VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG THÀNH CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG THÀNH CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN MINH ĐỨC

2

HÀ NỘI, năm 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, việc xây dựng và phát triển đô thị thông minh đã trở thành

một xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Trong đó, nổi

bật là các thành phố như Singapore (Singapore), Lon Don (Anh quốc), Seoul

(Hàn Quốc), Auckland (New Zealand), Melbourne (Úc), Kobe (Nhật Bản),

Barcelona (Tây Ban Nha)…v.v. Xu thế này được các chuyên gia, nhà khoa

học đánh giá xuất phát từ những lý do chủ yếu sau: thứ nhất, tốc độ đô thị

hóa tăng nhanh đã tạo ra sức ép ngày càng lớn đối với phương thức quản lý,

điều hành của chính quyền và chất lượng đời sống của người dân đô thị; thứ

hai, các tiến bộ vượt bậc về khoa học – công nghệ của thế giới, nhất là trong

lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông, công nghệ số đã tạo cơ hội ngày

càng lớn cho việc hiện thực hóa xây dựng đô thị thông minh; thứ ba, tiếp tục

phát huy hiệu quả cao nhất các nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong

môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các đô thị trong thời đại toàn cầu hóa; thứ

tư, xuất phát từ nhu cầu phát triển bền vững, an toàn, tiết kiệm, công bằng,

dân chủ, công khai, lấy người dân làm trung tâm của sự phát triển.

Qua thực tế triển khai, cũng như qua đánh giá của các nhà khoa học,

chuyên gia, việc xây dựng đô thị thông minh ở các nước trên thế giới đã cơ

bản đạt được những kết quả như mong muốn so với mục tiêu, yêu cầu đề ra

như: Tăng chất lượng cuộc sống cùng các dịch vụ thiết yếu đi kèm; tăng tính

hiệu quả của bộ máy hành chính; tăng tính liên kết dọc giữa các hệ thống hạ

tầng kỹ thuật với nhau và hạ tầng xã hội với nhau, cũng như liên kết ngang

giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; tăng sự tương tác trong nội bộ cộng

đồng dân cư cũng như giữa cộng đồng dân cư với chính quyền; giảm chi phí;

3

giảm thời gian chờ đợi hoặc thời gian đi lại; giảm tiêu thụ các nguồn tài

nguyên thiên nhiên cũng như lãng phí không cần thiết các nguồn lực xã hội.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn thế giới cũng như ở Việt Nam, cuối

năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1819/QĐ-TTg,

phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ

quan nhà nước, trong đó đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ: “Triển khai đô thị

thông minh ít nhất tại 3 địa điểm theo tiêu chí do Bộ TT&TT hướng dẫn”.

Tiếp đó, tháng 11/2016, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của

Đảng cũng nhấn mạnh một số nội dung ưu tiên phát triển đô thị thông minh.

Đến tháng 12/2016, Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số

10384/VPCP-KGVX truyền đạt ý kiến của Thủ tướng: “Bộ TT&TT khẩn

trương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xây dựng,

ban hành các tiêu chí đánh giá, công nhận đô thị thông minh và hướng dẫn

các địa phương thực hiện.”Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính

phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Công văn số 58/BTTTT-

KHCN, ngày 11/01/2018 về việc “Hướng dẫn các nguyên tắc định hướng về

công nghệ thông tin và truyền thông trong xây dựng đô thị thông minh ở Việt

Nam” nhằm bước đầu thúc đẩy thống nhất nhận thức và quan điểm về ứng

dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong xây dựng đô thị thông minh

trên cả nước.

Thành phố Đà Nẵng nói chung, quận Thanh Khê nói riêng là một trong

những đô thị có tốc độ đô thị hóa cao nhất cả nước. Cũng như nhiều đô thị

khác, thành phố và quận cũng đang đối mặt với những thách thức trong quá

trình đô thị hóa, nhất là trên các lĩnh vực đất đai, nhà ở, môi trường, an ninh -

trật tự, giao thông, sử dụng tài nguyên, y tế, giáo dục…v.v. Trước tình hình

đó, thành phố Đà Nẵng đã sớm có chủ trương xây dựng đô thị thông minh để

khắc phục những hạn chế, bức xúc nêu trên, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu

4

lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền các cấp, khai thác tối đa các nguồn lực

để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng ngày càng cao và xây dựng thành phố phát

triển bền vững trong tương lai. Từ năm 2014, thành phố Đà Nẵng đã phê

duyệt Đề án xây dựng thành phố thông minh hơn, Đề án xác định 5 lĩnh vực

ưu tiên triển khai là: giao thông thông minh, thoát nước thông minh, cấp nước

thông minh, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm và xây dựng thành phố kết

nối. Thành phố cũng đã phối hợp với Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel

xây dựng Khung kiến trúc tổng thể thành phố thông minh, để làm cơ sở triển

khai đồng bộ, thống nhất các ứng dụng thành phố thông minh tại Đà Nẵng.

Là một trong những quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, quận

Thanh Khê cũng đã tiến hành các bước cụ thể hóa Đề án của thành phố trên

một số lĩnh vực và đạt được kết quả ban đầu như: xây dựng chính quyền điện

tử, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, đổi mới y tế, giáo dục. Nhận

thức về đô thị thông minh cũng từng bước được hình thành trong đội ngũ cán

bộ, công chức và ở các ngành, các cấp. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn còn

khiêm tốn so với các mục tiêu, yêu cầu, nội dung của một đô thị thông minh

đặt ra từ lý luận, cũng như thực tiễn, trong đó việc xây dựng một hệ thống lý

luận đầy đủ, khoa học về đô thị thông minh vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy,

tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị thông minh là yêu

cầu vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài để khắc phục những mặt

hạn chế do quá trình đô thị hóa diễn ra, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực

phát triển và sức cạnh tranh đô thị, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời

sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc học viên chọn đề tài:

“Chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành

phố Đà Nẵng” làm Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công là hết

sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

5

Hiện nay, việc nghiên cứu, định hướng chính sách xây dựng đô thị

thông minh ở nước ta đang được Đảng, Chính phủ, chính quyền các cấp, các

chuyên gia, nhà khoa học hết sức quan tâm, nhất là trong thời đại mà công

nghệ thông tin - truyền thông được ứng dụng rộng rãi trên tất cả các mặt đời

sống xã hội và trở thành công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực quản lý, điều

hành, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững

trong tương lai. Xoay quanh đề tài có một số công trình cụ thể như sau:

- Hà Phương (2016) “Phát triển đô thị thông minh bền vững – khái

niệm và những thách thức”, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền Thông,

số 3, tr. 34-40. Tác giả đã chỉ ra:

+ Tổng hợp các nghiên cứu của giới học thuật, nhà doanh nghiệp và

các bên liên quan cho thấy rằng, đô thị thông minh được hiểu theo 03 cách

chủ yếu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, đô thị thông minh chủ yếu là đô thị áp

dụng công nghệ số để thay đổi phương thức sắp xếp, quản lý hạ tầng và các

dịch vụ đô thị. Cách hiểu thứ hai cho rằng, đô thị thông minh là sáng kiến chủ

yếu nhằm cải thiện chính sách phát triển và quản trị đô thị một cách bền vững

bằng việc áp dụng những tiến bộ công nghệ thông tin - truyền thông để tái cơ

cấu nguồn nhân lực, sự đổi mới, giáo dục, sự tham gia của người dân. Cách

hiểu thứ ba về đô thị thông minh là việc ứng dụng các công nghệ thông tin -

truyền thông thúc đẩy mô hình lấy người dân làm trung tâm để phát triển và

quản lý đô thị, qua đó thúc đẩy đổi mới và thực thi công bằng xã hội, tăng

cường sự minh bạch và chịu trách nhiệm của cơ quan quản lý. Đối với các

bên liên quan, cả ba cách hiểu về đô thị thông minh không loại trừ lẫn nhau

mà cần xây dựng chiến lược đô thị thông minh, trong đó bao hàm các thành

tố với tỷ lệ và mức độ ưu tiên khác nhau của cả ba khái niệm trên. Điều quan

trọng là nhận thức được rằng, tầm nhìn, tham vọng và động cơ phát triển của

mỗi đô thị là khác nhau, tuy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng.

6

- PGS.TS Nguyễn Hồng Thục (2014) “Các yếu tố phát triển đô thị

thông minh hơn tại Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng, số 7, tr. 76-79: Ở Việt

Nam, trong những năm gần đây, do quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ

nhanh chóng, đã đặt ra nhiều thách thức, trong đó sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng,

thiếu hụt các dịch vụ thiết yếu, ô nhiễm môi trường, suy giảm chất lượng

sống của người dân đặt ra nguy cơ bị mắc kẹt trong mô hình tăng trưởng đô

thị kém hiệu quả và thiếu bền vững mà không thể thoát ra một cách dễ dàng.

Tác giả đề xuất một số hướng đi mới cho phát triển đô thị: Một là, tăng

trưởng xanh; hai là, tăng trưởng giảm thiểu tác động với phương pháp

LIUDD trong biến đổi khí hậu; ba là, sử dụng công cụ quy hoạch lãnh thổ

gắn với tăng trưởng xanh.

- ThS. Bùi Thị Diệu Hiền (2014) “Triển vọng phát triển đô thị thông

minh tại Việt Nam”, Báo Tài nguyên và Môi trường Bình Định: Sự phát triển

đô thị của nước ta hiện đang đặt ra 04 vấn đề lớn cần giải quyết: Đô thị hóa

tăng (dân số đô thị tăng, số đô thị tăng) kéo theo các vấn đề về môi trường,

giao thông, dịch vụ y tế, an toàn, nhà ở; hạ tầng lạc hậu, quá tải; cạnh tranh

kinh tế gia tăng giữa các đô thị, giữa các vùng; yêu cầu nâng cao chất lượng

sống của người dân. Cũng theo tác giả, để giải quyết vấn đề nêu ở trên, các

đô thị Việt Nam cần xây dựng và phát triển theo hướng trở thành đô thị thông

minh với các mục tiêu như sau: một là, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế;

hai là, xây dựng môi trường sống ngày càng tốt hơn; ba là, phục vụ nhu cầu

người dân ngày càng tốt hơn; bốn là, tạo điều kiện cho người dân tham gia

quản lý đô thị, giám sát chính quyền.

- TS. Phạm Sĩ Liêm (2011) “Xây dựng đô thị Đà Nẵng thành đô thị

thông minh”, Tạp chí Người xây dựng Số, số 3, tr. 21-24: Tác giả cho rằng,

với lợi thế so sánh của mình, phát triển đô thị thông minh có thể là phương

thức có hiệu quả giúp nâng cao năng lực cạnh trạnh của Đà Nẵng, đưa Đà

7

Nẵng trở thành đô thị toàn cầu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, Đà Nẵng

nên xây dựng sách lược cạnh tranh tổng hợp, bao gồm 05 nhóm giải pháp chủ

yếu sau: Một là, đẩy mạnh tiếp thị đô thị; hai là, xây dựng hình tượng đô thị;

ba là, xây dựng bản sắc đô thị; bốn là, thúc đẩy cách tân đô thị; năm là, xây

dựng đô thị phát triển bền vững, hay còn gọi là đô thị sinh thái. Theo tác giả,

có 06 độ đo giúp nhận dạng và xếp loại đô thị thông minh, đó là kinh tế thông

minh, lưu động thông minh, môi trường thông minh, nhân dân thông minh,

lối sống thông minh, và trị lý thông minh. Đà Nẵng nên dựa vào các độ đo

này để xây dựng thành phố thông minh của riêng mình.

Nội dung của các tài liệu trên đề cập tới những vấn đề chung về lý luận

trong việc xây dựng đô thị thông minh cũng như việc áp dụng xây dựng đô

thị thông minh phù hợp với tình hình thực tiễn ở các thành phố của nước ta

hiện nay. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý giá, giúp học viên kế thừa và

hình thành nên hệ thống cơ sở lý luận của đề tài. Tuy nhiên, chưa có đề tài

nào nghiên cứu toàn diện ở phương diện chính sách về xây dựng đô thị thông

minh, nhất là gắn với một địa bàn cụ thể. Do vậy, có thể khẳng định vấn đề

học viên lựa chọn nghiên cứu không có sự trùng lắp về nội dung và đối

tượng, phạm vi nghiên cứu, nhất là từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố

Đà Nẵng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

chính sách xây dựng đô thị thông minh, làm cơ sở khoa học để đánh giá thực

trạng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị

thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách xây dựng đô thị

8

thông minh;

Thứ hai, phân tích thực trạng chính sách xây dựng đô thị thông minh từ

thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng;

Thứ ba, nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện

chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành

phố Đà Nẵng trong thời gian đến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn liên quan đến giải pháp hoàn thiện

chính sách đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

- Về thời gian: từ năm 2013 – 2018

4.3. Khách thể nghiên cứu

Đô thị thông minh là một khái niệm mở, có nhiều nội hàm trên nhiều

khía cạnh khác nhau. Vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn này chủ yếu tập

trung trên các lĩnh vực còn nhiều bức xúc, hạn chế của địa phương trong quá

trình đô thị hóa như: xây dựng chính quyền, giao thông, y tế, giáo dục - đào

tạo, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng cách tiếp cận hệ thống đa ngành và liên ngành về

ứng dụng khoa học công nghệ thông tin trong các lĩnh vực đời sống xã hội;

tiếp cận dựa trên phương pháp quy phạm về chu trình chính sách trong

nghiên cứu xây dựng, đề xuất các giải pháp trong việc hoàn thiện chính sách

xây dựng đô thị thông minh. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công

9

về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá

chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính

sách công được soi sáng qua thực tiễn, giúp hình thành lý luận về chính sách

chuyên ngành.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể, như phương pháp thu thập thông tin, phân tích tổng hợp,

phương pháp so sánh từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,

bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước,

các ngành ở Trung ương và địa phương, đề tài nghiên cứu của các nhà khoa

học, chuyên gia trong nước, cũng như thực tiễn ở các nước trên thế giới về

thực hiện chính sách xây dựng đô thị thông minh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn vận dụng lý thuyết về chính sách công để làm rõ cơ sở lý

luận và thực tiễn của một chính sách cụ thể, đó là chính sách xây dựng đô thị

thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu thực tế tại quận Thanh Khê,

thành phố Đà Nẵng, nhằm góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận

của khoa học chính sách công.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua việc nghiên cứu chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực

tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đánh giá đầy đủ, chính xác thực

trạng việc xây dựng đô thị thông minh trong thời gian qua của chính quyền và

các ban ngành của quận, đồng thời đề ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện

chính sách trong thời gian đến. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham

khảo giúp lãnh đạo quận, các cơ quan liên quan, các tổ chức đoàn thể có cơ

10

sở khoa học và thực tiễn để điều chỉnh chính sách, tổ chức thực hiện chính

sách xây dựng đô thị thông minh đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

được chia làm 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách xây dựng đô thị thông minh.

Chương 2: Thực trạng chính sách xây dựng đô thị thông minh tại quận

Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách xây

11

dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH

XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH

1.1. Sự cần thiết xây dựng đô thị thông minh ở nước ta hiện nay

Theo Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hóa nước ta đã tăng từ 19,6% với 629

đô thị, lên khoảng 36,6% với 802 đô thị, từ năm 2009 đến năm 2016, với

khoảng 39 triệu người, chiếm khoảng 41% dân số cả nước; dự kiến đến năm

2020 dân cư đô thị chiếm 45% và năm 2025 chiếm 50% dân số cả nước. Diện

tích của các đô thị chỉ chiếm hơn 10% tổng diện tích cả nước, song lại đóng

góp tới hơn 70% tổng thu ngân sách. Bên cạnh những lợi ích thiết thực như

đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây

dựng đời sống xã hội văn minh, hiện đại, thì quá trình đô thị hóa gia tăng còn

tạo ra nhiều thách thức đối với chính quyền các cấp như sức ép về ô nhiễm

môi trường, giao thông, nhà ở, giáo dục, y tế, thiếu hụt các nguồn lực về đất

đai, nước sạch, không gian, năng lượng...v.v, đặc biệt là ở các thành phố lớn

như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.

