LUẬN VĂN:

Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh rằng,

chính quyền trung ương yếu hay mạnh, đất nước thịnh hay suy, sự nghiệp thành hay bại

đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ chức xây dựng chính quyền cơ

sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là

gốc của chính quyền cách mạng. Chính quyền cơ sở có vững vàng thì nhà nước và chế

độ mới vững vàng. Quan điểm đó đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết công việc của

người dân, là nơi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước

và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã

hội ở địa phương. Chính quyền cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị

của nước ta.

Vì vậy, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở là đòi

hỏi khách quan của chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều kiện tất yếu đảm

bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị

lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ

thống chính trị ở cơ sở phường, xã, thị trấn", các cấp chính quyền cơ sở thường xuyên

được chăm lo củng cố, kiện toàn bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, đem lại sự đồng

thuận xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống

chính trị cấp cơ sở ngày càng được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận

chính trị, chuyên môn, được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong thực tiễn. Tuy

nhiên, đứng trước nhu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, hệ thống chính trị

cấp cơ sở bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó vấn đề cán bộ, công chức làm việc ở chính

quyền cơ sở là một hạn chế quan trọng làm chất lượng hoạt động của hệ thống chính

quyền cơ sở bất cập trước đòi hỏi thực tiễn. Điều này khiến cho chính quyền cơ sở trở

thành khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.

Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống chính quyền cơ sở có vai trò

hết sức quan trọng, họ là những người thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp quan hệ với

nhân dân; tổ chức vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của nhà nước và các hoạt động về đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân ở địa phương.

Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều

bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là chất lượng, trình độ đào tạo;

năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới.

Để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cơ sở đủ về số

lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo tính kế thừa, chuyển tiếp giữa

các thế hệ một cách liên tục và vững chắc cần phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ, công chức chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp

cơ sở có sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt

ra và nhân dân đòi hỏi ". Bên cạnh chính sách bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ, công chức

đang làm việc thì vấn đề thu hút đội ngũ trí thức được đào tạo cơ bản về làm việc ở

chính quyền cơ sở là một giải pháp rất đáng quan tâm, đặc biệt là thu hút những sinh

viên đã tốt nghiệp ở các trường đại học, một bộ phận đông đảo của đội ngũ trí thức,

những người có trình độ, tuổi trẻ, nhiệt huyết và họ là những người đang có nhu cầu tìm

kiếm việc làm.

Thế nhưng, trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở trẻ tuổi, có

trình độ đại học không đơn giản. Hầu hết các sinh viên ra trường, kể cả sinh viên cử tuyển

cũng tìm cách ở lại thành phố lập thân, lập nghiệp; một phần vì họ muốn tiến thân với

những kiến thức đã được trang bị trong giảng đường đại học, một phần vì phần lớn sinh

viên vẫn có quan niệm về làm việc ở phường, xã là không tương xứng với trình độ mà họ

được đào tạo. Hơn nữa, sinh viên mới ra trường về công tác tại cơ sở thì dù có lý lịch tốt

như thế nào, năng lực giỏi tới đâu cũng chỉ là nhân viên bình thường, rồi từng bước phấn đấu

rất gian nan, ở nhiều địa phương sinh viên về làm việc ở chính quyền cơ sở không được phân

công nhiệm vụ đúng với khả năng của họ, những kiến nghị, sáng kiến của sinh viên mới tốt

nghiệp đại học không được coi trọng do định kiến "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt";

trong khi đó công việc luôn đòi hỏi trách nhiệm cao do thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với

dân nhưng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức công tác ở chính quyền cơ sở còn chưa

tương xứng. Qua quá trình phấn đấu, họ rất dễ nản lòng, vì trong môi trường ấy họ rất lạc

lõng, thiệt thòi nên sẵn sàng bỏ việc đi tìm việc khác nhiều tiện nghi hơn, dễ tiến thân hơn.

Cũng trong tình trạng chung đó của cả nước, hệ thống chính quyền cơ sở ở Nghệ

An cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ

cán bộ, công chức cấp cơ sở ở đây chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Trong thời

gian qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp chính quyền ở Nghệ An cũng đã đưa ra nhiều

giải pháp, chính sách để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ

sở nhưng vẫn chưa có một chính sách nào để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong

khi đó, tại Hội nghị Trung ương chín khoá X, Đảng ta đã đưa ra chủ trương: " Nghiên cứu

chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ

tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công tác" [33, tr.57].

Trước thực tiễn đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải hoạch định một chính sách cụ thể

thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở nhằm trả lời cho

câu hỏi: Làm thế nào để sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc, gắn bó lâu dài và phát

huy hết khả năng, năng lực của họ ở hệ thống chính quyền cơ sở?

Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài " Chính sách thu hút sinh viên tốt

nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở " làm luận văn thạc sĩ Chính trị học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu chính sách nâng cao chất

lượng và thu hút nguồn nhân lực có trình độ về làm việc ở chính quyền cơ sở đã

được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau: Xây dựng Đảng,

Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế chính trị, Chính trị học... Các công trình nghiên cứu của

các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án

tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các sách, báo, tạp chí...

Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu như:

- Đề tài khoa học do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên (2002): "Luận cứ khoa học

cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- Đề tài khoa học Độc lập cấp Nhà nước do GS, TS Hoàng Chí Bảo chủ nhiệm:

"Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố tăng cường hệ thống chính trị cơ sở trong sự

nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay". Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Kỷ yếu khoa học tập I,II,III.

- Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Nguyễn Đăng Thành chủ nhiệm (2002):

"Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt

Nam" Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học.

- GS, TS Hoàng Chí Bảo (2002) "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và

những vấn đề đặt ra", Thông tin chính trị học, (2) tr. 13 - 18.

- Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,

phường, thị trấn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Nxb Lao động Thương binh và xã

hội.

- Đề tài của TS Vũ Hoàng Công (2002) "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm,

xu hướng và giải pháp" - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Liên quan đến đề tài còn có luận văn:

- "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay - vấn đề và giải pháp", Luận văn

thạc sĩ Cấn Thị Dung (2003).

- "Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ

An", Luận văn thạc sĩ Trần Ngọc Danh (2005)

- "Hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kom Tum

hiện nay", Luận văn thạc sĩ Võ Trọng Khoa (2007).

- "Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc

Trang (2008)

Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết

về vấn đề thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở đã được đăng tải trên các tạp

chí, các kỷ yếu khoa học, trên mạng Internet...

Nhìn chung, trên các bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ

bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực

tiễn nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, trong đó, một giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức làm việc ở chính quyền cơ sở là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao; chu trình

hoạch định chính sách và những quy định cụ thể về chính sách chế độ đối với cán bộ, công

chức xã, phường, thị trấn... Đó là nguồn tư liệu quý giá và những gợi ý về phương pháp

luận giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài của mình.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại

học về làm việc ở chính quyền cơ sở dưới góc độ chính trị học, đặc biệt là đối với một

tỉnh có nhiều đặc thù như ở Nghệ An vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Vì vậy, tôi

mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần luận giải những vấn đề mà lý

luận và thực tiễn đã và đang đặt ra từ đó đề xuất một chính sách mới giải quyết phần

nào vấn đề đó.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quy trình hoạch định chính sách công, phân tích

nhu cầu lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất việc xây dựng và ban hành, triển khai chính

sách này nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở giai đoạn hiện

nay.

3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ đề xuất các quá

trình cơ bản sau đây:

- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công.

- Phân tích nhu cầu khách quan của việc lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt

nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế ở Nghệ An).

- Xác định nội dung, ban hành và đưa ra một số giải pháp có tính định hướng

cho việc triển khai thực hiện chính sách đó.

3.3. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề hoạch định

chính sách; nghiên cứu thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học và chính quyền cơ sở ở

Nghệ An từ sau Đại hội Đảng lần thứ X.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý thuyết về chính sách

công; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách thu hút nguồn nhân lực cho chính

quyền cơ sở, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu

của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã được công bố.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp lý luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Phương pháp logic và lịch sử.

- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

- Kết hợp phương pháp xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực

tiễn.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

Cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu hút sinh viên

tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về mặt lý luận

- Góp phần hệ thống hoá những bước cơ bản trong quy trình hoạch định chính

sách công

- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở

và vai trò của chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc ở

chính quyền cơ sở.

- Đề xuất những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực thi chính sách thu hút

sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở đạt hiệu quả cao.

6.2. Về mặt thực tiễn

- Luận văn có thể được dùng tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, công

tác nhân sự, công tác quản lý nhà nước; cung cấp những luận cứ khoa học cho các

nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn

nhân lực chất lượng cao.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng

dạy ở các Trung tâm Chính trị, Trường Chính trị tỉnh và trường đại học nước ta nói

chung, ở Nghệ An nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có 2 chương và

5 tiết.

Chương 1

cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định

chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học

về làm việc ở chính quyền cơ sở

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công

1.1.1. Các cách tiếp cận chính sách công

1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công (Public Policy)

Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong khoa học hành chính nhưng

thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.

Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các phương tiện

thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, chính sách là

chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một

vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.

Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo

đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Hay

“Chính sách cũng là những hoạt động nên hay không nên làm do nhà nước quyết định

lựa chọn”[50, tr.45].

William Jenkin: “Chính sách cũng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn

nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các

mục tiêu và các giải pháp để đạt được mục tiêu đó”. (William Jenkin, 1978) [50, tr.56].

Căn cứ từ hiện thực chính sách ở nước ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà

nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số quan niệm về chính sách:

- Từ cách phân biệt "chính sách" theo "nghĩa rộng" và "chính sách" theo "nghĩa

hẹp". Các tác giả Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:" chính sách với

nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh

đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội ) tác động lên đối tượng

quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn

"chính sách" theo nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối,

nhiệm vụ trong một thời gian nhất định"[35, tr.45].

- Trong bài "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", tác giả Vũ Hoàng Công đưa ra

định nghĩa: "chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể

hiện thái độ quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động

nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội "[63, tr.200].

- Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành, "chính sách là tập hợp những văn bản theo

một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trình

hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể -

đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giá trị "[63, tr.12].

Về nghĩa hẹp, các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc

khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của

Chính phủ, chính sách của một bộ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách

của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội...

Các tổ chức, các hiệp hội, đoàn thể...có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp

dụng trong phạm vi một tổ chức, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm

giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ

chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư",

tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng.

Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước

ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công.

Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói chung, nhưng chủ yếu tập trung vào

việc nghiên cứu các chính sách công nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản

lý của nhà nước.

Vậy chính sách công là gì?

ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ "chính sách công"

được sử dụng rất phổ biến. Cụ thể nêu ra một số quan điểm sau:

Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R.

Dye, 1985) [23, tr.103].

Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn có liên quan lẫn nhau, bao

gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các cơ quan chức

năng nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992) [36, tr.85].

Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình

nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995)

[50, tr.158].

Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/

chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của

công dân. (B. Guy Peters, 1999) [50, tr.92].

Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một

nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson,

2003) [50, tr 109].

Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính

quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu

chính sách đã được chấp thuận một cách hình thức, cũng như các quy định và thông lệ

của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004) [50,

tr.95]

B. Guy Peter: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh

hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”. (B. Guy

Peter, 1990) [50, tr.130].

Hoa Kỳ: Chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền thi hành đến

dân [18, tr.183].

Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:

Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính

phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi

nước.

Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối

với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.

Thứ ba, một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:

Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cho nền kinh tế,

khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn lực công một cách có

hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong

ngắn hạn lẫn trong dài hạn.

Nói cách khác, chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực

hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách

nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài

nguyên đất nước.

Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn đang

là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới đây chúng tôi muốn

dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài

và trong nước để cùng tham khảo trước khi đi đến một định nghĩa thích hợp.

William Jenkin cho rằng: " Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên

quan đến nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc

lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó" [50, tr.75].

Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:

- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập hợp

các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài.

- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói cách

khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.

- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà

nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.

Thomas R.Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song định

nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái mà Chính

phủ lựa chọn làm hay không làm" [23, tr.45]. Ba mặt quan trọng của định nghĩa này là:

Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục tiêu"

hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình hành động riêng

biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tình với chính

sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách ra đời không

phải vì sự nhất trí về mục tiêu mà bởi vì nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với

chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm

khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh

những mục tiêu nhất định của Chính phủ).

Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựa chọn

làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng như việc quyết

định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp Chính phủ ra quyết định không

can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.

Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là những đề

xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện trên thực tế.

Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm hoặc không làm,

chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.

Wiliam N. Dunn cho rằng: "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn

liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước

hay các quan chức nhà nước đề ra" [50, tr.123]. Ông dùng thuật ngữ "sự lựa chọn" - đây là

điểm đáng lưu ý để tránh nhầm lẫn giữa chính sách với các khái niệm khác như các quyết

định hành chính.

Theo Peter Aucoin," Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính

phủ tiến hành" [36, tr.134]. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng

biệt của Chính phủ (quết định của chính quyền tỉnh về sự phát triển ở một vùng cụ thể)

vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng ( chính sách môi trường và quyết định

không hành động của nhiều chính phủ). Thông thường, thuật ngữ "chính sách" được sử

dụng theo nghĩa thứ hai - một chính sách được cấu thành từ một loại quyết định.

B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của

nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân" [36, tr.

65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là nhà

nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân

với tư cách là một cộng đồng.

Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm chính sách như sau: "Chính sách là

những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong

một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương

hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,

văn hoá…."[46, tr. 105].

Định nghĩa này không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách

chung chung là những chuẩn tắc (chuẩn tắc là gì?) để thực hiện đường lối, trong một

thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về

chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó.

Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế - xã hội", các tác giả đồng nhất chính sách

công với chính sách kinh tế - xã hội và đưa ra định nghĩa:"chính sách kinh tế - xã hội là

tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác

động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực

hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội ". Định

nghĩa này tuy có cố gắng nêu lên một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành chính sách kinh

tế - xã hội nước ta, song lại có những sự trùng lặp như: quan điểm - tư tưởng, giải pháp

- công cụ, đối tượng - khách thể quản lý.

Tuy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu trên,

song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất khác nhau. Thực ra,

tuỳ theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng

này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách

công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản

chất của chính sách công.

Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, chúng tôi thấy có những đặc trưng cơ

bản nhất như sau:

Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Nếu chủ thể ban hành

các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị - xã hội, cũng

như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức,

đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là

các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà

nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công , vừa là chủ thể ban hành "chính sách

tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là

những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan đó, không có

hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.

Chính sách công do nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính

sách của nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy

nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp…

ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường bắt gặp cụm từ "chính sách của Đảng và

Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành chính sách công.

Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. ở Việt Nam, Đảng cộng sản

là lực lượng chính trị chủ yếu và duy nhất lãnh đạo nhà nước thông qua việc vạch ra

cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là những căn cứ chỉ đạo

để nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công

là do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các

chính sách này là sự cụ thể hoá về đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách

của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.

Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động hoặc không hành

động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không

chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao

gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.

Chính sách công trước hết thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách nhằm

làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự

định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. chính sách

công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những

kết quả thực tế.

Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của nhà

nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để

đạt được kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi.

Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời

sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá trình

hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý

khác như chiến lược, kế hoạch của nhà nước là những chương trình hành động tổng

quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách công là

chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan

lẫn nhau đang đặt ra trong xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại

hoặc có nguy cớ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách công

được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời

sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói,

vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai

đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách ). Việc giải quyết những vấn đề nói

trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được.

Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết,

chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành

chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước.

Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa

chọn hành động của nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết

định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói

và hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt

hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng

hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau

trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có

thể được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực

thi, song nó còn gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc mà có tính

định hướng, kích thích phát triển.

Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ vô số các

quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà

nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) và

được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của nhà nước và các cấp, các ngành về vấn

đề này. Nghị định 44/Chính phủ của Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị

định đó đã mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ phần hoá ở nước ta. Chúng ta

có thể thấy, chính sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai.

Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu như sau: "Chính sách

công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải

quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong một thời gian nhất định của đời sống kinh tế -

chính trị - xã hội theo mục tiêu xác định".

Như vậy, chính sách công là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải

pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược.

1.1.1.2. Hoạch định chính sách công

Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản của nhà nước sử dụng để phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước. ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu

quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy

trình chính sách, trong đó quy trình hoạch định chính sách - bước khởi đầu đặc biệt quan

trọng của quy trình chính sách.

Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên

quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định

(tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng cần có

chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào

đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính

sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy chính sách

công được hiểu là "những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh

trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc

đẩy xã hội phát triển theo định hướng" [42, tr.21]. Hay chính sách công cũng chính là

"một chuỗi các quyết định hành động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung

đang được đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" [44, tr.53].

ở nước ta, chính sách thể hiện như một công cụ quản lý của Nhà nước và

được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất

quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…". Như vậy, chính

sách công là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước sử dụng để thực hiện chức

năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách,

tiếp theo là thực thi chính sách và sau đó thực hiện phân tích chính sách để điều chỉnh,

bổ sung chính sách. Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình

chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học

sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại

hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế,

thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những

tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh

vực, ngành nghề khác nhau.

xác định vấn đề chính sách

Hoạch định chính sách

Thực thi chính sách

Phân tích chính sách

phát hiện mâu thuẫn

duy tri chính sách

đánh gía chính sách

Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công

Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của nhà nước và được xây

dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để

tạo ra một chính sách công. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ban hành,

theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ dưới đây:

các uỷ ban của Quốc hội

quốc hội

vấn đề kinh tế

chín h sách cơ ban

chính phủ

vấn đề ngoại giao

Cơ quan có thẩm quyề n và dự thao

chính sách và các biện pháp cụ thể

các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, xã hội kiến nghị

vấn đề xã hội.. ...

Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách

Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như

sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa

chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án đã chọn, thẩm định phương án

chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các

chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ

nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị

quyết của Chính phủ tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy

phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi năm 2002.

Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều

chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp

phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 20 năm thực hiện công

cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng bộc

lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ

quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường

do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan đặc biệt của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa

trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của

từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng

góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng

bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý

tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực

hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên

nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc thực thi không mang

lại hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính

sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu do các

bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ,

bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình

quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và

căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố để đề xuất

dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao cũng chính là cơ quan dự thảo, do

đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện

cụ thể của thực trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện

nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng

chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà nước không có

chính sách để điều chỉnh.

Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành

theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết

của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay,

quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy trình soạn thảo văn bản

quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công

rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu,

công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành…

Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các

đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì còn hình

thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác,

chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các

nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách

nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách, việc dự báo

chính sách rất quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở nước ta việc dự báo chính sách

còn yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong

hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì

việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình hoạch định chính

sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của

những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh hưởng tới tính tự

giác thực hiện chính sách…). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ

quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm

quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức

một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các

phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách,

đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính sách đúng

đắn phải từ thực tế khách quan.

Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh

giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực

hiện chính sách và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực

tế.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện quy trình

hoạch định chính sách công của nhà nước ta trong thời kỳ mới. Với việc lấy Chính sách

thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh

Nghệ An ) làm trường hợp cụ thể, tác giả đề xuất một phương án mới cho quy trình

hoạch định chính sách đó là việc các nhà khoa học, những người hoạt động thực tiễn

trực tiếp chịu tác động của vấn đề chính sách đó đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách

lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan đó có thể xem xét nếu đó là

một ý tưởng hay, một vấn đề cấp thiết thì bổ sung hoàn thiện và đưa chính sách đó vào

cuộc sống.

1.1.2. Lựa chọn, hoạch định chính sách công

1.1.2.1. Lý do hoạch định chính sách

Khi hoạch định một chính sách, trước tiên phải thuyết phục được ý chí chủ thể về

sự cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng công cụ chính sách và qua chủ thể thuyết phục

các đối tượng thực thi chính sách về lợi ích kinh tế, xã hội,… của chính sách sẽ ban

hành. Đây được coi là phần mở đầu của một chính sách, để người tiếp cận có thể nắm

được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề chính sách. Toàn bộ nội dung thuyết

phục đó được gọi là lý do hoạch định chính sách.

Vấn đề chính sách được hiểu là những mâu thuẫn nảy sinh trong các lĩnh vực hoạt

động cần được giải quyết bằng chính sách để thoả mãn nhu cầu nhất định của xã hội.

Như vậy có thể thấy vấn đề chính sách là hạt nhân của chính sách, nó hướng các mục

tiêu, giải pháp cần có của chủ thể hoạch định chính sách vào giải quyết vấn đề, đồng

thời nó cũng thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào thực hiện

chính sách để giải quyết vấn đề cùng nhà nước.

Để bản chính sách có sức thuyết phục cao đối với cả người tổ chức và thực thi;

củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách của nhà nước chính sách đó cần đảm bảo

một số tiêu chí như:

- Tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội.

-Tính phức tạp của vấn đề chính sách.

- Tính thời cơ của việc ban hành chính sách.

- Khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước.

- Khả năng tồn tại của chính sách với các công cụ quản lý nhà nước.

- Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sách so với yêu cầu quản lý nhà

nước.

- Phải trình bày những căn cứ khoa học để hoạch định chính sách và những căn cứ

ban hành chính sách của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các căn cứ được nêu ngắn

gọn, xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất nước và nên hướng vào vấn đề chính

sách.

1.1.2.2. Ban hành chính sách

Sau khi nhà hoạch định dự thảo những nội dung chi tiết của chính sách, để chính

sách được chính thức ban hành phải trải qua một bước rất quan trọng, đó là quyết nghị

chính sách.

Quyết nghị chính sách là hình thức pháp lý hoá chính sách trước khi đưa vào thực

hiện để cho chính sách có được sức mạnh công quyền, thu hút được sự tham gia của cơ

quan nhà nước các cấp, của mọi tầng lớp nhân dân.

ở nước ta, với những chính sách do trung ương ban hành, theo quy định của Hiến

pháp việc quyết nghị chính sách do hai cơ quan thực hiện là Quốc hội và Chính phủ.

Quốc hội quyết định những chính sách lớn cơ bản còn Chính phủ quyết định những

chính sách cụ thể. Việc quyết nghị chính sách thường diễn ra trong các phiên họp Chính

phủ sau khi đã xin ý kiến của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản, do các thành

viên Chính phủ biểu quyết theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ. Chính sách được

ban hành dưới thể thức là nghị quyết Chính phủ theo quy định của Điều 56, khoản 1 - Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật*.

Với những chính sách do cấp Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, theo Điều 40 - Luật

Ban hành văn quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân [57] đã quy

định rõ: chính sách thông qua sau khi cơ quan tư pháp đã thẩm định dự thảo chính sách

do đại diện cơ quan soạn thảo đưa ra và khi có quá nửa tổng số thành viên uỷ ban nhân

dân biểu quyết tán thành. Chính sách chính thức có hiệu lực khi Chủ tịch Uỷ ban nhân

dân thay mặt Uỷ ban nhân dân tỉnh ký ban hành.

Chính sách đã được ban hành nhưng để cho các cơ quan quản lý nhà nước và mọi

tầng lớp nhân dân biết để thực hiện, cơ qua ban hành chính sách cần phải công bố chính

sách bằng nhiều hình thức (kênh thông tin) để chính sách đến được với người dân như :

Đăng công báo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, qua các phương tiện báo chí, phát thanh

truyền hình…

1.1.2.3. Triển khai chính sách

Triển khai chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực, nói cách

khác đây là bước tổ chức thực thi chính sách để thực hiện các mục tiêu chính sách và

mục tiêu chung.

Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính

đúng đắn của chính sách được khẳng định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa nhận,

nhất là đối tượng thụ hưởng chính sách.

Thứ nhất, để triển khai chính sách một cách có hiệu quả, nhiệm vụ tiên quyết là

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết quan trọng vì * "Nghị quyết của Chính phủ được ban hành để quyết định chính sách cụ thể về xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên; bảo đảm thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; thực hịên chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo, quyết định chủ trương, chính sách cụ thể về ngân sách Nhà nước, tiền tệ, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh; thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước, các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; phê duyệt các điều ước thuộc thẩm quyền của Chính phủ."

tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó

phải có kế hoạch.

Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ

quan triển khai từ trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch gồm các bước như:

Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ

chế thực thi; Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị…; Kế hoạch

thời gian triển khai thực hiện; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến

về quy chế, nội quy tổ chức và điều hành thực thi chính sách.

Thứ hai, phổ biến tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau khi

chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp chính

quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có

hiệu quả.

Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần phải đầu tư về trình độ chuyên

môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật vì đây là đòi hỏi của thực tế khách

quan.

Việc tuyên truyền này cần phải được thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi

chính sách đang được thực thi, với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử

dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp…

Thứ ba, phân công phối hợp thực hiện chính sách: một chính sách thường được

thực hiện trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối

hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi

mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm, bởi

vậy việc phối hợp các cấp các ngành để triển khai một chính sách chủ động khoa học,

sáng tạo sẽ có hiệu quả cao và duy trì ổn định.

Thứ tư, duy trì chính sách. Đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát

huy tác dụng trong môi trường thực tế.

Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố,

như nhà nước là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để

chính sách được thực thi tốt.

Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào

thực thi chính sách. Nếu các việc này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách

là việc làm không khó.

Thứ năm, điều chỉnh chính sách, việc làm này rất cần thiết, diễn ra thường xuyên

trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền (Thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh

chính sách).

Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính

sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết

sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.

Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách.Bất cứ triển khai

chính sách nào cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách được thực hiện

đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.

Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên

thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết

luận chính xác về chính sách.

Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế

của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.

Thứ bảy, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm. Khâu này được tiến hành liên

tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng

phần hay toàn bộ chính sách. ở việc đánh giá này phải được tiến hành đối với cả

các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách.

Triển khai chính sách

phân công phối hợp

kiểm tra đôn đốc

Cấp hoạch định chính sách

Cấp thực thi chính sách

điều chỉnh bổ sung

đáp ứng yêu cầu cấp dưới

duy tri tiến độ

Sơ đồ 1.3: Triển khai chính sách

1.2. Lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính

quyền cơ sở tỉnh Nghệ An - Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ban hành chính sách thu

hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở

Có thể khẳng định rằng, trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán

bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong những

nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nói:"cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hay thất bại

đều do cán bộ tốt hay kém".

Nghị quyết trung ương 3 khoá VIII của Đảng về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công

nghiệp hoá - hiện đại hoá tiếp tục khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công

hay thất bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng của đất nước và chế độ, là khâu

then chốt trong công tác xây dựng đảng"[27, tr.20]. Đại hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: một

trong những giải pháp nhằm đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng phải là: "Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng

tốt, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát

hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có

đức, có tài, dù là đảng viên hay người ngoài Đảng" [31, tr.51].

Trên cơ sở những quan điểm về cán bộ, chính sách đối với cán bộ nói chung,

Đảng cũng đã đưa ra những quan điểm về đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở và vấn đề thu hút

sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Đảng ta nhận định đó là

những người trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, pháp luật của

Đảng và Nhà nước. Nghị quyết trung ương 5 (khoá IX) chỉ rõ:

Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân

dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo

việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức

hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết

hợp lý và đồng bộ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở [30, tr.167-168].

Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá X Đảng ta

nêu rõ chủ trương về ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công

tác ở cơ sở :

Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá…tạo bước

chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở" và

"để trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, cần

sớm ban hành chính sách thu hút để thực hiện chủ trương đưa sinh viên tốt

nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn…[32, tr.100].

Tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khoá X, Đảng ta tiếp tục

khẳng định điều này và yêu cầu tăng cường việc nghiên cứu chính sách đó. Đảng đã

khẳng định:

Nghiên cứu chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên

xuất sắc, các nhà khoa học trẻ tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công

tác [33, tr.257].

Đội ngũ cán bộ ở chính quyền cơ sở cơ sở là những người làm việc trong bộ máy

chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trách

nhiệm của đội ngũ cán bộ này là thay mặt Đảng và Nhà nước trực tiếp lãnh đạo,

quản lý xã hội đến tận người dân. Họ trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

bảo đảm mọi quyền lực của công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân ở cơ sở, động viên quần chúng làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước. Họ là

mối liên hệ giữa Đảng với dân, là hiện thân niềm tin của dân đối với Đảng. Chính

thông qua đội ngũ cán bộ này mà ý Đảng lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng

và Nhà nước ở cơ sở ăn sâu bám rễ trong lòng quần chúng, tạo nên mối quan hệ máu

thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối

với Đảng và chế độ…Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngang tầm

nhiệm vụ mới đồng thời củng cố và kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở là nhiệm vụ

hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn cách mạng.

1.2.2. Nhu cầu đòi hỏi cho việc lựa chọn

1.2.2.1. Vị trí của chính quyền, cán bộ, công chức ở cấp cơ sở

Chính quyền cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị

trấn, được bầu theo Hiến pháp và pháp luật. Theo quy định của pháp luật, "Hội đồng

nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng

và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước

nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên". Theo Điều 2, Luật tổ chức Hội

đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 thì:"Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân

dân bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở

địa phương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự

chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ

sở".

ở nước ta, chính quyền cấp xã gồm xã, phường, thị trấn là chính quyền cơ sở, cấp

thấp nhất trong hệ thống chính quyền địa phương. Ba loại hình này có nhiều nét chung

nhưng cũng có những điểm khác biệt. Sự khác biệt đó thể hiện ở các mối quan hệ trên

các lĩnh vực kinh tế - xã hội, truyền thống, tính cộng đồng, địa lý, dân cư…Chính quyền

cấp xã có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà

nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ tới đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội

của các cộng đồng dân cư và toàn thể người dân trong địa bàn; là cầu nối giữa Đảng,

Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân

dân. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước đều phải được thực hiện ở cấp

xã.

Chính quyền cơ sở theo quan niệm chung còn được xác định là "trụ cột", "trung

tâm" của hệ thống chính trị cơ sở trong tổ chức, triển khai mọi chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đảm bảo cho nó đi vào cuộc sống.

Chính quyền cơ sở với chức năng, thẩm quyền được thể chế hoá theo phân cấp cùng với

cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, công chức có thể thực hiện điều đó, mà khó có tổ chức

nào ở cơ sở thay thế được.

Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở đã đóng vai trò quan trọng trong xây

dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công

vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị cơ

sở nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công

tác của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở. Có thể nói, đây là vấn đề đặc biệt

quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng

nhà nước dân chủ nhân dân cho đến nay.

Xuất phát từ quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định thành công hay thất bại của sự

nghiệp cách mạng, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[54, tr.269], "công việc thành công

hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"[54, tr.273]. Trong nhiều văn kiện của Đảng đều

khẳng định vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Hội nghị Trung ương 3 khoá

VIII của Đảng đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công của cách

mạng…Cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi

mới. Cán bộ nói chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền

tảng cơ sở…Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc

vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Với vị trí là "nền tảng cơ sở", vai trò

của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã được thể hiện qua bốn mối quan hệ:

với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với công việc; với

quần chúng nhân dân:

Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với cán bộ, công chức chính quyền cơ

sở là mối quan hệ nhân quả. Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có phẩm chất

và năng lực tốt mới có thể cụ thể hoá, bổ sung hoàn chỉnh đường lối. Không có đội ngũ

cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vững mạnh thì dù đường lối, nhiệm vụ chính trị

có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, cán bộ, công chức chính quyền

cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng

và Nhà nước.

Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách

của Đảng, pháp luật của nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng

thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính

sách, pháp luật của nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa

đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. ở đây, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công

chức chính quyền cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân.

Trên ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: "Cán bộ là những người đem

chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng

thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt

chính sách cho đúng"[55, tr.269].

Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố

"động" nhất của bộ máy chính quyền cấp xã; là người tổ chức và điều hành hoạt động

của bộ máy chính quyền cấp xã. Song đến lượt mình, cán bộ, công chức chính quyền

cấp xã lại chịu sự chi phối, ràng buộc bởi quy định của tổ chức. Tổ chức bộ máy chính

quyền cấp xã buộc người cán bộ, công chức chính quyền cơ sở phải hành động theo

những nguyên tắc và khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ máy chính quyền khoa học và

hợp lý sẽ nhân sức mạnh của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã lên gấp bội. Cán bộ,

công chức chính quyền cấp xã có sức mạnh khi gắn với tổ chức chính quyền và nhân

dân. Nếu tách rời khỏi tổ chức chính quyền thì cán bộ, công chức chính quyền cấp xã

mất sức mạnh quyền lực và hiệu lực do nhân dân tạo nên.

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đội ngũ cán

bộ, công chức chính quyền cấp xã với tư cách là người thực thi pháp luật càng có vai

trò, vị trí quan trọng trong việc góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt trong

triển khai, tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.

Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền

cấp xã là lực lượng "nòng cốt" trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cấp

xã. Nói cách khác, mỗi cán bộ, công chức chính quyền cấp xã và đội ngũ ấy đang được

giao thực hiện khối lượng công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong

việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ của họ là

thực thi công vụ mang tính tự quản theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của thực

thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Đồng thời, chính họ cũng có khả năng đóng góp một

khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước cấp trên để xây dựng hệ thống

pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở gần dân có vai trò trực tiếp bảo đảm

kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn các hình thức vi

phạm pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu tranh

chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm cho

bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.

Thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, nhân dân thể

hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.

Trong hệ thống chính trị nước ta, cán bộ cơ ở (xã, phường, thị trấn) là những

người ngoài việc trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn phải trực tiếp giải quyết hằng ngày,

hằng giờ những vấn đề dân quyền, dân sinh, dân trí ở cơ sở. Do vậy, xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức cấp cơ sở vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách nhằm đảm bảo

ổn định chính trị - xã hội, tạo ra động lực mới phát huy nội lực từ cơ sở. Sinh thời, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nền tảng của mọi công tác là cấp xã"[53, tr.458] và

"cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công

việc đều xong xuôi"[53, tr.371].

Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã

trong quá trình xây dựng đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã xác

định: xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là một trong ba vấn đề cơ bản, bức xúc nhằm đổi

mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở. Tuy nhiên, trong nhận thức và việc

làm vẫn có những ý niệm đơn giản về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức chính

quyền cấp xã, chưa thấy hết được tính quyết định của họ đối với hoạt động quản lý hành

chính ở cơ sở. Việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với họ cũng chưa tương

xứng.

Đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã là một lực lượng nòng cốt ở cấp

chính quyền cơ sở, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước. Việc chuẩn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã

là đòi hỏi tất yếu, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.

Theo thống kê, đội ngũ cán bộ chuyên trách và cán bộ công chức cấp xã trong

toàn tỉnh hiện nay có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bậc đại học chiếm tỉ lệ rất thấp.

Đây là khó khăn không nhỏ đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An.

Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do chế độ tiền lương đối với

cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã còn thấp, không tạo được động lực để khuyến

khích cán bộ, công chức cấp xã học tập, nâng cao trình độ để thực hiện nhiệm vụ, cũng

như chưa tạo ra lực hút đủ mạnh đối với các đối tượng có trình độ chuyên môn về công

tác tại cơ sở. Vì vậy, xây dựng một chế độ ưu đãi hợp lý dành cho đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã là góp phần tạo lực hút đối với nguồn nhân lực có trình độ như sinh viên tốt

nghiệp ở các trường đại học về phục vụ chính quyền cơ sở; đồng thời giảm thiểu chi phí

dành cho việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã không đủ trình độ

và năng lực.

1.2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội và chính trị tỉnh Nghệ An

* Khái quát về kinh tế - xã hội

Tình hình kinh tế - xã hội và chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạch định,

triển khai chính sách nói chung và chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác

tại chính quyền cơ sở nói riêng. Chính vì vậy, trước khi xem xét đánh giá thực trạng đội ngũ

cán bộ, công chức tỉnh Nghệ An và những nội dung cần có cho chính sách thu hút sinh viên

về làm việc ở xã, phường, thị trấn ở Nghệ An, cần khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh

Nghệ An.

Vị trí địa lý: Nghệ An nằm ở khu vực trung tâm Bắc miền Trung, có toạ độ địa lý

18°33′ đến 19°25′ vĩ Bắc và từ 102°53′ đến 105°46 kinh Đông, cách thủ đô Hà Nội 297

Km về phía Bắc, cách cố đô Huế 306 Km về phía Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá,

phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, phía

Đông giáp Biển Đông.

Địa hình: phức tạp, bị chia cắt bởi các hệ thống núi đồi, sông suối, hướng nghiêng

từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Địa - Kinh tế Nghệ An rất đa dạng về miền sinh thái,

có đủ các vùng núi cao, trung du, đồng bằng đô thị, ven biển, biên giới, hải đảo.

Khí hậu: Nghệ An nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt. Mùa nắng -

nóng kèm thêm gió lào, nhiệt độ nhiều ngày lên đến 38- 41oC gây khô hạn kéo dài,

thường có mưa lớn kèm theo lụt, bão. Mùa lạnh thường kèm theo khô hanh và rét đậm.

Đất đai: Diện tích đất tự nhiên là 16.487km², trong đó 3/4 là miền núi, vùng cao.

Diện tích đất nông nghiệp là 18 vạn hécta, trong đó có 3 vạn hécta đất đỏ Bazan có khả

năng trồng các loại cây công nghiệp; 115 vạn hécta có khả năng lâm nghiệp, trong đó

có 60 vạn hécta rừng với trữ lượng gỗ 40 triệu mét khối.

