BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH *****
PHAN THỊ DIỆU HUYỀN
CHỨNG KHOÁN HÓA THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN
THƯƠNG MẠI – GIẢI PHÁP VỐN CHO THỊ TRƯỜNG
BẤT ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân Hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI – GIẢI PHÁP VỐN CHO THỊ TRƯỜNG BẤT
ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu của bản
Tôi xin cam đoan luận văn “CHỨNG KHOÁN HÓA THẾ CHẤP BẤT
thân, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Uyên Uyên.
Tác giả luận văn
Phan Thị Diệu Huyền
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: Tổng quan về chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại.................................................................................................................... 1-26
1.1 Tổng quan về chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại....1
1.1.1 Khái niệm chứng khoán thế chấp bất động sản thương mại.............1
1.1.2 Đặc điểm chứng khoán thế chấp bất động sản thương mại ..............2
1.2 Nguồn vốn cho thị trường bất động sản thương mại ............................3
1.2.1 Nguồn vốn cho thị trường bất động sản thương mại ........................3
1.2.1.1 Vay ngân hàng ...........................................................................3
1.2.1.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà .......................................4
1.2.1.3 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp..............................................5
1.2.2 Ưu và nhược điểm của các nguồn vốn cho thị trường bất động sản
thương mại ........................................................................................6
1.2.2.1 Vay ngân hàng ...........................................................................6
1.2.2.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà .......................................7
1.2.2.3 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp..............................................7
1.3 Chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại – giải pháp vốn
cho thị trường bất động sản thương mại.................................................8
1.4 Tính hai mặt của chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại
...................................................................................................................12
1.4.1 Lợi ích của các đối tượng chính tham gia vào quá trình chứng
khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại ................................12
1.4.1.1 Đối với chủ thể tạo lập tài sản ..................................................12
1.4.1.2 Đối với chủ đầu tư phát triển bất động sản thương mại............15
1.4.1.3 Đối với nhà đầu tư chứng khoán thế chấp bất động sản thương
mại….. ...................................................................................................15
1.4.2 Rủi ro của chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại....16
1.4.2.1 Rủi ro thanh toán sớm…………………………………… .......16
1.4.2.2 Rủi ro tín dụng...........................................................................16
1.5 Nghiên cứu chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại của
một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......17
1.5.1 Nghiên cứu chứng khoán hóa thế chấp bất động sản của một số
nước trên thế giới............................................................................17
1.5.1.1 Tại Mỹ ......................................................................................17
1.5.1.2 Tại Nhật Bản.............................................................................22
1.5.1.3 Tại Singapore............................................................................22
1.5.1.4 Tại Malaysia .............................................................................23
1.5.2 Bài học kinh nghiệm để chứng khoán hóa thế chấp bất động sản
thương mại tại Việt Nam ...............................................................26
Kết luận chương 1 ..............................................................................................26
Chương 2: Thực trạng nguồn vốn đầu tư bất động sản thương mại của
doanh nghiệp Việt Nam ............................................................................... 27-62
2.1 Hoạt động thị trường bất động sản tại Việt Nam.................................27
2.1.1 Hoạt động thị trường bất động sản tại Việt Nam trước khủng hoảng
tài chính .....................................................................................................27
2.1.2 Hoạt động thị trường bất động sản sau khủng hoảng tài chính .......30
2.1.3 Xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam sau khủng hoảng tài
chính ..........................................................................................................34
2.1.3.1 Thị trường nhà ở .....................................................................36
2.1.3.2 Thị trường văn phòng cho thuê ..............................................38
2.1.3.3 Thị trường mặt bằng cho thuê bán lẻ......................................39
2.1.3.4 Thị trừơng khách sạn ..............................................................41
2.2 Thực trạng nguồn vốn đầu tư bất động sản thương mại của doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian qua ...................................................42
2.2.1 Tổng quan các nguồn vốn tài trợ đầu tư bất động sản thương mại
của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua.......................................42
2.2.1.1 Vay ngân hàng ........................................................................43
2.2.1.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà ...................................46
2.2.1.3 Liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài ................47
2.2.1.4 Phát hành trái phiếu ...............................................................49
2.2.2 Ưu điểm và hạn chế của các nguồn vốn cho thị trường bất động
sản thương mại Việt Nam trong thời gian qua ..........................................51
2.2.2.1 Vay ngân hàng .......................................................................51
2.2.2.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà ...................................54
2.2.2.3 Liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài ................55
2.2.2.4 Phát hành trái phiếu ................................................................55
2.3 Các điều kiện cần có để ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp
bất động sản thương mại.........................................................................57
2.3.1 Thị trường thế chấp thứ cấp............................................................57
2.3.2 Pháp lý về chứng khoán hóa ...........................................................58
2.3.3 Sự tham gia của các tổ chức trong quá trình chứng khoán hóa......58
2.4 Thuận lợi và khó khăn để doanh nghiệp có thể huy động vốn thông
qua ứng dụng chứng khoán hóa .............................................................60
2.4.1 Thuận lợi.........................................................................................60
2.4.2 Khó khăn.........................................................................................61
Kết luận chương 2 ..............................................................................................62
Chương 3: Giải pháp ứng dụng chứng khoán thế chấp bất động sản thương
mại tại Việt Nam........................................................................................... 63-85
3.1 Tính cần thiết chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại tại
Việt Nam...................................................................................................63
3.1.1 Kênh huy động vốn cho bất động sản thương mại .........................62
3.1.2 Giảm chi phí tài trợ vốn của doanh nghiệp ....................................64
3.1.3 Đem lại một sự đánh giá tín dụng hiệu quả ....................................64
3.1.4 Tạo thêm hàng hóa cho thị trường tài chính phát triển...................64
3.1.5 Sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong xã hội ................................65
3.1.6 Góp phần tăng tính minh bạch thông tin cho nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán, thị trường bất động sản.................................65
3.2 Định hướng hình thành kỹ thuật chứng khoán hóa tại Việt Nam......66
3.3 Đề xuất một số giải pháp ứng dụng chứng khoán thế chấp bất động
sản thương mại tại Việt Nam..................................................................68
3.3.1 Giải pháp vĩ mô .............................................................................68
3.3.1.1 Hình thành thị trường thế chấp thứ cấp ..................................68
3.3.1.2 Ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn chứng khoán hóa .....69
3.3.1.3 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến
chứng khoán hóa........................................................................70
3.3.1.4 Thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt .................................72
3.3.1.5 Thành lập công ty định mức tín nhiệm trong nước ...............74
3.3.1.6 Phổ biến thông tin về chứng khoán hóa .................................76
3.3.2 Giải pháp vi mô .............................................................................76
3.3.2.1 Nâng cao trình độ và năng lực quản trị tài chính của doanh
nghiệp ......................................................................................76
3.3.2.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng bất động sản của các
ngân hàng.................................................................................77
3.4 Đề xuất giải pháp phòng ngừa rủi ro của chứng khoán hóa ..............77
3.5 Đề xuất quy trình chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại tại Việt Nam ......................................................................................80
3.6 Giải pháp hỗ trợ phát triển bền vững thị trường bất động sản ..........83
Kết luận chương 3 ..............................................................................................84
Kết luận ...............................................................................................................85
Tài liệu tham khảo .............................................................................................87
Phụ lục ........................................................................................................... 88-94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BĐS Bất động sản
BLDS Bộ luật dân sự
BTC Bộ Tài chính
DN Doanh nghiệp
ĐMTN Định mức tín nhiệm
NĐT Nhà đầu tư
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
RTC Tổ chức thanh lý quỹ tiết kiệm phá sản
SPV Tổ chức có mục đích đặc biệt
TPDN Trái phiếu doanh nghiệp
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTCK Thị trường chứng khoán
UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
BẢNG
Bàng 2.1: FDI vào bất động sản giai đoạn từ 1988-2008 ....................................29
Bàng 2.2: Nguồn cung mặt bằng bán lẻ tại thành phố Hồ chí minh ....................40
Bàng 2.3: Nguồn cung số phòng khách sạn từ năm 2010 -2013 tại TPHCM ....42
Bảng 2.4: Dư nợ cho vay bất động sản tại thành phố Hồ chí minh qua các năm 45
HÌNH
Hình 2.1: FDI vào bất động sản giai đoạn từ 1988-2008.....................................29
Hình 2.2: Thị trường căn hộ cao cấp chuyển nhượng tại Tp.HCM: % tăng giá so
với thời điểm trước đó..........................................................................................32
Hình 2.3: Giá trị căn hộ cao cấp tại TP.HCM......................................................34
Hình 2.4: Giá chào bán trung bình các loại căn hộ (2008-2010).........................38
Hình 2.5: Giá chào thuê trung bình (2008-2010).................................................38
Hình 2.6: Nguồn cung văn phòng cho thuê ước tính tại TPHCM từ 2010-2013 39
Hình 2.7: Công suất cho thuê trung bình từ quý 2.2008-2.2010 tại TPHCM.....41
Hình 2.8: Tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn toàn ngân hàng .................................53
Hình 2.9: Tỷ lệ tăng trưởng cho vay toàn hệ thống ngân hàng............................53
PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trường bất động sản là một trong những thị trường quan trọng của nền
kinh tế vì thị trường này liên quan trực tiếp tới một lượng tài sản lớn cũng như
giá trị của các mặt trong nền kinh tế quốc dân. Do đó sự phát triển của thị trường
bất động sản có tầm quan trọng và ảnh hưởng đến sự phát triển cuả một quốc gia.
Tuy nhiên để phát triển thị trường này, ngoài những vấn đề liên quan đến hệ
thống pháp lý giám sát thì một vấn đề khác quan trọng mà các cơ quan chức
năng cũng như doanh nghiệp bất động sản rất quan tâm, đó là nguồn vốn để đầu
tư phát triển bất động sản. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực này đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và dài hạn. Tuy nhiên đại đa số các
doanh nghiệp bất động sản tại Việt Nam hiện nay không đủ tiềm lực tài chính để
tự mình thực hiện dự án, do đó họ đã huy động bằng nhiều cách khác nhau: (i)
vay ngân hàng, (ii) sử dụng tiền ứng trước của khách hàng mua nhà và mới nhất
là (iii) phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Việc sử dụng các nguồn lực nói trên
không phải lúc nào cũng thuận lợi và thực hiện được, điển hình là trong giai
đoạn Ngân hàng nhà nước thắt chặt tín dụng thì các doanh nghiệp bất động sản
đành trì hoãn việc triển khai dự án vì không vay được, trừ những doanh nghiệp
kinh doanh có uy tín, hoạt động hiệu quả thì mới phát hành trái phiếu thành
công.
Trước thực tế có rất nhiều doanh nghiệp muốn tham gia đầu tư vào lĩnh
vực bất động sản nhưng gặp khó khăn trong việc huy động vốn theo các phương
pháp truyền thống, thiết nghĩ đã đến lúc Việt Nam nên học hỏi các nước trên thế
giới trong việc sử dụng các kỹ thuật tài chính tiên tiến để huy động vốn. Và một
trong những kỹ thuật đã được các nước ứng dụng thành công là chứng khoán hóa
thế chấp bất động sản thương mại.
Vì vậy, với mong muốn Việt Nam có thêm kênh huy động vốn mới cho
thị trường bất động sản thương mại, tôi quyết định chọn đề tài tài “Chứng khoán
hóa thế chấp bất động sản thương mại – giải pháp vốn cho thị trường bất động
sản thương mại Việt Nam” cho luận văn của mình
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở lý luận về chứng khoán hóa và những phân tích về thực trạng
các nguồn vốn thông thường cho đầu tư bất động sản thương mại, đề tài nêu lên
tính cần thiết phải ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại
cho Việt Nam nhằm tạo thêm kênh huy động mới, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu thực trạng thị trường bất động sản và nguồn vốn cho thị
trường này tại Việt Nam;
- Nghiên cứu lợi ích của việc ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp bất
động sản thương mại;
- Nghiên cứu tính cần thiết của việc ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp
bất động sản thương mại;
- Nghiên cứu điều kiện cần và đủ cho việc ứng dụng nghiệp vụ chứng
khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại;
- Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam
trong việc ứng dụng chứng khoán hóa;
- Đề xuất những giải pháp ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp bất động
sản thương mại cho Việt Nam.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận và thực tiễn về chứng
khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại với mục đích tạo kênh huy động
vốn cho thị trường bất động sản thương mại. Mặt khác, đề tài nghiên cứu những
kinh nghiệm ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại của các nước trên thế giới. Thông qua việc nghiên cứu các nguồn vốn được
sử dụng trong đầu tư bất động sản thương mại tại Việt Nam hiện nay, đề tài nêu
lên tính cần thiết của việc ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp bất động sản
thương mại và những đề xuất cho việc ứng dụng kỹ thuật này tại Việt Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu định tính các lý thuyết về chứng khoán hóa thế chấp bất
động sản thương mại và các vấn đề liên quan;
- Phương pháp thống kê số liệu;
- Phương pháp phân tích nhằm làm rõ nhu cầu sản phẩm bất động sản
thương mại và xác định mô hình công cụ huy động vốn bằng chứng khoán hóa
để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư bất động sản thương mại;
- Đề tài tham khảo tài liệu có liên quan đến chứng khoán hóa thế chấp
bất động sản thương mại.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN HÓA THẾ CHẤP
BẤT ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về chứng khoán thế chấp bất động sản thương mại
1.1.1 Khái niệm chứng khoán thế chấp bất động sản thương mại
Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên tại Mỹ trong những năm 1970 với sự
ra đời của một loạt các chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp. Do nhu cầu
vốn trên thị trường nhà đất gia tăng đã thúc đẩy các định chế tài chính tìm kiếm
những phương thức mới để duy trì nguồn vốn khả dụng và giảm thiểu những rủi
ro liên quan đến những khoản vay thế chấp bất động sản. Bằng cách đóng gói
những khoản vay thế chấp mua bất động sản thành một tập hợp nợ và phát hành
những chứng khoán trên cơ sở những tập hợp nợ đó, các tổ chức phát hành có
thêm nguồn vốn mới để tái mở rộng cho vay trong lĩnh vực bất động sản. Những
chứng khoán phát hành trên cơ sở những tập hợp nợ có thế chấp đó được gọi là
chứng khoán có thế chấp đảm bảo.
Như vậy, chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài
sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi
được dùng làm đảm bảo để phát hành các trái phiếu. Tiền từ người mua các
chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để
các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính
là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể
trao đi đổi lại.
Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán
nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tuơng lai sẽ thu được từ một nhóm tài
sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro
(tín dụng, thanh toán sớm) đối với danh mục tài sản đem chứng khoán hóa.
Tài sản tài chính dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng, bao gồm: khoản
cho vay thế chấp mua nhà; các khoản cho vay thương mại; các khoản phải thu
thương mại; danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng…
Tương ứng với tài sản tài chính dùng làm cơ sở đảm bào thì chứng khoán
được phát hành sẽ có tên gọi khác nhau. Trong trường hợp chứng khoán được
phát hành trên cơ sở tài sản đảm bảo là khoản vay thế chấp BĐS (BĐS thương
mại và BĐS nhà ở) thì được gọi là chứng khoán thế chấp BĐS.
Như vậy, chứng khoán thế chấp BĐS thương mại là trái phiếu hay còn
được xem là công cụ nợ được bảo đảm bởi thế chấp BĐS thương mại và thu
nhập phát sinh từ BĐS thương mại này sẽ được dùng để thanh toán nợ gốc và
lãi vay cho nhà đầu tư mua chứng khoán thế chấp BĐS thương mại.
1.1.2 Đặc điểm của chứng khoán thế chấp bất động sản thương mại
Quá trình chứng khoán hóa thế chấp BĐS bắt đầu từ việc tạo ra danh mục
cho vay được đảm bảo bằng thế chấp BĐS của các tổ chức tài chính tín dụng,
sau đó các tổ chức này sẽ bán danh mục cho vay thế chấp BĐS cho cho một tổ
chức đặc biệt (được hình thành cho mục đích chứng khoán hóa). Căn cứ vào tài
sản tài chính mới mua về này, tổ chức có mục đích đặc biệt sẽ phát hành chứng
khoán.
Trên cơ sở tài sản đảm bảo là thế chấp bất động sản, nhưng chứng khoán
hình thành từ chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại có những đặc điểm nổi
bật khác so với chứng khoán hình thành từ chứng khoán hóa thế chấp BĐS nhà
ở:
• Nguồn thu trong tương lai của dự án BĐS thương mại sẽ được dùng để
thanh toán cho trái chủ, do đó đây là yếu tố quan tâm của nhà đầu tư đối với
chứng khoán thế chấp BĐS thương mại, trong khi đó đối với chứng khoán thế
chấp BĐS nhà ở thì nhà đầu tư quan tâm đến khả năng thanh toán của cá nhân
vay mua nhà.
• Mặt khác, để có thể tiến hành chứng khoán hóa thì tổ chức phát hành
cần thực hiện đánh giá tín nhiệm, tuy nhiên căn cứ định mức tín nhiệm có sự
khác nhau giữa chứng khoán thế chấp BĐS nhà ở và BĐS thương mại. Đối với
chứng khoán thế chấp BĐS nhà ở thì tín nhiệm được thực hiện trên căn cứ trên
lịch sử tín dụng của người vay tiền mua nhà ở, ngược lại thì tín nhiệm của chứng
khoán thế chấp BĐS thương mại được căn cứ vào khả năng mang lại thu nhập
trong tương lai của BĐS thương mại.
• Bên cạnh lợi ích tạo ra sản phẩm tài chính mới cho nhà đầu tư thì chứng
khoán hình thành từ chứng khoán hóa có những rủi ro như sau: rủi ro thanh toán
trước và rủi ro tín dụng. Trong khi rủi ro tín dụng xuất hiện khi bên vay gặp khó
khăn trong thanh toán nợ gốc và lãi vay thì rủi ro thanh toán sớm chỉ xảy ra khi
người vay thực hiện trả trước một phần hoặc toàn bộ nợ gốc trước khi đến hạn
thanh toán. Căn cứ vào đặc điểm khác nhau của hai loại rủi ro này cho thấy rủi
ro thanh toán sớm ít xảy ra hơn đối với chứng khoán thế chấp BĐS thương mại
vì hầu hết các khoản cho vay thế chấp BĐS thương mại đều chứa đựng điều
khoản nghiêm ngặt về thời gian thanh toán và những khoản phạt nếu vi phạm
thanh toán sớm.
1.2 Nguồn vốn cho thị trường bất động sản thương mại
1.2.1 Nguồn vốn cho thị trường bất động sản thương mại
Đầu tư kinh doanh bất động sản thương mại đòi hỏi chủ đầu tư phải có
nguồn vốn lớn, ngoài việc sử dụng vốn tự có tối thiểu theo quy định thì các chủ
đầu tư BĐS thương mại thường sử dụng các nguồn vốn sau để tài trợ dự án:
1.2.1.1 Vay ngân hàng
Việc vay vốn ngân hàng thực hiện dự án BĐS hình thành nên quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng và khách hàng liên quan đến lĩnh vực bất động sản. Theo
đó, tín dụng BĐS là việc ngân hàng cấp vốn cho khách hàng căn cứ vào mục
đích vay vốn của khách hàng liên quan đến BĐS.
Tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực BĐS bao gồm cả hai hình thức: cung
cấp vốn đầu tư kinh doanh BĐS và cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu nhà ở.
Riêng cho vay đầu tư kinh doanh BĐS là sản phẩm tín dụng nhằm hỗ trợ
doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để đầu tư kinh doanh bất động sản như: xây
dựng các dự án khu chung cư, biệt thự, văn phòng cho thuê, khu đô thị mới,
trung tâm thương mại, hoặc tổ hợp trung tâm thương mại và văn phòng. Hình
thức vay đầu tư kinh doanh BĐS phổ biến là vay thế chấp. Với hình thức vay thế
chấp, ngoài việc có có tài sản để thế chấp đảm bảo cho khoản tín dụng, chủ đầu
tư phải đáp ứng những điều kiện sau:
- Các chủ đầu tư có đăng ký kinh doanh về đầu tư kinh doanh bất động
sản hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu vay vốn để đầu tư kinh doanh bất động
sản.
- Các chủ đầu tư có khả năng tài chính bảo đảm trả nợ vay trong thời hạn
cam kết, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có
hiệu quả hoặc có phương án phục vụ đời sống phù hợp với quy định của pháp
luật.
Mặt khác để đảm bảo an toàn của việc cho vay, ngân hàng yêu cầu khách
hàng vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng như vốn vay phải được sử dụng
đúng mục đích và phải được hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng kỳ hạn đã cam kết.
1.2.1.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà
Ngoài kênh huy động vốn qua ngân hàng chủ đầu tư BĐS thương mại còn
tận dụng một kênh huy động khác mà hiệu quả đem lại khá cao, đó là tiền ứng
trước của khách hàng. Đây là kênh mà các chủ đầu tư các dự án xây dựng chung
cư, căn hộ thường sử dụng để huy động vốn với giá rẻ, không phải trả lãi và có
thể huy động vốn theo từng giai đoạn xây dựng của dự án nhằm đảm bảo hiệu
quả sử dụng vốn.
Việc huy động vốn của khách hàng mua nhà được quy định cụ thể trong
các văn bản pháp luật, nhưng nhìn chung cách thức huy động vốn của khách
hàng như sau: căn cứ vào hợp đồng mua bán nhà trong tương lai, khách hàng sẽ
ứng trước cho chủ đầu tư các khoản tiền nhất định theo từng giai đoan quy định
trong hợp đồng. Việc đóng tiền của khách mua nhà sẽ kết thúc khi bên chủ đầu
tư hoàn tất việc giao nhà và bàn giao các giấy tờ giấy nhà có liên quan.
1.2.1.3 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp được xem là một khoản vay, trong đó thể hiện
cam kết thanh toán gốc và lãi của doanh nghiệp cho người nắm giữ trái phiếu
theo các điều khoản và điều kiện của trái phiếu. Việc phát hành trái phiếu doanh
nghiệp được xem một giải pháp hiệu quả cho các công ty bất động sản để huy
động vốn khi phải đối mặt với tình trạng hạn chế cho vay của ngân hàng hay lãi
suất cho vay quá cao. Ngoài lợi ích có được nguồn vốn với chi phí thấp hơn so
với vay ngân hàng, phát hành trái phiếu còn giúp doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn
khung thời gian đầu tư cho dự án.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều dạng: trái phiếu có tài sản đảm bảo, trái
phiếu không có tài sản đảm bảo, trái phiếu được bảo lãnh.
• Trái phiếu có đảm bảo
Trái phiếu có đảm bảo là trái phiếu dùng các loại tài sản như thế chấp
BĐS hoặc tài sản tài chính khác làm tài sản đảm bảo.
Trong trường hợp phá sản hoặc không có khả năng thanh toán lúc đến
hạn, người nắm giữ trái phiếu có quyền phong tỏa hoặc phát mãi tài sản. Trong
thực tế, các bên có thể đàm phán tái cơ cấu tài chính để giúp doanh nghiệp có thể
thanh toán các nghĩa vụ thay vì phong tỏa hoặc phát mãi tài sản.
• Trái phiếu không có đảm bảo
Trái phiếu không có đảm bảo (trái phiếu tín chấp) là loại trái phiếu không
có tài sản cụ thể làm đảm bảo. Tuy nhiên, các trái phiếu này vẫn được đảm bảo
bởi các tài sản chung của doanh nghiệp trong trường hợp phá sản. Tiền thu được
từ thanh lý hoặc phát mãi tài sản trước hết dùng để thanh toán cho trái phiếu có
đảm bảo, phần còn lãi sẽ được thanh toán cho trái chủ không có tài sản đảm bảo.
• Trái phiếu được bảo lãnh
Trái phiếu được bảo lãnh là loại trái phiếu tuy không có tài sản đảm bảo
nhưng áp dụng các biện pháp tăng cường khả năng tín dụng như: bảo lãnh của
bên thứ ba hoặc thư tín dụng ngân hàng.
Các doanh nghiệp kinh doanh BĐS thương mại thường phát hành trái
phiếu có tài sản đảm bảo, tuy nhiên nếu doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và có
uy tín thì việc phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo cũng thu hút nhà
đầu tư quan tâm và đầu tư.