Từ thực trạng của quá trình đô thị hóa ở nước ta, cùng với những kết

quả đạt được ở các nước trên thế giới, vấn đề về xây dựng đô thị thông minh

ở Việt Nam trong thời gian qua đã được các nhà khoa học, các ngành, các cấp

quan tâm nghiên cứu, triển khai thực hiện, xuất phát từ những lợi ích cũng

như yêu cầu phát triển đô thị trong tình hình mới, cụ thể như sau:

Thứ nhất, việc xây dựng đô thị thông minh có thể giải quyết cơ bản các

vấn đề thách thức nảy sinh trong quá trình đô thị hóa của Việt Nam, tạo niềm

tin của nhân dân vào hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp, ví

dụ như: nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cho người dân, tổ chức,

12

doanh nghiệp; giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông; kiểm soát tốt hơn môi

trường sống; tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực về con

người cũng như vật chất…v.v.

Thứ hai, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin - truyền thông, đặc

biệt là các nước phát triển trên thế giới đang bước vào nền công nghiệp 4.0,

Việt Nam đang có cơ hội lớn để tiến hành đổi mới mô hình tăng trưởng kinh

tế, đổi mới cách thức quản lý, điều hành xã hội, nhằm rút ngắn khoảng cách

với các nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh đô thị, cạnh tranh quốc

gia, thu hút đầu tư, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững theo mục

tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Thứ ba, xuất phát từ đòi hỏi ngày càng cao của người dân về nâng cao

chất lượng cuộc sống đô thị, tham gia xây dựng xã hội, giám sát hoạt động

của chính quyền. Do đó, việc xây dựng và quản lý đô thị theo cách truyền

thống đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Điều này đòi hỏi các

nhà lãnh đạo, quản lý phải tìm kiếm những chiến lược, giải pháp mới phù hợp

với bối cảnh hiện nay và xu hướng phát triển đô thị trong tương lai.

Ngay sau khi có chủ trương từ Chính phủ, một số tỉnh, thành phố lớn ở

nước ta đã bắt đầu tìm hiểu và bắt tay vào triển khai thực hiện. Cho tới nay,

hơn 20 tỉnh, thành phố đã và đang triển khai dưới hình thức như vậy. Trong

đó, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu triển khai xây dựng Đề án Đô thị thông

minh như Đà Nẵng (7/2014), Huế (2015), Quảng Ninh (8/2016), Thành phố

Hồ Chí Minh (9/2016), Kiên Giang (Huyện đảo Phú Quốc - 9/2016), Lâm

Đồng (Thành phố Đà Lạt - 10/2016), Bình Dương (9/2016), Thanh Hóa

(Thành phố Thanh Hóa - thị xã Sầm Sơn, thị xã Bỉm Sơn - 9/2016), Hải

Phòng (11/2016), Vĩnh Phúc (3/2017), Đăk Lăk (Thành phố Buôn Ma Thuột

- 1/2017), Tiền Giang (Thành phố Mỹ Tho - 2/2017), …v.v.

Ngoài ra, với một thị trường công nghệ thông tin - truyền thông ngày

13

càng sôi động và phát triển mạnh mẽ, với các nhà đầu tư có tiềm lực, uy tín

cả trong và ngoài nước như IBM, FPT, VNPT, Viettel, Cisco, Bkav….v.v, đã

đặt ra nhiều sự lựa chọn, cơ hội đối với các địa phương tại Việt Nam trong

việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đô thị thông minh trong thời gian đến.

Có thể nói, việc xây dựng đô thị thông minh là hết sức cần thiết đối với các

đô thị tại Việt Nam hiện nay, xuất phát từ lợi ích trước mắt cũng như mục

tiêu phát triển lâu dài, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của đô thị trong

thời đại toàn cầu hóa, đồng thời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của người dân về

một môi trường sống thuận lợi, an toàn, tiết kiệm hơn...v.v.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chính sách xây dựng đô thị

thông minh

1.2.1. Khái niệm chính sách xây dựng đô thị thông minh

Để đưa ra được cách hiểu về chính sách xây dựng đô thị thông minh thì

Luận văn sẽ làm rõ một số khái niệm sau:

- Khái niệm về chính sách

Để quản lý xã hội, bộ máy nhà nước phải ban hành các chính sách phù

hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Tác động của nhà nước

đến các đối tượng có thể mang tính chính trị, hành chính, kinh tế và được

lồng ghép vào các cơ chế quản lý điều hành thống nhất. Thuật ngữ chính sách

được sử dụng rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời

sống xã hội. Dưới đây, là một số khái niệm của các học giả trong và ngoài

nước:

+ Theo William Jenkin, "Chính sách công là một tập hợp các quyết

định liên quan với nhau, được ban hành bởi một hoặc nhóm các nhà hoạt

động chính trị cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các giải pháp để đạt

được mục tiêu đó"; Thomas R. Dye lại cho rằng: "Chính sách công là bất kỳ

những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm". Còn theo Krafty Furloy:

14

“Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của

chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng”. Charles O. Jones định nghĩa:

"Chính sách công là một tập hợp các yếu tố gồm: Dự định, Mục tiêu, Đề

xuất, Các quyết định hay các lựa chọn, Hiệu lực". B. Cuy Peters định nghĩa:

"Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của chính quyền, dù thực hiện

trực tiếp hay gián tiếp qua các đại lý, tác động đến cuộc sống của mọi người".

Còn theo Doctor Eric: "Chính sách công là một sản phẩm của một tiến trình

tương tác giữa các cá nhân theo các nhóm làm việc nhỏ trong một khuôn khổ

do các tổ chức đặt ra - các tổ chức này hoạt động trong một hệ thống thể chế

chính trị, luật pháp và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa - xã hội",

"Chính sách công có thể coi như là một khái niệm có thể dùng thay thế các

khái niệm hành chính công và quản lý công, hoặc có thể hiểu là một bộ công

cụ phân tích dùng trong hai lĩnh vực trên"[8].

+ Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về

chính sách công, đặc biệt là những năm gần đây, khi nước ta chủ trương đẩy

mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách Chính sách

kinh tế - xã hội, các tác giả đồng nhất chính sách công với chính sách kinh

tế - xã hội và đưa ra định nghĩa: “Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các

quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác

động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính

sách, thực hiện những mục tiêu tổng thể của xã hội”. Theo Từ điển giải

thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các

nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề quốc gia hay mối quan tâm của Nhà

nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm nhiệm vai trò người cha

đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và an

toàn cho mọi người; tạo ra an toàn cho tài chính và bảo vệ an toàn cho Tổ

15

quốc”. Các nhà khoa học của Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Chính sách công là chương trình

hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể”; “Chính sách

công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà

nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế -

xã hội theo mục tiêu đã xác định”[8].

Mặc dù những quan niệm trên còn có nhiều điểm khác nhau, nhưng tất

cả các ý kiến đều nghiên cứu, xem xét chính sách công với tư cách là sản

phẩm có mục đích của chủ thể nắm quyền lực công để tác động đến các mặt

đời sống xã hội. Trong các chủ thể quyền lực công đó thì Nhà nước do tính

chất đặc biệt nên được đưa vào vị trí trung tâm.

Từ những khái niệm trên, có thể hiểu thuật ngữ chính sách công như

sau: Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm

quyền lực công, nhằm giải quyết vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực

của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu

đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.

Từ cách hiểu trên, ta có thể thấy chính sách công có những đặc trưng

cơ bản sau: Chính sách công là sản phẩm của chủ thể quyền lực công, nên bất

kỳ chủ thể nào nắm quyền lực công đều có khả năng ban hành chính sách

công; chính sách công bao gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau – đó

là một chuỗi các quyết định cùng hướng vào giải quyết vấn đề của chính

sách, luôn gắn với từng thời kỳ và giai đoạn lịch sử cụ thể; chính sách công

thường tập trung giải quyết một vấn đề nhất định đang đặt ra trong đời sống

kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định và phương pháp cụ thể.

- Khái niệm đô thị: Đô thị là không gian cư trú của một cộng đồng

người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông

16

nghiệp [23].

- Khái niệm đô thị thông minh:

Đã có nhiều khái niệm khác nhau về đô thị thông minh (smart city)

được đưa ra bởi nhiều học giả trên thế giới, với những quan điểm và cách tiếp

cận riêng. Một trong số những định nghĩa này là:

+ “Đô thị thông minh được xây dựng dựa trên viễn cảnh về sự phát

triển đô thị trong tương lai được đánh dấu bởi sự số hóa trên quy mô rộng

lớn các loại hình dịch vụ, với mục tiêu chủ yếu là đạt tính bền vững kép trên

cả ba phạm vi là kinh tế, xã hội và môi trường, có sử dụng các công nghệ tiên

tiến như công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông và mạng

Internet” [35].

+ “Đô thị thông minh coi trọng sự mở rộng không ngừng của việc cung

cấp dữ liệu, góp phần làm đa dạng hóa cách thức lựa chọn của mỗi công dân

đô thị nhằm cải thiện các điều kiện sinh sống và học tập hoặc lao động qua

đó có thể phát triển bản thân một cách toàn diện và làm xã hội trở nên thịnh

vượng” [36].

+ Năm 2015, Liên minh viễn thông thế giới (ITU) định nghĩa: “Đô thị

thông minh bền vững là đô thị đổi mới, được ứng dụng công nghệ thông tin

và truyền thông (ICT) và những phương tiện khác để cải thiện chất lượng

cuộc sống, hiệu quả quản lý, vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh

tranh của đô thị, trong khi vẫn đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ hiện

tại và tương lai về mọi khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa - xã hội .”[21].

+ Trong dự luật của Hoa Kỳ “Luật về Đô thị và Cộng đồng thông

minh”, khái niệm đô thị thông minh được định nghĩa: “Đô thị thông minh

hoặc cộng đồng thông minh là một cộng đồng ở đó được ứng dụng các công

nghệ thông tin, truyền thông đổi mới sáng tạo, tiên tiến và đáng tin cậy, các

công nghệ năng lượng và các cơ chế liên quan khác để: Cải thiện sức khỏe

17

và chất lượng cuộc sống của người dân; tăng hiệu lực và hiệu quả chi phí

vận hành và cung cấp các dịch vụ dân sự; thúc đẩy phát triển kinh tế; tạo ra

một cộng đồng ở đó người dân cảm thấy tốt hơn về các mặt an toàn, an ninh,

bền vững, có sức chống chịu, đáng sống và đáng làm việc”[15].

Từ một số khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm chủ yếu

để xây dựng đô thị thông minh là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

vào trong các mặt đời sống xã hội của đô thị đó. Tuy nhiên, có một số nhà

nghiên cứu lại cho rằng, một đô thị thông minh là tập hợp các nội dung cấu

thành và vận hành đô thị đều phải thông minh. Ví dụ, phải có chính quyền

thông minh, con người thông minh, phương pháp quản lý, điều hành thông

minh, giao tiếp thông minh, cở sở vật chất, hạ tầng thông minh…v.v. Trong

đó, công nghệ thông tin - truyền thông là ứng dụng nền tảng để thúc đẩy xây

dựng đô thị thông minh.

Ở Việt Nam chúng ta, khái niệm đô thị thông minh cũng được các nhà

nghiên cứu, các nhà khoa học tiếp cận và đưa ra những quan điểm riêng của

mình. Tuy nhiên, là một nước đi sau về xây dựng đô thị thông minh, nên hầu

hết các khái niệm về đô thị thông minh của Việt Nam đều trên cơ sở sở kế

thừa hệ thống khái niệm của các nhà nghiên cứu, khoa họctrên thế giới. Bên

cạnh đó, căn cứ tình hình thực tiễn, mà đưa ra các nội hàm đô thị thông minh

phù hợp với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của

Việt Nam. Nhìn chung, khái niệm đô thị thông minh ở Việt Nam được hiểu

như sau: Đô thị thông minh là đô thị hoặc khu vực cư dân ứng dụng công

nghệ thông tin - truyền thông phù hợp, tin cậy, có tính đổi mới sáng tạo nhằm

nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, cung cấp các dịch vụ

công, phát huy các nguồn lực của đô thị có sự tham gia của người dân; nâng

cao chất lượng cuộc sống và làm việc của cộng đồng; thúc đẩy đổi mới, sáng

tạo phát triển kinh tế; đồng thời bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường

18

liên thông, chia sẻ dữ liệu, an toàn, an ninh thông tin giữa các hệ thống và

dịch vụ. Khái niệm này cũng được hiểu là đô thị thông minh phát triển bền

vững.

- Khái niệm chính sách xây dựng đô thị thông minh

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đô thị thông minh, có thể

quan niệm về chính sách xây dựng đô thị thông minh như sau: Chính sách

xây dựng đô thị thông minh là tổng thể các chương trình hành động ứng dụng

công nghệ thông tin - truyền thông, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công

tác quản lý nhà nước, cung cấp các dịch vụ công, phát huy các nguồn lực của

đô thị có sự tham gia của người dân; nâng cao chất lượng cuộc sống và làm

việc của cộng đồng; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phát triển kinh tế; đồng thời

bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường liên thông, chia sẻ dữ liệu, an toàn,

an ninh thông tin giữa các hệ thống và dịch vụ.

Như vậy, có thể hiểu, chính sách xây dựng đô thị thông minh là toàn

bộ các mặt công tác, hoạt động, từ việc xác định mục tiêu đến xây dựng và

thực hiện chính sách đô thị thông minh, được tiến hành bởi các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền, nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

vào trong mọi mặt hoạt động của nhà nước, đời sống xã hội, để xây dựng đô

thị ngày càng thông minh hơn, an toàn hơn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất

lượng đời sống của người dân, tăng tính cạnh tranh đô thị và phát triển xã hội

một cách bền vững.

1.2.2. Đặc điểm của chính sách xây dựng đô thị thông minh

Từ khái niệm, ta có thể thấy chính sách xây dựng đô thị thông minh có

một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, chính sách xây dựng đô thị thông minh có nhiều nội dung

khác nhau, các nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình

thực hiện. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào

19

trong các lĩnh vực đời sống xã hội là nền tảng cơ bản để hiện thực hóa các nội

dung về xây dựng đô thị thông minh.

Thứ hai, chính sách xây dựng đô thị thông minh được tiến hành bởi các

cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ

ngành Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp thành phố, cấp

quận. Đồng thời, để xây dựng đô thị thông minh đạt hiệu quả, cần có sự tham

gia của người dân và toàn xã hội.

Thứ ba, chính sách xây dựng đô thị thông minh đề cao tính đổi mới,

sáng tạo, linh hoạt, vừa đáp ứng các nguyên tắc, định hướng chung của Trung

ương, nhưng vừa mang tính cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở mỗi địa

phương.

Thứ tư, đối tượng tác động của chính sách là chính quyền, người dân,

doanh nghiệp nơi xây dựng đô thị thông minh.

1.2.3. Vai trò chính sách xây dựng đô thị thông minh

Trong quản lý xã hội, nhà nước thường sử dụng chính sách công làm

công cụ chủ yếu để giải quyết vấn đề chung của cộng đồng, nhằm thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng. Theo đó, chính sách xây dựng đô

thị thông minh có một số vai trò chủ yếu sau:

Thứ nhất, định hướng cho các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng đô

thị thông minh. Nội dung định hướng là đưa ra các nhận thức chung về khái

niệm, mục tiêu tổng quát, các nguyên tắc chung, kiến trúc công nghệ thông

tin - truyền thông và nội dung xây dựng đô thị thông minh. Nếu các chủ thể

hoạt động theo chiều hướng tác động của chính sách thì không những đạt

được mục tiêu phát triển mà còn được hưởng ưu đãi của Nhà nước. Như vậy,

cùng với mục tiêu thì các biện pháp chính sách cũng có vai trò định hướng

cho hành động của các chủ thể xây dựng đô thị thông minh.

Thứ hai, đề ra và hoàn thiện các giải pháp ứng dụng công nghệ thông

20

tin - truyền thông, công nghệ số vào trong hoạt động quản lý nhà nước, các

lĩnh vực đời sống xã hội nhằm khắc phục những hạn chế, thách thức do quá

trình đô thị hóa diễn ra, đồng thời tiếp tục phát huy các nguồn lực của địa

phương, nâng cao tính cạnh tranh đô thị, phục vụ tốt hơn đời sống của người

dân.

