Chú thích của mấy người làm tui thấy mình thiệt là ngu

Bức 15 tháng Tư năm 1962 của Frank Lobdell ở Bảo tàng Oakland thuộc

California gần đây đã được làm mới lại chú thích.

Trước tình trạng khách tham quan cảm thấy chán, ngợp và hoang mang,

các bảo tàng đang sử dụng các nhóm nghiên cứu, bảng comment, thậm chí

là thuê hẳn các chuyên viên thẩm định để viết lại chú thích trong các phòng

trưng bày.

*

Mới cách đây không lâu, vị khách nào tò mò về bức tranh mang tựa đề 15

tháng Tư năm 1962 của Frank Lobdell, tại bảo tàng Oakland California, sẽ

đọc thấy phần chú thích dán cạnh có những dòng miêu tả sau: “Một hình

dạng bị bó chặt đang vùng vẫy đánh vật với những giới hạn của tấm canvas.

Sơn dày, màu nóng, các đường cọ cứng, và một bề mặt lồi lõm tôn thêm cảm

giác khó chịu. Chúng diễn tả quan điểm của tác giả về thân phận con người

trong cuộc đấu tranh tìm ý nghĩa và danh dự.”

Nhưng trong suốt bốn năm, kể từ khi dòng text đó được viết ra, các curator ở

Bảo tàng Oakland và rất nhiều cơ sở nghệ thuật khác đã phải khởi xướng

một cuộc cách mạng thầm lặng về cách tiếp cận và truyền tải tới khách về

những báu vật họ đang nâng niu. Những cơ sở này đang làm việc cật lực để

tránh xa cái mà Graham W. J. Beal, giám đốc Học viện Nghệ thuật Detroit

gọi là “những lời quyền uy tuyệt đối như thánh phán”. Mục tiêu của họ bây

giờ là cung cấp thông tin và ngữ cảnh của tác phẩm – rồi khuyến khích

người xem phản hồi theo cách của riêng mình.

Nhãn chú thích cạnh tác phẩm của Lobdell là một trong số rất nhiều chú

thích được “tái phù phép” trong lần mở cửa trở lại của Bảo tàng Oakland.

Giờ đây nó ghi: “Những nỗi kinh hoàng khi trải nghiệm mặt đối mặt với thế

chiến thứ Hai của Lobdell đã ảnh hưởng đến ông sâu sắc. Với những đường

xoắn vặn gồ ghề, màu sắc dữ dội, bề mặt sần sùi, Lobdell dườn như đang

thể hiện sự đấu tranh của nhân loại, với những nét vẽ thô tháp hóa thân

những chiếc răng nghiến lại trong một cái hàm không đầu.”

Đã xa rồi thứ ngôn ngữ nghiêm trang về hội họa và những lời đao to diễn tả

mục đích của Lobdell khi vẽ. Thay vào đó, chú thích mới đặt tác phẩm vào

giữa bối cảnh thời Lobdell sống và những trải nghiệm của chính ông. Ngay

cả từ “dường như” trong câu cuối cũng gợi ý rằng chúng ta có thể diễn giải

bức tranh theo nhiều cách khác.

Ngày nay, các bảo tàng nghệ thuật đang trở thành điểm đến cho các khán giả

đa dạng hơn về xã hội và văn hóa, và vị thế họ đang phải miệt mài làm việc

để không chỉ thu hút khách tham quan mà còn phải thu hút cho được sự chú

ý của khách một khi khách đã vào bên trong. Các bảo tàng, gallery đã “ngộ”

ra rằng, những vị khách nào có cảm giác chán, ngợp, hoang mang, hay thậm

chí thấy mình là ngu ngốc chắc chắn sẽ không bao giờ quay lại. “Diễn giải

phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu,” Sara Bodinson, phụ trách về diễn giải và

nghiên cứu ở Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York, nói.

Sử dụng cả nhân viên của bảo tàng lẫn các chuyên gia thuê từ bên ngoài, các

bảo tàng này thực hiện các khảo sát nhóm, đồng thời quan sát khách đi lại

trong bảo tàng. Họ tính thời gian khách xem tranh dừng lại trước một tác

phẩm, thời gian khách dành để đọc các chú thích, và để ý xem liệu khách có

ngoái lại nhìn tác phẩm sau khi đã đọc chú thích về nó hay không.

Từ đó họ biết khách có thể “chịu đựng” tối đa bao nhiêu từ trong một chú

thích riêng lẻ (khoảng 50 từ), số lượng chú thích cho cả phòng (không quá

150), và các dòng text giới thiệu đại cương (tối đa là 300). Họ cũng biết

thông thường hầu hết khách tham quan dành 10 giây để đứng trước một tác

phẩm – 7 giây để đọc chú thích, 3 giây để quan sát tác phẩm. Họ cũng biết

rằng thông thường sau 45 phút thì khách bắt đầu mệt, và rằng các câu hỏi và

phân vân trong đầu khách thường là những thứ cơ bản nhất, ví dụ như:

- Mình chẳng biết phải bắt đầu từ đâu

- Mình chẳng biết phải xem cái gì trước

- Mình xem cái này thế đã đủ lâu chưa nhỉ?