Điều kiện và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội :

Dân số: tỉnh Nghệ An (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009) có 2.913.055 người,

mật độ trung bình là 177 người/km². Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 1,7

triệu người, hằng năm được bổ sung trên 3 vạn lao động trẻ, trong đó 15% được đào tạo

nghề. Số người được đào tạo chủ yếu thuộc đồng bằng, thành thị, còn ở miền núi cao không đáng kể*. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 7 dân tộc anh em cùng sinh sống, người

Kinh chiếm 85% dân số sống hầu hết trên địa bàn tỉnh, tập trung chủ yếu ở đồng bằng,

thành phố, thị xã, thị trấn; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số (Thái, H' Mông,

Khơ mú, Thổ, ơ đu, Đan Lai) chủ yếu sống rải rác ở miền núi, vùng cao.

Về hành chính: Tỉnh Nghệ An có 20 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố

Vinh, thị xã Cửa Lò, thị xã Thái Hoà, 10 huyện miền núi: Quế Phong, Tương Dương,

Kì Sơn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh

Chương và 7 huyện đồng bằng: Đô Lương, Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Hưng

Nguyên, Yên Thành, Quỳnh Lưu. Có 474 đơn vị hành chính cấp xã gồm 432 xã, 25

phường, 17 thị trấn, trong đó: 115 đơn vị thuộc vùng cao; 127 vùng núi thấp và 227

thuộc vùng đồng bằng ven biển ( với 5.639 khối xóm)

Số lượng đơn vị hành chính cấp xã lớn, quy mô từng đơn vị hành chính không

đồng đều. Các xã miền núi, vùng cao thường có diện tích rất lớn nhưng dân số ít.

Các xã đồng bằng thì ngược lại, diện tích nhỏ nhưng dân số rất đông. Một số xã,

phường có quy mô lớn như: số xã có 10.000 người trở lên là 55 (chiếm 11,6 %), đặc

biệt xã Diễn Yên (Diễn Châu) 14.278 người, xã Nghĩa Lộc (Nghĩa Đàn) 14.183

người, Hưng Bình (TP.Vinh) 20.905 người. Số xã có diện tích tự nhiên từ 10.000 ha

trở lên là 43 (chiếm 9,07%), đặc biệt là xã Châu Khê (Con Cuông) 43.888,13 ha;

Thông Thụ (Quế Phong) 42.130,97 ha. Điều này dẫn tới khối lượng, độ phức tạp

trong quản lý điều hành của từng đơn vị xã không giống nhau. Do vậy, yếu tố số

lượng cán bộ và tổ chức bộ máy của từng xã cũng cần có quy định khác nhau nhất

định [17, tr.35].

Về văn hoá - xã hội: Nghệ An là vùng đất có nền văn hoá lâu đời, xuất hiện vào

hàng sớm nhất trong lịch sử Việt Nam với những minh chứng các di chỉ khảo cổ thời

tiền sử. Khắp nơi ở xứ Nghệ, ở đâu cũng ghi đậm dấu ấn lịch sử, văn hoá, những điển

* Theo điều tra của Sở Lao động, Thương binh và xã hội: số lao động có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên chiếm 1,5%, số có trình độ đại học trở lên là 0,8%.

tích, truyền thống về địa linh, nhân kiệt. Nằm trong mạch ngầm của truyền thống cách

mạng và đấu tranh kiên dũng, Nghệ An đã sinh dưỡng biết bao anh hùng, hào kiệt: Mai

Thúc Loan, Nguyễn Xí, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng

Lưu, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai…Đặc biệt, mảnh đất

địa linh, nhân kiệt, khí thiêng sông núi, truyền thống lịch sử văn hoá muôn đời đã kết

tinh lại trong một người con kiệt xuất của quê hương - Hồ Chí Minh, anh hùng giải

phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất.

ở các xã, bản, làng, thôn, xóm của Nghệ An đều có những phong tục, tập quán, với

nền văn hoá dân gian độc đáo. Người Nghệ An nổi tiếng bởi sự thông minh, hiếu học, cần

cù, chịu rèn luyện, trung thực, đoàn kết, thuỷ chung.

Hệ thống giáo dục đào tạo ở Nghệ An có quy mô khá lớn và toàn diện (3 trường

đại học, 4 trường cao đẳng, 5 trường trung cấp, trường chính trị tỉnh, 2 trung tâm giáo

dục thường xuyên, 19 trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và nhiều trung tâm dạy

nghề…)

Với đặc điểm tự nhiên, đất đai, tài nguyên, dân số và truyền thống văn hoá, truyền

thống cách mạng của mình, Nghệ An có nhiều thuận lợi để khai thác tiềm năng, phát

huy lợi thế phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện và vững chắc. Trong thời gian

gần đây, kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, cơ cấu kinh

tế chuyển dịch đúng hướng, văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật

được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện.

* Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội những năm qua.

Phát huy truyền thống và những tiềm năng, lợi thế sẵn có, cùng với cơ chế chính

sách thông thoáng, Nghệ An đã tập trung khai thác nội lực, thu hút ngoại lực tạo nên

dấu ấn mới cho xứ Nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm

qua, thắng lợi có ý nghĩa lớn nhất là kinh tế phát triển nhanh và đúng hướng, tốc độ tăng

trưởng GDP khá cao, riêng năm 2008 đạt 10,6%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch

theo hướng tích cực: nông nghiệp giảm từ 31,03% (năm 2007) xuống 30,48%, công

nghiệp, xây dựng tăng 32,01% lên 32,53%; dịch vụ tăng 36,96% lên 36,99%. Mặc dù

không điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế, xã hội khi lạm phát xuất hiện nhưng 18/22 chỉ tiêu về

kinh tế - xã hội vượt kế hoạch đề, đặc biệt một số chỉ tiêu chủ yếu như tốc độ tăng

trưởng kinh tế, thu ngân sách, tổng sản lượng lương thực, giá trị sản xuất công nghiệp

và giảm tỷ lệ đói nghèo...

Các ngành kinh tế tăng trưởng mạnh đã tạo đà tăng thu ngân sách, tổng thu ngân

sách trên địa bàn đạt 2.801.514 triệu đồng, đạt 128% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh

giao. Huy động vốn đầu tư và xây dựng đạt khá: tổng nguồn vốn huy động đạt 16.619 tỷ

đồng/ KH 16.500- 17.000 tỉ đồng. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật được tăng cường đầu tư xây

dựng, nâng cấp. Bằng công sức đóng góp của nhân dân, hệ thống giao thông, thuỷ lợi ở

nông thôn từng bước được hoàn thiện. Diện mạo thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Thái Hoà

và các thị trấn, thị tứ ngày càng khang trang, xanh sạch đẹp, bộ mặt nông thôn khởi sắc.

Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, Nghệ An còn rất quan tâm phát triển các

lĩnh vực văn hoá, xã hội. Đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, phát huy truyền

thống hiếu học, phong trào thi đua học tập được phát triển mạnh. Hằng năm, số lượng

học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng không ngừng tăng. Các chương trình

văn hoá cơ sở phát huy hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao đời sống tinh thần cho

nhân dân. Đến năm 2008, toàn tỉnh có trên 85% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá,

phong trào thể dục thể thao quấn chúng phát triển mạnh.

Quốc phòng- an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững ổn định chính

trị ở tất cả các vùng, miền trong toàn tỉnh (vùng tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số và miền

núi biên giới hải đảo…

* Những khó khăn, hạn chế

Nghệ An là một tỉnh giàu tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội. Bên

cạnh những thuận lợi căn bản và những thành tựu đã đạt được, tỉnh Nghệ An đang phải

đối mặt với những khó khăn, thách thức. Đó là xa các cực tăng trưởng và các trung tâm

kinh tế - văn hoá lớn của cả nước nên sức thu hút đầu tư thấp, phải vươn lên bằng nội

lực của chính mình. Diện tích Nghệ An lớn nhất cả nước, địa hình phức tạp, đồi núi

chiếm 83%, có 419 km đường biên giới, dân số đông với nhiều tộc người thiểu số và tôn

giáo; thiên nhiên khắc nghiệt, hậu quả chiến tranh nặng nề; điểm xuất phát về kinh tế

thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống hạ tầng xã hội còn yếu kém

là những rào cản không nhỏ trong quá trình phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

của tỉnh hầu như phải xây dựng lại từ đầu sau chiến tranh.

Trên 2/3 diện tích tự nhiên bao gồm 242 xã, với 1,4 triệu dân thuộc 7 dân tộc trong

đó chủ yếu là dân tộc thiểu số cùng sinh sống thuộc khu vực miền núi, vùng cao; địa

hình hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều núi đèo, sông suối; cơ sở vật chất kỹ thuật còn

nghèo nàn; đồng bào du canh, du cư còn nhiều, dân trí thấp, đời sống của các đồng bào

dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Tài nguyên, thiên nhiên phong phú về chủng loại nhưng trữ lượng nhỏ, lại nằm

vùng sâu, khó khai thác công nghiệp.

Công tác quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ cơ sở cũng gặp khó khăn, đặc biệt

ở huyện miền núi: Diện tích rộng, các xã, bản ở cách xa nhau, giao thông bị chia cắt,

thông tin bị gián đoạn…đặc biệt trong những mùa nước lũ.

Nghệ An có tiềm năng lớn về lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo

nghề còn thấp. Sự phân bố dân số và trình độ dân trí không đồng đều, trình độ cán bộ cơ

sở còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền, đặc biệt đội ngũ cán bộ cơ sở ở

vùng cao trình độ còn rất thấp.

Bên cạnh truyền thống văn hoá với những bản sắc tốt đẹp rất đáng trân trọng, thì

con người xứ Nghệ thường nóng nảy, bảo thủ, còn ảnh hưởng không ít tư tưởng phong

kiến, tính cục bộ địa phương. Đây là một hạn chế của con người Nghệ An. Phần đông

những người đỗ đạt thường đi "thoát li", ít ở lại quê hương sinh sống, lập nghiệp, cống

hiến tài năng góp phần xây dựng quê hương. Mặt khác, do tư tưởng hẹp hòi, cục bộ nên

cũng khó khăn trong việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài về tham gia xây dựng làng xã,

quê hương.

Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và điều hành đội

ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung và chính quyền cơ sở nói

riêng. Đó cũng chính là rào cản hạn chế sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, công chức

chính quyền cơ sở trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An.

Một điểm đặc thù khác cũng phải lưu ý ở Nghệ An là ngay ở cơ sở xã, phường đã có

một đội ngũ đông đảo các đồng chí cán bộ đảng viên có quá trình công tác, có trình độ, còn

nhiệt huyết về nghỉ hưu tham gia công tác. Bên cạnh thuận lợi thì đó cũng là một thách thức

đòi hỏi hệ thống chính trị cơ sở, cán bộ cơ sở phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo

đức và khả năng lãnh đạo.

Cho đến nay, so với tình hình chung cả nước, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo.

Mức tăng trưởng kinh tế vẫn ở dạng tiềm năng. Nền kinh tế chủ yếu vẫn là kinh tế nông

nghiệp, đến năm 2008 trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn

(30,48%), so với công nghiệp, xây dựng (32,53%); chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm,

hiệu quả sản xuất chưa cao; sức cạnh tranh của sản phẩm nội tỉnh yếu. Tốc độ đô thị hoá

chậm. Thu nhập bình quân đầu người mới chỉ bằng 64% mức bình quân chung cả nước,

nội lực trong dân còn rất mỏng, nguồn thu ngân sách chỉ mới đáp ứng được 62% nhu

cầu thường xuyên, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao (7,84% theo chuẩn mới). Lao động thiếu

việc làm còn lớn.

Nhiều vấn đề xã hội như: Tệ nạn ma tuý, tham nhũng, lãng phí, tội phạm còn diễn

biến phức tạp, tai nạn giao thông còn nhiều, an ninh biên giới, vùng dân tộc thiểu số,

vùng tôn giáo vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại.

Đời sống của nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn còn rất nhiều khó khăn.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng ở một số đảng bộ cơ sở

còn hạn chế. Hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số

vẫn còn nhiều bất cập, cải cách hành chính chưa có bước tiến bộ đáng kể.

Với những đặc điểm và hạn chế nêu trên, gây những khó khăn nhất định trong

việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn. Do vậy, đòi

hỏi cán bộ, Đảng viên và mọi người dân Nghệ An nói chung và đội ngũ cán bộ, công

chức ở chính quyền cơ sở nói riêng phải luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, vừa tháo

vát, mưu trí, vừa phải có sức khoẻ, đồng thời phải có kiến thức trình độ nhất định về

các mặt để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của

Tỉnh trong giai đoạn mới.

Thông qua việc xem xét, phân tích kỹ những điều kiện, môi trường sống và làm

việc của người cán bộ công chức cấp xã để thấy được những thuận lợi, khó khăn

trong quá trình hoạt động công tác, cũng như trong việc phấn đấu rèn luyện, học tập

và trưởng thành đối với người cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở. Đồng thời

cũng nhìn nhận những điều kiện sinh sống, học tập, quê hương của nhưng sinh viên

tốt nghiệp đại học, đối tượng thu hút về công tác ở chính quyền cơ sở trên địa bàn

tỉnh Nghệ An. Đây cũng là những căn cứ thực tiễn để tác giả đề xuất những nội dung

thu hút và kiến nghị giải pháp đúng và phù hợp: đảm bảo giữa tính đổi mới và tính

kế thừa, vừa đảm bảo những tiêu chí tuyển dụng, chế độ đãi ngộ theo tiêu chuẩn

chung, vừa đáp ứng yêu cầu cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh

Nghệ An. Nhằm thu hút được những sinh viên có trình độ khá giỏi, phẩm chất đạo

đức tốt, có ý chí vươn lên về công tác tại chính quyền cơ sở để từng bước xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trẻ tuổi, có trình độ chuyên môn và trình độ lý luận

tốt, năng động, nhiệt huyết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới - giai

đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.

1.2.2.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở ở Nghệ An

* Khái quát chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở

tỉnh Nghệ An

Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:

Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004

của Bộ trưởng Bộ nội vụ thì các chức danh cán bộ chuyên trách như: Bí thư, Phó bí thư

và Thường trực Đảng uỷ; Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ở khu vực

đồng bằng, đô thị phải có trình độ chính trị và chuyên môn từ trung cấp trở lên. Riêng

đối với các chức danh cán bộ chuyên trách còn lại như: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ,

Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thì tiêu chuẩn phải có trình độ văn

hoá trung học cơ sở trở lên, được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực công tác.

Hiện tại, toàn tỉnh có 4987 cán bộ chuyên trách, trong đó có 2203 người chưa qua

đào tạo (chiếm tỷ lệ 44 %), 237 người có trình độ sơ cấp (5%), 1482 người trình độ

trung cấp và cao đẳng (30%), 1065 trình độ đại học và sau đại học (21%).

Theo đó, tổng số cán bộ chuyên trách cấp xã đạt chuẩn về chuyên môn so với quy

định là 2547 trường hợp (chiếm 51%), tổng số cán bộ chuyên trách cấp xã chưa đạt

chuẩn về chuyên môn theo quy định là 2440 trường hợp (chiếm 49 %) (phụ lục 1).

Thực tế cho thấy, số lượng cán bộ chuyên trách cấp xã, lực lượng lãnh đạo nòng

cốt ở cơ sở chưa đạt chuẩn về chuyên môn còn rất lớn, việc nâng cao trình độ chuyên

môn của đội ngũ này là nhiệm vụ cấp bách đối với cấp chính quyền cơ sở nhằm phục vụ

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.

Đối với công chức cấp xã

Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004

của Bộ trưởng Bộ nội vụ thì 7 chức danh công chức cấp xã như: Trưởng Công an, Chỉ

huy Trưởng Quân sự, Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng,

Văn phòng - Thống kê, văn hoá - xã hội phải có chuyên môn từ trung cấp trở lên và có

chuyên ngành phù hợp chức danh công chức đảm nhận.

Hiện tại, toàn tỉnh có 4138 công chức cấp xã, trong đó có 624 người chưa qua đào

tạo (chiếm tỷ lệ 15.1%), 102 người có trình độ sơ cấp (2.5%), 2 824 người có trình độ

trung cấp và cao đẳng (68.2%), và 587 người có trình độ đại học (14.2 %).

Theo đó, tổng số công chức cấp xã đạt chuẩn về chuyên môn theo quy định là

3411 trường hợp (chiếm tỷ lệ 82%), tổng số công chức cấp xã chưa đạt chuẩn về chuyên

môn theo quy định là 724 trường hợp (chiếm tỷ lệ 18 %) (phụ lục 2).

Căn cứ Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 và Thông tư liên tịch số

34/2004/TTLT/BNV-BTC-BLĐTBVXH ngày 14/5/2004 của liên Bộ Nội vụ - Bộ Tài

chính - Bộ Lao động Thương binh và xã hội thì đến ngày 31/12/2006, 05 chức danh

công chức cấp xã (Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Văn

phòng - Thống kê, văn hoá - xã hội) phải đào tạo chuẩn theo Quyết định số

04/2004/QĐ- BNV, nếu không đạt chuẩn phải xem xét giải quyết từng trường hợp cụ

thể. Trong khi đó, đến thời điểm cuối năm 2008, theo số liệu thống kê cho thấy chất

lượng công chức của tỉnh còn khá thấp so với trình độ chuẩn theo Quyết định số

04/2004/QĐ- BNV cũng như thực tế yêu cầu quản lý đặt ra đối với tỉnh Nghệ An

* Những ưu điểm và tồn tại hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức chính

quyền cơ sở ở Nghệ An

Về ưu điểm:

Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Nghệ An đã từng bước trưởng

thành và có nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước qua các thời

kỳ cách mạng, trong 2 cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại của nhân dân ta. Phần đông

vẫn giữ được bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm trong chỉ đạo và thực hiện

nhiệm vụ chính trị. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước có sự

chuyển biến và nâng lên một bước. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn đã

năng động và sáng tạo hơn trong việc thực thi nhiệm vụ và đóng vai trò tích cực vào quá

trình phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

góp phần trực tiếp ổn định tình hình cơ sở tạo nền tảng cho sự đổi mới về mọi mặt trong

khu nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh nhà.

Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới - công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước; trước yêu cầu nhiệm vụ mới, đội ngũ cán bộ cơ sở Nghệ An còn bộc

lộ nhiều điểm bất cập cần phải được quan tâm giải quyết.

Những mặt tồn tại hạn chế:

Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ công chức xã, phường, thị trấn hiện nay khá đông về số

lượng, song còn một số lượng lớn chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống về các mặt, đặc

biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà

nước và khả năng kỹ thuật sử dụng tin học..trong tác nghiệp, nhất là ở các xã miền núi,

vùng cao dẫn đến hạn chế nhiều mặt trong quản lý điều hành cơ sở.

Hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên trách xã còn có 44% chưa qua đào tạo về chuyên

môn, 62% chưa được đào tạo, bồi dưỡng và 32% mới bồi dưỡng ngắn ngày về quản lý

nhà nước; đặc biệt là ở các xã vùng cao thì tỷ lệ cán bộ chưa được đào tạo về chuyên

môn, chưa được bồi dưỡng, đào tạo về quản lý nhà nước còn cao hơn trung bình toàn

tỉnh rất nhiều.

Đội ngũ công chức cấp xã trên toàn tỉnh hiện đang còn 15.1% công chức chưa qua

đào tạo ở một trường lớp chuyên môn nào;50% công chức chưa qua đào tạo bồi dưỡng

về lý luận chính trị; 76% chưa được đào tạo kiến thức quản lý nhà nước…, thấp nhất

vẫn là ở vùng cao.

Đây là điểm yếu cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và ở miền núi

vùng cao Nghệ An nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, khi cả nước ta đang tiến hành

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và công nghiệp hoá - hiện đại hoá

nông thôn nói riêng, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang tăng cường phân cấp và trao

quyền tự chủ cho cơ sở, đầu tư nhiều vật lực, tài lực và dành nhiều dự án, chương trình

mục tiêu nhằm hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế- xã hội nông thôn phát triển, đặc biệt là ở khu

vực miền núi, vùng cao nơi mà kinh tế xã hội còn có nhiều khó khăn thì với đội ngũ cán

bộ cơ sở hầu hết chưa được qua đào tạo cơ bản là một trở ngại không nhỏ.

Do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cộng thêm sự non yếu về trình độ lý

luận và quản lý nhà nước đã dẫn tới sự hạn chế về năng lực quản lý, điều hành công

việc. Không ít cán bộ chưa nắm chắc chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền được giao nên

giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tuỳ tiện, xử lý các công việc không đúng

pháp luật, vi phạm chính sách của Đảng và Nhà nước. Có nhiều vụ việc mới phát sinh

không nắm bắt được, dẫn đến bỏ sót một số công việc thuộc thẩm quyền của mình, xử

lý không kịp thời hoặc còn lúng túng, trong khi đó lại ôm đồm, lấn sang công việc khác

ngoài phạm vi phụ trách của mình.

Thứ hai: Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cơ sở chưa hợp lý, tuổi đời tương đối già:

Tuổi từ 35 - 45 là 1705 người chiếm 33,2%, từ 46 - 55 là 2237 người chiếm

44,9%, trên 55 tuổi là 463 người chiếm 9,3% ; độ tuổi dưới 35 chỉ có 573 người (chiếm

11,5%). Cán bộ trẻ, cán bộ nữ có rất ít, hoặc nhiều nơi không có.

Thứ ba: Độ tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ xã hiện nay không cao, lòng tin

của nhân dân, đối với cán bộ xã bị suy giảm*.

Thứ tư: về hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn điều hành, quản lý kinh tế -

* Kết quả điều tra xã hội học của Sở Nội vụ Nghệ An cho thấy: khi hỏi về phẩm chất đạo đức và uy tín của đội ngũ cán bộ xã hiện nay như thế nào thì các ý kiến trả lời như sau: tốt 50%, trung bình 36%, yếu kém 3,33% và khó trả lời là 10%

xã hội ở cơ sở của đội ngũ cán bộ cấp xã, đặc biệt là đối với cán bộ chủ chốt chưa cao.

Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước nói chung và tỉnh

Nghệ An nói riêng, đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay còn nhiều hạn chế, về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay**.

Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên:

Thứ nhất: Các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của Hệ thống

chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; quan liêu, không sát cơ sở, không

sát nhân dân, không kịp ban định các chủ trương, chính sách để củng cố, tăng cường các

tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở.

Công tác chỉ đạo kiểm tra đôn đốc thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở, hướng về

cơ sở của các cơ quan chức năng cấp huyện và một số cơ quan, ban ngành cấp tỉnh chưa

thường xuyên và trách nhiệm chưa cao. Một số vụ, việc vi phạm pháp luật, tham ô, lãng

phí của cán bộ cơ sở chưa được phát hiện và xử lý kịp thời hoặc xử lý chưa nghiêm nên

chưa có tác dụng ngăn chặn, răn đe sự sai phạm của cán bộ cơ sở. Việc chấp hành pháp

chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm. Không ít chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng

và Nhà nước, trong đó có cả công tác tổ chức và cán bộ chưa được thực thi một cách

nghiêm túc nên hiệu lực và hiệu quả không cao.

Thứ hai: Công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ, công chức cơ sở làm chưa

tốt. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến đội ngũ cán bộ cấp xã vừa ít được đào tạo

vừa có chất lượng thấp.

Công tác quy hoạch cán bộ cấp xã chưa được các cấp, các ngành quan tâm chú ý

thực hiện thường xuyên, chưa thành quy chế bắt buộc đối với cán bộ cơ sở. Hầu hết các

địa phương chưa làm tốt công tác quy hoạch cán bộ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ về

** Kết quả điều tra xã hội học của Sở Nội vụ Nghệ An cho thấy:76,89% số ý kiến được hỏi cho rằng nằng lực quản lý kinh tế - xã hội của cán bộ cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu nhịêm vụ trong giai đoạn hiện nay; đối với các chức danh chủ chốt xã năng lực chỉ được đánh giá ở mức trung bình. Đặc biệt một số cán bộ được đánh giá là có năng lực yếu là Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội nông dân, Phó chủ tich HĐND, Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch Hội phụ nữ.

mọi mặt của đội ngũ cán bộ cơ sở.

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa theo kế hoạch, còn mang tính tự phát của

từng địa phương hoặc từng cá nhân là chủ yếu; việc đào tạo cán bộ ở vùng cao, vùng

tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số chưa được chú ý đúng mức.

Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa công tác quy hoạch, tạo nguồn với công tác

đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ, đào tạo ngành nghề chưa phù hợp với vùng, miền

trong tỉnh.

Quy định tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ ở cơ sở thiếu cụ thể, dẫn đến hiện

tượng bố trí cán bộ một cách tuỳ tiện; nhiều nơi nhiều lúc còn thiên về tình cảm cá

nhân. Cán bộ được đào tạo về không được bố trí, sử dụng, trong lúc đó lại bố trí sử dụng

người chưa được qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ không phải là hiếm ở các địa

phương. Do vậy, số cán bộ được đào tạo cơ bản bổ sung cho đội ngũ cán bộ cấp xã đã

ít, số cán bộ được sử dụng hợp lý sau đào tạo lại còn ít hơn.

Thứ ba: Về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã.

Cán bộ chuyên trách cơ sở chưa được xếp vào loại cán bộ công chức nhà nước và

hưởng hệ số lương chưa tương xứng với công việc được giao; cán bộ không chuyên

trách hưởng sinh hoạt phí (chưa phải là lương), trong khi đó, trên thực tế họ làm việc

trong một môi trường, thời gian như nhau. Hoạt động của chính quyền cơ sở chưa thực

sự được coi như một hoạt động chuyên môn chuyên nghiệp. Công việc của người cán

bộ chính sách (trừ công chức xã) chưa được coi là một nghề. Còn có tư tưởng phân biệt

đối xử khác nhau giữa cán bộ công chức cấp xã với cán bộ công chức cấp trên. Do vậy,

chưa tạo được sự thu hút những người có trình độ, được đào tạo cơ bản về tham gia

công tác cơ sở, nhất là lớp trẻ được đào tạo cơ bản từ các trường đại học.

Chế độ chính sách đối với cấp xã nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng như

tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, hưu trí …, tuy đã được điều chỉnh nhiều lần, song

nhìn chung vẫn còn mang tính tình thế chưa có hệ thống chính sách đồng bộ, lâu dài,

mang tính chiến lược (từ việc đào tạo, thu hút, bồi dưỡng đến việc bố trí, sử dụng, chế

độ đãi ngộ,…); ngoài các chính sách chung, chưa có chính sách cụ thể mang tính đặc

thù cho từng vùng, từng khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.

* Mục tiêu đào tạo, bổ sung cán bộ, công chức cấp xã.

Từ thực trạng chất lượng chuyên môn của cán bộ chuyên trách và công chức cấp

xã, đặt ra nhu cầu phải nâng cao cũng như bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ đạt và

trên chuẩn cho cấp xã là rất lớn.

Đối với cán bộ chuyên trách: Đến năm 2010 thì 100% cán bộ có trình độ trung cấp

trở lên, trong đó có từ 50% đến 60% có trình độ cao đẳng, đại học. Nh vậy, nhu cầu bổ sung, thay thế đối với cán bộ chuyên trách giai đoạn năm 2010 là 2440 cán bộ*.

Đối với công chức cấp xã: Đến năm 2010 thì 100% công chức có trình độ chuyên

môn trung cấp phù hợp với chức danh đảm nhận, trong đó có 30% đến 40% có trình độ

cao đẳng, đại học. Như vậy, nhu cầu bổ sung thay thế đối với 05 chức danh công chức

cấp xã (trừ 02 chức danh Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng chỉ huy quân sự) là 726

người.

1.2.2.4. Tình hình sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nghệ An

Đối tượng thu hút của "Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác

tại chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An)" là những sinh viên đã tốt nghiệp đại

học, tuổi đời chưa quá 35, họ có những đặc điểm riêng: tuổi đời còn trẻ, có tri thức, đã

được đào tạo chuyên môn vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và

sáng tạo. Đây cũng là đối tượng xưa nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã

hội.

Ngày nay, vai trò của sinh viên trong bức tranh xã hội ngày càng được ghi nhận

đậm nét. Trong Hiến chương nhân bản 2000 được 86 học giả và các nhà hoạt động xã

hội tên tuổi trên thế giới cùng ký tên đã nhận xét:"Hiến chương nhân bản II được công bố

năm 1973 để ứng xử các vấn đề phát sinh trên hiện trường thế giới, kể từ đó: sự trỗi dậy của

chủ nghĩa Phatxit, chiến tranh lạnh …và sự xuất hiện của sức mạnh sinh viên trong các

* do chỉ tiêu Kế hoạch Chương trình 4 đề ra đến năm 2010: Đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã phải có trình độ trung cấp chuyên môn; trong khi đó tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV thì chỉ cần trình độ văn hoá trung học cơ sở và được bồi dỡng về nghiệp vụ đối với các chức danh: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh

trường đại học" [74].

ở Việt Nam, những sinh viên tốt nghiệp đại học là những trí thức mới của đất

nước, chính họ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa

học kỹ thuật, nên rất cần có những người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo, có

khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biến đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự

thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong "Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp

Tết Nguyên đán 1946" đã viết: "Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi

trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Và người căn dặn: "Thanh niên sẽ làm chủ nước

nhà. Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên"[55, tr.259].

Giáo sư, Tiến sĩ người Mỹ Joseph Stiglitz đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 vì

những cống hiến xuất sắc trong nghiên cứu khoa học về quá trình chuyển đổi sang nền

kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển, trong chuyến thăm và làm việc ở nước ta

cuối tháng 6 - 2001 cũng nhận xét về thế hệ trẻ ở các nước đang phát triển: "môi trường

mới đòi hỏi tư duy phải đổi mới nhanh nhạy để phù hợp và giới trẻ thích nghi dễ dàng

hơn so với những người già. (…) chính họ đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc

hình thành một tư duy kinh tế mới" [74].

Tuổi trẻ là nền tảng cho một đời người. Với sinh viên mới tốt nghiệp đại học, họ

vừa trải qua những năm tháng ngồi trên ghế giảng đường đại học là quãng thời gian vô

cùng quan trọng trong quá trình lâu dài tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư

duy và bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này con người trưởng thành và bước vào

đời. Nếu điểm xuất phát tốt, họ sẽ đạt được những bước đi dài, ổn định và vững chắc

trong tương lai; ngược lại con đường đi lên sẽ gặp trắc trở khó khăn. Một đất nước Việt

Nam có phồn vinh và vững mạnh trong tương lai hay không là phụ thuộc phần lớn vào

thế hệ trẻ sau này, trong đó có sinh viên.

Nghệ An là một địa phương có truyền thống hiếu học và học giỏi, hằng năm tỉnh

Nghệ An có hàng ngàn em là tân sinh viên của các trường đại học khắp cả nước. Riêng

năm 2009, chỉ một huyện Thanh Chương đã có 700 em đậu đại học nguyện vọng 1 và

1.500 em đậu nguyện vọng 2, 3; Chỉ một trường làng ở huyện Yên Thành (Trường Phổ

thông trung học Yên Thành II) đã có 144 em đậu đại học nguyện vọng 1. Đặc biệt có

229 em đạt 27 điểm trở lên trên tổng 3.175 của cả nước, trong đó có 15 em là thủ khoa

của các trường đại học, là một trong 10 tỉnh có học sinh đậu đại học nguyện vọng 1 cao

nhất của cả nước. Đây là nguồn "tài nguyên vô giá" để tỉnh Nghệ An thu hút những sinh

viên ưu tú về xây dựng quê hương sau khi các em tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 3 trường đại học, trong đó có

một trường đại học đa ngành, một trường đại học công nghệ và một trường đại học sư

phạm kỹ thuật.

Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh là trường đại học công lập có chức năng đào tạo

giáo viên dạy nghề và kỹ sư kỹ thuật, công nghệ có trình độ đại học, hiện nay trường có

2952 sinh viên đang theo học tại 6 ngành nghề khác nhau tại các khoa đào tạo.

Bảng 1.1: Số lượng sinh viên đã tốt nghiệp của đại học sư phạm kỹ thuật Vinh

Môn / khoá 2007 2008 2009

Tin học ứng dụng 92 131 309

Công nghệ kỹ thuật điện tử viễn thông 85 159 251

Công nghệ kỹ thuật điện 89 248 455

Công nghệ chế tạo máy 71 240 360

Công nghệ kỹ thuật ôtô 78 236

Sư phạm kỹ thuật công nghiệp 58

Tổng 337 856 1759

Nguồn: Phòng Đào tạo, đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh.

Đại học Công nghệ Vạn Xuân là một trường đại học tư thục mới được thành lập,

trường có chức năng đào tạo nhân lực có trình độ đại học của nhiều ngành nghề như:

Công nghệ sinh học cây trồng; Công nghệ sinh học vật nuôi; Công nghệ sinh y học;

Công nghệ môi trường; Kế toán và kiểm toán; Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán

Tài chính doanh nghiệp; Quản trị nhân sự; Quản trị kinh doanh bất động sản; Tiếng anh

phiên dịch.

Trường đại học Công nghệ Vạn Xuân khai giảng khoá đầu tiên vào tháng 11 năm

2009 với 88 sinh viên theo học tại 4 khoa: Quản trị kinh doanh, Công nghệ sinh học,

Ngoại ngữ và nghiên cứu quốc tế; Khoa Tài chính - Ngân hàng - Kế toán.

Trường đại học Vinh là một trường đại học đa ngành, được biết đến như một

trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ lớn

của đất nước, với quy mô gần 36000 sinh viên, từ 54 tỉnh thành trong cả nước theo

học tại 47 chuyên ngành ở 19 khoa khác nhau để nhận bằng cử nhân hoặc kỹ sư hệ

chính quy. Hằng năm, hàng nghìn sinh viên đã tốt nghiệp, họ là lực lượng lao động

có trình độ bổ sung vào nguồn nhân lực của cả nước. Cụ thể như, năm 2006 có 1252

sinh viên tốt nghiệp tốt nghiệp, năm 2007 là 1739 sinh viên, năm 2008 là 1836 sinh

viên và đến tháng 7 năm 2009 là 1542 sinh viên được công nhận là tốt nghiệp ra

trường (xem bảng 1.2).

Bảng 1.2: Số lượng sinh viên các khoa đào tạo của Đại học Vinh

Năm học TT Ngành Mã ngành

2006 - 2007 2007- 2008 2008 - 2009

Nhóm ngành kinh tế - tài chính, Ngân hàng, pháp lý, Đa ngành và cộng đồng

229 219 1 Cử nhân Toán 103 242

116 173 2 Toán - tin ứng dụng 109 60

189 184 3 Cử nhân Lý 105 155

216 234 4 Cử nhân Hoá 202 205

171 227 5 CN thực phẩm 204 105

172 189 6 Cử nhân Sinh 302 191

104 265 7 KH môi trường 306 38

198 315 8 Ctrị - Luật 502 86

200 445 9 Luật 503 0

739 724 10 Cửnhân Văn 604 942

11 Cử nhân sử 605 760 576 550

12 Công tác Xã hội 607 0 102 256

13 HD Du lịch 606 0 87 230

14 Cử nhân Anh 751 283 244 196

15 Quản trị KD 400 319 489 538

16 Kế toán - NH 401 6 552 936

17 Tài chính -NH 402 0 273 730

18 QTKD - HT 802 0 85 40

19 Kế toán - HT 801 0 207 128

Nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ

1 Cử nhân Tin 104 293 403 396

2 Kỹ sư CNTT 107 508 545 568

3 Kỹ sư Xây dựng 106 754 835 903

4 Điện tử VT 108 292 383 415

5 Xây dựng - HT 800 0 47 47

Nhóm ngành sư phạm

1 Sư phạm Toán 100 273 275 307

2 Sư phạm Tin 101 315 309 189

3 Sư phạm Lý 102 228 199 188

4 Sư phạm Hoá 201 215 215 229

5 Sư phạm Sinh 301 192 202 267

6 Sư phạm TD 903 243 215 227

7 Sư phạm GDCT 501 271 261 263

8 Sư phạm Văn 601 340 379 444

9 Sư phạm Sử 602 274 334 357

10 Sư phạm Địa lý 603 205 210 243

11 GD Tiểu học 901 257 222 219

12 GD Mầm non 902 182 175 193

13 Tiếng Anh 701 195 196 233

14 Tiếng Pháp 703 142 131 112

15 SP TD-Quân sự 904 143 197 212

Nhóm ngành nông - lâm - ngư

1 Nông học - HT 0 38 0

2 Kỹ sư nông học 304 180 229 282

3 Kỹ sư NT thuỷ sản 303 232 250 339

4 Kỹ sư khuyến nông 305 114 177 218

9512 11376 13430

Nguồn: Phòng Đào tạo, Đại học Vinh.

Trong 47 ngành đào tạo của Đại học Vinh có rất nhiều chuyên ngành phù hợp với

nhu cầu mà chính quyền cơ sở của tỉnh Nghệ An đang cần được bổ sung cán bộ có trình

độ như: Luật; Chính trị - Luật, Kế toán, Tài chính, các ngành trong nhóm ngành Nông -

Lâm - Ngư, …

Như vậy, có thể thấy rằng, tỉnh Nghệ An có một nguồn trí thức trẻ rất dồi dào, họ là

những sinh viên được đào tạo tại các trường đại học trên địa bàn tỉnh hoặc là con em của

địa phương theo học tại các trường đại học trên cả nước. Nhưng một thực tế, số sinh viên

về công tác tại chính quyền các phường, xã, thị trấn của tỉnh Nghệ An còn rất ít, thậm chí

có không ít sinh viên sau khi về làm việc một thời gian ở chính quyền cơ sở lại xin chuyển

công tác. Trong khi rất nhiều sinh viên của tỉnh Nghệ An chưa có việc làm ổn định, chấp

nhận làm trái với chuyên ngành được đào tạo. Tại sao lại có sự mâu thuẫn đó?

