BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------
Phạm Vũ Minh Khoa
CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN ĐỂ TẠO VỐN CHO THỊ
TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Vũ Minh Khoa
--------------
CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN ĐỂ TẠO VỐN CHO THỊ
TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học do chính tôi thực
hiện. Các thông tin và số liệu sử dụng trong luận văn này được trích dẫn đầy đủ tại
danh mục tài liệu tham khảo và hoàn toàn trung thực, chính xác.
Tác giả: Phạm Vũ Minh Khoa
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT
ĐỘNG SẢN VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỨNG KHOÁN HOÁ
CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN ................................................. 5
1.1.1. Khái niệm chứng khoán hoá và chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất
động sản ........................................................................................................................ 5
1.1.1.1. Chứng khoán hoá.............................................................................................. 5
1.1.1.2. Chứng khoán hoá khoản vay thế chấp bất động sản .......................................... 6
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chứng khoán hoá các khoản vay thế chấp bất
động sản ........................................................................................................................ 7
1.1.2.1. Giai đoạn hình thành (1920 -1980).................................................................... 7
1.1.2.1.1. Trước chiến tranh thế giới thứ II .................................................................... 7
1.1.2.1.2. Sau chiến tranh thế giới thứ II ........................................................................ 8
1.1.2.2. Giai đoạn phát triển (từ 1980 đến nay) .............................................................. 11
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHỨNG KHOÁN HOÁ KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN............................................................................................. 11
1.2.1. Hiệu quả tài chính cao hơn................................................................................... 11
1.2.2. Cải thiện cấu trúc của bảng cân đối kế toán.......................................................... 12
1.2.3. Quản lý rủi ro tốt hơn........................................................................................... 12
1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HOÁ.................................................... 14
1.3.1. Mô hình của Nick Davis (2000)........................................................................... 14
1.3.2. Mô hình áp dụng thành công tại Ấn Độ (Công ty Dun & Bradstreet) ................... 16
1.3.3. Mô hình của Pactrick Wood (2007) ..................................................................... 19
1.4. XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
MBS.............................................................................................................................. 21
1.5. NHỮNG BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
CHỨNG KHOÁN HÓA.............................................................................................. 22
Kết luận chương 1 ....................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: TÍNH KHẢ THI CỦA VIỆC CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC
KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY ... 24
2.1.1. Thực trạng ........................................................................................................... 24
2.1.2. Những thuận lợi của ngành bất động sản Việt Nam hiện nay ............................... 25
2.1.2.1. FDI vẫn tập trung cho ngành bất động sản ........................................................ 25
2.1.2.2. Thu hút nguồn vốn từ các thị trường khác......................................................... 26
2.1.2.3. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010 khả quan của một số doanh nghiệp
bất động sản .................................................................................................................. 27
2.1.3. Những khó khăn của ngành bất động sản Việt Nam hiện nay............................... 27
2.1.3.1. Quy định về thuế thu nhập khi chuyển nhượng bất động sản............................. 27
2.1.3.2. Quy định mới về giá đất đền bù ........................................................................ 28
2.1.3.3. Qui định Nhà nước về việc hạn chế cho vay đối với bất động sản ..................... 29
2.1.3.4. Giá nguyên vật liệu tăng cao ............................................................................. 31
2.1.3.5. Lãi suất tăng cao ............................................................................................... 32
2.1.3.6. Cung vượt quá cầu ở nhiều mảng sản phẩm ...................................................... 33
2.2. THỰC TRẠNG CHO VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM...... 34
2.2.1. Nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản ............................................................. 34
2.2.2. Thực trạng cho vay thế chấp bất động sản trong thời gian qua ............................. 35
2.3. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO VIỆC CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM...... 36
2.3.1. Tổ chức cho vay thế chấp bất động sản ................................................................ 36
2.3.1.1. Ngân hàng......................................................................................................... 36
2.3.1.2. Quỹ phát triển nhà ở ......................................................................................... 37
2.3.1.3. Quỹ tiết kiệm nhà ở........................................................................................... 37
2.3.2. Tổ chức hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa............................................................ 39
2.3.2.1. Tổ chức bảo lãnh phát hành .............................................................................. 39
2.3.2.2. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm .............................................................................. 41
2.3.3. Tổ chức chuyên trách chứng khoán hóa ............................................................... 44
2.3.3.1. Qui định về mua bán nợ tồn đọng ..................................................................... 44
2.3.3.2. Qui định về chứng khoán hóa............................................................................ 46
2.3.3.3. Qui định về Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (Real Estate Investment Trust
- REIT).......................................................................................................................... 47
2.4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG
CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN ........ 49
2.4.1. Những thuận lợi................................................................................................... 49
2.4.1.1. Thị trường tiềm năng ........................................................................................ 49
2.4.1.2. Nhu cầu nhà ở ngày càng tăng cao .................................................................... 52
2.4.1.3. Học hỏi được kinh nghiệm của các nước đi trước ............................................. 53
2.4.1.4. Hội nhập quốc tế............................................................................................... 54
2.4.2. Những khó khăn .................................................................................................. 54
2.4.2.1. Chưa có pháp lý và các tổ chức trung gian để thực hiện nghiệp vụ chứng
khoá hóa........................................................................................................................ 54
2.4.2.2. Chưa minh bạch về thông tin ............................................................................ 54
2.4.2.3. Thị trường bất động sản chưa phát triển và thiếu minh bạch.............................. 55
2.4.2.4. Rủi ro nợ vay dưới chuẩn.................................................................................. 56
Kết luận chương 2 ....................................................................................................... 57
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ CÁC BƯỚC CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC
KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM
3.1. SỰ CẦN THIẾT CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM ................................................................ 59
3.1.1. Giải quyết vấn đề nhà ở cho người có thu nhập thấp ............................................ 59
3.1.2. Nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại ..................................................... 60
3.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN
VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN .......................................................................... 61
3.2.1. Về môi trường pháp lý ......................................................................................... 61
3.2.2. Về môi trường pháp luật ...................................................................................... 62
3.2.3. Về môi trường thuế.............................................................................................. 62
3.2.4. Về tăng cường tín nhiệm...................................................................................... 63
3.2.5. Về xếp hạng tín nhiệm ......................................................................................... 64
3.2.6. Các vấn đề khác................................................................................................... 64
3.2.6.1. Ngân hàng thương mại...................................................................................... 64
3.2.6.2. Cung cấp thông tin đầy đủ cho nhà đầu tư......................................................... 64
3.3. XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY
THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN.................................................................................... 65
3.3.1. Lợi ích của SPV................................................................................................... 68
3.3.2. Rủi ro và hướng xử lý .......................................................................................... 70
3.4. LOẠI HÌNH TỔ CHỨC CỦA SPV ..................................................................... 71
3.5. LOẠI KHOẢN VAY ĐỀ NGHỊ CHỨNG KHOÁN HÓA.................................. 74
3.6. LOẠI CHỨNG KHOÁN ĐỀ NGHỊ PHÁT HÀNH ............................................ 74
3.7. NHỮNG RỦI RO TIỀM ẨN TRONG QUÁ TRÌNH CHỨNG KHOÁN
HÓA KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM .................... 76
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ABS Asset Backed Securities
ASEAN
Information Credit ASIAGATE
Association of Southeast Asia Nations Asian Gateway Capital Adequacy Ratio BĐS CAR
CB Richard Ellis CBRE
CIC CPI
CRC
Trading and Asset DATC
Chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản tài chính Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Cổng thông tin tín nhiệm châu Á Bất động sản Hệ số an toàn vốn Công ty CB Richard Ellis Việt Nam Trung tâm thông tin tín dụng Chỉ số giá tiêu dùng Trung tâm Khoa học Thẩm định Tín nhiệm Doanh nghiệp Công ty TNHH MTV Mua bán nợ Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài Cơ quan nhà ở liên bang FDI FHA
FHLMC Công ty cho vay mua nhà có thế chấp liên bang
FNMA
Tổ chức thế chấp Nhà nước liên bang Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Tổ chức thế chấp quốc gia GNMA Credit Infomation Center Consumer Price Index Enterprise Credit Rating Appraise Science Center Debt Corporation Foreign Direct Investment Federal Housing Administration The Loan Federal Home Mortgage Corporation (Freddie Mac) The Federal National Mortgage Association (Fannie Mae) Gross Domestic Product Government National Mortgage Association (Ginnie Mae)
HNX Hanoi Stock Exchange
HOLC Home Owners’ Loan Corporation
Hochiminh Stock Exchange HOSE
International Monetary Fund IMF
Mortgage Backed Securities MBS
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội Công ty cho vay những người sở hữu nhà Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Quỹ tiền tệ quốc tế Chứng khoán có thế chấp bất động sản làm đảm bảo Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng thương mại
NHNN NHTM ODA Economic OECD Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức Organization for Cooperation and Development Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
REIT Real Estate Investment Trust
SGDCK
SPV Special Purpose Vehicle
TCTD TTCK VA Veterans Administration
VietnamCredit
WTO World Trade Organization Quỹ tín thác đầu tư bất động sản Sở giao dịch chứng khoán Tổ chức trung gian chuyên trách Tổ chức tín dụng Thị trường chứng khoán Hội Cựu chiến binh Công ty thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp Việt Nam Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Giá đất tại các thành phố lớn Châu Á ............................................................ 24
Bảng 2.2: Dự án bất động sản có vốn FDI đăng ký lớn .................................................. 26
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh năm 2010 của các công ty BĐS niêm yết ....................... 27
Bảng 2.4: Qui mô thị trường chứng khoán giai đoạn 2000 – 2010 ................................. 50
Bảng 2.5: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức huy động vốn ............................. 51
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Vốn FDI giai đoạn 2006 – 2010 ..................................................................... 25
Hình 2.2: Thực trạng huy động, cho vay giai đoạn 2003 - 2010..................................... 29
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng CPI từ 07/2010 - 06/2011................................................ 31
Hình 2.4: Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và lãi suất cho vay bình quân của Ngân
hàng Á Châu từ 07/2010 – 06/2011 ............................................................................... 32
Hình 2.5: Dư nợ cho vay thế chấp bất động sản giai đoạn 2008 – 2010 ......................... 35
Hình 2.6: Dư nợ cho vay thế chấp bất động sản của các ngân hàng................................ 36
Hình 3.1: Quy trình chứng khoán hóa đề xuất cho Việt Nam trong giai đoạn đầu .......... 67
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong báo cáo phân tích số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Bộ
Xây dựng dự báo về nhu cầu về nhà ở và vốn đầu tư để phát triển nhà ở đến năm
2015. Cụ thể: Dân số Việt Nam ước tính đạt 91,5 triệu người, do đó diện tích nhà ở
cần đáp ứng cho cả thành thị và nông thôn sẽ vào khoảng 1.966,6 triệu mét vuông
(bình quân 21,5m2 sàn xây dựng/người). Để hoàn thành chỉ tiêu này, nhu cầu vốn
đầu tư vào nhà ở dự tính khoảng 2.205.000 tỷ đồng (tương đương 100 tỷ USD),
trung bình, mỗi năm cần khoảng 20 tỷ USD vốn đầu tư.
Các doanh nghiệp bất động sản chưa có thực lực về tài chính vì tỷ trọng vốn tự có
quá nhỏ so với nhu cầu đầu tư và đa phần phải vay ngân hàng đến 70 - 80% tổng
vốn đầu tư, với thời hạn 10 - 15 năm. Điều đó làm ảnh hưởng tới tiến độ đầu tư và
khả năng thanh toán. Thậm chí, các doanh nghiệp Việt Nam cũng mất nhiều cơ hội
để thâm nhập vào phân khúc thị trường bất động sản cao cấp do ít vốn.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến hết ngày 31/12/2010, dư nợ cho vay thế
chấp bất động sản đạt khoảng 224.843 tỷ đồng. Tuy nhiên, số tiền trên vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu vốn mà thị trường đang cần từ nay đến hết năm 2015.
Trong thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước liên tục đưa ra những chính sách để
kiểm soát rủi ro cho hệ thống ngân hàng trong việc cho vay thế chấp bất động sản.
- Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 qui định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn
ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn của ngân hàng là 30%. Với
qui định này, các ngân hàng cân nhắc việc cho vay thế chấp bất động sản.
- Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 nâng hệ số an toàn vốn CAR (Vốn
tự có/ Tổng tài sản “Có” rủi ro) của các ngân hàng từ 8% lên 9%. Về cơ bản, chỉ có
hai cách để tăng tỷ lệ CAR, đó là tăng tử số "vốn tự có" và giảm mẫu số "tổng tài
sản có rủi ro". Đồng thời qui định khoản vay kinh doanh bất động sản có hệ số rủi
2
ro tăng từ 100% lên 250%. Như vậy việc cho vay thế chấp bất động sản càng nhiều
làm cho CAR càng nhỏ.
Ngoài ra, thông tư 13 cũng qui định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy
động. Như vậy nguồn cung vốn cho vay sẽ bị giảm đáng kể và do đó cũng tác động
đến việc cho vay thế chấp bất động sản.
- Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 qui định giảm tỷ trọng cho vay lĩnh vực
phi sản xuất xuống tối đa là 20% vào cuối tháng 6/2011 và 15% vào cuối tháng
12/2011. Việc vay mua bất động sản để ở, bán, cho thuê được xếp vào lĩnh vực phi
sản xuất nên buộc các ngân hàng không những không tiến hành cho vay mới mà còn
phải tiến hành thu hồi nợ cho vay thế chấp bất động sản trước hạn để giảm tỷ lệ cho
vay lĩnh vực phi sản xuất xuống. Chính quyết định này làm cho thị trường bất động
sản vốn đã gặp khó khăn với Thông tư 13 nay còn chịu nhiều khó khăn hơn.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại đang khát vốn đã đẩy lãi suất huy
động đầu vào lên cao làm cho lãi suất cho vay trung dài hạn thế chấp bất động sản
hiện đang ở mức 24%/năm thuộc vào hàng cao nhất thế giới. Nhiều dự án bất động
sản phải hoãn lại chờ đến khi lãi suất hạ nhiệt, nhiều doanh nghiệp phải bán lại dự
án để cầm cự do không đủ tiền trả lãi vay và tính riêng qu ý 2/2011 có tổng cộng 7
công ty đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán đã bị lỗ như LGL, NTB, IDJ,
ITC, công ty mẹ CII, công ty mẹ KBC, công ty mẹ HAG.
+ Chứng khoán hóa xuất phát từ Mỹ và sau đó được ứng dụng hiệu quả vào nhiều
quốc gia tại Châu Âu, Châu Á. Tính đến nay, chứng khoán hóa đã có lịch sử phát
triển hơn 40 năm và đã mang lại nhiều thành công cho các quốc gia triển khai, đặc
biệt trong việc triển khai chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất động sản. Thông
qua hoạt động chứng khoán hóa, các khoản vay thế chấp bất động sản được giải
phóng khỏi ngân hàng, giúp ngân hàng tránh khỏi rủi ro tín dụng và rủi ro trả trước
của người vay từ đó cải thiện đáng kể cấu trúc tài chính của ngân hàng. Bên cạnh
đó, ngân hàng nhận được lượng tiền mặt từ việc bán khoản vay để rồi sau đó tiếp
tục cho vay. Khi đó, đối với thị trường bất động sản, vốn vay từ ngân hàng sẽ dễ
3
tiếp cận hơn và chi phí vay cũng thấp hơn. Như vậy, thông qua chứng khoán hóa,
bài toán về vốn cho thị trường bất động sản đã được giải quyết.
+ Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng chưa đủ lực và nhạy cảm với vấn đề rủi ro
trong khi nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản lại quá lớn nhưng chủ yếu dựa
vào vốn vay. Với những xung đột không thể dung hòa này cùng với những lợi ích từ
chứng khoán hóa, tôi đề xuất tiến hành “Chứng khoán hóa các khoản vay thế
chấp bất động sản để tạo vốn cho thị trường bất động sản Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
+ Chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản để giải phóng các khoản
vay thế chấp bất động sản có rủi ro cao khỏi hệ thống ngân hàng.
+ Chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản tạo vốn cho thị trường bất
động sản phát triển.
+ Tính khả thi của việc chứng khoán hóa các khoản vay bất động sản tại Việt Nam.
+ Đề xuất những giải pháp ứng dụng chứng khoán hóa các khoản vay bất động sản
vào Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
+ Hoạt động kinh doanh bất động sản.
+ Hoạt động cho vay thế chấp bất động sản.
+ Hoạt động chứng khoán hóa của một số quốc gia đã thực hiện chứng khoán hóa
thành công.
4. Phương pháp nghiên cứu
+ Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích định tính trên cơ sở lý thuyết đã có
trước đó. Qua quá trình phân tích, các dữ liệu được tập hợp có hệ thống, logic nhằm
làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
4
+ Ngoài ra, đề tài cũng đã sử dụng phương pháp phân tích định lượng các số liệu
thực tiễn để cũng cố quan điểm của đề tài về những thuận lợi và khó khăn của nền
kinh tế tác động đến khả năng chứng khoán hóa tại Việt Nam.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện tại, lĩnh vực bất động sản rất khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng và đồng
thời chi phí vay quá cao đã làm ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường bất động
sản. Đề tài này muốn đề xuất giải pháp để tạo vốn cho thị trường bất động sản phát
triển bền vững. Đây chính là ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn này được kết cấu thành 03 chương (không kể phần mở đầu và phần kết
luận) như sau:
Chương 1. “Chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất động sản và vai trò đối
với thị trường bất động sản” giới thiệu về lịch sử hình thành, phát triển của chứng
khoán hóa, đồng thời giới thiệu những lợi ích trong việc tạo vốn cho phát triển thị
trường bất động sản. Chương này đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn cho Việt
Nam.
Chương 2. “Tính khả thi của việc chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất
động sản tại Việt Nam”. Chương này đề cập đến thực trạng, thuận lợi, khó khăn
của thị trường bất động sản Việt Nam và thực trạng cho vay thế chấp bất động sản
trong thời gian qua. Chương này cũng đưa ra những tiền đề hỗ trợ cho việ chứng
khoán hóa tại Việt Nam.
Chương 3. “Mô hình và các bước chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất
động sản ở Việt Nam”. Qua kết quả phân tích ở chương 01 và 02, tôi đề xuất mô
hình chứng khoán hóa phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn đầu, đề xuất loại
khoản vay nên chứng khoán hóa, đề xuất loại chứng khoán phát hành, đề xuất thành lập công ty chuyên trách chứng khoán hóa.
Chương 1
5
CHƯƠNG 1
CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT
ĐỘNG SẢN VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG BẤT
ĐỘNG SẢN
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỨNG KHOÁN HOÁ
CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
1.1.1. Chứng khoán hoá và chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất động sản
1.1.1.1. Chứng khoán hóa
Thuật ngữ “Chứng khoán hóa” hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam, nhưng được nhắc
nhiều hơn ở các nước có thị trường tài chính phát triển cũng như một số nước có
nền kinh tế mới nổi. Vậy Chứng khoán hoá là gì?
Theo định nghĩa của Ủy ban Chứng khoán Mỹ: “Chứng khoán hóa là việc tạo ra các
chứng khoán dựa trên các luồng tiền cố định hoặc mang tính chất tuần hoàn của một
tập hợp tách biệt các khoản phải thu hoặc các tài sản tài chính. Chứng khoán này
tùy theo cấu trúc thời hạn của chúng sẽ được chuyển đổi thành tiền trong một
khoảng thời gian xác định kèm theo những quyền lợi khác và quyền đối với tài sản
được sử dụng nhằm đảm bảo việc trả nợ hoặc phân phối định kỳ các khoản phải thu
được cho người sở hữu chứng khoán”.
Theo định nghĩa của OECD năm 1995: “Chứng khoán hóa là việc phát hành các
chứng khoán có tính khả mại được đảm bảo không chỉ bằng khả năng thanh toán
của chủ thể phát hành mà bằng các nguồn thu dự kiến có được từ các tài sản đặc
biệt.
Chủ thể phát hành không còn là nhân tố quyết định đến chất lượng của những
chứng khoán phát hành mà chính là khả năng sinh lời của các tài sản dùng làm tài
Chương 1
6
sản bảo đảm mới quyết định thu nhập và độ an toàn của các chứng khoán phát
hành”.
Theo luật chứng khoán của Singapore: “ Chứng khoán hóa về cơ bản là một tiến
trình trong đó tài sản hay các khoản sinh lợi từ tài sản được bán cho các tổ chức
trung gian chuyên trách (SPV), các SPV này sẽ huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán được đảm bảo chủ yếu bằng các tài sản đó”.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “Securitisation” chưa được chính thức dịch sang tiếng Việt,
nhiều tác giả tạm dịch là “chứng khoán hóa”. Nguyên tắc căn bản của nó là biến các
chứng từ tài sản (nằm bên asset của bảng cân đối tài khoản, tức sử dụng nguồn vốn
của ngân hàng) thành các sản phẩm có thể mang ra bán trên thị trường chứng
khoán. Theo kỹ thuật này, bất cứ chứng từ tài sản nào cũng có thể “chứng khoán
hóa” được, từ chứng từ tín dụng truyền thống, tín dụng bất động sản, tín dụng
thương mại, v.v.
1.1.1.2. Chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất động sản
Tiến sỹ kinh tế trường Đại học Kinh Tế TP.HCM Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2006)
thông thường, kỹ thuật chứng khoán hóa được thực hiện trên 2 nhóm tài sản đó là:
(1) các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và (2) các tài sản tài chính
không được thế chấp bằng bất động sản. Như vậy, tương ứng với hai loại tài sản
trên thì sau khi được chứng khoán hóa sẽ hình thành hai loại chứng khoán: (1) Các
chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed securities), gọi tắt là
MBS và (2) các chứng khoán tài sản tài chính (Asset backed secuirities), gọi tắt là
ABS.
ABS là các trái phiếu được hình thành từ các tài sản tài chính. Các tài sản tài chính
ở đây được hiểu là các khoản phải thu khác với các khoản vay có tài sản thế chấp, ví
dụ như các khoản phải thu từ thẻ tín dụng, khoản vay mua ô tô, vay để xây nhà, vay
để tiêu dùng cho gia đình. Từ đó rút ra được điểm khác biệt lớn nhất giữa ABS và
các loại trái phiếu khác là mức độ tín nhiệm của các nguồn thu, khả năng thanh toán
của các tài sản tài chính.
