BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
QUÁCH DƯƠNG TỬ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
QUÁCH DƯƠNG TỬ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. JAMES RIEDEL
Ths. ĐỖ THIÊN ANH TUẤN
TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Bộ dữ liệu và các trích dẫn
trong bài đều được tôi dẫn nguồn một cách cụ thể theo quy định của Chương trình. Luận
văn thể hiện kết quả nghiên cứu thực nghiệm, không hoàn toàn phản ánh quan điểm của
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế
Fulbright.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 5 năm 2017
Tác giả
Quách Dương Tử
ii
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy James Riedel và Thầy Đỗ Thiên Anh
Tuấn đã tận tụy hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn Thầy Tuấn đã đóng
góp những ý kiến quý báu, gợi mở những hướng đi giúp tôi có thể hoàn thành luận văn một
cách hoàn chỉnh hơn.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright đã trang bị cho tôi những kiến thức và kỹ năng quý báu, truyền cho tôi
những cảm hứng để có thể làm việc tốt hơn, tích cực hơn. Xin cảm ơn Anh Trương Minh
Hòa và Chị Phạm Hoàng Minh Ngọc đã hỗ trợ về mặt kỹ thuật, các thủ tục cần thiết trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các Anh, Chị, Em học viên khóa MPP8 đã hỗ trợ, động viên trong suốt khóa
học cũng như thời gian thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Ba, Mẹ, các đồng nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều
kiện cho tôi tiếp cận Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, để tôi có thể chính thức
trở thành một thành viên trong Đại Gia đình Fulbright Việt Nam.
Xin cảm ơn tất cả!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 5 năm 2017
Tác giả
Quách Dương Tử
iii
TÓM TẮT
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ đắc lực của Ngân hàng Nhà nước, nhằm
điều hành nền kinh tế vĩ mô với hai mục đích chính là duy trì lạm phát ổn định và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Ở giai đoạn trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, chính sách
tiền tệ được nới lỏng liên tục thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhằm mục đích
gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, điều này đã nhanh chóng dẫn đến lạm phát
nhảy vọt vào năm 2008 và 2011. Với 2 cú sốc lạm phát trong một thời gian ngắn đã buộc
Ngân hàng Nhà nước có những động thái cẩn trọng hơn trong việc ban hành các chính sách
tiền tệ so với thời gian trước. Thế nhưng, lạm phát chỉ là một biểu hiện của các tác động
của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam, trong khi những số liệu vĩ mô khác như tỷ
giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế, chỉ số chứng khoán… cũng thể hiện hệ quả từ các chính
sách tiền tệ. Với bộ số liệu vĩ mô trong giai đoạn 2000 – 2015, cùng với phương pháp định
lượng SVAR (Structure vector autoregressive) luận văn đã chỉ ra những tác động cụ thể từ
các cú sốc chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó kết quả cho thấy những
chính sách tiền tệ được ban hành gồm cung tiền lẫn lãi suất trong giai đoạn nghiên cứu đều
tập trung vào việc kiểm soát và duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, trong khi những yêu cầu về
lạm phát và tăng trưởng kinh tế chỉ được Ngân hàng Nhà nước ban hành chính sách khi có
vấn đề phát sinh.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
LỜI CẢM TẠ ....................................................................................................................... ii
TÓM TẮT ............................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................... vi
DANH MỤC BIỂU BẢNG ................................................................................................ vii
DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................... viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................................ 1
1.1 Bối cảnh nghiên cứu ..................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 1
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................................... 3
1.4 Đối tượng nghiên cứu................................................................................................... 3
1.5 Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 3
1.6 Cấu trúc của luận văn ................................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ...... 5
2.1 Cơ sở lý thuyết ............................................................................................................. 5
2.1.1 Chính sách tiền tệ ..................................................................................................... 5
2.1.2 Vai trò của chính sách tiền tệ ................................................................................... 5
2.1.3 Những chiến lược của chính sách tiền tệ .................................................................. 7
2.1.4 Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ .................................................................. 8
2.2 Lược khảo tài liệu ...................................................................................................... 10
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ....................................................................... 15
3.1 Mô hình đo lường chính sách tiền tệ .......................................................................... 15
3.2 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam .......................................................... 17
3.3 Mô tả mẫu và dữ liệu ................................................................................................. 19
3.4 Phương pháp xử lý số liệu .......................................................................................... 20
v
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 21
4.1 Tổng quan chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2015 .................... 21
4.1.1 Chính sách tiền tệ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế 2008 ................................ 21
4.1.2 Chính sách tiền tệ giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế 2008 .................................. 21
4.2.1 Kiểm định bộ dữ liệu ............................................................................................... 24
4.2.2 Kết quả ước lượng mô hình SVAR ......................................................................... 26
4.2.5 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ ................................................................. 35
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ................................................... 39
5.1 Kết luận ...................................................................................................................... 39
5.2 Gợi ý chính sách ......................................................................................................... 40
5.3 Hạn chế của đề tài ...................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 42
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 46
1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ thích hợp cho bộ dữ liệu ............................... 46
2. Ước lượng mô hình bán cấu trúc VAR ........................................................................ 53
3. Đồ thị hàm – xung phản ứng ........................................................................................ 56
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CSTT Chính sách tiền tệ
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TTKT Tăng trưởng kinh tế
vii
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Bảng 3.1 Số liệu nghiên cứu và nguồn truy cập ................................................................... 20
Bảng 4.1 Biên độ dao động của tỷ giá VND/USD theo thời gian ........................................ 24
Bảng 4.2 Kết quả kiểm định tính dừng cho bộ số liệu ......................................................... 25
Bảng 4.3 Kết quả xác định độ trễ trong mô hình ................................................................. 25
Bảng 4.4 Kết quả ước lượng mô hình SVAR ....................................................................... 27
viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 Cơ chế dẫn truyền của chính sách tiền tệ .............................................................. 10
Hình 4.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát ........................................................ 22
Hình 4.2 Tốc độ tăng trưởng cung tiền và chỉ số chứng khoán VN-Index .......................... 22
Hình 4.3 Lãi suất cho vay và tỷ giá hối đoái (VND/USD) .................................................. 23
Hình 4.4 Kiểm định tính ổn định trong mô hình VAR ........................................................ 26
Hình 4.5 Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR với cú sốc ngoại sinh ........................ 29
Hình 4.6 (a) Hàm xung – phản ứng đối với cú sốc chính sách tiền tệ ................................. 30
Hình 4.5 (b) Hàm xung – phản ứng đối với cú sốc chính sách tiền tệ ................................. 31
Hình 4.6 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh ..................................................................... 33
Hình 4.7 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tốc độ tăng trưởng kinh tế ...................... 33
Hình 4.8 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tỷ lệ lạm phát .......................................... 34
Hình 4.9 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tốc độ tăng của tỷ giá ............................. 35
Hình 4.10 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ ............................................................. 36
Hình 4.11 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tốc độ tăng trưởng kinh tế .............. 36
Hình 4.12 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tỷ lệ lạm phát .................................. 37
Hình 4.13 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tốc độ tăng tỷ giá ............................ 37
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Bối cảnh nghiên cứu
Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới luôn gặp phải nhiều vấn đề hóc búa
trong quá trình điều hành CSTT sao cho vừa đạt được những mục tiêu phát triển, vừa bình
ổn được nền kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, sự lo ngại về các cú sốc biến động từ bên ngoài
đến nền kinh tế vĩ mô (Fernández-villaverde & Rubio-ramírez, 2010) nhiều hơn so với
những yêu cầu phục vụ TTKT. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nền
kinh tế Việt Nam luôn đón nhận những làn sóng bất ổn, nhất là tỷ lệ lạm phát cao có thể
phá vỡ tính ổn định cũng như mục tiêu tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế (UNDP, 2012).
Ngoài ra, những vấn đề phát sinh trong cơ chế vận hành các thị trường tài chính cũng bắt đầu nổi lên, đặc biệt khi Việt Nam đang trong tiến trình tự do hóa tài chính, sẽ làm tăng
thêm sự bất ổn đối với nền kinh tế và cơ chế lan truyền sang các khu vực khác sẽ trở nên
nhanh chóng hơn (Nguyễn Xuân Thành & Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2013), và khó có thể kiểm
soát hơn.
Theo Luâ ̣t Ngân hàng Nhà nướ c năm 2010, nhiê ̣m vu ̣ chính yếu là ổn đi ̣nh giá tri ̣ đồng tiền, đảm bảo an toàn hê ̣ thống ngân hàng và cuố i cù ng là thú c đẩy phát triển kinh tế. Thế nhưng, những cách thức thay đổi trong CSTT, về nguyên lý, có thể ảnh hưởng đến động
thái lạm phát (Lucas, 1975) và điều này đã được thể hiện một cách tương đối rõ ở nền kinh
tế Việt Nam kể từ sau gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Sự chảy
vào một cách ồ ạt của dòng vốn ngoại đã buộc NHNN phải tăng cung tiền nhằm duy trì tỷ
giá hối đoái (cơ chế tỷ giá cố định), điều này làm cho mức tăng trưởng tín dụng tăng cao,
lên đến 51,39% vào năm 2007. Nếu tính trung bình ở giai đoa ̣n 2000 – 2015, tăng trưở ng tín du ̣ng trung bình ở mứ c 30%/ năm, tuy nhiên tốc đô ̣ tăng trưở ng kinh tế chỉ xấp xỉ 6,5% ở cù ng giai đoa ̣n. Mă ̣c dù , Ngân hàng Nhà nướ c luôn có những đô ̣ng thái chính sách sao cho duy trì ổn đi ̣nh tỷ lê ̣ la ̣m phát, thế nhưng vớ i mứ c tăng trưở ng tín du ̣ng cao và mứ c đô ̣ biến đô ̣ng ma ̣nh làm cho mu ̣c tiêu la ̣m phát khó có thể đa ̣t đươ ̣c. Nếu tính chung cho toàn giai đoa ̣n 2000 – 2015, tỷ lê ̣ la ̣m phát trung bình ở mứ c 7,5%/năm, riêng năm 2008 la ̣m phát đã nhảy vo ̣t lên mứ c 23,12% do ảnh hưở ng từ sứ c ép tăng trưở ng tín du ̣ng khổng lồ ở năm 2007. Tiếp theo đó, dù đã đươ ̣c kiểm soát nhanh chóng vào năm 2009 nhưng la ̣m phát la ̣i bù ng phát mô ̣t lần nữa vào năm 2011 ở mứ c 18,68%/năm. Nếu xét cả tốc đô ̣ tăng trưở ng tín du ̣ng so vớ i tăng trưở ng kinh tế và tỷ lê ̣ la ̣m phát, dườ ng như dòng tiền không
2
tâ ̣p trung đi vào các khu vực sản xuất mà đi vào các khu vực tài chính nhiều hơn. Theo báo cáo của Vietcombank năm 2016 cho thấy, tăng trưởng tín dụng ở hai ngành kinh tế cốt lõi
là công nghiệp và nông nghiệp chỉ tương ứng 5,99% và 11,32%. Thế nhưng, những ngành
khác như xây dựng lại tăng vọt đến 19,12%, logistic và viễn thông tăng 20,32%, những
ngành dịch vụ khác cùng với tiêu dùng và bất động sản tăng 38,16%.
Nếu lấy chỉ số chứ ng khoán ở sàn giao di ̣ch Thành phố Hồ Chí Minh như mô ̣t đa ̣i diê ̣n củ a thi ̣ trườ ng tài chính, thì gần như có mô ̣t sự tương đồng giữa thay đổi tăng trưở ng tín du ̣ng và chỉ số chứ ng khoán. Cu ̣ thể, năm 2006, tín du ̣ng tăng trưở ng 21,4% thì chỉ số chứ ng khoán tăng lên 144,49% và tiếp tu ̣c tăng lên 23,3% khi tốc đô ̣ tăng trưở ng tín du ̣ng đa ̣t hơn 50% vào năm 2007. La ̣m phát tăng cao dẫn đến thu he ̣p tín du ̣ng vào năm 2008 đã làm su ̣t giảm chỉ số chứ ng khoán đến 65,95% và nhanh chóng tăng lên 56,78% khi tín du ̣ng tăng vo ̣t vào năm 2009. Những biểu hiê ̣n này cho thấy phần lớ n tín du ̣ng đều đi vào các khu vực tài chính.
Viê ̣c gia nhâ ̣p Tổ chứ c thương ma ̣i thế giớ i năm 2007 và chi ̣u ảnh hưở ng cuô ̣c khủ ng hoảng tài chính thế giớ i năm 2008 đã làm các dòng vốn đầu tư nướ c ngoài vào Viê ̣t Nam biến đô ̣ng khá nhiều, do đó áp lực thay đổi tỷ giá cũng trở nên lớ n hơn. Mă ̣c dù Ngân hàng Nhà nướ c đã điều chỉnh tỷ giá hàng năm nhưng sứ c ép lên tỷ giá vẫn còn rất lớ n, do đó viê ̣c điều chỉnh biên đô ̣ dao đô ̣ng cũng vì thế mà tăng theo. Trướ c năm 2007, biên đô ̣ dao đô ̣ng chỉ từ 0,3% – 0,5% nhưng đã tăng lên 5% vào năm 2009, sau đó giảm dần. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, biên đô ̣ dao đô ̣ng la ̣i đươ ̣c mở rô ̣ng cho thấy áp lực về tỷ
giá đang xuất hiê ̣n trở la ̣i.
Theo báo cáo của IMF, cuối năm 2014, Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện CSTT hỗ trợ tăng
trưởng trong điều kiện lạm phát thấp. Tuy nhiên, với sự chênh lệch nguồn cung vẫn còn
tồn tại, tăng trưởng dưới mức tiềm năng và lạm phát đang có dấu hiệu vực dậy , việc duy
trì chính sách lạm phát mục tiêu của NHNN sẽ không tránh khỏi những cú sốc cả bên trong
lẫn bên ngoài nền kinh tế. Tất cả những vấn đề đươ ̣c nêu trên cho thấy, dườ ng như các CSTT đươ ̣c ban hành chưa tính toán đươ ̣c các tác đô ̣ng dẫn truyền và cũng chưa mang la ̣i những kết quả đáng mong đơ ̣i. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cũng như đánh giá những tác
động của CSTT đến nền kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bởi nguồn số liệu
bị hạn chế và những phương pháp kỹ thuật xử lý tương đối phức tạp. Một vài nghiên cứu
về CSTT ở Việt Nam chỉ dừng lại mức tìm ra mối liên hệ giữa lạm phát và cung tiền và
3
TTKT (Le, 2015) hay cơ chế dẫn truyền của CSTT thông qua các chỉ số về lãi suất, tỷ giá
và giá tài sản (Bui & Tran, 2015). Do đó, một cách tổng quát hơn, CSTT có tác động như
thế nào đến nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tương đối mơ hồ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu sự vận hành của CSTT ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2015.