1.2.2 Ưu và nhược điểm của các nguồn vốn cho thị trường bất động
sản thương mại
1.2.2.1 Vay ngân hàng
Việc sử dụng vốn vay từ ngân hàng để tài trợ cho dự án vẫn được xem là
kênh huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Ưu
điểm của phương pháp này là ngân hàng giải ngân số tiền cho vay theo tiến độ
của dự án, giúp doanh nghiệp kiểm soát dòng tiền hiệu quả và thủ tục vay vốn
nhanh, dễ dàng hơn so với các phương pháp khác, hơn nữa doanh nghiệp có thể
xin gia hạn nếu chưa có khả năng trả (đối với doanh nghiệp có uy tín và quan hệ
lâu dài với ngân hàng).
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đem lại từ nguồn vốn vay ngân hàng
thì doanh nghiệp gặp không ít khó khăn để vay vốn nếu gặp tình trạng ngân hàng
thương mại phải giảm tỷ lệ dư nợ cho vay để đảm bảo an toàn vốn hoặc ngân
hàng nhà nước thắt chặt tín dụng. Ngoài việc vay vốn trở nên khăn, doanh
nghiệp còn gặp áp lực với lãi suất cho vay quá cao, dẫn đến hiệu quả kinh doanh
của dự án giảm sút.
1.2.2.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà
Tín dụng từ nguồn khách hàng và các nhà đầu tư đóng một vai trò lớn đối
với thị trường bất động sản nhà đất, chung cư và căn hộ cao cấp. Ưu điểm là
kênh huy động vốn hữu hiệu vì doanh nghiệp không phải trả lãi và khách hàng
có thể mua sản phẩm BĐS với nhiều ưu đãi. Khách hàng có nhu cầu mua
nhà/căn hộ đặt cọc một số tiền nhất định khi ký kết hợp đồng trong khi doanh
nghiệp thì có vốn xây dựng dự án. Hợp đồng ký kết có sự đảm bảo về giá cả hợp
lý, quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể giữa hai bên. Doanh nghiệp phải có uy tín và
đảm bảo tiến độ thi công và phải giao sản phẩm cho khách hàng đúng hạn như
cam kết.
Tuy đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp kinh doanh BĐS không phải
thanh toán chi phí cho việc sử dụng chúng, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp,
nhưng việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ gặp khó khăn khi nhà nước có
quy định khắt khe hơn trong việc sử dụng tiền vốn của khách hàng; sức tiêu thụ
sản phẩm phụ thuộc mạnh mẽ vào niềm tin của khách hàng và những biến động
của thị trường BĐS; khách hàng nhỏ lẻ với vốn có hạn khó có thể tiếp cận với
các dòng sản phẩm BĐS vì BĐS thường có giá trị lớn. Mặt khác khi kinh tế suy
giảm, khả năng mua nhà của người dân giảm, khi đó nguồn vốn từ tiền ứng trước
của khách hàng sẽ không còn nhiều.
1.2.2.3 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Phát hành trái phiếu được xem là kênh huy động vốn hiệu quả của các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nói riêng. Ưu
điểm của trái phiếu là doanh nghiệp có thể gọi vốn đến từ nhiều đối tượng có
tiềm lực tài chính và thủ tục pháp lý không quá phức tạp. Hơn nữa doanh nghiệp
không phải thế chấp tài sản và có thể áp dụng lãi suất linh hoạt cũng như nhiều
phương án trả lãi và gốc.
Như vậy, thông qua phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể huy động
được nguồn vốn trung và dài hạn có lãi suất thấp hơn lãi suất vay ngân hàng, huy
động được nguồn vốn lớn mà ngân hàng khó đáp ứng. Với chi phí thấp hơn so
với vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp sẽ gia tăng hiệu quả hoạt động kinh
doanh. Ngoài ra khác với những kênh huy động vốn truyền thống là phụ thuộc
rất nhiều vào những xét duyệt mang tính áp đặt, chủ quan của tổ chức cho vay,
việc phát hành trái phiếu sẽ cho phép doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản
xuất kinh doanh, phương thức và thời gian trả nợ.
Tuy nhiên, nhược điểm của loại hình này là doanh nghiệp phải thanh toán
đầy đủ khi đáo hạn đúng theo cam kết trong hợp đồng với mức lãi suất cố định
và có thể gặp khó khăn trong việc cấu trúc khoản vay sao cho dự án bất động sản
luôn có khả năng trả lãi và gốc. Mặt khác để phát hành trái phiếu đòi hỏi doanh
nghiệp phải có trình độ tài chính cao, hoạt động kinh doanh các năm trước phải
có lãi, uy tín tốt, sản phẩm sản phẩm nhà đất phải thực sự hấp dẫn… Đây là
những điều kiện mà không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được, nhất là
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
1.3 Chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại – giải
pháp vốn cho thị trường bất động sản thương mại
Chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại là phương pháp đã được ứng
dụng thành công tại nhiều nơi trên thế giới nhằm huy động vốn cho thị trường
BĐS thương mại. Tuy nhiên tại Việt Nam đây là khái niệm mới, chưa được phổ
biến. Nhưng trong tình trạng khó khăn của việc sử dụng các nguồn vốn thông
thường thì thiết nghĩ Việt Nam nên nghiên cứu và có chính sách ứng dụng kỹ
thuật này vào trong thực tiễn nhằm tạo sự đa dạng trong các kênh huy động vốn,
nhất là trong tình hình Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới -
WTO.
Chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại là quá trình phát hành chứng
khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ BĐS
thương mại. Đây là kỹ thuật tài chính có sự tham gia của bốn đối tượng chính:
bên vay, chủ thể tạo lập tài sản (cho vay hoặc mua danh mục cho vay), tổ chức
có mục đích đặc biệt (được hình thành cho mục đích chứng khoán hóa) và nhà
đầu tư…ngoài ra còn có các tổ chức hỗ trợ khác: công ty định mức tín nhiệm;
công ty tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán; công ty kiểm toán; công ty dịch
vụ hỗ trợ….
Sau khi tạo ra danh mục cho vay thế chấp BĐS thương mại, chủ thể tạo
lập tài sản có thể là ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty tài chính…
bán danh mục cho vay đầu tư BĐS thương mại cho tổ chức có mục đích đặc biệt.
Để có tiền thanh toán cho chủ thể tạo lập tài sản, tổ chức có mục đích đặc biệt sẽ
phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại được đảm bảo bởi danh mục
khoản cho vay thế chấp BĐS thương mại được mua về. Dòng tiền thu được từ
nhà đầu tư mua chứng khoán thế chấp BĐS thương mại sẽ được chuyển trả cho
chủ thể tạo lập tài sản và sẽ được giải ngân lại cho bên vay dựa theo hợp đồng
vay giữa hai bên.
Như vậy thông qua quá trình chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại,
ngân hàng hay các tổ chức tài chính có thể đẩy mạnh việc cho vay để đầu tư dự
án BĐS thương mại, nguồn vốn cho thị trường BĐS thương mại được mở rộng
mà vẫn không vi phạm những hạn chế tăng trưởng tín dụng của ngân hàng nhà
nước (nếu có) bởi vì sau khi cho vay họ bán khoản cho vay này cho tổ chức có
mục đích đặc biệt, tức là thoái bỏ khoản cho vay trên bảng cân đối kế toán.
Điểm mạnh của kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại còn
nằm ở chỗ là nếu chủ đầu tư phát triển dự án BĐS thương mại không vay được
ngân hàng hay khó khăn nếu phát hành cổ phiếu huy động vốn thì họ có thể
thông qua kỹ thuật chứng khoán hóa để thu hút vốn, cụ thể như sau:
• Chủ đầu tư ký hợp đồng vay vốn với chính công ty tài chính do họ lập
nên, hợp đồng vay này được đảm bảo bằng BĐS thương mại và thu nhập từ
chính dự án đầu tư mang lại.
• Công ty tài chính này sẽ bán khoản cho vay cho tổ chức có mục đích
đặc biệt và tổ chức có mục đích đặc biệt căn cứ vào danh mục khoản vay này để
phát hành hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại cho nhà đầu tư trên thị
trường vốn.
Quy trình trên cho thấy rằng chủ đầu tư phát triển BĐS thương mại không
nhất thiết phải huy động vốn bằng vay ngân hàng, họ còn có thể huy động bằng
cách thông qua việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại. Ngoài ra
chủ đầu tư còn có được nguồn vốn mới với chi phí thấp hơn việc vay trực tiếp từ
bên ngoài.
Vậy nguyên nhân nào khiến nhà đầu tư chấp nhận cho chủ đầu tư vay tiền
bằng cách mua chứng khoán thế chấp BĐS thương mại do họ phát hành trong
khi ngân hàng từ chối cho chủ đầu tư BĐS thương mại vay, điều này là do:
• Việc tách bạch rủi ro tín dụng và rủi ro của chủ thể tạo lập tài sản với
danh mục tài sản cần chứng khoán hóa: tổ chức có mục đích đặc biệt mua danh
mục cho vay thông qua hợp đồng bán tài sản. Hợp đồng này thường là mua đứt,
bán đoạn, tức là mọi quyền lợi và rủi ro của tài sản hoàn toàn chuyển cho tổ chức
có mục đích đặc biệt. Rủi ro phá sản của chủ thể tạo lập tài sản và của bên vay
thế chấp không ảnh hưởng đến nhà đầu tư nắm chứng khoán thế chấp BĐS
thương mại.
• Dự án BĐS thương mại đem thế chấp được đánh giá có hiệu quả kinh tế
cao, dòng tiền thu từ dự án trong tương lai được mong đợi cao.
So sánh phương pháp huy động vốn qua phát hành chứng khoán
Vay ngân hàng
Phát hành cổ phiếu
Phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại
Phương pháp huy động vốn Thuận lợi
- Dễ và nhanh hơn trong việc thu
- Không tốn chi phí lãi
xếp vốn.
vay.
- Chi phí thu xếp vốn thấp hơn.
- Nhanh và hiệu quả trong việc huy động vốn
- Lãi suất thấp. - Việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại thành công hay không phụ thuộc vào tính hiệu quả của dự án đầu tư (vị trí, giá thuê…), không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của chủ đầu tư, điều này có được là nhờ vào việc tách bạch rủi ro tín dụng và rủi ro của chủ thể tạo lập tài sản với danh mục tài sản cần chứng khoán hóa thông qua hợp đồng bán tài sản theo kiểu mua đứt, bán đoạn. - Đa dạng hóa nhà đầu tư (người cho vay cuối cùng trong quá trình chứng khoán hóa) vì chứng khoán thế chấp BĐS thương mại được phát hành thành nhiều gói với cấu trúc thời gian, rủi ro khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu của nhà đầu tư.
Bất lợi
- Chi phí lãi vay cao khiến cho
lợi nhuận giảm.
- Cấu trúc phức tạp, không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện thực hiện phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại để huy động vốn.
- Pha loãng thu nhập và giá trị tài sản thuần trên 1 cổ phần. - Việc phát hành cổ
- Chi phí cho việc huy động vốn cao do phải cần các tổ chức: ĐMTN, kiểm toán, chi phí bảo lãnh và tư vấn phát hành….
- Những doanh nghiệp có dự án có thể mang lại hiệu quả cao nhưng bản thân doanh nghiệp trong tình trạng tài chính không tốt thì không được xét duyệt vay.
phiếu thu hút vốn sẽ không thuận lợi trong điều kiện thị trường chứng khoán giảm
- Điều kiện vay nghiêm ngặt.
thế chấp BĐS thương mại với các phương pháp khác
1.4 Tính hai mặt của chứng khoán hóa thế chấp bất động sản
thương mại
1.4.1 Lợi ích của các đối tượng chính tham gia vào quá trình chứng
khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại
1.4.1.1 Đối với chủ thể tạo lập tài sản
Chủ thể tạo lập tài sản trong chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại
thường là các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, tổ chức tài chính…Các
tổ chức này đều có những lợi ích khi tham gia vào quá trình chứng khoán hóa, cụ
thể như sau:
• Thông qua chứng khoán hóa, chủ thể tạo lập tài sản có được nguồn vốn
mới với chi phí thấp hơn việc vay trực tiếp từ bên ngoài. Điều này là do ĐMTN
của SPV thường cao hơn ĐMTN của chủ thể tạo lập tài sản thông qua việc cô
lập tài sản đảm bảo và áp dụng biện pháp tăng cường định mức tín dụng.
• Thông thường, chủ thể tạo lập tài sản vẫn giữ quyền cung cấp dịch vụ
quản lý danh mục cho SPV nên được thanh toán phí quản lý.
• Thông qua nghiệp vụ chứng khoán hóa, chủ thể tạo lập tài sản sẽ thoái
bỏ tài sản ra khỏi bảng cân đối kế toán thông qua việc bán đứt tài sản cho tổ chức
có mục đích đặc biệt. Điều này giúp hạn chế rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng liên
quan đến tài sản. Những rủi ro này được chuyển giao cho nhà đầu tư mua trái
phiếu được hình thành từ chứng khoán hóa.
• Việc giảm quy mô tài sản trong khi vẫn tạo được lợi nhuận là một nghệ
thuật kinh doanh ngành tài chính. Với số tiền thu được từ việc bán tài sản cho tổ
chức có mục đích đặc biệt, chủ thể tạo lập tài sản có thể quay vòng vốn và hình
thành các khoản cho vay khác. Hơn nữa, đối với doanh nghiệp thay đổi chiến
lược kinh doanh và muốn thoái bỏ một số tài sản không còn mang tính tích cực
thì chứng khoán hóa là một giải pháp phù hợp.
• Trong trường hợp chủ thể tạo lập tài sản là ngân hàng thương mại hoặc
ngân hàng đầu tư phải tuân thủ theo quy định an toàn vốn theo Hiệp ước Basel
thì việc thoái bỏ các tài sản có rủi ro tín dụng cao sẽ giảm mức vốn cần thiết đáp
ứng cho quy mô tổng tài sản.
• Cuối cùng, chứng khoán hóa cho phép định giá bán tài sản được tối ưu
nhất. Với cấu trúc tổ chức có mục đích đặc biệt được thiết kế khoa học, được
công ty ĐMTN soát xét, các tài sản có thể định giá tối ưu nhất nhờ sự minh bạch
của cơ cấu. Việc đóng gói tài sản không có tính thanh khoản cao để phát hành
chứng khoán nợ có thể trao đổi trên thị trường thứ cấp, thực chất là một cách
gián tiếp tăng cường tính thanh khoản cho tài sản.
Bảng so sánh lợi ích đối với chủ thể tạo lập tài sản
Duy trì danh mục tín dụng Chứng khoán hóa danh mục tín
- Thanh khoản thấp dụng - Thanh khoản cao đối với trái
phiếu phát hành
- Yêu cầu đánh giá cuối kỳ cho mục - Định giá một lần khi bán cho
đích kế toán công ty có mục đích đặc biệt.
Với cơ cấu minh bạch có thể
mạng lại kết quả định giá tối
ưu.
- Tự đánh giá rủi ro - Công ty ĐMTN và tổ chức bảo
lãnh có trách nhiệm đánh giá
rủi ro.
- Chi phí huy động vốn cao - Không có thu nhập phí quản lý - Tài sản nằm trên bảng cân đối kế - Chi phí huy động vốn thấp - Có thu nhập phí quản lý - Tài sản được thoái bỏ khỏi
toán. Việc thực hiện các khoản cho bảng cân đối kế toán. Cung cấp
vay đòi hỏi nguồn vốn mới. nguồn vốn quay vòng cho
khoản vay mới.
- Phải duy trì các tài sản không còn - Có thể thoái bỏ các tài sản
mang tính chiến lược không còn mang tính chiến
lược.
- Đòn bẩy tài chính cao - Trong trưởng hợp chủ thể tạo lập tài - Hạ thấp đòn bẩy tài chính cao - Tài sản được thoát bỏ khỏi
sản là ngân hàng, việc duy trì tài sản bảng cân đối kế toán, giảm bớt
trên bảng cân đối kế toán đòi hỏi vốn nhu cầu vốn đáp ứng tỷ lệ an
đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn. toàn vốn.
1.4.1.2 Đối với chủ đầu tư phát triển bất động sản thương mại
Nghiệp vụ chứng khoán hóa cho phép các ngân hàng mở rộng cho vay
đối với những dự án BĐS hiệu quả, từ đó chủ đầu tư phát triển BĐS thương mại
“dễ thở” hơn trong việc tìm nguồn vốn cho dự án của mình. Mặt khác, nếu dự
án đầu tư có tính khả thi cao nhưng bản thân doanh nghiệp đang gặp khó khăn,
không vay được ngân hàng thì chủ đầu tư có thể thông qua việc phát hành chứng
khoán thế chấp BĐS thương mại để huy động vốn, từ đó doanh nghiêp có thể tìm
kiếm được nguồn tài trợ mới dài hạn thay vì đi vay dài hạn từ ngân hàng.
Việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại thành công hay
không phụ thuộc vào tính hiệu quả của dự án đầu tư: vị trí dự án, quy mô, giá
thuê, tình hình kinh tế, nhu cầu của thị trường…, những yếu tố này góp phần thu
hút nhà đầu tư chứng khoán thế chấp BĐS thương mại. Có thể chủ đầu tư gặp
khó khăn trong hoạt động kinh doanh nhưng họ đang sở hữu dự án BĐS thương
mại có khả năng mang lại hiệu quả cao thì họ vẫn có thể phát hành chứng khoán
thế chấp BĐS thương mại thành công.
Tuy nhiên việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại không
đơn giản đòi hỏi chủ thể tạo lập tài sản có trình độ nhất định, tốn chi phí phát
hành cao.
1.4.1.3 Đối với nhà đầu tư chứng khoán thế chấp bất động sản thương
mại
Chứng khoán hóa mang lại cơ hội đầu tư mới mà trước đây họ không tiếp
cận được. Một số nhà đầu tư mua chứng khoán nợ vì mục đích sinh lời cao trong
khi một số nhà đầu tư vì mục đích đa dạng hóa danh mục đầu tư. Trong thực tế,
các chứng khoán nợ phát hành có thể được cấu trúc theo nhiều mức độ rủi ro
khác nhau tùy theo định mức tín nhiệm từng gói chứng khoán phát hành, do đó
tạo điều kiện đa dạng hóa nhà đầu tư chứng khoán thế chấp BĐS thương mại với
cấu trúc thời gian và rủi ro khác nhau.
1.4.2 Rủi ro của chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại
Bên cạnh những lợi ích mang lại của chứng khoán hóa thì cũng tồn tại rủi
ro, bao gồm rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán sớm.
1.4.2.1 Rủi ro thanh toán sớm
Đây là dạng rủi ro khi người vay thực hiện trả trước một phần hoặc toàn
bộ nợ gốc trước khi đến hạn thanh toán. Việc thanh toán trước nợ gốc có nhiều
nguyên nhân:
- Biến động lãi suất thị trường: khi lãi suất thị trường giảm, người vay có
khuynh hướng thanh toán nợ gốc trước thời hạn. Họ sẽ vay trên thị trường với lãi
suất hiện tại thấp để thanh toán cho khoản vay trước đó (lãi suất cao hơn). Tuy
nhiên, nếu lãi suất biến động bất thường thì việc thanh toán nợ trước hạn sẽ có
khuynh hướng giảm.
- Chu kỳ kinh tế: chu kỳ kinh tế ảnh hưởng đến thu nhập của người dân,
khi nền kinh tế tăng trưởng dẫn đến thu nhập của người dân tăng, điều này khiến
cho việc thanh toán nợ trước hạn có khuynh hướng tăng.
1.4.2.2 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng của chứng khoán phát sinh khi bên vay gặp khó khăn
trong thanh toán nợ gốc và lãi vay. Trường hợp này xảy ra khi dự án mà họ đầu
tư gặp khó khăn trong kinh doanh, nguồn thu bị giảm sút. Vì vậy yếu tố thu hút
sự quan tâm của nhà đầu tư đối với chứng khoán thế chấp BĐS thương mại là
khả năng dòng tiền trong tương lai của dự án đem thế chấp.
Tóm lại, rủi ro thanh toán và rủi ro tín dụng có thể tồn tại trong các loại
trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa. Tuy nhiên mức độ rủi ro tín dụng và
rủi ro thanh toán có sự khác nhau giữa các loại chứng khóan. Đối với chứng
khoán thế chấp BĐS thương mại thì rủi ro thanh toán sớm nhỏ hơn so với chứng
khoán thế chấp BĐS nhà ở. Điều này là do những khoản vay được bảo đảm bằng
BĐS thương mại đều có những ràng buộc về điều khoản thanh toán trước, những
khoản phạt nếu vi phạm thanh toán trước hạn. Do đó rủi ro thanh toán sớm đối
với tín dụng BĐS thương mại thường thấp hơn BĐS nhà ở.
1.5 Nghiên cứu chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.5.1 Nghiên cứu chứng khoán hóa thế chấp bất động sản của một số
nước trên thế giới
1.5.1.1 Tại Mỹ
Chứng khoán hoá là công cụ tài chính hiện đại, được phát triển tại Mỹ
trong những năm 70 của thế kỷ 20. Do nhu cầu tín dụng phục vụ cho nhu cầu
nhà ở tăng cao trong những năm 60 và 70 tại Mỹ, nên hoạt động chuyển nhượng
các khoản cho vay thế chấp BĐS phát triển mạnh nhằm tăng tính lưu thông của
nguồn vốn vào thị trường BĐS. Tuy nhiên, việc mua bán các khoản cho vay thế
chấp BĐS giữa các ngân hàng, tổ chức tài chính với nhau chưa đủ giải quyết tình
trạng mất cân đối giữa nguồn cung và cầu tín dụng BĐS phục vụ nhà ở. Lúc này
chính phủ Mỹ đã thành lập các tổ chức có mục đích đặc biệt (SPV). Các tổ chức
này mua các khoản cho vay thế chấp và chứng khoán hóa chúng. Những chứng
khoán được hình thành từ quá trình chứng khoán hóa các danh mục cho vay thế
chấp BĐS được gọi là chứng khoán thế chấp BĐS. Các tổ chức có mục đích đặc
biệt nổi tiếng là Tổ chức thế chấp nhà liên bang, Fannie Mae và Tổ chức thế
chấp quốc gia, Ginnie Mae... Các tổ chức này thực hiện việc mua các khoản cho
vay thế chấp và phát hành chứng khoán được đảm bảo bằng tập hợp các khoản
vay có thế chấp.
Như vậy, sự ra đời của các công ty được chính phủ bảo trợ để chuyên mua
khoản cho vay thế chấp và chứng khoán hóa chúng như Fannie Mae, Ginnie
Mae…đã góp phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ cho thị trường thế chấp thứ cấp
cũng như cung cấp nguồn vốn lớn cho thị trường nhà đất nói chung tại Mỹ, giúp
người dân tại Mỹ có khả năng sở hữu nhà riêng.
Sản phẩm truyền thống của chứng khoán hóa là chứng khoán thế chấp
BĐS nhà ở. Cho đến năm 1985 thì chứng khoán thế chấp BĐS thương mại được
ra đời và đến đầu thập kỷ 1990 thị trường chứng khoán thế chấp BĐS thương
mại phát triển mạnh, trong đó có sự đóng góp lớn của Tổ chức thanh lý quỹ tiết
kiệm phá sản (RTC) và được so sánh giống như vai trò của Fannie Mae.
Cuối thập kỷ 1980, rất nhiều tổ chức tín dụng S&L (tiết kiệm và cho vay)
rơi vào tình trạng không trả được nợ, khoảng một nửa số tổ chức S&L đã từng
hoạt động vào năm 1970 thì đến năm 1989 không còn tồn tại. Tổ chức thanh lý
quỹ tiết kiệm phá sản được thành lập để thanh lý các tổ chức tín dụng không trả
được nợ. Tổ chức này đã mua lại một nhóm lớn các khoản thế chấp thương mại,
đây là một phần tài sản của tổ chức tín dụng S&L. Nhiệm vụ của tổ chức thanh
lý quỹ tiết kiệm phá sản là thanh lý những tài sản này và thực hiện nghiệp vụ
chứng khoán hóa với các sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bởi tài sản cầm
cố và bán lại cho các nhà đầu tư. Trong quá trình này, tổ chức thanh lý quỹ tiết
kiệm phá sản đã phải chịu nhiều khoản lỗ lớn.