Chương 1
7
MBS là trái phiếu được hình thành từ các khoản vay thế chấp bất động sản. Những
người mua MBS, thay vì, trả cho nhà đầu tư nhận một khoản trái tức cố định và tiền
gốc, thì người phát hành chứng khoán thanh toán bằng dòng tiền phát sinh từ những
khoản vay thế chấp bất động sản được dùng để đảm bảo cho số trái phiếu.
Như vậy, chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản là một kỹ thuật tài
chính trong đó một tập hợp các khoản vay thế chấp bất động sản được bán cho một
tổ chức trung gian chuyên trách, mà tiền mua các hợp đồng này được tổ chức trung
gian chuyên trách này huy động thông qua phát hành trái phiếu được đảm bảo
chính bằng các khoản thu từ tập hợp các hợp đồng cho vay thế chấp bất động sản
đó.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chứng khoán hoá các khoản vay thế
chấp bất động sản
Sự phát triển của thị trường tài chính, gắn liền với nhu cầu vốn cho phát triển kinh
tế ngày càng cao, đặc biệt là nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn. Trong khi đó
khả năng đáp ứng của các định chế tài chính còn hạn chế, thì việc bán lại các khoản
nợ hoặc chia nhỏ các khoản nợ và bán lại thông qua hình thức phát hành chứng chỉ
có giá đã mang lại hiệu quả tích cực, dần trở thành một kỹ thuật trong hoạt động
khai thác và sử dụng vốn của các định chế tài chính. Quá trình này chính là yếu tố
cơ bản, là nguyên nhân hình thành và phát triển kỹ thuật chứng khoán hóa. Lịch sử
hình thành và phát triển của kỹ thuật chứng khoán hóa phản ánh qua hai giai đoạn.
1.1.2.1. Giai đoạn hình thành (1920 -1980)
- Trước chiến tranh thế giới thứ II
Cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930, nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái trầm
trọng, kèm theo đó là giá bất động sản giảm liên tục chỉ còn khoảng một nữa so với
những năm 1927 – 1928. Các tổ chức cho vay dựa trên tài sản thế chấp làm bảo
đảm là bất động sản lúc này bắt đầu tịch biên tài sản để xử lý nợ. Kết quả là đại đa
số người dân vay tiền từ NHTM đã lâm vào tình trạng khó khăn về nhà ở. Trước
tình hình đó, năm 1933 Chính phủ Liên bang đã thành lập Công ty cho vay những
Chương 1
8
người sở hữu nhà (Home Owners’ Loan Corporation – HOLC) để tái tài trợ cho số
tiền nợ của những người vay mua nhà bằng cách bán ra các trái phiếu do Chính phủ
bảo đảm.
Việc làm này không những giúp tái ổn định nền kinh tế mà còn ngăn chặn hàng
ngàn ngôi nhà thoát khỏi cảnh bị tịch biên và kết quả là trong 3 năm đầu thực hiện
tái tài trợ cho trên 1 triệu nhà ở.
Năm 1934, Chính phủ thành lập Cơ quan Nhà ở Liên bang (Federal Housing
Administration – FHA) với mục tiêu cơ bản là:
- Bảo hiểm các món cho vay thế chấp nhà ở của các nơi cho vay tư nhân.
- Đặt ra các tiêu chuẩn xây dựng và bảo hiểm nhưng không cho vay tiền, không lên
bản vẽ hay xây dựng nhà.
- Giúp ổn định thị trường nhà đất và thị trường cho vay thế chấp.
Năm 1938, Quốc hội Mỹ đã thành lập Tổ chức Thế chấp Nhà nước Liên bang (the
Federal National Mortgage Association – FNMA hay còn gọi là Fannie Mae) nhằm
mục đích tạo ra một thị trường thứ cấp cho các khoản vay được FHA bảo đảm.
Năm 1968, Fannie Mae được tư nhân hóa và ngày nay trở thành tổ chức nắm giữ
các khoản vay thế chấp hộ gia đình lớn nhất.
- Sau chiến tranh thế giới thứ II
Giai đoạn 1926 - 1946 là giai đoạn của suy thoái kinh tế và chiến tranh, do vậy việc
xây dựng nhà ở rất ít. Sau chiến tranh kết thúc, 5 triệu người từ chiến trường đã trở
về với gia đình tạo ra một nhu cầu rất lớn về nhà ở. Năm 1946, Chính phủ Mỹ đã
lập ra Hội Cựu chiến binh (Veterans Administration – VA) nhằm tài trợ cho các cựu
chiến binh trở về sau chiến tranh có thể mua nhà. Lúc mới thành lập, VA không yêu
cầu người vay phải có một khoản tiền trả trước, đồng thời lãi suất mà VA áp dụng
là cố định và thường ngang bằng hoặc thấp hơn lãi suất của FHA.
Chương 1
9
Nhu cầu xây dựng nhà ở cùng với sự ra đời của tổ chức FHA và VA đã khơi dậy
phong trào xây dựng nhà ở chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Các dạng nhà ở
giống nhau chiếm ưu thế trong xây dựng lúc bấy giờ vì đã tiết kiệm chi phí do xây
dựng theo số nhiều, hạ giá thành. Từ đó càng tạo điều kiện cho những người có thu
nhập thấp và trung bình có thể dễ dàng mua được nhà hơn. Kết quả từ sau chiến
tranh thế giới thứ II đến nay, thị trường thế chấp bất động sản là khách hàng lớn
nhất của tín dụng dài hạn.
Tuy nhiên, trong thời kỳ này nguồn cung tín dụng có thế chấp chủ yếu vẫn là các
định chế tài chính địa phương, những tổ chức tiết kiệm. Những tổ chức tiết kiệm
này nhận tiền gửi của cư dân địa phương và cho công chúng vay theo hình thức thế
chấp để mua bất động sản. Nếu như không có đủ lượng tiền gửi thì ngân hàng địa
phương thường ngừng việc cho vay thế chấp bất động sản đối với dân trong vùng.
Nếu có dư số tiền gửi thì những ngân hàng nói trên thường sử dụng nguồn vốn này
để mua những khoản vay có thế chấp bất động sản ở những khu vực khác. Từ năm
1946 đến những năm 1960, các tổ chức cho vay thế chấp bất động sản đã dần phát
triển mạnh và đã hình thành nên những tập đoàn lớn với số vốn lên đến hàng tỷ
USD.
Vào giữa thâp niên 1960 -1970, việc di dân đặc biệt tăng mạnh đã tạo ra sự mất cân
đối trầm trọng giữa cung và cầu tín dụng thế chấp bất động sản trên toàn nước Mỹ.
Sự mất cân đối này đã ảnh hưởng mạnh đến hoạt động cho vay thế chấp bất động
sản của các ngân hàng. Để có thể tiếp tục thực hiện nghiệp vụ của mình, các ngân
hàng vẫn tiếp tục cho vay thế chấp bất động sản nhưng sau đó bán lại những khoản
vay này cho các định chế tài chính ở các địa phương khác, nơi mà cung tín dụng thế
chấp bất động sản vượt quá cầu. Thực tế, thị trường thứ cấp đối với những khoản
vay thế chấp bất động sản đã được hình thành từ những năm sau chiến tranh thế giới
thứ II và được đánh dấu bởi vụ mua lại các khoản nợ thế chấp của Fannie Mae đối
với VA vào năm 1948, nhưng mãi đến những năm cuối thập niên 1960 và đầu thập
niên 1970 thị trường này mới thực sự hoạt động sôi nổi. Lúc này, các ngân hàng cho
Chương 1
10
vay thế chấp và các tổ chức tiết kiệm mua và bán những khoản vay liên quan nhằm
giảm bớt tình trạng khan hiếm vốn trên thị trường tín dụng thế chấp bất động sản.
Tuy nhiên, chỉ sự can thiệp của các ngân hàng cho vay thế chấp không đủ để giải
quyết tình trạng mất cân đối này mà cần có thêm sự can thiệp của Chính phủ. Và lúc
này Chính phủ Mỹ đã thành lập các tổ chức trung gian chuyên trách (Special
Purpose Vehicle – SPV). Các tổ chức này mua lại các khoản cho vay thế chấp bất
động sản trong tập hợp nợ tương ứng và bán cho công chúng đầu tư. Những chứng
khoán được phát hành trên cơ sở những tập hợp nợ có thế chấp đó được gọi là
chứng khoán có thế chấp bất động sản làm đảm bảo (Mortgage Backed Securities –
MBS).
Các SPV ngày nay nổi tiếng với các trái phiếu chứng khoán hóa ngoài Fannie Mae
có thể kể đến là Tổ chức thế chấp quốc gia (Government National Mortgage
Association, viết tắt là GNMA, hay còn gọi là Ginnie Mae) được thành lập năm
1968.
Hiệp hội này được Chính phủ Mỹ thành lập dưới dạng một công ty trực thuộc Vụ
phát triển nhà ở và đô thị. Ginnie Mae thực hiện cam kết mua các khoản nợ có thế
chấp bất động sản từ các nhà cho vay riêng lẻ với giá ưu đãi để trợ giúp sự phát
triển khu vực nhà ở tại Mỹ. Song song với việc mua các khoản nợ, Ginnie Mae còn
thực hiện việc phát hành các chứng khoán được đảm bảo bằng một tập hợp các
khoản vay có thế chấp bất động sản và sản phẩm đầu tiên Ginnie Mae cũng là sản
phẩm đầu tiên của kỹ thuật chứng khoán hóa; là chứng khoán có thế chấp bất động
sản làm bảo đảm lãi suất cố định (Fixed Rate Mortgage backed Securities) được
phát hành vào năm 1970.
Năm 1970, công ty cho vay mua nhà có thế chấp liên bang (The Federal Home
Loan Mortgage Corporation – FHLMC hay Freddie Mac) ra đời và phát hành ra
chứng khoán MBS đầu tiên vào năm 1981.
Ngày nay các tổ chức này không chỉ chứng khoán hóa các khoản cho vay của các tổ
chức tài trợ cho vay của nhà nước như FHA, VA mà chúng còn thực hiện chứng
Chương 1
11
khoán hóa hoặc bảo đảm thanh toán cho trái phiếu chứng khoán hóa của các ngân
hàng cho vay mua nhà khác, trong đó Ginnie Mae mua và bán các khoản cho vay do
FHA và VA đảm bảo, còn Freddie Mac mua và bán các khoản cho vay thế chấp bất
động sản không có bảo đảm của 2 cơ quan nói trên.
1.1.2.2. Giai đoạn phát triển (từ 1980 đến nay)
Kể từ năm 1980, kỹ thuật chứng khoán hóa phát triển mạnh ở Mỹ, ngoài việc chứng
khoán hóa các khoản cho vay có thế chấp được chính phủ bảo đảm của GNMA,
nhiều cơ quan khác của chính phủ và giới kinh doanh cũng đã phát hành MBS, quá
trình chứng khoán hóa mở rộng và phát triển sang các khoản cho vay khác như: các
khoản cho vay thương mại; cho vay tiêu dùng; các khoản phải thu của thẻ tín
dụng…
Năm 1987, chứng khoán hóa được thực hiện và phát triển ở Anh, sau đó là một loạt
các nước Châu Âu khác như: Pháp, Đức, Italia…Tại Australia, giá trị các chứng
khoán phát hành dựa trên các khoản vay thế chấp bất động sản chiếm vị trí chủ đạo
trong việc chứng khoán hóa các khoản vay trung và dài hạn. Tại Châu Á, một số
nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng
Kông…cũng đã ứng dụng và phát triền kỹ thuật này. Trong đó TTCK Hồng Kông
được khởi đầu vào năm 1994 với 4 loại chứng khoán dựa trên các khoản vay thế
chấp bất động sản. Đặc biệt tại Malaysia đã ứng dụng kỹ thuật này từ năm 1986 với
sự thành lập công ty chuyên trách chứng khoán hóa Cagamas Berhad, một dạng tổ
chức trung gian chuyên trách như SPV ở Mỹ.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHỨNG KHOÁN HOÁ KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
Nick Davis (2000) những lợi ích tiềm năng của chứng khoán hoá đối với người khởi
tạo:
1.2.1. Hiệu quả tài chính cao hơn
Chương 1
12
Đối với một số tổ chức khu vực tư nhân, chứng khoán hóa được sử dụng để làm
giảm thấp chi phí vốn bình quân gia quyền của công ty. Điều này có thể bởi vì vốn
chủ sở hữu không còn cần thiết để hỗ trợ các tài sản và nợ được xếp hạng cao có thể
được phát hành vào thị trường vốn phát triển theo nhu cầu của nhà đầu tư làm giảm
các chi phí tài chính.
1.2.2. Cải thiện cấu trúc của bảng cân đối kế toán
Chứng khoán hoá có thể tăng cường sự kiểm soát trên qui mô và cấu trúc của bảng
cân đối kế toán công ty. Ví dụ, kế toán về loại bỏ tài sản (chẳng hạn, loại bỏ khỏi
bảng cân đối kế toán) có thể cải thiện tỷ lệ hệ số đòn bẩy tài chính cũng như việc đo
lường khác về hiệu quả kinh tế (chẳng hạn như tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu).
Các tổ chức tài chính thường sử dụng chứng khoán hoá để đạt được các mục tiêu về
an toàn vốn, đặc biệt khi mà các tài sản đã trở nên giảm giá trị.
Chứng khoán hoá cũng cung cấp vốn cho các cơ hội đầu tư khác. Điều này có thể
tạo ra lợi ích kinh tế nếu các nguồn vay bên ngoài bị hạn chế, hoặc nếu có sự khác
biệt giữa chi phí tài chính nội bộ và bên ngoài.
1.2.3. Quản lý rủi ro tốt hơn
Chứng khoán hoá thường làm giảm rủi ro cho việc tài trợ bằng cách đa dạng hóa
các nguồn tài trợ. Các tổ chức tài chính cũng sử dụng chứng khoán hóa để loại bỏ
bất cân xứng về lãi suất. Ví dụ, các ngân hàng có thể cung cấp tài chính dài hạn lãi
suất cố định mà không có rủi ro đáng kể, bỏ qua rủi ro lãi suất và rủi ro thị trường
khác đối với các nhà đầu tư tìm kiếm tài sản dài hạn lãi suất cố định. Chứng khoán
hoá cũng được sử dụng thành công về doanh số trong việc bán các tài sản bị sụt
giảm giá trị.
Chứng khoán hoá cũng mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư. Nó cho phép họ đưa ra
quyết định đầu tư độc lập với danh tiếng của người khởi tạo, và thay vào đó tập
trung vào mức độ bảo vệ thể hiện qua cấu trúc của SPV và khả năng thanh toán của
tài sản chứng khoán hóa đối với vốn và lãi của việc đầu tư.
Chương 1
13
Chứng khoán hoá cũng tạo ra thị trường hoàn chỉnh hơn bằng cách giới thiệu các
danh mục tài sản tài chính mới phù hợp với sở thích rủi ro của nhà đầu tư và bằng
cách tăng tiềm năng cho các nhà đầu tư để đạt được các lợi ích đa dạng hóa. Bằng
cách đáp ứng nhu cầu của các phân khúc thị trường khác nhau, giao dịch chứng
khoán có thể tạo ra lợi ích cho cả người khởi tạo và nhà đầu tư.
Ngoài ra, xét về mặt kỹ thuật, sự cần thiết của chứng khoán hoá, xuất phát từ những
ưu thế của kỹ thuật này so với hình thức tín dụng thông thường của các NHTM, cụ
thể qua ví dụ như sau:
NHTM XYZ sử dụng nguồn vốn 200 triệu USD (tài khoản A), chỉ dùng cho vay
mua nhà thế chấp bất động sản; mỗi khoản cho vay 2 triệu USD; lãi suất 10%/năm;
thời hạn 20 năm. Trả lãi và gốc cuối mỗi năm và ngay lập tức đầu năm sau dùng
toàn bộ số tiền thu được này cho vay tiếp.
- Năm thứ 1: ngân hàng sẽ cho vay được 100 khách hàng.
100 x 2 triệu USD = 200 triệu USD.
Lãi Gốc Tổng cộng Còn dư nợ
20 triệu USD 10 triệu USD 30 triệu USD 190 triệu USD Cuối năm 1
22 triệu USD 11,5 triệu USD 33,5 triệu USD 208,5 triệu USD Cuối năm 2
- Cuối năm thứ nhất, sau khi thu hồi cả lãi và vốn gốc được 30 triệu USD thì ngân
hàng thỉ có thể cho vay thêm 30 triệu USD/2 triệu USD = 15 người ở đầu năm thứ
hai.
- Tương tự vào cuối năm thứ hai, tổng thu 33,5 triệu USD chỉ có thể cho vay thêm
33,5 triệu USD/2 triệu USD = 17 người ở đầu năm thứ ba.
Như vậy, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay thế chấp bất động sản tăng lên rất chậm
và phụ thuộc vào quá trình thu hồi vợ vay hàng năm của ngân hàng.
So so với cách cho vay truyền thống, chứng khoán hóa có những ưu nhược
điểm sau:
Chương 1
14
Cho vay truyền thống Chứng khoán hoá
Không linh hoạt. Linh hoạt, mua bán được.
- Đánh giá tài sản thế chấp chủ quan - Do thị trường đánh giá, thay đổi hàng
và định kỳ. ngày.
- Người khởi tạo tự đánh giá rủi ro để - Phía thứ 3 (tổ chức xếp hạng tín nhiệm)
quyết định cho vay. đánh giá độc lập với người khởi tạo.
- Chi phí hoạt động của người khởi - Chi phí hoạt động của người khởi tạo
tạo cao. thấp.
- Thị trường đầu tư địa phương. - Thị trường đầu tư quốc gia và quốc tế.
- Thời hạn nợ không linh hoạt, sự lựa - Có nhiều sự lựa chọn về thời hạn và lãi
chọn của người vay là hạn chế. suất cho người vay.
1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HÓA
1.3.1. Mô hình của Nick Davis (2000)
Nick Davis là thành viên điều hành của công ty tư vấn MartinJenkins – công ty tư
vấn hàng đầu của New Zealand trong khu vực công. Bài nghiên cứu “Securitization:
A Public Policy Tool? (Chứng khoán hóa: Một công cụ chính sách công cộng?)”
của ông được trình bày trong hội nghị kinh tế của Bộ tài chính New Zealand năm
2000 trong đó trình bày về những vấn đề như loại tài sản chứng khoán hóa, lý do
chứng khoán hóa, những yêu cầu cho việc chứng khoán hóa, thảo luận về cấu trúc
tài chính của New Zealand có cản trở cho việc chứng khoán hóa hay không, …
Hiện nay New Zealand cũng đã tiến hành chứng khoán thành công.
Chương 1
15
Nguồn: Nick Davis (2000), Securitisatinon: A public policy tool?
Trong qui trình chứng khoán hoá, người khởi tạo bán các khoản phải thu cho SPV
(SPV được thành lập để mua các khoản phải thu và thực hiện các chức năng khác
như tái cấu trúc dòng tiền, cung cấp sự tăng cường tín nhiệm và hỗ trợ thanh
khoản). SPV thường được tổ chức như là một quỹ tín thác hoặc một công ty mà phá
sản có kiểm soát.
SPV tài trợ cho việc mua các khoản phải thu bằng việc phát hành chứng khoán (tín
phiếu, phương phiếu, hối phiếu, trái phiếu, hoặc cổ phần ưu đãi) bán cho nhà đầu tư.
Hợp đồng pháp lý phân định các quyền và nghĩa vụ của tất cả các bên giao dịch,
bao gồm cả việc bổ nhiệm một quản trị viên để quản lý các khoản phải thu khi cần
thiết.
Một hoặc nhiều tổ chức tài chính thường tham gia vào việc cơ cấu và tiếp thị các
chứng khoán được phát hành bởi SPV. Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu của
nhà đầu tư, cơ quan xếp hạng tín nhiệm đánh giá khả năng vỡ nợ của SPV và ấn
định một hạng tín nhiệm thích hợp. SPV thường phải đạt được việc tăng cường tín
nhiệm và hỗ trợ thanh khoản để đảm bảo một thứ hạng cao cho các chứng khoán.
Chương 1
16
Để đơn giản, chúng ta xem xét một trường hợp chứng khoán hóa từ khoản vay mua
nhà:
Bước 1: NHTM (người khởi tạo) cho khách hàng (người có nghĩa vụ) vay tiền.
Bước 2: NHTM tập hợp thành một nhóm các khoản vay đồng tiêu chuẩn (cùng thời
hạn và lãi suất) và chuyển nhượng chúng cho SPV.
Bước 3: SPV sẽ phát hành chứng khoán cho nhà đầu tư dựa trên tài sản là các
khoản vay này để huy động vốn trả cho NHTM. Trong quá trình này có sự tham gia
của các tổ chức định mức tín nhiệm, nhằm đánh giá, xếp hạng tín nhiệm cho các
chứng khoán này.
Và ở chiều ngược lại.
Bước 4: Nhà đầu tư thanh toán tiền mua chứng khoán cho SPV.
Bước 5: SPV dùng tiền thu được từ phát hành chứng khoán để trả cho NHTM.
Định kỳ khi đến hạn, người vay thanh toán gốc và lãi cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ
chuyển tiền này cho SPV và SPV sẽ thanh toán cho nhà đầu tư. Vì lý do nào đó mà
SPV không thu đủ tiền thanh toán cho nhà đầu tư thì tổ chức hỗ trợ thanh khoản sẽ
cho SPV vay để thanh toán.
1.3.2. Mô hình áp dụng thành công tại Ấn Độ (Công ty Dun & Bradstreet
[2008])
Công ty Dun & Bradstreet thành lập tại Mỹ từ đầu những năm 1840. Tổng thống
Mỹ Abraham Lincoln, Ulysses S. Grant, Grover Cleveland, William B McKinley
từng là phóng viên tín dụng đầu tiên của Dun & Bradstreet.
Công ty Dun & Bradstreet (mã chứng khoán trên sàn NYSE: DNB), công ty dẫn
đầu thế giới về thông tin kinh doanh toàn cầu, thành lập hơn 170 năm. Trong cơ sở
dữ liệu thương mại toàn cầu của Dun & Bradstreet có hơn 200 triệu hồ sơ kinh
doanh. Thông qua mạng Dun & Bradstreet trên toàn cầu đã cung cấp thông tin chất
lượng tốt nhất và dữ liệu nhiều nhất thế giới. Công ty nằm trong danh sách các công
Chương 1
17
ty được ngưỡng mộ nhất theo công bố của tạp chí Fortune trong 4 năm từ năm 2006
đến năm 2009.