Phân tích sự tác động của CSTT đến các lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế Việt
Nam.
Đề xuất khuôn khổ giúp CSTT trở nên phù hợp hơn đối với nền kinh tế Việt Nam.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
1. CSTT có tác động như thế nào đối với la ̣m phát và tăng trưở ng kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2015 ?
2. Những khuôn khổ nào có thể giúp CSTT trở nên phù hợp hơn đối với la ̣m phát và
tăng trưở ng kinh tế Việt Nam ?
1.4 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về CSTT của Việt Nam thông qua chỉ số cung tiền M2 trong
giai đoạn 2000 – 2015 và cơ chế dẫn truyền của CSTT đến các chỉ số, lĩnh vực, ngành
nghề trong nền kinh tế như: tỷ lệ lạm phát (CPI), tốc độ TTKT (Ggdp), lãi suất cơ bản của
NHNN (IR), tỷ giá hối đoái giữa VND và USD (ER). Đồng thời, các kênh dẫn truyền của
CSTT như thị trường chứng khoán (thông qua chỉ số VN-Index) cũng đóng một vai trò
quan trọng trong việc ban hành và thực thi chính sách. Do đó, các kênh dẫn truyền cũng là
một trong những đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để khái quát lại CSTT của Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2015, cùng với việc mô tả
tình hình nền kinh tế trong cùng giai đoạn, phương pháp thống kê mô tả sẽ được sử dụng
trong luận văn ở những nội dung này. Dù vậy, do nội dung chính của luận văn là đo lường
tác động của CSTT nên luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng. Cụ thể, tập
trung vào những mô hình nghiên cứu số liệu chuỗi thời gian và sử dụng phần mềm Stata
phiên bản 12.0 để phục vụ cho công tác phân tích các bộ số liệu này.
4
1.6 Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 5 chương. Chương 1 là phần giới thiệu, ngoài việc nêu lên bối cảnh
nghiên cứu, ở phần này còn trình bày mục tiêu nghiên cứu cũng như câu hỏi nghiên cứu,
đối tượng và phương pháp cũng được nêu sơ bộ trong chương này. Để có thể làm rõ hơn
về vấn đề nghiên cứu trong luận văn, chương 2 sẽ tập trung tổng hợp lại các lý thuyết về
CSTT và vai trò của CSTT trong nền kinh tế. Ngoài ra, ở chương 2 cũng điểm các nghiên
cứu có liên quan ở trong và ngoài nước, từ đó có thể làm cơ sở để xây dựng mô hình cho
luận văn. Tiếp theo, chương 3 sẽ xây dựng thiết kế nghiên cứu, trong chương này, các mô
hình nghiên cứu thực nghiệm sẽ được trình bày cùng với việc mô tả các biến đo lường
được sử dụng. Bên cạnh đó, bộ dữ liệu cùng phương pháp xử lý số liệu cũng được nêu rõ
trong chương này. Kết quả nghiên cứu sẽ tập trung trong chương 4, việc mô tả tình hình
kinh tế và điểm lại các giai đoạn của CSTT sẽ được đưa vào nội dung đầu của chương,
những kết quả xử lý số liệu sẽ được đưa vào phần nội dung còn lại của chương. Kết luận
và khuyến nghị sẽ được tác giả trình bày trong chương 5 của luận văn.
5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Chính sách tiền tệ
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), CSTT vốn dĩ luôn tồn tại dưới nhiều vỏ bọc khác
nhau.Tuy nhiên, ở một cái nhìn tổng thể, CSTT luôn đóng vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh mức cung cầu tiền sao cho giữ được trạng thái ổn định của lạm phát và TTKT
[1]. Trong quá khứ, kinh tế học tiền tệ chuyên nghiên cứu về lý thuyết và CSTT cho rằng
giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế học tiền tệ là hai mảng hoàn toàn khác nhau (Walsh,
2010). Mặc dù, các nghiên cứu về CSTT vẫn tập trung tìm ra các mối liên kết giữa các biến
số vĩ mô như: lãi suất, thất nghiệp, tỷ giá… Vì thế, vào những năm 1970, những nhà kinh
tế học theo trường phái Keynes đã đưa ra nhiều tranh luận dẫn đến sự tái hợp giữa kinh tế
học vĩ mô và kinh tế học tiền tệ. Từ đó, CSTT là một phần trong kinh tế học vĩ mô.
Theo Keynes (1936), về dài hạn, sản lượng trong nền kinh tế là cố định, do vậy sự thay đổi
giá là kết quả của sự thay đổi cung tiền. Ngược lại, trong ngắn hạn, giá và tiền lương là
cứng nhắc nên thay đổi cung tiền sẽ làm thay đổi sản lượng trong nền kinh tế. Theo lý
thuyết này, trên thực tế, CSTT của mỗi quốc gia luôn được điều hành bởi Ngân hàng
Trung ương để có thể hoàn thành hai mục tiêu chính là ổn định lạm phát và TTKT.
2.1.2 Vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách kinh tế vĩ mô là những công cụ được chính phủ ban hành nhằm điều tiết và giải
quyết những vấn đề nhằm đạt được kết quả, thành tựu nhất định nào đó trong nền kinh tế
như: giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, duy trì tỷ lệ lạm phát tích cực, thúc đẩy TTKT…theo đó,
CSTT là một trong những công cụ này. Theo Friedman (1968), CSTT là một chuỗi mắc
xích những yếu tố có tính liên kết trong nền kinh tế vĩ mô. Việc điều hành CSTT có thể
nhất thời đạt được một mục tiêu nào đó nhưng cũng có thể trở nên vô dụng đối với một vấn
đề có tính hệ thống cao hơn.
Kể từ sau cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933 cho đến lúc kinh tế học Keynes ra đời, CSTT bắt
đầu có những vai trò tích cực trong việc điều hành kinh tế vĩ mô. Theo mô hình IS – LM,
1Thông tin truy cập tại https://www.imf.org/external/pubs/ft/fandd/2009/09/pdf/basics.pdf. Ngày truy cập: 29/10/2016
CSTT mở rộng có thể làm tăng tổng cầu và kích thích TTKT. Tuy nhiên, điều này có thể
6
dễ dàng làm cho mức giá chung trong nền kinh tế cũng tăng theo và từ đó phát sinh lạm
phát (Friedman, 1968). Ngược lại, những cơ hội đầu tư cũng sẽ bị dập tắt một khi CSTT
thắt chặt được ban hành, một ví dụ khá rõ là chính sách kiềm chế lạm phát. Tổng cầu hàng
hóa trong nền kinh tế sẽ suy giảm và từ đó kéo theo sự sụt giảm mức giá chung trong nền
kinh tế. Đây là những vai trò tương đối đơn giản của CSTT trong lý thuyết kinh tế học tân
cổ điển, đối với lý thuyết kinh tế học hiện đại, vai trò của CSTT tương đối phức tạp hơn
nhiều.
Sự thất bại của CSTT mở rộng kéo theo những hệ lụy trong nền kinh tế đã chứng minh sự
sai lầm của kinh tế học Keynes thuần túy. Đồng thời, hai vấn đề có thể buộc CSTT trở nên
vô vọng được Friedman (1968) đề cập là: (1) CSTT không thể duy trì lãi suất cố định vượt
quá một khoảng thời gian nhất định (2) CSTT không thể duy trì một tỷ lệ thất nghiệp cố
định vượt quá một khoảng thời gian nhất định. Ở vấn đề đầu tiên, nếu CSTT mở rộng được
ban hành bằng cách duy trì một mức lãi suất thấp, khi đó đầu tư sẽ tăng lên làm cho tổng
sản lượng trong nền kinh tế cũng được cải thiện. Lãi suất thấp sẽ kích thích tiêu dùng nhiều
hơn, đồng thời cũng làm thu nhập tăng lên tương ứng, khi đó cầu tiền sẽ tăng lên và tạo ra
sức ép buộc lãi suất phải thay đổi để có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong nền kinh tế.
Ở vấn đề thứ hai, tương tự như vấn đề thứ nhất, việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp ở một
mức cố định (như tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) là điều không thể, chính phủ có thể thực hiện
CSTT mở rộng để giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp sao cho đạt được mục đích (đường cong
Philip). Thế nhưng, sự phát sinh lạm phát là điều không thể tránh khỏi. Từ đó, buộc chính
phủ phải có những động thái để giải quyết vấn đề này và làm cho tỷ lệ thất nghiệp lại thay
đổi.
Trong bài viết “Vai trò của CSTT”, Friedman (1968) cũng đã chỉ ra ba vấn đề cơ bản mà
CSTT có thể thực hiện. Thứ nhất, cũng là vai trò quan trọng nhất, CSTT có thể ngăn chặn
có thể thay đổi và hóa giải chính bản thân nó, trước khi nó trở thành nguồn cơn gây ra
những hệ lụy cho nền kinh tế. Thứ hai, CSTT có thể tạo dựng và duy trì một trạng thái ổn
định của nền kinh tế. Cuối cùng, những yếu tố gây ra sự đình đốn trong nền kinh tế có thể
được CSTT bù đắp và kích thích nền kinh tế vận hành tốt hơn.
Như vậy, CSTT luôn có một vai trò nhất định trong nền kinh tế, công cụ này không thể
đảm trách mọi thứ, lại càng không phải trở nên vô dụng hoàn toàn. Để có thể điều hành
nền kinh tế một cách tốt nhất thông qua CSTT không phải chỉ dựa vào việc neo giữ một
7
yếu tố hay tăng, giảm cung tiền, công cụ này đòi hỏi phải có một chiến lược cụ thể, nhờ đó
có thể ngăn chặn những hệ lụy mà chính sách này có thể gây ra.
2.1.3 Những chiến lược của chính sách tiền tệ
Các chiến lược thực hiện CSTT thành công được Mishkin (2004) trình bày thông qua việc
tập hợp các kiểm chứng từ kinh nghiệm của những nước trên thế giới. Theo đó, chiến lược
cơ bản nhất và cần thiết là neo danh nghĩa, những nhà làm CSTT thường sử dụng những
biến số vĩ mô như tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát hoặc cung tiền làm neo danh nghĩa cho
mục tiêu ổn định mức giá trong nền kinh tế. Nếu xét theo trình tự thời gian, những chiến
lược CSTT được các nước trên thế giới lần lượt áp dụng là: cung tiền mục tiêu (MT), tỷ giá
mục tiêu (ET) và lạm phát mục tiêu (IT).
Thời kỳ hậu thế chiến, hầu hết các nước phát triển đều sử dụng chiến lược cung tiền mục
tiêu trong việc điều hành nền kinh tế bằng CSTT. Điều này có thể có thể tương đối dễ hiểu
vì giai đoạn này kinh tế học Keynes đang được các quốc gia nghiên cứu và áp dụng. Việc
điều hành CSTT theo chiến lược cung tiền mục tiêu làm tăng tính chủ động hơn đối với
ngân hàng trung ương, nhưng nó lại phát sinh những hệ lụy bởi chính bản thân ngân hàng
trung ương cũng không thể xác định được lượng cung tiền bao nhiêu có thể đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế.
Giai đoạn sau những năm 1970, chiến lược tỷ giá mục tiêu được lựa chọn nhiều hơn, thời
gian này cũng là đỉnh điểm của chính sách thay thế nhập khẩu đang được nhiều nước trên
thế giới áp dụng.Với chiến lược này, CSTT trở nên đơn giản và rõ ràng hơn, ngân hàng
trung ương sẽ điều chỉnh cung tiền theo sự biến động của tỷ giá thương mại được neo với
một quốc gia phát triển nào đó. Thế nhưng, chiến lược này làm CSTT trở nên bị động,
đồng thời dễ bị ảnh hưởng xấu từ những bất ổn kinh tế ở quốc gia mà họ neo tỷ giá.
Những năm 1990 đã khởi nguồn cho chính sách lạm phát mục tiêu, Canada, Australia,
Thụy Điển cũng đã áp dụng chiến lược này và đây được xem là hữu dụng hơn đối với hai
chiến lược trước đó, bởi nó ít tạo ra sự biến động hơn đối với tỷ lệ lạm phát (Svensson,
1997). Mặc dù vậy, chính sách này chỉ phù hợp với những nước có nền công nghiệp phát
triển, ở những nước đang phát triển sẽ khó thực hiện hơn bởi những biến động của sản
lượng trong nền kinh tế sẽ nhiều hơn khi ngân hàng trung ương chỉ tập trung vào tỷ lệ lạm
phát (Mishkin, 2004). Khi đó, những chiến lược khác như GDP danh nghĩa hay neo giá
8
xuất khẩu (Frankel, 2010) cũng được đề xuất cho những quốc gia xuất khẩu hàng hóa cơ
bản và những nước đang phát triển.
2.1.4 Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh (Lucas, 1975) được xem là sự khởi nguồn cho những nghiên
cứu về tính lan truyền của CSTT, trong đó những cú sốc phi hệ thống của tài khóa và tiền
tệ được xem là nguyên nhân hình thành nên cơ chế lan truyền này. Ngoài ra, cơ chế lan
truyền chịu ảnh hưởng của thời gian do độ trễ thông tin và hiệu ứng gia tốc (Lucas, 1975)
nên CSTT tạo ra sự liên kết có tính tương quan theo chu kỳ đối với những biến vĩ mô như:
mức giá, tỷ lệ đầu tư và lãi suất danh nghĩa.
Cơ chế lan truyền của CSTT được Ireland (2005) diễn giải một cách tương đối đơn giản,
các biến số vĩ mô như khối lượng tiền danh nghĩa, lãi suất, tổng sản lượng và lao động có
việc làm sẽ thay đổi khi chính sách được thực hiện. CSTT sẽ là một công cụ đầy quyền
năng nếu như người làm chính sách hiểu rõ cơ chế lan truyền của nó như thế nào (Mishkin,
1995). Đồng thời, những kênh lan truyền cũng được Mishkin (1995) và Taylor (1995) đề
cập một cách khá chi tiết, cụ thể gồm: lãi suất, tỷ giá, giá trị tài sản và một vài kênh tín
dụng khác. Trong khi, Ireland (2005) lại bổ sung thêm kênh vay ngân hàng và bảng cân đối
kế toán của doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu về kênh dẫn truyền lãi suất, các nhà kinh tế học tập trung vào lãi suất ngắn
hạn hơn là dài hạn, để giải thích điều này Mishkin (1995) cho rằng kinh tế học Keynes
truyền thống đóng vai trò nền tảng quan trọng để hình thành nên cơ sở cho các nghiên cứu
về kênh dẫn truyền của CSTT.