Để trả lời cho câu hỏi đó, theo tôi có một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

Thứ nhất, hiện nay, chúng ta chưa có chính sách rõ ràng nhất quán từ trung ương

đến địa phương về công tác thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở

chính quyền cơ sở.

Thứ hai, tư tưởng cũ "sống lâu lên lão làng" còn ảnh hưởng đến một số cán bộ

lãnh đạo. Đâu đó còn nặng tư tưởng xếp hàng, những người có kinh nghiệm thâm niên

phải được bổ nhiệm trước nên cơ hội cho các cán bộ, công chức trẻ là sinh viên mới ra

trường chưa lâu trở nên rất hạn chế, dù có năng lực tốt, tư cách đạo đức tốt, ra sức phấn

đấu vẫn phải "xếp hàng", điều này làm cho sinh viên thuộc diện thu hút dễ nản lòng và

có hướng tìm một công việc mới nhiều cơ hội tiến thân hơn.

Thứ ba, chính là chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp, mức thu nhập từ lương của

cán bộ, công chức chưa đảm bảo được đời sống của bản thân và gia đình dẫn đến tình

trạng nhiều sinh viên không muốn về chính quyền cơ sở hoặc cán bộ trẻ bỏ công sở ra

ngoài, nguồn nhân lực có chất lượng ở cơ sở đã thiếu lại càng thiếu hụt hơn.

Thứ tư, việc nhận sinh viên về làm việc không có kế hoạch, sinh viên về làm việc

ở chính quyền cơ sở được bố trí trái với chuyên ngành được đào tạo vừa không phát huy

được hết khả năng, năng lực của cán bộ, công chức vừa gây tâm lý bức xúc, chán nản

trong các cán bộ, công chức là sinh viên đã được đào tạo cơ bản.

Một lý do nữa là công tác tại chính quyền cơ sở đặc biệt là ở các xã miền núi điều

kiện công tác và điều kiện sinh hoạt còn nhiều khó khăn. Cơ hội được học tập, bồi

dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận cho cán bộ cơ sở chưa nhiều.

Trong khi đó công việc của cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở lại rất nhiều áp

lực do là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị, thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với

nhân dân.

Ngoài ra, còn rất nhiều lý do khác như, tâm lý định kiến công việc ở cấp xã không

tương xứng với trình độ đại học, sợ bị kém năng động…Tất cả những lý do đó khiến

cho mặc dù có lực lượng sinh viên tốt nghiệp đông đảo nhưng phần đông không muốn

về công tác ở chính quyền cơ sở hoặc về làm thì chỉ xem như bước đệm tạm thời mà

chưa thực sự tâm huyết, gắn bó với công việc lâu dài.

Trước thực tế đó, đòi hỏi tỉnh Nghệ An phải đưa ra một chính sách thu hút sinh viên

tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Chính sách đó nhằm giải quyết từng

bước những yêu cầu chính đáng về chế độ đãi ngộ, điều kiện công tác, cơ hội thăng tiến của

những trí thức trẻ có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị

vững vàng, có nguyện vọng về làm việc lâu dài trong chính quyền cấp xã. Chính sách sẽ

góp phần trong việc bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở những trí

thức trẻ, làm cho đội ngũ này được trẻ hoá và nâng cao hiệu quả công việc của họ. Chính

sách không chỉ thu hút được sinh viên về với chính quyền cấp xã mà còn khuyến khích họ

trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp vụ; rèn luyện, tu dưỡng để thật sự toàn tâm toàn ý

phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân địa phương nơi mình công tác, góp phần vào sự ổn

định và phát triển về mọi mặt của tỉnh nhà.

1.2.3. Các yếu tố (công cụ) cơ bản cho việc lựa chọn

1.2.3.1. Tầm nhìn (vision)

Tầm nhìn là khả năng nhìn thấu khuynh hướng của tương lai, từ đó xác định được

những mục tiêu phát triển. Do vậy, tầm nhìn là giá trị về thời gian trong tương lai đối

với mỗi quyết định, lựa chọn hoặc kết quả của một quá trình lao động của người có

trách nhiệm hoạch định.

Với định hướng từ sự phân tích cơ hội và thách thức, chính sách thu hút sinh viên

tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An) xác định tầm nhìn hay

viễn cảnh trong 05 năm tới, đến năm 2015 là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp

xã của tỉnh Nghệ An trẻ, đủ đức, đủ tài, tích cực trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp

vụ; rèn luyện, tu dưỡng; thực sự toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân,

phục vụ nhân dân địa phương nơi mình đang công tác.

Tầm nhìn này nhấn mạnh một số điểm quan trọng là:

Thứ nhất, "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Nghệ An trẻ, đủ đức,

đủ tài": chính sách hướng tới việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức là những trí

thức trẻ tuổi đã qua đào tạo, có trình độ đạt chuẩn trong đó một bộ phận đông đảo là

sinh viên tốt nghiệp đại học các chuyên ngành phù hợp, thoả mãn nhu cầu nhân lực

phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, có phẩm chất đạo đức tốt có

lập trường tư tưởng vững vàng, có ý thức phấn đấu trong học tập và công tác, tích cực

trau dồi năng lực chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện, tu dưỡng.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở đó phải " thực sự toàn tâm

toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ nhân dân địa phương nơi mình

đang công tác": chính sách hướng đến điều kiện làm việc, cơ hội học tập, nâng cao trình

độ, cơ hội thăng tiến của các cán bộ, công chức ở chính quyền cơ sở được nâng lên một

bước; chế độ tiền lương, trợ cấp đảm bảo đời sống để cán bộ, công chức xã, phường, thị

trấn bám sát chuyên môn, thực sự gắn bó, thấu hiểu tâm nguyện của nhân dân, luôn đào

sâu suy nghĩ để phục vụ nhân dân tốt hơn.

1.2.3.2. Lợi ích của các bên liên quan tới chính sách

* Nhà nước

Khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền

cơ sở đi vào cuộc sống, sẽ có một đội ngũ cán bộ được trẻ hoá, có bản lĩnh chính trị

vững vàng, kiên định trước khó khăn, thử thách, luôn phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện,

nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, nhiệt tình trong công tác, nhiều đồng chí có sự

đổi mới về tư duy, năng động, dám nghĩ, dám làm, sáng tạo trong vận dụng, cụ thể

hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào

thực tiễn cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ban hành và thực thi tốt chính sách này sẽ chuyên nghiệp hoá và tiêu chuẩn hoá

đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Thực hiện điều này vừa khắc phục được hạn chế đào tạo

lại sau bổ nhiệm dẫn đến tình trạng thiếu chuyên nghiệp, vừa chủ động xây dựng đội

ngũ cán bộ cơ sở chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Không chỉ mang lại lợi ích về chính trị, việc thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về

làm việc ở chính quyền cơ sở còn mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho nhà nước. Với

số sinh viên đã qua đào tạo một mặt họ làm tăng hiệu quả làm việc của chính quyền cơ

sở có kế hoạch sử dụng hợp lý nguồn ngân sách của xã, mặt khác nhà nước sẽ không

phải mất một khoản tiền lớn từ ngân sách để đào tạo và đào tạo lại những cán bộ chưa

đạt chuẩn.

* Chính quyền cơ sở

Sinh viên được xác định là nguồn lực quan trọng góp phần nâng cao chất lượng

cán bộ, công chức, thúc đẩy cải cách hành chính, tạo động lực mới vào công cuộc phát

triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

Sinh viên được tiếp nhận về công tác tại cơ sở là những người có đủ tiêu chuẩn,

sức khoẻ, nhiệt tình, năng nổ trước nhiệm vụ được giao. Nếu bố trí phù hợp ngành

nghề được đào tạo, khả năng của sinh viên được phát huy, nhất là ở các lĩnh vực

trồng trọt, chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, địa chính. Về lĩnh vực tư pháp hộ tịch, các sinh

viên tư vấn giúp chính quyền cơ sở xử lý đúng các quy định, hướng dẫn theo luật

định nhất là xử lý việc có liên quan đến quyền lợi của nhân dân. Giải quyết đơn thư

khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng thời gian luật định và hạn chế đơn thư vượt

cấp…Sinh viên về công tác ở cơ sở bước đầu góp phần nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động của chính quyền; việc ban hành các văn bản đảm bảo quy trình, thể

thức. Số sinh viên được bố trí làm việc tại văn phòng cấp uỷ, Uỷ ban nhân dân đã

tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, điều hành công việc cụ thể, thiết thực,

nhất là xây dựng nghị quyết, chương trình kế hoạch thực hiện, mục tiêu phát triển

kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng đúng với chủ trương của Đảng, chính sách của

Nhà nước và sát với thực tiễn.

* Cán bộ, công chức hiện có của chính quyền cơ sở

Khi có những người công chức là sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc cùng

trong một cơ quan cấp xã, bản thân những cán bộ chủ chối sẽ có được những người

tham mưu trẻ tuổi, có trình độ, nhiệt tình với công việc để góp phần đưa ra những quyết

định đúng đắn, kịp thời và cả những quyết sách sáng tạo, mang lại hiệu quả cao.

Một mặt, việc các sinh viên mới tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ

sở, đặc biệt là các xã vùng sâu vùng cao sẽ là những người truyền đạt lại cho đội ngũ

cán bộ công chức vốn có những kiến thức mới về chuyên môn, những cách làm mới

hiệu quả hơn và đặc biệt có thể đưa tin học đến với các cán bộ, công chức ở đây và phát

huy những ứng dụng của kỹ thuật này vào công việc của chính quyền cơ sở, giúp cán bộ

cơ sở có phương pháp làm việc khoa học.

Mặt khác, bản thân đội ngũ công chức hiện đang làm việc trong chính quyền cơ sở

chưa đạt chuẩn về trình độ buộc phải bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, tin học, nếu không muốn bị đào thải khi luôn có những người trẻ tuổi có

trình độ sẵn sàng tham gia vào công tác chính quyền cơ sở thay thế vị trí của họ. Như

vậy bản thân những người cán bộ, công chức cấp xã không thể cứ ỷ mãi về kinh nghiệm

hay "sống lâu lên lão làng" mà cũng phải không ngừng phấn đấu hoàn thiện mình hơn.

* Sinh viên tốt nghiệp đại học

Hiện nay, đội ngũ sinh viên ra trường hằng rất lớn. Vấn đề việc làm đang là một

mối quan tâm lớn không chỉ của riêng những sinh viên mới ra trường mà của toàn xã

hội.

Có ba vấn đề đáng quan tâm của cán bộ trẻ là: Được làm việc đúng chuyên ngành

đào tạo; bảo đảm mặt bằng thu nhập; điều kiện, môi trường làm việc tốt.

Với nội dung của chính sách, khi được ban hành và đưa vào thực thi thì sẽ đáp ứng

được phần nào những yêu cầu đó của các cán bộ trẻ.

Thứ nhất, do đã có kế hoạch từ khâu tuyển dụng, chính quyền cơ sở chỉ tuyển sinh

viên tốt nghiệp đại học đủ tiêu chuẩn vào những vị trí còn thiếu hoặc còn yếu nên sinh

viên về cơ sở được làm việc đúng chuyên ngành đào tạo, có điều kiện phát huy hết năng

lực trình độ chuyên môn của mình.

Thứ hai, với chế độ ưu đãi của chính sách thu hút, thu nhập của cán bộ, công chức

cấp xã được cải thiện một bước, ngang mặt bằng chung với các cơ quan hành chính sự

nghiệp khác.

Thứ ba, sinh viên về công tác ở chính quyền cơ sở sẽ được tạo điều kiện để thi tuyển

vào biên chế nhà nước. Liên quan đến vấn đề này, trong nội dung chính sách dành một

phần biên chế dự phòng của cấp huyện, thị xã, thành phố để tăng cường, bổ sung lực lượng

cán bộ, công chức trẻ cho cấp xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, những cán bộ trẻ là sinh viên

diện thu hút sẽ được tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức quản lý, lý luận chính trị; những

sinh viên có năng lực phẩm chất tư cách tốt sẽ được đưa vào cán bộ nguồn, cất nhắc lên vị

trí quản lý lãnh đạo hoặc thuyên chuyển lên cấp huyện, cấp tỉnh.

Về cơ sở, sinh viên được rèn luyện rất nhiều bởi thực tiễn đòi hỏi mình phải gắn

bó, gần gũi nhân dân và năng động hơn trong công việc. Có thể khẳng định, đối với cán

bộ trẻ, muốn khẳng định năng lực thì phải bắt đầu từ những viên gạch đầu tiên ở cấp

thấp nhất như xã, phường, thị trấn.

* Người dân

Xã, phường, thị trấn là nơi thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với người dân nên

muốn dân thực sự làm chủ thì vấn đề quyết định là năng lực cán bộ. Nếu cán bộ cơ sở

yếu kém hay sách nhiễu thì người dân vẫn còn bị lắm phiền hà, không đảm bảo được

dân chủ cơ sở.

Thực tế cho thấy, nhiều phiền hà mà cán bộ cơ sở gây ra cho người dân không hẳn

xuất phát từ sa sút về phẩm chất đạo đức mà từ sự yếu kém về năng lực do trình độ học

vấn thấp, lại không được đào tạo đến nơi đến chốn để đảm đương nhiệm vụ, trong khi

công việc thường xuyên quá tải.

Bởi vậy, khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính

quyền cơ sở được triển khai thì người dân là đối tượng được hưởng lợi vì khi chính

quyền cơ sở có một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng nổ thì những thủ tục

hành chính sẽ được giải quyết nhanh gọn hơn, công việc của chính quyền trôi chảy, lợi

ích của người dân sẽ được đảm bảo.

Vụ việc chia tiền Tết của hộ nghèo ở nhiều địa phương đầu năm 2009 vừa qua là

một ví dụ. Việc cán bộ chính quyền cơ sở lấy tiền hỗ trợ của Nhà nước cho các hộ

nghèo ăn Tết chia đều cho cả xã hoặc chia bớt cho các hộ cận nghèo, hay có nơi giữ lại

để trừ vào các khoản phí mà những hộ nghèo được hưởng trợ cấp chưa đóng đủ đã gây

bất bình trong dư luận, mất lòng tin ở nhân dân, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp ban đầu của

một chính sách giàu tính nhân văn mà Đảng và Nhà nước ta đã ban hành. Những việc

làm đó của chính quyền cơ sở là sai, họ quên mất rằng chính sách của nhà nước phải

được thực thi một cách chính xác, công bằng ở bất kỳ nơi nào trên lãnh thổ. Nhưng suy

cho cùng, việc làm sai trái đó của các cán bộ, công chức địa phương không phải nhằm

trục lợi cá nhân, không hẳn vì suy giảm đạo đức mà phần lớn là do năng lực cán bộ cấp

cơ sở còn yếu kém.

Cán bộ cơ sở là nơi triển khai, thực hiện tất cả những chủ trương chính sách của

Đảng và Nhà nước. Do đó nếu chủ trương chính sách hay đến đâu mà cán bộ, công chức

cơ sở không nắm bắt đúng, không triển khai kịp thời, không thực hiện đến nơi đến chốn

thì sẽ bào mòn niềm tin của nhân dân. Hiện nay, cán bộ, công chức cấp xã hưởng lương

không cao nên ở nhiều nơi, nhất là các xã nghèo, miền núi sau giờ làm việc phải tranh

thủ cuốc cày để nuôi sống gia đình. Và phần lớn những người này trình độ học vấn hạn

chế. "Cái khó bó cái khôn", chuyện xà xẻo, bớt xén tiền của dân nghèo qua các đợt cứu

trợ thiên tai, hỗ trợ của Chính phủ mà báo chí phản ánh lâu nay cũng là chuyện dễ hiểu.

Thế nên, việc ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở vừa mang lại cho chính quyền cấp xã những người cán bộ, công chức

được đào tạo bài bản có thể hiểu, truyền đạt, thực thi chính sách của nhà nước một cách

chính xác nhất đồng thời chính sách đưa ra chế độ ưu đãi về vật chất và tinh thần cho

những sinh viên thuộc diện thu hút khiến họ yên tâm hơn trong công tác, nỗ lực học tập,

công tác vì quyền lợi của người dân.

Chương 2

xác định Nội dung và ban hành, triển khai chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp

đại học về làm việc

ở chính quyền cơ sở tỉnh nghệ an

2.1. Nội dung chính sách

Trước yêu cầu nhiệm vụ và tình hình hiện nay, vai trò của hệ thống chính trị ở cơ

sở ngày càng trở nên đặc biệt quan trong. Việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ cơ sở có ý nghĩa quyết định nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.

Trong khi đó, ở Nghệ An, nhận thức về đội ngũ cán bộ xã, phường thị trấn

còn chưa đầy đủ, cách lựa chọn cán bộ ở khu vực này chưa thực sự dân chủ, phạm

vi lựa chọn hẹp, chất lượng đầu vào thấp, dẫn đến chất lượng cán bộ, công chức

không đảm bảo yêu cầu. Vì vậy cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt

nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên và nhân

dân, trước hết là ở ngay cấp cơ sở nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội về chính

sách chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại cơ sở và đào tạo bồi dưỡng

họ để tạo nguồn xây dựng đội ngũ bí thư, chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường thị

trấn có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm trước nhân

dân. Đây cũng chính là quan điểm xuyên suốt cho "Chính sách thu hút sinh viên

tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở (Qua thực tế tỉnh Nghệ An)" .

2.1.1. Đối tượng, phạm vi áp dụng của chính sách

Chính sách thu hút được áp dụng đối với người có trình độ đào tạo đại học hệ

chính quy, có chuyên ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, có

nguyện vọng về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Những người tốt nghiệp đại học hệ chính quy, về cấp xã công tác phải thoả mãn

các điều kiện sau đây:

- Có tuổi đời không quá 30 đối với nữ và không quá 35 tuổi đối với nam;

- Đáp ứng các yêu cầu sơ tuyển như: sức khoẻ, tiêu chuẩn chính trị, ưu tiên cho

người là đảng viên;

- Tự nguyện về công tác tại xã;

- Có hộ khẩu tại tỉnh Nghệ An;

- Ưu tiên những người có trình độ đào tạo đại học chính quy ở các ngành như:

Kinh tế, tài chính, địa chính, quy hoạch, giao thông, hành chính, khoa học xã hội, luật,

công nghiệp, nông nghiệp và chính trị mà tỉnh có nhu cầu tuyển dụng làm cán bộ, công

chức xã, phường, thị trấn.

