VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HẰNG
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN TỪ LIÊM
(THÀNH PHỐ HÀ NỘI) DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9.22.90.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN NHẬT
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các tư liệu sử
dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết quả
nghiên cứu của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 7 năm 2020
Tác giả Luận án
LÊ THỊ THU HẰNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐẾN ĐỀ TÀI 6
LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu 6
1.1.1. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội và vấn đề đô thị hóa nói chung 6
1.1.2. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội và vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội 15
1.1.3. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm 20
24 1.2. Những nội dung luận án kế thừa và những vấn đề luận án cần tiếp tục
nghiên cứu
Chương 2: KHÁI QUÁT HUYỆN TỪ LIÊM VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA 27
HUYỆN TỪ LIÊM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Khái quát về huyện Từ Liêm 27
2.1.1. Vị trí địa lý 27
2.1.2. Khí hậu thủy văn 28
2.1.3. Đất đai 28
2.1.4. Lịch sử hành chính 29
2.2. Thực trạng kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm trước năm 1996 31
2.2.1. Kinh tế 31
2.2.2. Xã hội 37
2.3. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của Hà Nội và huyện Từ Liêm 40
từ năm 1996 đến năm 2013
2.3.1. Chủ trương của Thành phố Hà Nội 40
2.3.2. Chủ trương của huyện Từ Liêm 42
44 2.4. Vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm
2013
2.4.1. Khái quát đô thị hóa ở Hà Nội 44
2.4.2. Đô thị hóa huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 47
Tiểu kết chương 2 57
Chương 3: CHUYỂN BIẾN KINH TẾ CỦA HUYỆN TỪ LIÊM 59
59 3.1. Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế
3.1.1. Chuyển biến cơ cấu ngành 59
3.1.2. Chuyển biến cơ cấu thành phần 60
3.1.3. Chuyển biến cơ cấu vùng 61
3.2. Nông nghiệp 63
3.2.1. Phân bổ và sử dụng đất nông nghiệp 63
3.2.2. Về đầu tư trong nông nghiệp 65
3.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 69
3.3. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 78
3.3.1. Công nghiệp-xây dựng 78
3.3.2. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề 82
88 3.4. Thương mại-dịch vụ
3.4.1. Giá trị ngành thương mại-dịch vụ 88
3.4.2. Một số ngành thương mại-dịch vụ 91
Tiểu kết chương 3 93
Chương 4: CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI CỦA HUYỆN TỪ LIÊM 95
95 4.1. Về dân số
4.1.1. Quy mô dân số 95
4.1.2. Cơ cấu dân số 98
4.1.3. Vấn đề di dân 99
4.2. Về lao động, việc làm 102
4.2.1. Quy mô và số lượng lao động, việc làm 102
4.2.2. Cơ cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế 103
4.2.3. Đào tạo, hỗ trợ nguồn lao động 108
110 4.3. Giáo dục-Y tế
4.3.1. Giáo dục 110
4.3.2. Y tế 113
114 4.4. Môi trường
116 4.5. Đời sống của cư dân
4.5.1. Đời sống vật chất 116
4.5.2. Đời sống tinh thần 118
Tiểu kết chương 4 122
124 Chương 5: MỘT SỐ NHẬN XÉT
124 5.1. Thành tựu
5.1.1. Kinh tế phát triển toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao 124
5.1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 125
5.1.3. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh theo hướng văn minh và hiện đại 127
5.1.4. Cơ cấu lao động, công tác giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao 129
động có chuyển biến tích cực
5.1.5. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao 130
132 5.2. Hạn chế
5.2.1. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, cơ cấu kinh tế 132
chuyển dịch còn chậm
5.2.2. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh nhưng vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển 133
kinh tế, xã hội
5.2.3. Sức ép về việc làm, nhà ở, vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo 134
ngày càng tăng
5.2.4. Tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường ngày càng diễn biến phức tạp 138
5.3. Một số vấn đề đặt ra 142
5.3.1. Vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị 142
5.3.2. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 145
5.3.3. Vấn đề giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và đời sống xã hội 146
Tiểu kết chương 5 147
KẾT LUẬN 148
TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. Danh mục bảng
Bảng 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế huyện Từ Liêm trong những năm 1986-1995 32
52
54 Bảng 2.2: Biến động các loại đất của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 2006- 2011 Bảng 2.3: Sự biến động dân số của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội
Bảng 3.1: Giá trị sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Từ Liêm 70
74 Bảng 3.2: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội
Bảng 3.3: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội 83
84
86
91 Bảng 3.4: Tổng giá trị sản xuất từ nghề chính tại các làng nghề trên địa bàn Từ Liêm Bảng 3.5: Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh ở các làng nghề Từ Liêm năm 2005 Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu về ngành thương mại, dịch vụ, du lịch huyện Từ Liêm năm 2010
Bảng 4.1: Tình hình dân số và mật độ dân cư huyện Từ Liêm (2000-2013) 97
Bảng 4.2: Tình hình di dân huyện Từ Liêm (2000-2012) 99
Bảng 4.3: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm 100
Bảng 4.4: Kết quả tạo việc làm qua các năm của huyện Từ Liêm 103
106
107
112 Bảng 4.5: Cơ sở sản xuất, lao động, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước của Từ Liêm phân theo thành phần kinh tế Bảng 4.6: Tình hình lao động trong khu vực kinh doanh thương nghiệp-dịch vụ cá thể chia theo xã, thị trấn Bảng 4.7: Tình hình giáo dục ở các bậc học của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013
2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm qua các năm 59
71 Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt của huyện Từ Liêm năm 2005 và 2013
Biểu đồ 3.3: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp huyện Từ Liêm qua các năm 79
80 Biểu đồ 3.4: Các ngành sản xuất ngành công nghiệp của huyện Từ Liêm năm 2013
Biểu đồ 4.1: Dân số huyện Từ Liêm từ năm 1996-2013 95
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cb
Chủ biên
CTQG
Chính trị Quốc gia
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ĐHKHXHVNV
Đô thị hóa
ĐTH
Hội đồng Nhân dân
HTX
Hợp tác xã
HTXNN
Hợp tác xã nông nghiệp
KCN
Khu công nghiệp
KHXH
Khoa học Xã hội
NCLS
Nghiên cứu Lịch sử
NCS
Nghiên cứu sinh
QGHN
Quốc gia Hà Nội
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
Tr
Trang
HĐND
Ủy ban Nhân dân
UBND
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam chủ trương tiến hành công cuộc đổi
mới, kinh tế, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc trên tất cả mọi phương
diện. Từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp với cơ sở vật chất, hạ tầng thiếu
thốn, thiết bị và kỹ thuật sản xuất lạc hậu…, kinh tế Việt Nam chuyển dần sang nền kinh
tế sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần, vận hành theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Cùng với đó, các mặt của đời sống xã hội không ngừng được nâng cao, đáp ứng
được đòi hỏi của quá trình phát triển trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Từ những năm đầu khi Việt Nam bắt tay tiến hành sự nghiệp đổi mới cho đến nay,
quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng trên phạm vi cả nước nói
chung và vùng ven đô Hà Nội nói riêng. Ở tầm vĩ mô, một mặt đô thị hoá là một trong
những giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mặt khác,
đô thị hoá cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của một
đất nước trong bối cảnh thế giới hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực,
trong tiến trình phát triển đó vẫn còn có không ít những bất cập, tồn tại đặt ra cần phải
giải quyết, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp, nông thôn, lao động - việc làm, môi trường,
văn hóa - xã hội… đối với một bộ phận lớn dân cư ở các vùng ven ngoại thành.
Từ Liêm trước năm 2008 là một trong 5 huyện thuộc ngoại thành Hà Nội (gồm Gia
Lâm, Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì và Sóc Sơn), sau thời điểm Hà Nội được điều
chỉnh mở rộng địa giới hành chính (năm 2008), Từ Liêm là một trong 18 huyện ngoại thành của Thủ đô1, có vị trí nằm ở phía Tây Hà Nội, phía Đông giáp quận Tây Hồ, quận
Cầu Giấy; phía Tây giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức; phía Bắc giáp huyện
Đông Anh; phía Nam giáp quận Thanh Xuân, thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông). Đến
trước thời điểm huyện giải thể để thành lập hai quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm theo Nghị quyết 132/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ2 thì Từ Liêm có 15 xã và 01 thị trấn; với diện tích tự nhiên là 75,15km2, dân số 177,3 nghìn người. Huyện có vị trí địa lý ở trung
1 Ngày 1/8/2008, Nghị quyết số 15/QH của Quốc hội (khóa XII) có hiệu lực về điều chỉnh địa giới hành chính của thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thành phố Hà Nội (cũ), tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên là 3.344,7km2, gồm 29 đơn vị hành chính trực thuộc (bao gồm 10 quận nội thành, 18 huyện ngoại thành và 1 thị xã), 580 đơn vị hành chính cấp xã (với 404 xã, 154 phường và 22 thị trấn). 2 Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký ban hành Nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập hai quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.
tâm của Hà Nội và đang có tốc độ đô thị hoá rất nhanh, với khoảng 300 dự án đầu tư, trong
1
đó phần lớn là phát triển các khu đô thị với tổng diện tích đất thu hồi hàng nghìn ha. Đi
cùng những dự án, hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội ở các khu vực dân cư xung quanh
vùng quy hoạch cũng được cải tạo và nâng cấp đồng bộ. Đô thị hóa đã làm cho kinh tế, xã
hội và đời sống nhân dân có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, cơ cấu kinh tế
chuyển biến manh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hạ tầng cơ sở và hệ thống y
tế, giáo dục, giao thông... ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người không
ngừng được nâng cao... Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực là không ít những bất cập
đang diễn ra như vấn đề quản lý đô thị, vấn đề lao động - việc làm, vấn đề phân hóa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường...
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề đô thị hóa và vấn đề kinh tế, xã hội
nói chung và ở các huyện ngoại thành Hà Nội, nói riêng dưới góc độ kinh tế học, xã hội
học, nhân học, văn hoá học..., song còn thiếu vắng những công trình tiếp cận dưới góc
độ lịch sử. Chính vì vậy, với cách tiếp cận từ góc độ lịch sử, nghiên cứu quá trình
chuyển biến kinh tế, xã hội của một huyện ngoại thành Hà Nội dưới tác động của quá
trình đô thị hóa mà cụ thể sự chuyển biến về cơ cấu, sự phát triển của các ngành kinh tế,
sự thay đổi về cơ cấu dân cư, lao động, sự phát triển về văn hóa - xã hội là cần thiết cả
về ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài h n i n inh t , hội h n
i m, thành h Hà Nội i tá ộng á t nh th h t năm n
năm 20 3” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
Thực hiện luận án này về mặt lý thuyết, luận án sẽ có đóng góp một phần nhỏ vào
việc nghiên cứu chuyên sâu về nông thôn thời hiện đại, đặc biệt là về quá trình chuyển
đổi của làng xã trên các mặt kinh tế và văn hóa-xã hội dưới tác động của xu thế đô thị
hóa hiện nay. Về mặt thực tiễn, qua việc phân tích những bước chuyển biến cụ thể của
nông thôn ngoại thành trên con đường đô thị hóa, luận án góp phần làm rõ thêm những
ưu điểm của quá trình đó cũng như những hạn chế đi kèm để có thể đưa ra được những
giải pháp tối ưu hướng tới sự phát triển bền vững của địa phương/đối tượng nghiên cứu
nói riêng, của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2. . Mụ í h nghi n ứ
Mục đích nghiên cứu của luận án là trình bày và phân tích thực trạng chuyển biến
kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 1996 đến
năm 2013 dưới tác động của quá trình đô thị hóa; trên cơ sở đó luận án sẽ đưa ra một số
nhận xét về những thành tựu cũng như hạn chế của quá trình này.
2.2. Nhi m vụ nghi n ứ
2
Với mục đích đề ra như ở trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Giới thiệu khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện
Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 - cơ sở tác động đến sự chuyển biến kinh tế, xã hội
của huyện trong giai đoạn này.
- Làm rõ chuyển biến về kinh tế (bao gồm chuyển biến về cơ cấu kinh tế, sự phát
triển của các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ...) và chuyển biến về xã hội (dân cư, văn hóa - giáo dục, y tế, môi
trường…) của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013.
- Bước đầu đưa ra một số nhận xét về chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ
Liêm dưới tác động của đô thị hóa từ năm 1996 đến năm 2013 trên cả mặt thành tựu và
hạn chế; đồng thời nêu một số vấn đề đặt ra đối với địa phương trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội trong thời gian tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3. . Đ i t ợng nghi n ứ
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội dưới tác động của quá trình đô thị hóa.
3.2. Phạm vi nghi n ứ
Về không gian: Đề tài luận án nghiên cứu trên phạm vi không gian huyện Từ Liêm
(Hà Nội) trong khung nghiên cứu (gồm 15 xã và 1 thị trấn).
Về thời gian: Đề tài luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1996 đến năm
2013. Mốc năm 1996 là năm đất nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình này tác động rất lớn đến vấn
đề đô thị hóa của đất nước cũng như của Hà Nội; đồng thời năm 1996 cũng là năm Hà
Nội chia tách địa giới hành chính để thành lập các quận mới (Thanh Xuân và Cầu Giấy),
huyện Từ Liêm còn lại 15 xã và 1 thị trấn. Mốc năm 2013 là năm huyện Từ Liêm được
phân chia thành 2 quận là: Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.
Về nội dung: Luận án nghiên cứu chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm dưới
tác động của ĐTH. Về mặt kinh tế, luận án trình bày trên các lĩnh vực: chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và các lĩnh vực kinh tế như: nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại và dịch vụ. Về mặt xã hội, luận án trình bày các lĩnh vực: dân cư, lao động-
việc làm, văn hóa - giáo dục, y tế, môi trường và biến đổi đời sống cư dân. Trên cơ sở
đó, luân án đưa ra những nhận xét về chuyển biến KT, XH huyện Từ Liêm dưới tác
động của ĐTH từ năm 1996 đến năm 2013 trên hai mặt thành tựu và hạn chế.
3
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4. . Ph ơng há l ận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử; quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối phát triển kinh tế, xã hội.
4.2. Ph ơng há nghi n ứ
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Vì đây là một đề tài mang mã số
chuyên ngành Lịch sử, do vậy chúng tôi tuân thủ bám sát tiến trình phát triển lịch sử,
làm rõ sự khác biệt giữa phương pháp tiếp cận lịch sử với phương pháp tiếp cận khác.
Phương pháp lịch sử được vận dụng để xem xét và trình bày các sự kiện, con số,
vấn đề theo trình tự thời gian nhằm làm rõ quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của
huyện Từ Liêm trên nhiều lĩnh vực.
Phương pháp logic được vận dụng để xâu chuỗi các sự kiện một cách chính xác
nhằm trình bày vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được vận dụng để tổng hợp các thông tin, số
liệu nhằm trình bày vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống, đồng thời được vận dụng khi
lựa chọn, phân tích giá trị của sự kiện, số liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh được vận dụng để so sánh các vấn đề kinh tế, xã hội giữa
các giai đoạn của huyện Từ Liêm và giữa huyện Từ Liêm với một vài huyện ngoại thành
khác của thành phố Hà Nội.
4.3. Ng ồn tài li
Nguồn tư liệu được sử dụng trong luận án gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề kinh tế, xã hội.
- Chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội
và huyện Từ Liêm; các báo cáo tổng kết kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội và huyện
Từ Liêm.
- Các sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề đô thị hóa, vấn đề
kinh tế, xã hội ở Hà Nội nói chung và Từ Liêm nói riêng.
- Nguồn tài liệu điều tra, khảo sát về vấn đề đô thị hóa, kinh tế, xã hội trên địa bàn
huyện Từ Liêm của tác giả.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Tập hợp và hệ thống hóa khối lượng tài liệu về vấn đề đô thị hóa ở từ Liêm và
quá trình phát triển kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013;
4
- Luận án dựng lại một cách khách quan và tương đối toàn diện về chuyển biến
kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm dưới tác động của quá trình đô thị hóa của huyện
cũng như của thành phố Hà Nội từ năm 1996 đến năm 2013.
- Trên cơ sở nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm từ năm
1996 đến năm 2013, luận án phân tích, đánh giá, làm rõ những thành tựu, hạn chế của
quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện ngoại thành Từ Liêm dưới tác động của
quá trình đô thị hóa.
- Luận án cung cấp thông tin, bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu về quá trình phát
triển kinh tế, xã hội cũng như về vấn đề đô thị hóa một huyện ngoại thành - Từ Liêm nói
riêng và vùng ven đô Hà Nội nói chung hiện nay; góp phần vào việc nghiên cứu kinh tế, xã
hội Hà Nội, nói riêng; kinh tế, xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, trên cơ sở cung cấp những kết quả nghiên cứu khách quan về thực
trạng chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm dưới tác động của quá trình đô thị
hóa từ năm 1996 đến năm 2013, luận án góp thêm một nghiên cứu trong tổng thể hệ đề
tài khoa học về kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung, về quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn hiện nay nói riêng - một trong những vấn đề quan trọng và cấp
thiết trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường chủ động hội nhập quốc tế
toàn diện của đất nước.
- Về thực tiễn, kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan hoạch định chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, nhất là đối với những địa
phương vùng ven đô đang trong quá trình đô thị hóa; đồng thời là nguồn tài liệu phục vụ
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử thành phố Hà Nội.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được chia
thành 5 chương:
h ơng : Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
h ơng 2: Khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa huyện Từ Liêm từ
năm 1996 đến năm 2013
h ơng 3: Chuyển biến kinh tế của huyện Từ Liêm
h ơng 4: Chuyển biến xã hội của huyện Từ Liêm
h ơng 5: Một số nhận xét
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
. . . Những nghi n ứ về inh t , hội và vấn ề th h n i h ng
- Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội
Trong thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, các chính trị gia và nhiều nhà
khoa học đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội Việt Nam. Những công trình
đề cập chủ yếu đến các chính sách và những kết quả bước đầu của đường lối đổi mới,
quan trọng nhất là những chuyển biến trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước nói
chung. Có thể kể đến một số công trình sau:
Trong tác phẩm “Đổi mới đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại” (Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1987), tác giả Trường Chinh đã phân tích chủ trương của Đảng đề ra tại
các Đại hội IV, V; trên cơ sở đó khẳng định tính đúng đắn và những thành tựu đạt được;
đồng thời chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, nguyên nhân của nó, tất yếu phải đổi mới,
nhất là đổi mới tư duy kinh tế.
Nguyễn Văn Linh, trong tác phẩm Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực
hoạt động (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987) đã đề cập đến vấn đề kinh tế, chủ trương, chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc nền
kinh tế đất nước.
Trong cuốn sách Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương hướng và
giải pháp chủ yếu, (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990), Lê Xuân Trinh cùng nhóm
tác giả đã đề cập tương đối toàn diện về tình hình và những bài học thực tiễn; quan
điểm, mục tiêu chiến lược, những định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm ổn
định, phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta đến năm 2000.
Tác phẩm Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu, vấn đề và giải pháp (Phạm Xuân
Nam chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991), đã phân tích các lĩnh vực chủ yếu
của đời sống kinh tế - xã hội đất nước sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, qua đó nêu lên những thành tựu đạt được, chỉ ra những vấn đề
tồn đọng; đồng thời đề xuất một số kiến nghị về giải pháp nhằm góp phần xây dựng,
hoàn thiện và tổ chức thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đất
nước đến năm 2000.
6
Công trình Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay (Nxb. Tư tưởng-Văn hóa,
Hà Nội, 1991) là một bộ chuyên đề gồm 3 tập (tập I, II, III), là những kết quả bước đầu
của việc nghiên cứu nông thôn Việt Nam một cách khá công phu, toàn diện và sâu sắc.
Tập I đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội nông thôn hiện nay, các vùng kinh tế - xã hội
nông thôn; lao động việc làm ở nông thôn, thu nhập đời sống của người nông dân, thực
trạng và định hướng hợp tác xã nông nghiệp. Tập II nghiên cứu về những vấn đề phát
triển công nghiệp nông thôn; thực trạng kinh tế - xã hội nông thôn tại một số vùng tập
trung các dân tộc thiểu số; thực trạng văn hóa nông thôn Việt Nam. Tập III trình bày về
phân tầng xã hội nông thôn hiện nay; việc thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội nông
thôn; tình hình giáo dục y tế, môi trường tại các vùng nông thôn; thực trạng dân chủ,
công bằng xã hội và pháp chế nông thôn; tổ chức chính trị và tình hình đội ngũ cán bộ
cơ sở nông thôn.
Cuốn sách Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam (Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1999) của Trương Thị Tiến là một chuyên khảo về một trong những
khía cạnh cơ bản nhất của sản xuất nông nghiệp là đổi mới cơ chế quản lý. Tác giả đã
phân tích và trình bày quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp với bước đột phá từ
năm 1981, khi Chỉ thị 100 CT-TW của Ban Bí thư Trung ương ra đời cho đến năm
1998. Tác giả đề cập đến sự phân hóa giàu nghèo trong nông thôn; giải quyết vấn đề
ruộng đất cho nông dân, chăm lo đời sống văn hóa-xã hội của dân cư nông thôn.
Năm 2001, Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Việt Nam
trong thế kỷ XX”, gồm nhiều bài viết của các học giả trong nước và ngoài nước về
những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị trong thế kỷ XX; công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Trong cuốn Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới (Nguyễn Văn
Thường chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004), đã đề cập đến những
thành tựu và hạn chế về tình hình phát triển của các thành phần kinh tế như kinh tế nhà
nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...; các ngành, các lĩnh vực như
công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, chính sách đất đai, vấn đề quản lý nhà
nước, hệ thống tài chính - tiền tệ, lao động và việc làm, chính sách tiền lương, giáo dục -
đào tạo, xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế...; từ đó đưa ra
những giải pháp khắc phục và phương hướng phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta trong
những năm tiếp theo.
7
Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), trong cuốn Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số
vấn đề lý luận và thực tiễn (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006), đã phân tích bối cảnh
lịch sử, quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới, những thành tựu và hạn chế
của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong 20 năm trên các lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới và chỉnh đốn Đảng; đồng thời làm sáng tỏ nhận
thức về bản chất, đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Công trình Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 - 2006) thành tựu và những
vấn đề đặt ra do Đặng Thị Loan - Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa đồng chủ biên (Nxb.
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2006), đã nêu bật chủ trương đổi mới kinh tế của
Đảng và Nhà nước Việt Nam; khái quát một số thành tựu, hạn chế về kinh tế, xã hội
trong 20 năm đổi mới; phân tích một số vấn đề nổi bật như: quản lý nhà nước về kinh tế,
sự hình thành và phát triển các loại thị trường, kinh tế tư nhân, hội nhập kinh tế quốc tế
và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sự phát triển của các ngành kinh tế; đồng thời, đề
xuất giải pháp tiếp tục đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Trong cuốn Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa
(Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006), các tác giả Nguyễn Xuân Thu và Nguyễn Văn
Phú đã tập trung phân tích, đánh giá tổng hợp các lợi thế so sánh của các kiểu loại vùng và
đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển các vùng trong quá trình thực hiện rút ngắn tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, các tác giả đã bước đầu phân
tích và luận giải về sự phát triển kinh tế vùng trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
Cùng chủ đề trên, cuốn sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn ở Việt Nam con đường và bước đi (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006) đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình hình thành
và định hướng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng từ năm 1991 đến 2006.
Công trình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do Vũ Đình
Bách chủ biên (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008) đã đề cập đến những nhận thức
về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; vấn đề thể chế và quản lý nhà nước trong
cơ chế thị trường, động lực phát triển và các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành, phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
8
Năm 2008, Nxb. Thế giới xuất bản cuốn sách Việt Nam 20 năm đổi mới do Ari
Kokko chủ biên. Nội dung cuốn sách là những bàn luận về hoạt động của nền kinh tế
Việt Nam và vai trò của nhà nước trong quá trình phát triển suốt 20 năm. Đặc biệt là bàn
luận về một số lĩnh vực như cải cách doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển của khu vực
tư nhân và an sinh xã hội, trong đó có so sánh với kinh nghiệm của các nước Bắc Âu.
Tuy nhiên, đây chỉ mới là một khảo sát có chọn lọc và chưa hoàn chỉnh về các vấn đề
phát triển ở Việt Nam.
Công trình Những vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) gồm nhiều bài viết về thành
tựu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ khi đổi mới đến nay. Sau hơn 30
năm đổi mới, kinh tế-xã hội Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, giúp cho
Việt Nam từ chỗ là một quốc gia nhập khẩu về lương thực đã vươn lên thành một trong
những nước xuất khẩu hàng đầu về lúa, gạo và một số mặt hàng nông sản khác. Tỷ lệ
nghèo đói ở khu vực nông thôn giảm nhanh, mức sống chung của đông đảo người dân
được cải thiện. Đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn đã có những chuyển biến quan
trọng trên con đường hình thành và phát triển nông thôn mới, hiện đại. Tuy nhiên, cùng
với những thành tựu trên, việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
kéo theo nhiều hệ lụy, làm nảy sinh nhiều vấn đề có khả năng đe dọa sự phát triển trong
tương lai của nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đó là năng lực cạnh tranh quốc tế trên các lĩnh vực;
nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; việc phân bổ và sử dụng đất đai còn quá
nhiều bất cập; ô nhiễm môi trường nhanh chóng gia tăng; khoảng cách thu nhập giữa
thành thị - nông thôn có xu hướng ngày càng lớn và phân hóa giàu nghèo ngay ở khu
vực nông thôn gia tăng; nhu cầu việc làm và cải thiện thu nhập đang trở nên cấp thiết…
Những vấn đề này đã được trình bày một cách tương đối cụ thể trong công trình này.
Cuốn sách Phát triển bền vững kinh tế - xã hội các thành phố theo hướng hiện đại
(Nxb. Chính trị Quốc gia & Sự thật, Hà Nội, 2012) trình bày những vấn đề cơ bản về
thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và các thành phố nói riêng;
xác định mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí và định hướng, các bước đi, mô hình, giải pháp
cho các thành phố thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH hướng tới sự phát triển
bền vững. Đặc biệt, một trong những nội dung cơ bản có liên quan đến đề tài luận án mà
9
cuốn sách tập trung phân tích là các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội bền vững, theo
hướng hiện đại của Thủ đô Hà Nội.
Cũng với cách tiếp cận như vậy, Nguyễn Ngọc Hà trong công trình Đường lối phát
triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-
2011) (Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2012) đã làm rõ quá trình hình thành những
quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng trong thời kỳ đổi mới;
nghiên cứu một cách toàn diện về kinh tế nông nghiệp; quá trình triển khai thực hiện
đường lối, chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp và những thành tựu đã đạt được.
Trong luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến 2002 (Học viện Chính trị Quân sự,
2012), tác giả Lê Quang Phi đã làm rõ yêu cầu khách quan chủ trương của Đảng về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; trình bày sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn, đồng thời đưa ra một số nhận xét về những thành tựu, yếu
kém và nguyên nhân của những thành tựu, yếu kém đó. Từ đó, luận án rút ra một số bài
học kinh nghiệm của Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
trong giai đoạn từ 1991 đến 2002.
Năm 2014, Viện Sử học, xuất bản cuốn Lịch sử Việt Nam - Tập 15 (từ năm 1986
đến năm 2000) do Nxb. Khoa học xã hội ấn hành, tái bản năm 2017). Nội dung cuốn
sách đề cập đến những thành tựu to lớn trong 15 năm đầu đổi mới ở Việt Nam (1986 -
2000) trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế,...
Phạm Quý Thọ, trong cuốn Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi (Nxb. Thông tin
và Truyền thông, Hà Nội, 2015), đã làm rõ thực trạng phát triển kinh tế đất nước trong
các giai đoạn của 30 năm đổi mới, đồng thời khái quát vấn đề trọng tâm là cải cách thể
chế kinh tế, phát họa các ý tưởng ban đầu về mô hình, quan điểm chuyển đổi và giải
pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam theo đúng quỹ đạo phát triển.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu chuyên sâu của các nhà
Kinh tế học, Địa lý, Sử học, Chính trị học, đáng chú ý là: Nguyễn Sinh Cúc, Thực trạng
nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam (1976 -1990), Nxb. Thống kê, Hà Nội,
1991; Lê Đình Thắng (cb), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 1998; Những vấn đề kinh tế - xã hội và
môi trường vùng ven đô các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững (Trung tâm
Nghiên cứu địa lý nhân văn - Nguyễn Ngọc Tuấn chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội,
10
2003); Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN, Nxb. Lao động,
Hà Nội, 2006; Phan Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến (cb), Một số vấn đề kinh tế - xã hội
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2006; Lê Thông (chủ biên), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam,
(Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, năm 2009); Phạm Thị Khanh (chủ biên), Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2010); Trịnh Thị Ái Hoa, Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô ở Việt
Nam, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010).
Mặc dù những tác phẩm trên không trực tiếp đề cập cụ thể về kinh tế, xã hội Hà
Nội hay huyện Từ Liêm nhưng những kết quả nghiên cứu đó đã giúp tác giả luận án có
cơ sở nhận thức về vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH
để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
Cùng với các sách đã được công bố, có những bài đăng trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành có nội dung về chủ đề kinh tế, xã hội. Cụ thể là:
Trong bài viết Mấy nét tổng quan về quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam
15 năm qua (Tạp chí NCLS, số 1/2001), tác giả Phạm Xuân Nam đã trình bày một cách
hệ thống những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu của công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước trong 15 năm (1986-2000) trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Nguyễn Sinh Cúc trong Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 20 năm đổi mới (Tạp chí
Lịch sử Đảng số 12/2005), đã cho thấy những thành tựu trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của đất nước từ năm 1986 đến 2005 trên các lĩnh vực của kinh tế như:
chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và thành phần kinh tế. Qua đó, tác giả đánh giá
những ưu điểm, khuyết điểm và đưa ra những giải pháp nhằm đạt được kết quả tốt hơn
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian tới.
Đặng Thị Kim Oanh trong bài viết Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/2005) đã trình bày có
hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, qua đó nêu lên được thành thành tựu đạt được
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong thời gian qua.
Bên cạnh đó còn một số bài viết của Nguyễn Văn Bích, Vai trò của các chính sách
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nước ta trong những năm đổi mới,
Tạp chí Quản lý kinh tế nông nghiệp, số 5-1994; Phạm Xuân Nam, Nhìn lại bước thăng
11
trầm của nông nghiệp, nông thôn nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí
NCLS, số 5 (2001)... Đây là những bài viết vừa mang tính lý luận vừa mang tính khái
quát cao, đã giúp tác giả không chỉ về nhận thức mà còn về phương pháp tiếp cận và thể
hiện chủ đề nghiên cứu của luận án.
- Những nghiên cứu về đô thị hóa
Ở Việt Nam, vấn đề đô thị hóa và những tác động của nó đến đời sống kinh tế, xã
hội luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, từ các nhà lãnh đạo đến các
nhà quản lý, từ giới khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội. Vấn đề đô thị được các nhà
xã hội học, kinh tế học, nhân học… quan tâm nghiên cứu với một số công trình như:
Trong cuốn Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay (Nxb. VHTT,
Hà Nội, 1997), Trần Văn Bính đã đề cập một số khía cạnh văn hóa trong quá trình đô thị
hóa ở nước ta. Tác giả chỉ ra rằng, việc chuyển từ đời sống nông thôn sang đô thị cũng
làm cho các quan hệ tình làng nghĩa xóm, quan hệ huyết tộc và các mối quan hệ trong
gia đình bị suy giảm. Theo tác giả, sự suy giảm các mối quan hệ này do nhiều yếu tố tác
động, trong đó phải kể đến không gian sống và sinh hoạt của gia đình. Khi không gian
sống bị thu hẹp cùng với sự bận rộng trong công việc của mỗi thành viên trong gia đình
đã làm cho các mối quan hệ họ hàng, quan hệ cha mẹ con cái bị giảm sút.
Nguyễn Thế Bá trong cuốn Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị (Nxb. Xây dựng,
Hà Nội, 1998) cho rằng, quá trình đô thị hóa là quá trình công nghiệp hóa đất nước. Quá
trình đô thị hóa cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp,
cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu không gian kiến trúc xây dựng từ dạng nông thôn
sang thành thị và diễn ra song song với động thái phát triển không gian kinh tế xã hội.
Trình độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của nền văn hóa
và của phương thức tổ chức cuộc sống xã hội. Đồng thời gắn liền với tiến bộ của khoa học
kỹ thuật và sự phát triển của các ngành nghề mới.
Trong cuốn Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam của Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998)
chủ biên, đã phân tích công nghiệp hoá và tác động của nó đến quá trình đô thị hoá ở
Việt Nam trong thời đại hiện nay; nhấn mạnh đến một số chính sách đối với đô thị hóa ở
Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH của đất nước.
Lê Thanh Sang với Đô thị hoá và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới
1979-1989 và 1989-1999 (Nxb. KHXH, Hà Nội, 2008) đã đem đến cái nhìn tổng quan
12
về đô thị hoá và các lý thuyết đô thị hóa ở Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại, tăng
trưởng đô thị ở Việt Nam trước và sau đổi mới…
Đến đầu thế kỷ XXI, đã có thêm rất nhiều công trình về đô thị và đô thị hóa ở Việt
Nam, trước hết là ở những khu vực đô thị, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh… Có thể kể đến các công trình sau:
Trong bài viết Hà Nội, một số biến đổi trong đời sống và diện mạo đô thị hiện nay
(in trong cuốn Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, Nxb. VHTT, Hà Nội, 2000),
Trịnh Duy Luân chỉ ra hình ảnh một Hà Nội năng động, đang biến đổi nhanh chóng,
đang vươn xa về phía Nam đồng thời đang đổi mới rõ rệt các khu phố cổ, khu phố thời
thuộc Pháp. Mặt khác, tác giả cũng nên ra thực trạng ngổn ngang của buổi đầu phát
triển, mở rộng thủ đô.
Nguyễn Thanh Tuấn trong công trình iến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay
(Nxb. VHTT và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2006) đã phân tích sự biến đổi văn hóa đô thị
trong thời kỳ đổi mới và chỉ ra những nhân tố thúc đẩy biến đổi văn hóa, xu hướng biến
đổi văn hóa đô thị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả có 6 cơ sở thúc đẩy biến đổi văn hóa
đô thị là: 1/ các nhân tố biến đổi kinh tế; 2/ các nhân tố biến đổi khoa học-kỹ thuật-công
nghệ; 3/ tư tưởng đóng vai trò thúc đẩy, đổi mới hoặc kìm hãm biến đổi văn hóa; 4/ phát
triển dân số về quy mô cơ cấu, chất lượng tác động đến sự biến đổi văn hóa đô thị; 5/
biến đổi thiết chế xã hội - văn hóa theo hướng phát triển nhiều dạng thiết chế Nhà nước
và của xã hội; 6/ sự giao lưu văn hóa với các thành phố, các tỉnh trong và ngoài nước sẽ
tăng cường năng lực truyền bá những dạng văn hóa mới. Tác giả cũng cho rằng, việc mở
rộng diện tích, thay đổi kiến trúc nhà cao tầng ở đô thị hiện nay một mặt vừa mở rộng
cách thức và sở thích sinh hoạt riêng tư nhưng mặt khác lại làm giảm các quan hệ giao
tiếp giữa các thành viên trong gia đình vốn đã duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Để hạn chế những hệ lụy do đô thị hóa gây ra, những năm gần đây, các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã tập trung nghiên cứu lý thuyết, trước hết nhằm
đưa ra những khái niệm mới, mô hình mới về đô thị hóa bền vững. Có thể kể đến các tác
giả như Đào Thế Tuấn, Tôn Nữ Quỳnh Trân, Ngô Vương Anh, Ngô Thắng Lợi,…
Có thể nói, đô thị và đô thị hoá không chỉ thu hút các học giả trong nước mà còn
được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đặc biệt quan tâm. Nhiều chuyên gia về đô thị
học quốc tế đã giữ vai trò chủ chốt trong hàng loạt các chương trình nghiên cứu và hội
thảo khoa học quốc tế về đô thị Việt Nam truyền thống và hiện đại, về đô thị hoá hiện
13
nay. Có thể kể ra những bài viết của các chuyên gia Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, Hàn
Quốc, Singapore… với một số công trình đã được dịch và giới thiệu với độc giả Việt
Nam như Trịnh Duy Luân, Micheal Leaf (1996), Vấn đề nhà ở đô thị trong nền kinh tế
thị trường của thế giới thứ ba; Michae Leaf (1993), Chính sách nhà ở và quá trình sản
xuất nhà ở đô thị; Pandolfi Laurent (2000), Sự chuyển thể đô thị và quá trình xây dựng
các vùng ngoại vi đô thị; Micheal Leaf (2000), Vùng ven đô Việt Nam: việc quản lý
hành chính sự phát triển của Hà Nội; Mike Douglass (Mỹ, 2008), Đô thị hóa vùng ven
Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công cộng; Lisa Drummond (2008), Đô thị hóa ngoại ô
Thành phố Hồ Chí Minh; Timothy M. Gorman (Mỹ, 2008), Nền kinh tế hàng ngày: suy
nghĩ lại về tính chất không chính thống ở Việt Nam… và một hệ thống bài viết cho các
tiểu ban Đô thị và Đô thị hoá của các Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất
(1998) và lần thứ 3 (2008)… Có thể kể đến một số công trình tiên biểu sau đây:
Mike Douglass (Mỹ) trong công trình Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi
không gian công cộng (trong Kỷ yếu Hội thảo về Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa
vùng ven ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008) đã nghiên cứu về những
chuyển biến mới trong văn hóa đô thị tại Việt Nam. Tác giả khẳng định đô thị hóa đã tạo
ra cho Hà Nội một diện mạo mới. Thành phố không những được mở rộng ra các vùng
ven đô theo chiều rộng mà còn phát triển theo chiều cao những với khu đô thị cao tầng,
khách sạn, nhà hàng, văn phòng… Mặt khác, tác giả cũng cảnh báo về sự thiếu hụt
những không gian công cộng - nơi rất cần cho sự giao tiếp xã hội của cư dân đô thị.
Timothy M. Gorman (Mỹ) trong bài viết Nền kinh tế hàng ngày: suy nghĩ lại về
tính chất không chính thống ở Việt Nam (trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học
lần thứ ba - Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội, 2008) đã nghiên cứu về Hà Nội
thời kỳ đô thị hóa đã xuất hiện những người nông dân từ nông thôn vào thành phố để
kiếm sống bằng việc bán hàng rong. Tác giả coi đó là hệ quả tất yếu của đô thị hóa và đề
xuất chính quyền thành phố nên sắp xếp lại công ăn việc làm, bố trí nơi ở và quản lý
học, thay vì áp dụng những biện pháp hành chính cứng nhắc.
Tóm lại, những công trình đã nêu trên tuy không trực tiếp đề cập đến vấn đề luận
án nghiên cứu nhưng đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề mang tính lý luận như vấn đề
nông nghiệp, nông thôn; vị trí, chức năng của hệ thống chính trị-xã hội; chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế…; nó không những gợi ý cho tác giả luận án phương pháp tiếp cận mà
còn đưa ra một cái nhìn tổng thể về thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước từ thời điểm
14
tiến hành Đổi mới cho đến nay, cho thấy tính tất yếu của công cuộc đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế nông thôn, nông nghiệp và xã hội.
. .2. Những nghi n ứ về inh t , hội và vấn ề th h Hà Nội
Đô thị hóa không chỉ tác động đến kinh tế - xã hội khu vực đô thị lớn như đã trình
bày ở trên, mà còn tới những vùng ven đô, nông thôn, đặc biệt diễn ra mạnh mẽ tại các
huyện ngoại thành Hà Nội.
Trong công trình nh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội:
thực trạng và giải pháp (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002), các tác giả đã phân tích một cách
khái quát những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội,
làm rõ các tác động vừa mang tính tích cực cũng như tiêu cực.
Ở một phạm vi rộng hơn là không gian vùng ven đô, Nguyễn Hữu Minh trong iến
đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Xã hội
học, số 1/2005) đã đề cập đến quá trình biến đổi kinh tế - xã hội của Hà Nội trong thời
kỳ đổi mới như biến đổi trong trong sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, tiêu dùng, tôn giáo,
tín ngư ng. Trong đó, tác giả chỉ ra rằng sự chuyển biến quá đột ngột về hành chính có
thể làm cho một bộ phận dân cư chưa kịp chuẩn bị với những đòi hỏi của cuộc sống đô
thị, dẫn đến những hẫng hụt. Nhịp sống, cơ cấu xã hội và các mối quan hệ xã hội ở nông
thôn có thể thay đổi một cách cơ bản. Tuy nhiên, ở nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về sự thay đổi các chuẩn mực văn hóa cộng đồng là sự thay đổi thái độ, hành
vi và ứng xử của mỗi cư dân khu vực ven đô trong đời sống gia đình và xã hội.
Trần Đức Ngôn trong công trình Văn hóa truyền thống ngoại thành Hà Nội dước
tác động của kinh tế thị trường (Nxb. VHTT, Hà Nội, 2005) đã cho rằng, trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở ngoại thành Hà Nội đang
có những thay đổi nhanh chóng.
Ngô Văn Giá trong Những biến đổi về giá trị văn hoá truyền thống của các làng
ven đô thuộc địa bàn Hà Nội trong thời kỳ đổi mới (Học viện CT-HCQGHCM, 2007) đã
phân tích những biến đổi kinh tế-xã hội tác động tới sự biến đổi giá trị văn hoá truyền
thống của các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới. Làm rõ hiện trạng biến đổi giá
trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới và đề xuất một
số phương hướng và giải pháp phát triển và giữ gìn các giá trị văn hóa làng ven đô.
Lê Tiêu La với nghiên cứu Một số biến đổi xã hội ở nông thôn vùng ven đô Hà Nội
trong thời kỳ đổi mới (Học viện CT-HCQGHCM, 2007) đã trình bày một số khía cạnh
15
lý luận và thực tiễn của biến đổi xã hội. Phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến
sự biến đổi của một số vấn đề xã hội ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi
mới. Đồng thời đã đưa ra các dự báo một số xu hướng biến đổi về xã hội, đưa ra một số
giải pháp nhằm phát triển bền vững xã hội nông thôn vùng ven đô Hà Nội.
Qua công trình Đô thị hóa đối và việc làm lao động ngoại thành Hà Nội (Nxb.
KHXH, Hà Nội, 2013), Nguyễn Thị Hải Vân đã cho thấy một trong nhiều tác động của
đô thị hóa đối với vùng ngoại thành Hà Nôi, đó là vấn đề lao động, việc làm. Đây là một
trong những vấn đề xã hội rất đáng quan tâm hiện nay, khi mà những chính sách đào tạo
nghề và việc làm của nhà nước cho những vùng nông thôn nói chung và vùng ngoại
thành Hà Nội nói riêng chưa phát huy được hiệu quả.
Trong Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại thành từ năm
1991 đến năm 2008 (Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, 2016), Lê Tiến Dũng đã
phân tích, đánh giá những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại
thành của Đảng bộ Thành phố Hà Nội; Sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong
lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại thành trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ từ năm 1991 đến năm 2008; Từ đó đưa ra
những đánh giá ưu điểm, hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh
đạo phát triển kinh tế ngoại thành của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, qua đó góp phần giải
quyết những vấn đề đặt ra trong các giai đoạn tiếp theo.
Có thể nói, vùng ven Hà Nội chịu tác động mạnh của quá trình đô thị hoá, các khu
dân cư nông nghiệp vùng ven đang chuyển dần thành các khu dân cư đô thị. Dân cư ở
đây đã có những thay đổi tích cực trong chiến lược sống, tâm lý, sinh kế, lao động việc
làm..., đã có một số nghiên cứu về vấn đề này.
Theo Phạm Hùng Cường trong Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn
đồng bằng sông Hồng thành các đơn vị ở trong quá trình đô thị hoá (Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Xây dựng, 2001), đô thị hóa là quá trình diễn biến toàn diện với sự
chuyển biến về nghề nghiệp, cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; sự
chuyển đổi đời sống văn hóa, xã hội, lối sống từ nông thôn sang đô thị; sự chuyển đổi
không gian tương ứng với các thay đổi kinh tế, xã hội và là sự thay đổi bộ máy hành
chính, quản lý từ nông thôn (xã) sang đô thị (phường). Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy
quá trình đô thị hoá của Hà Nội không chỉ là sự tập trung dân cư từ nông thôn vào đô thị
mà có sự chuyển dịch phức tạp của nhiều dòng dịch cư, trong đó luồng dịch cư từ nội
16
thành ra vùng ven là rất đáng kể và quá trình đô thị hoá vùng ven theo tác giả đòi hỏi
phải cấu trúc lại các không gian làng xã truyền thống để phù hợp với những chuyển biến
về xã hội, dân cư, lao động...
Lê Văn Nãi trong Nghiên cứu đánh giá các mặt tích cực, tồn tại trong quá trình đô
thị hóa làng-xã thành phường ở Hà Nội và kiến nghị các giải pháp khắc phục (Tạp chí
Người xây dựng, số 2/2004) cho rằng đô thị hóa làng xã thành phường là quá trình biến
đổi 4 vấn đề cơ bản sau: (1) Chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp thành sản xuất phi
nông nghiệp; (2) Chuyển từ nơi dân cư phân tán, mật độ dân cư thấp thành nơi tập trung
dân cư với mật độ cao; (3) Chuyển từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn thành cơ sở hạ
tầng kỹ thuật đô thị; (4) Chuyển đổi từ xã hội-văn hóa nông thôn thành xã hội-văn hóa
đô thị. Tất cả các chuyển đổi đó làm cho làng xã thành phường có vai trò thúc đẩy sự đô
thị hóa các làng xã tiếp theo.
Phan Thị Mai Hương với bài viết Chiến lư c sống qua những dự định nghề nghiệp
của cư dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Tâm lý học, số 12/2008)
đã nghiên cứu chiến lược sống qua những dự định việc làm của người dân khu vực ven
đô cho thấy yếu tố nội lực cho sự phát triển chưa trở thành một nguồn lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự đổi mới cho mỗi người. Minh chứng cho sự bị động của người dân trước bối
cảnh mới, cần sự chuẩn bị tâm lý chu đáo để tiếp cận với cơ hội phát triển một cách chủ
động hơn.
Đỗ Thị Lệ Hằng trong bài viết Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp của cư dân
vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Tâm lý học, số 3/2008), nêu rõ thực
trạng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và thu nhập của người dân vùng ven đô Hà Nội.
Thông qua những nghiên cứu, thống kê về nghề nghiệp, thu nhập chính của các hộ gia
đình thuộc 3 khu vực: Yên Mĩ, Yên Sở, Mỹ Đình trong quá trình đô thị hóa.
Có cùng lựa chọn không gian nghiên cứu là vùng ven đô Hà Nội, Phan Thị Mai
Hương trong công trình Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong quá trình
đô thị hóa (Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2010) cũng góp phần phác thảo nên bức
tranh chung về quá trình đô thị hóa ở vùng ven đô, tìm hiểu thực trạng và sự biến đổi
một số mặt trong đời sống tâm lý của cư dân vùng ven đô đã được đô thị hóa và những
tác động của quá trình này đến đời sống tâm lý của người dân hiện nay. Tác giả kết luận,
những mặt, những khía cạnh liên quan đến đời sống kinh tế có sự biến đổi nhanh và
17
mạnh mẽ, còn những mặt, những khía cạnh liên quan đến văn hóa, tinh thần thì biến đổi
chậm hơn hoặc biến đổi theo chiều hướng tích cực.
Công trình Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội của
tác giả Nguyễn Văn Sửu (Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2014). Nội dung của nghiên cứu này
đã tập trung mô tả, phân tích và lý giải về đô thị hóa, công nghiệp hóa và những tác
động của nó đến biến đổi sinh kế của các hộ gia đình nông dân ở khu vực ven đô Hà Nội
trong hơn một thập kỷ qua, với việc chọn hai cộng đồng làng Phú Điền và Gia Minh như
hai nghiên cứu trường hợp phản ánh rõ sự chuyển đổi của khu vực ven đô Hà Nội dưới
tác động của đô thị hóa. Qua đó, tác giả kết luận rằng quá trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa, mà nổi bật là việc thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp của các hộ gia đình
nông dân để xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng đô thị... đã
làm chuyển đổi mạnh mẽ cuộc sống và các chiến lược sinh kế của nhiều hộ gia đình
nông dân ở ven đô Hà Nội.
Không chỉ là những nghiên cứu vùng ven đô/ngoại thành nói chung, có nhiều
nghiên cứu đã chọn đối tượng là những địa phương cụ thể, có thể là xã/phường/làng cụ
thể nào đó. Có thể kể đến một số công trình sau:
Ở lĩnh vực này, trong nghiên cứu Những biến đổi kinh tế - xã hội ở ịch Vọng
trong quá trình đô thị hóa từ làng, xã thành phường (Viện Xã hội học, 1999), Trịnh Duy
Luân đã đề cập đến những biến đổi kinh tế - xã hội tại Dịch Vọng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, quá trình đô thị hóa ở Dịch Vọng đã dẫn tới sự gia tăng đột biến về dân số, sự
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp nhanh chóng. Đời sống vật chất của người dân Dịch
Vọng khá hơn so với trước khi trở thành phường. Tác giả cũng chỉ rõ rằng, việc đời
sống vật chất được nâng cao ở đây chưa mang tính phát triển bền vững. Bởi vì phần lớn
người dân ở đây chủ yếu được nhận tiền đền bù đất, bán đất và có nhà cho thuê, chứ
không phải là do chuyển đổi nghề nghiệp hay phát triển tương đối lớn do được đền bù
hay bán đất canh tác, đất thổ cư để cải thiện đời sống vật chất trước mắt mà không đầu
tư được vào sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện làm ăn phát triển lâu dài…
Tuy nhiên, tác giả cũng nói rằng, dù có sự thay đổi ít nhiều về dân số, nghề nghiệp, đời
sống văn hóa tinh thần nhưng mối quan hệ họ hàng, làng mạc truyền thống ở Dịch Vọng
vẫn được gìn giữ bảo tồn.
Trong công trình iến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá trình đô
thị hóa tại Hà Nội, Trần Thị Hồng Yến (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2013), bằng phương pháp
18
tiếp cận nhân học, đã nghiên cứu những biến đổi về văn hóa, xã hội ở những làng thuộc
các xã chuyển thành phường trên địa bàn Hà Nội. Tác giả đã chọn 3 làng: làng Trung
Kính Thượng (phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy), thôn Tây (phường Nhật Tân, quận
Tây Hồ), làng Thanh Trì (phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai) làm điểm nghiên cứu.
Sau khi chuyển đổi từ xã thành phường, 3 làng đã có những thay đổi về cơ cấu nghề
nghiệp, cơ cấu tổ chức, môi trường sống, các quan hệ xã hội truyền thống, sự phân tầng
xã hội rõ rệt và những tệ nạn xã hội. Trên cơ sở phân tích thực trạng và các dạng thức
biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê chịu tác động của quá trình đô thị hóa theo
phương thức chuyển từ xã thành phường, tác giả đã làm rõ những tác động tích cực cùng
những bất cập về mặt xã hội, văn hóa của quá trình chuyển đổi này.
Nguyễn Đình Tuấn trong công trình iến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư
vùng đô thị hóa (nghiên cứu trường h p tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà
Nội (Luận án tiến sĩ nhân học, Học viện KHXH, 2013) đã nghiên cứu những biến đổi
văn hóa ở cộng đồng dân cư vùng đô thị hóa trong bối cảnh đô thị hóa. Đó là quá trình
biến đổi mang tính tiếp nối và liên tục đan xen giữa cái cũ, cái truyền thống với cái mới,
cái hiện đại. Trong đó những biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất diễn ra nhanh hơn
và có tác động trở lại đối với đời sống văn hóa tinh thần. Những biến đổi trong đời sống
văn hóa vật chất được thể hiện thông qua những thay đổi về không gian sống, kiến trúc
nhà ở và các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình. Còn văn hóa tinh thần nổi lên là những
thay đổi trong cách ứng xử, chuẩn mực, giá trị trong quan hệ họ hàng, dòng họ, cộng đồng
và một số phong tục tập quán, sử dụng thời gian rỗi và giải trí. Những biến đổi này bao
hàm cả mặt tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, quá trình thay đổi và thích nghi văn hóa của
người dân ở Định Công và Minh Khai không phải diễn ra theo một cách đơn thuần từ văn
hóa nông thôn sang văn hóa đô thị mà còn bao hàm trong đó sự lưu giữ và khôi phục
những giá trị văn hóa truyền thống.
Ngoài ra, còn có một số bài viết, luận văn, đề tài như Lịch sử tụ cư, quá trình đô
thị hóa và những đặc điểm dân số học: nghiên cứu trường h p phường Phúc Xá, a
Đình, Hà Nội (Nguyễn Thị Thùy Dương, Tạp chí Xã hội học, số 2-2011); Từ làng đến
phố: đô thị hóa và quá trình chuyển đổi lối sống ở một làng ven đô (Trường h p phường
Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội của Bùi Thị Kim Phượng (Luận văn thạc sỹ,
ĐHQG Hà Nội); Câu chuyện làng iang của Lương Hồng Quang (Chủ biên, 2011,
Nxb. ĐHQG Hà Nội)…
19
Nội dung các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, các công trình này đã cung
cấp lý thuyết cũng như thực tiễn trong nghiên cứu về đô thị hóa, biến đổi về kinh tế, văn
hóa, xã hội dưới tác động của đô thị hóa. Những kết quả nghiên cứu trong các công trình
nói trên đã giúp cho tác giả luận án có thêm nhận thức về những vấn đề phát triển kinh
tế-xã hội dưới tác động của đô thị hóa ở Việt Nam nói chung, các địa phương cụ thể nói
riêng để có thể thực hiện một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn, đầy đủ và đa diện hơn những
nhiệm vụ luận án đặt ra và trong một chừng mực nào đó có thể so sánh với các trường
hợp khác nhằm có một cái nhìn khách quan vấn đề nghiên cứu của mình.
. .3. Những nghi n ứ về inh t , hội h n i m
- Những công trình viết về lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm nói
chung và một số xã của xã của huyện Từ Liêm như: Lịch sử cách mạng huyện Từ Liêm
(2 tập); Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm (1930-2010); Lịch sử cách mạng xã Minh Khai
huyện Từ Liêm - thành phố Hà Nội 1930-2000; Lịch sử cách mạng xã Thuỵ Phương
huyện Từ Liêm - Hà Nội (1972-2006); Lịch sử cách mạng xã Đại Mỗ (1930-2007 ; Lịch
sử cách mạng xã Thư ng Cát - huyện Từ Liêm Thành phố Hà Nội (1930-2009 ; Lịch sử
cách mạng xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội (1930-2010 ; Đảng bộ
huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong những năm 1986-2005 (Nguyễn
Thị Bình, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, 2009)... Đây là nhóm công trình
tìm hiểu những nét chung của huyện như kinh tế, xã hội, nông nghiệp… cũng như của
từng làng, xã, cung cấp cho người đọc những hiểu biết chung về vùng đất này. Trong đó
đáng lưu ý là luận văn Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong
những năm 1986-2005, bằng phương pháp lịch sử, Nguyễn Thị Bình đã cung cấp cho
người đọc quá trình phát triển nông nghiệp của huyện Từ Liêm từ năm 1986 đến 2005
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống các chủ
trương, biện pháp, quá trình lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ huyện Từ Liêm và những
kết quả đạt được theo từng giai đoạn lịch sử. Từ đó, phân tích vai trò của Đảng bộ huyện
Từ Liêm trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, đồng thời đưa ra một
số kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp
trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
- Về quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị hóa ở huyện Từ
Liêm đã có một số sách chuyên khảo, bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu
hội thảo khoa học và các luận án, luận văn.
20
Nhóm thứ nhất viết về đô thị hóa ở huyện Từ Liêm là các bài viết trên tạp chí và
hội thảo khoa học, gồm:
Trong bài viết Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế của nông
dân Việt Nam: trường h p một làng ven đô Hà Nội (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam
học lần thứ 3, 2008), Nguyễn Văn Sửu, đã đi sâu nghiên cứu việc thu hồi đất nông
nghiệp và phân tích tác động của nó đối với cuộc sống của người nông dân huyện Từ
Liêm từ những năm 1990 đến nay. Tác giả cho rằng, việc thu hồi quyền sử dụng đất
nông nghiệp của nhà nước đã tạo ra những tác động quan trọng về kinh tế, xã hội, văn
hóa, chính trị đối với người nông dân bị thu hồi đất để phục vụ cho các mục đích công
nghiệp hóa và đô thị hóa. Để đối phó với tình huống mới, trong khi chính sách của Đảng
và nhà nước về đào tạo nghề và việc làm còn hạn chế, nhiều hộ gia đình đã tự tìm những
phương cách để mưu sinh trong tình hình mới.
Trong bài viết Chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay ở Xuân Đỉnh,
Từ Liêm (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2014), Nguyễn Thị Phương Châm đã nghiên
cứu sự chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa tại xã Xuân Đỉnh - một trong những
địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất ở huyện Từ Liêm trong thời gian qua. Từ
một làng nông nghiệp ven đô, trong bối cảnh đô thị hóa, Xuân Đỉnh đã có những bước
chuyển biến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế hỗn hợp theo xu hướng trọng nông truyền thống
đang dần chuyển sang cơ cấu kinh tế hỗn hợp theo xu hướng trọng thương. Theo tác giả,
người dân đã không thụ động, trông chờ vào các hình thức trợ giúp của nhà nước hay
các doanh nghiệp đền bù đất mà đã chủ động tạo ra đa dạng các hình thức sinh kế cho
mình, ví như cho thuê nhà trọ, các hoạt động dịch vụ, làm bánh mứt kẹo,… Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực do sự chuyển đổi sinh kế thì cũng có những thay đổi tạo ra
những hệ lụy không mong muốn như vấn đề gia tăng sự phức tạp cho thành phần dân cư
trong làng, sự rủi ro trong đầu tư, sự phân tầng xã hội ngày càng rõ rệt… Nhưng trên
hết, dù làng đã chuyển đổi sinh kế song những hình thức sinh kế truyền thống vẫn được
duy trì, cảnh quan làng truyền thống, tình làng nghĩa xóm, sự cố kết chặt chẽ của các
dòng họ, của cộng đồng,… vẫn được bảo đảm.
Đỗ Lan Phương trong Lễ hội ở Xuân Đỉnh: Sự phục hồi và kiếm tìm bản sắc cộng
đồng đương đại (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2014), đã nghiên cứu về sự phục hồi và
kiếm tìm bản sắc lễ hội ở Xuân Đỉnh trong quá trình đô thị hóa. Theo nghiên cứu của tác
giả, diện mạo mới của các lễ hội ở Xuân Đỉnh vừa có sự kế thừa của truyền thống vừa
21
đan cài những lựa chọn sáng tạo mới các thực hành lễ hội như tạo thêm lễ hội, nghi thức
chào cờ, thành phần đoàn rước, trang phục đầy màu sắc, cách thức rước kiệu, trình diễn
nghệ thuật quần chúng… Điều đó đã phản ánh quá trình chuyển đổi xã hội vào đời sống
tín ngư ng, đồng thời cho thấy sự linh hoạt, thích ứng nhanh của người dân đối với quá
trình chuyển đổi này. Tuy nhiên, sự thiếu bền vững với những hoạt động kinh tế không
chính thức cho thấy những đặc trưng mà cộng đồng này lưu truyền được vẫn là chưa đủ,
nó cần có những yếu tố mới để phù hợp với cộng đồng đương đại, trong đó có sự hỗ trợ
từ chính sách phát triển của nhà nước.
Nhóm thứ hai là các luận án, luận văn nghiên cứu về đô thị hóa ở huyện Từ Liêm.
Tác giả Kim Jong Ouk trong Một số biến đổi ở làng xã châu thổ sông Hồng từ
đầu thế kỷ X X đến giữa thế kỷ XX (qua trường h p làng Mễ Trì (Luận án Tiến sĩ,
Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, 2009) đã giới thiệu cho người đọc một bức tranh
tương đối cụ thể và khách quan về làng xã vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trong
quá trình thay đổi địa giới hành chính. Qua đó, tác giả đã làm rõ sự biến đổi của làng xã
vùng đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực trong giai đoạn chuyển tiếp cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Vì đây là một nghiên cứu trường hợp lấy làng Mễ Trì làm điểm
nghiên cứu, do đó, tác giả mới chỉ làm rõ được sự biến đổi của một làng quê, tập trung
chủ yếu vào ba lĩnh vực: bộ máy quản lý, tình hình sở hữu ruộng đất và giáo dục đặt
trong mối quan hệ tổng thể với làng xã vùng châu thổ sông Hồng từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX
Trong Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn (Luận văn thạc sĩ, Trung tâm bồi dư ng giảng viên lý
luận chính trị, ĐHQG HN, 2005), Nguyễn Thị Thọ đã trình bày thực trạng phát triển làng
nghề truyền thống của huyện Từ Liêm từ sau đổi mới đến nay trên mọi lĩnh vực, từ cơ cấu
ngành nghề, nguồn lực phát triển làng nghề, thị trường của làng nghề và các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh. Qua đó cho thấy, phát triển làng nghề đã góp phần vào tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm nâng cao đời sống người dân Từ Liêm.
Ở một chiều cạnh khác, trong luận văn Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ngoại thành theo hướng đô thị hóa ở huyện Từ Liêm (Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Kinh tế, ĐHQG HN, 2007), Ngô Thái Hà trình bày sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm theo hướng đô thị hóa. Đô thị hóa nhanh làm cho
22
diện tích sử dụng đất nông nghiệp bị thu hẹp do chuyển mục đích sử dụng đất đai sang
phục vụ phát triển đô thị, nguồn lao động nông nghiệp dư thừa, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trước đây không còn phù hợp. Kết quả là huyện Từ Liêm phải có sự thay đổi
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng
cho phù hợp với tình hình mới.
