế, chính sách
phục vụ phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010 và định
hướng đến năm 2015.
2.2.2. Chủ thể có trách nhiệm và hình thức ban hành chính sách
Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở
tỉnh Nghệ An là chính sách nhằm thu hút nguồn nhân lực để xây dựng chính quyền cơ
sở, được ban hành có hiệu lực trên địa bàn tỉnh Nghệ An, chính sách này do Uỷ ban
nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành.
Theo Điều 13, Điều 40 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là chủ thể ban hành của chính
sách.
Chính sách thu hút này được thông qua tại phiên họp Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ
An, sau khi đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo chính sách, đại diện cơ quan tư
pháp trình bày báo cáo thẩm định. Chính sách chính thức được thông qua sau khi Uỷ
ban nhân dân thảo luận và hơn một nửa số thành viên uỷ ban biểu quyết tán thành. Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành chính sách.
Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở
của tỉnh Nghệ An sau khi ban hành được đăng lên công báo và bản đăng trên công báo
được xem là văn bản gốc.
2.3. Triển khai chính sách
2.3.1.Chủ thể triển khai chính sách
Sau khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền
cơ sở được ban hành, khâu tiếp theo là triển khai chính sách. Trước hết là xác định được
nhiệm vụ của các chủ thể triển khai chính sách.
Nhiệm vụ của Sở Nội vụ:
Sở Nội vụ tham mưu, theo dõi, phối hợp và kiểm tra việc thực hiện chế độ chính
sách hỗ trợ, thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về các phường, xã, thị trấn trên địa bàn
toàn tỉnh.
Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính ban hành hướng dẫn liên ngành về việc tổ chức,
thực hiện chế độ chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở.
Chủ trì, phối hợp với Đài truyền hình, báo Nghệ An và các trường đại học để phổ
biến, tuyên truyền chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở.
Thẩm định nhu cầu và kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về cấp xã của
các huyện, thành, thị để tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định phê
duyệt kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở.
Thông báo kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở sau khi Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt cho Uỷ ban nhân dân các huyện,
thành phố, thị xã để triển khai thực hiện.
Hàng năm, tham mưu xây dựng kế hoạch biên chế, trong đó chú ý các lĩnh vực mà
chính quyền cấp xã trong địa bàn tỉnh đang có nhu cầu để bố trí biên chế hợp lý nhất,
tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm
việc tại chính quyền cơ sở.
Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh và chủ trì phối hợp các cấp, các ngành triển
khai thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ là sinh viên tốt nghiệp đại học đã được
thu hút về làm việc ở chính quyền cơ sở.
Tổ chức sơ kết, tổng kết chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm
việc tại chính quyền cơ sở nhằm đánh giá chất lượng và hiệu quả công tác của số cán bộ
là sinh viên đã được thu hút và công tác thu hút của các đơn vị trên địa bàn toàn tỉnh;
tham mưu cho Uỷ ban nhân dân bổ sung, điều chỉnh chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở cho phù hợp với sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
Nhiệm vụ của Sở Tài chính
Phối hợp với Sở Nội vụ ban hành hướng dẫn liên ngành về việc tổ chức, thực hiện
chế độ, chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ
sở.
Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương để
thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại
chính quyền cơ sở.
Nhiệm vụ của Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An
Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về
làm việc tại chính quyền cơ sở của tỉnh Nghệ An.
Làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính
sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở.
Hằng năm, phối hợp với các huyện, thành, thị tôn vinh những cán bộ đã được thu
hút có nhiều sáng kiến trong lao động phục vụ trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
Nhiệm vụ của Đài phát thanh - truyền hình, Báo Nghệ An và các trường đại
học trên địa bàn tỉnh: phổ biến, tuyên truyền chế độ chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã
Thẩm định nhu cầu và kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở của các xã, phường thị trấn trực thuộc; tổng hợp, báo cáo Uỷ ban
nhân dân (qua Sở Nội Vụ) xem xét, quyết định.
Triển khai thực hiện kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ là sinh viên đã được thu hút theo quy
định.
Hằng năm tiến hành đánh giá chất lượng số sinh viên đã được thu hút để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch nguồn cán bộ, lãnh đạo, quản lý đối với trường
hợp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có triển vọng phát triển.
Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các phường, xã, thị trấn trực tiếp sử dụng
sinh viên tốt nghiệp đại học thuộc dạng thu hút về làm việc ở chính quyền cơ sở
Hằng năm, tiến hành lên kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc
ở chính quyền cơ sở gửi lên cấp trên. Kế hoạch tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ thu hút cần
nêu rõ yêu cầu trình độ, chuyên ngành, trường đào tạo, số lượng thu hút đối với mỗi vị
trí cụ thể.
Trong quá trình thực thi chính sách các đơn vị trực tiếp này đóng vai trò hết sức quan
trọng, đây là nơi mà các sinh viên được thu hút về trực tiếp công tác nên sẽ quyết định đến
hiệu quả của chính sách. Bởi vậy, các phường xã, thị trấn, một mặt phải tạo điều kiện tốt
nhất để các sinh viên đã về công tác phát huy được hết năng lực của họ bằng cách giao việc
đúng chuyên môn, tôn trọng, kịp thời xem xét và sử dụng những sáng kiến mới, có tính khả
thi cao của những cán bộ trẻ tuổi này; thực hiện đúng và đầy đủ các chế độ đã được nêu rõ
trong chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở. Mặt
khác cần có những đánh giá, nhận xét khách quan đối với mỗi cán bộ đã được thu hút để
khen thưởng kịp thời và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc họ vào diện cán bộ
nguồn, hoặc có hình thức điều chỉnh vị trí công tác đối với những sinh viên chưa được bố
trí vị trí công tác phù hợp với trình độ năng lực chuyên môn ; rà soát, có biện pháp kỷ luật
hoặc đề nghị cấp trên hình thức có kỷ luật đối với những sinh viên đã được thu hút nhưng
không hoàn thành nhiệm vụ.
2.3.2. Các nguồn lực để triển khai chính sách
2.3.2.1. Nguồn lực về kinh tế.
* Nguồn kinh phí:
Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, quy định của pháp luật, Uỷ ban nhân dân
xã dự trù kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong dự toán ngân sách chung hằng năm của
xã trình Hội đồng nhân dân xã thông qua theo quy định.