= 𝐿(𝑌; 𝑟) 𝑀 𝑃
Phương trình trên cho thấy cung tiền tác động đến lãi suất, thu nhập và ngược lại. Nếu
CSTT mở rộng được thực thi, trong ngắn hạn mức giá là cứng nhắc, khi đó thu nhập (Y) sẽ
tăng lên để phương trình có thể cân bằng. Hoặc ngược lại, nếu ngân hàng trung ương gia
tăng lãi suất (r) khi đó cung tiền (M) vào nền kinh tế sẽ giảm xuống, với giả định thu nhập
(Y) tạm thời không thay đổi. Theo đó, Taylor (1995) cho rằng lãi suất đóng một vai trò cốt
lõi trong việc hình thành kênh dẫn truyền tiền tệ.
9
Sự lan rộng của toàn cầu hóa đã thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, điều này làm cho
tỷ giá hối đoái trở thành một mục tiêu quan trọng trong việc điều hành CSTT để thúc đẩy
TTKT. Những nghiên cứu của Mishkin (1995) và Taylor (1995) đã chỉ ra yếu tố tỷ giá là
một kênh dẫn truyền quan trọng. Hơn nữa, tỷ giá và lãi suất có một sự liên kết chặt chẽ với
nhau và chịu tác động của CSTT, hệ phương trình sau diễn tả điều này:
𝑀 𝑃 {
𝑅 = 𝑅∗ + + 𝜀 = 𝐿(𝑌; 𝑅) 𝐸∗ − 𝐸 𝐸
Trong đó: R là lãi suất trong nước; R* là lãi suất nước ngoài; E là tỷ giá hối đoái; E* là tỷ
giá kỳ vọng; ε là rủi ro. Như vậy, một động thái từ ngân hàng trung ương có thể tạo ra sự
dẫn truyền đến lãi suất trong nước lẫn tỷ giá hối đoái. Điều này cũng được Mishkin (1995)
lập luận rằng khi chính sách cung tiền mở rộng được thực thi sẽ làm lãi suất tăng lên, từ đó
buộc tỷ giá giảm xuống dẫn đến xuất khẩu ròng giảm và tổng sản lượng trong nền kinh tế
cũng suy giảm.
Kênh giá trị tài sản được lập luận từ những nghiên cứu trước đó, điển hình như Ando &
Modigliani (1963), trong đó thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình đều chịu ảnh hưởng
từ giá trị tài sản mà họ sở hữu. Điều đáng quan tâm là chi tiêu lẫn thu nhập sẽ cấu thành
nên tổng sản lượng trong nền kinh tế. Nếu cung tiền trong nền kinh tế giảm xuống sẽ dẫn
đến sự sụt giảm giá trị tài sản, điều này làm cho thu nhập của hộ gia đình giảm xuống và
dẫn đến tổng cầu giảm.
Các kênh tín dụng và bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp được Bernanke & Gertler
(1995) chỉ ra rằng việc thay đổi cung tiền sẽ ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán như dòng
tiền, tính thanh khoản của tài sản, trong khi những kênh vay ngân hàng cũng chịu tác động
thông qua sự ảnh hưởng của các thể chế ký quỹ. Tổng hợp những yếu tố và kênh dẫn
truyền đã được đề cập cho thấy đều có sự tác động trực tiếp đến tổng cầu hàng hóa nội địa
lẫn hàng hóa được nhập khẩu ròng, điều này sẽ tác động đến tổng cầu trong nước và gây ra
áp lực lạm phát cho nền kinh tế. Ngoài ra, việc nhập khẩu hàng hóa từ phần còn lại của thế
giới đồng nghĩa với việc nhập khẩu lạm phát từ những quốc gia đó thông qua giá hàng hóa
nhập khẩu, với hai áp lực lạm phát này sẽ gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Như vậy, cơ
chế lan truyền của CSTT với những kênh dẫn truyền trực tiếp sẽ tác động đến nền kinh tế
và tạo ra lạm phát là điều khó tránh khỏi.
10
Hình 2.1: Cơ chế dẫn truyền của chính sách tiền tệ
Lãi suất
thị trường Cầu nội
địa Giá trị tài Áp lực lạm Tổng cầu sản phát nội địa Cầu nước Lạm phát ngoài ròng Kỳ vọng/ Lãi suất chính sách
Niềm tin Mức giá
nhập khẩu Tỷ giá hối
Nguồn: Bank of England (1994)
đoái
2.2 Lược khảo tài liệu
Những nghiên cứu thực nghiệm tiên phong về CSTT và cơ chế dẫn truyền của CSTT phần
lớn được các nhà kinh tế thực hiện dựa trên thông tin và các bộ số liệu của Cục dự trữ liên
bang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Sims (1980) cho rằng việc nghiên cứu những vấn đề về chính
sách vĩ mô bằng những mô hình thống kê kinh tế vĩ mô quy mô lớn (large – scale models)
là không đáng tin cậy, mặc dù nó đã có một vài thành tựu nhất định trước đó, nhất là trong
việc phân tích và dự báo dù độ tin cậy không cao. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu kinh tế
xây dựng các mô hình nhằm tìm ra sự liên kết giữa thực tế và lý thuyết, thông qua những
phương cách nhằm “xác định” mối liên kết đó là không phù hợp. Để chứng minh cho lập
luận này, Sims đã sử dụng bộ số liệu theo quý, trong thời gian sau Thế chiến II của Hoa Kỳ
và Tây Đức, gồm sáu biến: cung tiền, GNP, tỷ lệ thất nghiệp, mức giá, tiền lương và chỉ số
giá nhập khẩu. Cả sáu biến vĩ mô trên được xem là các biến nội sinh và được ước lượng
bằng phương pháp vector tự hồi quy, kết quả cho thấy các cú sốc CSTT không giải thích
được sự biến động có tính chu kỳ của các biến số vĩ mô, đồng thời giả thuyết về đường
cong Philip cũng bị bác bỏ.
Nhằm tiếp tục đưa ra những bằng chứng ủng hộ cho việc áp dụng mô hình vector tự hồi
quy, Sims (1986) một lần nữa sử dụng bộ số liệu theo quý, thời hậu Thế chiến của Hoa Kỳ
trong giai đoạn 1948 – 1979 với sáu biến vĩ mô: GNP thực, đầu tư kinh doanh cố định
11
thực, tỷ lệ giảm phát GNP, cung tiền M1, tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất trái phiếu. Hai mô
hình xác định khác nhau được thiết lập dựa trên sự tách biệt cung và cầu tiền. Kết quả cho
thấy, mô hình xác định thứ nhất, cung và cầu tiền có phản ứng với lãi suất và không phản
ứng đối với những biến còn lại, kết quả này cũng đã được Christiano & Eichenbaum
(1992) kiểm chứng và đưa ra những kết luận tương đồng. Mô hình xác định thứ hai cho
thấy không chỉ lãi suất mà mức giá cũng phản ứng với trữ lượng tiền. Với những kết quả
này, dường như mô hình VAR đã được kỳ vọng áp dụng nhiều hơn mặc dù còn nhiều hạn
chế.
Tuy nhiên, để tăng tính chặt chẽ hơn cho kết quả từ mô hình VAR, một nghiên cứu về cơ
chế dẫn truyền của CSTT thông qua tính thanh khoản và tiền vay ngân hàng của King
(1986) đã được thực hiện bằng phương pháp VAR với các biến chính trong mô hình gồm:
GNP, lãi suất vay, tính thanh khoản, lãi suất trái phiếu, cung cầu tiền vay, trong giai đoạn
1955 – 1979 ở Hoa Kỳ. Đồng thời, King (1986) cũng đã thực hiện kiểm định quan hệ nhân
quả Grangersau khi lấy logarit của tốc độ tăng trưởng của các biến, kết quả cho thấy có
mối quan hệ nhân quả mạnh hơn giữa GNP và nhu cầu gửi tiền so với những biến khác.
Tiếp theo đó, Christiano & Ljungqvist (1988) đã tiếp tục sử dụng phương pháp kiểm định
quan hệ nhân quả Granger đối với bộ số liệu theo tháng từ 1948 – 1985, gồm hai biến nội
sinh là cung tiền và sản lượng công nghiệp. Cả hai biến số đều được lấy logarit và sai phân
bậc 1, họ lập luận rằng phương pháp này có thể giúp cho mô hình có tính đồng liên kết
nhằm tránh hiện tượng hồi quy giả, cái mà mô hình VAR không thực hiện được. Kết quả
kiểm định cho thấy cung tiền đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích sự thay đổi
của sản lượng công nghiệp.
Thay vì tập trung sử dụng biến cung cầu tiền như một chỉ số của CSTT, Bernanke &
Blinder (1992) cho rằng lãi suất liên bang sẽ là một chỉ số đại diện cho những động thái
của CSTT tốt hơn, bởi đây là một biến số có tính nhạy cảm tương đối cao đối với nguồn
cung dự trữ của ngân hàng. Mô hình VAR và kiểm định nhân quả Granger được áp dụng
cho thấy CSTT vận hành một cách nhất quán phải thông qua các kênh dẫn truyền như tín
dụng và tiền gửi ngân hàng. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm sau đó được thực hiệnở nhiều
nước trên thế giới, đồng thời những nghiên cứu này cũng đưa vào những biến số vĩ mô
quan trọng trong nền kinh tế mà những nghiên cứu trước ít được đề cập. Thông qua việc
nghiên cứu CSTT ở các nước hậu khủng hoảng tài chính Châu Á, Fung (2002) phát hiện
12
rằng tỷ giá hối đoái đóng một vai trò quan trọng trong việc vận hành của CSTT. Một
nghiên cứu ở Ấn Độ cũng hỗ trợ tính hợp lý cho các lý thuyết về vai trò của tỷ giá hối đoái,
Mishra & Mishra (2010) chỉ ra rằng các cú sốc của CSTT ảnh hưởng đến các biến số vĩ
mô, trong đó có tỷ giá hối đoái và tất cả đều có tính nhất quán, kênh dẫn truyền tỷ giá hối
đoái cũng chịu tác động mạnh hơn đối với biến lãi suất ngân hàng (biến CSTT). Những
nghiên cứu của Kamaan & Nyamongo (2014), Berument & Dincer (2008) và Fernández-
Amador & đ.t.g (2011) cũng cho thấy vai trò của CSTT tác động đến nền kinh tế thông qua
các kênh dẫn truyền như thị trường tài chính, trong đó quan trọng nhất vẫn là lãi suất ngân
hàng, tính thanh khoản. Ngoài ra, tổng sản lượng trong nền kinh tế chỉ chịu tác động tạm
thời của CSTT, nhưng mức giá lại bị ảnh hưởng lâu dài hơn.
Tuy nhiên, với những phương pháp đã được đề cập, những nhà kinh tế chỉ có thể kiểm
định một phần nào đó thực tế so với cái mà họ có thể nhận thấy một cách trực quan thông
qua các bộ số liệu (Friedman, 1995), dù những mô hình như VAR, nhân quả Granger là
hoàn toàn không sai. Thêm vào đó, sự thiếu tính bền vững trong việc sử dụng các mô hình
VAR nhằm tìm mối liên hệ giữa tiền tệ và thu nhập, hay yếu tố ngắn hạn trong việc phân
biệt các cú sốc của mức giá thực và danh nghĩa đã được Bernanke (1986) chỉ ra. Đồng
thời, Bernanke (1986) cũng đề xuất sử dụng mô hình cấu trúc trực giao hóa các phần dư
của mô hình VAR, điều này sẽ giúp việc giải thích mối liên hệ giữa cung tiền và thu nhập
trở nên chuẩn hơn. Kế thừa phương pháp tiếp cận cùng với những biến số vĩ mô của
Bernanke & Blinder (1992), Bernanke & Mihov (1998) đã phát triển mô hình bán cấu trúc
theo cách tiếp cận của VAR để đo lường lập trường của CSTT thông qua bộ số liệu của
Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ. Việc thay đổi phương pháp đo lường đã cho kết quả ước
lượng chính xác hơn so với cách tiếp cận truyền thống.
Nghiên cứu của Fung & Yuan (2000) cho trường hợp đo lường CSTT của Canada đã làm
tăng độ tin cậy cho phương pháp của Bernanke & Mihov (1998) trong việc thực hiện các
nghiên cứu thực nghiệm về các kênh dẫn truyền của CSTT đến nền kinh tế. Những biến số
chính trong mô hình được sử dụng gồm: cung cầu tiền, tỷ giá hối đoái, lãi suất và tỷ lệ lạm
phát. Kết quả cho thấy cách tiếp cận theo mô hình bán cấu trúc giúp ngân hàng Canada
định hình được lập trường một cách tốt hơn để duy trì ổn định tỷ lệ lạm phát. Việc nghiên
cứu tác động của CSTT thông qua các kênh dẫn truyền đến TTKT và lạm phát cũng được
Amarasekara (2008) kế thừa cách tiếp cận bán cấu trúc VAR các biến số vĩ mô tương tự
13
như Fung & Yuan (2000), dùng bộ số liệu của Srilanka để đo lường lập trường của CSTT.
Kết quả cho thấy, sự sụt giảm của TTKT có tính liên kết với các chính sách đã được dự
báo. Ngược lại, sự suy giảm tỷ lệ lạm phát có tính liên kết với cả CSTT được dự báo và
không được dự báo. Một vài nghiên cứu ở Vương quốc Anh cũng cho thấy sự ảnh hưởng
vĩ mô của CSTT, bằng phương pháp nhận dạng Romer – Romer, Cloyne & Hürtgen (2014)
chỉ ra rằng việc giảm lãi suất cơ bản sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng 0,6 điểm phần trăm và
1 điểm phần trăm lạm phát sau hai đến ba năm. Cesa-Bianchi & đ.t.g (2016) cũng đưa ra
kết quả khá tương đồng với Cloyne & Hürtgen (2014) khi sử dụng bộ dữ liệu mới của
nước Anh, họ chỉ ra rằng CSTT có ảnh hưởng bền vững đến lãi suất thực và lạm phát cân
bằng (breakeven inflation), đồng thời cũng ảnh hưởng đến các hoạt động của nền kinh tế
như mức giá, tỷ giá hối đoái, giá xuất nhập khẩu.
Có khá nhiều nghiên cứu về tác động của CSTT đến nền kinh tế Việt Nam, Bui & Tran
(2015) sử dụng bộ số liệu theo quý trong giai đoạn 1995 – 2010 cùng với phương pháp tiếp
cận VAR cho thấy cầu tiền và lãi suất có vai trò quan trọng trong sự biến động của tổng
sản lượng trong nền kinh tế. Một nghiên cứu khác của Nguyen (2014) với bộ số liệu theo
quý từ 2000 – 2011 cũng cho ra kết quả khá tương đồng, với một vài kết luận chính như:
CSTT gây ra sự biến động của đầu ra trong nền kinh tế khoảng 20%, những cú sốc tiền tệ
không phải nguyên nhân chính gây ra lạm phát. Những kết quả này dường như có sự trái
ngược hoàn toàn với nghiên cứu của Phan (2014) khi phát hiện rằng lãi suất chính sách
đóng một vai trò quan trọng trong sự biến động của lạm phát, đồng thời những cú sốc sản
lượng đầu ra và giá thương mại cũng tác động không nhỏ đến chỉ số lạm phát ở Việt Nam.