2.1.2. Chế độ và trách nhiệm

2.1.2.1. Chế độ tuyển dụng

Đối tượng trên khi tuyển dụng về công tác ở cấp xã phải có hồ sơ sau:

1. Đơn xin tự nguyện công tác;

2. Sơ yếu lý lịch (có xác nhận của Uỷ ban nhân dân nơi đăng ký hộ khẩu thường

trú)

3. Bản sao bằng tốt nghiệp đại học (có chứng thực);

4. Bản sao bảng điểm học tập ở bậc đại học (có chứng thực);

5. Giấy chứng nhận sức khoẻ do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp (không quá 6

tháng);

6. Các giấy tờ khác có liên quan( nếu có);

7. Cam kết công tác tại xã ít nhất từ 5 năm trở lên.

Thẩm quyền tuyển dụng: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố quyết

định tuyển dụng và phân công công tác.

2.1.2.2. Chế độ ưu đãi

* Chính sách đãi ngộ

Đối tượng là sinh viên đã tốt nghiệp đại học nếu được xét tuyển vào biên chế

theo quy định hiện hành và bố trí về công tác ở cấp xã, được Uỷ ban nhân dân xã

tạo điều kiện để công tác đúng chuyên môn và ổn định đời sống.

Làm việc đúng chuyên môn được đào tạo là nguyện vọng chính đáng của

Được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự; nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ thì được nâng lương trước thời hạn.

Sau một thời gian làm việc ở xã, nếu công tác tốt được xem xét đưa vào diện quy

hoạch cán bộ chủ chốt cấp xã hoặc điều động, bổ nhiệm lên cấp trên.

Được tạo điều kiện học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị.

* Chính sách hỗ trợ

Hỗ trợ lần đầu:

Đối tượng đã nêu trên ngoài việc hưởng các chế độ chính sách theo quy định hiện hành

đối với cán bộ, công chức cấp xã còn được hỗ trợ lần đầu như sau:

- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,5 trở lên được hỗ trợ 10.000.000

đồng/người;

- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,3 đến 0,4 được hỗ trợ 8.000.000

đồng/người;

- Các xã có hệ số trợ cấp khu vực từ 0,1 đến 0,2 được hỗ trợ 5.000.000

đồng/người;

- Các xã còn lại được hỗ trợ 3.000.000 đồng/người.

Hỗ trợ hàng tháng (Được thực hiện trong vòng 5 năm):

Đối tượng đã nêu trên ngoài việc hưởng các chế độ chính sách theo quy định hiện

hành đối với cán bộ, công chức cấp xã còn được hỗ trợ hàng tháng như sau: - Đối với đơn vị hành chính cấp xã thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa*:

Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã hiện đang công tác và đối tượng tuyển mới

thuộc diện thu hút, ngoài tiền lương hưởng theo ngạch bậc theo bằng cấp chuyên môn

đào tạo và phụ cấp, các chính sách quy định của nhà nước còn được hưởng trợ cấp hàng

tháng bằng 1,5 lần mức lương tối thiểu.

* Các đơn vị hành chính thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa được quy định tại các văn bản sau: Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 21/UB-QĐ ngày 26/01/1993, Quyết định số 08/UB-QĐ ngày 04/3/1994, Quyết định số 68/UB-QĐ ngày 09/8/1997 của Uỷ ban Dân tộc - Miền núi; Quyết định 363/2005/QĐ-UBDT ngày 15/8/2005, Quyết định số 301/2006/QĐ-UBDT ngày 27/11/2006, Quyết định số 05/2007/QĐ-UBDT ngày 06/9/2007 của Uỷ ban Dân tộc; Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV- BLĐTBXH-BTC-UBDT ngày 05/01/2005 của liên Bộ Nội vụ - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính - Uỷ ban Dân tộc.

- Đối với các xã, phường, thị trấn còn lại:

Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã hiện đang công tác và đối tượng tuyển mới

thuộc diện thu hút, ngoài tiền lương hưởng theo ngạch bậc theo bằng cấp chuyên môn

đào tạo và phụ cấp, các chính sách quy định của nhà nước còn được hưởng trợ cấp hàng

tháng bằng 1.0 lần mức lương tối thiểu.

Thời gian được hưởng chế độ trợ cấp:

05 năm kể từ ngày được cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác đối với cán bộ,

công chức được điều động, thuyên chuyển, tuyển dụng về công tác tại xã, phường, thị

trấn thuộc diện được hưởng trợ cấp thu hút.

03 năm kể từ ngày được hưởng chế độ thu hút đối với cán bộ chuyên trách, công

chức cấp xã hiện đang công tác tại xã, phường, thị trấn

2.1.2.3. Trách nhiệm của người được được tuyển dụng

Người được hưởng chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở

cơ sở nếu tự ý bỏ việc hoặc nghỉ việc trước thời hạn 05 năm theo cam kết ban đầu thì

phải hoàn trả lại toàn bộ chế độ, chính sách hỗ trợ đã được cấp. Thời hạn hoàn trả

không quá 01 năm sau khi có quyết định thu hồi tiền hỗ trợ.

Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thu hồi kinh phí và nộp

vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điều 15 Nghị định số 54/2005/NĐ ngày

19/4/2005 của Chính phủ về chế độ thôi việc, chế độ bồi thường chi phí đào tạo đối với

cán bộ, công chức.

Nếu không thực hiện việc hoàn trả tiền chế độ đãi ngộ, chính sách hỗ trợ đúng thời

hạn thì Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm

quyền xử lý theo pháp luật.

2.2. Ban hành chính sách

2.2.1. Cơ sở pháp lý của việc ban hành chính sách

Việc ban hành các chính sách nói chung đều phải trên cơ sở pháp lý nhất định.

Đối với việc ban hành chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An phải dựa trên các văn bản pháp lý và các quy định

mang tính pháp lý sau:

Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 16/12/2002;

Căn cứ Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung ngày 29/4/2003;

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội

thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ,

công chức xã, phường, thị trấn;

Căn cứ Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ,

chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Căn cứ Quy định tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn ban

hành kèm theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ;

Căn cứ Nghị quyết số 169/2006/NQ- HĐND ngày 15/12/2006 của Hội đồng nhân dân

tỉnh Nghệ An khoá XV, kỳ họp thứ 8 về một số chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 đến 2010;

Căn cứ Nghị quyết số 04/NQ-TU ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVI về phát triển nguồn nhân lực Nghệ An giai đoạn 2006

- 2010.

Căn cứ Quyết định số 30/27/QĐ -UBND ngày 9/4/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh

Nghệ An về việc quy định một số chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn nhân lực chất

lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.

Căn cứ Nghị quyết số 07/2007/NQ-HĐND ngày 16/7/2007 của Hội đồng nhân

dân tỉnh Nghệ An khoá 10 kỳ họp thứ XV về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nghệ

An giai đoạn 2007 - 2010 và định hướng đến năm 2015; Nghị quyết số 65/2008/NQ-

HĐND ngày 16/12/2008 của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An về cơ chế, chính sách

phục vụ phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010 và định

hướng đến năm 2015.

2.2.2. Chủ thể có trách nhiệm và hình thức ban hành chính sách

Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở

tỉnh Nghệ An là chính sách nhằm thu hút nguồn nhân lực để xây dựng chính quyền cơ

sở, được ban hành có hiệu lực trên địa bàn tỉnh Nghệ An, chính sách này do Uỷ ban

nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành.

Theo Điều 13, Điều 40 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng

nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là chủ thể ban hành của chính

sách.

Chính sách thu hút này được thông qua tại phiên họp Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ

An, sau khi đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo chính sách, đại diện cơ quan tư

pháp trình bày báo cáo thẩm định. Chính sách chính thức được thông qua sau khi Uỷ

ban nhân dân thảo luận và hơn một nửa số thành viên uỷ ban biểu quyết tán thành. Chủ

tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành chính sách.

Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở

của tỉnh Nghệ An sau khi ban hành được đăng lên công báo và bản đăng trên công báo

được xem là văn bản gốc.

2.3. Triển khai chính sách

2.3.1.Chủ thể triển khai chính sách

Sau khi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền

cơ sở được ban hành, khâu tiếp theo là triển khai chính sách. Trước hết là xác định được

nhiệm vụ của các chủ thể triển khai chính sách.

Nhiệm vụ của Sở Nội vụ:

Sở Nội vụ tham mưu, theo dõi, phối hợp và kiểm tra việc thực hiện chế độ chính

sách hỗ trợ, thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về các phường, xã, thị trấn trên địa bàn

toàn tỉnh.

Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính ban hành hướng dẫn liên ngành về việc tổ chức,

thực hiện chế độ chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở.

Chủ trì, phối hợp với Đài truyền hình, báo Nghệ An và các trường đại học để phổ

biến, tuyên truyền chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở.

Thẩm định nhu cầu và kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về cấp xã của

các huyện, thành, thị để tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định phê

duyệt kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở.

Thông báo kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở sau khi Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt cho Uỷ ban nhân dân các huyện,

thành phố, thị xã để triển khai thực hiện.

Hàng năm, tham mưu xây dựng kế hoạch biên chế, trong đó chú ý các lĩnh vực mà

chính quyền cấp xã trong địa bàn tỉnh đang có nhu cầu để bố trí biên chế hợp lý nhất,

tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm

việc tại chính quyền cơ sở.

Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh và chủ trì phối hợp các cấp, các ngành triển

khai thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ là sinh viên tốt nghiệp đại học đã được

thu hút về làm việc ở chính quyền cơ sở.

Tổ chức sơ kết, tổng kết chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm

việc tại chính quyền cơ sở nhằm đánh giá chất lượng và hiệu quả công tác của số cán bộ

là sinh viên đã được thu hút và công tác thu hút của các đơn vị trên địa bàn toàn tỉnh;

tham mưu cho Uỷ ban nhân dân bổ sung, điều chỉnh chính sách thu hút sinh viên tốt

nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở cho phù hợp với sự phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh.

Nhiệm vụ của Sở Tài chính

Phối hợp với Sở Nội vụ ban hành hướng dẫn liên ngành về việc tổ chức, thực hiện

chế độ, chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ

sở.

Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương để

thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ, thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại

chính quyền cơ sở.

Nhiệm vụ của Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An

Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về

làm việc tại chính quyền cơ sở của tỉnh Nghệ An.

Làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính

sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở.

Hằng năm, phối hợp với các huyện, thành, thị tôn vinh những cán bộ đã được thu

hút có nhiều sáng kiến trong lao động phục vụ trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh.

Nhiệm vụ của Đài phát thanh - truyền hình, Báo Nghệ An và các trường đại

học trên địa bàn tỉnh: phổ biến, tuyên truyền chế độ chính sách thu hút sinh viên tốt

nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.

Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã

Thẩm định nhu cầu và kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở của các xã, phường thị trấn trực thuộc; tổng hợp, báo cáo Uỷ ban

nhân dân (qua Sở Nội Vụ) xem xét, quyết định.

Triển khai thực hiện kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt.

Thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ là sinh viên đã được thu hút theo quy

định.

Hằng năm tiến hành đánh giá chất lượng số sinh viên đã được thu hút để có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch nguồn cán bộ, lãnh đạo, quản lý đối với trường

hợp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có triển vọng phát triển.

Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các phường, xã, thị trấn trực tiếp sử dụng

sinh viên tốt nghiệp đại học thuộc dạng thu hút về làm việc ở chính quyền cơ sở

Hằng năm, tiến hành lên kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc

ở chính quyền cơ sở gửi lên cấp trên. Kế hoạch tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ thu hút cần

nêu rõ yêu cầu trình độ, chuyên ngành, trường đào tạo, số lượng thu hút đối với mỗi vị

trí cụ thể.

Trong quá trình thực thi chính sách các đơn vị trực tiếp này đóng vai trò hết sức quan

trọng, đây là nơi mà các sinh viên được thu hút về trực tiếp công tác nên sẽ quyết định đến

hiệu quả của chính sách. Bởi vậy, các phường xã, thị trấn, một mặt phải tạo điều kiện tốt

nhất để các sinh viên đã về công tác phát huy được hết năng lực của họ bằng cách giao việc

đúng chuyên môn, tôn trọng, kịp thời xem xét và sử dụng những sáng kiến mới, có tính khả

thi cao của những cán bộ trẻ tuổi này; thực hiện đúng và đầy đủ các chế độ đã được nêu rõ

trong chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở. Mặt

khác cần có những đánh giá, nhận xét khách quan đối với mỗi cán bộ đã được thu hút để

khen thưởng kịp thời và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc họ vào diện cán bộ

nguồn, hoặc có hình thức điều chỉnh vị trí công tác đối với những sinh viên chưa được bố

trí vị trí công tác phù hợp với trình độ năng lực chuyên môn ; rà soát, có biện pháp kỷ luật

hoặc đề nghị cấp trên hình thức có kỷ luật đối với những sinh viên đã được thu hút nhưng

không hoàn thành nhiệm vụ.

2.3.2. Các nguồn lực để triển khai chính sách

2.3.2.1. Nguồn lực về kinh tế.

* Nguồn kinh phí:

Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, quy định của pháp luật, Uỷ ban nhân dân

xã dự trù kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong dự toán ngân sách chung hằng năm của

xã trình Hội đồng nhân dân xã thông qua theo quy định.

Uỷ ban nhân dân tỉnh dự trù kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong dự toán ngân

sách chung hằng năm của tỉnh.

Kinh phí thu hút sinh viên tốt nghiệp một phần được trích trong tổng kinh phí thực

hiện Quy định 30/2007/QĐ-UBND ban hành ngày 9 tháng 4 năm 2007 của Uỷ ban nhân

dân tỉnh Nghệ An về một số chế độ, chính sách chế độ, chính sách hỗ trợ thu hút nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.

Nguồn lực kinh tế là nguồn lực quan trọng hàng đầu khi triển khai chính sách thu

hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Đây là điều kiện vật

chất cần cho quá trình thực thi chính sách. Chỉ khi có một nguồn kinh phí thu hút thì

mới có thể thực hiện được chế độ đãi ngộ, ưu đãi cho sinh viên về chính quyền cơ sở

công tác và nâng cao điều kiện công tác ở chính quyền cơ sở. Nếu có tiềm lực kinh tế,

nhà nước sẽ chủ động hoạch định và thực thi chính sách phát triển theo ý mình một cách

có hiệu quả. Thế nhưng, nhà nước ta tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh nên bên cạnh nguồn

lực kinh tế chúng ra cần vận dụng phối hợp nhiều nguồn lực khác.

* Lập dự toán, quản lý, cấp phát kinh phí:

Thứ nhất, lập dự toán: Hằng năm, căn cứ kế hoạch thu hút sinh viên tốt nghiệp

đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành

phố lập dự toán kinh phí gửi sở Tài chính.

Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân xem

xét trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt cùng với phê duyệt kế hoạch dự toán kinh

phí hằng năm của địa phương, đơn vị.

Thứ hai, quản lý, cấp phát, sử dụng kinh phí:

Sở Nội vụ là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi số lượng cán bộ thu hút quy

định tại văn bản này; đồng thời, phối hợp với Sở Tài chính tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh

quyết định cấp kinh phí hỗ trợ thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính

quyền cơ sở cho các địa phương, đơn vị.

Căn cứ vào dự toán ngân sách chi cho thu hút cán bộ đã được Hội đồng nhân dân

tỉnh phê duyệt, Sở Tài chính chịu trách nhiệm tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết

định cấp phát kinh phí kịp thời và quản lý, sử dụng, thanh quyết toán theo đúng quy

định.

Đối với các cơ quan, đơn vị cấp huyện, cấp xã: Sở Tài chính thực hiện cấp bổ sung

có mục tiêu về ngân sách cấp huyện để thực hiện.

Thứ ba, hồ sơ, thủ tục cấp phát kinh phí gồm có:

- Tờ trình của cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng cán bộ, công chức;

- Quyết định tuyển dụng công chức xã của cơ quan có thẩm quyền.

Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố tổng hợp nhu cầu của các cơ quan, đơn vị

trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã gửi tất cả hồ sơ nêu

trên về Sở Nội vụ để thẩm định và phối hợp với Sở Tài chính tham mưu Uỷ ban nhân

dân tỉnh quyết định phân bổ kinh phí.

2.3.2.2. Nguồn lực con người

Thứ nhất, đó là sự đồng tình, ủng hộ của người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng

nói: "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Người thực

hiện mục tiêu chính sách là nhân dân vì thế nên mục tiêu chính sách đồng nhất với ý

nguyện của nhân dân sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia vào quá trình chính

sách một cách tự giác, tạo nên một động lực mạnh để thực hiện tốt nhất ở tất cả các

mục tiêu chính sách. Sự tham gia tự giác của nhân dân nói chung và đối tượng của chính

sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở nói riêng, đó là

đội ngũ sinh viên là người Nghệ An học tập tại các trường đại học trên cả nước vào quá

trình chính sách còn giúp cho việc thực thi mục tiêu chính sách đạt hiệu quả.

Chính sách không thiết thực với đời sống nhân dân, không phù hợp với điều kiện và

nguyện vọng của người dân sẽ bị tẩy chay hoặc bỏ rơi không thực hiện.

Như vậy, chính sự ủng hộ của dân chúng cụ thể ở chính sách này là đội ngũ sinh

viên tốt nghiệp đại học là con em của tỉnh Nghệ An cũng là một động lực quan trọng để

triển khai chính sách.

Thứ hai, một yếu tố quan trọng nữa trong nguồn lực con người đó là năng lực thực

thi chính sách của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước.

Để chính sách được triển khai vào cuộc sống một cách có hiệu quả, chính sách phù

hợp với nhu cầu xã hội, với nguyện vọng của nhân dân thôi chưa đủ mà còn phải có đội

ngũ cán bộ công chức có năng lực thực thi chính sách. Nếu đội ngũ cán bộ công chức

trong bộ máy chính quyền các cấp do năng lực yếu kém hoặc cố tình thực hiện không

đầy đủ hoặc làm sai lệch chính sách thì mục tiêu của chính sách cũng không đạt được,

thậm chí còn phản tác dụng gây bất bình trong nhân dân. Như lợi dụng chính sách thu

hút để đưa về chính quyền cơ sở những sinh viên là con cháu, người thân tín mặc dù yếu

kém về năng lực, trình độ chuyên môn, hoặc nhận người được đào tạo trái với chuyên

môn mà chính quyền cơ sở đang cần...thậm chí có những địa phương cán bộ chưa hiểu

hết ý nghĩa của chính sách, còn giữ tư tưởng bảo thủ nên không tích cực triển khai chính

sách vào xã, phường, thị trấn của mình.. Ngược lại, nếu cán bộ công chức có năng lực,

có trình độ tốt thì thông qua việc xây dựng kế hoạch triển khai chính sách, thông qua

việc tuyên truyền cho chính sách và bằng thực tế thực thi chính sách, đội ngũ cán bộ này

không chỉ triển khai chính sách có hiệu quả mà còn có thể tổng kết rút kinh nghiệm, bổ

sung những điểm chính sách đang hạn chế và làm cho chính sách thêm hoàn thiện. Lý

luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, năng lực thực thi chính sách của cán bộ, công

chức trong bộ máy nhà nước cũng là một nguồn lực để triển khai chính sách vào cuộc

sống.