Uỷ ban nhân dân tỉnh dự trù kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong dự toán ngân
sách chung hằng năm của tỉnh.
Kinh phí thu hút sinh viên tốt nghiệp một phần được trích trong tổng kinh phí thực
hiện Quy định 30/2007/QĐ-UBND ban hành ngày 9 tháng 4 năm 2007 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Nghệ An về một số chế độ, chính sách chế độ, chính sách hỗ trợ thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.
Nguồn lực kinh tế là nguồn lực quan trọng hàng đầu khi triển khai chính sách thu
hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Đây là điều kiện vật
chất cần cho quá trình thực thi chính sách. Chỉ khi có một nguồn kinh phí thu hút thì
mới có thể thực hiện được chế độ đãi ngộ, ưu đãi cho sinh viên về chính quyền cơ sở
công tác và nâng cao điều kiện công tác ở chính quyền cơ sở. Nếu có tiềm lực kinh tế,
nhà nước sẽ chủ động hoạch định và thực thi chính sách phát triển theo ý mình một cách
có hiệu quả. Thế nhưng, nhà nước ta tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh nên bên cạnh nguồn
lực kinh tế chúng ra cần vận dụng phối hợp nhiều nguồn lực khác.
* Lập dự toán, quản lý, cấp phát kinh phí:
Thứ nhất, lập dự toán: Hằng năm, căn cứ kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp
đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành
phố lập dự toán kinh phí gửi sở Tài chính.
Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân xem
xét trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt cùng với phê duyệt kế hoạch dự toán kinh
phí hằng năm của địa phương, đơn vị.
Thứ hai, quản lý, cấp phát, sử dụng kinh phí:
Sở Nội vụ là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi số lượng cán bộ thu hút quy
định tại văn bản này; đồng thời, phối hợp với Sở Tài chính tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh
quyết định cấp kinh phí hỗ trợ thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính
quyền cơ sở cho các địa phương, đơn vị.
Căn cứ vào dự toán ngân sách chi cho thu hút cán bộ đã được Hội đồng nhân dân
tỉnh phê duyệt, Sở Tài chính chịu trách nhiệm tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết
định cấp phát kinh phí kịp thời và quản lý, sử dụng, thanh quyết toán theo đúng quy
định.
Đối với các cơ quan, đơn vị cấp huyện, cấp xã: Sở Tài chính thực hiện cấp bổ sung
có mục tiêu về ngân sách cấp huyện để thực hiện.
Thứ ba, hồ sơ, thủ tục cấp phát kinh phí gồm có:
- Tờ trình của cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng cán bộ, công chức;
- Quyết định tuyển dụng công chức xã của cơ quan có thẩm quyền.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố tổng hợp nhu cầu của các cơ quan, đơn vị
trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã gửi tất cả hồ sơ nêu
trên về Sở Nội vụ để thẩm định và phối hợp với Sở Tài chính tham mưu Uỷ ban nhân
dân tỉnh quyết định phân bổ kinh phí.
2.3.2.2. Nguồn lực con người
Thứ nhất, đó là sự đồng tình, ủng hộ của người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Người thực
hiện mục tiêu chính sách là nhân dân vì thế nên mục tiêu chính sách đồng nhất với ý
nguyện của nhân dân sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia vào quá trình chính
sách một cách tự giác, tạo nên một động lực mạnh để thực hiện tốt nhất ở tất cả các
mục tiêu chính sách. Sự tham gia tự giác của nhân dân nói chung và đối tượng của chính
sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở nói riêng, đó là
đội ngũ sinh viên là người Nghệ An học tập tại các trường đại học trên cả nước vào quá
trình chính sách còn giúp cho việc thực thi mục tiêu chính sách đạt hiệu quả.
Chính sách không thiết thực với đời sống nhân dân, không phù hợp với điều kiện và
nguyện vọng của người dân sẽ bị tẩy chay hoặc bỏ rơi không thực hiện.
Như vậy, chính sự ủng hộ của dân chúng cụ thể ở chính sách này là đội ngũ sinh
viên tốt nghiệp đại học là con em của tỉnh Nghệ An cũng là một động lực quan trọng để
triển khai chính sách.
Thứ hai, một yếu tố quan trọng nữa trong nguồn lực con người đó là năng lực thực
thi chính sách của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước.
Để chính sách được triển khai vào cuộc sống một cách có hiệu quả, chính sách phù
hợp với nhu cầu xã hội, với nguyện vọng của nhân dân thôi chưa đủ mà còn phải có đội
ngũ cán bộ công chức có năng lực thực thi chính sách. Nếu đội ngũ cán bộ công chức
trong bộ máy chính quyền các cấp do năng lực yếu kém hoặc cố tình thực hiện không
đầy đủ hoặc làm sai lệch chính sách thì mục tiêu của chính sách cũng không đạt được,
thậm chí còn phản tác dụng gây bất bình trong nhân dân. Như lợi dụng chính sách thu
hút để đưa về chính quyền cơ sở những sinh viên là con cháu, người thân tín mặc dù yếu
kém về năng lực, trình độ chuyên môn, hoặc nhận người được đào tạo trái với chuyên
môn mà chính quyền cơ sở đang cần...thậm chí có những địa phương cán bộ chưa hiểu
hết ý nghĩa của chính sách, còn giữ tư tưởng bảo thủ nên không tích cực triển khai chính
sách vào xã, phường, thị trấn của mình.. Ngược lại, nếu cán bộ công chức có năng lực,
có trình độ tốt thì thông qua việc xây dựng kế hoạch triển khai chính sách, thông qua
việc tuyên truyền cho chính sách và bằng thực tế thực thi chính sách, đội ngũ cán bộ này
không chỉ triển khai chính sách có hiệu quả mà còn có thể tổng kết rút kinh nghiệm, bổ
sung những điểm chính sách đang hạn chế và làm cho chính sách thêm hoàn thiện. Lý
luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, năng lực thực thi chính sách của cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước cũng là một nguồn lực để triển khai chính sách vào cuộc
sống.
2.3.3. Phương thức chủ yếu để triển khai chính sách
Trong chu trình chính sách, việc hoạch định ra nội dung đã khó thì làm thế nào để
triển khai chính sách vào cuộc sống còn khó hơn rất nhiều lần.