Hay Nguyễn Thị Liên Hoa & Trần Đặng Dũng (2013) cũng chỉ ra rằng lạm phát chịu ảnh
hưởng lớn từ CSTT, nhất là M2, đồng thời độ trễ tác động là khoảng 6 tháng. Ngoài ra,
những nghiên cứu của Cao Thị Ý Nhi & Lê Thu Giang (2015), Dương Ngọc Mai Phương
& đ.t.g (2015) cũng cho thấy tín dụng là một kênh dẫn truyền có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế Việt Nam, kết quả này khá phù hợp với nghiên cứu của Bernanke & Gertler
(1995), thế nhưng vai trò của kênh dẫn truyền này đang giảm dần cùng với sự gia tăng của
kênh tín dụng ngân hàng và bảng cân đối tài sản.
Mặc dù, những nghiên cứu ở Việt Nam đã được đề cập đều sử dụng các phương pháp tiếp
cận như VAR hay SVAR và được cho là phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trên thế
giới (Trầm Thị Xuân Hương & đ.t.g, 2014). Thế nhưng, những phương pháp này được
14
Bernanke & Mihov (1998) đánh giá là chưa chính xác, thay vào đó, nếu sử dụng mô hình
bán cấu trúc VAR sẽ cho kết quả hợp lý hơn. Đồng thời, cách tiếp cận bán cấu trúc VAR
cũng đo lường được các cú sốc của CSTT một cách hợp lý hơn, bởi nó được tổng hợp từ
nhiều biến chính sách thay vì chỉ một biến duy nhất (cung tiền) như những mô hình VAR
hay SVAR. Cách tiếp cận bán cấu trúc VAR chỉ được Le (2015) áp dụng cho bộ số liệu
theo tháng ở Việt Nam từ 1996 – 2014, thật sự bộ số liệu được chuyển đổi từ số liệu theo
quý với phương pháp quadratic match sum. Tuy nhiên, việc chuyển đổi số liệu từ quý sang
tháng nên sử dụng phương pháp Cubic Spline Interpolation [2] thay vì quadratic match
sum. Đồng thời, Le (2015) cũng chưa mô tả được cụ thể phản ứng của các biến vĩ mô từ sự
tác động của cú sốc CSTT thông qua hàm xung – phản ứng. Chính vì vậy, những thiếu sót
đã được nêu từ những nghiên cứu trên sẽ được trình bày một cách cụ thể hơn trong luận
2 Thông tin truy cập tại: https://columbiaeconomics.com/2010/01/20/how-economists-convert-quarterly-data- into-monthly-cubic-spline-interpolation/ Ngày truy cập: 4/11/2016
văn này.
15
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình đo lường chính sách tiền tệ
Phương pháp tiếp cận mô hình Vector cấu trúc tự hồi quy được Bernanke & Blinder (1992)
𝑘
𝑦 (1)
sử dụng để mô tả sự vận hành của chính sách và nền kinh tế như sau:
𝑘 𝑌𝑡 = ∑ 𝐵𝑖𝑌𝑡−𝑖 𝑖=0
𝑖=0
𝑘
𝑝 (2)
+ ∑ 𝐶𝑖𝑝𝑡−𝑖 + 𝐴𝑦𝑣𝑡
𝑘 𝑝𝑡 = ∑ 𝐷𝑖𝑌𝑡−𝑖 𝑖=0
𝑖=1
+ ∑ 𝑔𝑖𝑝𝑡−𝑖 + 𝑣𝑡
Hai phương trình trên là mô hình hồi quy động không bị giới hạn, với k là giá trị độ trễ của
các biến tác động trong mô hình.Ngoài ra, Y là vector tất cả những biến phi chính sách,
nghĩa là những yếu tố không chịu sự kiểm soát từ ngân hàng trung ương như: tổng sản
lượng đầu ra, tỷ lệ lạm phát… Đối với mô hình này, chỉ có duy nhất một biến chính sách
𝑦 và vector vô hướng 𝑣𝑡
được đưa vào thay vì tập hợp nhiều biến chính sách nên p được xem là đại lượng vô 𝑝 là những phần sai số trong mô hình. Tuy nhiên,
hướng, vector 𝑣𝑡 Bernanke & Blinder (1992) cũng giả định rằng giá trị C0 = 0, điều này hàm ý rằng chính
sách được ban hành sẽ tác động đến nền kinh tế ở một độ trễ nhất định, thay vì tác động
trực tiếp. Cùng với giả định trên, Bernanke & Mihov (1998) cũng chỉ ra rằng CSTT, trên
thực tế, không thể được vận hành bởi một yếu tố nhất định, thay vào đó là nhiều yếu tố kết
hợp với nhau. Ví dụ, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc đều là biến CSTT mục tiêu. Do vậy, p
nên được thay thế thành P, là một vector tập hợp các chỉ số CSTT. Khi đó, mô hình được
𝑘
𝑦 (3)
viết lại:
𝑘 𝑌𝑡 = ∑ 𝐵𝑖𝑌𝑡−𝑖 𝑖=0
𝑖=1
𝑘
𝑝 (4)
+ ∑ 𝐶𝑖𝑃𝑡−𝑖 + 𝐴𝑦𝑣𝑡
𝑘 𝑃𝑡 = ∑ 𝐷𝑖𝑌𝑡−𝑖 𝑖=0
𝑖=0
+ ∑ 𝐺𝑖𝑃𝑡−𝑖 + 𝐴𝑝𝑣𝑡
Trong đó: B, C, D, G, Ay, Ap là những vector hệ số hồi quy của 2 phương trình trên; Y là
vector các biến phi chính sách, P là vector các biến chính sách. Những yếu tố nằm trong
vector vp chính là những cú sốc CSTT vs, có thể gồm: cú sốc cung tiền, cú sốc cầu tiền…
Từ phương trình (3) và (4), để có thể tìm ra mối liên hệ giữa các biến số vĩ mô đối với biến
16
cú sốc chính sách vs bằng cách đưa các biến ở vế phải trở về 1 độ trễ, khi đó 2 phương
𝑘
𝑘
𝑦 (3′)
trình (3) và (4) được viết lại:
𝑖=1
𝑖=1
𝑘
𝑌𝑡 = (𝐼 − 𝐵0)−1 ∑ 𝐵𝑖𝑌𝑡−𝑖 + (𝐼 − 𝐵0)−1 ∑ 𝐶𝑖𝑃𝑡−𝑖 + (𝐼 − 𝐵0)−1𝐴𝑦𝑣𝑡
𝑖=1
𝑘
𝑃𝑡 = (𝐼 − 𝐺0)−1 ∑[𝐷𝑖 + 𝐷0(𝐼 − 𝐵0)−1𝐵𝑖]𝑌𝑡−1
𝑝] (4′)
𝑦 + (𝐼 − 𝐺0)−1𝐴𝑝𝑣𝑡
𝑖=1 + [(𝐼 − 𝐺0)−1𝐷0(𝐼 − 𝐵0)−1𝐴𝑦𝑣𝑡
+ (𝐼 − 𝐺0)−1 ∑[𝐺𝑖 + 𝐷0(𝐼 − 𝐵0)−1𝐶𝑖]𝑃𝑡−1
𝑦 (5)
𝑦𝑌𝑡−𝑖
𝑝𝑃𝑡−𝑖
Ta viết lại dưới dạng rút gọn:
𝑘 𝑌𝑡 = ∑ 𝐻𝑖 𝑖=1
𝑘 + ∑ 𝐻𝑖 𝑖=1
𝑘
𝑝] (6)
𝑦𝑌𝑡−𝑖
𝑝𝑃𝑡−𝑖
𝑦 + 𝑢𝑡
+ 𝑢𝑡
𝑖=1
𝑘 + ∑ 𝐽𝑖 𝑖=1
+ [(𝐼 − 𝐺0)−1𝐷0𝑢𝑡 𝑃𝑡 = ∑ 𝐽𝑖
Việc ước lượng phương trình (5) và (6) theo phương pháp VAR sẽ trích xuất được thành
phần phần dư của mô hình (6) từ việc trực giao phần dư từ mô hình (5). Khi đó, ta so sánh
𝑝 (7)
𝑝 = (𝐼 − 𝐺0)−1𝐴𝑝𝑣𝑡 𝑢𝑡
phần dư giữa (6) và (4’) thu được:
𝑝 ↔ 𝑢 = 𝐺𝑢 + 𝐴𝑣 (8)
𝑝 − 𝐺0𝑢𝑡 𝑢𝑡
𝑝 = 𝐴𝑝𝑣𝑡
Hay:
Theo Bernanke & Mihov (1998), phương trình (8) là dạng chuẩn của mô hình vector cấu
trúc tự hồi quy – SVAR [3]. Việc ước lượng mô hình (8) dựa trên những phần dư được
trích xuất từ mô hình VAR, từ đó có thể ước lượng những cú sốc cấu trúc không thể quan
3Phương trình (8) được cấu thành từ dạng giản lược của phần dư VAR, đồng nhất thức phần dư của phương trình (3’) (4’) (5) (6) ta được:
[
] [
0 𝐼𝑝] [
𝐼𝑦 𝐵21
𝐴11 0 𝐴21 𝐴22
𝑦 𝑢𝑡 𝑝] = [ 𝑢𝑡
𝑦 𝑣𝑡 𝑝] 𝑣𝑡
Trong đó: Iy và Ip là ma trận đơn vị ; B21 = (𝐼 − 𝐺0)−1𝐷0 ; A11 = (𝐼 − 𝐵0)−1𝐴𝑦 ; A21 = (𝐼 − 𝐺0)−1𝐷0(𝐼 − 𝐵0)−1𝐴𝑦 ; A22 = (𝐼 − 𝐺0)−1𝐴𝑝
sát, trong đó có cú sốc CSTT vs. Theo đó, những giá trị của cú sốc chính sách có thể dùng
17
để xem xét tác động đến các biến vĩ mô trong nền kinh tế như một biến ngoại sinh trong
mô hình VAR và được mô tả thông qua hàm xung – phản ứng.
3.2 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam
Theo cách tiếp cận của Bernanke & Mihov (1998), nhóm biến chính sách dùng để ước
lượng các cú sốc CSTT gồm có: tổng dự trữ, lãi suất liên bang, dự trữ được vay mượn, dự
trữ không được vay mượn và lãi suất chiết khấu. Cùng với phương pháp của Bernanke,
Fung & Yuan (2000) nghiên cứu về CSTT ở Canada đã sử dụng những biến số cấu thành
nên nhóm biến chính sách gồm: lãi suất qua đêm, cung tiền thực, chênh lệch lãi suất kỳ hạn
90 ngày và trái phiếu kỳ hạn 10 năm, tỷ giá hối đoái.
Để xây dựng nhóm biến chính sách cho mô hình thực nghiệm ở Việt Nam, đòi hỏi phải có
sự xem xét những công cụ mà NHNN sử dụng để kiểm soát nền kinh tế vĩ mô cũng như
ban hành chính sách. Cụ thể, có 5 công cụ chính được NHNN sử dụng để thực hiện CSTT
ở Việt Nam gồm: tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị
trường mở. Như vậy, có 3 công cụ khá tương đồng với những nghiên cứu đã được đề cập
gồm: tái cấp vốn – có thể sử dụng biến cung tiền thay thế cho chỉ số này, bởi cấp vốn cũng
là một dạng cung tiền vào nền kinh tế; lãi suất – NHNN luôn công bố mức lãi suất cơ bản
dùng làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại, công cụ này cũng đã được sử dụng để kiềm
chế lạm phát trong những năm 2007, 2011; tỷ giá hối đoái được NHNN kiểm soát tương
đối chặt chẽ nhằm thúc đẩy xuất khẩu và ngăn chặn tình trạng Dollar hóa. Áp dụng phương
pháp xác định độ nhiễu cấu trúc thông qua phần dư VAR của các nghiên cứu (Bernanke &
Mihov, 1998; Fung & Yuan, 2000; Amarasekara, 2008; Le, 2015) và phương pháp đệ quy
VAR dựa trên phân giải ma trận của Choleski, sự liên kết của các thành tố trong nhóm
chính sách được mô tả như sau:
𝑢𝑀 + 𝛼𝑢𝐸𝑅 + 𝛽𝑢𝐼𝑅 = 𝜙𝑀𝑣𝑐 (9) 𝑢𝐸𝑅 + 𝛾𝐼𝑅𝑢𝐼𝑅 = 𝜙𝐸𝑅𝑣𝑒 (10) 𝑢𝐼𝑅 = 𝜙𝑐𝑣𝑐 + 𝜙𝑒𝑣𝑒 + 𝑣 𝑠 (11) Phương trình (9) mô tả sự thay đổi biến cung tiền (M2), trong đó sự thay đổi cung tiền có
mối liên hệ với sự thay đổi của tỷ giá và lãi suất, 𝑣𝑐 thể hiện cú sốc cung tiền. Với chính
sách tỷ giá cố định, việc cung ngoại tệ tăng hoặc giảm đòi hỏi NHNN phải tăng cung tiền
để điều chỉnh tỷ giá, tương tự việc giảm lãi suất sẽ làm lượng cung tiền đi vào nền kinh tế
18
nhiều hơn. Phương trình (10) mô tả sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, trong đó có liên hệ với
sự thay đổi của lãi suất, đồng thời cung tiền được giả định không tác động đến sự thay đổi
của tỷ giá (Fung & Yuan, 2000), 𝑣𝑒 là cú sốc tỷ giá. Phương trình (11) mô tả sự thay đổi
của lãi suất, trong đó được cấu thành từ các cú sốc bao gồm cả cú sốc CSTT 𝑣 𝑠. Ta viết lại
dưới dạng ma trận của phương trình (8)
[ ] [ ] = [ ] [ ] (12) 𝑢𝑀 𝑢𝐸𝑅 𝑢𝐼𝑅 𝑣𝑐 𝑣𝑒 𝑣 𝑠 𝜙𝑀 0 𝜙𝑐 0 0 𝜙𝐸𝑅 0 𝜙𝑒 1 1 𝛼 𝛽 0 1 𝛾𝐼𝑅 1 0 0
Từ phương trình (8) ta có thể tính được cú sốc CSTT như sau:
(1 − 𝐺)𝑢 = 𝐴𝑣 → 𝑣 = 𝐴−1(1 − 𝐺)𝑢 (13)
1 𝜙𝑀
Áp dụng phương trình (13) cho phương trình (12) ta được:
𝛼 𝜙𝑀 1 𝜙𝐸𝑅
𝛽 𝜙𝑀 𝛾𝐼𝑅 𝜙𝐸𝑅
𝜙𝑐 𝜙𝑀 − (
𝛼𝜙𝑐 𝜙𝑀 +
𝜙𝑒 𝜙𝐸𝑅)
𝛽𝜙𝑐 𝜙𝑀 −
0 [ ] = [ ] (14) 𝑢𝑀 𝑢𝐸𝑅 𝑢𝐼𝑅 𝑣𝑐 𝑣𝑒 𝑣 𝑠 − (− [ 𝛾𝐼𝑅𝜙𝑒 𝜙𝐸𝑅 + 1)]
Khi đó:
𝑣 𝑠 = (− 𝜙𝑐 𝜙𝑀) 𝑢𝑀 − ( 𝛼𝜙𝑐 𝜙𝑀 + 𝜙𝑒 𝜙𝐸𝑅) 𝑢𝐸𝑅 + (− 𝛽𝜙𝑐 𝜙𝑀 − 𝛾𝐼𝑅𝜙𝑒 𝜙𝐸𝑅 + 1) 𝑢𝐼𝑅 (15)
𝛽𝜙𝑐 𝜙𝑀 −
𝛼𝜙𝑐 𝜙𝑀 +
𝛾𝐼𝑅𝜙𝑒 𝜙𝐸𝑅 + 1)
Trong đó: 𝑤𝑀 = (− 𝑣 𝑠 = 𝑤𝑀𝑢𝑀 + 𝑤𝐸𝑅𝑢𝐸𝑅 + 𝑤𝐼𝑅𝑢𝐼𝑅 (16) 𝜙𝑒 𝜙𝑐 𝜙𝐸𝑅) ; 𝑤𝐼𝑅 = (− 𝜙𝑀) ; 𝑤𝐸𝑅 = − (
Việc ước lượng mô hình SVAR đòi hỏi những ràng buộc phải đủ yêu cầu. Nhóm biến
chính sách trong mô hình gồm 3 biến, như vậy số ràng buộc yêu cầu cho mô hình Just –
Indentification SVAR sẽ là:
2𝐾2 − = 𝐾2 + = 32 + = 12 𝐾(𝐾 + 1) 2 𝐾(𝐾 − 1) 2 3(3 − 1) 2
Phương trình (12) có tổng cộng 11 ràng buộc, như vậy để xây dựng mô hình Over –
Identification đòi hỏi phải tăng thêm ít nhất 2 ràng buộc.