Sau khi tổ chức thanh lý quỹ tiết kiệm phá sản phát hành chứng khoán thì
lần lượt các tổ chức tư nhân cũng tham gia phát hành. Đến năm 1993, 80% giá
trị chứng khoán thế chấp BĐS thương mại phát hành tại Mỹ do các tổ chức tư
nhân thực hiện. Sau khi hoàn thành mục tiêu thay đổi cấu trúc tài chính của ngân
hàng và các quỹ tiết kiệm cũng như thanh lý những khoản cho vay thế chấp
không hiệu quả, tổ chức thanh lý quỹ tiết kiệm phá sản được giải tán vào năm
1995. Tuy nhiên, mô hình chứng khoán thế chấp BĐS thương mại của tổ chức
này tiếp tục được các tổ chức cho vay thế chấp BĐS thương mại khai thác như là
kênh huy động vốn cho thị trường BĐS thương mại.
Nhìn chung, sở dĩ chứng khoán hóa thế chấp BĐS phát triển mạnh mẽ tại
Mỹ là do các tổ chức thực hiện chứng khoán hóa được bảo trợ bởi chính phủ.
Các tổ chức như Fannie Mae và Freddie Mac là các tổ chức tài chính lớn nhất
thực hiện vai trò là tổ chức trung gian chuyên trách (SPV), chuyên mua và chứng
khoán hóa các khoản thế chấp nhằm đảm bảo về tài chính cho tổ chức tài chính
cho người dân vay tiền để mua nhà, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của các tổ chức
liên quan đến hoạt động chứng khoán hóa như: công ty định mức tín nhiệm,
công ty kiểm toán…
Tuy chứng khoán hóa thế chấp BĐS ra đời đã góp phần cung cấp nguồn
vốn lớn cho thị trường BĐS nhưng bên cạnh đó nó cũng trở thành một trong
những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng vừa qua.
Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt
giảm lãi suất, lãi suất ở mức 1% trong suốt 2 năm 2003 và 2004. Căn cứ vào “tín
hiệu” của ngân hàng trung ương, lãi suất trên hầu khắp các thị trường tài chính
đều đã giảm mạnh. Đặc biệt, lãi suất đối với khoản vay cố định 30 năm chỉ ở
mức 4% đến 5%, thấp nhất trong vòng 40 năm qua. Đáp lại chính sách tiền tệ nới
lỏng của FED, lượng cung tiền trong nền kinh tế Mỹ đã tăng mạnh. Khối lượng
cho vay của tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng đã tăng liên tục, thúc đẩy quá
trình mở rộng tiền tệ đang diễn ra.
Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị
trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải
quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Lúc này, chứng khoán hóa đã
trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các ngân hàng đầu tư
quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Cho vay thế chấp
mua nhà dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ
cung cấp vốn cho công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa.
Lãi cao sẽ giúp việc đóng gói các khoản cho vay thế chấp dưới chuẩn thêm thực
hiện dễ dàng và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường mua các
gói trái phiếu chứng khoán hóa đầy rủi ro.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên
gánh nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro
cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất. Khi không trả được nợ, hàng
loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố
đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới.
Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại.
Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong qúy 3 năm 2007. Hậu quả của cuộc khủng
hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Thị trường bất động sản và
thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề, trong khi đó thị trường trái phiếu
hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Các khoản cho vay
thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ những ngôi nhà bị
sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại của các gói trái phiếu phát hành bị
giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao. Các nhà đầu tư
nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu
hậu quả nặng nề. Hàng loạt ngân hàng đầu tư nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro đã
phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ đô la Mỹ. Ngoài thiệt hại
về giảm giá trái phiếu, các ngân hàng bị tạm ngưng hoạt động chứng khoán hóa
và kết quả là cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm
2007. (Nguồn: www.vneconomy.vn)
Kết quả của cuộc khủng hoảng này là hàng loạt tổ chức tài chính trong đó
có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản, đẩy kinh tế Hoa Kỳ
vào tình trạng đói tín dụng. Không những thế, tình trạng đói tín dụng lại ảnh
hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải
lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng
tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các
doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn
tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ
có thể bị giảm phát. Cuộc khủng hoảng còn làm cho đô la Mỹ lên giá. Do đô la
Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư
toàn cầu đã mua đô la để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy đô la
Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
Trước tình hình đó, Chỉnh phủ Mỹ và Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã
tiến hành các biện pháp nhằm đối phó với khủng hoảng, bao gồm:
• Fed can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Cụ thể là lãi suất
cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn
2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó
còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%.
• Fed mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính
nước này có và hạ lãi suất tái chiết khấu.
• Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ
trì chương trình “Term Auction Facility” để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ
hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu
giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ đô la được FED đem cho vay
theo chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức
tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.
• Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký
Economic Stimulus Act of 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình
kích cầu tổng hợp trị giá 168 đô la chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá
nhân.
• Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency
Economic Stabilization Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ đô
la...
Tóm lại, có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ
bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng
tham của thị trường. Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính có nhiều điểm
mạnh nhằm góp phần cung nguồn vốn thúc đẩy phát triển thị trường BĐS song
đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Đây là một trong
những bài học kinh nghiệm cho việc ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa cho các
nước trên thế giới.
1.5.1.2 Tại Nhật bản
Chứng khoán hóa xuất hiện lần đầu tại Nhật vào năm 1994, tuy xuất hiện
muộn hơn các nước trên thế giới nhưng tốc độ phát triển của sản phẩm này rất
nhanh. Gía trị phát hành chứng khoán (hình thành từ chứng khoán hóa) vào năm
là 12,5 tỷ USD, năm 1999 là 23,2 tỷ USD, tốc độ tăng tưởng 100%.
Sản phẩm được dùng để chứng khoán hóa tại Nhật cũng rất đa dạng, bao
gồm: khoản cho vay thế chấp bất động sản thương mại, BĐS nhà ở, khoản cho
vay doanh nghiệp.
Sở dĩ chứng khoán hóa được phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản những năm
vừa qua là do có sự ra đời của Luật công ty có mục đích đặc biệt vào năm 1998.
Luật này ra đời đã thoái gỡ những khó khăn trong cách thực hiện chứng khoán
hóa và những vướng mắc về thuế trước đây. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi
hoạt động chứng khoán hóa được phát triển mạnh mẽ sau sự ra đời của Luật
công ty có mục đích đặc biệt.
1.5.1.3 Tại Singapore
Singapore là một trong những thị trường chứng khoán hóa hóa sôi nổi
nhất trong khu vực Châu Á, là nước bắt kịp và có chính sách khuyến khích ứng
dụng các kỹ thuật tài chính tiên tiến trên thế giới. Điều này có được do sự hỗ trợ
từ phía chính phủ, sự thuận lợi và hoàn thiện của hệ thống pháp lý, sự hiểu biết
của nhà đầu tư đối với sản phẩm tài chính đặc biệt…
Sản phẩm chứng khoán hình thành từ chứng khoán hóa xuất hiện khá sớm
tại Singapore, trong đó chứng khoán hóa các khoản thế chấp BĐS thương mại
xuất hiện lần đầu vào năm 1986. Đợt phát hành lần này do Hong Leong
Holdings Limited thực hiện, đây là công ty tư nhân, chuyên lĩnh vực tài chính và
phát triển BĐS thương mại. Đợt phát hành tiếp theo vào năm 1992 cũng do công
ty phát triển BĐS lớn nhất tại Singapore là Orchard Parade Holdings thực hiện.
Như vậy có thể thấy rằng các nhà đầu tư BĐS thương mại tại Singapore đã tận
dụng một hiệu quả kỹ thuật chứng khoán hóa để huy động vốn thực hiện dự án.
Đến năm 1999 thì chứng khoán hóa BĐS thương mại tại Singapore diễn ra
theo hướng khác, đó là chuyển từ việc bán các khoản thế chấp được đảm bảo bởi
BĐS thương mại sang bán quyền sở hữu BĐS thương mại cho tổ chức có mục
đích đặc biệt. Thu nhập phát sinh từ BĐS thương mại được chứng khoán hóa
được dùng để thanh toán lãi cho trái chủ.
Một trong những yếu tố giúp thị trường chứng khoán thế chấp BĐS
thương mại tại Singapore phát triển là tính thanh khoản của thị trường chứng
khoán hình thành từ chứng khoán hóa cao và định mức tín nhiệm giúp nhà đầu
tư an tâm hơn khi đầu tư vào chứng khoán thế chấp BĐS thương mại.
1.5.1.4 Tại Malaysia
Trước năm 2001 thị trường trái phiếu hình thành từ tài sản tài chính
(ABS) không tồn tại tại Malaysia vì những trở ngại trong chính sách thuế, kế
toán và văn bản pháp lý hướng dẫn. Vào 2001 Ủy ban chứng khoán Malaysia
phát hành “Hướng dẫn chứng khoán hóa tài sản”, đây được xem là căn cứ pháp
lý cho tất cả hoạt động liên quan đến chứng khoán hóa, bao gồm chứng khoán
hóa thế chấp BĐS thương mại. Đợt phát hành chứng khoán thế chấp BĐS
thương mại lần đầu vào năm 2002, trị giá 450 tỷ RM, do Sunway City Berhad
bảo trợ.
1.5.2 Bài học kinh nghiệm để chứng khoán hóa thế chấp bất động sản
thương mại tại Việt Nam
Như đã nêu ở trên, vai trò của chứng khoán hóa là không nhỏ và được
xem như là công cụ tài chính mới. Song khi khủng hoảng trên thị trường bất
động sản xảy ra, cùng với việc nới lỏng cho vay của các định chế tài chính, nợ
xấu gia tăng nhanh và làm mất khả năng thanh toán của các định chế tài chính
này, hệ quả là cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Mỹ tiếp tục lan toả và tác
động đến toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế Mỹ. Như vậy rủi ro xuất hiện
và tác động là rất lớn và đây cũng là bài học kinh nghiệm thực tiễn quý báu đối
với các nền kinh tế đã và đang phát triển hoặc chuẩn bị phát triển công cụ tài
chính hiện đại này. Cụ thể đó là các bài học kinh nghiệm sau:
• Thông qua quá trình chứng khoán hóa, các ngân hàng cho vay bất động
sản đã có thể chuyển rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán sớm cho cho tổ chức có
mục đích đặc biệt. Chính điều này đã kích thích các ngân hàng mở rộng và tăng
trưởng tín dụng bất động sản quá mức và rủi ro xuất hiện mang tính tất yếu khi
thị trường bất động sản biến động và khủng hoảng. Do đó, đòi hỏi các ngân hàng
cần tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc và điều kiện tín dụng trong mọi trường hợp.
cụ thể: ngân hàng cần có quy chế rõ ràng cho việc cho vay vào thị trường bất
động sản; cần đào tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực thẩm
định đánh giá của các nhân viên tín dụng; đối với các khoản vay bất động sản
cần chú trọng đến việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, phương án kinh
doanh hiệu quả…
• Phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá cần chuẩn bị kỹ
lưỡng và có bước đi thích hợp, cần đảm bảo khai thác đúng vai trò ý nghĩa của
công cụ này là tạo nguồn vốn cho thị trường BĐS, giúp người dân mua được nhà
và chủ đầu tư có vốn để đầu tư phát triển dự án BĐS. Từ kinh nghiệm của các
nước trên thế giới, chúng ta cần chuẩn bị và có những nền tảng sau đây:
• Sự hỗ trợ và khuyến khích của chính phủ
Hoạt động chứng khoán hóa nói chung và chứng khoán hóa thế chấp BĐS
thương mại nói riêng luôn cần có sự hỗ trợ và khuyến khích từ phía chính phủ
với những biện pháp cụ thể như sau: cho phép thành lập công ty có mục đích đặc
biệt chỉ với mục đích phát hành chứng khoán (hình thành từ chứng khoán hóa),
có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động chứng
khoán hóa như: ưu đãi thuế cho các nhà đầu tư mua chứng khoán, ban hành các
văn bản pháp luật hướng dẫn chi tiết việc thực hiện, phổ biến kiến thức chứng
khoán hóa đến tổ chức và nhà đầu tư…
• Thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt
Từ thực tế của các quốc gia cho thấy để ứng dụng chứng khoán hóa cần
cho phép thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt, đây là tổ chức được thành lập
với mục đích phát hành chứng khoán dựa vào danh mục các tài sản tài chính.
Các công ty này có thể do các chủ thể tạo lập tài sản là các ngân hàng, tổ chức
tài chính hoặc do nhà nước thành lập. Việc cho phép thành lập tổ chức có mục
đích đặc biệt này có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng chứng khoán hóa nói
chung và chứng khoán thế chấp BĐS thương mại nói riêng.
• Hình thành thị trường thế chấp thứ cấp
Ngoài việc cho phép thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt thì rất cần sự
ra đời của thị trường thế chấp thứ cấp. Thị trường này là nơi diễn ra mua bán
những khoản thế chấp sơ cấp để tạo tính thanh khoản cho các khoản tín dụng thế
chấp BĐS thương mại. Nếu không tồn tại một thị trường thế chấp thứ cấp, tức
các tổ chức không mua bán trao đổi khoản vay thế chấp BĐS được với nhau thì
sẽ không thể cho ra đời hoạt động chứng khoán hóa. Vì trên cơ sở danh mục tài
sản tài chính là khoản cho vay thế chấp BĐS được mua về, tổ chức có mục đích
đặc biệt mới có căn cứ phát hành chứng khoán. Do đó việc ứng dụng kỹ thuật
chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại chỉ được thực hiện khi các tổ chức
có thể mua bán, trao đổi các khoản cho vay thế chấp trên thị trường thế chấp thứ
cấp. Mặt khác nếu các khoản cho vay thế chấp BĐS được mua bán giữa các tổ
chức với nhau thì nguồn tài chính dành cho đầu tư, kinh doanh BĐS càng phát
triển.
• Ban hành luật về thị trường thế chấp thứ cấp
Bên cạnh sự ra đời của thị trường thế chấp thứ cấp cần phải hệ thống pháp
lý hướng dẫn cho các hoạt động diễn ra trên thị trường này. Có như vậy các tổ
chức, cá nhân mới có căn cứ và an tâm cho các hoạt đông mua bán khoản cho
vay thế chấp BĐS.
• Hình thành công ty định mức tín nhiệm (ĐMTN)
Bên c(cid:1)nh b(cid:2)n (cid:3)(cid:2)i t(cid:4)(cid:5)ng chính tham gia vào quá trình ch(cid:6)ng khoán hóa là
bên vay, ch(cid:7) th(cid:8) t(cid:1)o l(cid:9)p tài s(cid:10)n, tổ chức có mục đích đặc biệt, nhà (cid:3)(cid:11)u t(cid:4) thì còn
có s(cid:12) tham gia c(cid:7)a các t(cid:13) ch(cid:6)c có ch(cid:6)c n(cid:14)ng h(cid:15) tr(cid:5) nh(cid:4): công ty ĐMTN, công ty
tư vấn, bảo lãnh, công ty kiểm toán… Các công ty này có vai trò quan trọng giúp
chứng khoán được phát hành thành công. Với nhiệm vụ (cid:3)ánh giá kh(cid:10) n(cid:14)ng tín
d(cid:16)ng c(cid:7)a doanh nghi(cid:17)p hay kh(cid:10) n(cid:14)ng hoàn tr(cid:10) c(cid:7)a công c(cid:16) n(cid:5), công ty (cid:18)MTN có
vai trò quan tr(cid:19)ng (cid:3)(cid:2)i v(cid:20)i s(cid:12) phát tri(cid:8)n c(cid:7)a công c(cid:16) n(cid:5) nói chung và trái phi(cid:21)u
hình thành t(cid:22) ch(cid:6)ng khoán hóa nói riêng.
Kết luận chương 1:
Chứng khoán hóa thế chấp BĐS nói chung và BĐS thương mại nói riêng
là kỹ thuật tài chính đã được ứng dụng tại nhiều nước trên thế giới, ngoài việc
cung cấp thêm kênh huy động vốn cho thị trường BĐS, mang lại lợi ích cho các
thành phần tham gia, kỹ thuật này còn góp phần tạo thêm hàng hóa cho thị
trường tài chính, thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh
lợi ích đem lại, chứng khoán hóa cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng tín dụng vừa qua. Đây là bài học kinh nghiệm cho các nước có kế
hoạch ứng dụng kỹ thuật này vào trong thực tế, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng và có bước đi thích hợp để đảm bảo khai thác đúng nghĩa vai trò của công
cụ này.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ BẤT ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.5 Hoạt động thị trường bất động sản tại Việt Nam
2.5.1 Hoạt động thị trường bất động sản tại Việt Nam trước khủng
hoảng tài chính
Từ đầu năm 2000 trở lại đây, diễn biến thị trường bất động sản của Việt
Nam khá phức tạp. Thị trường đã trải qua cơn sốt giá đất vào năm 2001-2003 và
2007 và sau mỗi đợt như vậy thì thị trường rơi vào trạng thái đóng băng. Dưới
đây là phân tích diễn biến thị trường BĐS tại thành phố Hồ Chì Minh, qua đó thể
hiện tình hình chung của thị trường BĐS tại Việt Nam, cụ thể như sau:
• Giai đoạn thị trường bất động sản bùng nổ 2001- 2003
Đây là giai đoạn bùng nổ của thị trường bất động sản, giá đất liên tục tăng
cao. Nguyên nhân diễn ra sự bùng nổ này là do người đầu tư đánh giá chủ trương
cho việt kiều mua nhà (nghị định 80) và ban hành giá đất mới sẽ có triển vọng
cho thị trường nhà đất nên nhiều người đầu tư mua đất khắp nơi, tạo ra cơn sốt
mạnh tập trung ở phân khúc chính là nhà mặt tiền và đất dự án. Ngoài nguyên
nhân chính là do nhà nước ban hành chính sách như trên, còn có những nguyên
nhân khác gây nên đợt bùng nổ lần này, đó là: do nền kinh tế tăng trưởng ở mức
cao dẫn tới nhu cầu về đất đai phục vụ cho sản xuất kinh doanh và do sự đầu cơ
trong kinh doanh nhà đất gia tăng mạnh mẽ…
• Giai đoạn thị trường bất động sản đóng băng 2004 – 2005
Sau khi cơn sốt giá đất 2001 - 2003 bắt đầu hạ nhiệt, thị trường bất động
sản bắt đầu có những điều chỉnh và có xu hướng giảm. Theo số liệu thống kê cho
thấy giao dịch địa ốc thành công trong năm 2003 giảm 28%, năm 2004 giảm
56% và năm 2005 giảm 78%. (nguồn: http://www.mhb.com.vn).
Với đợt hạ nhiệt của thị trường bất động sản đợt này đã khiến cho giá nhà
đất trên mặt bằng cả nước có biểu hiện sụt giảm rõ nét, tuy diễn biến không đồng
đều và khá phức tạp. Nhìn nhận về nguyên nhân của đợt đóng băng này cho thấy
chủ yếu là do Nhà nước áp dụng các biện pháp nhằm hạ nhiệt thị trường bất
động sản. Với tình trạng giá BĐS liên tục tăng trong giai đoạn năm 2001 –
2003, các cơ quan quản lý nhà nước đã áp dụng các biện pháp để kiềm chế
“bong bóng” bất động sản và đưa giá đất trở về đúng với giá thực tế. Kết quả là
việc ban hành Nghị định 182 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
(năm 2004); Nghị định 181 (năm 2004)…. đã góp phần khiến cho thị trường
BĐS hạ nhiệt, giá đất trở về giá thực tế.
Tóm lại, có thể thấy rằng sau giai đoạn bùng nổ 2001-2003 thì thị trường
bất động sản đi xuống vì nhiều yếu tố, mà phần nhiều liên quan đến chính sách
hạ nhiệt thị trường do chính phủ và các luật mới được ban hành.
• Giai đoạn phát triển mạnh trở lại 2006-2007
Vào năm 2007 cơn sốt đất lại xuất hiện, không giống như cơn sốt giai
đoạn 2001-2003 là tập trung đất dự án và nhà mặt tiền, lần sốt đất này tập trung
mạnh mẽ vào phân khúc căn hộ cao cấp và biệt thự. Theo thống kê của Công ty
CBRE, số lượng căn hộ bán được trong 2007 là 12.849 căn, tăng 3.434 căn so
với năm 2006. Đi kèm với số lượng bán tăng thì giá cả cũng tăng không kém “ấn
tượng”, giá căn hộ cao cấp tại thành phố Hồ Chí Minh tăng từ 3.000 USD/m2
lên mức đỉnh gần 6.000 USD/m2 vào quý 4 năm 2007 (nguồn: CBRE).
Lý giải cho sự bùng bổ của thị trường BĐS lần này có thể do một số
nguyên nhân sau:
- Do nguồn vốn FDI đầu tư vào thị trường bất động sản tăng mạnh mẽ từ
năm 2006-2008. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Việt Nam đã thu hút mạnh vốn FDI đăng ký trong giai đoạn 2006-2008, tổng
vốn lên đến 90,47 tỷ USD chiếm 58% tổng vốn đăng ký cả giai đoạn 1998-2008.
Trong đó lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn 2006-2008 chiếm phần lớn.
Bàng 2.1: FDI vào BĐS giai đoạn từ 1988-2008
Lĩnh vực Số dự án
Khách sạn-Du lịch Vốn điều lệ (triệu USD) 4.386.504,460
XD khu đô thị mới Tổng vốn (triệu USD) 14.927.330,335 8.096.930,438
249 12 178 XD Văn phòng, căn hộ 18.050.528,700
XD hạ tầng KCN-KCX
Tổng 36 475
1.754.096,067 42.828.885,540 2.818.213,939 5.399.926,360 558.735.597 13.163.380,356
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Hình 2.1: FDI vào BĐS giai đoạn từ 1988-2008
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Nguồn tiền từ thị trường chứng khoán chuyển sang thị trường BĐS:
những tháng cuối năm 2007, khi chỉ thị 03 của NHNN hạn chế việc cho vay
chứng khoán ra đời làm cho thị trường chứng khoán xuống dốc trầm trọng. Lúc
này, hầu hết vốn kinh doanh chứng khoán đổ vào thị trường bất động sản. Các
ngân hàng chạy đua chỉ tiêu cuối năm nhằm gia tăng dư nợ vay bất động sản
thay cho việc giảm dư nợ cho vay chứng khoán theo chỉ thị 03 của Ngân hàng
nhà nước. Như vậy, với dòng tiền thay vì ‘chảy’ vào thị trường chứng khoán như
trước đây thì nay (cuối năm 2007) đã ‘chảy’ vào thị trường BĐS, đây cũng chính
là nguyên nhân khiến thị trường BĐS bùng nổ trong giai đoạn này.
2.1.1 Hoạt động thị trường bất động sản sau khủng hoảng tài chính
Năm 2008 là năm đầu tiên trên thị trường bất động sản, giá nhà đất diễn
biến theo chiều hướng chủ đạo là liên tục đi xuống, không như trước đây giá nhà đất chỉ đứng và có đi lên, chứ không đi xuống. Theo một số chuyên gia, diễn
biến của thị trường bất động sản năm 2008 là một năm kỳ lạ nhất từ trước đến
nay. Thị trường từ chỗ cực nóng đến chỗ cực lạnh, chỉ trong một thời gian ngắn
chưa đến 3 tháng (tháng 12/2007 đến 2/2008), giá nhà đất đã tăng bình quân
300%, thậm chí có nơi tăng đến 500%. Có những trường hợp cùng một dự án,
cùng một loại căn hộ, nhưng giữa hai đợt bán hàng giá đã tăng hơn 1.200
USD/m2, thế nhưng vẫn không đủ hàng đáp ứng nhu cầu thị trường. Từ khu
Nam Sài Gòn đến khu lân cận khu đô thị mới Thủ Thiêm, lan rộng sang Nhơn
Trạch, Long Thành (Đồng Nai), Thủ Dầu Một (Bình Dương)... nơi nào giá đất
cũng tăng ít nhất ba lần. Cơn sốt đã đẩy giá nhà đất lên đến đỉnh điểm. Đất dự án
Him Lam - Kênh Tẻ sau ba tháng, từ 30 triệu đồng/m2 (mặt tiền đường 35m) đã
vọt lên 90 triệu đồng/m2. Đất dự án An Phú - An Khánh (quận 2, lân cận khu đô
thị mới Thủ Thiêm) cũng 70-80 triệu đồng/m2.
Và cơn sốt nhà đất năm 2008 chỉ chấm dứt khi có chính sách thắt chặt tiền
tệ, nguồn cung tiền từ các ngân hàng bị cắt đứt. Bắt đầu từ tháng 2 năm 2008 thị
trường bất động sản có những dấu hiệu trầm lắng và đi vào tình trạng đóng băng.