Để triển khai chính sách một cách hiệu quả sau khi đã được ban hành cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể triển khai chính sách. Như:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố xây dựng nhu cầu thu hút cán bộ
có trình độ đại học về xã. Sở nội vụ thẩm định nhu cầu của các huyện, thành phố và
tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định phân bổ chỉ tiêu số sinh viên được thu
hút về công tác ở xã.
Sau khi Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền
cơ sở được Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế
hoạch, chỉ đạo các Sở, Ban, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố và các
đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện;
Sở Nội vụ hướng dẫn quy trình, thủ tục và biểu mẫu cho các cơ quan đơn vị thực
hiện chế độ thu hút, tổ chức thanh, kiểm tra việc thực hiện của các địa phơng và định kỳ
hằng năm tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh;
Sở Tài chính hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố lập dự
toán, thanh và quyết toán kinh phí thực hiện chế độ trợ cấp hằng năm từ nguồn ngân
sách của tỉnh theo quy định;
Uỷ ban nhân dân cấp huyện tổng hợp, lập dự toán kinh phí, kiểm tra, phê duyệt, cấp
phát kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong từng năm do Uỷ ban nhân dân cấp xã đề nghị
và quyết toán số kinh phí với Sở Tài chính theo quy định;
Uỷ ban nhân dân cấp xã thống kê danh sách các trường hợp thuộc diện được hư-
ởng các chế độ thu hút của đơn vị mình trong từng năm, báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp
huyện xem xét, phê duyệt và kịp thời chi trả các chế độ cho các đối tượng được thu hút.
Trong quá trình thực hiện, nếu có phát sinh, vướng mắc như khi có sự thay đổi của
quy định pháp luật về chế độ trợ cấp đối với cán bộ công chức cấp xã thì thủ trưởng các
địa phương, đơn vị báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh (qua Sở Nội vụ), Uỷ ban nhân dân
tỉnh trao đổi, thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân
dân tỉnh xem xét sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung chính sách cho phù hợp.
2.3.4. Một số hướng giải pháp triển khai thực hiện chính sách
Tỉnh Nghệ An có một thuận lợi là trên toàn quốc, một số tỉnh, thành phố đang
thực hiện nhiều giải pháp tích cực cho công tác thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học
về làm việc ở chính quyền cơ sở, điển hình là Chương trình hành động số 10 của tỉnh
uỷ tỉnh Trà Vinh trong đó có chủ trương thu hút sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại
học về công tác tại cơ sở; Đề án thu hút cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng và
đại học về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đặc biệt là
quy định 458/2008/QĐ -UBND ngày 26 tháng 12 năm 2008 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi về chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở xã,
phường, thị trấn.
Tuy nhiên, do tỉnh Nghệ An có những đặc điểm riêng về điều kiện chính trị - kinh
tế - xã hội nên để chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở phát huy hiệu quả vào thực tế có các giải pháp triển khai thực hiện chính
sách. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp sau:
2.3.4.1. Nhóm giải pháp chung
Thứ nhất, cần xây dựng và ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng p
hường, xã, thị trấn để cấp cơ sở nắm bắt, và triển khai đúng, đầy đủ những nội
dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ
sở.
Hiện nay, chúng ta chưa có chính sách rõ ràng nhất quán từ trung ương đến địa
phương về công tác thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở chính
quyền cơ sở.
Vì vậy, sau khi ban hành chính sách các cơ quan có trách nhiệm như Sở Nội vụ,
Sở Tài chính, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần ban hành những hướng dẫn cụ thể về hình thức
tuyển dụng, cách thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với sinh viên diện thu hút... để chính
quyền cơ sở triển khai hiệu quả chính sách vào cuộc sống, tránh những lúng túng, thiếu
sự thống nhất trong thực hiện.
Thứ hai, cần có các hình thức tuyên truyền rộng rãi đến các trường đại học để các
sinh viên sắp tốt nghiệp biết được chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm
việc ở chính quyền cơ sở. Đẩy mạnh công tác thanh niên tạo các phong trào sâu rộng
động viên thanh niên sau tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở, đặc biệt ở các vùng khó
khăn.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, các chương trình phổ
biến chính sách của đài phát thanh truyền hình địa phương, các tờ báo điện tử như trang
website chính thức của tỉnh Nghệ An, đại học Vinh; qua hội chợ việc làm được tổ chức
hằng năm của tỉnh, qua các buổi công tác của báo cáo viên tỉnh Đoàn.... Bằng rất nhiều
kênh thông tin khác nhau, chính sách thu hút với các nội dung mới về chế độ đãi ngộ,
chế độ hỗ trợ sẽ đến được với đông đảo sinh viên là con em địa phương.
Đi cùng với chính sách thu hút cần có thông báo về chỉ tiêu, nhu cầu về số lượng,
trình độ, chuyên ngành các yêu cầu cụ thể khác của các xã, phường thị trấn trên địa bàn
tỉnh Nghệ An để sinh viên tham khảo, lựa chọn vị trí phù hợp với nguyện vọng, điều
kiện, trình độ chuyên môn của mình để đăng ký được tuyển dụng.
Đoàn thanh niên, tỉnh Đoàn cần chỉ đạo các huyện Đoàn thành lập một câu lạc bộ
mang tên "Câu lạc bộ cán bộ xã trẻ" dưới sự chỉ đạo của huyện uỷ. Câu lạc bộ là nơi
sinh hoạt chính trị, trao đổi kinh nghiệm công tác, rèn giũa đạo đức, tác phong sinh hoạt
thường xuyên của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là sinh viên tốt nghiệp đại học về
công tác tại chính quyền cơ sở thuộc diện thu hút của chính sách. Qua đó, tổ chức Đảng,
Đoàn nắm bắt tâm tư nguyện vọng, những băn khoăn trăn trở, nhất là những băn khoăn
về việc không được bố trí công tác theo khả năng chuyên môn của cán bộ trẻ, để có
hướng chỉ đạo phù hợp.