Thứ ba, khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động xây dựng đô thị thông

minh theo định hướng. Trong đó chủ thể ban hành chính sách phải ban hành

nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp khuyến khích các chủ thể trong

xã hội tham gia như miễn thuế, tiếp cận nguồn vốn vay lãi suất thấp, chấp

hành thủ tục hành chính đơn giản, thụ hưởng các nguồn trợ cấp…v.v. Sự tác

động này không mang tính bắt buộc, mà chỉ mang tình khuyến khích các chủ

thể thực hiện những hành động theo ý chí của nhà nước.

Thứ tư, thúc đẩy sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. Việc thực hiện

các giai đoạn chu trình chính sách không chỉ và không thể do một cơ quan

nhà nước đảm nhiệm, mà đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các

ngành các cấp khác nhau, của nhiều tổ chức, cá nhân. Chính vì vậy, thông

qua quá trình chính sách thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan

nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia của các tầng lớp

nhân dân vào việc xây dựng đô thị thông minh, tạo sự đồng bộ, hiệu quả từ

khi triển khai. Mục tiêu và biện pháp chính sách sẽ định hướng cho sự phối

hợp này.

Thứ năm, cảnh báo và đề ra các giải pháp khắc phục mặt trái của quá

trình xây dựng đô thị thông minh như: sự cố về gián đoạn hệ thống thông tin,

kết nối giữa trung tâm xử lý dữ liệu và các thiết bị đầu cuối; sự chia cách

trong giao tiếp trực tiếp giữa chính quyền với người dân và giữa người dân

với nhau; giảm sáng tạo cá nhân, xơ cứng trong các mối quan hệ xã hội;

quyền tự do cá nhân có thể bị xâm phạm do các hệ thống giám sát khắp nơi;

21

dôi dư lao động và nợ nần khi xây dựng thành phố thông minh.

1.3. Nội dung chính sách xây dựng đô thị thông minh

Việc xác định nội dung chính sách xây dựng đô thị thông minh có ý

nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa thể hiện tầm nhìn mang tính chất chiến

lược, áp dụng những thành tựu, kinh nghiệm đi trước của các nước trên thế

giời, đồng thời vừa xác định cách tiếp cận phù hợp với nguồn lực, thực tiễn

của mỗi thành phố, địa phương khi triển khai thực hiện. Nội hàm của việc

xây dựng đô thị thông minh gồm rất nhiều nội dung, ví dụ như: chính quyền

thông minh, người dân thông minh, phương pháp quản lý, điều hành thông

minh, giao tiếp thông minh, giao thông thông minh …v.v. Căn cứ cơ sở lý

luận cũng như tình hình thực tiễn, việc xây dựng đô thị thông minh được đa

số các địa phương của Việt Nam lựa chọn theo hướng từng bước đẩy mạnh

áp dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào trong những lĩnh vực còn

nhiều hạn chế, yếu kém, tụt hậu so với yêu cầu của xã hội, sau đó tiếp tục mở

rộng áp dụng sang các lĩnh vực khác để thúc đẩy tăng trưởng, năng cao hiệu

quả quản lý xã hội, và cuối cùng hướng tới xây dựng một đô thị thông minh

đúng nghĩa. Trên cơ sở đó, Luận văn xác định nội dung chính sách xây dựng

đô thị thông minh gồm những nội dung sau:

1.3.1. Chính sách xây dựng chính quyền điện tử

Chính sách xây dựng chính quyền điện tử là tổng thể các quan điểm,

mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sử dụng một cách có hệ thống công nghệ thông

tin - truyền thông vào trong việc quản lý, điều hành của nhà nước nhằm xây

dựng một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, minh bạch, phục vụ ngày càng

tốt hơn mối quan hệ giữa chính quyền với công dân, doanh nghiệp, các tổ

chức xã hội, và trong chính nội bộ giữa các cơ quan chính quyền với nhau.

Mục tiêu chung của chính sách là: tăng cường năng lực, nâng cao hiệu

quả điều hành nhà nước của chính quyền, mang lại thuận lợi và tiết kiệm chi

22

phí cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch, phát huy hiệu quả

các nguồn lực, giảm chi tiêu ngân sách. Mục tiêu cụ thể là: Nâng cao năng

lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, tạo động lực phát triển mới;

cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công ngày càng tốt

nhất, tạo điều kiện cho nguời dân dễ dàng truy nhập, giao dịch ở khắp mọi

nơi thông qua mạng Internet; đồng thời tạo điều kiện cho người dân có thể

tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình phát triển địa phương

một cách tích cực; giảm thiểu nhũng nhiễu, tiêu cực, tăng cường công khai,

minh bạch, nâng cao uy tín của các cơ quan nhà nước.

Nội dung xây dựng chính quyền điện tử gồm 04 giai đoạn:

- Thông tin: Trong giai đoạn đầu, chính quyền điện tử có nghĩa là hiện

diện trên trang web và cung cấp cho công chúng các thông tin (thích hợp). Giá

trị mang lại ở chỗ công chúng có thể tiếp cận được thông tin của chính quyền,

các quy trình trở nên minh bạch hơn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ.

- Tương tác: Trong giai đoạn thứ hai, sự tương tác giữa chính quyền và

công dân được thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Người dân có thể trao

đổi trực tiếp qua thư điện tử, sử dụng các công cụ tra cứu, tải xuống các biểu

mẫu và tài liệu. Các tương tác này giúp tiết kiệm thời gian.

- Giao dịch: Với giai đoạn thứ ba, tính phức tạp của công nghệ có tăng

lên, nhưng giá trị của khách hàng cũng tăng theo. Các giao dịch hoàn chỉnh

có thể thực hiện mà không cần đi đến cơ quan hành chính. Có thể lấy ví dụ về

các dịch vụ trực tuyến như: Đăng ký thuế thu nhập, đăng ký thuế tài sản, gia

hạn/cấp mới giấy phép, thị thực và hộ chiếu, biểu quyết qua mạng…v.v.

- Chuyển hóa: Giai đoạn thứ tư là khi mọi hệ thống thông tin được tích

hợp lại và công chúng, doanh nghiệp có thể hưởng các dịch vụ tại một bàn

giao dịch (điểm giao dịch ảo). Ở giai đoạn này, tiết kiệm chi phí, hiệu quả và

đáp ứng nhu cầu khách hàng đã đạt được các mức cao nhất có thể được.

23

1.3.2. Chính sách xây dựng giao thông thông minh

Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sử dụng một

cách có hệ thống công nghệ thông tin - truyền thông vào trong việc quản lý

giao thông, vận tải công cộng, tham gia giao thông, thông tin giao thông,

nhằm tạo ra một hệ thống giao thông thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết

kiệm.

Mục tiêu chung của chính sách là: Nâng cao năng lực, tính hiệu quả

của công tác quản lý giao thông, tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm thời

gian, chi phí đối với người tham gia giao thông. Mục tiêu cụ thể: làm giảm

thiểu việc ùn tắc giao thông, điều tiết giao thông một cách thông minh và

hiệu quả, xác định thời gian thực cho người đi xe vận tải công cộng, vị trí đỗ

xe, thông tin giao thông trên đường; khuyến khích áp dụng các phần mềm

công nghệ thông tin trên xe cá nhân để tăng tính hiệu quả của mô hình giao

thông thông minh.

Nội dung chính sách: Xây dựng hệ thống thông tin giao thông thông

qua tổng đài dịch vụ hành chính công hay qua các bảng thông báo điện tử tại

nơi công cộng như ở các giao lộ, nhà chờ xe buýt, ga tàu lửa, sân bay…v.v,

nhằm phục vụ người tham gia giao thông và quản lý nhà nước; ứng dụng

phần mềm và xây dựng trung tâm chỉ huy, điều tiết giao thông thông minh;

lắp đặt hệ thống camera rộng khắp để giám sát, xử lý vi phạm giao thông

bằng hình ảnh; xây dựng các hệ thống thu phí điều tiết, hạn chế tham gia giao

thông vào một số khu vực theo hình thức tự động, không dừng; khuyến khích

doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân áp dụng công nghệ thông tin trên các phương

tiện di chuyển cá nhân.

1.3.3. Chính sách đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin - truyền

thông trong lĩnh vực y tế

Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng

24

công nghệ thông tin - truyền thông một cách có hệ thống vào trong việc quản

lý nhà nước về y tế, chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân, tạo

ra một nền y tế hiện đại, liên thông, hướng đến sự hài lòng của người dân và

nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của các cơ sở y tế.

Mục đích xây dựng nền y tế thông minh là để người dân dễ dàng tiếp

cận và trao đổi với các cơ sở khám chữa bệnh từ xa, rút ngắn thời gian làm

thủ tục hành chính cho cả nhân viên y tế và người bệnh; xây dựng hồ sơ y tế

cá nhân nhằm nắm bắt tiền sử bệnh tật, quá trình khám chữa bệnh của bệnh

nhân để theo dõi toàn diện và liên tục; dễ dàng trao đổi thông tin lâm sàng,

cận lâm sàng trong cùng một bệnh viện và giữa các bệnh viện với nhau; giúp

các nhà quản lý bệnh viện giám sát được thời gian, việc tuân thủ các quy

trình kỹ thuật, phác đồ, quy chế kê đơn; triển khai “quản lý tinh gọn” nhằm

chống lãng phí trong sử dụng thuốc, vật tư y tế; số hóa kho hồ sơ bệnh án;

xây dựng hệ thống khó mắc lỗi, xây dựng hệ thống cảnh báo nhằm hạn chế

thấp nhất tai biến y khoa; kịp thời đưa ra các dự báo về dịch bệnh trên cơ sở

dữ liệu được cập nhật, phân tích.

Nội dung chính sách: khuyến khích, tạo điều kiện áp dụng công nghệ

thông tin để nâng cao khả năng quản lý, điều hành của cơ sở y tế; xây dựng

các phần mềm chăm sóc, theo dõi, khám chữa bệnh một cách hiệu quả;

khuyến khích, hỗ trợ việc áp dụng các công nghệ thông minh, hiện đại trong

khám, chữa bệnh; tiến hành liên thông cơ sở dữ liệu giữa các trung tâm y tế,

cơ sở khám chữa bệnh, xây dựng hồ sơ y tế điện tử cho người dân.

1.3.4. Chính sách đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin - truyền

thông trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo

Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin - truyền thông một cách có hệ thống vào trong công tác

giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng quản lý, cung cấp dịch vụ công,

25

đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác dạy và học trong tình hình mới.

Mục tiêu của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào

tạo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, điều hành trong

giáo dục, hỗ trợ giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng sáng

tạo, linh hoạt, giúp học sinh dễ dàng tiếp thu bài giảng, tư duy sáng tạo, có

điều kiện tiếp cận với công nghệ thông tin từ khi còn ngồi trên ghế nhà

trường, tăng cường mối liên hệ giữa nhà trường, giáo viên và phụ huynh.

Nội dung chính sách: Xây dựng hệ thống thông tin, phần mềm quản lý,

điều hành chung cho tất cả cơ sở giáo dục – đào tạo, cơ quan quản lý giáo

dục, xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho tất cả bậc học, cung cấp dịch vụ công

trực tuyến; đổi mới phương pháp dạy, học và kiểm tra, đánh giá, trong đó sử

dụng có hiệu quả giáo án điện tử, thư viện điện tử, kho học liệu số, lớp học

điện tử; bồi dưỡng cán bộ, giáo viên thành thạo trong việc sử dụng công nghệ

thông tin, xã hội hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học.

1.3.5. Chính sách đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin - truyền

thông trong kiểm soát ô nhiễm môi trường, cảnh báo thiên tai

Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin - truyền thông một cách có hệ thống vào trong công tác

kiểm soát ô nhiễm môi trường, cảnh báo thiên tai nhằm xây dựng môi trường

sống trong sạch, an toàn, lành mạnh, kịp thời giải quyết các sự cố về môi

trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Mục tiêu của chính sách: nâng cao hiệu quả công tác quản lý môi

trường, cảnh báo thiên tai, nhằm kịp thời đưa ra những thông báo, cảnh báo

chính xác đối với cơ quan quản lý và người dân, đồng thời giúp khắc phục

nhanh hơn, hiệu quả hơn các sự cố về môi trường, ảnh hưởng của thiên tai.

Nội dung chính sách: xây dựng các giải pháp, mục tiêu lắp đặt các hệ

thống cảm biến để quan trắc môi trường, cảnh báo thiên tai, thông tin

26

thường xuyên đến người dân; xây dựng hệ thống theo dõi và cảnh báo cháy

rừng, lũ lụt; kết hợp xây dựng các giải pháp thu gom, xử lý rác thải một

cách hiệu quả nhất.

1.4. Các bước hoạch định chính sách xây dựng đô thị thông minh

1.4.1. Xác định mục tiêu chính sách xây dựng đô thị thông minh

Xác định mục tiêu chính sách là một khâu quan trọng trong quá trình

hoạch định chính sách. Thông thường mục tiêu chính sách được xây dựng

dựa trên tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội, tính

phức tạp của vấn đề chính sách, thời cơ của việc ban hành chính sách và khả

năng giải quyết vấn đề bằng chính sách nhà nước…v.v. Theo đó, mục tiêu

chính sách xây dựng đô thị thông minh được xác định gồm những nội dung

cơ bản sau:

- Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân: Ứng dụng các công

nghệ thông tin để hỗ trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề được người

dân quan tâm trong quá trình đô thị hóa (Giao thông, y tế, giáo dục, an toàn

thực phẩm, bảo vệ môi trường...), nâng cao sự hài lòng của người dân vào sự

quản lý, điều hành của chính quyền các cấp.

- Quản lý đô thị tinh gọn: Các hệ thống thông tin quản lý những lĩnh

vực hạ tầng kỹ thuật - dịch vụ chủ yếu của đô thị được số hóa, liên thông,

chia sẻ dữ liệu giữa các ngành; tăng cường sự tham gia của người dân nhằm

nâng cao năng lực dự báo, hiệu quả và hiệu lực quản lý của chính quyền địa

phương.

- Bảo vệ môi trường hiệu quả: Xây dựng các hệ thống giám sát, cảnh

báo trực tuyến về môi trường (nước, không khí, tiếng ồn, đất, chất thải...); các

hệ thống thu thập, phân tích dữ liệu môi trường phục vụ nâng cao năng lực

dự báo, phòng chống, ứng phó khẩn cấp và chủ động ứng phó biến đổi khí

hậu, thiên tai.

27

- Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế: Xây dựng hạ tầng thông tin số

an toàn, khuyến khích cung cấp dữ liệu mở để thúc đẩy các hoạt động khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo, đổi mới mô hình tăng trưởng, giúp doanh nghiệp

giảm chi phí, mở rộng cơ hội hợp tác kinh doanh trong nền kinh tế số.

- Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công: Đảm bảo mọi người dân

được hưởng thụ các dịch vụ công một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm

chi phí, công khai, minh bạch, hạn chế tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân

dân đối với chính quyền trên cơ sở hạ tầng dịch vụ thông tin số rộng khắp,

liên thông.

1.4.2. Xác định các nguyên tắc xây dựng đô thị thông minh

Khái niệm đô thị thông minh là khái niệm mở, có nhiều quan điểm,

cách tiếp cận khác nhau và biện pháp triển khai khác nhau. Vì vậy khi ban

hành chính sách xây dựng đô thị thông minh phải bảo đảm các nguyên tắc

theo quan điểm của chủ thể nhằm đảm bảo mục tiêu, các bước triển khai

được thực hiện chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn ở mỗi địa phương.

Nhìn chung, việc xây dựng đô thị thông minh phải tuân thủ một số nguyên

tắc sau:

- Xây dựng đô thị thông minh phải lấy người dân làm trung tâm, phải

dựa trên nhu cầu thực tế và giúp cho mọi người dân đều được hưởng thành

quả, đây là nguyên tắc cốt lõi. Để làm được điều này, cần khảo sát nhu cầu,

lấy ý kiến rộng rãi trong quá trình xây dựng và triển khai các kế hoạch, đề án,

đảm bảo hầu hết người dân nhận thức được đầy đủ lợi ích cụ thể của đô thị

thông minh.