Chi nhánh Dun & Bradstreet tại Ấn Độ thành lập năm 1995. Năm 2008, chi nhánh
này phát hành ấn phẩm “Securitisation in India: The story so far and the way
forward (Chứng khoán hóa ở Ấn độ: câu chuyện cho đến nay và con đường phí
trước)” đã giới thiệu mô hình chứng khoán hóa của Ấn Độ trong thời gian qua cũng
như những thành tựu đạt được, những lợi ích và rủi ro trong quá trình chứng khoán
hóa. Ấn phẩm có sự tham gia của các tác giả Yashika Singh, Sachin Khedekar,
Ashwani Solanki là những chuyên gia kinh tế hàng đầu Ấn Độ.
Chứng khoán hóa ở Ấn Độ diễn ra từ năm 1991 với giá trị chứng khoán 160 triệu
Rupee phát hành đầu tiên bởi Citibank nhưng phát triển mạnh từ khoảng năm 2000.
Năm 2007, đợt phát hành chứng khoán hóa lớn nhất Ấn Độ được thực hiện bởi ngân
hàng ICICI với giá trị 19.299 triệu Rupee.
Chương 1
18
Nguồn: Yashika Singh, Sachin Khedekar, Dun & Bradstreet, Ashwani Solanki (2008), Securitisation in India: The story so far and the way forward
Mô hình này về cơ bản giống như mô hình của Nick Davis (2000) nhưng có 2 điểm
khác nhau cơ bản:
- Không có cơ quan hỗ trợ thanh khoản.
Chương 1
19
- Có sự suất hiện của cơ quan xếp hạng tín nhiệm với vai trò xếp hạng cho chứng
khoán để cung cấp thông tin cho nhà đầu tư trước khi phát hành.
- Có sự xuất hiện của cơ quan bảo lãnh phát hành để đảm bảo cho việc phát hành
được chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.
1.3.3. Mô hình của Patrick Wood (2007)
Patrick Wood thành lập công ty The August Coporation năm 1975. Với vai trò tư
vấn đầu tư cho Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái, ban đầu công ty cung cấp dịch vụ
quản lý danh mục đầu tư cho các nhà đầu tư ở Mỹ. Năm 1978, The August
Coporation công bố The Trilateral Observer (Người giám sát ba bên) và sau đó
Patrick Wood tham gia với tư cách thành viên của Trilateral Commission (Ủy ban
giám sát ba bên) – một tổ chức phi chính phủ, phi đảng phái thúc đẩy sự hợp tác
chặt chẽ hơn giữa Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á.
Năm 2007, Patrick Wood có bài viết “Global bankers seek to raid taxpayers over
subrime fiasco (Các ngân hàng toàn cầu tấn công vào người nộp thuế qua thất bại
dưới chuẩn)” trên diễn đàn The August Forecast & Review của công ty The August
Coporation. Bài viết này bình luận về vấn đề chứng khoán hóa tại Mỹ, trong đó lên
án sự tham lam của các ngân hàng trong việc cho vay khách hàng dưới chuẩn. Qua
bài viết này, tác giả đã đưa ra mô hình chứng khoán hóa đã và đang áp dụng tại Mỹ
như sau:
Chương 1
20
Nguồn: Patrick Wood (2007), Global bankers seek to raid taxpayers over subrime
fiasco
Bước 1: Người vay có được khoản vay từ người cho vay. Cho vay có thể có sự hỗ
trợ của người môi giới cho vay. Nhiều khi người cho vay và người môi giới cho vay
không tiếp tục tương tác với người vay sau khi khoản vay được thực hiện.
Bước 2: người cho vay bán khoản vay cho người phát hành và người vay bắt đầu
chi trả đều đặn hàng tháng cho người trung gian thanh toán.
Bước 3: người phát hành bán chứng khoán cho nhà đầu tư. Người bảo lãnh phát
hành sẽ hỗ trợ việc bán chứng khoán, cơ quan xếp hạng tín nhiệm phân định hạng
cho chứng khoán phát hành và sự tăng cường tín nhiệm có thể tham gia vào quá
trình xếp hạng này.
Chương 1
21
Bước 4: người làm trung gian thanh toán thu tiền hàng tháng từ người vay, sau đó
chuyển trả cho người phát hành. Người làm trung gian thanh toán và người được ủy
quyền quản lý bất động sản để quản lý nợ quá hạn và quản lý bất động sản theo
những điều khoản được nêu trong hợp đồng.
Với mô hình này, việc chứng khoán hóa có nhiều thành phần tham gia hơn 2 mô
hình đã giới thiệu ở phần trước. Trong đó:
- Người vay sau khi bán khoản vay sẽ không còn trực tiếp là người theo dõi thu tiền
người vay mà thay vào đó là một công ty làm trung gian thanh toán sẽ thực hiện
việc thu tiền này và chuyển trả cho SPV.
- Có sự tham gia của người được ủy quyền quản lý các tài sản thế chấp. Họ sẽ
chuyên nghiệp hơn trong việc xử lý tài sản so với ngân hàng.
Trong 2 mô hình trước, người vay sẽ thực hiện đồng thời công việc thu nợ và quản
lý tài sản nhưng việc bán đi khoản vay cũng làm cho người vay không còn mặn
nồng thực hiện 2 công việc này do rủi ro đã chuyển hết cho SPV. Do đó, SPV phải
thuê các cơ quan chuyên nghiệp thực hiện thu nợ và quản lý tài sản.
1.4. XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
MBS
Từ các mô hình trên có thể xác định lợi ích mang lại cho công ty chuyên trách
chứng khoán hóa (SPV): nguồn thu chính là chênh lệch lãi suất cho vay thế chấp bất
động sản và các khoản chi phí sau:
(1) Chi phí tạo lập khoản vay phải trả cho NHTM.
(2) Lãi suất trái phiếu trả cho nhà đầu tư.
(3) Chi phí phải trả cho cơ quan xếp hạng tín nhiệm.
(4) Chi phí phải trả cho việc tăng cường tín nhiệm (trong trường hợp mong muốn
chứng khoán phát hành được xếp hạng tốt hơn).
Chương 1
22
(5) Chi phí phải trả cho việc bảo lãnh phát hành (áp dụng trong trường hợp SPV
thuê một tổ chức chuyên nghiệp phát hành đạt hiệu quả cao hơn).
(6) Chi phí phải trả cho việc thu nợ, quản lý tài sản thế chấp (áp dụng trong trường
hợp SPV thuê một số tổ chức chuyên nghiệp thu nợ, quản lý tài sản hiệu quả cao
hơn).
(7) Chi phí phải trả cho việc hỗ trợ thanh khoản (trong trường hợp SPV bị mất khả
năng thanh khoản).
Như vậy tỷ suất sinh lợi của công ty chứng khoán hoá như sau:
P (%) = lãi suất cho vay – chi phí trả cho NHTM – lãi suất trái phiếu chứng khoán
hoá – chi phí xếp hạng tín nhiệm – chi phí tăng cường tín nhiệm – chi phí bảo
lãnh phát hành – chi phí thu nợ, quản lý tài sản thế chấp – chi phí hỗ trợ thanh
khoản
1.5. NHỮNG BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
CHỨNG KHOÁN HÓA
Nick Davis (2000) hai điều kiện cần thiết cho việc chứng khoán hóa thành công là:
(i) Một hạ tầng tài chính vững mạnh.
- Môi trường pháp lý: qui định về chuyển nhượng khoản phải thu.
- Môi trường kế toán: qui định về hạch toán ngoại bảng các giao dịch chứng khoán
hóa.
- Môi trường pháp luật: những qui định về việc thành lập và quản trị công ty chứng
khoán hóa, quỹ đầu tư tín thác bất động sản.
- Môi trường thuế: việc đánh thuế làm cho chứng khoán hóa không hiệu quả kinh tế
so với các công cụ tài chính khác.
(ii) Nhu cầu đầu tư phụ thuộc một phần vào rủi ro dự kiến.
Chương 1
23
- Tăng cường tín nhiệm: phân cấp chứng khoán thành những khoanh cấp cao / thấp
theo sở thích rủi ro của nhà đầu tư; phát hành chứng khoán với giá trị tài sản cơ bản
cao hơn giá trị chứng khoán phát hành; ký quỹ bằng tiền mặt; có sự bảo đảm từ bên
thứ ba bên ngoài cho chứng khoán phát hành.
- Xếp hạng tín nhiệm chứng khoán của các cơ quan xếp hạng.
Kết luận chương 1
Chứng khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh
khoản nhưng lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải thu,
các khoản nợ rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên thị
trường tài chính. Với vai trò mà chứng khoán hóa mang lại như giảm chi phí trả lãi
vay và tăng hiệu quả sinh lời của dự án, huy động vốn cho hoạt động xây dựng cơ
sở hạ tầng, tạo thêm một công cụ đầu tư mới. Do đó, đại đa số các nước đều đưa
chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản để cung ứng vốn dồi dào cho
phát triển cơ sở hạ tầng.
Chương 2
24
CHƯƠNG 2
TÍNH KHẢ THI CỦA VIỆC CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC
KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Thực trạng
Giá bất động sản đạt đến mức mặt bằng khó tưởng tượng chỉ trong vài năm trở lại
đây. Tại khu vực trung tâm quanh hồ Hoàn Kiếm, mức giá chuyển nhượng đã lên
tới 1 tỷ đồng/m2. Đất mặt phố vị trí đẹp tại quận Ba Đình có giá chuyển nhượng
không dưới 400 triệu đồng/m2, tại quận Đống Đa không dưới 300 triệu đồng/m2,
đất nền tại khu vực Dịch Vọng, Nguyễn Phong Sắc, … cách trung tâm 7 km cũng
ngấp nghé mức giá 300 triệu đồng/m2. So với mức gia cao nhất 81 triệu đồng/m2
(năm 2011) trong khung giá đất đền bù của Nhà nước thì giá thị trường đang ở mức
cao gấp nhiều lần.
Xét về mặt bằng giá đất nền tại Hà Nội, có thể thấy nó đã vượt quá xa sức mua của
người tiêu dùng trên cơ sở tính toán thu nhập, đặc biệt trong tương quan so sánh với
các thành phố lớn trên thế giới.
Bảng 2.1: Giá đất tại các thành phố lớn Châu Á
Giá đất trung tâm (tham Thu nhập bình quân đầu người Thành phố khảo) tháng 03/2011 quốc gia 2011 (nguồi IMF)
Hà Nội 20.000 – 50.000 USD/m2 1.174 USD/người
Bắc Kinh 2.000 – 6.000 USD/m2 4.382 USD/người
Bangkok 8.000 – 15.000 USD/m2 4.992 USD/người
Hong Kong 45.000 – 80.000 USD/m2 31.591 USD/người
Kuala Lumpur 1.500 – 5.000 USD/m2 8.432 USD/người
Tokyo 12.000 – 24.000 USD/m2 42.820 USD/người
Chương 2
25
Nguồn: CBRE
2.1.2. Những thuận lợi của ngành bất động sản Việt Nam hiện nay
2.1.2.1. FDI vẫn tập trung cho ngành bất động sản
- Vốn FDI đăng ký đầu tư vào lĩnh vực bất động sản liên tục đạt cao trong những
năm gần đây, trong đó nhiều nhất là năm 2008 với 23,6 tỷ USD. Dù tình hình khủng
hoảng tài chính toàn cầu bất nguồn từ khủng hoảng nợ bất động sản nhưng FDI
đăng ký đầu tư vào bất động sản Việt Nam năm 2009 và năm 2010 vẫn đạt cao 7,6
tỷ USD và 6,84 tỷ USD.
80,000.0
70,000.0
60,000.0
50,000.0
40,000.0
30,000.0
20,000.0
10,000.0
0.0
2006
2007
2008
2009
2010
FDI đăng ký
FDI giải ngân
FDI đăng ký BĐS
Đtv: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Hình 2.1: Vốn FDI giai đoạn 2006 - 2010
Chương 2
26
- Hiện nay nhiều tập đoàn đa quốc gia đã trở lại Việt Nam sau thời kỳ suy thoái, họ
đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam là một trong những thị trường tiềm năng
nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Bảng 2.2: Dự án bất động sản có vốn FDI đăng ký lớn
Vốn đăng STT Tên dự án Địa điểm Chủ đầu tư k ý
Công ty Polo Beach Khu du lịch Mũi 1 Ninh Thuận 4,5 tỷ USD International Limited Dinh (Hồng Kông)
Khu du lịch liên hợp Cty TNHH New City 2 cao cấp New City Phú Yên 4,3 tỷ USD Việt Nam (Brunei) Việt Nam
Asian Coast
Khu du lịch phức hợp Bà Rịa Vũng Development Ltd 3 4,2 tỷ USD Hồ Tràm Strip Tàu (Canada) và Pinnacle
Entertainment (Mỹ)
Khu du lịch nghỉ Genting (Singapore) 4 Quảng Nam 4,1 tỷ USD dưỡng Nam Hội An và VinaCapital
Khu du lịch Sài Gòn - Bà Rịa Vũng Tập đoàn Winvest 5 4,1 tỷ USD Atlantis Tàu LLC (Mỹ)
Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư
2.1.2.2. Thu hút nguồn vốn từ các thị trường khác
- Kể từ ngày 30/3/2010, mọi hoạt động liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng
và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động, các nhà
đầu tư sẽ chuyển hướng sang thị trường chứng khoán và thị trường BĐS;
- Dự báo trong năm 2011, thị trường chứng khoán vẫn đang ở giai đoạn phục hồi, sẽ
không có sự tăng trưởng đột biến;
Chương 2
27
==> Thu hút nguồn vốn đầu tư vào thị trường BĐS: thị trường ổn định, ít rủi ro hơn,
và được các nhà đầu tư coi là kênh đầu tư an toàn nhất hiện nay.
2.1.2.3. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010 khả quan của một số doanh
nghiệp bất động sản
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh năm 2010 của các công ty BĐS niêm yết
MÃ CHỨNG HAG HQC ITA LCG NTL OGS SJS KHOÁN
DOANH THU
THUẦN
Năm 2010 (tỷ đồng) 4,525 1,257 2,480 1,005 1,388 1,578 1,017
So năm 2009 104% 264% 206% 197% 101% 3,565% 91%
Tỷ lệ đạt kế hoạch 94% 137% 84% 77% 44% năm 2010
LỢI NHUẬN RÒNG
Năm 2010 (tỷ đồng) 2,094 406 686 222 579 609 457
So năm 2009 176% 728% 160% 102% 109% 1,378% 65%
Tỷ lệ đạt kế hoạch 98% 101% 106% 103% 58% 57% năm 2010
Giá CP (đồng) 39,000 22,400 10,600 13,700 22,500 12,900 31,500
EPS 2010 5,312 10,139 2,010 6,717 17,763 2,437 4,570
P/E 8.53 3.82 6.87 3.93 3.24 8.17 10.70
P/B 1.86 1.82 0.81 0.84 2.01 1.46 2.19
Nguồn: Tổng hợp từ Sở GDCK TP.HCM và Hà Nội
- Toàn bộ các doanh nghiệp đều đạt lợi nhuận.
- Bình quân đạt 87% kế hoạch doanh thu và lợi nhuận năm 2010.
2.1.3. Những khó khăn của ngành bất động sản Việt Nam hiện nay
2.1.3.1. Quy định về thuế thu nhập khi chuyển nhượng bất động sản
Chương 2
28
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 có hiệu lực áp dụng
từ ngày 1/1/2009 qui định về mức thuế suất từ chuyển nhượng bất động sản như
sau:
- 25% trên thu nhập chịu thuế nếu việc mua bán có đầy đủ chứng từ hợp lệ chứng
minh giá chuyển nhượng, giá vốn và các chi phí liên quan;
- 2% trên tổng giá trị giao dịch đối với các trường hợp không có giấy tờ hợp lệ.
Từ ngày 26/9/2009, thu nhập từ hợp đồng chuyển nhượng bất động sản góp vốn
mua căn hộ, nền đất sẽ phải đóng thuế thu nhập cá nhân cũng với hai mức thuế như
trên;
Do các văn bản hướng dẫn triển khai việc thu thuế theo mức thuế nào vẫn chưa
được chi tiết nên dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan thuế áp dụng một mức thuế suất
khác nhau, vì vậy thị trường bất động sản vào khoảng đầu năm 2010 gần như bị
đóng băng vì nhiều nhà đầu tư chờ đợi hướng dẫn mới để chọn cách tính có lợi hơn.
2.1.3.2. Quy định mới về giá đất đền bù
+ Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
1/10/2009: Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà không qua hình thức
đấu giá hoặc đấu thầu hoặc giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời
điểm giao đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực tế thì Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử đụng đất thực tế trên
thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp. Điều này làm tăng chi phí giải
phóng mặt bằng => giảm quỹ đất sạch của các công ty bất động sản nhưng đồng
thời các công ty đang có sẵn quỹ đất sạch sẽ có lợi thế trên thị trường.
+ Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/06/2010 có hiệu lực từ ngày 08/08/2010 về
việc hướng dẫn thi hành Luật nhà ở có qui định: chỉ cho phép huy động vốn tối đa
20% tổng lượng sản phẩm đất nền hay căn hộ của một dự án không phải qua sàn
giao dịch bất động sản khi dự án hoàn thành giải phóng mặt bằng và sau đó các nhà
đầu tư thứ cấp phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đối với dự án đất nền)
Chương 2
29
hoặc hợp đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai (đối với dự án chung cư) thì
mới được chuyển nhượng sang cho người thứ ba. 80% sản phẩm nhà ở còn lại, chủ
đầu tư dự án phải chuyển nhượng qua sàn giao dịch bất động sản sau khi hoàn thành
các thủ tục liên quan, các dự án đất nền phải có thiết kế kỹ thuật nhà ở được phê
duyệt và các dự án chung cư căn hộ phải xây dựng phần móng của công trình ==>
Việc bán nhà trên giấy hay giao dịch bằng hợp đồng góp vốn trong thời gian trước
đây sẽ không thể tiếp tục diễn ra.
60.0%
50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ
Tỷ lệ tăng trưởng huy động
2.1.3.3. Qui định Nhà nước về việc hạn chế cho vay đối với bất động sản
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 2.2: Thực trạng huy động, cho vay giai đoạn 2003 - 2010
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ cho vay hầu như luôn cao hơn tỷ lệ tăng trưởng huy động
trong thời gian qua. Các khoản vay trung dài hạn mà đặc biệt và cho vay thế chấp
bất động sản chủ yếu lấy từ nguồn vốn huy động ngắn hạn. Điều này gây rủi ro
thanh khoản ngày càng cao cho hệ thống ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Nhà nước
đã có nhiều biện pháp để hạn chế cho vay thế chấp bất động sản.
Chương 2
30
- Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 có hiệu lực sau 45 ngày, qui định:
tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn của
ngân hàng là 30%.
Hiện các ngân hàng quốc doanh cho rằng không bị ảnh hưởng nhiều do các ngân
hàng này luôn đứng đầu toàn ngành về tổng nguồn vốn huy động. Các ngân hàng cổ
phần lớn cũng tỏ ra khó “bình chân” với quy định mới này. Tuy nhiên, các ngân
hàng nhỏ rất cân nhắc việc cho cho vay trung dài hạn, đặc biệt là cho vay thế chấp
bất động sản sao cho không vướng qui định trên.
- Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/10/2010 qui định:
+ Nâng hệ số an toàn vốn (Vốn tự có/ Tổng tài sản “Có” rủi ro) của các ngân hàng
từ 8% lên 9%. Đồng thời, các tài sản “Có” rủi ro như khoản vay kinh doanh bất
động sản sẽ tăng hệ số rủi ro từ 100% lên 250%. Về cơ bản, chỉ có hai cách để tăng
tỷ lệ CAR, đó là tăng tử số "vốn tự có" và giảm mẫu số "tổng tài sản có rủi ro"
Với qui định này thì cho vay đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản càng nhiều sẽ
làm hệ số an toàn vốn CAR càng nhỏ.
+ Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động (vốn huy động theo quy định
này sẽ không còn bao gồm: Vốn tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, vốn tự có của
NHTM, vốn đầu tư của tổ chức).
Với qui định này, nguồn cung vốn cho vay sẽ bị giảm đáng kể và do đó cũng tác
động đến việc cho vay thế chấp bất động sản.
- Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 hướng dẫn cho Nghị quyết 11/NQ-CP
ngày 24/02/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội qui định: giảm tỷ
trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống tối đa là 20% vào cuối tháng 6/2011
và 15% vào cuối tháng 12/2011.
Chương 2
31
Việc vay mua bất động sản để ở, bán, cho thuê được xếp vào lĩnh vực phi sản xuất
nên buộc các ngân hàng không những không tiến hành cho vay mới mà còn phải
tiến hành thu hồi nợ cho vay thế chấp bất động sản trước hạn để giảm tỷ lệ cho vay
lĩnh vực phi sản xuất xuống. Chính quyết định này làm cho thị trường bất động sản
vốn đã gặp khó khăn với Thông tư 13 nay còn chịu nhiều khó khăn hơn.
2.1.3.4. Giá nguyên vật liệu tăng cao
CPI năm 2010 tăng 11,75% so với năm 2009.
CPI 6 tháng năm 2011 tăng rất nhanh 12,62% vượt CPI của cả năm 2010 và vượt xa
CPI mục tiêu 7% của cả năm 2011 theo định hướng của Chính phủ. CPI của 6 tháng
cuối năm dự kiến còn tiếp tục tăng.
5.00%
4.00%
3.00%
2.00%
1.00%
0.00%
-1.00%
07/10 08/10 09/10 10/10 11/10 12/10 01/11 02/11 03/11 04/11 05/11 06/11
CPI
CPI ngành xây dựng
Riêng CPI ngành xây dựng hầu như luôn cao hơn CPI toàn ngành.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng CPI từ 07/2010 đến 06/2011
Chương 2
32
Giá nguyên vật liệu tăng cao sẽ gây khó khăn cho các công ty bất động sản:
- Đối với những công ty đã bắt đầu bán sản phẩm: tỷ suất lợi nhuận sẽ giảm;
- Đối với những công ty chưa bán sản phẩm: giá thành tăng cao so với những công
ty khác.
2.1.3.5. Lãi suất tăng cao
Từ ngày 05/11/2010, lãi suất cơ bản áp dụng mức 9%; tăng 1% so với trước đó.
Tháng 06/2011, lãi suất huy động phổ biến của nhiều tổ chức tín dụng từ 18 -
19%/năm, thậm chí trước đó vài tháng có tổ chức huy động kỳ hạn 1 tháng lên đến
20 – 21%/năm khiến lãi suất cho vay thế chấp bất động sản cũng tăng cao vào
25.0%
20.5%
20.0%
19.5% 19.5%
20.0%
18.5%
16.5% 16.5%
15.1%
15.0%
13.5% 13.5% 13.5% 13.5%
10.0%
5.0%
0.0%
07/10
09/10
11/10
01/11
03/11
05/11
LS HUY ĐỘNG LS CHO VAY
khoảng 24%/năm.