Nguồn tiền đầu tư vào thị trường bất động sản trước đây của nhà đầu tư cạn kiệt
dần, chứng khoán liên tục giảm, nguồn vay vốn từ ngân hàng bị thắt chặt. Đây là
giai đoạn thị trường bất động sản Việt Nam sụt giảm cả về giá cả, giao dịch và
nguồn vốn. Sự sụt giảm của thị trường khiến nhiều nhà đầu cơ gặp cảnh lao đao,
dẫn đến tình trạng nhiều nhà đầu tư cá nhân bán tháo các căn hộ mà họ đã mua
trước đó vì họ không thể duy trì khoản vay ngân hàng. Trong khi đó, lãi suất vay
cao khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản gặp khó khăn trong
việc tiếp tục triển khai dự án dang dở, còn đối với thành phẩm đã có thì buộc họ
phải giảm giá bán. Nếu như năm 2007, thị trường căn hộ cao cấp trở nên nóng
sốt sau hàng loạt các dự án gây đình đám như The Vista (Công ty Capitaland-
Vista); Sky Garden III (Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng); Blue Diamond
(Công ty Vạn Phát Hưng)…thì bước sang thời điểm tháng 3 và tháng 4 năm
2008, giá căn hộ cao cấp bắt đầu rớt mạnh. Điển hình là dự án Vista, vào tháng 2
năm 2008 dự án này từng có giá 2.700-2.800 USD mỗi m2, nhưng đến tháng 4
năm 2008 giá chỉ còn 2.100-2.400 USD/m2; dự án Sai Gon Pearl của Công ty
TNHH Vietnam Land SSG làm chủ đầu tư cũng rớt giá trên thị trường giao dịch
thực tế từ 3.500-4.000 USD mỗi m2 xuống còn 3.100-3.200 USD và hàng loạt
dự án tại quận 9 như Trường Thạnh, Phước Long, cũng bị tuột giá trung bình
20%. Mặc dù tốc độ rớt giá giảm dần vào các tháng cuối năm nhưng đến thời
điểm kết thúc năm 2008, giá căn hộ cao cấp đã giảm từ 30%-50% so với mức
đỉnh cuối năm 2007.
Hình 2.2: Thị trường căn hộ cao cấp chuyển nhượng tại Tp.HCM:
% tăng giá so với thời điểm trước đó
Nguồn: Vietrees
Hình 2.3: Giá trị căn hộ cao cấp tại TP.HCM
Nguồn: CBRE
Tóm lại, năm 2008 là năm đầu tiên mà diễn biến thị trường bất động sản
đi ngược lại quy luật diễn biến của các năm trước. Kể từ khi thị trường bất động
sản mới manh nha hình thành đến trước năm 2008, thì hầu như diễn biến giá cả
chỉ có đi lên hoặc đứng, chứ chưa bao giờ có tình trạng mất giá mạnh mẽ như
năm 2008.
Đến năm 2009, thị trường bất động sản được đánh giá là có những dấu
hiệu tích cực hơn và đã góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn suy giảm kinh
tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Có được kết quả đó là chính nhờ vào nhu cầu cao về
bất động sản, đặc biệt là nhà ở. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành kịp
thời các chính sách thúc đẩy thị trường phát triển như cho người nước ngoài mua
nhà, Nghị quyết 33 đơn giản hóa các thủ tục hành chính (cấp phép, giải phóng
mặt bằng…), Nghị quyết 18 về chính sách nhà ở cho sinh viên, công nhân, người
thu nhập thấp. Ngoài ra, thay vì thị trường bị đóng băng ở phân khúc căn hộ cao
cấp, các chủ đầu tư tập trung phát triển phân khúc thị trường căn hộ giá trung
bình, diện tích nhỏ có giá dưới 20 triệu đồng/m2 đáp ứng nhu cầu lớn của người
dân, tăng tính thanh khoản cho thị trường.
Tuy nhiên, năm 2009 thị trường BĐS vẫn còn nhiều hạn chế như còn phụ
thuộc quá nhiều vào vốn ngân hàng, chưa có các định chế tài chính phi ngân
hàng hỗ trợ thị trường. Giá nhà ở vẫn tăng và đứng ở mức cao, diễn biến phức
tạp.
Đến nửa đầu năm 2010, những tín hiệu tốt từ nền kinh tế đã có tác động
trực tiếp đến thị trường BĐS, đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo báo cáo
CBRE, tốc độ tăng trưởng GDP của TP.HCM trong quý II-2010 đạt 11% so với
cùng kỳ năm ngoái. Mức tăng trưởng trên tương đương với mức tăng trưởng
trước thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Riêng phân khúc
khối thị trường nhà ở tại thành phố này cho thấy lượng yêu cầu mua nhà đã tăng
khoảng 25%. Lý do là đại bộ phận người dân ngày càng tin rằng Việt Nam đã
thoát ra khỏi những hệ quả xấu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Quý II-
2010 cũng là quý đầu tiên từ trước đến nay có đến 17 dự án nhà ở được chào bán
ra thị trường, trong đó phân khúc nhà bình dân chiếm hơn nửa. Như vậy, có thể
thấy rằng cùng với chuyển biến tích cực của nền kinh tế thì thị trường bất động
sản cũng có những dấu hiệu tích cực, nhất là phân khúc thị trường nhà ở giá
trung bình và thấp. Điều này cho thấy rằng nhu cầu BĐS tại Việt Nam còn rất
cao và quan trọng là nhà phát triển dự án bất động sản đủ tiềm lực tài chính và
thông tin để thực hiện dự án BĐS.
Hình 2.4: Giá chào bán trung bình các loại căn hộ (2008-2010)
Đơn vị tính: usd/m2
Thị trường TPHCM Thị trường Hà Nội
Nguồn: CBRE
Tóm lại, thị trường BĐS Việt Nam đã trải qua các đợt sốt giá và trầm
lắng, đây là quy luật tất yếu của thị trường. Nhưng nhìn chung đây là thị trường
hứa hẹn tiềm năng phát triển còn rất lớn do Việt Nam còn là đất nước đang phát
triển, nhu cầu về nhà ở, văn phòng cho thuê, mặt bằng bán lẻ hay thuê khách sạn
còn cao.
2.1.2 Xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam sau khủng hoảng
tài chính
Thị trường BĐS Việt Nam bao gồm các sản phẩm: đất nền, căn hộ, văn
phòng cho thuê, mặt bằng cho thuê bán lẻ, khách sạn…Tham gia đầu tư vào các
phân khúc trên là các chủ đầu tư phát triển dự án BĐS trong nước và nước ngoài.
Theo đánh giá của Knight Frank, nhà tư vấn bất động sản hàng đầu thế giới,
những xu hướng sau đây sẽ chi phối mạnh mẽ tương lai của thị trường bất động
sản Việt Nam:
- Sự ảnh hưởng từ giới trung lưu: dân số Việt Nam ngày càng tăng, kèm
theo đó là nhu cầu về nhà ở cũng tăng theo. Tuy nhiên, chỉ một nhóm bộ phận
dân cư đáp ứng được yêu cầu giá cả BĐS, đó là bộ phân người dân có thu nhập
cao và khá trở lên, trong đó tầng lớp trung lưu chiếm nhiều hơn. Do đó, sự phát
triển mạnh của tầng lớp này tại Việt Nam sẽ khiến cho nhu cầu về nhà ở trung
bình và giá cả phải chăng dần tăng cao.
- Chất lượng dự án được chú trọng: trong dài hạn sẽ có nhiều khoản đầu
tư cho phát triển và tái phát triển bất động sản diễn ra trên cả nước, đặc biệt tại
các trung tâm kinh tế, chính trị như Hà Nội và TP.HCM. Việc xây dựng mới
được thúc đẩy bởi nhu cầu về chất lượng bất động sản dần cao hơn và lớn hơn
đối với các khu vực dân cư và các điểm kinh doanh lớn hơn cho không gian
thương mại.
Hiện nay trong lĩnh vực BĐS Việt Nam đang có sự thiếu hụt về không
gian hạng sang, đặc biệt là nhu cầu cho các trung tâm bán lẻ hay trung tâm
thương mại luôn có tỉ lệ thuê cao mặc dù giá thuê không phải là thấp. Điều này
sẽ được phân tích cụ thể trong phần 2.1.3.3.
- Xu hướng đào thải ở thị trường văn phòng cho thuê: sau thời gian tăng
giá khá mạnh ở bộ phận văn phòng cho thuê, đến nay khi nguồn cung ngày càng
dồi dào thì chỉ những văn phòng, toàn nhà với địa thế đẹp, tiện nghi, tính năng
sử dụng cao, được quản lý hiệu quả…được các khách hàng quan tâm nhiều nhất.
Vì vậy, những tòa nhà văn phòng có đầy đủ các yếu tố nêu trên và có giá cả hợp
lý sẽ dễ cho thuê nhất. Ngược lại, những tòa nhà giá quá cao thường không được
khách hàng quan tâm. Bên cạnh địa thế thuận lợi, khả năng cung cấp dịch vụ tiện
ích của tòa nhà cho thuê cũng ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của khách hàng.
Sau đây là xu hướng cụ thể của từng phân khúc thị trường bất động sản
chủ yếu tại Việt Nam nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng sau
khủng hoảng:
2.1.3.1 Thị trường nhà ở
• Sau khủng hoảng, nhu cầu về nhà ở vẫn đứng ở mức cao.
Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009, dân số nước ta là 85,8 triệu
người với 22,68 triệu hộ, trong đó, khu vực đô thị là 6,950 triệu hộ (chiếm
30,7% tổng số hộ), khu vực nông thôn là 15,67 triệu hộ. Mặc dù theo thống kê,
tuyệt đại đa số có nhà ở (cả nước có tới 99,95% tổng số hộ) song thực tế nhu cầu
về nhà ở tại khu vực đô thị rất cao, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội,
TP.HCM và Đà Nẵng.
Do nhu cầu thay đổi chỗ ở do tăng thu nhập và di cư tìm việc làm của dân
cư đô thị, cho nên dù diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2009 đã gấp đôi
so với năm 1999 nhưng theo ước tính tại khu vực đô thị vẫn còn khoảng 7 triệu
người có nhu cầu thuê, thuê mua nhà ở xã hội với tổng diện tích nhà ở lên tới
150 triệu m2. Riêng Hà Nội cần 5,5 triệu m2, còn TP.HCM cần khoảng 5 triệu
m2 và trên 50 ngàn chỗ ở cho công nhân thuê. Ngoài ra, hiện nay cả nước có hơn
3 triệu m2 sàn nhà chung cư cũ được xây dựng từ trước năm 1991 với hơn 100
nghìn hộ dân. Trong đó, Hà Nội có khoảng 23 khu chung cư cũ có tổng diện tích
sàn khoảng 1 triệu m2 với trên 30 nghìn hộ và 10 khu nhà ở tập thể thấp tầng,
TP. HCM có 610 nhà chung cư, tập thể cũ với 33.000 căn hộ tương đương với
1,5 triệu m2. Đặc biệt, trong số đó hiện có hơn 200 nhà chung cư (khoảng 10
nghìn hộ) đã bị xuống cấp nghiêm trọng cần xây dựng lại.
• Thị trường xây dựng và nhà ở tiếp tục phát triển mạnh
Do nhu cầu về nhà tại Việt Nam còn tăng trong tương lai, nên đầu tư vào
BĐS nhà ở vẫn đang thu hút mạnh các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà
đầu tư nước ngoài. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, cả nước có khoảng
2500 dự án khu đô thị mới, trong đó chủ yếu là phát triển nhà ở, dự án văn
phòng cho thuê và các dự án BĐS khác, riêng tại TPHCM tính đến cuối năm
2009 có 1.400 dự án chiếm diện tích khoảng 4.490 ha. Địa bàn của các quận
trung tâm như quận 1,3,4,5 đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư lớn
trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, tại các quận, huyện mới thành lập cũng hấp
dẫn nhiều nhà đầu tư do một số dự án hạ tầng kỹ thuật đã và đang chuẩn bị triển
khai như cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, các tuyến Metro, Đại lộ Đông - Tây…
• Cơ cấu hàng hoá của thị trường BĐS đã có sự thay đổi, các nhà đầu tư
đã chuyển hướng đầu tư vào phân khúc thị trường nhà ở có mức giá trung bình,
diện tích nhỏ để đáp ứng nhu cầu thật của thị trường, tăng tính thanh khoản của
nguồn vốn đầu tư. Thị trường nhà ở những năm trước có sự phát triển mất cân
đối, các doanh nghiệp chú trọng nhiều vào đầu tư loại nhà cao cấp. Cung loại
nhà giá cao có thời điểm dư thừa, trong khi cung những nhà giá trung bình và
thấp thì quá thiếu. Do đó trong năm 2010, trước tình trạng thị trường căn hộ cao
cấp vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đã
tung ra hàng loạt dự án có mức giá trung bình, phù hợp với thu nhập của người
dân. Điển hình cho những dự án có giá trung bình là dự án Tera Rosa của doanh
nghiệp Khang Nam đã được khách hàng đặt mua hơn 100 căn hộ ngay sau khi công bố với mức giá 12,6 triệu đồng/m2 và dự án Babylon Resident 1 với mức giá bình quân 15,2 triệu đồng/m2 thì 70% sản phẩm đợt 2 đã được khách hàng
tiếp nhận mạnh. Nhiều dự án nội thành có mức giá trung bình cũng đang hút
hàng. Dự án chung cư Đại Thành, quận Tân Phú có mức giá 14,9 triệu đồng/m2
cũng đang lên kế hoạch chuẩn bị cho đợt ra hàng lần thứ 3. (Nguồn: Báo Thanh
Niên).
Như vậy có thể nhận thấy rằng đi kèm với sự phát triển kinh tế và nhu cầu
nhà ở còn cao thì đầu tư vào thị trường nhà ở vẫn đem lại lợi nhuận cho các
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.
2.1.3.2 Thị trường văn phòng cho thuê
Sau đợt khủng hoảng tài chính vừa qua, hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp không còn mạnh mẽ như trước đây, nhu cầu thuê văn phòng hạng
cao cấp giảm mạnh, đi kèm theo đó là giá thuê lao dốc thảm hại.
Hình 2.5: Giá chào thuê trung bình (2008-2010)
Thị trường Hà Nội Thị trường TPHCM
Nguồn: CBRE
Đến quý 2 năm 2010 giá cho thuê văn phòng chưa cải thiện nhưng với kỳ
vọng vào sự phát triển kinh tế trong dài hạn và từ kết quả trong sáu tháng đầu
năm 2010 cho thấy các công ty trong nước chiếm vai trò chủ đạo trong định
hướng thị trường, chiếm 63% tổng nhu cầu thuê trong thì các doanh nghiệp kinh
doanh BĐS vẫn nhận thấy đây là lĩnh vực vẫn mang lại lợi nhuận, do đó họ vẫn
không ngừng đầu tư vào thị trường này. Theo khảo sát của CBRE, một lượng lớn
nguồn cung mới sẽ tiếp tục được đưa vào hoạt động trong thời gian tới, dự kiến thị trường văn phòng sẽ có thêm 1,1 triệu m2 trong vòng 3 năm tới.
Hình 2.6: Nguồn cung văn phòng cho thuê ước tính tại TPHCM từ năm 2010 đến 2013 (đơn vị tính: ngàn m2 )
Nguồn: CBRE
Với nguồn cung văn phòng cho thuê sẽ tăng mạnh trong 3 năm tới sẽ đáp
ứng nhu cầu thuê văn phòng của các công ty trong và ngoài nước, tuy nhiên điều
này sẽ gây áp lực giảm giá thuê văn phòng, không còn quá cao so với thời kỳ
2007 và đầu năm 2008.
2.1.3.3 Thị trường mặt bằng cho thuê bán lẻ
Xu hướng tiêu dùng hiện đại tại Việt Nam có tác động đến việc phát triển
các cửa hàng tiện lợi đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng. Do đó sự gia
tăng mặt bằng thị trường bán lẻ là điều tất yếu cho thị trường đầy tiềm năng này.
Mặt khác thu nhập của người dân ở các thành phố lớn ngày càng cao. Đó là lý do
khiến nhiều mặt bằng bán lẻ dành cho thương mại hiện đại ngày càng phát triển
và được chú ý nhiều hơn.
Trong thời gian qua, trái với sự trầm lắng của các phân khúc thị trường bất
động sản khác, thị trường mặt bằng bán lẻ tại khu trung tâm TPHCM nói riêng
vẫn sôi động, cung không đủ cầu, giá vẫn tăng đều. Mặt bằng bán lẻ là mặt tiền
nhà phố ở khu trung tâm hầu như đã hết, rất ít khi xuất hiện mặt bằng mới, do đó
thị trường này vẫn nóng, giá vẫn tăng đều. Theo số liệu thống kê từ Công ty
CBRE, tổng diện tích nguồn cung bán lẻ tại TPHCM năm 2007: 25.280 m2; năm
2008: 62.182 m2; năm 2009: 65.468 m2 và dự tính nguồn cung diện tích bán lẻ
tại trung tâm trong năm 2010: 133.050 m2. Nguồn cung mặt bằng bán lẻ tăng là
do diện tích bán lẻ tại các khu nhà phố sẽ chuyển dần vào các trung tâm thương
mại, đây là phát triển tất yếu của kinh doanh bán lẻ. Tuy nguồn cung mặt bằng
bán lẻ có tăng nhưng giá thuê vẫn không hề giảm, thậm chí, tại các khu thương
mại nổi tiếng tại TPHCM, giá thuê vị trí đắt địa có khi lên đến 200 - 250
USD/m2/tháng. Điều này chứng tỏ sức tiêu thụ của thị trường TPHCM rất lớn và
vẫn đang tăng. Chính vì thị trường thiếu nguồn cung nên tòa nhà Vincom Center
vừa khai trương khách hàng thuê mặt bằng bán lẻ đã đông nghịt, chen kín diện
tích bán lẻ của cao ốc này.
Thị trường này vẫn nóng nên các nhà đầu tư đang ráo riết tranh thủ đưa
hàng của mình vào thị trường. Trong thời gian ngắn sắp tới, khu trung tâm TP sẽ
có nguồn cung mặt bằng bán lẻ không nhỏ từ các tòa cao ốc sắp hoàn thành như
Bitexco Financial Tower đường Ngô Đức Kế (quận 1), SaiGon M&C Tower
đường Tôn Đức Thắng (quận 1)…
Bảng 2.2 : Nguồn cung mặt bằng bán lẻ tại thành phố HCM
Nguồn cung bán lẻ (m2)
năm 2007
Năm 2010
Trong trung tâm
năm 2008 11.882
năm 2009 18.781
65.050
Ngoài trung tâm
1.280 24.000
50.300
46.687
68.000
25.280
62.182
65.468
Tổng cộng
133.050 Nguồn: CBRE Việt Nam
Tóm lại, với sự phát triển của nền kinh tế trong dài hạn, thị trường mặt
bằng cho thuê bán lẻ hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển và là mảng thị trường
mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp kinh doanh BĐS.
2.1.3.4 Thị trường khách sạn
Nhu cầu về phòng khách sạn tăng nhanh tại Việt Nam trong thời gian qua,
một phần là do thị trường du lịch Việt Nam ngày càng có những bước chuyển
biến mạnh mẽ, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Theo thống kê cho từ
CBRE cho thấy, công suất thuê phòng trung bình của khách sạn 4-5 sao luôn ở
mức 60%, tuy nhiên tỷ lệ này có sụt giảm đáng kể vào năm 2009, đến nửa đầu
Hình 2.7: Công suất cho thuê trung bình từ quý 2.2008 đến quý 2.2010 tại TPHCM
5 sao
4 sao
3 sao
năm 2010 thì tình hình có sự cải thiện đáng kể.
Nguồn: CBRE
Tuy gặp khó khăn kinh doanh sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua
nhưng đến nay thị trường khách sạn đang phục hồi dần với sự quay lại của khách
quốc tế do đi du lịch và công tác. Theo số liệu tổng hợp ban đầu sơ bộ cho thấy
trong Việt Nam chào đón gần 2,52 triệu lượt khách quốc tế trong nửa đầu năm
2010, tăng 32% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý hai năm 2010, khách nội
địa đạt 14,8 triệu lượt người, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Lượng khách
tăng đã tạo ra nhu cầu đáng kể cho thị trường khách sạn. Nhu cầu này đến từ ba
nhóm khách chính: khách quốc tế, khách dự hội họp kết hợp du lịch, khách đến
Việt Nam bằng những chuyến bay thuê chuyển.
Nhìn về dài hạn, đây là thị trường vẫn mang lại nguồn lợi kinh doanh cao
trong các năm tiếp theo vì nền kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ có những bước
tiến, nhu cầu về khách sạn sẽ gia tăng.
Bảng 2.3: Nguồn cung số phòng khách sạn từ năm 2010 đến 2013 tại TPHCM
Năm hoàn thành
Số phòng
Dự án LIBERTY 6 GOLDEN TOWER
144 120
2010 (473 phòng)
2011 (1.175 phòng)
2012 (858 phòng)
Vị trí Q1 Q1 Phú Nhuận Q3 Q1 Q1 Q1 Q1 Q1 Q1 Q7
209 120 170 335 230 320 350 338 170
2013
SAIGON GIVRAL NEW PACIFIC GRAND EXTENTION NIKKO SAIGON TIMES SQUARE LE MERIDIEN SAIGON NOVOTEL SAIGON CENTRE IBIS BẾN THÀNH PALACE BIS SAIGON SOUTH SAIGON CONVENTION AND EXHIBITION
Q7
TỔNG CỘNG
1000 3506 Nguồn: CBRE Việt Nam
Tóm lại, cùng với sự phục hồi và phát triển của kinh tế, nhu cầu di chuyển
và chỗ ở ngày càng tăng, mặt khác Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và
phát triển kinh tế do đó sẽ thu hút một lượng lớn khách đến Việt Nam. Đây là cơ
sở cho sự ra đời hàng loạt dự án khách sạn tại Việt Nam trong thời gian qua.
2.2 Thực trạng nguồn vốn đầu tư bất động sản thương mại của
doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua
2.2.1 Tổng quan các nguồn vốn tài trợ đầu tư bất động sản thương
mại của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua
Tuy thị trường BĐS tại Việt Nam trong thời gian qua có nhiều biến động,
bùng nổ và đóng băng. Nhưng nhìn chung, đây là thị trường tiềm năng, mang lại
lợi nhuận tốt cho các chủ đầu tư, vì nhu cầu về nhà ở và văn phòng cho thuê hay
mặt bằng bán lẻ tại Việt Nam còn rất lớn. Tuy đầu tư vào lĩnh vực này mang lại
lợi nhuận cao cho doanh nghiệp BĐS nhưng nó đòi hỏi doanh nghiệp phải có
nguồn vốn vững mạnh và kế hoạch tài chính dài hạn. Trong thời gian qua tại
Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này lại không đáp
ứng được tiêu chuẩn đó. Trên thực tế, ngoài nguồn vốn tự có theo quy định, số
còn lại doanh nghiệp bất động sản huy động chủ yếu thông qua các: vay ngân
hàng, tiền ứng trước của khách hàng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp…
2.2.1.1 Vay ngân hàng
Việc sử dụng vốn vay từ ngân hàng để tài trợ cho dự án vẫn được xem là
kênh huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
trong thời gian qua tại Việt Nam. Tình hình cho vay bất động sản đi theo biến
động của thị trường. Khi thị trường bất động sản phát triển thì số cho vay của các
ngân hàng tăng và ngược lại khi thị trường bất động sản trầm lắng, đóng băng thì
tình hình cho vay bất động sản giảm hoặc tăng trưởng chậm.