Thứ ba, hệ thống chính quyền cấp trên cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển
khai sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo các huyện, thị xã thường xuyên
hướng dẫn, kiểm tra chính quyền cơ sở tiếp nhận, bố trí sinh viên, tạo điều kiện cho sinh
viên phát huy kiến thức; coi trọng bồi dưỡng về nhận thức chính trị tư tưởng, đánh giá
những sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đề nghị tuyển vào chức danh chuyên trách,
đồng thời xây dựng ngân sách để hỗ trợ kịp thời cho sinh viên.
Cùng với việc tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên diện thu hút sớm bắt nhịp với cơ
sở khi được tuyển dụng, cần làm tốt công tác trong cấp uỷ đảng, chính quyền và các
đoàn thể quần chúng nhân dân để cán bộ, công chức mới yên tâm, mạnh dạn khi thực
hiện công việc mới. Cần có sự kiểm tra giám sát với cả hai đối tượng: Lãnh đạo chính
quyền cơ sở nơi tiếp nhận sinh viên và bản thân các sinh viên được nhận về qua chính
sách thu hút.
Trong điều kiện cụ thể của tỉnh Nghệ An, với khó khăn, hạn chế về nhiều mặt dẫn
đến vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với sinh viên
được thu hút vê chính quyền cơ sở khó đảm bảo tính công bằng, dân chủ, và khuyến
khích được cán bộ công tác.
Thứ tư, có các hình thức khen thưởng kịp thời những đối với sinh viên tốt nghiệp
đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở làm việc hiệu quả, có nhiều cống hiến và có
hình thức kỷ luật khi họ có sai phạm.
Trong công tác quản lý sinh viên tốt nghiệp đại học về chính quyền cơ sở việc
đánh giá chất lượng đội ngũ này cần được tiến hành thường xuyên, một cách khách
quan, công bằng. Cần có quy hoạch, khen thưởng những sinh viên có thành thích tốt
trong công việc, cân nhắc, đào tạo, bồi dưỡng đưa vào diện cán bộ nguồn hoặc đề bạt
đối với những sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ tại vùng đặc biệt khó khăn. Phải
thường xuyên động viên, giúp đỡ cán bộ trẻ từ sinh viên trong công tác cũng như trong
cuộc sống.
Phải tính đến các yếu tố tác động khách quan một cách cụ thể đối với từng cán bộ
ở địa bàn công tác khi có sai phạm, kịp thời điều chỉnh và xử lý đúng đắn, đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật song cần thể hiện rõ mục đích giáo dục uốn nắn và tạo điều
kiện để những cán bộ trẻ này tự khắc phục vươn lên.
Song song với việc tổ chức cán bộ, khen thưởng cần nghiêm khắc xử lý kỷ luật đối
với những cán bộ, công chức diện thu hút này có biểu hiện suy thoái đạo đức, không
làm tròn chức trách và nhiệm vụ mà nhà nước và nhân dân giao phó.
Cần cho thôi việc những cán bộ công chức là sinh viên được thu hút về làm việc
tại chính quyền cơ sở nhưng không có khả năng đảm nhiệm công việc, được tuyển dụng
không bằng năng lực của mình mà do các mối quan hệ quen biết làm giảm hiệu quả hoạt
động của chính quyền cơ sở.
Việc kỷ luật đối với những cán bộ, công chức trẻ này phải công khai trước nhân
dân tránh tình trạng bao che, lấp liếm, thiếu dân chủ.
Thứ năm, thường xuyên tìm hiểu và tổng kết thực tiễn việc triển khai và thi hành
của cơ sở đối với Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính
quyền cơ sở từ đó rút ra những ưu điểm để phát huy, sửa đổi, loại bỏ những nội dung
không phù hợp và bổ sung những điểm mới vào nội dung chính sách cho theo kịp với
những thay đổi của yêu cầu thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện chính sách, cần định kỳ thực hiện sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm, đề ra giải pháp cho công tác thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm
việc tại chính quyền cơ sở. Đánh giá chính xác chất lượng cán bộ và hiệu quả công việc
ở chính quyền cơ sở trước và sau khi có sinh viên về làm việc. Từ đó, tuỳ theo tình hình
thực tiễn của từng địa phương, từng thời điểm để có kế hoạch thực thi chính sách cho
phù hợp. Điều tra ý kiến của các cán bộ lãnh đạo, các cán bộ công chức đương nhiệm và
nhân dân nơi có sinh viên về làm việc cũng nhưng những ý kiến của các sinh viên đã về
công tác tại chính quyền cơ sở theo diện thu hút. Từ đó, đề xuất các nội dung mới cần
đưa vào, những nội dung cần thay đổi và những nội dung của chính sách không phù hợp
với tình hình thực tiễn cần phải loại bỏ. Như vậy, việc thực thi chính sách không những
mang lại hiệu quả cao mà bản thân chính sách cũng ngày càng được bổ sung hoàn thiện,
phù hợp với thực tiễn của chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An.
2.3.4.2. Nhóm giải pháp về công tác tổ chức, tuyển chọn, sử dụng và chế độ đãi
ngộ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở
Trong những năm qua, cùng với sự hoàn thiện chính sách cán bộ nói chung, thực
tế là ở chính quyền cơ sở các địa phương, đặc biệt là nông thôn thuộc vùng sâu vùng xa
thường xuất hiện 2 hiện tượng:
Một là, không muốn tuyển dụng những người có năng lực, trình độ cao hơn vì sợ
lấn át các cán bộ đang công tác, sợ bị tranh chức tranh quyền.
Hai là, nhận người theo tư duy cục bô, ích kỷ... ưu tiên nhận những người là con
cháu trong dòng họ, là "con ông cháu cha"...Do vậy, không đảm bảo tính công bằng dân
chủ, không tạo điều kiện cơ hội cho sinh viên có năng lực. Cán bộ mới nhận về nhằm để
phát triển vây cánh, êkíp, dòng họ...của một vài "chức sắc" trong chính quyền.
Tư tưởng cục bộ địa phương, dẫn đến tâm lý sợ "mất suất, mất ghế" là một vấn đề
khó khăn đang đặt ra với chính sách này . Điều này có thể gây không ít khó khăn cho
cán bộ trẻ khi được cử về cơ sở công tác.