- Đảm bảo năng lực cơ sở hạ tầng thông tin, khuyến khích dữ liệu mở

(open data), những dữ liệu có thể hiểu được (được mô tả tường minh) để tạo

ra một hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ thông tin. Những dữ liệu này do

chính quyền địa phương sở hữu và có thể chia sẻ cho các bên liên quan và

28

người dân.

- Đảm bảo tính trung lập về công nghệ; chú trọng áp dụng các công

nghệ ICT phù hợp với đô thị thông minh như Internet Vạn vật (IoT), điện

toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo... và có khả năng tương

thích với nhiều nền tảng; tận dụng, tối ưu cơ sở hạ tầng ICT sẵn có.

- Đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, năng lực ứng cứu, xử lý sự cố

mất an toàn thông tin, đặc biệt là hạ tầng thông tin trọng yếu; bảo vệ thông tin

riêng tư của người dân; tăng cường khả năng tự vệ trên môi trường internet,

phòng chống các loại tin tặc.

1.4.3. Lựa chọn phương án chính sách xây dựng đô thị thông minh

Lựa chọn các phương án chính sách là một tất yếu khách quan để chủ

thể ban hành chính sách lựa các phương án tốt nhất nhằm đáp ứng các mục

tiêu đề ra, đồng thời tổ chức thực thi chính sách với hiệu quả cao nhất. Hiện

nay theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, chính sách xây dựng đô thị

thông minh chủ yếu được tiếp cận theo 03 phương án sau:

Thứ nhất, lựa chọn triển khai một, một vài ứng dụng riêng rẽ trong một

vài lĩnh vực cụ thể để đảm bảo nó hoạt động tốt, hoạt động ổn định. Sau đó

mới tiếp tục tính tới việc mở rộng, tích hợp chúng với nhau như thế nào.

Cách triển khai này được coi là lựa chọn phù hợp nhất để triển khai tại những

nơi mà các vấn đề phát sinh do gia tăng dân số, đô thị hóa đang trở nên

nghiêm trọng và chính quyền các thành phố đã xác định rõ những vấn đề cần

giải quyết trong ngắn hạn. Ưu điểm của nó là hiệu quả có thể nhìn thấy ngay,

tạo động lực lớn để mở rộng triển khai sang các lĩnh vực khác trong khi ngân

sách không cần quá lớn. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là sẽ khó khăn hơn

trong việc mở rộng và tích hợp các ứng dụng, dịch vụ ở giai đoạn sau. Ví dụ

đơn giản như việc làm sao để format dữ liệu của các ứng dụng có thể tương

thích, phục vụ việc kết nối, sử dụng chung dữ liệu cho hoạt động phân tích, ra

29

quyết định sau này.

Thứ hai, lựa chọn xây dựng để hình thành một cơ sở hạ tầng mạng lưới

vững chắc hoặc một nền tảng chung có thể triển khai tất cả các ứng dụng trên

đó trước. Sau đó mới lựa chọn, phân loại để xem các ứng dụng có thể bổ

sung vào hoặc tích hợp các dịch vụ hiện có vào nền tảng này. Triển khai xây

dựng một nền tảng hạ tầng chung làm cơ sở để sau đó triển khai các giải pháp

cho từng lĩnh vực riêng rẽ. Hướng đi này cần đầu tư khá lớn và tính toán rất

kỹ ngay từ ban đầu, khá mất thời gian cũng như cần một nguồn ngân sách

tương đối dồi dào. Tuy nhiên, ưu điểm của nó là khi các ứng dụng được triển

khai cho các lĩnh vực riêng rẽ khác nhau song chúng nhanh chóng liên thông

được với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất.

Thứ ba, xây dựng một phiên bản Beta. Với cách thức này, thành phố sẽ

đồng thời triển khai thử nghiệm nhiều ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác

nhau mà chưa có kế hoạch cụ thể về việc khi nào thì để chúng chính thức

được triển khai trong thực tế. Phương thức tiếp cận này có ưu điểm là cả

những chính quyền thành phố chưa có nguồn ngân sách dồi dào để triển khai

smart city cũng có thể thực hiện bởi vì những dự án thử nghiệm rất dễ tìm

kiếm được nguồn đầu tư, tài trợ. Tại nhiều quốc gia, các nhà cung cấp giải

pháp sẵn sàng triển khai thử nghiệm trên phạm vi hẹp (Phiên bản Demo) để

cho khách hàng thấy được hiệu quả của giải pháp để khách hàng đánh giá và

quyết định xem có ký hợp đồng triển khai trên diện rộng hay không. Phương

thức này được đánh giá là một cách hiệu quả thu hút sự tham gia của cả các

startup và các công ty sáng tạo quy mô nhỏ. Các thành phố này chấp nhận

rằng với những công nghệ và mô hình kinh doanh hiện thời thì chỉ có thể

triển khai và đem lại lợi ích nhìn thấy được trong ngắn hạn hoặc trung hạn.

Một trong những thách thức lớn nhất của phương thức này được cho là nó

khiến cho các thành phố khó vượt ra khỏi các chương trình thử nghiệm để

30

tiến tới triển khai thực tế.

Đối với Việt Nam, là một nước có nền kinh tế phát triển còn thấp, cơ

sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, khoa học - công nghệ chưa phát triển mạnh

mẽ, trình độ dân trí không đồng đều, nguồn tài chính hạn hẹp thì việc lựa

chọn phương án 1 để xây dựng chính sách đô thị thông minh là việc lựa chọn

thích hợp nhất, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải biết lựa chọn, sử dụng

những nội dung trong phương án 2 và 3 một cách phù hợp để khắc phục

những hạn chế của phương án 1, từ đó nâng cao tính hiệu quả của việc xây

dựng đô thị thông minh.

Sau khi lựa chọn phương án phù hợp, các địa phương cần chủ động

xây dựng và triển khai Đề án tổng thể xây dựng đô thị thông minh. Trong quá

trình xây dựng Đề án tổng thể về đô thị thông minh, các địa phương gửi các

Bộ ngành cho ý kiến về những nội dung có liên quan như giao thông thông

minh, quy hoạch đô thị thông minh… Trong đó, ưu tiên các dự án nền tảng

dài hạn có tính tổng thể và phục vụ liên ngành. Một số dự án thí điểm sẽ

được lựa chọn làm điển hình để nhân rộng, tránh việc triển khai đồng loạt

nhiều dự án. Có chủ trương ưu tiên các dự án thuê dịch vụ ICT và sử dụng

các sản phẩm, giải pháp của những đơn vị cung ứng trong nước. Xây dựng

đô thị thông minh đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn nên cần tăng cường huy

động các nguồn lực của xã hội.

1.4.4. Giải pháp chính sách xây dựng đô thị thông minh

1.4.4.1. Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức

Chú trọng nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

toàn xã hội về sự cần thiết và lợi ích của việc xây dựng đô thị thông minh

trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao hiểu biết, nhận thức, trách nhiệm và

năng lực xây dựng đô thị thông minh cho các cơ quan nhà nước, cán bộ,

công chức. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền về

31

đô thị thông minh để tạo sự đồng thuận, hưởng ứng mạnh mẽ trong toàn xã

hội. Đặc biệt trong vấn đề nhận thức là làm thế nào để các cơ quan, tổ chức,

cá nhân sẵn sàng chia sẽ dữ liệu của mình để tạo nên một hệ thống kỹ thuật

- dịch vụ thông tin hoàn chỉnh, phong phú, góp phần làm tăng bản chất đô

thị thông minh.

1.4.4.2. Giải pháp về tổ chức, quản lý

Xây dựng các tổ chức tiêu chuẩn hóa trong xây dựng đô thị thông

minh theo Tổ chức tiêu chuẩn hóa của Anh quốc (BSI) gồm: lớp chiến lược,

dùng cho cấp lãnh đạo; lớp quy trình, dùng cho nhà quản lý; lớp kỹ thuật,

dùng cho tổ chức, cá nhân trực tiếp triển khai thực hiện. Tiếp tục đổi mới cơ

bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ

thông tin phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo

hành lang pháp lý chặt chẽ, minh bạch, khuyến khích phát triển thị trường

khoa học công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong

các lĩnh vực đời sống xã hội.

1.4.4.3. Giải pháp về tài chính

Huy động mọi nguồn lực, ưu tiên đầu tư kinh phí cho việc xây dựng đô

thị thông minh từ nguồn vốn đầu tư khoa học công nghệ và các nguồn vốn

khác. Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư đối với các tổ chức, cá nhân,

doanh nghiệp công nghệ thông tin ở trong và ngoài nước. Xây dựng các cơ

chế hợp tác công - tư hiệu quả, công khai, minh bạch. Có chế độ khuyến

khích các địa phương triển khai xây dựng đô thị thông minh; thành lập quỹ

phát triển công nghệ thông tin – truyền thông.

1.4.4.4. Giải pháp về nguồn nhân lực

Chú trọng xây dựng và quản lý quy hoạch nguồn nhân lực công nghệ

thông tin, đảm bảo đáp ứng yêu cầu khi triển khai thực hiện. Đẩy mạnh và

nâng cao chất lượng công tác giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực công nghệ

32

thông tin, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, các cấp độ đào

tạo. Có cơ chế thu hút, đãi ngộ các chuyên gia, nguồn nhân lực chất lượng

cao ở trong và ngoài nước; tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực

công nghệ thông tin. Đẩy mạnh hợp tác với các công ty công nghệ thông tin

trong và ngoài nước để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,

cập nhật các ứng dụng công nghệ mới của thế giới.

1.4.4.5. Giải pháp về hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin

Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Xây dựng kho dữ liệu lớn, dùng chung (Big

data) và hệ sinh thái mở; mở rộng và đa dạng hóa hệ thống truyền dẫn, trao

đổi thông tin trên cơ sở mạng viễn thông cố định và di động (Network layer);

đẩy mạnh ứng dụng các thiết bị công nghệ cảm biến (Sensor layer) và các

thiết bị đầu cuối như camera, điện thoại thông minh, vi tính cá nhân…v.v;

xây dựng lớp nền tảng nhằm lưu trữ, phân tích, xử lý và điều khiển thông tin

(Platform layer); đẩy mạnh phát triển phần mềm ứng dụng kết hợp với

Internet trong các lĩnh vực (Application layer).

Về ứng dụng công nghệ thông tin: xây dựng hạ tầng kỹ thuật – dịch vụ

thông tin cho toàn thể cư dân thành phố hay hẹp hơn là một nhóm đông dân

cư nào đó, hay rộng hơn cho ngư dân cả một vùng hay toàn quốc trên cơ sở

kết nối các thông tin, dữ liệu ở các ngành, lĩnh vực, cơ quan, doanh nghiệp, tổ

chức, cá nhân; ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng một số hệ thống

thông minh độc lập nhằm giải quyết các yêu cầu cụ thể cho một nhóm thành

phần xã hội nào đó hoặc một số lĩnh vực cần thiết nào đó; đẩy mạnh khuyến

khích ứng dụng công nghệ thông tin ở cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong

toàn xã hội.

1.5. Các yếu tố tác động đến chính sách xây dựng đô thị thông

minh

Trong thời đại công nghệ thông tin - truyền thông phát triển mạnh mẽ,

33

việc xây dựng đô thị thông minh được sự quan tâm nghiên cứu và đầu tư của

các nước trên thế giới. Trong thực tiễn, các đô thị thông minh hình thành

ngày càng nhiều, đáp ứng phần nào các mục đích, tiêu chuẩn, nội dung của

một đô thị thông minh, tùy theo cách tiếp cận và mức độ đầu tư. Tuy nhiên,

việc xây dựng đô thị thông minh đúng nghĩa là một công việc hết sức khó

khăn, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nội dung công việc triển khai thực

hiện…v.v. Trong quá trình đó, rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chính sách xây

dựng đô thị thông minh, dưới đây là một số yếu tố quan trọng, trực tiếp nhất:

1.5.1. Nhận thức và quyết tâm của toàn xã hội

Đối với Việt Nam, xây dựng đô thị thông minh là một khái niệm tuy

không mới, nhưng cũng chưa thật sự đặt ra vấn đề cấp bách, hệ thống, xuyên

suốt đối với các nhà nghiên cứu, các cơ quan hoạch địch chính sách. Điều

này xuất phát từ lý do sau: Việt Nam chúng ta đang ở nhóm các nước thu

nhập trung bình, đời sống kinh tế - xã hội vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, vì

vậy nhu cầu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của người dân vẫn

đang là vấn đề trọng tâm ở các ngành các cấp, và của toàn xã hội; việc ứng

dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin - truyền thông trong

các lĩnh vực xã hội tuy được đẩy mạnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, không

đồng đều, nhất là ở các đơn vị, cơ quan quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ

công; đời sống đa số nhân dân nói chung còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí

không đồng đều.

Từ những lý do trên, chúng ta có thể thấy, việc thực hiện chính sách

xây dựng đô thị thông minh trong thực tiễn là một quá trình khó khăn, phức

tạp, đòi hỏi phải có nhận thức chung một cách sâu sắc và toàn diện, có sự

thống nhất, quyết tâm, nỗ lực của toàn xã hội. Trong đó, phải tạo được sự

chuyển biến ở các chủ thể chính tham gia xây dựng đô thị thông minh như: ý

chí đổi mới, sáng tạo, vì nhân dân phục vụ của chính quyền; quyết tâm đổi

34

mới mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tham gia chuỗi

giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp; và mong muốn được tham gia xây

dựng một môi trường sống an toàn, thuận lợi, tiết kiệm của người dân…v.v.

Vì vậy việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đô thị thông minh

là một hoạt động cần thiết, quan trọng, nhằm tạo ra sự thống nhất chung về

quan điểm, mục tiêu, nội dung và các bước triển khai thực hiện, tạo động lực

mạnh mẽ và quyết tâm trong việc xây dựng đô thị thông minh tại các địa

phương ở nước ta.

1.5.2. Thiết lập tầm nhìn

Từ thực tiễn ở các nước trên thế giới, chúng ta có thể nhận thấy không

thể có một một mô hình chung về cách thức tiếp cận và triển khai xây dựng

một đô thị thông minh. Do mức độ thông minh của một đô thị phụ thuộc rất

lớn vào trình độ kinh tế, dân trí, khoa học - công nghệ, khả năng tổ chức,

quản lý xã hội. Vì vậy, việc thiết lập tầm nhìn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,

tùy theo điều kiện cụ thể ở mỗi nước, mỗi thành phố mà thiết lập tầm nhìn

phù hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể, đối với các nước có trình độ kinh

tế, xã hội, khoa học công nghệ phát triển cao, sẽ lựa chọn cách tiếp cận xây

dựng một cơ sở hạ tầng mạng lưới vững chắc hoặc một nền tảng chung có thể

triển khai tất cả các ứng dụng trên đó trước. Sau đó mới lựa chọn, phân loại

để xem các ứng dụng có thể bổ sung vào hoặc tích hợp các dịch vụ hiện có

vào nền tảng này và làm cơ sở để sau đó triển khai các giải pháp cho từng

lĩnh vực riêng rẽ. Ngược lại, đối với các nước kinh tế còn khó khăn, thị

trường khoa học công nghệ chậm phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn

chế, có thể lựa chọn cách tiếp cận là thí điểm ứng dụng công nghệ thông tin -

truyền thông vào trong một số lĩnh vực riêng rẽ và xây dựng lộ trình thích

hợp để từng bước mở rộng và liên thông. Vì vậy, nếu việc thiết lập tầm nhìn

không biện chứng, khách quan, thiếu cơ sở lý luận, không phù hợp với tình

35

hình thực tiễn, hay vì lợi ích của một nhóm nào đó thì sẽ dẫn đến nguy cơ

mắc kẹt, hỗn loạn trong mạng lưới khoa học công nghệ thông tin và gây lãng

phí lớn nguồn lực của nhà nước và nhân dân.

1.5.3. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tài chính

Xây dựng đô thị thông minh đòi hỏi cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị tương

đối hiện đại và đồng bộ, trong đó hệ thống cơ sở công nghệ thông tin - truyền

thông phải đảm bảo để triển khai các ứng dụng phục vụ xây dựng đô thị

thông minh. Hiện nay, hạ tầng đô thị của ở nước ta phát triển thiếu sự đồng

bộ giữa quy hoạch xây dựng đô thị và các công trình viễn thông thụ động.

Ngoài ra, hạn chế trong vấn đề ngầm hóa các mạng cấp thông tin, sử dụng

chung cơ sở hạ tầng viễn thông…, dẫn tới tình trạng mạnh ai nấy làm, chỉ chú

trọng đến việc xây dựng riêng rẽ, đơn thuần mà không quan tâm đến vấn đề

kết nối lại với nhau. Chưa xây dựng được bộ phận quản trị chuyên trách về

công nghệ thông tin - truyền thông để vận hành hệ thống quản lý thông tin,

truyền dẫn trong hệ thống. Đặc biệt là việc ứng dụng hệ thống thông tin địa lý

(GIS) trong quy hoạch đô thị và quản lý đô thị, quản lý các hệ thống hạ tầng

đô thị còn đang rất chậm chạp.

Bên cạnh đó, muốn xây dựng đô thị thông minh cần phải có một nguồn

kinh phí tương đối lớn để tiếp cận có hiệu quả các sản phẩm công nghệ thông

tin - truyền thông hiện đại, triển khai đồng bộ và rộng rãi trên các lĩnh vực

đời sống xã hội, thuê các nhà tư vấn, đầu tư có năng lực trong và ngoài nước

triển khai thực hiện. Ngoài việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo nguồn lực tài

chính dồi dào, chính quyền các cấp cần phải triển khai đồng bộ nhiều giải

pháp để thu hút vốn đầu tư, khuyến khích các đơn vị tư nhân tài trợ hoặc

tham gia bằng hình thức hợp tác công tư (PPP), có chính sách ưu đãi vốn vay

đối với các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực công nghệ thông tin; có cơ

chế thuận lợi để các doanh nghiệp thực hiện việc thí điểm dùng thử công

36

nghệ thông tin trên một số lĩnh vực.

1.5.4. Môi trường thể chế, chính sách

Xây dựng và phát triển đô thị thông minh là vấn đề có tính chất chiến

lược, liên ngành, liên vùng ở mức độ cao, liên quan đến nhiều cơ quan quản

lý nhà nước. Thực tiễn, việc xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam là quá

trình học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nên còn nhiều quan

điểm, cách tiếp cận, nguyên tắc, lộ trình khác nhau về xây dựng đô thị thông

minh. Điều này đòi hỏi các cơ quan hoạch định chính sách ở tầm quốc gia

phải xây dựng nhận thức chung về mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, tiêu chí,

nội dung và các bước triển khai thực hiện để áp dụng trong cả nước. Bên

cạnh đó, mỗi cơ quan Trung ương tùy theo chức năng, nhiệm vụ phải đồng

bộ đề ra các chính sách hướng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích các địa phương, các

tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia xây dựng đô thị thông minh; các địa

phương tùy theo tình hình cụ thể ở địa phương mình mà có cách tiếp cận và

triển khai một cách phù hợp, hiệu quả nhất.

Ngoài ra, mô hình đô thị thông minh có những đặc điểm khác biệt với

mô hình đô thị truyền thống. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước

các cấp phải xây dựng khung pháp lý, tạo môi trường thông thoáng, cũng như

các quy định liên quan đến môi trường làm việc, giao dịch, trao đổi qua

Internet, trong đó việc bảo vệ an toàn, an ninh thông tin của tổ chức, cá nhân

là một nội dung hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho tính hiệu lực, hiệu quả

trong việc triển khai xây dựng đô thị thông minh trong tương lai.

1.5.5. Tình hình an ninh mạng

Một trong những trở ngại, thách thức lớn nhất của việc xây dựng đô thị

thông minh chính là sự đảm bảo an toàn thông tin, an ninh trên môi trường

mạng Internet. Nhiều công nghệ đô thị thông minh thu thập thông tin định

danh cá nhân và mức sống của người dân, liên kết những dữ liệu này sẽ tạo ra

37

dữ liệu thứ cấp mới và có thể sử dụng chúng để tạo ra hồ sơ công dân, vị trí

của họ và ra các quyết định liên quan đến họ. Ngoài ra, hoạt động của các

loại tin tặc còn gây quan ngại đến độ an toàn, bảo mật của hệ thống thông tin,

truyền thông, các loại giao dịch qua môi trường mạng, có thể làm gián đoạn

quá trình hoạt động và giảm hiệu quả việc xây dựng đô thị thông minh.

Kết luận Chương 1

Xây dựng đô thị thông minh là một xu thế tất yếu, khách quan đối với

các đô thị hiện nay trên thế giới. Đây là vấn đề tuy không còn mới nhưng việc

nhận thức và triển khai thực hiện là một quá trình hết sức khó khăn, phức tạp,

nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Tuy nhiên,

việc xây dựng đô thị thông minh đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực, phù hợp

với thời đại toàn cầu hóa, có thể giúp các nước đang phát triển rút ngắn nhanh

khoảng khách đối với các nước phát triển, tránh tụt hậu xa hơn. Vì vậy việc

nghiên cứu cơ sở lý luận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp cho chúng ta có

thể đưa ra nhận thức chung về xây dựng đô thị thông minh, thiết lập tầm nhìn

từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới, từ đó làm cơ sở triển khai một

38

cách có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi địa phương.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG

ĐÔ THỊ THÔNG MINH TẠI QUẬN THANH KHÊ,

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội quận Thanh

Khê, thành phố Đà Nẵng

- Về điều kiện tự nhiên, xã hội:

Quận Thanh Khê nằm trung tâm về phía Tây Bắc thành phố Đà Nẵng.

Diện tích tự nhiên 9,47 km2 (chiếm 4,5% diện tích toàn thành phố Đà Nẵng).

Hướng Đông giáp quận Hải Châu; hướng Tây giáp quận Cẩm Lệ và quận

Liên Chiểu; hướng Nam giáp quận Cẩm Lệ; hướng Bắc giáp vịnh Đà Nẵng

với đường bờ biển dài 4,287km. Quận Thanh Khê có 10 phường, bao gồm:

An Khê, Hoà Khê, Thanh Khê Đông, Thanh Khê Tây, Xuân Hà, Tam Thuận,

Tân Chính, Chính Gián, Thạc Gián, Vĩnh Trung.

Nằm trên trục giao thông xuyên quốc gia về đường bộ, đường sắt và

đường không, quận Thanh Khê giữ vị trí chiến lược về quốc phòng an ninh

và có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương. Quận Thanh Khê có chiều dài đường bờ biển 4,287km, với đặc điểm

là bờ biển ngang nên không thuận lợi cho việc khai thác các dịch vụ thủy sản,

du lịch và nuôi trồng thủy sản. Về dân số, theo số liệu thống kê năm 2017,

tổng số dân là 191.541 người. Với mật độ dân số trung bình 20.226

người/km2, Thanh Khê là quận có mật độ dân số cao nhất của thành phố Đà

Nẵng, tuy nhiên phân bố không đồng đều ở các phường.

- Về kinh tế - xã hội:

Kinh tế quận Thanh Khê được xác định phát triển theo cơ cấu Dịch vụ

39

- Công nghiệp – Nông nghiệp. Trong đó, tỷ trọng giá trị dịch vụ giai đoạn

2010 - 2015 chiếm 60,59%, công nghiệp chiếm 33,85%, nông nghiệp chiếm

5,61%. Là đô thị có tốc độ đô thị hóa cao, mật độ dân cư đông đúc, quận

Thanh Khê luôn xác định mục tiêu xây dựng, phát triển đô thị theo hướng

văn minh, hiện đại, lấy phát triển ngành thương mại dịch vụ - thương mại làm

trọng tâm. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm tăng cao, bình quân

13%. Tổng thu ngân sách năm 2017 đạt 498,7 tỷ đồng.

Hệ thống y tế luôn được kiện toàn và nâng cao chất lượng. Với 01

Trung tâm y tế, 10 trạm y tế phường, công tác y tế của quận đã đáp ứng yêu

cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh của nhân dân trên địa bàn.

Trung tâm y tế quận được công nhận là bệnh viện hạng 2, với đầy đủ các

khoa phòng hoàn chỉnh, hệ thống trang thiết bị đầy đủ, từng bước trang bị

hiện đại, đội ngũ cán bộ y tế có tay nghề, năng động, sáng tạo. Mười trạm y

tế phường hoạt động có hiệu quả, đạt tiêu chí Quốc gia về y tế xã, phường

giai đoạn 2010-2020.

Giáo dục – đào tạo được quan tâm đầu tư phát triển và đạt được nhiều

kết quả ấn tượng. Hiện nay trên địa bàn quận có 32 trường mầm non công lập

và tư thục, 16 trường tiểu học công lập, 10 trường trung học cơ sở công lập.

Trong đó có 03 trường mầm non, 09 trường tiểu học và 04 trường trung học

cơ sở đạt chuẩn Quốc gia. Có 100% cán bộ, giáo viên đạt chuẩn đào tạo về sư

phạm, trong đó có hơn 90% giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn và 40

cán bộ, giáo viên có trình độ thạc sĩ. Ngoài ra, quận còn có 10 trung tâm học

tập cộng đồng. Trong những năm qua, ngành giáo dục – đào tạo quận luôn

hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra và đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ.

Văn hóa, văn minh đô thị từng bước được nâng cao, với nhiều việc

làm, hoạt động thiết thực như: thường xuyên củng cố các thiết chế văn hóa ở

khu dân cư; phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, di tích lịch sử của địa

40

phương; phát triển phong trào toàn dân đoàn kết xây đời sống văn hóa ở khu

dân cư; đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị với chương

trình “05 không”, “03 có”, chương trình “04 an”…v.v. An sinh xã hội được

quan tâm chăm lo chu đáo, đặc biệt là công tác giúp đỡ, hỗ trợ các hộ nghèo,

hộ chính sách khó khăn, tạo được sự đồng thuận lớn trong xã hội.

Hạ tầng kỹ thuật đô thị được đầu tư đồng bộ và hiện đại, đảm bảo điều

kiện sinh sống, sinh hoạt của người dân. Có 100% người dân được sử dụng

điện lưới, nước sạch. Hệ thống thu gom nước thải, rác thải tương đối đồng

bộ, hiệu quả, đảm bảo vệ sinh môi trường. Giao thông thuận lợi, 100% kiệt,

hẻm được bê tông hóa, hình thành nên các trục đường chính, khu dân cư

khang trang, hiện đại, đáp ứng mục tiêu phát triển ngành dịch vụ - thương

mại trở thành ngành mũi nhọn của quận trong những năm đến.

Tuy đạt được kết quả nêu trên nhưng việc phát triển kinh tế, văn hóa –

xã hội của quận trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế: Một số chỉ

tiêu vẫn chưa đạt kế hoạch; tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất

lượng tăng trưởng chưa cao; một số ngành, lĩnh vực phát triển còn chậm,chưa

hình thành những sản phẩm, ngành hàng, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô

lớn; kết cấu hạ tầng được đầu tư nhanh, nhưng có mặt còn thiếu đồng bộ;

chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chưa đồng đều; các lĩnh vực

văn hóa, văn nghệ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh;

tình hình trật tự xã hội, an toàn giao thông vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức

tạp; một số mặt về xây dựng chính quyền còn chuyển biến chậm.

2.2. Tình hình hoạch định và thực hiện chính sách xây dựng đô thị

thông minh trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Tình hình hoạch định chính sách

Việc hoạch định chính sách xây dựng đô thị thông minh tại quận được

thực hiện trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, các Đề án của Trung

41

ương, Thành phố và các ban ngành, cụ thể như:

- Hướng dẫn số 58/BTTTT-KHCN ngày 11/01/2018 của Bộ Tông tin

và Truyền thông về các nguyên tắc định hướng về công nghệ thông tin và

truyền thông trong xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam.

- Quyết định số 1797/QĐ-UBND ngày 25/3/2014,của UBND thành

phố Đà Nẵng về ban hành Đề án xây dựng thành phố Đà Nẵng thông minh

hơn.

- Quyết định số 9020/QĐ-UBND ngày 28/12/2016, của UBND thành

phố Đà Nẵng về việc ban hành Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong

hoạt động của các cơ quan nhà nước thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016-

2020.

Ngoài ra trong năm 2016, thành phố Đà Nẵng đã thành lập Ban chỉ đạo

xây dựng thành phố thông minh hơn do đồng chí Chủ tịch UBND thành phố

là Trưởng ban. Ban chỉ đạo được lập ra với mục đích tham mưu cho UBND

thành phố các chủ trương, giải pháp, chính sách để xây dựng thành phố thông

minh hơn; giúp UBND thành phố trong việc chỉ đạo, điều phối thực hiện các

chủ trương, chính sách, kế hoạch, dự án xây dựng đô thị thông minh trên địa

bàn; tham mưu UBND thành phố ban hành Đề án xây dựng thành phố thông

minh hơn giai đoạn 2016-2020 trên cơ sở Đề án mà UBND thành phố đã ban

hành trước đây. Năm 2017, thành phố đã phối hợp với tập đoàn Viettel xây

dựng Khung kiến trúc tổng thể thành phố thông minh Đà Nẵng để làm cơ sở

triển khai đồng bộ các ứng dụng thông minh tại thành phố Đà Nẵng.

Là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, Thanh Khê luôn chú

trọng quán triệt, triển khai các chủ trương của thành phố Đà Nẵng về xây

dựng đô thị thông minh đến các ngành các cấp trong toàn quận. Mặc dù trong

các văn bản phát hành của cơ quan UBND quận chưa dùng khái niệm đô thị

thông minh, tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin (nội hàm chủ yếu

42

của đô thị thông minh) trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đã được quan tâm

chỉ đạo và triển khai thực hiện. Năm 2012, UBND quận đã thành lập Ban chỉ

đạo về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành, cung

cấp dịch vụ công do đồng chí Phó chủ tịch Thường trực làm Trưởng ban; ban

hành Đề án xây dựng chính quyền điện tử Thanh Khê giai đoạn 2012-2017;

ban hành các văn bản chỉ đạo các cơ quan, ngành, đơn vị xây dựng trang

thông tin điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý. Hằng

năm, quận đều tiến hành tổng kết công tác ứng dụng công nghệ thông tin

trong năm qua, triển khai nhiệm vụ trong năm tới; thường xuyên chỉ đạo gắn

công tác cải cách hành chính với ứng dụng công nghệ thông tin, xem đây là

nhiệm vụ trọng tâm, chính yếu.

Quận cũng đã phối hợp với các sở ban, ngành thành phố chỉ đạo,

hướng dẫn các đơn vị, cơ quan chuyên môn trực thuộc đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin vào trong công tác quản lý, cung cấp dịch vụ công; tuyên

truyền Đề án xây dựng thành phố thông minh của Đà Nẵng để các cơ quan,

đơn vị, ban ngành của quận tham khảo, xây dựng nhận thức, cơ sở lý luận

ban đầu về một đô thị thông minh. Ngoài ra, để nâng cao hơn nữa hiệu quả

của chính quyền điện tử cũng như tạo cơ sở để cung cấp dịch vụ công trực

tuyến mức độ 04, UBND quận đã ban hành Kế hoạch số 604/KH-UBND

ngày 03/5/2018 về triển khai xây dựng mô hình phường điện tử đạt chuẩn và

cơ sở dữ liệu tài khoản công dân điện tử trên địa bàn quận Thanh Khê.

2.2.2. Tình hình thực hiện chính sách xây dựng đô thị thông minh

2.2.2.1. Xây dựng chính quyền điện tử

Ứng dụng CNTT trong hoạt động các cơ quan Nhà nước vừa là yêu

cầu, vừa là nền tảng để các địa phương xây dựng chính quyền điện tử nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong nội bộ của cơ quan nhà nước,

giữa các cơ quan nhà nước, trong giao dịch với tổ chức và công dân. Hoạt

43

động này còn đóng vai trò tiên phong trong hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành

chính, là điều kiện thuận lợi để thực hiện công khai, minh bạch trong việc

cung ứng dịch vụ công.