Giai đoạn ngân hàng mở rộng cho vay bất động sản (2003-2007)
Thị trường bất động sản sau thời gian đóng băng năm 2003 đã trở lại giai
đoạn tăng trưởng nóng với nhu cầu đầu tư, mua sắm bất động sản tăng cao, đi
kèm theo đó là tín dụng bất động sản tăng mạnh. Riêng tại thành phố Hồ Chí
Minh, dư nợ vay kinh doanh bất động sản cuối năm 2006 là 31 ngàn tỷ đồng,
chiếm 13,8% tổng dư nợ toàn thành phố và tăng 9% so với năm 2005. Sang năm
2007, dư nợ cho vay BĐS có sự tăng mạnh với số tiền là 44 ngàn tỷ đồng, tăng
41% so với năm 2006. Sở dĩ có sự tăng trưởng mạnh mẽ này là do vào những
tháng cuối năm 2007, khi chỉ thị 03 của NHNN hạn chế việc cho vay chứng
khoán ra đời (hiệu lực ngày 01/07/2007) làm cho thị trường chứng khoán xuống
dốc trầm trọng, hầu hết vốn kinh doanh chứng khoán đổ vào thị trường bất động
sản, gần như ngay lập tức, thì trường bất động sản sốt lên nhanh chóng. Các
ngân hàng chạy đua chỉ tiêu cuối năm nhằm gia tăng dư nợ vay bất động sản
thay cho việc giảm dư nợ cho vay chứng khoán theo chỉ thị 03 của Ngân hàng
nhà nước. Do đó, các NHTM đã đẩy mạnh cho vay để tối đa hóa lợi nhuận và
tăng dư nợ.
Giai đoạn ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản
Đến năm 2008 trước lo ngại tăng trưởng tín dụng sẽ gây sức ép lên lạm
phát và tình hình quá nóng cục bộ của thị trường bất động sản, Ngân hàng Nhà
Nước thực hiện những biện pháp thắt chặt tín dụng, cụ thể là Ngân hàng Nhà
Nước đã tăng lãi suất cơ bản, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và phát hành tín phiếu
hút 20.300 tỷ đồng khỏi lưu thông. Việc rút một lượng tiền lớn đang lưu thông ở
ngoài thị trường về của Ngân hàng Nhà Nước làm cho khả năng cung tiền của
các ngân hàng thương mại gặp khó khăn rất lớn. Điều này khiến cho nhiều ngân
hàng thương mại đã hạn chế cho vay, chỉ tiếp tục giải ngân các hợp đồng đã ký
trước đây hoặc ngưng giải ngân, không cho vay mới. Mặt khác, Ngân hàng Nhà
Nước từ đầu năm đến tháng 6/2008 đã điều chỉnh lãi suất cơ bản ba lần từ 8.25%
lên 14% năm, điều này đẩy lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại lên
đến 21%/năm. Đây thực sự là một gánh nặng lãi suất cho cả các chủ đầu tư, các
nhà đầu tư bất động sản và gây rủi ro cho ngân hàng. Kết quả của hàng loạt biện
pháp thắt chặt tín dụng của Ngân hàng nhà nước là giá bất động sản giảm mạnh,
thị trường bất động sản rơi vào tình trạng ‘trầm lắng’. Trái ngược với trước đây
ngân hàng đẩy mạnh cho vay mua bất động sản thì nay họ làm ngược lại. Theo
nhận định lúc này thì thị trường bất động sản hiện đã bị đẩy giá lên quá cao, tiềm
ẩn quá nhiều rủi ro và được xem là danh mục đầu tiên đang được hầu hết ngân
hàng siết lại, hạn chế và thậm chí từ chối cho vay đối với những khoản vay mang
tính chất đầu cơ bất động sản.
Đến năm 2009, dù định hướng tín dụng toàn ngành ngân hàng không ưu
tiên đầu tư cho vay mua bán, kinh doanh bất động sản, nhưng các ngân hàng
thương mại đã vận dụng cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận được phép vượt
hơn 150% lãi suất cơ bản để cho vay trong lĩnh vực bất động sản với lãi suất từ
12,5% - 15,5%/năm tập trung vào các doanh nghiệp có khả năng thanh toán. Kết
quả là mặc dù không tăng mạnh so với các năm trước nhưng dư nợ tín dụng BĐS
(riêng tại thành phố Hồ Chí Minh) năm 2009 tăng 24,1% so với 2008, với số tiền
78 ngàn tỷ đồng.
Trong năm 2010, tín dụng bất động sản tăng trưởng ổn định nhưng chưa
hoàn thiện. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, tổng dư nợ tín dụng BĐS của các
Ngân hàng thương mại trong 6 tháng đầu năm đạt 91,3 ngàn tỷ đồng, chỉ tăng
16,7% so với đầu năm 2010. Ngoài việc tín dụng cho bất động sản tăng chậm thì
lãi suất cho vay vẫn ở mức cao, đa số các ngân hàng đang áp dụng lãi suất xấp xỉ
13%/năm hoặc cao hơn. Điều này cũng cho thấy nếu các yếu tố kinh tế vĩ mô
không ổn định, lạm phát luôn đứng trước nguy cơ vượt ngưỡng cho phép thì khó
có thể tạo dựng được một thị trường BĐS phát triển bền vững.
Bảng 2.4: Dư nợ cho vay BĐS tại thành phố Hồ chí minh qua các năm
Đơn vị tính: ngàn tỷ đồng
2005 176 29 2006 226 31 2007 406 44 2008 490 63 2009 563 78 6T 2010 613 91
16% 9% 41% 44% 24% 17%
Tổng dư nợ tín dụng Dư nợ tín dụng BĐS Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ cho vay BĐS Tỷ trọng dư nợ BĐS trong 16% 14% 11% 13% 14% 15% tổng dư nợ cho vay
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước – chi nhánh TP.HCM
2.2.1.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà
Bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống từ ngân hàng, doanh nghiệp
BĐS còn tận dụng một kênh huy động khác mà hiệu quả đem lại khá cao, đó là
tiền ứng trước của khách hàng.
Việc sử dụng tiền ứng trước của khách hàng mua nhà được quy định cụ
thể tại Điều 14, Luật kinh doanh bất động sản: “Chủ đầu tư dự án kinh doanh
bất động sản và khách hàng được thỏa thuận trong hợp đồng về việc mua bán
nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo hình thức ứng tiền
trước và phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
a ) Việc ứng tiền trước được thực hiện nhiều lần, lần đầu chỉ được thực
hiện khi chủ đầu tư đó xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho bất động sản theo nội
dung, tiến độ của dự án đó được phê duyệt, các lần huy động tiếp theo phù hợp
với tiến độ thực hiện đầu tư tạo lập bất động sản;
b) Chủ đầu tư phải sử dụng đúng mục đích tiền ứng trước của khách hàng
để đầu tư tạo lập bất động sản;
c) Khách hàng ứng tiền trước được hưởng giá mua, giá chuyển nhượng
bất động sản tại thời điểm ký hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác;
d) Trường hợp chủ đầu tư giao bất động sản chậm tiến độ ghi trong hợp
đồng thì phải chịu trách nhiệm với khách hàng theo hợp đồng và phải trả cho
khách hàng một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước tính theo lãi suất vay
ngân hàng thương mại tại thời điểm giao bất động sản tương ứng với thời gian
chậm tiến độ;
đ) Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng cam kết về việc ứng tiền
trước trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với chủ đầu tư theo hợp đồng và
phải trả cho chủ đầu tư một khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tính theo lãi suất
vay ngân hàng thương mại tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm
trả;
e) Việc chọn lãi suất vay ngân hàng thương mại quy định tại điểm d và
điểm đ của khoản này phải được thỏa thuận trong hợp đồng.”
Như vậy, theo quy định thì việc chủ đầu tư huy động vốn từ tiền ứng trước
của người mua phải đáp ứng những điều kiện như chủ đầu tư đó xây dựng cơ sở
hạ tầng phục vụ cho bất động sản. Tuy vậy thực tế trong thời gian qua cho thấy
các doanh nghiệp kinh doanh BĐS đã huy động vốn của khách hàng nhưng chưa
đủ điều kiện theo quy định. Chính vì vậy, vào thời điểm cuối năm 2007, nhiều
dự án kinh doanh bất động sản đã phải trả lại tiền đặt cọc trong khi chưa đáp ứng
đủ điều kiện kinh doanh nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai như
dự án Sky Garden III của Phú Mỹ Hưng, dự án Blue Diamond của Vạn Phát
Hưng …
Việc quy định chủ đầu tư các dự án kinh doanh bất động sản chỉ được
phép huy động vốn của khách hàng, đối tác khi đã hoàn thành hạ tầng dự án (với
dự án khu đô thị mới) và hoàn thành móng (với dự án nhà ở riêng lẻ) đã khiến
các chủ đầu tư dự án bất động sản gặp khó khăn khi tìm kiếm nguồn vốn đầu tư
xây dựng dự án, bởi mỗi dự án bất động sản quy mô nhỏ cũng lên đến hàng trăm
tỷ đồng, còn với các dự án trung bình cũng lên đến vài ngàn tỷ đồng. Với các
doanh nghiệp của Việt Nam (đa số ở quy mô nhỏ và vừa) thì nguồn vốn tự có
khó có khả năng đảm bảo yêu cầu này.
2.2.1.3 Liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài
Việc các doanh nghiệp BĐS Việt Nam tìm đến phướng cách liên doanh,
liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để thực hiện dự án đã xuất hiện trong thời
gian qua. Điển hình là Công ty phát triển nhà Daewon – Thủ Đức, đây là liên
doanh giữa Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức – ThuDuc House (tỷ lệ vốn
góp 40% bằng giá trị quyền sử dụng đất) và Tập đoàn Daewon – Hàn Quốc (tỷ lệ
vốn góp 60%) để xây dựng dự án chung cư cao cấp Cantavil An Phú với 390 căn
hộ. Sự thành công của dự án chung cư Cantavil An Phú của liên doanh này đã
khẳng định được tiềm lực tài chính, năng lực và kinh nghiệm đầu tư trong lĩnh
vực bất động sản cũng như mục tiêu phát triển của cả hai phía ThuDuc House và
Tập đoàn Daewon. Trên đà thành công đó, ThuDuc House và Tập đoàn Daewon
tiếp tục mở rộng hợp tác, phát triển đầu tư một số dự án như: khu phức hợp căn
hộ - trung tâm thương mại – văn phòng cho thuê với tên gọi Cantavil Premier
quy mô 36 tầng với tổng vốn đầu tư 66 triệu USD; dự án Centum Wealth tại
phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh với tổng mức vốn đầu tư 26
triệu USD; dự án Cantavil – Long Hải với tổng mức vốn đầu tư là 20 triệu USD;
dự án 378 Nguyễn Thị Minh Khai, phường Hai Bà Trưng, TP Hà Nội với tổng
mức vốn đầu tư 79,4 triệu USD; Dự án khu phức hợp nhà ở Navoi Development
Project với diện tích 695.000 m2 gồm 428 căn hộ tại thành phố Taskent,
Uzberkistan.
Ngoài liên doanh Thu Duc House - Tập đoàn Daewon, còn có nhiều liên
doanh khác: giữa Công ty cổ phần bất động sản và xây dựng SSG và Công ty
Vietnam Land (Hồng Kông) liên doanh để đầu tư xây dựng khu cao ốc căn hộ
Saigon Pearl trên khu đất 10,3 ha với vốn đầu tư 156 triệu USD; hai thành viên
của Công ty Keppel Land gồm Dattson Pte Ltd, Sophia Internation Pte Ltd tham
gia vào hai liên doanh riêng biệt cùng Tổng Công ty An Phú để đầu tư xây dựng
dự án khu biệt thự, dự án căn hộ cao cấp tại quận 9, TPHCM…
Phương thức liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để thực
hiện dự án không những đem lại hiệu quả kinh doanh cho đôi bên mà kèm theo
đó là doanh nghiệp BĐS trong nước có thể học hỏi kinh nghiệm phát triển, kinh
doanh dự án từ các đối tác nước ngoài. Đây là điểm yếu của hầu hết các doanh
nghiệp trong nước, vốn xuất thân ngành xây dựng, chưa có nhiều kinh nghiệm
trong quảng bá, quản lý dự án BĐS.
2.2.1.4 Phát hành trái phiếu
Phát hành trái phiếu huy động vốn là phương án huy động vốn hiệu quả
của các doanh nghiệp kinh doanh nói chung và doanh nghiệp kinh doanh BĐS
nói riêng. Đây là cách huy động được vốn dài hạn từ nhiều đối tượng khác nhau
có tiềm lực tài chính mạnh: công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo
hiểm và từ chính các khách hàng, các nhà đầu tư bất động sản. Mặt khác, nếu so
sánh với phương án vay vốn từ ngân hàng thì phát hành trái phiếu giúp doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí đầu vào vì lãi suất thấp hơn, ngoài ra doanh nghiệp còn
có thể chọn phương án trả lãi theo định kỳ hàng tháng, hàng quý hay hàng năm,
điều này giúp doanh nghiệp chủ động trong việc hoạch định chính sách tài chính
phù hợp với mình.
Thực tế trong thời gian qua tại Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp phát
hành trái phiếu để huy động vốn, riêng lĩnh vực bất động sản có các công ty sau:
Công ty cổ phần Vincom, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, Công ty cổ phần
địa ốc Sài Gòn Thương Tín, Công ty Nova…Cụ thể của các đợt phát hành trái
phiếu của doanh nghiệp này như sau:
• Tháng 10 năm 2007, Công ty cổ phần Vincom đã chính thức phát hành
thành công 1.000 tỷ đồng trái phiếu, mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu, lãi suất
10,3%/năm, đối tượng phát hành là các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đơn
vị tư vấn và bảo lãnh phát hành cho đợt phát hành trái phiếu Vincom lần này là
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) và Tập đoàn Ngân hàng trách
nhiệm hữu hạn Australia và New Zealand (ANZ). Trái phiếu Vincom được phát
hành riêng lẻ theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp ngày 19/5/2006 dưới hình thức trái phiếu ghi sổ, kỳ hạn 5 năm, phát hành
từ ngày 22/10/2007, lãi suất 10,3%/năm và thanh toán một lần vào ngày 22/10
hàng năm.
• Tháng 2 năm 2008, Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn Thương Tín
(Sacomreal) phát hành trái phiếu kèm theo quyền mua sản phẩm căn hộ chung
cư với tổng số vốn huy động là 100 tỷ đồng. Mỗi trái phiếu có mệnh giá 500
triệu đồng, lãi suất 4,4% trong vòng 6 tháng. Khách hàng mua một trái phiếu
được quyền ưu tiên mua một căn hộ tại dự án chung cư cao cấp Phú Lợi, quận 8,
Tp. Hồ Chí Minh và được giảm 5% trên giá bán tại thời điểm công bố.
• Tháng 12 năm 2008, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai cũng phát
hành 350 tỷ đồng trái phiếu, mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu. Mục đích phát hành
nhằm bổ sung vốn kinh doanh và tài trợ dự án bất động sản. Đơn vị tư vấn và
bảo lãnh phát hành cho đợt phát hành trái phiếu lần này là Ngân Hàng Đầu Tư và
Phát Triển Việt Nam (BIDV) và Công ty TNHH Chứng Khoán Ngân Hàng Đầu
Tư và Phát Triển Việt Nam. Trái phiếu được phát hành riêng lẻ theo Nghị định
52/2006/NĐ-CP về phát hành Trái phiếu doanh nghiệp ngày 19/5/2006.
• Tháng 12 năm 2009, Công ty cổ phần đầu tư địa ốc Nova, thành viên
Novaland Group, đã phát hành 1.922 tỉ đồng trái phiếu doanh nghiệp loại kỳ hạn
5 năm và lãi suất 12%/năm. Toàn bộ số vốn từ đợt phát hành trái phiếu này được
Novaland dùng để đầu tư triển khai dự án Khu cao ốc thương mại - Căn hộ
Sunrise City tại quận 7, Tp.HCM.
Tuy đây là phương pháp huy động vốn có nhiều lợi thế nhưng thực tế tại
Việt Nam trong thời gian vừa qua chỉ có một vài doanh nghiệp trong lĩnh vực
BĐS áp dụng như: Công ty cổ phần Vincom, Công ty Công ty cổ phần Hoàng
Anh Gia Lai, Công ty Novaland, Sacomreal. Đây là những doanh nghiệp có quy
mô vừa và lớn, sức khỏe tài chính ổn định, thông tin minh bạch và việc phát
hành trái phiếu của họ có tài sản đảm bảo nên việc phát hành tương đối thành
công. Nguyên nhân nào khiến doanh nghiệp BĐS Việt Nam vẫn chưa ứng dụng
nhiều việc phát hành trái phiếu để huy động vốn? Điều này sẽ đuợc phân tích cụ
thể trong phần 2.2.2.4.
2.2.2 Ưu điểm và hạn chế của các nguồn vốn cho thị trường bất động
sản thương mại Việt Nam trong thời gian qua
Các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam trong thời gian qua đã sử dụng
các nguồn vốn khác nhau đề thực hiện dự án, bao gồm: vốn tự có, vốn vay, vốn
do phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tiền ứng trước của khách hàng, liên doanh
liên kết với đối tác nước ngoài...Tuy nhiên, mỗi nguồn này đều tồn tại những
thuận lợi và hạn chế khiến cho doanh nghiệp BĐS không phải lúc nào cũng tận
dụng được. Dưới đây là phân tích những thành tựu và hạn chế của các nguồn
này, từ đó nhấn mạnh ý kiến cho việc Việt Nam nên ứng dụng kỹ thuật chứng
khoán hóa thế chấp BĐS thương mại nhằm tạo thêm nguồn vốn cho thị trường
BĐS.
2.2.2.1 Vay ngân hàng
Việc thực hiện dự án bất động sản thường đòi hỏi vốn lớn, từ hàng trăm
đến hàng ngàn tỷ đồng. Ngoài số vốn tự có tối thiểu bắt buộc, ít nhất 15% đến
20% vốn đầu tư dự án thì số còn lại 80% này doanh nghiệp vẫn phải huy động
thông qua việc vay ngân hàng, ứng trước của khách hàng hay phát hành trái
phiếu…Tuy nhiên, có những doanh nghiệp không đủ điều kiện phát hành trái
phiếu hoặc không chủ động phát hành trái phiếu hay liên doanh liên kết thì
nguồn vốn vay từ ngân hàng vẫn là chủ yếu. Tỷ lệ vay này có khi từ 60% đến
70% tổng số vốn đầu tư.
Việc sử dụng vốn vay từ ngân hàng để tài trợ cho dự án đã đem lại hiệu
quả kinh doanh nhất định cho doanh nghiệp. Ưu điểm của phương pháp này là
ngân hàng giải ngân số tiền cho vay theo tiến độ của dự án, giúp doanh nghiệp
kiểm soát dòng tiền hiệu quả và thủ tục vay vốn nhanh. Ngoài ra, ngân hàng
cũng là nhà tư vấn, nhà cung cấp dịch vụ thanh toán, nhà đầu tư góp vốn cùng
với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản ... Điều này đã tạo nên một sự gắn kết
giữa cung và cầu bất động sản trên thị trường, góp phần tạo nên sự phát triển cho
thị trường BĐS nói chung và cho doanh nghiệp BĐS nói riêng. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi đem lại từ nguồn vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp gặp
không ít khó khăn để vay vốn nếu gặp tình trạng ngân hàng thắt chặt cho vay hay
lãi suất cho vay của ngân hàng cao.
Thông thường, những khoản vay tài trợ bất động sản thường có thời gian
trung và dài hạn, trong khi đó nguồn vốn của ngân hàng huy động được phần lớn
là nguồn vốn ngắn hạn. Do đó, việc đáp ứng vốn cho những dự án, công trình bất
động sản như thế ngân hàng khó đảm đương hiệu quả. Hơn nữa, ngân hàng được
yêu cầu tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn là 30% thay vì trước đây là 40%. Điều này càng khiến cho việc cho vay
trung và dài hạn càng khó khăn và tất yếu ảnh hưởng đến thị trường cho vay đầu
tư bất động sản.
Dưới dây là biểu đồ thể hiện tình hình huy động vốn và tình hình cho vay
của ngân hàng, biểu đồ này cho thấy tình hình cho vay luôn biến động cùng
chiều với huy động vốn. Khi huy động vốn của ngân hàng tăng thì cho vay tăng,
nhất là trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh và ngược lại trong giai đoạn kinh
tế khủng hoảng 2008 thì tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống ngân
hàng chỉ là 18,2%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn năm
2007 là 47,6%. Điều này kéo theo tỷ lệ cho vay bị ảnh hưởng mạnh, tỷ lệ tăng
trưởng cho vay trong năm 2008 so với năm 2007 là 21%; năm 2007 so với 2006
là 53,9%.
Hình 2.8: Tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn toàn ngân hàng
Nguồn: ngân hàng nhà nước Việt Nam
Hình 2.9: Tỷ lệ tăng trưởng cho vay toàn hệ thống ngân hàng
Nguồn: ngân hàng nhà nước Việt Nam
Việc tỷ lệ huy động vốn giảm không những ảnh hưởng đến tỷ lệ cho vay
đến các ngành sản xuất kinh doanh nói chung mà ảnh hưởng mạnh đến ngành
kinh doanh bất động sản, vì các ngân hàng tập trung ưu tiên cho vay sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng trước.
Ngoài vấn đề giới hạn về nguồn vốn huy động để cho vay của ngân hàng
thì cơ chế điều hành của ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng là vấn đề khác có
ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong thời gian năm 2008,
để kiềm chế lạm phát, ngân hàng nhà nước đã thực hiện tăng dự trữ bắt buộc từ
10% lên 11% (kể từ ngày 01/02/2008), tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm và yêu
cầu các ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc 20,3 ngàn tỷ đồng với lãi suất
7,8%/năm…đồng thời thực hiện kiềm chế tăng trưởng tín dụng dưới mức 30%.
Những động thái này, đã làm cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng bị thu
hẹp, nguồn vốn ngân hàng đầu tư cho tín dụng bị hạn chế, trong đó tín dụng bất
động sản chịu tác động nhiều nhất vì thường loại hình tín dụng này đòi hỏi
nguồn vốn lớn và lại là nguồn vốn trung dài hạn, nên ngân hàng khó đáp ứng
được cho khách hàng.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng mặc dù nguồn vốn vay ngân hàng chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư dự án BĐS của hầu hết doanh nghiệp
BĐS, tuy nhiên nguồn vốn này không phải lúc nào doanh nghiệp cũng tận dụng
được.
2.2.2.2 Huy động vốn từ khách hàng mua nhà
Tiền ứng trước của khách hàng mua nhà được xem là kênh huy động vốn
hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh BĐS. Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp
BĐS không phải trả lãi và có thể huy động vốn theo từng giai đoạn xây dựng của
dự án nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và khách hàng có thể mua sản phẩm
BĐS với nhiều ưu đãi. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những khó khăn để
doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn này một cách thuận lợi. Khi kinh tế suy
giảm thì khả năng mua nhà của người dân cũng giảm theo, lúc này nguồn tiền
ứng trước của khách hàng sẽ không còn nhiều. Mặt khác, việc ứng trước tiền của
khách hàng chỉ có thể thực hiện với khách hàng mua căn hộ, còn đối với những
dự án khách sạn, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại… thì doanh nghiệp
BĐS không áp dụng được phương pháp trên.
2.2.2.3 Liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài
Trong thời kỳ lạm phát, Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp và
các ngân hàng siết chặt cho vay bất động sản thì việc liên doanh, liên kết với các
doanh nghiệp nước ngoài cũng được coi là phương thức hữu hiệu để thực hiện
dự án. Các bên trong liên doanh đều tận dụng điểm mạnh của mình để tiến hành
liên doanh thực hiện đầu tư dự án. Khi đó, dự án sẽ dễ dàng và nhanh chóng
được tiếp tục triển khai thực hiện, có lợi cho đôi bên. Bên cạnh những lợi ích
đem lại thì đòi hỏi doanh nghiệp trong nước trong liên doanh, liên kết phải đáp
ứng những điều kiện nhất định. Thực tế cho thấy rằng khi xúc tiến việc liên
doanh với doanh nghiệp trong nước, các đối tác nước ngoài thường có những
phân tích, đánh giá rất kỹ về năng lực của đối tác, quy mô và vị trí dự án, tiềm
năng và tính thu hút của sản phẩm nhà đất. Do đó, các doanh nghiệp BĐS Việt
Nam trong liên doanh bản thân cũng là những doanh nghiệp mạnh. Vậy thì
những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ càng khó khăn trong việc tìm một hướng đi
cho mình.
2.2.2.4 Phát hành trái phiếu
Việc doanh nghiệp BĐS phát hành trái phiếu để huy động vốn chỉ mới
được ứng dụng trong những năm gần đây. Như đã phân tích cụ thể ở trên thì đây
là phương pháp huy động vốn mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, tuy
nhiên số lượng doanh nghiệp BĐS thực hiện còn ít. Lý giải cho tình trạng này,
có thể tóm tắt như sau:
• Việc phát hành triếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có trình độ tài chính
cao, hoạt động kinh doanh các năm trước phải có lãi, uy tín tốt, sản phẩm sản
phẩm nhà đất phải thực sự hấp dẫn… Đây là những điều kiện mà không phải
doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ.