Trường hợp 1: Theo giả định của Amarasekara (2008), Fung & Yuan (2000), lãi suất
không có tương tác đối với sự thay đổi tỷ giá hối đoái, do vậy 𝛾𝐼𝑅 = 0. Đồng thời, Fung &
Yuan (2000) cũng giả định rằng không có sự tương tác giữa Ngân hàng trung ương và việc
điều hành sự biến động tỷ giá, do đó α = 0. Ngoài ra, Dựa trên giả định của Strongin
19
(1995) và nghiên cứu thực nghiệm của Bernanke & Mihov (1998) cho rằng sự thay đổi dự
trữ tiền không có phản ứng đối với thay đổi lãi suất. Theo đó, sự tăng hay giảm dự trữ tiền
có ý nghĩa tương đồng đối với sự thay đổi của cung tiền nên kế thừa giả định 𝛽 = 0.
Trường hợp 2: Giả định rằng, không tồn tại sự tương tác giữa thay đổi của lãi suất đối với
sự thay đổi của tỷ giá và cung tiền, đây cũng là giả định được Fung & Yuan (2000) sử
dụng. Theo đó, những ràng buộc được đưa ra sẽ gồm: β = 0 và 𝛾𝐼𝑅 = 0.
Trường hợp 3: NHNN sẽ sử dụng cả 3 công cụ: cung tiền, tỷ giá và lãi suất để điều hành
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cú sốc CSTT sẽ là yếu tố duy nhất cấu thành nên sự thay đổi của
lãi suất, thay vì bao gồm cả cú sốc cung tiền và cú sốc tỷ giá như mô hình (12), giả định
này còn được gọi là chính sách lãi suất mục tiêu (Bernanke & Blinder, 1992). Như vậy,
những ràng buộc sẽ là 𝜙𝑐 = 𝜙𝑒 = 0.
Trường hợp 4: Theo giả định của Christiano & Eichenbaum (1991), cung tiền là yếu tố duy
nhất phản ứng đối với cú sốc CSTT. Do đó, để xây dựng giả định này đòi hỏi những ràng
buộc đưa vào gồm α = β = 0 và 𝜙𝑒 = 0.
Ngoài ra, theo Bernanke & Mihov (1998) việc ước lượng mô hình VAR có thể bổ xung
một vector biến chính sách xuất phát từ phương trình (7):
(𝐴𝑝)−1(𝐼 − 𝐺0)𝑃 (17) Trong đó P là vector các biến chính sách, công thức (17) cũng được sử dụng để tính chỉ số
động thái của CSTT (MPI) [4] với biến chính sách là lãi suất ngắn hạn, việc sử dụng công
thức (8) trong mô hình hồi quy VAR có thể được xem là sự tác động của cú sốc CSTT
ngoại sinh. Từ việc ước lượng hồi quy mô hình VAR với cú sốc ngoại sinh, hàm xung –
phản ứng sẽ được sử dụng để mô tả sự tác động của CSTT đến nền kinh tế một cách trực
quan nhất.
3.3 Mô tả mẫu và dữ liệu
Luận văn sẽ sử dụng bộ số liệu theo quý trong giai đoạn 2000:1 – 2015:4, như vậy có tổng
cộng 64 mẫu. Các số liệu sử dụng trong bài sẽ chia làm 2 nhóm: chính sách và phi chính
sách. Nhóm chính sách gồm số liệu: cung tiền trong nền kinh tế (M2), lãi suất NHNN (IR),
4 MPI: Monetary Policy Index
tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa VND và USD (EX). Nhóm phi chính sách gồm: Tổng sản
20
lượng trong nền kinh tế (GDP), tỷ lệ lạm phát (INF), chỉ số chứng khoán được lấy ở sàn
giao dịch thành phố Hồ Chí Minh (VNI). Việc chỉ số chứng khoán được sử dụng vì có
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đây là một biến vĩ mô chịu tác động trực tiếp từ những
động thái của CSTT. Ngoài ra, để có thể hài hòa những lập luận trái chiều về nguyên nhân
dẫn đến lạm phát trong nước giảm, luận văn sử dụng chỉ số giá hàng hóa thế giới (World
Commodity Price Index) như một biến phi chính sách nhằm giảm bớt vai trò của NHNN
trong việc kiềm chế lạm phát. Bên cạnh đó, biến lãi suất Cục dữ trữ liên bang Mỹ (FFR)
được sử dụng như một biến ngoại sinh, thể hiện sự tác động chính sách từ một nền kinh tế
lớn đến một nền kinh tế nhỏ. Nguồn các số liệu thu thập có thể được mô tả trong bảng 3.1
Bảng 3.1: Số liệu nghiên cứu và nguồn truy cập
Tên số liệu Nguồn truy cập
Số thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 asianbondonline.adb.org Tổng sản phẩm quốc nội GDP Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Tỷ giá hối đoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Cung tiền và thay đổi cung tiền Lãi suất ngân hàng trung ương, tiền gửi và cho vay Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Tỷ lệ lạm phát www.investing.com Chỉ số VN index (sàn HOSE) Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF World Commodity Price Index (WCPI) www.federalreserve.gov Lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ Nguồn: Tác giả tổng hợp
3.4 Phương pháp xử lý số liệu
Các biến số trong mô hình đều là dữ liệu thời gian nên sẽ được kiểm định tính dừng (Unit
– roor test) trước khi thực hiện quá trình ước lượng.Các biến trong mô hình sẽ được lấy log
cơ số e (trừ biến lãi suất) và sai phân bậc 1 trước khi tiến hành kiểm định Augmented
Dickey – Fuller. Độ trễ của các biến trong mô hình sẽ được chọn dựa trên tiêu chí Akaike’s
information criterion (AIC) và Schwarz’s Bayesian information criterion (SBIC). Tiếp
theo, kiểm định nhân tử Lagrange được sử dụng để kiểm định các biến trong mô hình có
hiện tượng tương quan chuỗi hay không.
Mô hình hồi quy VAR được thực hiện để xác định các phần dư trong nhóm biến chính
sách, sau đó những phần dư này được sắp xếp cùng với những ràng buộc để tiến hành hồi
quy SVAR, kết quả ước lượng sẽ dùng để xác định cú sốc CSTT. Từ đó, hàm xung – phản
ứng được áp dụng để xác định tác động của CSTT đến nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn 2000 – 2015.
21
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tổng quan chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2015
4.1.1 Chính sách tiền tệ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế 2008
NHNN Việt Nam là cơ quan chính phủ, chịu trách nhiệm sử dụng các công cụ CSTT để
điều hành kinh tế vĩ mô, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đó, các
chiến lược CSTT được đề ra chủ yếu tập trung thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế
xã hội theo Nghị Quyết của Đảng đề ra. Theo đó, trong giai đoạn 2000 – 2005, tốc độ tăng
trưởng cung tiền M2 trung bình khoảng 22% [5] nhằm kích thích và thúc đẩy TTKT, với
mục tiêu tăng trưởng trung bình đạt 7% – 8%/năm. Tuy nhiên, việc nới lỏng CSTT trong
một thời gian dài đã tạo sức ép lên chỉ số giá tiêu dùng, gây nguy cơ lạm phát, vì thế
NHNN đã điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt hơn, từ 5% - 6,5% nhằm kiểm soát lạm
phát và tăng trưởng tín dụng.
Thúc đẩy xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế xã hội, chính vì thế NHNN đã thực hiện chính sách neo tỷ giá theo đồng USD có
điều chỉnh, nhằm gia tăng lợi thế cho các ngành hàng xuất khẩu. Trong giai đoạn 2000 –
2006, căn cứ vào tình hình lạm phát trong và ngoài nước, đồng Việt Nam luôn bị mất giá
so với đô-la Mỹ, đồng thời biên độ dao động của tỷ giá ở thị trường liên ngân hàng đã dần
được nới lỏng từ ±0,25% (2002) lên ±0,5% (2006).
4.1.2 Chính sách tiền tệ giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế 2008
Việc thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm thúc đẩy TTKT đã mang lại nhiều kết quả
tích cực trong giai đoạn 2000 – 2006. Tuy nhiên, áp lực lạm phát cũng vì thế mà tăng lên
một cách nhanh chóng, đỉnh điểm là vào tháng 8/2008, tỷ lệ lạm phát đã lên đến khoảng
24%, các công cụ dùng để kiểm soát lạm phát được NHNN sử dụng một cách triệt để,
đồng thời chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã làm cho tốc độ
TTKT giảm xuống một cách rõ rệt. Giai đoạn sau năm 2008, dù Chính phủ thông qua các
chính sách kích cầu nhưng tốc độ tăng trưởng cũng phục hồi một cách chậm chạp và không
đạt được tốc độ như giai đoạn trước năm 2008.
5 Báo cáo “Tác động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO và FTAs đến Việt Nam” Dự án MUTRAP III, tháng 9/2011
22
Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF
Hình 4.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát
Nếu giai đoạn trước năm 2008, tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 trung bình 20%/năm
đã phát huy được vai trò thúc đẩy TTKT, thì giai đoạn sau năm 2008 những kết quả này đã
sụt giảm đi khá nhiều. Trải qua 2 cú sốc lạm phát vào năm 2008 và 2011, tốc độ tăng
trưởng cung tiền trở nên biến động hơn và sụt giảm hơn nhiều so với giai đoạn trước. Cho
thấy rằng, NHNN đã trở nên thận trọng hơn trong việc xem xét các chỉ số kinh tế vĩ mô, từ
đó có thể sử dụng các công cụ chính sách nhằm điều hành nền kinh tế một cách hợp lý.
Hình 4.2 Tốc độ tăng trưởng cung tiền và chỉ số chứng khoán VN-Index
Nguồn: IMF và investing.com
23
Nguyên nhân gây ra cú sốc lạm phát và bong bóng chứng khoán năm 2008, bắt đầu từ sự
kiện Việt Nam ký kết thành công hiệp định thương mại WTO năm 2007, đã kéo theo một
lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp từ nước ngoài. Với lượng ngoại tệ khổng
lồ đi vào nền kinh tế buộc chính phủ phải mua mô ̣t lươ ̣ng lớ n ngoa ̣i tê ̣ nhằm duy trì tỷ giá
ổn định. Động thái này đã kéo theo tăng trưởng cung tiền M2 khá mạnh và tạo áp lực lạm
phát, khi đó NHNN bắt đầu chuyển sang chính sách thắt chặt tiền tệ bằng những công cụ
như trần lãi suất cho vay, phát hành trái phiếu và điều chỉnh tỷ giá. Tuy nhiên, cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008, lại một lần nữa buộc NHNN thực hiện chính sách nới lỏng tiền
tệ để kích cầu kinh tế, giảm mức lãi suất cho vay, đồng thời biên độ dao động tỷ giá được
NHNN nới rộng lên đến +/-5%. Trong giai đoạn 2009, lãi suất huy động của đồng đô-la
vẫn cao hơn so với lãi suất tiền đồng, cùng với biên độ dao động lớn đã làm cho tỷ giá tăng
vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Để kìm hãm sự mất giá, NHNN đã áp đặt lãi suất
huy động là 0% cho đồng đô-la, đồng thời biên độ dao động cũng được thu hẹp lại. Ngoài
ra, chính sách nới lỏng tiền tệ cũng được áp dụng nhằm phục hồi kinh tế sau cuộc khủng
hoảng và cú sốc lạm phát năm 2011.
Hình 4.3 Lãi suất cho vay và tỷ giá hối đoái (VND/USD)
Nguồn: IMF
24
Bảng 4.1 Biên độ dao động của tỷ giá VND/USD theo thời gian
Ngày 07/2002 12/2006 12/2007 03/2008 06/2008 11/2008 03/2009 12/2009 02/2011 01/2013 01/2014 12/08/2015 18/05/2015
Biên độ dao động +/-0,25% +/-0,50% +/-0,75% +/-1% +/-2% +/-3% +/-5% +/-3% +/-1% +/-2% +/-2% +/-2% +/-3%
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của NHNN.