Từ thực tế này, cần thiết phải tạo ra cơ chế phối hợp, quản lý, giám sát lẫn nhau, từ
các cơ quan cấp trên đến củng cố và nâng cao vai trò của các cơ chế giám sát đối với
quá trình tuyển dụng, bố trí sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở qua thực tế tỉnh Nghệ An.
Cụ thể là:
Thứ nhất, cần phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị - kinh tế- xã hội của địa
phương để có kế hoạch chi tiết, khoa học trong công tác thu hút, tuyển dụng sinh viên
về làm việc ở chính quyền cơ sở trên cơ sở đảm bảo các quy định, tiêu chuẩn, tiêu chí
đã ban hành.
Nhằm nâng cao tính khả thi của chính sách, cần tuyển chọn và phân bố cán bộ về cơ sở
phù hợp với nhu cầu ngành nghề và đặc thù của địa phương.
Thu hút chất xám, thế nhưng do môi trường làm việc không phù hợp, chuyên môn
không được phát huy, nhiều người đã nản lòng…Sinh viên mới ra trường thường được
phân công ngồi bàn giấy, đánh văn bản thay vì thâm nhập thực tế và thực hành những
điều mình đã học. Chính vì thế, quan tâm đến sở trường, chuyên môn của từng người để
bố trí công việc cho phù hợp là điều rất quan trọng. Khi thu hút sinh viên tốt nghiệp,
chính sách cũng phải thể hiện rõ nhu cầu cụ thể của cơ sở, không nên đưa theo kiểu đại
trà lấy thành tích.
Thứ hai, giải quyết tốt vấn đề cơ chế, chế độ đãi ngộ, hỗ trợ đối với những sinh
viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở, tạo môi trường làm việc thuận
lợi ...thu hút các đối tượng thực sự có năng lực, được đào tạo đúng chuyên ngành công
tác về làm việc tại địa phương.
Một vấn đề đặt ra khi triển khai chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về
công tác tại chính quyền cơ sở ở Nghệ An là làm sao phải thu hút được nhiều bạn trẻ có
năng lực, chuyên môn khá giỏi, tránh tình trạng "không cơ quan, doanh nghiệp nào nhận thì
đăng ký về cơ sở tìm nơi trú chân". Muốn làm được điều này cần phải có công tác tuyển
dụng tốt, khách quan, công bằng.
Để thu hút và "giữ chân" được đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ đức đủ
tài, toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, trong nhiều giải pháp
đang thực hiện thì giải pháp đáng quan tâm nhất đó là sửa đổi chính sách tiền lương,
phụ cấp dành cho cán bộ, công chức sao cho họ hưởng lương đủ sống, thật sự hướng
đến chuyên môn sâu, năng lực giỏi chứ không muốn sách nhiễu nhân dân để kiếm
thêm hay làm việc "chân trong, chân ngoài", thậm chí bỏ công sở cấp xã để đi làm
việc khác kể cả trái nghề như hiện nay. Vì suy cho cùng, như C.Mác đã nói, trước
tiên phải ăn, mặc, ở rồi mới đến làm chính trị. Hãy hướng đến một chế độ tiền lương,
phụ cấp sao cho nhiều cán bộ phường, xã, thị trấn bám sát chuyên môn, đào sâu suy
nghĩ để phục vụ nhân dân tốt hơn. Có như thế thì chính quyền cơ sở của tỉnh nhà mới
thu hút và xây dựng được một đội ngũ cán bộ công chức vừa hồng vừa chuyên, tư
tưởng ổn định, công việc ngang tầm với chức trách. Ngoài ra cần có chế độ phụ cấp
thu hút cao hơn cho cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn phức tạp (như
vùng có giáo dân), vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng dẫn của trung
ương. Từ đó, họ sẽ có nhiều sáng kiến và tự tin hơn trong công tác; chính quyền cơ
sở sẽ giảm đi cảnh sinh viên khá, giỏi không muốn về xã, phường, thị trấn dù đó là
cấp chính quyền gần dân nhất.
Thứ ba, đổi mới và cụ thể hoá các hình thức thi tuyển công chức theo điều kiện
hoàn cảnh, của từng địa phương cho phù hợp và đảm bảo yêu cầu của công tác cán bộ
với việc hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của địa phương.
Thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở, không có
nghĩa là cứ có bằng đại học phù hợp với nhu cầu địa phương là nhận mà cần có các hình
thức thi tuyển, thẩm định năng lực của các sinh viên này, để không bỏ sót người tài,
không chỉ vì bằng cấp mà điều thực sự cần là có năng lực công tác tương xứng với trình
độ được đào tạo.
Với đặc thù của chính quyền cấp cơ sở nên khi tuyển dụng cán bộ, công chức cấp
xã cần tuyển dụng những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, có khả năng tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tâm,
thạo việc. Đây là việc làm tiên quyết, đội ngũ cán bộ, công chức mạnh hay yếu, hoạt
động của chính quyền cơ sở có hiệu quả hay không nhờ nền tảng đầu tiên này. Để việc
tuyển dụng thực sự khách quan công bằng thì tiêu chuẩn cán bộ công chức cấp xã, hình
thức bầu cử, thi tuyển, xét tuyển, tập sự cần được công khai mọi người dân biết, một
mặt để những sinh viên đủ tiêu chuẩn, có nguyện vọng về công tác tại xã đều có cơ hội
tham gia thi tuyển, xét tuyển và cũng là cơ sở để người dân làm biết để đánh giá các cán
bộ, công chức là sinh viên diện thu hút sau một thời gian họ công tác ở chính quyền cơ
sở. Nếu có đủ năng lực và phẩm chất được người dân tín nhiệm thì đó là cách sát hạch
hiệu quả nhất.
Thứ tư, nâng cao vai trò của cơ quan ra quyết định tuyển dụng và có quy chế về
trách nhiệm của cơ quan chịu trách nhiệm tuyển dụng, xét tuyển và ra quyết định, đảm
bảo tính chính xác, chặt chẽ trong quá trình sử dụng, bố trí sinh viên tốt nghiệp đại học
vào các vị trí cán bộ, công chức cấp xã sau này.
Thứ năm, để trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở cần
kiên quyết (nhưng có bước đi cụ thể) đưa ra khỏi biên chế những công chức cơ sở
không đảm bảo đủ chuẩn theo chức danh, thay thế các vị trí đó bằng cách tuyển dụng số
sinh viên tốt nghiệp đại học hệ chính quy là người địa phương về công tác ở xã,
phường, thị trấn.