• Độ tin cậy của nhà đầu tư với phần lớn các DN chưa cao. Sau khi ban
hành Nghị định 52/CP về việc phát hành TPDN với yêu cầu bắt buộc minh bạch
thông tin, nhiều DN vừa muốn phát hành trái phiếu nhưng lại e ngại chuyện
minh bạch và tình trạng vay vốn tín dụng đang rất phổ biến ở Việt Nam trong
khi phát hành trái phiếu DN thường e ngại thủ tục phát hành, công bố thông tin
ra công chúng.
• Nhận thức của doanh nghiệp về trái phiếu còn hạn chế. Trong giai đoạn
2006-2007 TTCK phát triển mạnh tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhận thấy
việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn khá dễ dàng, mặt khác còn nhận thêm
một khoản thặng dư, do đó doanh nghiệp không quan tâm nhiều đến phát hành
trái phiếu. Tuy nhiên khi TTCK giảm, khó khăn trong việc phát hành thêm cổ
phiếu thì doanh nghiệp mới quan tâm đến phát hành trái phiếu.
Như vậy, để có thể tận dụng hiệu quả từ trái phiếu, doanh nghiệp phải hội
tủ những điều kiện về năng lực quản trị, năng lực tài chính và hoạt động kinh
doanh các năm trước phải có lãi, uy tín tốt, sản phẩm sản phẩm nhà đất phải thực
sự hấp dẫn…Đây là những điều kiện mà không phải doanh nghiệp nào cũng đáp
ứng được, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Hiện tại, các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam vẫn dựa vào nguồn vốn
chủ yếu từ ngân hàng. Thông thường, để đầu tư dự án bất động sản đòi hỏi thời
gian thực hiện một dự án phải mất từ 5-6 năm. Vì vậy, các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ rất chật vật vì vốn. Nếu doanh nghiệp có dự án lớn nhưng nguồn vốn
không ổn định sẽ có nguy cơ bỏ công trình dở dang. Trong tình hình thị trường
chứng khoán chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc huy động vốn thông qua phát
hành cổ phiếu càng khó khăn hơn. Vì vậy, nguồn vốn vay ngân hàng vẫn là
nguồn chủ yếu để doanh nghiệp bất động sản tìm đến. Tuy nhiên, như phân tích
ở trên thì nguồn vốn vay của ngân hàng còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình
huy động của ngân hàng và chính sách tín dụng của ngân hàng nhà nước. Với
tình trạng thắt chặt tín dụng, kiềm chế lạm phát hiện nay thì doanh nghiệp càng
khó tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng. Khó khăn trong việc tiếp cận vốn
khiến doanh nghiệp bất động gặp những tình trạng sau: khó hoàn tất các dự án
bất động sản dài hạn và khó thâm nhập vào phân khúc thị trường của các hàng
hóa cao cấp…
Tóm lại, qua những phân tích trên có thể nhận thấy rằng các doanh nghiệp
BĐS Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn vốn để thực hiện
dự án bất động sản. Đã đến lúc chúng ta cần nghiên cứu và có những biện pháp
ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại để tìm vốn cho
thị trường BĐS thương mại Việt Nam. Nếu việc ứng dụng kỹ thuật này thành
công không những mang lại nguồn vốn cho doanh nghiệp bất động sản thương
mại mà còn đem lại lợi ích khác, bao gồm việc tạo ra sản phẩm tài chính mới cho
nhà đẩu tư và tăng tính minh bạch cho thị trường bất động sản.
2.3 Các điều kiện cần có để ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế
chấp bất động sản thương mại
Để ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thì cần có điều kiện về thị trường
cũng như hệ thống văn bản pháp lý hướng dẫn, cụ thể như sau:
2.3.1 Thị trường thế chấp thứ cấp
Một trong những điều kiện để có thể ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp
BĐS thương mại là cần có sự tồn tại của thị trường thế chấp thứ cấp, đây là nơi
diễn ra mua bán những khoản thế chấp sơ cấp để tạo tính thanh khoản cho các
khoản tín dụng thế chấp BĐS thương mại. Kỹ thuật chứng khoán hóa chỉ có thể
được thực hiện khi cho phép việc mua bán trao đổi khoản cho vay thế chấp. Như
vậy, nếu không tồn tại một thị trường thế chấp thứ cấp, tức các tổ chức không
mua bán trao đổi khoản vay thế chấp BĐS được với nhau thì tổ chức có mục
đích đặc biệt sẽ không có căn cứ tài sản đảm bảo cho việc phát hành chứng
khoán.
2.3.2 Pháp lý về chứng khoán hóa
Chứng khoán hóa nói chung và chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương
mại chỉ hoạt động hiệu quả và phát huy vai trò của nó khi có văn bản pháp lý
hướng dẫn. Nội dung văn bản pháp lý hướng dẫn hoạt động chứng khoán hóa thế
chấp BĐS thương mại cần có quy định cụ thể hướng dẫn về mua bán, chuyển
nhượng danh mục cho vay thế chấp BĐS thương mại. Chỉ khi nào các tổ chức tài
chính tín dụng có thể chuyển nhượng các khoản cho vay thế chấp thì mới áp
dụng chứng khoán hóa để giải quyết nhu cầu về vốn cho BĐS. Ngoài ra, văn bản
pháp lý hướng dẫn cầu nêu quy trình chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại
cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên tham gia.
2.3.3 Sự tham gia của các tổ chức trong quá trình chứng khoán hóa
Khác với phương pháp huy động vốn truyền thống qua ngân hàng chỉ có
hai đối tượng chính là ngân hàng cho vay và bên vay thì hoạt động huy động vốn
thông qua chứng khoán hóa cần có sự tham gia của bốn nhóm đối tượng chính:
bên vay, bên cho vay (chủ thể tạo lập tài sản), tổ chức có mục đích đặc biệt, nhà
đầu tư. Bên cạnh bốn đối tượng chính này còn có sự tham gia của các tổ chức hỗ
trợ như: công ty ĐMTN, công ty cung cấp dịch vụ quản lý, công ty hỗ trợ thanh
khoản, công ty kiểm toán, công ty tư vấn pháp lý…
• Bên vay: chủ sở hữu BĐS thương mại, thực hiện vay từ các tổ chức
ngân hàng, công ty tài chính….Khoản vay này được đảm bảo bằng thế chấp
BĐS thương mại và nguồn thu nhập từ BĐS thương mại được dùng thanh toán
nợ gốc và lãi vay.
• Bên cho vay/Chủ thể tạo lập tài sản: có thể thực hiện cho vay hoặc
mua danh mục cho vay về rồi bán chúng cho tổ chức có mục đích đặc biệt
(SPV). Chủ tài sản ban đầu thường tiếp tục làm dịch vụ quản lý tài sản cho SPV
để hưởng phí quản lý.
Chủ thể tạo lập tài sản có thể là: các ngân hàng thương mại, ngân hàng
đầu tư , các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính và các doanh nghiệp phi tài
chính. Tuy nhiên do tính chất rủi ro và số vốn vay lớn nên chủ thể tạo lập tài sản
thường là ngân hàng.
• Tổ chức có mục đích đặc biệt (SPV): được thành lập bởi chủ thể tạo
lập tài sản, duới dạng công ty theo luật doanh nghiệp. SPV mua khoản vay có thế
chấp từ chủ thể tạo lập tài sản và phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương
mại trên cơ sở tài sản này. Việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương
mại này giúp cho SPV có tiền trả cho chủ thể tạo lập tài sản.
SPV được thành lập chỉ mang tính tượng trưng, thường là không có vốn,
không có nhân viên. Mọi hoạt động của SPV được thực hiện thông qua công ty
cung cấp dịch vụ quản lý tài sản bên ngoài.
• Nhà đầu tư: là cá nhân, tổ chức như ngân hàng, công ty bảo hiểm…
quan tâm và đầu tư chứng khoán thế chấp BĐS thương mại do SPV phát hành.
• Các thành phần dịch vụ khác
- Công ty ĐMTN: là tổ chức độc lập và chuyên nghiệp thực hiện đánh giá
khả năng tín dụng hay khả năng hoàn trả của công cụ nợ. Căn cứ vào đánh giá
của công ty này, nhà đầu tư ra quyết định đầu tư của mình đối với chứng khoán
nợ. Do đó, ĐMTN có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của công cụ nợ.
Trong chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại, công ty này có nhiệm
vụ thực hiện việc cung cấp thông tin về mức độ tín nhiệm, an toàn của chứng
khoán phát hành dựa trên tài sản đảm bảo là BĐS thương mại. Công ty ĐMTN
sẽ đánh giá mức độ bảo vệ đối với nhà đầu tư thông qua khía cạnh pháp lý cũng
như cấu trúc giao dịch của chứng khoán phát hành.
- Công ty hỗ trợ thanh khoản: cam kết ứng tiền cho SPV để thanh toán
cho nhà đầu tư trong trường hợp chưa thu kịp từ bên vay.
- Công ty cung cấp dịch vụ cho SPV: được thuê bởi SPV với nhiệm vụ
quản lý danh mục tài sản; thu nợ gốc và lãi; gửi thư đôn đốc thu nợ đúng hạn và
thực hiện thủ tục xiết nợ khi cần thiết; thanh toán gốc và lãi cho nhà đầu tư
chứng khoán nợ theo đúng thứ tự ưu tiên.
Chủ thể tạo lập tài sản có thể thực hiện dịch vụ quản lý tài sản cho SPV và
hưởng phí quản lý từ SPV.
- Tổ chức bảo lãnh phát hành: thường là ngân hàng, công ty chứng
khoán cam kết mua lại chứng khoán thế chấp BĐS thương mại theo giá định
trước nếu nhà đầu tư không mua hết.
- Ngoài ra trong quá trình chứng khoán hóa còn có: công ty kiểm toán,
công ty tư vấn pháp lý…
2.4 Thuận lợi và khó khăn để doanh nghiệp có thể huy động vốn
thông qua ứng dụng chứng khoán hóa
2.4.1 Thuận lợi
• Điều kiện về thị trường: TTCK Việt Nam hiện nay đang rất tiềm năng,
tính đến 15.09.2010 toàn thị trường chỉ có 1.255 chứng khoán niêm yết, chủng
loại sản phẩm chưa đa dạng, do đó đây là cơ hội xuất hiện sản phẩm mới làm đa
dạng phong phú sản phẩm của thị trường tài chính.
• Nhà đầu tư chứng khoán thế chấp BĐS thương mại: tại các nước có thị
trường chứng khóan thế chấp BĐS thương mại phát triển thì đối tượng đầu tư
chính của sản phẩm này là ngân hàng, công ty bảo hiểm, các nhà tư vấn đầu tư…
Hiện nay tốc độ phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
tương đối nhanh, điều này dẫn tới việc các công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt
Nam tìm kiếm các kênh đầu tư mới để đầu tư tiền thu về từ phí bảo hiểm. Đây là
nhà đầu tư tiềm năng của chứng khoán thế chấp BĐS thương mại.
• Dịch vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán hóa thế chấp BĐS
thương mại: Việt Nam đã sự có mặt của các ngân hàng có vốn nước ngoài, đây
là những ngân hàng có nhi(cid:23)u kinh nghi(cid:17)m trong l(cid:24)nh v(cid:12)c tài chính, ch(cid:25)c ch(cid:25)n s(cid:26)
là thu(cid:9)n l(cid:5)i (cid:3)áng k(cid:8) (cid:3)(cid:8) các doanh nghi(cid:17)p Vi(cid:17)t Nam có th(cid:8) ti(cid:21)p c(cid:9)n v(cid:20)i các d(cid:27)ch
vụ tài chính hay tư vấn cần thiết trong chứng khoán hóa.
• Tham khảo kinh nghiệm ở các nước khác: chứng khoán hóa thế chấp
BĐS thương mại đã được áp dụng tại Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông…. Căn cứ vào
kinh nghiệm của các nước này trong việc xây dựng và quản lý TTCK, Việt Nam
có thể nghiên cứu để áp dụng vào hệ thống pháp luật và kế toán Việt Nam.
2.4.2 Khó khăn
• Chưa có hệ thống pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa: Việt Nam
chưa có văn bản pháp lý nào về chứng khoán hóa nói chung và chứng khoán hóa
thế chấp B(cid:18)S thương mại nói riêng.
• Chưa hình thành SPV: trong kỹ thuật chứng khoán hóa nói chung và
chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại nói riêng thì SPV có vai trò quan
trọng, t(cid:13) chức này có nhiệm vụ mua tài sản tài chính và căn cứ vào tài sản này để
phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có một văn bản
nào hướng dẫn hình thành và loại hình của tố chức này.
• Chưa có công ty ĐMTN trong nước: m(cid:28)t trong nh(cid:29)ng lý do khi(cid:21)n cho
th(cid:27) tr(cid:4)(cid:30)ng trái phi(cid:21)u t(cid:1)i Vi(cid:17)t Nam ch(cid:4)a phát tri(cid:8)n do nhà (cid:3)(cid:11)u t(cid:4) v(cid:31)n ch(cid:4)a an tâm
v(cid:20)i trái phi(cid:21)u b i h(cid:19) ch(cid:4)a có nhi(cid:23)u c(cid:14)n c(cid:6), hay (cid:3)ánh giá c(cid:7)a các c! quan v(cid:23) ch"t
l(cid:4)(cid:5)ng c(cid:7)a ch(cid:6)ng khoán n(cid:5) phát hành.
• Trình độ tài chính, khả năng quản trị doanh nghiệp chưa cao: chứng
khoán hóa là kỹ thuật đòi hỏi tổ chức thực hiện phải có trình độ tài chính cao,
tuy nhiên hiện nay việc quản trị doanh nghiệp và trình độ tài chính của doanh
nghiệp Việt Nam nói chung vẫn còn hạn chế. Đây là một trong yếu tố cản trở
thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa tại Việt Nam.
Kết luận chương 2:
Các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh BĐS thương mại Việt Nam có quá ít
kênh huy động vốn cho việc đầu tư các dự án BĐS thương mại, trong khi đó
tiềm lực phát triển và nhu cầu vốn cho thị trường này còn cao, đây là yếu tố thúc
đẩy việc ra đời của kỹ thuật mới: chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại.
Mặt khác việc ra đời của kỹ thuật này cũng nằm trong đề án phát triển thị trường
vốn Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ nhằm “Phát triển thị
trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng
trong nền kinh tế”. Ngoài việc tạo kênh huy động vốn cho thị trường BĐS
thương mại, chứng khoán hóa ra đời còn giúp giảm áp lực vốn từ phía hệ thống
ngân hàng, tạo thêm hàng hóa cho thị trường tài chính Việt Nam.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CHỨNG KHOÁN HÓA
THẾ CHẤP BẤT ĐỘNG SẢN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
3.1 Tính cần thiết chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương
mại tại Việt Nam
3.1.1 Kênh huy động vốn cho bất động sản thương mại
Từ thực tế ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại của các
nước trên thế giới cho thấy, đây là kênh huy vốn hiệu quả cho thị trường BĐS
thương mại. Với cách bán danh mục khoản vay thế chấp BĐS thương mại mà
mình sở hữu cho tổ chức có mục đích đặc biệt để tổ chức này phát hành chứng
khoán thì ngân hàng sẽ có thêm nguồn vốn mới để thể mở rộng cho vay, do đó sẽ
đẩy nhanh quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, khai thác và sử dụng vốn hiệu
quả của ngân hàng. Lúc này nguồn vốn đầu tư vào thị trường BĐS thương mại sẽ
nhiều hơn.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp BĐS có dự án được đánh giá là có hiệu quả
cao nhưng bản thân doanh nghiệp lại gặp khó khăn không vay được ngân hàng
hay khó khăn nếu phát hành cổ phiếu huy động vốn thì họ có thể thông qua kỹ
thuật chứng khoán hóa để thu hút vốn: doanh nghiệp BĐS sẽ ký hợp đồng vay
vốn với chính công ty tài chính do họ lập nên, hợp đồng vay này được đảm bảo
bằng BĐS thương mại và thu nhập từ chính dự án đầu tư mang lại. Sau khi sở
hữu khoản cho vay thế chấp, công ty tài chính sẽ bán chúng cho tổ chức có mục
đích đặc biệt và tổ chức này phát hành hành chứng khoán cho nhà đầu tư trên cơ
sở đảm bảo là khoản thế chấp BĐS mà họ mới mua về. Nguồn tiền thu được từ
nhà đầu tư mua chứng khoán của tổ chức đặc biệt sẽ dùng thanh toán cho công ty
tài chính. Trên cơ sở nguồn tiền này, công ty tài chính sẽ giải ngân cho doanh
nghiệp BĐS theo đúng hợp đồng vay vốn mà hai bên đã ký kết. Như vậy theo
cách làm trên thì chủ đầu tư phát triển BĐS thương mại không nhất thiết phải
huy động vốn bằng vay ngân hàng, họ còn có thể huy động bằng cách thông qua
việc phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại.
Tóm lại, chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại là kênh huy động
vốn hiệu quả cho thị trường BĐS thương mại, không chỉ các tổ chức tài chính
lớn mà các tổ chức khác có đủ năng lực và trình độ tài chính có thể ứng dụng
chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại để huy động vốn.
3.1.2 Giảm chi phí tài trợ vốn của doanh nghiệp
Việc phát hành trái phiếu hình thành từ kỹ thuật chứng khoán hóa, doanh
nghiệp vay trực tiếp từ nhà đầu tư, bỏ qua vai trò trung gian của ngân hàng
thương mại, do vậy giảm bớt được chi phí trung gian. Điều này sẽ giúp doanh
nghiệp BĐS tăng hiệu quả kinh doanh.
3.1.3 Đem lại một sự đánh giá tín dụng hiệu quả
Nếu thị trường trái phiếu chưa phát triển thì các doanh nghiệp phụ thuộc
quá nhiều vào vốn vay ngân hàng, điều này tạo áp lực tăng lãi suất và đẩy chi phí
đầu vào của doanh nghiệp lên cao, hiệu quả kinh doanh giảm xuống. Việc ứng
dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại góp phần thúc đẩy sự
phát triển thị trường trái phiếu nói chung. Với một thị trường trái phiếu phát
triển, lãi suất trái phiếu là thước đo sự đánh giá mức độ tín nhiệm của thị trường
đối với trái phiếu đó. Do đó các doanh nghiệp sẽ xác định đúng được chi phí vốn
khi đưa ra các quyết định đầu tư.
3.1.4 Tạo thêm hàng hóa cho thị trường tài chính phát triển
Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam so với các nước trong khu
vực còn thấp, số lượng hàng hóa chứng khoán chưa đa dạng và thị trường vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm như tăng trưởng thiếu ổn định; sự
hạn chế về công nghệ thông tin; tính chuyên nghiệp của các công ty chứng
khoán còn hạn chế....Do đó, việc thực hiện chứng khoán hoá thế chấp BĐS sẽ
góp phần tạo thêm hàng hóa cho thị trường tài chính vốn chưa nhiều hàng hóa và
tạo ra nhiều sự lựa chọn cho các nhà đầu tư.
3.1.5 Sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong xã hội
Thị trường BĐS là một trong những thị trường có sức hấp dẫn đặc biệt đối
với các nhà đầu tư, cả trong và ngoài nước, nhất là thị trường BĐS ở một nước
đang phát triển với tốc độ tương đối cao như Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, để
đầu tư vào thị trường này nhà đầu tư cần có nguồn vốn lớn có giá trị lớn từ vài
trăm triệu, vài tỷ đồng đến vài tỷ đô la Mỹ và thời gian đầu tư dài. Chính vì lý do
này mà nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ ít có cơ hội kiếm lợi nhuận từ thị trường BĐS.
Do đó, chứng khoán thế chấp BĐS thương mại ra đời sẽ thu hút, khai thác mọi
nguồn vốn nhỏ lẽ, nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh phát
triển.
3.1.6 Góp phần tăng tính minh bạch thông tin cho nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản
Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố quan trọng giúp TTCK
và thị trường BĐS phát triển. Nhà đầu tư có quyền biết rõ tình trạng doanh
nghiệp mà mình đầu tư. Doanh nghiệp niêm yết phải có trách nhiệm công bố
thông tin một cách rõ ràng minh bạch theo đúng pháp luật để cho các nhà đầu tư
có những quyết định đúng đắn.
Chứng khoán hóa các thế chấp BĐS thương mại được thực hiện dựa trên
thông tin đầy đủ và tính minh bạch cao. Để có thể phát hành chứng khoán dựa
vào khoản cho vay thế chấp BĐS thương mại thì cần có sự tham gia của các tổ
chức trung gian: công ty ĐMTN, công ty kiểm toán, công ty bảo lãnh…..Sự
tham gia của các tổ chức này nhằm cung cấp thông tin về chứng khoán nợ được
phát hành cho nhà đầu tư, góp phần tăng tính minh bạch cho thị trường BĐS,
TTCK.
3.2 Định hướng hình thành kỹ thuật chứng khoán hóa tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cho tới nay kỹ thuật chứng khoán hóa chưa được phổ
biến, nhưng đây là một trong những kỹ thuật tài chính đang được sử dụng rộng
rãi tại nhiều thị trường trái phiếu khu vực và quốc tế do đem lại rất nhiều lợi ích
riêng cho doanh nghiệp. Theo quyết định số 128/2007/QĐ-TTg, ngày 2/8/2007
về việc phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ có đề cập đến việc sử dụng các sản
phẩm từ chứng khoán hóa, trong đó nêu rõ việc “mở rộng quy mô và đa dạng
hoá các loại trái phiếu”, đồng thời “phát triển các loại chứng khoán phái sinh
như: quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp
đồng kỳ hạn; các sản phẩm liên kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín
dụng, tiết kiệm - chứng khoán...); các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và
các khoản nợ....”
Như vậy sản phẩm từ chứng khoán hóa là một trong những loại chứng
khoán phái sinh được nghiên cứu ứng dụng tại thị trường vốn Việt Nam trong
tương lai, góp phần giải quyết những khó khăn trong hoạt động huy động vốn
dài hạn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và đưa lại sự phát triển ổn
định, bền vững cho toàn bộ nền kinh tế.
Đặc biệt đối với thị trường BĐS, có quan hệ trực tiếp với thị trường xây
dựng và qua đó mà bắc cầu tới các thị trường vật liệu xây dựng và đồ nội thất,
thị trường lao động .... Do đó, dao động của thị trường này có ảnh hưởng lan tỏa
tới sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của thị trường
này có vai trò quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Tuy nhiên,
để phát triển thị trường này cần có nguồn vốn lớn, nhưng trong thời gian qua tại
Việt Nam các doanh nghiệp BĐS vẫn còn phụ thuộc nhiều vào vốn vay ngân
hàng. Tuy nhiên, việc sử dụng các nguồn lực nói trên không phải lúc nào cũng
thuận lợi và thực hiện được, điển hình là trong giai đoạn Ngân hàng nhà nước
thắt chặt tín dụng thì các doanh nghiệp bất động sản đành trì hoãn việc triển khai
dự án vì không vay được.
Trước thực tế có rất nhiều doanh nghiệp muốn tham gia đầu tư vào lĩnh
vực bất động sản nhưng gặp khó khăn trong việc huy động vốn theo các phương
pháp truyền thống, thiết nghĩ đã đến lúc Việt Nam nên học hỏi các nước trên thế
giới trong việc sử dụng các kỹ thuật tài chính tiên tiến để huy động vốn. Do đó
sự ra đời của một trong những sản phẩm hình thành từ chứng khoán hóa là
chứng khoán thế chấp BĐS thương mại sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn của
thị trường này, hơn nữa còn góp phần đa dạng hóa sản phẩm tài chính cho nhà
đầu tư.
Tuy vậy để chứng khoán hóa được ứng dụng tại Việt Nam thì cần có định
hướng phát triển nghiệp vụ này bằng cách tạo ra môi trường pháp lý để nó tồn tại
và phát triển. Do đó, các cơ quan nhà nước có chức năng cần đưa ra văn bản
pháp luật hướng dẫn cho hoạt động chứng khoán hóa. Đây là cơ sở quan trọng để
đưa công cụ này vào vận hành trong thực tế.