Nguồn: Tổng hợp từ ACB
Hình 2.4: Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và lãi suất cho vay bình quân của
Ngân hàng Á Châu từ 07/2010 – 06/2011
Chương 2
33
Thị trường BĐS vẫn phụ thuộc phần lớn vào ngân hàng, chưa có các định chế tài
chính phi ngân hàng để hỗ trợ thị trường;
Việc lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến việc:
- Các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào bất động sản sẽ gửi tiền vào ngân hàng để
hưởng tiền lãi cao hơn;
- Các công ty bất động sản khi phải đi vay với lãi suất cao sẽ gặp khó khăn trong
việc huy động vốn. Ngoài ra, với chi phí tài chính cao, các công ty sẽ phải điều
chỉnh giá bán tăng để tạo ra lợi nhuận.
2.1.3.6. Cung vượt quá cầu ở nhiều mảng sản phẩm
Thị trường căn hộ hiện nay đang tập trung ở mảng trung cấp và cao cấp;
Tuy nhiên với phân khúc nhà ở trung bình, là mảng mà phần lớn người mua có nhu
cầu ở thật sự, thì vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ. Nguyên nhân là do tỷ suất lợi
nhuận ở phân khúc này không cao nên có ít công ty tập trung ở phân khúc này;
Ngoài ra, hiện nay nguồn vốn đầu tư BĐS và các dự án lớn chỉ tập trung ở hai thành
phố lớn là Hà Nội và TP. HCM vì vậy mới dẫn đến tình trạng thừa nguồn cung ở
các thành phố lớn và thiếu ở các thành phố nhỏ;
Hiện nay, Đà Nẵng cũng bắt đầu thu hút sự đầu tư vào thị trường BĐS, tuy nhiên
sản phẩm lại chỉ tập trung ở phân khúc căn hộ cao cấp và các khu resort, nghỉ
dưỡng nên hiện tại cũng mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư chứ
không phải của những người có nhu cầu ở thật sự.
Nhận xét chung: Với những khó khăn trong việc cung cấp các khoản vay thế chấp
bất động sản từ phía ngân hàng do vướng phải những qui định của thông tư 13,
thông tư 15 và nghị định số 01 nêu trên cùng với việc lãi suất cho vay tăng cao liên
tục đã gây sức ép ngày càng lớn lên ngành bất động sản do ngành này vẫn dựa chủ
yếu vào vốn vay ngân hàng. Đã đến lúc chứng khoán hóa các khoản nợ vay thế chấp
bất động sản để một mặt tạo vốn cho ngành bất động sản và mặt khác tách rủi ro
cao của ngành bất động sản khỏi lĩnh vực ngân hàng vốn rất nhạy cảm.
Chương 2
34
2.2. THỰC TRẠNG CHO VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM
2.2.1. Nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản
- Trong báo cáo phân tích số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Bộ
Xây dựng dự báo về nhu cầu về nhà ở và vốn đầu tư để phát triển nhà ở đến năm
2015. Cụ thể: Dân số Việt Nam ước tính đạt 91,5 triệu người, do đó diện tích nhà ở
cần đáp ứng cho cả thành thị và nông thôn sẽ vào khoảng 1.966,6 triệu mét vuông
(bình quân 21,5m2 sàn xây dựng/người). Để hoàn thành chỉ tiêu này, nhu cầu vốn
đầu tư vào nhà ở dự tính khoảng 2.205.000 tỷ đồng (tương đương 100 tỷ USD),
trung bình, mỗi năm cần khoảng 20 tỷ USD vốn đầu tư.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến hết ngày 31.12.2010, dư nợ cho
vay thế chấp bất động sản đạt khoảng 224.843 tỷ đồng. Tuy nhiên, số tiền trên vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu vốn mà thị trường đang cần từ nay đến hết năm 2015.
- Theo khảo sát của Công ty Tư vấn và quản lý bất động sản CB Richard Eliss
(CBRE), từ nay đến năm 2020, nhu cầu về phòng khách sạn cả nước loại 3-5 sao sẽ
vào khoảng 11.100 phòng và loại 1-2 sao khoảng hơn 20.000 phòng. Trong khi đó
nguồn cung lại rất hạn chế. Hiện lượng phòng khách sạn tiêu chuẩn 3-5 sao chỉ đạt
khoảng gần 5.000 phòng và khách sạn tiêu chuẩn 1-2 sao gần 6.300 phòng.
Một trong những nguyên nhân cơ bản thúc đẩy nhu cầu về phòng khách sạn tăng
nhanh chính là thị trường du lịch Việt Nam ngày càng có những bước chuyển biến
mạnh mẽ. Ngoài ra còn phải kể đến một loạt các nguyên nhân khác như sức hấp dẫn
về đầu tư tại Việt Nam đối với các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư nước ngoài, đặc biệt
là từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Do đó, nhu cầu vốn đầu tư cho lĩnh vực bất động
sản là rất lớn. Chỉ tính riêng tại Tp.HCM từ năm 2008 đến năm 2010 cần một lượng
vốn là 189.130 tỷ đồng, nhưng khả năng đáp ứng vốn của các doanh nghiệp đối với
nhu cầu đầu tư thì rất thấp, chỉ khoảng 12,72% (24.069 tỷ đồng).
Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư vào bất động sản thương mại trong thực tế còn rất lớn
nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ. Sự hạn chế về vốn là một trong những yếu điểm
lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp kinh
Chương 2
35
doanh bất động sản ở Tp. HCM nói riêng. Nhìn chung, các doanh nghiệp bất động
sản chưa có thực lực về tài chính vì tỷ trọng vốn tự có quá nhỏ so với nhu cầu đầu
tư. Nhiều dự án có tỷ lệ cho vay lên tới 70 - 80% tổng vốn đầu tư, với thời hạn 10 -
15 năm. Điều đó làm ảnh hưởng tới tiến độ đầu tư và khả năng thanh toán. Thậm
chí, các doanh nghiệp Việt Nam cũng mất nhiều cơ hội để thâm nhập vào phân khúc
thị trường bất động sản cao cấp do ít vốn.
2.2.2. Thực trạng cho vay thế chấp bất động sản
Dư nợ cho vay thế chấp bất động sản tăng liên tục, kể cả năm 2010 thị trường bất
động sản trầm lắng nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn đạt đến 22%. Trong thời gian gần
đây, Ngân hàng Nhà nước liên tục rà soát dư nợ cho vay bất động sản để có chính
sách điều chỉnh thích hợp nên các ngân hàng thường che đậy các khoản cho vay thế
chấp bất động sản dưới hình thức cho vay tiêu dùng hoặc mục đích khác, … Do đó,
dư nợ cho vay theo báo công bố của Ngân hàng Nhà nước vẫn thấp hơn thực tế.
250,000
224,843
184,282
200,000
170,455
150,000
100,000
50,000
0
2008
2009
2010
Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Hình 2.5: Dư nợ cho vay thế chấp bất động sản giai đoạn 2008 – 2010
Chương 2
36
100,000
92,864
90,000
80,000
70,000
60,000
50,000
40,000
30,000
15,963
15,291
20,000
7,749
10,000
2,624
-
ACB (T8/2010)
VIETCOMBANK (T5/2010)
VIETINBANK (T6/2011)
SACOMBANK (T12/2010)
TP.HCM (T7/2010)
Đvt: Tỷ đồng
Nguồn: Tổng hợp từ website các ngân hàng
Hình 2.6: Dư nợ cho vay thế chấp BĐS của các ngân hàng
2.3. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO VIỆC CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM
2.3.1. Tổ chức cho vay thế chấp bất động sản
2.3.1.1. Ngân hàng
Hiện có tổng cộng 52 ngân hàng, trong đó:
- 5 NHTM nhà nước.
- 37 NHTM cổ phần.
- 5 NH liên doanh.
- 5 NH 100% vốn nước ngoài.
Tất cả các ngân hàng nêu trên đều có chức năng cho vay thế chấp bất động sản. Đây
là sẽ là nguồn cung dồi dào các khoán nợ vay thế chấp bất động sản cho tổ chức
chuyên trách chứng khoán hóa. Dư nợ cho vay thế chấp bất động sản của hệ thống
ngân hàng cuối năm 2010 đạt 224.843 tỷ đồng.
Chương 2
37
Ở một số quốc gia, một số ngân hàng có đủ năng lực để tự phát hành chứng khoán
hóa hay nói cách khác thì các ngân hàng này thực hiện vay trò của SPV. Tuy nhiên,
một SPV độc lập tập hợp các khoản nợ tương đồng nhau từ nhiều ngân hàng khác
nhau để phát hành chứng khoán hóa sẽ đạt hiệu quả tài chính cao hơn so với ngân
hàng tự mình thực hiện.
2.3.1.2. Quỹ phát triển nhà ở
Quỹ phát triển nhà ở do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập trên cơ sở các nguồn
vốn như tiền thu từ việc bán, cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, một phần tiền
sử dụng đất của các dự án phát triển nhà ở thương mại, các khu đô thị mới, từ ngân
sách địa phương hỗ trợ hàng năm…
Ngày 04 tháng 8 năm 2004, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số
3823/QĐ-UB thành lập Quỹ Phát triển nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, trực thuộc Ủy
ban nhân dân thành phố, hoạt động theo Luật nhà ở năm 2006. Với số vốn điều lệ là
1.000 tỷ đồng do ngân sách cấp, mục tiêu hoạt động của Quỹ là không vì mục đích
lợi nhuận, đảm bảo bù đắp chi phí đối với các chương trình nhà ở cho đối tượng có
thu nhập thấp tại thành phố, góp phần giải quyết khó khăn về vốn xây nhà cho
người thu nhập thấp, thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện các dự án nhà ở xã hội, nhà
ở tái định cư và nhà ở cho người thu nhập thấp.
Tuy nhiên đến nay mới chỉ có TPHCM huy động được khoảng 1.000 tỷ đồng cho
quỹ này. Một số địa phương lồng ghép quỹ này trong Quỹ đầu tư phát triển, trong
đó riêng Hà Nội có khoảng 1.000 tỷ đồng cho phát triển nhà.
Từ năm 2006 đến khoảng giữa năm 2011, Quỹ Phát triển nhà ở TPHCM đã phát
vay được trên 700 trường hợp hỗ trợ mua nhà thu nhập thấp, với tổng vốn vay trên
150 tỷ đồng.
2.3.1.3. Quỹ tiết kiệm nhà ở
Quỹ tiết kiệm nhà ở được dự kiến triển khai theo mô hình tổ chức tài chính - tín
dụng phi lợi nhuận dưới sự quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà nước, phục
Chương 2
38
vụ các doanh nghiệp gặp khó khăn về nhà ở được vay vốn mua nhà ở hoặc để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vay vốn xây dựng nhà ở xã hội.
Quỹ tiết kiệm nhà ở sẽ được xây dựng giống như hình thức bảo hiểm xã hội với
mức đóng góp dự kiến từ 1- 2% tổng tiền lương hằng tháng của người lao động.
Những người nghỉ hưu sẽ được rút về cộng với lãi suất mang tính hỗ trợ trượt giá.
Số tiền này sẽ cho những người thu nhập thấp vay mua nhà với lãi suất chỉ bằng 20-
25% so với vay của ngân hàng thương mại
Theo ước tính của Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam thì với hơn 9 triệu
người lao động đang hưởng lương, chỉ cần góp 1% số lương mỗi tháng, hàng năm
quỹ sẽ có không dưới 10.000 tỷ đồng, góp phần đáng kể cải thiện chỗ ở cho người
dân.
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, tại khu vực đô thị trên cả nước hiện vẫn còn
khoảng 7 triệu người có nhu cầu thuê, mua nhà ở xã hội với tổng diện tích lên tới
150 triệu m2, tương đương nguồn vốn đầu tư tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng.
Góp vào Quỹ có vốn hỗ trợ ban đầu của Nhà nước, vốn từ quỹ đất dành cho phát
triển nhà ở xã hội, nhà ở thương mại, huy động từ người có nhu cầu tạo lập nhà ở,
từ các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên đến nay đây vẫn còn là ý tưởng. Có nhiều khả năng sẽ triển khai trong
tương lai gần.
Nhìn chung, ở thời điểm hiện tại thì ngân hàng có thể giữ vai trò của người
khởi tạo. Các ngân hàng đều có quy trình xét duyệt cho vay và sản phẩm cho
vay bất động sản khá tương đồng nhau do đó có thể đáp ứng cho việc gộp
chung các khoản vay tương đồng lại với nhau. Quỹ phát triển nhà ở và quỹ tiết
kiệm nhà ở cho vay với lãi suất thấp hơn nhiều so với ngân hàng nên khó gộp
chung những khoản vay này với các khoản vay của ngân hàng và giá trị của
nhũng khoản vay của 2 tổ chức này dự báo vẫn còn thấp nên không hiệu quả
trong việc phát hành chứng khoán riêng lẻ dựa trên nợ vay của 2 tổ chức này.
Chương 2
39
2.3.2. Tổ chức hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa
2.3.2.1. Tổ chức bảo lãnh phát hành
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần
phải được sự bảo lãnh phát hành. Nếu số lượng phát hành không lớn thì chỉ cần có
một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn và số lượng chứng
khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ
hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh chính và một số
tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đều có chức năng bảo lãnh phát hành. Tuy
nhiên, việc bảo lãnh chỉ tập trung vào các ngân hàng lớn có vốn Nhà nước như:
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tính đến tháng 08/2011, có tổng cộng 102 công ty chứng khoán và 47 công ty quản
l ý quỹ đang hoạt động kinh doanh trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà
Nội. Theo quy định hiện nay, công ty chứng khoán và công ty quản l ý quỹ muốn
thực hiện chức năng bảo lãnh phát hành thì vốn điều lệ phải đạt tối thiểu 165 tỷ
đồng. Với quy định này thì có tổng cộng 49 công ty chứng khoán và 1 công ty quản
lý quỹ đạt yêu cầu này. Tuy nhiên chỉ có 35 công ty chứng khoán đăng ký kinh
doanh với nghiệp vụ này, trong đó nổi bậc là:
VỐN ĐIỀU LỆ STT TÊN CÔNG TY (đồng)
1 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 3,511,117,420,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Nông 2,120,000,000,000 2 nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
3 Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Long 2,025,000,000,000
4 Công ty TNHH Chứng khoán ACB 1,500,000,000,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán ngân hàng Sài Gòn 1,266,600,000,000 5 Thương Tín
6 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội 1,000,000,000,000
Chương 2
40
Đây là những tổ chức bảo lãnh phát hành có tên tuổi trên thị trường trong nước, có
năng lực tài chính tốt, có khả năng hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa.
Tại Việt Nam, nhiều đợt bảo lãnh phát hành có trị giá lớn đã được thực hiện, trong
đó phải kể đến là:
TỔ CHỨC BẢO LÃNH PHÁT TỔ CHỨC PHÁT TRỊ GIÁ STT NĂM HÀNH HÀNH (tỷ đồng)
Ngân hàng Công thương Việt Công ty cổ phần Du 1 2009 2.000 Nam lịch Vinpearlland
Công ty Chứng khoán Ngân
hàng Sài Gòn Thương tín (SBS),
Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt
Nam, Ngân hàng Ngoại thương Quỹ đầu tư Phát
2 2009 Việt Nam, Ngân hàng Phát triển triển đô thị 3.000
Nhà thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM
Công ty cổ phần chứng khoán
thành phố và Ngân hàng Tiên
Phong
Tập đoàn Điện lực 3 2009 EVNFinance 4.000 Việt Nam
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Phát 4 2010 1.200 Bảo Việt triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tổng Công ty CP 5 2010 1.000 Việt Nam Vinaconex
Chương 2
41
2.3.2.2. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
có qui định:
- Tổ chức định mức tín nhiệm là pháp nhân có chức năng đánh giá về mức độ uy tín
của doanh nghiệp và khả năng thanh toán gốc, lãi trái phiếu của một tổ chức phát
hành trong suốt kỳ hạn của trái phiếu.
- Doanh nghiệp trước khi phát hành trái phiếu phải công bố thông tin kết quả xếp
loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu và loại trái
phiếu phát hành. Tuy nhiên, đây không phải là thông tin bắt buộc.
Nhìn chung vẫn chưa có qui định rõ ràng về việc vận hành các tổ chức xếp
hạng tín nhiệm. Tuy nhiên hiện nay đã và đang có đến 4 tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực xếp hạng này. Trong đó có 2 tổ chức nhà nước và 2 tổ chức tư
nhân.
Trung tâm thông tin tín dụng (Credit Information Center – CIC)
CIC thành lập năm 1992. CIC có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự
báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà
nước; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước và của pháp luật.
Năm 2002, Ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định 57/2002/QĐ-NHNN ngày
14/01/2002 cho phép CIC triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín dụng
doanh nghiệp. Việc thí điểm được thực hiện trong vòng 2 năm.
Từ năm 2004, CIC chính thức cung cấp dịch vụ xếp hạng cho các TCTD. Qua quá
trình triển khai, rút kinh nghiệm và nâng cao chất lượng sản phẩm, đến năm 2006,
nghiệp vụ phân tích xếp hạng tín dụng doanh nghiệp được Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước phê duyệt là một nghiệp vụ chính thức của Trung tâm Thông tin tín dụng.
Từ đó đến nay, chất lượng của sản phẩm phân tích xếp hạng tín dụng luôn được cải
tiến, đổi mới và đa dạng hoá.
Chương 2
42
Ngày 15/08/2011, CIC đã phát hành Ebook "Xếp hạng tín dụng các DN niêm yết
trên thị trường chứng khoán năm 2011”. Đây là năm thứ 5 liên tiếp CIC thực
hiện hoạt động xếp hạng và công bố trong lĩnh vực này. Có tổng cộng 162 doanh
nghiệp được xếp hạng AAA, trong đó Tp.HCM dẫn đầu về số lượng với 62 doanh
nghiệp, chiếm 38,27%. Hà Nội xếp thứ hai với 27 doanh nghiệp, chiếm 16,67%.
Bình Dương xếp thứ ba với 9 doanh nghiệp và Đồng Nai xếp thứ tư với 8 doanh
nghiệp. Đặc biệt có 21 tỉnh không có doanh nghiệp nào được xếp loại AAA.
Theo thông tin từ phía Hiệp hội Ngân hàng, việc đánh giá, xếp hạng các ngân hàng
thương mại vẫn thực hiện hàng năm bởi Ngân hàng Nhà nước dựa vào số liệu của
Trung tâm Thông tin tín dụng CIC. Tuy nhiên, kết quả của các đánh giá này không
được công bố mà chủ yếu là để các ngân hàng thương mại "biết mình đang đứng ở
đâu".
Công ty thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp Việt Nam
(VietnamCredit)
- Năm 2004, VietnamCredit được thành lập mà điểm xuất phát là một nhóm các
chuyên gia làm việc cho cơ quan nhà nước trong cung cấp dịch vụ thông tin tín
dụng vào năm 1996. VietnamCredit là công ty tư nhân đầu tiên hoạt động trong lĩnh
vực xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. Cũng trong năm 2004, VietnamCredit trở
thành thành viên chính thức duy nhất tại Việt Nam của Cổng thông tin tín nhiệm
châu Á – ASIAGATE (Asian Credit Information Gateway) - một tổ chức các doanh
nghiệp chuyên cung cấp các báo cáo tín nhiệm trung thực, khách quan và tin cậy.
Kể từ ngày bắt đầu tham gia hoạt động này vào năm 1999, đến nay VietnamCredit
đã cung cấp hơn hàng chục ngàn báo cáo tín nhiệm về các doanh nghiệp Việt Nam
cho các công ty, tổ chức nước ngoài và hơn 500 đơn hàng của các doanh nghiệp
Việt Nam để tìm hiểu công ty nước ngoài.
- VietnamCredit đã dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức định giá tín
nhiệm lớn nhất trên thế giới là Standard & Poor’s, Moody’s, Equifax; Jcr..,.xây
dựng được hệ thống đánh giá riêng, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ thống
Chương 2
43
đánh giá này có tới hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra chéo
phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB đến D… cho mức độ tín
nhiệm của doanh nghiệp.
- Ngày 9/12/2009, VietnamCredit đã công bố bảng xếp hạng ngân hàng 2009
(Vietnam Bank Rating), trong đó, đưa ra đánh giá về chỉ số tín nhiệm của 47 ngân
hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam (trừ các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài).
Theo xếp hạng này, ngoại trừ Ngân hàng Á Châu được đánh giá hạng A (mức độ rủi
ro trong giao dịch rất thấp nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh và môi trường
kinh tế), tất cả các ngân hàng khác đều được đánh giá thấp hơn, trong đó có rất
nhiều ông lớn của ngành ngân hàng Việt Nam. Đáng chú ý là có 15 ngân hàng bị
xếp hạng CCC (có mức độ rủi ro cao, nếu điều kiện kinh tế bất lợi thì ít có khả năng
thực hiện các cam kết tài chính) và 1 ngân hàng xếp loại D (doanh ngiệp đã thực sự
vỡ nợ).
VietnamCredit cho biết đã căn cứ theo 18 chỉ tiêu trọng yếu để đưa ra đánh giá về
hoạt động của các ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn, khả năng thanh khoản, hiệu quả
kinh doanh, năng lực và kinh nghiệm quản lý, thương hiệu, chất lượng và sự đa
dạng hóa tài sản và dịch vụ… Tuy nhiên, tất cả các số liệu được sử dụng trong bảng
xếp hạng 2009 lại được lấy từ báo cáo tài chính của các ngân hàng trong giai đoạn
từ 2008 trở về trước. Bảng xếp hạng này ngay lập tức vấp phải sự phản đối mạnh
mẽ từ phía ngành ngân hàng. Trước hết, theo Hiệp hội ngân hàng, một công ty như
VietnamCredit không đủ thẩm quyền, chức năng, kinh nghiệm và đặc biệt là số liệu
để đánh giá đầy đủ, chính xác về hoạt động của các ngân hàng.
Công ty Cổ phần xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam (CRV)
- Năm 2006, CRV được thành lập. Đây cũng là công ty tư nhân như VietnamCredit.
- Trong năm 2010, dưới sự bảo trợ của Văn phòng Chủ tịch nước, Công ty cổ phần
xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam (CRV) phối hợp với Tạp chí Vietnam
Chương 2
44
Business Forum, Thời báo Tài chính đã xuất bản cuốn Báo cáo thường niên Chỉ số
tín nhiệm Việt Nam 2010.