2.3.4.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo điều kiện sinh hoạt và công tác cho cán bộ,
công chức cấp xã nói chung và sinh viên diện thu hút nói riêng
Hiện nay, một trong những nguyên nhân sinh viên không thiết tha về với chính
quyền cơ sở là do điều kiện làm việc ở địa phương còn nhiều thiếu thốn.
Bởi vậy, song song với việc thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại
chính quyền cơ sở, tỉnh Nghệ An cần có chính sách xây dựng, đảm bảo cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức tạo điều kiện làm việc tốt
nhất phát huy năng lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở.
Thực tế cho thấy, Nghệ An còn 176/469 phường, xã, thị trấn thuộc diện nghèo
(chiếm 37,5%), theo đó cơ sở vật chất, kỹ thuật vẫn chưa đáp ứng được điều kiện làm
việc cho cán bộ. Trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp theo hướng ngày
càng hiện đại hoá công sở, trang thiết bị, phương tiện thông tin liên lạc và các điều kiện
hoạt động khác nâng cao hiệu quả công tác của các cán bộ cơ sở. Cụ thể tỉnh và các
huyện cần chăm lo đầu tư, xây dựng, tu bổ trụ sở làm việc cho chính quyền cấp xã với
các điều kiện:
Đảm bảo cho các xã, phường, thị trấn đã được xây dựng có trụ sở làm việc đàng
hoàng, khang trang, tiến tới đầu tư đồng bộ các thiết bị và phương tiện làm việc theo
hướng hiện đại hoá. Tỉnh cần có cơ chế đầu tư, hỗ trợ kinh phí hợp lý cho các miền núi
cao, vùng sâu, vùng xa...còn nhiều khó khăn.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như điện, đường giao thông, trạm xá,
trường học, bưu điện văn hoá, tủ sách pháp luật...
Đảm bảo 100% số xã, phường, thị trấn có máy tính, máy photocopy (đối với khu
vực đồng bằng, đô thị, núi thấp), 80% đối với các xã vùng núi cao. Phấn đấu từ năm
2010 - 2015 hệ thống vi tính các phường, xã thuộc thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, thị
xã Thái Hoà được hoà mạng.
Để làm được những yêu cầu trên cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cấp tỉnh, huyện,
cấp xã, phân cấp hợp lý trong quá trình quản lý, giám sát thi công các công trình xây
dựng, nâng cấp, tu bổ cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật của địa phương.
Các đảng bộ, Hội đồng nhân dân cấp xã cần ra các nghị quyết chuyên đề về sử
dụng ngân sách cấp xã một cách hợp lý, triển khai các biện pháp vận động , động viên
cán bộ nhân dân đóng góp để xây dựng nâng cấp, tu bổ các cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ
thuật, các công trình công cộng, phúc lợi của đơn vị mình theo cơ chế "nhà nước và
nhân dân cùng làm".
Kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các đơn vị khác đóng trên địa bàn bằng nhiều
hình thức đóng góp cho địa phương theo cơ chế "hai bên cùng có lợi".
Kêu gọi con em người địa phương hiện đang công tác, làm ăn ở trong nước và
nước ngoài thành đạt với lòng hảo tâm và ý thức xây dựng quê hương, thiết thực đóng
góp cho địa phương.
kết luận
Đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức trong chính quyền cơ
sở nói riêng có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Họ là những người gần dân nhất, trực tiếp đưa đường
lối của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, trực tiếp phục vụ nhân dân. Do đó sự thành
bại của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chủ yếu phụ thuộc vào đội
ngũ này. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở
chính quyền cơ sở là điều hết sức cần thiết.
Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ và sâu rộng của đất nước, hệ thống chính trị cơ sở
nói chung và chính quyền cơ sở nói riêng cũng có những bước tiến vô cùng quan trọng,
tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở không ngừng được đổi mới và hoàn thiện
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và quá trình đổi mới, phát triển đất nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống
chính sách cán bộ cơ sở và chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức làm việc ở chính quyền cơ sở làm căn cứ cho các địa phương toàn quốc triển khai
vào cuộc sống.
Thực hiện chính sách cán bộ, công chức chính quyền cơ sở, tỉnh Nghệ An đã có
nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt nhất, hiệu quả cao nhất những quy định của Đảng
và Nhà nước. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cấp xã của Nghệ An đã triển khai sâu
rộng và thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán
bộ, công chức ở chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó, Nghệ An cũng đã có nhiều chính
sách cụ thể đối với đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm động viên sự cố gắng, mục đích làm
sao để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác, phục vụ nhân dân. Chính vì vậy, chất lượng
hoạt động của chính quyền cơ sở ở Nghệ An không ngừng được nâng cao, ổn định
chính trị được giữ vững, kinh tế - xã hội có những bước phát triển vững chắc, đời
sống nhân dân ngày một được nâng cao, sự đồng thuận xã hội trong nhân dân được
củng cố.
Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức trong chính quyền cơ sở Nghệ An
còn tồn tại nhiều vấn đề cần nhanh chóng khắc phục. Như đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã chưa được qua đào tạo hoặc chưa đạt chuẩn về trình độ còn cao, độ tuổi trung
bình tương đối già, lực lượng kế cận còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trong
khi đó một bộ phận không nhỏ sinh viên là con em tỉnh nhà theo học ở các trường đại
học trên địa bàn tỉnh cũng như nhiều trường đại học trên cả nước, được đào tạo cơ bản,
có trình độ chuyên môn, có lý tưởng, năng động sáng tạo và có nguyện vọng về cống
hiến cho quê hương nhưng chưa được chú ý trọng dụng. Các khâu quy hoạch, đào tạo,
sử dụng đến chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở vẫn còn nhiều
vấn đề chưa phù hợp và bám sát được với thực tiễn cuộc sống.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có thể
bằng rất nhiều biện pháp khác nhau, với luận văn này tác giả đề xuất một giải pháp rất
đáng quan tâm đó là thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ
sở.
