CHÙA THẦY ĐỘC ĐÁO NÉT KIẾN TRÚC XỨ
ĐOÀI XƯA
Nằm gọn dưới chân một dải núi đá vôi hình vòng cung nổi lên giữa vùng đồng
bằng xã Sài Sơn, chùa Thầy (Thiên Phúc tự) thuộc địa phận hai thôn Đa Phúc và
Thụy Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, là một vùng non nước hữu tình, cảnh
trí như chốn bồng lai. Theo lời kể của các cụ già ở địa phương, trước khi Từ Đạo
Hạnh đến đây lập chùa thì ở dưới chân núi có một hồ nước. Phía trước hồ có một
doi đất lớn chạy từ khoảng giữa của dải núi nhô ra như một con rồng đang trườn
mình uống nước hồ. Những người hưng công xây dựng chùa đã đắp cho doi đất
rộng thêm ra, đủ để xây dựng một ngôi chùa bề thế. Người ta cũng ví dãy núi Sài
Sơn như một con rồng đang trầm mình, đầu gác lên thành ngọn Long Đẩu. Hoặc ví
Sài sơn chính là con rồng và ngọn Long Đẩu là viên ngọc trong miệng rồng.
Không chỉ có lợi thế về tự nhiên mà chùa Thầy còn là nơi quần cư, bốn bề làng
xóm bao bọc khiến chốn Thiền không này trở nên phồn thịnh, đèn hương chăm
chút quanh năm. Với vị trí đắc địa: nằm ven bờ sông Đáy- một trục giao thông
chính ngày xưa, chùa Thầy như một “mắt xích” của chuỗi di tích gồm chùa Long
Đẩu, chùa Hoa Phát, chùa Kim Hoàng, chùa Bối Am.... lập thành một quần thể
kiến trúc thống nhất.
Chùa Thầy có kiến trúc tiền Phật - hậu Thánh - một kiểu thức khá đặc biệt trong
Phật giáo Việt Nam cũng như cả vùng Đông Nam Châu á nói chung. Tính đến nay
ở vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 15 ngôi chùa tiền Phật - hậu Thánh nhưng
chỉ có 5 chùa có kết cấu mặt bằng đích thực kiểu tiền Phật- hậu Thánh, tức có kiến
trúc riêng để thờ Thánh. Cùng với những ngôi chùa khác như chùa Keo (Thái Bình
và Nam Định), chùa Bối Khê, chùa Tổng (Hà Tây cũ), chùa Thầy là một ví dụ điển
hình cho lối kiến trúc này, tuy nhiên ít nhiều nó lại có những nét độc đáo riêng biệt.
Xa xưa, chùa vốn là một am nhỏ kiểu Bồ Đề viện của Từ Đạo Hạnh - một trong
những vị thiền sư nổi tiếng của Phật giáo Việt Nam thời Lý- Trần. Theo Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư và các tàng thư: sau khi Đạo Hạnh thoát xác thì phu nhân Đỗ Thị
sinh con trai. Người làng cho là việc lạ nên đã để xác Đạo Hạnh vào trong khám
thờ. Như vậy, việc thờ Từ Đạo Hạnh xảy ra ngay sau khi ông mất tức là năm 1117.
Có thể đây là lúc những ngôi chùa vừa thờ Phật, vừa thờ Thánh đầu tiên xuất hiện.
Tại chùa Thầy hiện nay vẫn còn thấy hai bệ đá hoa sen hình hộp đặt chồng lên
nhau, và một chiếc bệ đá đặt tượng Từ Đạo Hạnh. Những chiếc bệ đá này dù
không ghi niên đại nhưng căn cứ vào cách thức tạo dáng, trang trí, các nhà nghiên
cứu mỹ thuật cho rằng chúng có niên đại thời Lý- Trần. Điểm đáng chú ý là hai
chiếc bệ đá này vốn dùng để đặt tượng Phật lại không ở thượng điện mà đều đặt ở
gian thờ Thánh. Chúng chứng tỏ xa xưa, đây chính là trung tâm điện Phật thời Lý
Trần, và kiểu tiền Phật- hậu Thánh là sản phẩm thời Lý- Trần và được ngự trong
một mái chùa.
Chùa hiện còn lưu giữ 7 tấm bia đá đều có niên đại vào khoảng thế kỷ 17, trong đó
có 1 tấm bia “Hưng tạo sự công” dựng năm Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc
xây dựng nơi thờ Thánh và tên người cúng ruộng công đức. Từ niên đại được ghi
trên bia đá, và những vết tích trên kiến trúc, ta có thể hình dung rằng chùa Thầy
vốn được xây dựng trên nền tảng cũ đời Trần, chỉ đến khi có đợt trùng tu lớn vào
thế kỷ 17, chùa mới có dạng “nội công ngoại quốc” như ngày nay. Cũng từ đợt
trùng tu này, hai cụm kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh đã được tách thành hai công
trình riêng biệt, đánh dấu sự ra đời chính thức của kiểu thức chùa tiền Phật - hậu
Thánh.