- Ngày 20/8/2011 tại Phủ Chủ tịch, số 1 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội đã diễn ra Lễ
phát hành “Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2011”. Chương trình
do Văn phòng Chủ tịch nước, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng
Công ty cổ phần Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp (CRV) tổ chức. Toàn bộ 596
doanh nghiệp trên sàn HOSE và HNX được xếp hạng. Đây là thành quả phối hợp
của CRV cùng với các nhà nghiên cứu kinh tế đầu ngành của Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân, Học viện Tài chính, Hội Ứng dụng Toán học Việt Nam.
Trong bảng xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp niêm yết, có 14 doanh nghiệp trên cả
2 sàn giao dịch được xếp hạng từ trung bình yếu trở xuống (mức CCC đến C), mức
độ rủi ro rất cao.
Trung tâm Khoa học Thẩm định Tín nhiệm Doanh nghiệp (Enterprise Credit
Rating Appraise Science Center – CRC)
- Năm 2007, CRC được thành lập theo Quyết định số 590/QĐ-LHH của Đoàn Chủ
tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Trung
tâm Khoa học Thẩm định Tín nhiệm Doanh nghiệp là đơn vị sự nghiệp khoa học
cấp trung ương có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động theo Luật Khoa học và
Công nghệ (năm 2000).
- Không rầm rộ như 3 tổ chức trên, CRC chỉ cung cấp dịch vụ thẩm định theo đơn
đặt hàng của các tổ chức nhằm mục đích thức thực năng lực của các tổ chức này.
Qua quá trình thẩm định, nếu tổ chức được thẩm định đạt yêu cầu thì CRC mới phát
hành chứng thư thẩm định tín nhiệm. Đặc biệt, trong chứng thư thẩm định không
thể hiện hạng A, B, C như kết quả xếp hạng thông thường.
2.3.3. Tổ chức chuyên trách chứng khoán hóa
2.3.3.1. Qui định về mua bán nợ tồn đọng
Chương 2
45
Quyết định số 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003 thành lập Công ty Mua bán nợ
và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (tên viết tắt DATC), với vốn điều lệ 2.000 tỷ
đồng do Ngân sách Nhà nước cấp và chính thức đi vào hoạt động từ ngày
01/01/2004.
Công ty hoạt động theo Thông tư số 39/2004/TT-BTC ngày 11/5/2004 của Bộ Tài
chính hướng dẫn trình tự, thủ tục xử lý tài chính đối với hoạt động mua bán, bàn
giao tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.
Năm 2010, công ty đổi tên thành Công ty TNHH MTV Mua bán nợ Việt Nam.
Ngày 23/07/2011 nâng vốn điều lệ lên 2.481 tỷ đồng.
Chức năng kinh doanh của Công ty:
- Mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp bằng các hình thức
thoả thuận trực tiếp, đấu giá, hoặc theo chỉ định của các cấp có thẩm quyền.
- Xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã mua và tiếp nhận bằng các hình thức
sau:
+ Tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
+ Bán các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp bằng các hình thức thoả
thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá.
+ Sử dụng các khoản nợ và tài sản đã mua, tiếp nhận để đầu tư dưới các hình thức:
Góp vốn cổ phần; Góp vốn liên doanh; Hợp tác kinh doanh.
- Phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Kết quả kinh doanh năm 2010 đối với hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng,
DATC đã ký được 13 hợp đồng mua bán nợ tồn đọng với giá trị các khoản nợ là
357 tỷ đồng, doanh số mua nợ là 101 tỷ đồng. Doanh thu từ hoạt động mua bán nợ
và tài sản là 393 tỷ đồng, đạt 107,4% so với kế hoạch năm 2010, tăng 16,5% so với
thực hiện năm 2009.
Chương 2
46
Chứng khoán hóa bao gồm việc phát hành chứng khoán để mua nợ từ của ngân
hàng thì hoạt động theo chức năng của DATC là phát hành trái phiếu rồi mua lại nợ
xấu có thể xem DATC như mẫu hình của công ty chứng khoán hóa. Tuy nhiên, hoạt
động của DATC còn rất hạn chế, chủ yếu tạp trung mua nợ xấu của các doanh
nghiệp Nhà nước, lại tự thân vận động không có sự tham gia của cơ quan xếp hạng
và hoạt động mang nặng tính Nhà nước.
2.3.3.2. Qui định về chứng khoán hóa
- Quyết định số 169/1999/QĐ-TTg ngày 19/08/1999 về việc phê duyệt Danh mục
công việc và Bảng phân công triển khai, thực hiện Chương trình Hành động Hà
Nội, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN có giao nhiệm vụ cho uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước cùng phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thúc đẩy chứng
khoán hoá.
- Quyết định số 105/2007/QĐ-TTg ngày 13/07/2007 về việc phê duyệt Định hướng
Chính sách tài chính nhà ở quốc gia đến năm 2020 có đề xuất giải pháp cho thị
trường bất động sản như sau: Thành lập cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở làm
công cụ để Chính phủ điều tiết và thúc đẩy phát triển hệ thống tài chính nhà ở tại
Việt Nam. Ban đầu, cơ quan tái cho vay thế chấp sẽ hoạt động theo cơ chế thích
hợp, huy động và sử dụng các nguồn vốn như vốn vay ODA, phát hành trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện nghiệp vụ
tái cho vay, mua lại các khoản cho vay nhà ở đủ điều kiện từ các định chế tài chính
của thị trường thế chấp sơ cấp, giúp các định chế này mở rộng cho vay trong lĩnh
vực nhà ở và thúc đẩy thị trường thế chấp sơ cấp phát triển. Khi thị trường thế chấp
sơ cấp và thị trường vốn đã hội tụ đủ các điều kiện cần thiết về quy mô và cơ sở
pháp lý, cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở sẽ phát hành chứng khoán dựa trên các
khoản cho vay thế chấp nhà ở - chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp nhà ở,
thực hiện chức năng một kênh dẫn vốn trung và dài hạn từ thị trường vốn tới thị
trường thế chấp.
Chương 2
47
Đồng thời chính phủ giao Bộ tài chính tiếp tục xây dựng và phát triển thị trường
vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu nhằm tạo điều kiện cho việc phát hành trái
phiếu thế chấp (trái phiếu được đảm bảo khoản vay thế chấp nhà ở) khi thích hợp.
- Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02/08/2007 về việc phê duyệt Đề án phát
triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, trong đó
đề cập đến giải pháp trước mắt là phát triển các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài
sản và các khoản nợ.
Nhìn chung vẫn chưa có văn bản luật chi tiết về thành lập và vận hành thị trường
chứng khoán hóa.
2.3.3.3. Qui định về Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (Real Estate Investment
Trust - REIT)
Các quỹ đầu tư bất động sản hoạt động tại Việt Nam hiện nay đều là các quỹ nước
ngoài, như VNL của Vinacapital, VPF của Dragon Capital, ILH- ILH2 và ILH3 của
Indochina Capital, VPH của Saigon Asset Management… Do thiếu khung pháp lý
cần thiết, cho đến giờ vẫn chưa có quỹ đầu tư bất động sản nào của Việt Nam.
Ngày 01/07/2011, Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung số 70/2006/QH 11 có qui định
quỹ đầu tư bất động sản là quỹ đầu tư chứng khoán được đầu tư chủ yếu vào
bất động sản. Đây là điểm mới của luật so với luật ngày 01/01/2007. Luật này cũng
cho phép quỹ đầu tư bất động sản (quỹ đóng) đầu tư quá mười phần trăm tổng giá
trị tài sản của quỹ vào bất động sản. Đây là những qui định rất mới và dường như đã
bật tín hiệu cho việc ra đời của REIT trong thời gian tới. Tuy nhiên, quỹ này huy
động vốn ra sao, NĐT có được giao dịch các chứng chỉ quỹ hay không… vẫn là
những vấn đề để ngỏ, chờ nghị định của Chính phủ và thông tư của Bộ Tài chính
hướng dẫn cho việc huy động vốn, thành lập, tổ chức hoạt động và quản lý quỹ đầu
tư bất động sản. Dự kiến với sự ra đời của quỹ này sẽ cho phép nhà đầu tư thay vì
trực tiếp mua nhà đất như hiện nay có thể mua chứng chỉ quỹ, công ty quản lý quỹ
sẽ thay mặt nhà đầu tư mua bán, quản lý bất động sản. Đây sẽ là kênh huy động
Chương 2
48
vốn đầu tư bất động sản chính thống thông qua thị trường chứng khoán, có thể thu
hút đông đảo nhà đầu tư tham gia do tính an toàn, lợi nhuận cao và khá ổn định.
Cho dù đến nay Việt Nam vẫn chưa có một quy định pháp lý chính thức nào, nhưng
một hình thức của REIT với mô hình cấu trúc như là một công ty đã tồn tại ở Việt
Nam. Đó là CII (Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí
Minh) – là một Công ty cổ phần, được hình thành theo Luật Doanh nghiệp Việt
Nam. Với cơ chế huy động vốn rộng rãi trong công chúng qua hình thức bán cổ
phần, trái phiếu đã hình thành một công ty đại chúng, thu hút các nguồn vốn nhàn
rỗi trong công chúng và các thành phần kinh tế khác. Năm 2006, CII phát hành 300
tỷ đồng vốn cổ phần trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh (nay
là Sở Giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh – HOSE). Vốn huy động từ việc bán
cổ phần được dùng để mua quyền thu phí 2 con đường Hùng Vương và Điện Biên
Phủ trong 13 năm theo một hợp đồng chuyển nhượng giữa CII và Ủy ban nhân dân
Tp.Hồ Chí Minh. Bằng sự nhượng quyền này, chính quyền Tp.Hồ Chí Minh đã thu
hồi nhanh chóng tất cả khoản vốn đầu tư 2 con đường này và dùng khoản tiền thu
hồi này được để đầu tư vào các công trình khác. Trong khi đó, cổ đông CII có thể
thu được lợi nhuận từ việc thu phí 2 con đường nói trên. Thông qua việc bán cổ
phần của công ty ra công chúng, sẽ tạo điều kiện để người dân được đóng góp và
hưởng lợi ích từ hoạt động đầu tư khai thác cơ sở hạ tầng của công ty.
Thực ra, cho dù vẫn chưa có một quy định pháp lý phù hợp nhưng với sự hỗ trợ từ
chính quyền Tp. Hồ Chí Minh trong những năm qua, CII đã thành công trong việc
điều hành như một REIT.
Nick Davis (2000) các điều kiện cần thiết cho việc chứng khoán hóa thành công
bao gồm:
Nick Davis (2000) Thực tiễn Việt Nam
- Môi trường pháp lý: qui định về chuyển nhượng - Chưa qui định khoản phải thu.
Chương 2
49
- Đã cho phép mua bán nợ xấu
- Môi trường kế toán: qui định về hạch toán ngoại Chưa qui dịnh bảng các giao dịch chứng khoán hóa.
- Môi trường pháp luật: những qui định về việc
thành lập và quản trị công ty chứng khoán hóa, Chưa qui dịnh
quỹ đầu tư tín thác bất động sản.
- Môi trường thuế: việc đánh thuế làm cho chứng
Chưa qui dịnh khoán hóa không hiệu quả kinh tế so với các công
cụ tài chính khác.
- Tăng cường tín nhiệm: phân cấp chứng khoán
thành những khoanh cấp cao / thấp theo sở thích
rủi ro của nhà đầu tư; phát hành chứng khoán với - Có thể thực hiện được. giá trị tài sản cơ bản cao hơn giá trị chứng khoán
phát hành; ký quỹ bằng tiền mặt; có sự bảo đảm từ
bên thứ ba bên ngoài cho chứng khoán phát hành.
- Có thể thực hiện được - Xếp hạng tín nhiệm chứng khoán của các cơ
quan xếp hạng. - Đã có các cơ quan xếp hạng.
Như vậy theo Nick Davis (2000) để có thể tiến hành việc chứng khoán hóa, Việt
Nam cần ban hành các qui định về môi trường kế toán, pháp luật, thuế.
2.4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG
CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
2.4.1. Những thuận lợi
2.4.1.1. Thị trường tiềm năng
Chương 2
50
Tính đến tháng 07/2010, tại SGDCK Tp. HCM có tổng cộng 296 công ty niêm yết
cổ phiếu, 3 công ty niêm yết trái phiếu, 5 chứng chỉ quỹ đang giao dịch. Tại
SGDCK Hà Nội có tổng cộng 398 công ty đang niêm yết cổ phiếu. Các tổ chức
tham gia trên thị trường ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng.
Bảng 2.4: Qui mô thị trường chứng khoán giai đoạn 2000 – 2010
Thời gian % GDP Vốn hóa TT (tỷ đồng) Tài khoản nhà đầu tư Công ty quản lý quỹ Công ty chứng khoán Công ty niêm yết Giá trị GD bình quân phiên (tỷ đồng) 2.908 1,4 986 0,28% 2000 7 5
8.780 6,85 1.570 0,34% 2001 8 10
13.607 4,58 2.436 0,48% 2002 9 20
16.486 12,14 2.370 0,39% 2003 1 12 22
21.600 79,55 4.516 0,63% 2004 2 13 26
29.065 111,90 9.598 1,21% 2005 6 14 41
110.652 401,84 237.276 22,70% 2006 18 55 195
312.139 1.562,21 492.900 40,00% 2007 25 78 253
531.428 1.615,79 225.935 19,76% 2008 43 102 342
822.914 2.872,75 620.551 37,71% 2009 46 105 457
3.306,80 695.186 42,25% 46 105 557 30/6/2010 925.955
Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Năm 2007 là giai đoạn tăng trưởng đột biến của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ giữa năm 2008 đến nay, giao dịch trên thị trường ảm đạm do những bất ổn kinh
tế vĩ mô tác động. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia dự báo thị trường chứng khoán sẽ
phục hồi mạnh mẽ sau giai đoạn kinh tế bất ổn này. TTCK Việt Nam còn non trẻ,
chỉ mới đi vào hoạt động hơn 10 năm nên còn rất tiềm năng. Đây là điều kiện thuận
lợi để đưa ra các công cụ đầu tư mới để làm phong phú thêm hoạt động của TTCK.
Thị trường trái phiếu
Chương 2
51
Thị trường trái phiếu Việt Nam là một thị trường đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển. So với thị trường trái phiếu của các nước trong khu vực, thị trường trái phiếu
Việt Nam còn nhỏ. Quy mô của thị trường trái phiếu Việt Nam hiện mới ở mức
17% GDP, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 58%, Malaysia 82%, Singapore 74% và
Trung Quốc là 53% (theo Bộ Tài chính).
Năm 2010, áp lực và nhu cầu vốn thông qua phát hành trái phiếu, đặc biệt là TPCP
rất lớn, vào khoảng 200.000 tỷ đồng. Trong đó nhu cầu vốn thông qua đấu thầu trên
SGDCK Hà Nội vào khoảng 100.000 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 12/2010, tổng
khối lượng TPCP đã phát hành thành công đạt gần 65.000 tỷ đồng (65% kế hoạch
đề ra), trong đó phát hành qua đấu thầu là gần 30.000 tỷ đồng (45% kế hoạch, vùng
lãi suất 9,6 - 11,5%); bảo lãnh phát hành đạt hơn 25.000 tỷ đồng, và bảo hiểm xã
hội mua khoảng 6.000 tỷ đồng TPCP. Như vậy, so với năm 2009, năm 2010 đã ghi
nhận một tín hiệu tích cự trong hoạt động đấu thầu TPCP, đặc biệt vào những tháng
cuối năm.
Trong năm 2010, ghi nhận thành công của chính phủ Việt Nam trong việc phát hành
TPCP bằng ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Trong tháng 01/2010, chào bán thành
công 1 tỷ USD TPCP tại SGDCK New York với kỳ hạn 10 năm và lãi suất danh
nghĩa 6,75%.
Về phát hành TPDN: thông qua kênh phát hành TPDN, các doanh nghiệp Nhà nước
đã huy động được khoảng 20.000 tỷ đồng (tăng gần gấp đôi so với con số 11.000 tỷ
đồng của năm 2009).
Bảng 2.5: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức huy động vốn
Đvt: Tỷ đồng, triệu USD
TT Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Đấu thầu qua NHNN 20.730 10.100 7.491
2 Đấu thầu qua TTGDCK
Bằng VND 7.008 2.595,7 28.546
Chương 2
52
Bằng USD 460,11 1.000
Bảo lãnh phát hành 18.570 3 2.800 26.442
4 Bán lẻ qua KBNN - - -
5 Bảo hiểm xã hội mua 2.500 2.000 6.000
Cộng - VND 48.808 17.496 64.479
- USD 460,11 1.000
Nguồn: Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2011
Năm 2010, khối lượng trái phiếu niêm yết đạt 2.251.875.000, tăng 41,14% so với
năm 2009. Riêng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh niêm
yết đạt 498.675.000, tăng 12 lần so với năm 2009 và chiếm 12,1% khối lượng trái
phiếm niêm yết trong năm.
Thị trường trái phiếu đã có những đợt phát hành lớn trong năm qua bất chấp tình
hình kinh tế khó khăn đã chứng tỏ nhu cầu của thị trường về trái phiếu rất khả quan.
Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi khi trái phiếu được chính phủ bảo lãnh từ việc
chứng khoán hóa khoản vay thế chấp bất động sản được phát hành trong tương lai.
2.4.1.2. Nhu cầu nhà ở ngày càng tăng cao
Giải quyết vấn đề nhà ở cho các gia đình có thu nhập trung bình và thấp, đặc biệt ở
các thành phố lớn là một bài toán nan giải cho Chính phủ hiện nay. Chúng ta gặp
khó khăn chủ yếu do những bất cập, chồng chéo về thủ tục pháp lý, đặc biệt là vốn
đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu nhà ở cho đại đa số dân cư có thu nhập thấp và trung
bình thì cần khối lượng vốn đầu tư rất lớn. Nếu không có những kênh huy động mới
ngoài kênh huy động truyền thống là ngân hàng thì mục tiêu ổn định – tăng trưởng
– giải quyết công ăn việc làm của Chính phủ khó thực hiện.
Theo “Chiến lược phát triển đô thị Việt Nam”, diện tích đất đô thị sẽ tăng từ
105.000 ha hiện nay lên 460.000 ha vào năm 2020, đưa tỷ lệ đô thị hóa từ 28% lên
khoảng 45% vào năm 2025. Dân số đô thị từ 23 triệu người dự kiến sẽ tăng lên 46
triệu người vào năm 2025, kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nhà ở đô thị. Trung bình
Chương 2
53
mỗi năm Việt Nam cần phát triển thêm 35 triệu m2 nhà để phấn đấu đạt 20 m2 nhà
ở/người tại đô thị vào năm 2020. Ngoài ra, chính sách cởi mở của Nhà nước như
người dân được mua nhà ở tại các đô thị mà không cần hộ khẩu, dự kiến mở rộng
đối tượng Việt kiều được mua nhà và cho phép thực hiện thí điểm người nước ngoài
được mua nhà ở tại Việt Nam… cũng làm tăng nhu cầu về nhà ở tại các đô thị lớn.
Bên cạnh đó, với làn sóng đầu tư tăng nhanh sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhu
cầu về văn phòng, khách sạn và công trình thương mại cũng đang tăng nhanh, nhất
là nhu cầu về văn phòng loại A, B, khách sạn 3 – 5 sao tại các đô thị lớn. Nhu cầu
về phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao… cũng
sẽ làm cho thị trường bất động sản ở Việt Nam thêm sôi động. Theo quy hoạch, từ
nay đến năm 2015, cả nước dự kiến thành lập mới trên 100 khu công nghiệp với
diện tích đất khoảng 26.000 ha…
Chính nhu cầu nhà ở, văn phòng tăng cao đòi hỏi phải có nhiều kênh huy động vốn.
Chính điều này là điều kiện thuận lợi để đưa ra công cụ mới, cụ thể là thực hiện
chứng khoán hóa.
2.4.1.3. Học hỏi được kinh nghiệm của các nước đi trước
Chứng khoán hóa đã ra đời và phát triển một thời gian dài. Đồng thời nó được vận
dụng và kiểm nghiệm ở nhiều nước khác nhau. Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới năm 2008 mà bắt nguồn từ khủng hoảng nợ cho vay mua nhà ở Mỹ đã bộc lộ
nhiều nhược điểm của việc chứng khoán hóa không đi kèm với việc kiểm soát.
Những thành công và thất bại của các nước đã triển khai chứng khoán hóa trước đây
chính là những bài học bổ ích cho những nước đi sau khi ứng dụng kỹ thuật này vào
nước mình. Tận dụng lợi thế đó, ngay từ bây giờ chúng ta có thể gửi cán bộ đi học
tập, nghiên cứu tại các nước đã ứng dụng thành công kỹ thuật này như ở Mỹ, Úc,
Canada,… để nhanh chóng nắm bắt được các kỹ thuật chứng khoán hoá hiện đại có
như vậy sẽ rút ngắn được thời gian và hiệu quả sử dụng cao.
Chương 2
54
2.4.1.4. Hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hiệp định song phương Việt – Mỹ có hiệu lực hoàn toàn vào năm
2010 và Việt Nam gia nhập WTO thì các định chế tài chính trong nước phải đa
dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của mình mới có thể cạnh tranh được với các định
chế tài chính nước ngoài vốn có thế mạnh về tài chính, công nghệ cũng như năng
lực quản trị điều hành. Đây là cơ hội để chúng ta đưa ra các sản phẩm, dịch vụ mới
chuẩn bị hội nhập như chứng khoán hóa để phục vụ khách hàng, thu hút được
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
2.4.2. Những khó khăn
2.4.2.1. Chưa có pháp lý và các tổ chức trung gian để thực hiện nghiệp vụ
chứng khoá hóa
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định và điều chỉnh
hoạt động của nghiệp vụ chứng khoán hóa, ngay cả trong các văn bản về chứng
khoán và TTCK cũng chưa đề cập về vấn đề này. Tổ chức trung gian như SPV trực
tiếp thực hiện việc chứng khoán hóa cũng chưa được hình thành. Tất cả đều quá
mới mẻ trong khi thị trường tài chính của chúng ta còn non trẻ và trong quá trình
hoàn thiện.
2.4.2.2. Chưa minh bạch về thông tin
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân
mình, khuyếch trương những điểm tốt, mặt mạnh mà che giấu đi thông tin tài chính
và những hạn chế của mình. Một nền kinh tế mở không chấp nhận suy nghĩ đó.