4.2 Kết quả nghiên cứu
4.2.1 Kiểm định bộ dữ liệu
Việc sử dụng mô hình VAR đòi hỏi những giả định về các điều kiện ràng buộc đồng thời,
do đó bộ số liệu tốt nhất nên được sử dụng là theo hàng tháng. Tuy nhiên, việc thu thập bộ
số liệu về kinh tế vĩ mô ở Việt Nam theo tháng là không khả thi nên luận văn sử dụng bộ
số liệu theo quý. Để tiến hành hồi quy VAR, trước hết cần phải thực hiện kiểm định tính
dừng cho bộ số liệu gồm cái biến: GDP thực (RGDP), cung tiền M2 thực (RM2), chỉ số giá
tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái danh nghĩa (EX), lãi suất cho vay (R), chỉ số VN-Index
(VNI), chỉ số giá hàng hóa thế giới (World Commodities Price Index – WCPI) và lãi suất
của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FFR). Các biến số điều được lấy logarit, ngoại trừ 2 biến lãi
suất cho vay và lãi suất liên bang Mỹ. Luận văn sử dụng kiểm định Dickey – Fuller và
Phillips – Perron để kiểm định tính dừng cho bộ dữ liệu.
25
Bảng 4.2 Kết quả kiểm định tính dừng cho bộ số liệu
Tên biến
Kiểm định Phillips – Perron Level
Sai phân 1
Sai phân 1
Kiểm định Dickey – Fuller Level -2,418 -2,378 -2,234 -1,228 -13,110*** -2,897 -1,047 -2,885
-5,766*** -5,831*** -4,554*** -4,927*** -13,477*** -7,275*** -6,365*** -3,129
-2,380 -2,059 -2,441 -1,407 -6,624*** -2,072 -0,710 -1,623
-7,378*** -5,535*** -4,107* -9,357*** -7,480*** -5,572*** -6,428*** -4,228**
LnRGDP LnRM2 LnCPI LnEX LnVNI R LnWCPI FFR Ghi chú: các giá trị trong bảng là trị thống kê t. ***: p < 0,001; **: p < 0,01; *: p < 0,05
Nguồn: Tính toán của tác giả trên phần mềm Stata 12.0
Kết quả kiểm định ở bảng 4.2 cho thấy tất cả các biến đều dừng ở sai phân bậc 1, riêng
biến LnVNI dừng ngay ở bậc level, nhưng mô hình VAR sẽ thực hiện trên các biến sai
phân nên vì thế biến LnVNI cũng được sử dụng ở sai phân 1 thay vì level. Ngoài ra,nhằm
xác định độ trễ thích hợp của các biến trong mô hình, luận văn sử dụng các tiêu chuẩn như:
AIC, BIC, HQIC, kết quả xác định độ trễ được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 4.3 Kết quả xác định độ trễ trong mô hình
LR
df
p
LL 560,549 646,725 695,432 736,87 795,465 867,818 999,308
172,35 97,414 82,875 117,19 144,71 262,98*
49 49 49 49 49 49
0,000 0,000 0,002 0,000 0,000 0,000
FPE 1,1e – 17 3,1e – 18 3,4e – 18 5,6e – 18 6,4e – 18 7,1e – 18 2,4e – 18*
AIC -39,5335 -40,8379 -40,8277 -40,5623 -40,899 -41,7184 -44,6128*
HQIC -39,5335 -40,1554 -39,4625 -38,5146 -38,1688 -38,3056 -40,5174*
SBIC -39,5335* -39,0816 -37,3151 -35,2934 -33,8738 -32,9369 -34,0749
Lag 0 1 2 3 4 5 6
Ghi chú: Dấu “*” thể hiện độ trễ tối ưu
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Kết quả trong bảng 4.3 cho thấy độ trễ tối ưu là 6 với tiêu chuẩn Likelihood Ratio, các tiêu
chuẩn FPE, AIC và HQIC cũng cho kết quả tương tự. Do những nghiên cứu điển hình trên
thế giới về CSTT đều sử dụng bộ số liệu thời gian theo tháng và độ trễ cho mô hình từ 12
đến 18 (4 đến 6 quý) nên với độ trễ 6 trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp. Mô hình
trong luận văn được thực hiện gồm 2 bước: đầu tiên sẽ ước lượng mô hình VAR, sau đó
xác định phần dư của các biến chính sách trong mô hình VAR; thứ hai sẽ ước lượng mô
hình SVAR dựa trên dữ liệu là các phần dư được xác định từ mô hình VAR cùng với
những ràng buộc (gồm 4 trường hợp được xây dựng) được đề cập trong mô hình. Các biến
đưa vào trong mô hình VAR được ước lượng với độ trễ tối đa là 6.
26
4.2.2 Kết quả ước lượng mô hình SVAR
Việc ước lượng phần dư trong mô hình VAR đòi hỏi mô hình phải ổn định, do đó việc
kiểm định tính ổn định cho mô hình là cần thiết. Theo tiêu chuẩn của Lutkepohl và
Hamilton, độ lớn của các trị riêng trong ma trận sau khi ước lượng mô hình VAR, đòi hỏi
phải nhỏ hơn 1 sẽ đảm bảo được điều kiện ổn định của mô hình.
Hình 4.4 Kiểm định tính ổn định trong mô hình VAR
Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên phần mềm Stata 12.0
Các trị riêng của ma trận trong mô hình VAR đều nằm trong vòng tròn, cho thấy mô hình
thỏa điều kiện ổn định, như vậy có thể tiến hành ước lượng phần dư các biến chính sách để
thực hiện tiếp giai đoạn 2. Ở mô hình VAR, thay vì phải tách ra làm 2 giai đoạn: trước và
sau khủng hoảng để có sự phân biệt rõ nét, nhưng do thời gian nghiên cứu quá ngắn làm
cho số mẫu trong mô hình tương đối hạn chế nên việc tách làm 2 giai đoạn là không khả
thi. Do đó, luận văn chỉ thực hiện duy nhất một giai đoạn cho toàn khoảng thời gian nghiên
cứu. Kết quả ước lượng mô hình SVAR gồm 4 trường hợp (đưa ra các điều kiện ràng buộc
nhằm thỏa điều kiện của mô hình Over – Identification) được trình bày trong bảng 4.4.
27
Bảng 4.4 Kết quả ước lượng mô hình SVAR
Trường hợp 1 α 0
β 0
γIR 0
𝝓𝑴 0,0144 (0,0014)
𝝓𝑬𝑹 0,0063 (0,0006)
𝝓𝒄 -0,1599 (0,1357)
𝝓𝒆 0,0175 (0,1349)
OIR test 91,05 (0,000)
β 0
γIR 0
Trường hợp 2 α -0,161 (0,306)
𝝓𝑴 0,0144 (0,0014)
𝝓𝑬𝑹 0,0063 (0,0006)
𝝓𝒄 -0,1596 (0,1357)
𝝓𝒆 0,0063 (0,1365)
OIR test 90,78 (0,000)
𝝓𝒄
𝝓𝒆
0
0
β 0,0225 (0,0017)
γIR -0,00038 (0,00085)
𝝓𝑴 -0,0124 (0,0013)
𝝓𝑬𝑹 0,0063 (0,0006)
OIR test 76,31 (0,000)
𝝓𝒆
Trường hợp 3 α -0,1829 (0,2654) Trường hợp 4 α 0
β 0
0
γIR -0,00037 (0,00084)
𝝓𝑴 0,0144 (0,0014)
𝝓𝑬𝑹 0,0063 (0,0006)
𝝓𝒄 -0,1587 (0,1357)
OIR test 91,05 (0,000)
Giá trị trung bình
γIR -0,00038
β 0,0225
𝝓𝑬𝑹 0,0063
𝝓𝑴 0,0077
𝝓𝒄 -0,1594
𝝓𝒆 0,0119
1,466
20,701 wER
-5,447 wIR
α -0,1719 Trọng số trong mô hình wM Ghi chú: Các giá trị trong ngoặc là sai số chuẩn. Riêng phần OIR test, các giá trị trong ngoặc là
p_value
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Kết quả ước lượng từ bảng 4.4 đều cho giá trị tương đồng nhau dù các trường hợp có điều
kiện ràng buộc khác nhau. Giá trị α là độ co giãn của tỷ giá hối đoái theo cung tiền, trong
cả 2 trường hợp 2 và 3 đều mang dấu âm và không có ý nghĩa thống kê. Giá trị β là độ co
giãn của lãi suất cho vay theo cung tiền, mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê, điều
này có thể phát sinh mâu thuẫn, tuy nhiên sự mâu thuẫn này có thể được giải thích khi xét
đến các trọng số khác trong mô hình. Tương tự, giá trị γIR là độ co giãn của lãi suất theo tỷ
giá, cả 2 trường hợp xét đến đều không có ý nghĩa thống kê.
Tham số 𝜙𝑀đều có ý nghĩa thống kê cho cả 4 trường hợp, riêng trường hợp 2, khi có đồng
thời cả β và 𝜙𝑀 thì dấu của 𝜙𝑀đã thay đổi, điều này hoàn toàn phù hợp khi chính phủ nới
lỏng CSTT sẽ gia tăng lãi suất để cân đối cung tiền. Tham số 𝜙𝐸𝑅 đều cho cùng 1 giá trị
trong cả 4 trường hợp và đều có ý nghĩa thống kê, 𝜙𝐸𝑅 = 0,0063 nói lên rằng khi tỷ giá hối
đoái tăng lên 100 điểm thì sự thay đổi của tỷ giá chỉ có 0,63 điểm. Đây là yếu tố cực kỳ
quan trọng, nó chỉ ra quan điểm của NHNN trong việc điều hành CSTT với mục đích cụ
28
thể là kiểm soát tỷ giá, điều này sẽ được kiểm chứng một lần nữa khi xét đến giá trị trọng
số trong mô hình.
Cả 2 tham số 𝜙𝑐và 𝜙𝑒 đều không có ý nghĩa thống kê trong các trường hợp đang xét, 2
tham số này lần lượt thể hiện sự tương tác giữa cú sốc cung tiền và cú sốc tỷ giá đối với sự
thay đổi của lãi suất uIR. Giá trị âm của 𝜙𝑐, nói lên rằng, khi có cú sốc cung tiền xảy ra,
nền kinh tế sẽ thiếu đi tính thanh khoản, khi đó lãi suất cho vay sẽ giảm xuống để bù đắp
sự thiếu hụt thanh khoản này. Tương tự, giá trị dương của 𝜙𝑒, đòi hỏi lãi suất cho vay tiền
đồng phải tăng lên để giảm bớt sự mất giá của đồng nội tệ khi có cú sốc tỷ giá xảy ra.
Các trọng số trong phương trình (16) của 3 biến chính sách gồm: wM, wER và wIR, lần lượt
là: trọng số của biến cung tiền, trong số của biến tỷ giá và trọng số của biến lãi suất. Việc
ước lượng 3 trọng số này được thực hiện theo Amarasekara (2008) bằng cách tính trung
bình của các tham số ước lượng trong cả 4 trường hợp, không bao gồm các giá trị ràng
buộc trong mô hình (12). Cách này cho kết quả tương đối phù hợp thay vì chỉ sử dụng duy
nhất 1 mô hình như Bernanke & Mihov (1998) và Fung & Yuan (2000) đề cập. Giá trị ước
lượng của 3 trọng số cũng được thể hiện trong bảng 4.4, đồng thời, những giá trị này cũng
cho thấy một dấu hiệu nào đó về động thái của CSTT Việt Nam.
Đầu tiên, trọng số wER mang dấu âm, cho thấy việc thay đổi tỷ giá (cụ thể là đồng VNĐ lên
giá) sẽ dẫn đến NHNN thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm duy trì tỷ giá cố định.
Tiếp theo đó, trọng số wIR và wM mang dấu dương, nói lên rằng việc gia tăng lãi suất và
cung tiền nhằm phục vụ chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này tương đối mâu thuẫn khi nói
rằng việc gia tăng cung tiền lại gây ra chính sách thắt chặt tiền tệ, tuy nhiên, nếu gia tăng
cung tiền đồng thời gia tăng lãi suất và thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở (OMO) sẽ
dẫn đến vô hiệu hóa việc tăng cung tiền. Kết hợp cả 3 trọng số, cho thấy rằng, trong thời
gian qua, các CSTT của NHNN (cả cung tiền lẫn lãi suất) chủ yếu tập trung vào việc điều
hành tỷ giá theo một mục đích nào đó. Hay nói cách khác, tỷ giá hối đoái danh nghĩa ở
Việt Nam đang bị kiểm soát bởi những công cụ CSTT và làm cho giá trị của nó cao hơn
giá trị thực (giá trị tham số 𝜙𝐸𝑅).
4.2.3 Hàm xung – phản ứng giữa cú sốc chính sách và nền kinh tế
Sau khi ước lượng các tham số trong mô hình (12), cú sốc CSTT ở phương trình (15) cũng
được thực hiện, từ đó có thể trả lời câu hỏi tác động của CSTT đến nền kinh tế thông qua
29
đồ thị xung – phản ứng. Để có thể ước lượng mức độ tác động, mô hình VAR một lần nữa
được xây dựng, tuy nhiên các biến trong mô hình lúc này chỉ còn RGDP, RM2, EX, CPI, R
và VNI. Biến WCPI và FFR không đưa vào mô hình, bởi Việt Nam là nước nhỏ, không thể
tác động đến các chỉ số thế giới thông qua công cụ CSTT. Bên cạnh đó, biến vs (thể hiện
cú sốc CSTT ngoại sinh) được đưa vào mô hình như một biến ngoại sinh, các biến nội sinh
trong mô hình được ước lượng với độ trễ là 6. Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR
cho thấy mô hình ổn định, có thể tiến hành phân tích đồ thị xung – phản ứng.
Nguồn: Tính toán của tác giả trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.5 Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR với cú sốc ngoại sinh
Hình 4.6 thể hiện giá trị ước lượng phản ứng của các biến GDP thực, cung tiền thực, chỉ số
giá, tỷ giá hối đoái, lãi suất và chỉ số VN-Index đối với cú sốc chính sách ngoại sinh (vs).
Khi có cú sốc CSTT mở rộng (chính sách nới lỏng tiền tệ) GDP thực trong nền kinh tế sẽ
giảm xuống 0,5 điểm cơ bản (uRGDP = - 0,005), vùng màu xám thể hiện khoảng tin cậy
95%. Tuy nhiên, GDP thực sẽ phục hồi ở quý thứ 2 và đạt giá trị lớn nhất sau 6 đến 8 quý,
kết quả này không đáng ngạc nhiên khi CSTT mở rộng sẽ bị yếu tố lãi suất kìm hãm nhằm
cân bằng và ổn định tỷ giá, điều này làm cho GDP bị sụt giảm ở giai đoạn đầu. Ngược lại,
khi cú sốc CSTT mở rộng được thực thi, lượng cung tiền thực sẽ tăng lên 0,67 điểm cơ bản
(uRM2 = 0,0067). Tuy nhiên, giá trị cung tiền thựcđã nhanh chóng giảm xuống ở quý 2, bắt
đầu phục hồi trở lại ở quý 6 và đạt cực đại ở quý 8. Chỉ số giá tiêu dùng phản ứng với cú
sốc nới lỏng tiền tệ bằng sự tăng lên 0,33 điểm cơ bản (uCPI = 0,0033), đạt giá trị lớn nhất ở
quý 2 và sau đó giảm dần.