2.3.3. Phương thức chủ yếu để triển khai chính sách

Trong chu trình chính sách, việc hoạch định ra nội dung đã khó thì làm thế nào để

triển khai chính sách vào cuộc sống còn khó hơn rất nhiều lần.

Để triển khai chính sách một cách hiệu quả sau khi đã được ban hành cần có sự

phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể triển khai chính sách. Như:

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thành phố xây dựng nhu cầu thu hút cán bộ

có trình độ đại học về xã. Sở nội vụ thẩm định nhu cầu của các huyện, thành phố và

tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định phân bổ chỉ tiêu số sinh viên được thu

hút về công tác ở xã.

Sau khi Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền

cơ sở được Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế

hoạch, chỉ đạo các Sở, Ban, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố và các

đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện;

Sở Nội vụ hướng dẫn quy trình, thủ tục và biểu mẫu cho các cơ quan đơn vị thực

hiện chế độ thu hút, tổ chức thanh, kiểm tra việc thực hiện của các địa phơng và định kỳ

hằng năm tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh;

Sở Tài chính hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố lập dự

toán, thanh và quyết toán kinh phí thực hiện chế độ trợ cấp hằng năm từ nguồn ngân

sách của tỉnh theo quy định;

Uỷ ban nhân dân cấp huyện tổng hợp, lập dự toán kinh phí, kiểm tra, phê duyệt, cấp

phát kinh phí thực hiện chế độ thu hút trong từng năm do Uỷ ban nhân dân cấp xã đề nghị

và quyết toán số kinh phí với Sở Tài chính theo quy định;

Uỷ ban nhân dân cấp xã thống kê danh sách các trường hợp thuộc diện được hư-

ởng các chế độ thu hút của đơn vị mình trong từng năm, báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp

huyện xem xét, phê duyệt và kịp thời chi trả các chế độ cho các đối tượng được thu hút.

Trong quá trình thực hiện, nếu có phát sinh, vướng mắc như khi có sự thay đổi của

quy định pháp luật về chế độ trợ cấp đối với cán bộ công chức cấp xã thì thủ trưởng các

địa phương, đơn vị báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh (qua Sở Nội vụ), Uỷ ban nhân dân

tỉnh trao đổi, thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, trình Hội đồng nhân

dân tỉnh xem xét sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung chính sách cho phù hợp.

2.3.4. Một số hướng giải pháp triển khai thực hiện chính sách

Tỉnh Nghệ An có một thuận lợi là trên toàn quốc, một số tỉnh, thành phố đang

thực hiện nhiều giải pháp tích cực cho công tác thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học

về làm việc ở chính quyền cơ sở, điển hình là Chương trình hành động số 10 của tỉnh

uỷ tỉnh Trà Vinh trong đó có chủ trương thu hút sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại

học về công tác tại cơ sở; Đề án thu hút cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng và

đại học về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đặc biệt là

quy định 458/2008/QĐ -UBND ngày 26 tháng 12 năm 2008 của Uỷ ban nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi về chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở xã,

phường, thị trấn.

Tuy nhiên, do tỉnh Nghệ An có những đặc điểm riêng về điều kiện chính trị - kinh

tế - xã hội nên để chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở phát huy hiệu quả vào thực tế có các giải pháp triển khai thực hiện chính

sách. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp sau:

2.3.4.1. Nhóm giải pháp chung

Thứ nhất, cần xây dựng và ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng p

hường, xã, thị trấn để cấp cơ sở nắm bắt, và triển khai đúng, đầy đủ những nội

dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ

sở.

Hiện nay, chúng ta chưa có chính sách rõ ràng nhất quán từ trung ương đến địa

phương về công tác thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở chính

quyền cơ sở.

Vì vậy, sau khi ban hành chính sách các cơ quan có trách nhiệm như Sở Nội vụ,

Sở Tài chính, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần ban hành những hướng dẫn cụ thể về hình thức

tuyển dụng, cách thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với sinh viên diện thu hút... để chính

quyền cơ sở triển khai hiệu quả chính sách vào cuộc sống, tránh những lúng túng, thiếu

sự thống nhất trong thực hiện.

Thứ hai, cần có các hình thức tuyên truyền rộng rãi đến các trường đại học để các

sinh viên sắp tốt nghiệp biết được chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm

việc ở chính quyền cơ sở. Đẩy mạnh công tác thanh niên tạo các phong trào sâu rộng

động viên thanh niên sau tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở, đặc biệt ở các vùng khó

khăn.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, các chương trình phổ

biến chính sách của đài phát thanh truyền hình địa phương, các tờ báo điện tử như trang

website chính thức của tỉnh Nghệ An, đại học Vinh; qua hội chợ việc làm được tổ chức

hằng năm của tỉnh, qua các buổi công tác của báo cáo viên tỉnh Đoàn.... Bằng rất nhiều

kênh thông tin khác nhau, chính sách thu hút với các nội dung mới về chế độ đãi ngộ,

chế độ hỗ trợ sẽ đến được với đông đảo sinh viên là con em địa phương.

Đi cùng với chính sách thu hút cần có thông báo về chỉ tiêu, nhu cầu về số lượng,

trình độ, chuyên ngành các yêu cầu cụ thể khác của các xã, phường thị trấn trên địa bàn

tỉnh Nghệ An để sinh viên tham khảo, lựa chọn vị trí phù hợp với nguyện vọng, điều

kiện, trình độ chuyên môn của mình để đăng ký được tuyển dụng.

Đoàn thanh niên, tỉnh Đoàn cần chỉ đạo các huyện Đoàn thành lập một câu lạc bộ

mang tên "Câu lạc bộ cán bộ xã trẻ" dưới sự chỉ đạo của huyện uỷ. Câu lạc bộ là nơi

sinh hoạt chính trị, trao đổi kinh nghiệm công tác, rèn giũa đạo đức, tác phong sinh hoạt

thường xuyên của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là sinh viên tốt nghiệp đại học về

công tác tại chính quyền cơ sở thuộc diện thu hút của chính sách. Qua đó, tổ chức Đảng,

Đoàn nắm bắt tâm tư nguyện vọng, những băn khoăn trăn trở, nhất là những băn khoăn

về việc không được bố trí công tác theo khả năng chuyên môn của cán bộ trẻ, để có

hướng chỉ đạo phù hợp.

Thứ ba, hệ thống chính quyền cấp trên cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển

khai sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.

Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo các huyện, thị xã thường xuyên

hướng dẫn, kiểm tra chính quyền cơ sở tiếp nhận, bố trí sinh viên, tạo điều kiện cho sinh

viên phát huy kiến thức; coi trọng bồi dưỡng về nhận thức chính trị tư tưởng, đánh giá

những sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đề nghị tuyển vào chức danh chuyên trách,

đồng thời xây dựng ngân sách để hỗ trợ kịp thời cho sinh viên.

Cùng với việc tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên diện thu hút sớm bắt nhịp với cơ

sở khi được tuyển dụng, cần làm tốt công tác trong cấp uỷ đảng, chính quyền và các

đoàn thể quần chúng nhân dân để cán bộ, công chức mới yên tâm, mạnh dạn khi thực

hiện công việc mới. Cần có sự kiểm tra giám sát với cả hai đối tượng: Lãnh đạo chính

quyền cơ sở nơi tiếp nhận sinh viên và bản thân các sinh viên được nhận về qua chính

sách thu hút.

Trong điều kiện cụ thể của tỉnh Nghệ An, với khó khăn, hạn chế về nhiều mặt dẫn

đến vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với sinh viên

được thu hút vê chính quyền cơ sở khó đảm bảo tính công bằng, dân chủ, và khuyến

khích được cán bộ công tác.

Thứ tư, có các hình thức khen thưởng kịp thời những đối với sinh viên tốt nghiệp

đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở làm việc hiệu quả, có nhiều cống hiến và có

hình thức kỷ luật khi họ có sai phạm.

Trong công tác quản lý sinh viên tốt nghiệp đại học về chính quyền cơ sở việc

đánh giá chất lượng đội ngũ này cần được tiến hành thường xuyên, một cách khách

quan, công bằng. Cần có quy hoạch, khen thưởng những sinh viên có thành thích tốt

trong công việc, cân nhắc, đào tạo, bồi dưỡng đưa vào diện cán bộ nguồn hoặc đề bạt

đối với những sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ tại vùng đặc biệt khó khăn. Phải

thường xuyên động viên, giúp đỡ cán bộ trẻ từ sinh viên trong công tác cũng như trong

cuộc sống.

Phải tính đến các yếu tố tác động khách quan một cách cụ thể đối với từng cán bộ

ở địa bàn công tác khi có sai phạm, kịp thời điều chỉnh và xử lý đúng đắn, đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật song cần thể hiện rõ mục đích giáo dục uốn nắn và tạo điều

kiện để những cán bộ trẻ này tự khắc phục vươn lên.

Song song với việc tổ chức cán bộ, khen thưởng cần nghiêm khắc xử lý kỷ luật đối

với những cán bộ, công chức diện thu hút này có biểu hiện suy thoái đạo đức, không

làm tròn chức trách và nhiệm vụ mà nhà nước và nhân dân giao phó.

Cần cho thôi việc những cán bộ công chức là sinh viên được thu hút về làm việc

tại chính quyền cơ sở nhưng không có khả năng đảm nhiệm công việc, được tuyển dụng

không bằng năng lực của mình mà do các mối quan hệ quen biết làm giảm hiệu quả hoạt

động của chính quyền cơ sở.

Việc kỷ luật đối với những cán bộ, công chức trẻ này phải công khai trước nhân

dân tránh tình trạng bao che, lấp liếm, thiếu dân chủ.

Thứ năm, thường xuyên tìm hiểu và tổng kết thực tiễn việc triển khai và thi hành

của cơ sở đối với Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính

quyền cơ sở từ đó rút ra những ưu điểm để phát huy, sửa đổi, loại bỏ những nội dung

không phù hợp và bổ sung những điểm mới vào nội dung chính sách cho theo kịp với

những thay đổi của yêu cầu thực tiễn.

Trong quá trình thực hiện chính sách, cần định kỳ thực hiện sơ kết, tổng kết rút

kinh nghiệm, đề ra giải pháp cho công tác thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm

việc tại chính quyền cơ sở. Đánh giá chính xác chất lượng cán bộ và hiệu quả công việc

ở chính quyền cơ sở trước và sau khi có sinh viên về làm việc. Từ đó, tuỳ theo tình hình

thực tiễn của từng địa phương, từng thời điểm để có kế hoạch thực thi chính sách cho

phù hợp. Điều tra ý kiến của các cán bộ lãnh đạo, các cán bộ công chức đương nhiệm và

nhân dân nơi có sinh viên về làm việc cũng nhưng những ý kiến của các sinh viên đã về

công tác tại chính quyền cơ sở theo diện thu hút. Từ đó, đề xuất các nội dung mới cần

đưa vào, những nội dung cần thay đổi và những nội dung của chính sách không phù hợp

với tình hình thực tiễn cần phải loại bỏ. Như vậy, việc thực thi chính sách không những

mang lại hiệu quả cao mà bản thân chính sách cũng ngày càng được bổ sung hoàn thiện,

phù hợp với thực tiễn của chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An.

2.3.4.2. Nhóm giải pháp về công tác tổ chức, tuyển chọn, sử dụng và chế độ đãi

ngộ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở

Trong những năm qua, cùng với sự hoàn thiện chính sách cán bộ nói chung, thực

tế là ở chính quyền cơ sở các địa phương, đặc biệt là nông thôn thuộc vùng sâu vùng xa

thường xuất hiện 2 hiện tượng:

Một là, không muốn tuyển dụng những người có năng lực, trình độ cao hơn vì sợ

lấn át các cán bộ đang công tác, sợ bị tranh chức tranh quyền.

Hai là, nhận người theo tư duy cục bô, ích kỷ... ưu tiên nhận những người là con

cháu trong dòng họ, là "con ông cháu cha"...Do vậy, không đảm bảo tính công bằng dân

chủ, không tạo điều kiện cơ hội cho sinh viên có năng lực. Cán bộ mới nhận về nhằm để

phát triển vây cánh, êkíp, dòng họ...của một vài "chức sắc" trong chính quyền.

Tư tưởng cục bộ địa phương, dẫn đến tâm lý sợ "mất suất, mất ghế" là một vấn đề

khó khăn đang đặt ra với chính sách này . Điều này có thể gây không ít khó khăn cho

cán bộ trẻ khi được cử về cơ sở công tác.

Từ thực tế này, cần thiết phải tạo ra cơ chế phối hợp, quản lý, giám sát lẫn nhau, từ

các cơ quan cấp trên đến củng cố và nâng cao vai trò của các cơ chế giám sát đối với

quá trình tuyển dụng, bố trí sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính

quyền cơ sở qua thực tế tỉnh Nghệ An.

Cụ thể là:

Thứ nhất, cần phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị - kinh tế- xã hội của địa

phương để có kế hoạch chi tiết, khoa học trong công tác thu hút, tuyển dụng sinh viên

về làm việc ở chính quyền cơ sở trên cơ sở đảm bảo các quy định, tiêu chuẩn, tiêu chí

đã ban hành.

Nhằm nâng cao tính khả thi của chính sách, cần tuyển chọn và phân bố cán bộ về cơ sở

phù hợp với nhu cầu ngành nghề và đặc thù của địa phương.

Thu hút chất xám, thế nhưng do môi trường làm việc không phù hợp, chuyên môn

không được phát huy, nhiều người đã nản lòng…Sinh viên mới ra trường thường được

phân công ngồi bàn giấy, đánh văn bản thay vì thâm nhập thực tế và thực hành những

điều mình đã học. Chính vì thế, quan tâm đến sở trường, chuyên môn của từng người để

bố trí công việc cho phù hợp là điều rất quan trọng. Khi thu hút sinh viên tốt nghiệp,

chính sách cũng phải thể hiện rõ nhu cầu cụ thể của cơ sở, không nên đưa theo kiểu đại

trà lấy thành tích.

Thứ hai, giải quyết tốt vấn đề cơ chế, chế độ đãi ngộ, hỗ trợ đối với những sinh

viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở, tạo môi trường làm việc thuận

lợi ...thu hút các đối tượng thực sự có năng lực, được đào tạo đúng chuyên ngành công

tác về làm việc tại địa phương.

Một vấn đề đặt ra khi triển khai chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về

công tác tại chính quyền cơ sở ở Nghệ An là làm sao phải thu hút được nhiều bạn trẻ có

năng lực, chuyên môn khá giỏi, tránh tình trạng "không cơ quan, doanh nghiệp nào nhận thì

đăng ký về cơ sở tìm nơi trú chân". Muốn làm được điều này cần phải có công tác tuyển

dụng tốt, khách quan, công bằng.

Để thu hút và "giữ chân" được đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ đức đủ

tài, toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, trong nhiều giải pháp

đang thực hiện thì giải pháp đáng quan tâm nhất đó là sửa đổi chính sách tiền lương,

phụ cấp dành cho cán bộ, công chức sao cho họ hưởng lương đủ sống, thật sự hướng

đến chuyên môn sâu, năng lực giỏi chứ không muốn sách nhiễu nhân dân để kiếm

thêm hay làm việc "chân trong, chân ngoài", thậm chí bỏ công sở cấp xã để đi làm

việc khác kể cả trái nghề như hiện nay. Vì suy cho cùng, như C.Mác đã nói, trước

tiên phải ăn, mặc, ở rồi mới đến làm chính trị. Hãy hướng đến một chế độ tiền lương,

phụ cấp sao cho nhiều cán bộ phường, xã, thị trấn bám sát chuyên môn, đào sâu suy

nghĩ để phục vụ nhân dân tốt hơn. Có như thế thì chính quyền cơ sở của tỉnh nhà mới

thu hút và xây dựng được một đội ngũ cán bộ công chức vừa hồng vừa chuyên, tư

tưởng ổn định, công việc ngang tầm với chức trách. Ngoài ra cần có chế độ phụ cấp

thu hút cao hơn cho cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn phức tạp (như

vùng có giáo dân), vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng dẫn của trung

ương. Từ đó, họ sẽ có nhiều sáng kiến và tự tin hơn trong công tác; chính quyền cơ

sở sẽ giảm đi cảnh sinh viên khá, giỏi không muốn về xã, phường, thị trấn dù đó là

cấp chính quyền gần dân nhất.

Thứ ba, đổi mới và cụ thể hoá các hình thức thi tuyển công chức theo điều kiện

hoàn cảnh, của từng địa phương cho phù hợp và đảm bảo yêu cầu của công tác cán bộ

với việc hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của địa phương.

Thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ sở, không có

nghĩa là cứ có bằng đại học phù hợp với nhu cầu địa phương là nhận mà cần có các hình

thức thi tuyển, thẩm định năng lực của các sinh viên này, để không bỏ sót người tài,

không chỉ vì bằng cấp mà điều thực sự cần là có năng lực công tác tương xứng với trình

độ được đào tạo.

Với đặc thù của chính quyền cấp cơ sở nên khi tuyển dụng cán bộ, công chức cấp

xã cần tuyển dụng những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, có khả năng tổ chức

và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tâm,

thạo việc. Đây là việc làm tiên quyết, đội ngũ cán bộ, công chức mạnh hay yếu, hoạt

động của chính quyền cơ sở có hiệu quả hay không nhờ nền tảng đầu tiên này. Để việc

tuyển dụng thực sự khách quan công bằng thì tiêu chuẩn cán bộ công chức cấp xã, hình

thức bầu cử, thi tuyển, xét tuyển, tập sự cần được công khai mọi người dân biết, một

mặt để những sinh viên đủ tiêu chuẩn, có nguyện vọng về công tác tại xã đều có cơ hội

tham gia thi tuyển, xét tuyển và cũng là cơ sở để người dân làm biết để đánh giá các cán

bộ, công chức là sinh viên diện thu hút sau một thời gian họ công tác ở chính quyền cơ

sở. Nếu có đủ năng lực và phẩm chất được người dân tín nhiệm thì đó là cách sát hạch

hiệu quả nhất.

Thứ tư, nâng cao vai trò của cơ quan ra quyết định tuyển dụng và có quy chế về

trách nhiệm của cơ quan chịu trách nhiệm tuyển dụng, xét tuyển và ra quyết định, đảm

bảo tính chính xác, chặt chẽ trong quá trình sử dụng, bố trí sinh viên tốt nghiệp đại học

vào các vị trí cán bộ, công chức cấp xã sau này.