Đây là một giải pháp không mới nhưng hiện nay tỉnh Nghệ An chưa có một chính
sách cụ thể để khai thác về vấn đề này. Giải pháp thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về
làm việc ở chính quyền cơ sở đồng thời giải quyết được hai yêu cầu ở chính quyền cơ
sở hiện nay là trẻ hoá đội ngũ cán bộ, và nâng cao chất lượng công tác của đội ngũ cán
bộ, công chức; mặt khác lại giải quyết việc làm, tạo môi trường rèn luyện và phấn đấu
tốt cho không ít sinh viên tốt nghiệp đại học là con em của tỉnh nhà.
Luận văn đã cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu
hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
1. Luận văn cung cấp những lý thuyết cơ bản về vấn đề chính sách công và chu
trình hoạch định chính sách công nhằm làm rõ thế nào là chính sách công, chính sách đó
phải đáp ứng được những yêu cầu nào và làm thế nào để đưa chính sách vào cuộc sống
một cách có hiệu quả nhất. Khi nắm được một cách chính xác, khoa học những yêu cầu
đối với một chính sách, quy trình hoạch định chính sách công nói chung từ đó cụ thể
hoá bằng một sáng kiến chính sách đó là chính sách thu thu hút sinh viên tốt nghiệp đại
học về làm việc tại chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An).
2. Từ lý thuyết về chính sách công và hoạch định chính sách, tác giả luận văn cũng
đã nghiên cứu tình hình thực tế của địa phương, thực trạng của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã của tỉnh Nghệ An và nguyên nhân của thực trạng đó. Đồng thời tìm hiểu rõ
thực trạng vấn đề đào tạo sinh viên và sử dụng sinh viên tốt nghiệp ở chính quyền cơ sở
trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây chính là cơ sở thực tiễn để tác giả đưa ra những nội
dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ
sở.
3. Để cụ thể hoá sáng kiến chính sách đó luận văn đề xuất một phương án chính
sách bao gồm những chế độ và một hệ thống giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp về làm việc ở chính quyền cơ sở trên địa bàn
tỉnh Nghệ An hiện nay. Chính sách đó phải được tiến hành đồng bộ từ khâu hoạch định,
ban hành và triển khai, và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể ban hành, chủ
thể thực thi chính sách. Tóm lại, để thu hút sinh viên về cơ sở, chúng ta cần triển khai
đồng bộ một số vấn đề như: Có chính sách đãi ngộ hợp lý; đổi mới phương thức tổ chức
nhân sự; xây dựng môi trường làm việc thích ứng và thân thiện với sinh viên về làm
việc ở chính quyền cơ sở; có cơ chế luân chuyển cán bộ hợp lý; nghiên cứu, xây dựng
những chương trình phù hợp để thu hút sinh viên về cơ sở.
Với sáng kiến chính sách mà luận văn đưa ra, do căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã
hội của tỉnh Nghệ An là một tỉnh còn nhiều khó khăn nên những ưu tiên về vật chất cụ
thể đối với các bạn trẻ mà chính sách đưa ra thật ra chưa được như mong muốn nhưng
trên cơ sở nội dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở mà luận văn đưa ra, cùng với việc tổng kết và bổ sung chính sách
hằng năm thì chế độ đãi ngộ, và những điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất sẽ ngày
một tăng lên nhằm làm cho cán bộ, công chức cấp xã nói chung và cán bộ,công chức là
sinh viên thuộc diện thu hút về chính quyền cơ sở nói riêng có điều kiện tốt nhất để phát
huy tối đa năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sáng tạo trong công tác, các bạn
trẻ sẽ có cơ hội để thể hiện, khẳng định mình cũng như là để phát triển tương lai.
Chúng tôi tin tưởng rằng, cùng với việc ban hành và triển khai thực hiện chính
sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở chính quyền cơ sở theo tình hình
thực tiễn với những ưu đãi về vật chất, điều kiện công tác và cơ hội thăng tiến ngày
càng được nâng lên kết hợp với công tác tuyên truyền của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên sẽ có nhiều sinh viên đến với nhiệm vụ này bằng trình độ chuyên môn tốt, bằng sức
trẻ, bằng trái tim nhiệt huyết và thực sự phát huy vai trò trên thực tế, thực sự đóng góp
cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở tỉnh nhà, góp phần vào quá
trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở của Nghệ An và sự phát triển chung
của đất nước.
1. Trương Công Anh (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Nghệ
danh mục tài liệu tham khảo
2. Phan Văn Ban và các cộng tác viên (2000), Bản sắc con người Nghệ An trong tiến trình
An, Đề tài khoa học cấp tỉnh, mã số KX1 - NA.06, Đã nghiệm thu năm 2000.
lịch sử và qua những năm của sự nghiệp đổi mới, Đề tài khoa học cấp tỉnh, mã số
3. Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm) (2001), Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng
KX1- NA.01. Đã nghiệm thu năm 2000.
cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước
ta hiện nay, Đề tài độc lập cấp Nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
4. Hoàng Chí Bảo (2002), "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và những vấn đề
Minh, Kỷ yếu khoa học - tập 1, 2, 3.
5. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay,
đặt ra", Thông tin chính tri học,(2) tr. 13 - 18.
6. Nguyễn Trọng Bảo (1996), Gia đình, nhà trường và xã hội với việc phát hiện,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Đề cương chiến lược giáo dục đến năm 2020, Hà
tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2005), Thông tư liên tịch số 10/2005/TTLT-
Nội.
BNV- LĐTBXH-BTC ngày 05/01/2005, Hướng dẫn thực hiện chế độ trợ cấp
9. Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước (2004), Hệ thống chính
thu hút.
trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
10. Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/QĐ- BNV ngày 16/01/2004 về việc ban hành
Nội.
11. Bộ Nội vụ (2004), Các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức, biên chế và chính
Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
quyền địa phương (tập 1), Nxb Thống kê.
12. Bộ Tài chính (2008), Văn bản pháp quy về quản lý tài chính xã, phường, thị trấn,
13. Chính phủ (2003) Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về Cán bộ
Nxb Tài chính.
14. Chính phủ (2003), Nghị định số 212/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 về chế độ,
công chức xã, phường, thị trấn.
15. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ- CP ngày 22/10/2009 về chức danh,
chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường,
16. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp.