Thành phố Đà Nẵng là một trong những địa phương đi đầu trong việc

xây dựng chính quyền điện tử. Cụ thể, Đà Nẵng đã xây dựng hạ tầng mạng

cáp quang đi ngầm dài gần 300km, hỗ trợ băng thông lên tới 20 Gbps, kết nối

tất cả cơ quan Nhà nước từ Thành phố xuống tận cơ sở. Thành phố cũng xây

dựng Trung tâm dữ liệu Đà Nẵng với dung lượng lưu trữ 100 Terabite, kết

nối với Mạng đô thị để cung cấp các ứng dụng và dịch vụ chính quyền điện

tử cho cán bộ nhà nước và công dân. Mạng lưới wifi công cộng miễn phí bao

phủ nội đô với 430 điểm phát sóng, băng thông đạt 1Gbps, trung bình 20.000

lượt người sử dụng/ngày.

Đối với quận Thanh Khê, việc xây dựng chính quyền điện tử được

quan tâm triển khai thực hiện. Hiện nay 100% các cơ quan hành chính từ

quận đến phường đều đã xây dựng cổng thông tin điện tử. Trong công tác

triển khai xây dựng và cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến mức độ

3, 4, UBND quận đã triển khai áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức 4 đối

với 21 thủ tục, chủ yếu trên lĩnh vực đăng ký kinh doanh, cấp phép xây dựng.

Đặc biệt trong năm 2017, UBND quận triển khai thí điểm mô hình nhắn tin

thông báo tình trạng giải quyết hồ sơ cho tổ chức, công dân, qua đó, hệ thống

sẽ thường xuyên cập nhập tình trạng giải quyết hồ sơ của công dân qua số

điện thoại mà công dân đã đăng ký giải quyết hồ sơ. Tính đến ngày

01/12/2017, UBND quận đã thực hiện nhắn tin hơn 1200 tin nhắn thông báo

kết quả xử lý hồ sơ đến công dân. Hằng năm, quận tiếp nhận khoản 2500 hồ

sơ trực tuyến, đạt trên 40% trên tổng số hồ sơ đăng ký tại UBND quận.

Đối với UBND 10 phường, hiện nay đã có 10/10 phường đã hoàn

thành việc xây dựng mô hình phường điện tử hiện đại đạt chuẩn với nhiều

44

trang thiết bị hiện đại và được kết nối dữ liệu đồng bộ hóa, liên thông giữa

phường với quận trong công tác giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức,

công dân. Trong năm 2017, UBND quận đã thực hiện đấu nối camera của

UBND 10 phường vào hệ thống mạng MAN của thành phố, qua đó, UBND

quận sẽ kiểm tra, theo dõi tình hình hoạt động của Bộ phận Một cửa UBND

10 phường.Trong năm 2017, UBND 10 phường phối hợp với các cơ quan có

thẩm quyền triển khai áp dụng thực tế, nâng mức độ cung ứng dịch vụ công ở

mức 2 như trước đây lên mức 3 và thí điểm thực hiện dịch vụ công trực tuyến

mức độ 4 với trên 20 thủ tục hành chính trên các lĩnh vực.

Đối với ứng dụng công nghệ thông tin trong nội bộ các cơ quan nhà

nước, đến nay 100% các cơ quan hành chính đã ứng dụng phần mềm quản lý

văn bản và điều hành, trên 98% cán bộ, công chức sử dụng máy vi tính. Đồng

thời, 100% lãnh đạo đã được cấp chứng thư điện tử và chữ ký số, email công

vụ để trao đổi công việc, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho giao dịch văn bản

điện tử giữa các cơ quan nhà nước. Theo đó, trong năm 2017, tất cả các giấy

mời họp, công văn lấy ý kiến và một số văn bản hướng dẫn đã được gửi hoàn

toàn qua đường điện tử giữa các cơ quan nhà nước. Quận Thanh Khê cũng là

địa phương đi đầu trong việc đánh giá mức độ hài lòng của công dân trực

tuyến, xây dựng cơ sở dữ liệu về công chức, viên chức và triển khai hệ thống

đánh giá công chức - vị trí việc làm. Đã thực hiện thí điểm triển khai nộp thuế

điện tử và thực hiện thủ tục bảo hiểm xã hội qua mạng với gần 600 doanh

nghiệp thực hiện nộp thuế điện tử và thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh

vực bảo hiểm xã hội.

2.2.2.2. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giao

thông

Đà Nẵng hiện nay, tốc độ phát triển hệ thống giao thông vận tải đô thị

rất cao. Chủng loại phương tiện cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn.

45

Hệ thống cơ sở vật chất cho giao thông cũng có nhiều thay đổi. Toàn bộ hệ

thống đường xá, cầu, cống đã liên tục được nâng cấp, tại các ngã ba, ngã tư,

các nút giao thông đã được trang bị hệ thống đèn hiệu, dải phân luồng. Nhiều

tuyến đường nhỏ tiếp tục được quy hoạch, mở rộng hợp lý, đạt yêu cầu về

tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo phục vụ tốt cho các hoạt động lưu thông. Tuy

nhiên, tỷ lệ đất dành cho giao thông còn chiếm tỷ lệ rất ít so với đất xây dựng

và đất sử dụng mục đích khác (chỉ khoảng 5%), trong khi phương tiện giao

thông phát triển ngày càng nhanh, nhất là phương tiện ô tô, đã tạo nên những

thách thức lớn trong việc quy hoạch, quản lý và giải bải toán ùn tắc giao

thông.

Quận Thanh Khê là đơn vị hành chính có diện tích nhỏ nhất thành phố

Đà Nẵng, nhưng mật độ dân cư lại lớn nhất. Bên cạnh đó, trên địa bàn quận

hiện nay còn có ga đường sắt và sân bay quốc tế, chiếm diện tích lớn, chia cắt

địa bàn nên việc quy hoạch, xây dựng công trình giao thông, việc đi lại của

người dân cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại. Tại các ngã tư ở các giao lộ

lớn thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông giờ cao điểm. Hiện nay trên địa

bàn quận có 5 trục đường chính (từ 6-8 làn đường), hàng trăm đường lớn nhỏ

khác nhau; có một làn đường dành cho xe buýt nhanh BRT. Có 92/256 ngã tư

có trụ đèn tín hiệu giao thông và 14/92 ngã tư có hệ thống camera theo dõi.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực giao thông trên địa bàn quận

còn nhiều hạn chế. Ví dụ, chưa có hệ thống điều tiết đèn tín hiệu giao thông

thông minh, chưa có phần mềm, bảng điện tử thông báo tình hình giao thông,

chưa có phần mềm phân tích, xử lý, thông báo thực trạng giao thông…v.v.

2.2.2.3. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào

tạo.

Hiện nay, tất cả các trường trên địa bàn quận đã được kết nối internet

cáp quang để phục vụ cho công tác quản lý và giảng dạy. Đã đưa vào sử dụng

46

các phần mềm trong công tác quản lý và dạy học như: Quản lý nhân sự, Quản

lý PCGD-CMC, Quản lý học sinh (VnEdu, Edumanager), Tuyển sinh trực

tuyến, Quản lý thư viện… Phần mềm Tuyển sinh trực tuyến được Phòng

GD&ĐT triển khai dùng để tuyển sinh đầu năm học 2017-2018, có 15 trường

tiểu học và 10 trường THCS sử dụng trong công tác tuyển sinh đầu cấp. Hầu

hết các trường học đều chú trọng mua sắm, đầu tư các trang thiết bị CNTT

phục vụ công tác quản lý, điều hành. Mỗi trường học đã trang bị từ 01 đến 02

phòng học có máy chiếu, phục vụ cho các tiết học có ứng dụng CNTT để

giảng dạy; 16/16 trường tiểu học có phòng tin học, mỗi phòng có từ 16 đến

30 máy tính; 10/10 trường trung học cơ sở có từ 01 đến 02 phòng tin học.

Quận cũng đã chỉ đạo các trường có các biện pháp đảm bảo an toàn an ninh

thông tin đối với các hệ thống CNTT; thường xuyên rà soát, khắc phục các

nguy cơ mất an toàn, an ninh thông tin; chỉ đạo các trường học tuyên truyền

tới toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh kỹ năng nhận biết, phòng tránh các

nguy cơ mất an toàn thông tin đối với các thiết bị cá nhân như điện thoại

thông minh, máy tính, máy tính bảng, máy tính cá nhân và các vật dụng điện

tử khác.

Ngoài ra, các trường cũng đã đẩy mạnh việc thiết kế và đưa vào sử

dụng bải giảng điện tử e-Learning và thường xuyên khai thác kho bài giảng

e-Learning của Bộ GD&ĐT tại địa chỉ http://elearning.moet.edu.vn. Tiếp tục

chỉđạo các trường học tích cực ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp

dạy và học theo hướng giáo viên chủ động tích hợp CNTT vào từng môn học

để nâng cao hiệu quả bài giảng, sử dụng phần mềm trình chiếu, kết hợp các

phần mềm mô phỏng, thí nghiệm ảo và phần mềm dạy học. Nhìn chung, việc

ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào tạo của quận trong những

năm qua luôn được quan tâm đẩy mạnh và đạt được những kết quả thiết thực,

trong đó nổi bật là nâng cao chất lượng dạy và học, giảm thủ tục hành chính,

47

thuận lợi trong công tác quản lý cơ sở dữ liệu học sinh, trao đổi giữa phụ

huynh và nhà trường, hạn chế tiêu cực.

2.2.2.4. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế

Hiện nay, Trung tâm Y tế quận đã triển khai phần mềm quản lý tích

hợp nhiều tính năng đáp ứng nghiệp vụ khám chữa bệnh như: Nhập hồ sơ,

quản lý hồ sơ khám và chữa bệnh nội trú, ngoại trú; quản lý các xét nghiệm,

chẩn đoán hình ảnh; quản lý dược; nghiệp vụ quản lý hành chính (khoa

phòng, nhân viên…), cho phép thực hiện thanh toán và liên thông bảo hiểm y

tế, thanh toán viện phí; quản lý báo cáo, thống kê.

Phần mềm ứng dụng đã giúp bệnh viện dữ liệu hóa được hồ sơ bệnh

nhân ngay từ khi tiếp đón, đến việc khám chữa bệnh, quản lý khoa phòng.

Đặc biệt, phần mềm mang lại lợi ích lớn cho người bệnh, việc thanh toán bảo

hiểm y tế được công khai, minh bạch và tiết kiệm được thời gian. Công tác

quản lý, điều hành khám chữa bệnh, hiệu quả công việc của đơn vị được nâng

cao rõ rệt, giảm chi phí dành cho văn phòng phẩm và tránh thất thoát thuốc,

vì mọi chỉ định điều trị, bảng kê thuốc điều trị cho từng bệnh nhân đảm bảo

tính thống nhất về số liệu. Tất cả hồ sơ bệnh nhân khi đến khám đều được dữ

liệu hóa, đảm bảo dữ liệu đầu vào và đầu ra thông suốt, liên thông từ đơn vị

đến sở Y tế, Bảo hiểm xã hội thành phố. Việc lưu trữ dữ liệu hiệu quả, chính

xác, tạo điều kiện thuận tiện khi tra cứu, đảm bảo công tác thống kê, báo cáo

chuyên môn cũng như minh bạch thông tin tài chính trong hoạt động khám và

điều trị.

2.2.2.5. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo vệ môi

trường, cảnh báo thiên tai.

Quận Thanh Khê có bờ biển dài 4km, 01 hệ thống sông dài 07km và

04 hồ nằm rải rác trên địa bàn. Trong những năm qua, bờ biển, sông và hồ

trên địa bàn quận đã không ít lần xảy ra sự cố về môi trường, làm ảnh hưởng

48

đến đời sống của nhân dân. Để hạn chế việc xảy ra các sự cố về môi trường ở

sông, hồ, quận đã tiến hành lắp đặt cảm biến để phân tích các thành phần

trong nước, từ đó đưa ra cảnh báo và có cách thức xử lý kịp thời, hiệu quả.

Ngoài ra, quận cũng đã lắp đặt 02 trạm quan trắc không khí để đưa ra những

cảnh báo về môi trường (đo độ ẩm, hướng gió, khói bụi trong không khí).

Quận cũng đã khuyến khích các cơ quan, đơn vị, người dân sử dụng các thiết

bị thông minh để tiết kiệm năng lượng, giảm ô nhiễm, góp phần giảm thiểu

hiệu ứng nhà kính; triển khai phần mềm ứng dụng GIS trong việc quản lý xây

dựng đô thị cũng như quản lý thực trạng cây xanh trên địa bàn quận. Là quận

có 04 km bờ biển, có thể xảy ra sóng thần bất cứ lúc nào, quận đã phối hợp

với thành phố và các quận lân cận có chung bờ biển lắp đặt hệ thống cảnh

báo sóng thần sớm để kịp thời báo động, sơ tán nhân dân khi có sóng thần

xảy ra.

2.3. Đánh giá chung về chính sách xây dựng đô thị thông minh

quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

2.3.1. Ưu điểm

Thanh Khê là một quận có tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao, quá

trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nguồn nhân lực, lao động trẻ, dồi dào, mặt

bằng tri thức của người dân ngày càng được nâng lên, đội ngũ cán bộ, công

chức tâm huyết, có trình độ, cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đồng bộ,

có vị trí tự nhiên, xã hội tương đối thuận lợi. Đây chính là những lợi thế của

quận Thanh Khê trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung và trong

việc đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin nói riêng; là tiền đề quan trọng, cơ

bản trong việc xây dựng mục tiêu, chương trình xây dựng đô thị thông minh

trong tương lai.

Trong những năm qua, việc triển khai chính sách xây dựng đô thị

thông minh trên địa bàn quận Thanh Khê có những ưu điểm sau:

49

Thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác quản

lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công ở các ngành, các cấp luôn được quan tâm

và chú trọng triển khai thực hiện theo hướng dẫn, chỉ đạo của thành phố;các

cơ chế, chính sách để thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ

quan, đơn vị được ban hành đầy đủ kịp thời và thường xuyên cập nhật, bổ

sung sao cho phù hợp với thực tế triển khai.

Thứ hai, các nguồn lực cũng được quan tâm đầu tư, tạo điều kiện thúc

đẩy ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng sâu rộng hơn; hạ tầng cơ sở kỹ

thuật công nghệ thông tin được đầu tư khá hiện đại và đồng bộ giữa các cấp

và giữacác cơ quan, đơn vị; 100% cán bộ công chức được trang bị máy vi

tính; 100% các phường được nối mạng Lan và Man, được trang bị đầy đủ

máy in, máy quét, máy chiếu để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt

động công vụ.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, công

chức và người dân về lợi ích của công nghệ thông tin luôn được chú trọng;

đại đa số cán bộ công chức đều sử dụng được máy tính, email công vụ trong

công tác; trên 80% hộ dân có kết nối internet và sử dụng các dịch vụ liên

quan đến internet; đã dần hình thành nên thị trường công nghệ thông tin

thông qua hoạt động của các tuyến phố chuyên doanh thu hút sự đầu tư của

các doanh nghiệp.

2.3.2. Hạn chế

Tuy đạt được những kết quả quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào trong các lĩnh vực, nhưng việc hoạch định chính sách đô thị

thông minh của quận trong những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế sau:

Thứ nhất, quận chưa có nghị quyết, chương trình, kế hoạch hay đề án

về xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận; nhận thức về đô thị thông

minh cũng chưa được đặt ra yêu cầu nghiên cứu đối với các ban, ngành có

50

liên quan. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các ngành, cơ quan,

đơn vị mạnh ai nấy làm, không mang tính liên thông, đồng bộ, điều này gây

khó khăn cho chính sách xây dựng đô thị thông minh về sau.

Thứ hai, chưa có chính sách thu hút các công ty công nghệ thông tin về

kinh doanh và đầu tư trên địa bàn quận; chưa có kế hoạch cụ thể phối hợp với

công ty công nghệ thông tin xây dựng khung kiến trúc để thống nhất, đồng bộ

hóa hạ tầng công nghệ thông tin để phục vụ xây dựng đô thị thông minh.

Thứ ba, ngân sách bố trí cho kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin

còn hạn chế, ở mức khá thấp so với quận, huyện khác, có nguy cơ không đủ

nguồn lực để duy trì và phát triển hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin

trong những năm đến. Chưa có nguồn ngân sách riêng mà chủ yếu lấy từ

nguồn ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ.

Thứ tư, mức độ an toàn, an ninh thông tin tại các máy tính cá nhân của

cán bộ, công chức ở một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, cán bộ, công chức

còn tùy ý cài đặt các phần mềm bẻ khóa, phần mềm không rõ nguồn gốc, gây

nguy cơ mất an ninh mạng.

Thứ năm, hiệu quả sử dụng trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin

vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nhất là ở các phường do thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo

và thiếu cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin; các đơn vị còn ít quan tâm

đến công tác bảo trì, bảo dưỡng nên thường dẫn đến hư hỏng thiết bị.

Thứ sáu, cơ chế thu hút, ưu đãi nguồn lực công nghệ thông tin còn hạn

chế, chưa khuyến khích được cán bộ tích cực trong công tác triển khai và ứng

dụng công nghệ thông tin ở đơn vị mình.

2.3.3. Nguyên nhân hạn chế

Những hạn chế còn tồn tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong

đó có những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Nguồn lực của địa phương nói chung còn hạn chế, chưa có nền tảng

51

mang tính đột phá để đưa đến tầm nhìn xây dựng đô thị thông minh, mà chủ

yếu vẫn còn trông chờ vào định hướng và sự đầu tư của thành phố.

- Lãnh đạo quận chưa được trang bị nhận thức về cơ sở lý luận cũng

như thực tiễn về chính sách đô thị thông minh; sự hiểu biết của cán bộ công

chức về đô thị thông minh còn mơ hồ.

- Trình độ nguồn nhân lực công nghệ thông tin của quận và phường

còn hạn chế, phần nào chưa đáp ứng và theo kịp tốc độ phát triển công nghệ

thông tin ở trong nước và quốc tế, nên còn bị động, lúng túng.

Kết luận Chương 2

Thanh Khê là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, có tốc độ

tăng trưởng kinh tế khá cao, nguồn lao động dồi dào, tốc độ đô thị hóa diễn ra

nhanh chóng, trình độ dân trí, đời sống văn hóa, văn minh có nhiều chuyển

biến tích cực..v.v. Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, tuy nhiên,

trong quá trình phát triển, Thanh Khê cũng gặp không ít khó khăn, thách

thức, đó là: không gian cho phát triển kinh tế theo chiều rộng trong những

năm đến gần như không còn; giao thông đô thị đang trong tình trạng ngày

càng quá tải; môi trường tiềm ẩn những nguy cơ ô nhiễm ngày càng lớn; chưa

sử dụng và phát huy có hiệu quả các nguồn lực để đáp ứng tốt hơn những đòi

hỏi ngày càng cao của người dân…v.v. Vì vậy, để tạo bước đột phá trong

những năm đến cũng như giải quyết tốt những khó khăn, thách thức, Thanh

Khê cần đổi mới tư duy, mạnh dạn chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng

ngày càng thông minh, hiện đại, trong đó việc nghiên cứu và hiện thực hóa

chính sách xây dựng đô thị thông minh là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà

52

Thanh Khê cần phải quan tâm thực hiện.

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH TỪ

THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Căn cứ hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị thông minh từ

thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Hiện nay, việc xây dựng đô thị thông minh không những là xu thế tất

yếu ở các nước trên thế giới mà còn là nhu cầu ngày càng bức thiết đối với

các thành phố ở Việt Nam, đặc biệt là các đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng,

Thành phố Hồ Chí Minh…v.v. Riêng đối với Đà Nẵng, việc xây dựng đô thị

thông minh được các cấp lãnh đạo quan tâm triển khai thực hiện tương đối

sớm so với các đô thị khác trong cả nước.Từ năm 2014, TP. Đà Nẵng đã phê

duyệt Đề án xây dựng thành phố thông minh hơn; thành lập Ban Chỉ đạo do

đồng chí Chủ tịch UBND thành phố làm Trưởng ban. Đến đầu năm 2016,

thành phố xây dựng khung kiến trúc ICT để phục vụ xây dựng đô thị thông

minh. Theo đó, thành phố Đà Nẵng đã cơ bản hình thành cơ sở hạ tầng CNTT

và truyền thông hiện đại, đặc biệt là hạ tầng truyền dẫn sẵn sàng, thuận lợi

cho việc triển khai kết nối các chương trình, dự án xây dựng thành phố thông

minh. Hệ thống thông tin Chính quyền điện tử của thành phố Đà Nẵng bước

đầu đem lại hiệu quả, được các tổ chức, cộng đồng hoạt động về CNTT trong

và ngoài nước ghi nhận. Với mô hình triển khai tại trung tâm, tuân thủ khung

kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam của Bộ Thông tin và Truyền thông ban

hành, Đà Nẵng có nhiều thuận lợi trong việc triển khai bổ sung các lớp ứng

dụng cho thành phố thông minh tích hợp trên hệ thống thông tin Chính quyền

điện tử. Đến nay, Đà Nẵng đã triển khai nhiều dự án thí điểm liên quan đến

53

thành phố thông minh dựa trên nền tảng Chính quyền điện tử đã đạt được

những kết quả bước đầu. Hiện tại, thành phố Đà Nẵng đang triển khai các dự

án ở bước 1 và bước 2 về “xây dựng các hệ thống giám sát - phân tích dữ

liệu” của lộ trình gồm 3 bước xây dựng thành phố thông minh (với bước 3

của lộ trình là điều khiển và tự động hóa dựa trên kết quả phân tích).

Trong những năm qua, quận Thanh Khê là một trong địa phương đi

đầu của thành phố Đà Nẵng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong

công tác điều hành, quản lý của nhà nước và cung cấp dịch vụ công đến các

tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã đem lại

những kết quả hết sức thiết thực và to lớn như: tạo điều kiện thuận lợi cho

người dân trong công tác giải quyết các thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ

công, giảm thời gian, chi phí đi lại; công khai, minh bạch hóa các quy trình,

thủ tục, giảm nhũng nhiễu, tiêu cực; tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý,

kiểm tra, giám sát đối với hiệu quả làm việc của các bộ phận chuyên môn và

đội ngũ cán bộ, công chức; giúp trao đổi công việc giữa các cơ quan, đơn vị

ngày càng nhanh hơn, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí, nguồn lực…v.v.

Tuy nhiên, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trên địa bàn

quận vẫn chưa thật sự mang tính đồng bộ, còn manh mún và chưa cân đối

giữa các lĩnh vực; chưa có cơ sở dữ liệu chung giữa các ngành trong quận;

một số lĩnh vực chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; chất lượng cung cấp

dịch vụ công còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục và cải thiện; nguồn kinh

phí đầu tư chưa tương xứng với lợi ích to lớn mà công nghệ thông tin mang

lại; nhân lực công nghệ thông tin ở một số đơn vị, ngành còn thiếu hụt, chất

lượng còn hạn chế; trình độ sử dụng công nghệ thông tin vào trong đời sống

của người dân (khách hàng của dịch vụ công) chưa cao; giao tiếp điện tử vẫn

chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Ngoài ra, trong quá trình đô thị hóa,

Thanh Khê đang phải đối mặt với những thách thức không nhỏ đối với sự

54

quản lý, điều hành theo phương thức cũ của chính quyền, những đòi hỏi

chính đáng của người dân đô thị về cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc

sống, môi trường sống, cũng như thực hiện đạt kết quả các mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội của quận trong tình hình mới. Việc đặt ra mục tiêu, tầm

nhìn và chiến lược xây dựng đô thị thông minh sẽ từng bước giải quyết từng

vấn đề trên

Bên cạnh đó, nhận thức của đa số lãnh đạo, cán bộ, công chức và

người dân về đô thị thông minh vẫn còn chưa rõ ràng, cơ sở lý luận cũng như

thực tiễn chưa được đưa vào nghiên cứu một cách có bài bản, hệ thống. Vì

vậy, đến nay, quận vẫn chưa có một văn bản nào liên quan đến việc nghiên

cứu, hoạch địch chính sách xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận.

Đây chính là một trong những hạn chế lớn trong việc thúc đẩy việc xây dựng

đô thị thông minh một cách bài bản, có tầm nhìn chiến lược, và triển khai

hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Từ thực trạng đô thị quận Thanh Khê hiện nay, điều kiện kinh tế, xã

hội và xuất phát từ những ưu điểm, thuận lợi, kết quả, cũng như hạn chế, khó

khăn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trên địa bàn quận, chúng ta có

thể thấy nhu cầu xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận là nhu cầu hết

sức chính đáng và bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Điều này có ý nghĩa đặc

biệt trong quá trình đổi mới mô hình phát triển kinh tế, đổi mới phương thức

quản lý, điều hành, đổi mới nhận thức và hành động của toàn xã hội, từ đó

tạo động lực mới trong việc xây dựng quận Thanh Khê tiếp tục có bước đột

phá về tăng trưởng kinh tế, giải quyết có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong

quá trình đô thị hóa, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội văn

minh, hiện đại và thông minh hơn.

3.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị thông

minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

55

Phương hướng hoàn thiện chính sách đô thị thông minh phải trên cơ sở

kế thừa, tận dụng những thành tựu, kết quả đạt được, phù hợp với mục tiêu,

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của thành phố, đồng thời phải phù hợp với

điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương, song cũng cần những đột phá để

có thể đạt được kết quả cao hơn, nhanh hơn. Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây

dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phải đảm bảo tính thống nhất về chủ

trương, đồng bộ về công nghệ, có sự tham gia của các ngành, các cấp, tạo

điều kiện thuận lợi để tích hợp, kết nối, chia sẽ cơ sở dữ liệu trong toàn quận

và liên thông với thành phố về sau này. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế, chính

sách, phương thức tổ chức, quản lý để xây dựng đô thị thông minh đạt được

kết quả cao nhất với chi phí hợp lý, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, thiếu

đồng bộ, thống nhất. Xây dựng đô thị thông minh phải lấy người dân làm

trung tâm, xã hội phát triển bền vững là mục tiêu hướng đến, đồng thời phải

luôn giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, nhân văn tốt đẹp của cộng

đồng, xã hội trong thời đại công nghệ thông tin, số hóa và tự động hóa.

Trên cơ sở đó, Luận văn xác định phương hướng hoàn thiện chính sách

xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng trong thời gian đến như sau:

Thứ nhất, thiết lập tầm nhìn phù hợp với tình hình đặc điểm kinh tế, xã

hội, nguồn lực của địa phương, phải khoa học và thực tế, dựa trên khung kiến

trúc ICT của thành phố; xây dựng lộ trình thực hiện một cách rõ ràng, hiệu

quả; thành lập các lớp chỉ đạo, quản lý, điều hành việc ứng dụng công nghệ

thông tin, xây dựng đô thị thông minh; có cơ chế khuyến khích đầu tư, hợp

tác giữa nhà nước và doanh nghiệp, huy động sự tham gia mọi thành phần, tổ

chức, cá nhân của xã hội trong việc xây dựng đô thị thông minh.

Thứ hai, thiết lập cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ cho đô thị thông

minh bền vững. Xây dựng cơ sở hạ tầng ICT kết nối mạng với hệ thống dữ

56

liệu đô thị bao gồm: Kinh tế, xã hội, môi trường, cơ sở hạ tầng, không gian

và quản lý, trên cơ sở tích hợp và chia sẻ, tìm cách biến các dữ liệu thành các

thông tin hữu ích phục vụ quản lý và điều hành, được xem là nền tảng để

hình thành các dịch vụ đô thị thông minh trong tương lai.

Thứ ba, xác định đầu tư hạ tầng thông minh: Các đô thị thông minh

bền vững cần đầu tư vào “hạ tầng ICT”, dù mới hay đã lắp đặt, hạ tầng có thể

phân chia làm 4 lớp: (i) Lớp cảm biến (Sensor) được hình thành với thiết bị

nhận dạng tần số vô tuyến (RFID), các bộ cảm biến, dạng cảm biến và công

nghệ theo dõi giám sát; (ii) Lớp giao tiếp gồm các băng rộng công năng

(Performance) lớn, tốc độ cao và các mạng quang tin cậy và băng thông rộng

không dây; (iii) Lớp dữ liệu được các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp

và các trung tâm dữ liệu thực hiện và các hoạt động có liên quan; (iv) Lớp

ứng dụng gồm một loạt các ứng dụng sử dụng dữ liệu được thu thập và xử lý

bởi các lớp khác.

Thứ tư, xây dựng đô thi thông minh phải thực hiện từng bước, thận

trọng, đầu tư tránh dàn trải, lãng phí, không hiệu quả. Trong đó cần chú trọng

các lĩnh vực còn nhiều hạn chế, yếu kém, bức xúc trong quá trình đô thị hóa,

các lĩnh vực phục vụ nhu cầu thường xuyên và thiết yếu của người dân như:

xây dựng chính quyền, y tế, giáo dục, giao thông, môi trường.

Thứ năm, phải tuyên truyền rộng rãi để nâng cao nhận thức và kêu gọi

sự tham gia của toàn xã hội vào trong việc xây dựng đô thị thông minh, trong

đó chú trọng và cân bằng giữa 03 chủ thể chính, đó là: chính quyền, doanh

nghiệp và người dân.

Thứ sáu, phải đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, định kỳ hằng năm

phải đánh giá công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; kiện toàn, phát huy

vai trò bộ máy quản lý nhà nước về an toàn, an ninh thông tin từ quận đến cơ

sở; tăng cường phối hợp với lực lượng chức năng, các đơn vị cung cấp dịch vụ

57

để sẵn sàng ứng phó, xử lý các tình huống liên quan đến an ninh mạng.

3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị thông minh

từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

3.3.1. Nâng cao nhận thức, khă năng tổ chức, quản lý, điều hành

của chính quyền và các ban, ngành trong toàn quận

Xây dựng đô thị thông minh là một quá trình hết sức khó khăn, phức

tạp, đòi hỏi chính quyền, các ngành, các cơ quan, đơn vị phải nắm vững cơ

sở lý luận cũng như thực tiễn để quá trình hoạch định cũng như tổ chức thực

hiện chính sách được thực hiện một cách bài bản, có hiệu quả. Vì vậy, phải

thường xuyên đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền trên các phương

tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức tuyên truyền khác như hội thảo,

băng rôn, áp phích, tờ rơi…, qua đó phải làm cho cán bộ, công chức, doanh

nghiệp, người dân nắm rõ lợi ích cũng như tầm quan trọng của việc xây

dựng đô thị thông minh trong quá trình đô thị hóa cũng như hướng tới mục

tiêu phát triển xã hội một cách bền vững, lấy người dân làm trung tâm của

sự phát triển.

Tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin,

nâng cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, các ngành nhằm đẩy

mạnh công tác đôn đốc, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển và ứng

dụng công nghệ thông tin trên địa bàn quận. Cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao nhận thức cũng như trang bị kiến thức, cách thức, phương pháp xây

dựng đô thị thông minh; tổ chức các cuộc hội thảo để lấy ý kiến tham gia góp

ý của các ngành các cấp, chuyên gia, doanh nghiệp.

Nghiên cứu, đầu tư xây dựng các chương trình, dự án và các giải pháp

đô thị thông minh theo mô hình kiến trúc công nghệ thông tin của thành phố,

nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống và khả năng thu thập dữ liệu, xử

lý tập trung, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc, thứ tự ưu tiên, dựa trên nhu cầu

58

thực tế và khả năng cân đối các nguồn lực.