30
Ghi chú: vss - cú sốc CSTT, RGDP: GDP thực, RM2: cung tiền thực, cpi: chỉ số giá
Nguồn: Tính toán của tác giả trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.6 (a) Hàm xung – phản ứng đối với cú sốc chính sách tiền tệ
31
Ghi chú: vss – cú sốc CSTT, ex: tỷ giá hối đoái, vni: chỉ số VN-Index, rate: lãi suất cho vay
Nguồn: Tính toán của tác giả trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.5 (b) Hàm xung – phản ứng đối với cú sốc chính sách tiền tệ
32
Thật khá dễ để thấy CSTT của NHNN chỉ tập trung vào việc kiểm soát tỷ giá hối đoái. Cụ
thể, tỷ giá hối đoái chỉ tăng 0.1 điểm cơ bản (uEX = 0,001) khi có cú sốc CSTT mở rộng.
Sau đó, tăng lên đến giá trị cực đại ở quý 3 và nhanh chóng giảm xuống cực tiêu ở quý 4,
cuối cùng trở về trạng thái ổn định hơn từ sau quý 5. Chỉ số giá chứng khoán Vn-Index có
thời gian phản ứng ngắn hơn so với các biến khác, khi xuất hiện cú sốc, chỉ số giảm 40
điểm cơ bản nhưng nhanh chóng phục hồi ở quý 1 và tiếp tục giảm xuống ở 2 quý tiếp
theo. Biến lãi suất tăng đến 60 điểm cơ bản (uIR = 0,6) ngay khi có cú sốc CSTT mở rộng,
sau đó giảm dần đến cực tiểu ở quý 3 và phục hồi lại ở quý 5.
Tổng kết lại, việc phân tích hàm xung – phản ứng cho thấy động thái nới lỏng của CSTT
của NHNN bằng việc gia tăng một lượng nhỏ cung tiền nhưng đồng thời cũng gia tăng lãi
suất cho vay nhằm kìm chế sự mất giá của đồng nội tệ. Chỉ số giá phản ứng tích cực trong
thời gian 6 quý và dần trở nên ổn định. Đồng thời, GDP của nền kinh tế ít có phản ứng tích
cực hơn đối với cú sốc CSTT mở rộng.
4.2.4 Những cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh
Sau khi ước lượng các tham số trong mô hình (12), cú sốc CSTT ngoại sinh được xác định
ở phương trình (15). Cú sốc CSTT ở đây, được hiểu là một động thái của NHNN trong
việc điều hành CSTT, nếu NHNN không đưa ra bất kỳ chính sách nào để tác động đến nền
kinh tế gọi là chính sách trung dung. Nếu NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, khi
đó nền kinh tế sẽ chịu một cú sốc chính sách thắt chặt (dấu của vs dương), điều này mang ý
nghĩa tương đối khi so sánh với chính sách trung dung. Ngược lại, nền kinh tế sẽ chịu tác
động bởi cú sốc chính sách nới lỏng (dấu của vs âm) khi NHNN tiến hành đưa ra các công
cụ nhằm nới lỏng CSTT. Tóm lại, cú sốc được hiểu là một chính sách bất kỳ được NHNN
ban hành trong một thời gian nhất định, thay vì thực hiện chính sách trung dung.
Giá trị vs được tính sẽ biến động rất nhiều, do đó, theo Fung & Yuan (2000) và Bernanke
& Mihov (1998) cần phải tính giá trị trung bình trượt đối với vs, cụ thể là 18 tháng. Do bộ
số liệu trong bài theo quý nên giá trị trung bình trượt sẽ được tính trong khoảng thời gian 6
quý. Với cách tính này, giá trị vs sẽ dao động quanh điểm 0, tại đó thể hiện chính sách
trung dung của NHNN, đồng thời giá trị dương thể hiện cú sốc chính sách thắt chặt và giá
trị âm thể hiện cú sốc chính sách nới lỏng.
33
Ghi chú: vsm – giá trị vs sau khi lấy trung bình trượt 6 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.6 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh
Ghi chú:vsm – giá trị vs sau khi lấy trung bình trượt 6 quý; gdpa – tốc độ TTKT khi lấy trung bình
tiến trong 4 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.7 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2000 – 2005, việc thực hiện CSTT như một công cụ thúc đẩy TTKT và
kiểm soát lạm phát được NHNN sử dụng như một kim chỉ nam. Từ sau mở rộng quan hệ
hợp tác với Mỹ cho đến khi gia nhập WTO thành công, một lượng lớn ngoại tệ đã đi vào
nền kinh tế theo cả vốn trực tiếp lẫn gián tiếp. Điều này buộc NHNN dùng nội tệ mua
34
ngoại tệ vào nhằm duy trì ổn định tỷ giá, từ đó, một lượng lớn tiền đã đi vào nền kinh tế (vs
âm). Nguy cơ lạm phát tăng cao, NHNN lại thực hiện chính sách thắt chặt nhằm kiểm soát
lạm phát (vs tăng vọt và có giá trị dương). Sau đó, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới xảy
ra, buộc NHNN tiếp tục nới lỏng tiền tệ và lại thắt chặt để kiểm soát lạm phát vào năm
2011. Từ sau năm 2007, tốc độ TTKT đã giảm xuống rõ rệt, một phần là cú sốc chính sách
nới lỏng không còn nhiều như giai đoạn trước mà chủ yếu xoay quanh giá trị cân bằng làm
cho nguồn lực thúc đẩy TTKT bị giảm sút.
Ghi chú: infa – tỷ lệ lạm phát được lấy trung bình tiến trong 6 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.8 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tỷ lệ lạm phát
Hình 4.8 mô tả cú sốc CSTT và tỷ lệ lạm phát, do đó, nếu cú sốc nới lỏng sẽ làm lạm phát
tăng lên, trong khi cú sốc thắt chặt sẽ làm tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Tỷ lệ lạm phát bắt
đầu tăng vọt từ sau năm 2003 và bắt đầu chậm dần sau khi NHNN thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ vào năm 2007. Bên cạnh đó, lạm phát năm 2011 xảy ra do chính sách thắt
chặt giảm dần và thay vào đó là chính sách nới lỏng tiền tệ.
35
Ghi chú: exga – tốc độ tăng tỷ giá hối đoái sau khi lấy giá trị trung bình tiến 4 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.9 Cú sốc chính sách tiền tệ ngoại sinh và tốc độ tăng của tỷ giá
Như hình 4.9 thể hiện, tốc độ giảm của tỷ giá đã chậm lại ngay sau khi chính sách nới lỏng
tiền tệ được NHNN ban hành. Tuy nhiên, tỷ giá đã tăng vọt cùng thời điểm xảy ra cuộc
khủng hoảng và lạm phát nổ ra ở Việt Nam. Tốc độ tăng tỷ giá vẫn không giảm cho đến
khi NHNN ban hành chính sách lãi suất bằng 0% đối với tiền gửi ngoại tệ. Thế nhưng, tốc
độ tăng tỷ giá đã bắt đầu vực dậy trở lại khi NHNN có những động thái chính sách nới
lỏng tiền tệ. Đồng thời cho thấy NHNN đang mất dần khả năng duy trì tỷ giá ở mức cao
hơn giá trị thực trong một thời gian dài.
4.2.5 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ
Theo Bernanke & Mihov (1998), việc thay thế các giá trị phần dư của các biến chính sách
bằng chính các biến chính sách như phương trình (17) sẽ hình thành nên giá trị tổng hợp cả
thành phần nội sinh lẫn ngoại sinh của CSTT, gọi là chỉ số thể hiện lập trường của CSTT.
Với giá trị ước lượng được từ phương trình (17), việc lấy trung bình trượt trong 6 quý sẽ
giúp chỉ số lập trường được chuẩn hóa. Xoay quanh giá trị 0, thể hiện lập trường trung
dung, chỉ số lập trường mang dấu dương thể hiện lập trường chính sách thắt chặt và ngược
lại là lập trường chính sách nới lỏng. Khi chỉ số lập trường tăng lên sẽ làm tỷ lệ lạm phát
giảm xuống trong tương lai và ngược lại.
36
Ghi chú: mpia – chỉ số lập trường CSTT được lấy trung bình trượt trong 6 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.10 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ
Hình 4.10 chỉ ra một cách rõ ràng, trong khoảng thời gian trước năm 2008, NHNN vẫn giữ
đô ̣ng thái CSTT sao cho ổn đi ̣nh tỷ lê ̣ la ̣m phát. Sau đó bắt đầu tăng mạnh lên vào năm 2008 nhằm kiểm soát lạm phát phi mã, giảm xuống thành nới lỏng vào năm 2010 thể hiện
việc kích cầu, gia tăng thành thắt chặt trở lại vào năm 2011 để kìm chế lạm phát và lại nới
lỏng để kích thích nền kinh tế.
Hình 4.11 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Ghi chú: gdpa – tốc độ TTKT được lấy trung bình tiến trong 4 quý
37
Hình 4.12 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tỷ lệ lạm phát
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Ghi chú: infa – tỷ lệ lạm phát được lấy trung bình tiến trong 6 quý
Ghi chú: exga – tốc độ tăng của tỷ giá được lấy trung bình tiến trong 4 quý
Nguồn: Kết quả tính toán trên phần mềm Stata 12.0
Hình 4.13 Chỉ số lập trường của chính sách tiền tệ và tốc độ tăng tỷ giá
Trên quan điểm thắt chặt tiền tề nhằm kiểm soát tỷ giá nhưng tốc độ TTKT vẫn đạt được
kết quả cao, thế nhưng tốc độ tăng trưởng đã giảm xuống từ sau việc NHNN thực hiện
chính sách kìm chế lạm phát và phục hồi khi có chính sách kích cầu. Dù vậy, tốc độ tăng
trưởng vẫn không lấy được vị thế ban đầu như giai đoạn 2000 – 2007. Việc duy trì lập
38
trường chính sách thắt chặt đã kìm chế lạm phát tăng vọt trong khoảng thời gian 2000 –
2005 như hình 4.12 chỉ ra. Mặc dù CSTT có giai đoạn nới lỏng sau năm 2011 nhưng tỷ lệ
lạm phát dường như vẫn duy trì ở mức khá thấp, cùng với tốc độ TTKT, cho thấy sức cầu
trong nền kinh tế đã sụt giảm khá nhiều. Tương tự, chính sách thắt chặt tiền tệ trong giai
đoạn cung ngoại tệ tăng mạnh đã làm giảm bớt tốc độ lên giá của đồng nội tệ, bằng việc
tăng cung tiền và lãi suất cho vay một cách đồng thời. Thế nhưng, lạm phát nhảy vọt năm
2008, đã buộc NHNN thực hiện CSTT thắt chặt hơn nữa và khi đó, đồng nội tệ lại trở nên
mất giá với tốc độ rất cao, cho đến khi xóa bỏ hoàn toàn lãi suất tiền gửi đối với đồng nội
tệ. Từ sau CSTT nới lỏng năm 2011, tỷ giá hối đoái đã bắt đầu trở lại tăng với tốc độ cao.
Lập trường CSTT không chỉ thể hiện sự ảnh hưởng của chính sách đến tốc độ TTKT và
lạm phát mà còn thể hiện quan điểm của NHNN đối với một mục tiêu cụ thể nào đó như tỷ
giá hối đoái.
39
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
5.1 Kết luận
CSTT là công cụ chính của NHNN để điều hành kinh tế vĩ mô, với mục tiêu thúc đẩy
TTKT và duy trì lạm phát ổn định. Trong giai đoạn 2000 – 2015, những chính sách như
cung tiền, lãi suất và các nghiệp vụ thị trường mở liên tục được ban hành nhằm vào việc
thực hiện 2 mục tiêu đã được đề cập. Tuy nhiên, tốc độ TTKT đã chậm lại (so với giai
đoạn 2000 – 2007) dù chính sách cung tiền luôn được mở rộng, thị trường chứng khoán
phục hồi một cách yếu ớt từ sau năm 2008, trong khi tỷ lệ lạm phát đã được kiểm soát một
cách tốt hơn nhưng vẫn chưa tạo được động lực cho tăng trưởng tiêu dùng.
Để thấy rõ tác động cũng như những động thái của CSTT Việt Nam trong giai đoạn 2000 –
2015, luận văn đã sử dụng bộ dữ liệu vĩ mô gồm các biến: GDP thực, cung tiền M2 thực,
lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá tiêu dùng CPI, chỉ số chứng khoán VN-Index,
cùng với mô hình SVAR để tiến hành phân tích dữ liệu. Kết quả cho thấy, trong khoảng
thời gian 2000 – 2015, khi có cú sốc nớ i lỏng cung tiền, tốc đô ̣ tăng trưở ng kinh tế từ tra ̣ng thái su ̣t giảm đã dần phu ̣c hồi nhưng không cải thiê ̣n đươ ̣c so vớ i giai đoa ̣n trướ c đó. Chỉ số giá tiêu dù ng luôn có tố c đô ̣ thay đổi cao hơn cả tốc đô ̣ tăng cung tiền, điều này làm lươ ̣ng cung tiền thực giảm xuống khi có cú số c cung tiền và từ đó đã ảnh hưở ng đến tốc đô ̣ tăng
trưở ng kinh tế. Sứ c ép từ các cú sốc tỷ giá rất lớ n, nhưng đô ̣ lớ n phản ứ ng củ a tỷ giá đối vớ i cú sốc là rất nhỏ (𝜙𝐸𝑅 = 0,0063), điều này cho thấy tỷ giá đang bi ̣ kiểm soát bở i chính các công cu ̣ củ a NHNN. Ngoài ra, lãi suất phản ứ ng mô ̣t cách tứ c thờ i khi có cú sốc mở rô ̣ng cung tiền, cu ̣ thể lãi suất đã tăng lên 0,6 điểm và giảm dần sau quý thứ 1. Tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD phản ứ ng rất ít, tăng cao nhất ở quý thứ 3 nhưng giảm ngay vào quý thứ 4. Thi ̣ trườ ng tài chính vớ i đa ̣i diê ̣n là chỉ số VN-Index phản ứ ng nha ̣y hơn theo cú sốc cung tiền và các chỉ số khác như CPI và lãi suất.
Cuối cùng, bằng việc tính toán chỉ số đo lường lập trường CSTT Việt Nam đã cho thấy
rằng, đô ̣ng thái củ a NHNN luôn theo sát sự thay đổi củ a tỷ lê ̣ la ̣m phát, đồ ng thờ i ta ̣o điều kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i để thú c đẩy tăng trưở ng kinh tế.