- Cái này nghĩa là gì đây?

- Mấy cái chú thích này làm mình thấy mình ngu quá.

- Nghệ sĩ đã làm ra tác phẩm này như thế nào nhỉ?

- Sao bảo tàng lại trưng bày cái này?

- Cái này có đúng là nghệ thuật không?

“Ngày nay không thể cứ thế mà đoán mò người ta hiểu thế nào đâu,” Geri

Thomas, sáng lập công ty tư vấn và cung cấp nhân lực nghệ thuật Thomas &

Cộng sự nói.

Mùa hè - FLobdell

Năm 2000, Viện Nghệ thuật Detroit quyết tâm xem xét lại những quan niệm

của mình về khách tham quan – kết quả là họ đã mang lại cho bảo tàng cả

một sự lột xác.

Các vị quản lí, giảng viên, thành viên cộng đồng, cho đến nhân viên bảo vệ,

và các chuyên gia marketing cũng được bổ nhiệm về các nhóm đa ngành để

tính xem có những cách nào để giúp các gallery trở nên dễ hiểu và thân thiện

hơn với khách tham quan. Ngoài ra còn thuê các nhà tư vấn viên để giúp

hoạch định chiến lược và làm công tác nghiên cứu.

Các bảo tàng thậm chí còn muốn đưa giọng nói của nghệ sĩ vào trải nghiệm

thị giác. “Một trong những điều mà khách thường nói với chúng tôi là họ

muốn có cảm giác được kết nối với nghệ sĩ,” Nancy J. Blomberg, quản lí khu

nghệ thuật bản địa tại Bảo tàng Nghệ thuật Denver cho biết. Blomberg

chẳng hạn, đang thuê chuyên gia bậc thầy Heather Nielsen sắp xếp lại bộ

sưu tập của mình, tập trung nhiều hơn vào người nghệ sĩ phía sau tác phẩm.

Một phiên bản lớn trên màn hình cảm ứng của một vài bức tranh sẽ cho phép

khán giả zoom vào một số phần nhất định và nghe chính nghệ sĩ nói về

chúng.

Ngay tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, vốn được xem là khá bảo thủ,

giám đốc Thomas Campbell cũng nhấn mạnh là “với một cơ sở như chúng

ta, điều tối quan trọng là phải nhạy cảm hơn với nhu cầu của các khách

tham quan ngày càng đa dạng một khi họ đã bước vào đây.”

Ông và đồng nghiệp đang tiến hành một nghiên cứu nhu cầu khách tham

quan, từ banner cho đến bản đồ cho đến biển chỉ dẫn đưa khách đi vòng

quanh bảo tàng. “Chúng tôi cũng phải tính đến việc thay đổi quan niệm

trong việc chúng ta cung cấp thông tin có tính giáo dục cho khách tham

quan,” Campbell nói. “Chúng ta muốn thu hút sự chú ý của người xem.

Ngay cả một giai thoại nhỏ đưa vào cũng có thể tạo nên sự khác biệt.”

Mặc dù khách tham quan thường xuyên phàn nàn là tác phẩm làm họ rối trí,

rằng họ không biết nhìn vào đâu – thậm chí là vì sao phải nhìn, nhưng các

bảo tàng mỹ thuật đương đại nói chung vẫn tụt hậu trong việc áp dụng

những cách thức chú giải mới. “Khách mà không quen với nghệ thuật đương

đại sẽ có cảm giác như mình bị lừa,” giám đốc giáo dục của Bảo tàng

Whitney, Kathryn Potts, thừa nhận. “Việc của chúng tôi là phải cân bằng

cho được giữa những ước muốn của người nghệ sĩ với trách nhiệm của bảo

tàng là khiến tác phẩm dễ tiếp cận công chúng hơn.” Sự cân bằng đó “không

dễ gì đạt được.” Ví dụ trong triển lãm tổng kết sự nghiệp gần đây của Roni

Horn, căn phòng để nghệ sĩ sắp đặt vẫn được dành riêng ra như ý muốn.

Nhưng các chú thích phải túm tụm đặt hết ở ngoài cửa ra vào thay vì cạnh

từng tác phẩm. Ngoài ra có sẵn một bảng giới thiệu trên tường, video phỏng

vấn nghệ sĩ và cả một brochure để mang về nhà.

Sắp đặt của Roni Horn

Đối lập với xu hướng diễn giải “thân thiện với khách tham quan” nói chung

là Bảo tàng Menil của Houston, họ không có ban giáo dục cũng không có

hướng dẫn viên. Những người sáng lập ra nó, John và Dominique de Menil

tin rằng mỗi tác phẩm nghệ thuật tự thân nó có đời sống tinh thần của nó.