Một nền kinh tế mở phải là một nền kinh tế luôn hướng đến mục tiêu thông tin trên
thị trường trong suốt. Trong khi đó, tại Việt Nam vấn đề này còn chưa chú trọng.
Trước khi phát hành các chứng khoán có nguồn gốc chứng khoán hóa, cần phải
công khai, minh bạch các thông tin về tài chính của chủ đầu tư, chi tiết dự án, các
điều khoản về quyền lợi và trách nhiệm của hai bên, cảnh báo những rủi ro có thể
Chương 2
55
xảy ra, cam kết về tiến độ thực hiện dự án… Mà việc này thì xem ra là thiếu thực tế
ở Việt Nam hiện nay.
2.4.2.3. Thị trường bất động sản chưa phát triển và thiếu minh bạch
Thị trường bất động sản ở Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp, điều đó thể hiện
của một thị trường chưa phát triển và thiếu minh bạch, cụ thể:
- Trình tự, thủ tục về đất đai, thoả thuận quy hoạch, phê duyệt dự án quá phức tạp,
kéo dài qua nhiều cấp. Bình quân ở Việt Nam, công tác chuẩn bị đầu tư kéo dài từ 2
– 3 năm, trong khi ở Thái Lan chỉ mất 5 tháng.
- Hầu hết dự án bất động sản vẫn phải theo cơ chế “xin – cho”, điều chỉnh quy
hoạch. Chưa có cơ chế cung cấp thông tin thị trường bất động sản một cách hữu
hiệu. Do đó, nhà đầu tư còn gặp nhiều trở ngại và không bình đẳng trong việc tiếp
cận dự án phát triển nhà ở và khu đô thị mới, người dân cũng khó khăn khi tìm mua
trực tiếp nhà ở.
- Thị trường thiếu hàng hóa có quy mô vừa và nhỏ, thiếu loại nhà ở cho thuê phù
hợp với nhu cầu của đa số đối tượng thu nhập trung bình và thấp. Sự thiếu hụt nhà ở
giá rẻ cho thuê cũng làm mất thăng bằng thêm cán cân cung cầu trên thị trường.
- Bên cạnh đó, do lợi nhuận cao (thực hiện dự án đầu tư chung cư có thể đạt lợi
nhuận 100 – 200%) nên nhiều công ty, tập đoàn lớn tập trung đầu tư vào lĩnh vực
bất động sản, hầu hết các ngân hàng đều thành lập quỹ hoặc công ty kinh doanh bất
động sản, dẫn tới tình trạng đầu tư nội bộ rất khó kiểm soát. Việc cho vay dễ dãi lại
tập trung vào một phân khúc thị trường hẹp làm tăng đầu cơ, tạo cầu ảo làm mất ổn
định thị trường.
- Hầu hết các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản chưa thông qua sàn giao
dịch theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản. Tình trạng giao dịch ngầm,
đầu cơ nhà đất, kích cầu ảo để nâng giá bất động sản diễn ra khá phổ biến, làm cho
thông tin về thị trường này không phản ảnh đúng thực tế, từ đó làm tăng độ rủi ro
trong kinh doanh bất động sản.
Chương 2
56
- Hệ thống thuế liên quan đến thị trường bất động sản vẫn chưa hợp lý. Thuế trong
sử dụng nhà đất quá thấp, không khuyến khích sử dụng có hiệu quả đất đai và
không hạn chế được đầu cơ. Ngược lại, thuế giao dịch và lệ phí trước bạ còn quá
cao nên không khuyến khích được các giao dịch chính thức có đăng ký và nộp thuế.
Cơ chế tài chính cho thị trường bất động sản chưa phù hợp để đẩy thị trường này ở
Việt Nam phát triển.
- Ngoài ra, thị trường bất động sản phát triển quá nóng, tình trạng đầu cơ, đẩy giá
bất động sản lên quá cao so với giá trị thực sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến hoạt
động đầu tư, tác động xấu tới tâm lý và đời sống xã hội, làm méo mó thị trường.
Ngược lại, nếu thị trường trầm lắng cũng sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế,
tác động đến thị trường tiền tệ, công nhân không có việc làm… Đây là những vấn
đề cần quan tâm giải quyết trong quá trình chấn chỉnh thị trường bất động sản hiện
nay ở Việt Nam.
Như vậy, với một thị trường bất động sản còn nhiều bất cập và thiếu minh bạch thì
việc tiến hành chứng khoán hóa còn gặp nhiều khó khăn.
2.4.2.4. Rủi ro nợ vay dưới chuẩn
Tại Hội nghị giữa kỳ Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam diễn ra vào đầu
tháng 6.2011, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho biết, tỉ lệ
nợ xấu của các ngân hàng tăng từ 2% lên xung quanh mức 3% và trong trường hợp
xấu nhất thì cũng chỉ dưới 5% cả năm nay. Theo ông, đây vẫn là mức an toàn và
kiểm soát được.
Tuy nhiên, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings không nghĩ thế. Họ vừa công
bố tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 13% tổng dư nợ. Và nguy cơ nợ xấu
sẽ trở nên rõ ràng hơn vào cuối quý II, đầu quý III năm nay khi các doanh nghiệp
“ngấm đòn” lãi suất. Cho dù các ngân hàng đã giảm hạn mức tín dụng, nợ xấu vẫn
chưa có cơ hội giảm ngay.
Chương 2
57
Như vậy, rõ ràng các ngân hàng Việt Nam đã và đang giấu đi nợ xấu không công bố
thực tế. Không chỉ riêng Fitch Ratings, nhiều chuyên gia kinh tế cũng đã đề cập
nhiều đến vấn đề nợ xấu này. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín
dụng quá nóng trong những năm trước đó, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản,
chứng khoán ồ ạt thời kỳ 2006-2007. Đây cũng là thời kỳ mà nhiều ngân hàng mới
được thành lập. Vì đi vào hoạt động sau nên để cạnh tranh, nhiều ngân hàng vội vã
lao vào việc cho vay bất chấp khả năng trả nợ của người vay miễn là người vay có
tài sản thế chấp là bất động sản hoặc chứng khoán. Dễ nhận thấy rằng hầu hết đây là
những khoản vay dưới chuẩn. Khi lần lượt thị trường chứng khoán rồi thị trường bất
động sản đi vào trầm lắng, việc nợ quá hạn cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên, việc che
dấu thông tin bằng những thủ thuật tài chính đã làm cho những khoản nợ dưới
chuẩn đã biến thành nợ đủ tiêu chuẩn. Liệu việc chứng khoán hóa với những khoản
vay dưới chuẩn bị ngụy trang này có dẫn đến khủng hoảng tài chính như Mỹ hay
không? Đây có thể xem là vấn đề khó khăn lớn nhất cho con dường chứng khoán
hóa cho Việt Nam.
Kết luận chương 2
Với nhu cầu quá lớn về nhà ở trong hiện tại và sắp tới nhưng nguồn vốn tài trợ
chính cho lĩnh vực bất động sản là vốn vay ngân hàng bị hạn chế cộng với lãi suất
vay trung dài hạn quá cao khiến cho việc phát triển nhà ở của chính phủ gặp rất
nhiều khó khăn. Việt Nam hiện chưa có kênh huy động vốn phù hợp cho riêng thị
trường bất động sản phát triển ổn định. Đây chính là điều kiện lý tưởng để cho ra
đời sản phẩm chứng khoán hóa có thể khắc phục được nhược điểm cố hữu của cho
vay truyền thống.
Nguồn cung đầu vào cho quá trình chứng khoán hóa là những khoản cho vay thế
chấp bất động sản từ các ngân hàng. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của hệ thống
ngân hàng trong thời gian qua sẽ là nguồn cung dồi dào các khoản vay.
Chương 2
58
Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá non trẻ, còn tiềm năng phát
triển nên có khả năng hấp thụ tốt lượng chứng khoán hóa có tỷ suất sinh lợi hấp
dẫn.
Mặt khác, thị trường tài chính Việt Nam ngày một hội nhập sâu vào thị trường tài
chính thế giới cũng đã dần xuất hiện tổ chức xếp hạng tín nhiệm, tổ chức bảo lãnh
phát hành chứng khoán hoặc tổ chức mua bán nợ xấu mang dáng vấp của một SPV,
… Đây là những tiền đề tốt hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa của Việt Nam.
Nhìn chung, việc chứng khoán các khoản cho vay thế chấp bất động sản có thể tiến
hành tại Việt Nam và có tính khả thi khá cao.
Chương 3
59
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH VÀ CÁC BƯỚC CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC
KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM
3.1. SỰ CẦN THIẾT CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY THẾ
CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
3.1.1. Giải quyết vấn đề nhà ở cho người có thu nhập thấp
Bất cứ Chính phủ nào cũng mong muốn đạt tới mục tiêu ổn định – tăng tưởng và
giải quyết công ăn việc làm. Để đạt được các mục tiêu đó thì một trong những vấn
đề nhức nhối là giải quyết nhà ở cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. Tuy nhiên,
để đáp ứng được nhu cầu nhà ở thì đòi hỏi phải có kinh phí đầu tư rất lớn, song
ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp. Theo CBRE Việt Nam, dự báo trong cả năm
2011, TP.HCM sẽ có khoảng 40.000 căn hộ mới cùng khoảng 10.000 căn hộ tồn
đọng từ năm 2010. Nghe qua có vẻ như nguồn cung căn hộ ở TP.HCM đang dôi dư,
nhưng trên thực tế, nguồn cung vẫn chưa thấm vào đâu so với nhu cầu quá lớn.
Theo Chương trình Phát triển nhà ở của TP.HCM đến năm 2010, thì Thành phố
phấn đấu đạt trung bình 14,3 m2/người và đến năm 2011 là 15 m2/người. Như vậy,
với dân số trên 8 triệu dân, hiện mỗi năm Thành phố cần thêm gần 6 triệu m2 nhà ở,
tương đương gần 60.000 căn hộ có diện tích 100 m2. Ngoài ra, hiện mỗi năm
TP.HCM có khoảng 50.000 cặp đăng ký kết hôn, cũng cần một số lượng căn hộ
tương đương. Do vậy, có thể nói, thị trường bất động sản TP.HCM đang đứng trước
nghịch lý cung - cầu: vừa thiếu nhà ở cho người có thu nhập thấp nhưng lại vừa
thừa nhà ở cho người có thu nhập cao. Do đó, để hoàn thành kế hoạch đề ra cần
phải huy động thêm từ các nguồn khác. Kênh huy động vốn chủ yếu hiện nay ở Việt
Nam là từ các NHTM. Tuy nhiên, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ nên họ cũng tính toán đến luồng di chuyển tiền tệ và hiệu quả
sử dụng vốn của ngân hàng do đó ngân hàng không muốn tập trung quá nhiều vào
Chương 3
60
việc cho vay thế chấp bất động sản để hạn chế rủi ro. Mặt khác, với những qui định
hạn chế cho vay thế chấp bất động sản của Ngân hàng Nhà nước cũng như chi phí
vay quá cao nên kênh huy động từ ngân hàng cũng không thể đáp ứng được nhu cầu
đầu tư bất động sản.
Vì vậy, chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản là hướng đi mới
nhằm tạo ra kênh huy động vốn mới nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở và thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của Chính phủ.
3.1.2. Nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại
- Chứng khoán hóa tạo khả năng thanh khoản cho các khoản vay thông qua thị
trường thứ cấp của các khoản vay. Từ đó các NHTM có thể sử dụng vốn linh hoạt
hơn, có thể huy động liên tục nguồn vốn ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục
mở rộng và tăng trưởng tín dụng hiệu quả. Chứng khoán hóa còn tạo điều kiện cho
các NHTM tăng nhanh vòng quay của vốn, sử dụng vốn hiệu quả. Đồng thời giúp
cho các NHTM không quá lệ thuộc và nguồn vốn tiết kiệm dân cư, tiền gửi của các
tổ chức nhờ việc tiếp cận nguồn vốn từ chứng khoán hóa.
- Chứng khoán hóa tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng, thúc đẩy tín dụng
mở rộng và tăng trưởng hiệu quả. Chính những đòi hỏi ngày càng cao của nhà đầu
tư vào những chứng khoán (mà các khoản nợ, các tài sản này làm cơ sở) đã tạo ra
cơ chế chọn lọc tự động, đòi hỏi các khoản nợ, các khoản phải thu phải có chất
lượng.
Theo đó các khoản nợ, các khoản phải thu phải đảm bảo đạt những tiêu chuẩn nhất
định về quy mô khoản tín dụng, lãi suất, về thời hạn cho vay của SPV. Chính những
yêu cầu đó là cơ sở để các NHTM nâng cao chất lượng tín dụng các khoản vay.
- Chứng khoán hóa thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý, quản
trị cũng như thúc đẩy quy trình cải cách hệ thống ngân hàng. Việc vận dụng tốt, áp
dụng hiệu quả kỹ thuật chứng khoán hóa, lại trở thành chính các động cơ thúc đẩy
quá trình đổi mới, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng trong mối liên hệ bản chất
mà kỹ thuật này mang lại thông qua việc giúp các NHTM cơ cấu lại danh mục tài
Chương 3
61
sản của mình, lưu chuyển vốn hoạt động với tốc độ nhanh hơn và làm lành mạnh
hóa các bảng cân đối kế toán. Hoạt động chứng khoán hóa bắt buộc các NHTM phải
thực hiện cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, chuẩn hóa quy trình cho vay cũng như
chất lượng các sản phẩm của mình để có thể đáp ứng được yêu cầu của chứng
khoán hóa.
- Chứng khoán hóa tạo điều kiện cho các NHTM giảm thiểu rủi ro, phân tán rủi ro,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Lợi ích đem lại này gắn liền với
quá trình tập hợp các khoản cho vay và bán chúng cho các tổ chức trung gian chứng
khoán hóa, bởi sự chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể tham gia chứng khoán hóa.
Việc bán đi các khoản vay, các khoản phải thu đã giải phóng cho các NHTM khỏi
rủi ro tín dụng từ phía khách hàng và khỏi rủi ro về lãi suất. Đặc biệt là đối với
những khoản vay trung và dài hạn như cho vay mua nhà vì hầu hết các khoản tài trợ
cho các khoản vay dài hạn đều từ nguồn vốn huy động ngắn hạn.
- Nâng cao hiệu quả quản lý tài sản có – tài sản nợ cho các NHTM. Chứng khoán
hóa tạo điều kiện thực hiện kỹ thuật chuyển hoán kỳ hạn, nhờ việc ngân hàng có thể
chủ động đi vay vốn trên TTCK với thời hạn, lãi suất tương ứng với những khoản
cho vay mà ngân hàng thực hiện. Trong điều kiện đó ngân hàng không còn phải dựa
vào nguồn vốn huy động là các khoản tiền tiết kiệm. Đồng thời chủ động hơn với
các trường hợp khách hàng rút tiền bất thường.
3.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN
VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
3.2.1. Về môi trường pháp lý
Một khuôn khổ luật pháp phù hợp cho thực hiện chứng khoán hóa là phải có đầy đủ
các quy định về chuyển nhượng các tài sản tài chính, nghĩa là tạo nên một cơ chế để
các khoản nợ, các khoản phải thu có thể chuyển nhượng, mua bán tự do. Chỉ khi
nào các công ty, các ngân hàng có thể bán các khoản nợ, các khoản phải thu trong
tương lai của mình thì mới có thể áp dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa để giải quyết
Chương 3
62
tình trạng khan hiếm nguồn vốn khả dụng. Nói một cách khác là không thể thực
hiện chứng khoán hóa nếu không có một cơ chế chuyển nhượng tài sản thích hợp.
3.2.2. Về môi trường pháp luật
Chính sách phát triển nhà ở và khuyến khích cho vay thế chấp bất động sản ở Mỹ
thập niên 70 thế kỷ XX đã chứng tỏ vai trò tích cực của Chính phủ trong việc hình
thành và phát triển kỹ thuật chứng khoán hóa các tài sản. Sự thành công của việc
chứng khoán hóa ở mọi quốc gia đều không thể thiếu bàn tay của Chính phủ trong
việc thành lập những tổ chức trung gian, giúp các NHTM, doanh nghiệp thực hiện
chứng khoán hóa như Hiệp hội thế chấp bất động sản quốc gia (Ginnie Mae) tại Mỹ,
công ty chứng khoán hoá và cơ sở hạ tầng châu Á (Asian Securitization &
Infrastucture Ltd), công ty Cagamas Berhard ở Malaysia…. Trong chương trình hợp
tác ASEAN về chứng khoán hóa năm 1999 đến nay đã 12 năm nhưng việc chứng
khoán hóa tại Việt Nam vẫn chưa có chương trình cụ thể. Do đó, để đưa nghiệp vụ
chứng khoán hóa vào Việt Nam, thiết nghĩ Chính phủ nên ban hành sớm luật chứng
khoán hóa để điều tiết các đối tượng tham gia thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình
này.
3.2.3. Về môi trường thuế
Ưu đãi thuế được xem là hữu hiệu trong việc khuyến khích đầu tư. Nhiều chương
trình ưu đãi thuế áp dụng cho các doanh nghiệp mới thành lập, ngành nghề có tỷ
suất sinh lợi thấp, ngành nghề áp dụng công nghệ mới làm giảm ô nhiễm môi
trường, ngành nghề sử dụng nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm, … Chứng
khoán hóa giải quyết bài toán về vốn cho phát triển bất động sản – một bài toán nan
giải trong suốt nhiều năm qua tại Việt Nam thiết nghĩ cũng nên được hưởng những
chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích mảng hoạt động này phát triển.
Ở Mỹ, quỹ đầu tư tín thác bất động sản (REIT) – một loại hình tổ chức có chức
năng thực hiện chứng khoán hóa được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp khi thỏa
mãn một số điều kiện như: tối thiểu 75% tổng số tài sản đầu tư là BĐS, tối thiểu
75% thu nhâp mang lại từ tiền cho thuê bất động sản, ….
Chương 3
63
3.2.4. Về tăng cường tín nhiệm
Một cơ chế tăng cường tín nhiệm là vô cùng cần thiết cho việc thực hiện chứng
hoán hóa. Nhà phát hành bảo đảm rằng việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu cho nhà
đầu tư không bị cản trở bởi sự ngắt quãng của luồng thu nhập hoặc tình trạng mất
khả năng thanh toán của các con nợ. Cơ chế tăng cường tín nhiệm này có thể mang
tính chất nội sinh hay ngoại sinh, nghĩa là có thể do chính bản thân nhà phát hành sử
dụng tài sản của mình để bảo đảm thêm cho chứng khoán đã phát hành (cơ chế tăng
cường nội sinh) hoặc do bên thứ ba đảm nhiệm (cơ chế tăng cường ngoại sinh).
- Cơ chế tăng cường tín nhiệm nội sinh có thể thực hiện bằng nhiều phương thức:
Thứ nhất, sử dụng một tập hợp tài sản tài chính có giá trị lớn hơn giá trị chứng
khoán phát hành để thực hiện chứng khoán hóa.
Thứ hai, thiết lập một quỹ dự phòng (hoặc ký quỹ bằng tiền mặt) để sử dụng mỗi
khi có trục trặc xảy ra đối với các nguồn thu bảo đảm cho việc chi trả lãi và gốc
chứng khoán có liên quan.
Thứ ba, phát hành một chứng khoán với nhiều kỳ hạn và thứ tự ưu tiên thanh toán
khác nhau.
- Cho chế tăng cường tín nhiệm ngoại sinh thông qua một tổ chức bên ngoài công
ty. Sự bảo đảm của một bên thứ ba có thể là Chính phủ, công ty bảo hiểm hoặc từ
ngân hàng, công ty tài chính lớn khác được xếp hạng tín nhiệm với thang điểm cao
nhất từ AA đến AAA. Sự bảo đảm mà bên thứ ba đưa ra có thể là đối với chất lượng
các khoản phải thu hoặc chất lượng của chứng khoán phát hành. Thực chất đây
chính là sự bảo lãnh về tài chính đối với chứng khoán phát hành. Người bảo lãnh sẽ
cam kết chi trả phần nợ gốc và lãi trong trường hợp người chịu trách nhiệm trả nợ
mất khả năng thanh toán.
Chương 3
64
3.2.5. Về xếp hạng tín nhiệm
Trước khi phát hành chứng khoán ra thị trường, việc xếp hạng tín nhiệm cho chứng
khoán là cần thiết vì nó cung cấp thông tin khả năng vỡ nợ của chứng khoán cho
nhà đầu tư và do đó làm cho việc lựa chọn đầu tư trở nên dễ dàng hơn.
Chứng khoán được xếp hạng càng cao cho dấu hiệu khả năng vỡ nợ càng thấp, do
đó lãi suất áp dụng cho chứng khoán này được SPV ấn định ở mức thấp hơn các
chứng khoán có hạng thấp hơn. Qua đó, SPV ấn định được lãi suất trái phiếu phù
hợp đảm bảo lợi nhuận và khả năng cạnh tranh.
Tuy nhiên, cơ quan xếp hạng tín nhiệm phải thể hiện được tính khách quan trong
việc xếp hạng của mình. Việc xếp hạng sai lệch sẽ gây thiệt hại cho ít nhất là nhà
đầu tư hoặc SPV.
3.2.6. Các vấn đề khác
3.2.6.1. Ngân hàng thương mại
Một yếu tố đảm bảo sự thành công của nghiệp vụ chứng khoán hóa là các tài sản
liên quan phải có sự tương hợp về đặc tính và chất lượng tín dụng. Để có được một
tập hợp các tài sản tài chính thích hợp cho việc phát hành chứng khoán thì các SPV
phải lựa chọn các tài sản có cùng thời hạn, lãi suất và chất lượng tín dụng. Sự tương
hợp về đặc tính và chất lượng của tài sản không thể tồn tại một cách ngẫu nhiên mà
cần có một chính sách thích hợp trong hệ thống tài chính để tạo nên sự thống nhất
này. Do đó, các NHTM cần có một sự chuẩn hóa trong việc cấp tín dụng để có thể
tạo ra một tập hợp nợ có cùng thời hạn, lãi suất và thời biểu thanh toán thì mới có
thể dễ dàng chuyển đổi chúng thành những chứng khoán.