Xây dựng các tổ chức tiêu chuẩn hóa trong xây dựng đô thị thông minh

gồm: Lớp chiến lược - dùng cho cấp lãnh đạo, gồm những nội dung về quy

trình phát triển chiến lược tổng thể, xác định các ưu tiên, lộ trình triển khai và

cách tiếp cận để giám sát và đánh giá sự tiến bộ trong triển khai; Lớp quy

trình - dùng cho nhà quản lý, có nhiệm vụ cung cấp những thực tiễn tốt trong

quản lý, các dự án có tính liên ngành; Lớp kỹ thuật - dùng cho tổ chức, cá

nhân trực tiếp triển khai thực hiện, trong đó quy định yêu cầu về các sản

phẩm và dịch vụ liên quan nhiều đến công nghệ thông tin (Bao gồm: lớp cảm

biến, thiết bị đầu cuối thu thập dữ liệu; lớp mạng lưới truyền dẫn hữu tuyến

và vô tuyến; lớp lưu trữ và xử lý dữ liệu; lớp ứng dụng cho các chuyên ngành

khác nhau; lớp điều hành và bảo đảm an toàn thông tin xuyên suốt tất cả các

lớp trên).

3.3.2. Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ; đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực; nâng cao chất

lượng dịch vụ công trực tuyến

Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin trên địa bàn quận, trong

đó phải đảm bảo tất cả các cơ quan, đơn vị phải sử dụng công nghệ thông tin

làm công cụ chính trong các hoạt động quản lý, điều hành, cung cấp dịch vụ

công. Xây dựng khung kiến trúc công nghệ thông tin phù hợp với tình hình

đặc điểm của địa phương và thành phố, có sự tham vấn của các công ty công

nghệ thông tin uy tín. Đẩy mạnh ứng dụng các thiết bị công nghệ thông tin

hiện đại trong công tác quản lý xã hội như đảm bảo giao thông, bảo vệ môi

trường, quản lý dữ liệu dân cư, thông tin địa lý, cây xanh, cảnh báo thiên

tai…v.v. Dành ngân sách thích đáng cho việc đầu tư ứng dụng công nghệ

thông tin, có cơ chế hợp tác theo mô hình công tư một cách có hiệu quả.

Mở rộng và hoàn thiện hệ thống kết nối không dây công cộng với công

59

nghệ tiên tiến, tính ổn định cao, chất lượng dịch vụ tốt đảm bảo yêu cầu về an

ninh thông tin để cán bộ, công chức, viên chức của quận, doanh nghiệp và

người dân dễ dàng truy cập internet và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

Quan tâm đầu tư nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến

ở các cơ quan từ quận đến phường, mở rộng trên các lĩnh vực, trong đó chú

trọng cung cấp dịch vụ công ở mức độ 4 – người dân và chính quyền thực

hiện các thủ tục hành chính hoàn toàn qua môi trường internet.

Tiếp tục đầu tư thiết bị đầu cuối cho các cơ quan nhà nước, bao gồm:

máy tính để bàn, máy quét, máy chiếu, máy in, thiết bị bảo đảm an toàn, an

ninh thông tin … nhằm tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động quản lý, nhất là ở các phường.

Xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung ở các ngành, tạo điều kiện tăng

cường giao tiếp điện tử giữa chính quyền với người dân và giữa các cơ quan,

đơn vị với nhau, tiến tới xây dựng mô hình văn phòng không giấy, hội họp

trực tuyến…v.v.

Xây dựng hạ tầng Trung tâm thông tin dịch vụ công phục vụ chính

quyền và cộng đồng; nâng cao năng lực quản lý, sử dụng, bảo trì các thiết bị

công nghệ thông tin đã được đầu tư tại các cơ quan nhà nước, đặc biệt là ở

các phường.

3.3.3. Có chính sách khuyến khích phát triển thị trường công nghệ

thông tin, huy động các nguồn lực xã hội tham gia xây dựng đô thị thông

minh

Tạo cơ chế cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin đến đặt trụ sở

kinh doanh trên địa bàn quận, trong đó chú trọng đổi mới môi trường đầu tư,

xây dựng các tuyến phố kinh doanh sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin.

Có cơ chế trao đổi thông tin giữa chính quyền và doanh nghiệp, tạo điều kiện

cho doanh nghiệp phối hợp nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thông tin,

60

phục vụ xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận.

Có cơ chế chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế, và các ưu đãi khác theo

quy định của pháp luật đối với các doanh nghiệp công nghệ thông tin hoạt

động trên địa bàn quận và tham gia xây dựng đô thị thông minh. Huy động

các nguồn lực của xã hội thông qua các trương trình, kế hoạch hợp tác công

tư. Phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức về công nghệ thông tin và

cập nhật những sản phẩm công nghệ thông tin mới nhất.

Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý hoạt

động ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, minh bạch, khuyến

khích phát triển thị trường khoa học công nghệ thông tin và ứng dụng công

nghệ thông tin vào trong các lĩnh vực đời sống xã hội.

Có chính sách tuyên truyền, khuyến khích, huy động mọi chủ thể trong

xã hội tham gia xây dựng đô thị thông minh, trong đó phải quan tâm chú

trọng 03 chủ thể chính, đó là: chính quyền thông minh, doanh nghiệp thông

minh và người dân thông minh. Đây là ba trụ cột chính để đánh giá một đô

thị thông minh hay không, vì vậy phải tạo điều kiện và ra sức khuyến khích

cả ba thành phần này tham gia xây dựng đô thị thông minh một cách tích cực,

đồng bộ để đạt hiệu quả cao nhất.

3.3.4. Xây dựng nguồn nhân lực công nghệ thông tin đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ

Xây dựng, quản lý quy hoạch nguồn nhân lực công nghệ thông tin từ

quận đến phường, đảm bảo mỗi cơ quan, đơn vị có một người phụ trách công

nghệ thông tin. Chú trọng tuyển dụng, lựa chọn sinh viên học giỏi hoặc

những người đã tốt nghiệp đại học đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và truyền thông. Hằng năm, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

cơ bản hay chuyên ngành về công nghệ thông tin.

61

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào tạo nguồn

nhân lực công nghệ thông tin, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình

đào tạo, các cấp độ đào tạo, đảm bảo cho mọi công dân có khả năng tiếp cận

các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến công nghệ thông tin. Khuyến khích các

doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nguồn

nhân lực công nghệ thông tin trên địa bàn quận; phối hợp bồi dưỡng nâng cao

trình độ chuyên môn, cập nhật các ứng dụng công nghệ thông tin mới cho cán

bộ, công chức.

Có cơ chế thu hút, đãi ngộ các chuyên gia, nguồn nhân lực chất lượng

cao ở trong và ngoài nước; tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực

công nghệ thông tin. Tổ chức các khóa bồi dưỡng về công tác quản lý, điều

hành các dự án công nghệ thông tin; tổ chức các đoàn học tập, trao đổi kinh

nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng đô thị thông minh ở

các địa phương trong và ngoài nước.

3.3.5. Xây dựng đô thị thông minh làm động lực phát triển kinh tế -

xã hội

Xây dựng đô thị thông minh không chỉ đơn giản là áp dụng công nghệ

thông tin vào trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, mà quan trọng là sự liên

thông, chia sẽ các cơ sở dữ liệu giữa các nghành, các cấp với môi trường điện

tử thống nhất, thông suốt và hiệu suất cao. Xây dựng đô thị thông minh phải

là đòn bẩy để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển

chiều sâu, nâng cao chất lượng và làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, từ

đó nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường.

Xây dựng đô thị thông minh phải lấy người dân làm trung tâm. Theo

đó, phải huy động được giá trị vật chất, trí tuệ của người dân tham gia trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; phải đem đến cho người

dân, xã hội các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất, công

62

khai, minh bạch, công bằng, dân chủ. Xây dựng đô thị thông minh phải tạo ra

môi trường sống và làm việc an toàn, tiết kiệm, mọi tổ chức và cá nhân được

thông tin đầy đủ, đa chiều tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Xây dựng đô thị thông minh phải hướng đến một nền kinh tế tri thức,

một xã hội tri thức, từ đó tạo động lực mới và xây dựng mối tương quan đối

với các địa phương trong nước và quốc tế. Xây dựng đô thị thông minh làm

động lực phát triển xã hội phải dựa trên nền tảng văn hóa tốt đẹp, xây dựng

đời sống ngày càng nhân văn hơn, tạo cho con người ngày càng có điều kiện

hoàn thiện và phát triển bản thân.

3.3.6. Đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, bảo vệ cơ sở dữ liệu

Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác xây dựng đô thị

thông minh. Mọi hoạt động trong một đô thị thông minh đều diễn ra và thông

qua môi trường internet và hoàn toàn dựa vào các thiết bị công nghệ thông

tin, phần mềm ứng dụng nên chế độ an toàn, bảo mật luôn luôn có những sơ

hở nhất định cũng như gây khó khăn trong công tác bảo vệ trong môi trường

số. Chỉ cần một tác động có chủ đích có thể sẽ làm tê liệt mọi hệ thống thông

tin liên lạc, làm sai lệch các cơ sở dữ liệu, và nguy hiểm nhất là chiếm quyền

điều khiển để từ đó có những hoạt động phạm pháp, gây hại cho các tổ chức,

cá nhân trong xã hội. Vì vậy, song song với với việc đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin vào trong các lĩnh vực, chúng ta cần quan tâm nâng cao

năng lực tự bảo vệ trên không gian mạng để mọi hoạt động diễn ra thông suốt

và là điều kiện đủ để một đô thị thông minh vận hành một cách có hiệu quả

nhất.

Kết luận Chương 3

Là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, trong những năm qua,

Thanh Khê luôn quan tâm đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin trong công

63

tác quản lý của nhà nước, cung cấp dịch vụ công đến mọi tổ chức, cá nhân

trong xã hội. Bên cạnh những thuận lợi do có sự đầu tư mạnh mẽ của thành

phố, thì quận cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình xây dựng đô thị

thông minh, đó là cơ sở vật chất, nhân lực, nhận thức còn nhiều hạn chế, và

đặc biệt là sự phụ thuộc lớn vào các chính sách của thành phố. Hoàn thiện

chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành

phố Đà Nẵng là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhất là các cơ

sở về lý luận cũng như thực tiễn cũng đã được Trung ương, thành phố quan

tâm nghiên cứu và đề ra một số chính sách cụ thể về xây dựng đô thị thông

64

minh.

KẾT LUẬN

Hiện nay, việc xây dựng đô thị thông minh đang được các thành phố

lớn trên thế giới quan tâm triển khai thực hiện và đạt được những thành tựu

cơ bản bước đầu. Là một nước đang phát triển, Việt Nam đang cũng hết sức

quan tâm đến lợi ích của một đô thị thông minh mang lại, đặc biệt là trong

vấn đề giải quyết mặt trái của quá trình đô thị hóa, nâng cao chất lượng đời

sống người dân, đồng thời đổi mới mô hình tăng trưởng, để ngày càng rút

ngắn khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển trên thế giới.

Trong những năm gần đây, việc tiến hành xây dựng đô thị thông minh

đã được thành phố Đà Nẵng quyết tâm triển khai thực hiện và đã đạt được

những kết quả quan trọng bước đầu. Trên cơ sở Đề án được xây dựng, thành

phố đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trên các lĩnh vực, trong đó

đáng chú ý là việc xây dựng chính quyền điện tử, cung cấp dịch vụ công trực

tuyến, áp dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực giao thông, y tế, giáo

dục, bảo vệ môi trường. Thành phố cũng đã tiến hành xây dựng được trung

tâm quản lý cơ sở dữ liệu; tiến hành kết nối dữ liệu ở các ngành từ thành phố

đến cơ sở, kết nối giữa ngành này với ngành kia; các thành tố trong lớp tiêu

chuẩn kỹ thuật được triển khai đồng bộ…v.v. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh

phát triển doanh nghiệp và thị trường công nghệ thông tin cũng được quan

tâm đẩy mạnh. Năm 2017, tổng doanh thu trong lĩnh vực công nghệ thông tin

truyền thông của thành phố đạt 27.157 tỷ đồng, tăng 16,9% so với năm 2016.

Kim ngạch xuất khẩu phần mềm đạt 68,5 triệu USD, tăng 42,6% so với năm

2017. Đà Nẵng nhiều năm liền dẫn đầu về chỉ số sẵn sàng ứng dụng và phát

triển công nghệ thông tin trong cả nước (2007-2015).

Thanh Khê là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, có điều kiện

65

tự nhiên – xã hội thuận lợi, kinh tế phát triển khá, tốc độ đô thị hóa diễn ra

nhanh chóng. Nhờ sự quan tâm đầu tư của thành phố và sự nỗ lực của chính

quyền địa phương, trong những năm qua quận cũng đã quan tâm đầu tư, ứng

dụng công nghệ thông tin trên các lĩnh vực. Tuy đạt được kết quả bước đầu,

song việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng như xây dựng đô thị thông

minh trên địa bàn quận vẫn còn những hạn chế nhất định, vấn đề này đã được

đề cập đến trong phần thực trạng chính sách xây dựng đô thị thông minh từ

thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng của Luận văn.

Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa thiết thực, góp phần hoàn thiện

chính sách xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận Thanh Khê trong

những năm đến, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đô thị trong tình

hình mới – thời kỳ của nền công nghiệp 4.0. Đặc biệt, những lợi ích của quá

trình xây dựng đô thị thông minh có giá trị ngày càng lớn trong bối cảnh sức

ép của quá trình đô thị hóa gia tăng, đòi hỏi phải có một phương thức quản lý

mới để xây dựng môi trường sống ngày càng an toàn, thuận lợi, tiết kiệm, gắn

với bảo vệ môi trường, hướng tới xây dựng một xã hội phát triển bền vững

trong tương lai.

Tuy nhiên, việc xây dựng đô thị thông minh là nhiệm vụ hết sức khó

khăn, phức tạp từ cơ sở lý luận cũng như triển khai trong thực tiễn. Đối với

vấn đề lý luận, khái niệm đô thị thông minh có nhiều cách hiểu khác nhau, có

luồng quan điểm cho rằng, đô thị thông minh trước hết phải là đô thị hiện đại,

mà đô thị hiện đại thì phải ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực

đời sống xã hội (theo cách hiểu ngày nay). Cũng có luồng quan điểm cho

rằng xây dựng đô thị thông minh không phải là ứng dụng công nghệ thông tin

trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựng đô thị thông minh là triển khai đồng bộ

một số ứng dụng công nghệ thông tin khá đặc biệt chứ không phải mọi thứ

ứng dụng công nghệ thông tin có thể có…v.v. Từ vấn đề lý luận, nhiều câu

66

hỏi được đặt ra đối với các đô thị triển khai xây dựng đô thị thông minh trong

thực tiễn như: Đô thị thông minh có gì khác đối với đô thị hiện đại? Những

đô thị chưa hiện đại có xây dựng được đô thị thông minh? Các tiến trình hiện

đại hóa và thông minh hóa một đô thị thực chất là một hay hay tiến trình song

song? Một đô thị thông minh thì đòi hỏi mọi yếu tố cấu thành nên nó đều

phải thông minh?...v.v. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng

đô thị thông minh phải hết sức thận trọng, tính toán kỹ càng, phải lấy ý kiến

chuyên gia, nhà khoa học, các bộ, ngành và nhân dân; xây dựng đề án,

chương trình hành động phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, nguồn

lực hiện có của địa phương; phải đặt người dân ở vị trí trung tâm khi xây

dựng đô thị thông minh. Nếu không có nhận thức đúng đắn, đầy đủ, không có

sự chuẩn bị kỹ lưỡng thì việc xây dựng đô thi thông minh sẽ không những

không thành công mà còn gây tốn kém các nguồn lực của nhà nước và xã hội,

sẽ để lại hậu quả lâu dài không dễ gì khắc phục trong thời gian ngắn.

Từ phương pháp luận khoa học chính sách công là một ngành mới và

vấn đề nghiên cứu liên quan đến chính sách xây dựng đô thị thông minh,

trong khi thời gian nghiên cứu có hạn, mặc dù đã cố gắng hết sức để hoàn

thành Luận văn, song do kinh nghiệm chưa nhiều nên không tránh khỏi

những thiếu sót nhất định. Vì vậy, học viên rất mong nhận được sự đóng góp

ý kiến của các thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu khoa học để tiếp tục nghiên

67

cứu, hoàn thiện đề tài.