17. Chi cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2009), Niên giám thống kê 2008.
18. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ, giai đoạn 1935 - 2001, Nxb
pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Dorsey Press (1983), Những nền tảng cuả phân tích chính sách công.
20. Đoàn Minh Duệ, Đinh Thế Định (2002), Mối quan hệ biện chứng giữa tăng
Thống kê, Hà Nội.
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb
21. Phạm Kim Dung (biên soạn) (2005), Tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với cán
Nghệ An.
22. Phạm Kim Dung (2005), Tổ chức bộ máy chính quyền và chế độ chính sách đối
bộ xã, phường, thị trấn, Nxb Lao động, Hà Nội.
23. T.Dye (1985), Tìm hiểu về chính sách công, Nxb Prentice Hall, Xuất bản lần thứ
với cán bộ cơ sở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
24. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XV, Nghệ An.
25. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XVI, Nghệ An.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
5.
độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
trung ương khoa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
trung ương khoa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,
trung ương khoa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Hữu Đổng, Lê Minh Quân (2008), Chính sách và những vấn đề cơ bản
phường, thị trấn, Nxb Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội.
chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp
36. Harold Lasswell (1999), Khái quát về khoa học chính sách, Armerican Elsevier.
37. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát
Bộ.
38. Lê Bá Hán, Đoàn Minh Duệ (2001), Con người Nghệ An trước yêu cầu của sự
triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị (1999), Tìm
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An.
40. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học, Chủ nghĩa Mác -
hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
41. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học (2006), Lựa chọn
42. Học viện Hành chính Quốc gia (2000), Chính sách và phân tích chính sách, (Dùng cho
công cộng một tiếp cận nghiên cứu chính sách công, (Tài liệu tham khảo).
43. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Thuật ngữ Hành chính.
44. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình hoạch định chính sách công,
đào tạo đại học hành chính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ
sách công, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Lương Khắc Hiếu(2009), Xây dựng lực lượng công tác tư tưởng cấp cơ sở ở nước
điển bách khoa toàn thư Việt Nam, Nxb Từ điển quốc gia, Hà Nội.
48. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
49. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
50. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách,
ta hiện nay. Website: http://ajc.edu.vn
51. C.Mác-Ph.ăngghen (1998), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Trần Hồng Quân (1996), Giáo dục đào tạo là con đường quan trọng nhất để phát
Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật ban hành văn
huy nguồn lực con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Số
58. Quy định pháp luật về bộ máy chính quyền cấp cơ sở (2003), Nxb Chính trị quốc
31/2004/QH11 ngày 03/12/2004.
gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Duy Quý, Trần Văn Danh, Thái Văn Cung (1994), Kinh tế - Xã hội - Văn
60. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế dân
hoá tỉnh Nghệ An trong tiến trình đổi mới, Nxb Nghệ An.
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
61. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí Thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
gia, Hà Nội.
62. D.Stone (1998), Những nan giải cuả chính sách và lý lẽ chính trị. Scott
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2002), Chính sách và những vấn đề cơ bản chi
Forresoman and Company.
phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Học
64. Đặng Quốc Tiến (2002), "Thực hiện đồng bộ các giải pháp để đổi mới và nâng cao
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Khoa học chính trị.
65. Tỉnh uỷ Nghệ An (2003), "Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở", Cộng sản, Đề tài KX
hiệu lực của chính quyền cơ sở", Tổ chức Nhà nước, (2).
66. Tỉnh uỷ Nghệ An (2005), Văn kiện tỉnh uỷ Nghệ An khoá XV, tập IV, Nghệ An
03 - 02, Hà Nội.
67. Trường đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Quản lý (2000), Giáo trình chính sách
tháng 3 năm 2005 (lưu hành nội bộ).
68. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/1/2004 về việc phê
kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị
69. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2007), Quyết định số 30/2007/QĐ-UBND ngày 9
trấn đến năm 2010.
tháng 4 năm 2007 Quy định một số chế độ, chính sách hỗ trợ thu hút nguồn
70. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2008), Quyết định số 59/2008/QĐ- UBND ngày
nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.
26 tháng 9 năm 2008 Quy định về việc ban hành Quy chế tuyển dụng công
chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
71. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2009), Quyết định số 15/2009/QĐ-UBND ngày 16
tháng 1 năm 2009 Quy định về chế độ đối với cán bộ, công chức tăng cường
về các huyện, xã trọng điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng giáo, vùng
đặc biệt khó khăn còn nhiều yếu kém và lực lượng vũ trang tăng cường về
72. Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2007) Tờ trình số 9507/TTr-UBNDngày
các xã biên giới trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
23/11/2007 về chính sách thu hút cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng và
73. Nguyễn Thị Thuỳ Vân (2005), Quyền lợi và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức
đại học về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
74. http://www. Dantri.com
75. http://www. nghean.gov.vn
76. http://www. Tapchicongsan.org.vn
77. http://www. Chinhphu.vn
78. http://www. Vinhuni.edu.vn
79.
80. MỤC LỤC
81.
82.
xã, phường, thị trấn(cẩm nang pháp luật).Nxb Lao động - xã hội.
Trang
1 MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOẠCH
ĐỊNH CHÍNH SÁCH THU HÚT SINH VIÊN TỐT NGHIỆP
8 ĐẠI HỌC VỀ LÀM VIỆC Ở CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công 8
1.2. Lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở
chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An - cơ sở thực tiễn 27
Chương 2: XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ BAN HÀNH, TRIỂN KHAI
CHÍNH SÁCH THU HÚT SINH VIấN TỐT NGHIỆP ĐẠI
53 HỌC VỀ LÀM VIỆC Ở CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
2.1. Nội dung chính sách 53
2.2. Ban hành chính sách 57
2.3. Triển khai chính sách 58
74 KẾT LUẬN
83.
78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84.
85.
86. Danh mục các sơ đồ, bảng
87.
Trang
Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công 18
Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách 19
88.
89.
Sơ đồ 1.3: Triển khai chính sách 27
Bảng 1.1: Số lượng sinh viên đã tốt nghiệp của Đại học Sư phạm kỹ
thuật Vinh 43
90.
91.
92.
93.
94.
95.
96.
97.
Bảng 1.2: Số lượng sinh viên các khoa đào tạo của Đại học Vinh 44