40
5.2 Gợi ý chính sách
Những phát hiện trên, khuôn khổ chính sách có thể được đề xuất gồm:
Một là, Chính phủ nên để tỷ giá hối đoái phản ứ ng đú ng vớ i sứ c ép của nó, đồng thờ i đưa tỷ giá về giá tri ̣ thực. Những lo ngại về việc tăng gánh nặng nợ khi đưa tỷ giá về giá trị
thực của nó là thiếu cơ sở, vì hiện nay Việt Nam đang vay nợ ròng nên gần như không
đáng lo về rủi ro tỷ giá. Nếu khối lượng nợ được định giá bằng VNĐ thì người trả nợ sẽ
chịu thiệt trong trường hợp này nhưng việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá là trách nhiệm của người
đi vay, không thể để những đối tượng khác cùng chịu chung gánh nặng đó, nếu nợ được
định giá bằng USD thì khối lượng nợ là không thay đổi. Ngoài ra, việc định giá lại tỷ giá sẽ
thúc đẩy xuất khẩu vì cải thiện được khả năng cạnh tranh về giá, từ đó làm tăng nguồn thu
ngoại tệ và tỷ giá sẽ trở nên ổn định. Hơn nữa, việc đưa tỷ giá hối đoái trở về giá trị thực sẽ
tạo động lực thúc đẩy sản xuất, nhất là ở những ngành có tính chất thay thế hàng nhập
khẩu. Nguy cơ bùng phát lạm phát cho nền kinh tế chỉ phản ánh sức ép nội tại của lạm
phát, hay nói cách khác, việc lạm phát xảy ra chỉ là hệ quả của việc kiểm soát tỷ giá, không
phải do nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài. Do đó, Chính phủ cần tập trung vào chính sách
GDP danh nghĩa mục tiêu thay vì kiểm soát lạm phát dưới một con số cụ thể nào đó. Bằng
cách này, Chính phủ có thể dễ dàng kìm hãm tốc độ tăng của lạm phát đồng thời có thể
thúc đẩy tăng trưởng trở nên ổn định hơn, tránh việc tạo ra những cú sốc chính sách lớn
như những năm 2007 và 2011.
Hai là, các chính sách nới lỏng cung tiền cần chú trọng nhiều hơn về điểm đến cuối cùng
trong kênh dẫn truyền, cụ thể là các ngành sản xuất công – nông nghiệp. Nếu dòng tiền
liên tục đi vào khu vực phi sản xuất, sẽ nhanh chóng tạo ra các bong bóng tài sản như bất
động sản hay chứng khoán, điều này không chỉ tước đi nguồn lực dành cho tăng trưởng mà
còn tạo ra các loại thuế đánh lên khu vực sản xuất (ví dụ: tiền thuê mặt bằng). Từ đó,
nguồn thu cho Chính phủ sẽ không được đảm bảo và bất ổn vĩ mô cũng sẽ gia tăng.
Ba là , việc phân tích hàm xung – phản ứng cho thấy mục tiêu thúc đẩy TTKT của CSTT
chỉ được NHNN thực hiện một cách đối phó. Vì vậy, những chính sách này chỉ mang tính
cứu vãn sự sụt giảm đáng kể của tốc độ TTKT, mà không có nhiều ý nghĩa trong việc thúc
đẩy TTKT. Do đó, NHNN cần hoạch định chính sách một cách cụ thể hơn về thời gian, độ
lớn và các công cụ; bởi CSTT luôn có một độ trễ để phát huy từ 1 đến 2 quý.
41
Thứ tư, việc cú sốc chính sách ngoại sinh đã làm cung tiền thực giảm xuống, cho thấy rằng
chỉ số giá dường như tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng cung tiền danh nghĩa. Điều này hoàn
toàn không có lợi cho nền kinh tế, vì nếu giả định rằng tốc độ chu chuyển tiền là không đổi
thì tốc độ TTKT cũng không thay đổi trong trường hợp này. Do đó, việc thúc đẩy tăng
trưởng bằng CSTT là gần như thất bại. Vì vậy, NHNN cần tập trung việc kiểm soát sự biến
động của giá cả nhằm giữ sự ổn định, tránh tạo sức ép lạm phát do cung tiền hoặc do chi
phí đẩy.
Cuối cùng, sức ép tăng tỷ giá sẽ nhanh chóng kết thúc vào cuối quý thứ 3, nếu cú sốc chính
sách tác động từ đầu quý thứ 1. Chính vì thế, NHNN không nên đưa nhiều chính sách liên
tục nhằm kìm hãm tỷ giá, chỉ cần nền kinh tế phục hồi, áp lực mất giá đồng nội tệ sẽ nhanh
chóng giảm xuống. Ngoài ra, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm, vì theo hàm xung –
phản ứng cho thấy thị trường chứng khoán biến động theo từng quý. Vì vậy, NHNN có thể
dựa vào sự biến động của thị trường chứng khoán, từ đó quản lý dòng vốn để dòng tiền đi
vào các loại hình sản xuất, tránh đi vào khu vực phi sản xuất gây bong bóng tài sản, bất ổn
vĩ mô và dồn gánh nặng lên khu vực sản xuất.
5.3 Hạn chế của đề tài
Đề tài sử dụng bộ số liệu trong giai đoạn 2000 – 2015 nên chỉ có 64 quan sát, điều này làm
giảm bớt độ tin cậy đối với mô hình ước lượng. Đồng thờ i, do số liê ̣u vĩ mô ở Viê ̣t Nam có nhiều nguồn khác nhau và các dữ liê ̣u cũng khác nhau nên để thống nhất, tác giả đã lựa cho ̣n 1 nguồn dữ liê ̣u chính nhằm tránh sự sai lê ̣ch trong quá trình ướ c lươ ̣ng. Ngoài ra, những biến số đại diện cho nền kinh tế vĩ mô ở góc độ cụ thể hơn như chỉ số sản xuất công
nghiệp đã không được thể hiện trong mô hình (do không đủ dữ liệu) cũng làm cho mô hình
có thể bị sai lệch.
42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Cao Thị Ý Nhi & Lê Thu Giang (2015), “Ứng dụng mô hình SVAR nghiên cứu kênh
dẫn truyền tiền tệ và gợi ý CSTT ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 216,
pp.37–47.
2. Dương Ngọc Mai Phương & đ.t.g (2015), “Tác động của CSTT đến thị trường chứng
khoán: Bằng chứng tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 25(35), pp.3–13.
3. Nguyễn Thị Liên Hoa & Trần Đặng Dũng (2013), “Nghiên cứu lạm phát tại Việt Nam
theo phương pháp SVAR”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 10(20), pp.32–38.
4. Nguyễn Xuân Thành & Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013), “Tăng cường phối hợp chính sách
kinh tế vĩ mô với chính sách giám sát an toàn tài chính ở Việt Nam nhìn từ kinh
nghiệm Quốc tế”, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, pp.1–24.
5. Trầm Thị Xuân Hương & đ.t.g (2014), “Truyền dẫn của CSTT: Một số mô hình kiểm
định phù hợp”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 16(26), pp.41–46.
Tiếng anh
6. Amarasekara, C. (2008), "The impact of monetary policy on economic growth and
inflation in Sri Lanka". Staff Studies, 38(1&2), pp.1–44.
7. Ando, A. & Modigliani, F. (1963), "The “Life Cycle” Hypothesis of Saving: Aggregate
Implications and Tests", The American Economic Review, 53(1), pp.55–84.
8. Bank of England (1994), "The transmission mechanism of monetary policy". Bank of
England Quarterly Bulletin, 19(4), pp.261–267. Available at:
http://www.bankofengland.co.uk/archive/Documents/historicpubs/qb/1994/qb940301.
pdf. Truy cập ngày: 29/10/2016
9. Bernanke, B.S. (1986), "Alternative explanations of the money - income correlation",
NBER Working Paper Series, (1842).
10. Bernanke, B.S. & Blinder, A.S. (1992), "The Federal Funds Rate and the Channels of
Monetary Transmission", American Economic Review, 82(4), pp.901–921.
11. Bernanke, B.S. & Gertler, M. (1995), "Inside the Black Box: The Credit Channel of
Monetary Policy Transmission", Journal of Economic Perspectives, 9(4), pp.27–48.
12. Bernanke, B.S. & Mihov, I. (1998), "Measuring Monetary Policy*", The Quarterly
Journal of Economics, 113(3), pp.869–902.
13. Cesa-Bianchi, A. et al. (2016), "Monetary Policy Transmission in an Open Economy:
43
New Data and Evidence from the United Kingdom", pp.1–43. Available at:
http://www.centreformacroeconomics.ac.uk/Discussion-Papers/2016/CFMDP2016-
12-Paper.pdf. Truy cập ngày: 3/11/2016
14. Cloyne, J. & Hürtgen, P. (2014), "The Macroeconomic Effects of Monetary Policy: a
New Measure for the United Kingdom", Bank of England Working Paper, (493), pp.1
- 45.
15. Christiano, L.J. & Eichenbaum, M. (1991), "Identification and The Liquidity Effect of
a Monetary Policy Sock", NBER Working Paper Series.
16. Christiano, L.J. & Eichenbaum, M. (1992), "Liquidity effect, monetary policy and the
business cycle", NBER Working Paper Series.
17. Christiano, L.J. & Ljungqvist, L. (1988), "Money does Granger-cause output in the
bivariate money-output relation", Journal of Monetary Economics, 22(2), pp.217–
235.
18. Fernández-Amador, O. et al. (2011), "Monetary Policy and Its Impact on Stock Market
Liquidity: Evidence from the Euro Zone", Working Papers in Economics and
Statistics, p.39.
19. Fernández-villaverde, J. & Rubio-ramírez, J. (2010), "Macroeconomics and volatility:
data, models and estimat", NBER Working Paper Series, pp.1–46.
20. Frankel, J.A. (2010), "A Comparison of Product Price Targeting and Other Monetary
Anchor Options for Commodity Exporters in Latin America", NBER Working Paper
Series, pp.1–63.
21. Frederic, S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial Market
7th ed., Pearson Addison Wesley.
22. Friedman, B.M. (1995), "Does monetary policy affect real economy activity? Why do
we still ask this question?", NBER Working Paper Series.
23. Friedman, M. (1968), "The role of Monetary policy", The American Economic Review,
58(March), pp.269–295.
24. Fung, B.S.C. (2002), "A VAR analysis of the effects of monetary policy in East Asia",
BIS Working Papers, 119(119), pp.1–29.
25. Fung, B.S.C. & Yuan, M. (2000), "The Stance of Monetary Policy, in Money,
Monetary Policy and Tranmission Mechanism", Processding of Conference held by
the Bank of Canada, pp.233–62.
44
26. Le, T.H. (2015), "Measuring the Stance of Monetary Policy in Vietnam: A Structural
VAR Analysis", Asian Journal of Economics and Empirical Research, 2(1), pp.8–22.
27. Bui, V.H. & Tran, T.M.T. (2015), "The transmission mechanism of monetary policy in
Vietnam: A VAR approach", Working Paper Series, N IHEIDWP1, pp.1–36.
28. Hakan Berument and N. Nergiz Dincer (2008), "Measuring the Effects of Monetary
Policy for Turkey", Journal of Economic Cooperation, 1(29), pp.83–110.
29. Ireland, P.N. (2005), "The Monetary Transmission Mechanism", Working Papers -
Federal Reserve Bank of Boston, 06-1.
30. Kamaan, C.K. & Nyamongo, E.M. (2014), "The Effect of Monetary Policy on
Economic Growth in Kenya", International Journal of Business and Commerce, 3(8),
p.11.
31. Keynes, J. (1936), General theory of employment, interest and money. Available at:
http://cas.umkc.edu/economics/people/facultyPages/kregel/courses/econ645/Winter20
11/GeneralTheory.pdf. Truy cập ngày: 29/10/2016
32. King, S.R. (1986), "Monetary Transmission Through Bank Loans or Bank
Liabilities?", Journal of Money, Credit and Banking, 18(3), pp.290–303.
33. Lucas, Jr., R.E. (1975), "An Equilibrium Model of the Business Cycle", Journal of
Political Economy, 83(6), p.1113.
34. Mishkin, F.S. (1995), "Symposium on the Monetary Transmission Mechanism",
Economics Perspective, 9(4), pp.3–10.
35. Mishra, A. & Mishra, V. (2010), "A VAR Model of Monetary Policy and Hypothetical
Case of Inflation Targeting in India", Department of Economics, Monash University,
(613), pp.1–42.
36. Nguyen, H.T. (2014), Monetary transmission mechanism analysis in a small, open
economy: the case of Vietnam. University of Wollongong.
37. Phan, T. (2014), "The Determinants of Inflation in Vietnam: VAR and SVAR
Approaches", Crawford School Working Paper, No . 14-04 May 2014. In pp. 1–29.
38. Sims, C. (1986), "Are Forecasting Models Usable for Policy Analysis?", Federal
Reserve Bank of Minneapolis Quarterly Review, 10(1), pp.2–16.
39. Sims, C. (1980), "Macroeconomics and Reality", Econometrica, 48(1), pp.1–48.
40. Strongin, S. (1995), "The identification of monetary policy disturbances explaining the
liquidity puzzle", Journal of Monetary Economics, 35(3), pp.463–497.
45
41. Svensson, L.E.O. (1997), "Inflation forecast targeting: Implementing and monitoring
inflation targets", European Economic Review, 41(6), pp.1111–1146.
42. Taylor, J.B. (1995), "The monetary transmission mechanism: an empirical framework",
The Journal of Economic Perspectives, 9(4), pp.11–26.
43. Walsh, C.E. (2010), Monetary theory and policy, Cambridge, Massachusetts: The MIT
Press.
46
PHỤ LỤC
1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ thích hợp cho bộ dữ liệu
Kiểm tra tính dừng bằng Augmented Dickey Fuller Test
47
48
49
Kiểm tra bằng Phillips – Perron Test
50
51
52
Kiểm tra độ trễ thích hợp cho mô hình VAR
53
2. Ước lượng mô hình bán cấu trúc VAR
Kiểm tra tính ổn định cho mô hình VAR
54
Kết quả ước lượng SVAR trường hợp 1
(output ignored)
Kết quả ước lượng SVAR trường hợp 2
(output ignored)
55
Kết quả ước lượng SVAR trường hợp 3
(output ignored)
Kết quả ước lượng SVAR trường hợp 4
(output ignored)
56
3. Đồ thị hàm – xung phản ứng
Kiểm tra tính ổn định của mô hình VAR
57
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa GDP và các biến còn lại
58
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa RM2 và các biến còn lại
59
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa Rate và các biến còn lại
60
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa Exchange Rate và các biến còn lại
61
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa CPI và các biến còn lại
62
Đồ thị hàm xung – phản ứng giữa VN – Index và các biến còn lại