Ngày nay chùa Thầy mặc dầu chùa Phật và điện Thánh đã được tách riêng, nhưng
chúng vẫn được nối với nhau theo kết cấu hình chữ công. Nhưng hầu như không
giống với bất kỳ ngôi chùa “nội công ngoaị quốc” khác, cái tài tình của các nhà
kiến trúc dân gian là khi dựng chùa đã làm ẩn mái tòa Thiêu hương nếu ta quan sát
từ sân chùa. Do vậy, chúng khiến ta dễ lầm tưởng rằng chùa được bố cục kiểu chữ
Tam. Không chỉ ngoại thất, những kết cấu chi tiết bên trong chùa cũng hết sức
đáng lưu tâm. Bộ khung kiến trúc của chùa được tạo nên bởi kiểu kết cấu hai loại
vì kèo, kẻ chuyền và giá chiêng. Đây là một hình thức tương đối rất hiếm thấy so
với những ngôi chùa cùng loại ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài ra bối cảnh xã hội thế kỷ XVII khi kinh tế phát triển, quyền tự chủ của các
làng xã trở nên mạnh mẽ hơn. Đây cũng là thời điểm, văn hóa Việt Nam có những
sự khẳng định quyền tự chủ dân tộc trước những nước ngoại bang. Do vậy, người
ta đã đặc biệt quan tâm tới các vị Thánh, không có xuất xứ từ Đạo giáo Trung Hoa,
mà là những người có công với nước, với dân. Do vậy khi được đưa vào thờ trong
các ngôi chùa, các vị thánh này không chỉ được thờ theo lối Hậu Phật rất phổ biến
trong thế kỷ XVII, mà được thờ như những vị tổ nghề của cả một vùng đất. Như
truyền thuyết về Dương Không Lộ, khiến cho dân gian coi ông là tổ của nghề đúc
đồng, làm nón, đánh cá, trị thuỷ. Còn Đức Thánh Từ Đạo Hạnh thì không chỉ là
một vị Thiền sư mà còn được xem là ông tổ của nghề múa rối nước. Thế nên, đôi
khi việc thờ Thánh ở đây lại được đặt ở một vị thế cao hơn thờ Phật. ở chùa Thầy
từ việc bài trí nội thất, cho đến kiến trúc ở điện Thánh đều có phần trọng thị hơn
điện Phật. Từ những chiếc chiếc nhang án, cho đến những khám thờ đều được làm
rất công phu và có niên đại cổ nhất.
Không chỉ vậy, chùa Thầy còn có tới ba pho tượng Từ Đạo Hạnh. Một được đặt tại
nhà Tổ, một ở ban thờ chính và một đặt trong khám Từ Đạo Hạnh tại Điện Thánh.
Trong đó, pho tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên được làm theo hình thức tượng
rối đặt trong khám thờ tại điện Thánh là đáng chú ý hơn cả. Tương truyền, tượng
này có những đốt khớp và một dây xích, khi mở khám ra tượng có thể đứng dậy
chào... Khám này cũng chỉ được mở mỗi năm một lần vào dịp lễ hội. Và pho tượng
này được tạo tác một cách đặc biệt như vậy không nằm ngoài mục đích nhằm đề
cao vai trò của đức thánh Từ - vị thánh được nhân dân trong vùng tôn xưng như
ông tổ của nghề múa rối nước. Điều đó cũng lý giải vì sao ngay phía trước chùa có
một nhà Thuỷ Đình dùng để làm buồng trò cho các phường múa rối đến biểu diễn
trong mỗi dịp lễ hội. Ngoài ra, ngày thường chùa thường chỉ mở cửa phụ để du
khách thập phương tới dâng hương thẳng vào điện Thánh mà không phải qua tiền
đường thờ Phật. Tại đây Điện Thánh được gọi là chùa Thượng còn Điện Phật là
chùa Trung, cách gọi này cũng có thể xem như một bằng chứng xác thực cho việc
trọng Thánh hơn Phật ở chùa Thầy.
Từ cảnh quan non nước hữu tình, cho đến những truyền thuyết sống động về đức
Thánh Từ Đạo Hạnh, một trong Tứ bất tử của Việt Nam, đã làm cho vùng đất Sài
Sơn trở nên linh thiêng. Và chùa Thầy một công trình kiến trúc đẹp đẽ hiếm có trở
thành một trung tâm Phật giáo của đồng bằng bắc bộ, một chốn thiền không để
người ta có thể tìm về.