Thứ năm, để trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở cần

kiên quyết (nhưng có bước đi cụ thể) đưa ra khỏi biên chế những công chức cơ sở

không đảm bảo đủ chuẩn theo chức danh, thay thế các vị trí đó bằng cách tuyển dụng số

sinh viên tốt nghiệp đại học hệ chính quy là người địa phương về công tác ở xã,

phường, thị trấn.

2.3.4.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo điều kiện sinh hoạt và công tác cho cán bộ,

công chức cấp xã nói chung và sinh viên diện thu hút nói riêng

Hiện nay, một trong những nguyên nhân sinh viên không thiết tha về với chính

quyền cơ sở là do điều kiện làm việc ở địa phương còn nhiều thiếu thốn.

Bởi vậy, song song với việc thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại

chính quyền cơ sở, tỉnh Nghệ An cần có chính sách xây dựng, đảm bảo cơ sở vật chất,

trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức tạo điều kiện làm việc tốt

nhất phát huy năng lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở.

Thực tế cho thấy, Nghệ An còn 176/469 phường, xã, thị trấn thuộc diện nghèo

(chiếm 37,5%), theo đó cơ sở vật chất, kỹ thuật vẫn chưa đáp ứng được điều kiện làm

việc cho cán bộ. Trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp theo hướng ngày

càng hiện đại hoá công sở, trang thiết bị, phương tiện thông tin liên lạc và các điều kiện

hoạt động khác nâng cao hiệu quả công tác của các cán bộ cơ sở. Cụ thể tỉnh và các

huyện cần chăm lo đầu tư, xây dựng, tu bổ trụ sở làm việc cho chính quyền cấp xã với

các điều kiện:

Đảm bảo cho các xã, phường, thị trấn đã được xây dựng có trụ sở làm việc đàng

hoàng, khang trang, tiến tới đầu tư đồng bộ các thiết bị và phương tiện làm việc theo

hướng hiện đại hoá. Tỉnh cần có cơ chế đầu tư, hỗ trợ kinh phí hợp lý cho các miền núi

cao, vùng sâu, vùng xa...còn nhiều khó khăn.

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như điện, đường giao thông, trạm xá,

trường học, bưu điện văn hoá, tủ sách pháp luật...

Đảm bảo 100% số xã, phường, thị trấn có máy tính, máy photocopy (đối với khu

vực đồng bằng, đô thị, núi thấp), 80% đối với các xã vùng núi cao. Phấn đấu từ năm

2010 - 2015 hệ thống vi tính các phường, xã thuộc thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, thị

xã Thái Hoà được hoà mạng.

Để làm được những yêu cầu trên cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cấp tỉnh, huyện,

cấp xã, phân cấp hợp lý trong quá trình quản lý, giám sát thi công các công trình xây

dựng, nâng cấp, tu bổ cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật của địa phương.

Các đảng bộ, Hội đồng nhân dân cấp xã cần ra các nghị quyết chuyên đề về sử

dụng ngân sách cấp xã một cách hợp lý, triển khai các biện pháp vận động , động viên

cán bộ nhân dân đóng góp để xây dựng nâng cấp, tu bổ các cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ

thuật, các công trình công cộng, phúc lợi của đơn vị mình theo cơ chế "nhà nước và

nhân dân cùng làm".

Kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các đơn vị khác đóng trên địa bàn bằng nhiều

hình thức đóng góp cho địa phương theo cơ chế "hai bên cùng có lợi".

Kêu gọi con em người địa phương hiện đang công tác, làm ăn ở trong nước và

nước ngoài thành đạt với lòng hảo tâm và ý thức xây dựng quê hương, thiết thực đóng

góp cho địa phương.

kết luận

Đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức trong chính quyền cơ

sở nói riêng có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Họ là những người gần dân nhất, trực tiếp đưa đường

lối của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, trực tiếp phục vụ nhân dân. Do đó sự thành

bại của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chủ yếu phụ thuộc vào đội

ngũ này. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở

chính quyền cơ sở là điều hết sức cần thiết.

Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ và sâu rộng của đất nước, hệ thống chính trị cơ sở

nói chung và chính quyền cơ sở nói riêng cũng có những bước tiến vô cùng quan trọng,

tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở không ngừng được đổi mới và hoàn thiện

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và quá trình đổi mới, phát triển đất nước.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống

chính sách cán bộ cơ sở và chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức làm việc ở chính quyền cơ sở làm căn cứ cho các địa phương toàn quốc triển khai

vào cuộc sống.

Thực hiện chính sách cán bộ, công chức chính quyền cơ sở, tỉnh Nghệ An đã có

nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt nhất, hiệu quả cao nhất những quy định của Đảng

và Nhà nước. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cấp xã của Nghệ An đã triển khai sâu

rộng và thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán

bộ, công chức ở chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó, Nghệ An cũng đã có nhiều chính

sách cụ thể đối với đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm động viên sự cố gắng, mục đích làm

sao để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác, phục vụ nhân dân. Chính vì vậy, chất lượng

hoạt động của chính quyền cơ sở ở Nghệ An không ngừng được nâng cao, ổn định

chính trị được giữ vững, kinh tế - xã hội có những bước phát triển vững chắc, đời

sống nhân dân ngày một được nâng cao, sự đồng thuận xã hội trong nhân dân được

củng cố.

Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức trong chính quyền cơ sở Nghệ An

còn tồn tại nhiều vấn đề cần nhanh chóng khắc phục. Như đội ngũ cán bộ, công chức

cấp xã chưa được qua đào tạo hoặc chưa đạt chuẩn về trình độ còn cao, độ tuổi trung

bình tương đối già, lực lượng kế cận còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trong

khi đó một bộ phận không nhỏ sinh viên là con em tỉnh nhà theo học ở các trường đại

học trên địa bàn tỉnh cũng như nhiều trường đại học trên cả nước, được đào tạo cơ bản,

có trình độ chuyên môn, có lý tưởng, năng động sáng tạo và có nguyện vọng về cống

hiến cho quê hương nhưng chưa được chú ý trọng dụng. Các khâu quy hoạch, đào tạo,

sử dụng đến chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở vẫn còn nhiều

vấn đề chưa phù hợp và bám sát được với thực tiễn cuộc sống.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có thể

bằng rất nhiều biện pháp khác nhau, với luận văn này tác giả đề xuất một giải pháp rất

đáng quan tâm đó là thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ

sở.

Đây là một giải pháp không mới nhưng hiện nay tỉnh Nghệ An chưa có một chính

sách cụ thể để khai thác về vấn đề này. Giải pháp thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về

làm việc ở chính quyền cơ sở đồng thời giải quyết được hai yêu cầu ở chính quyền cơ

sở hiện nay là trẻ hoá đội ngũ cán bộ, và nâng cao chất lượng công tác của đội ngũ cán

bộ, công chức; mặt khác lại giải quyết việc làm, tạo môi trường rèn luyện và phấn đấu

tốt cho không ít sinh viên tốt nghiệp đại học là con em của tỉnh nhà.

Luận văn đã cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu

hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.

1. Luận văn cung cấp những lý thuyết cơ bản về vấn đề chính sách công và chu

trình hoạch định chính sách công nhằm làm rõ thế nào là chính sách công, chính sách đó

phải đáp ứng được những yêu cầu nào và làm thế nào để đưa chính sách vào cuộc sống

một cách có hiệu quả nhất. Khi nắm được một cách chính xác, khoa học những yêu cầu

đối với một chính sách, quy trình hoạch định chính sách công nói chung từ đó cụ thể

hoá bằng một sáng kiến chính sách đó là chính sách thu thu hút sinh viên tốt nghiệp đại

học về làm việc tại chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An).

2. Từ lý thuyết về chính sách công và hoạch định chính sách, tác giả luận văn cũng

đã nghiên cứu tình hình thực tế của địa phương, thực trạng của đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã của tỉnh Nghệ An và nguyên nhân của thực trạng đó. Đồng thời tìm hiểu rõ

thực trạng vấn đề đào tạo sinh viên và sử dụng sinh viên tốt nghiệp ở chính quyền cơ sở

trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây chính là cơ sở thực tiễn để tác giả đưa ra những nội

dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại chính quyền cơ

sở.

3. Để cụ thể hoá sáng kiến chính sách đó luận văn đề xuất một phương án chính

sách bao gồm những chế độ và một hệ thống giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả

chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp về làm việc ở chính quyền cơ sở trên địa bàn

tỉnh Nghệ An hiện nay. Chính sách đó phải được tiến hành đồng bộ từ khâu hoạch định,

ban hành và triển khai, và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể ban hành, chủ

thể thực thi chính sách. Tóm lại, để thu hút sinh viên về cơ sở, chúng ta cần triển khai

đồng bộ một số vấn đề như: Có chính sách đãi ngộ hợp lý; đổi mới phương thức tổ chức

nhân sự; xây dựng môi trường làm việc thích ứng và thân thiện với sinh viên về làm

việc ở chính quyền cơ sở; có cơ chế luân chuyển cán bộ hợp lý; nghiên cứu, xây dựng

những chương trình phù hợp để thu hút sinh viên về cơ sở.

Với sáng kiến chính sách mà luận văn đưa ra, do căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã

hội của tỉnh Nghệ An là một tỉnh còn nhiều khó khăn nên những ưu tiên về vật chất cụ

thể đối với các bạn trẻ mà chính sách đưa ra thật ra chưa được như mong muốn nhưng

trên cơ sở nội dung của chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở mà luận văn đưa ra, cùng với việc tổng kết và bổ sung chính sách

hằng năm thì chế độ đãi ngộ, và những điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất sẽ ngày

một tăng lên nhằm làm cho cán bộ, công chức cấp xã nói chung và cán bộ,công chức là

sinh viên thuộc diện thu hút về chính quyền cơ sở nói riêng có điều kiện tốt nhất để phát

huy tối đa năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sáng tạo trong công tác, các bạn

trẻ sẽ có cơ hội để thể hiện, khẳng định mình cũng như là để phát triển tương lai.

Chúng tôi tin tưởng rằng, cùng với việc ban hành và triển khai thực hiện chính

sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở chính quyền cơ sở theo tình hình

thực tiễn với những ưu đãi về vật chất, điều kiện công tác và cơ hội thăng tiến ngày

càng được nâng lên kết hợp với công tác tuyên truyền của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh

viên sẽ có nhiều sinh viên đến với nhiệm vụ này bằng trình độ chuyên môn tốt, bằng sức

trẻ, bằng trái tim nhiệt huyết và thực sự phát huy vai trò trên thực tế, thực sự đóng góp

cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở tỉnh nhà, góp phần vào quá

trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở của Nghệ An và sự phát triển chung

của đất nước.

1. Trương Công Anh (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Nghệ

danh mục tài liệu tham khảo

2. Phan Văn Ban và các cộng tác viên (2000), Bản sắc con người Nghệ An trong tiến trình

An, Đề tài khoa học cấp tỉnh, mã số KX1 - NA.06, Đã nghiệm thu năm 2000.

lịch sử và qua những năm của sự nghiệp đổi mới, Đề tài khoa học cấp tỉnh, mã số

3. Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm) (2001), Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng

KX1- NA.01. Đã nghiệm thu năm 2000.

cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước

ta hiện nay, Đề tài độc lập cấp Nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

4. Hoàng Chí Bảo (2002), "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và những vấn đề

Minh, Kỷ yếu khoa học - tập 1, 2, 3.

5. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay,

đặt ra", Thông tin chính tri học,(2) tr. 13 - 18.

6. Nguyễn Trọng Bảo (1996), Gia đình, nhà trường và xã hội với việc phát hiện,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Đề cương chiến lược giáo dục đến năm 2020, Hà

tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2005), Thông tư liên tịch số 10/2005/TTLT-

Nội.

BNV- LĐTBXH-BTC ngày 05/01/2005, Hướng dẫn thực hiện chế độ trợ cấp

9. Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước (2004), Hệ thống chính

thu hút.

trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

10. Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/QĐ- BNV ngày 16/01/2004 về việc ban hành

Nội.

11. Bộ Nội vụ (2004), Các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức, biên chế và chính

Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

quyền địa phương (tập 1), Nxb Thống kê.

12. Bộ Tài chính (2008), Văn bản pháp quy về quản lý tài chính xã, phường, thị trấn,

13. Chính phủ (2003) Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về Cán bộ

Nxb Tài chính.

14. Chính phủ (2003), Nghị định số 212/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 về chế độ,

công chức xã, phường, thị trấn.

15. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ- CP ngày 22/10/2009 về chức danh,

chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường,

16. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải

thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp.

17. Chi cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2009), Niên giám thống kê 2008.

18. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ, giai đoạn 1935 - 2001, Nxb

pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Dorsey Press (1983), Những nền tảng cuả phân tích chính sách công.

20. Đoàn Minh Duệ, Đinh Thế Định (2002), Mối quan hệ biện chứng giữa tăng

Thống kê, Hà Nội.

trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb

21. Phạm Kim Dung (biên soạn) (2005), Tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với cán

Nghệ An.

22. Phạm Kim Dung (2005), Tổ chức bộ máy chính quyền và chế độ chính sách đối

bộ xã, phường, thị trấn, Nxb Lao động, Hà Nội.

23. T.Dye (1985), Tìm hiểu về chính sách công, Nxb Prentice Hall, Xuất bản lần thứ

với cán bộ cơ sở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

24. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XV, Nghệ An.

25. Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XVI, Nghệ An.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

5.

độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

trung ương khoa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành

trung ương khoa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,

trung ương khoa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Hữu Đổng, Lê Minh Quân (2008), Chính sách và những vấn đề cơ bản

phường, thị trấn, Nxb Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội.

chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp

36. Harold Lasswell (1999), Khái quát về khoa học chính sách, Armerican Elsevier.

37. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát

Bộ.

38. Lê Bá Hán, Đoàn Minh Duệ (2001), Con người Nghệ An trước yêu cầu của sự

triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị (1999), Tìm

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nghệ An.

40. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học, Chủ nghĩa Mác -

hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

41. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học (2006), Lựa chọn

42. Học viện Hành chính Quốc gia (2000), Chính sách và phân tích chính sách, (Dùng cho

công cộng một tiếp cận nghiên cứu chính sách công, (Tài liệu tham khảo).

43. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Thuật ngữ Hành chính.

44. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình hoạch định chính sách công,

đào tạo đại học hành chính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ

sách công, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Lương Khắc Hiếu(2009), Xây dựng lực lượng công tác tư tưởng cấp cơ sở ở nước

điển bách khoa toàn thư Việt Nam, Nxb Từ điển quốc gia, Hà Nội.

48. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

49. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

50. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách,

ta hiện nay. Website: http://ajc.edu.vn

51. C.Mác-Ph.ăngghen (1998), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Trần Hồng Quân (1996), Giáo dục đào tạo là con đường quan trọng nhất để phát

Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.

57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật ban hành văn

huy nguồn lực con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Số

58. Quy định pháp luật về bộ máy chính quyền cấp cơ sở (2003), Nxb Chính trị quốc

31/2004/QH11 ngày 03/12/2004.

gia, Hà Nội.

59. Nguyễn Duy Quý, Trần Văn Danh, Thái Văn Cung (1994), Kinh tế - Xã hội - Văn

60. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế dân

hoá tỉnh Nghệ An trong tiến trình đổi mới, Nxb Nghệ An.

chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc

61. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí Thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh

gia, Hà Nội.

62. D.Stone (1998), Những nan giải cuả chính sách và lý lẽ chính trị. Scott

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2002), Chính sách và những vấn đề cơ bản chi

Forresoman and Company.

phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Học

64. Đặng Quốc Tiến (2002), "Thực hiện đồng bộ các giải pháp để đổi mới và nâng cao

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Khoa học chính trị.

65. Tỉnh uỷ Nghệ An (2003), "Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở", Cộng sản, Đề tài KX

hiệu lực của chính quyền cơ sở", Tổ chức Nhà nước, (2).

66. Tỉnh uỷ Nghệ An (2005), Văn kiện tỉnh uỷ Nghệ An khoá XV, tập IV, Nghệ An

03 - 02, Hà Nội.

67. Trường đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Quản lý (2000), Giáo trình chính sách

tháng 3 năm 2005 (lưu hành nội bộ).

68. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/1/2004 về việc phê

kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị

69. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2007), Quyết định số 30/2007/QĐ-UBND ngày 9

trấn đến năm 2010.

tháng 4 năm 2007 Quy định một số chế độ, chính sách hỗ trợ thu hút nguồn

70. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2008), Quyết định số 59/2008/QĐ- UBND ngày

nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An giai đoạn 2007 - 2010.

26 tháng 9 năm 2008 Quy định về việc ban hành Quy chế tuyển dụng công

chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

71. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2009), Quyết định số 15/2009/QĐ-UBND ngày 16

tháng 1 năm 2009 Quy định về chế độ đối với cán bộ, công chức tăng cường

về các huyện, xã trọng điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng giáo, vùng

đặc biệt khó khăn còn nhiều yếu kém và lực lượng vũ trang tăng cường về

72. Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2007) Tờ trình số 9507/TTr-UBNDngày

các xã biên giới trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

23/11/2007 về chính sách thu hút cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng và

73. Nguyễn Thị Thuỳ Vân (2005), Quyền lợi và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức

đại học về công tác tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

74. http://www. Dantri.com

75. http://www. nghean.gov.vn

76. http://www. Tapchicongsan.org.vn

77. http://www. Chinhphu.vn

78. http://www. Vinhuni.edu.vn

79.

80. MỤC LỤC

81.

82.

xã, phường, thị trấn(cẩm nang pháp luật).Nxb Lao động - xã hội.

Trang

1 MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOẠCH

ĐỊNH CHÍNH SÁCH THU HÚT SINH VIÊN TỐT NGHIỆP

8 ĐẠI HỌC VỀ LÀM VIỆC Ở CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công 8

1.2. Lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở

chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An - cơ sở thực tiễn 27

Chương 2: XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ BAN HÀNH, TRIỂN KHAI

CHÍNH SÁCH THU HÚT SINH VIấN TỐT NGHIỆP ĐẠI

53 HỌC VỀ LÀM VIỆC Ở CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ

2.1. Nội dung chính sách 53

2.2. Ban hành chính sách 57

2.3. Triển khai chính sách 58

74 KẾT LUẬN

83.

78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84.

85.

86. Danh mục các sơ đồ, bảng

87.

Trang

Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công 18

Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách 19

88.

89.

Sơ đồ 1.3: Triển khai chính sách 27

Bảng 1.1: Số lượng sinh viên đã tốt nghiệp của Đại học Sư phạm kỹ

thuật Vinh 43

90.

91.

92.

93.

94.

95.

96.

97.

Bảng 1.2: Số lượng sinh viên các khoa đào tạo của Đại học Vinh 44