“Có lẽ chỉ có sự im lặng và tình yêu là phản hồi xứng đáng dành cho một tác

phẩm nghệ thuật vĩ đại,” Dominique từng nói. Bảo tàng này trân trọng triết

lí sáng lập của mình: chú thích tối thiếu và các tác phẩm được treo khá thấp

để chúng có thể “trò chuyện với người xem một cách trực tiếp”. “Và chúng

tôi cũng cố hết sức để treo tác phẩm thật là thưa, sao cho người xem có thể

có một trải nghiệm ‘mặt đối mặt’ với một tác phẩm nghệ thuật.”

Tại bảo tàng nghệ thuật Chicago, các curator sử dụng cả nhân viện an ninh,

người thuyết minh và các nhân viên làm dịch vụ chăm sóc khách tham quan

để giúp diễn giải đến người xem những tác phẩm khó hiểu, thí dụ sắp đặt

Không Đề rộng gần 75m2 của Robert Gober (1989 – 1996). Thêm vào đó,

mỗi tác phẩm trưng bày đều có các chú thích mới dài tối đa 150 chữ. “Chúng

tôi cố gắng để đưa càng nhiều thông tin cụ thể về tác phẩm càng tốt. Và

chúng tôi cũng cố đem giọng nói của nghệ sĩ vào càng nhiều càng tốt,” Lisa

Dorin, trợ lí quản lí của khu nghệ thuật đương đại cho biết.

Không đề - Sắp đặt của Robert Gober

Một số nơi lại giải quyết vấn đề hóc búa “tôi chẳng bao giờ hiểu nổi cái này”

trước nghệ thuật đương đại bằng cách dẫn lời tác giả, hoặc trích dẫn suy

nghĩ của một người xem nào đó về tác phẩm. Ví dụ ở Oakland, nhà thơ

Jaime Cortez được thuê để viết “cảm nhận cá nhân” cho các tác phẩm trưng

bày; điều này không chỉ chuyển tải trải nghiệm của nhà thơ khi ngắm tác

phẩm mà còn gợi ý một hướng cảm nhận tác phẩm.

“Đây là một tác phẩm nặng nhọc,” Cortez viết về bức phù điêu bằng dây

đồng cuốn của Ruth Asawa có tên Không đề (1959). “Tác phẩm định ra một

không gian bên trong nhưng lại không quây không gian ấy lại. Biến chính

cái bóng của mình thành nghệ thuật, nó cho bạn thấy rất nhiều khuôn mặt

khi đi vòng quanh nó. Nó đưa nghệ thuật đan kim móc tinh tế vào và biến

nghệ thuật ấy thành sức mạnh. Hơn tất cả, nó sử dụng một sợi đồng đơn

giản để vẽ ra cả một con đường chông gai của sự biến đổi.”

Tác phẩm của Asawa

Nhưng để các bảo tàng đã có thâm niên hàng nhiều thế kỉ chuyển sang chiến

lược diễn giải mới cần thời gian, tiền bạc, không gian trưng bày quý giá, sự

ủng hộ của cả hệ thống và chỉ đạo nghiêm túc từ cấp trên. “Một sự thay đổi

toàn bộ như thế này – đặt khách tham quan làm trọng tâm – là một sự thay

đổi về thái độ,” Kelly McKinley của Bảo tàng Nghệ thuật Ontario ở

Toronto, nói.

Cuộc cách mạng chú thích treo tường cũng có nhiều kẻ gièm pha. Một số

người lo ngại rằng học thuật sẽ bị ảnh hưởng và những dòng text sẽ bị “làm

cho ngu đi” để thỏa mãn đại bộ phận công chúng.

Trong một cuộc tổng kết triển lãm năm 2009, nhà phê bình của tờ New York

Times Ken Johnson chê bai những chú giải của bảo tàng Newark là khó chịu

và như “những lời bình của giáo viên”. Những khách tham quan trình độ

cao, vốn chỉ thích các bảo tàng địa phương giữ nguyên trạng, phàn nàn rằng

các bảo vật quý giá đã phải gửi vào kho để lấy chỗ cho các biển chú thích

phóng to và để các buổi triển lãm có tính tương tác cao hơn. Một số người

khác lại chỉ thích sự yên tĩnh tuyệt đối trong các gallery – một sự yên tĩnh

đang dần bị thay thế bởi các cuộc trò chuyện và những hoạt động khác nhau.

Nhưng phần lớn người xem thì nói với các bảo tàng là họ không thể thông

cảm nổi với hàng dãy hàng lang vô tận những tác phẩm có vẻ như sinh ra đã

đi kèm chú thích. Họ muốn được chạm vào nghệ thuật kìa, được có những

buổi đối thoại trong gallery, được ghé mắt vào vào cách thức hoạt động bên

trong của một bảo tàng, được nói chuyện với các nghệ sĩ và thách thức các

curator.

Và các bảo tàng đang lắng tai nghe. Và khách tham quan, khi đưa mắt đọc

những mẩu chú thích nhỏ xinh, xem những màn hình cảm ứng mới, các tư

liệu video và các hoạt động khác là đang được mời mọc bước vào cái mà

nhà tư vấn bảo tàng Douglas Worts gọi là “một hình thức liên kết mới, đánh

thức nàng thơ trong mỗi chúng ta”.