Cũng lấy một địa phương cụ thể của huyện Từ Liêm, Kim Kyung đã chọn Phú Đô
- làng làm bún truyền thống có những nét văn hóa đặc sắc của làng xã Việt Nam là đối
tượng nghiên cứu của mình trong Đô thị hóa và tác động của nó đến những biến đổi
làng xã ngoại thành Hà Nội (qua trường h p làng Phú Đô (Luận văn thạc sĩ, Viện Việt
Nam học và khoa học phát triển, 2009). Theo tác giả, những những năm gần đây, nhất là
sau năm 2002, đường phố xung quanh làng đã hoàn thiện, Phú Đô đã thoát khỏi cô lập
về mặt địa lý, khởi đầu cho việc chịu ảnh hưởng sâu sắc của đô thị hoá. Đô thị hoá đã
ảnh hưởng đến cuộc sống người dân Phú Đô về mặt kinh tế-xã hội, văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần. Tác giả đã nêu lên được những ưu điểm và đồng thời cũng chỉ ra một
số hạn chế do sự tác động của đô thị hóa đối với làng Phú Đô; nêu một số biện pháp
phát huy những ưu thế của quá trình đô thị hoá, đảm bảo giữ gìn được bản sắc văn hoá
truyền thống của làng, góp phần định hướng và đào tạo nghề nghiệp cho người dân làng
Phú Đô và đặc biệt là dân di cư cũng như đưa ra những dự báo về hướng phát triển cho
những làng ven đô Hà Nội như Phú Đô.
Trong luận văn Đô thị hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà Nội
(trường h p nghiên cứu xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Viện Việt
Nam học và khoa học phát triển, 2012), Bùi Văn Tuấn đã cho người đọc thấy được quá
trình đô thị hóa của xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm - là địa phương diễn ra tốc độ đô thị hóa
nhanh so với các địa phương khác trong khu vực ven đô. Qua đó cho thấy được sự tác động
của quá trình đô thị hóa đến kinh tế, xã hội của địa phương, cả mặt tích cực và hạn chế, làm
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân và sự phát triển toàn diện của khu vực
ven đô hiện nay. Tác giả kết luận, sự chuyển đổi từ một cộng đồng làng xã truyền thống
sang cộng đồng đô thị của Mễ Trì không chỉ thể hiện ở hoạt động kinh tế nông nghiệp đang
mất đi và sinh kế của người dân giờ đây chủ yếu nhờ vào các hoạt động dịch vụ và phi nông
nghiệp mà còn ở lối sống của cư dân. Quá trình chuyển đổi này cũng cho thấy những khác
biệt và xung đột giữa các nhóm cư dân mới và cũ, giữa lối sống xô bồ của những người di
cư và kiểu cố kết cộng đồng của nhóm cư dân gốc ở Mễ Trì.
23
Trong iải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Từ
Liêm, Thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG HN, 2014),
Trần Thị Hồng Bích đã nghiên cứu thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất nông nghiệp tại huyện Từ Liêm, trong giai đoạn 2004-2012. Theo tác giả, trong giai
đoạn này, để phục vụ quá trình đô thị hóa nhanh, huyện Từ Liêm đã thu hồi nhiều diện
tích đất nông nghiệp của các hộ nông dân để phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp,
giao thông công cộng... Do đó, một lực lượng lớn lao động của huyện sẽ phải chuyển đổi
nghề vì không còn tư liệu sản xuất. Huyện Từ Liêm đã có chủ trương hỗ trợ chuyển đổi
nghề, tạo việc làm cho các hộ mất đất để ổn định sản xuất, bảo đảm cuộc sống. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế như chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư, công tác đào tạo nghề, trách nhiệm của chính quyền với người lao động và người sử
dụng lao động...
Trong iến đổi xã hội vùng ven đô Hà Nội trong bối cảnh đô thị hóa (trường h p
huyện Từ Liêm từ 1996 đến 2013 (Luận án Tiến sĩ Việt Nam học, Viện Việt Nam học
và khoa học phát triển, 2017), bằng phương pháp tiếp cận xã hội học, khu vực học, Bùi
Văn Tuấn đã làm rõ thực trạng về biến đổi xã hội của cộng đồng dân cư ven đô nói
chung và cộng đồng dân cư huyện Từ Liêm nói riêng trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay
trên các chiều cạnh như: cơ cấu dân cư, sinh kế và đời sống văn hóa, cố kết cộng đồng
của người dân Từ Liêm.
1.2. Những nội dung luận án kế thừa và những vấn đề luận án cần tiếp tục
nghiên cứu
.2. . Những nội ng th
Có thể nói, trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã được kế thừa một khối
lượng lớn các nguồn tài liệu và các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội
và về đô thị hóa với nội dung phong phú, đa dạng về cách tiếp cận của các học giả nước
ngoài và các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trên cơ sở trình bày tổng quan tài liệu ở trên,
chúng tôi nhận thấy, những vấn đề tác giả luận án được kế thừa như sau:
Thứ nhất, những tác phẩm trình bày về vấn đề kinh tế, xã hội nói chung và chuyển
biến kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị hóa như đã trình bày trên đây tuy không
trực tiếp đề cập đến vấn đề kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm nhưng là những tác phẩm
mang tính lý luận, cung cấp cho tác giả đề tài những lý thuyết và phương pháp tiếp cận
vấn đề nghiên cứu. Qua nhóm công trình này, có thể thấy rằng, sự chuyển biến kinh tế-
24
xã hội là quy luật phát triển tự nhiên của xã hội loài người từ trước đến nay và đô thị hóa
là quá trình tất yếu, song hành cùng với quy luật phát triển đó. Đồng thời, dưới tác động
của đô thị hóa, hàng loạt vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa đã nảy sinh, đòi hỏi cần giải
quyết. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những biến đổi
lớn về kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt là ở những khu đô thị lớn.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế-xã hội cũng như tác
động của đô thị hóa đến kinh tế, văn hóa - xã hội ở Việt Nam nói chung và ngoại thành
Hà Nội nói riêng rất phong phú, đa dạng, đem đến cho nghiên cứu sinh những cái nhìn
mới, để từ đó tiếp cận vấn đề nghiên cứu của mình - huyện Từ Liêm đặt trong bối cảnh
phát triển của cả thành phố Hà Nội nói chung và các huyện ven ngoại thành nói riêng.
Những công trình này đã giúp cho NCS có thêm nhận thức về bức tranh tổng quan về
đối tượng nghiên cứu, tham khảo và kế thừa các luận giải, đánh giá về những vấn đề
kinh tế, xã hội, văn hóa, cung cấp được nhiều số liệu thống kê khá xác thực về tình hình
kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội; giúp cho NCS có cách nhìn đối sánh với những
chuyển biến về kinh tế - xã hội của huyện Từ Liêm với các huyện lân cận.
Thứ ba, các nghiên cứu về huyện Từ Liêm đã cung cấp những nét tổng quan về
lịch sử phát triển của huyện, nội dung của các công trình nhằm đẩy mạnh quá trình phát
triển của Từ Liêm trong bối cảnh mới, hoặc là về một địa bàn cụ thể (xã/phường), một
lĩnh vực riêng biệt nào đó trong không gian của huyện Từ Liêm (lao động, việc làm,
chuyển đổi sinh kế, xã hội...). Tuy những công trình nêu trên chưa đề cập trực tiếp đến
vấn đề chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của quá trình đô thị hóa của huyện Từ
Liêm, nhưng qua đó NCS có thể nắm bắt được những nét chung nhất về địa bàn nghiên
cứu. Có thể nói rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách có
hệ thống về sự chuyển biến kinh tế-xã hội dưới tác động của đô thị hóa của riêng một
địa bàn ven đô/ngoại thành cụ thể là huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 như đề tài
mà chúng tôi đã lựa chọn.
.2.2. Những vấn ề l ận án giải t
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của nhiều người đi trước như đã nêu, luận án
sẽ tập trung hướng tới việc giải quyết những nội dung sau:
- Giới thiệu và phân tích một cách khái quát về huyện Từ Liêm; chủ trương phát
triển kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở địa phương này từ năm
1996 đến năm 2013.
25
- Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về chuyển biến các mặt kinh tế (bao
gồm chuyển biến về cơ cấu kinh tế, sự phát triển của các ngành kinh tế như nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ...), xã hội (dân cư, văn hóa - giáo
dục, y tế, môi trường…) của Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa trong khung nghiên cứu.
- Trên cơ sở phân tích những chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của quá trình
đô thị hóa ở huyện Từ Liêm, luận án đưa ra một số nhận xét về sự chuyển biến về các mặt
kinh tế, xã hội của Từ Liêm dưới tác động quá trình đô thị hóa; nêu lên những thuận lợi
cũng như thách thức đang đặt ra cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội do quá trình đô thị
hóa đem lại đối với Từ Liêm nói riêng, đối với các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung.
Các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế-xã hội và về đô thị hóa mà tác
i t h ơng
giả luận án vừa trình bày ở trên đã cho thấy sự phong phú về mặt nội dung, sự đa dạng
về cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu. Trong đó, qua những tác phẩm trình bày về
vấn đề kinh tế, xã hội nói chung và chuyển biến kinh tế-xã hội dưới tác động của đô thị
hóa, tác giả luận án có thể tiếp thu thêm những lý thuyết và phương pháp tiếp cận vấn đề
nghiên cứu. Còn các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị
hóa ở Hà Nội đã trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh có cách
tiếp cận mới, từ cách nhìn tổng quan của cả thành phố Hà Nội để từ đó đi sâu vào vấn đề
nghiên cứu cụ thể của luận án và biết nhận diện đối tượng nghiên cứu là huyện Từ Liêm
trong bối cảnh chung của Thủ đô. Ngoài ra, các nghiên cứu về huyện Từ Liêm đã cung
cấp thêm cho tác giả luận án một đôi nét còn chưa sáng tỏ về lịch sử phát triển của
huyện cũng như về một vài địa bàn cụ thể, một vài lĩnh vực riêng biệt... để có thể minh
chứng thêm cho những kiến giải của nghiên cứu sinh.
Tuy vậy, như đã trình bày, cho đến hiện nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện về vấn đề quá trình chuyển biến kinh tế-xã
hội huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa từ năm 1996 đến năm 2013. Do đó,
hướng tiếp cận của luận án là không trùng lặp, mang tính độc lập so với các công trình
nghiên cứu và luận án đã công bố và bảo vệ. Mục tiêu của luận án là nhằm trình bày
khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở địa phương này trong khung nghiên
cứu; phân tích sâu về chuyển biến kinh tế-xã hội của Từ Liêm dưới tác động của đô thị
hóa; trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét về sự chuyển biến trên các mặt kinh tế, xã hội,
nêu lên những thuận lợi cũng như thách thức đang đặt ra.
26
Chương 2
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN TỪ LIÊM VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA
HUYỆN TỪ LIÊM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Khái quát về huyện Từ Liêm
2. . . V t í lý
Từ Liêm là một huyện ngoại thành nằm ở phía Tây của thành phố Hà Nội. Phía
Bắc giáp với huyện Đông Anh; phía Đông giáp các quận Cầu Giấy, Tây Hồ; phía Tây
giáp huyện Hoài Đức, Đan Phượng; phía Nam giáp quận Thanh Xuân.
Huyện Từ Liêm nằm trên trục phát triển phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, có vị
trí địa lý rất thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế. Với mạng lưới giao thông
đường bộ đã và đang phát triển như: Quốc lộ 11 (nay là Quốc lộ 32) nối thủ đô với xứ
Đoài (Sơn Tây) chạy ngang giữa huyện, đường 70 (Hà Đông - Thượng Cát), đường 23
(Yên Phụ - Chèm), đường 69 (Dịch Vọng - Chèm). Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến
giao thông huyết mạch: đường Phạm Hùng - Phạm Văn Đồng - cầu Thăng Long đi sân
bay quốc tế Nội Bài; đường Láng - Hoà Lạc (Trần Duy Hưng); đường đê hữu ngạn sông
Hồng đi Sơn Tây. Huyện có hệ thống đường sắt chạy qua huyện dài 14km và có 1 nhà
ga hành khách xây dựng ở xã Phú Diễn. Về đường sông có một đoạn sông Hồng chảy
qua, dài trên 7km ở phía Bắc Từ Liêm. Do đó, các hoạt động giao thông liên vùng của
huyện diễn ra tương đối thuận lợi không chỉ đối với việc đi lại của nhân dân trong vùng
mà còn tạo lợi thế để thu hút các dự án đầu tư xây dựng của thành phố, chi phối mạnh
các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương. Mặt khác, việc tiếp giáp với ba quận của
Thủ đô là Cầu Giấy, Tây Hồ và Thanh Xuân, là ba quận lớn, có mật độ dân cư đông,
kinh tế phát triển, là nơi tập trung nhiều công sở, xí nghiệp cũng tạo ra những lợi thế
nhất định về thị trường tiêu thụ sản phẩm, các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động hơn, cơ
sở hạ tầng phát triển nhanh thu hút dân cư nơi khác đến sinh sống và làm việc.
Về địa hình, Từ Liêm là vùng đất khá bằng phẳng và màu m , có nhiều sông hồ.
Địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cao độ trung bình 6,0 - 6,5m. Phần
đất cao nhất tập trung ở phía Bắc, dọc theo sông Hồng, cao từ 8,0 - 11,0m; thấp nhất là
vùng ô trũng, hồ đầm và vùng phía Nam. Đặc điểm chung là trong khu vực còn có các
hồ ao trũng. Sự chênh lệch về cao độ mặc dù không lớn nhưng cần phải lưu ý trong quy
hoạch, hệ thống thoát nước, tránh tình trạng ngập úng cục bộ.
27
Với vị trí và địa hình như vậy, huyện Từ Liêm có nhiều thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là trong quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, các cụm dân cư đô thị, trung
tâm thương mại, du lịch, dịch vụ và khoa học công nghệ...
2. .2. Khí hậ th văn
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, Từ Liêm thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm,
gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 mùa hạ, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh và khô, nửa mùa sau thường có mưa phùn, ẩm
ướt. Nền nhiệt của Từ Liêm khá cao và đồng đều; nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23- 24oC. Lượng mưa trung bình năm đạt 1.600 - 1.800mm, số ngày mưa trong năm đạt 140
- 145 ngày.
Chế độ thủy văn của Từ Liêm chia hai mùa rõ rệt và chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế
độ thủy văn sông Hồng. Trong thời gian có lũ, toàn bộ vùng đất ngoài đê sông Hồng đều bị
ngập lụt. Ngoài đoạn sông Hồng ở phía Bắc, Từ Liêm còn có sông Nhuệ chảy dọc huyện.
Đây là sông đào nhận nước của sông Hồng (qua cống Liên Mạc) theo sự điều khiển chủ
động của con người. Ngoài hai con sông kể trên, Từ Liêm còn có một số sông nhỏ (sông
Đăm, sông Cầu Ngà…) và 360,31ha ao hồ. Hệ thống sông, hồ, đầm đã tạo cho Từ Liêm
có lượng nước dồi dào, đủ lượng nước tưới quanh năm cho cây trồng và phục vụ sản xuất
công-nông nghiệp.
Nhìn chung, ngoại trừ một số ngày mưa dông bão lớn và mưa phùn quá ẩm ướt, còn
lại những ngày trong năm đều thuận tiện cho việc gieo trồng trong nhiều thời vụ với nhiều
loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế và hiệu quả. Đồng thời cũng thuận lợi trong việc
vận chuyển, đi lại, giao dịch buôn bán, tham quan du lịch và phát triển các ngành nghề dịch
vụ khác.
2.1.3. Đất i
Đất đai huyện Từ Liêm vừa có những đặc điểm chung của đất Hà Nội nhưng lại
vừa có những đặc điểm riêng. Theo phân loại thổ như ng, đất Hà Nội được phân chia
thành 5 nhóm đó là: nhóm đất cát, nhóm đất xám bạc màu, nhóm đất thung lũng và
nhóm đất đỏ vàng nhưng toàn huyện Từ Liêm là đất phù sa. Đất đai huyện Từ Liêm
được kiến tạo trên nền phù sa cổ, được hình thành do quá trình bồi tụ phù sa của các
dòng sông do vậy chủ yếu thuộc nhóm đất phù sa. Đất đai Từ Liêm tương đối bằng
phẳng, màu m , được nhiều thế hệ dân cư khai phá, cải tạo.
28
Đất canh tác của Từ Liêm, những nơi có độ cao đều có thành phần thuộc loại đất
cát, đất thịt nhẹ. Những vùng đất thấp là đất thịt, thịt nặng và pha sét không thuận lợi
trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật cùng
với việc tăng cường đầu tư theo chiều sâu, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý thì những trở
ngại về thành phần cơ giới đất có thể khắc phục được mà vẫn đảm bảo hiệu quả cao.
2. .4. h sử hành hính
Từ đầu Công nguyên Từ Liêm thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.
Đến năm 621 (sau Công nguyên) lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập
thuộc Từ Châu. Sở dĩ đặt tên huyện là Từ Liêm vì giữa huyện có sông Từ Liêm (sau đổi
là sông Nhuệ) đầu nguồn nối vào sông Hồng [54, tr.12].
Dưới thời Lý, Trần, huyện Từ Liêm thuộc quận Vĩnh Khang; thời Lê, Tây Sơn và
đầu triều Nguyễn thuộc phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) Từ
Liêm là một trong ba huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Từ khi Thăng Long trở thành Kinh đô nước Đại Việt (1010), Từ Liêm trở thành
cửa ngõ phía Tây của thủ đô - do ở sát kinh thành, đi lại thuận tiện nên khi trong thành
có biến động, các cơ quan đầu não thường chạy ra Từ Liêm. Sử cũ ghi lại vua Lý Huệ
Tông, tháng 5 năm Ất Hợi (1215) và vua Lê Chiêu Tông, tháng 9 năm Mậu Dần (1510)
chạy ra Thượng Yên Quyết (xã Yên Hòa) làm nhà tranh để họp triều đình [54, tr.14].
Những khi kinh thành bị ngoại xâm, đất Từ Liêm thường là nơi tập trung nghĩa
quân để giải phóng thủ đô. Như cuộc khởi nghĩa của Lê Nhị chống quân Minh lấy Từ
Liêm là căn cứ (1410), sau đó Lê Lợi đưa đại quân đến đóng ở Nhân Mục, Cảo Động
(Xuân Đỉnh) năm 1426 để tập kích vào Đông Đô. Khi quân Thanh chiếm Thăng Long,
mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung đã bí mật đưa quân về tập kết ở Mễ
Trĩ, Nhân Mục, Phùng Khoang từ đấy đánh vào đại quân giặc ở Đống Đa [54, tr.14].
Năm 1888, thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, một số xã thuộc huyện Từ
Liêm trước đó được cắt vào khu ngoại thành Hà Nội. Đến năm 1915, khu vực này đổi
thành huyện Hoàn Long - tỉnh Hà Đông. Sau đó, vua Khải Định ra đạo dụ (26-12-1918)
quy định cấp phủ ngang cấp huyện thì huyện Từ Liêm không còn, chỉ còn phủ Hoài Đức
thuộc tỉnh Hà Đông. Để mở rộng Thành phố Hà Nội, ngày 31-12-1942, Pháp quyết định
cắt 23 làng thuộc phủ Hoài Đức cùng với huyện Hoàn Long lập ra “Đại lý đặc biệt”,
nhân dân quen gọi là đại lý Hoàn Long, trụ sở ở ấp Thái Hà (nay thuộc quận Đống Đa).
29
Phủ lỵ Hoài Đức đóng ở xã Dịch Vọng (nay thuộc phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy),
sau ngày 9-3-1945 chuyển về xã Tây Tựu.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng chia lại thành nhiều
đơn vị hành chính nhỏ và qua nhiều lần đổi tên: tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5
khu: Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh. Đầu năm 1947, địch chiếm một
số vùng ở ngoại thành nên 5 khu được tổ chức thành 3 quận: sáp nhập khu Lãng Bạc và
Đại La để thành lập quận IV; chia 3 khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận V
và VI. Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thống nhất 3 quận IV, V, VI thành quận
ngoại thành.
Theo quyết định số 78/QĐ ngày 31 tháng 5 năm 1961 của Chính phủ nướcViệt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Thành phố Hà Nội được mở rộng, do vậy huyện Từ Liêm được
thành lập trên cơ sở sáp nhập hai quận V và VI của Hà Nội lúc đó cùng với một số xã
của hai huyện Hoài Đức và Đan Phượng; tổng số gồm 26 xã. Đó là: Cổ Nhuế, Dịch
Vọng, Đông Ngạc, Hữu Hưng, Liên Mạc, Mai Dịch, Mễ Trì, Minh Khai, Mỹ Đình,
Nghĩa Đô, Nhân Chính, Nhật Tân, Phú Diễn, Phú Thượng, Quảng An, Tây Tựu, Thượng
Cát, Thụy Phương, Trung Hòa, Trung Văn, Tứ Liên, Xuân Đỉnh, Xuân La, Xuân
Phương, Yên Hòa, Yên Lãng.
Từ năm 1961 đến năm 1996, huyện Từ Liêm đã trải qua 6 lần thay đổi địa giới hành chính3. Đến tháng 11/2013, huyện Từ Liêm có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 1 trận, có diện tích là 75,15km2 và dân số trên 523.400 người. Các đơn vị hành chính
cấp xã gồm: Mỹ Đình, Tây Tựu, Phú Diễn, Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy
Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân
Phương và thị trấn Cầu Diễn.
Huyện Từ Liêm thuộc vùng đất cổ Thăng Long - Hà Nội, là nơi có nhiều di tích
lịch sử và công trình văn hóa lâu đời; là địa phương mang đậm bản sắc của cư dân vùng
ven kinh đô ngàn năm văn hiến trong sản xuất cũng như trong đời sống vật chất và tinh
thần. Từ lâu đời, Từ Liêm đã gắn bó với Kẻ Chợ - nơi tập trung bộ máy hành chính của
nhà nước trung ương, có những người thợ thủ công giỏi, những người buôn bán lớn và
quan hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nông dân và thợ thủ công ở Từ Liêm 3 Năm 1982, thành lập 3 thị trấn: Cầu Giấy, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, năm 1990 thành lập thêm thị trấn Mai Dịch; đến năm 1992, thành lập thị trấn Nghĩa Tân, lúc này Từ Liêm có 29 xã, thị trấn; Ngày 28/10/1995, tách 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng với tổng diện tích đất tự nhiên 1.619,9ha, 32.080 nhân khẩu để thành lập quận Tây Hồ; Trong năm 1996, tách xã Nhân Chính với diện tích 160,9ha để thành lập quận Thanh Xuân; cũng trong năm 1996 tách 4 thị trận: Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa để thành lập quận Cầu Giấy.
30
mang đặc sản địa phương và những sản phẩm thủ công nghiệp vào bán trong nội thành.
Nhân dân Từ Liêm có nhiều nghề thủ công cổ truyền như nghề làm giấy ở Cầu Giấy và
vùng Bưởi; nghề dệt ở Nghĩa Đô, Đại Mỗ, Miêu Nha, nổi tiếng nhất là lĩnh Bưởi, lụa
hoa Đại Mỗ, lụa trơn làng Ngà (Miêu Nha); đan lát ở Đông Ngạc; nghề rèn lâu đời ở
làng Hòe Thị (Xuân Phương)… Nhân dân Từ Liêm có truyền thống hiếu học, tiêu biểu
nhất là bốn vùng có danh tiếng “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương”.
Đất Từ Liêm cổ kính có nhiều di tích lịch sử - văn hóa. Hiện nay, Từ Liêm 240 di tích
lịch sử văn hóa, trong đó có 87 di tích cấp lịch sử cấp quốc gia bao gồm 30 đình, 3 đền, 4
miêu, 20 chùa và 30 nhà thờ họ và thờ các tổ nghề thủ công. Danh lam, thắng cảnh và di
tích lịch sử - văn hóa của huyện Từ Liêm không chỉ là vốn quý của người dân trong huyện
mà còn là của Hà Nội, góp phần làm đẹp thêm cảnh quan thành phố. Đó cũng là tiềm năng
to lớn cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động dịch vụ, du lịch trên địa bàn huyện,
đồng thời cũng đặt ra yêu cầu đối với việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị kinh tế,
văn hóa truyền thống của địa phương trong bối cảnh phát triển và hội nhập.
2.2. Thực trạng kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm trước năm 1996
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị và tư duy. Đại hội đề ra
chính sách đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội; đẩy mạnh ba chương trình
kinh tế lớn: sản xuất lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu;
kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới,
chuyển sang thực hiện kinh tế có hạch toán, áp dụng những biện pháp kích thích sản
xuất, mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ và chia cắt thị
trường; lập lại trật tự kỷ cương, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, từng bước cải thiện
đời sống nhân dân.
Trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1995), huyện Từ Liêm đã đạt được những
thành tích khá to lớn về kinh tế, xã hội. Trong thời gian này, quá trình đô thị hóa bắt đầu
được thực hiện, tuy nhiên phải từ năm 1996, khi đất nước đẩy mạnh công cuộc Đổi mới
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đại hội lần thứ VIII của Đảng quyết định
thì đô thị hóa ở Từ Liêm mới thực sự phát triển mạnh.
2.2. . Kinh t
Trong giai đoạn 1986-1995, kinh tế huyện Từ Liêm đạt tốc độ tăng trưởng
7,51%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần, kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công
31
nghiệp và dịch vụ bắt đầu tăng lên. Tỷ trọng kinh tế ngành nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế huyện năm 1995 giảm 51,4% so với năm 1986; công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp tăng 29,2%; thương mại - dịch vụ tăng 20,6% [6, tr.52].
Bảng 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế huyện Từ Liêm trong những năm 1986-1995
Ngành kinh tế
Năm 1986 (%)
Năm 1995 (%)
Nông nghiệp
92,3
40,9
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
2,3
33,1
Thương nghiệp - dịch vụ
5,4
26
Nguồn: [157]
- Nông nghiệp
Ngành trồng trọt: Từ năm 1986 đến năm 1995, diện tích gieo trồng đã bắt đầu bị thu
hẹp lại do quá trình đô thị hóa, từ 7.746 ha năm 1990 giảm xuống còn 7.550 ha năm 1995.
Tuy diện tích có giảm nhưng năng suất và giá trị hàng hóa các loại cây trồng ngày càng
tăng, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng giảm diện tích lúa, tăng diện tích
hoa, cây ăn quả diễn ra rõ nét và mang lại hiệu quả kinh tế cao, thể hiện ở các mặt:
+ Diện tích cây lương thực có xu hướng giảm dần, riêng diện tích trồng lúa đặc sản
(nếp, tẻ thơm) lại tăng dần. Năm 1995, cả hai vụ đạt được 300 ha lúa tẻ thơm, tăng 200
ha so với năm 1993; có những HTX như Mễ Trì Thượng đưa diện tích lúa thơm lên 60%
diện tích trồng trọt của toàn HTX. Các HTX khác như Hồng Tiến (Mễ Trì), Đại Thắng
(Tây Mỗ), Xuân Phương đều có diện tích lúa thơm tương đối cao. Từ đó, góp phần tăng
giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích.
+ Diện tích trồng hoa - cây cảnh - cây ăn quả tăng lên. Diện tích trồng hoa - cây
cảnh năm 1995 là 270ha, tăng 200 ha so với năm 1990, tức là 174%. Diện tích cây ăn
quả tăng mạnh: năm 1990 là 194 ha, năm 1995 tăng lên 250 ha.
Năng suất các loại cây trồng ngày càng được tăng lên do áp dụng tiến bộ kỹ thuật,
cải tiến giống, phòng trừ sâu bệnh tốt. Năm 1990, năng suất lúa là 69,4 tạ/ha, năm 1995
là 80 tạ/ha; năng suất rau năm 1990 là 179 tạ/ha, năm 1995 là 186 tạ/ha [157]. Kết quả
chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp đã thay đổi giá trị sản lượng trong ngành
trồng trọt. Những cây trồng như hoa, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao đang có tỷ trọng
tăng dần trong khi đó, giá trị cây lương thực giảm dần: Giá trị sản lượng hoa, cây ăn quả
tăng từ 35% (năm 1990) lên 40% (năm 1992) và 47% (năm 1994); giá trị cây lương thực
từ 47% (năm 1992) xuống còn 38% năm 1994 [6, tr.334]; Giá trị thu nhập trên một
32
hecta canh tác hàng năm: năm 1994 đạt 36,6 triệu đồng/ha, tăng 5,8 triệu đồng so với
năm 1993; năm 1995 đạt 39 triệu đồng/ha [157].
Ngành chăn nuôi của huyện vẫn được duy trì và phát triển như nuôi lợn, gia cầm,
bò sữa... Tuy chiếm tỷ trọng thấp trong nông nghiệp nhưng chăn nuôi của huyện cũng có
tỷ lệ cao hơn tỷ trọng bình quân của toàn quốc 2%. Chăn nuôi lợn phát triển theo hướng
trang trại, nuôi theo phương pháp áp dụng công nghệ cao và nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao;
năm 1995 toàn huyện có 31.013 con lợn (tăng 134,4% so với năm 1990). Chăn nuôi gia
cầm cũng được phát triển. Nhiều hộ gia đình ở Phú Diễn, Mỹ Đình… đã nuôi hàng
nghìn con gà. Đàn bò sữa của huyện cũng đã được quan tâm song mới chỉ ở bước đầu
như ở xã Thụy Phương [163].
Có thể nói, sau 10 năm thực hiện đổi mới, sản xuất nông nghiệp của huyện Từ
Liêm đã đạt được kết quả cả về năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập trên đơn vị và
diện tích. Giai đoạn này, huyện Từ Liêm đã bắt đầu nắm bắt được xu hướng đô thị hóa,
kịp thời chuyển hướng kinh tế, được Thành phố xếp loại là huyện có nhiều khó khăn
nhưng đã đạt được kết quả tốt. Tổng giá trị sản lượng thực tế nông nghiệp tăng từ
163,972 tỷ đồng năm 1993 lên 550,5 tỷ đồng (theo giá hiện hành) năm 1995, chiếm 58%
giá trị sản xuất địa phương quản lý; bình quân thu nhập một khẩu nông nghiệp đạt 2,78
triệu đồng/năm; bình quân một hộ đạt 9,4 triệu đồng/năm [6, tr.334-335]. Đời sống và
thu nhập của cư dân nông nghiệp được nâng lên rất nhiều, giá trị sản lượng nông
nghiệp/1 ha đất canh tác nông nghiệp đạt 39 triệu đồng, tăng 30% so với năm 1990 [9].
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề
Từ xa xưa, Từ Liêm đã là vùng đất tập trung nhiều làng nghề cổ truyền: làng Vẽ
(Đông Ngạc), làng Dộc Cả (Trung Văn) làm nghề hàng nan, làng Hòe Thị (Xuân
Phương) giỏi nghề rèn, làng Phú Đô (Mễ Trì) làm bún, làng Cót (Yên Hòa) làm vàng
mã… Sản phẩm làng nghề của huyện Từ Liêm đã được nhiều người biết đến như cốm
Vòng, dao kéo Sinh Từ, bún Phú Đô…
Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là từ khi hòa bình lặp lại trên miền Bắc đến
giữa những năm 80 thế kỷ XX, các làng nghề cả nước nói chung và của Từ Liêm nói
riêng bước vào giai đoạn phát triển mới. Trong giai đoạn 1976-1979, lực lượng sản xuất
thủ công nghiệp của huyện Từ Liêm bao gồm 38 HTX với 3.799 lao động và 40 tổ hợp
tác với 565 lao động. Trong thời gian này, do nhu cầu của thị trường Liên Xô và Đông
Âu tăng lên đã tác động mạnh đến sự phát triển của các làng nghề và TTCN của Từ
33
Liêm. Các nghề thêu, ren, thảm len, dệt mành… trong các HTX nông nghiệp đã thu hút
thêm 4.000 lao động, tăng thu nhập cho các HTX NN. Năm 1979, ngành TTCN đã được
nhận danh hiệu là lá cờ đầu trong toàn ngành TTCN Thành phố Hà Nội. HTX TTCN
Đại Mỗ được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng Ba [72].
Từ những năm 80 thế kỷ XX, TTCN tiếp tục được mở rộng sản xuất, phối hợp với
các ngành giải quyết nguyên vật liệu, vật tư cho sản xuất, tập trung sản xuất các mặt hàng
theo nhu cầu thiết yếu như dệt, may, cơ khí…, đồng thời phát triển thêm các mặt hàng
mới để phục vụ sản xuất và tiêu dùng như các sản phẩm mây-tre, chổi lông gà, chổi chít,
dệt vải pê-cô, vải bò, chiếu cói, chiếu tre, thảm cói… Do đó, năm 1988, giá trị tổng sản
lượng TTCN tăng 6% so với năm 1987, đời sống xã viên được đảm bảo [6, tr.270].
Tuy vậy, trong giai đoạn này công nghiệp và TTCN của huyện Từ Liêm gặp phải
khó khăn về vốn, vật tư. Thực hiện quyết định số 25/CP của Hội đồng Chính phủ ngày
21/1/1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động
sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, trong đó
cho phép các cơ sở sản xuất thêm kế hoạch 2, kế hoạch 3. Các doanh nghiệp được quyền
chủ động mua sắm vật tư, nguyên liệu ngoài chỉ tiêu được cấp và bán sản phẩm của
mình trên thị trường tự do. Theo đó, các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn huyện đều thực
hiện thêm kế hoạch 3 đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm việc làm cho công nhân. Trong 3
năm (1983-1985) đã có 21/25 đơn vị của Trung ương và 4/7 đơn vị của Thành phố hoàn
thành kế hoạch, tiêu biểu như Nhà máy Bê tông Chèm, Nhà máy gạch Từ Liêm, Xí
nghiệp Sơn Hà Nội… Các xí nghiệp, công ty quốc doanh của huyện đã cố gắng khai
thác nguyên liệu phát triển sản xuất như Xí nghiệp Gạch, Xí nghiệp xây dựng, Xí nghiệp
chế biến thức ăn gia súc… nên hàng năm giá trị sản lượng tăng bình quân 27%, riêng
năm 1985 tăng 35% so với năm 1982 [6, tr.240].
Tổng giá trị sản phẩm ngành công nghiệp và TTCN năm 1987 đạt 143.700.000
đồng, trong đó giá trị gia công mặt hàng thủ công nghiệp xuất khẩu đạt 35 triệu đồng.
Tỷ trọng kinh tế bình quân trong 2 năm (1987-1988) của ngành công nghiệp và TTCN
chiếm 40,5% tổng sản lượng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp [6, tr.271].
Từ năm 1989, Nhà nước xóa bỏ chế độ cung cấp hai mặt hàng cuối cùng là lương
thực và chất đốt, thực hiện cơ chế một giá. Các cơ sở công nghiệp, TTCN, thương
nghiệp đã chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Do đó, ngành tiểu thủ công nghiệp
34
của huyện gặp khó khăn thử thách khi chưa kịp thích nghi với cơ chế thị trường, chưa
tìm được hướng ra. Hàng hóa, sản phẩm ứ đọng, tiêu thụ chậm, thiếu vốn trầm trọng.
Giá trị tổng sản lượng TTCN năm 1989 giảm 16,6% so với năm 1988 và chỉ đạt 51% kế
hoạch của năm 1990. Năm 1990, chỉ có 25% HTX sản xuất ổn định, hoàn thành kế
hoạch, điển hình là HTX Miêu Nha, đảm bảo mức thu nhập của xã viên đạt 85.671
đồng/tháng; còn lại các HTX khác chỉ đạt 22.000 đến dưới 20.000 đồng/tháng [6, tr.290-
292]. Thời kỳ này các HTX TTCN giải thể hàng loạt, các hình thức sản xuất theo hộ gia
đình nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới.
Thực hiện Nghị định 388 của Hội đồng bộ trưởng ngày 20/11/1991 về quy chế
thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước, huyện Từ Liêm đã thành lập Hội đồng chỉ
đạo củng cố, thu gom, sáp nhập hoặc giải thể các đơn vị doanh nghiệp do huyện quản lý;
xác định rõ nguyên tắc và hình thức củng cố phù hợp với năng lực sản xuất của từng xí
nghiệp, dảm bảo các xí nghiệp then chốt thực hiện tốt nhiệm vụ, tận dụng triệt để vốn,
tài sản và lao động kỹ thuật của đơn vị.
Đối với các HTX TTCN, thực hiện chỉ thị 32 ngày 05/08/1992 của UBND Thành phố
Hà Nội, huyện chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra, xác định và phân loại tài sản, nguồn
vốn của HTX (của nhà nước, cổ phần đóng góp của xã viên, nguồn huy động khác) đảm
bảo dân chủ, công bằng cho xã viên trong việc phân chia quyền lợi khi HTX giải thể. Đồng
thời, huyện cũng tập trung chỉ đạo các HTX có thể chuyển đổi mô hình tổ chức hoặc HTX
cổ phần, hoặc duy trì hình thức HTX truyền thống. Tuy đã được củng cố nhưng đến năm
1995, khối công nghiệp quốc doanh, TTCN khu vực tập thể vẫn giảm sút, hiệu quả sản xuất
thấp, trong khi khu vực ngoài quốc doanh, tư nhân phát triển mạnh.
Để giải quyết vướng mắc trong sản xuất công nghiệp, TTCN, từ năm 1996, sau khi
đánh giá đối với 7 doanh nghiệp quốc doanh, 29 công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân,
15 HTX, 26 tổ hợp tác, 11.941 hộ kinh doanh, huyện Từ Liêm đã đề ra một số giải pháp cơ
bản để đầu tư quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế liên doanh,
liên kết, mở rộng thị trường, khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế [35,
tr.58] … Nhờ đó, đã tháo g khó khăn cho sản xuất công nghiệp, đẩy mạnh phát triển
TTCN. Năm 1996, giá trị sản xuất công nghiệp, TTCN trên địa bàn Từ Liêm đạt 128.165
triệu đồng (theo giá cố định năm 1994), tăng 6,9% so với năm 1995 [6, tr.364].
- Thương mại, dịch vụ
35
Thương mại, dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa và đáp
ứng nhu cầu đời sống tinh thần của người dân. Trước năm 1986, hoạt động phân phối lưu
thông hàng hóa của huyện Từ Liêm diễn ra chủ yếu thuộc khu vực quốc doanh, dựa vào
lượng hàng hóa được giao từ trên xuống, thực hiện phân phối và thu mua theo chỉ tiêu. Hoạt
động phân phối lưu thông tách rời với sản xuất, ngành thương nghiệp phục vụ bó hẹp trong
lĩnh vực nông nghiệp nên chưa làm tốt chức năng phân phối cho toàn xã hội.
Sau năm 1986, thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh hơn, phạm vi trải
rộng từ các chợ đến các quầy bán lẻ trong các xã, phường. Khu vực thương nghiệp quốc
doanh vẫn phát triển, nhưng có xu hướng chậm lại. Doanh số bán ra của toàn ngành
thương nghiệp năm 1987 là 2,655 tỷ đồng; năm 1988 đạt 13 tỷ đồng, trong đó thương
nghiệp quốc doanh đạt 11 tỷ 800 triệu đồng. Đến những năm 90, trước áp lực của cơ chế
thị trường, thương mại - dịch vụ thuộc thành phần quốc doanh giảm dần, được điều
chỉnh lại cơ cấu để hoạt động có hiệu quả hơn.
Bước sang giai đoạn 1991-1995, ngành thương mại - dịch vụ của huyện bắt đầu phát
triển với nhiều loại hình kinh doanh. Thương nghiệp quốc doanh và tập thể vừa sắp xếp lại
bộ máy vừa chủ động thực hiện mô hình tổ chức quản lý kinh doanh phân cấp theo phương
thức đẩy mạnh hạch toán độc lập nhằm thích ứng với thị trường. Tuy nhiên, trong điều kiện
nguồn vốn có hạn, nhất là vốn lưu động, nên các đơn vị gặp nhiều khó khăn, kinh doanh
không hiệu quả dẫn đến thua lỗ, một số ngừng hoạt động hoặc xin giải thể.
Trong khi thương nghiệp quốc doanh giảm sút (năm 1992, chỉ còn 10 HTX hoạt
động, 14 HTX ngừng hoạt động, 4 HTX xin giải thể), thì thương nghiệp ngoài quốc
doanh lại phát triển mạnh. Năm 1993 có 3.816 hộ kinh doanh thương nghiệp - dịch vụ,
tăng 20,9% so với năm 1990, chiếm 78,5% doanh số bán ra. Thương nghiệp quốc doanh
đạt 26.098 tỷ đồng, thương nghiệp ngoài quốc doanh đạt 90.081 tỷ đồng. Năm 1994,
thương mại - dịch vụ ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện tiếp tục phát triển với 21
công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân, trên 4.000 hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch
vụ, tăng 15,3% so với năm 1993 [6, tr. 318].
Nhằm tạo điều kiện phát triển thương mại dịch vụ, huyện Từ Liêm đã quy hoạch
đầu tư xây dựng lại hệ thống các chợ Cầu Diễn, Cầu Giấy, Nghĩa Tân, Xuân Đỉnh,
Trung Văn, Đại Mỗ… thu hút nhiều thành phần đăng ký buôn bán. Do đó, hoạt động
thương mại dịch vụ ngày càng phát triển sôi động đáp ứng nhu cầu của một huyện đang
trong quá trình đô thị hóa nhanh.
36
Hoạt động du lịch của huyện có bước phát triển bằng việc tiếp tục thực hiện các
hợp đồng liên doanh với nước ngoài triển khai xây dựng làng du lịch Nghi Tàm. Vùng
Quảng An, Tứ Liên, Nhật Tân được huyện quy hoạch phát triển trở thành vùng du lịch
của thành phố.
Năm 1996, giá trị thương nghiệp - dịch vụ - du lịch đạt 577.146 triệu đồng, tăng
19,5% so với năm 1995. Hoạt động thương mại - dịch vụ sôi động đáp ứng nhu cầu giao
lưu của một huyện đang đô thị hóa, đạt mức tăng trưởng 19,5%. Nhập khẩu 5.674.000
USD, đạt 141,9% kế hoạch [6, tr.364].
2.2.2. X hội
- ân cư, lao động
Theo số liệu năm 1995, huyện Từ Liêm có 24 đơn vị hành chính xã, thị trấn, diện tích đất tự nhiên 88,6km2, có 37.674 hộ với 158.060 người, trong đó dân số nông nghiệp
là 81.558 người, chiếm hơn 50% dân số toàn huyện [79, tr. 74]. Cũng bắt đầu từ năm
này, quá trình đô thị hóa huyện Từ Liêm bắt đầu phát triển, đất canh tác ngày càng giảm
đi, do đó có nhiều lao động thiếu việc làm. Hơn nữa, thời kỳ này các công ty, xí nghiệp,
trạm của huyện Từ Liêm mới phát triển sau khi được thành phố bàn giao nên chỉ tiêu
tuyển lao động rất ít. Do đó, việc tuyển dụng thanh niên trong lao động nông nghiệp bổ
sung cho các hợp tác xã thủ công nghiệp cũng rất hạn chế. Trong giai đoạn này, huyện
Từ Liêm có chú trọng đến việc đưa lao động sang nước ngoài. Từ năm 1981 đến năm
1985, huyện đã tuyển được 2.000 người đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô và Đông Âu
[6, tr.252].
- iáo dục
Ngay từ ngày đầu được thành lập, huyện Từ Liêm đã chú trọng đến công tác phát triển
giáo dục. Đặc biệt từ sau ngày đất nước được thống nhất, ngày 11/11/1980, UBND huyện
Từ Liêm đã ra Chỉ thị số 4 về đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đã nêu rõ: Đẩy mạnh phong
trào phổ cập cấp II cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên bằng nhiều loại hình thức thích hợp;
tiếp tục nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ và mẫu giáo để giải phóng sức lao động cho phụ
nữ với chỉ tiêu 60% số cháu vào nhà trẻ và 75% số cháu vào lớp mẫu giáo; ngành học phổ
thông phải nâng cao chất lượng dạy và học [6, tr.243].
Ngày 29/3/1984, UBND huyện tiếp tục ra Nghị quyết 13 về tăng cường công tác
giáo dục, xác định tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “trường ra trường, lớp ra lớp”, đẩy
mạnh hoạt động hướng nghiệp và quan tâm đến đời sống của giáo viên. Theo đó, từ năm
37
1982 hoàn thành phổ cập ở 10 xã, 20 cơ quan huyện; đến năm 1984 toàn huyện được
công nhận phổ cập cấp II cho đối tượng 1. Từ Liêm là huyện đầu tiên của thành phố
hoàn thành phổ cập cấp II bổ túc văn hóa cho cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên.
Sau khi hoàn thành phổ cập cho đối tượng 1, ngành giáo dục huyện đẩy mạnh phổ cập
cấp II ra toàn dân; năm 1985 đã tổ chức 6 trường bổ túc văn hóa có 73 lớp, tiếp nhận
thêm 985 thanh niên vào học 3 trường vừa học vừa làm [6, tr.245].
Về nuôi dạy trẻ và mẫu giáo có tình trạng giảm sút về số lượng cô giáo và các cháu.
Năm 1981 có 58% số cháu vào nhà trẻ thì năm 1982 chỉ còn 56%, đến năm 1985 lại càng
giảm sút thêm. Năm 1982, số cháu học mẫu giáo đạt 70% trong độ tuổi ra lớp thì đầu năm
1986 chỉ còn 62%. Năm 1987, nhà trẻ thu hút 4.518 cháu, đạt 90% kế hoạch, 67/101 nhà
trẻ dạy theo chương trình cơ bản của ngành. Sang năm 1990, khối mẫu giáo nhà trẻ phát
triển khá hơn: có 220 lớp mẫu giáo, 160 nhà trẻ [6, tr.275].
Ngành học phổ thông tiếp tục phát triển. Năm 1980 huyện có 30 trường (bao gồm 26 trường phổ thông cơ sở, 3 trường cấp 1, 1 trường cấp II)4, đến năm 1985 đã có 35
trường với 41.101 học sinh. Chất lượng học cũng không ngừng được nâng cao, thi tốt
nghiệp đạt 90% năm 1981 đến năm 1986 đạt 93%. Trong khối trường PTCS có 12 đơn
vị được công nhận xuất sắc cấp thành phố, tiêu biểu nhất là trường cấp II Dịch Vọng,
trường PTCS Trung Hòa, trường mẫu giáo Nhật Tân và Xuân Đỉnh… Năm 1987, kết
quả lên lớp bình quân của khối cấp I, II đạt 90-96%, thi tốt nghiệp cuối cấp đạt trên 90%
[6, tr.246]. Năm 1990, có 20 xã hoàn thành phổ cập cấp I.
Về giáo dục PTTH, huyện tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học. Trường PTTH
Yên Hòa năm 1985 so với năm 1980 đã tăng thêm 3 lớp và 125 học sinh, hàng năm thi tốt
nghiệp cũng tăng từ 92% lên 96%. Trường PTTH Xuân Đỉnh tăng thêm 2 lớp và 210 học
sinh. Trường PTTH Minh Khai tăng thêm 4 lớp và 90 học sinh, tốt nghiệp từ 95-97% [6,
tr.247]. Trong đó, trường PTTH Yên Hòa là đơn vị dẫn đầu trong khối PTTH ở huyện, có
nhiều giáo viên dạy giỏi, cán bộ quản lý giỏi và học sinh giỏi toàn diện. Trường Yên Hòa đã
được công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc của ngành giáo dục thành phố.
- Y tế
Năm 1980, tỷ lệ phát triển dân số là 2,05% đến năm 1986 giảm còn 1,6%; một số
xã còn có tỷ lệ thấp hơn như Yên Hòa, Nghĩa Đô, Cổ Nhuế… 100% số xã trong huyện
4 Trường phổ thông cơ sở là trường đã sáp nhập cấp I và cấp II.
đã có trạm y tế với hơn 200 y sĩ, y tá được đào tạo, số giường bệnh ngày càng tăng.
38
Bệnh viện huyện có 100 giường phân tán làm 3 nơi: Dịch Vọng (các khoa nội, nhi, lây),
Nghĩa Đô (tai, mũi, họng), Yên Lãng (lao) [6, tr.247].
Trong lĩnh vực y tế, huyện đã làm tốt công tác phòng dịch bệnh, tổ chức tốt việc
tiêm phòng. Năm 1985 đã tiêm phòng bại liệt cho 92% số trẻ em trong độ tuổi. Từ năm
1981-1986 không có xảy ra các dịch bệnh lớn trong toàn huyện.
Năm 1987, Bệnh viên đa khoa huyện đi vào hoạt động. Hệ thống bệnh viện, trạm y
tế, nhà hộ sinh được tăng cường thêm trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh ban đầu
cho nhân dân. Chương trình vệ sinh phòng bệnh, tiêm chủng cho trẻ em được thực hiện
tốt, công tác dân số được triển khai.
Sang năm 1990, ở 29 trạm y tế xã có 119 giường bệnh, 42 bác sĩ, y tá. Chương
trình tiêm chủng mở rộng đạt 97%; công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả
khá, đạt tỷ lệ 1,96% [6, tr.297].
- Văn hóa, thể dục thể thao
Trong huyện, các cụm thể thao được hình thành như Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại
Mỗ, Xuân Đỉnh… Toàn huyện có 11 đội bóng đá, 14 đội bóng chuyền, 4 câu lạc bộ thể
dục, thể thao. Huyện cũng đã đào tạo được 30 huấn luyện viên cho các trường phổ
thông, 125 huấn luyện viên cho khối cơ quan sản xuất và hành chính sự nghiệp, 270
huấn luyện viên cho khối xã. Hàng năm, huyện đều tổ chức thi đấu các môn thể dục, thể
thao, tổ chức hội thao quốc phòng như chạy, bơi, bắn súng; 4 năm một lần tổ chức Hội
khỏe phù đổng trong học sinh và 5 năm một lần tổ chức Đại hội thể dục thể thao toàn
huyện. Từ năm 1975-1985, huyện Từ Liêm được công nhận là đơn vị xuất sắc, được
Tổng cục thể dục thể thao tặng bằng khen.
Về văn hóa thông tin, huyện Từ Liêm đầu tư các trang thiết bị cho đài truyền thanh
huyện và 19 xã. Huyện đã khởi công xây dựng nhà văn hóa trung tâm 700 chỗ ngồi, hầu
hết các xã có nhà văn hóa hoặc câu lạc bộ. Năm 1985, huyện có 27 thư viện trong 27 xã,
thị trấn, phục vụ nhu cầu đọc của nhân dân trong huyện [6, tr.250].
Như vậy, trước năm 1996, cơ cấu kinh tế của huyện Từ Liêm chủ yếu là nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ; nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Huyện
Từ Liêm đã đạt được những kết quả nhất định trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại. Bên cạnh đó, văn hóa-xã hội, giáo dục y tế tiếp tục được huyện
quan tâm phát triển đã tạo những tiền đề căn bản cho quá trình đô thị hóa của địa
phương trong giai đoạn tiếp theo.
39
2.3. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của Hà Nội và huyện Từ Liêm từ
năm 1996 đến năm 2013
2.3. . h t ơng hành h Hà Nội
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ bản hoàn
thành, cho phép chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu
của CNH, HĐH được xác định là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh [38, tr.80].
Để phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lần thứ XII (tháng 5/1996) xác định, so với thời kỳ trước đổi mới, Thủ đô có những thay
đổi lớn, cho phép chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và trong thời
gia tới, cơ cấu kinh tế ở Hà Nội vẫn là công nghiệp-thương mại, du lịch, dịch vụ-nông
nghiệp (nhưng có thay đổi quan hệ tỷ lệ nội bộ và các trọng điểm phát triển) [9]. Với
khu vực ngoại thành, Hà Nội chủ trương chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển toàn diện: nông, lâm, ngư nghiệp-công nghiệp, TTCN-thương nghiệp, dịch vụ,
du lịch theo thế mạnh của từng vùng, từng địa phương; phát triển kinh tế nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hóa, lấy hiệu quả làm mục tiêu, gắn sản xuất với thị trường trên cơ
sở phát triển toàn diện; phát triển công nghiệp, TTCN cần quan tâm đầu tư chiều sâu,
trang bị kỹ thuật, ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới nhằm nâng cao
năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Khuyến khích các thành phần kinh tế ở
nông thôn, liên kết, hợp tác đầu tư vốn, sử dụng lao động, đất đai có hiệu quả. Mở rộng
thương mại dịch vụ ở nông thôn, chú ý phát triển ngành kinh tế du lịch ở những nơi có
điều kiện [119]. Những mục tiêu chủ yếu đến năm 2000 được xác định là: tốc độ gia
tăng sản xuất nông nghiệp bình quân từ 4-4,5%/năm; giá trị công nghiệp-TTCN từ 19-
20%/năm; giá trị bình quân trên một ha đất canh tác bao gồm nông nghiệp, thủ công
nghiệp và dịch vụ đạt 40-45 triệu đồng; cơ cấu kinh tế do huyện quản lý: công nghiệp-
TTCN-dịch vụ 70-75%; nông nghiệp 25-30%; cơ cấu ngành nông nghiệp: trồng trọt 30-
40%, chăn nuôi: 60-70%; 90-100% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới [120].
Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII (từ 27 đến
30/12/2000) đã chỉ rõ định hướng cơ bản phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô giai đoạn 2001-
40
2010: Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng
cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Tăng cường vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước; củng cố nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển ạnh và liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn, giữa kinh tế Hà
Nội với kinh tế cả nước. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại [10].
Từ định hướng trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 2001-
2005, trong đó phát triển kinh tế tiếp tục thực hiện tốt cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch
vụ-nông nghiệp; tập trung phát triển mạnh lực lượng sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây
dựng quan hệ sản xuất định hướng XHCN, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh,
bền vững, chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp trong
giai đoạn tiếp theo [10, tr. 53-54].
Đối với kinh tế ngoại thành, Đại hội nhấn mạnh: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn; gắn đô thị hóa với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa, sinh
thái; từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nhằm tăng dần tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, thu hẹp sự cách biệt giữa nội thành và ngoại thành
[10, tr.56].
Tiếp đó, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Hà Nội giai đoạn
2006-2010 được Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV (tháng 12/2006) xác
định: Chủ động hội nhập quốc tế, thực sự là một trong những thành phố đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh tăng trưởng
và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp-nông nghiệp… Đầu tư phát triển
vùng ngoại thành, phát huy vai trò trung tâm kinh tế trình độ cao tạo động lực phát triển
kinh tế-xã hội của Thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng
và cả nước [11, tr.63]. Với phương hướng trên, Thành phố Hà Nội đã thể hiện sự quan
tâm đặc biệt đến khu vực ngoại thành, vì ngoại thành Hà Nội có vị trí rất quan trọng
trong tiến trình phát triển của Thủ đô và có những ưu thế đặc biệt so với các vùng nông
thôn trong cả nước. Từ đó, thành phố đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành
trong giai đoạn 2006-2010 là: duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm là
15%/năm; chuyển từ tăng trưởng về số lượng sang nâng cao về chất lượng và tăng
nhanh giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích; đẩy mạnh tốc độ phát triển khu công
nghiệp và dịch vụ tạo sự phân công và thu hút lao động, tạo việc làm mới; nâng cao mức
thu nhập; đưa giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 70 triệu đồng/ha; phát triển mạnh tiểu thủ
41
công nghiệp và làng nghề; đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động; phát triển đô thị gắn với xây dựng nông thôn… [121].
2.3.2. h t ơng h n i m
Thực hiện định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH của Đại hội Đảng
bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XII, Đại hội đại biểu lần thứ XIX của huyện Từ Liêm đã
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 1996-2000 là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã
hội theo hướng CNH, HĐH, tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; Tăng cường quản
lý đô thị, phát triển xây đựng nông thôn mới theo hướng đô thị hóa trên cơ sở quy hoạch
tổng thể phát triển Thủ đô đến năm 2010; Từng bước cải thiện nâng cao chất lượng đời
sống vật chất và văn hóa, cải thiện hơn nữa môi trường sống của nhân dân [6, tr.360].
Theo đó, huyện đã ban hành Chương trình 01/CTr-HU nhằm phát triển kinh tế giai đoạn
1996-2000 theo hướng sản xuất nông nghiệp phải gắn với thị trường, tạo ra cơ cấu hợp
lý giữa nông nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-thương mại dịch vụ trong nông thôn; xây
dựng nông thôn mới theo hướng toàn diện. Đồng thời với thực hiện chương trình kinh
tế, huyện ban hành Chương trình 03 “Giải quyết lao động, việc làm và một số vấn đề xã
hội 1996-2000” đề ra yêu cầu tập trung giải quyết một số vấn đề lớn như giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội
đối với các đối tượng chính sách của huyện.
Để thực hiện chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà
nước, Thành phố Hà Nội, từ năm 2001 huyện Từ Liêm đã đề ra Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 với những nội dung chủ yếu sau: Đến năm
2010, phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững, đảm bảo ổn định, vững chắc chính
trị và an ninh quốc phòng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Đến năm 2010 cơ bản xây dựng xong nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội của
hai vùng đô thị và nông thôn mới; xây dựng Từ Liêm thành huyện có kinh tế - xã hội
phát triển, xứng đáng vai trò cửa ngõ phía Tây của Thủ đô, vành đai xanh của Thành
phố; phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ - du lịch theo hướng văn minh, hiện đại,
đậm đà bản sắc văn hoá Thăng Long - Hà Nội; có cơ cấu kinh tế: công nghiệp - dịch vụ
- nông nghiệp.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010, Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XX và XXI đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế, xã
hội trong giai đoạn này. Đó là: Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX (2001-2005) đã xác
42
định: Phát triển toàn diện cơ cấu kinh tế theo hướng: công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông
nghiệp; từng bước hình thành nhiều khu công nghiệp, khu đô thị, khu vui chơi giải trí mới
đan xen với các làng xã truyền thống; nông thôn công nghiệp, văn minh, hiện đại [6, tr.386].
Theo đó, huyện đã xây dựng Chương trình 01, đề ra nhiệm vụ cơ bản cho phát triển kinh tế
giai đoạn 2001-2005 là chuyển dịch đúng cơ cấu kinh tế công nghiệp-thương mại-dịch vụ-
nông nghiệp; tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và thương mại-dịch vụ năm sau phải
cao hơn năm trước; ngành thương mại-dịch vụ phải có mức tăng trưởng nhanh hơn ngành
công nghiệp; ngành nông nghiệp giảm dần qua từng năm [6, tr.387]. Về xã hội, huyện
thông qua Chương trình số 26 trong giai đoạn 2001-2005 là: tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục-đào tạo; điều chỉnh lại cơ cấu lao động thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tích cực giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ hộ nghèo; ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn xã hội; giải
quyết các vấn đề xã hội và môi trường [6, tr.396].
Sang giai đoạn 2006-2010, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đã xác định phát
triển kinh tế, xã hội theo định hướng: Xây dựng Từ Liêm trở thành vùng đô thị mới hiện
đại, phát triển toàn diện, bền vững, văn minh; là khu vực phòng thủ vững chắc về an
ninh quốc phòng; là vành đai xanh và vùng kinh tế phát triển của thành phố; Phát triển
kinh tế-xã hội phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế-xã hội và quá trình CNH,
HĐH Thủ đô. Trong đó, về kinh tế, huyện xây dựng Chương trình 04/CTr/HU
(16/1/2006) giai đoạn 2006-2010 là tiếp tục thực hiện và nâng cao chất lượng cơ cấu
kinh tế công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông nghiệp, từng bước tạo tiền đề chuyển đổi
cơ cấu sang thương mại-dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp phù hợp với sự phát triển đô
thị. Quy hoạch lại các vùng kinh tế cho phù hợp với sự biến động của quá trình đô thị
hóa và cơ cấu ngành nghề. Tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất
kinh doanh; Tôn trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển [6, tr.417].
Về xã hội, huyện ban hành Chương trình 06-CTr/HU (16/1/2006) tập trung giải quyết 4
vấn đề lớn: đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục-đào tạo; giải quyết vấn đề lao động và việc
làm; phòng chống tệ nạn xã hội; đẩy mạnh hoạt động y tế, văn hóa thể thao, dân số kế
hoạch hóa gia đình [6, tr.434].
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII giai đoạn 2010-2015 đã xác định phát triển
kinh tế, xã hội theo định hướng xây dựng huyện Từ Liêm trở thành đô thị giàu đẹp - văn
minh, trong đó tạo bước phát triển toàn diện, bền vững về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hơp với cơ cấu kinh tế công nghiệp,
43
dịch vụ, nông nghiệp, quan tâm đầu tư xây dựng một số cụm làng nghề tập trung, thực
hiện tốt quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp…; chú trọng phát triển sự nghiệp văn
hóa, xã hội của địa phương, trọng tâm là phát triển giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe
nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tốt chính sách xã hội và các chương
trình quốc gia giải quyết việc làm; Tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn và đẩy lùi
các tệ nạn xã hội.
2.4. Vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013
2.4. . Khái át th h Hà Nội
Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, phù hợp với bối cảnh phát triển
kinh tế-xã hội chung của đất nước. Nhiều con số thống kê cho thấy từ năm 1991 đến
nay, đô thị hóa ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh, năm 1989 (18,5%), năm
1995 (20,7%), năm 2000 (24,2%), năm 2006 (27%) và 2010 đạt 29,6%. Trong định
hướng phát triển đô thị Việt Nam, dự báo đến 2015 dân số đô thị chiếm 38%, năm 2020
chiếm 45% và đến năm 2025 chiếm 50% dân số (dân số đô thị dự báo lúc này khoảng
52 triệu) [67].
Hà Nội là một trong hai thành phố có tốc độ đô thị hóa đạt mức cao nhất của cả
nước và có sức lan tỏa theo chiều rộng. Quá trình đô thị hóa ở Hà Nội được tập trung ở
các vùng ven đô và vùng ngoại thành, vừa mang những đặc trưng chung của các vùng
đô thị hóa, vừa có những đặc thù riêng của Thủ đô. Vùng ven đô được xem là các quận,
huyện nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực nội thành và ngoại thành, ở đó nền văn
minh nông nghiệp được tiếp xúc nhanh với nền văn minh công nghiệp, thương mại.
Trong hai thập kỷ qua, khu vực này đã có những chuyển biến khá nhanh, đang từng
ngày làm đổi thay và có tác động trực tiếp đến cuộc sống dân cư, diện mạo vùng ven.