3.2.6.2. Cung cấp thông tin đầy đủ cho nhà đầu tư
Một đợt phát hành chứng khoán coi là thành công nếu được các nhà đầu tư chấp
nhận. Chứng khoán hóa cũng không nằm ngoài quy luật này. Muốn vậy, các nhà
phát hành chứng khoán theo nghiệp vụ này phải cung cấp đầy đủ thông tin thuyết
phục công chúng đầu tư rằng đây là một chứng khoán có chất lượng cao và khoản
Chương 3
65
tiền mà họ bỏ ra chắc chắn sẽ sinh lời. Các định chế tài chính và doanh nghiệp
muốn thực hiện chứng khoán hóa các danh mục tài sản của mình cần sớm thiết lập
các thủ tục và hệ thống thông tin cung cấp cho thị trường càng nhiều thông tin càng
tốt. Thông tin về bản thân nhà phát hành và danh mục tài sản liên quan phải có tính
chính xác để nhà đầu tư có thể hài lòng về chất lượng tín dụng của danh mục tài sản
bảo đảm. Không có gì thuyết phục nhà đầu tư dễ dàng hơn hệ số tín nhiệm cao mà
các tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra đối với chứng khoán liên quan.
3.3. XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN VAY
THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
Trên cơ sở mô hình của Nick Davis (2000), mô hình áp dụng thành công tại Ấn Độ
(Công ty Dun & Bradstreet [2008]) và Patrick Wood (2007), tôi lựa chọn mô hình
áp dụng thành công tại Ấn Độ (Công ty Dun & Bradstreet [2008]) làm cơ sở đề xuất
cho mô hình áp dụng cho Việt Nam vì tính đơn giản và hiệu quả của mô hình này.
Về cơ bản ba mô hình trên, để triển khai được chứng khoán hóa thì cần ít nhất ba
nhóm tổ chức cùng tham gia vào quá trình này là: tổ chức cho vay thế chấp bất
động sản, tổ chức chuyên trách chứng khoán hóa (SPV), tổ chức hỗ trợ. Riêng tổ
chức hỗ trợ thì tùy thuộc vào mức độ phát triển của thị trường mà mỗi mô hình có
nhiều hoặc ít tổ chức hỗ trợ.
Mô hình của Nick Davis (2000) khá đơn giản, thiếu sự có mặt của tổ chức xếp hạng
tín nhiệm. Tuy nhiên, đây lại là tổ chức cung cấp thông tin bổ ích về chứng khoán
phát hành và tổ chức phát hành cho nhà đầu tư. Việc thiếu sót này làm cho việc lựa
chọn chứng khoán đầu tư khó khăn hơn, tốn nhiều chi phí phân tích và tư vấn, rủi ro
che dấu thông tin tăng cao. Như vậy, chứng khoán hóa sẽ không mang lại nhiều
hiệu quả hơn việc đầu tư vào các công cụ tài chính khác.
Mô hình của Patrick Wood (2007) thì quá phức tạp vì sự tham gia của nhiều tổ chức
hỗ trợ thuộc vào hàng quá chuyên nghiệp. Ví dụ, tổ chức môi giới cho vay chỉ thích
hợp trong thị trường tín dụng cạnh tranh cao. Khi đó, để tiết giảm chi phí cho việc
bán hàng, các ngân hàng nhờ đến tổ chức môi giới – một tổ chức chuyên nghiệp
Chương 3
66
làm cầu nối giữa người vay và ngân hàng. Tuy nhiên, thị trường tín dụng của Việt
Nam vẫn chưa đạt đến trình độ này. Hay sự xuất hiện của tổ chức trung gian thanh
toán chịu trách nhiệm thu tiền từ người vay chuyển trả cho SPV và tổ chức quản lý
tài sản thế chấp chịu trách nhiệm xử lý tài sản thu hồi tiền vay khi vỡ nợ. Thực tế tại
Việt Nam, hai chức năng cơ bản này vẫn đang được các ngân hàng thực hiện rất tốt
vì: thứ nhất, người vay lo sợ việc nợ quá hạn sẽ bị xử lý ngôi nhà dành dụm cả đời
của họ nên việc thu nợ cũng không quá phức tạp đối với ngân hàng; thứ hai, tỷ lệ
cho vay trên tài sản thấp trong khi giá nhà hầu như luôn tăng nên việc xử lý tài sản
vẫn đảm bảo thu đủ nợ vay.
Mô hình của Công ty Dun & Bradstreet [2008] trung hòa được cả hai mô hình trên.
Mặt khác, mô hình này hiện đã áp dụng thành công tại Ấn Độ - một nền kinh tế
Châu Á đang phát triển có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nên cũng có thể
xem xét để ứng dụng mô hình này vào Việt Nam.
Theo mô hình này đòi hỏi sự có mặt của các thành phần sau:
- Người vay tiền mua BĐS (người có nghĩa vụ).
- NHTM (người khởi tạo).
- SPV (Công ty trung gian chứng khoán hoá).
- Cơ quan bảo lãnh phát hành.
- Nhà đầu tư.
- Cơ quan xếp hạng.
- Việc chứng khoán hóa trong giai đoạn mới thành lập đề xuất phải có sự đảm bảo
của Chính phủ đối với các trái phiếu phát hành. Sự tăng cường tín nhiệm từ bên thứ
ba (các tổ chức) sẽ được xem xét khi thị trường chứng khoán hóa phát triển cao hơn
phát sinh những vấn đề phức tạp hơn. Do đó trong mô hình này chưa có sự tham gia
của cơ quan tăng cường tín nhiệm như mô hình áp dụng thành công tại Ấn Độ.
Chương 3
67
Để đơn giản hoá, trong quy trình này không đề cập cơ quan hỗ trợ thanh khoản, cơ
quan bảo hiểm, cơ quan quản lý tài sản chứng khoán hoá… Các cơ quan này nên
được xem xét khi việc chứng khoán hóa đạt trình độ cao hơn.
Hình 3.1: Quy trình chứng khoán hóa đề xuất cho Việt Nam trong giai đoạn
đầu
Chương 3
68
- Trình tự thực hiện chứng khoán hoá
Bước 1: NHTM cung cấp dịch vụ tín dụng cho người vay, thay vào đó người vay
thanh toán hàng tháng cho NHTM.
Bước 2: SPV tiếp xúc với NHTM để thỏa thuận các điều kiện về giá mua lại các
khoản cho vay thế chấp bất động sản của NHTM, thời hạn và phương thức thanh
toán.
Sau khi mua các khoản tín dụng này, SPV tập hợp các khoản nợ này thành từng
nhóm theo những tiêu chuẩn nhất định về lãi suất, về thời hạn…
Bước 3: SPV ký hợp đồng với các cơ quan bảo lãnh phát hành để thực hiện phát
hành chứng khoán. Đồng thời ký hợp đồng thuê xếp hạng chứng khoán với cơ quan
xếp hạng.
Bước 4: Cơ quan bảo lãnh phát hành sẽ phát hành chứng khoán hoá ra thị trường và
thu tiền bán chứng khoán.
Bước 5: Cơ quan bảo lãnh phát sau khi thu đủ phí bảo lãnh sẽ chuyển trả tiền còn lại
cho SPV.
Bước 6: SPV chuyển trả phí cho cơ quan xếp hạng.
Bước 7: SPV chuyển trả tiền (dư nợ vay và phí tạo lập khoản vay) cho NHTM.
NHTM chuyển giao quyền sở hữu khoản vay và tiến hành thanh toán hàng tháng
tiền thu từ người vay cho SPV.
Bước 8: SPV thanh toán tiền cho nhà đầu tư khi đến hạn.
Từ mô hình trên, ta có thể xác định được lợi ích và rủi ro của SPV như sau:
3.3.1. Lợi ích của SPV
- Nguồn thu chính là chênh lệch lãi suất cho vay thế chấp bất động sản và các khoản
chi phí sau:
(1) Chi phí tạo lập khoản vay phải trả cho NHTM.
Chương 3
69
(2) Lãi suất trái phiếu trả cho nhà đầu tư.
(3) Chi phí phải trả cho việc bảo lãnh phát hành.
(4) Chi phí phải trả cho việc xếp hạng tín nhiệm.
Như vậy tỷ suất sinh lợi (lãi suất) của công ty chứng khoán hoá như sau:
P (%) = lãi suất cho vay – chi phí trả cho NHTM – lãi suất trái phiếu chứng khoán
hoá – chi phí bảo lãnh phát hành – chi phí xếp hạng tín nhiệm.
+ Hiện nay lãi suất cho vay thế chấp bất động sản được các NHTM áp dụng theo cơ
chế lãi suất thỏa thuận trên nguyên tắc bù đắp chi phí đầu vào và có lãi. Tùy theo
điều kiện mỗi ngân hàng thương mại; tuỳ theo tích chất khoản vay; đối tượng vay;
thời hạn vay mà các NHTM đưa ra các mức lãi suất khác nhau. (Giả sử lãi suất đối
với cho vay mua nhà phổ biến hiện nay là 23%/năm).
+ Lãi suất huy động của trái phiếu chính phủ có kỳ hạn 5 năm, phát hành năm 2011
được giao dịch tại SGDCK Hà Nội hiện nay phổ biến ở mức 13,2%/năm. Để cạnh
tranh được so với trái phiếu Chính phủ, lãi suất trái phiếu chứng khoán hoá khoảng
14%/năm tương đối khả thi.
+ Giả sử chi phí tạo lập khoản vay, thu nợ, quản lý tài sản thế chấp trả cho các
NHTM là 2%/năm. Với mức sinh lợi bình quân của ngân hàng ACB trong trường
hợp cho vay hiện nay vào khoảng 3%/năm thì sau khi chuyển nhượng khoản vay
cho bên thứ ba thì mức thu nhập trên là phù hợp.
+ Giả sử chi phí bảo lãnh phát hành trái phiếu 1%/giá trị trái phiếu phát hành trong
trường hợp cơ quan bảo lãnh cam kết mua hết phần còn thừa (theo biểu phí của
ACBS). Với giá trị đợt phát hành lớn hàng trăm tỷ đồng và thời gian đáo hạn trái
phiếu dài hàng chục năm thì phí bảo lãnh phát hành nêu trên được phân bổ đều hàng
năm sẽ không phải là chi phí lớn.
+ Chi phí xếp hạng tín nhiệm thấp hơn nhiều so với chi phí trả cho thị trường, nhất
là đối với các đợt phát hành trái phiếu lớn [Nghiên cứu sinh tiến sỹ Đại học
Chương 3
70
Manchester Hồ Quốc Tuấn (2011), Muôn mặt xếp hạng tín nhiệm]. Do đó có thể
xem chí phí này không ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập của SPV.
Như vậy, tỷ suất sinh lợi P của công ty chuyên trách chứng khoán hóa là
7%/năm (chưa tính phí bảo lãnh phát hành và phí xếp hạng).
3.3.2. Rủi ro và hướng xử lý
- Rủi ro công ty chuyên trách chứng khoán hóa bị lỗ do biến động lãi suất cho
vay
Theo mô hình lợi ích trên:
+ Lãi suất trái phiếu chứng khoán hoá qui định cố định tại thời điểm phát hành
trái phiếu.
+ Chi phí trả cho NHTM được trả một lần cố định tại thời điểm mua lại khoản
vay.
+ Nhưng lãi suất cho vay thường không được cố định trước mà thay đổi theo thời
gian, thường điều chỉnh 3 hoặc 6 tháng/lần. Như vậy lãi suất có khả năng tăng giảm
bất thường. Điều này đe dọa đến lợi nhuận P có khả năng bị lỗ nếu lãi suất cho vay
giảm. Tuy nhiên, công ty chuyên trách chứng khoán hóa nên chuẩn bị trước kế
hoạch mua lại ở thời điểm thích hợp. Sau đó tập hợp những khoản vay có thời hạn
còn lại ngắn nhưng tương đồng nhau để tiếp tục phát hành trái phiếu với lãi suất
thấp hơn, thời hạn cũng ngắn hơn.
- Rủi ro trả trước: để hạn chế rủi ro này các công ty chuyên trách chứng khoán
hóa cần phải thiết lập những kỹ năng quản lý, quản trị danh mục tài sản cần thiết.
Theo đó, trong cấu trúc chứng khoán hóa, cần xây dựng một cơ cấu kỳ hạn linh hoạt
với nhiều ngày đáo hạn cho một trái phiếu sẽ giúp nhà phát hành tránh được rủi ro
trả trước. Tuy nhiên việc ấn định các kỳ hạn khác nhau này không phải ngẫu nhiên
mà phụ thuộc rất nhiều vào khả năng dự đoán phân tích, dự báo xem có khoảng bao
nhiêu phần trăm khoản vay có thể bị trả nợ trước hạn. Đây là việc làm khó và đòi
Chương 3
71
hỏi nhà phát hành và định chế tài chính trung gian phải có đủ năng lực phân tích
danh mục tài sản để có thể dự kiến chính xác tỷ lệ này.
- Rủi ro tín dụng (do người vay không trả nợ đúng hạn): giải pháp quan trọng là
các công ty chuyên trách chứng khoán hóa ấn định giá mua lại các khoản vay từ
ngân hàng và các mức lãi suất trái phiếu cũng linh hoạt tùy theo mức độ rủi ro của
khoản vay. Các khoản vay có rủi ro cao sẽ được mua với giá thấp và đồng thời lãi
suất trái phiếu cao để thu hút nhà đầu tư.
3.4. LOẠI HÌNH TỔ CHỨC CỦA SPV
- Kinh nghiệm từ các quốc gia áp dụng chứng khoán hóa cho thấy, để chứng khoán
hóa cần có các công ty trung gian chứng khoán hóa đứng ra để mua lại các tập hợp
các khoản vay sau đó phát hành các trái phiếu dựa trên tập hợp các khoản vay đó.
- Ngoài ra, để thành công cũng không thể thiếu vai trò hỗ trợ tích cực của Chính
phủ. Do đó, từng bước thành lập công ty chuyên trách chứng khoán hóa trực thuộc
Nhà nước để hỗ trợ cho quá trình chứng khoán hóa. Khi quá trình chứng khoán đi
vào ổn định, chúng ta có thể chuyển đổi hình thức sở hữu của công ty này như cổ
phần hóa, bán cổ phần cho công chúng đầu tư.
Thực tiễn tại Mỹ cũng cho thấy, hai tổ chức thực hiện việc phát hành chứng khoán
hóa có thị phần lớn nhất là Fannie Mae và thị phần lớn thứ ba là Ginnie Mae cũng
có yếu tố Nhà nước trong việc thành lập và hoạt động.
Fannie Mae được Quốc hội Mỹ thành lập vào năm 1938 để ổn định hóa nguồn cung
nhà ở cho Hoa Kỳ sau cuộc Đại Khủng hoảng (năm 1929). Ban đầu, nó là một công
ty do chính phủ tài trợ. Sau đó vào năm 1968, chính phủ Mỹ quyết định chuyển đổi
sở hữu của công ty này, thành một công ty cổ phần. Tiếp theo sau sự thành công của
Fannie Mae, Ginnie Mae được thành lập năm 1968 để tăng tính cạnh tranh. Hiệp
hội này được Chính phủ Mỹ thành lập dưới dạng một công ty trực thuộc Vụ phát
triển nhà ở và đô thị. Cả hai tổ chức này đều có sự bảo trợ của Chính phủ phía sau
dù thị trường tài chính Mỹ đạt đến mức độ tự do hóa rất cao, đặc biệt trong giai
đoạn khủng hoảng hiện nay thì sự bảo trợ của Chính phủ Mỹ càng toàn diện hơn để
Chương 3
72
tránh cho hai tổ chức này phá sản kéo theo những hậu quả tài chính nghiêm trọng
toàn cầu.
Do đó, việc tham gia của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn đầu hình thành thị
trường chứng khoán hóa là cần thiết để đảm bảo cho việc vận hành thị trường theo
đúng định hướng phát triển của Nhà nước. Mặt khác, lịch sử cũng chứng minh sự
tham gia của Chính phủ được xem là xu hướng tất yếu.
- Trong điều kiện hiện nay, hoạt động của công ty trung gian chứng khoán hóa có
thể gặp một số khó khăn như chi phí hoạt động cao, áp lực về lợi nhuận để bù đắp
chi phí hoạt động và lợi tức cho nhà đầu tư. Vì vậy, trong giai đoạn đầu có thể thành
lập thí điểm Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REIT) để thực hiện nghiệp vụ trung
gian chứng khoán hóa hoạt động theo Luật chứng khoán.
REIT được áp dụng khá thành công tại nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Nhật,
Singapore. Lần đầu tiên quỹ này xuất hiện tại Mỹ vào khoảng năm 1960, sau đó lan
rộng ra các nước phát triển khác. Đến năm 2000 REITs được phát triển rộng rãi ở
Châu Âu và Châu Á như Pháp, Đức, Italia, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái
Lan, Malaysia, Hồng Kong,…hiện nay, một số nước khác đang có thị trường BĐS
phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam,…cũng đang nghiên cứu về quỹ này.
Tại Châu Á, mức vốn hóa của quỹ này khá lớn năm 2010 lên đến 156,8 tỷ USD,
riêng Singapore là 28,9 tỷ USD.
Lý do chọn REIT:
+ REIT và công ty chuyên trách chứng khoán hóa đều phát hành chứng khoán với
nguồn trả nợ là nguồn thu dự kiến có được từ các tài sản đặc biệt. Tài sản đặc biệt
đối với REIT là tiền cho thuê các công trình bất động sản; còn đối với công ty
chuyên trách chứng khoán hóa là khoản phải thu cho vay thế chấp bất động sản.
Đây là điểm tương đồng cơ bản giữa REIT và công ty chuyên trách chứng khoán
hóa.
+ Qua nghiên cứu được biết, REIT ở các nước có những ưu điểm như sau:
Chương 3
73
Thứ nhất, nhà đầu tư nào cũng có thể tham gia trực tiếp vào thị trường: Ưu điểm lớn
nhất mà quỹ này đem lại là bất kể cá nhân, tổ chức nào cũng có thể tham gia vào thị
trường bất động sản cho dù vốn của họ lớn hay nhỏ thông qua hình thức sở hữu một
phần tỷ lệ tương ứng với vốn góp tại một dự án nào đó, trong khi theo hình thức
thông thường để đầu tư bất động sản cần khoản vốn tương đối lớn. Tiền nhàn rỗi
trong dân rất lớn, do đó, REITs hoạt động thành công sẽ đem lại mức vốn hóa rất
lớn cho thị trường.
Thứ hai, kênh huy động vốn mới: Trong tình hình tín dụng thắt chặt, nền kinh tế
khó khăn. Các kênh huy động vốn truyền thống sẽ không mấy hiệu quã, thì REITs
sẽ là một kênh huy động vốn mới cần tính đến.
Thứ ba, lợi nhuận các nhà đầu tư được hưởng cao: Đầu tư vào cổ phiếu của các
công ty bất động sản hay tham gia vào REITs có nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên,
sự khác biệt lớn nhất là mức cổ tức đem lại cho các nhà đầu tư lại khác biệt.
REITs được ưu đãi về thuế: Chính vì được ưu đãi rất nhiều trong việc đóng thuế,
cho nên, mức cổ tức của quỹ này cho nhà đầu tư là rất cao. Gần như trên thế giới,
thuế thu nhập được miễn hoàn toàn cho các quỹ này (khi REIT thỏa mãn một số
tiêu chí về cơ cấu tổ chức, lĩnh vực kinh doanh, …).
Chia lợi tức cao: Tiến sỹ chuyên ngành bất động sản trường đại học Georgia State
ông Glenn R.Murller nghiên cứu REIT tại Mỹ cho thấy REIT chia lợi tức đến 90%
lợi nhuận hàng năm. Hầu hết REIT trả cổ tức hàng quý, một số REIT còn trả cổ tức
đặc biệt vào cuối năm để đảm bảo rằng chia 90% thu nhập, chỉ giữ lại khoảng 10%
duy trì hoạt động của quỹ, trong khi đó các quỹ chứng khoán hiện nay tỷ lệ giữ lại
duy trì và hoạt động thông thường đều khoảng 30%. Chính vì điều này mà tỷ lệ chia
cổ tức của REIT tăng với tỷ lệ gấp đôi tỷ lệ lạm phát kể từ năm 1991.
Với nhưng ưu điểm trên, Việt Nam thành lập REIT là phù hợp vì dễ thu hút nhà đầu
tư, từ đó nhân rộng mô hình REIT sẽ dễ dàng hơn.
Chương 3
74
REIT nên được thành lập thí điểm đầu tiên tại Tp.HCM vì đây là một thị trường có
quy mô lớn và phát triển hơn so với những thành phố khác. Nếu quỹ này đi vào hoạt
động hiệu quả sẽ nhân rộng ra nhiều thành phố khác, đặc biệt là Hà Nội.
Thực tiễn nghiên cứu của Glenn R.Murller cho thấy giá trị của REIT tăng nhanh
chóng. Vào năm 1991, 100 REIT lớn nhất có giá trị vốn hóa thị trường dưới 100
triệu đô la Mỹ. Vào năm 2005, 60 REIT có giá trị vốn hóa thị trường trên 1 tỷ đô la
Mỹ. Điều này cho thấy ưu tiên phát triển REIT là phù hợp.
3.5. LOẠI KHOẢN VAY ĐỀ NGHỊ CHỨNG KHOÁN HÓA
Đối với các khoản cho vay thế chấp bất động sản hiện nay của các NHTM, có thể
thấy khoản tín dụng cho vay mua nhà là khoản tín dụng có thể sử dụng để chứng
khoán hóa đầu tiên. Sở dĩ như vậy vì, nhà ở là sản phẩm bất động sản hoàn thiện, có
nhu cầu rất lớn và giá trị cao, vì vậy những rủi ro liên quan đến nợ vay; đến lợi ích
nhà đầu tư trong quá trình chứng khoán hóa sẽ được đảm bảo, đồng thời có cơ hội
thu hút nhà đầu tư cao hơn.
Nick Davis (2000) hiện ở Mỹ có đến 55-60% MBS là từ khoản vay thế chấp nhà.
Xếp sau khoản cho vay mua nhà là khoản cho vay bất động sản thương mại (căn hộ
chung cư, văn phòng tho thuê, mặt bằng bán lẻ) cũng có thể thực hiện chứng khoán
hóa được vì dư nợ cho vay lớn và nhu cầu các tài sản này cũng rất cao.
3.6. LOẠI CHỨNG KHOÁN ĐỀ NGHỊ PHÁT HÀNH
- Đây là vấn đề thuộc yếu tố kỹ thuật, chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất
động sản nên được phát hành dưới hình thức trái phiếu. Với lãi suất được xác định
theo nguyên tắc bù đắp chi phí và có lãi cho công ty chuyên trách chứng khoán hóa
và đủ để hấp dẫn nhà đầu tư. Thời hạn của trái phiếu về cơ bản sẽ tương đồng với
thời hạn của các món vay.