Chứng khoán hóa được thực hiện dựa trên nhiều loại tài sản tài chính khác
nhau, như: khoản cho vay thế chấp mua nhà; các khoản cho vay thương mại; các
khoản phải thu thương mại; danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng……. Tuy
nhiên, trong thời gian đầu chúng ta nên chứng khoán hóa dựa trên tài sản tài
chính là thế chấp BĐS thương mại và thực hiện theo quy trình đơn giản trước,
sau đó mới đi vào các loại chứng khoán hóa phức tạp hơn. Sở dĩ như vậy là vì
BĐS thương mại là sản phẩm có nhu cầu cao và thu hút những nhà đầu tư trên
thị trường BĐS… Do đó, ngoài việc có hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn
hoạt động chứng khoán hóa nói chung, cần phải có những điều kiện khác để
riêng chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại được thực hiện, đó là: hình
thành thị trường thế chấp thứ cấp để các khoản cho vay thế chấp BĐS được
chuyển nhượng giữa các tổ chức với nhau; và cho phép hình thành tổ chức có
mục đích đặc biệt để chuyên thực hiện hoạt động chứng khoán hóa.
3.3 Đề xuất một số giải pháp ứng dụng chứng khoán thế chấp bất
động sản thương mại tại Việt Nam
3.3.1 Giải pháp vĩ mô
3.3.1.1 Hình thành thị trường thế chấp thứ cấp
Chứng khoán hóa chỉ có thể được ứng dụng trong thực tế khi thị trường
thế chấp được tồn tại, tức là các tổ chức có thể mua bán, chuyển nhượng các
khoản nợ vay thế chấp với nhau. Thực tế trong thời gian tại Việt Nam cũng tồn
tại việc mua bán, chuyển nhượng nợ nhưng là nợ tồn động của doanh nghiệp chứ
không phải là chuyển nhượng các khoản nợ vay dài hạn đang còn hiệu lực như
các khoản nợ vay có thế chấp BĐS thương mại. Các khoản vay thế chấp hiện
nay chỉ được diễn ra trên thị trường sơ cấp, tức là chỉ có bên vay thế chấp và bên
cho vay. Điều này dẫn đến vốn của bên cho vay thế chấp bị ứ động, khó khăn
trong việc mở rộng cho vay. Trước thực trạng vốn của bên cho vay thế chấp bị ứ
động, khó khăn trong việc mở rộng cho vay, nhiều tổ chức, cá nhân phản ánh và
đề xuất hình thành thị trường thế chấp thứ cấp, đây là nơi các tổ chức có thể mua
bán những khoản cho vay thế thế chấp sơ cấp để tạo tính thanh khoản cho các
khoản tín dụng thế chấp BĐS. Trên cơ sở chuyển nhượng khoản cho vay thế
chấp BĐS với nhau, các tổ chức tài chính tín dụng sẽ có thêm nguồn vốn cho
vay cho thị trường BĐS, còn tổ chức mua khoản cho vay sẽ thanh khoản khoản
vay thế chấp mới mua về bằng cách phát hành trái phiếu.
Như vậy, việc ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương
mại chỉ được thực hiện khi các tổ chức có thể mua bán khoản cho vay thế chấp
BĐS thương mại với nhau. Do đó nhất thiết phải có sự ra đời của thị trường thế
chấp thứ cấp nếu ứng dụng chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, để thị trường thế chấp thứ cấp hoạt động hiệu quả và phát huy
vai trò thì cần phải xây dựng được một hành lang pháp lý tốt để có thể đảm bảo
được quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên tham gia vào thị trường, nhất là
tính thanh khoản khi chuyển nhượng các giá trị đã cho thế chấp cho các tổ chức
khác.
3.3.1.2 Ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn chứng khoán hóa
Để chứng khoán hóa có thể được ứng dụng trong thực tiễn cần phải có
văn bản pháp luật hướng dẫn hoạt động này, nội dung của các văn bản pháp luật
hướng dẫn về chứng khoán hóa nhìn chung cần nêu lên các điểm cụ thể:
(cid:1) Các thành phần chính tham gia vào chứng khoán hóa, bao gồm: bên
vay, bên cho nay, tổ chức có mục đích đặc biệt, nhà đầu tư. Ngoài ra có sự tham
gia của: công ty định mức tín nhiệm, công ty bảo lãnh phát hành, công ty cung
cấp dịch vụ quản lý, công ty kiểm toán…
(cid:1) Các giao dịch chứng khoán hóa khi được thực hiện tại Việt Nam có
thể nằm trong tầm quản lý của ba cơ quan Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và
UNCKNN.
(cid:1) Các loại tài sản tài chính đủ điều kiện để chứng khoán hóa bao gồm
thế chấp BĐS nhà ở, thế chấp BĐS thương mại, khoản phải thu…
(cid:1) Hợp đồng chuyển nhượng tài sản tài chính cần quy định việc chuyển
nhượng các tài sản tài chính giữa chủ thể tạo lập tài sản và tổ chức có mục đích
đặc biệt nên được thực hiện theo kiểu mua đứt, bán đoạn, tức là mọi quyền lợi và
rủi ro của tài sản tài chính hoàn toàn chuyển cho tổ chức có mục đích đặc biệt.
Trong trường hợp bên vay thế chấp phá sản cũng không ảnh hưởng đến quyền sở
hữu tài sản tài chính cũng như khả năng trả nợ của tổ chức có mục đích đặc biệt.
(cid:1) Chủ thể tạo lập tài sản nên được cho phép nắm quyền quản lý hoạt
động điều hành với tổ chức có mục đích đặc biệt sau khi bán tài sản tài chính cho
tổ chức này. Việc duy trì dịch vụ quản lý này không có nghĩa là việc bán tài sản
chưa đáp ứng điều kiện mua đứt bán đoạn. Chủ thể tạo lập tài sản sẽ được trả phí
quản lý cho việc cung cấp dịch vụ.
(cid:1) Có quy định áp dụng biện pháp tăng cường tín dụng cho tổ chức có
mục đích đặc biệt. Biện pháp này giúp cho việc phát hành trái phiếu từ chứng
khoán hóa hấp dẫn nhà đầu tư, mang lại cơ hội phát hành trái phiếu thành công.
(cid:1) Việc cấp phép và quản lý các giao dịch chứng khoán hóa có thể do
UBCKNN thực hiện.
3.3.1.3 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến
việc triển khai chứng khoán hóa
Ngoài việc ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn hoạt động chứng
khoán, các cơ quan có chức năng cần xem xét, hoàn thiện các văn bản pháp luật
khác có liên quan đến việc triển khai chứng khoán hóa. Đây là một trong những
điều kiện giúp chứng khoán hóa được ứng dụng suôn sẻ vào trong thực tịễn.
Luật Phá sản
Một yếu tố quan trọng của kỹ thuật chứng khoán hóa nói chung và chứng
khoán hóa thế chấp bất thương mại nói riêng đó là trong trường hợp bên vay thế
chấp bị phá sản cũng không ảnh hưởng tới quyền sở hữu các tài sản tài chính
cũng như khả năng trả nợ của tổ chức có mục đích đặc biệt. Tuy nhiên những
quy định về phá sản doanh nghiệp hiện hành sẽ ảnh hưởng tới tính khả thi của
giao dịch chứng khoán hóa, đó là: trong trường hợp bên vay thế chấp và cho vay
phá sản, các nhà đầu tư vào chứng khoán nợ do tổ chức có mục đích đặc biệt
(SPV) phát hành có thể gặp một số rủi ro vì SPV có thể do bên vay và bên cho
vay thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, như
vậy thì SPV có thể bị giải thể vì thành viên sáng lập bị phá sản. Do đó, để có thể
ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại thì luật phá sản
doanh nghiệp cần phải được nghiên cứu để hoàn thiện theo hướng khẳng định sự
tồn tại độc lập của SPV trong trường hợp bên vay thế chấp và cho vay phá sản.
Luật về xử lý tài sản thế chấp
Như đã nêu trong phần xem xét, hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp, các
cơ quan chức năng cần hòan thiện điều khoản để tránh rủi ro cho nhà đầu tư khi
mua trái phiều hình thành từ danh mục khoản vay được thế chấp. Tuy nhiên, một
vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm đến nữa là cách xử lý tài sản thế chấp như thế
nào nếu bên vay thế chấp không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi
vay.
Theo BLDS quy định về phương thức xử lý tài sản thế chấp là khi đã đến
hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp tài sản không thực hiện hoặc thực hiện
nghĩa vụ không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố thế chấp được xử lý theo
phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa
vụ. Tuy nhiên, BLDS không cụ thể hóa các phương thức xử lý này, hình thức tổ
chức đấu giá tài sản thế chấp như thế nào, hội đồng đấu giá tài sản gồm những
ai, do ai quyết định. Nếu chưa xác định cụ thể cách giải quyết vấn đề này sẽ dẫn
đến tình trạng bất đồng về định giá giữa các thành viên trong hội đồng đấu giá
tài sản thế chấp dẫn đến việc đấu giá bán không phù hợp với giá cả thực tế của
tài sản đem thế chấp, ảnh hưởng đến quyền lợi đến nhà đầu tư cuối cùng, nhà
đầu tư mua trái phiếu hình thành tứ thế chấp BĐS thương mại. Do đó để phòng
trường hợp bên vay thế chấp không hoàn thành nghĩa vụ của mình và đảm bảo
cho nhà đầu tư mua trái phiếu hình thành từ cho vay thế chấp từ tổ chức mua
khoản vay thế chấp, đề nghị cơ quan chức năng xem xét lại các thủ tục xử lý tài
sản thế chấp theo hướng: (1) tài sản thế chấp sẽ được xử theo phương thức thỏa
thuận cụ thể giữa các bên với nhau trong hợp đồng; (2) và nên có hợp đồng mẫu
về cầm cố, thế chấp…
3.3.1.4 Thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt
Trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nói chung và từ chứng khoán
thế chấp BĐS thương mại nói riêng được phát hành bởi tổ chức có mục đích đặc
biệt (SPV), tổ chức này được thành lập chỉ với mục đích chứng khoán hóa. Quá
trình chứng khoán hóa của SPV bắt đầu từ việc SPV mua danh mục tài sản tài
chính từ chủ thể tạo lập tài sản và chứng khoán hóa chúng. Như vậy, việc ứng
dụng chứng khoán hóa chỉ có thể được thực hiện khi cho phép thành lập tổ chức
này. Tại Việt Nam sự ra đời cũng như chức năng, nhiệm vụ của SPV phải được
quy định trong văn bản chung về hoạt động chứng khoán hóa, hoặc có thể dưới
một nghị định hay thông tư dành riêng về SPV, cụ thể nội dung của văn bản này
phải nêu những điểm chính sau:
Hình thức của SPV
Theo quy định hiện hành, chỉ có hai tổ chức kinh doanh có thể phát hành
chứng khoán nợ: công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, do đó hai hình
thức kinh doanh này phù hợp với SPV.
Nhiệm vụ và đặc điểm của SPV
(cid:1) SPV có chức năng mua, nắm giữ và xử lý tài sản tài chính và chỉ thực
hiện hoạt động chứng khoán hóa tài sản, không thực hiện chức năng kinh doanh
khác.
(cid:1) SPV tách bạch với rủi ro tín dụng và rủi ro của chủ thể tạo lập tài sản
với danh mục tài sản cần chứng khoán hóa để giúp nhà đầu tư có thể đánh giá rủi
ro đầu tư mua chứng khoán dễ dàng hơn. Như vậy, hợp đồng mua bán tài sản tài
chính giữa chủ thể tạo lập tài sản và SPV phải đảm bảo điều kiện, thứ nhất: SPV
hưởng mọi quyền lợi và rủi ro của tài sản tài chính sau khi mua chúng từ chủ thể
tạo lập tài sản, do đó nếu trong trường chủ thể tạo lập tài sản bị phá sản thì khoản
thế chấp không được sử dụng cho việc thanh toán nợ, thứ hai là khẳng định sự
tồn tại độc lập của SPV trong trường hợp bên vay thế chấp bị phá sản.
(cid:1) SPV phải được ĐMTN mới được phát hành chứng khoán, điều này sẽ
giúp nhà đầu tư có đánh giá chính xác hơn về chứng khoán mà họ sẽ đầu tư.
Công ty định mức tín nhiệm sẽ đánh giá mức độ bảo vệ đối với nhà đầu tư thông
qua khía cạnh pháp lý cũng như cấu trúc giao dịch chứng khoán thế chấp BĐS
thương mại.
Thông thường công ty định mức tín nhiệm sẽ tư vấn cho chủ thể tạo lập
tài sản nếu cần thiết phải áp dụng một số biện pháp tăng cường định mức tín
dụng để được cấp hệ số định mức tín dụng cao hơn. Một số biện pháp như sau:
Biện pháp cải thiện tín dụng nội bộ: (1) chủ thể tạo lập tài sản chấp nhận
bán tài sản với giá thấp cho SPV với điều khoản sẽ có quyền lợi phái sinh liên
quan đến hoạt động của danh mục tài sản sau khi bán. Đây còn gọi là phương
pháp tăng tài sản đảm bảo cho trái phiếu phát hành, hoặc:
Biện pháp cải thiện tín dụng ngoại vi: (2) dùng bảo lãnh của ngân hàng
thương mại cho việc thanh toán các chứng khoán nợ phát hành khi đến hạn, hoặc
(3) mua bảo hiểm cho việc thực hiện nghĩa vụ của trái phiếu phát hành.
(cid:1) Quản lý hoạt động của SPV đều thực hiện thông qua công ty cung cấp
dịch vụ hỗ trợ, bao gồm các việc: quản lý danh mục tài sản, thu nợ gốc và lãi của
khoản vay thế chấp BĐS thương mại, gửi thư đôn đốc thu nợ đúng hạn và thực
hiện thủ tục xiết nợ khi cần thiết, thanh toán gốc và lãi cho nhà đầu tư chứng
khoán nợ theo đúng thứ tự ưu tiên…
(cid:1) SPV cũng có báo cáo thu nhập và bảng cân đối kế toán như các doanh
nghiệp bình thường. Báo cáo thu nhập của SPV bao gồm: thu nhập mà tài sản
mang lại (lãi vay, phí, tiền cho thuê…) và chi phí thanh toán lãi vay cho chứng
khoán nợ; phí quản lý phải trả….
Trong trường hợp tài sản có khả năng trở thành nợ xấu, SPV sẽ phải lập
dự phòng nợ khó đòi.
3.3.1.5 Thành lập công ty định mức tín nhiệm trong nước
Ngoài sự tham gia của bốn đối tượng chính vào quá trình chứng khoán
hóa là bên vay, chủ thể tạo lập tài sản, tổ chức có mục đích đặc biệt, nhà đầu tư
thì còn có sự tham gia của các tổ chức có chức năng hỗ trợ như: công ty ĐMTN,
công ty tư vấn, bảo lãnh, công ty kiểm toán… Các công ty này có vai trò quan
trọng giúp chứng khoán được phát hành thành công. Đặc biệt với công ty
ĐMTN, đây là công ty không chỉ có nhiệm vụ đánh giá khía cạnh pháp lý cũng
như cấu trúc giao dịch chứng khoán thế chấp BĐS thương mại mà công ty này
còn cung cấp những dịch vụ tư vấn giúp cho đợt phát hành chứng khoán được
thành công, điều này giúp các nhà đầu tư, các công ty phát hành đánh giá được
mức rủi ro cho trái phiếu, giải quyết được vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị
trường. Như vậy, với nhiệm vụ đánh giá khả năng tín dụng của doanh nghiệp
hay khả năng hoàn trả, rủi ro của công cụ nợ, công ty ĐMTN có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của công cụ nợ nói chung và trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa nói riêng.
Tuy có vai trò quan trọng đối với sự hình thành kỹ thuật chứng khoán hóa
và phát triển thị trường trái phiếu nói chung, nhưng tại Việt Nam hiện nay thì
hoạt động định mức tín nhiệm vẫn còn là “khoảng trống”, trong khi đây là một
yếu tố quan trọng để xác định rủi ro của từng đối tượng phát hành, qua đó mới
xác định được mức giá, mức lãi suất của đợt phát hành trái phiếu của doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể thấy rằng muốn ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa nói
riêng và phát triển thị trường trái phiếu nói chung thì cần thiết phải thành lập
công ty ĐMTN trong nước. Trước mắt, cần có những quy định, cơ chế cụ thể
cho phép hình thành tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và đảm bảo tính
độc lập, chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động định mức tín nhiệm. Do
chưa có kinh nghiệm và kỹ năng định mức tín nhiệm, Việt Nam cũng cần tận
dụng sự hợp tác với các tổ chức định mức tín dụng chuyên nghiệp trên thế giới,
cụ thể các bước như sau:
- Ban hành khung pháp lý cho hoạt động ĐMTN trong nước
Đây sẽ là những cơ sở pháp lý cơ bản nhất để điều chỉnh các mối quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực định mức tín nhiệm, đồng thời định ra hướng đi đúng
cho các hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp
luật quy định, hơn nữa ban hành khung pháp lý cho hoạt động ĐMTN sẽ tạo điều
kiện cho sự ra đời các công ty định mức tín nhiệm trong nước, và tạo thêm điều
kiện để thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức uy tín trên thế giới.
- Xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước
Căn cứ vào hệ thống ĐMTN, nhà đầu tư sẽ đánh được mức độ rủi ro của
chứng khoán mà họ đầu tư. Ví dụ: với chứng khoán hạng AAA thì có chất luợng
cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất và chứng khoán hạng CC có rủi ro cao
nhất…Như vậy, với những xếp hạng về trái phiếu phát hành, nhà đầu tư sẽ có
quyết định cho sự đầu tư của mình. Để có thể xây dựng hệ thống ĐMTN trong
nước phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế thì Việt Nam nên học hỏi kinh
nghiệm xây dựng hệ thống định mức của các nước trên thế giới.
- Có quy định giám sát đối với các hoạt động công ty định mức tín nhiệm
nhằm đảm bảo tính chính xác, độ tin cậy của thông tin mà công ty ĐMTN cung
cấp.
- Có quy định bắt buộc ĐMTN cho việc chào bán trái phiếu cho nhà đầu
tư, điều này sẽ tạo ‘thói quen’ cho doanh nghiệp khi muốn phát hành trái phiếu,
giúp nhà đầu tư quen dần với vai trò và trách nhiệm của công ty ĐMTN…
Việt Nam đang cố gắng thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đi kèm
theo đó là sự ra đời của nhiều sản phẩm tài chính tiên tiến nhằm huy động vốn
phát triển kinh tế. Sự tồn tại và phát triển các công ty ĐMTN sẽ góp phần thúc
đẩy sự ra đời của kỹ thuật chứng khoán hóa nói chung và sự phát triển của nền
kinh tế nói riêng.
3.3.1.6 Phổ biến thông tin về chứng khoán hóa
Ngoài việc từng bước ban hành, hoàn thiện các văn bản pháp lý, xây dựng
các thị trường có liên quan đến chứng khoán hóa nói chung và chứng khoán hóa
thế chấp BĐS thương mại nói riêng thì các cơ quan nhà nước cần tuyên truyền
rộng rãi kiến thức về chứng khoán hóa đến nhà đầu tư, các công ty kinh doanh
đầu tư phát triển BĐS, tổ chức tài chính tín dụng, công ty kiểm toán…. Dựa trên
nhận thức về lợi ích cũng như tầm quan trọng của chứng khoán hóa đến từng đối
tượng thì chứng khoán hóa sẽ có nhiều điều kiện ra đời và tồn tại trong thực tiễn
Việt Nam.
3.3.2 Giải pháp vi mô
3.3.2.1 Nâng cao trình độ và năng lực quản trị tài chính của doanh
nghiệp thực hiện chứng khoán hóa
Tại một số nước phát triển việc thực hiện chứng khoán hóa BĐS thương
mại không chỉ trong giới hạn của các tổ chức ngân hàng, tài chính…mà còn có
sự tham gia của các công ty đầu tư phát triển BĐS thương mại. Thay vì vay vốn
ngân hàng họ có thể thông qua phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại
để huy đông vốn. Dù công ty đầu tư phát triển BĐS thương mại có xếp hạng tín
nhiệm không cao nhưng nếu tài sản đem thế chấp tốt thì chứng khoán hình thành
từ kỹ thuật chứng khoán hóa vẫn có thể được xếp hạng cao và dễ bán. Tuy nhiên,
chứng khoán hóa là kỹ thuật tương đối phức tạp, đòi hỏi tổ chức thực hiện đáp
ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn tài chính cao, năng lực quản lý và khả năng
quản trị tài chính tốt. Do vậy để có thể ứng dụng kỹ thuật này các doanh nghiệp
kinh doanh nói chung và ngân hàng nói riêng cần chuẩn bị nâng cao trình độ, kỹ
năng tài chính cao.
Hiện nay, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam đang trong
quá trình cải tổ và tiếp thu được các công nghệ ngân hàng hiện đại, đây sẽ là các
tổ chức có nhiều tiềm năng và cơ hội để ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thế
chấp BĐS thương mại vì bản thân họ cũng đang sở hữu danh mục cho vay thế
chấp BĐS thương mại. Hơn nữa, việc tiên phong sử dụng chứng khoán hóa thế
chấp BĐS thương mại của tổ chức này sẽ góp phần thúc đẩy sự tham gia của các
doanh nghiệp BĐS có khả năng và trình độ tài chính mạnh.
3.3.2.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng bất động sản của các
ngân hàng
Thông qua quá trình chứng khoán hóa, các ngân hàng cho vay bất động
sản đã có thể chuyển rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán sớm cho cho tổ chức có
mục đích đặc biệt. Do đó đã kích thích các ngân hàng mở rộng và tăng trưởng
tín dụng bất động sản quá mức và rủi ro xuất hiện mang tính tất yếu khi thị
trường bất động sản biến động và khủng hoảng. Vì vậy, đòi hỏi các ngân hàng
cần tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc và điều kiện tín dụng trong mọi trường hợp:
ngân hàng cần xây dựng quy chế cho vay bất động sản chặt chẽ; thường xuyên
đào tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực thẩm định đánh giá
của các nhân viên tín dụng; đối với các khoản vay bất động sản cần chú trọng
đến việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, phương án kinh doanh hiệu
quả…
3.4 Đề xuất giải pháp phòng ngừa rủi ro của chứng khóan hóa
Chứng khoán hóa thế chấp BĐS nói chung ra đời đã góp phần cung cấp
nguồn vốn lớn cho thị trường BĐS nhưng bên cạnh đó nó cũng trở thành một
trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng vừa qua. Bài học kinh
nghiệm từ khủng hoảng nhà đất tại Mỹ là do tăng trưởng tín dụng quá nóng và
cho vay dưới chuẩn.
Cho vay dưới chuẩn phát triển mạnh tại Mỹ trong thời gian qua. Loại hình
cho vay này đã bỏ qua nhiều loại giấy tờ quan trọng của khách hàng nhằm chứng
minh thu nhập có thể dùng để trả nợ. Các tiêu chuẩn cho vay càng dễ dãi hơn so
với cho vay thông thường, người mua nhà dễ dàng vay được hàng trăm nghìn
đôla trong 30 năm chỉ bằng việc nói với ngân hàng số tiền họ kiếm được hàng
tháng – không cần bất cứ chứng từ nào. Lúc này, chứng khoán hóa đã trở thành
một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm
bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Họ phát hành các chứng khoán
dựa trên chứng khoán hóa thế chấp các khoản vay dưới chuẩn và bán cho các
nhà đẩu tư toàn cầu. Tuy nhiên, khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi
suất liên tục tăng cao và giá nhà đất giảm mạnh thì bong bóng nhà đất dẫn đến
đổ vỡ. Lúc này, các chủ nhà đất lâm vào tình trạng khó khăn tài chính do lãi suất
tăng khiến cho hóa đơn thanh toán hàng tháng tăng, mặt khác giá nhà liên tục
giảm, thậm chí thấp hơn mức tiền gốc vay mua nhà ban đầu. Tỷ lệ vỡ nợ tăng
cao, đặc biệt là những người vay dưới tiêu chuẩn vốn thường xuyên khó khăn
trong tài chính. Năm 2007, giá nhà đất liên tục sụt giảm, doanh số bán nhà tụt
dốc mạnh. Ngành công nghiệp cho vay dưới chuẩn sụp đổ, kéo theo đó là hàng
loạt công ty hoạt động trong lĩnh vực này đệ đơn xin phá sản. Tác động của cuộc
khủng hoảng nhà đất tại Mỹ lan cả ra ngoài lĩnh vực nhà đất và ảnh hưởng đến
thị trường tài chính toàn cầu, bởi khi bong bóng nhà đất vỡ thì chính thị trường
chứng khoán hình thành từ chứng khoán hóa thế chấp nợ dưới chuẩn bị ảnh
hưởng năng nề nhất và các nhà đầu tư các dạng chứng khoán này là các ngân
hàng đầu tư, công ty tài chính quốc tế…liên tục thua lỗ.
Có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt
nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham
của thị trường. Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính có nhiều điểm mạnh
nhằm góp phần cung nguồn vốn thúc đẩy phát triển thị trường BĐS song đã bị
lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Do đó, nhìn nhận lại bài học
từ cuộc khủng hoảng tín dụng vừa qua cho thấy để có thể phòng ngừa rủi ro do
chứng khoán hóa, chúng ta nhất thiết phải:
- Xây dựng quy trình quản lý quá trình chứng khoán hóa, trong đó cần
thực hiện sao cho mọi đối tượng tham gia vào quy trình chứng khoán hóa đều
được quản lý, giám sát một cách phù hợp và nhất quán;
- Cần tăng cường những quy định chặt chẽ hơn về minh bạch và công bố
thông tin để bảo vệ nhà đầu tư;
- Để tránh gây nhầm lẫn cho nhà đầu tư, phương pháp xếp hạng đối với
từng loại tài sản khác nhau cần được phân biệt rõ ràng và công khai cho nhà đầu
tư. Các tổ chức định mức tín nhiệm cũng cần cung cấp cho nhà đầu tư chứng
khoán thông tin đầy đủ hơn về độ nhạy cảm của các mức xếp hạng trái phiếu liên
quan đến những nhận định và giả thiết của họ về tài sản cơ sở;
Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính tại Mỹ bắt nguồn từ chứng khoán hóa
nợ dưới chuẩn, các ngân hàng đã mở rộng cho vay, bất chấp tài sản thế chấp có
tốt hay không, điều này làm tăng trưởng tín dụng BĐS quá mức và rủi ro xuất
hiện mang tính tất yếu khi thị trường BĐS biến động và khủng hoảng. Do đó, để
hạn chế rủi ro từ những hợp đồng cho vay thế chấp này thì cần bản thân các tổ
thức tạo ra khoản cho vay cần phải:
- Tuân thủ các quy định, cần có quy chế rõ ràng cho việc cho vay vào thị
trường BĐS;
- Đánh giá năng lực và uy tín của khách hàng, khả năng đem lại kết quả
kinh doanh từ dự án BĐS thương mại, bảo đảm chính xác ngay từ khâu đầu tiên
của quá trình cho vay;
- Đào tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực thẩm định
đánh giá của các nhân viên tín dụng;
- Xây dựng quy trình thẩm định cho vay chặt chẽ;
- Phải luôn tiến hành hoạt động kiểm soát nội bộ của ngân hàng và quản
lý rủi ro có hệ thống và theo quy chuẩn thống nhất.
3.5 Xây dựng quy trình chứng khoán hóa thế chấp bất động sản
thương mại tại Việt Nam
Công ty định mức tín nhiệm
Hợp đồng cung cấp dịch vụ
Hợp đồng vay
Đánh giá tín nhiệm
Tiền
Tiền
Nhà đầu tư
SPV
Bên cho vay/Bên bán khoản cho vay
Bán tài sản
Chứng khóan
Tổ chức bảo lãnh phát hành
Đại lý phát hành trái phiếu từ chứng khoán hóa thế chấp bđs thương mại
Hợp đồng đại lý phát hành trái phiếu
Hợp đồng bảo lãnh phát hành
Bên vay
Bước 1: Bên vay, chủ đầu tư BĐS thương mại, thực hiện vay vốn từ tổ
chức tài chính, tín dụng. Hợp đồng vay được đảm bảo bằng dự án BĐS thương
mại của bên vay. Nguồn thu trong tương lai từ dự án sẽ thanh toán nợ gốc và lãi
vay.
Bước 2: Bên cho vay bán khoản cho vay này cho SPV thông qua hợp
đồng bán tài sản. Hợp đồng này thường là mua đứt, bán đoạn, mọi quyền lợi và
rủi ro của tài sản hoàn toàn chuyển cho SPV. Nhờ đó, SPV mới có thể chuyển
toàn bộ quyền sử dụng tiền mặt tuơng lai của tài sản đảm bảo cho chứng khoán
nợ phát hành.
Bước 3: SPV tiến hành các bước tiếp để phát hành chứng khoán thế chấp
BĐS thương mại
Bước 3.1: lập phương án phát hành trình lên cơ quan nhà nước có chức
năng. Việc lập phương án phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại của
SPV có thể thực hiện thông qua tổ chức tư vấn phát hành.
Bước 3.2: thuê công ty cung cấp dịch vụ quản lý
Công ty cung cấp dịch vụ có thể là bên bán khoản cho vay (chủ thể tạo lập
tài sản) hoặc tổ chức khác..
Nhiệm vụ của công ty quản lý là thay mặt điều hành SPV, bao gồm: quản
lý danh mục tài sản; thu nợ gốc và lãi của khoản vay thế chấp BĐS thương mại;
gửi thư đôn đốc thu nợ đúng hạn và thực hiện thủ tục xiết nợ khi cần thiết; thanh
toán gốc và lãi cho nhà đầu tư chứng khoán nợ theo đúng thứ tự ưu tiên….
Bước 3.3: SPV ký hợp đồng đại lý phát hành chứng khoán: việc phát
hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại của SPV thông qua đại lý phát
hành chứng khoán. Đại lý phát hành thường là công ty chứng khoán.
Bước 3.4: SPV ký hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán. Để đảm
bảo chứng khoán thế chấp BĐS thương mại được phát hành thành, SPV ký hợp
đồng bảo lãnh phát hành với công ty chuyên cung cấp dịch vụ này, có thể là
ngân hàng, công ty chứng khoán…Việc chứng khoán thế chấp BĐS thương mại
được bảo lãnh từ tổ chức có uy tín mang lại sự thành công cao hơn cho đợt phát
hành.
Bước 3.5: ĐMTN và tăng cường khả năng tín dụng
Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào bảng cáo bạch thông tin về đợt phát hành
chứng khoán thế chấp BĐS thương mại để phân tích chất lượng tài sản đảm bảo,
nguồn thu nhập tương lai của SPV và rủi ro tín dụng thông qua ĐMTN của
chứng khoán phát hành, từ đó ra quyết định việc đầu tư.
Như vậy, thông qua ĐMTN sẽ giúp nhà đầu tư đánh giá chính xác hơn về
chứng khoán thế chấp BĐS thương mại và ra quyết định đầu tư cho mình. Công
ty ĐMTN sẽ đánh giá mức độ bảo vệ đối với nhà đầu tư thông qua khía cạnh
pháp lý cũng như cấu trúc giao dịch của chứng khoán thế chấp BĐS thương mại.
Bước 4: SPV phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại cho nhà
đầu tư
SPV phát hành chứng khoán thế chấp BĐS thương mại cho nhà đầu tư
thông qua đại lý phát hành. Sau khi mua chứng khoán thế chấp BĐS thương mại,
các nhà đầu tư sẽ trở thành chủ sở hữu các dòng tiền mặt tương lai cuả SPV.
Việc phát hành chứng khoán nợ thông qua các thủ tục phát hành thông thường
như đối với việc phát hành chứng khoán nợ của doanh nghiệp.
Bước 5: quản lý dòng tiền tương lai của SPV và thanh toán nợ gốc, lãi
cho trái chủ.
Việc quản lý dòng tiền tương lai của SPV và thanh toán nợ gốc, lãi cho
trái chủ sẽ do Công ty cung cấp dịch vụ thực hiện theo hợp đồng đã ký với SPV.
3.6 Giải pháp hỗ trợ phát triển bền vững thị trường bất động sản
Ngoài việc tìm thêm nguồn vốn, để phát triển bền vững thị trường BĐS thì
cần những giải pháp đi kèm theo đó, cụ thể là:
Tăng cường những biện pháp tăng nguồn cung cho thị trường: nâng
cao chất lượng, tính ổn định và tầm nhìn chiến lược cho các quy hoạch; tiếp tục
đẩy mạnh công khai hóa trong hoạt động kinh doanh BÐS và cải cách thủ tục
hành chính…
Tiếp tục hoàn thiện luật và các cơ chế chính sách điều chỉnh thị trường
BĐS như Luật đất đai, luật kinh doanh bất động sản, luật nhà ở…trên cơ sở tránh
hiện tượng mâu thuẫn trong các quy định, đồng thời có mô hình quản lý thị
trường BĐS theo cơ chế thị trường, dần dần loại bỏ cơ chế hai giá.
Giải quyết vướng mắc liên quan đến thị trường BĐS như: giải toả, đền
bù, quy hoạch treo, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường BĐS: để việc điều tiết thị
trường bằng công cụ tài chính thực sự có hiệu lực thì cần phải xây dựng cơ sở dữ
liệu cơ bản về thị trường. Mặt khác, đối với quản lý nhà nước, hệ thống thông tin
bất động sản còn là công cụ hữu ích phục vụ cho việc dự báo thị trường, từ đó
các nhà điều hành có thể xây dựng cơ chế vĩ mô để điều hành thị trường. Vì vậy,
việc xây dựng hệ thống thông tin BĐS là cần thiết. Về nội dung hệ thống thông
tin BĐS cần cung cấp dữ liệu: thông tin liên quan đến cung, thông tin liên quan
đến khối lượng thị trường, thông tin liên quan đến giá trị thị trường, thông tin
liên quan đến cầu…Hệ thống này cần phải được xây dựng một cách khoa học,
vừa phù hợp thông lệ quốc tế, vừa hữu ích cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô
và phục vụ cho việc điều tiết thị trường.
Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về thị trường BÐS: tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về thị
trường BÐS.
Kết luận chương 3
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu BĐS được đánh giá ở
mức cao, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cũng
như chính sách quản lý đồng bộ, chặt chẽ. Sự ra đời của những phương pháp huy
động vốn mới sẽ là nhu cầu tất yếu của thị trường BĐS, trong đó kỹ thuật chứng
khoán hóa thế chấp BĐS thương mại đã được nhiều nước trên thế giới ứng dụng.
Ngoài việc tạo thêm kênh huy động vốn cho phát triển thị trường BĐS thương
mại, chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại còn góp phần tạo thêm hàng
hóa cho thị trường tài chính, tăng tính luân chuyển vốn kinh doanh của ngân
hàng, giảm chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp…Tuy vậy, để có thể áp dụng
chứng khoán hóa thế chấp BĐS vào thực tế tại thị trường Việt Nam cần giai
đoạn dài để chuẩn bị hạ tầng pháp lý, môi trường kinh doanh và sự phối hợp của
nhiều cơ quan chức năng, các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Bất động sản là một lĩnh vực đòi hỏi phải có nguồn vốn trung và dài hạn
vững mạnh, một kế hoạch tài chính ổn định. Thực tế ở nước ta trong thời gian
qua, các doanh nghiệp BĐS ngoài số vốn tự có theo quy định thì họ chủ yếu tìm
đến vốn vay ngân hàng hay tiền ứng trước khách hàng. Việc sử dụng các kênh
huy động nói trên không phải lúc nào cũng thuận lợi và thực hiện được. Nếu
ngân hàng gặp khó khăn trong huy động tiền gửi trung hay dài hạn thì khó có thể
tiếp tục mở rộng cho vay BĐS và hình thức huy động vốn từ dân cư hiện nay
cũng gặp không ít khó khăn. Đã đến lúc các doanh nghiệp kinh doanh BĐS
thương mại và tổ chức tài chính tín dụng phải nghĩ đến phương án huy động vốn
khác, một trong những phương pháp đã được các nước trên thế giới áp dụng đó
là phát hành trái phiếu trên cơ sở tài sản đảm bảo là thế chấp BĐS thương mại.
Thay vì giữ danh mục cho vay thế chấp BĐS thương mại thì với việc chứng
khoán hóa các khoản thế chấp này sẽ giúp cho tổ chức tài chính tín dụng ‘giải
phóng’ khoản cho vay thế chấp ra khỏi bảng cân đối kế toán và tạo ra dòng tiền
mới (từ việc bán danh mục cho vay thế chấp) để tiếp tục mở rộng tài trợ cho thị
trường BĐS thương mại. Hơn nữa, với những doanh nghiệp BĐS có trình độ tài
chính và dự án BĐS thương được đánh giá cao có thể vận dụng hoạt động chứng
khoán hóa để tài trợ vốn thực hiện dự án. Ngoài việc cung cấp vốn để đầu tư
BĐS, chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại còn tạo ra sản phầm mới cho
nhà đầu tư trên thị trường tài chính.
Tuy có những lợi ích mang lại cho thị trường BĐS thương mại nói chung
và các thành phần tham gia vào hoạt động chứng khoán hóa thế chấp BĐS
thương mại nói riêng, nhưng để có thể áp dụng vào thực tiễn Việt Nam thì cần có
sự hỗ trợ từ phía chính phủ, các cơ quan nhà nước có chức năng và sự phối hợp
của các thành phần có liên quan. Đặc biệt với các tổ chức sở hữu danh mục cho
vay thế chấp phải luôn nâng cao trình độ tài chính, khả năng quản trị doanh
nghiệp, công nghệ thông tin…để có thể thực hiện phát hành trái phiếu từ chứng
khoán hóa thế chấp BĐS thương mại vào thời điểm thuận lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Mạc Quang Huy (2009), Cẩm nang ngân hàng đầu tư, Nhà xuất bản thống
2.
3.
kê. Nguyễn Mai Phương (2010), “Ứng dụng chứng khoán hóa trong huy động vốn của doanh nghiệp”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Nguyễn Thị Bảo Quỳnh (2008), “Xây dựng hệ thống thông tin bất động sản”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Tiếng anh Joseph Franzett (2009), “An Introduction To Commercial Mortgage Backed Securities (CMBS)”, The Education/Research Committee of the Commercial Mortgage Securities Association. Frank J. Fabozzi and David Jacobs (1998), The Handbook of Commercial Mortgage–Backed Securities, Published by John Wiley & Sons. Jim Jip, “Commercial mortgage backed securities – an alternative debt financing intrument for developers”, Asian Financae Research. Vinod Kothari (2006), Securitization – the financial instrument of the future , Wiley Finance. Tien Foo SING, Seow Eng ONG, Kah Hwa NG (2004), “Commercial Mortgage Backed Securitization in Singapore: The Challenges Ahead”, Department of Real Estate National University of Singapore and Centre for Financial Engineering National University of Singapore. Văn bản pháp luật Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
10. Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg, ngày 2/8/2007 về việc phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Quy trình chứng khoán hóa thế chấp bất động sản thương mại
Bước 1: thành lập tổ chức có mục đích đặc biệt (SPV)
Quá trình chứng khoán hóa thường bắt đầu bằng việc tạo ra SPV. SPV có
thể hình thành duới dạng công ty theo luật doanh nghiệp. SPV được thành lập
cho mục đích mua tài sản tài chính, sau đó căn cứ vào tài sản tài chính này, SPV
sẽ phát hành trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tài sản tài chính. Trong kỹ
thuật chứng khoán hóa thế chấp BĐS thương mại, tài sản tài chính là khoản vay
thế chấp BĐS thương mại.
Mục tiêu chính của việc thành lập SPV là tách bạch rủi ro tín dụng và rủi
ro của chủ thể tạo lập tài sản với danh mục tài sản cần chứng khoán hóa, do đó
giúp nhà đầu tư có thể đánh giá rủi ro đầu tư mua chứng khoán dễ dàng hơn. Quá
trình này gọi là “tách bạch hóa” các rủi ro đầu tư liên quan đến tài sản dùng để
chứng khoán hóa.
SPV chỉ được thực hiện các nghiệp vụ quy định cho mục đích thành lập.
Đối với hoạt động chứng khoán hóa, SPV không được phép vay nợ bên ngoài
hay dùng tài sản cho mục đích nào khác.
Mọi hoạt động của SPV được thực hiện thông qua công ty cung cấp dịch
vụ bên ngoài.
Bước 2: bán tài sản tài chính cho SPV
Chủ thể tạo lập tài sản có thể trực tiếp cho vay hoặc mua danh mục cho
vay đầu tư BĐS thương mại từ ngân hàng, công ty tài chính…. Sau khi sở hữu
danh mục cho vay này, chủ thể tạo lập tài sản chuyển chúng cho SPV thông qua
hợp đồng bán tài sản. Hợp đồng này thường là mua đứt, bán đoạn, tức là mọi
quyền lợi và rủi ro của tài sản hoàn toàn chuyển cho SPV. Nhờ đó, SPV mới có
thể chuyển toàn bộ quyền sử dụng tiền mặt tuơng lai của tài sản đảm bảo cho
chứng khoán nợ phát hành.
Trong thực tế, việc bán tài sản thường được cấu trúc theo dạng chủ thể tạo
lập tài sản vẫn có quyền lợi phái sinh liên quan đến tình hình hoạt động của tài
sản tài chính. Ví dụ trong tương lai, nếu danh mục cho vay này có tỷ lệ thu hồi
cao hơn một mức quy định nào đó thì chủ thể tạo lập tài sản sẽ có một khoản
thường dựa trên công thức tính thỏa thuận trước. Quyền lợi này nhằm gắn chặt
mối quan hệ giữa chủ thể tạo lập tài sản và SPV.
Như vậy lúc này SPV có tài sản là danh mục khoản vay đảm bảo bởi thế
chấp BĐS thương mại. Đồng thời SPV phải trả cho chủ thể tạo lập tài sản một
khoản tiền cho việc mua danh mục tài sản này. Để có tiền cho việc mua này,
SPV phải tiến hành phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư. Đây là bản chất
của việc chứng khoán hóa.
Bước 3: thuê công ty quản lý
Nhiệm vụ của công ty quản lý là thay mặt điều hành SPV, bao gồm:
• quản lý danh mục tài sản;
• thu nợ gốc và lãi của khoản vay thế chấp BĐS thương mại;
• gửi thư đôn đốc thu nợ đúng hạn và thực hiện thủ tục xiết nợ khi cần
thiết;
• thanh toán gốc và lãi cho nhà đầu tư chứng khoán nợ theo đúng thứ tự
ưu tiên;
Chủ thể tạo lập tài sản có thể tiếp tục nắm quyền quản lý hoạt động điều
hành với SPV. Việc duy trì dịch vụ quản lý này không có nghĩa là việc bán tài
sản chưa đáp ứng điều kiện mua đứt bán đoạn. Chủ thể tạo lập tài sản sẽ được trả
phí quản lý cho việc cung cấp dịch vụ.
Bước 4: định mức tín nhiệm và tăng cường khả năng tín dụng
SPV không có nhân viên và chỉ có một danh mục tài sản vừa mua về từ
chủ thể tạo lập tài sản. Làm thế nào để tăng tính hấp dẫn cho nhà đầu tư đối với
chứng khoán nợ này. Quá trình này gọi là tăng cường khả năng tín dụng. Việc
thực hiện thủ tục này không bắt buộc mà căn cứ vào nhu cầu của nhà đầu tư.
Tại hầu hết quốc gia, để phát hành chứng khoán nợ, SPV phải được định
mức tín nhiệm (ĐMTN). Chủ thể tạo lập tài sản sẽ thuê công ty ĐMTN để thực
hiện việc này. Công ty ĐMTN sẽ đánh giá mức độ bảo vệ đối với nhà đầu tư
thông qua khía cạnh pháp lý cũng như cấu trúc giao dịch.
Thông thường, công ty ĐMTN sẽ tư vấn cho chủ thể tạo lập tài sản nếu
cần thiết phải áp dụng một số biện pháp tăng cường định mức tín dụng để được
cấp hệ số định mức tín dụng cao hơn.
Bước 5: SPV phát hành trái phiếu có tài sản đảm bảo
SPV phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ trở thành chủ
sở hữu các dòng tiền mặt tương lai của SPV. Việc phát hành chứng khoán nợ
thông qua các thủ tục phát hành thông thường như đối với việc phát hành chứng
khoán nợ của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào bảng cáo bạch thông
tin để phân tích chất lượng tài sản đảm bảo, nguồn thu nhập tương lai của SPV
và rủi ro tín dụng thông qua ĐMTN của chứng khoán phát hành, từ đó quyết
định việc đầu tư. Việc phát hành chứng khoán nợ có thể sử dụng bảo lãnh của
ngân hàng đầu tư.
Nhà đầu tư cuối cùng này có thể là cá nhân, ngân hàng, công ty bảo
hiểm…
Mô hình cho thấy SPV có vai trò trung chuyển dòng tiền thu hồi của tài
sản được chứng khoán hóa để thanh toán gốc và lãi cho trái phiếu.
Bước 6: quản lý dòng tiền tương lai của SPV và thanh toán nợ gốc, lãi
cho trái chủ
Khi việc phát hành chứng khoán nợ được hoàn tất, SPV trở thành một ốc
đảo độc lập với tài sản là các tài sản tài chính được chứng khoán hóa. Đối ứng
với các tài sản này là nguồn vốn huy động được thông qua phát hành chứng
khoán nợ. SPV chỉ có vốn tượng trưng và do đó không có cổ đông mà chỉ có trái
chủ là các nhà đầu tư chứng khoán nợ.
Khi các tài sản được thu hồi dần, số tiền thu hồi sẽ dùng để thanh toán cho
nhà đầu tư. Công ty dịch vụ được thuê để quản lý SPV với nhiệm vụ thu hồi tài
sản và thanh toán chứng khoán nợ.
SPV cũng có báo cáo thu nhập và bảng cân đối kế toán như các doanh
nghiệp bình thường. Báo cáo thu nhập của SPV bao gồm:
• thu nhập mà tài sản mang lại (lãi suất, phí, tiền cho thuê…)
• chi phí: thanh toán lãi suất cho chứng khoán nợ; phí quản lý phải trả
cho Công ty cung cấp dịch vụ và Đơn vị ủy thác.
Trong trường hợp tài sản có khả năng trở thành nợ xấu, SPV sẽ phải lập
dự phòng nợ khó đòi.
PHỤ LỤC 2
Bảng ký hiệu định mức đối với công cụ nợ dài hạn
Chỉ số Tín Nhiệm Chỉ số Tín Nhiệm Diễn giải Phân loại
theo S&P theo Moody’s
AAA Aaa Chất luợng cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất.
AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp, Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA một bậc.
A A Trái phiếu có thể đầu tư Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị ảnh huỡng bởi tình hình kinh tế.
BBB Baa
Chất lượng trung bình, an toàn trong thời gian hiện tại, tuy vậy có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro.
BB Ba
Trái phiếu có độ rủi ro cao Chất lượng trung bình thấp, có thế gặp khó khăn trong việc trả nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế.
B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có nguy cơ không thanh toán đúng hạn
CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế khả quan.
Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản, CC
Trái phiếu không nên đầu tư C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng thực hiện thanh toán các nghĩa vụ nợ
D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản hay hầu như sẽ phá sản
NR Không đánh giá NR
Nguồn: Moody và S&P
Bảng ký hiệu ĐMTN dài hạn đối với doanh nghiệp
Ký hiệu
Diễn giải
Phân loại
Moody’s Aaa
S&P AAA
Fitch AAA
AA
AA
Aa1, Aa2, Aa3 A1, A2, A3
A
A
Hạng đầu tư
BBB
BBB
Baa1, Baa2, Baa3
BB
BB
Ba1, Ba2, Ba3
B1, B2, B3
B
B
CCC
CCC
Caa1, Caa2, Caa3
Ca
CC, C
CC, C
Hạng rủi ro
CI, R
C
SD, D
D
Chất lượng cao nhất, hoàn toàn tin tưởng, rủi rot hấp nhất Chất lượng cao, rủi ro thấp nhất Hạng khá, rủi ro thấp, tuy nhiên vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế Hạng trung bỉnh, có thể chứa đựng yếu tố rủi ro, tuy nhiên vẫn an toàn trong hiện tại. Có yếu tố rủi ro, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế. Rủi ro cao,tình hình tài chính có thể biến động mạnh theo thời gian. Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế lạc quan. Vô cùng rủi ro, có thể phá sản hoặc gần phá sản nhưng đang cố gắng thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đang bị giám sát hoạt động do không có khả năng thanh toán. Xếp hạng thấp nhất, phá sản hoặc phá sản trong hầu hết trường hợp.