Quá trình đô thị hóa nhanh ở Hà Nội đã biến nhiều khu vực ven đô thành khu vực nội
thành, nhiều vùng ngoại ô trở thành vùng ven đô. Đi kèm với quá trình này là sự thay
đổi mạnh mẽ từ cảnh quan, môi trường, hoạt động nghề nghiệp, đến sự biến đổi lối
sống, phong tục, tập quán, từ biến đổi kinh tế đến những biến đổi xã hội.
Trong thời gian qua, Đảng và Chính phủ đã có những văn bản cụ thể để Hà Nội xây
dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định Về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020;
Nghị quyết số 15 NQ/TW của Bộ Chính trị BCHTƯ Đảng (khóa VIII) ngày 15/12/2000
về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010; Pháp lệnh
44
Thủ đô Hà Nội; Nghị quyết số 92/2005/NĐ-CP ngày 12/7/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đến Nghị định số
123/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định về một số cơ chế tài chính
ngân sách đặc thù đối với sự phát triển của Thủ đô Hà Nội... Có thể nói, quá trình đô thị
hoá ở Hà Nội thời kỳ đổi mới được diễn ra trong khung cảnh kinh tế-xã hội trong nước
đầy biến động. Nhưng đây cũng chính là thời kỳ bộ mặt đô thị Thủ đô có nhiều biến đổi
nhanh và mạnh. Sự chuyển biến từ một nền “kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp” sang
nền kinh tế đa dạng, nhiều thành phần với những tác động rõ rệt của thị trường tự do,
chẳng những có tác động mạnh mẽ đối với đời sống kinh tế-xã hội mà còn để lại nhiều
dấu ấn rõ nét trên bộ mặt kiến trúc Hà Nội.
Sự thay đổi địa giới hành chính: Vào những năm đầu của thập kỷ 90, thành phố Hà
Nội có 4 quận nội thành (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng) và 5 huyện
ngoại thành (Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm) với tổng diện tích 920,5km2 trong đó khu vực nội thành chỉ có diện tích 40km2. Nhận thấy việc phân bố
diện tích giữa các vùng nội thành và ngoại thành của thủ đô chưa thực sự hợp lý, phần
lớn diện tích đất đai lại đều nằm ở khu vực ngoại thành, không phù hợp với nhu cầu phát
triển thật sự của quá trình đô thị hóa, cho nên Chính phủ đã ra quyết định điều chỉnh địa
giới hành chính của Hà Nội. Đến các năm 1996-1997, một số quận nội thành mới được
lần lượt được thành lập, là các quận Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy và sau đó là các
quận Long Biên, Hoàng Mai.
Ngày 1/8/2008, sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội trở thành thành phố lớn nhất cả nước với tổng diện tích 3.344.7km2, 29 đơn vị hành chính cấp
huyện-gồm 10 quận, 18 huyện, 1 thị xã và 577 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 401 xã,
154 phường và 22 thị trấn, đứng đầu cả nước về diện tích và nằm trong số 17 thủ đô có
diện tích lớn nhất thế giới [84].
Về gia tăng dân số: Hà Nội có tốc độ gia tăng dân số cao; năm 1990 Hà Nội mới
chỉ có 2 triệu dân, đến năm 2000 là 2,67 triệu và đến năm 2010 đã đạt tới 6,611 triệu
dân, trong đó nam 3,248 triệu người (49,13%), nữ 3,363 người (40,87%) [23]. Khu vực
nông thôn có 3,372 triệu dân, chiếm 57% và khu vực đô thị 2,879 triệu dân, chiếm 43%
tổng dân số Hà Nội. Quy mô và tốc độ của lượng người di dân vào Hà Nội đều tăng qua
các năm, năm 2001 số người di cư vào Hà Nội là 16,985 người thì đến năm 2007 là
46,240 người và năm 2010 là 130 nghìn người [132].
45
Nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng dân số nhanh của Hà Nội trong những năm gần
đây ngoài lý do kinh tế phát triển mạnh tác động đến các luồng chuyển cư về Hà Nội,
còn có các lý do khác như: (1) Những người kết hôn với người Hà Nội, những người về
Hà Nội theo hình thức đoàn tụ gia đình, chiếm tỷ lệ 14%; (2) Sinh viên, cán bộ... tại các
khu vực tỉnh thành khác về Hà Nội học tập với tỷ lệ 13%; (3) Công chức chuyển công
tác từ địa phương ra Hà Nội, tỷ lệ 5% và người nhập cư về Hà Nội chủ yếu xuất phát từ
các tỉnh khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các tỉnh miền núi phía Bắc và một số
tỉnh miền Bắc Trung Bộ… [132, tr. 40].
Về kinh tế, trong hơn hai thập niên qua, kinh tế Hà Nội luôn đạt mức tăng trưởng
khá cao so với cả nước, trong đó bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 11,24%; 2006-
2010: 10,22% (cả nước tương ứng là 7,51% và 7,08%) [126]. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, giá trị nông, lâm, thuỷ sản tăng từ 4.154 tỷ đồng năm
2000 lên 13.003 tỷ năm 2009 (từ 10,4% xuống còn 6,3%); giá trị công nghiệp tăng từ
14.570 tỷ đồng lên 85,297 tỷ đồng (từ 36,5% lên 41,3%); còn ngành dịch vụ, tuy tỷ
trọng có giảm nhẹ từ 53,1%/2000 xuống còn 52,4%/2009, nhưng giá trị tuyệt đối vẫn
tăng lên 5 lần, từ 21.220 tỷ đồng lên 107.590 tỷ đồng [23].
Hệ thống kết cấu hạ tầng đã đư c cải tạo và nâng cấp, hầu hết các tuyến đường, nhất
là những tuyến quốc lộ hướng tâm vào thành phố đều đã được mở rộng và nâng cấp nền
đường. Nhiều tuyến đường mới từ 4-8 làn xe, với chiều rộng 16-18m đã và đang được mở
thêm, như Láng-Hoà Lạc, Trần Duy Hưng, Kim Liên-Ô Chợ Dừa, Lê Văn Lương kéo dài,
Đại Lộ Thăng Long, đường vành đai 2, vành đai 3, đường cao tốc Pháp Vân-Cầu Giẽ..., đưa
tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông đường bộ tại khu vực nội đô đạt 6-7%, tăng 3 lần so với
thời kỳ đầu thập niên 1990 (khoảng 2-3%).
Cùng với việc xây dựng nhiều tuyến đường bộ trọng điểm và nhiều nút giao thông
quan trọng, Hà Nội còn xây dựng một số cầu vượt, hầm đường bộ và cầu bắc qua sông
Hồng và sông Đuống. Trong số đó, có nhiều công trình quan trọng đối với hệ thống giao
thông của thủ đô như: hầm đường bộ Kim Liên, cầu vượt Ngã Tư Sở, cầu Vĩnh Tuy, cầu
Thanh Trì, cầu Nhật Tân... Hệ thống cấp thoát nước của thành phố đã được tu sửa lại,
đồng thời một số công trình mới được đầu từ xây dựng. Hệ thống đường dây tải điện,
dây cáp viễn thông, dây điện thoại, internet... đã được hạ ngầm, trả lại cho đô thị cảnh
quan thoáng đãng. Đồng thời hệ thống sông, hồ, công viên… cũng được chỉnh trang, tu
sửa, đem lại không gian xanh cho đô thị.
46
Thu nhập và đời sống của người dân đư c cải thiện đáng kể, mức thu nhập bình
quân đầu người tại Hà Nội đã tăng lên khá nhiều, từ 7,4 triệu đồng năm 2000 lên 36 triệu
đồng năm 2010, trong khi cả nước là 5,7 triệu đồng năm 2000 và 19,3 triệu đồng năm
2010. Bộ mặt của thành phố đã khác nhiều so với thập kỷ trước, sự đổi mới dễ nhận thấy
nhất là những chung cư kiểu lắp ghép được xây dựng từ thập kỷ 1970-1980 tại các khu
vực Giảng Võ, Thành Công, Kim Liên, Trung Tự, Thanh Xuân... đang dần được thay thế
bằng các chung cư mới thoáng mát và tiện nghi, góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân Hà Nội. Đến năm 2010, Hà Nội đã và đang xây dựng trên
40 khu đô thị mới với gần 500 nhà ở cao tầng, trong đó có nhiều chung cư hiện đại như
Trung Hoà-Nhân Chính, Mỹ Đình 1-2, Nam Thăng Long, Linh Đàm, Ciputra, Dương
Nội, Văn Khê, Văn Phú, An Khánh, Việt Hưng, Sala, hai bên trục đường Lê Văn Lương
kéo dài… [132, tr. 38-39]. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Hà Nội xây dựng thêm
nhiều biệt thự, chung cư cao cấp, các toà cao ốc văn phòng…, đã tạo cho thành phố một
bộ mặt kiến trúc mới, từng bước tiếp cận với tiêu chí của một Thủ đô văn minh, hiện đại.
Trong đó, có những công trình tiêu biểu như: Hà Nội City Complex (Ba Đình), Daewoo
(Liễu Giai), Sofitel Plaza (Hồ Tây), Vincom (Bà Triệu), Viglacera Tower (đường Láng-
Hoà Lạc), rồi Keangnam Hanoi Landmark Tower (đường Phạm Hùng)...
Hiện tại trong quy hoạch, Hà Nội đang triển khai xây dựng 5 khu đô thị vệ tinh bên
cạnh khu đô thị trung tâm, gồm Sóc Sơn (đô thị công nghiệp, dịch vụ cảng hàng không),
Hoà Lạc (đô thị khoa học và công nghệ cao), Sơn Tây (đô thị văn hoá lịch sử và du lịch
sinh thái), Xuân Mai (đô thị đại học và dịch vụ), và Phú Xuyên (đô thị công nghiệp và
dịch vụ trung chuyển). Những khu đô thị vệ tinh này sẽ là lối thoát để giảm tải về “sức
chứa” cho trung tâm, và giảm sự khác biệt trong phát triển giữa các khu vực nội và
ngoại thành.
2.4.2. Đ th h h n i m t năm n năm 20 3
2.4.2.1. Sự thay đổi địa giới hành chính
Như đã trình bày ở trên, từ khi thành lập đến năm 1996, huyện Từ Liêm đã 6 lần
được điều chỉnh địa giới hành chính. Nhưng do quá trình đô thị hóa diễn ra một cách
nhanh chóng và yêu cầu phát triển của thành phố Hà Nội, cho nên ngày 22 tháng 11 năm
1996, Chính phủ ra Nghị định số 74/NĐ-CP về việc thành lập quận Thanh Xuân và Cầu
Giấy. Theo đó, năm 1996 huyện Từ Liêm đã bàn giao xã Nhân Chính với diện tích đất
tự nhiên 160,9ha và 9.229 nhân khẩu về quận Thanh Xuân; Năm 1997, huyện tiếp tục
47
tách 4 thị trấn (Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân) và 3 xã (Dịch Vọng, Yên
Hòa, Trung Hòa) với tổng diện tích đất tự nhiên 1.210 ha và 82.914 nhân khẩu để thành
lập quận Cầu Giấy.
Theo Niên giám thống kê thành phố Hà Nội, sau khi tách địa giới hành chính để
thành lập các quận mới (năm 1996), huyện Từ Liêm còn 16 đơn vị xã, thị trấn với diện tích 75,15 km2; dân số của huyện lúc này là 177,3 nghìn người [23]. Và từ thời điểm đó
cho đến tháng 11/2013, huyện Từ Liêm còn lại 15 xã và 1 thị trấn, với diện tích giảm đi
1/3 bao gồm các vùng kinh tế phát triển của huyện. Các đơn vị hành chính cấp xã gồm:
Mỹ Đình, Tây Tựu, Phú Diễn, Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Đông
Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân Phương và thị
trấn Cầu Diễn.
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký ban hành Nghị
quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập hai quận
mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm; huyện Từ Liêm từ thời điểm này chính thức hoàn
toàn bị giải thể.
Một số huyện ngoại thành khác như Thanh Trì và Gia Lâm cũng có sự điều chỉnh
địa giới hành chính trong giai đoạn này. Thanh Trì là huyện nằm ở phía Nam của thành
phố Hà Nội, tính từ năm 1990 trở lại đây, Thanh Trì đã thay đổi địa giới 2 lần. Vào năm
1997, sau khi xã Khương Đình chuyển về quận Thanh Xuân, Thanh Trì chỉ còn 25 xã và
1 thị trấn. Năm 2003, thực hiện Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 6/11/2003 của Chính
phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các phường trong quận mới là
Long Biên và Hoàng Mai của Thành phố Hà Nội, toàn bộ diện tích đất tự nhiên của 9 xã
của huyện Thanh trì được cắt về quận Hoàng Mai. Như vậy, huyện Thanh Trì từ 25 xã chỉ còn lại 15 xã và 1 thị trấn Văn Điển với tổng diện tích tự nhiên là 63,17km2 [7].
Huyện Gia Lâm trước năm 1990 có 4 thị trấn và 31 xã. Thực hiện Nghị định
132/2003/NĐ-CP của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính, Gia Lâm
chuyển giao 13 xã, thị trấn để thành lập quận Long Biên. Sau khi chia tách, huyện Gia Lâm có 21 xã, 1 thị trấn, với diện tích tự nhiên 114km2, số dân trên 204 nghìn người [8].
Như vậy, so với các huyện ngoại thành khác của Hà Nội, Từ Liêm là huyện có sự
thay đổi địa giới hành chính nhiều lần nhất. Vì là một huyện ven đô, gần với nội thành
nên Từ Liêm không tránh khỏi những quy hoạch để phát triển kinh tế - xã hội của toàn
thành phố. Việc quy hoạch này, một mặt tạo điều kiện thuận lợi để huyện phát triển,
48
nhất là đến tiến trình đô thị hóa, nhưng mặt khác lại tạo ra sự thay đổi quá nhiều, ảnh
hưởng đến quy hoạch, bố trí phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Bởi vì các xã của
huyện ngoại thành nói chung và Từ Liêm nói riêng đều là những xã ven đô, có mức độ
đô thị hóa cao hơn so với các xã khác còn lại. Điều này dẫn đến kết quả là cứ sau mỗi
lần thay đổi địa giới hành chính thì huyện Từ Liêm lại phải đầu tư công sức để xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương cho phù hợp hơn với
thực tiễn trong từng thời điểm và có hiệu quả hơn khi triển khai. Như vậy, có thể nói sự
thay đổi địa giới hành chính là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thức đẩy
quá trình đô thị hóa ở Từ Liêm và chính bản thân sự thay đổi đó ít nhiều đã đưa lại sự
khác biệt của đô thị hóa trên địa bàn huyện so với các địa phương khác; tiến trình đô thị
hóa ở Từ Liêm diễn ra gắn liền theo từng giai đoạn triển khai các dự án phát triển kinh
tế-xã hội là đặc điểm tương đối dễ nhận thấy của địa phương này.
2.4.2.2. Sự hình thành các khu công nghiệp
Để di dời các cơ sở công nghiệp cũ ở nội thành, giải tỏa sức ép về dân số, môi
trường, giao thông trong nội thành, trong giai đoạn 1996-2000, thành phố Hà Nội đã cho
phép các huyện ngoại thành nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng được thành lập cụm
công nghiệp vừa và nhỏ để phát triển kinh tế-xã hội. Từ năm 2001, Từ Liêm ưu tiên đẩy
mạnh phát triển công nghiệp đi trước một bước, xây dựng dự án phát triển KCN tập
trung vừa và nhỏ. Cùng với sự phát triển, mở rộng thủ đô về phía Tây và Tây Bắc, Từ
Liêm đã trở thành khu vực thu hút đầu tư, các nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trên địa
bàn ngày càng tăng, sản xuất với tốc độ và quy mô ngày càng mở rộng. Số lượng các
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hộ sản xuất kinh doanh gia tăng nhanh chóng,
thu hút hàng chục ngàn lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của huyện và tăng
thu ngân sách. Đến năm 2013, trên địa bàn Từ Liêm có 04 khu vực phát triển công
nghiệp chính, gồm có:
- Khu công nghiệp Nam Thăng Long (do Thành phố quản lý) được quy hoạch phân
làm 2 khu riêng biệt: Khu A là khu công nghệ hỗ trợ sản xuất; và Khu B là khu xí
nghiệp công nghiệp, bao gồm: diện tích xây dựng các nhà máy, diện tích xây dựng khu
kỹ thuật, diện tích khu hành chính, diện tích đường hè, diện tích cây xanh tập trung và
diện tích mặt hồ. KCN Nam Thăng Long được định hướng xây dựng theo tiêu chuẩn của
một KCN sạch, không gây ô nhiễm môi trường; ngành nghề thu hút đầu tư vào KCN
49
được phân thành 3 nhóm: ngành sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất kỹ thuật cao và ngành
chế tạo dụng cụ cơ khí dân dụng.
- Cụm công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm có 84 doanh nghiệp (20 DN sản xuất hàng
tiêu dùng, 28 DN sản xuất hàng cơ khí, 5 DN sản xuất hàng dệt may, 1 DN sản xuất vật
liệu xây dựng, 30 DN sản xuất khác). Trong đó có các doanh nghiệp có giá trị sản xuất
lớn, doanh thu lên tới hàng nghìn tỷ đồng như Nhà máy bia Sài Gòn - Hà Nội, Công ty
Inox Sơn Hà (doanh thu 1.819,8 tỷ đồng/năm với các sản phẩm chính có thương hiệu và
chỗ đứng trên thị trường là bồn nước inox, chậu rửa inox, bình nóng lạnh năng lượng
mặt trời, chiếm 40-60% thị phần sản phẩm cùng loại của cả nước), Công ty CP Thú y
xanh... đóng góp nhiều vào ngân sách của huyện [151].
- Cụm công nghiệp tập trung vừa và nhỏ Minh Khai được huyện triển khai xây dựng
từ năm 2001 đã thu hút được 32 doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho
khoảng 1.000 lao động địa phương [152]. Đến giai đoạn 2006-2010, Từ Liêm tiếp tục mở
rộng cụm công nghiệp Minh Khai giai đoạn 2. Năm 2010 đã có 32 doanh nghiệp của giai
đoạn 1 và 34/50 doanh nghiệp của giai đoạn 2 đi vào sản xuất [6, tr.421].
- Cụm công nghiệp Phú Minh (thuộc phường Cổ Nhuế, Phú Diễn) gồm 27 doanh
nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp ở đây đều sản xuất bao bì, in nhuộm và sản xuất các
đồ phụ tùng ôtô, xe máy [151].
Cũng giống như huyện Từ Liêm, huyện Thanh Trì cũng có chủ trương xây dựng
các cụm công nghiệp, cụ thể là:
- Khu công nghiệp Văn Điển: phát triển các nhóm ngành nghề: Cơ khí, hóa chất,
phân bón, vật liệu xây dựng, sành sứ thủy tinh, chế biến lâm sản. Trong đó có hai nhóm
ngành chính là: Hóa chất phân bón và cơ khí công nghiệp.
- Khu công nghiệp Cầu Bươu: tập trung vào 4 nhóm ngành sản xuất: sản xuất bao
bì, hóa chất, cơ khí và chế biến lâm sản. Trong đó sản xuất bao bì chiếm tỷ trọng lớn
nhất, với 60% về giá trị sản xuất và 49% về lực lượng lao động. Tiếp đến là công nghiệp
hóa chất (sơn tổng hợp) chiếm 29% giá trị sản xuất và 23% lực lượng lao động.
- Cụm công nghiệp Ngọc Hồi: hiện nay đã cơ bản xây dựng xong cơ sở hạ tầng
và tiếp tục mở rộng thêm khoảng 20ha. Hiện nay đã có 34/34 doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà xưởng sản xuất tại Cụm công nghiệp Ngọc Hồi, trong đó 32 doanh nghiệp đã
đi vào hoạt động sản xuất ổn định [7].
50
Huyện Gia Lâm có các KCN là: KCN Thị trấn Sài Đồng A (420ha), Sài Đồng B
(97ha), Tân Quang (500ha), Hapro (353ha) [8].
Chủ trương xây dựng phát triển KCN tập trung vừa và nhỏ là sự thể hiện tư duy đổi
mới về phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, giảm dần
tỷ trọng kinh tế nông nghiệp. Nhờ vậy huyện đã thu hút vốn đầu tư, công nghệ tạo điều kiện
phát huy nội lực các thành phần kinh tế. Từ đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, đúng
hướng, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đạt mức bình quân hàng năm tăng 6,7%, trong đó
tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 7,5%/năm; thương mại - dịch vụ 9,3%/năm.
2.4.2.3. Quá trình biến động về đất đai
Đô thị hóa ở bất cứ quốc gia nào cũng dẫn tới việc giảm dần đất đai nông nghiệp
để sử dụng vào mục đích phát triển quy mô các đô thị đã có, xây dựng khu đô thị mới,
xây dựng các công trình công cộng, khu chế xuất, khu dịch vụ và các công trình hạ tầng
cơ sở của đô thị… Theo quy hoạch tổng thể Thành phố Hà Nội, một mặt thành phố sẽ
được mở rộng ra vùng ven đô, mặt khác sẽ xây dựng các thành phố vệ tinh ở các khu
vực ngoại ô. Trong giai đoạn 1998-2005, trung bình mỗi năm thành phố thu hồi hơn
1.000ha đất nông nghiệp ở vùng ngoại thành cho các mục đích phi nông nghiệp. Tình
hình đó đã dẫn đến sự biến động về đất đai theo mục đích sử dụng ở các huyện ngoại
thành Hà Nội nói chung, huyện Từ Liêm nói riêng.
Vốn là một huyện thuần nông với hơn 50% dân số nông nghiệp và tỷ trọng ngành
kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn trước đã có chiều hướng giảm mạnh nhưng vào năm
1995 vẫn còn chiếm 49,9% cơ cấu kinh tế của Từ Liêm. Chính vì thế, từ thời điểm 1996,
bên cạnh việc ưu tiên bố trí đất cho các mục đích phi nông nghiệp và phát triển đô thị, thì
Từ Liêm vẫn còn diện tích đáng kể được sử dụng cho nông nghiệp. Tuy nhiên, cùng với
quá trình ĐTH thì diện tích dành cho đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, từ 4.858 ha
năm 1995 xuống còn 4.009 năm 2002, 2.774 ha năm 2010 và 2.514 ha năm 2013 [23].
Như vậy, trong giai đoạn 1995-2013, đất nông nghiệp ở Từ Liêm giảm đi 2.344ha,
một con số khá lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất
nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp (phát triển các KCN, xây dựng các khu
đô thị mới, sáp nhập thành lập quận mới, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật huyện, xã…)
phục vụ quá trình ĐTH, công nghiệp hóa; mặt khác là sự thay đổi trong cơ cấu sử dụng
đất nông nghiệp, chuyển từ diện tích lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác và
nuôi trồng thủy sản…
51
Đơn vị tính: ha
Bảng 2.2: Biến động các loại đất của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 2006-2011
TT
Chỉ tiêu
Năm
2006
2011
Biến động Tăng (+), giảm (-) 0 -636,86 -483.01 -540,71 +57,69 - -127,27 -26,57 +689,02 +341,84 +354,64 -14,15 -5,37 +19,63 -7,54 -22,08
7.562,9 2.779,93 2.681,75 2.301,89 379,85 - 66,07 32,11 4,733,35 1.498,85 2.437,98 16,64 83,05 688,21 8,62 49,51
7.562,9 3.416,79 3.164,76 2.842,6 322,16 - 193,34 58,68 4.044,33 1.157,01 2.083,34 30,79 88,42 668,58 16,16 71,59
Tổng diện tích đất tự nhiên 1 Đất nông nghiệp 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.2 Đất lâm nghiệp 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 1.4 Đất nông nghiệp khác 2 Đất phi nông nghiệp 2.1 Đất ở 2.2 Đất chuyên dùng 2.3 Đất tôn giáo, tín ngư ng 2.4 Đất nghĩa trang 2.5 Đất sông suối, mặt nước 2.6 Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng 3
Nguồn: [103]
- Đất nông nghiệp: Trong giai đoạn 2006-2011, diện tích đất nông nghiệp của huyện
đã giảm 636,86ha, bình quân giảm 127,73ha/năm, trong đó giảm nhiều nhất là đất sản
xuất nông nghiệp, chủ yếu là đất trồng lúa sang các mục đích phi nông nghiệp của huyện.
Diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện trong những năm này vẫn giảm mạnh (127,27ha)
bởi hầu hết diện tích này được phân bố rải rác trong khu dân cư dưới dạng ao, hồ.
- Đất phi nông nghiệp: Diện tích đất phi nông nghiệp của huyện tăng từ 4.044,33ha
năm 2006 lên 4.733,35ha năm 2011. Trong đó tăng nhiều nhất là đất chuyên dùng
(354,64ha), sau đó là đất ở, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng.
- Đất chưa sử dụng: Giai đoạn 2006-2011, diện tích đất chưa sử dụng của giảm với
diện tích 22,08ha trên địa bàn huyện.
Như vậy, trong giai đoạn 2006-2011, việc chuyển đổi mục đích sử dụng các loại
đất chính nhìn chung phù hợp với xu thế biến động sử dụng đất nói chung và phù hợp
với xu thế công nghiệp hóa, đô thị hóa của huyện Từ Liêm nói riêng.
Cũng theo quy hoạch tổng thể Thành phố Hà Nội, các huyện Thanh Trì, Gia Lâm
cũng có sự biến động lớn về đất đai. Từ năm 1992 đến năm 2011, đất nông nghiệp ở các
huyện này giảm đi rất nhiều, ví dụ như ở Thanh Trì, đất nông nghiệp năm 1992 so với
năm 2011 giảm 2.972ha, Gia Lâm giảm 3.518ha. Nguyên nhân chủ yếu một phần là do
chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp (phát
52
triển các khu công nghiệp, xây dựng các khu đô thị mới, sáp nhập thành lập quận mới,
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật huyện, xã…) phục vụ quá trình đô thị hóa, công nghiệp
hóa; mặt khác là sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất trong nông nghiệp, chuyển từ diện tích
lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác như cây ăn quả, khu trồng rau, đậu và
nuôi trồng thủy sản…
Xu hướng này cho thấy, quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại trong tổng
quỹ đất tự nhiên của huyện Từ Liêm nói riêng và các huyện ngoại thành Hà Nội nói
chung. Quỹ đất phân bổ cho mục đích phi nông nghiệp ngày càng tăng và sẽ được lấy
chủ yếu từ đất nông nghiệp. Biến động đất đai trong những năm qua trên địa bàn huyện
là một trong những nhân tố thực tiễn nội tại tác động đến việc đề ra các kế hoạch,
chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Từ Liêm theo hướng ĐTH.
2.4.2.4. Quá trình tập trung dân cư đô thị
Trong quá trình ĐTH, vấn đề di dân nông thôn - thành thị xảy ra với hầu hết các
nước trên thế giới. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đã làm cho quan hệ sản
xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giải phóng, CNH, HĐH đất nước được đẩy
mạnh đã thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau Đổi mới,
các thành phố lớn ở Việt Nam đều có sự gia tăng dân số đột ngột, đặc biệt là hai thành
phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo các số liệu điều tra, mỗi ngày có
hàng trăm người đủ các thành phần cư dân, đủ mọi lứa tuổi từ thanh niên, trung niên, cụ
già đến em nhỏ khắp các địa phương trong nước đổ về thành phố với những mục tiêu
ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ăn việc làm, cải thiện đời sống, nhập cư cùng gia
đình, thay đổi nghề nghiệp… với hình thức định cư lâu dài hoặc là tạm cư. Tình trạng
này đã làm cho sự gia tăng dân số cơ học của Thành phố Hà Nội vượt trội so với các
thành phố khác.
Từ Liêm cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nếu so sánh với các huyện ngoại
thành Hà Nội, quá trình ĐTH đã đưa đến kết quả là Từ Liêm có số lượng dân cư tăng
nhanh nhất theo từng năm, từ 177,3 nghìn người năm 1996 lên 198,5 nghìn người năm
2000, 289,8 nghìn người năm 2005, 355,2 nghìn người năm 2008, 419,5 nghìn người
năm 2010 và 523,4 nghìn người năm 2013 (tăng 346,1 nghìn người so với năm 1996)
[23]; Từ Liêm cũng trở thành địa phương có số dân đông nhất Hà Nội.
53
Bảng 2.3: Sự biến động dân số của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội Đơn vị: 1.000 người
Huyện Thanh Trì Từ Liêm Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn
2000 228,2 198,5 345,0 262,1 247,3
2005 164,8 289,8 207,9 302,6 267,9
2008 190,2 355,2 224,5 329,8 279,4
2010 208,2 419,5 241,6 355,0 296,4
2013 219,3 523,4 251,4 374,2 312,2
Nguồn: [23]
Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu đô thị, thương mại, các cơ sở công
nghiệp, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài… ngày càng nhiều nên đã có một lượng
dân di cư từ nông thôn ra làm các nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực,
thực phẩm... Ngoài ra, huyện Từ Liêm còn là nơi giãn dân của nội thành. Với chính sách
chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột ở trung tâm thành phố cho nên các vùng ven
đô nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các
quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm
cũng tìm đến để tậu đất, tậu nhà xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào
các ngày tết, lễ. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm cho dân số huyện Từ Liêm
gia tăng cơ học một cách nhanh chóng. Theo Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của
huyện Từ Liêm đến năm 2020, dự báo đến năm 2030, thì dân số huyện Từ Liêm đến
năm 2020 vào khoảng 830.000 người [154]. Các làng xóm truyền thống với kết cấu hạ
tầng phát triển đan xen với các khu đô thị hiện đại.
Có thể nói rằng áp lực về dân số ngoài yếu tố tích cực là cung cấp lực lượng lao
động dồi dào cho huyện Từ Liêm nói riêng, cho Thành phố Hà Nội nói chung nhưng
cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần phải xem xét giải quyết như vấn đề lao động - việc
làm, nhà ở, tệ nạn xã hội… Những vấn đề này trên thực tế đã đặt ra nhiều câu hỏi lớn
cho huyện Từ Liêm trong quá trình xây dựng các chương trình phát triển kinh tế-xã hội
trong từng giai đoạn cụ thể cũng như trong quá trình triển khai các nhiệm vụ đã và đang
đặt ra cho địa phương.
2.4.2.5. Sự phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
Trong quá trình đô thị hóa, cơ sở hạ tầng đô thị của huyện Từ Liêm được cải thiện
một cách cơ bản. Khi kinh tế phát triển nhanh, mật độ dân số tăng, huyện Từ Liêm phải
quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: làm mới, nâng cấp sửa chữa đường giao
54
thông; mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước, khu chung cư, khu vui chơi giải trí,
trường học, bệnh viện…
Hệ thống hạ tầng giao thông trên địa bàn huyện trong những năm 1996-2013 về cơ
bản đã và đang được hoàn thiện theo những quy hoạch và kế hoạch đề ra. Trên địa bàn
huyện Từ Liêm vốn tập trung nhiều đầu mối giao thông đường bộ quan trọng có vai trò
lớn trong phát triển kinh tế- xã hội của Thủ đô, như: Quốc Lộ 32, đường 23 ven đê Sông
Hồng, đường Phạm Văn Đồng, cầu Thăng Long; có 01 nhà ga và 14km đường sắt. Hệ
thống tuyến đường do huyện quản lý hầu hết đi qua các khu đô thị mới được xây dựng
khá khang trang, cảnh quan đẹp, xứng đáng với các tuyến đường cấp đô thị. Các tuyến
đường ngõ xóm kết nối với các đường trục chính của xã, phường trong huyện có tổng
chiều dài là 260km [151]. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, các tuyến giao thông cấp xã,
phường đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giao thông trong nội bộ huyện, khi
mà những tuyến giao thông cấp huyện còn chưa được xây dựng nhiều. Trên địa bàn
huyện có nhiều tuyến xe buýt chạy qua, dọc theo các trục đường chính như: tuyến số 26,
50 trên trục đường Lê Đức Thọ - Lê Quang Đạo và 02 tuyến chạy qua điểm đầu QL32;
tuyến 39 trên đường 70… Các tuyến buýt này phục vụ nhu cầu đi lại rất hiệu quả đối với
học sinh, sinh viên, người lao động và làm giảm bớt ùn tắc giao thông. Có 01 bến xe lớn
của Thành phố, đó là bến xe đầu mối Mỹ Đình nhưng hiện tại bến xe này đang quá tải
với tần suất 1.200 lượt xe ra vào bến/ngày. Huyện còn tập trung đang triển khai 02 dự án
xây dựng bãi đỗ xe: bãi Mỹ Đình 1 có diện tích 78.603m2; bãi Mỹ Đình 2 có diện tích 14.796m2 [151].
Hệ thống điện dân dụng và đường ống cấp nước sạch của huyện được xác định
theo quy hoạch đã đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại. Về cơ bản, đa số hộ dân trên địa bàn
huyện đã được cấp điện và nước sạch để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày.
Một hạng mục không kém phần quan trọng trong việc thể hiện tốc độ phát triển
nhanh của hạ tầng đô thị đó là việc xây dựng các khu nhà cao tầng, các công trình công
cộng. Đến năm 2013, trên địa bàn huyện đã có một số công trình kiến trúc hiện đại và
quan trọng của thành phố như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ
Đình, Bảo tàng Hà Nội; các trung tâm thương mại lớn The Manor, The Garden…; là nơi
đặt trụ sở của một số Bộ, ngành Trung ương và các trường đại học, bệnh viện…
Hệ thống hạ tầng thương mại dịch vụ tương đối phát triển với nhiều trung tâm
thương mại, siêu thị quy mô lớn và hệ thống chợ dân sinh đáp ứng cơ bản nhu cầu của
55
nhân dân. Cơ sở hạ tầng là điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại dịch vụ như dịch
vụ hội nghị, hội thảo, dịch vụ cho thuê văn phòng cao cấp, dịch vụ du lịch tham quan,
mua sắm… Cụ thể: Huyện có Trung tâm Hội nghị Quốc gia, các khách sạn cao cấp với
2 khách sạn 5 sao: Crowne Plaza Hotels & Resorts và JW Marriott Hotel Hanoi, một số
trung tâm thương mại…; nhiều tổ hợp văn phòng đã đi vào hoạt động: Keangnam Hanoi
Landmark, Handico Tower, Viglacera Tower, Sudico, The Mannor, FLC Landmark
Tower…; Với nhiều khu đô thị đã phát triển ổn định như KĐT Mỹ Đình 1 và 2, KĐT
Mỹ Đình - Mễ Trì, KĐT Xuân Phương; KĐT Trung Văn; KĐT The Manor, KĐT
Ciputra, KĐT thành phố giao lưu, KĐT ngoại giao đoàn, KĐT Cổ Nhuế - Xuân Đỉnh và
hàng chục khu chung cư… Các khu đô thị và chung cư, các khu khách sạn cao cấp, các
trung tâm thương mại, hội nghị, hội thảo… được xây dựng trong giai đoạn này được coi
là nhân tố mang đến diện mạo mới, văn minh hiện đại cho huyện Từ Liêm... Ngoài ra, với
lợi thế có nhiều trung tâm hội nghị, sân thể thao của Trung ương và các tổ chức trên địa
bàn, dịch vụ hội nghị, hội thảo, dịch vụ cho thuê văn phòng làm việc, dịch vụ thể dục thể
thao của huyện có điều kiện phát triển khá tốt. Các siêu thị đều nằm trên những vị trí khá
đắc địa nối giữa thành phố với các địa điểm quan trọng khác như: Sân bay quốc tế Nội
Bài, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Mỹ Đình, Bến xe Mỹ Đình, là điều kiện
thuận lợi để phát triển hoạt động thương mại và giao thông cho khách hàng.
Hệ thống thiết chế xã hội của huyện đã được nâng cao hơn. Trong quá trình biến
động sử dụng đất đai, diện tích đất dành cho các cơ sở hạ tầng như giao thông, đường sá,
các công trình văn hoá, y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao... được quan tâm đầu
tư đúng mức và phát triển tương đối toàn diện, đã từng bước nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân. Hệ thống chợ được xây dựng và tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng
nhằm phục vụ nhu cầu giao lưu, buôn bán của nhân dân; Hệ thống cơ sở vật chất giáo
dục - đào tạo của các huyện tương đối đầy đủ về số lượng, được đầu tư nâng cấp, đạt
tiêu chuẩn trường tiên tiến và trường đạt chuẩn quốc gia. Huyện có 53 trường tiểu học,
27 trường trung học cơ sở, 57 trường mẫu giáo, nhà trẻ; hệ thống các công trình dành
cho y tế, văn hóa - xã hội, thể dục - thể thao cũng từng bước được mở rộng và nâng cấp,
đáp ứng được nhu cầu của nhân dân dân trong huyện. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể thao quần chúng tại cơ sở thường xuyên được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, tạo
sân chơi lành mạnh bổ ích cho nhân dân trên địa bàn, góp phần cải thiện và nâng cao đời
56
sống văn hóa tinh thần cho người dân. Hệ thống y tế đảm bảo tốt cho việc chăm sóc sức
khoẻ ban đầu của người dân.
Hệ thống công viên, cây xanh trong giai đoạn này được chú trọng, diện tích cây xanh bình quân đầu người trên địa bàn quận 5,3m2/người (cao hơn mức trung bình của thành phố với 1,1m2/người). Trên địa bàn có nhiều khu đô thị mới với cảnh quan khá
đẹp và văn minh như khu Mỹ Đình, Mễ Trì, Ciputra, The Manor… Trong các khu này
có nhiều sân chơi, công viên, vườn hoa góp phần tạo cảnh quan đẹp cho huyện và đáp
ứng một phần đời sống văn hoá của nhân dân. Đặc biệt, trên địa bàn huyện có Trung
tâm thể thao Quốc gia và Công viên Hòa Bình trên xã Xuân Đỉnh với diện tích 20ha là
những quần thể rộng lớn có diện tích cây xanh đa dạng, đẹp, tiềm năng sẽ là điểm vui
chơi giải trí thu hút đông đảo nhân dân của huyện và các địa bàn lân cận đến tham quan,
vui chơi cuối tuần. Những khu công viên giải trí, trung tâm thể thao chính là những
điểm nhấn cho sự biến chuyển của Từ Liêm trên con đường đô thị hóa.
i t h ơng 2
Với hai nội dung chính là khái quát về đối tượng nghiên cứu - huyện Từ Liêm và
vấn đề đô thị hóa ở địa phương này trong khung thời gian đã ấn định, chương 2 luận án
đã lần lượt giới thiệu về vị trí đị lý tự nhiên, khí hậu thủy văn, đất đai, địa giới hành
chính cũng như làm rõ thêm về thực trạng kinh tế-xã hội của huyện Từ Liêm trước năm
1996. Huyện có vị trí thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế. Mạng lưới giao thông
đường bộ, đường sắt, đường sông diễn ra thuận lợi, tạo lợi thế để thu hút các dự án đầu
tư xây dựng của thành phố và phát triển kinh tế-xã hội của huyện.
Trên nền tảng của những điều kiện khách quan cụ thể cũng như bề dày lịch sử của
địa phương, đô thị hóa ở huyện Từ Liêm diễn ra trong bối cảnh chung và dưới sự tác
động trực tiếp của quá trình mở rộng Thủ đô Hà Nội. Đặt vấn đề nghiên cứu những đặc
điểm cơ bản trong quá trình đô thị hóa của một đơn vị hành chính cấp dưới là huyện Từ
Liêm trong một phạm vi lớn hơn và mang vị thế đơn vị hành chính cấp trên trực tiếp là
Thủ đô Hà Nội là một cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn đất nước hiện nay; qua đó có
thể thấy được cái nhìn biện chứng, vừa thấy đặc điểm chung của toàn vùng, vừa thấy
được những nét riêng của một địa phương. Là một huyện nằm trong vùng quy hoạch
phát triển trọng điểm của Thủ đô Hà Nội, huyện Từ Liêm là một địa phương có tốc độ
đô thị hóa nhanh ở khu vực ven đô. Dù trải qua các giai đoạn phát triển được xây dựng
theo quy hoạch chung của thành phố và chịu nhiều tác động từ các yếu tố khách quan
57
cũng như nội tại nhưng Từ Liêm đã có nhiều thay đổi mang tính đặc thù và theo hướng
tích cực. Sự thay đổi chủ yếu của Từ Liêm theo hương đô thị hóa đã biểu hiện rõ nét
trên các phương diện: thay đổi địa về giới hành chính, biến động về đất đai, việc gia
tăng và tập trung dân cư đô thị, sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế, và sự phát triển nhanh
chóng cơ sở hạ tầng đô thị. Những biến chuyển sâu rộng và toàn diện trên nhiều góc độ
của đời sống kinh tế, xã hội Từ Liêm đã làm cho Từ Liêm trở thành địa phương vùng
ven đô có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất Hà Nội trong giai đoạn 1996-2013.
58
Chương 3
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ CỦA HUYỆN TỪ LIÊM
3.1. Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế
3. . . h n i n ơ ấ ngành
Cùng với quá trình đô thị hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và vùng
của nông thôn ven đô sang đô thị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng
hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu ngân sách của thành phố, là cơ sở tăng ngân sách
cho khu vực phòng thủ; nâng cao số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu sản phẩm hàng
hóa công nghiệp, nông sản, thực phẩm, dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng đảm bảo
kinh tế tại chỗ cho các lực lượng trong khu vực phòng thủ thành phố.
Như đã trình bày ở chương 2, trong giai đoạn 1986-1995, kinh tế huyện Từ Liêm đạt
tốc độ tăng trưởng 7,51%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần, kinh tế công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ bắt đầu tăng lên. Tỷ trọng kinh tế ngành nông
nghiệp trong cơ cấu kinh tế huyện giảm từ 92,3% năm 1986 xuống 40,9% năm 1995;
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 2,3% năm 1986 lên 33,1% năm 1995, tăng 29,2%;
thương mại - dịch vụ từ 5,4% năm 1986 lên 26% năm 1995, tăng 20,6% [6, tr.52].
Sang giai đoạn 1995-2013, cơ cấu ngành kinh tế của huyện Từ Liêm được phản
ảnh qua biểu đồ 3.1 sau đây:
Nguồn: [151]
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm qua các năm
Theo biểu đồ 3.1, cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm từ năm 1995 đến năm 2013 có sự
chuyển dịch nhanh, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ
59
33,1% năm 1995 lên 58,9% năm 2013; tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thương mại - dịch
vụ từ 26% năm 1995 lên 39,7% năm 2013; tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 40,9%
năm 1995 xuống còn 1,4% năm 2013 [163, 165]. Trong năm 2013, tổng giá trị sản xuất
chung của các ngành kinh tế (giá cố định 2010) đạt 32.329 tỷ đồng, tăng 15,5% so với
năm 2012, đưa giá trị sản xuất các ngành kinh tế 3 năm 2011-2013 tăng bình quân
16,7% [166].
Đối với hai huyện ngoại thành khác là Thanh trì và Gia Lâm, cơ cấu kinh tế của
hai huyện này cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm
tương đối tỷ trọng nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tại huyện
Thanh Trì, giai đoạn 2001-2012, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 45,7%
lên 69,62%; dịch vụ tăng từ 15,46% lên 22,52%; nông nghiệp giảm từ 38,84% xuống
còn 7,86%, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân từ 16-17%/năm [7]. Đối với huyện
Gia Lâm, tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 41,8% lên 54,3% năm 2010;
dịch vụ từ 25,2% lên 26% năm 2010; nông nghiệp giảm từ 35,15% xuống 19,7% năm
2010. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 18-18,5%/năm [8, tr. 282, 396].
3. .2. h n i n ơ ấ thành hần
Trước năm 1996, thu nhập quốc dân của Thủ đô nói chung và của huyện Từ Liêm
nói riêng chủ yếu là do khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể mang lại thì từ giai
đoạn 1996 đến 2013, kinh tế ngoài nhà nước đã phát triển nhanh chóng, đóng góp đáng
kể vào GDP hàng năm. Cơ cấu thành phần kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng
giảm tỷ trọng kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước.
Kinh tế nhà nước: Trong giai đoạn 2000-2005, toàn huyện có 04 doanh nghiệp nhà
nước. Năm 2005, huyện đã tiến hành cổ phần hóa 2 DN (Công ty đầu tư kinh doanh nhà
Từ Liêm và Công ty Dịch vụ nông nghiệp) và tiến hành sắp xếp lại 2 DN nhà nước
(Công ty vườn quả du lịch và Xí nghiệp môi trường). Đến năm 2013, chỉ còn 01 doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc huyện là Xí nghiệp môi trường đô thị huyện và đang triển
khai các thủ tục để chuyển về Thành phố quản lý theo quy định.
Kinh tế tập thể: Năm 2005 toàn huyện có 38 HTX, trong đó HTX nông nghiệp là
31 và 7 HTX phi nông nghiệp. Các HTX nông nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn được
duy trì, ổn định, bảo toàn được vốn và phát triển. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu được đáp
ứng nhu cầu thiết yếu về sản xuất và tiêu dùng của nhân dân như: phân bón, giống, điện
nước... Phát huy thế mạnh của huyện ven đô, một số HTX đã năng động mở rộng ngành
60
nghề kinh doanh dịch vụ thương mại: quản lý chợ, dịch vụ trông xe, dịch vụ thương
mại..., bước đầu có hiệu quả và phù hợp với điều kiện đô thị hóa của huyện. Đến năm
2013, tổng số HTX trên toàn huyện là 47, trong đó có 32 HTX nông nghiệp với tổng số
26.024 xã viên [166, tr.7].
Kinh tế ngoài nhà nước: Khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể.
+ Các doanh nghiệp: Năm 2005, huyện có 352 DN, bao gồm Công ty TNHH, công
ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, trong đó DN công nghiệp là 110, DN thương mại và
dịch vụ là 187, DN sản xuất là 55 [47, tr.49]. Đến năm 2013, có khoảng 7.300 DN đang
hoạt động, trong đó chủ yếu là DN có quy mô nhỏ, doanh thu dưới 15 tỷ đồng. Có
khoảng trên 1.000 DN thành lập mới. Đối với DN có doanh thu từ 15 tỷ trở lên: khoảng
530 DN với tổng doanh thu khoảng 47.468 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ khoảng 80% tổng doanh
thu toàn huyện, trong đó số DN có doanh thu từ 100 tỷ đồng trở lên: 91 doanh nghiệp
với tổng doanh thu 32.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 54% doanh thu toàn huyện
[166, tr.7]. Khoảng 80% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Hộ kinh doanh cá thể: Năm 2005, huyện có khoảng 8.000 hộ, thu hút khoảng
16.500 lao động [162, tr.6]. Đến năm 2013, toàn huyện có khoảng 12.000 hộ đang hoạt
động, trong đó lĩnh vực thương mại, dịch vụ chiếm 90%.
Có thể nói, kinh tế ngoài nhà nước tham gia hầu hết vào các lĩnh vực, trong đó có
cả những lĩnh vực trước đây chỉ có DNNN đảm nhận. Cùng với quá trình chuyển đổi
kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp mới hình thành và phát triển khá hiệu quả. Khu
vực kinh tế này đóng góp ngày càng lớn vào ngân sách của huyện và thu hút khoảng
70% lao động, trong đó riêng kinh tế cá thể, hộ gia đình thu hút 60% lao động.
3. .3. h n i n ơ ấ vùng
Trước năm 1995, huyện Từ Liêm phân thành 3 vùng kinh tế, đó là: Vùng đô thị
hóa nhanh, tập trung phát triển sản xuất cây hoa cây cảnh, ngành nghề, chế biến nông
sản, làm dịch vụ và phát triển du lịch (Thị trấn Cầu Diễn, Tây Tựu); Vùng tương đối ổn
định, tập trung sản xuất rau, cây ăn quả, chăn nuôi, sản xuất ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp (Minh Khai, Phú Diễn, Xuân Phương, Liên Mạc); Vùng tạm ổn định, tập trung
sản xuất lương thực, đặc sản, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản (Mễ
Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ) [6, tr.314].
61
Từ năm 2001, huyện đã hình thành ba khu vực mang tính sinh thái rõ rệt, phù hợp
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội đến năm 2010, đó là:
Vùng 1: bao gồm Thị trấn Cầu Diễn, 3 xã phía Bắc (Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ
Nhuế) và xã Trung Văn ở phía Đông Nam, chiếm 26,76% diện tích toàn huyện. Là vùng
có các xã đều giáp ranh nội thành, cho nên ở đây tập trung nhiều cơ cơ quan, xí nghiệp
của Trung ương và thành phố, đặc biệt có 2 khu công nghiệp tập trung của Hà Nội là
khu Cầu Diễn-Mai Dịch và khu Chèm. Khu vực này cũng tập trung nhiều làng nghề
như thêu, dệt thảm, đan mây song tre, may mặc, bện thừng, sản xuất bánh, mứt, kẹo…
Vùng này có diện tích đất nông nghiệp hạn chế, đất canh tác chủ yếu là trồng lúa, số
diện tích còn lại trồng rau, hoa quả. Vì vậy, cơ cấu kinh tế vùng 1 được xây đựng theo
mô hình: công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông nghiệp. Số hộ nông nghiệp chiếm tỷ
lệ nhỏ, hộ thuần nông chỉ còn 10%. Trong cơ cấu thu nhập của hộ, tỷ trọng ngành
nông nghiệp chỉ còn chiếm từ 10-20%.
Vùng 2: gồm 6 xã phía Tây Bắc (Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Tây Tựu,
Minh Khai, Phú Diễn), chiếm 35,98% diện tích huyện. Đất đai vùng này có độ màu
m cao, hệ thống thủy nông tương đối hoàn chỉnh, thuận lợi cho sản xuất thâm canh
nhiều loại cây trồng. Vì vậy, vùng 2 là vùng tập trung chủ yếu của huyện về trồng cây
ăn quả, rau và hoa với nhiều loại nông sản đặc sắc như cam Canh, bưởi Diễn, những
loại rau gia vị, rau xanh cao cấp và nhiều loại hoa ngoại nhập. Mô hình kinh tế của
vùng 2 là nông nghiệp-công nghiệp-thương mại-dịch vụ. Nông nghiệp đã chú trọng đi
vào sản xuất hàng hóa và chiếm 70% tổng giá trị sản xuất. Số hộ nông nghiệp chiếm
hơn 60% hộ dân cư.
Vùng 3: bao gồm 5 xã (Xuân Phương, Mỹ Đình, Tây Mỗ, Mễ Trì, Đại Mỗ),
chiếm 37,24% diện tích toàn huyện. Đây là vùng đất thấp, thuộc loại đất thịt nặng hoặc
pha sét độ phì thấp, do vậy đã trở thành vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo và chăn nuôi
lợn. Sản phẩm đặc trưng là lúa đặc sản, thịt lợn, thịt gia cầm. Ngoài sản xuất nông
nghiệp, vùng 3 còn phát triển một số ngành nghề thủ công như: làm bún, bánh phở,
làm cốm… Một số nghề cơ khí cũng đạt trình độ khá cao như sản xuất dụng cụ kim
loại và phụ tùng máy móc. Mô hình cơ cấu kinh tế vùng 3 được xác định là: nông
nghiệp-công nghiệp-thương mại, dịch vụ.
Trong đó vùng 1 là vùng chịu ảnh hưởng lớn của đô thị hóa, phát triển mạnh,
vùng 2 và 3 chậm phát triển hơn, nhưng có khả năng tập trung sản xuất nông nghiệp
62
cao hơn, đặc biệt vùng 3 đã được ấn định nằm trong quy hoạch quốc gia vì vậy một số
xã được quy hoạch diện tích không gian xanh cho Thủ đô.
3.2. Nông nghiệp
3.2. . Phân ổ và sử ụng ất n ng nghi
Như đã trình bày ở chương 2, trong quá trình ĐTH, sự phát triển các KCN, xây
dựng các khu đô thị mới, cũng như việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông
nghiệp sang đất ở, đất sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật… đã làm
giảm sút nhanh chóng diện tích đất nông nghiệp của Từ Liêm. Trước tình hình này, việc
cần kíp nhất của địa phương là phải nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông
nghiệp nhằm nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích nuôi trồng.
Đất nông nghiệp ở Từ Liêm sử dụng nhiều mục đích khác nhau: đất trồng cây hàng
năm (lúa và hoa màu…), đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản…
- Đất trồng cây hàng năm: Đất trồng cây hàng năm giảm từ 2.938 ha năm 2005
[103] xuống còn 2.208ha năm 2012 [165], trong đó chủ yếu là diện tích trồng lúa giảm
mạnh, chỉ còn 812 ha năm 2013 [166]. Loại đất này phân bố phần lớn ở các xã như: Xuân
Phương, Liên Mạc,... Các xã Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn, Đông Ngạc... hầu như không
còn diện tích đất chuyên trồng lúa nước.
Diện tích đất trồng lúa giảm là do chuyển từ đất lúa sang đất trồng cây hàng năm
và cây lâu năm, trồng hoa cây cảnh, chuyển sang đất ở nông thôn, cấp đất dãn dân nông
thôn, tái định cư; chuyển sang đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất có mục đích
công cộng và một số đất phi nông nghiệp khác như trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp,
an ninh…
Diện tích trồng rau các loại cũng giảm từ 1.103 ha năm 1995 còn 646ha năm 2013
[166], tập trung ở các xã Liên Mạc, Minh Khai, Phú Diễn; việc sản xuất các loại rau
màu chỉ có thể phát triển theo mô hình chiều sâu là chủ yếu nên giá trị ngày càng tăng.
Điều này thể hiện xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ loại cây trồng có giá trị thấp
sang các loại cây trồng có giá trị cao, phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày của
người dân nội thành, đồng thời tạo cơ sở để có thể hình thành các vùng chuyên canh.
Diện tích trồng hoa, cây cảnh tăng từ 270ha năm 1995 tăng lên 1.500ha năm 2010
[103] và giảm xuống 1.182ha năm 2013 [166], chủ yếu tập trung ở xã Tây Tựu, Thượng
Cát, Liên Mạc. Trước năm 1995, trên địa bàn huyện rất ít diện tích trồng hoa vì các
vùng trồng hoa trước đó đã được sáp nhập vào quận Tây Hồ. Tuy nhiên, từ năm 2000,
63
diện tích trồng hoa của huyện đã được phát triển mạnh, các loại hoa mới thường xuyên
được đưa vào sản xuất.
- iện tích nuôi trồng thủy sản: Do phần lớn ao hồ bị san lấp để triển khai dự án
đầu tư các khu công nghiệp, xây dựng khu đô thị và các công trình công cộng trên địa
bàn huyện Từ Liêm là khá lớn cho nên diện tích nuôi trồng thủy sản cũng giảm mạnh, từ
203ha năm 2005 xuống còn 61,9ha năm 2012 [165]. Quá trình xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp cũng như công trình dân dụng tiếp tục được mở rộng và chắc chắn sẽ còn tiếp tục
tác động mạnh đến ngành nuôi trồng thủy sản của huyện.
Có thể lấy ví dụ xã Mễ Trì - một trong những địa phương có tốc độ ĐTH nhanh
nhất của huyện Từ Liêm. Với tính chất đặc thù của một địa phương thuộc vùng ven đô
đang trên đà đô thị hóa nhanh, cho nên sự biến động đất đai cả về loại đất và đối tượng
sử dụng đất ở Mễ Trì là một điều tất yếu. Từ năm 2000 đến năm 2010, do một lượng lớn
diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang đất phi nông nghiệp phục vụ cho xây dựng
các công trình công cộng của thành phố, khu tái định cư, các công trình quốc gia trọng
điểm như khu Liên hợp thể thao Quốc gia, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bảo tàng Hà
Nội, các khu chung cư và các dự án phát triển giao thông của địa phương và Hà Nội cho
nên diện tích đất nông nghiệp ở Mễ Trì càng bị thu hẹp một cách nhanh chóng. Hầu hết
các hộ gia đình thuộc xã Mễ Trì đều bị thu hồi đất, tuy nhiên tỷ lệ và loại đất bị thu hồi
của các hộ là khác nhau; Trong đó, đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm trên 91%, đất phi
nông nghiệp - 12%, đất ao hồ - 9,5% [132].
Không chỉ riêng Mễ Trì, tại một số xã giáp ranh với nội thành như Mỹ Đình, Trung
Văn… diện tích đất nông nghiệp cũng bị giảm nhanh, còn các xã như Liên Mạc, Đông
Ngạc, Thượng Cát có vị trí xa nội thành thì diện tích đất nông nghiệp ít biến động hơn.
Từ năm 1996 đến năm 2013, diện tích đất nông nghiệp của Từ Liêm giảm theo
từng năm, đặc biệt là giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2013. Từ Liêm là huyện nằm
trong quy hoạch phát triển đô thị của Thành phố nên có tốc độ ĐTH nhanh, đất dành cho
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để chuyển sang đất phi nông nghiệp phục vụ quá trình
ĐTH, công nghiệp hóa; do đó, chủ trương của huyện là coi trọng chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp theo hướng giảm nhanh diện tích trồng lúa, đưa các loại cây trồng, vật
nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất.
64
3.2.2. Về ầ t t ong n ng nghi
- Đổi mới phương thức huy động và quản lý, sử dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào
việc giải quyết vấn đề huy động, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Do đó, huyện đã chủ
trương điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy động thêm nhiều nguốn vốn cho phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông
thôn trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về
vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp, hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Về huy động vốn: Vốn đầu tư bao gồm hai nguồn chủ yếu là nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn nước ngoài. Từ năm 1996 đến 2005, huyện Từ Liêm chưa có nguồn vốn
nước ngoài. Từ đầu năm 2007 bắt đầu có một số doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư
nhưng số lượng còn hạn chế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách
Nhà nước, nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội khác (doanh
nghiệp và HTX).
Vốn từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm đầu tư
trực tiếp cho sản xuất và hệ thống dịch vụ nông nghiệp, hoạt động nghiên cứu, chuyển
giao ứng dụng tiến bộ khoa học, kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi…). Nguồn vốn
này chiếm một tỷ lệ chưa cao trong cơ cấu vốn đầu tư của vùng, tuy nhiên có sự gia tăng
hàng năm. Đặc biệt, từ những năm đầu thế kỷ XXI, việc huy động các nguồn vốn đầu tư
cho phát triển khoa học công nghệ của Từ Liêm đã được chú trọng hơn nhưng chủ yếu
vẫn trông chờ vào Nhà nước.
Trong giai đoạn 2000-2005, tổng số vốn đầu tư ngân sách Nhà nước vào nông
nghiệp Từ Liêm đạt 60.366 triệu đồng [158]. Nhờ có việc gia tăng nguồn vốn ngân sách
cùng với việc huy động vốn trong toàn dân nên huyện đã xây dựng được một số công
trình hạ tầng cơ sở phục vụ nông nghiệp như: thủy lợi, giao thông, mạng lưới điện… Nhìn
chung, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp ven đô là tốt hơn trước mốc nghiên
cứu. Hệ thống dịch vụ như: dịch vụ giống cây trồng, gia súc, gia cầm; dịch vụ vật tư nông
nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…) đã từng bước phát huy khả năng của mình. Thành phố
đã đầu tư xây dựng hệ thống nước sạch sông Hồng để phục vụ dự án làng sinh thái - đô thị
Phú Diễn, mở ra tiềm năng lớn cho phát triển vùng kinh tế sinh thái của thành phố. Tuy
vậy, vẫn còn rất nhiều hạng mục cần thiết phải đầu tư để đẩy mạnh CNH nông nghiệp
như: chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, chế biến nông sản, phát triển công nghệ sinh học
65
trình độ cao để nhân giống cây trồng, vật nuôi có giá trị cao, cơ khí hóa một số khâu canh
tác… còn chưa được chú ý nhiều.
Sang giai đoạn 2006-2011, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho Từ Liêm
để phát triển kinh tế nông nghiệp đã tăng lên rõ rệt, đạt 120.007 triệu đồng, gấp 4 lần
thời kỳ 1990-1995. Bình quân mỗi năm huy động được 24.601,4 triệu đồng, bằng
8,3%/năm và gấp 1,5 lần so với năm 1995. Bên cạnh đó, vốn đầu tư cân đối qua ngân
sách huyện tăng khá. Tổng vốn đầu tư trong 6 năm (2006-2011) đạt 171.803 triệu đồng,
bình quân mỗi năm huy động ngân sách huyện cho nông nghiệp đạt 34.360,6 triệu
đồng/năm [2, tr.49].
Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã
khơi dậy tiềm năng kinh tế của các hộ nông dân. Năm 2011, huyện có khoảng 35.000 hộ
nông dân, tiềm năng kinh tế của hộ được phản ánh thông qua việc huy động tổng hợp
các nguồn lực: đất đai, lao động, nhất là nguồn vốn để phát triển sản xuất. Theo số liệu
thống kê năm 2011, số vốn huy động được từ các hộ gia đình ở Từ Liêm cho các hoạt
động kinh tế là 90 tỷ đồng [148]; một phần số vốn này đã được đầu tư vào phát triển
nông nghiệp với các mô hình nông nghiệp sạch, cây con đặc sản, đặc biệt là đầu tư vào
kinh tế trang trại.
Những năm 2006-2013, cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa đã tạo thêm một số nghề mới. Nhiều hộ gia đình ở Từ Liêm đã đầu tư từ 200-300 triệu đồng để nuôi 10-20 con bò sữa/hộ; xây dựng 500-600m2 ao để nuôi và
sản xuất ba ba giống/hộ/năm [2, tr.52].
Năm 2010 huyện Từ Liêm có 356 doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trên 14 lĩnh
vực kinh tế-kỹ thuật, trong đó có 23 doanh nghiệp nông nghiệp, với tổng số vốn kinh
doanh là 97,8 tỷ đồng [151]. Ngoài việc nhận phần vốn cấp của Nhà nước, vay vốn tín
dụng ngân hàng…, nhiều doanh nghiệp đã huy động nguồn vốn rất quan trọng từ nội bộ
doanh nghiệp để phục vụ đầu tư phát triển sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế. Từ năm
2008 đến năm 2011, số vốn tự huy động của các doanh nghiệp trên địa bàn Từ Liêm là
241 tỷ đồng [2, tr.53]. Số vốn này được đưa vào phát triển sản xuất, thúc đẩy các doanh
nghiệp mở rộng kinh doanh. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp hàng năm được nhà nước ưu tiên cấp từ 30-50% tổng số vốn lưu động và 2-3 tỷ
đồng/năm vốn xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp này cũng đẩy mạnh huy động vốn tự
có của mình, đầu tư trở lại quy trình sản xuất.
66
Huyện Từ Liêm có 46 HTX bao gồm 29 HTX khối nông nghiệp và 17 HTX khối
phi nông nghiệp. Tất cả các HXT nông nghiệp đã chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp
tác xã, do vậy từ năm 2008 đến năm 2011, các HTX đã huy động được trên 10 tỷ đồng
từ việc chuyển đổi các tổ chức kinh tế sang HTX [2, tr.52].
Nhìn chung, số vốn huy động từ các loại hình doanh nghiệp đa phần tập trung đầu
tư trở lại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp-dịch vụ. Số vốn đầu tư để phát
triển nông nghiệp còn thấp vì gặp nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp, khó thu hồi vốn… Chỉ có
một lượng vốn rất nhỏ từ các doanh nghiệp nông nghiệp được huy động vào phát triển
nông nghiệp và cũng mới chỉ dừng lại ở việc duy trì bộ máy hoạt động của doanh
nghiệp, nâng cấp, sửa chữa một số công trình nhỏ phục vụ nông nghiệp…
Tính hiệu quả của việc đầu tư, sử dụng vốn: Đối với vốn đầu tư từ ngân sách,
huyện thực hiện theo nguyên tắc: sử dụng nguồn vốn đúng lĩnh vực được phân bổ và
phải gắn với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của vùng. Số vốn từ nguồn ngân sách
được đầu tư vào một số lĩnh vực sau:
Đầu tư cho trại, trạm nông nghiệp: Số vốn huy động được dùng vào việc cải tạo,
nâng cấp hệ thống giống cây trồng, vật nuôi như: trại lợn giống Cầu Diễn, Trung tâm kỹ
thuật rau quả, trại lúa Phú Diễn… Hàng năm, các trung tâm trên đã cung cấp 2.000 lợn
giống, 0,5 triệu giống cây ăn quả… góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông phẩm
hàng hóa. Hơn nữa, vốn còn được huy động để đầu tư vào cơ sở mua gom sữa tươi ở
trạm Cầu Diễn khoảng 300 triệu đồng. Năng lực thu gom, bảo quản sữa tại trạm đảm
bảo 100-150 tấn/năm [2, tr.50].
Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp: Từ năm 2006 đến năm 2011,
huyện đã tăng mức vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp: thủy lợi, đê
điều, xây dựng và cải tạo giao thông nông thôn, mạng lưới điện. Tổng số vốn huy động
để xây dựng, sửa chữa các công trình thủy nông phục vụ cho công tác tưới tiêu, phát
triển sản xuất nông nghiệp đạt 25.445 triệu đồng. Hơn nữa, vốn ngân sách đầu tư tu bổ
đê điều đạt 35.766 triệu đồng đã được tập trung vào đắp đê, làm kè, tôn cao và cứng hóa
mặt đê, đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ, cải thiện cảnh quan môi trường. Từ Liêm đã
nâng cấp, tu bổ tuyến đê Hữu Hồng dài 8,16km; sửa chữa Kè Thụy Phương-Liên Mạc
dài 810m; cải tạo cống Thượng Cát, cống Liên Mạc (thuộc hệ thống thủy nông sông
Nhuệ). Từ năm 2006 đến năm 2011, huyện đã cải tạo và xây dựng dựng mới 16 trạm
bơm tưới tiêu đầu mối, 1 hồ chứa nước, trên 30km kênh mương được kiên cố hóa, đảm
67
bảo chủ động tưới cho 89% diện tích trồng trọt và tiêu chủ động cho 70% diện tích úng
vào mùa mưa [2, tr.50].
Ngoài ra, huyện còn tạo điều kiện cho các hộ nông dân vay đủ số vốn để sản xuất,
nhằm nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và trình độ sản xuất kinh doanh đến
từng hộ nông dân, qua đó phổ biến kiến thức làm vườn, chăn nuôi, trồng trọt, tạo nghề
mới. Xây dựng và nhân rộng những mô hình làm ăn có hiệu quả phù hợp với từng vùng
để mỗi hộ nông dân được vay vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất.
- Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp
Với mục tiêu không ngừng nâng cao giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất nông
nghiệp trong điều kiện diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, Từ Liêm đã luôn chú
trọng áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện các chính sách khuyến nông, tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
Từ Liêm đã chú trọng đến việc cải tiến kỹ thuật, sử dụng phân bón… để đưa
năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi tăng lên nhưng lại đảm bảo giữ được môi
trường trong sạch. Ví dụ như việc sử dụng phân sinh học trong trồng trọt cũng có tác
dụng lớn trong bảo vệ môi trường, an toàn sản phẩm, góp phần thúc đẩy tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kỹ thuật sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái. Theo các
số liệu thống kê thì nông dân ngoại thành Hà Nội sử dụng bình quân hàng năm 4.500 tấn
phân sinh học, trong đó Từ Liêm sử dụng bình quân 1.067,2 tấn/năm (đứng thứ hai, sau
huyện Đông Anh - 1.839,8 tấn); với 56,3% số hộ trong các xã của huyện có sử dụng
phân sinh học, 100% số xã trong huyện có sử dụng phân sinh học với số lượng bình
quân 66,7 tấn/xã/năm [185].
Trong lĩnh vực trồng trọt, huyện rất chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Nhiều giống lúa mới được thử nghiệm
thành công đã được nông dân tiếp thu và đưa vào sản xuất đại trà như: CR203, C70,
C71, VDIO, 98-10, 98-20, lúa lai, Bắc thơm… Kết quả là đã có 80% giống lúa tiến bộ
được gieo trồng trên địa bàn huyện.
Các quy trình sản xuất rau an toàn cho một số giống như cà chua, ngô, rau, súp
lơ… được ứng dụng rộng rãi. Các mô hình trồng rau an toàn trong nhà lưới đã được áp
dụng như HTX Phúc Lý, HTX Yên Nội, HTX Phú Diễn… Những nỗ lực đó đã góp
phần đưa diện tích rau an toàn đạt trên 90%, năng suất đạt trên 200 tạ/ha, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của thị trường [163].
68
Về cây ăn quả, huyện Từ Liêm đã triển khai ứng dụng, hoàn thiện và chuyển giao
quy trình nhân giống cam Canh, bưởi Diễn theo phương pháp khoa học, góp phần bảo
tồn, duy trì giống cam Canh, bưởi Diễn.
Ngoài ra, như đã trình bày, trên địa bàn huyện đã hình thành vùng sản xuất hoa tập
trung tại xã Tây Tựu với quy mô lớn. Huyện đã cho nghiên cứu và thử nghiệm gieo
trồng 8 giống hoa mới nhập nội, xây dựng được 2 quy trình nhân giống và sản xuất hoa
thương phẩm cho 3 giống hoa hồng, 3 giống cúc và 2 giống đồng tiền, ứng dụng kỹ
thuật trồng hoa loa kèn trắng Hà Lan, ứng dụng phương pháp Mes-Modul trong dạy
nghề và chuyên giao công nghệ sản xuất hoa, cây cảnh phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh
tế của huyện Từ Liêm. Việc ứng dụng sản xuất theo đúng quy trình công nghệ cao, khoa
học đã tạo ra được sản phẩm hoa có chất lượng so với giống cũ, tăng hiệu quả kinh tế,
nâng cao thu nhập cho nông dân; đồng thời từng bước thay đổi tập quán sản xuất thủ
công tiến tới nền sản xuất hàng hóa, công nghệ cao. Mô hình trồng hoa nhà lưới, công
nghệ cao, quy trình hiện đại với các giống hoa mới nhập nội từ Pháp, Hà Lan, Trung
Quốc… với nhiều chủng loại, màu sắc phong phú đa dạng được đẩy mạnh ứng dụng và
nhân rộng đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất hoa.
3.2.3. h n h ơ ấ inh t n ng nghi
3.2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn 1996-2005
đã đề ra, cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp cụ thể cũng có sự thay đổi tương ứng với
điều kiện thực tế của địa phương. Trong sản xuất nông nghiệp, diện tích cây ăn quả được
mở rộng, bưởi Diễn, cam Canh trở thành những loại cây đặc sản của huyện. Vùng hoa
Tây Tựu trở thành vùng hoa của thành phố. Lúa đặc sản chiếm 35% diện tích trồng lúa,
đưa giá trị sản xuất nông nghiệp từ 39 triệu đồng/ha đất canh tác vào năm 1995 lên 57
triệu đồng/ha vào năm 2000 [158] và 78 triệu đồng năm 2005 [6, tr.393], đạt giá trị cao
nhất Thành phố. Mặc dù đất nông nghiệp bị thu hẹp, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế
nông nghiệp trong giai đoạn này vẫn tăng bình quân 4,1%/năm [6, tr. 378].
Cơ cấu ngành nông nghiệp trong những năm 1996-2005 đã chuyển dịch theo hướng
giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản. Tỷ trọng
ngành trồng trọt trong giá trị sản xuất nông nghiệp từ 72,3% năm 1995 đã giảm xuống
70,3% năm 2000 và 69,7% vào năm 2005, trong khi tỷ lệ ngành chăn nuôi từ 26,4% năm
2005 tăng lên 27,7% năm 2000 nhưng lại giảm xuống 24% năm 2005, giá trị thủy sản từ
1,1% năm 1995 lên 4,8% năm 2000 và 5,1% năm 2005 [158].
69
Từ năm 2006 đến năm 2013, Từ Liêm chủ trương đưa sản xuất nông nghiệp phát
triển theo hướng đô thị sinh thái, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao hiệu quả
sản xuất, tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích lúa, rau, không
phát triển vật nuôi, giữ vững diện tích hoa, cây cảnh, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ
thuật để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Đây chính là một trong những điểm nổi
bật minh chứng cho quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Từ
Liêm [6, tr.423].
Có thể thấy rõ kết quả cụ thể của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp trong giai đoạn này như sau: Tỷ trọng ngành trồng trọt trong giá trị sản xuất
nông nghiệp thuần túy của huyện còn lớn (82,3% năm 2011), trong khi tỷ lệ ngành chăn
nuôi chỉ chiếm 14,2%, giá trị thủy sản chiếm 2,3% và giá trị dịch vụ nông nghiệp chiếm
tỷ trọng không đáng kể (1,2%) [115, tr.68]. Tuy nhiên, do áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nên giá trị sản xuất nông nghiệp đạt bình quân 120 triệu đồng trên 1 hecta
đất nông nghiệp, tăng 1,5 lần so với năm 2005 [6, tr. 423]. Giá trị sản xuất nông lâm
thủy sản tăng nhanh, năm 2011 đạt 432 tỷ đồng, năm 2013 lên 480 tỷ đồng, bình quân 3
năm 2011-2013 tăng 6,2%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên ha đất nông nghiệp từ 145
triệu năm 2011 lên 320 triệu đồng 2013 [166]. Trong khi ở huyện Thanh Trì, mặc dù
diện tích đất nông nghiệp của huyện trong 10 năm (2001-2010) giảm 65,61 ha, nhưng
nông nghiệp của huyện vẫn phát triển với tốc độ 0,96%. Giá trị sản xuất trên ha đất nông
nghiệp hàng năm cũng tăng từ 40,7 triệu đồng năm 2000 lên 55 triệu đồng năm 2005,
đến năm 2012 đạt 118,4 triệu đồng [7]. Ở huyện Gia Lâm, giá trị sản xuất trên ha đất
nông nghiệp hàng năm cũng tăng từ 54,3 triệu đồng năm 2005 [8, 342].
Bảng 3.1: Giá trị sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Từ Liêm
Đơn vị tính: triệu đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Năm 2011
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Trồng trọt
172.618 71,5
235.560
257.125
82,9
236.000
83
82,3
Chăn nuôi
59.412 24,6
36.900
39.624
12,8
40.733
13
14,2
Thủy sản
9.051
3,7
8.500
11.974
3,8
6.533
3
2,3
Lâm nghiệp
385
-
-
-
-
Dịch vụ
1.970
1.546
0,5
3.277
1
1,2
Tổng cộng
241.466
282.930
100
288.000
100
286.043
100
Giá
trị
57
78
110
145
SXNN/ha
Nguồn: [151, 158]
70
- Ngành trồng trọt: Từ số liệu của bảng 3.1 cho thấy, giá trị sản xuất ngành trồng
trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao, nhưng cơ cấu cây trồng đã có sự chuyển dịch theo hướng
giảm dần diện tích lúa, tăng diện tích hoa, cây ăn quả, rau màu là những cây có giá trị và
hiệu quả kinh tế cao. Các tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất. Nhiều
quy trình công nghệ, giống cây, con mới được huyện ứng dụng rộng rãi có hiệu quả, góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng từ 172,618 t tỷ đồng năm 2000 lên 219,482 tỷ
đồng năm 2005 và 236,000 tỷ đồng năm 2011 [151].
Biểu đồ 3.2: GTSX ngành trồng trọt của huyện Từ Liêm năm 2005 và 2013
Nguồn: [134, 140]
+ Sản xuất lúa: Diện tích trồng lúa giảm nhanh chóng từ 4.973ha năm 2001 còn
2.385ha năm 2006 [151] và chỉ còn 812 ha năm 2013 [166]; phần diện tích trồng lúa của
huyện chủ yếu tập trung ở Tây Mỗ (140 ha), Đại Mỗ (120 ha), Mễ Trì Thượng (50 ha),
Xuân Phương, Thượng Cát, Liên Mạc…; còn những xã như Mỹ Đình, Thụy Phương, Đông
Ngạc, thị trấn Cầu Diễn… hầu như không còn đất để trồng lúa. Trong sản xuất, các giống
lúa mới có năng suất, chất lượng cao được ứng dụng rộng rãi như: DH85, Bắc thơm 7, T2,
T5, góp phần đưa năng suất lúa của huyện từ 80 tạ/ha năm 1995 lên 81,5 tạ/ha năm 2000;
86,5 tạ/ha năm 2005; 82 tạ/ha năm 2007 và gần 93 tạ/ha năm 2012 [151].
+ Trồng rau: Diện tích trồng rau cũng bị giảm từ 1.103 ha năm 1995 xuống còn
980ha năm 2000; năm 2005 tăng lên 1.015ha nhưng năm 2013 giảm xuống còn 646ha
năm [166]. Sản xuất rau được xác định là ngành mũi nhọn của nông nghiệp Thủ đô để
cung cấp thực phẩm tươi sống, cao cấp, an toàn và tạo màu xanh, do đó được Từ Liêm
chú trọng phát triển. Mặc dù quá trình ĐTH ngày càng làm cho phần lớn diện tích trồng
rau truyền thống của Từ Liêm bị thu hẹp dần nhưng do chú trọng phát triển theo mô
71
hình chiều sâu đồng thời áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất rau an toàn vào
việc trồng ngô, rau, cải bắp, súp lơ... cho nên sản xuất rau vẫn tăng lên qua các năm cả
về sản lượng lẫn năng suất (từ 186 tạ/ha năm 1995 lên 195 tạ/ha năm 2005). Giá trị sản
xuất rau tăng từ 15,6% năm 2000 lên 16,9% năm 2005, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của thị trường, nâng cao đời sống nhân dân [157]. Trên địa bàn huyện, chủng loại rau
chủ yếu là rau an toàn, rau gia vị có giá trị kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu của thị
trường. Các xã có khả năng sản xuất và cung cấp nhiều rau xanh là Liên Mạc, Minh
Khai, Thượng Cát…
+ Trồng hoa: Từ đầu những năm 2000, do nhu cầu của thị trường tăng cao nên
diện tích trồng hoa của huyện đã được chú trọng phát triển mạnh, các loại hoa mới
thường xuyên được đưa vào sản xuất. Hoa là cây có giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng giá trị ngành trồng trọt. Diện tích trồng hoa chỉ chiếm có 9,5% diện tích
đất canh tác nhưng giá trị sản xuất của nó chiếm tới 40,8% giá trị ngành trồng trọt. Năm
1995, diện tích trồng hoa trên địa bàn huyện là 270ha thì đến năm 2000 tăng lên 994 ha,
năm 2005 đạt 1.500 ha [151] và vào năm 2013 giảm xuống còn 1.182 ha [166]. Diện
tích trồng hoa tập trung chủ yếu ở Tây Tựu (689 ha), Minh Khai (153 ha), Liên Mạc
(142 ha), Đại Mỗ (20ha)...
Tây Tựu là vùng hoa lớn nhất của Từ Liêm, chiếm tới 70% diện tích toàn huyện.
Năm 1994, toàn xã mới chỉ có 18ha trồng hoa thì đến 2005 toàn bộ diện tích đất nông
nghiệp của xã đều để trồng hoa; hoa của Tây Tựu không chỉ cung cấp cho riêng Hà Nội,
mà đã mở rộng thị trường tiêu thụ ra các tỉnh phía Bắc, phía Nam và còn xuất khẩu…
Có tới 95% số hộ dân Tây Tựu tham gia trồng hoa. Trồng hoa tại xã Tây Tựu là hướng
phát triển nông nghiệp lâu dài của Từ Liêm và đã được huyện tập trung đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, nước, hệ thống giao thông, thủy lợi…
Bên cạnh đó, huyện Từ Liêm còn mở rộng trồng hoa đào ở xã Đại Mỗ với diện
tích khoảng hơn 20 ha. Đây là loại cây trồng mới du nhập vào huyện Từ Liêm trong thời
gian gần đây. Khi đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, giá trị trồng lúa mang lại không
cao, người dân địa phương đã chuyển đổi sang trồng hoa đào vì trồng loài hoa này có
giá trị kinh tế cao hơn, khoảng 200 triệu đồng/ha [151] …
Việc bố trí vùng sản xuất hoa tập trung thể hiện rõ nét tính chất sinh thái và đô thị
của một nền nông nghiệp đô thị hóa. Trong những năm 2001 đến năm 2010, các huyện
ngoại thành Hà Nội đều được bố trí lại vùng sản xuất hoa tập trung, trong đó đáng chú ý
72
là việc chuyển trọng điểm sản xuất hoa tập trung từ Nhật Tân, Tứ Liên của quận Tây Hồ
(do mất đất) sang huyện Từ Liêm và Đông Anh là những huyện nằm trong vùng trọng
điểm đô thị hóa, cho thấy cơ cấu sản xuất đã chuyển dịch rõ nét theo hướng hình thành
các vùng sinh thái hoa và cây cảnh đan xen trong các khu đô thị tạo nét đẹp cảnh quan
môi trường.
+ Trồng cây ăn quả: Từ Liêm là huyện có tỷ trọng diện tích cây ăn quả lớn (11-
16%), chỉ đứng sau huyện Sóc Sơn (70-75%); Diện tích trồng cây ăn quả từ 270ha năm
1995 đã tăng lên 450ha năm 2000, 515 ha năm 2005 và giảm xuống còn gần 200 ha năm
2013 [166]; giá trị sản xuất tăng từ 11,1% lên 13,5% [151]. Cây ăn quả cũng là một
trong những loại cây trồng chính được huyện chú trọng phát triển. Điều này thể hiện xu
hướng bố trí sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh hợp lý nhằm khai thác tiềm
năng của địa phương để phát triển nông nghiệp sinh thái. Định hướng của huyện là phát
triển các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao như cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm
Xuân Đỉnh… Từ đầu những năm 2000, diện tích trồng một số loại cây ăn quả cao cấp
truyền thống như hồng xiêm Xuân Đỉnh đã nhanh chóng bị thu hẹp và chỉ còn lại cam
Canh, bưởi Diễn, tập trung chủ yếu tại các vùng trồng giống cây đặc sản này ở Minh
Khai (khoảng 80ha), Phú Diễn (khoảng 115,4ha), Xuân Phương [151].
Ở huyện Từ Liêm, mặc dù đã hình thành vùng tập trung trồng cam Canh, bưởi
Diễn, nhưng diện tích đất canh tác lại chủ yếu nằm xen kẽ trong các hộ dân. Cam Canh,
bưởi Diễn không chỉ là giống cây có giá trị về kinh tế (đạt khoảng 120 triệu đồng/ha),
mà còn có giá trị về văn hóa và đa dạng sinh học.
- Ngành chăn nuôi: Từ năm 1996 đến năm 2013, tỷ trọng ngành chăn nuôi của
huyện giảm mạnh, từ 24,6% năm 1995 xuống còn 14,2% năm 2011; chủ yếu chỉ nuôi
tập trung trong các trang trại của hộ gia đình. Xu hướng giảm dần tỷ trọng ngành chăn
nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp phù hợp với quá trình đô thị hóa của huyện. Các sản
phẩm chính của ngành chăn nuôi là lợn hướng nạc, gia cầm. Trên địa bàn huyện đã hình
thành một số những khu tập trung chăn nuôi như khu lò mổ tập trung tại xã Trung Văn để
nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và đảm bảo vệ sinh môi trường.
Diện tích nuôi trồng thủy sản cũng suy giảm nhanh chóng; đến năm 2013 trên địa
bàn huyện chỉ còn khoảng 82,4 ha, nhưng giá trị sản suất của ngành này lại gia tăng.
Huyện Từ Liêm đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất như nuôi
cá rô phi, cá chim trắng… để tăng giá trị sản xuất trên 1 ha diện tích canh tác. Mặc dù
73
sản lượng thủy sản suy giảm nhưng giá trị sản xuất nhìn chung có xu hướng tăng, từ
7.137 triệu đồng năm 2010 lên 8.216 triệu đồng năm 2013 [151]. Khu vực nuôi trồng
thủy sản tập trung ở hồ Tây Mỗ, Đại Mỗ, Trung Văn, Mễ Trì, Xuân Phương… và chủ
yếu là nuôi cá theo phương thức cá thể, đấu thầu nhỏ lẻ.
3.2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng
Bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, do quá trình ĐTH, diện tích đất của Từ
Liêm dành cho phát triển kinh tế nông nghiệp đã trở nên chật hẹp. Hơn nữa, việc thay
đổi địa giới hành chính những năm 1996, 1997 đã ảnh hưởng nhiều đến quy hoạch phát
triển kinh tế, xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng nên huyện đã thông qua
Chương trình 12/CT-HU về “Phát triển nông nghiệp và nông thôn huyện Từ Liêm 1998-
2000”. Triển khai trên thực tiễn, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện trong giai
đoạn này đã hình thành các vùng sản xuất tập trung như: i). Vùng sản xuất cây lương
thực (vùng lúa) tập trung ở 7 xã: Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mễ Trì, Xuân Phương, Thượng Cát,
Liên Mạc, Mỹ Đình; ii). Vùng sản xuất rau và rau sạch; iii). Vùng sản xuất hoa (ở các xã
Tây Tựu, Đông Ngạc, Thụy Phương); iv). Vùng cây ăn quả (tại các xã Minh Khai, Phú
Diễn, Xuân Phương); v). Vùng chăn nuôi.
Bắt đầu từ năm 2001, thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô
Hà Nội đến năm 2010, bố trí không gian tổng thể nông nghiệp ngoại thành theo hướng
đô thị sinh thái, có nghĩa là đan xen, kết hợp giữa các vùng chuyên canh, các khu công
viên cây xanh, hồ nước với các khu dân cư và khu công nghiệp nhằm tạo cảnh quan môi
trường. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương nên huyện Từ
Liêm đã bước đầu bố trí việc quy hoạch nông nghiệp theo hướng đô thị hóa.
Bảng 3.2: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội
Huyện
Vùng hoa
Vùng rau sạch
Vùng cây ăn quả-du lịch
Vùng thủy sản-du lịch
Khu công nghiệp đô thị
Từ Liêm Thanh Trì Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn
3 0 0 5 4
2 3 4 5 2
3 0 5 5 8
0 6 0 0 1
Khu công viên-cây xanh 5 2 0 3 4
8 7 8 7 5
[Nguồn: 185] Theo đó, huyện Từ Liêm cũng có những vùng sản xuất chuyên biệt như: vùng sản
xuất hoa, sản xuất rau và cây ăn quả.
74
- Vùng sản xuất hoa: Trong những năm 2001 đến năm 2010, các huyện ngoại
thành Hà Nội đều được bố trí lại vùng sản xuất hoa tập trung. Đáng chú ý là việc chuyển
trọng điểm sản xuất hoa tập trung từ Nhật Tân, Tứ Liên của quận Tây Hồ (do mất đất)
sang huyện Từ Liêm và Đông Anh là những huyện nằm trong vùng trọng điểm đô thị
hóa, cho thấy rõ cơ cấu sản xuất đã chuyển dịch rõ nét theo hướng hình thành các vùng
sinh thái hoa và cây cảnh đan xen trong các khu đô thị tạo nét đẹp cảnh quan môi
trường. Việc phân bố vùng hoa tập trung chủ yếu ở huyện Từ Liêm, chiếm khoảng 70-
80% trong tổng diện tích hoa tập trung, sau đó là huyện Đông Anh, với tỷ trọng khoảng
20-25% và một diện tích nhỏ ở Sóc Sơn (3%). Vùng hoa Từ Liêm có tốc độ tăng diện
tích bình quân năm là 20%, tập trung ở các xã Tây Tựu, Liên Mạc và Thượng Cát. Nếu
như huyện Từ Liêm được đánh giá là vùng hoa lớn nhất ngoại thành Hà Nội thì xã Tây
Tựu chiếm tới 70% diện tích toàn huyện.
- Vùng sản xuất rau sạch tập trung: Sản xuất rau được xác định là ngành mũi nhọn
của nông nghiệp Thủ đô để cung cấp thực phẩm tươi sống, cao cấp, an toàn và tạo màu
xanh, do đó cũng được chú trọng phát triển trong thời gian qua. Mặc dù đô thị hóa đã
lấy đi phần lớn diện tích trồng rau truyền thống tại các xã của huyện Từ Liêm nói riêng
và một số huyện ngoại thành khác nhưng sản xuất rau của huyện vẫn tăng lên qua các
năm cả về diện tích và sản lượng. Vùng sản xuất rau sạch của huyện Từ Liêm tập trung
tại các xã Minh Khai, Liên Mạc.
- Vùng sản xuất cây ăn quả tập trung: Từ Liêm là huyện có tỷ trọng diện tích cây
ăn quả lớn (11-16%), chỉ đứng sau huyện Sóc Sơn (70-75%). Các vùng trọng điểm thế
mạnh cây ăn quả của Hà Nội là Từ Liêm và Sóc Sơn, trong đó Từ Liêm là vùng truyền
thống, còn Sóc Sơn là vùng có nhiều tiềm năng do đất đai, địa hình có thể phát triển
trang trại cây ăn quả kết hợp du lịch sinh thái. Tuy nhiên, những năm gần đây, do quá
trình đô thị hóa nhanh đã làm thu hẹp nhanh chóng một số loại cây ăn quả cao cấp
truyền thống như hồng xiêm Xuân Đỉnh và chỉ còn lại chủ yếu là cam Canh, bưởi Diễn,
tập trung chủ yếu ở xã Minh Khai, Phú Diễn, Xuân Phương.
Từ năm 2013, khi quy hoạch không gian đất đai đã được điều chỉnh nhằm phục vụ
cho phát triển Từ Liêm trở thành một đô thị hiện đại trong tương lai, thì diện tích đất
nông nghiệp giảm xuống và ổn định ở mức khoảng 1.000 ha. Phần đất này thuộc khu
vực ngoài đô thị, lúc đó các vùng sản xuất chuyên canh đã được hình thành một cách bài
75
bản và đi sâu vào sản xuất sản lượng ổn định, sản xuất nông nghiệp của huyện chỉ còn
lại 3 vùng tập trung chuyên canh:
- Vùng sản xuất hoa, cây cảnh: tập trung ở vùng hoa xã Tây Tựu, Thượng Cát.
- Vùng trồng cây ăn quả, cây lâu năm: tập trung ở xã Minh Khai, Phú Diễn, Xuân
Phương.
- Vùng sản xuất rau an toàn: tại xã Liên Mạc, Minh Khai.
Trong giai đoạn này, tại các huyện ngoại thành khác cũng hình thành các vùng
chuyên canh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và thế mạnh của mình. Tại huyện Gia
Lâm hình thành vùng cây giống ở thị trấn Trâu Quỳ; vùng cây ăn quả: Đa Tốn, Đông
Dư, Đặng Xá; vùng rau sạch: Đặng Xá, Lệ Chi, Văn Đức; vùng chăn nuôi: bò sữa ở Phù
Đổng, Dương Hà; vùng chăn lợn nạc Yên Thường, Văn Đức; thủy sản: Yên Thường, Đa
Tốn, Dương Xá. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng theo định
hướng của huyện, tỷ trọng ngành trồng trọt 35%; chăn nuôi 62,5%; dịch vụ 2,5%. Nhiều
mô hình cây ăn quả cho thu nhập trung bình trên 500 triệu đồng/ha như ổi Đông Dư,
cam canh Kiêu Kỵ, Đa Tốn; có những mô hình cho thu nhập cao từ 700 triệu đến 1 tỷ
đồng/ha như tại các xã Lệ Chi, Đông Dư [140].
Trên địa bàn huyện Thanh Trì cũng hình thành những vùng sản xuất tập trung
như: thủy sản Đại Áng, Tả Thanh Oai, Đông Mỹ; rau an toàn và cây dược liệu tại các xã
vùng bãi: Yên Mỹ, Duyên Hà; lúa chất lượng cao tại xã Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh. Tỷ
trọng ngành nông nghiệp đã giảm đáng kể từ 38,84% năm 2001 xuống 7,86% năm 2012,
trong khi giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tương đối ổn định và tăng nhẹ. Trong nội bộ
ngành nông nghiệp, thủy sản là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với tốc độ tăng
bình quân đạt 9,57% (từ 11,65% năm 2001 lên 25,99% năm 2012), trong khi đó trồng
trọt đang có xu hướng giảm dần với tốc độ 0,83%, chăn nuôi cũng giảm dần với tốc độ
bình quân 0,27% [51].
3.2.3.3. Các mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp
Về kinh tế HTX: Số lượng HTXNN của huyện Từ Liêm tăng từ 32 HTX năm 1997
lên 46 HTX năm 2011. Các HTXNN sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì, ổn định, có
doanh thu. Doanh thu từ các HTX từ 26 tỷ đồng năm 2006 [33, tr.46] lên gần 66 tỷ đồng
năm 2011, tổng lợi nhuận sau thuế là 6 tỷ đồng [2, tr.51]. 100% HTXNN đã chuyển đổi
hoạt động theo Luật hợp tác xã; chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp sang dịch vụ và
kinh doanh là chính. Một số HTX có vốn lớn, có đội ngũ cán bộ khá am hiểu kinh tế thị
76
trường đã mạnh dạn đầu tư sang các lĩnh vực khác như dịch vụ chợ, hoạt động hỗ trợ
vận tải… Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ chủ yếu do các hộ gia đình tự đảm nhiệm. Nội
dung hoạt động của HTX chưa có chuyển biến rõ nét, cơ cấu ngành nghề dịch vụ còn
chưa hợp lý, chủ yếu tập trung vào dịch vụ thủy lợi, bảo vệ thực vật… mà chưa chú ý
đến dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản phẩm.
Về kinh tế hộ: Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường đã khơi dậy được tiềm năng kinh tế của các hộ nông dân Từ Liêm. Tiềm
năng kinh tế của hộ được phản ánh thông qua việc huy động tổng hợp các nguồn lực: đất
đai, lao động và vốn vào sản xuất. Năm 2011, số vốn huy động được từ các hộ dân ở Từ
Liêm cho các hoạt động kinh tế là gần 90 tỷ đồng [2, tr.51]. Một phần số vốn này được đầu
tư vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vào mô hình kinh tế trang trại.
Tuy nhiên, có nhiều khác biệt giữa các hộ trong từng vùng khác nhau. Vùng 1 chủ
yếu trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả có giá trị cao, chăn nuôi gia cầm tập trung với quy mô
hộ. Vì nằm trong quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, có tốc độ ĐTH nhanh, đất
nông nghiệp không nhiều, sản xuất trong điều kiện khó khăn nhưng người dân chịu khó
nâng cao trình độ sản xuất, huy động các nguồn vốn, tín dụng, tiếp cận công nghệ mới và
mô hình sản xuất tiên tiến nên đưa lại hiệu quả sản xuất khá cao.
Vùng 2 và 3 tuy có nhiều hộ thuần nông hơn vùng 1 nhưng sản xuất chậm áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, mô hình sản xuất chưa hợp lý nên hiệu quả chưa cao. Ngoài
khu vực nằm trong quy hoạch vùng sản xuất tập trung với những cây trồng chủ lực mang
tính đặc trưng, thì đa phần các hộ dân sản xuất nông nghiệp thuần túy không mấy hiệu
quả, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đô thị hóa.
Về kinh tế trang trại, trong giai đoạn 2001-2005, trên địa bàn huyện có 25 trang
trại, chủ yếu là trang trại trồng cây lâu năm. Tổng vốn đầu tư đạt 11,7 tỷ đồng, vốn bình
quân một trang trại là 469 triệu đồng; Giá trị sản xuất bình quân một trang trại đạt 232
triệu đồng, thu nhập 65 triệu đồng và thu hút 5-6 lao động [33, tr.47]. Đến năm 2013,
huyện Từ Liêm có trên 200 trang trại hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ
nông nghiệp. Vốn bình quân cho mỗi trang trị vẫn ở mức 400-500 triệu đồng, chủ yếu
được huy động trong dân cư, ở phần cốn tự có của các chủ trang trại [151]. Kinh tế trang
trại không những gặp khó khăn về vốn vì chủ yếu là nguồn vốn tự có của các chủ trang trại, quy mô lại quá nhỏ (bình quân 5.542m2/trang trại), hơn nữa trình độ quản lý cũng
còn yếu kém nên đã hạn chế khả năng phát triển của mô hình kinh tế này. Kinh tế trang
77
trại luôn đòi hỏi một lượng vốn đầu tư gấp nhiều lần, đầu tư đồng bộ, theo chiều sâu
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để đủ sức xuất khẩu ra thị trường trong
và ngoài nước.
3.3. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
3.3. . ng nghi , â ựng
3.3.1.1. Công nghiệp
Như đã trình bày ở chương 2, trong giai đoạn trước năm 1996, ngành công nghiệp
của huyện Từ Liêm nói chung gặp khó khăn về vốn, vật tư, do vậy tốc độ phát triển cả
về số lượng quy mô và trình độ kỹ thuật còn rất hạn chế. Theo biểu đồ 3.2, từ năm 1996
đến năm 2000, ngành công nghiệp của địa phương bắt đầu có bước phát triển mới, giá
trị sản xuất không ngừng tăng lên, từ 195.119 triệu đồng năm 1996 [155] lên 270.136
triệu đồng năm 2000. Sản phẩm chính là chế biến thực phẩm, cao su platics, chất
khoáng phi kim loại, chế biến lâm sản, bao bì caton… [151].
Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao là do
huyện đã tích cực thực hiện cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. Thời gian này toàn huyện
có 381 doanh nghiệp, trong đó có 154 doanh nghiệp được thành lập, nhiều doanh nghiệp
đã đi vào sản xuất ổn định, một số doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị kỹ thuật, nâng cao sản
phẩm, mở rộng thị trường góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển [151]. Đặc
biệt các ngành nghề truyền thống vẫn duy trì ổn định sản xuất và phát triển: chế biến gỗ
tăng 28%, sản xuất sản phẩm từ kim loại tăng 46%, sản xuất sản phẩm từ giấy tăng 58%,
may mặc tăng 66%; một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng rất cao như ngành
in 122%, sản xuất sản phẩm từ giấy 142% [152]. Do đó, trong giai đoạn này, giá trị sản
xuất ngành công nghiệp tăng 213% so với năm 2000 (bình quân tăng 25,7%/năm), vượt
kế hoạch 15,7% [147]. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 531 tỷ đồng năm 2005 [151].
Tiếp đến, trong giai đoạn 2006-2010, tốc độ phát triển công nghiệp của huyện đạt
tốc độ tăng trưởng bình quân là 18,2%/năm, tăng 2,3% so với năm 2005 [6, tr.422]. Giá
trị sản xuất công nghiệp đạt 2.318 tỷ đồng năm 2010 [151], và đạt 3.304 tỷ đồng (theo
giá cố định 2010) vào năm 2013 [166]. Số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp của huyện
ngày càng tăng (từ 1.460 cơ sở năm 2005 lên 1.621 cơ sở vào năm 2010 [23].
78
Biểu đồ 3.3: GTSX ngành công nghiệp huyện Từ Liêm qua các năm
Nguồn: [151, 152]
Những năm 2010-2013, ngành công nghiệp Từ Liêm có xu hướng giảm dần, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng thương mại, dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp, đảm bảo đúng định hướng của huyện và của toàn thành phố. Điều này đã thể
hiện tính chất cơ cấu kinh tế đô thị rõ rệt, đồng thời phản ánh một cách khách quan về
tác động của đô thị hóa đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội của huyện Từ Liêm.
Mặc dù giá trị sản xuất ngành công nghiệp vẫn tăng nhưng tỷ trọng của ngành
trong cơ cấu kinh tế chung của huyện có xu hướng giảm. Ngoài các doanh nghiệp nằm
trong cụm công nghiệp, trên địa bàn huyện còn có hơn 1.600 cơ sở sản xuất công
nghiệp, trong đó có khoảng 130 doanh nghiệp có doanh thu lớn (trên 15 tỷ đồng/năm).
Các doanh nghiệp lớn tập trung ở các xã Mỹ Đình 1 (27 doanh nghiệp), Mễ Trì (17
doanh nghiệp) và Trung Văn (10 doanh nghiệp) [151]. Các cơ sở sản xuất còn lại chủ
yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đi lên từ hộ gia đình, sản xuất còn thủ công, chưa được
đầu tư về máy móc, thiết bị hiện đại. Các cơ sở sản xuất công nghiệp tập trung chủ yếu
ở các ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại, sản phẩm từ giấy, chế biến gỗ và sản phẩm
từ gỗ, sản phẩm từ cao su, plastic, thiết bị điện, sản xuất trang phục và các ngành nghề
khác. Cụ thể như sau:
79
Biểu đồ 3.4: Các ngành sản xuất công nghiệp của huyện Từ Liêm năm 2013
+Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại, chiếm hơn 40% cơ cấu ngành công
nghiệp, là ngành công nghiệp chủ lực của huyện trong giai đoạn này, với tốc độ tăng
trưởng bình quân qua các năm là 11%, thu hút tới hơn 5.053 lao động [151]. Trong số
các cơ sở đang hoạt động, Công ty CP cơ điện lạnh Thăng Long, Công ty CP thép đỉnh
cao, Công ty TNHH kim loại màu Trường Thành, Công ty TNHH cơ khí Chung Sơn...
là những cơ sở sản xuất nổi bật có doanh thu hàng năm từ 15 tỷ đồng trở lên. Các sản
phẩm chính: bàn, hệ thống bếp, thang máy bằng inox, thép, các sản phẩm bằng sắt thép,
tấm lợp inox...
+ Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy: Đây là ngành mang lại giá trị sản xuất
lớn thứ hai trong ngành công nghiệp với chiếm 16,2% cơ cấu ngành công nghiệp. Ngành có
tốc độ tăng trưởng bình quân 98%/năm, đặc biệt năm 2012, tốc độ tăng trưởng đạt
208.8%/năm; ngành này có 12 cơ sở sản xuất giấy với 1.362 lao động [151].
+Ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tạo ra giá trị sản xuất lớn thứ ba
trong ngành công nghiệp, có tốc độ tăng trung bình vào khoảng 9%, chiếm 15% cơ cấu
giá trị sản xuất ngành công nghiệp, thu hút 735 lao động tham gia sản xuất tại 36 cơ sở
[151]. Những cơ sở kinh doanh có đóng góp lớn cho sự phát triển của ngành: công ty
TNHH đầu tư và phát triển thị trường hóa chất MDI, công ty hóa chất Việt Quang với
sản phẩm chính: hóa chất xử lý bề mặt kim loại, hóa chất công nghiệp (muối kim loại,
thức ăn chăn nuôi) và hóa chất phòng thí nghiệm.
+Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm là ngành có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ
86,9%/năm. Sản xuất chế biến thực phẩm chiếm 5,5% cơ cấu giá trị sản xuất với 268 cơ sở hoạt
động và 981 lao động [151]. Công ty lớn: công ty TNHH công nghệ thực phẩm Vinh Anh với
sản phẩm chính: thịt heo thái lát đóng gói, thịt đóng khay, nem tai, chả nướng chân giò.
80
+Ngành sản xuất thiết bị điện chiếm 5,4% cơ cấu ngành công nghiệp, tốc độ tăng
trưởng đạt 947.5%/năm. Từ năm 2012-2013, tốc độ tăng trưởng duy trì mức 5%/ năm [151].
+Ngành may mặc là ngành thu hút lao động nhiều thứ 3 trong các ngành công
nghiệp với 1.014 lao động tại 126 cơ sở. Ngành hiện đang chiếm 2,5% tỷ trọng ngành
công nghiệp với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 20%/năm [151].
+Ngành sản xuất đồ uống là một ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh của Từ Liêm.
Ngành sản xuất đồ uống chỉ mới bắt đầu phát triển trong các năm 2010-2013 nhưng đã
mang lại hiệu quả kinh tế cao, có đóng góp lớn cho ngân sách huyện, giá trị sản xuất của
ngành sản xuất đồ uống xếp thứ năm trong sản xuất công nghiệp của Từ Liêm. Ngành
đồ uống chiếm 3,5% cơ cấu giá trị sản xuất với 19 cơ sở hoạt động tạo công việc cho
125 lao động [151]. Trong số các cơ sở đang hoạt động sản xuất đồ uống, bia Sài Gòn-
Hà Nội là một thương hiệu mạnh, có quy mô sản xuất lớn, áp dụng dây chuyển sản xuất
hiện đại. Ngoài ra nước khoáng Vital cũng là một sản phẩm nổi bật khác của ngành này.
Tại huyện ngoại thành khác như Thanh Trì, mặc dù không phải là trung tâm phát
triển công nghiệp của thành phố Hà Nội, song trong thời gian này, công nghiệp huyện
Thanh Trì cũng đã phát triển với tốc độ khá cao, góp phần đưa cơ cấu kinh tế của huyện
từ huyện nông nghiệp trở thành huyện công nghiệp. Đến năm 2012, giá trị sản xuất
ngành công nghiệp và xây dựng trên địa bàn huyện đạt 4.143,5 tỷ đồng, trong đó công
nghiệp do Trung ương và Thành phố quản lý chiếm tới 76,1% (do các doanh nghiệp lớn
trên địa bàn chủ yếu do Trung ương và Thành phố quản lý). Về các hoạt động sản xuất
công nghiệp do Huyện quản lý, chủ yếu là các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh với
tổng số 1649 cơ sở, hộ sản xuất, trong đó: 1477 hộ cá thể và 281 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp [51].
3.3.1.2. Xây dựng
Cũng như ngành công nghiệp, trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000, giá trị
ngành xây dựng của Từ Liêm tăng nhanh theo từng năm, từ 21.333 triệu đồng vào năm
1996 [151] lên 34.444 triệu đồng năm 1999 [151].
Là huyện nằm trong quy hoạch phát triển đô thị, từ năm 1998 đến năm 2000, Từ Liêm
đã tiếp nhận 13 dự án đầu tư xây dựng với diện tích giải phóng mặt bằng gần 100ha, trong đó
có dự án trọng điểm quốc gia để phục vụ Sea Game 22 diễn ra cuối năm 2003 là khu Liên
hợp thể thao Quốc gia Mỹ Đình (64ha), tập trung ở 2 xã Mễ Trì và Mỹ Đình [6, tr.387].
Từ năm 2001 đến năm 2005, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật hạ tầng được
đẩy mạnh hơn trước nên kết quả là một số công trình đã được hoàn thành đưa vào sử
81
dụng như: cụm công nghiệp vừa và nhỏ Minh Khai (giai đoạn 1), công trình trụ sở
Huyện ủy-HĐND-UBND huyện, trường tiểu học Xuân Đỉnh, đường Phú Diễn-Liên
Mạc, chợ đầu mối nông sản Xuân Đỉnh, chợ Mỹ Đình, kênh tưới trạm bơm Liên Mạc,
hệ thống điện Thượng Cát… [151].
Từ năm 2006 đến năm 2010, ngành xây dựng huyện Từ Liêm tiếp tục tiếp nhận
triển khai 521 dự án với diện tích trên 2.000ha, và đã hoàn thành trên 300 dự án, thu hồi
1.000ha đất đai. Trong đó có nhiều dự án trọng điểm như: Trung tâm Hội nghị Quốc gia,
Bảo tàng Hà Nội, Công viên Hòa bình, Khu ngoại giao đoàn, Bộ Quốc phòng, các khu
đô thị mới, một số công trình Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội, các dự án trọng
điểm về giao thông (đường 32, đường vành đai 3, đường 32 đi khu công nghiệp Nam
Thăng Long…). Riêng trong năm 2010, để phục vụ cho việc xây dựng các công trình
trọng điểm Chào mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Từ Liêm đã giải phóng mặt
bằng hơn 1.000ha đất phục vụ cho hơn 300 dự án.
Đến năm 2013, ngành xây dựng Từ Liêm có giá trị sản xuất lớn và tốc độ tăng
trưởng khá nhanh (13%/năm). Ngành này luôn có tỷ trọng lớn hơn ngành công nghiệp.
Xây dựng chiếm 25% trong cơ cấu kinh tế chung của huyện và chiếm hơn 70% trong cơ
cấu ngành Công nghiệp - xây dựng; mang lại giá trị sản xuất là 12.332 tỷ đồng năm
2013 (theo giá cố định 2010) [166]. Trong số 200 doanh nghiệp hàng đầu của huyện, có
khoảng 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng có doanh thu trên 15 tỷ
đồng như Công ty CP đầu tư xây dựng Token Việt Nam, Công ty xây dựng và thương
mại Toàn Hiền, Công ty CP tư vấn kỹ thuật E&R, Công ty CP Tư vấn và Xây dựng Phú
Xuân, Công ty CP đầu tư và xây dựng 703, Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ
Thuận An Building, Công ty CP Thương mại Dịch vụ và Xây dựng Dũng Thành…
3.3.2. i th ng nghi và làng nghề
Từ sau đổi mới, các cơ sở công nghiệp, TTCN, thương nghiệp của huyện Từ Liêm
đã chuyển sang hạch toán kinh doanh. Do đó, ngành TTCN của huyện gặp khó khăn,
các HTX TTCN phải giải thể hàng loạt, hình thức sản xuất theo hộ gia đình nhanh
chóng thích nghi với cơ chế mới.
Trong các năm 1996-1997, sau khi bàn giao một số xã cho Tây Hồ, Thanh Xuân,
Cầu Giấy, nên các làng nghề Từ Liêm có sự xáo trộn; một số bị mai một, một số lại
được phục hồi phát triển, và cũng có những làng nghề mới được xuất hiện. Sự phát triển
của làng nghề theo xu hướng mới đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của huyện, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của người dân.
82
3.3.2.1. Về số lư ng làng nghề và cơ cấu ngành nghề
Trong giai đoạn từ sau đổi mới, Hà Nội đã xây dựng nhiều chương trình, đề án về
“Đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, về
“Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn” và đã phê duyệt “Quy hoạch
phát triển nghề và làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng 2015”…
Các chương trình, đề án này của thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho các làng nghề
Từ Liêm đẩy mạnh phát triển sản xuất. Từ chủ trương chung, Từ Liêm xác định củng cố
và phát triển làng nghề là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của huyện giai đoạn
2000-2005 với mục tiêu: Khôi phục và phát triển làng nghề và xây dựng, quy hoạch khu
công nghiệp làng nghề tập trung. Theo đó, huyện đã rà soát, đánh giá lại tình hình phát
triển làng nghề và phối hợp với các cấp, ngành chức năng của thành phố như Sở Công
nghiệp, Liên minh hợp tác xã để tiến hành xây dựng quy hoạch làng nghề của Từ Liêm.
Thực hiện chương trình 01/CT-HU, huyện đã khuyến khích vận động từng bước hình
thành các hiệp hội nghề trong các làng nghề như Hiệp hội nghề may (Cổ Nhuế), đồng thời
triển khai xây dựng dự án cụm công nghiệp làng nghề Xuân Phương, Cổ Nhuế, Trung Văn.
Theo kết quả khảo sát của Sở Công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2000-2005, Từ Liêm là
huyện có tổng số xã, thị trấn ít nhất trong các huyện ngoại thành Hà Nội (có 16 xã và thị
trấn), nhưng là một trong những huyện có số làng nghề nhiều nhất với 8 làng nghề. Những
xã có làng nghề phát triển mạnh đạt giá trị sản xuất lớn trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp, TTCN của huyện là Xuân Phương (rèn), Cổ Nhuế (may), Tây Mỗ (gò hàn).
Bảng 3.3: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội
Huyện
Gia Lâm Đông Anh Thanh Trì Sóc Sơn Từ Liêm Tổng cộng
Tổng số xã, thị trấn 35 24 25 26 16 126
Tổng số làng nghề 7 3 5 2 8 25
Xã có làng nghề 7 3 5 2 8 25
Xã có cụm ngành nghề 18 20 10 19 13 80
Nguồn: [164]
Số lượng và cơ cấu ngành nghề trên địa bàn huyện được phân chia theo đơn vị
hành chính như sau: chế biến lương thực, thực phẩm ở Mễ Trì, Xuân Đỉnh, Liên Mạc;
ngành cơ khí ở Xuân Phương, Tây Mỗ; ngành tre đan ở Trung Văn, Đại Mỗ; ngành dệt
may ở Cổ Nhuế. Các làng nghề chủ yếu tập trung ở các xã giáp ranh với nội thành Hà
Nội. Cũng trong giai đoạn 2000-2005, một số làng nghề do sản phẩm không đáp ứng
83
được nhu cầu của thị trường đã bị mai một như mây tre đan (Đông Ngạc), đan lưới (Tây
Mỗ), dệt (Đại Mỗ)… Một số làng nghề được khôi phục lại như bún (Mễ Trì), rèn (Xuân
Phương), bánh mứt kẹo (Xuân Đỉnh), may mặc (Cổ Nhuế), gò hàn tôn (Tây Mỗ).
Giá trị sản xuất từ làng nghề của Từ Liêm từ năm 2000 đến 2005 liên tục tăng: từ
70,5 tỷ đồng vào năm 1999 (theo giá cố định năm 1994) đã lên đến 134,5 tỷ đồng vào
năm 2005 [164].
Bảng 3.4: Tổng giá trị sản xuất từ nghề chính tại các làng nghề trên địa bàn Từ Liêm
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tt Làng nghề 1 Rèn Xuân Phương 2 Gò hàn tôn Tây Mỗ 3 Bún Mễ Trì 4 May Cổ Nhuế 5 Bện dây thừng Trung
1999 7,4 9 1,35 30 15,2
2000 8,3 20 1,65 35 16
2001 9,7 27 1,42 45 16,2
2002 10,3 32 1,4 48 10,0
2003 11,1 40 1,35 48 11,27
2004 12,5 45 1,36 50 11,3
2005 12,5 50 1,5 50 11,5
Văn
6 Bánh mứt kẹo Xuân
3,7
3,7
5,6
5,95
5,81
6,2
6,0
Đỉnh
1 2
1 2
7 Đậu phụ Liên Mạc 8 Đan phên nứa Đại Mỗ
Tổng cộng
1 2,5 70,15
1 2,5 88,15
1 2 107,95
1 2 111,05 120,53 129,36
1,3 2 134,5
Nguồn: [164]
Bước sang giai đoạn 2006-2013, Từ Liêm chỉ còn 7 làng nghề: bún (Phú Đô), cốm
(Mễ Trì), may (Cổ Nhuế), bánh kẹo (Xuân Đỉnh), gò hàn tôn (Tây Mỗ), rèn (Xuân
Phương), bện dây thừng (Trung Văn)… nhưng giá trị sản xuất của các làng nghề Từ
Liêm đạt tới 127,14 tỷ đồng và thu nhập bình quân của làng nghề là 14,6 triệu đồng
[178, tr.103].
Có thể thấy một số làng nghề tiêu biểu ở Từ Liêm:
ún Phú Đô: Làng Phú Đô có nghề làm bún với quy mô 210 hộ sản xuất và 300 hộ
khác phân phối bún. Thu nhập từ sản xuất bún chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của
người dân. Trong số các hộ sản xuất bún có khoảng 70 hộ áp dụng dây chuyền hiện đại,
còn lại vẫn sử dụng công nghệ bán thủ công. Tổng sản lượng bún tiêu thụ đạt 60
tấn/ngày. Làng Phú Đô đã được UBND Thành phố công nhận là Làng nghề truyền
thống năm 2010.
Cốm Mễ Trì: Mễ Trì là làng nghề truyền thống làm cốm lâu đời, đến nay vẫn được
duy trì; hiện có 66 cơ sở sản xuất, trong đó hộ sản xuất nhiều nhất đạt 70 kg/1 ngày; hộ
sản xuất ít đạt 20-30 kg/1 ngày, chất lượng sản phẩm luôn được các hộ chú trọng duy trì,
từng bước nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường.
84
Thu mua, tái chế phế liệu Trung Văn: Trung Văn trước đây nổi tiếng là làng nghề bện
dây thừng nhưng hiện tại các hộ gia đình chuyển sang thu gom, mua phế liệu, tái chế túi
nilon, đồ nhựa. Các nguyên liệu nhựa phế thải được người dân thu mua về và tái chế lại
thành nhựa thô; một phần được tái chế tại chỗ thành các sản phẩm, đồ gia dụng bằng nhựa,
dây buộc hóa học... phần còn lại xuất cho các công ty, xí nghiệp chuyên sản xuất đồ
nhựa. Đời sống nhân dân tại đây có phần được nâng lên nhờ nghề này với doanh thu trung
bình năm của 1 hộ hiện nay là 260 triệu đồng.
Cơ khí Xuân Phương: Xuân Phương trước có nghề rèn truyền thống rất phát triển
nhưng cũng dần bị mai một. Thay thế cho nghề rèn, Xuân Phương phát triển nghề sản
xuất cửa hoa sắt, làm tôn, lan can cầu thang, điêu khắc gỗ theo đơn đặt hàng và phục vụ
hoạt động xây dựng nhà ở dân dụng, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với nghề rèn
truyền thống; Có khoảng 110 hộ kinh doanh cá thể, doanh thu trung bình hàng năm đạt
76 triệu đồng/hộ.
ò hàn Tây Mỗ: Làng nghề truyền thống gò hàn Phú Thứ trước đây nổi tiếng,
chuyên sản xuất các mặt hàng trang kim, đồ tôn với rất nhiều mẫu mã, để bán trên thị
trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quy mô của làng
nghề nhỏ, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư xứng tầm để phát huy tay nghề của những
người thợ giỏi ở Phú Thứ, hoạt động của các cơ sở này đã bị thu hẹp lại, quy mô sản
xuất cầm chừng và giảm dần.
Làng nghề bánh kẹo Xuân Đỉnh: chuyên sản xuất bánh mứt kẹo, có thương hiệu
trên thị trường, cung cấp sản phẩm cho thị trường Hà Nội và các tỉnh thành phố phía
Bắc. Theo thời gian, số hộ tham gia làm nghề giảm do các cơ sở sản xuất với quy mô
nhỏ lẻ không có khả năng cạnh trạnh nên đã dần rút lui để chuyển nghề; Hiện chỉ còn
khoảng 23 cơ sở sản xuất.
Làng nghề may Cổ Nhuế: là làng nghề truyền thống gần trăm năm của Từ Liêm.
Làng nghề may Cổ Nhuế đem lại thu nhập khá và ổn định cuộc sống của người dân địa
phương, có đội ngũ công nhân may tay nghề cao. Tuy nhiên, may Cổ Nhuế hiện chưa
tạo được thương hiệu riêng, chủ yếu là may gia công theo đơn đặt hàng; các sản phẩm
chính là quần áo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Làng nghề hiện có trên 40 chủ
doanh nghiệp, xưởng sản xuất với quy mô từ 20 đến 100 máy may và hàng trăm hộ làm
nghề quy mô nhỏ. Nhiều công ty may đã thành lập ở Cổ Nhuế, điển hình như Công ty
TNHH may Hải Bảo; xưởng may Thủy Dũng; Bích Cường, tạo công ăn việc làm cho
85
hàng nghìn lao động trong trong và ngoài địa bàn. Bên cạnh sản xuất, người dân Cổ
Nhuế còn mở các cửa hàng bán sản phẩm tại chợ Đồng Xuân, chợ Ninh Hiệp và nhiều
chợ lớn, nhỏ ở Hà Nội và các tỉnh lân cận.
3.3.2.2. Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
Trong thời kỳ bao cấp ở tất cả các làng nghề đều tổ chức sản xuất theo mô hình
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Từ những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ
XX mô hình hợp tác xã không còn thích hợp nên đã tự giải thể. Làng nghề trở về với mô
hình sản xuất kinh doanh truyền thống là theo hộ gia đình.
Sang giai đoạn 2000-2005, các làng nghề ở Từ Liêm có nhiều hình thức tổ chức sản
xuất khác nhau, nhưng cơ bản hình thức hộ gia đình vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Các hộ
có quy mô lớn thì sẽ phát triển thành công ty hoặc HTX khi có điều kiện. Công ty và HTX
đi đầu trong việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, thu gom tiêu thụ sản phẩm các hộ
gia đình, các hộ gia đình là vệ tinh gia công cho công ty, HTX.
Bảng 3.5: Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
ở các làng nghề Từ Liêm năm 2005
Làng nghề
Rèn (Xuân Phương) Gò hàn (Tây Mỗ) Bún (Mễ Trì) May (Cổ Nhuế) Dây thừng (Trung Văn) Bánh kẹo (Xuân Đỉnh) Đậu phụ (Liên Mạc) Phên nứa (Đại Mỗ)
Số hộ gia đình 405 230 429 411 278 85 245 1210
Công ty TNHH 2 - - 7 - 1 - -
Công ty tư nhân 0 3 - 2 3 - - 5
HTX cổ phần 1 1 1 1 1 1 0 0
Tổ hợp tác 15 12 30 12 10 8 - 4
Nguồn: [164]
Trong các năm 2006-2013, mô hình sản xuất theo hình thức hộ gia đình vẫn chiếm
ưu thế tuyệt đối, nhưng số làng nghề lúc này không phát triển mạnh như giai đoạn trước;
một số làng nghề như phên nứa (Đại Mỗ), đậu phụ (Liên Mạc) bị mai một dần; một số
làng chuyển sang nghề khác như dây thừng (Trung Văn) chuyển sang thu mua phế liệu;
một số làng nghề giảm mạnh về số hộ kinh doanh như: Làng rèn (Xuân Phương) từ 405
hộ gia đình năm 2005 giảm xuống còn 110 hộ năm 2013, Bún (Mễ Trì) từ 429 hộ còn
210 hộ; May (Cổ Nhuế) từ 411 hộ năm 2005 còn 40 hộ năm 2013, Bánh kẹo (Xuân
Đỉnh) từ 85 hộ năm 2005 còn 23 cơ sở năm 2013 [151].
3.3.2.3. Các nguồn lực phát triển làng nghề
86
- Về kỹ thuật và công nghệ, các hộ gia đình, cơ sở sản xuất đã tiến hành đổi mới kỹ
thuật theo hướng kết hợp yếu tố truyền thống và công nghệ hiện đại. Làng nghề đã sử
dụng điện, máy móc vào sản xuất. Như nghề rèn Xuân Phương, trước đây mọi công
đoạn trong quy trình sản xuất đều được tiến hành bằng lao động thủ công (chặt, đập,
dập, tạo ren…) nay được thay thế bằng máy móc (búa máy, máy mài, hàn, tán…). Làng
Xuân Phương đã đầu tư 200 máy đột dập, 150 máy tán, 300 máy mài. Hay làng bún Mễ
Trì trước đây các khâu sản xuất (xay gạo, đánh quả, nhào bột…) đều thực hiện bằng lao
động thủ công nay được thay thế bằng máy có động cơ điện. Làng có trên 400 máy xay,
450 máy quấy bột, 450 máy ép sợi bún [122, tr.55]. Bên cạnh đó, một số làng nghề vẫn
còn sản xuất thủ công, chưa sử dụng máy móc, chưa mạnh dạn đổi mới công nghệ như
làng làm đậu phụ Liên Lạc, làng đan phên nứa Đại Mỗ.
- Về thị trường tiêu thụ và nguyên vật liệu sản xuất: Do sản xuất của làng nghề
Từ Liêm đã chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa, cho nên sản phẩm của làng nghề
được bán tự do trên thị trường; chủ yếu ở trong nước, trong đó phần lớn được tiêu thụ
ngay tại Hà Nội, chiếm tới 62% trong tổng doanh thu như bún (Mễ Trì), đậu phụ (Liên
Mạc), rèn (Xuân Phương), bánh kẹo (Xuân Đỉnh). Tỷ lệ các sản phẩm làng nghề Từ
Liêm được tiêu thụ tại các địa phương khác trong cả nước chiếm 29,3%, xuất khẩu
chiếm 8,7%. Huyện Từ Liêm có hai làng nghề có sản phẩm xuất khẩu là gò hàn tôn
(Tây Mỗ) và may mặc (Cổ Nhuế). Đặc biệt, sản phẩm của gò hàn tôn (Tây Mỗ) được
xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia… đạt giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 25 - 30 tỷ đồng/mỗi năm, chiếm 60% tổng giá trị doanh thu của làng nghề
này [122, tr.58-59].
Bên cạnh, đa số các loại nguyên vật liệu trong sản xuất của các làng nghề ở Từ Liêm
đều là các nguyên vật liệu trong nước nên khá ổn định; đây là điều kiện thuận lợi để phát
triển. Như nguồn nguyên liệu của làng may Cổ Nhuế được mua ở chợ Đồng Xuân; nguồn
nguyên liệu của làng rèn (Xuân Phương) gồm các díp ô tô phế thải, sắt sẵn có… Các làng
nghề mà nguồn nguyên liệu mang tính thời vụ như bánh kẹo Xuân Đỉnh, phên nữa (Đại
Mỗ) thì khó hơn nhưng cũng là những loại dễ mua, giá rẻ và có thể dự trữ được.
- Vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Để đẩy mạnh phát triển làng nghề, Từ
Liêm luôn có nhu cầu về vốn rất lớn. Theo số liệu thống kê của huyện, vốn đầu tư cho
tài sản cố định của làng nghề Từ Liêm chỉ chiếm 34% trong tổng số vốn, còn vốn lưu
động chiếm 66%. Các hộ sản xuất kinh doanh mới tự đảm bảo được 60-80% vốn cho chi
87
phí đầu vào của quá trình sản xuất. Số vốn thiếu còn lại chủ yếu phải vay từ họ hàng,
bạn bè, người thân. Một số ngành nghề còn thiếu vốn là những ngành phải đầu tư nhiều
để mua máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu như rèn, hàn tôn, may, bánh mứt kẹo… Để hỗ
trợ cho nhân dân sản xuất, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tích cực
cho vay vốn tới tận hộ, tuy nhiên nguồn vốn hàng năm vay từ ngân hàng vẫn chưa cao,
thủ tục rườm rà. Vốn vay ưu đãi từ các quỹ xóa đói giảm nghèo, Hội liên hiệp phụ nữ
còn ít về số lượng và thời hạn cho vay ngắn. Do đó, việc đầu tư cải tiến máy móc, thiết
bị, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm làng nghề Từ
Liêm còn nhiều khó khăn.
Đối với các huyện ngoại thành ven đô khác, Thanh Trì có nhiều tiềm năng để
phát triển các ngành nghề truyền thống như: dệt Triều Khúc, mây tre đan Vạn Phúc,
làng miến Hữu Hòa… Xã Tân Triều hiện có 42 công ty và hợp tác xã, trên 400 hộ sản
xuất tiểu thủ công nghiệp với trên 1.000 lao động. Các sản phẩm chủ yếu là dệt khăn,
dây giày, khóa nhựa kéo, hàng thổ cẩm, chỉ khâu, tua cờ, hàng tơ tằm, guốc dép với tổng
doanh số hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng [51].
Huyện Gia Lâm có nhiều làng nghề phát triển. Huyện đã thành lập các hội nghề
nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường như Hội
may da Kiêu Kỵ (2006), Hội dát vàng bạc quỳ Kiêu Kỵ (2008). Đến năm 2010 đã có 5
làng nghề được công nhận là “làng nghề truyền thống Hà Nội” (làng nghề gốm Bát
Tràng, làng nghề gốm sứ Giang Cao, làng nghề gốm sứ Kim Lan, làng nghề may da, dát
quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ, làng nghề thuốc nam Ninh Giang, Ninh Hiệp) [8, tr.361].
3.4. Thương mại - dịch vụ
3.4.1. iá trị ngành thương mại - dịch vụ
Từ năm 1986, thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh hơn, phạm vi trải
rộng từ các chợ đến các quầy bán lẻ. Khu vực thương nghiệp quốc doanh vẫn phát triển,
nhưng có xu hướng chậm lại. Đến những năm 1990, trước áp lực của cơ chế thị trường,
thương mại-dịch vụ thuộc thành phần quốc doanh giảm dần và đã được điều chỉnh lại cơ
cấu để hoạt động có hiệu quả hơn.
Từ năm 1996 ngành thương mại-dịch vụ của Từ Liêm bắt đầu phát triển nhanh và
đa dạng. Trong giai đoạn 1996-2000, các thành phần kinh tế doanh nghiệp quốc doanh,
ngoài quốc doanh và tập thể của huyện đã từng bước được củng cố, sắp xếp lại sản xuất
kinh doanh. Năm 1996, giá trị thương nghiệp - dịch vụ - du lịch trên địa bàn đạt 577.146
88
triệu đồng. Hoạt động thương mại - dịch vụ sôi động đáp ứng nhu cầu đời sống của một
huyện đang đô thị hóa với tốc độ tăng trưởng 19,5%. Trong giai đoạn này, tổng kim
ngạch nhập khẩu trên địa bàn là 5.674.000 USD, đạt 141,9% kế hoạch nhưng giá trị xuất
khẩu chỉ có 14.000 USD, là do thị trường bị thu hẹp lại [6, tr.364]. Năm 1998, huyện có
7 doanh nghiệp quốc doanh với tổng số vốn gần 100 tỷ đồng. Thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh từng bước phát triển với tốc độ nhanh. Năm 1998, trên địa bàn huyện có 21
tổ HTX, 18 công ty trách nhiệm hữu hạn, 6.019 hộ kinh doanh; những thành phần kinh
tế này đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện phát triển theo hướng đa dạng
hóa ngành nghề, giải quyết một phần lớn nhu cầu lao động tại địa phương. Tỷ trọng
ngành thương mại-dịch vụ trong tổng giá trị sản xuất của huyện tăng từ 26% năm 1995
lên 26,9% năm 2000 [6, tr.377-378].
Trong giai đoạn 2001-2005, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, hệ thống
thương nghiệp - dịch vụ nhiều thành phần trên địa bàn huyện đã dần hình thành. Từ
Liêm đã củng cố các doanh nghiệp quốc doanh, tập thể, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phát triển; mở rộng mạng lưới cung cấp vật tư, hàng tiêu dùng, tăng
thêm điểm mua bán hàng hóa và các điểm dịch vụ - thương nghiệp khu vực nông thôn.
Hệ thống thương mại có chất lượng cao có xu hướng phát triển nhanh, hình thành các
trung tâm thương mại lớn như chợ đầu mối, siêu thị, mạng lưới chợ được sắp xếp lại…,
thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư vào kinh doanh, góp phần thúc đẩy lưu
chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân. Doanh số
thương mại dịch vụ năm 2004 đạt 1.655.300 triệu đồng, tăng 209% so với năm 2000
(tăng bình quân 22,5%/năm). Giá trị sản xuất thương mại dịch vụ đạt 404.654 triệu
đồng, tăng 121,2% so với năm 2000 (tăng bình quân 21,9%/năm) [152].
Nhằm đẩy mạnh kinh tế thương mại - dịch vụ, Từ Liêm chủ động đầu tư xây dựng
một số chợ như: chợ đầu mối Xuân Đỉnh, Cầu Diễn, Mỹ Đình, chợ hoa Tây Tựu, chợ
vật liệu xây dựng Đại Mỗ; lập kế hoạch xây dựng một số chợ đầu mối: chợ lâm sản
Thượng Cát, chợ đầu mối Tây Mỗ… Năm 2004, huyện có 12 chợ, trong đó có 2 chợ đầu mối - chuyên doanh, 2 chợ loại II, 8 chợ loại III với tổng diện tích là 65.393km2.
Sang giai đoạn 2006-2013, tốc độ tăng trung bình ngành dịch vụ trên địa bàn Từ
Liêm là 18-20%. Năm 2012, giá trị ngành thương mại dịch vụ chiếm 39,6% trong cơ
cấu kinh tế của huyện. Giá trị sản xuất ngành thương mại-dịch vụ từ 15.664 tỷ đồng năm
2012 tăng lên 16.213 tỷ đồng năm 2013 (giá cố định năm 2010) [166]. Số cơ sở kinh
89
doanh thương nghiệp, dịch vụ tăng từ 5.578 cơ sở, 9.850 lao động năm 2005 lên 7.204
cơ sở, 11.004 lao động năm 2010. Những kết quả đó đã góp phần nâng cao ngân sách
của huyện từ 183 tỷ đồng năm 2005 lên 1.906 tỷ đồng năm 2010 [184] và 2.528,3 tỷ
đồng năm 2013 [166] và là một trong số ít huyện ngoại thành Hà Nội có mức ngân sách
tăng nhiều như vậy.
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán buôn, bán lẻ năm 2010 trên địa bàn huyện đạt
23.090 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp tư nhân có số doanh thu là 22.441 tỷ đồng,
chiếm 97% [154]. Các hộ kinh doanh cá thể, bán lẻ hoạt động buôn bán tương đối đa
dạng với nhiều mặt hàng dưới nhiều hình thức khác nhau. So với bán buôn, những hộ
bán lẻ có mức doanh thu thấp hơn và mức lợi nhuận không cao; đa số tập trung vào lĩnh
vực bán lẻ hàng lương thực thực phẩm, đồ uống, các loại tạp phẩm phục vụ nhu cầu đời
sống hàng ngày.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2008 của huyện đạt 302.978 nghìn USD,
tăng 196.090 nghìn USD so với năm 2007. Trong đó kim ngạch xuất khẩu 23.985 nghìn
USD, tăng 7.083 nghìn USD so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu 278.993 nghìn
USD, tăng 189.052 nghìn so với năm 2007. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ
công mỹ nghệ (81,5%), hàng dệt may (9,2%) và sản phẩm chế biến thực phẩm nông sản
(3,3%) [154]. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là các loại hóa chất, nguyên liệu vải các
loại giấy, men bia và một số sản phẩm trung gian khác. Hầu hết các hoạt động xuất nhập
khẩu tại huyện đều thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2006 đến năm 2010, huyện đã đầu tư 24 tỷ đồng để xây dựng, cải tạo
mạng lưới chợ, đầu tư và đưa vào sư dụng chợ đầu mối Minh Khai và đang thi công các
chợ: Thụy Phương, Phúc Lý, Phú Diễn. Đến năm 2013, huyện đã có hơn 20 chợ đang
hoạt động, góp phần tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, phát triển
thương mại dịch vụ. Công tác chuyển đổi chợ sang mô hình doanh nghiệp, HTX quản lý
được Từ Liêm tích cực triển khai, đã chuyển đổi được 8 chợ loại 3 cho HTX quản lý
khai thác, hoàn thành đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện 4 dự án chợ: chợ lâm sản
Thượng Cát, chợ Cầu Diễn, Nhổn, chợ Sắng - Đại Mỗ cho doanh nghiệp quản lý. Trên
địa bàn huyện có 4 siêu thị lớn: Metro, City Max, điện máy HC, Tây Đô và 01 trung tâm
thương mại (The Garden). Toàn huyện có 1.064 doanh nghiệp, trong đó có 40 doanh
nghiệp nhà nước, 1.004 doanh nghiệp ngoài nhà nước, 39 hợp tác xã dịch vụ và gần
8.000 hộ kinh doanh cá thể [47].
90
Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu về ngành thương mại, dịch vụ,
du lịch huyện Từ Liêm năm 2010
Lĩnh vực
Số cơ sở kinh doanh (Doanh nghiệp) 1.839 1.169 1.112 54
Số lao động (người) 19.945 12.584 11.219 1.365
Doanh thu (triệu đồng) 24.789.170 22.441.000 20.196.900 2.244.100
I. Kinh tế tư nhân 1. Thương mại - Bán buôn - Bán lẻ
70 11 59 18 586 10.529 6.798 826 5.952 1.921 65 1.856 - 1.810
1.310 84 1.226 88 5.963 15.701 8.141 2.162 5.979 4.408 106 4.302 - 3.152
90.100 7.208 82.892 - 2.258.070 930.100 651.070 110.628 540.388 229.735 4.595 225.140 - 49.295
2. Khách sạn, nhà hàng - Khách sạn -Nhà hàng 3. Du lịch 4. Dịch vụ II. Kinh tế cá thể 1. Thương mại - Bán buôn - Bán lẻ 2. Khách sạn, nhà hàng - Khách sạn - Nhà hàng 3. Du lịch 4. Dịch vụ
Nguồn: [151]
3.4.2. Một số ngành thương mại - dịch vụ
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ của Từ Liêm đang phát triển mạnh dựa trên xu
hướng phát triển đô thị hiện đại, có tiềm năng và đang hình thành một số ngành dịch vụ
chất lượng cao như: dịch vụ bưu chính viễn thông, trung tâm thương mại, khách sạn nhà
hàng, thể thao giải trí, bất động sản, mặt hàng gia dụng, vật liệu xây dựng, vận tải, văn
phòng cho thuê, dịch vụ lưu trú…
Dịch vụ bưu chính viễn thông, thông tin là ngành dịch vụ đóng góp lớn trong cơ
cấu ngành thương mại dịch vụ của huyện, tập trung chủ yếu ở khu vực Mỹ Đình, Mễ
Trì. Đây chính là nguyên nhân giúp ngành thương mại dịch vụ Từ Liêm năm 2013 đạt
mức tăng trưởng cao.
Dịch vụ khách sạn, nhà hàng, ăn uống: Năm 2010 huyện Từ Liêm có 70 doanh
nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng, trong đó khách sạn - 11 và nhà hàng - 59 và 17
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, lực lượng hộ cá
thể tham gia đông đảo hơn, năm 2010 có 1.921 hộ tham gia kinh doanh dịch vụ ăn uống
và đóng góp tới 95% vào doanh thu hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng [154].
Quy mô đầu tư và sử dụng lao động của các cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà hàng còn
91
nhỏ, sử dụng ít lao động (bình quân 143 lao động đối với doanh nghiệp và 1,6 lao động
đối với hộ cá thể). Mức đầu tư trung bình mỗi hộ kinh doanh dịch vụ này cũng thấp. Theo
số liệu điều tra một số nhà nghỉ, khách sạn và nhà cho thuê, mức vốn cố định đầu tư bình
quân cũng chỉ khoảng 300 triệu đồng, mức doanh thu phổ biến từ 50-70 triệu đồng và thu
hút lao động bình quân từ 3-5 người/mỗi nhà hàng [154].
Ngành dịch vụ lưu trú, văn phòng cho thuê: Huyện còn có nhiều tổ hợp văn phòng đã
đi vào hoạt động như Keangnam Hanoi Landmark Tower (4 doanh nghiệp doanh thu trên
15 tỷ đồng), Handico Tower, Viglacera Tower (6 doanh nghiệp doanh thu trên 15 tỷ đồng),
Sudico, The Mannor (4 doanh nghiệp doanh thu trên 15 tỷ đồng), FLC Landmark Tower (5
doanh nghiệp có doanh thu trên 15 tỷ đồng) là điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ dịch
vụ cho thuê văn phòng cao cấp. Nhiều công trình quan trọng của Thành phố và Trung ương
như: Bảo tàng Hà Nội, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Khu Liên hợp thể thao quốc gia Mỹ
Đình… là điều kiện để phát triển dịch vụ tổ chức sự kiện và tham quan du lịch.
Với các khu đô thị đã phát triển ổn định như Mỹ Đình 1, 2, Mễ Trì, Cầu Diễn,
hàng loạt tòa nhà hiện đại được xây dựng, tạo ra nguồn cung khá lớn cho hoạt động của
dịch vụ cho thuê văn phòng, lưu trú, đặc biệt là khách nước ngoài. Theo thống kê trên
địa bàn có khoảng 5.000 người nước ngoài lưu trú, đây là số lượng khá lớn mà các
huyện ven đô khác không có được.
Tại một số xã như Cổ Nhuế, Phúc Diễn, Phú Diễn, Xuân Đỉnh, Đông Ngạc, Minh
Khai, Xuân Phương, Phương Canh, Đại Mỗ, Tây Mỗ phát triển mạnh dịch vụ cho thuê
nhà, phòng trọ, với loại hình nhà trọ bình dân cho người lao động và học sinh, sinh viên.
Năm 2013, huyện Từ Liêm có khoảng trên 2.000 hộ gia đình kinh doanh xây nhà trọ cho
thuê. So với năm 2000 thì số lượng nhà trọ trên địa bàn huyện năm 2013 tăng lên nhanh
chóng. Bình quân hộ gia đình ít thì 2 đến 5 phòng trọ; nhà nhiều thì 15-20 phòng cho
thuê. Giá phòng trọ dao động từ 800 đến 1.500.000 đ/phòng. Trung bình tiền thu nhập từ
cho thuê phòng trọ của các hộ gia đình từ 1.500.000đ đến 40.000.000đ/tháng [133, tr.
140]. Kèm theo dịch vụ cho thuê nhà là dịch vụ bán các mặt hàng như ăn uống, tạp
hóa… cũng góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho cư dân.
Ngành bán buôn bán lẻ là ngành có tăng trưởng ổn định 18%/năm. Trên địa bàn
huyện có 09 siêu thị ở Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Mỹ Đình, Mễ Trì; nhiều trung tâm thương
mại đã đi vào hoạt động; Đã có hơn 20 chợ đang hoạt động, góp phần tạo việc làm và
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, phát triển thương mại dịch vụ.
92
Ngành hoạt động kinh doanh bất động sản là ngành có tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu
thương mại - dịch vụ của huyện, đặc biệt là trong những năm 2000-2013. Do nhu cầu mua
bất động sản ở các khu vực ven đô tăng cao nên tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức
khá cao. Thị trường bất động sản dần phát triển trong thế chậm nhưng chắc chắn, một số
dự án nhà ở trên địa bàn huyện tiếp tục được triển khai, đặc biệt khi cơ sở hạ tầng giao
thông được hoàn thiện, tỷ trọng của ngành sẽ tiếp tục đà tăng trưởng tốt.
So với huyện Thanh Trì, ngành dịch vụ của huyện Từ Liêm chiếm tỷ trọng khá so
với cơ cấu kinh tế. Nếu như năm 2013, tỷ trọng các ngành kinh tế của huyện Từ Liêm
là: công nghiệp: 58,9%, dịch vụ: 39,7%, nông nghiệp: 1,4%, thì ở huyện Thanh Trì, tỷ
trọng ngành dịch vụ tăng từ 15,46% năm 2001 lên chiếm 22,52% năm 2012. Trên địa
bàn huyện có 587 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, 5.516 hộ
kinh doanh cá thể. Xét theo đơn vị hành chính, số hộ kinh doanh dịch vụ tập trung nhiều
nhất ở các xã ven đô và trung tâm huyện như: Tân Triều, Tam Hiệp, Tả Thanh Oai,
Thanh Liệt và thị trấn Văn Điển. Ngược lại, các xã xa trung tâm, các xã ngoài đê như:
Liên Ninh, Vạn Phúc, Duyên Hà, Yên Mỹ… có số hộ tham gia hoạt động dịch vụ ít hơn.
Về các loại hình dịch vụ ở Thanh Trì vẫn chủ yếu là dịch vụ thương mại. Tuy nhiên
trong lĩnh vực thương mại, ngoài các doanh nghiệp, các công ty của Trung ương và
Thành phố ra, vẫn chủ yếu là các hộ kinh doanh nhỏ, phân tán và bán lẻ. Dịch vụ ăn
uống chỉ tập trung ở thị trấn Văn Điển, Ngọc Hồi và Tứ Hiệp với những nhà hàng, quán
ăn quy mô không lớn. Các dịch vụ khác như vận tải, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân
hàng, dịch vụ văn hóa, tư vấn… nhìn chung còn nhỏ, mới bước đầu phát triển. Dịch vụ
cho thuê nhà trọ bắt đầu phát triển mạnh do trên địa bàn huyện mới mở thêm một số
doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện, trường Đại học… [51].
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cùng với phát triển
công nghiệp, TTCN, huyện Gia Lâm cũng chú trọng phát triển hoạt động thương
mại, dịch vụ. Gia Lâm tập trung thực hiện cải tạo, xây dựng hệ thống chợ, siêu thị để
tăng cường năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 10%, giai đoạn 2006-2010 đạt
11,25% [35, tr.111].
i t h ơng 3:
Quá trình chuyển dịch kinh tế của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 phù
hợp với xu hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị
93
hóa. Quá trình đó diễn ra đồng thời trong tất cả các ngành kinh tế, mà biểu hiện rõ
nét nhất là trong ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ. Các ngành
kinh tế này không chỉ tăng nhanh về giá trị sản xuất mà còn cả về số lượng cơ sở sản
xuất, góp phần vào việc tăng nguồn ngân sách cho địa phương. Bên cạnh đó, nông
nghiệp - ngành kinh tế chủ đạo của huyện trước năm 1996 lại chịu sự tác động mạnh
mẽ và trực tiếp từ quá trình đô thị hóa (do sự thu hẹp nhanh chóng diện tích đất nông
nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất
phi nông nghiệp, mở rộng cơ sở hạ tầng đô thi, xây dựng các khu dân cư đô thị…).
Mặc dù vậy, trong sản xuất nông nghiệp, huyện đã chú trọng việc chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, từ loại cây có giá trị thấp sang loại cây trồng có giá trị cao, hình thành các
vùng chuyên canh, tăng cường vốn và áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao giá
trị sản xuất trên một đơn vị diện tích nuôi trồng.
Chuyển dịch kinh tế của Từ Liêm đã dẫn đến sự hình thành và phát triển nền kinh
tế thị trường có định hướng, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng, đa dạng, hiệu quả và
mang tính bền vững. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực tiễn sản xuất và
kinh doanh theo hướng thị trường đã góp phần mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng
suất, sản lượng, giá trị các sản phẩm, đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời quá trình
đó cũng đã góp phần cải biến nhận thức của dân cư trong sản xuất, kinh doanh, trong
việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, trong việc hình thành tâm lý sản xuất
sản xuất hàng hóa mang thương hiệu và có chất lượng cao.
94
Chương 4
CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI CỦA HUYỆN TỪ LIÊM
4. . Về ân s
4.1.1. Quy mô dân số
Khác với giai đoạn trước, từ năm 1996, Từ Liêm là huyện có tỷ suất gia tăng cơ
học cao nhất so với các huyện ngoại thành Hà Nội, năm 2012 là 4,95% [133, tr.76]. Cơ
cấu kinh tế huyện chuyển dịch theo hướng tăng nhanh ngành công nghiệp, thương mại -
dịch vụ và giảm mạnh ngành nông nghiệp nên đã thu hút một lượng lớn cư dân từ nơi
Nguồn: [23]
khác đến sinh sống và làm việc tại Từ Liêm.
Theo biểu đồ 4.1, dân số huyện Từ Liêm tăng từ 177.300 người năm 1996 lên
523.400 người năm 2013, gấp hơn 3 lần so với năm 1996. Kể từ khi thành lập năm 1961
đến trước khi tách thành hai quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm (11/2013), huyện Từ
Liêm đã trải qua 6 lần chia tách địa giới hành chính, mặc dù diện tích tự nhiên ngày
càng bị thu hẹp nhưng không vì thế mà quy mô dân số trong toàn huyện giảm, ngược lại
tăng gấp hơn ba lần, chiếm trên 7% dân số trung bình của toàn thành phố Hà Nội. Tỷ lệ
tăng dân số của huyện Từ Liêm giai đoạn 2005-2013 là 6,8 - 7,3%, trong đó tăng tự
nhiên là 11,3% [133, tr.75].
Cũng giống như huyện Từ Liêm, Gia Lâm và Thanh Trì sau khi điều chỉnh địa giới
hành chính năm 2003, dân số hai huyện này cũng có sự tăng lên đáng kể, tuy nhiên vẫn
khiêm tốn so với huyện Từ Liêm. Cụ thể: Huyện Thanh Trì gồm 16 đơn vị hành chính
(01 thị trấn và 15 xã), dân số từ năm 2004 từ 164.800 người tăng lên 208.200 người năm
2011, chiếm khoảng 3,1% dân số của Thành phố Hà Nội; mật độ dân số trung bình là
95
3.153 người/km2, tốc độ tăng dân số của huyện tăng bình quân 2,90% năm [51]; Trong
khi đó huyện Gia Lâm gồm 22 xã và 1 thị trấn, dân số từ 206.404 người năm 2004 tăng
lên 251.400 năm 2013. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn này là 2,05%/năm [141].
Theo số liệu niêm giám thống kê năm 2013, với dân số 523.400 người, gấp 3,2 lần
so với các huyện ngoại thành khác. Từ Liêm trở thành huyện có quy mô dân số đứng
đầu trong toàn Thành phố Hà Nội, nhưng lại là huyện đứng thứ 18 về diện tích. Điều
này cho thấy sức hấp dẫn của cuộc sống đô thị cùng với với sự gia tăng ngày càng nhiều
của các tòa nhà cao tầng trong những năm gần đây là một trong những nguyên nhân
chính thu hút số lượng dân cư khổng lồ từ các địa phương tìm về làm cho quy mô dân số
của Từ Liêm tăng lên nhanh chóng trong bối cảnh đô thị hóa.
Với tốc độ đô thị hóa nhanh, từ năm 1996 đến năm 2013, Từ Liêm là huyện ngoại
thành có nhiều biến động về quy mô dân số đô thị. Năm 1996, số dân đô thị của huyện
là 10,599 nghìn người và chủ yếu tập trung ở 4 thị trấn Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô,
Nghĩa Tân thì đến năm 2013, dân số đô thị tăng lên 30,6 nghìn người, tăng gần gấp 3
lần. So với các huyện ngoại thành của Hà Nội, từ năm 1996 đến năm 2013, huyện Từ
Liêm là địa bàn có dân số đô thị tăng nhanh thứ hai sau huyện Gia Lâm [133]. Trong khi
đó ở huyện Gia Lâm, cũng trong giai đoạn này, số dân đô thị của huyện tăng từ 29,9
nghìn người lên 35,9 nghìn người; huyện Thanh Trì từ 12,6 nghìn người lên 17,6 nghìn
người; huyện Đông Anh từ 25,4 nghìn người lên 28,5 nghìn người; huyện Sóc Sơn từ
4,0 nghìn người lên 4,7 nghìn người [23]. Dân cư đô thị của huyện Từ Liêm tập trung
chủ yếu ở Thị trấn Cầu Diễn và các xã có tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình, Mễ Trì,
Trung Văn, Cổ Nhuế.
Mức độ gia tăng dân cư có sự khác nhau và không đồng đều giữa các đơn vị hành
chính trên địa bàn huyện. Theo số liệu của Phòng thống kê huyện, xã Mỹ Đình năm
1996 có 8.695 người, đứng thứ 13 trong toàn huyện, thì đến năm 2013 đã tăng lên
52.791 người, vươn lên thứ 2 toàn huyện; xã Cổ Nhuế từ 15.969 người năm 1996 tăng
lên 73.257 người năm 2013; Mễ Trì từ 13.910 người năm 1996 tăng lên 39.770 người
năm 2013; Trung Văn từ 9.457 người năm 1996 tăng lên 28.013 người năm 2013.
Thư ng Cát là đơn vị hành chính có quy mô dân số thấp nhất huyện, chỉ tăng từ 5.709
người năm 1996 lên 9.691 người năm 2013 [104]. Nhiều xã như Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế,
Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn có quy mô dân số lớn đã phải thành lập các tổ dân phố cho
phù hợp với đặc điểm của các khu dân cư mới.
96
Bảng 4.1: Tình hình dân số và mật độ dân cư huyện Từ Liêm (2000-2013)
2000
2005
2010
2013
Tên xã/thị trấn
Diện tích tự nhiên (km2)
Dân số (người)
Dân số (người)
Dân số (người)
Dân số (người)
Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương
75,32 2,13 4,57 5,29 3,95 4,83 3,89 6,29 2,85 3,61 5,55 6,15 2,73 7,06 5,99 4,97 5,46
197.919 10.714 9.542 13.443 10.740 11.519 6.131 6.494 7.335 17.096 18.649 22.680 15.003 14.434 10.110 12.181 10.557
Mật độ (người/k m2) 2.628 5.679 2.068 2.541 2.719 2.383 1.576 1.032 2.574 4736 3.360 3.688 5.496 2.044 1.688 2.451 1.933
268.789 12.095 17.271 19.035 15.050 17.072 7.042 7.521 8.648 20.078 26.054 30.966 19.591 20.296 13.288 14.869 14.155
Mật độ (người/k m2) 3.569 8.086 3.779 3.598 3.810 3.535 1.810 1.196 3.034 5.736 4.694 5.035 7.176 2.875 2.218 2.992 2.592
419.523 17.223 41.820 22.046 35.619 30.977 8.272 8.966 11.272 33.488 37.905 59.815 24.375 30.679 18.672 20.118 26.269
Mật độ (người/km 2) 5.678 13.059 8.955 4.118 8.838 6.157 2.108 1.511 3.876 9.537 6.254 9.632 8.565 3.976 2.962 3.937 4.520
523.411 31.787 52.791 25.524 40.610 34.416 9.691 12.167 12.663 41.931 43.592 73.257 28.013 39.770 21.541 23.767 31.891
Mật độ (người/km 2) 6.922 14.923 14.923 4.816 10.229 7.081 2.491 2.031 4.428 11.615 7.529 11.797 10.077 5.625 3.560 4.772 5.814
Nguồn: [104]
Theo bảng 4.1, mật độ dân cư bình quân của huyện Từ Liêm cũng tăng lên nhanh chóng, từ 2.360 người/km2 năm 1996 tăng lên gần 7.000 người/km2 năm 2013, chỉ đứng sau các quận nội thành Hà Nội (11.950người/km2) [133, tr.70]. Trong đó tập trung nhiều nhất là ở thị trấn Cầu Diễn (14.923 người/km2, gấp hơn 2 lần mật độ trung bình); tiếp đến là Mỹ Đình (11.304 người/km2), Đông Ngạc (11.615/ người/km2), Cổ Nhuế là 11.797 người/km2. Hai đơn vị hành chính có mật độ dân số thấp nhất là Thượng Cát (2.491 người/km2) và Liên Mạc (2.031 người/km2) [104].
Nguyên nhân làm cho quy mô, mật độ dân số Từ Liêm cao hơn gấp 3 lần các
huyện ngoại thành khác của Hà Nội là do tốc độ đô thị hóa nhanh cùng với chính sách
giãn dân của thành phố ra các vùng ven ngoại thành. Ở Từ Liêm, sự gia tăng nhanh của
các tòa nhà cao tầng, khu tái định cư (KĐT Mỹ Đình 1, KĐT Mỹ Đình 2, KĐT Bitexco,
Sông Đà, Keangnam, The Manor…), các dự án phát triển đô thị, khu công nghiệp (KCN
Nam Thăng Long, các cụm công nghiệp vừa và nhỏ…) là nguyên nhân làm cho mật độ
dân cư toàn huyện tăng nhanh.
Bên cạnh đó, số lượng dân cư tạm trú ở huyện Từ Liêm trong những năm này cũng
tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê năm 2013, các hộ dân diện KT3, KT45 sống trên địa bàn Từ Liêm chiếm ¼ dân số. Một số xã như Mỹ Đình, Mễ Trì,
5 Những người không có hộ khẩu Hà Nội, gồm 2 đối tượng chính: 1/ Những người không có hộ khẩu Hà Nội nhưng đã sinh sống khá lâu ở phường; 2/ Và KT4: những người lao động di cư từ nông thôn, cư trú tạm thời trên địa bàn phường. Theo sự phân loại này, nhóm KT3 cư trú ở các xã là những người dân từ các tỉnh khác chuyển về cư trú lâu dài. Tuy nhiên họ không được đăng ký hộ khẩu do chưa có nhà cố định. Những người dân lao động tạm trú chủ yếu là những di dân tạm thời từ nông thôn ra Hà Nội tìm việc.
Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế còn chiếm tỷ lệ cao hơn. Trên địa bàn huyện, có khá nhiều trường
97
đại học, cao đẳng, trung cấp nên lượng sinh viên học tập và sinh sống khá lớn. Năm
2013, có trên 7 vạn sinh viên cư trú trên địa bàn Từ Liêm. Ngoài ra còn một lượng lao
động đến tạm trú theo các công trình, dự án xây dựng giao thông, đô thị cũng thu hút số
lượng lớn dân ngoại tỉnh [133, tr.72].
Ví dụ, xã Mễ Trì là nơi có sự gia tăng đột biến về dân số, thành phần dân cư cũng
ngày càng đa dạng và liên tục biến động. Theo thống kê của UBND xã Mễ Trì, năm
2000 xã quản lý hơn 15.900 nhân khẩu, năm 2005 là 20.290 nhân khẩu và đến tháng
12/2010 là hơn 27.000 nhân khẩu. Mức tăng dân số trong giai đoạn trước đó ở Mễ Trì
chủ yếu là tăng tự nhiên. Chỉ từ khi có Dự án Khu liên hợp Thể thao Quốc gia được đầu
tư xây dựng ở địa phương mới có biến động về tăng tỷ lệ cơ học, một số người từ nơi
khác đến mua đất xây dựng nhà ở dưới dạng nhân khẩu KT2. Đặc biệt trong giai đoạn
2005-2010, theo thống kê của UBND xã Mễ Trì, số nhân khẩu KT3 lên tới trên 2.000
người, chủ yếu là lao động xây dựng từ các tỉnh về thi công các công trình nhà ở tại Mễ
Trì và các làng lân cận [132, tr.51].
4.1.2. Cơ cấu dân số
Trong giai đoạn 2001-2010, dân số của Từ Liêm có tỷ lệ nữ giới tương đối thấp
hơn nam giới. Tính chung trong toàn huyện, tỷ lệ nữ chiếm 48,49% và nam chiếm
51,51% theo số liệu năm 2005, trong khi tỷ lệ nữ ở các huyện nội thành chiếm tỷ lệ trên
50% [33, tr.32]. Năm 2010, dân số nữ ở Từ Liêm chiếm 48,58% và nam chiếm 51,42%;
đến năm 2013, tỷ lệ nữ giới chiếm 48,66% và nam giới là 51,34% [151].
Cơ cấu độ tuổi của cư dân Từ Liêm cũng có sự thay đổi theo xu thế hợp lý nhưng ở
mức độ chậm. Tỷ lệ dân số trẻ (dưới 15 tuổi) tăng từ 23,48% năm 2001 lên 24,60% năm
2010; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động có sự dịch chuyển nhẹ từ 65% (2001) lên
65,93% (2010) [154]. Dân số trong tuổi lao động tăng nhanh tạo nên sức ép cho vấn đề
việc làm, đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
Trong giai đoạn 2005-2010, dân số thành thị tăng nhanh, dân số nông thôn giảm
dần. Dân cư đô thị Từ Liêm chủ yếu tập trung ở thị trấn Cầu Diễn, các xã Mễ Trì, Mỹ
Đình, Trung Văn, Cổ Nhuế. Dân số trung bình phân theo thành thị/nông thôn qua các năm
như sau: năm 2005 là 16.800/273.000 người, năm 2007 là 18.600/313.300 người, năm
2008 là 20.400/334.800 người, năm 2009 là 26.900/367.800 người và năm 2010 là
27.500/392.000 người [23]. Đây là thời kỳ ở Từ Liêm có nhiều công trình được xây dựng
98
như các khu đô thị mới, khu giãn dân, khu công sở… nên cư dân nông thôn dịch chuyển
vào khu vực thành thị, kết hợp với dân nhập cư từ các nơi khác đến.
4.1.3. Vấn đề di dân
Di dân cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế -
xã hội của huyện. Số người đến Từ Liêm làm ăn, sinh sống không ngừng gia tăng. Như
năm 2000, tổng số người chuyển đi là 938 người, nhưng chuyển đến là 3.363 người,
tăng cơ học 2.425 người; năm 2005, tổng số người chuyển đi là 1.433 người; tổng số
người chuyển đến là 12.544 người, tăng cơ học 11.111 người; đến năm 2012, số người
chuyển đi là 5.825 người; số người chuyển đến là 21.849 người, tăng cơ học là 16.027
người [104].
Theo bảng 4.2 cho thấy, từ năm 2005 đến năm 2012, số người chuyển đến Từ
Liêm lớn hơn rất nhiều so với số người chuyển đi nơi khác, gấp 7, 8 lần. Đặc biệt là từ
năm 2008 đến năm 2012, tỷ lệ người nhập cư về Từ Liêm tăng nhanh, trung bình
khoảng 25.000 - 30.000 người/năm, tập trung chủ yếu ở một số xã như Mễ Trì, Mỹ
Đình, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Xuân Phương, Cổ Nhuế...
Bảng 4.2: Tình hình di dân huyện Từ Liêm (2000-2012)
Tên xã, thị trấn
Chuyển đi 938
2000 Chuyển đến 3363
Chênh lệch 2425
Biến động cơ học 2005 Chuyển đến 12544
Chênh lệch 11111
Chuyển đi 1433
Chuyển đi 2185
2010 Chuyển đến 17731
Chênh lệch 15546
Chuyển đi 5852
2012 Chuyển đến 21849
Chênh lệch 16027
152 33 46 53 50
543 155 12 116 644
391 122 -34 63 594
226 45 54 66 61
584 910 896 727 998
358 865 842 661 937
542 8 126 128 17
835 3126 489 1332 482
254 2950 388 1191 -53
812 60 177 1705 219
270 52 51 1677 202
581 176 101 141 535
18
78
60
20
140
120
54
596
542
265
252
13
25 41
59 104
34 63
45 38
189 424
144 386
320 366
3942 1476
3622 1110
1685 372
1667 347
18 25
47
124
77
160
205
133
1363
1230
375
215
2114
1909
89
295
206
75
114
222
1115
1040
1332
1218
723
501
142 43
451 182
309 139
197 67
1837 931
1640 864
16 108
500 821
484 713
1258 1096
1021 980
237 116
36 73 56 34
155 113 100 116
119 40 66 82
192 46 75 197
705 559 1115 1837
513 513 1040 1640
37 81 78 30
2251 1761 531 1173
2514 1680 453 1143
5058 216 462 2336
1834 177 360 2217
3224 39 102 119
Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương
Nguồn: [104]
Từ năm 2000 đến năm 2013, số người nhập cư vào Từ Liêm khoảng hơn 204.532 nghìn người, chưa tính tạm trú và số hộ khẩu KT26 và KT3. Việc một lượng lớn dân di
cư từ nhiều nơi đến Từ Liêm làm ăn, sinh sống một mặt tạo điều kiện cho huyện có 6 KT2 là những người cư trú trên địa bàn phường nhưng vẫn có hộ khẩu ở các phường hoặc các quận khác ở Hà Nội.
99
nguồn lao động dồi dào, trẻ, sẵn sàng tham gia các hoạt động kinh tế nhưng mặt khác
tạo ra một áp lực lớn đối với việc giải quyết việc làm cho lao động địa phương, vấn đề
nhà ở, quản lý xã hội, làm nảy sinh các tệ nạn xã hội...
Ngoài bộ phận dân nhập cư từ các tỉnh ngoài, Từ Liêm còn là nơi giãn dân của
nội thành. Với chính sách phát triển đô thị của thành phố, Từ Liêm đã tiếp nhận một
bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra theo kế hoạch dãn dân hoặc dân tự
mua đất ở các quận ngoại thành để xây biệt thự làm nơi ở và thư giãn cuối tuần.
Đô thị hoá không chỉ tác động đến động thái phát triển dân số mà còn làm đa dạng
hoá cơ cấu, thành phần dân cư. Việc gia tăng dân số tự nhiên của cư dân sở tại, sự có mặt
của cư dân nhập cư đã làm thay đổi mật độ và sự phân bố dân cư. Cư dân nhập cư tập
trung tất cả ở các xã trong huyện, nhưng chủ yếu đông nhất ở những xã có nhiều trường
học, công sở, các cơ sở sản xuất, làng nghề… vì những nơi này đường giao thông thuận
lợi cho việc đi lại, buôn bán và tiện lợi cho việc sinh hoạt. Sự phân bố dân cư mang tính
chất đan xen lẫn nhau giữa dân nhập cư và dân sở tại.
Bảng 4.3: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm
Xã/phường
Tỷ lệ người nhập cư so với dân số trong xã, phường (%)
Từ tỉnh ngoài
Trong quận, huyện
Trong thành phố Hà Nội
Tổng số nhập cư trong nước
Thị trấn.Cầu Diễn Đông Ngạc Minh Khai Cổ Nhuế Phú Diễn Xuân Phương Mỹ Đình Mễ Trì Trung Văn
1,72 0,97 1,27 2,52 2,51 7,34 3,28 2,40 0,21
16,76 7,48 8,14 7,29 8,10 4,25 13,50 39,70 15,50
21,05 30,55 44,95 34,55 40,19 40,15 31,29 12,52 28,95
39,52 39,00 54,36 44,36 50,79 51,73 48,07 54,61 44,66
Nguồn: [40]
Số liệu ở bảng 4.3 cho thấy, các phường, xã của Từ Liêm có tỷ lệ người nhập cư
trong 5 năm (2004-2009) chiếm từ 39%-54,61% tổng dân số của mình. Cũng trong thời
kỳ 2004-2009, Từ Liêm là huyện đứng đầu trong 29 đơn vị cấp huyện của Hà Nội về
tổng số người nhập cư, với tổng số người nhập cư là 137.272 người (quy mô lớn gấp 3
lần thời kỳ 1994-1999), với tỷ suất di cư chung là 38,8%. So sánh với các huyện lân cận
như Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn… trong giai đoạn này sẽ thấy sự chênh
lệch lớn về tỷ suất di cư. Cụ thể là: huyện Thanh Trì có tổng số 26.341 người, chiếm
14,7%; huyện Gia Lâm là 17.196 người, chiếm 8,2%; huyện Đông Anh là 43.929 người,
chiếm 14,6%; huyện Sóc Sơn là 9.915 người, chiếm 3,9% [133, tr.80].
100
Hiện tượng di cư của các xã trong huyện Từ Liêm cũng có sự khác nhau. Những
xã có tỷ lệ đô thị hóa cao sẽ thu hút nhiều người đến, còn những xã có tỷ lệ đô thị hóa
thấp thì sẽ có tỷ suất người di cư cao. Năm 2012, các xã có số dân nhập cư lớn là Mễ Trì
(5.058 người), Mỹ Đình (3.126 người), Xuân Phương (2.336), Đông Ngạc (2.114
người). Xã có mức độ thay đổi thấp nhất là Thượng Cát với số người chuyển đến là 265
người, số người chuyển đi là 13 người [40].
Về độ tuổi nhập cư, khoảng 89% dân di cư đến Từ Liêm thuộc độ tuổi 15 - 35,
trong đó đông nhất là ở độ tuổi từ 20 - 25, chiếm 39,5% và độ tuổi 26 - 35 chiếm 35,7%,
độ tuổi từ 15 - 19 chiếm 13,8%, còn lại là trên 36 tuổi. Di dân chủ yếu là người trong độ
tuổi lao động trẻ, khỏe, rất ít người trên 50 tuổi; nam giới có xu hướng di cư nhiều hơn
so với nữ giới. Xét tương quan từng nhóm thì nữ giới chiếm ưu thế hơn ở các nhóm tuổi
trên 30; còn ở các nhóm tuổi dưới 30 thì nam giới chiếm tỷ lệ nhiều hơn [133, tr.88].
Việc gia tăng dân số cơ học đã tạo nên diện mạo đô thị rõ nét cho Từ Liêm. Từ
một huyện thuần nông, đến 2013, dân số của huyện đã tăng gần 3 lần. Nhiều xã như
Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn… đã thành lập các tổ dân phố cho
phù hợp với đặc điểm của các khu dân cư mới.
Có thể nói rằng, trong quá trình ĐTH, sự dịch chuyển dân cư của Từ Liêm diễn ra
khá phức tạp, tuy nhiên có thể phân thành 2 dòng cơ bản: (1) ịch cư địa lý từ các
huyện, tỉnh lân cận vào, bao gồm những người có ý định định cư lâu dài tại Hà Nội như
sinh viên mới ra trường, các cán bộ chuyển chỗ làm… Dân nhập cư tạm thời, theo thời
vụ: Lực lượng khá đông sinh viên đang học tập, thợ xây dựng, lao động tự do, trồng
hoa, may mặc, chế biến thực phẩm, người buôn bán trung chuyển hàng hoá từ các vùng
nông nghiệp gần kề; (2) Sự chuyển cư nội thành-ngoại thành. Rõ nét nhất là sự dịch cư
từ vùng trung tâm đến các làng xã đô thị hóa vùng ven. Đây là hệ quả tất yếu của quá
trình thực hiện chính sách giãn dân của thành phố và hạn chế xây dựng nhà cao tầng
trong nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, vùng ven đô
nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các
quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người có khả năng từ các quận trung tâm
cũng tìm đến mua đất trong các làng xã đô thị hoá để xây nhà, nhằm đáp ứng nhu cầu về
nhà ở hay xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn vào các dịp cuối tuần, các ngày tết, lễ. Do
đó, không chỉ có số người trong diện giải tỏa được bố trí nhà ở tại các khu tái định cư
101
mà còn có một số lượng lớn người dân nội thành vì nhiều lý do khác nhau đã đến Từ
Liêm định cư hoặc tạm trú dài hạn.
Những phân tích trên cho thấy rõ nét sự biến đổi về quy mô, mật độ, thành phần
dân cư của huyện Từ Liêm. Đến năm 2013, huyện Từ Liêm đã trở thành huyện có quy
mô dân số đứng đầu cả nước về số dân của một đơn vị hành chính cấp quận, huyện với
thành phần dân cư ngày càng đa dạng và liên tục biến động trong bối cảnh đô thị hóa.
Sự biến động và gia tăng dân số của huyện có sự khác nhau giữa các xã thuần nông cách
xa trung tâm huyện và nội thành Hà Nội, có tốc độ đô thị hóa chậm và nhóm các xã sát
với nội đô nơi có tốc độ đô thị hóa nhanh.
4.2. Về l o ộng, vi làm
4.2.1. Quy mô và số lư ng lao động, việc làm
Như đã trình bày, cùng với quá trình đô thị hóa là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị. Xu hướng này đã khiến cho dân số
cơ học của huyện Từ Liêm hàng năm tăng lên, chủ yếu là dân nhập cư từ các địa phương
khác chuyển đến. Họ làm việc trong các cơ quan hành chính, công ty, xí nghiệp, tham
gia hoạt động thương mại-dịch vụ, sinh viên thuê trọ, công nhân, xây dựng…
Dân số tăng nhanh đã giúp cho Từ Liêm bổ sung được một nguồn lao động dồi dào
tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, các công ty xí nghiệp, các hoạt động thương mại -
dịch vụ… và nguồn lao động đó tăng lên theo từng năm. Năm 2001, Từ Liêm có
111.583 người trong độ tuổi lao động, đến năm 2006 tăng lên 140.594 người [174,
tr.40]. Năm 2013, lực lượng lao động ở Từ Liêm chiếm 52,4%, trong đó số người từ 15
tuổi trở lên chiếm 46,74%, số người chưa có việc làm chiếm tỷ lệ khoảng 5,35% lao
động trong độ tuổi. Tốc độ gia tăng lực lượng lao động của huyện từ năm 2000 đến năm
2010 là 2,8%/năm, một tỷ lệ cao so với tốc độ tăng dân số [133, tr.58]. Trong khi đó, lực
lượng lao động ở huyện huyện Thanh Trì là 42,6%, trong đó độ tuổi từ 35-55 chiếm
51,2%. Nguồn lao động của Thanh Trì hàng năm tăng khoảng 5%/năm. Mặc dù lực
lượng lao động trẻ nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở huỵên đạt 50% [51].
Mặc dù số lượng lao động tăng qua các năm nhưng huyện Từ Liêm đã có nhiều
biện pháp trong công tác giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ
thất nghiệp và ổn định cuộc sống người dân. Theo bảng 4.4, số lao động được hỗ trợ
việc làm hàng năm ở huyện Từ Liêm có xu hướng tăng theo từng năm, năm 2001, số lao
động có việc làm là 3.820 người, đến năm 2013 là 8.700 người.
102
Bảng 4.4: Kết quả tạo việc làm qua các năm của huyện Từ Liêm
Nguồn: [16, 157]
Năm 2001 3.820 Năm 2003 5.865 Năm 2005 6.530 Năm 2006 6.550 Năm 2010 8.500 Năm 2013 8.700 lao động Tổng số được hỗ trợ việc làm
So với một số huyện ngoại thành thì số việc làm mới được tạo ra ở Từ Liêm là
tương đối cao, một mặt do tốc độ đô thị hóa nhanh thu hút được nhiều dự án đầu tư, mặt
khác nhiều doanh nghiệp mới được thành lập thu hút được lao động địa phương vào làm
việc. Do đó, số người có việc làm cũng tăng lên hàng năm. Từ năm 2001 đến năm 2005,
tổng số lao động được tạo việc làm của huyện đạt 26.660 người, bình quân mỗi năm tạo
việc làm mới cho 5.332 lao động [60, tr.32]. Từ năm 2006 đến năm 2010, bình quân
hàng năm giải quyết việc làm cho 7.899 lao động. Trong tổng số 254.000 người trong độ
tuổi lao động, số người có việc làm ổn định là 71,6% [60, tr. 69]. Từ năm 2011 đến năm
2013, huyện đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho 25.963 lao động, bình quân mỗi năm tạo
việc làm mới cho hơn 8.654 lao động [16, tr.45].
Cùng với quá trình phát triển của các khu đô thị mới, sự xuất hiện của các KCN
vừa và nhỏ, các dự án đầu tư xây dựng và các doanh nghiệp… đã tạo ra việc làm cho
hàng ngàn lao động. Năm 2005, tỷ lệ công nhân trong tổng số lao động của toàn huyện
là 18,5%, đến năm 2010 là 30%. Ngoài ra, hàng năm các KCN vừa và nhỏ cũng tuyển
dụng một lượng lớn lao động từ các địa phương khác. Mức thu nhập của công nhân tại
các KCN ở Từ Liêm cũng tăng từ 700 - 900.000 đồng/tháng vào năm 2007 lên 3 - 4
triệu đồng/tháng vào năm 2010 [133, tr.138]. Thu nhập từ việc làm công nhân đã trở
thành nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình lao động ở địa phương.
4.2.2. Cơ cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong các ngành nghề ở
Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 cũng chuyển dịch theo hướng lao động tăng dần
trong các ngành thương mại-dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và giảm dần tỷ trọng lao động
nông nghiệp. Đến năm 2013, tỷ trọng lao động phi nông nghiệp chiếm 90,8% [151].
- Lao động nông nghiệp
Cũng như nhiều huyện ngoại thành Hà Nội, Từ Liêm vẫn giữ truyền thống sản
xuất nông nghiệp trong nhiều năm, vẫn là nơi cung cấp một lượng rau - thực phẩm, hoa
quả lớn cho nội đô, nhưng dưới tác động của quá trình đô thị hóa, nông nghiệp của
103
huyện đứng trước những thách thức lớn. Đó là đất nông nghiệp bị giảm mạnh, tỷ trọng
số hộ gia đình bị mất đất sản xuất cũng như số lao động hoạt động trong khu vực này mất
việc tăng lên, thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2000-2011, Từ Liêm đã thu hồi 2.035,86ha đất
nông nghiệp với tổng số hộ có đất bị thu hồi là 18.685 hộ, trong đó số hộ bị thu hồi toàn
bộ diện tích đất nông nghiệp là 7.269 hộ (chiếm 38,9%); số hộ gia đình bị thu hồi một
phần diện tích là 11.416 hộ (chiếm 61,6%) [17, tr.48]. Như thế, một lực lượng lao động
lớn của huyện sẽ buộc phải chuyển đổi nghề, không còn tư liệu sản xuất. Sự biến đổi
này đã tác động trực tiếp đến thực trạng việc làm của các hộ nông dân bị mất đất. Trên
thực tế, số lao động có việc làm sau khi bị thu hồi đất còn thấp, chỉ từ 30 đến 45% trong
tổng số lao động bị thu hồi đất [174, tr.51]. Phần lớn lao động sản xuất nông nghiệp
chuyển sang hoạt động trong các ngành dịch vụ - thương mại, công nghiệp, xây dựng…
theo hướng đa ngành nghề. Theo một nghiên cứu cho thấy, tình hình chuyển đổi nghề
nghiệp đã diễn ra ở hầu hết các hộ nông dân trên địa bàn Từ Liêm (85,7%). Trong giai
đoạn 2000-2013, hầu hết các hộ gia đình ở Từ Liêm đều có lao động chuyển đổi nghề
nghiệp, ít nhất là 1 người chiếm 46,2%; hai người chiếm 24,3% và trên 3 người là 4,8%
[133, tr.130].
Tỷ trọng lao động trong sản xuất nông nghiệp những năm 2001-2006 có giảm
nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, từ 48,56% năm 2001 xuống còn 40,76% vào
năm 2006 [104], nhưng đến năm 2013 thì giảm xuống chỉ còn 9,2% [151].
Việc làm trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi giảm mạnh, từ 39% và 28,9% vào
thời điểm trước khi bị thu hồi đất xuống còn 21,5% và 7,8% vào năm 2013. Ngược lại,
việc làm thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ như kinh doanh buôn bán, cho thuê nhà trọ
tăng lên đáng kể từ 5,0% và 0,7% lên 19,3% và 17,2%. Lực lượng lao động nông nghiệp
làm các công việc trong ngành thủ công nghiệp như làm bún, thợ sản xuất cũng tăng hơn
so với trước khi bị thu hồi đất [16, tr.64].
Có một thực tế là số lao động nông nghiệp bị mất việc làm do mất đất luôn cần có
việc làm để duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Vì vậy đa số lao động bị mất việc phải
tự tìm việc làm cho mình hoặc làm kinh tế hộ gia đình. Số lao động tìm việc làm trong
các doanh nghiệp hoặc đi làm thuê bên ngoài chiếm tỷ lệ không cao. Trước tình hình
này, huyện Từ Liêm đã đầu tư mạng lưới chợ như: chợ Cầu Diễn, chợ đầu mối Minh
Khai, chợ Phú Diễn, chợ Nhổn… để thu hút số lao động mất đất vào làm việc. Huyện
104
còn khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua phát triển các ngành nghề
truyền thống, kinh tế trang trại… cho vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giúp các
hộ đầu tư mở rộng sản xuất.
- Lao động trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Ngành công nghiệp - xây dựng Từ Liêm đã phát triển mạnh từ đầu năm 2000 đến
2010. Công nghiệp của huyện đạt tốc độc tăng trưởng bình quân trong 5 năm (2005-2010)
là 18,2%, vượt 2,2% so với chỉ tiêu năm 2005. Trong những năm 2001-2006, tỷ trọng lao
động trong ngành công nghiệp - xây dựng không ngừng tăng lên, từ 20,09% năm 2001 lên
28,96% năm 2006. Hoạt động công nghiệp, TTCN và các nghề truyền thống ở Từ Liêm chủ
yếu là các hoạt động kinh tế phi kết cấu, các doanh nghiệp (cơ sở) sản xuất ngoài nhà nước;
đã tạo ra được nhiều việc làm mới cho lao động, đặc biệt là các hoạt động của các cơ sở sản
xuất ngoài nhà nước, giá trị sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm.
Các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút lao
động việc làm trong giai đoạn này. Số lao động trong các cơ sở này khá lớn và hàng năm
tạo được số chỗ làm việc mới khá cao. Ví dụ năm 2001 có 339 chỗ làm việc mới; năm
2006 là 1.646 chỗ làm việc mới. Giá trị sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm, từ
152.737 triệu đồng năm 2001 lên 732.816 triệu đồng năm 2006 [174, tr.55].
So với tổng số lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng và số chỗ làm việc
được tạo ra trong ngành này cho thấy vai trò của các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài
nhà nước trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Năm 2002, trong tổng số 2.839
chỗ làm việc mới được tạo ra trong công nghiệp - xây dựng thì có 2.053 chỗ làm việc
được tạo ra ở các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước. Năm 2006, trong tổng số 3.099 chỗ
làm việc mới được tạo ra trong ngành này thì các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước đã tạo
ra 1.646 chỗ làm việc.
Sang giai đoạn 2005-2010, số cơ sở sản xuất công nghiệp ngày càng tăng, từ
1.460 cơ sở năm 2005 lên 1.621 cơ sở năm 2010, tăng 161 cơ sở [23]. Bên cạnh đó, Từ
Liêm đã tiếp nhận triển khai 521 dự án và đã hoàn thành trên 300 dự án, trong đó có
nhiều công trình trọng điểm cấp quốc gia, thành phố như: Trung tâm Hội nghị quốc gia,
Bảo tàng Hà Nội, Công viên Hòa bình, Khu ngoại giao đoàn, Bộ Quốc phòng, các khu
đô thị mới, các dự án trọng điểm về giao thông… nên thu hút hàng ngàn lao động thuộc
các ngành cơ khí, xây dựng, may mặc, in…
105
Hoạt động sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước ở Từ Liêm nếu chia theo thành
phần kinh tế thì lao động tập trung chủ yếu là kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp. Hình
thức hoạt động chủ yếu là theo hộ gia đình với phần lớn lao động là người thân, họ
hàng. Do đó nó phát triển khá tự do, có khả năng thu hút nhiều lao động, giải quyết việc
làm tại chỗ của địa phương.
Bảng 4.5: Cơ sở sản xuất, lao động, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước của Từ Liêm phân theo thành phần kinh tế
tập
Phân theo thành phần kinh tế Kinh tế thể
2001 1 15 6 598
2002 2 15 0 857
2003 0 0 0 0
2004 0 16 16 60
2005 2 23 7 0
2006 2 12 -11 69
tư
Kinh tế nhân
cá
Kinh tế thể
4 115 6 3744 2359 6233 9 118912
7 126 11 6849 2680 7691 1458 128088
14 322 196 13180 2486 7292 610 104309
14 168 54 12100 1884 5430 662 154072
14 141 27 12751 1289 4292 758 173594
0 148 7 11635 1335 4366 74 176604
Kinh tế hỗn hợp
16 727 318 50928
30 1311 584 73291
77 2858 854 103487
134 4206 620 218068
154 4744 538 334135
223 6320 1576 544508
Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng) Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng) Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng)
Nguồn: [102]
Bảng 4.5 cho thấy số lao động qua các năm đều tập trung chủ yếu vào thành phần
kinh tế cá thể. Kinh tế tập thể số lượng lao động ít, và thành phần kinh tế này gần như
không có vai trò tạo việc làm hàng năm. Điều này cho thấy việc chú trọng phát triển
kinh tế hộ gia đình, khuyến khích các loại hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và làm nghề truyền thống là hướng phát triển đúng đắn của huyện và đã có tác
động mạnh mẽ đến việc tạo việc làm cho lao động của huyện Từ Liêm. Ở Từ Liêm, các
hộ sản xuất công nghiệp cá thể chủ yếu tập trung tại một số xã như Mễ Trì, Trung Văn,
Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh… Do thu nhập làm nghề cao hơn thu nhập của lao động thuần
nông từ 2-5 lần nên các xã này thu hút một lượng khá lớn lao động.
- Lao động trong ngành thương mại - dịch vụ
Thương mại - dịch vụ là ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các ngành kinh
tế chủ đạo ở Từ Liêm. Do vậy trong những năm 2001-2006, giá trị sản xuất ngành dịch vụ
- thương mại cũng tăng trưởng từ 29,85% năm 2002 lên 30,28% vào năm 2006. Khi
106
nguồn lao động tăng nhanh, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, chỗ làm việc ngày
càng thiếu, thì những người có tay nghề có thể mở các loại hình dịch vụ kiếm sống; từ đó
các loại hình kinh doanh dịch vụ đã dần hình thành và phát triển.
Bảng 4.6: Tình hình lao động trong khu vực kinh doanh thương nghiệp-dịch vụ
huyện Từ Liêm
Tên xã, thị trấn
Số hộ
2003 Số lao động
Số hộ
2004 Số lao động
Số hộ
Số hộ
2005 Số lao động
2006 Số lao động
Số chỗ làm việc mới
Số chỗ làm việc mới 1240 -107 287 134 95 153 10 -32 -48 -50 -90 242 148 128 70 130 70
5172 525 359 179 271 356 88 56 95 367 517 723 372 447 125 366 326
7847 627 558 316 454 558 153 58 271 496 654 1138 650 772 218 478 446
8420 673 599 339 487 599 164 62 291 532 702 1221 697 828 234 513 479
5578 566 387 193 292 384 95 60 102 396 558 780 401 482 135 395 352
6015 610 417 208 312 414 102 65 110 427 603 841 432 520 145 426 380
9034 722 643 364 522 643 176 67 312 571 753 1310 748 887 252 550 514
614 49 44 25 35 44 12 5 21 39 51 89 51 59 18 37 35
Số chỗ làm việc mới 573 46 41 23 33 41 11 4 20 36 48 83 47 56 16 35 33
Số chỗ làm việc mới 1209 -139 268 120 87 185 -8 -36 -53 -58 -207 231 133 354 87 151 166
Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương
4336 510 174 145 233 252 94 71 98 350 539 596 391 218 131 327 207
6638 766 290 196 367 373 161 94 324 554 861 907 517 418 163 367 280
Nguồn: [102]
Bảng 4.6 cho thấy loại hình kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ cá thể ở Từ Liêm
có số các hộ tham gia lớn và không ngừng tăng lên: năm 2003 có 4.336 hộ, năm 2005 là
5.578 hộ, đến năm 2006 là 6.015 hộ, tăng 1,4 lần so với năm 2003. Số lao động thu hút
vào khu vực này cũng không ngừng tăng, từ 6.638 lao động năm 2003 lên 9.034 lao
động năm 2006 [174, tr.62]. Số hộ tham gia kinh doanh tập trung chủ yếu ở Thị trấn
Cầu Diễn và một số xã như Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì. Các xã này cũng
là nơi có số lượng lao động lớn và ổn định qua các năm. Ngoài ra, có một số xã do có
tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình thì số chỗ làm việc mới được tạo ra là rất lớn, chủ
yếu là sự gia tăng các hàng quán tự phát. Khu vực này cũng đóng góp đáng kể số chỗ
làm việc mới cho người lao động, đặc biệt là những lao động mất việc làm do bị mất đất.
Ở huyện Từ Liêm giai đoạn này tồn tại nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ khác
nhau, phổ biến nhất là dịch vụ nhà hàng, nhà trọ, dịch vụ bán hàng tạp hóa, sản phẩm
tiêu dùng hàng ngày, lương thực thực phẩm… Đây là loại công việc đơn giản, không
đòi hỏi tay nghề, do vậy đã góp phần giải quyết việc làm cho một số lao động thất 107
nghiệp, thiếu tay nghề, chuyên môn. Một số loại dịch vụ mới xuất hiện như dịch vụ y
tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ văn hóa thể dục thể thao, thẩm mỹ, tư vấn nhà đất, giặt
là… cũng có một vai trò nhất định để giải quyết việc làm. Tuy nhiên, chủ sở hữu
những cơ sở dịch vụ loại này không chỉ người dân trong huyện mà còn có cả người
ngoài đến thuê địa điểm hoạt động. Bên cạnh, để hỗ trợ cho ngành dịch vụ thương mại
phát triển, huyện Từ Liêm đã có nhiều chính sách ưu tiên về vốn và cấp giấy phép cho
nhiều hộ gia đình phát triển dịch vụ và nhiều loại hình kinh doanh, quy hoạch các chợ
để tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động làm ăn sinh sống.
4.2.3. Đào tạo, hỗ tr nguồn lao động
Quá trình đô thị hóa ở Từ Liêm còn góp phần nâng cao chất lượng lao động. Từ
Liêm cũng là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực không chỉ cung cấp cho địa
phương mà còn cho các huyện lân cận. Trước năm 2000, việc đào tạo nghề cho lao
động vẫn chưa được chú trọng nhiều, số lượng cơ sở đào tạo nghề còn ít. Năm 1997,
toàn bộ cơ sở vật chất đào tạo nghề của huyện trước đó bao gồm hệ thống trường sở,
đội ngũ cán bộ đã được chuyển giao cho quận Cầu Giấy. Lúc này, Từ Liêm chỉ còn
một trường bổ túc văn hóa vừa học vừa làm tại xã Xuân Phương với 4 phòng học cấp bốn, với diện tích 3.000m2; ngoài ra một số trung tâm dạy nghề mới bắt đầu hình thành
song chưa ổn định về địa điểm, về hệ thống ngành nghề và nội dung đào tạo [79,
tr.53]. Tuy nhiên, sau năm 2000, đặc biệt là giai đoạn 2005-2010, các cơ sở dạy nghề
của huyện đã có chiều hướng phát triển trở lại nhằm đáp ứng nhu cầu học nghề ngày
càng tăng. Đến năm 2010, huyện đã có 10 cơ sở đào tạo nghề, với nhiều ngành nghề
được đào tạo như: cơ sở đào tạo nghề điện, điện tử, tin học (7 cơ sở), ngành cơ khí (3
cơ sở); ngành lái xe, sửa chữa ô tô, xe máy (3 cơ sở), ngành kế toán, thư ký văn phòng
(2 cơ sở), ngành nấu ăn, phục vụ khách sạn (2 cơ sở), ngành cắt may, thiết kế thời
trang (1 cơ sở) [174, tr.27]… Sự phân bổ số lượng các cơ sở dạy nghề như vậy cho
thấy nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động phát triển theo hướng phục vụ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế; ngành nghề đào tạo lao động ở Từ Liêm được điều chỉnh theo hướng
tăng tỷ trọng các ngành công nghệ cao như tin học, điện tử, điện lạnh; giảm các ngành
khác như thiết kế thời trang.
Bên cạnh đó, quá trình ĐTH nhanh, trên một góc độ nào đó đã tạo ra sức ép đối
với địa phương trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là bộ
phận lao động trẻ. Vấn đề đặt ra cho Từ Liêm là phải tạo ra việc làm cho số lao động
108
nông nghiệp bị mất đất do ĐTH. Do đó, huyện đã có nhiều giải pháp như: Dự án cho
vay vốn tự tạo việc làm theo chủ trương của Chính phủ, Chương trình vay vốn từ Quỹ
quốc gia hỗ trợ việc làm gắn với Chương trình, và nhất là đào tạo nghề.
Từ Liêm đã triển khai Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn
huyện Từ Liêm giai đoạn 2011-2020”, trong đó có vấn đề thực hiện chính sách hỗ trợ
cho đối tượng thuộc diện ưu tiên trên địa bàn khi tham gia học nghề ngắn hạn với 8
nhóm nghề; Kinh phí hỗ trợ 350.000đồng/tháng cho lao động học nghề và
200.000đồng/tháng cho cán bộ thực hiện giải quyết việc làm từ nguồn ngân sách địa
phương. Trên cơ sở đó, đến năm 2013, Từ Liêm đã mở được 53 lớp đào tạo trình độ sơ
cấp nghề 3 tháng. Tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo đạt 70%. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo trên địa bàn huyện đạt 56%. Trong 3 năm (2011-2013), số lao động được đào
tạo nghề của huyện là 521.108 người [16, tr.36].
Mặc dù công tác đào tạo nghề của Từ Liêm đã có nhiều bước tiến bộ song vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại. Đó là: nội dung các chương trình đào tạo nghề, việc gắn kết giữa nội
dung đào tạo và yêu cầu thực tế, vấn đề tìm đầu ra cho người đã qua đào tạo; thiếu sự hợp
tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng, hiệu quả trong việc đào tạo đội ngũ lao
động kỹ thuật cao… Những hạn chế này đã mang lại hệ quả là lao động cần việc làm nhưng
khó xin việc vì thiếu tay nghề chuyên môn. Doanh nghiệp cần lao động nhưng không tuyển
dụng được vì lao động thiếu năng lực thực hành. Người học chủ yếu chỉ được học trên lý
thuyết mà ít được tiếp xúc thực tiễn sản xuất và không có sự kèm cặp và truyền đạt kinh
nghiệm của đội ngũ thợ lành nghề bậc cao. Do đó, có đến 32% số lao động trong các doanh
nghiệp ở Từ Liêm không được sử dụng đúng chuyên ngành đào tạo.
Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo lao động chuyển đổi nghề nghiệp, Từ Liêm
cũng rất chú trọng đến đối tượng người nghèo ở địa phương, thông qua giải pháp
hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, coi đây là biện
pháp cơ bản để giảm nghèo bền vững. Trong giai đoạn 2005-2010, huyện đã tổ chức
trên 100 lớp tập huấn kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm và hướng dẫn cách làm ăn cho
gần hàng nghìn lượt hộ nghèo, với tổng kinh phí hàng trăm triệu đồng. Ngoài các hộ
nghèo, các hộ cận nghèo, hộ di dời giải toả gặp khó khăn cũng được huyện chủ
trương cho vay vốn từ nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội để giải
quyết việc làm, phòng chống tái nghèo, chuyển đổi nghề nghiệp. Huyện đã bố trí, sắp
109
xếp cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp 100% được chuyển đổi nghề nghiệp, ổn
định cuộc sống, hướng dẫn phương cách sản xuất để thoát nghèo.
Trước tình hình số người thất nghiệp do bị mất đất gia tăng (chỉ riêng Mễ Trì có
khoảng 5.000 lao động và Mỹ Đình khoảng 3.000 lao động), Từ Liêm đã tích cực tìm
nhiều biện pháp nhằm giải quyết việc làm cho các hộ gia đình bị thu hồi đất. Huyện đã
tạo điều kiện hỗ trợ cho, số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất chuyển sang các ngành
nghề phi nông nghiệp thông qua các chương trình, dự án cho vay vốn tự tạo việc làm
theo chủ trương của Chính phủ. Cụ thể là: + Đến hết năm 2004, số doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất - kinh doanh đóng trên địa bàn là gần 27.000 đơn vị với số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp này là 63.256 người. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, Từ Liêm quy định: cứ 1.000 m2 sẽ tuyển 5 lao động của huyện vào
làm việc. Tuy nhiên, việc triển khai trong thực tế còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện
tốt. + Thực hiện Chương trình vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm gắn với
Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi, trong các năm 2010-2013
huyện đã duyệt cho vay 246 dự án, với 6.597 hộ được vay, với tổng số tiền là 23.124
triệu đồng, giải quyết việc làm cho 9.686 lao động. Các Hội, đoàn thể đã tạo việc làm
cho 2.000 lao động bằng các hoạt động hỗ trợ học nghề, cho vay vốn phát triển sản
xuất không lấy lãi, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi…
4.3. Giáo dục - y tế
4.3.1. iáo dục
Giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ chiến lược nhằm nâng cao nguồn nhân lực cả về
số lượng và chất lượng, phục vụ cho quá trình phát triển của địa phương. Từ năm 1996
đến năm 2013, hệ thống giáo dục của huyện Từ Liêm không ngừng tăng nhanh cả về số
lượng và chất lượng, về cơ sở vật chất, học sinh và thầy cô giáo.
Về cơ sở vật chất: Từ Liêm đã thực hiện đề án xây dựng cơ sở vật chất trường học
với sự đóng góp của nhân dân, đầu tư ngân sách của nhà nước và ngân sách của xã.
Trường mầm non, trường PTCS, PTTH đều được chú ý xây dựng và phát triển, đáp ứng
nhu cầu đến trường của trẻ em. Số trường mẫu giáo tăng từ 16 trường năm 1996 lên 30
trường năm 2005 và 57 trường năm 2013. Số trường tiểu học từ 17 trường năm 1996 lên
53 trường năm 2013; Số trường THCS từ 16 trường năm 1996 lên 27 trường năm 2013;
Số lượng trường THPT từ 4 trường năm 2005 lên 5 trường năm 2010 [104].
110
Từ năm 1996 đến năm 2000, huyện đã xây thêm 228 phòng học kiên cố. Đến
năm 2009, 100% phòng học đã được kiên cố hóa, với 1.108 phòng học, tăng 160
phòng so với năm 2005; không còn phòng học cấp 4 ở khối phổ thông và mầm non.
Một số trường học được trang bị dụng cụ cho phòng thí nghiệm, nhiều trường có
phòng máy vi tính, máy chiếu, thư viện được nâng cấp phục vụ cho công tác giảng dạy
và học tập [6, tr.438-439]. Đến 2013, huyện đã đầu tư cho giáo dục công lập trên 300
tỷ đồng và đã có 32 trường học ở cả ba cấp THCS, Tiểu học và Mầm non đạt chuẩn
quốc gia, tăng 24 trường so với năm 2005 (trong đó, trường THCS Trung Văn - trường
đầu tiên của Thành phố đạt chuẩn mức độ II).
Về chất lượng giáo dục - đào tạo: Huyện rất quan tâm đến vấn đề không ngừng
nâng cao chất lượng dạy và học. Huyện đã tiến hành nhiều hình thức bồi dư ng cho cán
bộ giáo viên về tư tưởng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cho nên đội ngũ giáo viên có
phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức phấn đấu, tỷ lệ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
đạt chuẩn và trên chuẩn là 100%.
Số lượng học sinh và giáo viên của các khối học không ngừng tăng qua các năm.
Giáo viên mẫu giáo năm 2005 là 189 người lên 511 người năm 2010; học sinh mẫu giáo
tăng từ 4.956 em năm 2005 lên 11.540 em năm 2010. Số lượng học sinh tiểu học và
PTCS từ 23.997 em năm 2005 lên 26.649 em năm 2010; Giáo viên tiểu học và trung học
cơ sở từ 1.194 người năm 2005 lên 1.425 người năm 2010 [133]; Giáo viên cấp PTTH
từ 205 người năm 2005 tăng lên 334 người năm 2010. Học sinh PTTH từ 4.266 em năm
2005 lên 7.201 em năm 2010 [23].
Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên ở cả ba bậc học phổ thông. Tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp các cấp tăng theo từng năm: tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học từ
95,3% năm 1994 tăng lên 99,2% năm 2005 và 100% năm 2010; Tỷ lệ tốt nghiệp trung
học cơ sở từ 95,6% năm 1995 tăng lên 99,9% năm 2010; Số học sinh thi đỗ hết cấp phổ
thông trung học từ 95% năm 1993 lên 99% năm 1995 và 98% năm 2010; 100% học sinh
trung học cơ sở được hướng nghiệp và dạy nghề, số tốt nghiệp vào trung học phổ thông
và bổ túc trung học phổ thông đạt 100%; học sinh khá giỏi các cấp học đạt bình quân
71,3%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 97%; Tỷ lệ trẻ được huy động vào
mẫu giáo đạt 83%, 100% trẻ trong độ tuổi được vào lớp 1, đặc biệt huy động được 86%
trẻ em khuyết tật ra học các lớp hòa nhập cộng đồng [6, tr.439].
111
Bảng 4.7: Tình hình giáo dục ở các bậc học của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013
Năm
1996
2000
2005
2010
2013
Bậc mầm non Trường Giáo viên Học sinh
15 115 2.962
29 238 4.678
30 418 8.668
49 774 14.671
57 1.290 21.820
Bậc tiểu học
Trường Giáo viên Học sinh
17 551 17.018
20 602 15.412
22 691 15.116
25 966 23.984
53 1.255 32.191
Trung học cơ sở
Trường Giáo viên Học sinh
16 584 13.182
16 602 12.147
18 846 13.413
21 910 13.393
27 1.075 15.176
Nguồn: [133, tr. 111]
Ngoài việc tập trung xây dựng cơ sở vật chất cho trường học, quỹ khuyến học, hội
khuyến học của các xã cũng được người dân chú trọng xây dựng; Hội khuyến học của
các xã hoạt động rất tích cực và có hiệu quả, hàng năm trao thưởng cho học sinh giỏi các
cấp và học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng với tổng số tiền từ 15 đến 20
triệu đồng.
Trình độ dân trí của người dân Từ Liêm cũng được nâng lên, tính năng động, sáng
tạo của người lao động được khơi dậy. Khi cuộc sống đã khá giả, thì việc học hành của
con cái trở thành mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ; họ sẵn sàng cho con tiếp
tục học lên trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học chứ không dừng vào lúc học
hết tiểu học, hay trung học cơ sở như trước đó.
Đến năm 2013 trong toàn huyện đã hoàn thành phổ cập chương trình tiểu học và
trung học cơ sở, các cấp học được củng cố phát triển toàn diện, số học sinh trong độ tuổi
đến trường đạt 99%. Cán bộ, giáo viên đã có nhiều cố gắng thực hiện chương trình cải
cách giáo dục, đội ngũ giáo viên dần dần được chuẩn hoá, chất lượng giáo dục được
nâng lên, số học sinh đạt loại giỏi các cấp hàng năm đều tăng.
Tuy đã có những thay đổi tích cực trong công tác giáo dục - đào tạo, song vấn đề
giáo dục của Từ Liêm vẫn đang chịu sức ép quá tải ở các khu đô thị và những xã đô thị
hóa nhanh. Nhiều trường công lập cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu đến
trường của trẻ vì số lượng quá đông. Thậm chí có một số trường ở khu vực sát nội
thành, số lượng học sinh một lớp lên tới 55-60 học sinh nên không đảm bảo được chất
lượng dạy học. Ngược lại, những trường dân lập tư thục trên địa bàn tuy cơ sở tốt nhưng
112
chỉ đáp ứng được cho một bộ phận gia đình có thu nhập cao mà chưa đáp ứng được mặt
bằng chung của xã hội.
Trong dạy học cũng còn nhiều bất cập. Nhiều trường còn thiên về thành tích nên
chất lượng dạy học chưa đúng thực chất. Nội dung đào tạo thì quá tải so với học sinh.
Ngay cả bậc tiểu học, học sinh còn quá nhỏ để có thể dung nạp được nội dung giáo trình
mà trường đang dạy.
4.3.2. Y tế
Năm 2004, huyện Từ Liêm có 12/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế thì đến
năm 2010, đã có 16/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình và trẻ em thường xuyên được đẩy mạnh đã làm hạn chế tỷ suất sinh
và sinh con thứ ba. Trong giai đoạn này, tỷ suất sinh của huyện giảm còn 1,34%; tỷ lệ
sinh con thứ 3 giảm hàng năm, 5% (2006) xuống còn 4,8% (2007), 4,7% (2008), 4,5%
(2009) và 4,4% (2010) [6, tr.443].
Hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân phát triển ngày càng
mạnh và đa dạng hóa. Từ Liêm đã thực hiện tốt chương trình y tế, đảm bảo tốt công tác
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân nhất là công tác vệ sinh phòng dịch và vệ sinh
an toàn thực phẩm. Ở lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, Từ Liêm đã được công nhận
đạt chuẩn quốc gia ở cả 16 xã, thị trấn; huyện đã đầu tư khoảng 60 tỷ đồng để nâng cấp
các trạm y tế, bổ sung thay mới trang thiết bị khám chữa bệnh nhằm đáp ứng nhu cầu
khám bệnh của người dân ngày một tăng, nhất là ở những xã có số dân tăng cơ học lớn.
Hơn nữa, huyện còn chú trọng đến vấn đề xã hội hóa hoạt động y tế nhằm đáp ứng
cho công tác bảo vệ sức khỏe toàn dân. Nhiều cơ sở y tế tư nhân đăng ký hoạt động.
Đến cuối năm 2010, huyện có 371 cơ sở hành nghề y dược tư nhân [6, tr. 444].
Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Đến
năm 2010, huyện đã có 190 cán bộ y, bác sĩ. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 76 y tế
thôn; 250 cán bộ y tế hành nghề y tế tư nhân, góp phần cùng cơ sở y tế nhà nước chăm
sóc sức khỏe nhân dân [6, tr.441].
Công tác y tế dự phòng được huyện rất coi trọng. Chính quyền địa phương, Phòng
Y tế, Trung tâm Y tế, các phòng khám đa khoa huyện phối hợp hoạt động có hiệu quả,
tích cực hướng dẫn công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; phối hợp chặt
chẽ với Chi cục thú y huyện kiểm định, giám định vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo
113
không có các vụ ngộ độc lớn xảy ra trên địa bàn huyện; kịp thời phát hiện, ngăn chặn
các dịch bệnh lây lan nguy hiểm như tiêu chảy, sốt xuất huyết, dịch cúm gia cầm…
Các chương trình y tế quốc gia được triển khai đồng bộ có hiệu quả tại cộng đồng,
100% trẻ em được tiêm chủng đủ 7 loại vắc xin theo chương trình tiêm chủng mở rộng.
Chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em được nâng cao. Tính
riêng năm 2009 đã có 29.500 lượt người đếm khám tại tuyến y tế cơ sở, tăng 8.500 lượt
so với năm 2005 [6, tr. 442].
Chương trình y tế học đường được triển khai tốt, chăm sóc sức khỏe cho 99% học
sinh các khối trung học cơ sở, mầm non. Từ năm học 2009-2010, hệ thống giáo dục thực
hiện thống nhất chế độ bảo hiểm y tế đối với 100% học sinh các cấp học. Phòng chống
suy dinh dư ng có hiệu quả, sức khỏe và thể lực của trẻ em phát triển; tỷ lệ tăng cân đạt
98,52% ở độ tuổi mẫu giáo; 98,08% số trẻ trong độ tuổi nhà trẻ; Tỷ lê trẻ em suy dinh
dư ng giảm dần theo từng năm, từ 34,2% năm 1994 xuống 26,5% năm 1995, 14,3%
năm 2005 và 10,1% năm 2010 [6, tr. 443].
Công tác y tế vệ sinh môi trường cũng thường xuyên được củng cố, hoạt động
khám, chữa và phòng chống dịch bệnh cho nhân dân được tổ chức thường xuyên như
hoạt động “nâng cao chất lư ng vệ sinh gia đình, phòng chống dịch chủ động”. Từng
thôn đã tăng cường duy trì tổ thu gom rác, vệ sinh thôn xóm, quy hoạch nơi đổ rác thải
và từng bước khắc phục và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, gây mất vệ sinh an
toàn thực phẩm.
4.4. M i t ờng
Đô thị hóa làm biến đổi môi trường cảnh quan của Từ Liêm. Nếu như trước đây,
cảnh quan môi trường của huyện chủ yếu là một bức tranh làng quê điển hình thì từ
những năm 2000 đã nhanh chóng nhường chỗ cho diện mạo đô thị với những khu chung
cư cao tầng, khu vui chơi, giải trí, khu biệt thự sang trọng… Hệ thống đường giao thông
phát triển nhanh, đường nhựa, đường bê tông đã được xây dựng đến tận các xã, xóm
làng, ngõ ngách. Trong 10 năm (2000-2010), huyện đã chỉ đạo phát quang 6.447m
đường làng, nạo vét 27.890m kênh, rãnh thoát nước thải với với 20.000 ngày công khơi
thông cống rãnh; vận động quyên góp nâng cấp 37 đoạn đường dài 15.260m tại các xã
Phú Diễn, Đông Ngạc, Liên Mạc, Cổ Nhuế; ao hồ công cộng thường xuyên được quan
tâm cải tạo, vớt rác, trồng sen, nuôi cá… 100% rác thải sinh hoạt được thu gom, vận
114
chuyển đến nơi tập kết của thành phố với tổng khối lượng thu gom, vận chuyển từ năm
2008 đến 2013 là 597.615 tấn; chất thải rắn cũng được xử lý đúng quy trình.
Cảnh quan ở những địa bàn xây dựng các khu đô thị mới, các khu chung cư… với
quy mô lớn như khu Liên hợp thể thao Quốc gia, KĐT Mỹ Đình hay những khu tái định
cư nhỏ hơn cũng đều có thay đổi nhanh chóng. Hình ảnh thôn quê hoàn toàn được thay
thế bằng cảnh quan đô thị hiện đại với hệ thống phố xá, cao ốc chung cư, những khu biệt
thự, hay công viên giải trí...
Công tác đầu tư cho bảo vệ môi trường cũng được chú trọng. Nếu năm 2000, kinh
phí cho sự nghiệp bảo vệ môi trường của huyện chỉ khoảng 2 tỷ đồng thì vào năm 2009,
kinh phí cho công tác này đã gần 6.8 tỷ đồng [6, tr. 450], và đến cuối năm 2013 tăng lên
hơn 29,5 tỷ đồng [166]. Nguồn nước phục vụ sinh hoạt của cư dân địa phương đã được
xây dựng. Nước sạch là một trong những chỉ báo của đô thị hóa.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, sự phát triển của các làng nghề còn thiếu biện pháp
xử lý chất thải, nước thải cộng với hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu của các doanh
nghiệp chưa được thay mới đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tại một số khu vực
nông thôn ngoại thành, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông. Tại một số khu,
cụm công nghiệp, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp chưa được xây dựng đồng thời
cùng với sự phát triển của các dự án đầu tư và thiếu các nhà máy xử lý rác thải công
nghiệp hiện đại cũng là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều đó
đã trực tiếp ảnh hưởng có hại đến đời sống sức khỏe của người lao động và nhân dân. Hơn
nữa, để đạt được mục tiêu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi người dân phải áp dụng các
biện pháp kỹ thuật tiên tiến, thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu giống, sử dụng hóa chất,
sử dụng phân bón hóa học. Các loại hóa chất này đã và đang là nguyên nhân làm giảm số
lượng của nhiều loại sinh vật có ích, làm giảm đa dạng sinh học, làm xuất hiện các loài
sâu hại kháng thuốc,... đã tác động rất lớn đến môi trường sinh thái.
Vấn đề ô nhiễm môi trường của Từ Liêm đang ngày càng trở thành một vấn đề
nóng. Vì vậy, các cấp quản lý ở địa phương cần đưa ra những qui định cho hành vi bảo
vệ môi trường một cách hệ thống, cần chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho công
tác vệ sinh công cộng, xử lý vấn đề rác thải đô thị, khắc phục ô nhiễm nguồn nước,
không khí của các khu công nghiệp, các làng nghề... Ngoài ra, cũng cần khuyến khích
cư dân có ý thức giữ vệ sinh môi trường, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường thì mới
mang lại kết quả tích cực.
115
4.5. Đời s ng ân
4.5.1. Đời sống vật chất
Trong giai đoạn nghiên cứu, điều kiện nhà ở của người dân Từ Liêm đã được cải
thiện rất nhiều. Cùng với hệ thống điện, đường giao thông, thông tin liên lạc…, nhà ở đã
góp phần tạo nên bộ mặt kiến trúc và cảnh quan của một đô thị. Phần lớn nhà ở của
người dân đã được xây dựng kiên cố, đảm bảo quy hoạch chung, không gian các công
trình, có đủ các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ sinh hoạt như điện, nước sạch, vệ
sinh môi trường, đủ diện tích sử dụng. Mỗi năm ở Từ Liêm có hàng nghìn ngôi nhà
được cải tạo hoặc xây mới, đặc biệt là ở những xã có nhiều hộ dân được đền bù diện tích
đất bị thu hồi. Với số tiền nhận được từ bồi thường, hỗ trợ do bị mất đất, các hộ dân ở
huyện Từ Liêm đã sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, trong đó họ ưu tiên cho việc
xây dựng nhà cửa khang trang hơn và xây nhà trọ cho thuê. Từ năm 2005 đến năm 2010,
số hộ gia đình đã sử dụng gần 70% số tiền bồi thường vào việc xây dựng nhà cửa. Do
đó, chất lượng nhà ở của người dân trong huyện đã có nhiều biến đổi. Nếu như trước
năm 2000, nhà cửa trên địa bàn huyện chủ yếu là loại nhà cấp 4 hoặc nhà 1 tầng thì đến
năm 2013 có rất nhiều nhà kiên cố, đẹp đẽ và khang trang hơn. Phần lớn nhà ở của
người dân được xây dựng kiên cố, trung bình từ 3 đến 4 tầng đảm bảo quy hoạch chung,
đủ diện tích sử dụng. Những năm 2006-2010, huyện Từ Liêm đã cấp 3.613 giấy phép
xây dựng mới chưa kể cải tạo, sửa chữa [6]. Trung bình mỗi năm ở Từ Liêm có từ 900-
1.000 ngôi nhà được cải tạo hoặc xây mới [133, tr.178]. Bên cạnh đó, theo Quy hoạch
phát triển kinh tế-xã hội của thành phố và huyện Từ Liêm trong những năm qua, rất
nhiều khu đô thị được xây dựng theo quy hoạch hiện đại, liên kết nâng cấp cơ sở hạ tầng
các làng xã, bước đầu tạo thành vùng đô thị mới phía Tây Hà Nội [6, tr.428-429].
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội không những đã làm thay đổi bộ mặt đô thị mà
còn giúp cho thu nhập và mức sống của người dân không ngừng tăng lên. Thu nhập bình
quân đầu người trên địa bàn huyện tăng lên hàng năm, từ 3 triệu đồng năm năm 1996
tăng lên 6,275 triệu đồng năm 2006 [6, tr.314] và hơn 52 triệu đồng/người/năm năm
2013 [151]. Năm 2010 mức thu nhập trung bình toàn huyện là 25 triệu đồng/người/năm
(trong đó khu vực nông thôn là 23 triệu đồng/người/năm). Cơ cấu nguồn thu nhập cũng
thay đổi theo hướng tích cực. Năm 2000, thu nhập chủ yếu của người dân từ nông
nghiệp chiếm 60,5%, đến năm 2013 chỉ còn 19,3%; thu nhập từ các ngành nghề thuộc
sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao 67,2% [151].
116
So sánh với một số huyện lân cận như Thanh Trì, thì mức thu nhập bình quân của
người dân của huyện Từ Liêm cao hơn. Cụ thể, thu nhập bình quân/người của huyện
Thanh Trì từ 8,2 triệu đồng năm 2007 tăng lên 19 triệu đồng năm 2012 [51]. Ở huyện
Gia Lâm, năm 2000 là 8 triệu đồng/người/năm tăng lên 9,9 triệu năm 2005 [8, tr.304].
Trong lĩnh vực nông nghiệp, thu nhập của người nông dân cũng được cải thiện
đáng kể. Bình quân một ha canh tác đạt 30,8 triệu đồng năm 1990 [6, tr.313] tăng lên
120 triệu đồng năm 2010; thu nhập một lao động nông nghiệp tăng từ 1,5 triệu đồng vào
năm 1995 tăng lên 2,5 triệu đồng năm 2006 và 2,78 triệu đồng năm 2010 [6, tr.423].
Ngành công nghiệp, TTCN đã thu hút được số đông lao động tham gia sản xuất
trong các làng có nghề. Nhiều làng nghề có thu nhập bình quân đạt khoảng 1.092.000
đồng/người/tháng (khoảng 13 triệu đồng/năm), cá biệt có làng nghề có thu nhập bình
quân cao nhất từ 21-31 triệu đồng/năm [178, tr.97] như Cổ Nhuế (may mặc), Mễ Trì
(cốm, bún), Xuân Đỉnh (bánh kẹo, mứt hoa quả)… Thu nhập bình quân của người dân
xã Cổ Nhuế từ 150.000đ năm 1996 tăng lên 830.000đ năm 2005 và 2.100.000đ năm
2012 [45, tr. 26]. Thu nhập bình quân của lao động sản xuất bún ở Mễ Trì là
2.500.000đ/tháng so với thu nhập khác là 1.500.000đ/tháng [133, tr.51].
Cơ cấu nguồn thu nhập của người dân huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013
cũng thay đổi. Nếu như trước năm 2000 thu nhập chủ yếu của người dân là từ nông
nghiệp, chiếm 60,5% thì đến năm 2013 nông nghiệp chỉ còn 19,3%; các ngành nghề sản
xuất kinh doanh, phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ 67,2%, trong đó buôn bán, dịch vụ chiếm
34,3%, cho thuê nhà trọ chiếm 10,2% [133, tr.146].
Trong bối cảnh ĐTH nhanh như ở Từ Liêm, các xã trong huyện cũng có nguồn thu
khác nhau. Các xã như Mễ Trì, Mỹ Đình, Xuân Đỉnh, Trung Văn, nguồn thu chính của
các hộ gia đình chủ yếu là từ những việc làm phi nông nghiệp như buôn bán, dịch vụ
nhỏ (49,78%); làm thuê, lao động giản đơn (18,65%). Thị trấn Cầu Diễn, Cổ Nhuế
nguồn thu chủ yếu từ buôn bán, dịch vụ hay các hộ kinh doanh cá thể. Các xã Thượng
Cát, Xuân Phương, Liên Mạc tuy là khu vực thuần nông với 32,4% hộ làm nông nghiệp,
nhưng nguồn thu từ trồng trọt và chăn nuôi chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu nguồn
thu của hộ, chỉ đạt 6% [133, tr. 146].
Bên cạnh, chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm đã đem lại hiệu quả
thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện cũng giảm theo từng năm, từ 3,5% năm 1993
xuống 2,3% năm 1996, 1% năm 2001 và 0,48% năm 2005. Năm 2005, toàn huyện chỉ
117
còn 348 hộ nghèo với 1.342 nhân khẩu, bình quân mỗi năm giảm 277 hộ, vượt 40% kế
hoạch [16, tr.39]. Trong khi đó, số hộ nghèo ở huyện lân cận như Thanh Trì còn khoảng
2,8% năm 2010 [51].
Thu nhập tăng, người dân huyện Từ Liêm có điều kiện để chi tiêu các khoản để
phục vụ cho cuộc sống của mình như ăn uống, may mặc, mua sắm các trang thiết bị sinh
hoạt hiện đại, khám chữa bệnh, sửa chữa và xây nhà mới, giải trí, du lịch... Nếu như
trước năm 2000, các hộ gia đình ở huyện Từ Liêm chủ yếu chi tiêu vào ăn uống, may
mặc, thì đến năm 2013, các khoản chi tiêu dành cho xây nhà cửa, khám chữa bệnh, giải
trí, du lịch tăng nhanh. Chi ăn uống giảm từ 61,2% năm 2000 xuống còn 37,9%; chi mặc
từ 1,0% xuống 0,7%; Chi xây nhà mới từ 40,0% tăng 63,4%; giải trí, du lịch từ 0,2% lên
21,0%. Các hộ dân sau khi có tiền đền bù đất thì hầu hết đều lấy tiền đó để sửa nhà, có
nhiều hộ xây nhà mới. Kết quả khảo sát cho thấy có đến 70% số tiền bồi thường được sử
dụng vào việc xây nhà cửa [133, tr. 147]. Do vậy, từ năm 2005-2010, hàng loạt các hộ
gia đình đã xây dựng nhà mới, sửa chữa... với nhiều nhà cao tầng, đã tạo ra diện mạo
mới cho đô thị ở huyện Từ Liêm.
Các loại đồ dùng và tiện nghi sinh hoạt trong gia đình như tivi, tủ lạnh, xe máy,
điện thoại, máy tính… khá đầy đủ. Một số tiện nghị đắt tiền như điều hòa, bình nóng
lạnh, máy giặt, ô tô… cũng có nhiều gia đình đã mua sắm sử dụng. Điều này cho thấy,
hiện nay với mức sống ngày càng được nâng cao, người dân không chỉ quan tâm đến
việc ăn no, mặc đẹp mà còn quan tâm đến những nhu cầu cao cấp hơn trong cuộc sống.
4.5.2. Đời sống tinh thần
- Lối sống
Quá trình ĐTH ở Từ Liêm đã cho thấy một bức tranh về một xã hội đô thị đan xen
với một xã hội nông thôn truyền thống ở vùng ven đô. Sự đan xen này thể hiện ở nhiều
lĩnh vực như không gian sống, cơ sở hạ tầng, sinh kế và lối sống của người dân. Đó là
cách họ tiếp cận thông tin, sử dụng thời gian rỗi, cách hưởng thụ văn hóa, chuẩn mực
đạo đức, quan hệ cộng đồng, gia đình, dòng họ... Mặc dù mức độ tham dự của mỗi
nhóm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức sống, học vấn, nghề nghiệp, thói quen, nơi
cư trú…, nhưng nhìn chung cư dân Từ Liêm đã và đang hoà nhập khá nhanh vào xã hội
đô thị.
Trong một xã hội năng động, biến đổi hàng ngày với biết bao sự kiện, việc cập
nhật thông tin là hết sức cần thiết. Vì vậy, chính quyền Từ Liêm cũng rất quan tâm đến
118
lĩnh vực này, kịp thời đầu tư để đưa thông tin đến từng người dân, khu phố. Đồng thời
cư dân cũng có thể tiếp cận thông tin qua các phương tiện như báo, đài, tivi, điện thoại,
máy tính, mạng Internet… Tỉ lệ gia đình ở Từ Liêm có các phương tiện nghe nhìn tăng
lên rõ rệt. Việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của người dân trở nên đa dạng và phong phú
hơn; người dân có thể tham gia nhiều hoạt động văn hoá tinh thần với các loại hình giải
trí khác nhau.
Cơ cấu nghề nghiệp, thu nhập, mức sống không chỉ đơn giản là những thay đổi
trong đời sống của người dân về mặt vật chất mà nó tự tạo ra những biến đổi trong chiều
sâu của đời sống, tác động đến đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư. Sự thay đổi
đó diễn ra trong quan hệ xã hội, trong hệ giá trị chuẩn mực và trong sự hưởng thụ văn
hoá của người dân. Việc hưởng thụ cuộc sống một cách tích cực, lành mạnh có xu
hướng tăng so với trước. Quan hệ giao lưu của cộng đồng dân cư không còn bị bó hẹp
trong phạm vi làng xã mà đã được rộng mở hơn; dân cư có điều kiện giao lưu tiếp xúc
với nhiều tầng lớp và nhóm người trong xã hội, tham gia nhiều vào các hoạt động văn
hóa xã hội ở địa phương.
Đô thị hóa đã đem lạo diện mạo mới cho huyện Từ Liêm, người dân đang chuyển dần
từ thói quen hưởng thụ thụ động sang hướng chủ động và trực tiếp tham gia các sinh hoạt
văn hóa. Họ chủ động tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; lễ hội
truyền thống ở địa phương; chủ động trong việc hưởng thụ cuộc sống như giải trí, tiếp cận
thông tin, chăm sóc sức khỏe và kết nối chặt chẽ hơn với các mối quan hệ xã hội.
Bên cạnh việc tiếp cận thông tin, sử dụng thời gian rỗi, người dân Từ Liêm cũng
có sự thay đổi trong thói quen ăn uống và tiêu dùng. Cư dân được tiếp cận với nguồn
thực phẩm phong phú và đa dạng hơn từ các vùng miền, các trung tâm thương mại, dịch
vụ… Năm 2000 người dân chỉ mua lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng ở chợ truyền
thống địa phương là chính (chợ thôn, xã) nhưng đến năm 2013 thì số người dân đi chợ
địa phương giảm từ 95,8% xuống còn 51,2% và thay vào đó là siêu thị, trung tâm
thương mại, cửa hàng tạp hóa… [133, tr.194-195].
Bữa ăn hàng ngày cũng được người dân chú trọng và quan tâm hơn trước, từ chất
lượng, khẩu vị, xuất xứ thực phẩm, dinh dư ng đến hình thức bài trí món ăn. Ngoài
những bữa cơm với gia đình thì nhiều gia đình hiện nay đã thường xuyên ăn uống tại
nhà hàng, khách sạn… Nếp sống công nghiệp đã ít nhiều làm thay đổi vai trò, vị trí và
119
thói quen của văn hóa ẩm thực trong đời sống của cư dân; có gia đình vẫn giữ truyền
thống, có gia đình vừa tìm cách thích nghi vừa bảo tồn…
Ngoài ra, quá trình đô thị hóa còn làm thay đổi tính cố kết cộng đồng trong giao
tiếp, ứng xử. Trước hết, đó là tổ chức dòng họ đã và đang được củng cố chặt chẽ hơn, ý
thức cộng đồng dòng họ của mỗi cá nhân với tư cách là thành viên của dòng họ có xu
hướng ngày càng rõ nét hơn. Biểu hiện cụ thể ở thái độ quan tâm của thành viên đến
việc sửa chữa hoặc xây dựng nhà thờ của dòng họ; tham gia đóng góp quỹ họ; tổ chức
sinh hoạt trong dòng họ…
Hơn nữa, người dân không chỉ bó mình trong các quan hệ gia đình, họ hàng mà đã
mở rộng hơn như quan hệ láng giềng thôn xóm, quan hệ với đồng nghiệp, cộng đồng. Ý
thức về làng xóm, lối sống tình nghĩa làng quê vốn là truyền thống tốt đẹp của người
dân khi nền kinh tế phát triển, xã hội hài hòa thì sẽ có điều kiện thuận lợi để củng cố và
phát triển, nhân rộng theo hướng tích cực. Người dân Từ Liêm sẵn sàng tương trợ lẫn
nhau trong lúc khó khăn. Việc tương trợ này thể hiện ở việc đóng góp ủng hộ những
người gặp khó khăn, bệnh tật…
Như vậy, quan hệ hàng xóm láng giềng và quan hệ huyết thống trong làng xã vẫn
chiếm vị trí cao trong xã hội ở Từ Liêm trong bối cảnh đô thị hóa. Tuy nhiên, trong bối
cảnh kinh tế thị trường, con người bị chi phối nhiều vào các điều kiện kinh tế kéo theo
các quan hệ xã hội có xu hướng biến đổi cho phù hợp hơn với thực tiễn đời sống
thường nhật của các tầng lớp cư dân. Ở đâu càng đô thị hóa nhanh thì những yếu tố trì
trệ, bảo thủ và lạc hậu của văn hóa làng càng nhanh bị đào thải, và đó cũng là điều tất
yếu, mang tính quy luật trong quá trình CNH, HĐH nông thôn hiện nay.
- Văn hóa, thể dục thể thao
Trong quá trình phát triển chung, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao cũng được huyện chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất cũng như thường xuyên tăng
cường tổ chức các hoạt động thực tiễn.
Hệ thống các thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở từng bước được hoàn thiện;
công tác giữ gìn, bảo tồn phát huy các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống và các di tích
lịch sử luôn được quan tâm. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá,
nhiệm vụ Xây dựng người Hà Nội thanh lịch-văn minh được triển khai sâu rộng và được
hầu hết người dân ở địa phương hưởng ứng. Nếp sống văn minh trong việc cưới xin,
tang lễ, lễ hội được quan tâm sâu sát. Nhiều giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống trong
120
gia đình, dòng họ, làng xã được kế thừa. Theo thống kê năm 2013, hơn 64% số đám
cưới ở Từ Liêm có sự tiến bộ trong việc tổ chức; 51% số đám tang xóa bỏ được các hủ
tục lạc hậu [166]. Những hình thức cưới gọn nhẹ, tiết kiệm xuất hiện ngày càng nhiều,
được cộng đồng dân cư ủng hộ. Lễ hội tại địa phương diễn ra tương đối lành mạnh, bên
cạnh phần lễ là phần hội với các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống diễn ra sôi
động và lành mạnh.
Đời sống kinh tế ngày càng được cải thiện và nâng cao, người dân càng có điều
kiện dành nhiều sự quan tâm đến đời sống văn hóa tín ngư ng, lễ hội. Trong những
năm gần đây, các di tích lịch sử, văn hóa ở Từ Liêm đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ
theo hướng tu bổ, phục dựng và xây mới. Nếu từ năm 1990 đến năm 2000 ở Từ Liêm
mới chỉ có các lễ hội cổ truyền ở làng xã được phục hồi, đình, chùa, miếu bắt đầu được
xây dựng lại, sinh hoạt dòng họ phục hồi chủ yếu ở các vùng nông thôn thì từ năm
2001, rất nhiều nghi lễ, sinh hoạt văn hóa và tôn giáo tưởng chừng đã mai một đã hồi
sinh mạnh mẽ. Các hội làng vẫn tiếp nối quá khứ, mang đậm màu sắc truyền thống.
Nhiều tục lệ, lễ nghi cổ xưa được thực hành đúng với vị trí quan trọng của nó ở Từ
Liêm. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 81% tỷ lệ người được hỏi cho biết họ có tham
gia các lễ hội truyền thống hàng năm trên địa bàn sinh sống [133]. Việc người dân
ngày càng tích cực tham gia nhiều vào các hoạt động tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ
trẻ về các di tích, lễ hội truyền thống địa phương đã góp phần phát huy các giá trị của
các di tích lịch sử văn hóa và các lễ hội truyền thống ở Từ Liêm.
Huyện Từ Liêm tích cực phấn đấu thực hiện mục tiêu mỗi thôn có một nhà văn
hóa, mỗi xã ít nhất có 1 sân vận động thể thao. Năm 2005-2010 huyện đã đầu tư 150
tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và huy động xã hội hóa để xây dựng các công trình
văn hóa và tu bổ di tích lịch sử - văn hóa. Đến năm 2010, toàn huyện đã có 102 nhà
văn hóa thôn và tổ dân phố (đạt tỷ lệ 90%), 165 điểm vui chơi, Trung tâm văn hóa - thể thao huyện, 10 xã có sân vận động với diện tích từ 10.000m2 - 16.000 m2/sân [6,
tr.435]. Trong giai đoạn 2008-2013, huyện đã đầu tư hơn 600 tỷ đồng để xây dựng
mới 04 trung tâm văn hóa, thể dục thể thao; tu bổ 134 hạng mục di tích; xây dựng và
cải tạo 32 nhà văn hóa thôn, tổ dân phố, đưa tỷ lệ thôn có nhà văn hóa đạt 96% trong
toàn huyện, tăng 2,25% so với năm 2008 [133, tr.63]. Hệ thống thiết chế văn hóa từ
huyện đến cơ sở từng bước được hoàn thiện về quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt
động được nâng lên, đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.
121
Song song với cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá,
huyện cũng rất chú trọng đầu tư vào những hoạt động văn hoá tinh thần khác như hoạt
động của các câu lạc bộ, nhà văn hoá, thư viện, sân chơi. Huyện có 156 câu lạc bộ văn
hóa, 24 câu lạc bộ thơ. Hàng năm, huyện tổ chức nhiều hội diễn ca múa nhạc, nhiều đội
văn nghệ tích cực tham gia hội diễn cấp huyện, cấp thành phố.
Các câu lạc bộ thể dục thể thao thường xuyên duy trì hoạt động. Số người tham gia
luyện tập thể dục thể thao tăng từ 25% (2005) lên 31,5% (2010); Số gia đình tham gia
luyện tập thể thao tăng từ 18% (2005) lên 25% (2010); 100% trường phổ thông đảm bảo
giảng dạy về thể chất [6, tr.437]. Hàng năm, Trung tâm thể dục thể thao phối hợp với
Phòng Giáo dục đào tạo tổ chức Hội khỏe Phù Đổng.
Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng làng văn
hóa, tổ dân phố văn hóa, cơ quan, trường học văn hóa, gia đình văn hóa thường xuyên
duy trì có hiệu quả. Đến năm 2010, có 79/79 thôn làng được UBND huyện phê chuẩn
quy ước văn hóa. Số làng đạt danh hiệu văn hóa tăng từ 12 làng (2005) lên 40 làng
(2010), đạt 50,5% tổng số làng; 41/58 tổ dân phố văn hóa (70%); 87% gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa, tăng 5,5% so với năm 2005 [6, tr.436].
Như vậy, điều kiện kinh tế hộ gia đình hiện nay ở huyện Từ Liêm đã khá hơn
nhiều so với những năm trước. Đạt được những kết quả đó là nhờ vào chính sách phát
triển kinh tế-xã hội của Hà Nội nói chung và của huyện Từ Liêm nói riêng. Đời sống vật
chất, tinh thần của người dân được nâng lên, có nhiều thay đổi tích cực. Điều kiện và
chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện từng ngày. Đó là kết quả của việc
phát triển kinh tế đã hướng tới việc thay đổi đời sống của cộng đồng dân cư theo tác
động ngày càng tốt hơn, tăng trưởng hơn.
i t h ơng 4
Quá trình ĐTH ở Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 đã có tác động mạnh mẽ
đến mọi mặt của đời sống xã hội của địa phương. Trước hết, đó là tác động của ĐTH
đến vấn đề dân số, làm gia tăng nhanh chóng số lượng cư dân trên địa bàn do sự dịch
cư từ nông thôn cũng như các khu vực khác về Từ Liêm. Dân số gia tăng làm cho cơ
cấu cộng đồng dân cư thay đổi, mật độ dân cư đô thị trở nên đông đúc, làm đa dạng
hóa các tầng lớp cư dân.
Việc gia tăng dân số đã tác động mạnh đến vấn đề lao động - việc làm của địa
phương trên nhiều góc độ: Quy mô và số lượng lao động - việc làm tăng là nguồn bổ
122
sung số lượng lớn lao động, nhất là đội ngũ lao động trẻ, có tay nghề, chuyên môn. Cơ
cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế… cũng như việc đào tạo nguồn lao động
đáp ứng ngày càng cao cho yêu cầu phát triển của huyện. Từ thực tế đó, trong cộng
đồng dân cư trên một chừng mực nào đó và đối với từng đối tượng đã dần dần hình
thành tập quán của người lao động với môi trường đô thị cả trên khía cạnh sản xuất và
sinh hoạt.
Đặc biệt, quá trình ĐTH đã tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và văn hóa
tinh thần của cư dân trên địa bàn, trong đó yếu tố tích cực vẫn là chủ đạo. Nhờ có quá
trình này mà đời sống vật chất của cư dân không ngừng được nâng cao, đời sống văn
hóa tinh thần trở nên phong phú hơn và hướng chuyển dần sang môi trường văn hóa đô
thị. Các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, môi trường ngày càng được chăm lo chu đáo và
củng cố về mọi mặt; môi trường cảnh quan đô thị dần dần được hình thành và đã mang
lại những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình đó không ít thách thức đã và đang
được đặt ra, đòi hỏi cần được giải quyết, khắc phục kịp thời và triệt để.
123
Chương 5
MỘT SỐ NHẬN XÉT
5.1. Thành tựu
5. . . Kinh t hát t i n toàn i n v i t ộ tăng t ng o gắn v i á t nh
th h
Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Thành phố Hà Nội nói chung và huyện
Từ Liêm nói riêng, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, kinh tế huyện Từ Liêm trong giai
đoạn từ năm 1996 đến năm 2013, đã có sự chuyển biến nhanh chóng, phát triển toàn diện.
Từ một nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là nông nghiệp truyền thống, đã từng bước
chuyển sang nền kinh tế hàng hóa với đa dạng sản phẩm chất lượng cao, phát triển nhiều
vùng sản xuất hàng hóa tập trung; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và vùng
của nông thôn ven đô sang đô thị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng
hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu ngân sách của thành phố, là cơ sở tăng ngân sách cho
khu vực phòng thủ; nâng cao số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu sản phẩm hàng hóa
công nghiệp, nông sản, thực phẩm, dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng đảm bảo kinh tế
tại chỗ cho các lực lượng trong khu vực phòng thủ Thành phố.
Là huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện Từ
Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 luôn duy trì ở mức từ 16% đến 21%/năm, mức khá
cao so với các huyện ngoại thành của Hà Nội. Trong giai đoạn 1996-2000, kinh tế huyện
Từ Liêm có tốc độ tăng trưởng 11%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần,
công nghiệp và dịch vụ tăng lên; nông nghiệp từ 40,9% (1995) xuống 32,9% (2000);
công nghiệp từ 33,1% (1995) lên 42,1% (2000); còn dịch vụ có sự suy giảm chút ít, từ
26% xuống còn 25% [6, tr. 362].
Trong giai đoạn 2000-2005, nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt
17,8%, tăng 2,6 lần so với giai đoạn 1996-2000. Cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển
dịch nhanh, tỷ trọng công nghiệp từ 42,1% (năm 2000) lên 57% (năm 2005); dịch vụ từ
25% (năm 2000) lên 25,8% (năm 2005); nông nghiệp giảm từ 32,9% (năm 2000) xuống
còn 17,2% (năm 2005) [6, tr.391].
Bước sang giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng bình quân đạt
18,9% (riêng năm 2010 tăng 21,2%). Cơ cấu kinh tế của huyện từ chỗ công nghiệp-dịch
vụ-nông nghiệp đã chuyển dần sang cơ cấu kinh tế dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp.
124
Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 25,8% (năm 2005) lên 36,3% (năm 2010); công nghiệp
từ 57% (năm 2005) còn 55% (năm 2010); nông nghiệp giảm từ 17,2% (năm 2005) còn
1,8% (năm 2010). Tổng thu ngân sách giai đoạn 2006-2010 đạt 4.700 tỷ đồng, tăng bình
quân 52,5%/năm [6, tr.427]. Từ năm 2011-2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện
đạt 16,7%/năm.
Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn 2000-2013, ngành nông nghiệp có tốc độ tăng
trưởng giảm dần do diện tích đất canh tác thu hẹp nhanh chóng bởi quá trình đô thị hóa. Các
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng cao là một xu thế hợp lý.
5. .2. ơ ấ inh t h n h theo h ng ng nghi h , hi n ại h
Từ năm 1996 đến năm 2013, cơ cấu kinh tế của huyện Từ Liêm đã có bước chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế, xã hội đối với vùng ngoại thành Hà Nội, đó là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại-dịch vụ; từ nền kinh tế nông
nghiệp với 2 thành phần chính: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang
nền kinh tế nhiều thành phần; kinh tế hộ được trả lại vị trí và phát triển lên một trình độ
cao hơn về mọi phương diện so với thời kỳ trước. Trên thực tế, như đã nói ở trên, cơ cấu
kinh tế của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 từ chỗ ban đầu xác định là nông
nghiệp-công nghiệp, xây dựng-thương mại, dịch vụ phải chuyển đổi theo hướng công
nghiệp, xây dựng-dịch vụ, thương mại-nông nghiệp và cuối cùng là chuyển sang cơ cấu
theo hướng thương mại, dịch vụ - công nghiệp, xây dựng - nông nghiệp sinh thái.
Đối với nông nghiệp, trong giai đoạn 1996-2013, chuyển dịch kinh tế nông nghiệp
của huyện Từ Liêm phù hợp với xu hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngoại
thành đang trong quá trình ĐTH. Là huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh, đất dành cho
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên chủ trương của huyện là coi trọng chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giảm nhanh diện
tích trồng lúa, đưa các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị cao vào sản xuất. Chuyển dịch
kinh tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm đã góp phần hình thành các vùng sản xuất
chuyên canh tập trung theo hướng kinh tế thị trường và xuất khẩu. Trong điều kiện diện
tích đất nông nghiệp giảm mạnh, trồng rau màu và hoa là một hướng phát triển nông
nghiệp mới không chỉ xuất hiện ở Từ Liêm mà đã phát triển có quy mô, thành các vùng
chuyên canh ở nhiều làng ven đô Hà Nội. Người nông dân vẫn làm nông nghiệp, nhưng
nền nông nghiệp đang có chiều hướng chuyển dần theo hướng nông nghiệp dịch vụ,
125
nông nghiệp đô thị/sinh thái - tức nền nông nghiệp hiện đại, có ứng dụng khoa học và
công nghệ vào sản xuất trong các đô thị ở vùng ven đô.
Về công nghiệp-xây dựng, với mức tăng trung bình trong giai đoạn 2008-2013
khoảng 16%, Từ Liêm là huyện có tốc độ tăng trưởng khá cao so với các địa phương
khác trong Thành phố. Sự tăng trưởng giá trị sản xuất trên địa bàn, trong thời gian đầu
(từ năm 1996) chủ yếu phụ thuộc nhiều vào ngành công nghiệp-xây dựng. Bởi vì, trước
mốc nghiên cứu ngành công nghiệp của Từ Liêm chậm phát triển cả về quy mô cũng
như về trình độ kỹ thuật, vì gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nguồn vốn đầu tư, vật
tư sản xuất, lao động có tay nghề, đầu ra sản phẩm... Quá trình ĐTH đã mang lại những
điều kiện mới cho sự phát triển của công nghiệp-TTCN-xây dựng trên địa bàn Từ Liêm.
Chính vì thế, giá trị sản xuất của ngành công nghiệp không ngừng tăng lên và từ sau
năm 2000 ngành này luôn chiếm tỷ trọng trên 57% cơ cấu kinh tế của huyện [151].
Bên cạnh ngành công nghiệp-xây dựng, ngành thương nghiệp-dịch vụ cũng là
ngành phát triển rất nhanh chóng và đa dạng nhờ quá trình ĐTH. Từ chỗ khu vực
thương nghiệp quốc doanh là chủ đạo trước thời kỳ Đổi mới, thì từ 1996 thành phần
kinh tế quốc doanh giảm dần, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể càng
ngày càng được củng cố và mở rộng. Các thành phần kinh tế thuộc ngành thương mại-
dịch vụ được tổ chức sắp xếp lại sản xuất, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Từ Liêm phát
triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, và quan trọng nhất là trực tiếp góp phần vào
việc giải quyết nhu cầu lao động của địa phương. Tỷ trọng ngành thương mại-dịch vụ
trong tổng giá trị sản xuất của huyện tăng từ 26% năm 1995 lên 26,9% năm 2000 [6,
tr.377-378], lên 36,3% vào năm 2010 [154]. Nếu tính giá trị sản xuất của các ngành
công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ thì những ngành này đã chiếm tỷ trọng
98,2% tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Đến năm 2013, toàn huyện có khoảng 12.000 hộ
kinh doanh đang hoạt động, trong đó lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm 80%, nâng giá
trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 5.781 tỷ đồng, góp phần tích cực trong việc thu ngân sách
trên địa bàn huyện cả năm 2013 đạt 2.528,3 tỷ đồng [166].
Có thể nói, lĩnh vực thương mại - dịch vụ của huyện Từ Liêm trong giai đoạn này
phát triển mạnh dựa trên xu hướng phát triển đô thị hiện đại, có tiềm năng, có điều kiện
thực tiễn và đang hình thành một số ngành dịch vụ chất lượng cao như: văn phòng cho
thuê, trung tâm thương mại, khách sạn - nhà hàng, thể thao - giải trí, giáo dục phổ thông…
126
Hệ thống hạ tầng thương mại dịch vụ tương đối phát triển với nhiều trung tâm thương
mại, siêu thị quy mô lớn và hệ thống chợ dân sinh đáp ứng cơ bản nhu cầu của nhân dân.
Sự tăng trưởng nhanh chóng các hoạt động phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, xây dựng, buôn bán và dịch vụ... đã tạo ra một số lượng lớn việc làm
cho vùng ven đô như huyện Từ Liêm. Hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ-
thương mại không chỉ có vai trò thu hút lực lượng lao động tại chỗ và lao động nhập cư
từ các vùng nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho cư dân trong huyện, mà thông
qua sản xuất thực tế người nông dân có điều kiện để mở rộng tầm nhìn đối với các hoạt
động kinh tế thị trường, nâng cao trình độ nghề nghiệp và cả tiếp nhận lối sống đô thị -
một lối sống tương đối khác biệt so với đời sống làng xã cổ truyền ở thôn quê. Đô thị
hóa tạo cơ hội cho người dân được tiếp xúc với lối sinh hoạt hiện đại, mang đặc trưng
của đời sống đô thị, đời sống công nghiệp nên đã làm nảy sinh những nhu cầu tiêu dùng
mới trong cuộc sống, dẫn đến thúc đẩy các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
thị trường và dịch vụ phát triển. Vì vậy, nhiều cơ sở sản xuất và các dịch vụ được hình
thành để đáp ứng những nhu cầu mới đó, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của huyện
Từ Liêm nói riêng cũng như vùng ven đô Hà Nội nói chung.
5. .3. Hạ tầng ơ s hát t i n mạnh theo h ng văn minh và hi n ại
Như đã trình bày ở chương 2, mặc dù về mặt hành chính là đơn vị cấp huyện, song
Từ Liêm trong giai đoạn nghiên cứu có tốc độ ĐTH rất nhanh, phát triển theo hướng
hiện đại với sự đan xen mới - cũ, hiện đại - lạc hậu, hoàn thiện - dở dang... Sự phát triển
với tốc độ nhanh trên con đường đô thị hóa, trước hết tác động rõ nhất và mạnh nhất là
đến sự thay đổi của hạ tầng cơ sở đô thị. Nói đến hạ tầng đô thị thì không thể không kể
đến trước tiên là hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống đường ống cấp nước
sạch… Đây là những hạng mục quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình ĐTH
của mỗi địa phương.
Huyện Từ Liêm được Thành phố đánh giá là huyện đi đầu trong việc quy hoạch
xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong những năm qua, huyện chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng
nông thôn với tổng số vốn đầu tư là trên 100 tỷ đồng gồm: Giao thông nông thôn: tổng
số vốn đầu tư gần 20 tỷ đồng bằng nguồn vốn của Thành phố là 3,284 tỷ đồng, ngân
sách huyện là 11,2 tỷ đồng, vốn huy động là 5,5 tỷ đồng, kết quả nâng cấp được 85,4km
đường liên xã [47]. Trong giai đoạn 2008-2013, huyện đã bê tông hóa được 385,4km
đường trục liên xã, thôn, xóm, đạt 98%; tập trung đầu tư giao thông nội đồng tại vùng
127
hoa xã Tây Tựu là 5,3km nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng hoa của huyện,
kết hợp phát triển du lịch sinh thái của Thành phố [151].
Hệ thống giao thông vận tải giữa nội thành và ngoại thành được nâng cấp như
Quốc lộ 32, đường 23 (đường Đông Ngạc - Thụy Phương - Liên Mạc - Thượng Cát - Từ
Liêm), đường 69 (Dịch Vọng - Chèm), đường 70 (Hà Đông - Thượng Cát), đường 65
(Nhật Tân - Ngã Tư Sở)… Những tuyến đường giao thông huyết mạch như đường Phạm
Hùng - Phạm Văn Đồng – cầu Thăng Long đi sân bay Nội Bài,… Hệ thống giao thông
mới xây dựng, nâng cấp đã tạo điều kiện cho phát triển vận chuyển hàng hóa, hành
khách và giao lưu mạnh mẽ hơn giữa huyện Từ Liêm với nội thành.
Từ năm 1996 đến năm 2013, trên địa bàn huyện Từ Liêm đã xuất hiện nhiều khu
đô thị mới xuất hiện: Khu đô thị Mỹ Đình 1 và 2, Khu đô thị Bitexco, The Manor, Tòa
nhà Keangnam, Cổ Nhuế, Ciputra (Nam Thăng Long)… Nhiều trụ sở bộ, ngành Trung
ương, Trung tâm hội nghị, Trung tâm thể thao quốc gia… cũng tập trung tại đây, đưa Từ
Liêm trở thành một phần của trung tâm hành chính mới của thành phố. Điển hình như
KĐT The Manor, KĐT Mỹ Đình - Mễ Trì, KĐT Ciputra hiện là một trong những
thương hiệu khu đô thị đẳng cấp, văn minh, thu hút khá đông những người có mức sống
cao và người nước ngoài đến sinh sống. Các khu này được thiết kế, đầu tư cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị hiện đại bậc nhất trong số nhiều khu đô thị ở Thủ đô Hà Nội và cả nước,
mang đến dịch vụ đô thị đầy đủ cùng nhiều tiện ích cao cấp. Bên cạnh đó, với hàng loạt
tòa nhà hiện đại được xây dựng cũng tạo ra nguồn cung khá lớn cho hoạt động của dịch
vụ cho thuê văn phòng, lưu trú, đặc biệt là khách nước ngoài…
Đánh giá thực trạng về cơ sở hạ tầng đô thị ở huyện Từ Liêm năm 2013 so với
trước năm 2000, đa phần người dân đều hài lòng với các chỉ số đánh giá. Cụ thể: có
87,9% người dân cho rằng giao thông (đường sá) tốt hơn; 94,3% hài lòng về nhà ở;
94,8% hài lòng về điện lưới; 75,7% về trường học; 60,7% về trạm y tế xã/phường;
79,0% về hệ thống cung cấp nước sạch; 90,2% về hệ thống thu gom rác, vệ sinh [133,
tr.156]. Tỷ lệ các hộ gia đình hài lòng với cơ sở hạ tầng tại địa phương như trên đã phần
nào cho thấy các khu đô thị mới, các trung tâm thương mại, văn hóa và các khu tái định
cư đã được chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cũng như sự quan
tâm của chính quyền cơ sở nhằm tạo điều kiện tốt cho cộng đồng dân cư huyện Từ Liêm
trong quá trình ĐTH.
128
Không thể phủ nhận rằng, tính chất đô thị của huyện Từ Liêm trong tương lai rất
đa dạng, là trung tâm chính trị, hành chính, văn hóa, ngoại giao, thương mại, tài chính, y
tế, đào tạo, giải trí chất lượng cao của cả nước và khu vực; là không gian hội tụ các công
trình biểu tượng của Thủ đô; là vùng cây xanh cảnh quan đặc trưng; trung tâm thể thao
cấp quốc gia và công viên đô thị cấp thành phố; các khu đô thị mới hiện đại có hệ thống
hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ đáp ứng cho sinh hoạt dân cư và các hoạt
động công sở, văn phòng.
5. .4. ơ ấ l o ộng, ng tá giải t vi làm và th nhậ ho ng ời l o
ộng h n i n tí h ự , hù hợ v i ầ hát t i n inh t
Đô thị hoá đã và đang tạo ra sự chuyển biến về cơ cấu lao động của huyện Từ
Liêm trong giai đoạn 1996-2013. Với dân số trên 523.400 người (năm 2013), lực lượng
lao động của huyện Từ Liêm chiếm 52,4% trong tổng số dân cư của toàn huyện. Tốc độ
tăng lực lượng lao động trong giai đoạn 2000-2010 trung bình là 2,8% cao hơn nhiều so
với tốc độ tăng dân số, là một lợi thế cho huyện Từ Liêm trong bối cảnh ĐTH. Quá trình
ĐTH của huyện Từ Liêm trong giai đoạn nghiên cứu đã có tác động tích cực, thúc đẩy
thị trường lao động phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao động, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tạo ra môi trường và nhiều cơ hội cho người lao động tìm được việc làm, ổn
định đời sống. Điều này được thể hiện rõ nét trong các lĩnh vực nghề nghiệp cơ bản như
đã phân tích ở phần trên.
Dân số cơ học tăng nhanh mang lại những thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bổ sung lực lượng lao động của huyện. Số lượng lớn
người nhập cư lớn đến làm việc trong các khu vực phi chính thức, cung cấp nguồn nhân
lực lớn, đóng góp cho việc phát triển kinh tế-xã hội của huyện, góp phần vào việc làm
tăng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động trong toàn huyện. Bên cạnh đó, lao
động di cư là nguồn cung cấp nhân lực cho các công việc lao động giản đơn, nặng nhọc
như xây dựng, chuyên chở vật liệu xây dựng, bốc vác… Sự hiện diện của người nhập cư
đã góp phần thúc đẩy phát triển các ngành nghề dịch vụ như rửa xe máy, ô tô, đưa các
dịch vụ thiết yếu đến các nhà dân…
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp là
nguyên nhân chính dẫn đến chuyển đổi trong cơ cấu ngành nghề của huyện Từ Liêm nói
riêng và các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung. Trong cơ cấu nghề nghiệp của các
huyện hiện nay, các ngành nghề phi nông nghiệp như dịch vụ, thương mại xuất hiện
129
ngày càng nhiều và phát triển mạnh, do đó thu nhập từ những ngành này tăng dần tỷ
trọng trong cơ cấu nguồn thu của các hộ gia đình. Tuy nhiên mức độ chuyển đổi cơ cấu
nghề nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung và giữa các xã trong huyện
Từ Liêm nói riêng cũng khác nhau. Những xã có tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình,
Mễ Trì, Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh thì nông nghiệp hầu như không còn chiếm vai trò quan
trọng trong đời sống của người dân. Các yếu tố có vai trò quan trọng tác động đến chuyển
đổi nghề nghiệp của người dân là: sự hiện diện của các ngành nghề truyền thống, thị
trường tiêu thụ, chính sách chuyển đổi nghề ở địa phương và nhu cầu chuyển đổi của các
cá nhân, hộ gia đình. Theo một nghiên cứu, khi được hỏi về công việc mà người dân
mong muốn được chuyển đổi, kết quả nhận được là 58,5% tỷ lệ người dân mong muốn
được chuyển qua làm nghề kinh doanh buôn bán và dịch vụ; thứ hai là công nhân, viên
chức 29,4%; thứ ba là công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 8% [133, tr. 136]. Do
đó, ở huyện Từ Liêm, năm 2005, số cơ sở kinh doanh thương nghiệp là 5.578 cơ sở với
9.850 lao động thì đến năm 2011 tăng lên 7.434 cơ sở với 11.334 lao động [23]. Còn ở
huyện Thanh Trì, năm 2005, số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ là 3.308 hộ với 4.683
người thì đến năm 2010 tăng lên 5.784 hộ với 9.682 người. Đối với huyện Sóc Sơn, một
huyện có tốc độ đô thị hóa chậm hơn so với Từ Liêm, năm 2005 số cơ sở kinh doanh
thương nghiệp là 4.355 cơ sở thì đến năm 2011 đã tăng lên 6.516 cơ sở [23].
Những năm gần đây, hoạt động ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn ngoại thành Hà Nội cũng thu hút được số lao động tham gia sản xuất trong
các làng có nghề là khá lớn. Ở Từ Liêm có 11 làng, Thanh Trì 24 làng nghề, Gia Lâm 22
làng… Thu nhập bình quân của một lao động trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp đạt khoảng 1.092.000 đồng/người/tháng (khoảng 13 triệu đồng/năm). Các huyện
có thu nhập khá là Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh đạt từ 21-31 triệu đồng/năm; Thanh
Trì từ 10-20 triệu đồng/năm [178, tr.97]. Qua đó, có thể nhận thấy rằng, trong quá trình
chuyển đổi nghề nghiệp của người dân ở huyện Từ Liêm, buôn bán thương mại và phát
triển nghề phụ tại các làng nghề được cho là phù hợp hơn cả, bởi hai nhóm ngành này có
thể đem lại thu nhập cao và có tính ổn định.
5. .5. Đời s ng vật hất, tinh thần ng ời ân ợ nâng o
Hiện nay có nhiều tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân
cư, song các tiêu chí này chủ yếu xoay quanh việc thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của
người dân, đó là nhu cầu về đời sống vật chất và nhu cầu về đời sống tinh thần. Đời
130
sống vật chất là sự đáp ứng về các phương tiện vật chất sinh hoạt hàng ngày như nhà
cửa, phương tiện sinh hoạt, các thiết bị tiện nghi trong gia đình... Còn đời sống tinh thần
là sự thỏa mãn về nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ tri thức, nhu cầu vươn lên cái chân
thiện mỹ, được thể hiện qua các hoạt động vui chơi, lễ hội, thể dục thể thao...
Quá trình phát triển của huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa đã mang lại
sự thay đổi đời sống của nhiều gia đình theo chiều hướng tích cực cả trên phương diện
đời sống kinh tế lẫn đời sống tinh thần. Có thể thấy rằng, điều kiện cuộc sống của người
dân Từ Liêm ào thời điểm trước khi huyện bị giải thể so với những năm trước đó có
bước phát triển mới. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã đưa lại cho người dân những
lợi ích cụ thể, mức thu nhập ít nhiều đã được nâng cao, điều kiện làm việc, sinh hoạt
được cải thiện theo xu hướng hiện đại hóa, đô thị hóa, điều kiện ăn ở và sinh hoạt hàng
ngày được cải thiện. Sự biến đổi trong đời sống kinh tế được ghi nhận một cách rõ nét
trong mức thu nhập và cơ cấu nguồn thu của người dân. Như đã trình bày, thu nhập bình
quân đầu người trên địa bàn huyện tăng nhanh từ năm 1996 đến năm 2013. Năm 2012,
thu nhập bình quân/người/năm của huyện Từ Liêm đạt 34,5 triệu đồng, tăng 12,7%
so với năm trước; trong đó hướng thu nhập hoạt động từ sản xuất kinh doanh ngành
nghề phi nông nghiệp tăng mạnh. Nguyên nhân dẫn đến thu nhập tăng là do thị trường
được mở rộng, có cơ hội làm việc nhiều hơn, buôn bán thuận lợi hơn, ngành nghề mới
tốt hơn... là những nguyên nhân chính tạo ra thu nhập cao hơn cho người dân. Đánh giá
về đời sống kinh tế của hộ gia đình, đa số người dân ở huyện Từ Liêm cho rằng điều
kiện, chất lượng cuộc sống của họ được cải thiện từng ngày. Một nghiên cứu chỉ ra rằng
có 68% người dân cho biết cuộc sống khá hơn so với trước kia, chỉ có 19,1% đánh giá
đời sống kinh tế và tinh thần của gia đình vẫn như cũ [133, tr.151].
ĐTH nhanh ở huyện Từ Liêm không chỉ làm thay đổi đời sống vật chất mà còn
chuyển biến sâu sắc trên khía cạnh đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân địa phương.
Những biến đổi đó được biểu hiện qua quá trình hòa nhập lối sống đô thị vào cuộc sống
nông thôn, qua tính cố kết cộng đồng, đến các hành vi và cách ứng xử của mỗi cư dân
trong đời sống gia đình và xã hội. Những thay đổi này làm cho đô thị và nông thôn xích
lại gần nhau hơn, nhưng nó cũng làm phá v cơ cấu xã hội nông thôn truyền thống.
ĐTH cũng làm biến đổi các mối quan hệ xã hội của cộng đồng dân cư huyện Từ
Liêm. Sự biến đổi này không chỉ diễn ra trong các mối quan hệ dòng tộc, làng xã mà
còn diễn ra ở trong các mối quan hệ xã hội đa chiều hơn do sự pha trộn nhiều tầng lớp
131
dân cư và sự chuyển đổi của các mô hình cư trú. Các khía cạnh văn hóa khác như hiếu,
hỷ, việc tham gia vào hoạt động văn hóa, thể dục thể thao cũng có nhiều biến đổi từ hình
thức đến nội dung.
Có thể nói rằng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân huyện Từ Liêm được
nâng lên rõ rệt, có nhiều thay đổi tích cực. Điều kiện và chất lượng sống của người dân
được cải thiện từng ngày. Đây là kết quả của việc phát triển kinh tế đã hướng tới việc
thay đổi đời sống của cộng đồng dân cư theo tác động ngày càng tốt hơn.
5.2. Hạn chế
5.2.1. Kinh t t ộ tăng t ng o nh ng h ền vững, ơ ấ inh t
h n h òn hậm
Bên cạnh những thành tựu cơ bản nêu trên, kinh tế huyện Từ Liêm vẫn còn những
hạn chế nhất định. Tốc độ kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng chưa bền vững, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch vẫn còn chậm, chưa tương xứng với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, xã
hội mà huyện đang có. Đặc biệt, trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh như hiện
nay, phát triển kinh tế của huyện đang đứng trước nhiều thách thức. Hiện nay, ngành công
nghiệp đang giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế của huyện nhưng công nghệ và thiết
bị còn lạc hậu do thiếu vốn nên sản phẩm chất lượng chưa cao, thiếu tính đa dạng, giá
thành cao, khả năng cạnh tranh yếu. Hơn nữa, trong thời gian tới, với tính chất là một đô
thị, hoạt động công nghiệp không còn được khuyến khích và có xu hướng chuyển dịch ra
khỏi nội đô… nên điều tất yếu là các ngành công nghiệp hiện tại sẽ không còn cơ hội phát
triển nhiều và dần dần giảm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Trong khi đó, hoạt động thương mại - dịch vụ chất lượng cao của huyện, được xác
định là hướng ưu tiên đối với một đô thị, lại gặp nhiều khó khăn để phát triển trong thời
gian tới do phụ thuộc lớn vào sự phát triển của các khu đô thị mới, của hệ thống hạ tầng
giao thông trong tương lai. Các hoạt động dịch vụ cá thể (cho thuê nhà, tạp hoá...) không ổn
định, phụ thuộc nhiều vào sự dịch chuyển dân số cơ học và đang có xu hướng chững lại.
Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng tiến bộ nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu và tiềm năng của địa phương. Mặc dù huyện đã chú trọng
ứng dụng khoa học kỹ thuật nhưng vẫn ở mức độ thấp so với yêu cầu phát triển. Quy
trình canh tác tại các vùng sản xuất chuyên canh của huyện còn đơn giản, manh mún, tự
phát, sản phẩm còn hạn chế về chất lượng, chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm
nông nghiệp sạch, đặc sản của địa phương. Việc phát huy thế mạnh của từng vùng trong
132
quá trình phát triển nông nghiệp chưa được khai thác nhiều dẫn đến tình trạng chênh
lệch giữa các vùng còn lớn về trình độ kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, năng suất và thu nhập.
Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp đã được huyện quan tâm nhưng vẫn còn thấp,
thiếu và chưa thu hút được các nguồn đầu tư từ các lĩnh vực kinh tế khác cho nông
nghiệp. Nông nghiệp vốn là một đặc thù riêng vốn có của huyện với nhiều sản phẩm nổi
tiếng như cam canh, bưởi diễn, hoa Tây Tựu lại đang đứng trước nguy cơ thu hẹp sản
xuất do việc triển khai các quy hoạch, dự án phát triển đô thị.
Bên cạnh đó, khả năng huy động nguồn lực tài chính để đầu tư, phát triển kinh tế
trong những năm qua của huyện còn khó khăn do tình hình kinh tế cả nước nói chung và
Hà Nội nói riêng chưa thực sự tăng trưởng ổn định, khả năng phát triển mạnh của các
doanh nghiệp không cao, việc thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn từ ngân
sách Thành phố cũng rất hạn chế, vấn đề nợ công chưa giải quyết được cơ bản sẽ là
thách thức lớn đối với huy động đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.
5.2.2. Hạ tầng ơ s hát t i n mạnh nh ng vẫn h theo t ộ hát t i n
inh t , hội
Không thể phủ nhận rằng trong giai đoạn 1996-2013, hạ tầng đô thị của huyện Từ
Liêm phát triển vượt bậc, đem lại bộ mặt mới mang tính cách thị thành, khang trang, sạch
đẹp, văn minh cho huyện Từ Liêm. Nhưng hệ thống hạ tầng giao thông của huyện vẫn chưa
theo kịp tốc độ tăng dân số cơ học và sự phát triển của kinh tế - xã hội. Hiện trạng cơ sở hạ tầng giao thông còn thiếu và yếu, tỷ lệ đất dành cho giao thông thấp, tỷ lệ km đường/km2
diện tích mới đạt 50% so với yêu cầu. Trong khi đó tỷ lệ phương tiện cá nhân tăng nhanh;
vận tải công cộng mới chỉ chiếm 10-15%... nên thường xuyên xảy ra ùn tắc, nhất là các giờ
cao điểm. Nhiều tuyến đường trục chính trên địa bàn một số xã Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mễ Trì,
Đông Ngạc, Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu... qua thời gian đã bị hư hỏng nặng và xuống
cấp nghiêm trọng do mật độ các phương tiện tham gia giao thông quá lớn, đặc biệt các loại
phương tiện vận tải quá khổ, quá tải trọng lưu thông qua đây đã tác động nghiêm trọng đến
chất lượng đường, ảnh hưởng đến hoạt động đi lại của nhân dân.
Huyện vẫn còn nhiều hộ dân chưa được sử dụng nước sạch từ nguồn nước cấp
chung của Thành phố. Một số địa phương có 100% hộ dân chưa được cấp nước sạch là:
Tây Mỗ, Xuân Phương, Liên Mạc, Thượng Cát. 1/3 hộ dân trên địa bàn xã Đại Mỗ chưa
được cấp nước sạch. Một số khu vực đang sử dụng nước cấp từ các trạm cấp nước của
nhà đầu tư các khu đô thị như KĐT Mỹ Đình 2 (khoảng 6000-7000 hộ dân) và những
133
khảo sát gần đây của cơ quan chuyên môn cho thấy chất lượng nước cấp của trạm không
đạt yêu cầu. Một số khu vực mặc dù đã được hòa mạng cấp nước của Thành phố nhưng
do nguồn nước yếu nên người dân vẫn phải dùng nước giếng khoan hoặc sử dụng nước
từ các trạm cấp nước khu vực như tại khu vực Mỹ Đình 2 (khoảng 20% hộ dân tại khu
dân cư cũ), Phú Đô và Trung Văn [151].
Hệ thống thoát nước chưa tương xứng với một đô thị hiện đại. Nhiều tuyến thoát
nước còn ở dạng mương, cống hở (mương chảy qua làng Phú Đô, dẫn về trạm bơm
Đồng Bông, nhiều tuyến mương thoát nước trong các khu dân cư tại xã Đại Mỗ, Tây
Mỗ, Xuân Phương, mương chảy qua làng Trung Văn…) gây ô nhiễm môi trường, mất
mỹ quan đô thị. Hệ thống thoát nước của các khu dân cư cũ chưa được khớp nối với các
khu đô thị (khu dân cư cũ Phú Đô, Mễ Trì..) thường xuyên gây hiện tượng úng ngập khi
trời mưa. Đối với khu dân cư cũ, trong ngõ xóm thường xảy ra hiện tượng úng ngập, vì
cốt nền thấp hơn khu đô thị mới xung quanh. Tại những khu vực đang có những dự án
triển khai, tồn tại các điểm úng ngập cục bộ do quá trình xây dựng làm ảnh hưởng đến
hệ thống thoát nước.
Hệ thống công viên, vườn hoa vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân vì lý do
phân tán, không tập trung thành một quần thể và gắn kết với hạ tầng kỹ thuật xung
quanh. Trong các khu dân cư cũ hầu như chưa có hệ thống công viên, điểm vui chơi cho
người dân. Đa số hồ nước chưa được cải tạo làm nơi vui chơi, giải trí cho người dân.
Hệ thống chiếu sáng trong khu vực chưa đồng bộ, chưa cung cấp điện áp và còn
lạc hậu về công nghệ và thiết bị. Nhiều nơi tỷ lệ đường đô thị chưa đạt tỷ lệ chiếu sáng
100%; Đối với khu vực làng xóm dân cư cũ hệ thống chiếu sáng đèn đường còn nhiều
hạn chế về thiết bị, công suất và không đồng bộ. Hiện có trên 70% đường ngõ xóm được
chiếu sáng, chủ yếu do người dân cùng đóng góp theo phong trào xây dựng nông thôn
mới. Mạng lưới cấp điện chưa được thiết kế theo quy hoạch tổng thể và hệ thống thiết bị
điện còn thiếu đồng bộ, phù hợp tiêu chuẩn và cảnh quan khu vực đảm bảo cấp điện
hiệu quả, nâng cao hiệu suất và hạn chế tổn thất điện áp.
5.2.3. Sứ é về vi làm, nhà , vấn ề n sinh hội, phân hóa giàu nghèo
ngà àng tăng
ĐTH ở Từ Liêm đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là mục tiêu giảm tỷ lệ
thất nghiệp của địa phương do áp lực giải quyết lao động; đào tạo nguồn lao động và đặc
biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp khi đất đai của họ bị thu hồi
134
trong quá trình đô thị hóa. Việc mất đi một số lượng lớn đất nông nghiệp đã đẩy người
dân đến chỗ thất nghiệp và thiếu việc làm. Nhiều hộ gia đình có hàng tỷ đồng từ việc
nhận tiền đền bù do mất đất mà vẫn không có việc làm. Bởi vì sau khi được Nhà nước
đền bù, đa số hộ nông dân dùng số tiền này vào việc xây nhà và mua sắm tiện nghi sinh
hoạt mà không chú ý dùng số tiền đó để tạo dựng việc làm. Thực trạng trên đã ảnh
hưởng lớn tới đời sống và việc làm của hàng nghìn người dân Từ Liêm. Những người
nông dân mất dần đất canh tác dẫn đến dư thừa lao động nông nghiệp và số lao động
thiếu việc làm ngày càng tăng trên địa bàn huyện. Theo đánh giá của các cơ quan chức
năng, trung bình cứ mỗi hộ bị mất đất có khoảng 1,5 lao động bị mất việc làm, cứ mỗi ha
nông nghiệp bị chuyển đổi sẽ có 20 lao động bị mất việc làm. Trước đây khi chưa mất đất
những lao động này chủ yếu làm nghề nông. Đến nay do đất sản xuất bị thu hẹp thì một
bộ phận lớn người lao động nông nghiệp chuyển sang các lĩnh vực khác như công nghiệp,
dịch vụ... Đến năm 2013, tỷ lệ lao động nông nghiệp Từ Liêm chỉ còn 9,2%, còn số lao
động phi nông nghiệp chiếm tới 90,8% [151]. Tuy vậy, trình độ học vấn cũng như nghề
nghiệp của phần lớn lao động chuyển sang khu vực phi nông nghiệp còn yếu, chưa thể
đáp ứng được yêu cầu của công việc mới. Ví dụ như lao động ở các khu công nghiệp là
những người phải có kỹ năng nghề nghiệp khá, có khả năng tiếp thu công nghệ mới,
nhưng số đông thanh niên nông thôn vùng ngoại thành chưa hội tụ đủ những điều kiện đó.
Đặc biệt những thanh niên thuộc những xã bị KCN lấy đất như Nam Thăng Long, Minh
Khai, Phú Minh…, họ là đối tượng được Ban quản lý KCN ưu tiên tiếp nhận nhưng chính
họ chưa đáp ứng kịp những tiêu chí về tay nghề, trình độ văn hóa… Và thực tế là xảy ra
sự thiếu hụt đội ngũ lao động trẻ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, công nhân lành nghề
cung cấp cho thị trường lao động trong khi thừa lao động giản đơn, trình độ thấp chưa qua
đào tạo nghề. Do vậy, vấn đề đào tạo, học nghề cho người lao động thuộc các lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ trở thành một vấn đề quan trọng không chỉ đối với huyện Từ Liêm
nói riêng mà còn đối với tất cả các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung.
Sự gia tăng dân số nhanh chóng trong khi cơ sở hạ tầng đô thị của huyện dù có
bước phát triển đột phá nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của một đô thị
thực sự đã tạo nên sức ép quá tải ngày càng lớn trên nhiều góc độ khác nhau. Các dòng
dịch cư từ nông thôn, các tỉnh, huyện lân cận đổ vào huyện ngày càng tăng và rất khó
kiểm soát, quản lý. Sức ép dân số đô thị vốn đã quá tải lại càng quá tải hơn (về đất đai,
nhà ở, công tác quy hoạch và quản lý đô thị, giáo dục, y tế…). Chỉ riêng ở lĩnh vực
135
chăm sóc sức khỏe nhân dân, mặc dù công tác y tế của Từ Liêm đã được công nhận đạt
chuẩn quốc gia ở cả 16 xã, thị trấn; thời gian qua, huyện đã đầu tư khoảng 60 tỷ đồng
cho nâng cấp các trạm y tế, bổ sung thay mới trang thiết bị khám chữa bệnh cho người
dân nhưng cũng không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội vì số dân quá đông. Nhất là
ở những xã có số dân cơ học lớn như Cổ Nhuế, Minh Khai, Mễ Trì, Phú Diễn, Tây Tựu,
Trung Văn... Ngay cả trong giáo dục, trong những năm gần đây, huyện đầu tư cho giáo
dục công lập tới 300 tỷ đồng và đã có tới gần 30 trường học ở ba cấp THCS, Tiểu học
và Mầm non của huyện đạt chuẩn quốc gia. Song vấn đề giáo dục của Từ Liêm vẫn
đang chịu sức ép quá tải về số lượng học sinh ở các khu đô thị và những xã đô thị hóa
nhanh. Ở nhiều trường công lập cơ sở vật chất, nhất là phòng học, giáo viên... không đáp
ứng được nhu cầu đến trường của trẻ vì quá đông. Ngược lại, những trường dân lập tư
thục trên địa bàn tuy cơ sở tốt nhưng chỉ đáp ứng được cho một bộ phận gia đình có thu
nhập cao mà không đáp ứng được mặt bằng chung của xã hội.
Nhà ở cũng là vấn đề nan giải đối với huyện Từ Liêm. Đa phần người nhập cư không
có khả năng mua được nhà để ở, do vậy họ phải đi thuê nhà. Tình trạng mất an ninh trật tự,
thiếu an toàn và ô nhiễm môi trường ở những khu nhà trọ trong huyện thường xuyên xảy ra. Trong những năm gần đây, huyện Từ Liêm cũng đã xây dựng hàng chục ngàn m2 nhà để
phục vụ nhu cầu cho người nhập cư nhưng vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu nhà ở. Đó là
một bài toán khó đối với huyện Từ Liêm trong bối cảnh đô thị hóa.
Số lượng dân cư quá đông nhưng cơ chế quản lý nhà nước lại là mô hình cấp
huyện nên rất khó để đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội trên
địa bàn. Đất chật người đông sẽ kéo theo một khối lượng công việc khổng lồ về quản lý
nhà nước trên địa bàn. Qua thống kê, năm 2012, huyện đã giải quyết nhiều thủ tục hành
chính của các tổ chức và công dân, gấp nhiều lần các quận, huyện khác của Thành phố
Hà Nội. Cụ thể, năm 2012, toàn huyện tiếp nhận 701.509 hồ sơ, đã giải quyết 699.213
hồ sơ; trong đó bộ phận “một cửa” của huyện tiếp nhận 44.386 hồ sơ, đã giải quyết
được 99,71%; Tại bộ phận “một cửa” của các xã, thị trấn, đã tiếp nhận 194.691 hồ
sơ, giải quyết được 194.586 hồ sơ [151]. Vì vậy, huyện Từ Liêm gặp nhiều khó khăn
trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đô thị, quản lý quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và quản lý dân cư. Từ thực tế của địa phương, Từ Liêm đã được
tách thành hai đơn vị hành chính cấp quận, vừa bảo đảm công tác quản lý nhà nước ở
136
địa phương, đồng thời cũng phù hợp với thực tế của khu vực, tạo điều kiện phát triển
vùng đô thị mới phía Tây của Thủ đô.
Trên thực tế, với tốc độ ĐTH nhanh như trong giai đoạn nghiên cứu đã làm cho
một bộ phận dân cư ven đô giàu lên nhanh chóng. Một số do sở hữu được một diện tích
lớn đất đai lại có vị trí đắc địa nên họ dễ dàng bán ra với giá cả thị trường cho nên thu
lại được những khỏan tiền lớn và hiển nhiên họ giàu lên nhanh chóng, trở thành những
người thượng lưu. Có không ít người đã biết đưa nguồn vốn thu lại nhờ bán đất vào sản
xuất, kinh doanh... nên chẳng bao lâu nguồn vốn ban đầu càng ngày càng lớn dần. Một
số khác, có thể thu nhập về bán đất không là bao nhiêu, nhưng trong tiến trình đô thị
hóa, họ nhanh nhạy nắm bắt được thời cơ, bắt nhịp được với tốc độ chuyển đổi, họ
nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi này. Đối với những người như vậy thì họ có
nhiều cách để phát triển kinh tế hộ gia đình như chủ động đầu tư vốn để phát triển các
ngành nghề khác như dịch vụ (buôn bán nhỏ, cho thuê phòng trọ, kinh doanh nhà
hàng,…) hay tham gia vào các ngành sản xuất ra các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, lãi
suất lớn hoặc chuyển sang làm một số nghề đơn giản nhưng có thu nhập tương đối ổn
định theo nhu cầu của thị trường như lái xe taxi, xe ôm, thợ xây hay học nghề để có đủ
tay nghề làm việc trong các khu công nghiệp… Còn nếu vẫn còn ít nhiều đất canh tác để
tiếp tục sản xuất nông nghiệp thì họ quay trở lại đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật… để
nâng cao giá trị sản xuất, đem lại nguồn thu cho gia đình.
Bên cạnh số người thích ứng nhanh thì quá trình ĐTH cũng đồng thời làm cho một
số khác nghèo đi do mất đất và không có sự nhạy bén để kịp thời hội nhập vào các hoạt
động đô thị. Một số người không thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của dô thị
hóa sẽ dần dần rơi vào tình trạng mất hết tư liệu sản xuất, bản thân không đáp ứng được yêu
cầu công việc mới nên tình trạng đã nghèo lại càng nghèo hơn. Số hộ nghèo tập trung chủ
yếu ở những gia đình không có người chuyển đổi nghề; đa số là những gia đình chủ yếu là
người lớn tuổi, ngại thay đổi và không theo kịp được với sự thay đổi. Hệ quả là sự phân hóa
giàu nghèo và những mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội đã nảy sinh. Các nhóm
được hưởng lợi từ việc thu hồi đất thì ủng hộ chính sách quy hoạch của thành phố, còn
nhóm bị mất đất và không chuyển đổi kịp thời thì không đồng tình, thậm chí chống đối và
gây cản trở cho việc thu hồi đất. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc đầu tư, dẫn đến
hạn chế tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Và cũng như một tất yếu, đã nghèo
về kinh tế thì lại càng khó có cơ hội để tiếp cận nhiều hơn với giáo dục, y tế và các nhu cầu
137
khác trong đời sống; đồng thời với đó là không ít người trong tình trạng nghèo đói lại rất dễ
rơi vào vòng tệ nạn xã hội. Có thể thấy rằng, phân hóa giàu nghèo được thể hiện khá rõ nét
ở cộng đồng dân cư nông thôn ở Từ Liêm trong bối cảnh ĐTH. Những người chiếm lợi thế
xã hội về vốn kinh tế, vốn văn hóa đang có những thuận lợi nhất định để thay đổi vị trí của
mình. Trong khi đó những người không có hoặc có ít vốn kinh tế thì lại có ít vốn văn hóa
nên họ nghèo lại càng nghèo thêm.
Bên cạnh đó, quá trình ĐTH đã làm biến đổi lối sống của người dân huyện Từ
Liêm trên tất cả các lĩnh vực theo hai xu hướng tích cực và tiêu cực. Văn hóa, lối sống ở
Từ Liêm đã có nhiều sự thay đổi, từ văn hóa, lối sống nông thôn truyền thống chuyển
sang văn hóa, lối sống thị thành. Sự chuyển hướng trong đới sống văn hóa và lối sống
trước hết được thể hiện qua sự thay đổi về kiến trúc, kết cấu nhà ở, nề nếp sinh hoạt gia
đình, cách sử dụng thời gian nhàn rỗi, trong quan hệ xã hội như tham gia, tổ chức lễ hội,
sử dụng các phương tiện giải trí... Có thể nhận thấy sự đa dạng về thành phần dân cư và
khác biệt trong văn hóa, lối sống hàng ngày là một sự pha trộn, giao thoa giữa văn hóa
đô thị và văn hóa nông thôn ở Từ Liêm hiện nay. Điều này là quy luật tất yếu và xu
hướng biến đổi tích cực vẫn chiếm một cách ưu thế, tạo nền tảng cho sự phát triển ngày
một toàn diện của Từ Liêm; tuy nhiên sự xung đột về lối sống, nếp sinh hoạt “cũ-mới”
trong cộng động dân cư vẫn còn là một điều không thể tránh khỏi và cần được giải quyết
thật thấu đáo, có lý, có tình. Vấn đề đặt ra là vừa phải phát huy duy trì những nét đẹp
văn hóa truyền thống đặc trưng của địa phương, vừa tiếp thu, tiếp biến những tinh hoa
văn hóa hiện đại trên cơ sở là hướng đến một môi trường văn hóa, văn minh hài hòa.
5.2.4. nạn hội, nhiễm m i t ờng ngà àng iễn i n hứ tạ
Với tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng cùng với làn sóng di cư từ các địa
phương khác đến Từ Liêm dẫn đến sự gia tăng dân số và đặt ra nhiều thách thức cho Từ
Liêm trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực môi trường, an ninh xã hội. Bức tranh
đô thị đã có sự đối lập giữa một bên là tốc độ phát triển ngày càng nhanh các khu chung
cư, khu đô thị mới hiện đại và một bên là sự tồn tại của các khu nhà tạm bợ, hệ thống hạ
tầng kỹ thuật thấp kém, tệ nạn xã hội gia tăng và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
- Tệ nạn xã hội: Tốc độ đô thị hóa nhanh kéo theo các tệ nạn xã hội cũng có xu
hướng tăng lên nhanh chóng. Tình trạng mua bán, sang nhượng, cắm cọc, san lấp, bỏ
hoang diện tích đất chờ sang nhượng khá phổ biến; điều này làm ảnh hưởng đến cuộc
sống của cộng đồng dân cư. Người nông dân Từ Liêm trước đây là nông dân thuần túy,
138
thu nhập không cao, mức sống thấp, nay bị thu hồi đất được đền bù một khoản tiền lớn.
Đa phần trong số họ có kế hoạch làm ăn, chuyển hướng đào tạo nghề nghiệp phù hợp
với các thành viên trong gia đình nhưng cũng có một bộ phận với số tiền thu hồi do bán
đất, họ xây nhà, mua xe, sắm sửa mà không nghĩ rằng hết tiền sẽ trắng tay, lại rơi vào
tình trạng còn nghèo hơn cả khi không có tiền đền bù. Hơn nữa, việc trông chờ bán đất
khiến không ít hộ ngại đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, khiến diện tích đất ruộng bỏ
hoang. Đô thị hóa ở một số xã đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị xé nhỏ, đan xen
với các công trình công cộng; đồng thời hệ thống thuỷ lợi, tưới tiêu cũng bị chia cắt, bị
phá v dẫn đến hệ quả là trời mưa thì ngập úng không thể thoát, trời nắng thì không dẫn
được nước vào đồng, phải chịu cảnh hạn hán, ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp.
Có nhiều mảnh đất còn trở thành nơi chưa chất thải xây dựng, rác thải… của dự án; trở
thành nơi trú ngụ cho sâu bệnh, chuột bọ thậm chí trở thành nơi gây mầm bệnh lây
nhiễm đối với sức khỏa của con người và gia súc; nhiều mảnh đất “kẹp” đã bị bỏ hoang,
dừng hẳn canh tác.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội
và gia tăng bạo lực do tranh giành đất đai vì đất là nguồn sinh kế chính của nhiều hộ
nông dân của huyện Từ Liêm. Do đất ở khu vực huyện Từ Liêm nói riêng và vùng ven
đô nói chung ngày càng trở nên khan hiếm, dẫn đến giá đất ở đây ngày càng tăng cao,
tạo ta một sức ép tâm lý cho người dân. Việc gia tăng giá trị của quyền sử dụng đất cũng
làm nảy sinh tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, làng xóm… Trước
kia, khi giá trị đất còn thấp thì việc phân chia dường như là một việc dễ dàng hơn nhiều.
Năm 2012, huyện Từ Liêm đã giải quyết trên 500 vụ kiện tụng, tranh giành đất đai,
nhiều gia đình tan nát. Hiện tượng đánh nhau gây thương tích do tranh chấp đất đai
thường xuyên diễn ra trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó là sự gia tăng các tệ nạn xã hội thâm nhập vào cộng đồng nông thôn
như cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma túy… Đây không phải là điều mới nhưng nó gia
tăng mạnh mẽ kể từ khi người dân có nhiều tiền nhờ bán đất và nhiều thời gian rỗi vì
không có việc làm. Theo khảo sát của chúng tôi, đặc biệt tại các địa phương có nhiều đất
nông nghiệp bị thu hồi như Mỹ Đình, Mễ Trì… rất dễ dàng nhìn thấy những nhóm
người (đủ mọi lứa tuổi) tụ tập chơi bời ở nơi công cộng hay tại các gia đình. Nguyên
nhân chính của hiện tượng này là do họ quá nhàn rỗi, không có việc để làm cộng vào đó
là tâm lý lười lao động, thích đua đòi. Năm 1996, huyện Từ Liêm có 121 người nghiện
139
hút, 12 người hành nghề mại dâm, nhưng đến năm 2013, số lượng đã tăng lên rất nhiều [6].
Cụ thể tại xã Mễ Trì, tình trạng cờ bạc, cho vay nặng lãi, ma túy, mại dâm vẫn tồn tại dai
dẳng; vi phạm đất đai, trật tự xây dựng chưa được giải quyết dứt điểm dẫn đến gây mất an
ninh trật tự. Toàn xã có tổng số 218 vụ vi phạm, trong đó: 22 đối tượng ma túy,135 đối
tượng hình sự, 5 đối tượng lô đề, 25 cơ sở cầm đồ, 17 nhà nghỉ, 6 khách sạn, 2 cơ sở tầm
quất, 6 cơ sở karaoke [171]. Còn ở xã Trung Văn đã xảy ra 36 vụ phạm pháp hình sự, đã
điều tra làm rõ 20 vụ, 33 đối tượng, xử lý hành chính 05 vụ với 14 đối tượng [172]. Hiện
tượng thanh niên nghiện ma túy cũng vẫn còn tái diễn như xã Tây Mỗ có 21 đối tượng,
trong đó có 9 người điều trị thay thế bằng methađon, 5 người chưa cai lần nào, có 6 người
đang ở tại các trung tâm cai nghiện [173]; xã Đại Mỗ có 19 người. Trong nghiên cứu với
540 hộ gia của huyện Từ Liêm, Bùi Văn Tuấn đã cho thấy, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô
đề, nghiện bia rượu, nghiện hút, tiêm chích ma túy chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tiếp đến là
nạn trộm cắp, cướp giật 29,1%; gây rối mất trật tự an ninh 19,0%; bạo lực gia đình 14,2%.
Theo đó, tệ nạn xã hội ở địa phương ngày càng phổ biến và nghiêm trọng chiếm 20.9%; tệ
nạn xã hội ngày càng tinh vi hơn chiếm 33,9% [133, tr. 190].
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tệ nạn xã hội của huyện Từ Liêm phát triển nhiều
hơn trong giai đoạn này là do những mặt trái của ĐTH. ĐTH làm cho dân số tăng
nhanh, kinh tế phát triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Tình trạng
thất nghiệp, nghèo đói đã đẩy một bộ phận dân cư sa vào tệ nạn xã hội. Tình trạng đạo
đức xuống cấp đã làm tha hóa một bộ phận dân cư trong đó có nhiều thanh thiếu niên,
học sinh coi thường pháp luật. Cùng với đó là sự thiếu quan tâm chăm sóc của gia đình,
xã hội và tình trạng buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, các cơ quan chức
năng cũng là một nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Một số nguyên nhân cơ
bản dẫn đễn tình trạng phát triển tệ nạn xã hội ở Từ Liêm: Kỷ cương pháp luật không
nghiêm 58,2%; Công tác phòng ngừa và đấu tranh chưa tốt 62,2%; Mặt trái của cơ chế
thị trường 54,4%; Nhận thức của người dân 41,1%; Đạo đức của một bộ phận dân cư
xuống cấp 43,6%... [133, tr.110].
- Ô nhiễm môi trường: Quá trình ĐTH cũng tác động không nhỏ đến môi trường
của huyện Từ Liêm. Sự phát triển của các làng nghề thiếu biện pháp xử lý chất thải,
nước thải và hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu của các doanh nghiệp chưa được quan
tâm đổi mới đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tại một số khu vực nông thôn, đặc
biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông do chất thải, nước thải, rác thải và bụi
140
công nghiệp. Tại một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp, hệ thống xử lý nước thải
công nghiệp chưa được xây dựng đồng thời cùng với sự phát triển của các dự án đầu tư
công nghiệp và thiếu các nhà máy xử lý rác thải công nghiệp một cách có hiệu quả cũng
là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái của trên địa bàn huyện. Tất
cả điều đó đã trực tiếp ảnh hưởng có hại đến đời sống sức khỏe của người lao động và
nhân dân. Một bộ phận không nhỏ người dân quanh các khu công nghiệp… luôn trong
tình trạng đau đầu, ù tai, chóng mặt, mệt mỏi; một bộ phận khác thì bị bệnh thần kinh,
đường ruột, da liễu… Hơn nữa, để đạt được mục tiêu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi
người dân phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu
giống, sử dụng hóa chất, sử dụng phân bón hóa học. Các loại hóa chất này đã và đang là
nguyên nhân làm giảm số lượng của nhiều loại sinh vật có ích, làm giảm đa dạng sinh học,
làm xuất hiện các loài sâu hại kháng thuốc,... đã tác động rất lớn đến môi trường sinh thái.
Về mức độ ô nhiễm không khí, theo kết quả đo đạc, phân tích chất lượng môi
trường không khí, đa số các huyện ngoại thành Hà Nội đều bị ô nhiễm nặng nề về bụi,
tiếng ồn... Từ Liêm là một trong các huyện của Hà Nội bị ô nhiễm nặng nhất. Ở huyện
Từ Liêm, số liệu quan trắc không khí có kết quả là 103,9; huyện Gia Lâm là 137,5 [39,
tr.1159]. Môi trường không khí trên địa bàn một số nơi có hoạt động sản xuất nghề có
dấu hiệu bị ô nhiễm như bún Phú Đô (Mễ Trì), Trung Văn... Theo kết quả quan trắc của
Trung tâm quan trắc, Sở Tài nguyên môi trường, các thông số bụi tổng số (TSP) vượt
1,61 lần QCVN; SO2 vượt là 1,01 lần, bụi As vượt 1,53 lần QCVN; nồng độ Cr vượt
22,86 lần quy chuẩn cho phép [151]. Hay tại các tuyến đường có mật độ giao thông lớn
như Phạm Văn Đồng, đường 32, khu vực bến xe Mỹ Đình…, môi trường không khí có
dấu hiệu ô nhiễm bởi khí CO, SO2, NO2, bụi PM10, bụi chì, Benzen và tiếng ồn. Bên
cạnh đó, do hoạt động xây dựng của huyện Từ Liêm như: nhà cửa, đường xá, cầu
cống,... rất mạnh và diễn ra ở khắp nơi đã gây ra hiện tượng ô nhiễm bụi cục bộ, ảnh
hưởng đến cuộc sống của người dân.
Về mức độ ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm môi trường nước mặt hiện đang là
vấn đề quan trọng của Từ Liêm. Với dân số của huyện Từ Liêm là 523.400 người năm 2013, lượng nước thải sinh hoạt thải ra ước tính hơn 60.000m3/ngày. Khối lượng nước
thải này một phần được xả trực tiếp xuống các ao, hồ trong khu vực dân cư, phần lớn
còn lại qua các kênh, mương, cống thoát nước xả thẳng vào sông Nhuệ.
141
Có thể lấy ví dụ như Hồ Mễ Trì thuộc xã Mễ Trì là hồ có chức năng điều hòa của
khu vực, tuy nhiên hiện tại hồ nhận toàn bộ nước thải sinh hoạt của khu Đô thị Mễ Trì,
theo đường dẫn dưới hồ chảy ra sông Nhuệ. Nước hồ có màu đen và ô nhiễm nghiêm
trọng. Hay như Sông Cầu Đá (chảy qua nhiều phường và đổ về sông Nhuệ), hứng chịu
toàn bộ nước bẩn, rác thải dồn ứ lại của khu vực dân cư phía trên. Hiện nay, khu đô thị
mới Cổ Nhuế được xây dựng đã chặn đường thoát nước của thôn Hoàng 2 và Hoàng 3
phường Cổ Nhuế khiến đoạn sông đi qua xã Cổ Nhuế dài chừng 1 km nước đen đặc, ô
nhiễm nghiêm trọng [151]. Hay tại làng nghề bún Phú Đô, cứ trong 10.200 tấn sản phẩm
mỗi năm đã thải các chất ô nhiễm 76,9 tấn COD; 53,14 tấn BOD5; 9,38 tấn SS, toàn bộ
được thải xuống sông Nhuệ, gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng. Sự ô nhiễm
của các thủy vực nước mặt ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt và sức khỏe
con người, gây mất mỹ quan đô thị.
Công tác thu gom chất thải rắn trên địa bàn chưa được thực hiện triệt để, chỉ đạt
khoảng 90% đối với chất thải rắn sinh hoạt. Với dân số của Từ Liêm, lượng rác thải sinh
hoạt thải ra ước tính khoảng gần 500 tấn/ngày. Hiện toàn bộ lượng rác thải thu gom và
không phân loại được vận chuyển trực tiếp về các khu xử lý rác thải sinh hoạt tập trung
của của thành phố. Theo kết quả khảo sát, hiện tượng đổ thải ra môi trường tại các khu
dân cư vẫn tồn tại (tại Thượng Cát, Xuân Tảo,…). Nguyên nhân chủ yếu do ý thức của
người dân chưa cao, chưa quen với nếp sống sinh hoạt đô thị. Hiện tượng đổ chất thải
rắn xây dựng ra khu vực công cộng xảy ra phổ biến và chưa có biện pháp quản lý hữu
hiệu. Tại một số tuyến đường cho thấy, tình trạng đổ trộm phế thải xây dựng hoặc đổ
phế thải xây dựng không đúng nơi quy định vẫn đang diễn ra như: khu vực đường Phan
Bá Vành, đường Sông Nhuệ, khu vực đường Phúc Diễn, Lương Thế Vinh, Trung Văn,
khu vực phía sau bến xe Mỹ Đình… Trong đó đặc biệt những khu đất trống, đất chưa
xây dựng,… là điểm tập kết phế thải xây dựng nhiều nhất. Phế thải xây dựng tại những
khu vực này chất thành hàng, đống qua thời gian đã có cây, cỏ dại mọc trên hoặc xung
quanh… một số ống, cọc bê tông v , hỏng hoặc không sử dụng cũng được để trên một
số tuyến đường, ảnh hưởng tới mỹ quan và giao thông đi lại của người dân.
5.3. Một số vấn đề đặt ra
5.3. . Vấn ề hoạ h và ản lý th
Quá trình ĐTH là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, kinh tế đô
thị chiếm tỷ trọng chi phối trong tổng GDP, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp,
142
giá trị xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận tiến bộ khoa học công nghệ, đã
góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân… Song bên cạnh tác động tích cực
cũng nảy sinh nhiều vấn đề nan giải, bất cập giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn,
giữa quy hoạch và quản lý đô thị… Là nơi giáp ranh với nội đô nên các huyện ngoại
thành như Từ Liêm phải đối mặt với những khó khăn, tồn tại trong công tác quản lý, sử
dụng đất đai, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép trên đất nông
nghiệp, đất để hoang hóa và sử dụng không hiệu quả. Mặc dù trong giai đoạn này, huyện
Từ Liêm đã rất chú ý đến việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ quy
hoạch, các dự án đầu tư được phê duyệt, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm quy
hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết xây dựng của huyện; thực hiện các quy định về
quản lý đô thị, đất đai, trật tự xây dựng… trên địa bàn huyện, nhưng trên thực tế vẫn xảy
ra tình trạng trên. Theo báo cáo của UBND huyện Từ Liêm năm 2009, toàn huyện hiện
có tổng số 119 dự án liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), với tổng diện tích đất cần GPMB hơn 4 triệu m2; trong đó, có 113 dự án đủ điều kiện thực hiện
GPMB và 6 dự án không đủ điều kiện. Các dự án này được thành phố quyết định giao
đất để triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ trước năm 2009, (trong đó có
5 dự án chủ đầu tư không có quỹ đất tái định cư và 1 dự án chủ đầu tư không thực hiện
dự án). Bên cạnh đó còn phát hiện 108 trường hợp vi phạm trên đất nông nghiệp với diện tích khoảng 6.800m2 [151]. Hay năm 2012, huyện Từ Liêm đã xử lý vi phạm về đất
đai, môi trường với tổng số 210 biên bản, 92 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, 94
quyết định cư ng chế, 16 trường hợp vi phạm pháp luật đê điều. Trong công tác quản lý
trật tự xây dựng, đã lập biên bản vi phạm 263 công trình, đình chỉ thi công 202 công
trình; xử phạt 78 trường hợp, cư ng chế 170 công trình vi phạm [151].
Bên cạnh đó, như trên đã trình bày, năm 2013, huyện Từ Liêm có diện tích là 7.562ha, dân số là 532.400 người, mật độ dân số là 7.300km2. Theo Quy hoạch tổng thể
phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy
hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng
phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2011, huyện Từ Liêm
nằm trong khu vực quy hoạch đô thị trung tâm Thủ đô Hà Nội. Do đó, trong tương lai,
nhiều đô thị mới sẽ được đưa vào sử dụng; khi đó quy mô cũng như mật độ dân số
huyện Từ Liêm sẽ gia tăng một cách nhanh chóng. Đất chật người đông sẽ kéo theo một
khối lượng công việc khổng lồ về quản lý nhà nước trên địa bàn. Qua thống kê, năm
2012, huyện đã giải quyết 506.818 thủ tục hành chính của các tổ chức và công dân, gấp
143
nhiều lần các quận, huyện khác của Thành phố Hà Nội [151]. Vì vậy, huyện Từ Liêm
gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đô thị,
quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội và quản lý dân cư. Do đó, để đảm bảo cho sự
phát triển bền vững trong khu vực, ngay từ năm 2007, huyện Từ Liêm và Thành phố Hà
Nội đã xây dựng đề án, đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập hai quận và
các phường. Tại Đề án điều chỉnh địa giới hành chính, UBND huyện Từ Liêm cho rằng,
với tốc độ đô thị hóa nhanh như lúc bấy giờ, việc quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng
đô thị, quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện nếu không được
chuẩn bị kỹ càng, cụ thể thì sẽ không bảo đảm tính hiệu quả và thiếu yếu tố bền vững.
Và sau hơn 7 năm chuẩn bị, đến ngày 27 tháng 12 năm 2013, huyện Từ Liêm được giải
thể để thành lập nên 2 quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.
Quận Bắc Từ Liêm có 4.335,34 ha diện tích tự nhiên và 320.414 nhân khẩu, gồm
địa giới hành chính của 9 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh
Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế và một phần diện tích thị trấn Cầu
Diễn. Đơn vị hành chính trực thuộc quận Bắc Từ Liêm gồm 13 phường: Thượng Cát,
Liên Mạc, Thụy Phương, Minh Khai, Tây Tựu, Đông Ngạc, Đức Thắng, Xuân Đỉnh,
Xuân Tảo, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn, Phú Diễn.
Quận Nam Từ Liêm có 3.227,36 ha diện tích tự nhiên và 232.894 nhân khẩu, gồm
diện tích trong địa giới hành chính của 7 xã: Mễ Trì, Mỹ Đình, Trung Văn, Tây Mỗ, Đại
Mỗ; một phần diện tích xã Xuân Phương, một phần diện tích thị trấn Cầu Diễn. Đơn vị
hành chính của 1uận Nam Từ Liêm gồm 10 phường: Trung Văn, Đại Mỗ, Tây Mỗ, Mễ
Trì, Phú Đô, Mỹ Đình 1, Mỹ Đình 2, Cầu Diễn, Phương Canh, Xuân Phương.
Kinh nghiệm từ huyện Từ Liêm cho thấy, tốc độ đô thị hóa ở các huyện ngoại
thành Hà Nội, nhất là các huyện ven đô đang diễn ra nhanh chóng, vì vậy Thành phố
cũng như các huyện cần có quy hoạch phân bố đồng đều giữa các khu dân cư, khu đô thị
phù hợp với địa bàn, chú trọng xây dựng cơ chế quản lý xã hội và phát triển xã hội cộng
đồng hiện đại thay cho cơ chế quản lý mang tính nông thôn truyền thống. Chú trọng hơn
nữa vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp nhằm hướng đến xây dựng chính quyền đô thị;
tăng cường những biện pháp quản lý xã hội chặt chẽ nhằm bảo đảm trật tự và an toàn xã
hội ở khu vực nông thôn, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư vào quản trị biến
đổi xã hội trong bối cảnh đô thị hóa. Thành phố và các huyện đã chủ động đưa ra những
giải pháp thực hiện xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, tạo cơ sở vững chắc để
chuyển đổi và thích ứng với quá trình đô thị hóa; từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ
thống đô thị có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi
trường và chất lượng sống đô thị tốt; có kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; bảo tồn 144
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp. Phát triển đô thị ổn định, bền
vững, trên cơ sở tổ chức không gian phù hợp; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất
đai, tiết kiệm năng lượng; bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái.
5.3.2. Vấn ề ào tạo và hát t i n ng ồn nhân lự
Cùng với phát triển kinh tế, trong giai đoạn 1996-2013, huyện Từ Liêm cũng chú
trọng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và
trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế
tri thức trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa từ năm 1996
đến năm 2013 đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của huyện Từ Liêm.
Năm 2006, tỷ lệ lao động qua đào tạo của toàn huyện là 39%, năm 2010 đã tăng lên
49%, là kết quả trực tiếp của quá trình đô thị hoá. Thực hiện theo Quyết định 1956/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, huyện Từ Liêm đã hoàn thiện Đề án "Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn huyện Từ Liêm (2011 - 2020)" với kinh phí hơn 38 tỷ đồng dành
cho 14.700 người đang được triển khai... Cùng đó là kế hoạch hỗ trợ chi phí học nghề
cho nhiều loại hình lao động qua cơ sở đào tạo nghề và Phòng Lao động - Thương binh
và Xã hội với nhiều hình thức hỗ trợ chi phí học nghề như kinh phí học nghề, kinh phí
đi lại… Huyện đã mở nhiều các khóa học nghề dài hạn và ngắn hạn tại Trung tâm
hướng nghiệp dạy nghề của huyện và tại các cơ sở liên kết khác với đa dạng các ngành
nghề như: điện dân dụng, nghề sửa chữa điện thoại, may thời trang, sửa chữa vi tính, xe
máy, ô tô, tin học văn phòng, nấu ăn, trồng rau an toàn…
Tuy nhiên, việc đào tạo nghề của huyện còn mang tính dàn trải, ồ ạt, chủ yếu dạy
các nghề mà trung tâm có chứ chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế, chưa có sự quan tâm
tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Việc vận động người dân học nghề mới chỉ mang tính
hình thức phong trào, chưa chú ý đến việc phổ biến và định hướng nghề học cho người
dân phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong huyện. Hơn nữa, trang thiết bị dạy
học hầu hết đã lạc hậu, ít được đầu tư nâng cấp. Việc đào tạo chủ yếu theo theo các
chương trình có sẵn, không đáp ứng nghề mà người học cần và nhu cầu của người sử
dụng lao động. Do đó chất lượng đào tạo chưa cao, nhiều lao động học xong vẫn khó
khăn trong việc tìm kiếm việc làm do trình độ không đáp ứng được yêu cầu của nhà
tuyển dụng. Hơn nữa, việc xã hôi hóa trong đào tạo nghề chưa phát triển, chưa có cơ chế
khuyến khích các tổ chức kinh tế sử dụng lao động tham gia chương trình đào tạo nghề.
Do đó, trong thời gian tới, hai quận Bắc và Nam Từ Liêm phải tập trung nâng cao
chất lượng đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu
phát triển của vùng và địa phương; Tăng cường đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho
người dân tiếp tục chuyển đổi việc làm nâng cao thu nhập; Điều chỉnh công tác đào tạo 145
nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao động; liên kết chặt chẽ giữa các trường dạy nghề với
doanh nghiệp nhằm đào tạo đội ngũ lao động lành ghề đáp ứng nhu cầu việc làm và sử
dụng lao động ở nông thôn ven đô.
5.3.3. Vấn ề giải t hài hò giữ hát t i n inh t và ời s ng hội
Từ thực tế tác động của ĐTH đối với sự phát triển kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm,
có thể thấy, đối với mỗi quốc gia/địa phương trong quá trình ĐTH, phát triển kinh tế là
nguồn động lực chính, nhu cầu tất yếu để đảm bảo cuộc sống. Tuy nhiên, để phát triển
kinh tế mà không chú ý đến những yếu tố văn hóa, xã hội, môi trường sống… thì chiến
lược phát triển kinh tế đó sẽ không bền vững. Do đó phải giải quyết hài hòa giữa phát
triển kinh tế với đời sống xã hội.
Thứ nhất, phát triển văn hóa phải hài hòa với phát triển kinh tế: Văn hóa là động
lực của sự phát triển, do đó cần phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, đồng
thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đối với vùng ven đô Hà Nội nói chung và huyện Từ
Liêm mà nay là hai quận Bắc và Nam Từ Liêm nói riêng, cần tuyên truyền giáo dục
cộng đồng dân cư thực hiện nếp sống văn minh đô thị; xây dựng lối sống và môi trường
văn hóa lành mạnh ở địa phương; nâng cao trách nhiệm xã hội và ý thức chấp hành pháp
luật của cư dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển đô thị ở Từ Liêm
và vùng ven đô Hà Nội. Thực hiện quản lý tốt hơn đối với dân nhập cự, góp phần lập lại
trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội ổn định, bền vững.
Thứ hai, xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng:
Xây dựng và củng cố vững chắc nông thôn theo các tiêu chí nông thôn mới, phù hợp với
đặc điểm từng vùng; giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của nông thôn
truyền thống. Coi trọng mối liên kết đô thị - nông thôn. Giảm bớt sự khác biệt giữa các
vùng, khu vực nông thôn với thành thị, giữa các cộng đồng dân cư và tạo sự hòa nhập xã
hội bền vững; Quản lý tốt lao động di cư để thúc đẩy phân bố dân cư, lao động hợp lý
giữa các vùng.
Thứ ba, nâng cao hệ thống an sinh xã hội cả số lượng và chất lượng như y tế, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe; bảo đảm an toàn thực phẩm; đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe
người dân theo hướng toàn diện.
Thứ tư, bảo vệ, khai thác hiệu quả và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên đất đai,
nguồn nước trên cơ sở quản lý, bảo đảm an ninh cho phát triển kinh tế - xã hội; sử dụng tiết
kiệm và tăng hiệu quả kinh tế trong sử dụng tài nguyên nước, đất đai. Tăng cường xây dựng
hệ thống thu gom và xử lý nước thải, rác thải ở các khu đô thị và khu công nghiệp; đẩy 146
mạnh nghiên cứu các biện pháp xử lý nước thải, rác thải từ hoạt động sản xuất, sinh hoạt
hàng ngày; nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.
i t h ơng 5:
Quá trình biến chuyển kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị
hóa trong giai đoạn 1996-2013 đã diễn ra một cách sâu rộng, toàn diện trên các lĩnh
vực kinh tế cũng như xã hội. Đô thị hóa đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã
hội của địa phương theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực.
Đô thị hóa trước hết tác động rõ nhất và mạnh nhất là đến sự thay đổi của hạ tầng
cơ sở đô thị như hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống đường ống cấp nước
sạch, các khu nhà ở cao tầng, các công trình công cộng, hệ thống hạ tầng thương mại
dịch vụ với các trung tâm thương mại, siêu thị và chợ dân sinh, hệ thống công viên giải
trí, khu cây xanh, trung tâm thể thao... Đồng thời, đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực phi
nông nghiệp và đi kèm theo đó là sự biến đổi về thành phần kinh tế và phân vùng kinh
tế. Đô thị hóa cũng trực tiếp tác động làm cho quy mô dân số của huyện tăng lên nhanh
chóng, tạo ra sự chuyển biến rất sâu sắc về cơ cấu lao động của Từ Liêm. Cùng với biến
chuyển về kinh tế, đô thị hóa cũng đã mang lại sự thay đổi đời sống của nhiều gia đình
theo chiều hướng tích cực cả trên phương diện đời sống kinh tế lẫn đời sống tinh thần,
điều kiện sống của người dân được cải thiện một cách rõ nét so với những năm trước
mốc nghiên cứu.
Bên cạnh những tác động tích cực, đô thị hóa cũng làm nảy sinh nhiều hệ lụy đối
với đời sống xã hội huyện Từ Liêm. Đó là hệ thống hạ tầng giao thông vẫn chưa phát
triển theo kịp tốc độ tăng dân số cơ học và sự phát triển của kinh tế - xã hội, là sự phân
hóa giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội ngày càng gia tăng, là áp lực giải quyết
vấn đề lao động việc làm, đào tạo nguồn lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt là
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác. Đô thị hóa
đồng thời kéo theo sự gia tăng nhanh chóng các loại tệ nạn xã hội, tác động xấu đến môi
trường sinh thái tại địa phương, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông do
chất thải, nước thải, rác thải và bụi công nghiệp.
Những vấn đề đặt ra đó đòi hỏi được nghiên cứu một cách cụ thể, khách quan và
khoa học để có thể giải quyết thấu đáo, tận gốc nhằm đảm bảo phát triển hài hòa giữa
nhiệm vụ kinh tế với văn hóa-xã hội; có như vậy địa phương mới có thể phát triển một
cách bền vững theo chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.
147
KẾT LUẬN
1. Từ năm 1996, cùng với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, bộ mặt đô thị của
huyện Từ Liêm nói riêng, của thành phố Hà Nội nói chung có những chuyển biến quan
trọng. Quá trình đô thị hóa ở Hà Nội đã nhanh chóng biến đổi nhiều khu vực ven đô
thành khu vực nội đô, nhiều khu vực ngoại ô trở thành vùng ven đô, trong đó có huyện
Từ Liêm. Từ Liêm là một huyện ngoại thành của Hà Nội có nhiều đặc trưng tiêu biểu
cho đô thị hóa vùng ven đô Hà Nội. Đô thị hóa đã mang lại cho Từ Liêm một bộ mặt
văn minh, hiện đại hơn và đồng thời cũng mang đến nhiều thay đổi tích cực trong cuộc
sống cả về vật chất lẫn tinh thần của người dân nơi đây. Cơ cấu kinh tế-xã hội đã có
nhiều biến đổi căn bản và sâu rộng, hệ thống cơ sở hạ tầng được xây dựng theo hướng
đô thị hóa, nhiều khu đô thị hiện đại xuất hiện, môi trường cảnh quan có nhiều thay đổi
phù hợp với lối sống đô thị... Trước năm 1996, Từ Liêm là một huyện thuần nông thì
hiện nay với những chính sách phát triển của Thủ đô, Từ Liêm đã được quy hoạch, xây
dựng lại và phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm hành chính của
Thủ đô Hà Nội. Có thể nói, trong giai đoạn 1996 đến 2013, huyện từ Liêm là huyện có
tốc độ đô thị hóa nhanh và chuyển biến kinh tế, xã hội mạnh nhất trong các huyện ngoại
thành của Hà Nội.
2. Quá trình đô thị hoá của huyện Từ Liêm đã dẫn tới sự chuyển biến mạnh mẽ và
toàn diện trên các lĩnh vực. Trên lĩnh vực kinh tế, trước hết là quá trình chuyển biến cơ
cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và thành phần kinh tế của một địa phương vùng
nông thôn ven đô sang đô thị. Từ một huyện thuần nông, lấy nông nghiệp là chính, kinh
tế huyện chuyển dịch theo hướng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ-thương mại và
sang thương mại-dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp, thương
mại-dịch vụ đã chiếm 98,2%, nông nghiệp chỉ còn 1,8%; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
đạt 90,8%, lao động nông nghiệp còn 9,2%.... Sự chuyển dịch về cơ cấu đã góp phần
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu
ngân sách của huyện và thành phố.
Trong nông nghiệp, huyện Từ Liêm chủ trương đưa sản xuất nông nghiệp phát
triển theo hướng đô thị sinh thái, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao hiệu quả
sản xuất nông nghiệp, tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích
lúa, rau, hạn chế phát triển vật nuôi, giữ vững diện tích hoa, cây cảnh, tăng cường ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Chuyển
148
dịch kinh tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm đã góp phần hình thành các vùng sản xuất
chuyên canh tập trung theo hướng kinh tế thị trường và xuất khẩu.
Công nghiệp và thủ công nghiệp được huyện đầu tư, đổi mới công nghệ, sắp xếp,
củng cố, tổ chức lại sản xuất, trong đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có bước
phát triển nhanh về cả số lượng và chất lượng. Huyện tập trung phát triển công nghiệp
và thủ công nghiệp có chọn lọc, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch. Bên
cạnh đó, huyện đã tạo điều kiện cho các khu công nghiệp trên địa bàn phát triển, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao.
Thương mại-dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển một cách mạnh mẽ và
rộng khắp. Từ một huyện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, dịch vụ-thương mại đã vươn
lên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các loại hình dịch vụ thịnh hành
như nhà ở, kinh doanh buôn bán nhỏ, bất động sản…
3. Kinh tế thay đổi đã làm cho đời sống xã hội của huyện Từ Liêm cũng biến đổi
mạnh mẽ; sự chuyển biến đó được thể hiện trên nhiều mặt như: dân cư, lao động việc
làm, đời sống cư dân, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và lối sống.
Trong bối cảnh đô thị hóa, cơ cấu dân cư huyện Từ Liêm tăng nhanh và liên tục
biến động. Dân số cơ học tăng nhanh, một mặt tạo ra lực lượng lao động dồi dào, có
chất lượng nhưng mặt khác tạo ra sự đa dạng của thành phần cư dân ở Từ Liêm.
Sự biến đổi trong lối sống của người dân ở huyện Từ Liêm được thể hiện rõ trong
việc thay đổi về kiến trúc, kết cấu nhà ở, trong sự chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp và
quá trình thích ứng của người dân với cuộc sống không còn ruộng đồng, trong quan hệ
cộng đồng cư dân từ cộng đồng làng xã sang cộng đồng đô thị và trong đời sống văn hoá
tinh thần. Có thể nhận thấy sự đa dạng về thành phần dân cư và khác biệt trong lối sống
là một sự pha trộn của lối sống đô thị và lối sống nông thôn ở Từ Liêm. Bên cạnh đó,
quá trình đô thị hoá cũng giúp cho người dân có phạm vi giao tiếp rộng với cường độ
cao, giảm các giao tiếp truyền thống, tăng cường các giao tiếp thứ cấp, theo chức năng
và vai trò, theo sở thích. Tuy nhiên, sự biến đổi của văn hoá và lối sống mặc dù diễn ra
trên nhiều mặt nhưng vẫn chưa có một sự thay đổi thật mạnh mẽ về chất.
Đối với giáo dục, đã có nhiều sự biến đổi tích cực, hệ thống trường học được đầu
tư xây dựng. Trong quá trình đô thị hóa nhanh, đa số người dân đều cố gắng đầu tư cho
con cái học tập, sẵn sàng cho con cái đi học thêm dù có tốn kém đến đâu và bất chấp nỗi
lo lắng về sự bội chi của ngân sách gia đình. Về y tế, người dân cũng khá hài lòng về hệ 149
thống y tế thôn xã về chăm sóc sức khỏe ban đầu, dịch vụ ngày càng thuận tiện hơn,
phong cách phục vụ của nhân viên y tế ngày càng tốt hơn, người dân yên tâm hơn vì có
thẻ bảo hiểm y tế.
4. Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hoá cũng đã làm các vấn đề xã
hội ở địa phương có nhiều thay đổi. Diện tích đất nông nghiệp, đất ở bị thu hẹp, tình
trạng thất nghiệp, thiếu việc làm gia tăng, sự chuyển đổi nghề nghiệp của người dân
chưa bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế ở địa phương, cơ sở hạ tầng chưa có sự đầu tư
thoả đáng, tệ nạn xã hội xuất hiện ngày một nhiều... Những vấn đề trên tác động trực
tiếp đến cuộc sống của người dân Từ Liêm.
Quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự thay đổi điều kiện sống là nguyên nhân dẫn
tới một bộ phận dân cư ở các địa phương khác chuyển đến Từ Liêm, làm cho mật độ dân
cư đông đúc, đồng thời đặt ra những vấn đề cấp bách phải giải quyết như công ăn việc
làm, vấn đề nhà ở và tệ nạn xã hội. Điều này dẫn tới trật tự xã hội ở địa phương ngày
càng thêm phức tạp. Hệ thống an sinh xã hội cần được hoàn thiện hơn để hỗ trợ những
nhóm yếu thế. Các chương trình tạo việc làm, phát triển nghề truyền thống... cần được
đầu tư đúng mức để giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập, nâng cao khả năng tiếp
cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội cơ bản.
Vấn đề ô nhiễm môi trường, việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, hệ thống
thủy nông, lấn chiếm lòng đề đường để làm nhà và xây dựng trái phép diễn ra thường
xuyên làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước và chất thải ở Từ Liêm. Hệ thống cơ sở hạ
tầng không đáp ứng đủ, đường xá nhỏ hẹp, nguồn nước ngầm bị đe dọa, nhiễm bẩn
nghiêm trọng, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề vì bụi công trường, khói xe, bãi
rác.... Như vậy, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã có những tác động toàn diện
đến đời sống kinh tế, xã hội của các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung, huyện Từ
Liêm nói riêng. Từ một cộng đồng nông thôn truyền thống đã trở thành cư dân đô thị
phát triển ở khu vực vùng ven Thủ đô Hà Nội. Bên cạnh những tác động tích cực là
một số những thách thức đặt ra cần phải có biện pháp để giải quyết. Hiện nay, huyện
Từ Liêm đã được chia thành 2 quận là Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, vì vậy cần có
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả những mặt đã đạt được và giải quyết tốt
những mặt hạn chế của quá trình đô thị hóa, góp phần phát triển toàn diện và bền
vững.
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Mạnh An, Nguyễn Mộng Tường. 2003. Lịch sử cách mạng xã Minh Khai
huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội 1930-2000, Nxb. Hà Nội.
2. Nguyễn Hoài An. 2012. Huy động vốn cho phát triển nông nghiệp Từ Liêm-Hà
Nội, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG HN.
3. Ari Kokko (Chủ biên, 2008). Việt Nam 20 năm đổi mới. Nxb. Thế giới, Hà Nội.
4. Nguyễn Thế á. 1998. Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị. Nxb. Xây dựng, Hà
Nội.
5. an Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm. áo cáo kết quả triển khai thực hiện
Chương trình 04 - CTr/HU của huyện ủy về phát triển và nâng cao hiệu quả kinh
tế giai đoạn 2006 - 2010, phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn
2011 - 2015.
6. an Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm. 2010. Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm
7. an Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì. 2011. Lịch sử Đảng bộ huyện Thanh
(1930-2010), Nxb. Chính trị-Hành chính.
Trì (1930-2010). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. an Chấp hành Đảng bộ huyện ia Lâm. 2015. Lịch sử Đảng bộ huyện Gia Lâm
(1930-2015), Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
9. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 1996. Văn kiện đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XII. Nxb. Hà Nội.
10. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2001. Văn kiện đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XIII. Nxb. Hà Nội.
11. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2006. Văn kiện đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XIV. Nxb. Hà Nội.
12. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2004. Lịch sử Đảng bộ Thành phố
Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội.
13. an Nông nghiệp Trung ương. 1991. Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày
nay, tập , , , Nxb. Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.
14. Vũ Đình ách (Chủ biên . 2008. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Công ằng. 2009. Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong
quá trình đô thị hóa, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
151
16. Trần Thị Hồng ích. 2014. Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông
nghiệp ở huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học
Kinh tế, ĐHQ HN.
17. oãn Thị ình. 2011. Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề
và tạo việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQ HN.
18. Nguyễn Thị ình. 2009. Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp
trong những năm 1986-2005, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
KHXH&NV, ĐHQ HN.
19. Vũ Quốc ình. 2011. Một số giải pháp đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn Hà Nội tới năm 2020, áo cáo khoa học đề tài cấp Thành phố, Viện Nghiên
cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.
20. Trần Văn ính. 1997. Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
21. ộ Chính Trị, Nghị Quyết 15 NQ/TW, ngày 15 tháng 12 năm 2000.
22. ộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 2001. Nông nghiệp Việt Nam, 61 tỉnh và
thành phố, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
23. Cục Thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Hà Nội các năm 1995, 1996, 2000,
2002, 2005, 2008, 2009, 2010, 2011, 2013.
24. Nguyễn Thị Phương Châm. 2009. Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, Nxb.
Văn hóa Thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Phương Châm. 2014. Chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa
hiện nay ở Xuân Đỉnh, Từ Liêm. Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5.
26. Nguyễn Sinh Cúc. 1991. Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt
Nam (1976-1990), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
27. Trường Chinh (1987 . Đổi mới đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại. Nxb.
Sự thật, Hà Nội.
28. Nguyễn Sinh Cúc. 2005. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 20 năm đổi mới, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 12.
29. Phạm Hùng Cường. 2001. Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn Đồng
bằng sông Hồng thành các đơn vị ở trong quá trình đô thị hoá, Luận án Tiến sĩ,
Đại học Xây dựng, Hà Nội.
30. Hoàng Văn Cường. 2004. Xóa đói giảm nghèo ở Từ Liêm - Hà Nội, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
152
31. Hoàng Văn Cường (Chủ biên . 2006. Định hướng phát triển kinh tế xã hội vùng
ngoại thành Hà Nội đến năm 2020, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
32. Nguyễn Việt Cường. 2011. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn các huyện ngoại thành Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân.
33. Nguyễn Tiến Công. 2009. Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp huyện
Từ Liêm trong xu thế đô thị hóa, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Môi trường
Hà Nội, Hà Nội.
34. Cấn Hữu ạn. 2010. Tạo việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị
hóa ở Hà Nội đến năm 2015, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
35. Lê Tiến ũng. 2016. Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại
thành từ năm 1991 đến năm 2008, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường
ĐHKHXH&NV, ĐHQ HN.
36. Nguyễn Thị Thùy ương. 2011. Lịch sử tụ cư, quá trình đô thị hóa và những đặc
điểm dân số học: nghiên cứu trường hợp phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội. Tạp
chí Xã hội học, số 2.
37. Nguyễn Đình ương (Chủ biên . 2014. Kinh tế - xã hội Hà Nội sau 5 năm mở
rộng địa giới hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996 . Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Phạm Ngọc Đăng. 2012. Biến đổi môi trường trong quá trình đô thị hóa Thủ đô
Hà Nội trong Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
40. Đỗ Thị Minh Đức. 2015. Gia tăng dân số và di dân trên địa bàn Hà Nội. Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Thủ đô Hà Nội: Truyền thống nguồn lực và định hướng phát
triển, Nxb. Chính trị, Hà Nội.
41. Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh. 2015. Di cư ở Hà Nội và những chính sách
quản lý trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội
phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.
42. Lê Quý Đôn. 2005. Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010, Báo
cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà Nội.
43. ùi Xuân Đính, Phạm Văn Thắm, Đỗ Thỉnh. 2010. Lịch sử cách mạng xã Thượng
Cát - huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội (1930-2009), Nxb. Hà Nội.
153
44. Ngô Xuân Giá. 2007. Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng
ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Hà iang. 2013. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình dưới
tác động của quá trình đô thị hóa (nghiên cứu trường hợp xã Cổ Nhuế, Từ Liêm,
Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội.
46. Nguyễn Thị Vĩnh Hà. 2006. Tác động của quá trình đô thị hóa đến cơ cấu lao động
và việc làm của các hộ gia đình huyện Từ Liêm - Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, ĐHQ HN.
47. Ngô Thái Hà. 2007. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo
hướng đô thị hóa ở huyện Từ Liêm (Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học
Kinh tế, ĐHQ HN.
48. Nguyễn Ngọc Hà. 2012. Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2011), Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà
Nội.
49. Đỗ Thị Lệ Hằng. 2008. Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp của cư dân vùng ven
đô trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Tâm lý học, số 3.
50. Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử. 1998. Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị
51. Trần Thị Thu Hiền. 2015. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
52. Hoàng Văn Hoa. 2005. Tác động của quá trình đô thị hóa đối với lao động, việc
làm ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
53. Huyện ủy Từ Liêm. Các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, báo cáo của an
Chấp hành, an Thường vụ Thường trực huyện ủy, từ khóa X đến khóa XX .
54. Huyện ủy Từ Liêm. 1990. Lịch sử cách mạng huyện Từ Liêm, tập 1 1926-1945,
Nxb. Hà Nội.
55. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XIX
nhiệm kỳ 1996-2000.
56. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XX
nhiệm kỳ 2000-2005.
57. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XXI
nhiệm kỳ 2006-2010.
154
58. Huyện ủy Từ Liêm. 2005. Báo cáo chính trị đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ
huyện Từ Liêm nhiệm kỳ 2005-2010.
59. Huyện ủy Từ Liêm. 2008. Lịch sử cách mạng xã Đại Mỗ (1930-2007), Nxb. Hà
Nội.
60. Phạm Thị Huyền. 2014. Đảng bộ huyện Từ Liêm (Hà Nội) lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQ HN.
61. Phan Thị Mai Hương. 2008. Chiến lược sống qua những dự định nghề nghiệp của
cư dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Tâm lý học, số 12.
62. Phan Thị Mai Hương (Chủ biên . 2010. Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng
ven đô trong quá trình đô thị hóa, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
63. Phan Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến (Chủ biên . 2006. Một số vấn đề kinh tế - xã
hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
64. Phạm Văn Khôi. 2004. Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng
nông nghiệp sinh thái, Nxb. Nông nghiệp.
65. Kim Kyung. 2009. Đô thị hóa và tác động của nó đến những biến đổi làng xã ngoại
thành Hà Nội (qua trường hợp làng Phú Đô), Luận văn thạc sĩ, Viện Việt Nam học
và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.
66. Kim Jong Ouk. 2009. Một số biến đổi ở làng xã châu thổ sông Hồng từ đầu thế kỷ
XIX đến giữa thế kỷ XX (qua trường hợp làng Mễ Trì), Luận án Tiến sĩ, Trường
ĐHKHXH&NV Hà Nội.
67. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì
hòa bình, Hà Nội, 2010.
68. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam trong thế kỷ XX. Nxb. Nxb. Chính trị Quốc gia,
2001.
69. Lê Tiểu La. 2007. Một số biến đổi xã hội ở nông thôn vùng ven đô Hà Nội trong
thời kỳ đổi mới, Học viện CT-HCQGHCM.
70. Nguyễn Đình Long. 2004. Nghiên cứu giải pháp và đề xuất mô hình ứng dụng
khoa học - công nghệ để dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn -
Thành phố Hà Nội, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Sở khoa học và Công
nghệ Hà Nội.
71. Ngô Thắng L i. 2010. Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ góc độ phát triển bền vững
trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh
hùng vì hòa bình. Hà Nội.
155
72. Liên hiệp xã thủ công nghiệp Hà Nội. 1985. Tiểu thủ công nghiệp Từ Liêm trước
đây, hiện nay và sau này, Lưu tại an Tuyên giáo huyện ủy Từ Liêm.
73. Nguyễn Văn Linh (1987 . Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt
động. Nxb. Sự thật, Hà Nội.
74. Lisa Drummond. 1998. Đô thị hóa ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh trong Kỷ yếu
Hội nghị quốc tế về nghiên cứu Việt Nam và tăng cường sự h p tác quốc tế, Hà
Nội.
75. Lisa Drummond. 2008. Những hình ảnh của tầng lớp trung lưu ở một thành phố
đang chuyển mình trong Kỷ yếu hội thảo về “Các xu hướng đô thị hóa và đô thị
hóa vùng ven Đông Nam Á”, Thành phố Hồ Chí Minh.
76. Đặng Thị Loan (Chủ biên, 2006 . Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 -
2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra. Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
77. Đỗ Thị Thanh Loan. 2015. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo điều chỉnh địa giới
hành chính Thành phố Hà Nội từ 1978 đến 2008, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường
Đại học KHXH&NV, ĐHQ HN.
78. Phan Đăng Long. 2015. Văn hóa lối sống đô thị Hà Nội (từ năm 1986 đến nay),
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
79. Hoàng Văn Luân. 2005. Đào tạo nghề cho người lao động ở ngoại thành Hà Nội
hiện nay (trường hợp huyện Từ Liêm), Đề tài khoa học cấp trường Đại học Quốc
gia Hà Nội.
80. Trịnh uy Luân, Michael Leaf (Chủ biên . 1996. Vấn đề nhà ở đô thị trong nền
kinh tế thị trường của thế giới thứ ba, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Trịnh uy Luân. 1999. Những biến đổi kinh tế - xã hội ở Dịch Vọng trong quá
trình đô thị hóa từ làng, xã thành phường. Đề tài cấp Viện, Viện Xã hội học.
82. Trịnh uy Luân. 2000. Hà Nội: một số biến đổi trong đời sống và diện mạo đô thị
hiện nay trong Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, Nxb. Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
83. Trịnh uy Luân. 2004. Xã hội học đô thị, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Hoa Hữu Lân. 2010. Điều tra xã hội học về đời sống văn hoá-xã hội của Hà Nội
sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Viện Nghiên cứu Kinh tế-xã
hội Hà Nội.
85. Phạm Trọng Mạnh, Phạm Quang Huân. 2015. Quy hoạch nông thôn mới ở ngoại
thành Hà Nội trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thủ đô Hà Nội: Truyền thống,
nguồn lực, định hướng phát triển, Hà Nội.
156
86. Mike Douglass (2008). Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công
cộng. Kỷ yếu hội thảo về Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở Đông
Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.
87. Nguyễn Hữu Minh. 2005. Biến đổi kinh tế xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá
trình đô thị hóa. Tạp chí Xã hội học, số 1.
88. Lê Văn Nãi. 2004. Nghiên cứu đánh giá các mặt tích cực, tồn tại trong quá trình đô
thị hóa làng-xã thành phường ở Hà Nội và kiến nghị các giải pháp khắc phục, Tạp
chí Người xây dựng, số 2.
89. Phạm Xuân Nam. 1991. Đổi mới kinh tế - xã hội: thành tựu, vấn đề và giải pháp,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
90. Phạm Xuân Nam. 2001. Mấy nét tổng quan về quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở
Việt Nam 15 năm qua, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
91. Phạm Xuân Nam. 2001. Nhìn lại bước thăng trầm của nông nghiệp, nông thôn
nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.
92. Phạm Thị Kim Ngân. 2003. Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo công tác quy hoạch xây
dựng đô thị thời kỳ 1991-2000, Luận văn thạc sĩ, Khoa Lịch sử, Trường
ĐHKHXH&NV.
93. Nguyễn Quang Ngọc, ùi Văn Tuấn. 2015. Quy hoạch và phát triển đô thị Hà Nội
giai đoạn 1945-2015: Thực trạng và thách thức trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học:
Thủ đô Hà Nội: Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, Hà Nội.
94. Trần Đức Ngôn (Chủ biên . 2005. Văn hóa truyền thống ngoại thành Hà Nội dưới
tác động của kinh tế thị trường, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
95. Cao Thị Nhàn. 2006. Tác động của đô thị hóa tới quá trình chuyển đổi việc làm
của nông dân ven đô (trường hợp thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội),
Luận văn tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQ HN.
96. Những vấn đề kinh tế-xã hội ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
97. Nghị quyết số 132/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm
để thành lập 02 quận và 23 phường thuộc Thành phố Hà Nội.
98. Đặng Kim Oanh. 2005. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1.
99. Phát triển bền vững kinh tế-xã hội các thành phố theo hướng hiện đại, Nxb. Chính
trị Quốc gia và Sự thật, Hà Nội, 2012.
157
100. Lê Quang Phi. 2012. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến 2002, Luận án tiến sĩ,
Học viện Chính trị quân sự.
101. Lê u Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa. 2002. Ảnh hưởng của đô thị hoá
đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
102. Phòng Lao động-Thương binh và xã hội. áo cáo tình hình lao động, việc làm
huyện Từ Liêm 2001-2006.
103. Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Từ Liêm. Thống kê đất đai huyện Từ Liêm
các năm 1996, 2000, 2005, 2010, 2011, 2012, 2013.
104. Phòng Thống kê huyện Từ Liêm. Niên giám thống kê huyện Từ Liêm các năm
1996, 2000, 2005, 2010, 2012, 2013.
105. ùi Thị Kim Phương. 2010. Từ làng đến phố: Đô thị hóa và quá trình chuyển đổi
lối sống ở một làng ven đô Hà Nội (trường hợp phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội ., Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
106. Đỗ Lan Phương. 2014. Lễ hội ở Xuân Đỉnh: Sự phục hồi và kiếm tìm bản sắc
cộng đồng đương đại, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5.
107. Ngô Thị Phư ng. 2008. Một số biến đổi trong đời sống xã hội nông thôn Việt
Nam từ Việt Nam từ quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp hiện
nay. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam hội nhập và phát
triển, Hà Nội.
108. Lương Hồng Quang (chủ biên . 2011. Câu chuyện làng Giang, Nxb. Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
109. Vũ Hào Quang. 2008. Tác động của đô thị hóa đến tính cố kết cộng đồng ở nông
thôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương). Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội.
110. Quyết định số 12/2002/QĐ-U của U N Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2010,
ngày 07 tháng 02 năm 2002.
111. Quyết định số 1259/QĐ-TTg về Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến
năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 đã đư c Thủ tướng phê duyệt ngày 26 tháng 7
năm 2011.
112. Lê Thanh Sang. 2008. Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi
mới 1979-1989 và 1889-1999, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
158
113. Võ Văn Sen, Huỳnh Đức Thiện. 2015 Biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội trong tiến
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa: cơ hội và thách thức trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học: Thủ đô Hà Nội: Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, Hà
Nội.
114. Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Hà Nội. 2005. Báo cáo quy hoạch phát
triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
115. Nguyễn Trường Sơn. 2015. Giải pháp phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa: nghiên cứu điển hỉnh tại huyện Từ Liêm, Luận án tiến sĩ
Quản trị kinh doanh, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
116. Nguyễn Văn Sửu. 2008. Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế
của nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ ba Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội.
117. Nguyễn Văn Sửu. 2014. Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô
118. Thành ủy Hà Nội. 1996. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ
Hà Nội, Nxb. Trí thức, Hà Nội.
Thành phố, Hồ sơ vẫn đề công tác kinh tế khóa XII (1996-2000). Hộp số 590,
119. Thành ủy Hà Nội. 1996. Kế hoạch tiếp tục thực hiện chương trình 06 của Thành
Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
tủy về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới Thủ đô đến năm
120. Thành ủy Hà Nội. 2006. Chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước
2000. Hồ sơ vấn đề công tác kinh tế khóa X (1996-2000 , hộp số 590, Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006-2010, Hồ sơ vấn đề công tác kinh tế khóa
XIV (2006-2010 , hộp số 999, Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
121. Thành ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Thành phố Hà Nội. 2015. 60 năm giải phóng Thủ đô: Thành tựu, thời cơ,
thách thức và phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
122. Nguyễn Thị Thọ. 2005. Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế
chính trị, Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
123. Phạm Quý Thọ (2015 . Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi. Nxb. Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
159
124. Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú. 2006. Phát triển kinh tế vùng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125. Nguyễn Văn Thường (2004 . Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới (Nguyễn Văn Thường chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
126. Thời báo Kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2009-2010.
127. Trương Thị Tiến. 1999. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Lê Xuân Trinh (1990). Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương
hướng và giải pháp chủ yếu. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
129. Nguyễn Phú Trọng (2006 . Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý
luận và thực tiễn. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Văn Toàn. Sử dụng tài nguyên đất Hà Nội theo hướng bền vững trong Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì
hòa bình. an chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội.
131. Lê Xuân Tú. 2015. Đảng bộ huyện Từ Liêm (Hà Nội) lãnh đạo bảo vệ môi trường
sinh thái từ năm 1996 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQ HN.
132. ùi Văn Tuấn. 2012. Đô thị hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà
Nội (trường hợp nghiên cứu xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn thạc sĩ,
Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, ĐHQ HN.
133. ùi Văn Tuấn. 2017. Biến đổi xã hội vùng ven đô Hà Nội trong bối cảnh đô thị
hóa (trường hợp huyện Từ Liêm từ 1996 đến 2013), Luận án Tiến sĩ Việt Nam học,
Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, ĐHQ HN.
134. Đào Thế Tuấn. 2008. Đô thị hóa vùng ven đô ở Hà Nội, Kỷ yếu hội thảo về Các
xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven đô ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí
Minh.
135. Nguyễn Đình Tuấn. 2013. Biến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư vùng đô thị
hóa (nghiên cứu trường hợp tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà Nội),
Luận án Tiến sĩ nhân học, Học viện Khoa học xã hội.
136. Nguyễn Kế Tuấn. 2006. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
ở Việt Nam con đường và bước đi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
137. Nguyễn Ngọc Tuấn. 2003. Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường vùng ven
đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
138. Nguyễn Thanh Tuấn. 2006. Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam, Nxb. Văn hóa
Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
160
139. Nguyễn Mộng Tường, Nguyễn Thị Thuỷ, Nguyễn Đức Hùng. 2007. Lịch sử cách
140. Nguyễn Mạnh Tưởng. 2016. Thành tựu về phát triển kinh tế nông nghiệp huyện
mạng xã Thuỵ Phương huyện Từ Liêm - Hà Nội (1972-2006). Nxb. Hà Nội.
Gia Lâm (2003-2015). Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2.
141. Nguyễn Mạnh Tưởng. Quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở huyện Gia Lâm (Hà
Nội) từ năm 1986 đến năm 2010. Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã
hội, 2018.
142. Tổng cục thống kê. 2002. Tư liệu kinh tế - xã hội 631 huyện, quận, Nxb. Thống kê.
143. Tổng cục thống kê. 2006. Tư liệu kinh tế - xã hội 671 huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh Việt Nam, Nxb. Thống kê.
144. Ngô Đăng Tri, Đỗ Thị Thanh Loan. Bốn lần điều chỉnh địa giới hành chính Thành
phố Hà Nội (1954-2008) - Ý nghĩa và kinh nghiệm trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình. an chỉ đạo
quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội.
145. Tôn Nữ Quỳnh Trân, Trương Hoàng Trương. 2010. Hà Nội đô thị hóa trong bổi
cảnh đô thị hóa chung của cả nước. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, Hà Nội.
146. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2000, áo cáo chiến lư c phát triển kinh tế
xã hội thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001-2010.
147. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2001, áo cáo Chương trình phát triển kinh
tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn, số 12 CTr-TU.
148. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2005. áo cáo tổng kết 5 năm Chương trình
12/CTr-Tu phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn
(2001-2005 , định hướng phát triển giai đoạn 2006-2010.
149. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2005. áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội các huyện ngoại thành đến năm 2010.
150. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo tổng kết sản xuất nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới huyện Từ Liêm 1992-1994.
151. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm các năm 1995, 1996, 1999, 2000, 2001, 2003, 2005,
2010, 2012, 2013.
152. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo sơ kết 4 năm (2001-2004 thực hiện
Chương trình 12/Ctr-TU của Huyện ủy Từ Liêm.
153. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo quy hoạch sử dụng đất huyện Từ Liêm
thời kỳ 2001-2010.
161
154. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-
xã hội huyện Từ Liêm đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
155. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 1997. áo cáo tình hình phát triển kinh tế, xây
dựng nông thôn mới năm 1996, phương hướng nhiệm vụ năm 1997.
156. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2001, áo cáo tổng h p quy hoạch phát triển
kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2010.
157. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tình hình phát triển kinh tế từ
năm 1980 đến năm 2005.
158. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tình hình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp huyện Từ Liêm từ năm 1995 đến năm 2005.
159. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo thực trạng sản xuất nông nghiệp,
cơ sở hạ tầng nông thôn, tình hình nông dân và hiện trạng các công trình thủy l i
trên địa bàn huyện Từ Liêm (1995-2005).
160. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tổng kết chương trình 01/CT-HU
về phát triển kinh tế huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2005.
161. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. Quy hoạch chi tiết phát triển kinh tế xã
hội giai đoạn đến năm 2010 của các xã thuộc huyện Từ Liêm.
162. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2006. áo cáo tình hình phân cấp quản lý kinh
tế-xã hội năm 2001-2005.
163. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2009. áo cáo tổng kết 20 năm thực hiện đường
lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm (1991-2009).
164. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2010. anh mục hệ thống bảng, biểu khảo sát
phục vụ xây dựng quy hoạch phát triển nghề và làng nghề huyện Từ Liêm.
165. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2012. áo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013.
166. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2013. áo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội và dự toán thu chi ngân sách năm 2013, phương hướng, kế
hoạch năm 2014.
167. U N xã Đông Ngạc. 2011. Lịch sử cách mạng xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm -
Thành phố Hà Nội 1930-2010.
168. UBND xã Minh Khai. 2001. Lịch sử cách mạng xã Minh Khai huyện Từ Liêm -
Thành phố Hà Nội 1930-2000.
169. U N xã Thụy Phương. 2007. Lịch sử cách mạng xã Thụy Phương huyện Từ
Liêm - Hà Nội (1972-2006).
162
170. U N xã Thư ng Cát. 2001. Lịch sử cách mạng xã Thượng Cát huyện Từ Liêm -
Thành phố Hà Nội (1930-2000).
171. U N xã Mễ Trì. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Mễ Trì năm 2013.
172. U N xã Trung Văn. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Trung Văn năm
2013.
173. U N xã Tây Mỗ. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Tây Mỗ năm 2013.
174. Đoàn Thị Yến. 2007. Tạo việc làm cho người lao động huyện Từ Liêm - Hà Nội
đến năm 2015, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
175. Trần Thị Hồng Yến. 2014. Biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá
trình đô thị hóa tại Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
176. Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN. Nxb. Lao động,
Hà Nội, 2006.
177. Nguyễn Thị Ngọc Vân (Chủ biên . 2010. Hà Nội qua số liệu thống kê, Nxb. Hà
Nội.
178. Nguyễn Thị Hải Vân. 2013. Đô thị hóa và việc làm, lao động ở ngoại thành Hà
Nội, Nxb. Khoa học xã hội.
179. Trần Thị Tường Vân. 2008. Kinh tế - xã hội vùng nông thôn huyện Gia Lâm - Hà
Nội trên tiến trình đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
180. Vấn đề đào tạo nghề cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị
hóa. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ộ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 2005.
181. Viện Sử học. Lịch sử Việt Nam - Tập 15 (từ năm 1986 đến năm 2000). Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2017.
182. Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN, Nxb. Lao động,
Hà Nội, 2006.
183. Trần Thị Hồng Việt. 2002. Phát triển nông nghiệp đô thị, sinh thái ở huyện Từ
Liêm, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
184. Trần Thị Hồng Việt. 2005. Sắc màu sinh thái trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà
Nội những năm đầu chuyển dịch, Tạp chí Kinh tế và Phát triển - Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
185. Trần Thị Hồng Việt. 2006. Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản đồ hành chính huyện Từ Liêm
164
Phụ lục 2
Các nghị định của Chính phủ liên quan đến việc điều chỉnh địa giới
hành chính huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013
CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
********
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 69-CP
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 1995
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 69-CP NGÀY 28 THÁNG 10 NĂM 1995 VỀ VIỆC THÀNH LẬP QUẬN TÂY
HỒ THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và ộ trưởng, Trưởng ban an Tổ chức -
Cán bộ Chính phủ,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Nay thành lập quận Tây Hồ và các phường thuộc quận Tây Hồ thuộc thành phố Hà Nội như
sau:
1. Thành lập quận Tây Hồ trên cơ sở các phường: Bưởi, Thuỵ Khê, Yên Phụ của quận Ba Đình và các
xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thư ng của huyện Tư Liêm.
2. Thành lập các phường: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc quận Tây Hồ trên
cơ sở các xã Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng cũ.
- Phường Tứ Liên có 351,1 hécta diện tích tự nhiên và 4480 nhân khẩu;
- Phường Nhật Tân có 103,5 hécta diện tích tự nhiên và 6914 nhân khẩu;
- Phường Quảng An có 345,8 hécta diện tích tự nhiên và 4796 nhân khẩu;
- Phường Xuân La có 217,7 hécta diện tích tự nhiên và 6386 nhân khẩu;
- Phường Phú Thượng có 601,6 hécta diện tích tự nhiên và 7386 nhân khẩu;
3. Quận Tây Hồ có diện tích tự nhiên: 2.042,7 hécta và 69.713 nhân khẩu; gồm 8 phường: Bưởi, Thuỵ
Khê, Yên Phụ, Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng.
Địa giới quận Tây Hồ: phía Đông giáp huyện Gia Lâm và quận Ba Đình; phía Tây giáp huyện Từ Liêm;
phía Nam giáp quận Ba Đình; phía Bắc giáp huyện Đông Anh.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:
- Quận Ba Đình còn lại 909 hécta diện tích tự nhiên và 170.348 nhân khẩu gồm 12 phường: Phúc Xá,
Nguyễn Trung Trực, Trúc Bạch, Quán Thánh, Cống Vị, Cầu Giấy, Ngọc Hà, Kim Mã, Đội Cấn, Điện
Biên, Giảng Võ, Thành Công.
- Huyện Từ Liêm còn lại 8.870 hécta diện tích tự nhiên và 288.023 nhân khẩu gồm 24 đơn vị hành chính
là các xã: ịch Vọng, Yên Hoà, Trung Hoà, Nhân Chính, Cổ Nhuế, Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại Mỗ,
165
Phú iễn, Tây Tựu, Thư ng Cát, Liên Mạc, Thuỵ Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Mễ Trì, Minh Khai,
Mỹ Đình, Trung Văn, và các thị trấn: Cầu iấy, Nghĩa Đô, Cầu iễn, Mai ịch, Nghĩa Tân.
Điều 2.- Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với Nghị định này đều bị bãi
bỏ.
Điều 3.- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ trưởng, Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Võ Văn Kiệt
(Đã ký)
166
CHÍNH PHỦ ********
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 74-CP
Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 1996
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 74-CP NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1996 VỀ VIỆC THÀNH LẬP QUẬN
THANH XUÂN, QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH LẬP VÀ ĐỔI TÊN MỘT SỐ PHƯỜNG THUỘC
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và ộ trưởng - Trưởng ban Tổ chức - Cán
bộ Chính phủ,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Nay thành lập Quận Thanh Xuân, quận Cầu Giấy, thành lập và đổi tên một số phường thuộc
thành phố Hà Nội như sau:
I- Thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các phường
Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Kim Giang, Phương Liệt; 78,1 ha diện tích tự nhiên và
20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường
Khương Thượng (thuộc quận Đống Đa); toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân Chính
(huyện Từ Liêm và xã Khương Đình (huyện Thanh Trì).
- Quận Thanh Xuân có diện tích tự nhiên 913,2 ha và 117.863 nhân khẩu, gồm 11 đơn vị hành chính
trực thuộc là:
1- Phường Thanh Xuân (được đổi tên thành phường Thanh Xuân Trung) có 106,2 ha diện tích tự nhiên
và 11.036 nhân khẩu.
2. Phường Thượng Đình có 65,8 ha diện tích tự nhiên và 13.516 nhân khẩu.
3- Phường Kim Giang có 22,3 ha diện tích tự nhiên và 8.387 nhân khẩu.
4- Phường Phương Liệt có 102,8 ha diện tích tự nhiên và 13.030 nhân khẩu.
5- Phường Thanh Xuân Nam được thành lập trên cơ sở 32,8 ha diện tích tự nhiên và 8.266 nhân khẩu
của phường Thanh Xuân Bắc.
Địa giới phường Thanh Xuân Nam: Đông giáp phường Hạ Đình, phường Thanh Xuân Trung; Tây giáp
xã Trung Văn (huyện Từ Liêm); Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì), phường Văn Mỗ (thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Tây), Bắc giáp phường Thanh Xuân Bắc.
6- Phường Thanh Xuân Bắc còn lại 48,4 ha diện tích tự nhiên và 17.857 nhân khẩu.
7- Phường Khương Mai được thành lập trên cơ sở 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của
phường Khương Thượng.
Địa giới phường Phương Mai: Đông giáp phường Phương Liệt; Tây giáp phường Khương Trung; Nam
giáp xã Định Công (huyện Thanh Trì); Bắc giáp phường Khương Thượng (quận Đống Đa).
Phường Khương Thượng (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 33,5 ha diện
tích tự nhiên và 10.010 nhân khẩu.
167
8- Phường Khương Trung được thành lập trên cơ sở 78,1 ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của
phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa).
Địa giới phường Khương Trung: Đông giáp phường Khương Mai; Tây giáp phường Thượng Đình; Nam
giáp phường Khương Đình và xã Định Công (huyện Thanh trì); Bắc giáp phường Nguyễn Trãi (quận
Đống Đa).
Phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 23,4 ha diện tích tự
nhiên và 11.230 nhân khẩu, được đổi tên thành phường Ngã Tư Sở.
9- Phường Khương Đình được thành lập trên cơ sở 138,9 ha diện tích tự nhiên và 5.929 nhân khẩu của
xã Khương Đình.
Địa giới phường Khương Đình: Đông giáp xã Định Công (huyện Thanh Trì); Tây giáp phường Hạ Đình;
Nam giáp phường Kim Giang và xã Đại Kim (huyện Thanh Trì); Bắc giáp phường Khương Trung.
10- Phường Hạ Đình được thành lập trên cơ sở phần còn lại của xã Khương Đình gồm 58,6 ha diện tích
tự nhiên và 4.245 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Hạ Đình: Đông giáp phường Khương Đình; Tây giáp phường Thanh Xuân
Trung, Thanh Xuân Nam; Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì); và phường Kim Giang; Bắc giáp
phường Thượng Đình.
11- Phường Nhân Chính được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân
Chính, gồm 160,9 ha và 9.229 nhân khẩu.
Địa giới quận Thanh Xuân: Đông giáp quận Hai Bà Trưng, Tây giáp huyện Từ Liêm và thị xã Hà Đông
(tỉnh Hà Tây); Nam giáp huyện Thanh Trì; Bắc giáp quận Đống Đa và quận Cầu Giấy.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính quận Đống Đa còn lại 993,9 ha diện tích tự nhiên và 268.858
nhân khẩu gồm 21 phường: Văn Miếu, Văn Chương, Cát Linh, Quốc Tử Giám, Hàng Bột, Ô Chợ Dừa,
Nam Đồng, Quang Trung, Trung Liệt, Thổ Quan, Khâm Thiên, Trung Phụng, Phương Liên, Kim Liên,
Trung Tự, Láng Hạ, Phương Mai, Láng Thượng, Thịnh Quang, Khương Thượng, Ngã Tư Sở.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Trì còn lại 9.791 ha diện tích tự nhiên và 195.757
nhân khẩu, gồm 24 xã: Tân Triều, Yên Sở, Thanh Trì, Trần Phú, Hoàng Liệt, Lĩnh Nam, Tứ Hiệp, Vĩnh
Tuy, Đại Kim, Thịnh Liệt, Định Công, Thanh Liệt, Yên Mỹ, Vĩnh Quỳnh, Hiểu Hoà, Tả Thanh Oai,
Tam Hiệp, Liên Ninh, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Duyên Hà, Đông Mỹ, Đại Đúng, Vạn Phúc và thị trấn Văn
Điển.
II- Thành lập quận Cầu Giấy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các thị trấn: Cầu
iấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai ịch và các xã ịch Vọng, Yên Hoà, Trung Hoà của huyện Từ Liêm.
Quận Cầu Giấy có diện tích tự nhiên 1.210,07 ha và 82.994 nhân khẩu, gồm 7 đơn vị hành chính trực
thuộc là:
1- Phường Quan Hoa được thành lập trên cơ sở thị trấn Cầu Giấy, có diện tích tự nhiên 99,9 ha và
13.716 nhân khẩu.
2- Phường Nghĩa Đô được thành lập trên cơ sở thị trấn Nghĩa Đô, có diện tích tự nhiên 128,7 ha và
13.753 nhân khẩu.
3- Phường Nghĩa Tân được thành lập trên cơ sở thị trấn Nghĩa Tân, có diện tích tự nhiên 57,37 ha và
14.519 nhân khẩu.
168
4- Phường Mai Dịch được thành lập trên cơ sở thị trấn Mai Dịch, có diện tích tự nhiên 208,4 ha và
13.087 nhân khẩu.
5- Phường Dịch Vọng được thành lập trên cơ sở Xã Dịch Vọng, có diện tích tự nhiên 262,7 ha và 9.613
nhân khẩu.
6- Phường Yên Hoà được thành lập trên cơ sở xã Yên Hoà, có diện tích tự nhiên 207,2 ha và 9.204 nhân
khẩu.
7- Phường Trung Hoà được thành lập trên cơ cơ cở xã Trung Hoà, có diện tích tự nhiên 245,8 ha và
9.102 nhân khẩu.
Địa giới Quận Cầu Giấy: Đông giáp quận Tây Hồ, quận Ba Đình và Quận Đống Đa; Tây giáp huyện Từ
Liêm; Nam giáp quận Thanh Xuân; Bắc giáp huyện Từ Liêm và quận Tây Hồ.
Sau khi điều chỉnh địa giới huyện Từ Liêm còn lại 7.499,63 ha diện tích tự nhiên và 156.690 nhân khẩu,
gồm 16 đơn vị hành chính, gồm các xã: Mỹ Đình, Tây Tự, Phú iễn, Minh Khai, Thư ng Cát, Liên Mạc,
Thuỵ Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân Phương và
thị trấn Cầu iễn.
III- Đổi tên các phường sau:
- Đổi tên phường Cầu Giấy thuộc quận Ba Đình thành Phường Ngọc Khánh.
- Đổi tên phường Nguyễn Trãi thuộc quận Đống Đa (sau khi đã điều chỉnh địa giới hành chính) thành
phường Ngã Tư Sở.
- Đổi tên phường Thanh Xuân thuộc quận Thanh Xuân (sau khi đã điều chỉnh địa giới hành chính) thành
phường Thanh Xuân Trung.
Điều 2.- Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Mọi quy định trước đây trái với Nghị định này
đều bãi bỏ.
Điều 3.- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Võ Văn Kiệt
(Đã ký)
169
CHÍNH PHỦ -------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 132/NQ-CP
Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2013
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH HUYỆN TỪ LIÊM ĐỂ THÀNH LẬP 02 QUẬN VÀ 23 PHƯỜNG THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Xét đề nghị của ộ trưởng ộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 quận và 23 phường thuộc thành phố Hà Nội.
1. Thành lập quận Bắc Từ Liêm và 13 phường trực thuộc.
a) Thành lập quận Bắc Từ Liêm trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ Liêm có 4.335,34 ha diện tích tự nhiên và 320.414 nhân khẩu.
Địa giới hành chính quận Bắc Từ Liêm: Đông giáp các quận Cầu Giấy và Tây Hồ; Tây giáp các huyện Hoài Đức và Đan Phượng; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp huyện Đông Anh.
b) Thành lập 13 phường thuộc quận Bắc Từ Liêm:
- Thành lập phường Thượng Cát trên cơ sở toàn bộ 388,90 ha diện tích tự nhiên và 10.000 nhân khẩu của xã Thượng Cát.
Địa giới hành chính phường Thượng Cát: Đông giáp phường Liên Mạc; Tây giáp huyện Đan Phượng; Nam giáp phường Tây Tựu; Bắc giáp huyện Đông Anh.
- Thành lập phường Liên Mạc trên cơ sở toàn bộ 598,70 ha diện tích tự nhiên và 12.966 nhân khẩu của xã Liên Mạc.
Địa giới hành chính phường Liên Mạc: Đông giáp phường Thụy Phương; Tây giáp phường Thượng Cát; Nam giáp các phường Tây Tựu và Minh Khai; Bắc giáp huyện Đông Anh.
- Thành lập phường Thụy Phương trên cơ sở toàn bộ 287,59 ha diện tích tự nhiên và 13.753 nhân khẩu của xã Thụy Phương.
Địa giới hành chính phường Thụy Phương: Đông giáp các phường Đông Ngạc và Đức Thắng; Tây giáp phường Liên Mạc; Nam giáp các phường Cổ Nhuế 2 và Minh Khai; Bắc giáp huyện Đông Anh.
- Thành lập phường Minh Khai trên cơ sở toàn bộ 485,91 ha diện tích tự nhiên và 36.709 nhân khẩu của xã Minh Khai.
Địa giới hành chính phường Minh Khai: Đông giáp các phường Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn và Phú Diễn; Tây giáp phường Tây Tựu; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp các phường Liên Mạc và Thụy Phương.
170
- Thành lập phường Tây Tựu trên cơ sở toàn bộ 530,18 ha diện tích tự nhiên và 26.970 nhân khẩu của xã Tây Tựu; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương. Phường Tây Tựu có 539,48 ha diện tích tự nhiên và 27.566 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Tây Tựu: Đông giáp phường Minh Khai; Tây giáp các huyện Đan Phượng và Hoài Đức; Nam giáp các phường Minh Khai và Phương Canh; Bắc giáp các phường Thượng Cát và Liên Mạc.
- Thành lập phường Đông Ngạc trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Đông Ngạc. Phường Đông Ngạc có 241 ha diện tích tự nhiên và 23.922 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Đông Ngạc: Đông giáp quận Tây Hồ; Tây giáp phường Thụy Phương; Nam giáp các phường Xuân Đỉnh và Đức Thắng; Bắc giáp huyện Đông Anh.
- Thành lập phường Đức Thắng trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Đông Ngạc. Phường Đức Thắng có 120 ha diện tích tự nhiên và 19.923 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Đức Thắng: Đông giáp phường Xuân Đỉnh; Tây giáp phường Thụy Phương; Nam giáp phường Cổ Nhuế 2; Bắc giáp phường Đông Ngạc.
- Thành lập phường Xuân Đỉnh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Đỉnh. Phường Xuân Đỉnh có 352,20 ha diện tích tự nhiên và 33.659 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Xuân Đỉnh: Đông giáp quận Tây Hồ và phường Xuân Tảo; Tây giáp các phường Đức Thắng và Cổ Nhuế 2; Nam giáp phường Xuân Tảo; Bắc giáp phường Đông Ngạc.
- Thành lập phường Xuân Tảo trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Xuân Đỉnh. Phường Xuân Tảo có 226,30 ha diện tích tự nhiên và 12.622 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Xuân Tảo: Đông giáp quận Tây Hồ; Tây giáp phường Cổ Nhuế 1; Nam giáp quận Tây Hồ; Bắc giáp phường Xuân Đỉnh.
- Thành lập phường Cổ Nhuế 1 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số (217,70 ha và 33.346 nhân khẩu) của xã Cổ Nhuế; 3,30 ha diện tích tự nhiên và 372 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Phường Cổ Nhuế 1 có 221 ha diện tích tự nhiên và 33.718 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Cổ Nhuế 1: Đông giáp phường Xuân Tảo và quận Cầu Giấy; Tây giáp các phường Phú Diễn và Cổ Nhuế 2; Nam giáp quận Cầu Giấy; Bắc giáp phường Cổ Nhuế 2.
- Thành lập phường Cổ Nhuế 2 trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại (403,43 ha và 44.488 nhân khẩu) của xã Cổ Nhuế; 1,60 ha diện tích tự nhiên và 292 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Phường Cổ Nhuế 2 có 405,03 ha diện tích tự nhiên và 44.780 nhân khẩu.
Địa giới hành chính của phường Cổ Nhuế 2: Đông giáp phường Xuân Đỉnh; Tây giáp phường Minh Khai; Nam giáp các phường Phú Diễn và Cổ Nhuế 1; Bắc giáp các phường Đức Thắng và Thụy Phương.
- Thành lập phường Phúc Diễn trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Phú Diễn (209,03 ha và 21.820 nhân khẩu); một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (8 ha và 1.914 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Tây Sông Nhuệ). Phường Phúc Diễn có 217,03 ha diện tích tự nhiên và 23.734 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Phúc Diễn: Đông giáp phường Phú Diễn và quận Nam Từ Liêm; Tây giáp phường Minh Khai; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp phường Minh Khai.
- Thành lập phường Phú Diễn trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại (189,62 ha và 19.514 nhân khẩu) của xã Phú Diễn; một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (62,58 ha và 7.548 nhân khẩu phần Bắc quốc lộ 32). Phường Phú Diễn có 252,20 ha diện tích tự nhiên và 27.062 nhân khẩu.
171
Địa giới hành chính phường Phú Diễn: Đông giáp các phường Cổ Nhuế 2, Cổ Nhuế 1 và quậnCầu Giấy; Tây giáp phường Phúc Diễn; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp phường Cổ Nhuế 2.
2. Thành lập quận Nam Từ Liêm và 10 phường trực thuộc.
a) Thành lập quận Nam Từ Liêm trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã: Mễ Trì, Mỹ Đình, Trung Văn, Tây Mỗ, Đại Mỗ; một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Phương (536,34 ha và 34.052 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32); một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (137,75 ha và 23.279 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Đông sông Nhuệ). Quận Nam Từ Liêm có 3.227,36 ha diện tích tự nhiên và 232.894 nhân khẩu.
Địa giới hành chính quận Nam Từ Liêm: Đông giáp các quận Thanh Xuân và Cầu Giấy; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.
b) Thành lập 10 phường thuộc quận Nam Từ Liêm:
- Thành lập phường Trung Văn trên cơ sở toàn bộ 277,58 ha diện tích tự nhiên và 29.850 nhân khẩu của xã Trung Văn.
Địa giới hành chính phường Trung Văn: Đông giáp quận Thanh Xuân; Tây giáp phường Đại Mỗ; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp các phường Mễ Trì và Phú Đô.
- Thành lập phường Đại Mỗ trên cơ sở toàn bộ 498,19 ha diện tích tự nhiên và 26.741 nhân khẩu của xã Đại Mỗ.
Địa giới hành chính phường Đại Mỗ: Đông giáp các phường Phú Đô và Trung Văn; Tây giáp phường Tây Mỗ; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp các phường Phú Đô và Tây Mỗ.
- Thành lập phường Tây Mỗ trên cơ sở toàn bộ 604,53 ha diện tích tự nhiên và 22.557 nhân khẩu của xã Tây Mỗ.
Địa giới hành chính phường Tây Mỗ: Đông giáp phường Đại Mỗ; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp quận Hà Đông và phường Đại Mỗ; Bắc giáp phường Xuân Phương.
- Thành lập phường Mễ Trì trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mễ Trì. Phường Mễ Trì có 467,30 ha diện tích tự nhiên và 26.688 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Mễ Trì: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp phường Phú Đô; Nam giáp phường Trung Văn; Bắc giáp phường Mỹ Đình 1.
- Thành lập phường Phú Đô trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Mễ Trì. Phường Phú Đô có 239 ha diện tích tự nhiên và 13.856 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Phú Đô: Đông giáp phường Mễ Trì; Tây giáp các phường Đại Mỗ và Tây Mỗ; Nam giáp các phường Đại Mỗ và Trung Văn; Bắc giáp phường Mỹ Đình 1.
- Thành lập phường Mỹ Đình 1 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mỹ Đình. Phường Mỹ Đình 1 có 228,20 ha diện tích tự nhiên và 23.987 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Mỹ Đình 1: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp các phường Cầu Diễn, Xuân Phương và Tây Mỗ; Nam giáp các phường Mễ Trì và Phú Đô; Bắc giáp các phường Mỹ Đình 2 và Cầu Diễn.
- Thành lập phường Mỹ Đình 2 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mỹ Đình. Phường Mỹ Đình 2 có 197 ha diện tích tự nhiên và 26.991 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Mỹ Đình 2: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp phường Cầu Diễn; Nam giáp phường Mỹ Đình 1; Bắc giáp quận Cầu Giấy.
- Thành lập phường Cầu Diễn trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (137,75 ha và 23.279 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Đông sông Nhuệ);
172
phần diện tích và dân số còn lại của xã Mỹ Đình (41,47 ha diện tích tự nhiên và 4.893 nhân khẩu). Phường Cầu Diễn có 179,22 ha diện tích tự nhiên và 28.172 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Cầu Diễn: Đông giáp phường Mỹ Đình 2; Tây giáp các phường Phúc Diễn và Xuân Phương; Nam giáp phường Mỹ Đình 1; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.
- Thành lập phường Phương Canh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Phương, Phường Phương Canh có 260,76 ha diện tích tự nhiên và 20.243 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Phương Canh: Đông giáp phường Xuân Phương; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp phường Xuân Phương; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.
- Thành lập phường Xuân Phương trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Xuân Phương. Phường Xuân Phương có 275,58 ha diện tích tự nhiên và 13.809 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Xuân Phương: Đông giáp các phường Cầu Diễn và Mỹ Đình 1; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp phường Tây Mỗ; Bắc giáp phường Phương Canh.
3. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 quận và 23 phường, thành phố Hà Nội có diện tích tự nhiên 332.889 ha, 6.957.300 nhân khẩu và 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận: Ba Đình, Bắc Từ Liêm, Cầu Giấy, Đống Đa, Hà Đông, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Long Biên, Nam Từ Liêm, Thanh Xuân, Tây Hồ, 17 huyện: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phúc Thọ, Phú Xuyên, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa; thị xã Sơn Tây; 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177 phường, 21 thị trấn.
Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Thủ trưởng các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.
Nguyễn Tấn Dũng
(Đã ký)
173
Phụ lục 3:
Một số thống kê về kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm
Bảng 1: Biến động đất nông nghiệp của huyện Từ Liêm
và các huyện ngoại thành Hà Nội Đơn vị: ha
Huyện
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội
các năm 1992, 1995, 2000, 2002, 2010, 2013
Sóc Sơn Đông Anh Gia Lâm Từ Liêm Thanh Trì 1992 12.954 10.034 9.149 5.325 5.559 1995 12.408 9.870 9.105 4.858 5.648 2000 14.539 9.947 9.139 4.201 5.190 2002 14.334 9.920 9.098 4.009 5.025 2010 13.207 8.630 5.931 2.774 2.587
Bảng 2: Dân số trung bình phân theo thành thị/nông thôn của Từ Liêm
Đơn vị tính: 1.000 người
Năm 2005
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Thành thị 16,8
Nông thôn 273,0
Thành thị 18,6
Nông thôn 313,3
Thành thị 20,4
Nông thôn 334,8
Thành thị 26,9
Nông thôn 367,8
Thành thị 27,5
Nông thôn 392,0
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Hà Nội các năm 2005, 2007, 2008, 2009, 2010.
% dân số của
% tổng số người nhập cư từ
Số người
quận/huyện
ngoại tỉnh vào Hà Nội
71,6
H.Từ Liêm
97.512
25,4
86,1
H.Đông Anh
37.451
9,7
36,9
Q.Hoàng Mai
30.347
7,9
35,4
Q.Cầu Giấy
29.146
7,6
37,9
Q.Thanh Xuân
21.644
5,6
Nguồn: Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2015). i cư ở Hà Nội và những chính sách quản lý
trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, tr. 1031
Bảng 3: Năm quận, huyện Hà Nội có số người nhập cư từ nông thôn lớn nhất giai đoạn 2004-2009
174
Bảng 4: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm và Hà Nội
Quận/Huyện
Xã/phường
Tỷ lệ người nhập cư so với dân số trong xã, phường (%)
Trong quận, huyện 7,03 2,84 5,96 6,18
Trong thành phố Hà Nội 33,84 9,06 23,36 16,45
Từ tỉnh ngoài 10,89 33,53 20,94 26,54
Tổng số nhập cư trong nước 51,76 45,43 50,26 49,17
Q.Long Biên Q.Cầu Giấy
3,94 3,04 2,92 1,93 5,17 7,88 3,13 5,44 5,80
12,49 23,27 29,25 12,52 21,76 34,30 20,72 8,67 7,94
23,13 22,15 15,34 19,77 19,27 32,74 15,77 16,96 21,13
39,56 48,46 47,51 34,22 46,20 74,92 39,62 31,06 34,87
P.Giang Biên P. Mai Dịch P. Dịch Vọng P. Dịch Vọng Hậu P. Quan Hoa P. Yên Hòa P.Trung Hòa P.Thanh Trì Q.Hoàng Mai P.Đại Kim P.Hoàng Liệt Q.Thanh Xuân P.Nhân Chính
2,89
12,64
21,28
36,81
7,48 1,15 1,15 0,71 1,72 0,97 1,27 2,52 2,51 7,34 3,28 2,40 0,21 0,31 2,46 1,75 3,17 1,11
1,38 10,91 2,51 4,48 16,76 7,48 8,14 7,29 8,10 4,25 13,50 39,70 15,50 5,92 20,14 2,43 19,24 7,21
24,98 55,20 36,61 28,63 21,05 30,55 44,95 34,55 40,19 40,15 31,29 12,52 28,95 26,86 22,01 27,97 9,92 32,55
33,84 67,26 40,28 33,82 39,52 39,00 54,36 44,36 50,79 51,73 48,07 54,61 44,66 33,09 44,60 32,15 32,32 40,87
P.Hạ Đình P.Khương Đình P.Thanh Xuân Nam Quang Tiến Kim Chung Lệ Chi TT.Trâu Quỳ TT.Cầu iễn Đông Ngạc Minh Khai Cổ Nhuế Phú iễn Xuân Phương Mỹ Đình Mễ Trì Trung Văn Tân Triều Thanh Liệt TT.Tri Đông P.Phúc La Di Trach
H.Sóc Sơn H.Đông Anh H.Gia Lâm H.Từ Liêm H.Thanh Trì H.Mê Linh Q.Hà Đông H.Hoài Đức
Nguồn: Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2015). Di cư ở Hà Nội và những chính sách quản lý.
trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, tr. 1029-1030
175
Bảng 5: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội
Huyện
Từ Liêm Thanh Trì Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn
Vùng hoa 3 0 0 5 4
Vùng rau sạch 2 3 4 5 2
Vùng cây ăn quả-du lịch 3 0 5 5 8
Vùng thủy sản-du lịch 0 6 0 0 1
Khu công viên-cây xanh 5 2 0 3 4
Khu công nghiệp đô thị 8 7 8 7 5
Nguồn: áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
các huyện ngoại thành đến năm 2010
Bảng 6: Phân bố diện tích các vùng sản xuất hoa tập trung
Chỉ tiêu
1995
2000
2002
2004
2006
SL %
SL
%
SL %
SL
%
SL %
Tổng
120
100
405
100
460
100
485
100
498
100
Sóc Sơn
-
-
5
0,1
10
2,2
15
3,1
18
3,6
Đông Anh
50
41,6
80
19,8
100
21,7
110
22,7
120
24,1
Từ Liêm
70
58,4
320
79,1
350
76,1
360
74,2
360
72,3
Nguồn: Trần Thị Hồng Việt (2006). Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái. LATS Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
Bảng 7: Sử dụng phân sinh học trong nông nghiệp Từ Liêm và một số huyện ngoại thành Hà Nội
Huyện
Số hộ trong
Số xã trong huyện
Số lượng mỗi
Số lượng sử dụng
xã sử dụng
sử dụng %/huyện)
xã sử dụng
bình quân năm
(%/xã)
(tấn/xã/năm)
(tấn)
Thanh Trì
93,5
30,8
19,0
146,3
Sóc Sơn
21,2
69,2
37,9
681,9
Đông Anh
57,0
90,9
88,0
1339,8
Từ Liêm
56,3
100,0
66,7
1067,2
Gia Lâm
42,4
75,0
31,9
765,3
Tổng cộng
4.500,8
Nguồn: Trần Thị Hồng Việt (2006). Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái. LATS Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
176
Bảng 8: Tỷ trọng diện tích các vùng rau sạch của huyện Từ Liêm và một số huyện ngoại thành
Vùng
2000
2002
2006
2008
Cơ cấu DT các vùng rau sạch
Cơ cấu DT các vùng rau sạch
Cơ cấu DT các vùng rau sạch
Cơ cấu DT các vùng rau sạch
% rau sạch trong tổng DT rau 0 7,3
0 28,8
% rau sạch trong tổng DT rau 3,7 20,2
3,4 35,9
% rau sạch trong tổng DT rau 0 12,8
0 35,0
% rau sạch trong tổng DT rau 0 15,4
0 27,9
0 9,7 0 7,9
0 22,5 0 100
21,4 12,0 0 18,0
14,6 12,1 0 100
6,4 9,5 0 13,0
6,7 15,5 0 100
61,9 8,3 2,4 18,3
36,4 5,6 0,9 100
Sóc Sơn Đông Anh Từ Liêm Thanh Trì Các quận Toàn Tp
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Bảng 9: Tổng hợp phát triển làng nghề của các huyện ngoại thành Hà Nội
Stt
Các huyện
Số lượng
Số hộ
Số lao động
Giá trị
Thu nhập bình
làng nghề
(nghìn người)
(tỷ đồng)
quân (triệu đồng
8716
127,14
14,6
Từ Liêm
7
1345
1
Thanh Trì
5
114
538
4,20
7,8
2
Gia Lâm
5
84
319
2,30
7,2
3
Đông Anh
8
67
257
2,20
8,6
4
Sóc Sơn
11
152
693
6,40
9,2
5
Ba Vì
8
198
957
7,97
8,3
6
Chương Mỹ
5
163
731
5,32
7,3
7
Đan Phượng
8
212
949
6,79
7,2
8
Hoài Đức
7
69
354
3,50
9,9
9
Mê Linh
6
64
237
1,80
7,6
10
Phúc Thọ
6
368
2304
28,43
12,34
11
Phú Xuyên
11
213
879
6,70
7,6
12
Quốc Oai
2
170
1295
16,44
12,7
13
Thạch Thất
6
216
891
6,10
6,8
14
Thường Tín
11
1856
9401
125,92
13,39
15
Ứng Hòa
8
128
642
4,70
7,3
16
Mỹ Đức
17
359
1508
10,80
7,2
17
Nguồn: Nguyễn Thị Hải Vân, Đô thị hóa và việc làm lao động ngoại thành Hà Nội,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 103
177
Bảng 10: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội
Huyện
Tổng số xã, thị
Tổng số làng
Xã có làng
Xã có cụm ngành
trấn
nghề
nghề
nghề
7
Gia Lâm
35
7
18
3
Đông Anh
24
3
20
5
Thanh Trì
25
5
10
2
Sóc Sơn
26
2
19
8
Từ Liêm
16
8
13
Tổng cộng
126
25
80
25 Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm (2010). Danh mục hệ thống bảng, biểu khảo sát phục vụ xây dựng
quy hoạch phát triển nghề và làng nghề huyện Từ Liêm
Đơn vị: cơ sở
Bảng 11: Số lượng cơ sở đào tạo nghề của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội
Tt
Huyện
Tổng số cơ
Số lượng các ngành đào tạo nghề cơ bản
sở đào tạo
Nấu ăn,
Điện,
Kế toán, thư
Lái xe, sửa
Cắt may,
Cơ
phục vụ
điện tử,
ký văn
chữa ô tô,
thiết kế thời
khí
khách sạn
tin học
phòng
xe máy
trang
10
2
7
2
3
3
1
1
Từ Liêm
7
3
1
3
3
3
2
Thanh Trì
6
0
5
0
1
3
1
3
Đông Anh
12
8
1
2
4
2
4
Gia Lâm
7
5
2
2
5
Sóc Sơn
42
2
28
4
9
15
9
Ngoại thành
100
4,76
66,67
9,52
21,43
21,43
35,71
% ngoại thành
193
22
103
23
62
55
59
Toàn thành phố
Nguồn: Đoàn Thị Yến (2007). Tạo việc làm cho người lao động huyện Từ Liêm - Hà Nội đến năm 2015.
Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 27
178