Trên lý thuyết, cả cổ phiếu và trái phiếu đều có thể được sử dụng với tư cách là
chứng khoán chuyển hóa. Mặc dù cổ phiếu có lợi điểm là thời gian đáo hạn vĩnh
viễn, song bù lại người đầu tư lại yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao hơn so với trái
Chương 3
75
phiếu. Trong khi đó, trái phiếu có thời gian đáo hạn hữu hạn, và ràng buộc tổ chức
phát hành với nghĩa vụ thanh toán cho trái chủ lãi và vốn gốc trái phiếu, trong suốt
khoảng thời gian cho đến khi chứng khoán đáo hạn.
Đối với các dự án có thu phí, thời gian có thể khai thác thường không quá dài trung
bình 10-15 năm, việc sử dụng cổ phiếu với vai trò chứng khoán chuyển hóa sẽ
không phát huy được ưu thế vô hạn của vốn góp, mà còn tạo áp lực về lãi suất trên
vốn đối với pháp nhân đặc biệt.
Hơn nữa, đối với các công trình công ích, phúc lợi công cộng có thu phí, mục đích
của dự án là phục vụ cộng đồng, cho nên tỷ lệ phí thu chỉ được phép ở mức vừa đủ
để thanh toán cho các chi phí quản lý khai thác công trình và trả lãi vốn vay.
Như vậy, việc lựa chọn chứng khoán chuyển hóa phải phụ thuộc vào tính chất và
khả năng khai thác của từng dự án, song nhìn chung đối với loại tài sản chuyển hóa
đã xác định như trên, trái phiếu sẽ có ưu thế hơn cả về mặt kỹ thuật và tính khả mại
so với cổ phiếu. Đề xuất phát hành trái phiếu.
- Mặt khác, trái phiếu phát hành phải có sự bảo lãnh của chính phủ để làm tăng tính
an toàn, thu hút nhà đầu tư dễ dàng hơn.
- Trái phiếu cũng nên phân chia thành các gói có thứ hạng khác nhau để có thể đáp
ứng tốt nhất nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư khác nhau.
Tại Mỹ, các Quỹ tương hỗ (Mutual Fund), Quỹ lương (Pension Fund) chỉ được
phép mua các tài sản có chất lượng cao. Các nhà đầu tư khác trong đó có Quỹ đầu
cơ (Hedge Fund) được linh hoạt tài chính nhiều hơn. Do đó, trái phiếu từ chứng
khoán hóa được chia thành 3 loại cơ bản sau:
+ Gói siêu hạng (The super tranche): Loại này được xếp vào hạng AAA và có vị trí
cao nhất trong thứ tự ưu tiên để nhận tiền mặt từ trái phiếu.
+ Gói trung cấp (The mezzaine tranche): Gói này có điểm tín dụng thấp hơn, nằm ở
trị trí tiếp theo để nhận các khoản thanh toán.
Chương 3
76
+ Gói Sở hữu (The equity tranche) hay còn gọi là gói cấp thấp: Đây là gói có rủi ro
cao nhất và xếp ở trí cuối cùng trong chuỗi thanh toán, sau hai gói trên.
Do có mức rủi ro khác nhau nên mỗi gói có tỷ suất sinh lợi khác nhau. Gói Sở hữu
có rủi ro cao nhất nên tỷ suất lợi tức là lớn nhất và ngược lại, gói Siêu hạng có mức
rủi ro thấp nhất nên có tỷ suất sinh lợi thấp nhất.
Việc đa dạng hóa sản phẩm làm tăng cơ hội tiêu thụ chứng khoán, mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn cho người phát hành và đồng thời làm đa dạng hóa danh mục,
giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư.
3.7. CẢNH BÁO RỦI RO TIỀM ẨN TRONG QUÁ TRÌNH CHỨNG KHOÁN
HÓA KHOẢN VAY THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM VÀ
NHỮNG KHUYẾN NGHỊ GIẢM THIỂU RỦI RO
Thứ nhất, việc bán lại khoản vay đã chuyển giao toàn bộ rủi ro cho SPV nên các
ngân hàng mạnh dạn cho vay bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ. Khi thị trường
bất động sản có biến động lớn, người vay không có khả năng trả nợ sẽ kéo theo
SPV không trả được nợ cho nhà đầu tư và rất nhiều khó khăn khác không lường
trước được.
Khuyến nghị:
- Trong trường hợp này, công tác thanh tra của Ngân hàng Nhà nước thường xuyên
hơn kết hợp với những qui định mang tính thủ tục hành chính nhưng đầy tính răn đe
đối với ngân hàng vi phạm như: không được mở chi nhánh trong 1 năm, không cho
tăng trưởng dư nợ, … có thể phát huy tác dụng như trong trường hợp chạy đua lãi
suất huy động của các ngân hàng hiện nay.
- Luật chứng khoán hóa nên qui định các ngân hàng phải giữ lại các khoản nợ xấu
không được bán cho SPV. Như thế, các ngân hàng không còn thiết tha cho vay
những khách hàng dưới chuẩn nữa vì nợ này không thể bán được và phải giữ lại sẽ
làm tăng rủi ro phải trích lập dự phòng làm giảm lợi nhuận.
Chương 3
77
Thứ hai, việc hình thành, mua bán và bảo hiểm cho các MBS phức tạp vượt tầm
kiểm soát của chính phủ dẫn đến nguy cơ che dấu thông tin, đầu cơ bóp méo thị
trường. Với lòng tham của các SPV, họ có thể xáo trộn lẫn lộn các loại nợ để phát
hành chứng khoán hoặc chuyển đổi từ chứng khoán loại này này sang loại khác đến
nỗi quá phức tạp để nhận ra tài sản thế chấp cơ bản là gì. Nếu thị trường tài chính
chưa có đủ công cụ hữu hiệu để giám sát thị trường sẽ rất khó mạnh dạn phát triển
mạnh việc chứng khoán hóa.
Khuyến nghị: Qui định SPV phải giữ lại một phần trái phiếu phát hành. Điều này
cũng giống như buộc SPV phải mua lại trái phiếu của chính mình hay nói cách khác
là SPV đang đóng vai của nhà đầu tư. Đây là một sự công bằng hơn trong giao dịch
mua bán vì rủi ro hai bên đều phải ghánh chịu. Với quy định này, dù không khắc
phục được rủi ro vì SPV chỉ chịu một phần nhỏ rủi ro nhưng SPV sẽ dè dặt hơn
trong việc phát hành, qua đó rủi ro được kiểm soát tốt hơn.
Thứ ba, trái phiếu được xếp hạng càng cao tạo ra dấu hiệu về sự an toàn lớn hơn
cho nhà đầu tư và do đó lãi suất trái phiếu phát hành cũng sẽ thấp hơn tương ứng.
Tuy nhiên, SPV trực tiếp chi trả phí cho cơ quan xếp hạng. Chính điều này dễ dẫn
đến rủi ro đạo đức phát sinh bởi cơ quan xếp hạng. Một kết quả xếp hạng tốt có thể
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với khả năng chi trả tốt. Khủng hoảng tài chính
Mỹ năm 2008 đã chứng minh cho sự tồn tại của rủi ro đạo đức này.
Khuyến nghị:
- Quy định thành viên điều hành của cơ quan xếp hạng không được đồng thời là
thành viên điều hành của SPV để loại bỏ sự chi phối quyền lực mất tính khách quan
của báo cáo xếp hạng.
- Quy định cơ quan xếp hạng phải có bảo lãnh bảo hành của ngân hàng cho từng đợt
xếp hạng trái phiếu. Số tiền bảo lãnh có thể tính trên phần trăm của mức phí mà cơ
quan xếp hạng thu được cho từng đợt xếp hạng và phí bảo lãnh do cơ quan xếp hạng
chi trả. Bảo lãnh này có hiệu lực đến khi đợt trái phiếu đó đáo hạn thanh toán.
Chương 3
78
Trường hợp trái phiếu bị mất khả năng thanh toán, tiền từ bảo lãnh này sẽ được
dùng chi trả cho nhà đầu tư tùy theo mức độ mất khả năng thanh toán.
Thứ tư, chuẩn mực kế toán Việt Nam không đánh giá lại giá trị bất động sản hàng
tháng như ở Mỹ, mà diễn ra 6 tháng/lần hoặc 1-2 năm/lần (tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa –
vụ trưởng vụ chính sách chiến lược NHNN). Điều này khiến cho các cơ quan quản
lý không đánh giá kịp thời nợ xấu từ bất động sản để có giải pháp phù hợp. Do đó
việc khắc phục hậu quả từ nợ xấu sẽ khó khăn hơn.
Khuyến nghị:
- Tỷ lệ tài trợ vốn vay trên bất động sản thế chấp của các ngân hàng thấp để đề
phòng nguy cơ mất giá tài sản khi có khủng hoảng xảy ra. Khi đó tình trạng dư nợ
cho vay thấp hơn giá trị bất động sản trên thực tế sẽ diễn ra chậm hơn, đủ thời gian
để ngân hàng điều chỉnh lại khoản vay làm giảm đi nợ xấu.
- Luật kế toán nên có những điều chỉnh phù hợp với đặc trưng của chứng khoán
hóa.
79
KẾT LUẬN
Sự phát triển của thị trường bất động sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của một quốc gia. Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã
mạnh dạn đầu tư góp phần tạo ra nhiều sản phẩm bất động sản phục vụ nhu cầu nhà
ở, văn phòng, … Tuy nhiên, việc đầu tư này mang tính chất tự phát, chạy theo số
đông, nguồn vốn đầu tư chủ yếu vay mượn không mang tính chất bền vững. Tình
hình này làm nảy sinh rủi ro tiềm tàng và trầm trọng đối với thị trường còn non trẻ,
bởi vì tình hình này dẫn tới giá bất động sản quá cao và không thực tế, vượt ngoài
khả năng thanh toán của những người có nhu cầu nhà ở thực sự và của cả những
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Nhiều chính sách quản lý của Nhà nước
cũng lần lượt được ban hành để điều chỉnh cho các hoạt động đầu tư này. Tuy nhiên
vẫn chưa có những chính sách phù hợp cho việc tìm nguồn vốn đầu tư ổn định cho
thị trường bất động sản phát triển bền vững. Nguồn vốn chủ yếu hiện nay phụ thuộc
quá nhiều vào vốn vay ngân hàng, trong khi lĩnh vực ngân hàng vốn không thể hấp
thu nổi rủi ro kinh doanh từ thị trường bất động sản nên việc cung cấp vốn cho thị
trường bất động sản hầu như đã đạt đến giới hạn, khó có thể cho vay thêm. Để tiếp
tục cho vay, ngân hàng cần tăng thêm vốn hoặc giải phóng hết lượng vốn vay thế
chấp bất động sản đang ứ đọng để rồi sau đó cho vay lại. Với cách làm thứ nhất sẽ
khó thực hiện trong ngắn hạn. Với cách làm thứ hai có thể thực hiện qua việc chứng
khoán hóa.
Chứng khoán hóa phát triển hơn 40 năm đã có nhiều thành công tại Mỹ, Châu Âu,
Châu Á đã chứng minh tính hiệu quả cao của công cụ tài chính này.
Qua nghiên cứu của bản thân, tôi hy vọng Việt Nam sớm triển khai chứng khoán
hóa các khoản vay thế chấp bất động sản vì đây là giải pháp hữu hiệu trong việc huy
động vốn cho thị trường bất động sản.
Dù nhiều tiền đề thuận lợi cho việc chứng khoán hóa đã có sẵn. Tuy nhiên, hệ thống
pháp lý cần sớm hoàn thiện để định hướng cho hoạt động chứng khoán hóa theo
đúng định hướng phát triển thị trường bất động sản của Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Hoàng Thị Thanh Hằng (2008), Chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất
động sản góp phần tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lê Thị Phương Thảo (2008), Xây dựng quỹ tín thác đầu tư bất động sản tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Phạm Toàn thiện (2009), Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ: Bài
học và một số kiến nghị, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25.
4. Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước năm 2007, 2008, 2009.
5. Số liệu thống kê năm 2010 Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
6. Công ty chứng khoán SME, Triển vọng ngành bất động sản, ngày 01/06/2011.
7. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 169/1999/QĐ-TTg ngày 19 tháng 08
năm 1999 về việc phê duyệt Danh mục công việc và Bảng phân công triển khai,
thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN.
8. Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 57/2002/QĐ-NHNN ngày 24
tháng 01 năm 2002 về việc triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín dụng
doanh nghiệp.
9. Quyết định 3823/QĐ-UB ngày 04 tháng 08 năm 2003 của chủ tịch UBND thành
phố Hồ Chí Minh về thành lập Quỹ Phát triển nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Quyết định số 105/2007/QĐ-TTg ngày 13 tháng 07 năm 2007 về việc phê duyệt
Định hướng Chính sách tài chính nhà ở quốc gia đến năm 2020.
11. Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 08 năm 2007 về việc phê duyệt
Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
12. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 08 năm 2009 qui định bổ sung về
quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
13. Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 06 năm 2010 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật nhà ở.
14. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 05 năm 2010 qui định về các tỷ
lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
15. Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01 tháng 3 năm 2011 về thực hiện giải pháp tiền
tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo
đảm an sinh xã hội.
16. Báo Chứng khoán Việt Nam, Chứng khoán hoá - công cụ huy động vốn hiệu
quả, ngày 01/10/2008
17. Báo Diễn đàn doanh nghiệp, 7 công ty bất động sản lỗ trong quý II, ngày
01/08/2011.
18. Báo Đảng cộng sản Việt Nam, Tài chính hóa bất động sản - Kinh nghiệm của
Hàn Quốc, ngày 26/02/2007
19. Báo Đầu Tư, Thị trường căn hộ tại TP.HCM: Cung lớn nhưng vắng người mua,
ngày 16/04/2011
20. Báo Lao động, Vốn cho thị trường bất động sản: Đâu là giải pháp?, ngày
21/01/2011.
21. Báo Tạp chí điện tử Nhịp Sống Số, Fitch Ratings: Nợ xấu của ngân hàng Việt
Nam là 13% tổng dư nợ, ngày 14/06/2011.
22. Báo Tuổi trẻ, Chứng khóa và thị trường chứng khoán, ngày 21/05/2006.
23. Diễn đàn kinh tế Việt Nam, Muôn mặt xếp hạng tín nhiệm, ngày 13/09/2000.
24. Tạp chí thương hiệu Việt, Xem xét lập 3 quỹ phát triển nhà, tiết kiệm nhà ở và
đầu tư bất động sản, ngày 21/05/2011.
25. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Website www.mpi.gov.vn).
26. Công ty cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Doanh nghiệp Việt Nam (Website
www.crv.com.vn)
27. Công ty TNHH MTV Mua bán nợ Việt Nam (Website www.datc.com.vn)
28. Tổng cục thống kê (Website www.gso.gov.vn).
29. Trung tâm Khoa học Thẩm định Tín nhiệm Doanh nghiệp (Website
www.crc.vn)
30. Trung tâm thông tin tín dụng (Website www.cic.org.vn)
31. Ủy ban chứng khoán Nhà nước (Website www.ssc.gov.vn).
32. Website www.saga.vn
33. Website www.vnExpress.net
34. Website www.wikipedia.org
Tài liệu nước ngoài
1. Glenn R. Mueller (2005), Securitizatinon of real estate and global growth –
REITs rule in domestic and global real estate markets, University of Colorado
Denver – Institute for International Business and Center for International Business
Education & Research.
2. Nick Davis (2000), Securitisatinon: A public policy tool? New Zealand Treasury
Working Paper 00/08, New Zealand.
3. Patrick Wood (2007), Global bankers seek to raid taxpayers over subrime fiasco,
The August Forecast & Review, America.
4. Yashika Singh, Sachin Khedekar, Dun & Bradstreet, Ashwani Solanki (2008),
Securitisation in India: The story so far and the way forward, Dun & Bradstreet,
India.
Phụ lục 1
1
PHỤ LỤC 1
KẾT QUẢ XẾP HẠNG TÍN DỤNG CỦA CÁC CÔNG TY XẾP
HẠNG VIỆT NAM
1.1. KẾT QUẢ XẾP HẠNG TÍN DỤNG CỦA CIC
Bảng a: Xếp hạng theo qui mô doanh nghiệp
Kết quả xếp Số lượng DN Số lượng DN quy Số lượng DN STT Cộng hạng tín dụng quy mô lớn mô trung bình quy mô nhỏ
1 Hạng AAA 120 37 162 5
Hạng BB đến 2 324 136 484 24 AA
Hạng CCC đến 3 4 12 16 0 B
Tổng cộng 448 185 662 29
Kết quả xếp hạng tín dụng năm 2010
Hạng BB đến
Hạng CCC
Mã
Hạng AAA
AA
đến B
Cộng
ngành
Tên ngành kinh tế
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
kinh tế
(DN)
lượng
trọng
lượng
trọng
lượng
trọng
(DN)
(%)
(DN)
(%)
(DN)
(%)
Công nghiệp chế biến
82
17
10,49
13
2,69
1
6,25
31
sản phẩm nhựa, cao
su, giấy
11
Công nghiệp chế biến
20
12,35
30
6,20
3
18,75
53
Bảng b: Xếp hạng theo 20 ngành kinh tế
Phụ lục 1
2
thực phẩm
71
Công nghiệp chế tạo
0,62
17
3,51
12,5
20
2
1
Công nghiệp dệt, may,
1,23
4
0,83
0
6
0
2
85
da
Công nghiệp hoá chất:
chế biến dược phẩm,
13
8,02
9
1,86
0
0
22
83
mỹ phẩm, thuốc trừ
sâu
Công nghiệp khai thác
0
5,56
31
6,40
0
40
9
61
năng lượng
Công nghiệp sản xuất
0
5,56
14
2,89
0
23
9
87
hàng tiêu dùng khác
Công nghiệp sản xuất
0
1,85
7
1,45
0
10
3
81
hàng đồ gỗ, nội thất
Công nghiệp sản xuất
84
thiết bị điện, điện tử,
5
3,09
17
3,51
0
0
22
điện lạnh, viễn thông
Công nghiệp sản xuất
2
16
9,88
41
8,47
12,5
59
86
vật liệu xây dựng
Dịch vụ bưu chính
0
0
0,00
3
0,62
0
3
44
viễn thông
Dịch vụ cung cấp phần
45
1
0,62
1
0,21
0
0
2
mềm, cài đặt các ứng
dụng tin học
Dịch vụ in ấn, xuất
42
2
1,23
12
2,48
1
6,25
15
bản
Dịch vụ khác: Ăn
uống, du lịch, văn hoá,
46
khách sạn, y tế, môi
7
4,32
18
3,72
0
0
25
trường, giáo dục, tư
vấn, cho thuê
Phụ lục 1
3
Dịch vụ tài chính, bảo
3
1,85
30
6,20
0
33
0
43
hiểm
Dịch vụ vận tải
15
9,26
26
5,37
18,75
44
3
41
Ngành trồng trọt
4
2,47
0
0,00
0
4
0
21
Ngành xây dựng và
14
8,64
168
34,71
25
186
4
51
bất động sản
0
31
Thương mại hàng hoá
21
12,96
43
8,88
0
64
Tổng cộng
162
100
484
100
16
100
662
Nguồn: CIC
1.2. KẾT QUẢ XẾP HẠNG TÍN NHIỆM CỦA CRV
Bảng a: Thống kê kết quả xếp hạng
XẾP Tần suất Tỷ lệ %
HẠNG HNX HOSE Tổng HNX HOSE Tổng
AAA 61 69 18.05% 26.74% 21.81% 130
AA 90 71 26.63% 27.52% 27.01% 161
A 104 61 165 30.77% 23.64% 27.68%
BBB 48 36 14.20% 13.95% 14.09% 84
BB 27 9 7.99% 3.49% 6.04% 36
Phụ lục 1
4
3 6 0.89% 1.16% 1.01% 3 B
2 4 0.59% 0.78% 0.67% 2 CCC
1 3 0.30% 0.78% 0.50% 2 CC
2 7 0.59% 1.94% 1.17% 5 C
180
165
161
160
130
140
120
100
84
80
60
36
40
20
7
6
4
3
0
Tổng DN 338 258 596 100% 100% 100%
B
C
AAA
AA
A
BBB
BB
CCC
CC
Nguồn: Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2011
Phụ lục 2
1
PHỤ LỤC 2
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CÓ CHỨC NĂNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
STT TÊN CÔNG TY VỐN ĐIỀU LỆ
1 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 3,511,117,420,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Nông 2,120,000,000,000 2 nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
3 Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Long 2,025,000,000,000
4 Công ty TNHH Chứng khoán ACB 1,500,000,000,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán ngân hàng Sài Gòn 1,266,600,000,000 5 Thương Tín
6 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội 1,000,000,000,000
7 Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDirect 999,990,000,000
8 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long 800,000,000,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công 789,934,000,000 9 thương Việt Nam
10 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt 722,339,370,000
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Thương mại 700,000,000,000 11 Cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí 599,996,860,000 12 Minh
13 Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí 598,413,000,000
14 Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT 550,000,000,000
15 Công ty Cổ phần Chứng khoán Phố Wall 503,000,000,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán Việt Nam Thịnh 500,000,000,000 16 Vượng
Công ty TNHH Một thành viên Chứng khoán Ngân 500,000,000,000 17 hàng Đông Á
18 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thiên Việt 430,000,000,000
Phụ lục 2
2
19 Công ty Cổ phần Chứng khoán Hải Phòng 401,306,200,000
20 Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình 397,000,000,000
21 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bản Việt 378,000,000,000
22 Công ty Cổ phần Chứng khoán Âu Việt 360,000,000,000
23 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành Công 360,000,000,000
24 Công ty Cổ phần Chứng khoán Tân Việt 350,000,000,000
25 Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt 349,799,870,000
26 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Minh 300,000,000,000
27 Công ty Cổ phần Chứng khoán Beta 300,000,000,000
28 Công ty Cổ phần Chứng khoán Đại Dương 300,000,000,000
29 Công ty Cổ phần Chứng khoán Đệ Nhất 300,000,000,000
30 Công ty Cổ phần Chứng khoán Mirae Asset 300,000,000,000
Công ty Cổ phần Chứng khoán Morgan Stanley 31 300,000,000,000 Hướng Việt
32 Công ty Cổ phần Chứng khoán SaigonBank Berjaya 300,000,000,000
33 Công ty Cổ phần Chứng khoán Xuân Thành 300,000,000,000
34 Công ty TNHH Chứng khoán Kỹ Thương 300,000,000,000
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và 35 200,000,000,000 Phát triển Việt Nam
Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội