VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THU HẰNG

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN TỪ LIÊM

(THÀNH PHỐ HÀ NỘI) DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ

TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013

Ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 9.22.90.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN VĂN NHẬT

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các tư liệu sử

dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết quả

nghiên cứu của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi hoàn

toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.

Hà Nội, tháng 7 năm 2020

Tác giả Luận án

LÊ THỊ THU HẰNG

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐẾN ĐỀ TÀI 6

LUẬN ÁN

1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu 6

1.1.1. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội và vấn đề đô thị hóa nói chung 6

1.1.2. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội và vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội 15

1.1.3. Những nghiên cứu về kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm 20

24 1.2. Những nội dung luận án kế thừa và những vấn đề luận án cần tiếp tục

nghiên cứu

Chương 2: KHÁI QUÁT HUYỆN TỪ LIÊM VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA 27

HUYỆN TỪ LIÊM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013

2.1. Khái quát về huyện Từ Liêm 27

2.1.1. Vị trí địa lý 27

2.1.2. Khí hậu thủy văn 28

2.1.3. Đất đai 28

2.1.4. Lịch sử hành chính 29

2.2. Thực trạng kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm trước năm 1996 31

2.2.1. Kinh tế 31

2.2.2. Xã hội 37

2.3. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của Hà Nội và huyện Từ Liêm 40

từ năm 1996 đến năm 2013

2.3.1. Chủ trương của Thành phố Hà Nội 40

2.3.2. Chủ trương của huyện Từ Liêm 42

44 2.4. Vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm

2013

2.4.1. Khái quát đô thị hóa ở Hà Nội 44

2.4.2. Đô thị hóa huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 47

Tiểu kết chương 2 57

Chương 3: CHUYỂN BIẾN KINH TẾ CỦA HUYỆN TỪ LIÊM 59

59 3.1. Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế

3.1.1. Chuyển biến cơ cấu ngành 59

3.1.2. Chuyển biến cơ cấu thành phần 60

3.1.3. Chuyển biến cơ cấu vùng 61

3.2. Nông nghiệp 63

3.2.1. Phân bổ và sử dụng đất nông nghiệp 63

3.2.2. Về đầu tư trong nông nghiệp 65

3.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 69

3.3. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 78

3.3.1. Công nghiệp-xây dựng 78

3.3.2. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề 82

88 3.4. Thương mại-dịch vụ

3.4.1. Giá trị ngành thương mại-dịch vụ 88

3.4.2. Một số ngành thương mại-dịch vụ 91

Tiểu kết chương 3 93

Chương 4: CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI CỦA HUYỆN TỪ LIÊM 95

95 4.1. Về dân số

4.1.1. Quy mô dân số 95

4.1.2. Cơ cấu dân số 98

4.1.3. Vấn đề di dân 99

4.2. Về lao động, việc làm 102

4.2.1. Quy mô và số lượng lao động, việc làm 102

4.2.2. Cơ cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế 103

4.2.3. Đào tạo, hỗ trợ nguồn lao động 108

110 4.3. Giáo dục-Y tế

4.3.1. Giáo dục 110

4.3.2. Y tế 113

114 4.4. Môi trường

116 4.5. Đời sống của cư dân

4.5.1. Đời sống vật chất 116

4.5.2. Đời sống tinh thần 118

Tiểu kết chương 4 122

124 Chương 5: MỘT SỐ NHẬN XÉT

124 5.1. Thành tựu

5.1.1. Kinh tế phát triển toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao 124

5.1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 125

5.1.3. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh theo hướng văn minh và hiện đại 127

5.1.4. Cơ cấu lao động, công tác giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao 129

động có chuyển biến tích cực

5.1.5. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao 130

132 5.2. Hạn chế

5.2.1. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, cơ cấu kinh tế 132

chuyển dịch còn chậm

5.2.2. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh nhưng vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển 133

kinh tế, xã hội

5.2.3. Sức ép về việc làm, nhà ở, vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo 134

ngày càng tăng

5.2.4. Tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường ngày càng diễn biến phức tạp 138

5.3. Một số vấn đề đặt ra 142

5.3.1. Vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị 142

5.3.2. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 145

5.3.3. Vấn đề giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và đời sống xã hội 146

Tiểu kết chương 5 147

KẾT LUẬN 148

TÀI LIỆU THAM KHẢO 151

PHỤ LỤC 164

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

1. Danh mục bảng

Bảng 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế huyện Từ Liêm trong những năm 1986-1995 32

52

54 Bảng 2.2: Biến động các loại đất của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 2006- 2011 Bảng 2.3: Sự biến động dân số của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội

Bảng 3.1: Giá trị sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Từ Liêm 70

74 Bảng 3.2: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội

Bảng 3.3: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội 83

84

86

91 Bảng 3.4: Tổng giá trị sản xuất từ nghề chính tại các làng nghề trên địa bàn Từ Liêm Bảng 3.5: Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh ở các làng nghề Từ Liêm năm 2005 Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu về ngành thương mại, dịch vụ, du lịch huyện Từ Liêm năm 2010

Bảng 4.1: Tình hình dân số và mật độ dân cư huyện Từ Liêm (2000-2013) 97

Bảng 4.2: Tình hình di dân huyện Từ Liêm (2000-2012) 99

Bảng 4.3: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm 100

Bảng 4.4: Kết quả tạo việc làm qua các năm của huyện Từ Liêm 103

106

107

112 Bảng 4.5: Cơ sở sản xuất, lao động, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước của Từ Liêm phân theo thành phần kinh tế Bảng 4.6: Tình hình lao động trong khu vực kinh doanh thương nghiệp-dịch vụ cá thể chia theo xã, thị trấn Bảng 4.7: Tình hình giáo dục ở các bậc học của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013

2. Danh mục biểu đồ

Biểu đồ 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm qua các năm 59

71 Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt của huyện Từ Liêm năm 2005 và 2013

Biểu đồ 3.3: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp huyện Từ Liêm qua các năm 79

80 Biểu đồ 3.4: Các ngành sản xuất ngành công nghiệp của huyện Từ Liêm năm 2013

Biểu đồ 4.1: Dân số huyện Từ Liêm từ năm 1996-2013 95

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cb

Chủ biên

CTQG

Chính trị Quốc gia

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

ĐHKHXHVNV

Đô thị hóa

ĐTH

Hội đồng Nhân dân

HTX

Hợp tác xã

HTXNN

Hợp tác xã nông nghiệp

KCN

Khu công nghiệp

KHXH

Khoa học Xã hội

NCLS

Nghiên cứu Lịch sử

NCS

Nghiên cứu sinh

QGHN

Quốc gia Hà Nội

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

Tr

Trang

HĐND

Ủy ban Nhân dân

UBND

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam chủ trương tiến hành công cuộc đổi

mới, kinh tế, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc trên tất cả mọi phương

diện. Từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp với cơ sở vật chất, hạ tầng thiếu

thốn, thiết bị và kỹ thuật sản xuất lạc hậu…, kinh tế Việt Nam chuyển dần sang nền kinh

tế sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần, vận hành theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Cùng với đó, các mặt của đời sống xã hội không ngừng được nâng cao, đáp ứng

được đòi hỏi của quá trình phát triển trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Từ những năm đầu khi Việt Nam bắt tay tiến hành sự nghiệp đổi mới cho đến nay,

quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng trên phạm vi cả nước nói

chung và vùng ven đô Hà Nội nói riêng. Ở tầm vĩ mô, một mặt đô thị hoá là một trong

những giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng

chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mặt khác,

đô thị hoá cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của một

đất nước trong bối cảnh thế giới hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực,

trong tiến trình phát triển đó vẫn còn có không ít những bất cập, tồn tại đặt ra cần phải

giải quyết, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp, nông thôn, lao động - việc làm, môi trường,

văn hóa - xã hội… đối với một bộ phận lớn dân cư ở các vùng ven ngoại thành.

Từ Liêm trước năm 2008 là một trong 5 huyện thuộc ngoại thành Hà Nội (gồm Gia

Lâm, Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì và Sóc Sơn), sau thời điểm Hà Nội được điều

chỉnh mở rộng địa giới hành chính (năm 2008), Từ Liêm là một trong 18 huyện ngoại thành của Thủ đô1, có vị trí nằm ở phía Tây Hà Nội, phía Đông giáp quận Tây Hồ, quận

Cầu Giấy; phía Tây giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức; phía Bắc giáp huyện

Đông Anh; phía Nam giáp quận Thanh Xuân, thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông). Đến

trước thời điểm huyện giải thể để thành lập hai quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm theo Nghị quyết 132/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ2 thì Từ Liêm có 15 xã và 01 thị trấn; với diện tích tự nhiên là 75,15km2, dân số 177,3 nghìn người. Huyện có vị trí địa lý ở trung

1 Ngày 1/8/2008, Nghị quyết số 15/QH của Quốc hội (khóa XII) có hiệu lực về điều chỉnh địa giới hành chính của thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thành phố Hà Nội (cũ), tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên là 3.344,7km2, gồm 29 đơn vị hành chính trực thuộc (bao gồm 10 quận nội thành, 18 huyện ngoại thành và 1 thị xã), 580 đơn vị hành chính cấp xã (với 404 xã, 154 phường và 22 thị trấn). 2 Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký ban hành Nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập hai quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.

tâm của Hà Nội và đang có tốc độ đô thị hoá rất nhanh, với khoảng 300 dự án đầu tư, trong

1

đó phần lớn là phát triển các khu đô thị với tổng diện tích đất thu hồi hàng nghìn ha. Đi

cùng những dự án, hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội ở các khu vực dân cư xung quanh

vùng quy hoạch cũng được cải tạo và nâng cấp đồng bộ. Đô thị hóa đã làm cho kinh tế, xã

hội và đời sống nhân dân có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, cơ cấu kinh tế

chuyển biến manh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hạ tầng cơ sở và hệ thống y

tế, giáo dục, giao thông... ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người không

ngừng được nâng cao... Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực là không ít những bất cập

đang diễn ra như vấn đề quản lý đô thị, vấn đề lao động - việc làm, vấn đề phân hóa giàu

nghèo, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường...

Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề đô thị hóa và vấn đề kinh tế, xã hội

nói chung và ở các huyện ngoại thành Hà Nội, nói riêng dưới góc độ kinh tế học, xã hội

học, nhân học, văn hoá học..., song còn thiếu vắng những công trình tiếp cận dưới góc

độ lịch sử. Chính vì vậy, với cách tiếp cận từ góc độ lịch sử, nghiên cứu quá trình

chuyển biến kinh tế, xã hội của một huyện ngoại thành Hà Nội dưới tác động của quá

trình đô thị hóa mà cụ thể sự chuyển biến về cơ cấu, sự phát triển của các ngành kinh tế,

sự thay đổi về cơ cấu dân cư, lao động, sự phát triển về văn hóa - xã hội là cần thiết cả

về ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài h n i n inh t , hội h n

i m, thành h Hà Nội i tá ộng á t nh th h t năm n

năm 20 3” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

Thực hiện luận án này về mặt lý thuyết, luận án sẽ có đóng góp một phần nhỏ vào

việc nghiên cứu chuyên sâu về nông thôn thời hiện đại, đặc biệt là về quá trình chuyển

đổi của làng xã trên các mặt kinh tế và văn hóa-xã hội dưới tác động của xu thế đô thị

hóa hiện nay. Về mặt thực tiễn, qua việc phân tích những bước chuyển biến cụ thể của

nông thôn ngoại thành trên con đường đô thị hóa, luận án góp phần làm rõ thêm những

ưu điểm của quá trình đó cũng như những hạn chế đi kèm để có thể đưa ra được những

giải pháp tối ưu hướng tới sự phát triển bền vững của địa phương/đối tượng nghiên cứu

nói riêng, của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nói chung.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2. . Mụ í h nghi n ứ

Mục đích nghiên cứu của luận án là trình bày và phân tích thực trạng chuyển biến

kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 1996 đến

năm 2013 dưới tác động của quá trình đô thị hóa; trên cơ sở đó luận án sẽ đưa ra một số

nhận xét về những thành tựu cũng như hạn chế của quá trình này.

2.2. Nhi m vụ nghi n ứ

2

Với mục đích đề ra như ở trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Giới thiệu khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện

Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 - cơ sở tác động đến sự chuyển biến kinh tế, xã hội

của huyện trong giai đoạn này.

- Làm rõ chuyển biến về kinh tế (bao gồm chuyển biến về cơ cấu kinh tế, sự phát

triển của các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương

mại, dịch vụ...) và chuyển biến về xã hội (dân cư, văn hóa - giáo dục, y tế, môi

trường…) của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013.

- Bước đầu đưa ra một số nhận xét về chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ

Liêm dưới tác động của đô thị hóa từ năm 1996 đến năm 2013 trên cả mặt thành tựu và

hạn chế; đồng thời nêu một số vấn đề đặt ra đối với địa phương trong quá trình phát

triển kinh tế, xã hội trong thời gian tiếp theo.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3. . Đ i t ợng nghi n ứ

Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ

Liêm, thành phố Hà Nội dưới tác động của quá trình đô thị hóa.

3.2. Phạm vi nghi n ứ

Về không gian: Đề tài luận án nghiên cứu trên phạm vi không gian huyện Từ Liêm

(Hà Nội) trong khung nghiên cứu (gồm 15 xã và 1 thị trấn).

Về thời gian: Đề tài luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1996 đến năm

2013. Mốc năm 1996 là năm đất nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng thực

hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình này tác động rất lớn đến vấn

đề đô thị hóa của đất nước cũng như của Hà Nội; đồng thời năm 1996 cũng là năm Hà

Nội chia tách địa giới hành chính để thành lập các quận mới (Thanh Xuân và Cầu Giấy),

huyện Từ Liêm còn lại 15 xã và 1 thị trấn. Mốc năm 2013 là năm huyện Từ Liêm được

phân chia thành 2 quận là: Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.

Về nội dung: Luận án nghiên cứu chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm dưới

tác động của ĐTH. Về mặt kinh tế, luận án trình bày trên các lĩnh vực: chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và các lĩnh vực kinh tế như: nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,

thương mại và dịch vụ. Về mặt xã hội, luận án trình bày các lĩnh vực: dân cư, lao động-

việc làm, văn hóa - giáo dục, y tế, môi trường và biến đổi đời sống cư dân. Trên cơ sở

đó, luân án đưa ra những nhận xét về chuyển biến KT, XH huyện Từ Liêm dưới tác

động của ĐTH từ năm 1996 đến năm 2013 trên hai mặt thành tựu và hạn chế.

3

4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

4. . Ph ơng há l ận

Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật lịch sử; quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của

Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối phát triển kinh tế, xã hội.

4.2. Ph ơng há nghi n ứ

Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Vì đây là một đề tài mang mã số

chuyên ngành Lịch sử, do vậy chúng tôi tuân thủ bám sát tiến trình phát triển lịch sử,

làm rõ sự khác biệt giữa phương pháp tiếp cận lịch sử với phương pháp tiếp cận khác.

Phương pháp lịch sử được vận dụng để xem xét và trình bày các sự kiện, con số,

vấn đề theo trình tự thời gian nhằm làm rõ quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của

huyện Từ Liêm trên nhiều lĩnh vực.

Phương pháp logic được vận dụng để xâu chuỗi các sự kiện một cách chính xác

nhằm trình bày vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được vận dụng để tổng hợp các thông tin, số

liệu nhằm trình bày vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống, đồng thời được vận dụng khi

lựa chọn, phân tích giá trị của sự kiện, số liệu liên quan đến đề tài.

- Phương pháp so sánh được vận dụng để so sánh các vấn đề kinh tế, xã hội giữa

các giai đoạn của huyện Từ Liêm và giữa huyện Từ Liêm với một vài huyện ngoại thành

khác của thành phố Hà Nội.

4.3. Ng ồn tài li

Nguồn tư liệu được sử dụng trong luận án gồm:

- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề kinh tế, xã hội.

- Chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội

và huyện Từ Liêm; các báo cáo tổng kết kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội và huyện

Từ Liêm.

- Các sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến vấn đề đô thị hóa, vấn đề

kinh tế, xã hội ở Hà Nội nói chung và Từ Liêm nói riêng.

- Nguồn tài liệu điều tra, khảo sát về vấn đề đô thị hóa, kinh tế, xã hội trên địa bàn

huyện Từ Liêm của tác giả.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Tập hợp và hệ thống hóa khối lượng tài liệu về vấn đề đô thị hóa ở từ Liêm và

quá trình phát triển kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013;

4

- Luận án dựng lại một cách khách quan và tương đối toàn diện về chuyển biến

kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm dưới tác động của quá trình đô thị hóa của huyện

cũng như của thành phố Hà Nội từ năm 1996 đến năm 2013.

- Trên cơ sở nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm từ năm

1996 đến năm 2013, luận án phân tích, đánh giá, làm rõ những thành tựu, hạn chế của

quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện ngoại thành Từ Liêm dưới tác động của

quá trình đô thị hóa.

- Luận án cung cấp thông tin, bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu về quá trình phát

triển kinh tế, xã hội cũng như về vấn đề đô thị hóa một huyện ngoại thành - Từ Liêm nói

riêng và vùng ven đô Hà Nội nói chung hiện nay; góp phần vào việc nghiên cứu kinh tế, xã

hội Hà Nội, nói riêng; kinh tế, xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về lý luận, trên cơ sở cung cấp những kết quả nghiên cứu khách quan về thực

trạng chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm dưới tác động của quá trình đô thị

hóa từ năm 1996 đến năm 2013, luận án góp thêm một nghiên cứu trong tổng thể hệ đề

tài khoa học về kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung, về quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn hiện nay nói riêng - một trong những vấn đề quan trọng và cấp

thiết trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường chủ động hội nhập quốc tế

toàn diện của đất nước.

- Về thực tiễn, kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ

quan hoạch định chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, nhất là đối với những địa

phương vùng ven đô đang trong quá trình đô thị hóa; đồng thời là nguồn tài liệu phục vụ

cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử thành phố Hà Nội.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được chia

thành 5 chương:

h ơng : Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

h ơng 2: Khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa huyện Từ Liêm từ

năm 1996 đến năm 2013

h ơng 3: Chuyển biến kinh tế của huyện Từ Liêm

h ơng 4: Chuyển biến xã hội của huyện Từ Liêm

h ơng 5: Một số nhận xét

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

. . . Những nghi n ứ về inh t , hội và vấn ề th h n i h ng

- Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội

Trong thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, các chính trị gia và nhiều nhà

khoa học đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề kinh tế, xã hội Việt Nam. Những công trình

đề cập chủ yếu đến các chính sách và những kết quả bước đầu của đường lối đổi mới,

quan trọng nhất là những chuyển biến trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước nói

chung. Có thể kể đến một số công trình sau:

Trong tác phẩm “Đổi mới đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại” (Nxb. Sự

thật, Hà Nội, 1987), tác giả Trường Chinh đã phân tích chủ trương của Đảng đề ra tại

các Đại hội IV, V; trên cơ sở đó khẳng định tính đúng đắn và những thành tựu đạt được;

đồng thời chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, nguyên nhân của nó, tất yếu phải đổi mới,

nhất là đổi mới tư duy kinh tế.

Nguyễn Văn Linh, trong tác phẩm Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực

hoạt động (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987) đã đề cập đến vấn đề kinh tế, chủ trương, chính

sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc nền

kinh tế đất nước.

Trong cuốn sách Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương hướng và

giải pháp chủ yếu, (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990), Lê Xuân Trinh cùng nhóm

tác giả đã đề cập tương đối toàn diện về tình hình và những bài học thực tiễn; quan

điểm, mục tiêu chiến lược, những định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm ổn

định, phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta đến năm 2000.

Tác phẩm Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu, vấn đề và giải pháp (Phạm Xuân

Nam chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991), đã phân tích các lĩnh vực chủ yếu

của đời sống kinh tế - xã hội đất nước sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng

khởi xướng và lãnh đạo, qua đó nêu lên những thành tựu đạt được, chỉ ra những vấn đề

tồn đọng; đồng thời đề xuất một số kiến nghị về giải pháp nhằm góp phần xây dựng,

hoàn thiện và tổ chức thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đất

nước đến năm 2000.

6

Công trình Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay (Nxb. Tư tưởng-Văn hóa,

Hà Nội, 1991) là một bộ chuyên đề gồm 3 tập (tập I, II, III), là những kết quả bước đầu

của việc nghiên cứu nông thôn Việt Nam một cách khá công phu, toàn diện và sâu sắc.

Tập I đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội nông thôn hiện nay, các vùng kinh tế - xã hội

nông thôn; lao động việc làm ở nông thôn, thu nhập đời sống của người nông dân, thực

trạng và định hướng hợp tác xã nông nghiệp. Tập II nghiên cứu về những vấn đề phát

triển công nghiệp nông thôn; thực trạng kinh tế - xã hội nông thôn tại một số vùng tập

trung các dân tộc thiểu số; thực trạng văn hóa nông thôn Việt Nam. Tập III trình bày về

phân tầng xã hội nông thôn hiện nay; việc thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội nông

thôn; tình hình giáo dục y tế, môi trường tại các vùng nông thôn; thực trạng dân chủ,

công bằng xã hội và pháp chế nông thôn; tổ chức chính trị và tình hình đội ngũ cán bộ

cơ sở nông thôn.

Cuốn sách Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam (Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 1999) của Trương Thị Tiến là một chuyên khảo về một trong những

khía cạnh cơ bản nhất của sản xuất nông nghiệp là đổi mới cơ chế quản lý. Tác giả đã

phân tích và trình bày quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp với bước đột phá từ

năm 1981, khi Chỉ thị 100 CT-TW của Ban Bí thư Trung ương ra đời cho đến năm

1998. Tác giả đề cập đến sự phân hóa giàu nghèo trong nông thôn; giải quyết vấn đề

ruộng đất cho nông dân, chăm lo đời sống văn hóa-xã hội của dân cư nông thôn.

Năm 2001, Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Việt Nam

trong thế kỷ XX”, gồm nhiều bài viết của các học giả trong nước và ngoài nước về

những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị trong thế kỷ XX; công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Trong cuốn Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới (Nguyễn Văn

Thường chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004), đã đề cập đến những

thành tựu và hạn chế về tình hình phát triển của các thành phần kinh tế như kinh tế nhà

nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...; các ngành, các lĩnh vực như

công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, chính sách đất đai, vấn đề quản lý nhà

nước, hệ thống tài chính - tiền tệ, lao động và việc làm, chính sách tiền lương, giáo dục -

đào tạo, xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế...; từ đó đưa ra

những giải pháp khắc phục và phương hướng phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta trong

những năm tiếp theo.

7

Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), trong cuốn Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số

vấn đề lý luận và thực tiễn (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006), đã phân tích bối cảnh

lịch sử, quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới, những thành tựu và hạn chế

của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong 20 năm trên các lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, xã

hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn

dân, xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới và chỉnh đốn Đảng; đồng thời làm sáng tỏ nhận

thức về bản chất, đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Công trình Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 - 2006) thành tựu và những

vấn đề đặt ra do Đặng Thị Loan - Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa đồng chủ biên (Nxb.

Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2006), đã nêu bật chủ trương đổi mới kinh tế của

Đảng và Nhà nước Việt Nam; khái quát một số thành tựu, hạn chế về kinh tế, xã hội

trong 20 năm đổi mới; phân tích một số vấn đề nổi bật như: quản lý nhà nước về kinh tế,

sự hình thành và phát triển các loại thị trường, kinh tế tư nhân, hội nhập kinh tế quốc tế

và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sự phát triển của các ngành kinh tế; đồng thời, đề

xuất giải pháp tiếp tục đổi mới kinh tế ở Việt Nam.

Trong cuốn Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa

(Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006), các tác giả Nguyễn Xuân Thu và Nguyễn Văn

Phú đã tập trung phân tích, đánh giá tổng hợp các lợi thế so sánh của các kiểu loại vùng và

đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển các vùng trong quá trình thực hiện rút ngắn tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, các tác giả đã bước đầu phân

tích và luận giải về sự phát triển kinh tế vùng trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước.

Cùng chủ đề trên, cuốn sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông

thôn ở Việt Nam con đường và bước đi (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2006) đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình hình thành

và định hướng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng từ năm 1991 đến 2006.

Công trình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do Vũ Đình

Bách chủ biên (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008) đã đề cập đến những nhận thức

về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; vấn đề thể chế và quản lý nhà nước trong

cơ chế thị trường, động lực phát triển và các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành, phát

triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu

hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

8

Năm 2008, Nxb. Thế giới xuất bản cuốn sách Việt Nam 20 năm đổi mới do Ari

Kokko chủ biên. Nội dung cuốn sách là những bàn luận về hoạt động của nền kinh tế

Việt Nam và vai trò của nhà nước trong quá trình phát triển suốt 20 năm. Đặc biệt là bàn

luận về một số lĩnh vực như cải cách doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển của khu vực

tư nhân và an sinh xã hội, trong đó có so sánh với kinh nghiệm của các nước Bắc Âu.

Tuy nhiên, đây chỉ mới là một khảo sát có chọn lọc và chưa hoàn chỉnh về các vấn đề

phát triển ở Việt Nam.

Công trình Những vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) gồm nhiều bài viết về thành

tựu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ khi đổi mới đến nay. Sau hơn 30

năm đổi mới, kinh tế-xã hội Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, giúp cho

Việt Nam từ chỗ là một quốc gia nhập khẩu về lương thực đã vươn lên thành một trong

những nước xuất khẩu hàng đầu về lúa, gạo và một số mặt hàng nông sản khác. Tỷ lệ

nghèo đói ở khu vực nông thôn giảm nhanh, mức sống chung của đông đảo người dân

được cải thiện. Đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn đã có những chuyển biến quan

trọng trên con đường hình thành và phát triển nông thôn mới, hiện đại. Tuy nhiên, cùng

với những thành tựu trên, việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng

kéo theo nhiều hệ lụy, làm nảy sinh nhiều vấn đề có khả năng đe dọa sự phát triển trong

tương lai của nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập

sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đó là năng lực cạnh tranh quốc tế trên các lĩnh vực;

nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; việc phân bổ và sử dụng đất đai còn quá

nhiều bất cập; ô nhiễm môi trường nhanh chóng gia tăng; khoảng cách thu nhập giữa

thành thị - nông thôn có xu hướng ngày càng lớn và phân hóa giàu nghèo ngay ở khu

vực nông thôn gia tăng; nhu cầu việc làm và cải thiện thu nhập đang trở nên cấp thiết…

Những vấn đề này đã được trình bày một cách tương đối cụ thể trong công trình này.

Cuốn sách Phát triển bền vững kinh tế - xã hội các thành phố theo hướng hiện đại

(Nxb. Chính trị Quốc gia & Sự thật, Hà Nội, 2012) trình bày những vấn đề cơ bản về

thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và các thành phố nói riêng;

xác định mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí và định hướng, các bước đi, mô hình, giải pháp

cho các thành phố thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH hướng tới sự phát triển

bền vững. Đặc biệt, một trong những nội dung cơ bản có liên quan đến đề tài luận án mà

9

cuốn sách tập trung phân tích là các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội bền vững, theo

hướng hiện đại của Thủ đô Hà Nội.

Cũng với cách tiếp cận như vậy, Nguyễn Ngọc Hà trong công trình Đường lối phát

triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-

2011) (Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2012) đã làm rõ quá trình hình thành những

quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng trong thời kỳ đổi mới;

nghiên cứu một cách toàn diện về kinh tế nông nghiệp; quá trình triển khai thực hiện

đường lối, chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp và những thành tựu đã đạt được.

Trong luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến 2002 (Học viện Chính trị Quân sự,

2012), tác giả Lê Quang Phi đã làm rõ yêu cầu khách quan chủ trương của Đảng về

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; trình bày sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về CNH,

HĐH nông nghiệp nông thôn, đồng thời đưa ra một số nhận xét về những thành tựu, yếu

kém và nguyên nhân của những thành tựu, yếu kém đó. Từ đó, luận án rút ra một số bài

học kinh nghiệm của Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

trong giai đoạn từ 1991 đến 2002.

Năm 2014, Viện Sử học, xuất bản cuốn Lịch sử Việt Nam - Tập 15 (từ năm 1986

đến năm 2000) do Nxb. Khoa học xã hội ấn hành, tái bản năm 2017). Nội dung cuốn

sách đề cập đến những thành tựu to lớn trong 15 năm đầu đổi mới ở Việt Nam (1986 -

2000) trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế,...

Phạm Quý Thọ, trong cuốn Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi (Nxb. Thông tin

và Truyền thông, Hà Nội, 2015), đã làm rõ thực trạng phát triển kinh tế đất nước trong

các giai đoạn của 30 năm đổi mới, đồng thời khái quát vấn đề trọng tâm là cải cách thể

chế kinh tế, phát họa các ý tưởng ban đầu về mô hình, quan điểm chuyển đổi và giải

pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam theo đúng quỹ đạo phát triển.

Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu chuyên sâu của các nhà

Kinh tế học, Địa lý, Sử học, Chính trị học, đáng chú ý là: Nguyễn Sinh Cúc, Thực trạng

nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam (1976 -1990), Nxb. Thống kê, Hà Nội,

1991; Lê Đình Thắng (cb), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 1998; Những vấn đề kinh tế - xã hội và

môi trường vùng ven đô các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững (Trung tâm

Nghiên cứu địa lý nhân văn - Nguyễn Ngọc Tuấn chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội,

10

2003); Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN, Nxb. Lao động,

Hà Nội, 2006; Phan Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến (cb), Một số vấn đề kinh tế - xã hội

trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb. Lý

luận chính trị, Hà Nội, 2006; Lê Thông (chủ biên), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam,

(Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, năm 2009); Phạm Thị Khanh (chủ biên), Chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, năm 2010); Trịnh Thị Ái Hoa, Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô ở Việt

Nam, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010).

Mặc dù những tác phẩm trên không trực tiếp đề cập cụ thể về kinh tế, xã hội Hà

Nội hay huyện Từ Liêm nhưng những kết quả nghiên cứu đó đã giúp tác giả luận án có

cơ sở nhận thức về vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH

để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.

Cùng với các sách đã được công bố, có những bài đăng trên các tạp chí khoa học

chuyên ngành có nội dung về chủ đề kinh tế, xã hội. Cụ thể là:

Trong bài viết Mấy nét tổng quan về quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam

15 năm qua (Tạp chí NCLS, số 1/2001), tác giả Phạm Xuân Nam đã trình bày một cách

hệ thống những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu của công cuộc đổi

mới toàn diện đất nước trong 15 năm (1986-2000) trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.

Nguyễn Sinh Cúc trong Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 20 năm đổi mới (Tạp chí

Lịch sử Đảng số 12/2005), đã cho thấy những thành tựu trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế của đất nước từ năm 1986 đến 2005 trên các lĩnh vực của kinh tế như:

chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và thành phần kinh tế. Qua đó, tác giả đánh giá

những ưu điểm, khuyết điểm và đưa ra những giải pháp nhằm đạt được kết quả tốt hơn

trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian tới.

Đặng Thị Kim Oanh trong bài viết Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/2005) đã trình bày có

hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, qua đó nêu lên được thành thành tựu đạt được

trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong thời gian qua.

Bên cạnh đó còn một số bài viết của Nguyễn Văn Bích, Vai trò của các chính sách

đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nước ta trong những năm đổi mới,

Tạp chí Quản lý kinh tế nông nghiệp, số 5-1994; Phạm Xuân Nam, Nhìn lại bước thăng

11

trầm của nông nghiệp, nông thôn nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí

NCLS, số 5 (2001)... Đây là những bài viết vừa mang tính lý luận vừa mang tính khái

quát cao, đã giúp tác giả không chỉ về nhận thức mà còn về phương pháp tiếp cận và thể

hiện chủ đề nghiên cứu của luận án.

- Những nghiên cứu về đô thị hóa

Ở Việt Nam, vấn đề đô thị hóa và những tác động của nó đến đời sống kinh tế, xã

hội luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, từ các nhà lãnh đạo đến các

nhà quản lý, từ giới khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội. Vấn đề đô thị được các nhà

xã hội học, kinh tế học, nhân học… quan tâm nghiên cứu với một số công trình như:

Trong cuốn Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay (Nxb. VHTT,

Hà Nội, 1997), Trần Văn Bính đã đề cập một số khía cạnh văn hóa trong quá trình đô thị

hóa ở nước ta. Tác giả chỉ ra rằng, việc chuyển từ đời sống nông thôn sang đô thị cũng

làm cho các quan hệ tình làng nghĩa xóm, quan hệ huyết tộc và các mối quan hệ trong

gia đình bị suy giảm. Theo tác giả, sự suy giảm các mối quan hệ này do nhiều yếu tố tác

động, trong đó phải kể đến không gian sống và sinh hoạt của gia đình. Khi không gian

sống bị thu hẹp cùng với sự bận rộng trong công việc của mỗi thành viên trong gia đình

đã làm cho các mối quan hệ họ hàng, quan hệ cha mẹ con cái bị giảm sút.

Nguyễn Thế Bá trong cuốn Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị (Nxb. Xây dựng,

Hà Nội, 1998) cho rằng, quá trình đô thị hóa là quá trình công nghiệp hóa đất nước. Quá

trình đô thị hóa cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp,

cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu không gian kiến trúc xây dựng từ dạng nông thôn

sang thành thị và diễn ra song song với động thái phát triển không gian kinh tế xã hội.

Trình độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của nền văn hóa

và của phương thức tổ chức cuộc sống xã hội. Đồng thời gắn liền với tiến bộ của khoa học

kỹ thuật và sự phát triển của các ngành nghề mới.

Trong cuốn Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam của Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998)

chủ biên, đã phân tích công nghiệp hoá và tác động của nó đến quá trình đô thị hoá ở

Việt Nam trong thời đại hiện nay; nhấn mạnh đến một số chính sách đối với đô thị hóa ở

Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH của đất nước.

Lê Thanh Sang với Đô thị hoá và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới

1979-1989 và 1989-1999 (Nxb. KHXH, Hà Nội, 2008) đã đem đến cái nhìn tổng quan

12

về đô thị hoá và các lý thuyết đô thị hóa ở Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại, tăng

trưởng đô thị ở Việt Nam trước và sau đổi mới…

Đến đầu thế kỷ XXI, đã có thêm rất nhiều công trình về đô thị và đô thị hóa ở Việt

Nam, trước hết là ở những khu vực đô thị, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí

Minh… Có thể kể đến các công trình sau:

Trong bài viết Hà Nội, một số biến đổi trong đời sống và diện mạo đô thị hiện nay

(in trong cuốn Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, Nxb. VHTT, Hà Nội, 2000),

Trịnh Duy Luân chỉ ra hình ảnh một Hà Nội năng động, đang biến đổi nhanh chóng,

đang vươn xa về phía Nam đồng thời đang đổi mới rõ rệt các khu phố cổ, khu phố thời

thuộc Pháp. Mặt khác, tác giả cũng nên ra thực trạng ngổn ngang của buổi đầu phát

triển, mở rộng thủ đô.

Nguyễn Thanh Tuấn trong công trình iến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay

(Nxb. VHTT và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2006) đã phân tích sự biến đổi văn hóa đô thị

trong thời kỳ đổi mới và chỉ ra những nhân tố thúc đẩy biến đổi văn hóa, xu hướng biến

đổi văn hóa đô thị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả có 6 cơ sở thúc đẩy biến đổi văn hóa

đô thị là: 1/ các nhân tố biến đổi kinh tế; 2/ các nhân tố biến đổi khoa học-kỹ thuật-công

nghệ; 3/ tư tưởng đóng vai trò thúc đẩy, đổi mới hoặc kìm hãm biến đổi văn hóa; 4/ phát

triển dân số về quy mô cơ cấu, chất lượng tác động đến sự biến đổi văn hóa đô thị; 5/

biến đổi thiết chế xã hội - văn hóa theo hướng phát triển nhiều dạng thiết chế Nhà nước

và của xã hội; 6/ sự giao lưu văn hóa với các thành phố, các tỉnh trong và ngoài nước sẽ

tăng cường năng lực truyền bá những dạng văn hóa mới. Tác giả cũng cho rằng, việc mở

rộng diện tích, thay đổi kiến trúc nhà cao tầng ở đô thị hiện nay một mặt vừa mở rộng

cách thức và sở thích sinh hoạt riêng tư nhưng mặt khác lại làm giảm các quan hệ giao

tiếp giữa các thành viên trong gia đình vốn đã duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Để hạn chế những hệ lụy do đô thị hóa gây ra, những năm gần đây, các nhà khoa

học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã tập trung nghiên cứu lý thuyết, trước hết nhằm

đưa ra những khái niệm mới, mô hình mới về đô thị hóa bền vững. Có thể kể đến các tác

giả như Đào Thế Tuấn, Tôn Nữ Quỳnh Trân, Ngô Vương Anh, Ngô Thắng Lợi,…

Có thể nói, đô thị và đô thị hoá không chỉ thu hút các học giả trong nước mà còn

được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đặc biệt quan tâm. Nhiều chuyên gia về đô thị

học quốc tế đã giữ vai trò chủ chốt trong hàng loạt các chương trình nghiên cứu và hội

thảo khoa học quốc tế về đô thị Việt Nam truyền thống và hiện đại, về đô thị hoá hiện

13

nay. Có thể kể ra những bài viết của các chuyên gia Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, Hàn

Quốc, Singapore… với một số công trình đã được dịch và giới thiệu với độc giả Việt

Nam như Trịnh Duy Luân, Micheal Leaf (1996), Vấn đề nhà ở đô thị trong nền kinh tế

thị trường của thế giới thứ ba; Michae Leaf (1993), Chính sách nhà ở và quá trình sản

xuất nhà ở đô thị; Pandolfi Laurent (2000), Sự chuyển thể đô thị và quá trình xây dựng

các vùng ngoại vi đô thị; Micheal Leaf (2000), Vùng ven đô Việt Nam: việc quản lý

hành chính sự phát triển của Hà Nội; Mike Douglass (Mỹ, 2008), Đô thị hóa vùng ven

Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công cộng; Lisa Drummond (2008), Đô thị hóa ngoại ô

Thành phố Hồ Chí Minh; Timothy M. Gorman (Mỹ, 2008), Nền kinh tế hàng ngày: suy

nghĩ lại về tính chất không chính thống ở Việt Nam… và một hệ thống bài viết cho các

tiểu ban Đô thị và Đô thị hoá của các Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất

(1998) và lần thứ 3 (2008)… Có thể kể đến một số công trình tiên biểu sau đây:

Mike Douglass (Mỹ) trong công trình Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi

không gian công cộng (trong Kỷ yếu Hội thảo về Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa

vùng ven ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008) đã nghiên cứu về những

chuyển biến mới trong văn hóa đô thị tại Việt Nam. Tác giả khẳng định đô thị hóa đã tạo

ra cho Hà Nội một diện mạo mới. Thành phố không những được mở rộng ra các vùng

ven đô theo chiều rộng mà còn phát triển theo chiều cao những với khu đô thị cao tầng,

khách sạn, nhà hàng, văn phòng… Mặt khác, tác giả cũng cảnh báo về sự thiếu hụt

những không gian công cộng - nơi rất cần cho sự giao tiếp xã hội của cư dân đô thị.

Timothy M. Gorman (Mỹ) trong bài viết Nền kinh tế hàng ngày: suy nghĩ lại về

tính chất không chính thống ở Việt Nam (trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học

lần thứ ba - Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội, 2008) đã nghiên cứu về Hà Nội

thời kỳ đô thị hóa đã xuất hiện những người nông dân từ nông thôn vào thành phố để

kiếm sống bằng việc bán hàng rong. Tác giả coi đó là hệ quả tất yếu của đô thị hóa và đề

xuất chính quyền thành phố nên sắp xếp lại công ăn việc làm, bố trí nơi ở và quản lý

học, thay vì áp dụng những biện pháp hành chính cứng nhắc.

Tóm lại, những công trình đã nêu trên tuy không trực tiếp đề cập đến vấn đề luận

án nghiên cứu nhưng đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề mang tính lý luận như vấn đề

nông nghiệp, nông thôn; vị trí, chức năng của hệ thống chính trị-xã hội; chuyển dịch cơ

cấu nền kinh tế…; nó không những gợi ý cho tác giả luận án phương pháp tiếp cận mà

còn đưa ra một cái nhìn tổng thể về thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước từ thời điểm

14

tiến hành Đổi mới cho đến nay, cho thấy tính tất yếu của công cuộc đổi mới cơ chế quản

lý kinh tế nông thôn, nông nghiệp và xã hội.

. .2. Những nghi n ứ về inh t , hội và vấn ề th h Hà Nội

Đô thị hóa không chỉ tác động đến kinh tế - xã hội khu vực đô thị lớn như đã trình

bày ở trên, mà còn tới những vùng ven đô, nông thôn, đặc biệt diễn ra mạnh mẽ tại các

huyện ngoại thành Hà Nội.

Trong công trình nh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội:

thực trạng và giải pháp (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002), các tác giả đã phân tích một cách

khái quát những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội,

làm rõ các tác động vừa mang tính tích cực cũng như tiêu cực.

Ở một phạm vi rộng hơn là không gian vùng ven đô, Nguyễn Hữu Minh trong iến

đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Xã hội

học, số 1/2005) đã đề cập đến quá trình biến đổi kinh tế - xã hội của Hà Nội trong thời

kỳ đổi mới như biến đổi trong trong sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, tiêu dùng, tôn giáo,

tín ngư ng. Trong đó, tác giả chỉ ra rằng sự chuyển biến quá đột ngột về hành chính có

thể làm cho một bộ phận dân cư chưa kịp chuẩn bị với những đòi hỏi của cuộc sống đô

thị, dẫn đến những hẫng hụt. Nhịp sống, cơ cấu xã hội và các mối quan hệ xã hội ở nông

thôn có thể thay đổi một cách cơ bản. Tuy nhiên, ở nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung

nghiên cứu về sự thay đổi các chuẩn mực văn hóa cộng đồng là sự thay đổi thái độ, hành

vi và ứng xử của mỗi cư dân khu vực ven đô trong đời sống gia đình và xã hội.

Trần Đức Ngôn trong công trình Văn hóa truyền thống ngoại thành Hà Nội dước

tác động của kinh tế thị trường (Nxb. VHTT, Hà Nội, 2005) đã cho rằng, trong nền kinh

tế thị trường hiện nay, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở ngoại thành Hà Nội đang

có những thay đổi nhanh chóng.

Ngô Văn Giá trong Những biến đổi về giá trị văn hoá truyền thống của các làng

ven đô thuộc địa bàn Hà Nội trong thời kỳ đổi mới (Học viện CT-HCQGHCM, 2007) đã

phân tích những biến đổi kinh tế-xã hội tác động tới sự biến đổi giá trị văn hoá truyền

thống của các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới. Làm rõ hiện trạng biến đổi giá

trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới và đề xuất một

số phương hướng và giải pháp phát triển và giữ gìn các giá trị văn hóa làng ven đô.

Lê Tiêu La với nghiên cứu Một số biến đổi xã hội ở nông thôn vùng ven đô Hà Nội

trong thời kỳ đổi mới (Học viện CT-HCQGHCM, 2007) đã trình bày một số khía cạnh

15

lý luận và thực tiễn của biến đổi xã hội. Phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến

sự biến đổi của một số vấn đề xã hội ở vùng nông thôn ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi

mới. Đồng thời đã đưa ra các dự báo một số xu hướng biến đổi về xã hội, đưa ra một số

giải pháp nhằm phát triển bền vững xã hội nông thôn vùng ven đô Hà Nội.

Qua công trình Đô thị hóa đối và việc làm lao động ngoại thành Hà Nội (Nxb.

KHXH, Hà Nội, 2013), Nguyễn Thị Hải Vân đã cho thấy một trong nhiều tác động của

đô thị hóa đối với vùng ngoại thành Hà Nôi, đó là vấn đề lao động, việc làm. Đây là một

trong những vấn đề xã hội rất đáng quan tâm hiện nay, khi mà những chính sách đào tạo

nghề và việc làm của nhà nước cho những vùng nông thôn nói chung và vùng ngoại

thành Hà Nội nói riêng chưa phát huy được hiệu quả.

Trong Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại thành từ năm

1991 đến năm 2008 (Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, 2016), Lê Tiến Dũng đã

phân tích, đánh giá những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại

thành của Đảng bộ Thành phố Hà Nội; Sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong

lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại thành trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ từ năm 1991 đến năm 2008; Từ đó đưa ra

những đánh giá ưu điểm, hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh

đạo phát triển kinh tế ngoại thành của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, qua đó góp phần giải

quyết những vấn đề đặt ra trong các giai đoạn tiếp theo.

Có thể nói, vùng ven Hà Nội chịu tác động mạnh của quá trình đô thị hoá, các khu

dân cư nông nghiệp vùng ven đang chuyển dần thành các khu dân cư đô thị. Dân cư ở

đây đã có những thay đổi tích cực trong chiến lược sống, tâm lý, sinh kế, lao động việc

làm..., đã có một số nghiên cứu về vấn đề này.

Theo Phạm Hùng Cường trong Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn

đồng bằng sông Hồng thành các đơn vị ở trong quá trình đô thị hoá (Luận án tiến sĩ,

Trường Đại học Xây dựng, 2001), đô thị hóa là quá trình diễn biến toàn diện với sự

chuyển biến về nghề nghiệp, cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; sự

chuyển đổi đời sống văn hóa, xã hội, lối sống từ nông thôn sang đô thị; sự chuyển đổi

không gian tương ứng với các thay đổi kinh tế, xã hội và là sự thay đổi bộ máy hành

chính, quản lý từ nông thôn (xã) sang đô thị (phường). Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy

quá trình đô thị hoá của Hà Nội không chỉ là sự tập trung dân cư từ nông thôn vào đô thị

mà có sự chuyển dịch phức tạp của nhiều dòng dịch cư, trong đó luồng dịch cư từ nội

16

thành ra vùng ven là rất đáng kể và quá trình đô thị hoá vùng ven theo tác giả đòi hỏi

phải cấu trúc lại các không gian làng xã truyền thống để phù hợp với những chuyển biến

về xã hội, dân cư, lao động...

Lê Văn Nãi trong Nghiên cứu đánh giá các mặt tích cực, tồn tại trong quá trình đô

thị hóa làng-xã thành phường ở Hà Nội và kiến nghị các giải pháp khắc phục (Tạp chí

Người xây dựng, số 2/2004) cho rằng đô thị hóa làng xã thành phường là quá trình biến

đổi 4 vấn đề cơ bản sau: (1) Chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp thành sản xuất phi

nông nghiệp; (2) Chuyển từ nơi dân cư phân tán, mật độ dân cư thấp thành nơi tập trung

dân cư với mật độ cao; (3) Chuyển từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn thành cơ sở hạ

tầng kỹ thuật đô thị; (4) Chuyển đổi từ xã hội-văn hóa nông thôn thành xã hội-văn hóa

đô thị. Tất cả các chuyển đổi đó làm cho làng xã thành phường có vai trò thúc đẩy sự đô

thị hóa các làng xã tiếp theo.

Phan Thị Mai Hương với bài viết Chiến lư c sống qua những dự định nghề nghiệp

của cư dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Tâm lý học, số 12/2008)

đã nghiên cứu chiến lược sống qua những dự định việc làm của người dân khu vực ven

đô cho thấy yếu tố nội lực cho sự phát triển chưa trở thành một nguồn lực mạnh mẽ thúc

đẩy sự đổi mới cho mỗi người. Minh chứng cho sự bị động của người dân trước bối

cảnh mới, cần sự chuẩn bị tâm lý chu đáo để tiếp cận với cơ hội phát triển một cách chủ

động hơn.

Đỗ Thị Lệ Hằng trong bài viết Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp của cư dân

vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa (Tạp chí Tâm lý học, số 3/2008), nêu rõ thực

trạng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và thu nhập của người dân vùng ven đô Hà Nội.

Thông qua những nghiên cứu, thống kê về nghề nghiệp, thu nhập chính của các hộ gia

đình thuộc 3 khu vực: Yên Mĩ, Yên Sở, Mỹ Đình trong quá trình đô thị hóa.

Có cùng lựa chọn không gian nghiên cứu là vùng ven đô Hà Nội, Phan Thị Mai

Hương trong công trình Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong quá trình

đô thị hóa (Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2010) cũng góp phần phác thảo nên bức

tranh chung về quá trình đô thị hóa ở vùng ven đô, tìm hiểu thực trạng và sự biến đổi

một số mặt trong đời sống tâm lý của cư dân vùng ven đô đã được đô thị hóa và những

tác động của quá trình này đến đời sống tâm lý của người dân hiện nay. Tác giả kết luận,

những mặt, những khía cạnh liên quan đến đời sống kinh tế có sự biến đổi nhanh và

17

mạnh mẽ, còn những mặt, những khía cạnh liên quan đến văn hóa, tinh thần thì biến đổi

chậm hơn hoặc biến đổi theo chiều hướng tích cực.

Công trình Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội của

tác giả Nguyễn Văn Sửu (Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2014). Nội dung của nghiên cứu này

đã tập trung mô tả, phân tích và lý giải về đô thị hóa, công nghiệp hóa và những tác

động của nó đến biến đổi sinh kế của các hộ gia đình nông dân ở khu vực ven đô Hà Nội

trong hơn một thập kỷ qua, với việc chọn hai cộng đồng làng Phú Điền và Gia Minh như

hai nghiên cứu trường hợp phản ánh rõ sự chuyển đổi của khu vực ven đô Hà Nội dưới

tác động của đô thị hóa. Qua đó, tác giả kết luận rằng quá trình công nghiệp hóa và đô

thị hóa, mà nổi bật là việc thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp của các hộ gia đình

nông dân để xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng đô thị... đã

làm chuyển đổi mạnh mẽ cuộc sống và các chiến lược sinh kế của nhiều hộ gia đình

nông dân ở ven đô Hà Nội.

Không chỉ là những nghiên cứu vùng ven đô/ngoại thành nói chung, có nhiều

nghiên cứu đã chọn đối tượng là những địa phương cụ thể, có thể là xã/phường/làng cụ

thể nào đó. Có thể kể đến một số công trình sau:

Ở lĩnh vực này, trong nghiên cứu Những biến đổi kinh tế - xã hội ở ịch Vọng

trong quá trình đô thị hóa từ làng, xã thành phường (Viện Xã hội học, 1999), Trịnh Duy

Luân đã đề cập đến những biến đổi kinh tế - xã hội tại Dịch Vọng. Kết quả nghiên cứu

cho thấy, quá trình đô thị hóa ở Dịch Vọng đã dẫn tới sự gia tăng đột biến về dân số, sự

chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp nhanh chóng. Đời sống vật chất của người dân Dịch

Vọng khá hơn so với trước khi trở thành phường. Tác giả cũng chỉ rõ rằng, việc đời

sống vật chất được nâng cao ở đây chưa mang tính phát triển bền vững. Bởi vì phần lớn

người dân ở đây chủ yếu được nhận tiền đền bù đất, bán đất và có nhà cho thuê, chứ

không phải là do chuyển đổi nghề nghiệp hay phát triển tương đối lớn do được đền bù

hay bán đất canh tác, đất thổ cư để cải thiện đời sống vật chất trước mắt mà không đầu

tư được vào sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện làm ăn phát triển lâu dài…

Tuy nhiên, tác giả cũng nói rằng, dù có sự thay đổi ít nhiều về dân số, nghề nghiệp, đời

sống văn hóa tinh thần nhưng mối quan hệ họ hàng, làng mạc truyền thống ở Dịch Vọng

vẫn được gìn giữ bảo tồn.

Trong công trình iến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá trình đô

thị hóa tại Hà Nội, Trần Thị Hồng Yến (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2013), bằng phương pháp

18

tiếp cận nhân học, đã nghiên cứu những biến đổi về văn hóa, xã hội ở những làng thuộc

các xã chuyển thành phường trên địa bàn Hà Nội. Tác giả đã chọn 3 làng: làng Trung

Kính Thượng (phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy), thôn Tây (phường Nhật Tân, quận

Tây Hồ), làng Thanh Trì (phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai) làm điểm nghiên cứu.

Sau khi chuyển đổi từ xã thành phường, 3 làng đã có những thay đổi về cơ cấu nghề

nghiệp, cơ cấu tổ chức, môi trường sống, các quan hệ xã hội truyền thống, sự phân tầng

xã hội rõ rệt và những tệ nạn xã hội. Trên cơ sở phân tích thực trạng và các dạng thức

biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê chịu tác động của quá trình đô thị hóa theo

phương thức chuyển từ xã thành phường, tác giả đã làm rõ những tác động tích cực cùng

những bất cập về mặt xã hội, văn hóa của quá trình chuyển đổi này.

Nguyễn Đình Tuấn trong công trình iến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư

vùng đô thị hóa (nghiên cứu trường h p tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà

Nội (Luận án tiến sĩ nhân học, Học viện KHXH, 2013) đã nghiên cứu những biến đổi

văn hóa ở cộng đồng dân cư vùng đô thị hóa trong bối cảnh đô thị hóa. Đó là quá trình

biến đổi mang tính tiếp nối và liên tục đan xen giữa cái cũ, cái truyền thống với cái mới,

cái hiện đại. Trong đó những biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất diễn ra nhanh hơn

và có tác động trở lại đối với đời sống văn hóa tinh thần. Những biến đổi trong đời sống

văn hóa vật chất được thể hiện thông qua những thay đổi về không gian sống, kiến trúc

nhà ở và các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình. Còn văn hóa tinh thần nổi lên là những

thay đổi trong cách ứng xử, chuẩn mực, giá trị trong quan hệ họ hàng, dòng họ, cộng đồng

và một số phong tục tập quán, sử dụng thời gian rỗi và giải trí. Những biến đổi này bao

hàm cả mặt tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, quá trình thay đổi và thích nghi văn hóa của

người dân ở Định Công và Minh Khai không phải diễn ra theo một cách đơn thuần từ văn

hóa nông thôn sang văn hóa đô thị mà còn bao hàm trong đó sự lưu giữ và khôi phục

những giá trị văn hóa truyền thống.

Ngoài ra, còn có một số bài viết, luận văn, đề tài như Lịch sử tụ cư, quá trình đô

thị hóa và những đặc điểm dân số học: nghiên cứu trường h p phường Phúc Xá, a

Đình, Hà Nội (Nguyễn Thị Thùy Dương, Tạp chí Xã hội học, số 2-2011); Từ làng đến

phố: đô thị hóa và quá trình chuyển đổi lối sống ở một làng ven đô (Trường h p phường

Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội của Bùi Thị Kim Phượng (Luận văn thạc sỹ,

ĐHQG Hà Nội); Câu chuyện làng iang của Lương Hồng Quang (Chủ biên, 2011,

Nxb. ĐHQG Hà Nội)…

19

Nội dung các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, các công trình này đã cung

cấp lý thuyết cũng như thực tiễn trong nghiên cứu về đô thị hóa, biến đổi về kinh tế, văn

hóa, xã hội dưới tác động của đô thị hóa. Những kết quả nghiên cứu trong các công trình

nói trên đã giúp cho tác giả luận án có thêm nhận thức về những vấn đề phát triển kinh

tế-xã hội dưới tác động của đô thị hóa ở Việt Nam nói chung, các địa phương cụ thể nói

riêng để có thể thực hiện một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn, đầy đủ và đa diện hơn những

nhiệm vụ luận án đặt ra và trong một chừng mực nào đó có thể so sánh với các trường

hợp khác nhằm có một cái nhìn khách quan vấn đề nghiên cứu của mình.

. .3. Những nghi n ứ về inh t , hội h n i m

- Những công trình viết về lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm nói

chung và một số xã của xã của huyện Từ Liêm như: Lịch sử cách mạng huyện Từ Liêm

(2 tập); Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm (1930-2010); Lịch sử cách mạng xã Minh Khai

huyện Từ Liêm - thành phố Hà Nội 1930-2000; Lịch sử cách mạng xã Thuỵ Phương

huyện Từ Liêm - Hà Nội (1972-2006); Lịch sử cách mạng xã Đại Mỗ (1930-2007 ; Lịch

sử cách mạng xã Thư ng Cát - huyện Từ Liêm Thành phố Hà Nội (1930-2009 ; Lịch sử

cách mạng xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội (1930-2010 ; Đảng bộ

huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong những năm 1986-2005 (Nguyễn

Thị Bình, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, 2009)... Đây là nhóm công trình

tìm hiểu những nét chung của huyện như kinh tế, xã hội, nông nghiệp… cũng như của

từng làng, xã, cung cấp cho người đọc những hiểu biết chung về vùng đất này. Trong đó

đáng lưu ý là luận văn Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong

những năm 1986-2005, bằng phương pháp lịch sử, Nguyễn Thị Bình đã cung cấp cho

người đọc quá trình phát triển nông nghiệp của huyện Từ Liêm từ năm 1986 đến 2005

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống các chủ

trương, biện pháp, quá trình lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ huyện Từ Liêm và những

kết quả đạt được theo từng giai đoạn lịch sử. Từ đó, phân tích vai trò của Đảng bộ huyện

Từ Liêm trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, đồng thời đưa ra một

số kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp

trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

- Về quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị hóa ở huyện Từ

Liêm đã có một số sách chuyên khảo, bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu

hội thảo khoa học và các luận án, luận văn.

20

Nhóm thứ nhất viết về đô thị hóa ở huyện Từ Liêm là các bài viết trên tạp chí và

hội thảo khoa học, gồm:

Trong bài viết Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế của nông

dân Việt Nam: trường h p một làng ven đô Hà Nội (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam

học lần thứ 3, 2008), Nguyễn Văn Sửu, đã đi sâu nghiên cứu việc thu hồi đất nông

nghiệp và phân tích tác động của nó đối với cuộc sống của người nông dân huyện Từ

Liêm từ những năm 1990 đến nay. Tác giả cho rằng, việc thu hồi quyền sử dụng đất

nông nghiệp của nhà nước đã tạo ra những tác động quan trọng về kinh tế, xã hội, văn

hóa, chính trị đối với người nông dân bị thu hồi đất để phục vụ cho các mục đích công

nghiệp hóa và đô thị hóa. Để đối phó với tình huống mới, trong khi chính sách của Đảng

và nhà nước về đào tạo nghề và việc làm còn hạn chế, nhiều hộ gia đình đã tự tìm những

phương cách để mưu sinh trong tình hình mới.

Trong bài viết Chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay ở Xuân Đỉnh,

Từ Liêm (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2014), Nguyễn Thị Phương Châm đã nghiên

cứu sự chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa tại xã Xuân Đỉnh - một trong những

địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất ở huyện Từ Liêm trong thời gian qua. Từ

một làng nông nghiệp ven đô, trong bối cảnh đô thị hóa, Xuân Đỉnh đã có những bước

chuyển biến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế hỗn hợp theo xu hướng trọng nông truyền thống

đang dần chuyển sang cơ cấu kinh tế hỗn hợp theo xu hướng trọng thương. Theo tác giả,

người dân đã không thụ động, trông chờ vào các hình thức trợ giúp của nhà nước hay

các doanh nghiệp đền bù đất mà đã chủ động tạo ra đa dạng các hình thức sinh kế cho

mình, ví như cho thuê nhà trọ, các hoạt động dịch vụ, làm bánh mứt kẹo,… Tuy nhiên,

bên cạnh những mặt tích cực do sự chuyển đổi sinh kế thì cũng có những thay đổi tạo ra

những hệ lụy không mong muốn như vấn đề gia tăng sự phức tạp cho thành phần dân cư

trong làng, sự rủi ro trong đầu tư, sự phân tầng xã hội ngày càng rõ rệt… Nhưng trên

hết, dù làng đã chuyển đổi sinh kế song những hình thức sinh kế truyền thống vẫn được

duy trì, cảnh quan làng truyền thống, tình làng nghĩa xóm, sự cố kết chặt chẽ của các

dòng họ, của cộng đồng,… vẫn được bảo đảm.

Đỗ Lan Phương trong Lễ hội ở Xuân Đỉnh: Sự phục hồi và kiếm tìm bản sắc cộng

đồng đương đại (Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2014), đã nghiên cứu về sự phục hồi và

kiếm tìm bản sắc lễ hội ở Xuân Đỉnh trong quá trình đô thị hóa. Theo nghiên cứu của tác

giả, diện mạo mới của các lễ hội ở Xuân Đỉnh vừa có sự kế thừa của truyền thống vừa

21

đan cài những lựa chọn sáng tạo mới các thực hành lễ hội như tạo thêm lễ hội, nghi thức

chào cờ, thành phần đoàn rước, trang phục đầy màu sắc, cách thức rước kiệu, trình diễn

nghệ thuật quần chúng… Điều đó đã phản ánh quá trình chuyển đổi xã hội vào đời sống

tín ngư ng, đồng thời cho thấy sự linh hoạt, thích ứng nhanh của người dân đối với quá

trình chuyển đổi này. Tuy nhiên, sự thiếu bền vững với những hoạt động kinh tế không

chính thức cho thấy những đặc trưng mà cộng đồng này lưu truyền được vẫn là chưa đủ,

nó cần có những yếu tố mới để phù hợp với cộng đồng đương đại, trong đó có sự hỗ trợ

từ chính sách phát triển của nhà nước.

Nhóm thứ hai là các luận án, luận văn nghiên cứu về đô thị hóa ở huyện Từ Liêm.

Tác giả Kim Jong Ouk trong Một số biến đổi ở làng xã châu thổ sông Hồng từ

đầu thế kỷ X X đến giữa thế kỷ XX (qua trường h p làng Mễ Trì (Luận án Tiến sĩ,

Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, 2009) đã giới thiệu cho người đọc một bức tranh

tương đối cụ thể và khách quan về làng xã vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trong

quá trình thay đổi địa giới hành chính. Qua đó, tác giả đã làm rõ sự biến đổi của làng xã

vùng đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực trong giai đoạn chuyển tiếp cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX. Vì đây là một nghiên cứu trường hợp lấy làng Mễ Trì làm điểm

nghiên cứu, do đó, tác giả mới chỉ làm rõ được sự biến đổi của một làng quê, tập trung

chủ yếu vào ba lĩnh vực: bộ máy quản lý, tình hình sở hữu ruộng đất và giáo dục đặt

trong mối quan hệ tổng thể với làng xã vùng châu thổ sông Hồng từ cuối thế kỷ XIX đến

đầu thế kỷ XX

Trong Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn (Luận văn thạc sĩ, Trung tâm bồi dư ng giảng viên lý

luận chính trị, ĐHQG HN, 2005), Nguyễn Thị Thọ đã trình bày thực trạng phát triển làng

nghề truyền thống của huyện Từ Liêm từ sau đổi mới đến nay trên mọi lĩnh vực, từ cơ cấu

ngành nghề, nguồn lực phát triển làng nghề, thị trường của làng nghề và các hình thức tổ

chức sản xuất kinh doanh. Qua đó cho thấy, phát triển làng nghề đã góp phần vào tăng

trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm nâng cao đời sống người dân Từ Liêm.

Ở một chiều cạnh khác, trong luận văn Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

ngoại thành theo hướng đô thị hóa ở huyện Từ Liêm (Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Trường

Đại học Kinh tế, ĐHQG HN, 2007), Ngô Thái Hà trình bày sự chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm theo hướng đô thị hóa. Đô thị hóa nhanh làm cho

22

diện tích sử dụng đất nông nghiệp bị thu hẹp do chuyển mục đích sử dụng đất đai sang

phục vụ phát triển đô thị, nguồn lao động nông nghiệp dư thừa, cơ cấu kinh tế nông

nghiệp trước đây không còn phù hợp. Kết quả là huyện Từ Liêm phải có sự thay đổi

trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng

cho phù hợp với tình hình mới.

Cũng lấy một địa phương cụ thể của huyện Từ Liêm, Kim Kyung đã chọn Phú Đô

- làng làm bún truyền thống có những nét văn hóa đặc sắc của làng xã Việt Nam là đối

tượng nghiên cứu của mình trong Đô thị hóa và tác động của nó đến những biến đổi

làng xã ngoại thành Hà Nội (qua trường h p làng Phú Đô (Luận văn thạc sĩ, Viện Việt

Nam học và khoa học phát triển, 2009). Theo tác giả, những những năm gần đây, nhất là

sau năm 2002, đường phố xung quanh làng đã hoàn thiện, Phú Đô đã thoát khỏi cô lập

về mặt địa lý, khởi đầu cho việc chịu ảnh hưởng sâu sắc của đô thị hoá. Đô thị hoá đã

ảnh hưởng đến cuộc sống người dân Phú Đô về mặt kinh tế-xã hội, văn hoá vật chất và

văn hoá tinh thần. Tác giả đã nêu lên được những ưu điểm và đồng thời cũng chỉ ra một

số hạn chế do sự tác động của đô thị hóa đối với làng Phú Đô; nêu một số biện pháp

phát huy những ưu thế của quá trình đô thị hoá, đảm bảo giữ gìn được bản sắc văn hoá

truyền thống của làng, góp phần định hướng và đào tạo nghề nghiệp cho người dân làng

Phú Đô và đặc biệt là dân di cư cũng như đưa ra những dự báo về hướng phát triển cho

những làng ven đô Hà Nội như Phú Đô.

Trong luận văn Đô thị hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà Nội

(trường h p nghiên cứu xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Viện Việt

Nam học và khoa học phát triển, 2012), Bùi Văn Tuấn đã cho người đọc thấy được quá

trình đô thị hóa của xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm - là địa phương diễn ra tốc độ đô thị hóa

nhanh so với các địa phương khác trong khu vực ven đô. Qua đó cho thấy được sự tác động

của quá trình đô thị hóa đến kinh tế, xã hội của địa phương, cả mặt tích cực và hạn chế, làm

ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân và sự phát triển toàn diện của khu vực

ven đô hiện nay. Tác giả kết luận, sự chuyển đổi từ một cộng đồng làng xã truyền thống

sang cộng đồng đô thị của Mễ Trì không chỉ thể hiện ở hoạt động kinh tế nông nghiệp đang

mất đi và sinh kế của người dân giờ đây chủ yếu nhờ vào các hoạt động dịch vụ và phi nông

nghiệp mà còn ở lối sống của cư dân. Quá trình chuyển đổi này cũng cho thấy những khác

biệt và xung đột giữa các nhóm cư dân mới và cũ, giữa lối sống xô bồ của những người di

cư và kiểu cố kết cộng đồng của nhóm cư dân gốc ở Mễ Trì.

23

Trong iải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Từ

Liêm, Thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG HN, 2014),

Trần Thị Hồng Bích đã nghiên cứu thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất nông nghiệp tại huyện Từ Liêm, trong giai đoạn 2004-2012. Theo tác giả, trong giai

đoạn này, để phục vụ quá trình đô thị hóa nhanh, huyện Từ Liêm đã thu hồi nhiều diện

tích đất nông nghiệp của các hộ nông dân để phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp,

giao thông công cộng... Do đó, một lực lượng lớn lao động của huyện sẽ phải chuyển đổi

nghề vì không còn tư liệu sản xuất. Huyện Từ Liêm đã có chủ trương hỗ trợ chuyển đổi

nghề, tạo việc làm cho các hộ mất đất để ổn định sản xuất, bảo đảm cuộc sống. Tuy nhiên,

trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế như chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định

cư, công tác đào tạo nghề, trách nhiệm của chính quyền với người lao động và người sử

dụng lao động...

Trong iến đổi xã hội vùng ven đô Hà Nội trong bối cảnh đô thị hóa (trường h p

huyện Từ Liêm từ 1996 đến 2013 (Luận án Tiến sĩ Việt Nam học, Viện Việt Nam học

và khoa học phát triển, 2017), bằng phương pháp tiếp cận xã hội học, khu vực học, Bùi

Văn Tuấn đã làm rõ thực trạng về biến đổi xã hội của cộng đồng dân cư ven đô nói

chung và cộng đồng dân cư huyện Từ Liêm nói riêng trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay

trên các chiều cạnh như: cơ cấu dân cư, sinh kế và đời sống văn hóa, cố kết cộng đồng

của người dân Từ Liêm.

1.2. Những nội dung luận án kế thừa và những vấn đề luận án cần tiếp tục

nghiên cứu

.2. . Những nội ng th

Có thể nói, trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã được kế thừa một khối

lượng lớn các nguồn tài liệu và các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội

và về đô thị hóa với nội dung phong phú, đa dạng về cách tiếp cận của các học giả nước

ngoài và các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trên cơ sở trình bày tổng quan tài liệu ở trên,

chúng tôi nhận thấy, những vấn đề tác giả luận án được kế thừa như sau:

Thứ nhất, những tác phẩm trình bày về vấn đề kinh tế, xã hội nói chung và chuyển

biến kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị hóa như đã trình bày trên đây tuy không

trực tiếp đề cập đến vấn đề kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm nhưng là những tác phẩm

mang tính lý luận, cung cấp cho tác giả đề tài những lý thuyết và phương pháp tiếp cận

vấn đề nghiên cứu. Qua nhóm công trình này, có thể thấy rằng, sự chuyển biến kinh tế-

24

xã hội là quy luật phát triển tự nhiên của xã hội loài người từ trước đến nay và đô thị hóa

là quá trình tất yếu, song hành cùng với quy luật phát triển đó. Đồng thời, dưới tác động

của đô thị hóa, hàng loạt vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa đã nảy sinh, đòi hỏi cần giải

quyết. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những biến đổi

lớn về kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt là ở những khu đô thị lớn.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế-xã hội cũng như tác

động của đô thị hóa đến kinh tế, văn hóa - xã hội ở Việt Nam nói chung và ngoại thành

Hà Nội nói riêng rất phong phú, đa dạng, đem đến cho nghiên cứu sinh những cái nhìn

mới, để từ đó tiếp cận vấn đề nghiên cứu của mình - huyện Từ Liêm đặt trong bối cảnh

phát triển của cả thành phố Hà Nội nói chung và các huyện ven ngoại thành nói riêng.

Những công trình này đã giúp cho NCS có thêm nhận thức về bức tranh tổng quan về

đối tượng nghiên cứu, tham khảo và kế thừa các luận giải, đánh giá về những vấn đề

kinh tế, xã hội, văn hóa, cung cấp được nhiều số liệu thống kê khá xác thực về tình hình

kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội; giúp cho NCS có cách nhìn đối sánh với những

chuyển biến về kinh tế - xã hội của huyện Từ Liêm với các huyện lân cận.

Thứ ba, các nghiên cứu về huyện Từ Liêm đã cung cấp những nét tổng quan về

lịch sử phát triển của huyện, nội dung của các công trình nhằm đẩy mạnh quá trình phát

triển của Từ Liêm trong bối cảnh mới, hoặc là về một địa bàn cụ thể (xã/phường), một

lĩnh vực riêng biệt nào đó trong không gian của huyện Từ Liêm (lao động, việc làm,

chuyển đổi sinh kế, xã hội...). Tuy những công trình nêu trên chưa đề cập trực tiếp đến

vấn đề chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của quá trình đô thị hóa của huyện Từ

Liêm, nhưng qua đó NCS có thể nắm bắt được những nét chung nhất về địa bàn nghiên

cứu. Có thể nói rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách có

hệ thống về sự chuyển biến kinh tế-xã hội dưới tác động của đô thị hóa của riêng một

địa bàn ven đô/ngoại thành cụ thể là huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 như đề tài

mà chúng tôi đã lựa chọn.

.2.2. Những vấn ề l ận án giải t

Trên cơ sở kế thừa những thành quả của nhiều người đi trước như đã nêu, luận án

sẽ tập trung hướng tới việc giải quyết những nội dung sau:

- Giới thiệu và phân tích một cách khái quát về huyện Từ Liêm; chủ trương phát

triển kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở địa phương này từ năm

1996 đến năm 2013.

25

- Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về chuyển biến các mặt kinh tế (bao

gồm chuyển biến về cơ cấu kinh tế, sự phát triển của các ngành kinh tế như nông nghiệp,

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ...), xã hội (dân cư, văn hóa - giáo

dục, y tế, môi trường…) của Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa trong khung nghiên cứu.

- Trên cơ sở phân tích những chuyển biến kinh tế, xã hội dưới tác động của quá trình

đô thị hóa ở huyện Từ Liêm, luận án đưa ra một số nhận xét về sự chuyển biến về các mặt

kinh tế, xã hội của Từ Liêm dưới tác động quá trình đô thị hóa; nêu lên những thuận lợi

cũng như thách thức đang đặt ra cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội do quá trình đô thị

hóa đem lại đối với Từ Liêm nói riêng, đối với các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung.

Các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế-xã hội và về đô thị hóa mà tác

i t h ơng

giả luận án vừa trình bày ở trên đã cho thấy sự phong phú về mặt nội dung, sự đa dạng

về cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu. Trong đó, qua những tác phẩm trình bày về

vấn đề kinh tế, xã hội nói chung và chuyển biến kinh tế-xã hội dưới tác động của đô thị

hóa, tác giả luận án có thể tiếp thu thêm những lý thuyết và phương pháp tiếp cận vấn đề

nghiên cứu. Còn các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội dưới tác động của đô thị

hóa ở Hà Nội đã trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh có cách

tiếp cận mới, từ cách nhìn tổng quan của cả thành phố Hà Nội để từ đó đi sâu vào vấn đề

nghiên cứu cụ thể của luận án và biết nhận diện đối tượng nghiên cứu là huyện Từ Liêm

trong bối cảnh chung của Thủ đô. Ngoài ra, các nghiên cứu về huyện Từ Liêm đã cung

cấp thêm cho tác giả luận án một đôi nét còn chưa sáng tỏ về lịch sử phát triển của

huyện cũng như về một vài địa bàn cụ thể, một vài lĩnh vực riêng biệt... để có thể minh

chứng thêm cho những kiến giải của nghiên cứu sinh.

Tuy vậy, như đã trình bày, cho đến hiện nay chưa có một công trình nào nghiên

cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện về vấn đề quá trình chuyển biến kinh tế-xã

hội huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa từ năm 1996 đến năm 2013. Do đó,

hướng tiếp cận của luận án là không trùng lặp, mang tính độc lập so với các công trình

nghiên cứu và luận án đã công bố và bảo vệ. Mục tiêu của luận án là nhằm trình bày

khái quát về huyện Từ Liêm và vấn đề đô thị hóa ở địa phương này trong khung nghiên

cứu; phân tích sâu về chuyển biến kinh tế-xã hội của Từ Liêm dưới tác động của đô thị

hóa; trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét về sự chuyển biến trên các mặt kinh tế, xã hội,

nêu lên những thuận lợi cũng như thách thức đang đặt ra.

26

Chương 2

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN TỪ LIÊM VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA

HUYỆN TỪ LIÊM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2013

2.1. Khái quát về huyện Từ Liêm

2. . . V t í lý

Từ Liêm là một huyện ngoại thành nằm ở phía Tây của thành phố Hà Nội. Phía

Bắc giáp với huyện Đông Anh; phía Đông giáp các quận Cầu Giấy, Tây Hồ; phía Tây

giáp huyện Hoài Đức, Đan Phượng; phía Nam giáp quận Thanh Xuân.

Huyện Từ Liêm nằm trên trục phát triển phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, có vị

trí địa lý rất thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế. Với mạng lưới giao thông

đường bộ đã và đang phát triển như: Quốc lộ 11 (nay là Quốc lộ 32) nối thủ đô với xứ

Đoài (Sơn Tây) chạy ngang giữa huyện, đường 70 (Hà Đông - Thượng Cát), đường 23

(Yên Phụ - Chèm), đường 69 (Dịch Vọng - Chèm). Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến

giao thông huyết mạch: đường Phạm Hùng - Phạm Văn Đồng - cầu Thăng Long đi sân

bay quốc tế Nội Bài; đường Láng - Hoà Lạc (Trần Duy Hưng); đường đê hữu ngạn sông

Hồng đi Sơn Tây. Huyện có hệ thống đường sắt chạy qua huyện dài 14km và có 1 nhà

ga hành khách xây dựng ở xã Phú Diễn. Về đường sông có một đoạn sông Hồng chảy

qua, dài trên 7km ở phía Bắc Từ Liêm. Do đó, các hoạt động giao thông liên vùng của

huyện diễn ra tương đối thuận lợi không chỉ đối với việc đi lại của nhân dân trong vùng

mà còn tạo lợi thế để thu hút các dự án đầu tư xây dựng của thành phố, chi phối mạnh

các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương. Mặt khác, việc tiếp giáp với ba quận của

Thủ đô là Cầu Giấy, Tây Hồ và Thanh Xuân, là ba quận lớn, có mật độ dân cư đông,

kinh tế phát triển, là nơi tập trung nhiều công sở, xí nghiệp cũng tạo ra những lợi thế

nhất định về thị trường tiêu thụ sản phẩm, các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động hơn, cơ

sở hạ tầng phát triển nhanh thu hút dân cư nơi khác đến sinh sống và làm việc.

Về địa hình, Từ Liêm là vùng đất khá bằng phẳng và màu m , có nhiều sông hồ.

Địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cao độ trung bình 6,0 - 6,5m. Phần

đất cao nhất tập trung ở phía Bắc, dọc theo sông Hồng, cao từ 8,0 - 11,0m; thấp nhất là

vùng ô trũng, hồ đầm và vùng phía Nam. Đặc điểm chung là trong khu vực còn có các

hồ ao trũng. Sự chênh lệch về cao độ mặc dù không lớn nhưng cần phải lưu ý trong quy

hoạch, hệ thống thoát nước, tránh tình trạng ngập úng cục bộ.

27

Với vị trí và địa hình như vậy, huyện Từ Liêm có nhiều thuận lợi để phát triển kinh

tế - xã hội, nhất là trong quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, các cụm dân cư đô thị, trung

tâm thương mại, du lịch, dịch vụ và khoa học công nghệ...

2. .2. Khí hậ th văn

Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, Từ Liêm thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm,

gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 mùa hạ, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Từ tháng 11

đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh và khô, nửa mùa sau thường có mưa phùn, ẩm

ướt. Nền nhiệt của Từ Liêm khá cao và đồng đều; nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23- 24oC. Lượng mưa trung bình năm đạt 1.600 - 1.800mm, số ngày mưa trong năm đạt 140

- 145 ngày.

Chế độ thủy văn của Từ Liêm chia hai mùa rõ rệt và chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế

độ thủy văn sông Hồng. Trong thời gian có lũ, toàn bộ vùng đất ngoài đê sông Hồng đều bị

ngập lụt. Ngoài đoạn sông Hồng ở phía Bắc, Từ Liêm còn có sông Nhuệ chảy dọc huyện.

Đây là sông đào nhận nước của sông Hồng (qua cống Liên Mạc) theo sự điều khiển chủ

động của con người. Ngoài hai con sông kể trên, Từ Liêm còn có một số sông nhỏ (sông

Đăm, sông Cầu Ngà…) và 360,31ha ao hồ. Hệ thống sông, hồ, đầm đã tạo cho Từ Liêm

có lượng nước dồi dào, đủ lượng nước tưới quanh năm cho cây trồng và phục vụ sản xuất

công-nông nghiệp.

Nhìn chung, ngoại trừ một số ngày mưa dông bão lớn và mưa phùn quá ẩm ướt, còn

lại những ngày trong năm đều thuận tiện cho việc gieo trồng trong nhiều thời vụ với nhiều

loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế và hiệu quả. Đồng thời cũng thuận lợi trong việc

vận chuyển, đi lại, giao dịch buôn bán, tham quan du lịch và phát triển các ngành nghề dịch

vụ khác.

2.1.3. Đất i

Đất đai huyện Từ Liêm vừa có những đặc điểm chung của đất Hà Nội nhưng lại

vừa có những đặc điểm riêng. Theo phân loại thổ như ng, đất Hà Nội được phân chia

thành 5 nhóm đó là: nhóm đất cát, nhóm đất xám bạc màu, nhóm đất thung lũng và

nhóm đất đỏ vàng nhưng toàn huyện Từ Liêm là đất phù sa. Đất đai huyện Từ Liêm

được kiến tạo trên nền phù sa cổ, được hình thành do quá trình bồi tụ phù sa của các

dòng sông do vậy chủ yếu thuộc nhóm đất phù sa. Đất đai Từ Liêm tương đối bằng

phẳng, màu m , được nhiều thế hệ dân cư khai phá, cải tạo.

28

Đất canh tác của Từ Liêm, những nơi có độ cao đều có thành phần thuộc loại đất

cát, đất thịt nhẹ. Những vùng đất thấp là đất thịt, thịt nặng và pha sét không thuận lợi

trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật cùng

với việc tăng cường đầu tư theo chiều sâu, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý thì những trở

ngại về thành phần cơ giới đất có thể khắc phục được mà vẫn đảm bảo hiệu quả cao.

2. .4. h sử hành hính

Từ đầu Công nguyên Từ Liêm thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao Chỉ.

Đến năm 621 (sau Công nguyên) lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập

thuộc Từ Châu. Sở dĩ đặt tên huyện là Từ Liêm vì giữa huyện có sông Từ Liêm (sau đổi

là sông Nhuệ) đầu nguồn nối vào sông Hồng [54, tr.12].

Dưới thời Lý, Trần, huyện Từ Liêm thuộc quận Vĩnh Khang; thời Lê, Tây Sơn và

đầu triều Nguyễn thuộc phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) Từ

Liêm là một trong ba huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.

Từ khi Thăng Long trở thành Kinh đô nước Đại Việt (1010), Từ Liêm trở thành

cửa ngõ phía Tây của thủ đô - do ở sát kinh thành, đi lại thuận tiện nên khi trong thành

có biến động, các cơ quan đầu não thường chạy ra Từ Liêm. Sử cũ ghi lại vua Lý Huệ

Tông, tháng 5 năm Ất Hợi (1215) và vua Lê Chiêu Tông, tháng 9 năm Mậu Dần (1510)

chạy ra Thượng Yên Quyết (xã Yên Hòa) làm nhà tranh để họp triều đình [54, tr.14].

Những khi kinh thành bị ngoại xâm, đất Từ Liêm thường là nơi tập trung nghĩa

quân để giải phóng thủ đô. Như cuộc khởi nghĩa của Lê Nhị chống quân Minh lấy Từ

Liêm là căn cứ (1410), sau đó Lê Lợi đưa đại quân đến đóng ở Nhân Mục, Cảo Động

(Xuân Đỉnh) năm 1426 để tập kích vào Đông Đô. Khi quân Thanh chiếm Thăng Long,

mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung đã bí mật đưa quân về tập kết ở Mễ

Trĩ, Nhân Mục, Phùng Khoang từ đấy đánh vào đại quân giặc ở Đống Đa [54, tr.14].

Năm 1888, thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, một số xã thuộc huyện Từ

Liêm trước đó được cắt vào khu ngoại thành Hà Nội. Đến năm 1915, khu vực này đổi

thành huyện Hoàn Long - tỉnh Hà Đông. Sau đó, vua Khải Định ra đạo dụ (26-12-1918)

quy định cấp phủ ngang cấp huyện thì huyện Từ Liêm không còn, chỉ còn phủ Hoài Đức

thuộc tỉnh Hà Đông. Để mở rộng Thành phố Hà Nội, ngày 31-12-1942, Pháp quyết định

cắt 23 làng thuộc phủ Hoài Đức cùng với huyện Hoàn Long lập ra “Đại lý đặc biệt”,

nhân dân quen gọi là đại lý Hoàn Long, trụ sở ở ấp Thái Hà (nay thuộc quận Đống Đa).

29

Phủ lỵ Hoài Đức đóng ở xã Dịch Vọng (nay thuộc phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy),

sau ngày 9-3-1945 chuyển về xã Tây Tựu.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng chia lại thành nhiều

đơn vị hành chính nhỏ và qua nhiều lần đổi tên: tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5

khu: Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh. Đầu năm 1947, địch chiếm một

số vùng ở ngoại thành nên 5 khu được tổ chức thành 3 quận: sáp nhập khu Lãng Bạc và

Đại La để thành lập quận IV; chia 3 khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận V

và VI. Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thống nhất 3 quận IV, V, VI thành quận

ngoại thành.

Theo quyết định số 78/QĐ ngày 31 tháng 5 năm 1961 của Chính phủ nướcViệt

Nam Dân chủ Cộng hòa, Thành phố Hà Nội được mở rộng, do vậy huyện Từ Liêm được

thành lập trên cơ sở sáp nhập hai quận V và VI của Hà Nội lúc đó cùng với một số xã

của hai huyện Hoài Đức và Đan Phượng; tổng số gồm 26 xã. Đó là: Cổ Nhuế, Dịch

Vọng, Đông Ngạc, Hữu Hưng, Liên Mạc, Mai Dịch, Mễ Trì, Minh Khai, Mỹ Đình,

Nghĩa Đô, Nhân Chính, Nhật Tân, Phú Diễn, Phú Thượng, Quảng An, Tây Tựu, Thượng

Cát, Thụy Phương, Trung Hòa, Trung Văn, Tứ Liên, Xuân Đỉnh, Xuân La, Xuân

Phương, Yên Hòa, Yên Lãng.

Từ năm 1961 đến năm 1996, huyện Từ Liêm đã trải qua 6 lần thay đổi địa giới hành chính3. Đến tháng 11/2013, huyện Từ Liêm có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 1 trận, có diện tích là 75,15km2 và dân số trên 523.400 người. Các đơn vị hành chính

cấp xã gồm: Mỹ Đình, Tây Tựu, Phú Diễn, Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy

Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân

Phương và thị trấn Cầu Diễn.

Huyện Từ Liêm thuộc vùng đất cổ Thăng Long - Hà Nội, là nơi có nhiều di tích

lịch sử và công trình văn hóa lâu đời; là địa phương mang đậm bản sắc của cư dân vùng

ven kinh đô ngàn năm văn hiến trong sản xuất cũng như trong đời sống vật chất và tinh

thần. Từ lâu đời, Từ Liêm đã gắn bó với Kẻ Chợ - nơi tập trung bộ máy hành chính của

nhà nước trung ương, có những người thợ thủ công giỏi, những người buôn bán lớn và

quan hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nông dân và thợ thủ công ở Từ Liêm 3 Năm 1982, thành lập 3 thị trấn: Cầu Giấy, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, năm 1990 thành lập thêm thị trấn Mai Dịch; đến năm 1992, thành lập thị trấn Nghĩa Tân, lúc này Từ Liêm có 29 xã, thị trấn; Ngày 28/10/1995, tách 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng với tổng diện tích đất tự nhiên 1.619,9ha, 32.080 nhân khẩu để thành lập quận Tây Hồ; Trong năm 1996, tách xã Nhân Chính với diện tích 160,9ha để thành lập quận Thanh Xuân; cũng trong năm 1996 tách 4 thị trận: Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa để thành lập quận Cầu Giấy.

30

mang đặc sản địa phương và những sản phẩm thủ công nghiệp vào bán trong nội thành.

Nhân dân Từ Liêm có nhiều nghề thủ công cổ truyền như nghề làm giấy ở Cầu Giấy và

vùng Bưởi; nghề dệt ở Nghĩa Đô, Đại Mỗ, Miêu Nha, nổi tiếng nhất là lĩnh Bưởi, lụa

hoa Đại Mỗ, lụa trơn làng Ngà (Miêu Nha); đan lát ở Đông Ngạc; nghề rèn lâu đời ở

làng Hòe Thị (Xuân Phương)… Nhân dân Từ Liêm có truyền thống hiếu học, tiêu biểu

nhất là bốn vùng có danh tiếng “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương”.

Đất Từ Liêm cổ kính có nhiều di tích lịch sử - văn hóa. Hiện nay, Từ Liêm 240 di tích

lịch sử văn hóa, trong đó có 87 di tích cấp lịch sử cấp quốc gia bao gồm 30 đình, 3 đền, 4

miêu, 20 chùa và 30 nhà thờ họ và thờ các tổ nghề thủ công. Danh lam, thắng cảnh và di

tích lịch sử - văn hóa của huyện Từ Liêm không chỉ là vốn quý của người dân trong huyện

mà còn là của Hà Nội, góp phần làm đẹp thêm cảnh quan thành phố. Đó cũng là tiềm năng

to lớn cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động dịch vụ, du lịch trên địa bàn huyện,

đồng thời cũng đặt ra yêu cầu đối với việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị kinh tế,

văn hóa truyền thống của địa phương trong bối cảnh phát triển và hội nhập.

2.2. Thực trạng kinh tế, xã hội của huyện Từ Liêm trước năm 1996

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối

đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị và tư duy. Đại hội đề ra

chính sách đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội; đẩy mạnh ba chương trình

kinh tế lớn: sản xuất lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu;

kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới,

chuyển sang thực hiện kinh tế có hạch toán, áp dụng những biện pháp kích thích sản

xuất, mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ và chia cắt thị

trường; lập lại trật tự kỷ cương, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, từng bước cải thiện

đời sống nhân dân.

Trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1995), huyện Từ Liêm đã đạt được những

thành tích khá to lớn về kinh tế, xã hội. Trong thời gian này, quá trình đô thị hóa bắt đầu

được thực hiện, tuy nhiên phải từ năm 1996, khi đất nước đẩy mạnh công cuộc Đổi mới

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đại hội lần thứ VIII của Đảng quyết định

thì đô thị hóa ở Từ Liêm mới thực sự phát triển mạnh.

2.2. . Kinh t

Trong giai đoạn 1986-1995, kinh tế huyện Từ Liêm đạt tốc độ tăng trưởng

7,51%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần, kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công

31

nghiệp và dịch vụ bắt đầu tăng lên. Tỷ trọng kinh tế ngành nông nghiệp trong cơ cấu

kinh tế huyện năm 1995 giảm 51,4% so với năm 1986; công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp tăng 29,2%; thương mại - dịch vụ tăng 20,6% [6, tr.52].

Bảng 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế huyện Từ Liêm trong những năm 1986-1995

Ngành kinh tế

Năm 1986 (%)

Năm 1995 (%)

Nông nghiệp

92,3

40,9

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

2,3

33,1

Thương nghiệp - dịch vụ

5,4

26

Nguồn: [157]

- Nông nghiệp

Ngành trồng trọt: Từ năm 1986 đến năm 1995, diện tích gieo trồng đã bắt đầu bị thu

hẹp lại do quá trình đô thị hóa, từ 7.746 ha năm 1990 giảm xuống còn 7.550 ha năm 1995.

Tuy diện tích có giảm nhưng năng suất và giá trị hàng hóa các loại cây trồng ngày càng

tăng, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng giảm diện tích lúa, tăng diện tích

hoa, cây ăn quả diễn ra rõ nét và mang lại hiệu quả kinh tế cao, thể hiện ở các mặt:

+ Diện tích cây lương thực có xu hướng giảm dần, riêng diện tích trồng lúa đặc sản

(nếp, tẻ thơm) lại tăng dần. Năm 1995, cả hai vụ đạt được 300 ha lúa tẻ thơm, tăng 200

ha so với năm 1993; có những HTX như Mễ Trì Thượng đưa diện tích lúa thơm lên 60%

diện tích trồng trọt của toàn HTX. Các HTX khác như Hồng Tiến (Mễ Trì), Đại Thắng

(Tây Mỗ), Xuân Phương đều có diện tích lúa thơm tương đối cao. Từ đó, góp phần tăng

giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích.

+ Diện tích trồng hoa - cây cảnh - cây ăn quả tăng lên. Diện tích trồng hoa - cây

cảnh năm 1995 là 270ha, tăng 200 ha so với năm 1990, tức là 174%. Diện tích cây ăn

quả tăng mạnh: năm 1990 là 194 ha, năm 1995 tăng lên 250 ha.

Năng suất các loại cây trồng ngày càng được tăng lên do áp dụng tiến bộ kỹ thuật,

cải tiến giống, phòng trừ sâu bệnh tốt. Năm 1990, năng suất lúa là 69,4 tạ/ha, năm 1995

là 80 tạ/ha; năng suất rau năm 1990 là 179 tạ/ha, năm 1995 là 186 tạ/ha [157]. Kết quả

chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp đã thay đổi giá trị sản lượng trong ngành

trồng trọt. Những cây trồng như hoa, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao đang có tỷ trọng

tăng dần trong khi đó, giá trị cây lương thực giảm dần: Giá trị sản lượng hoa, cây ăn quả

tăng từ 35% (năm 1990) lên 40% (năm 1992) và 47% (năm 1994); giá trị cây lương thực

từ 47% (năm 1992) xuống còn 38% năm 1994 [6, tr.334]; Giá trị thu nhập trên một

32

hecta canh tác hàng năm: năm 1994 đạt 36,6 triệu đồng/ha, tăng 5,8 triệu đồng so với

năm 1993; năm 1995 đạt 39 triệu đồng/ha [157].

Ngành chăn nuôi của huyện vẫn được duy trì và phát triển như nuôi lợn, gia cầm,

bò sữa... Tuy chiếm tỷ trọng thấp trong nông nghiệp nhưng chăn nuôi của huyện cũng có

tỷ lệ cao hơn tỷ trọng bình quân của toàn quốc 2%. Chăn nuôi lợn phát triển theo hướng

trang trại, nuôi theo phương pháp áp dụng công nghệ cao và nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao;

năm 1995 toàn huyện có 31.013 con lợn (tăng 134,4% so với năm 1990). Chăn nuôi gia

cầm cũng được phát triển. Nhiều hộ gia đình ở Phú Diễn, Mỹ Đình… đã nuôi hàng

nghìn con gà. Đàn bò sữa của huyện cũng đã được quan tâm song mới chỉ ở bước đầu

như ở xã Thụy Phương [163].

Có thể nói, sau 10 năm thực hiện đổi mới, sản xuất nông nghiệp của huyện Từ

Liêm đã đạt được kết quả cả về năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập trên đơn vị và

diện tích. Giai đoạn này, huyện Từ Liêm đã bắt đầu nắm bắt được xu hướng đô thị hóa,

kịp thời chuyển hướng kinh tế, được Thành phố xếp loại là huyện có nhiều khó khăn

nhưng đã đạt được kết quả tốt. Tổng giá trị sản lượng thực tế nông nghiệp tăng từ

163,972 tỷ đồng năm 1993 lên 550,5 tỷ đồng (theo giá hiện hành) năm 1995, chiếm 58%

giá trị sản xuất địa phương quản lý; bình quân thu nhập một khẩu nông nghiệp đạt 2,78

triệu đồng/năm; bình quân một hộ đạt 9,4 triệu đồng/năm [6, tr.334-335]. Đời sống và

thu nhập của cư dân nông nghiệp được nâng lên rất nhiều, giá trị sản lượng nông

nghiệp/1 ha đất canh tác nông nghiệp đạt 39 triệu đồng, tăng 30% so với năm 1990 [9].

- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề

Từ xa xưa, Từ Liêm đã là vùng đất tập trung nhiều làng nghề cổ truyền: làng Vẽ

(Đông Ngạc), làng Dộc Cả (Trung Văn) làm nghề hàng nan, làng Hòe Thị (Xuân

Phương) giỏi nghề rèn, làng Phú Đô (Mễ Trì) làm bún, làng Cót (Yên Hòa) làm vàng

mã… Sản phẩm làng nghề của huyện Từ Liêm đã được nhiều người biết đến như cốm

Vòng, dao kéo Sinh Từ, bún Phú Đô…

Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là từ khi hòa bình lặp lại trên miền Bắc đến

giữa những năm 80 thế kỷ XX, các làng nghề cả nước nói chung và của Từ Liêm nói

riêng bước vào giai đoạn phát triển mới. Trong giai đoạn 1976-1979, lực lượng sản xuất

thủ công nghiệp của huyện Từ Liêm bao gồm 38 HTX với 3.799 lao động và 40 tổ hợp

tác với 565 lao động. Trong thời gian này, do nhu cầu của thị trường Liên Xô và Đông

Âu tăng lên đã tác động mạnh đến sự phát triển của các làng nghề và TTCN của Từ

33

Liêm. Các nghề thêu, ren, thảm len, dệt mành… trong các HTX nông nghiệp đã thu hút

thêm 4.000 lao động, tăng thu nhập cho các HTX NN. Năm 1979, ngành TTCN đã được

nhận danh hiệu là lá cờ đầu trong toàn ngành TTCN Thành phố Hà Nội. HTX TTCN

Đại Mỗ được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng Ba [72].

Từ những năm 80 thế kỷ XX, TTCN tiếp tục được mở rộng sản xuất, phối hợp với

các ngành giải quyết nguyên vật liệu, vật tư cho sản xuất, tập trung sản xuất các mặt hàng

theo nhu cầu thiết yếu như dệt, may, cơ khí…, đồng thời phát triển thêm các mặt hàng

mới để phục vụ sản xuất và tiêu dùng như các sản phẩm mây-tre, chổi lông gà, chổi chít,

dệt vải pê-cô, vải bò, chiếu cói, chiếu tre, thảm cói… Do đó, năm 1988, giá trị tổng sản

lượng TTCN tăng 6% so với năm 1987, đời sống xã viên được đảm bảo [6, tr.270].

Tuy vậy, trong giai đoạn này công nghiệp và TTCN của huyện Từ Liêm gặp phải

khó khăn về vốn, vật tư. Thực hiện quyết định số 25/CP của Hội đồng Chính phủ ngày

21/1/1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động

sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, trong đó

cho phép các cơ sở sản xuất thêm kế hoạch 2, kế hoạch 3. Các doanh nghiệp được quyền

chủ động mua sắm vật tư, nguyên liệu ngoài chỉ tiêu được cấp và bán sản phẩm của

mình trên thị trường tự do. Theo đó, các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn huyện đều thực

hiện thêm kế hoạch 3 đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm việc làm cho công nhân. Trong 3

năm (1983-1985) đã có 21/25 đơn vị của Trung ương và 4/7 đơn vị của Thành phố hoàn

thành kế hoạch, tiêu biểu như Nhà máy Bê tông Chèm, Nhà máy gạch Từ Liêm, Xí

nghiệp Sơn Hà Nội… Các xí nghiệp, công ty quốc doanh của huyện đã cố gắng khai

thác nguyên liệu phát triển sản xuất như Xí nghiệp Gạch, Xí nghiệp xây dựng, Xí nghiệp

chế biến thức ăn gia súc… nên hàng năm giá trị sản lượng tăng bình quân 27%, riêng

năm 1985 tăng 35% so với năm 1982 [6, tr.240].

Tổng giá trị sản phẩm ngành công nghiệp và TTCN năm 1987 đạt 143.700.000

đồng, trong đó giá trị gia công mặt hàng thủ công nghiệp xuất khẩu đạt 35 triệu đồng.

Tỷ trọng kinh tế bình quân trong 2 năm (1987-1988) của ngành công nghiệp và TTCN

chiếm 40,5% tổng sản lượng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp [6, tr.271].

Từ năm 1989, Nhà nước xóa bỏ chế độ cung cấp hai mặt hàng cuối cùng là lương

thực và chất đốt, thực hiện cơ chế một giá. Các cơ sở công nghiệp, TTCN, thương

nghiệp đã chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Do đó, ngành tiểu thủ công nghiệp

34

của huyện gặp khó khăn thử thách khi chưa kịp thích nghi với cơ chế thị trường, chưa

tìm được hướng ra. Hàng hóa, sản phẩm ứ đọng, tiêu thụ chậm, thiếu vốn trầm trọng.

Giá trị tổng sản lượng TTCN năm 1989 giảm 16,6% so với năm 1988 và chỉ đạt 51% kế

hoạch của năm 1990. Năm 1990, chỉ có 25% HTX sản xuất ổn định, hoàn thành kế

hoạch, điển hình là HTX Miêu Nha, đảm bảo mức thu nhập của xã viên đạt 85.671

đồng/tháng; còn lại các HTX khác chỉ đạt 22.000 đến dưới 20.000 đồng/tháng [6, tr.290-

292]. Thời kỳ này các HTX TTCN giải thể hàng loạt, các hình thức sản xuất theo hộ gia

đình nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới.

Thực hiện Nghị định 388 của Hội đồng bộ trưởng ngày 20/11/1991 về quy chế

thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước, huyện Từ Liêm đã thành lập Hội đồng chỉ

đạo củng cố, thu gom, sáp nhập hoặc giải thể các đơn vị doanh nghiệp do huyện quản lý;

xác định rõ nguyên tắc và hình thức củng cố phù hợp với năng lực sản xuất của từng xí

nghiệp, dảm bảo các xí nghiệp then chốt thực hiện tốt nhiệm vụ, tận dụng triệt để vốn,

tài sản và lao động kỹ thuật của đơn vị.

Đối với các HTX TTCN, thực hiện chỉ thị 32 ngày 05/08/1992 của UBND Thành phố

Hà Nội, huyện chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra, xác định và phân loại tài sản, nguồn

vốn của HTX (của nhà nước, cổ phần đóng góp của xã viên, nguồn huy động khác) đảm

bảo dân chủ, công bằng cho xã viên trong việc phân chia quyền lợi khi HTX giải thể. Đồng

thời, huyện cũng tập trung chỉ đạo các HTX có thể chuyển đổi mô hình tổ chức hoặc HTX

cổ phần, hoặc duy trì hình thức HTX truyền thống. Tuy đã được củng cố nhưng đến năm

1995, khối công nghiệp quốc doanh, TTCN khu vực tập thể vẫn giảm sút, hiệu quả sản xuất

thấp, trong khi khu vực ngoài quốc doanh, tư nhân phát triển mạnh.

Để giải quyết vướng mắc trong sản xuất công nghiệp, TTCN, từ năm 1996, sau khi

đánh giá đối với 7 doanh nghiệp quốc doanh, 29 công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân,

15 HTX, 26 tổ hợp tác, 11.941 hộ kinh doanh, huyện Từ Liêm đã đề ra một số giải pháp cơ

bản để đầu tư quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế liên doanh,

liên kết, mở rộng thị trường, khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế [35,

tr.58] … Nhờ đó, đã tháo g khó khăn cho sản xuất công nghiệp, đẩy mạnh phát triển

TTCN. Năm 1996, giá trị sản xuất công nghiệp, TTCN trên địa bàn Từ Liêm đạt 128.165

triệu đồng (theo giá cố định năm 1994), tăng 6,9% so với năm 1995 [6, tr.364].

- Thương mại, dịch vụ

35

Thương mại, dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa và đáp

ứng nhu cầu đời sống tinh thần của người dân. Trước năm 1986, hoạt động phân phối lưu

thông hàng hóa của huyện Từ Liêm diễn ra chủ yếu thuộc khu vực quốc doanh, dựa vào

lượng hàng hóa được giao từ trên xuống, thực hiện phân phối và thu mua theo chỉ tiêu. Hoạt

động phân phối lưu thông tách rời với sản xuất, ngành thương nghiệp phục vụ bó hẹp trong

lĩnh vực nông nghiệp nên chưa làm tốt chức năng phân phối cho toàn xã hội.

Sau năm 1986, thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh hơn, phạm vi trải

rộng từ các chợ đến các quầy bán lẻ trong các xã, phường. Khu vực thương nghiệp quốc

doanh vẫn phát triển, nhưng có xu hướng chậm lại. Doanh số bán ra của toàn ngành

thương nghiệp năm 1987 là 2,655 tỷ đồng; năm 1988 đạt 13 tỷ đồng, trong đó thương

nghiệp quốc doanh đạt 11 tỷ 800 triệu đồng. Đến những năm 90, trước áp lực của cơ chế

thị trường, thương mại - dịch vụ thuộc thành phần quốc doanh giảm dần, được điều

chỉnh lại cơ cấu để hoạt động có hiệu quả hơn.

Bước sang giai đoạn 1991-1995, ngành thương mại - dịch vụ của huyện bắt đầu phát

triển với nhiều loại hình kinh doanh. Thương nghiệp quốc doanh và tập thể vừa sắp xếp lại

bộ máy vừa chủ động thực hiện mô hình tổ chức quản lý kinh doanh phân cấp theo phương

thức đẩy mạnh hạch toán độc lập nhằm thích ứng với thị trường. Tuy nhiên, trong điều kiện

nguồn vốn có hạn, nhất là vốn lưu động, nên các đơn vị gặp nhiều khó khăn, kinh doanh

không hiệu quả dẫn đến thua lỗ, một số ngừng hoạt động hoặc xin giải thể.

Trong khi thương nghiệp quốc doanh giảm sút (năm 1992, chỉ còn 10 HTX hoạt

động, 14 HTX ngừng hoạt động, 4 HTX xin giải thể), thì thương nghiệp ngoài quốc

doanh lại phát triển mạnh. Năm 1993 có 3.816 hộ kinh doanh thương nghiệp - dịch vụ,

tăng 20,9% so với năm 1990, chiếm 78,5% doanh số bán ra. Thương nghiệp quốc doanh

đạt 26.098 tỷ đồng, thương nghiệp ngoài quốc doanh đạt 90.081 tỷ đồng. Năm 1994,

thương mại - dịch vụ ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện tiếp tục phát triển với 21

công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân, trên 4.000 hộ kinh doanh thương nghiệp, dịch

vụ, tăng 15,3% so với năm 1993 [6, tr. 318].

Nhằm tạo điều kiện phát triển thương mại dịch vụ, huyện Từ Liêm đã quy hoạch

đầu tư xây dựng lại hệ thống các chợ Cầu Diễn, Cầu Giấy, Nghĩa Tân, Xuân Đỉnh,

Trung Văn, Đại Mỗ… thu hút nhiều thành phần đăng ký buôn bán. Do đó, hoạt động

thương mại dịch vụ ngày càng phát triển sôi động đáp ứng nhu cầu của một huyện đang

trong quá trình đô thị hóa nhanh.

36

Hoạt động du lịch của huyện có bước phát triển bằng việc tiếp tục thực hiện các

hợp đồng liên doanh với nước ngoài triển khai xây dựng làng du lịch Nghi Tàm. Vùng

Quảng An, Tứ Liên, Nhật Tân được huyện quy hoạch phát triển trở thành vùng du lịch

của thành phố.

Năm 1996, giá trị thương nghiệp - dịch vụ - du lịch đạt 577.146 triệu đồng, tăng

19,5% so với năm 1995. Hoạt động thương mại - dịch vụ sôi động đáp ứng nhu cầu giao

lưu của một huyện đang đô thị hóa, đạt mức tăng trưởng 19,5%. Nhập khẩu 5.674.000

USD, đạt 141,9% kế hoạch [6, tr.364].

2.2.2. X hội

- ân cư, lao động

Theo số liệu năm 1995, huyện Từ Liêm có 24 đơn vị hành chính xã, thị trấn, diện tích đất tự nhiên 88,6km2, có 37.674 hộ với 158.060 người, trong đó dân số nông nghiệp

là 81.558 người, chiếm hơn 50% dân số toàn huyện [79, tr. 74]. Cũng bắt đầu từ năm

này, quá trình đô thị hóa huyện Từ Liêm bắt đầu phát triển, đất canh tác ngày càng giảm

đi, do đó có nhiều lao động thiếu việc làm. Hơn nữa, thời kỳ này các công ty, xí nghiệp,

trạm của huyện Từ Liêm mới phát triển sau khi được thành phố bàn giao nên chỉ tiêu

tuyển lao động rất ít. Do đó, việc tuyển dụng thanh niên trong lao động nông nghiệp bổ

sung cho các hợp tác xã thủ công nghiệp cũng rất hạn chế. Trong giai đoạn này, huyện

Từ Liêm có chú trọng đến việc đưa lao động sang nước ngoài. Từ năm 1981 đến năm

1985, huyện đã tuyển được 2.000 người đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô và Đông Âu

[6, tr.252].

- iáo dục

Ngay từ ngày đầu được thành lập, huyện Từ Liêm đã chú trọng đến công tác phát triển

giáo dục. Đặc biệt từ sau ngày đất nước được thống nhất, ngày 11/11/1980, UBND huyện

Từ Liêm đã ra Chỉ thị số 4 về đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đã nêu rõ: Đẩy mạnh phong

trào phổ cập cấp II cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên bằng nhiều loại hình thức thích hợp;

tiếp tục nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ và mẫu giáo để giải phóng sức lao động cho phụ

nữ với chỉ tiêu 60% số cháu vào nhà trẻ và 75% số cháu vào lớp mẫu giáo; ngành học phổ

thông phải nâng cao chất lượng dạy và học [6, tr.243].

Ngày 29/3/1984, UBND huyện tiếp tục ra Nghị quyết 13 về tăng cường công tác

giáo dục, xác định tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “trường ra trường, lớp ra lớp”, đẩy

mạnh hoạt động hướng nghiệp và quan tâm đến đời sống của giáo viên. Theo đó, từ năm

37

1982 hoàn thành phổ cập ở 10 xã, 20 cơ quan huyện; đến năm 1984 toàn huyện được

công nhận phổ cập cấp II cho đối tượng 1. Từ Liêm là huyện đầu tiên của thành phố

hoàn thành phổ cập cấp II bổ túc văn hóa cho cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên.

Sau khi hoàn thành phổ cập cho đối tượng 1, ngành giáo dục huyện đẩy mạnh phổ cập

cấp II ra toàn dân; năm 1985 đã tổ chức 6 trường bổ túc văn hóa có 73 lớp, tiếp nhận

thêm 985 thanh niên vào học 3 trường vừa học vừa làm [6, tr.245].

Về nuôi dạy trẻ và mẫu giáo có tình trạng giảm sút về số lượng cô giáo và các cháu.

Năm 1981 có 58% số cháu vào nhà trẻ thì năm 1982 chỉ còn 56%, đến năm 1985 lại càng

giảm sút thêm. Năm 1982, số cháu học mẫu giáo đạt 70% trong độ tuổi ra lớp thì đầu năm

1986 chỉ còn 62%. Năm 1987, nhà trẻ thu hút 4.518 cháu, đạt 90% kế hoạch, 67/101 nhà

trẻ dạy theo chương trình cơ bản của ngành. Sang năm 1990, khối mẫu giáo nhà trẻ phát

triển khá hơn: có 220 lớp mẫu giáo, 160 nhà trẻ [6, tr.275].

Ngành học phổ thông tiếp tục phát triển. Năm 1980 huyện có 30 trường (bao gồm 26 trường phổ thông cơ sở, 3 trường cấp 1, 1 trường cấp II)4, đến năm 1985 đã có 35

trường với 41.101 học sinh. Chất lượng học cũng không ngừng được nâng cao, thi tốt

nghiệp đạt 90% năm 1981 đến năm 1986 đạt 93%. Trong khối trường PTCS có 12 đơn

vị được công nhận xuất sắc cấp thành phố, tiêu biểu nhất là trường cấp II Dịch Vọng,

trường PTCS Trung Hòa, trường mẫu giáo Nhật Tân và Xuân Đỉnh… Năm 1987, kết

quả lên lớp bình quân của khối cấp I, II đạt 90-96%, thi tốt nghiệp cuối cấp đạt trên 90%

[6, tr.246]. Năm 1990, có 20 xã hoàn thành phổ cập cấp I.

Về giáo dục PTTH, huyện tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học. Trường PTTH

Yên Hòa năm 1985 so với năm 1980 đã tăng thêm 3 lớp và 125 học sinh, hàng năm thi tốt

nghiệp cũng tăng từ 92% lên 96%. Trường PTTH Xuân Đỉnh tăng thêm 2 lớp và 210 học

sinh. Trường PTTH Minh Khai tăng thêm 4 lớp và 90 học sinh, tốt nghiệp từ 95-97% [6,

tr.247]. Trong đó, trường PTTH Yên Hòa là đơn vị dẫn đầu trong khối PTTH ở huyện, có

nhiều giáo viên dạy giỏi, cán bộ quản lý giỏi và học sinh giỏi toàn diện. Trường Yên Hòa đã

được công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc của ngành giáo dục thành phố.

- Y tế

Năm 1980, tỷ lệ phát triển dân số là 2,05% đến năm 1986 giảm còn 1,6%; một số

xã còn có tỷ lệ thấp hơn như Yên Hòa, Nghĩa Đô, Cổ Nhuế… 100% số xã trong huyện

4 Trường phổ thông cơ sở là trường đã sáp nhập cấp I và cấp II.

đã có trạm y tế với hơn 200 y sĩ, y tá được đào tạo, số giường bệnh ngày càng tăng.

38

Bệnh viện huyện có 100 giường phân tán làm 3 nơi: Dịch Vọng (các khoa nội, nhi, lây),

Nghĩa Đô (tai, mũi, họng), Yên Lãng (lao) [6, tr.247].

Trong lĩnh vực y tế, huyện đã làm tốt công tác phòng dịch bệnh, tổ chức tốt việc

tiêm phòng. Năm 1985 đã tiêm phòng bại liệt cho 92% số trẻ em trong độ tuổi. Từ năm

1981-1986 không có xảy ra các dịch bệnh lớn trong toàn huyện.

Năm 1987, Bệnh viên đa khoa huyện đi vào hoạt động. Hệ thống bệnh viện, trạm y

tế, nhà hộ sinh được tăng cường thêm trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh ban đầu

cho nhân dân. Chương trình vệ sinh phòng bệnh, tiêm chủng cho trẻ em được thực hiện

tốt, công tác dân số được triển khai.

Sang năm 1990, ở 29 trạm y tế xã có 119 giường bệnh, 42 bác sĩ, y tá. Chương

trình tiêm chủng mở rộng đạt 97%; công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả

khá, đạt tỷ lệ 1,96% [6, tr.297].

- Văn hóa, thể dục thể thao

Trong huyện, các cụm thể thao được hình thành như Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại

Mỗ, Xuân Đỉnh… Toàn huyện có 11 đội bóng đá, 14 đội bóng chuyền, 4 câu lạc bộ thể

dục, thể thao. Huyện cũng đã đào tạo được 30 huấn luyện viên cho các trường phổ

thông, 125 huấn luyện viên cho khối cơ quan sản xuất và hành chính sự nghiệp, 270

huấn luyện viên cho khối xã. Hàng năm, huyện đều tổ chức thi đấu các môn thể dục, thể

thao, tổ chức hội thao quốc phòng như chạy, bơi, bắn súng; 4 năm một lần tổ chức Hội

khỏe phù đổng trong học sinh và 5 năm một lần tổ chức Đại hội thể dục thể thao toàn

huyện. Từ năm 1975-1985, huyện Từ Liêm được công nhận là đơn vị xuất sắc, được

Tổng cục thể dục thể thao tặng bằng khen.

Về văn hóa thông tin, huyện Từ Liêm đầu tư các trang thiết bị cho đài truyền thanh

huyện và 19 xã. Huyện đã khởi công xây dựng nhà văn hóa trung tâm 700 chỗ ngồi, hầu

hết các xã có nhà văn hóa hoặc câu lạc bộ. Năm 1985, huyện có 27 thư viện trong 27 xã,

thị trấn, phục vụ nhu cầu đọc của nhân dân trong huyện [6, tr.250].

Như vậy, trước năm 1996, cơ cấu kinh tế của huyện Từ Liêm chủ yếu là nông

nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ; nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Huyện

Từ Liêm đã đạt được những kết quả nhất định trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp, thương mại. Bên cạnh đó, văn hóa-xã hội, giáo dục y tế tiếp tục được huyện

quan tâm phát triển đã tạo những tiền đề căn bản cho quá trình đô thị hóa của địa

phương trong giai đoạn tiếp theo.

39

2.3. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của Hà Nội và huyện Từ Liêm từ

năm 1996 đến năm 2013

2.3. . h t ơng hành h Hà Nội

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định nhiệm vụ đề ra cho

chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ bản hoàn

thành, cho phép chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu

của CNH, HĐH được xác định là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có

cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc

phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh [38, tr.80].

Để phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội

lần thứ XII (tháng 5/1996) xác định, so với thời kỳ trước đổi mới, Thủ đô có những thay

đổi lớn, cho phép chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và trong thời

gia tới, cơ cấu kinh tế ở Hà Nội vẫn là công nghiệp-thương mại, du lịch, dịch vụ-nông

nghiệp (nhưng có thay đổi quan hệ tỷ lệ nội bộ và các trọng điểm phát triển) [9]. Với

khu vực ngoại thành, Hà Nội chủ trương chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng

phát triển toàn diện: nông, lâm, ngư nghiệp-công nghiệp, TTCN-thương nghiệp, dịch vụ,

du lịch theo thế mạnh của từng vùng, từng địa phương; phát triển kinh tế nông thôn theo

hướng sản xuất hàng hóa, lấy hiệu quả làm mục tiêu, gắn sản xuất với thị trường trên cơ

sở phát triển toàn diện; phát triển công nghiệp, TTCN cần quan tâm đầu tư chiều sâu,

trang bị kỹ thuật, ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới nhằm nâng cao

năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Khuyến khích các thành phần kinh tế ở

nông thôn, liên kết, hợp tác đầu tư vốn, sử dụng lao động, đất đai có hiệu quả. Mở rộng

thương mại dịch vụ ở nông thôn, chú ý phát triển ngành kinh tế du lịch ở những nơi có

điều kiện [119]. Những mục tiêu chủ yếu đến năm 2000 được xác định là: tốc độ gia

tăng sản xuất nông nghiệp bình quân từ 4-4,5%/năm; giá trị công nghiệp-TTCN từ 19-

20%/năm; giá trị bình quân trên một ha đất canh tác bao gồm nông nghiệp, thủ công

nghiệp và dịch vụ đạt 40-45 triệu đồng; cơ cấu kinh tế do huyện quản lý: công nghiệp-

TTCN-dịch vụ 70-75%; nông nghiệp 25-30%; cơ cấu ngành nông nghiệp: trồng trọt 30-

40%, chăn nuôi: 60-70%; 90-100% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới [120].

Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII (từ 27 đến

30/12/2000) đã chỉ rõ định hướng cơ bản phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô giai đoạn 2001-

40

2010: Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng

cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Tăng cường vai trò chủ đạo

của kinh tế nhà nước; củng cố nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tạo điều kiện thuận lợi để

phát triển ạnh và liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn, giữa kinh tế Hà

Nội với kinh tế cả nước. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại [10].

Từ định hướng trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 2001-

2005, trong đó phát triển kinh tế tiếp tục thực hiện tốt cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch

vụ-nông nghiệp; tập trung phát triển mạnh lực lượng sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây

dựng quan hệ sản xuất định hướng XHCN, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh,

bền vững, chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp trong

giai đoạn tiếp theo [10, tr. 53-54].

Đối với kinh tế ngoại thành, Đại hội nhấn mạnh: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn; gắn đô thị hóa với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa, sinh

thái; từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nhằm tăng dần tỷ trọng

công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, thu hẹp sự cách biệt giữa nội thành và ngoại thành

[10, tr.56].

Tiếp đó, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Hà Nội giai đoạn

2006-2010 được Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV (tháng 12/2006) xác

định: Chủ động hội nhập quốc tế, thực sự là một trong những thành phố đi đầu trong sự

nghiệp CNH, HĐH, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh tăng trưởng

và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp-nông nghiệp… Đầu tư phát triển

vùng ngoại thành, phát huy vai trò trung tâm kinh tế trình độ cao tạo động lực phát triển

kinh tế-xã hội của Thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng

và cả nước [11, tr.63]. Với phương hướng trên, Thành phố Hà Nội đã thể hiện sự quan

tâm đặc biệt đến khu vực ngoại thành, vì ngoại thành Hà Nội có vị trí rất quan trọng

trong tiến trình phát triển của Thủ đô và có những ưu thế đặc biệt so với các vùng nông

thôn trong cả nước. Từ đó, thành phố đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành

trong giai đoạn 2006-2010 là: duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm là

15%/năm; chuyển từ tăng trưởng về số lượng sang nâng cao về chất lượng và tăng

nhanh giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích; đẩy mạnh tốc độ phát triển khu công

nghiệp và dịch vụ tạo sự phân công và thu hút lao động, tạo việc làm mới; nâng cao mức

thu nhập; đưa giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 70 triệu đồng/ha; phát triển mạnh tiểu thủ

41

công nghiệp và làng nghề; đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

cơ cấu lao động; phát triển đô thị gắn với xây dựng nông thôn… [121].

2.3.2. h t ơng h n i m

Thực hiện định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH của Đại hội Đảng

bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XII, Đại hội đại biểu lần thứ XIX của huyện Từ Liêm đã

đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 1996-2000 là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã

hội theo hướng CNH, HĐH, tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; Tăng cường quản

lý đô thị, phát triển xây đựng nông thôn mới theo hướng đô thị hóa trên cơ sở quy hoạch

tổng thể phát triển Thủ đô đến năm 2010; Từng bước cải thiện nâng cao chất lượng đời

sống vật chất và văn hóa, cải thiện hơn nữa môi trường sống của nhân dân [6, tr.360].

Theo đó, huyện đã ban hành Chương trình 01/CTr-HU nhằm phát triển kinh tế giai đoạn

1996-2000 theo hướng sản xuất nông nghiệp phải gắn với thị trường, tạo ra cơ cấu hợp

lý giữa nông nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-thương mại dịch vụ trong nông thôn; xây

dựng nông thôn mới theo hướng toàn diện. Đồng thời với thực hiện chương trình kinh

tế, huyện ban hành Chương trình 03 “Giải quyết lao động, việc làm và một số vấn đề xã

hội 1996-2000” đề ra yêu cầu tập trung giải quyết một số vấn đề lớn như giải quyết việc

làm, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội

đối với các đối tượng chính sách của huyện.

Để thực hiện chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà

nước, Thành phố Hà Nội, từ năm 2001 huyện Từ Liêm đã đề ra Quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 với những nội dung chủ yếu sau: Đến năm

2010, phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững, đảm bảo ổn định, vững chắc chính

trị và an ninh quốc phòng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân. Đến năm 2010 cơ bản xây dựng xong nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội của

hai vùng đô thị và nông thôn mới; xây dựng Từ Liêm thành huyện có kinh tế - xã hội

phát triển, xứng đáng vai trò cửa ngõ phía Tây của Thủ đô, vành đai xanh của Thành

phố; phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ - du lịch theo hướng văn minh, hiện đại,

đậm đà bản sắc văn hoá Thăng Long - Hà Nội; có cơ cấu kinh tế: công nghiệp - dịch vụ

- nông nghiệp.

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010, Đại hội

Đảng bộ huyện lần thứ XX và XXI đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế, xã

hội trong giai đoạn này. Đó là: Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX (2001-2005) đã xác

42

định: Phát triển toàn diện cơ cấu kinh tế theo hướng: công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông

nghiệp; từng bước hình thành nhiều khu công nghiệp, khu đô thị, khu vui chơi giải trí mới

đan xen với các làng xã truyền thống; nông thôn công nghiệp, văn minh, hiện đại [6, tr.386].

Theo đó, huyện đã xây dựng Chương trình 01, đề ra nhiệm vụ cơ bản cho phát triển kinh tế

giai đoạn 2001-2005 là chuyển dịch đúng cơ cấu kinh tế công nghiệp-thương mại-dịch vụ-

nông nghiệp; tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và thương mại-dịch vụ năm sau phải

cao hơn năm trước; ngành thương mại-dịch vụ phải có mức tăng trưởng nhanh hơn ngành

công nghiệp; ngành nông nghiệp giảm dần qua từng năm [6, tr.387]. Về xã hội, huyện

thông qua Chương trình số 26 trong giai đoạn 2001-2005 là: tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp

giáo dục-đào tạo; điều chỉnh lại cơ cấu lao động thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

tích cực giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ hộ nghèo; ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn xã hội; giải

quyết các vấn đề xã hội và môi trường [6, tr.396].

Sang giai đoạn 2006-2010, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đã xác định phát

triển kinh tế, xã hội theo định hướng: Xây dựng Từ Liêm trở thành vùng đô thị mới hiện

đại, phát triển toàn diện, bền vững, văn minh; là khu vực phòng thủ vững chắc về an

ninh quốc phòng; là vành đai xanh và vùng kinh tế phát triển của thành phố; Phát triển

kinh tế-xã hội phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế-xã hội và quá trình CNH,

HĐH Thủ đô. Trong đó, về kinh tế, huyện xây dựng Chương trình 04/CTr/HU

(16/1/2006) giai đoạn 2006-2010 là tiếp tục thực hiện và nâng cao chất lượng cơ cấu

kinh tế công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông nghiệp, từng bước tạo tiền đề chuyển đổi

cơ cấu sang thương mại-dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp phù hợp với sự phát triển đô

thị. Quy hoạch lại các vùng kinh tế cho phù hợp với sự biến động của quá trình đô thị

hóa và cơ cấu ngành nghề. Tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất

kinh doanh; Tôn trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển [6, tr.417].

Về xã hội, huyện ban hành Chương trình 06-CTr/HU (16/1/2006) tập trung giải quyết 4

vấn đề lớn: đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục-đào tạo; giải quyết vấn đề lao động và việc

làm; phòng chống tệ nạn xã hội; đẩy mạnh hoạt động y tế, văn hóa thể thao, dân số kế

hoạch hóa gia đình [6, tr.434].

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII giai đoạn 2010-2015 đã xác định phát triển

kinh tế, xã hội theo định hướng xây dựng huyện Từ Liêm trở thành đô thị giàu đẹp - văn

minh, trong đó tạo bước phát triển toàn diện, bền vững về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc

phòng; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hơp với cơ cấu kinh tế công nghiệp,

43

dịch vụ, nông nghiệp, quan tâm đầu tư xây dựng một số cụm làng nghề tập trung, thực

hiện tốt quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp…; chú trọng phát triển sự nghiệp văn

hóa, xã hội của địa phương, trọng tâm là phát triển giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe

nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tốt chính sách xã hội và các chương

trình quốc gia giải quyết việc làm; Tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn và đẩy lùi

các tệ nạn xã hội.

2.4. Vấn đề đô thị hóa ở Hà Nội và huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013

2.4. . Khái át th h Hà Nội

Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, phù hợp với bối cảnh phát triển

kinh tế-xã hội chung của đất nước. Nhiều con số thống kê cho thấy từ năm 1991 đến

nay, đô thị hóa ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh, năm 1989 (18,5%), năm

1995 (20,7%), năm 2000 (24,2%), năm 2006 (27%) và 2010 đạt 29,6%. Trong định

hướng phát triển đô thị Việt Nam, dự báo đến 2015 dân số đô thị chiếm 38%, năm 2020

chiếm 45% và đến năm 2025 chiếm 50% dân số (dân số đô thị dự báo lúc này khoảng

52 triệu) [67].

Hà Nội là một trong hai thành phố có tốc độ đô thị hóa đạt mức cao nhất của cả

nước và có sức lan tỏa theo chiều rộng. Quá trình đô thị hóa ở Hà Nội được tập trung ở

các vùng ven đô và vùng ngoại thành, vừa mang những đặc trưng chung của các vùng

đô thị hóa, vừa có những đặc thù riêng của Thủ đô. Vùng ven đô được xem là các quận,

huyện nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực nội thành và ngoại thành, ở đó nền văn

minh nông nghiệp được tiếp xúc nhanh với nền văn minh công nghiệp, thương mại.

Trong hai thập kỷ qua, khu vực này đã có những chuyển biến khá nhanh, đang từng

ngày làm đổi thay và có tác động trực tiếp đến cuộc sống dân cư, diện mạo vùng ven.

Quá trình đô thị hóa nhanh ở Hà Nội đã biến nhiều khu vực ven đô thành khu vực nội

thành, nhiều vùng ngoại ô trở thành vùng ven đô. Đi kèm với quá trình này là sự thay

đổi mạnh mẽ từ cảnh quan, môi trường, hoạt động nghề nghiệp, đến sự biến đổi lối

sống, phong tục, tập quán, từ biến đổi kinh tế đến những biến đổi xã hội.

Trong thời gian qua, Đảng và Chính phủ đã có những văn bản cụ thể để Hà Nội xây

dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra

Quyết định Về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020;

Nghị quyết số 15 NQ/TW của Bộ Chính trị BCHTƯ Đảng (khóa VIII) ngày 15/12/2000

về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010; Pháp lệnh

44

Thủ đô Hà Nội; Nghị quyết số 92/2005/NĐ-CP ngày 12/7/2005 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đến Nghị định số

123/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định về một số cơ chế tài chính

ngân sách đặc thù đối với sự phát triển của Thủ đô Hà Nội... Có thể nói, quá trình đô thị

hoá ở Hà Nội thời kỳ đổi mới được diễn ra trong khung cảnh kinh tế-xã hội trong nước

đầy biến động. Nhưng đây cũng chính là thời kỳ bộ mặt đô thị Thủ đô có nhiều biến đổi

nhanh và mạnh. Sự chuyển biến từ một nền “kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp” sang

nền kinh tế đa dạng, nhiều thành phần với những tác động rõ rệt của thị trường tự do,

chẳng những có tác động mạnh mẽ đối với đời sống kinh tế-xã hội mà còn để lại nhiều

dấu ấn rõ nét trên bộ mặt kiến trúc Hà Nội.

Sự thay đổi địa giới hành chính: Vào những năm đầu của thập kỷ 90, thành phố Hà

Nội có 4 quận nội thành (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng) và 5 huyện

ngoại thành (Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm) với tổng diện tích 920,5km2 trong đó khu vực nội thành chỉ có diện tích 40km2. Nhận thấy việc phân bố

diện tích giữa các vùng nội thành và ngoại thành của thủ đô chưa thực sự hợp lý, phần

lớn diện tích đất đai lại đều nằm ở khu vực ngoại thành, không phù hợp với nhu cầu phát

triển thật sự của quá trình đô thị hóa, cho nên Chính phủ đã ra quyết định điều chỉnh địa

giới hành chính của Hà Nội. Đến các năm 1996-1997, một số quận nội thành mới được

lần lượt được thành lập, là các quận Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy và sau đó là các

quận Long Biên, Hoàng Mai.

Ngày 1/8/2008, sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội trở thành thành phố lớn nhất cả nước với tổng diện tích 3.344.7km2, 29 đơn vị hành chính cấp

huyện-gồm 10 quận, 18 huyện, 1 thị xã và 577 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 401 xã,

154 phường và 22 thị trấn, đứng đầu cả nước về diện tích và nằm trong số 17 thủ đô có

diện tích lớn nhất thế giới [84].

Về gia tăng dân số: Hà Nội có tốc độ gia tăng dân số cao; năm 1990 Hà Nội mới

chỉ có 2 triệu dân, đến năm 2000 là 2,67 triệu và đến năm 2010 đã đạt tới 6,611 triệu

dân, trong đó nam 3,248 triệu người (49,13%), nữ 3,363 người (40,87%) [23]. Khu vực

nông thôn có 3,372 triệu dân, chiếm 57% và khu vực đô thị 2,879 triệu dân, chiếm 43%

tổng dân số Hà Nội. Quy mô và tốc độ của lượng người di dân vào Hà Nội đều tăng qua

các năm, năm 2001 số người di cư vào Hà Nội là 16,985 người thì đến năm 2007 là

46,240 người và năm 2010 là 130 nghìn người [132].

45

Nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng dân số nhanh của Hà Nội trong những năm gần

đây ngoài lý do kinh tế phát triển mạnh tác động đến các luồng chuyển cư về Hà Nội,

còn có các lý do khác như: (1) Những người kết hôn với người Hà Nội, những người về

Hà Nội theo hình thức đoàn tụ gia đình, chiếm tỷ lệ 14%; (2) Sinh viên, cán bộ... tại các

khu vực tỉnh thành khác về Hà Nội học tập với tỷ lệ 13%; (3) Công chức chuyển công

tác từ địa phương ra Hà Nội, tỷ lệ 5% và người nhập cư về Hà Nội chủ yếu xuất phát từ

các tỉnh khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các tỉnh miền núi phía Bắc và một số

tỉnh miền Bắc Trung Bộ… [132, tr. 40].

Về kinh tế, trong hơn hai thập niên qua, kinh tế Hà Nội luôn đạt mức tăng trưởng

khá cao so với cả nước, trong đó bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 11,24%; 2006-

2010: 10,22% (cả nước tương ứng là 7,51% và 7,08%) [126]. Cơ cấu kinh tế có sự

chuyển dịch theo hướng tích cực, giá trị nông, lâm, thuỷ sản tăng từ 4.154 tỷ đồng năm

2000 lên 13.003 tỷ năm 2009 (từ 10,4% xuống còn 6,3%); giá trị công nghiệp tăng từ

14.570 tỷ đồng lên 85,297 tỷ đồng (từ 36,5% lên 41,3%); còn ngành dịch vụ, tuy tỷ

trọng có giảm nhẹ từ 53,1%/2000 xuống còn 52,4%/2009, nhưng giá trị tuyệt đối vẫn

tăng lên 5 lần, từ 21.220 tỷ đồng lên 107.590 tỷ đồng [23].

Hệ thống kết cấu hạ tầng đã đư c cải tạo và nâng cấp, hầu hết các tuyến đường, nhất

là những tuyến quốc lộ hướng tâm vào thành phố đều đã được mở rộng và nâng cấp nền

đường. Nhiều tuyến đường mới từ 4-8 làn xe, với chiều rộng 16-18m đã và đang được mở

thêm, như Láng-Hoà Lạc, Trần Duy Hưng, Kim Liên-Ô Chợ Dừa, Lê Văn Lương kéo dài,

Đại Lộ Thăng Long, đường vành đai 2, vành đai 3, đường cao tốc Pháp Vân-Cầu Giẽ..., đưa

tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông đường bộ tại khu vực nội đô đạt 6-7%, tăng 3 lần so với

thời kỳ đầu thập niên 1990 (khoảng 2-3%).

Cùng với việc xây dựng nhiều tuyến đường bộ trọng điểm và nhiều nút giao thông

quan trọng, Hà Nội còn xây dựng một số cầu vượt, hầm đường bộ và cầu bắc qua sông

Hồng và sông Đuống. Trong số đó, có nhiều công trình quan trọng đối với hệ thống giao

thông của thủ đô như: hầm đường bộ Kim Liên, cầu vượt Ngã Tư Sở, cầu Vĩnh Tuy, cầu

Thanh Trì, cầu Nhật Tân... Hệ thống cấp thoát nước của thành phố đã được tu sửa lại,

đồng thời một số công trình mới được đầu từ xây dựng. Hệ thống đường dây tải điện,

dây cáp viễn thông, dây điện thoại, internet... đã được hạ ngầm, trả lại cho đô thị cảnh

quan thoáng đãng. Đồng thời hệ thống sông, hồ, công viên… cũng được chỉnh trang, tu

sửa, đem lại không gian xanh cho đô thị.

46

Thu nhập và đời sống của người dân đư c cải thiện đáng kể, mức thu nhập bình

quân đầu người tại Hà Nội đã tăng lên khá nhiều, từ 7,4 triệu đồng năm 2000 lên 36 triệu

đồng năm 2010, trong khi cả nước là 5,7 triệu đồng năm 2000 và 19,3 triệu đồng năm

2010. Bộ mặt của thành phố đã khác nhiều so với thập kỷ trước, sự đổi mới dễ nhận thấy

nhất là những chung cư kiểu lắp ghép được xây dựng từ thập kỷ 1970-1980 tại các khu

vực Giảng Võ, Thành Công, Kim Liên, Trung Tự, Thanh Xuân... đang dần được thay thế

bằng các chung cư mới thoáng mát và tiện nghi, góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất

lượng cuộc sống cho người dân Hà Nội. Đến năm 2010, Hà Nội đã và đang xây dựng trên

40 khu đô thị mới với gần 500 nhà ở cao tầng, trong đó có nhiều chung cư hiện đại như

Trung Hoà-Nhân Chính, Mỹ Đình 1-2, Nam Thăng Long, Linh Đàm, Ciputra, Dương

Nội, Văn Khê, Văn Phú, An Khánh, Việt Hưng, Sala, hai bên trục đường Lê Văn Lương

kéo dài… [132, tr. 38-39]. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Hà Nội xây dựng thêm

nhiều biệt thự, chung cư cao cấp, các toà cao ốc văn phòng…, đã tạo cho thành phố một

bộ mặt kiến trúc mới, từng bước tiếp cận với tiêu chí của một Thủ đô văn minh, hiện đại.

Trong đó, có những công trình tiêu biểu như: Hà Nội City Complex (Ba Đình), Daewoo

(Liễu Giai), Sofitel Plaza (Hồ Tây), Vincom (Bà Triệu), Viglacera Tower (đường Láng-

Hoà Lạc), rồi Keangnam Hanoi Landmark Tower (đường Phạm Hùng)...

Hiện tại trong quy hoạch, Hà Nội đang triển khai xây dựng 5 khu đô thị vệ tinh bên

cạnh khu đô thị trung tâm, gồm Sóc Sơn (đô thị công nghiệp, dịch vụ cảng hàng không),

Hoà Lạc (đô thị khoa học và công nghệ cao), Sơn Tây (đô thị văn hoá lịch sử và du lịch

sinh thái), Xuân Mai (đô thị đại học và dịch vụ), và Phú Xuyên (đô thị công nghiệp và

dịch vụ trung chuyển). Những khu đô thị vệ tinh này sẽ là lối thoát để giảm tải về “sức

chứa” cho trung tâm, và giảm sự khác biệt trong phát triển giữa các khu vực nội và

ngoại thành.

2.4.2. Đ th h h n i m t năm n năm 20 3

2.4.2.1. Sự thay đổi địa giới hành chính

Như đã trình bày ở trên, từ khi thành lập đến năm 1996, huyện Từ Liêm đã 6 lần

được điều chỉnh địa giới hành chính. Nhưng do quá trình đô thị hóa diễn ra một cách

nhanh chóng và yêu cầu phát triển của thành phố Hà Nội, cho nên ngày 22 tháng 11 năm

1996, Chính phủ ra Nghị định số 74/NĐ-CP về việc thành lập quận Thanh Xuân và Cầu

Giấy. Theo đó, năm 1996 huyện Từ Liêm đã bàn giao xã Nhân Chính với diện tích đất

tự nhiên 160,9ha và 9.229 nhân khẩu về quận Thanh Xuân; Năm 1997, huyện tiếp tục

47

tách 4 thị trấn (Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân) và 3 xã (Dịch Vọng, Yên

Hòa, Trung Hòa) với tổng diện tích đất tự nhiên 1.210 ha và 82.914 nhân khẩu để thành

lập quận Cầu Giấy.

Theo Niên giám thống kê thành phố Hà Nội, sau khi tách địa giới hành chính để

thành lập các quận mới (năm 1996), huyện Từ Liêm còn 16 đơn vị xã, thị trấn với diện tích 75,15 km2; dân số của huyện lúc này là 177,3 nghìn người [23]. Và từ thời điểm đó

cho đến tháng 11/2013, huyện Từ Liêm còn lại 15 xã và 1 thị trấn, với diện tích giảm đi

1/3 bao gồm các vùng kinh tế phát triển của huyện. Các đơn vị hành chính cấp xã gồm:

Mỹ Đình, Tây Tựu, Phú Diễn, Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Đông

Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân Phương và thị

trấn Cầu Diễn.

Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký ban hành Nghị

quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập hai quận

mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm; huyện Từ Liêm từ thời điểm này chính thức hoàn

toàn bị giải thể.

Một số huyện ngoại thành khác như Thanh Trì và Gia Lâm cũng có sự điều chỉnh

địa giới hành chính trong giai đoạn này. Thanh Trì là huyện nằm ở phía Nam của thành

phố Hà Nội, tính từ năm 1990 trở lại đây, Thanh Trì đã thay đổi địa giới 2 lần. Vào năm

1997, sau khi xã Khương Đình chuyển về quận Thanh Xuân, Thanh Trì chỉ còn 25 xã và

1 thị trấn. Năm 2003, thực hiện Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 6/11/2003 của Chính

phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các phường trong quận mới là

Long Biên và Hoàng Mai của Thành phố Hà Nội, toàn bộ diện tích đất tự nhiên của 9 xã

của huyện Thanh trì được cắt về quận Hoàng Mai. Như vậy, huyện Thanh Trì từ 25 xã chỉ còn lại 15 xã và 1 thị trấn Văn Điển với tổng diện tích tự nhiên là 63,17km2 [7].

Huyện Gia Lâm trước năm 1990 có 4 thị trấn và 31 xã. Thực hiện Nghị định

132/2003/NĐ-CP của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính, Gia Lâm

chuyển giao 13 xã, thị trấn để thành lập quận Long Biên. Sau khi chia tách, huyện Gia Lâm có 21 xã, 1 thị trấn, với diện tích tự nhiên 114km2, số dân trên 204 nghìn người [8].

Như vậy, so với các huyện ngoại thành khác của Hà Nội, Từ Liêm là huyện có sự

thay đổi địa giới hành chính nhiều lần nhất. Vì là một huyện ven đô, gần với nội thành

nên Từ Liêm không tránh khỏi những quy hoạch để phát triển kinh tế - xã hội của toàn

thành phố. Việc quy hoạch này, một mặt tạo điều kiện thuận lợi để huyện phát triển,

48

nhất là đến tiến trình đô thị hóa, nhưng mặt khác lại tạo ra sự thay đổi quá nhiều, ảnh

hưởng đến quy hoạch, bố trí phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Bởi vì các xã của

huyện ngoại thành nói chung và Từ Liêm nói riêng đều là những xã ven đô, có mức độ

đô thị hóa cao hơn so với các xã khác còn lại. Điều này dẫn đến kết quả là cứ sau mỗi

lần thay đổi địa giới hành chính thì huyện Từ Liêm lại phải đầu tư công sức để xây dựng

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương cho phù hợp hơn với

thực tiễn trong từng thời điểm và có hiệu quả hơn khi triển khai. Như vậy, có thể nói sự

thay đổi địa giới hành chính là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thức đẩy

quá trình đô thị hóa ở Từ Liêm và chính bản thân sự thay đổi đó ít nhiều đã đưa lại sự

khác biệt của đô thị hóa trên địa bàn huyện so với các địa phương khác; tiến trình đô thị

hóa ở Từ Liêm diễn ra gắn liền theo từng giai đoạn triển khai các dự án phát triển kinh

tế-xã hội là đặc điểm tương đối dễ nhận thấy của địa phương này.

2.4.2.2. Sự hình thành các khu công nghiệp

Để di dời các cơ sở công nghiệp cũ ở nội thành, giải tỏa sức ép về dân số, môi

trường, giao thông trong nội thành, trong giai đoạn 1996-2000, thành phố Hà Nội đã cho

phép các huyện ngoại thành nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng được thành lập cụm

công nghiệp vừa và nhỏ để phát triển kinh tế-xã hội. Từ năm 2001, Từ Liêm ưu tiên đẩy

mạnh phát triển công nghiệp đi trước một bước, xây dựng dự án phát triển KCN tập

trung vừa và nhỏ. Cùng với sự phát triển, mở rộng thủ đô về phía Tây và Tây Bắc, Từ

Liêm đã trở thành khu vực thu hút đầu tư, các nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trên địa

bàn ngày càng tăng, sản xuất với tốc độ và quy mô ngày càng mở rộng. Số lượng các

doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hộ sản xuất kinh doanh gia tăng nhanh chóng,

thu hút hàng chục ngàn lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của huyện và tăng

thu ngân sách. Đến năm 2013, trên địa bàn Từ Liêm có 04 khu vực phát triển công

nghiệp chính, gồm có:

- Khu công nghiệp Nam Thăng Long (do Thành phố quản lý) được quy hoạch phân

làm 2 khu riêng biệt: Khu A là khu công nghệ hỗ trợ sản xuất; và Khu B là khu xí

nghiệp công nghiệp, bao gồm: diện tích xây dựng các nhà máy, diện tích xây dựng khu

kỹ thuật, diện tích khu hành chính, diện tích đường hè, diện tích cây xanh tập trung và

diện tích mặt hồ. KCN Nam Thăng Long được định hướng xây dựng theo tiêu chuẩn của

một KCN sạch, không gây ô nhiễm môi trường; ngành nghề thu hút đầu tư vào KCN

49

được phân thành 3 nhóm: ngành sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất kỹ thuật cao và ngành

chế tạo dụng cụ cơ khí dân dụng.

- Cụm công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm có 84 doanh nghiệp (20 DN sản xuất hàng

tiêu dùng, 28 DN sản xuất hàng cơ khí, 5 DN sản xuất hàng dệt may, 1 DN sản xuất vật

liệu xây dựng, 30 DN sản xuất khác). Trong đó có các doanh nghiệp có giá trị sản xuất

lớn, doanh thu lên tới hàng nghìn tỷ đồng như Nhà máy bia Sài Gòn - Hà Nội, Công ty

Inox Sơn Hà (doanh thu 1.819,8 tỷ đồng/năm với các sản phẩm chính có thương hiệu và

chỗ đứng trên thị trường là bồn nước inox, chậu rửa inox, bình nóng lạnh năng lượng

mặt trời, chiếm 40-60% thị phần sản phẩm cùng loại của cả nước), Công ty CP Thú y

xanh... đóng góp nhiều vào ngân sách của huyện [151].

- Cụm công nghiệp tập trung vừa và nhỏ Minh Khai được huyện triển khai xây dựng

từ năm 2001 đã thu hút được 32 doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho

khoảng 1.000 lao động địa phương [152]. Đến giai đoạn 2006-2010, Từ Liêm tiếp tục mở

rộng cụm công nghiệp Minh Khai giai đoạn 2. Năm 2010 đã có 32 doanh nghiệp của giai

đoạn 1 và 34/50 doanh nghiệp của giai đoạn 2 đi vào sản xuất [6, tr.421].

- Cụm công nghiệp Phú Minh (thuộc phường Cổ Nhuế, Phú Diễn) gồm 27 doanh

nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp ở đây đều sản xuất bao bì, in nhuộm và sản xuất các

đồ phụ tùng ôtô, xe máy [151].

Cũng giống như huyện Từ Liêm, huyện Thanh Trì cũng có chủ trương xây dựng

các cụm công nghiệp, cụ thể là:

- Khu công nghiệp Văn Điển: phát triển các nhóm ngành nghề: Cơ khí, hóa chất,

phân bón, vật liệu xây dựng, sành sứ thủy tinh, chế biến lâm sản. Trong đó có hai nhóm

ngành chính là: Hóa chất phân bón và cơ khí công nghiệp.

- Khu công nghiệp Cầu Bươu: tập trung vào 4 nhóm ngành sản xuất: sản xuất bao

bì, hóa chất, cơ khí và chế biến lâm sản. Trong đó sản xuất bao bì chiếm tỷ trọng lớn

nhất, với 60% về giá trị sản xuất và 49% về lực lượng lao động. Tiếp đến là công nghiệp

hóa chất (sơn tổng hợp) chiếm 29% giá trị sản xuất và 23% lực lượng lao động.

- Cụm công nghiệp Ngọc Hồi: hiện nay đã cơ bản xây dựng xong cơ sở hạ tầng

và tiếp tục mở rộng thêm khoảng 20ha. Hiện nay đã có 34/34 doanh nghiệp đầu tư xây

dựng nhà xưởng sản xuất tại Cụm công nghiệp Ngọc Hồi, trong đó 32 doanh nghiệp đã

đi vào hoạt động sản xuất ổn định [7].

50

Huyện Gia Lâm có các KCN là: KCN Thị trấn Sài Đồng A (420ha), Sài Đồng B

(97ha), Tân Quang (500ha), Hapro (353ha) [8].

Chủ trương xây dựng phát triển KCN tập trung vừa và nhỏ là sự thể hiện tư duy đổi

mới về phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, giảm dần

tỷ trọng kinh tế nông nghiệp. Nhờ vậy huyện đã thu hút vốn đầu tư, công nghệ tạo điều kiện

phát huy nội lực các thành phần kinh tế. Từ đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, đúng

hướng, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đạt mức bình quân hàng năm tăng 6,7%, trong đó

tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 7,5%/năm; thương mại - dịch vụ 9,3%/năm.

2.4.2.3. Quá trình biến động về đất đai

Đô thị hóa ở bất cứ quốc gia nào cũng dẫn tới việc giảm dần đất đai nông nghiệp

để sử dụng vào mục đích phát triển quy mô các đô thị đã có, xây dựng khu đô thị mới,

xây dựng các công trình công cộng, khu chế xuất, khu dịch vụ và các công trình hạ tầng

cơ sở của đô thị… Theo quy hoạch tổng thể Thành phố Hà Nội, một mặt thành phố sẽ

được mở rộng ra vùng ven đô, mặt khác sẽ xây dựng các thành phố vệ tinh ở các khu

vực ngoại ô. Trong giai đoạn 1998-2005, trung bình mỗi năm thành phố thu hồi hơn

1.000ha đất nông nghiệp ở vùng ngoại thành cho các mục đích phi nông nghiệp. Tình

hình đó đã dẫn đến sự biến động về đất đai theo mục đích sử dụng ở các huyện ngoại

thành Hà Nội nói chung, huyện Từ Liêm nói riêng.

Vốn là một huyện thuần nông với hơn 50% dân số nông nghiệp và tỷ trọng ngành

kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn trước đã có chiều hướng giảm mạnh nhưng vào năm

1995 vẫn còn chiếm 49,9% cơ cấu kinh tế của Từ Liêm. Chính vì thế, từ thời điểm 1996,

bên cạnh việc ưu tiên bố trí đất cho các mục đích phi nông nghiệp và phát triển đô thị, thì

Từ Liêm vẫn còn diện tích đáng kể được sử dụng cho nông nghiệp. Tuy nhiên, cùng với

quá trình ĐTH thì diện tích dành cho đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, từ 4.858 ha

năm 1995 xuống còn 4.009 năm 2002, 2.774 ha năm 2010 và 2.514 ha năm 2013 [23].

Như vậy, trong giai đoạn 1995-2013, đất nông nghiệp ở Từ Liêm giảm đi 2.344ha,

một con số khá lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất

nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp (phát triển các KCN, xây dựng các khu

đô thị mới, sáp nhập thành lập quận mới, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật huyện, xã…)

phục vụ quá trình ĐTH, công nghiệp hóa; mặt khác là sự thay đổi trong cơ cấu sử dụng

đất nông nghiệp, chuyển từ diện tích lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác và

nuôi trồng thủy sản…

51

Đơn vị tính: ha

Bảng 2.2: Biến động các loại đất của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 2006-2011

TT

Chỉ tiêu

Năm

2006

2011

Biến động Tăng (+), giảm (-) 0 -636,86 -483.01 -540,71 +57,69 - -127,27 -26,57 +689,02 +341,84 +354,64 -14,15 -5,37 +19,63 -7,54 -22,08

7.562,9 2.779,93 2.681,75 2.301,89 379,85 - 66,07 32,11 4,733,35 1.498,85 2.437,98 16,64 83,05 688,21 8,62 49,51

7.562,9 3.416,79 3.164,76 2.842,6 322,16 - 193,34 58,68 4.044,33 1.157,01 2.083,34 30,79 88,42 668,58 16,16 71,59

Tổng diện tích đất tự nhiên 1 Đất nông nghiệp 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.2 Đất lâm nghiệp 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 1.4 Đất nông nghiệp khác 2 Đất phi nông nghiệp 2.1 Đất ở 2.2 Đất chuyên dùng 2.3 Đất tôn giáo, tín ngư ng 2.4 Đất nghĩa trang 2.5 Đất sông suối, mặt nước 2.6 Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng 3

Nguồn: [103]

- Đất nông nghiệp: Trong giai đoạn 2006-2011, diện tích đất nông nghiệp của huyện

đã giảm 636,86ha, bình quân giảm 127,73ha/năm, trong đó giảm nhiều nhất là đất sản

xuất nông nghiệp, chủ yếu là đất trồng lúa sang các mục đích phi nông nghiệp của huyện.

Diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện trong những năm này vẫn giảm mạnh (127,27ha)

bởi hầu hết diện tích này được phân bố rải rác trong khu dân cư dưới dạng ao, hồ.

- Đất phi nông nghiệp: Diện tích đất phi nông nghiệp của huyện tăng từ 4.044,33ha

năm 2006 lên 4.733,35ha năm 2011. Trong đó tăng nhiều nhất là đất chuyên dùng

(354,64ha), sau đó là đất ở, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng.

- Đất chưa sử dụng: Giai đoạn 2006-2011, diện tích đất chưa sử dụng của giảm với

diện tích 22,08ha trên địa bàn huyện.

Như vậy, trong giai đoạn 2006-2011, việc chuyển đổi mục đích sử dụng các loại

đất chính nhìn chung phù hợp với xu thế biến động sử dụng đất nói chung và phù hợp

với xu thế công nghiệp hóa, đô thị hóa của huyện Từ Liêm nói riêng.

Cũng theo quy hoạch tổng thể Thành phố Hà Nội, các huyện Thanh Trì, Gia Lâm

cũng có sự biến động lớn về đất đai. Từ năm 1992 đến năm 2011, đất nông nghiệp ở các

huyện này giảm đi rất nhiều, ví dụ như ở Thanh Trì, đất nông nghiệp năm 1992 so với

năm 2011 giảm 2.972ha, Gia Lâm giảm 3.518ha. Nguyên nhân chủ yếu một phần là do

chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp (phát

52

triển các khu công nghiệp, xây dựng các khu đô thị mới, sáp nhập thành lập quận mới,

xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật huyện, xã…) phục vụ quá trình đô thị hóa, công nghiệp

hóa; mặt khác là sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất trong nông nghiệp, chuyển từ diện tích

lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác như cây ăn quả, khu trồng rau, đậu và

nuôi trồng thủy sản…

Xu hướng này cho thấy, quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại trong tổng

quỹ đất tự nhiên của huyện Từ Liêm nói riêng và các huyện ngoại thành Hà Nội nói

chung. Quỹ đất phân bổ cho mục đích phi nông nghiệp ngày càng tăng và sẽ được lấy

chủ yếu từ đất nông nghiệp. Biến động đất đai trong những năm qua trên địa bàn huyện

là một trong những nhân tố thực tiễn nội tại tác động đến việc đề ra các kế hoạch,

chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Từ Liêm theo hướng ĐTH.

2.4.2.4. Quá trình tập trung dân cư đô thị

Trong quá trình ĐTH, vấn đề di dân nông thôn - thành thị xảy ra với hầu hết các

nước trên thế giới. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đã làm cho quan hệ sản

xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giải phóng, CNH, HĐH đất nước được đẩy

mạnh đã thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau Đổi mới,

các thành phố lớn ở Việt Nam đều có sự gia tăng dân số đột ngột, đặc biệt là hai thành

phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo các số liệu điều tra, mỗi ngày có

hàng trăm người đủ các thành phần cư dân, đủ mọi lứa tuổi từ thanh niên, trung niên, cụ

già đến em nhỏ khắp các địa phương trong nước đổ về thành phố với những mục tiêu

ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ăn việc làm, cải thiện đời sống, nhập cư cùng gia

đình, thay đổi nghề nghiệp… với hình thức định cư lâu dài hoặc là tạm cư. Tình trạng

này đã làm cho sự gia tăng dân số cơ học của Thành phố Hà Nội vượt trội so với các

thành phố khác.

Từ Liêm cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nếu so sánh với các huyện ngoại

thành Hà Nội, quá trình ĐTH đã đưa đến kết quả là Từ Liêm có số lượng dân cư tăng

nhanh nhất theo từng năm, từ 177,3 nghìn người năm 1996 lên 198,5 nghìn người năm

2000, 289,8 nghìn người năm 2005, 355,2 nghìn người năm 2008, 419,5 nghìn người

năm 2010 và 523,4 nghìn người năm 2013 (tăng 346,1 nghìn người so với năm 1996)

[23]; Từ Liêm cũng trở thành địa phương có số dân đông nhất Hà Nội.

53

Bảng 2.3: Sự biến động dân số của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội Đơn vị: 1.000 người

Huyện Thanh Trì Từ Liêm Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn

2000 228,2 198,5 345,0 262,1 247,3

2005 164,8 289,8 207,9 302,6 267,9

2008 190,2 355,2 224,5 329,8 279,4

2010 208,2 419,5 241,6 355,0 296,4

2013 219,3 523,4 251,4 374,2 312,2

Nguồn: [23]

Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu đô thị, thương mại, các cơ sở công

nghiệp, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài… ngày càng nhiều nên đã có một lượng

dân di cư từ nông thôn ra làm các nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực,

thực phẩm... Ngoài ra, huyện Từ Liêm còn là nơi giãn dân của nội thành. Với chính sách

chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột ở trung tâm thành phố cho nên các vùng ven

đô nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các

quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm

cũng tìm đến để tậu đất, tậu nhà xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào

các ngày tết, lễ. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm cho dân số huyện Từ Liêm

gia tăng cơ học một cách nhanh chóng. Theo Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của

huyện Từ Liêm đến năm 2020, dự báo đến năm 2030, thì dân số huyện Từ Liêm đến

năm 2020 vào khoảng 830.000 người [154]. Các làng xóm truyền thống với kết cấu hạ

tầng phát triển đan xen với các khu đô thị hiện đại.

Có thể nói rằng áp lực về dân số ngoài yếu tố tích cực là cung cấp lực lượng lao

động dồi dào cho huyện Từ Liêm nói riêng, cho Thành phố Hà Nội nói chung nhưng

cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần phải xem xét giải quyết như vấn đề lao động - việc

làm, nhà ở, tệ nạn xã hội… Những vấn đề này trên thực tế đã đặt ra nhiều câu hỏi lớn

cho huyện Từ Liêm trong quá trình xây dựng các chương trình phát triển kinh tế-xã hội

trong từng giai đoạn cụ thể cũng như trong quá trình triển khai các nhiệm vụ đã và đang

đặt ra cho địa phương.

2.4.2.5. Sự phát triển cơ sở hạ tầng đô thị

Trong quá trình đô thị hóa, cơ sở hạ tầng đô thị của huyện Từ Liêm được cải thiện

một cách cơ bản. Khi kinh tế phát triển nhanh, mật độ dân số tăng, huyện Từ Liêm phải

quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: làm mới, nâng cấp sửa chữa đường giao

54

thông; mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước, khu chung cư, khu vui chơi giải trí,

trường học, bệnh viện…

Hệ thống hạ tầng giao thông trên địa bàn huyện trong những năm 1996-2013 về cơ

bản đã và đang được hoàn thiện theo những quy hoạch và kế hoạch đề ra. Trên địa bàn

huyện Từ Liêm vốn tập trung nhiều đầu mối giao thông đường bộ quan trọng có vai trò

lớn trong phát triển kinh tế- xã hội của Thủ đô, như: Quốc Lộ 32, đường 23 ven đê Sông

Hồng, đường Phạm Văn Đồng, cầu Thăng Long; có 01 nhà ga và 14km đường sắt. Hệ

thống tuyến đường do huyện quản lý hầu hết đi qua các khu đô thị mới được xây dựng

khá khang trang, cảnh quan đẹp, xứng đáng với các tuyến đường cấp đô thị. Các tuyến

đường ngõ xóm kết nối với các đường trục chính của xã, phường trong huyện có tổng

chiều dài là 260km [151]. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, các tuyến giao thông cấp xã,

phường đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giao thông trong nội bộ huyện, khi

mà những tuyến giao thông cấp huyện còn chưa được xây dựng nhiều. Trên địa bàn

huyện có nhiều tuyến xe buýt chạy qua, dọc theo các trục đường chính như: tuyến số 26,

50 trên trục đường Lê Đức Thọ - Lê Quang Đạo và 02 tuyến chạy qua điểm đầu QL32;

tuyến 39 trên đường 70… Các tuyến buýt này phục vụ nhu cầu đi lại rất hiệu quả đối với

học sinh, sinh viên, người lao động và làm giảm bớt ùn tắc giao thông. Có 01 bến xe lớn

của Thành phố, đó là bến xe đầu mối Mỹ Đình nhưng hiện tại bến xe này đang quá tải

với tần suất 1.200 lượt xe ra vào bến/ngày. Huyện còn tập trung đang triển khai 02 dự án

xây dựng bãi đỗ xe: bãi Mỹ Đình 1 có diện tích 78.603m2; bãi Mỹ Đình 2 có diện tích 14.796m2 [151].

Hệ thống điện dân dụng và đường ống cấp nước sạch của huyện được xác định

theo quy hoạch đã đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại. Về cơ bản, đa số hộ dân trên địa bàn

huyện đã được cấp điện và nước sạch để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày.

Một hạng mục không kém phần quan trọng trong việc thể hiện tốc độ phát triển

nhanh của hạ tầng đô thị đó là việc xây dựng các khu nhà cao tầng, các công trình công

cộng. Đến năm 2013, trên địa bàn huyện đã có một số công trình kiến trúc hiện đại và

quan trọng của thành phố như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ

Đình, Bảo tàng Hà Nội; các trung tâm thương mại lớn The Manor, The Garden…; là nơi

đặt trụ sở của một số Bộ, ngành Trung ương và các trường đại học, bệnh viện…

Hệ thống hạ tầng thương mại dịch vụ tương đối phát triển với nhiều trung tâm

thương mại, siêu thị quy mô lớn và hệ thống chợ dân sinh đáp ứng cơ bản nhu cầu của

55

nhân dân. Cơ sở hạ tầng là điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại dịch vụ như dịch

vụ hội nghị, hội thảo, dịch vụ cho thuê văn phòng cao cấp, dịch vụ du lịch tham quan,

mua sắm… Cụ thể: Huyện có Trung tâm Hội nghị Quốc gia, các khách sạn cao cấp với

2 khách sạn 5 sao: Crowne Plaza Hotels & Resorts và JW Marriott Hotel Hanoi, một số

trung tâm thương mại…; nhiều tổ hợp văn phòng đã đi vào hoạt động: Keangnam Hanoi

Landmark, Handico Tower, Viglacera Tower, Sudico, The Mannor, FLC Landmark

Tower…; Với nhiều khu đô thị đã phát triển ổn định như KĐT Mỹ Đình 1 và 2, KĐT

Mỹ Đình - Mễ Trì, KĐT Xuân Phương; KĐT Trung Văn; KĐT The Manor, KĐT

Ciputra, KĐT thành phố giao lưu, KĐT ngoại giao đoàn, KĐT Cổ Nhuế - Xuân Đỉnh và

hàng chục khu chung cư… Các khu đô thị và chung cư, các khu khách sạn cao cấp, các

trung tâm thương mại, hội nghị, hội thảo… được xây dựng trong giai đoạn này được coi

là nhân tố mang đến diện mạo mới, văn minh hiện đại cho huyện Từ Liêm... Ngoài ra, với

lợi thế có nhiều trung tâm hội nghị, sân thể thao của Trung ương và các tổ chức trên địa

bàn, dịch vụ hội nghị, hội thảo, dịch vụ cho thuê văn phòng làm việc, dịch vụ thể dục thể

thao của huyện có điều kiện phát triển khá tốt. Các siêu thị đều nằm trên những vị trí khá

đắc địa nối giữa thành phố với các địa điểm quan trọng khác như: Sân bay quốc tế Nội

Bài, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Mỹ Đình, Bến xe Mỹ Đình, là điều kiện

thuận lợi để phát triển hoạt động thương mại và giao thông cho khách hàng.

Hệ thống thiết chế xã hội của huyện đã được nâng cao hơn. Trong quá trình biến

động sử dụng đất đai, diện tích đất dành cho các cơ sở hạ tầng như giao thông, đường sá,

các công trình văn hoá, y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao... được quan tâm đầu

tư đúng mức và phát triển tương đối toàn diện, đã từng bước nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho nhân dân. Hệ thống chợ được xây dựng và tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng

nhằm phục vụ nhu cầu giao lưu, buôn bán của nhân dân; Hệ thống cơ sở vật chất giáo

dục - đào tạo của các huyện tương đối đầy đủ về số lượng, được đầu tư nâng cấp, đạt

tiêu chuẩn trường tiên tiến và trường đạt chuẩn quốc gia. Huyện có 53 trường tiểu học,

27 trường trung học cơ sở, 57 trường mẫu giáo, nhà trẻ; hệ thống các công trình dành

cho y tế, văn hóa - xã hội, thể dục - thể thao cũng từng bước được mở rộng và nâng cấp,

đáp ứng được nhu cầu của nhân dân dân trong huyện. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ,

thể thao quần chúng tại cơ sở thường xuyên được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, tạo

sân chơi lành mạnh bổ ích cho nhân dân trên địa bàn, góp phần cải thiện và nâng cao đời

56

sống văn hóa tinh thần cho người dân. Hệ thống y tế đảm bảo tốt cho việc chăm sóc sức

khoẻ ban đầu của người dân.

Hệ thống công viên, cây xanh trong giai đoạn này được chú trọng, diện tích cây xanh bình quân đầu người trên địa bàn quận 5,3m2/người (cao hơn mức trung bình của thành phố với 1,1m2/người). Trên địa bàn có nhiều khu đô thị mới với cảnh quan khá

đẹp và văn minh như khu Mỹ Đình, Mễ Trì, Ciputra, The Manor… Trong các khu này

có nhiều sân chơi, công viên, vườn hoa góp phần tạo cảnh quan đẹp cho huyện và đáp

ứng một phần đời sống văn hoá của nhân dân. Đặc biệt, trên địa bàn huyện có Trung

tâm thể thao Quốc gia và Công viên Hòa Bình trên xã Xuân Đỉnh với diện tích 20ha là

những quần thể rộng lớn có diện tích cây xanh đa dạng, đẹp, tiềm năng sẽ là điểm vui

chơi giải trí thu hút đông đảo nhân dân của huyện và các địa bàn lân cận đến tham quan,

vui chơi cuối tuần. Những khu công viên giải trí, trung tâm thể thao chính là những

điểm nhấn cho sự biến chuyển của Từ Liêm trên con đường đô thị hóa.

i t h ơng 2

Với hai nội dung chính là khái quát về đối tượng nghiên cứu - huyện Từ Liêm và

vấn đề đô thị hóa ở địa phương này trong khung thời gian đã ấn định, chương 2 luận án

đã lần lượt giới thiệu về vị trí đị lý tự nhiên, khí hậu thủy văn, đất đai, địa giới hành

chính cũng như làm rõ thêm về thực trạng kinh tế-xã hội của huyện Từ Liêm trước năm

1996. Huyện có vị trí thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế. Mạng lưới giao thông

đường bộ, đường sắt, đường sông diễn ra thuận lợi, tạo lợi thế để thu hút các dự án đầu

tư xây dựng của thành phố và phát triển kinh tế-xã hội của huyện.

Trên nền tảng của những điều kiện khách quan cụ thể cũng như bề dày lịch sử của

địa phương, đô thị hóa ở huyện Từ Liêm diễn ra trong bối cảnh chung và dưới sự tác

động trực tiếp của quá trình mở rộng Thủ đô Hà Nội. Đặt vấn đề nghiên cứu những đặc

điểm cơ bản trong quá trình đô thị hóa của một đơn vị hành chính cấp dưới là huyện Từ

Liêm trong một phạm vi lớn hơn và mang vị thế đơn vị hành chính cấp trên trực tiếp là

Thủ đô Hà Nội là một cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn đất nước hiện nay; qua đó có

thể thấy được cái nhìn biện chứng, vừa thấy đặc điểm chung của toàn vùng, vừa thấy

được những nét riêng của một địa phương. Là một huyện nằm trong vùng quy hoạch

phát triển trọng điểm của Thủ đô Hà Nội, huyện Từ Liêm là một địa phương có tốc độ

đô thị hóa nhanh ở khu vực ven đô. Dù trải qua các giai đoạn phát triển được xây dựng

theo quy hoạch chung của thành phố và chịu nhiều tác động từ các yếu tố khách quan

57

cũng như nội tại nhưng Từ Liêm đã có nhiều thay đổi mang tính đặc thù và theo hướng

tích cực. Sự thay đổi chủ yếu của Từ Liêm theo hương đô thị hóa đã biểu hiện rõ nét

trên các phương diện: thay đổi địa về giới hành chính, biến động về đất đai, việc gia

tăng và tập trung dân cư đô thị, sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế, và sự phát triển nhanh

chóng cơ sở hạ tầng đô thị. Những biến chuyển sâu rộng và toàn diện trên nhiều góc độ

của đời sống kinh tế, xã hội Từ Liêm đã làm cho Từ Liêm trở thành địa phương vùng

ven đô có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất Hà Nội trong giai đoạn 1996-2013.

58

Chương 3

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ CỦA HUYỆN TỪ LIÊM

3.1. Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế

3. . . h n i n ơ ấ ngành

Cùng với quá trình đô thị hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và vùng

của nông thôn ven đô sang đô thị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng

hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu ngân sách của thành phố, là cơ sở tăng ngân sách

cho khu vực phòng thủ; nâng cao số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu sản phẩm hàng

hóa công nghiệp, nông sản, thực phẩm, dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng đảm bảo

kinh tế tại chỗ cho các lực lượng trong khu vực phòng thủ thành phố.

Như đã trình bày ở chương 2, trong giai đoạn 1986-1995, kinh tế huyện Từ Liêm đạt

tốc độ tăng trưởng 7,51%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần, kinh tế công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ bắt đầu tăng lên. Tỷ trọng kinh tế ngành nông

nghiệp trong cơ cấu kinh tế huyện giảm từ 92,3% năm 1986 xuống 40,9% năm 1995;

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 2,3% năm 1986 lên 33,1% năm 1995, tăng 29,2%;

thương mại - dịch vụ từ 5,4% năm 1986 lên 26% năm 1995, tăng 20,6% [6, tr.52].

Sang giai đoạn 1995-2013, cơ cấu ngành kinh tế của huyện Từ Liêm được phản

ảnh qua biểu đồ 3.1 sau đây:

Nguồn: [151]

Biểu đồ 3.1: Cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm qua các năm

Theo biểu đồ 3.1, cơ cấu kinh tế huyện Từ Liêm từ năm 1995 đến năm 2013 có sự

chuyển dịch nhanh, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ

59

33,1% năm 1995 lên 58,9% năm 2013; tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thương mại - dịch

vụ từ 26% năm 1995 lên 39,7% năm 2013; tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 40,9%

năm 1995 xuống còn 1,4% năm 2013 [163, 165]. Trong năm 2013, tổng giá trị sản xuất

chung của các ngành kinh tế (giá cố định 2010) đạt 32.329 tỷ đồng, tăng 15,5% so với

năm 2012, đưa giá trị sản xuất các ngành kinh tế 3 năm 2011-2013 tăng bình quân

16,7% [166].

Đối với hai huyện ngoại thành khác là Thanh trì và Gia Lâm, cơ cấu kinh tế của

hai huyện này cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm

tương đối tỷ trọng nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tại huyện

Thanh Trì, giai đoạn 2001-2012, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 45,7%

lên 69,62%; dịch vụ tăng từ 15,46% lên 22,52%; nông nghiệp giảm từ 38,84% xuống

còn 7,86%, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân từ 16-17%/năm [7]. Đối với huyện

Gia Lâm, tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 41,8% lên 54,3% năm 2010;

dịch vụ từ 25,2% lên 26% năm 2010; nông nghiệp giảm từ 35,15% xuống 19,7% năm

2010. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 18-18,5%/năm [8, tr. 282, 396].

3. .2. h n i n ơ ấ thành hần

Trước năm 1996, thu nhập quốc dân của Thủ đô nói chung và của huyện Từ Liêm

nói riêng chủ yếu là do khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể mang lại thì từ giai

đoạn 1996 đến 2013, kinh tế ngoài nhà nước đã phát triển nhanh chóng, đóng góp đáng

kể vào GDP hàng năm. Cơ cấu thành phần kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng

giảm tỷ trọng kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước.

Kinh tế nhà nước: Trong giai đoạn 2000-2005, toàn huyện có 04 doanh nghiệp nhà

nước. Năm 2005, huyện đã tiến hành cổ phần hóa 2 DN (Công ty đầu tư kinh doanh nhà

Từ Liêm và Công ty Dịch vụ nông nghiệp) và tiến hành sắp xếp lại 2 DN nhà nước

(Công ty vườn quả du lịch và Xí nghiệp môi trường). Đến năm 2013, chỉ còn 01 doanh

nghiệp nhà nước trực thuộc huyện là Xí nghiệp môi trường đô thị huyện và đang triển

khai các thủ tục để chuyển về Thành phố quản lý theo quy định.

Kinh tế tập thể: Năm 2005 toàn huyện có 38 HTX, trong đó HTX nông nghiệp là

31 và 7 HTX phi nông nghiệp. Các HTX nông nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn được

duy trì, ổn định, bảo toàn được vốn và phát triển. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu được đáp

ứng nhu cầu thiết yếu về sản xuất và tiêu dùng của nhân dân như: phân bón, giống, điện

nước... Phát huy thế mạnh của huyện ven đô, một số HTX đã năng động mở rộng ngành

60

nghề kinh doanh dịch vụ thương mại: quản lý chợ, dịch vụ trông xe, dịch vụ thương

mại..., bước đầu có hiệu quả và phù hợp với điều kiện đô thị hóa của huyện. Đến năm

2013, tổng số HTX trên toàn huyện là 47, trong đó có 32 HTX nông nghiệp với tổng số

26.024 xã viên [166, tr.7].

Kinh tế ngoài nhà nước: Khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể.

+ Các doanh nghiệp: Năm 2005, huyện có 352 DN, bao gồm Công ty TNHH, công

ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, trong đó DN công nghiệp là 110, DN thương mại và

dịch vụ là 187, DN sản xuất là 55 [47, tr.49]. Đến năm 2013, có khoảng 7.300 DN đang

hoạt động, trong đó chủ yếu là DN có quy mô nhỏ, doanh thu dưới 15 tỷ đồng. Có

khoảng trên 1.000 DN thành lập mới. Đối với DN có doanh thu từ 15 tỷ trở lên: khoảng

530 DN với tổng doanh thu khoảng 47.468 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ khoảng 80% tổng doanh

thu toàn huyện, trong đó số DN có doanh thu từ 100 tỷ đồng trở lên: 91 doanh nghiệp

với tổng doanh thu 32.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 54% doanh thu toàn huyện

[166, tr.7]. Khoảng 80% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.

+ Hộ kinh doanh cá thể: Năm 2005, huyện có khoảng 8.000 hộ, thu hút khoảng

16.500 lao động [162, tr.6]. Đến năm 2013, toàn huyện có khoảng 12.000 hộ đang hoạt

động, trong đó lĩnh vực thương mại, dịch vụ chiếm 90%.

Có thể nói, kinh tế ngoài nhà nước tham gia hầu hết vào các lĩnh vực, trong đó có

cả những lĩnh vực trước đây chỉ có DNNN đảm nhận. Cùng với quá trình chuyển đổi

kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp mới hình thành và phát triển khá hiệu quả. Khu

vực kinh tế này đóng góp ngày càng lớn vào ngân sách của huyện và thu hút khoảng

70% lao động, trong đó riêng kinh tế cá thể, hộ gia đình thu hút 60% lao động.

3. .3. h n i n ơ ấ vùng

Trước năm 1995, huyện Từ Liêm phân thành 3 vùng kinh tế, đó là: Vùng đô thị

hóa nhanh, tập trung phát triển sản xuất cây hoa cây cảnh, ngành nghề, chế biến nông

sản, làm dịch vụ và phát triển du lịch (Thị trấn Cầu Diễn, Tây Tựu); Vùng tương đối ổn

định, tập trung sản xuất rau, cây ăn quả, chăn nuôi, sản xuất ngành nghề tiểu thủ công

nghiệp (Minh Khai, Phú Diễn, Xuân Phương, Liên Mạc); Vùng tạm ổn định, tập trung

sản xuất lương thực, đặc sản, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản (Mễ

Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ) [6, tr.314].

61

Từ năm 2001, huyện đã hình thành ba khu vực mang tính sinh thái rõ rệt, phù hợp

với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội đến năm 2010, đó là:

Vùng 1: bao gồm Thị trấn Cầu Diễn, 3 xã phía Bắc (Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ

Nhuế) và xã Trung Văn ở phía Đông Nam, chiếm 26,76% diện tích toàn huyện. Là vùng

có các xã đều giáp ranh nội thành, cho nên ở đây tập trung nhiều cơ cơ quan, xí nghiệp

của Trung ương và thành phố, đặc biệt có 2 khu công nghiệp tập trung của Hà Nội là

khu Cầu Diễn-Mai Dịch và khu Chèm. Khu vực này cũng tập trung nhiều làng nghề

như thêu, dệt thảm, đan mây song tre, may mặc, bện thừng, sản xuất bánh, mứt, kẹo…

Vùng này có diện tích đất nông nghiệp hạn chế, đất canh tác chủ yếu là trồng lúa, số

diện tích còn lại trồng rau, hoa quả. Vì vậy, cơ cấu kinh tế vùng 1 được xây đựng theo

mô hình: công nghiệp-thương mại-dịch vụ-nông nghiệp. Số hộ nông nghiệp chiếm tỷ

lệ nhỏ, hộ thuần nông chỉ còn 10%. Trong cơ cấu thu nhập của hộ, tỷ trọng ngành

nông nghiệp chỉ còn chiếm từ 10-20%.

Vùng 2: gồm 6 xã phía Tây Bắc (Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Tây Tựu,

Minh Khai, Phú Diễn), chiếm 35,98% diện tích huyện. Đất đai vùng này có độ màu

m cao, hệ thống thủy nông tương đối hoàn chỉnh, thuận lợi cho sản xuất thâm canh

nhiều loại cây trồng. Vì vậy, vùng 2 là vùng tập trung chủ yếu của huyện về trồng cây

ăn quả, rau và hoa với nhiều loại nông sản đặc sắc như cam Canh, bưởi Diễn, những

loại rau gia vị, rau xanh cao cấp và nhiều loại hoa ngoại nhập. Mô hình kinh tế của

vùng 2 là nông nghiệp-công nghiệp-thương mại-dịch vụ. Nông nghiệp đã chú trọng đi

vào sản xuất hàng hóa và chiếm 70% tổng giá trị sản xuất. Số hộ nông nghiệp chiếm

hơn 60% hộ dân cư.

Vùng 3: bao gồm 5 xã (Xuân Phương, Mỹ Đình, Tây Mỗ, Mễ Trì, Đại Mỗ),

chiếm 37,24% diện tích toàn huyện. Đây là vùng đất thấp, thuộc loại đất thịt nặng hoặc

pha sét độ phì thấp, do vậy đã trở thành vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo và chăn nuôi

lợn. Sản phẩm đặc trưng là lúa đặc sản, thịt lợn, thịt gia cầm. Ngoài sản xuất nông

nghiệp, vùng 3 còn phát triển một số ngành nghề thủ công như: làm bún, bánh phở,

làm cốm… Một số nghề cơ khí cũng đạt trình độ khá cao như sản xuất dụng cụ kim

loại và phụ tùng máy móc. Mô hình cơ cấu kinh tế vùng 3 được xác định là: nông

nghiệp-công nghiệp-thương mại, dịch vụ.

Trong đó vùng 1 là vùng chịu ảnh hưởng lớn của đô thị hóa, phát triển mạnh,

vùng 2 và 3 chậm phát triển hơn, nhưng có khả năng tập trung sản xuất nông nghiệp

62

cao hơn, đặc biệt vùng 3 đã được ấn định nằm trong quy hoạch quốc gia vì vậy một số

xã được quy hoạch diện tích không gian xanh cho Thủ đô.

3.2. Nông nghiệp

3.2. . Phân ổ và sử ụng ất n ng nghi

Như đã trình bày ở chương 2, trong quá trình ĐTH, sự phát triển các KCN, xây

dựng các khu đô thị mới, cũng như việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông

nghiệp sang đất ở, đất sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật… đã làm

giảm sút nhanh chóng diện tích đất nông nghiệp của Từ Liêm. Trước tình hình này, việc

cần kíp nhất của địa phương là phải nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông

nghiệp nhằm nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích nuôi trồng.

Đất nông nghiệp ở Từ Liêm sử dụng nhiều mục đích khác nhau: đất trồng cây hàng

năm (lúa và hoa màu…), đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản…

- Đất trồng cây hàng năm: Đất trồng cây hàng năm giảm từ 2.938 ha năm 2005

[103] xuống còn 2.208ha năm 2012 [165], trong đó chủ yếu là diện tích trồng lúa giảm

mạnh, chỉ còn 812 ha năm 2013 [166]. Loại đất này phân bố phần lớn ở các xã như: Xuân

Phương, Liên Mạc,... Các xã Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn, Đông Ngạc... hầu như không

còn diện tích đất chuyên trồng lúa nước.

Diện tích đất trồng lúa giảm là do chuyển từ đất lúa sang đất trồng cây hàng năm

và cây lâu năm, trồng hoa cây cảnh, chuyển sang đất ở nông thôn, cấp đất dãn dân nông

thôn, tái định cư; chuyển sang đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất có mục đích

công cộng và một số đất phi nông nghiệp khác như trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp,

an ninh…

Diện tích trồng rau các loại cũng giảm từ 1.103 ha năm 1995 còn 646ha năm 2013

[166], tập trung ở các xã Liên Mạc, Minh Khai, Phú Diễn; việc sản xuất các loại rau

màu chỉ có thể phát triển theo mô hình chiều sâu là chủ yếu nên giá trị ngày càng tăng.

Điều này thể hiện xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ loại cây trồng có giá trị thấp

sang các loại cây trồng có giá trị cao, phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày của

người dân nội thành, đồng thời tạo cơ sở để có thể hình thành các vùng chuyên canh.

Diện tích trồng hoa, cây cảnh tăng từ 270ha năm 1995 tăng lên 1.500ha năm 2010

[103] và giảm xuống 1.182ha năm 2013 [166], chủ yếu tập trung ở xã Tây Tựu, Thượng

Cát, Liên Mạc. Trước năm 1995, trên địa bàn huyện rất ít diện tích trồng hoa vì các

vùng trồng hoa trước đó đã được sáp nhập vào quận Tây Hồ. Tuy nhiên, từ năm 2000,

63

diện tích trồng hoa của huyện đã được phát triển mạnh, các loại hoa mới thường xuyên

được đưa vào sản xuất.

- iện tích nuôi trồng thủy sản: Do phần lớn ao hồ bị san lấp để triển khai dự án

đầu tư các khu công nghiệp, xây dựng khu đô thị và các công trình công cộng trên địa

bàn huyện Từ Liêm là khá lớn cho nên diện tích nuôi trồng thủy sản cũng giảm mạnh, từ

203ha năm 2005 xuống còn 61,9ha năm 2012 [165]. Quá trình xây dựng các nhà máy, xí

nghiệp cũng như công trình dân dụng tiếp tục được mở rộng và chắc chắn sẽ còn tiếp tục

tác động mạnh đến ngành nuôi trồng thủy sản của huyện.

Có thể lấy ví dụ xã Mễ Trì - một trong những địa phương có tốc độ ĐTH nhanh

nhất của huyện Từ Liêm. Với tính chất đặc thù của một địa phương thuộc vùng ven đô

đang trên đà đô thị hóa nhanh, cho nên sự biến động đất đai cả về loại đất và đối tượng

sử dụng đất ở Mễ Trì là một điều tất yếu. Từ năm 2000 đến năm 2010, do một lượng lớn

diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang đất phi nông nghiệp phục vụ cho xây dựng

các công trình công cộng của thành phố, khu tái định cư, các công trình quốc gia trọng

điểm như khu Liên hợp thể thao Quốc gia, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bảo tàng Hà

Nội, các khu chung cư và các dự án phát triển giao thông của địa phương và Hà Nội cho

nên diện tích đất nông nghiệp ở Mễ Trì càng bị thu hẹp một cách nhanh chóng. Hầu hết

các hộ gia đình thuộc xã Mễ Trì đều bị thu hồi đất, tuy nhiên tỷ lệ và loại đất bị thu hồi

của các hộ là khác nhau; Trong đó, đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm trên 91%, đất phi

nông nghiệp - 12%, đất ao hồ - 9,5% [132].

Không chỉ riêng Mễ Trì, tại một số xã giáp ranh với nội thành như Mỹ Đình, Trung

Văn… diện tích đất nông nghiệp cũng bị giảm nhanh, còn các xã như Liên Mạc, Đông

Ngạc, Thượng Cát có vị trí xa nội thành thì diện tích đất nông nghiệp ít biến động hơn.

Từ năm 1996 đến năm 2013, diện tích đất nông nghiệp của Từ Liêm giảm theo

từng năm, đặc biệt là giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2013. Từ Liêm là huyện nằm

trong quy hoạch phát triển đô thị của Thành phố nên có tốc độ ĐTH nhanh, đất dành cho

nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để chuyển sang đất phi nông nghiệp phục vụ quá trình

ĐTH, công nghiệp hóa; do đó, chủ trương của huyện là coi trọng chuyển dịch cơ cấu sản

xuất nông nghiệp theo hướng giảm nhanh diện tích trồng lúa, đưa các loại cây trồng, vật

nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất.

64

3.2.2. Về ầ t t ong n ng nghi

- Đổi mới phương thức huy động và quản lý, sử dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào

việc giải quyết vấn đề huy động, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Do đó, huyện đã chủ

trương điều chỉnh việc phân bổ vốn và huy động thêm nhiều nguốn vốn cho phát triển

nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông

thôn trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về

vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp, hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Về huy động vốn: Vốn đầu tư bao gồm hai nguồn chủ yếu là nguồn vốn trong nước

và nguồn vốn nước ngoài. Từ năm 1996 đến 2005, huyện Từ Liêm chưa có nguồn vốn

nước ngoài. Từ đầu năm 2007 bắt đầu có một số doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư

nhưng số lượng còn hạn chế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách

Nhà nước, nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội khác (doanh

nghiệp và HTX).

Vốn từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm đầu tư

trực tiếp cho sản xuất và hệ thống dịch vụ nông nghiệp, hoạt động nghiên cứu, chuyển

giao ứng dụng tiến bộ khoa học, kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi…). Nguồn vốn

này chiếm một tỷ lệ chưa cao trong cơ cấu vốn đầu tư của vùng, tuy nhiên có sự gia tăng

hàng năm. Đặc biệt, từ những năm đầu thế kỷ XXI, việc huy động các nguồn vốn đầu tư

cho phát triển khoa học công nghệ của Từ Liêm đã được chú trọng hơn nhưng chủ yếu

vẫn trông chờ vào Nhà nước.

Trong giai đoạn 2000-2005, tổng số vốn đầu tư ngân sách Nhà nước vào nông

nghiệp Từ Liêm đạt 60.366 triệu đồng [158]. Nhờ có việc gia tăng nguồn vốn ngân sách

cùng với việc huy động vốn trong toàn dân nên huyện đã xây dựng được một số công

trình hạ tầng cơ sở phục vụ nông nghiệp như: thủy lợi, giao thông, mạng lưới điện… Nhìn

chung, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp ven đô là tốt hơn trước mốc nghiên

cứu. Hệ thống dịch vụ như: dịch vụ giống cây trồng, gia súc, gia cầm; dịch vụ vật tư nông

nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…) đã từng bước phát huy khả năng của mình. Thành phố

đã đầu tư xây dựng hệ thống nước sạch sông Hồng để phục vụ dự án làng sinh thái - đô thị

Phú Diễn, mở ra tiềm năng lớn cho phát triển vùng kinh tế sinh thái của thành phố. Tuy

vậy, vẫn còn rất nhiều hạng mục cần thiết phải đầu tư để đẩy mạnh CNH nông nghiệp

như: chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, chế biến nông sản, phát triển công nghệ sinh học

65

trình độ cao để nhân giống cây trồng, vật nuôi có giá trị cao, cơ khí hóa một số khâu canh

tác… còn chưa được chú ý nhiều.

Sang giai đoạn 2006-2011, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho Từ Liêm

để phát triển kinh tế nông nghiệp đã tăng lên rõ rệt, đạt 120.007 triệu đồng, gấp 4 lần

thời kỳ 1990-1995. Bình quân mỗi năm huy động được 24.601,4 triệu đồng, bằng

8,3%/năm và gấp 1,5 lần so với năm 1995. Bên cạnh đó, vốn đầu tư cân đối qua ngân

sách huyện tăng khá. Tổng vốn đầu tư trong 6 năm (2006-2011) đạt 171.803 triệu đồng,

bình quân mỗi năm huy động ngân sách huyện cho nông nghiệp đạt 34.360,6 triệu

đồng/năm [2, tr.49].

Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã

khơi dậy tiềm năng kinh tế của các hộ nông dân. Năm 2011, huyện có khoảng 35.000 hộ

nông dân, tiềm năng kinh tế của hộ được phản ánh thông qua việc huy động tổng hợp

các nguồn lực: đất đai, lao động, nhất là nguồn vốn để phát triển sản xuất. Theo số liệu

thống kê năm 2011, số vốn huy động được từ các hộ gia đình ở Từ Liêm cho các hoạt

động kinh tế là 90 tỷ đồng [148]; một phần số vốn này đã được đầu tư vào phát triển

nông nghiệp với các mô hình nông nghiệp sạch, cây con đặc sản, đặc biệt là đầu tư vào

kinh tế trang trại.

Những năm 2006-2013, cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện chuyển dịch theo hướng

sản xuất hàng hóa đã tạo thêm một số nghề mới. Nhiều hộ gia đình ở Từ Liêm đã đầu tư từ 200-300 triệu đồng để nuôi 10-20 con bò sữa/hộ; xây dựng 500-600m2 ao để nuôi và

sản xuất ba ba giống/hộ/năm [2, tr.52].

Năm 2010 huyện Từ Liêm có 356 doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trên 14 lĩnh

vực kinh tế-kỹ thuật, trong đó có 23 doanh nghiệp nông nghiệp, với tổng số vốn kinh

doanh là 97,8 tỷ đồng [151]. Ngoài việc nhận phần vốn cấp của Nhà nước, vay vốn tín

dụng ngân hàng…, nhiều doanh nghiệp đã huy động nguồn vốn rất quan trọng từ nội bộ

doanh nghiệp để phục vụ đầu tư phát triển sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế. Từ năm

2008 đến năm 2011, số vốn tự huy động của các doanh nghiệp trên địa bàn Từ Liêm là

241 tỷ đồng [2, tr.53]. Số vốn này được đưa vào phát triển sản xuất, thúc đẩy các doanh

nghiệp mở rộng kinh doanh. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp hàng năm được nhà nước ưu tiên cấp từ 30-50% tổng số vốn lưu động và 2-3 tỷ

đồng/năm vốn xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp này cũng đẩy mạnh huy động vốn tự

có của mình, đầu tư trở lại quy trình sản xuất.

66

Huyện Từ Liêm có 46 HTX bao gồm 29 HTX khối nông nghiệp và 17 HTX khối

phi nông nghiệp. Tất cả các HXT nông nghiệp đã chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp

tác xã, do vậy từ năm 2008 đến năm 2011, các HTX đã huy động được trên 10 tỷ đồng

từ việc chuyển đổi các tổ chức kinh tế sang HTX [2, tr.52].

Nhìn chung, số vốn huy động từ các loại hình doanh nghiệp đa phần tập trung đầu

tư trở lại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp-dịch vụ. Số vốn đầu tư để phát

triển nông nghiệp còn thấp vì gặp nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp, khó thu hồi vốn… Chỉ có

một lượng vốn rất nhỏ từ các doanh nghiệp nông nghiệp được huy động vào phát triển

nông nghiệp và cũng mới chỉ dừng lại ở việc duy trì bộ máy hoạt động của doanh

nghiệp, nâng cấp, sửa chữa một số công trình nhỏ phục vụ nông nghiệp…

Tính hiệu quả của việc đầu tư, sử dụng vốn: Đối với vốn đầu tư từ ngân sách,

huyện thực hiện theo nguyên tắc: sử dụng nguồn vốn đúng lĩnh vực được phân bổ và

phải gắn với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của vùng. Số vốn từ nguồn ngân sách

được đầu tư vào một số lĩnh vực sau:

Đầu tư cho trại, trạm nông nghiệp: Số vốn huy động được dùng vào việc cải tạo,

nâng cấp hệ thống giống cây trồng, vật nuôi như: trại lợn giống Cầu Diễn, Trung tâm kỹ

thuật rau quả, trại lúa Phú Diễn… Hàng năm, các trung tâm trên đã cung cấp 2.000 lợn

giống, 0,5 triệu giống cây ăn quả… góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông phẩm

hàng hóa. Hơn nữa, vốn còn được huy động để đầu tư vào cơ sở mua gom sữa tươi ở

trạm Cầu Diễn khoảng 300 triệu đồng. Năng lực thu gom, bảo quản sữa tại trạm đảm

bảo 100-150 tấn/năm [2, tr.50].

Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp: Từ năm 2006 đến năm 2011,

huyện đã tăng mức vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp: thủy lợi, đê

điều, xây dựng và cải tạo giao thông nông thôn, mạng lưới điện. Tổng số vốn huy động

để xây dựng, sửa chữa các công trình thủy nông phục vụ cho công tác tưới tiêu, phát

triển sản xuất nông nghiệp đạt 25.445 triệu đồng. Hơn nữa, vốn ngân sách đầu tư tu bổ

đê điều đạt 35.766 triệu đồng đã được tập trung vào đắp đê, làm kè, tôn cao và cứng hóa

mặt đê, đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ, cải thiện cảnh quan môi trường. Từ Liêm đã

nâng cấp, tu bổ tuyến đê Hữu Hồng dài 8,16km; sửa chữa Kè Thụy Phương-Liên Mạc

dài 810m; cải tạo cống Thượng Cát, cống Liên Mạc (thuộc hệ thống thủy nông sông

Nhuệ). Từ năm 2006 đến năm 2011, huyện đã cải tạo và xây dựng dựng mới 16 trạm

bơm tưới tiêu đầu mối, 1 hồ chứa nước, trên 30km kênh mương được kiên cố hóa, đảm

67

bảo chủ động tưới cho 89% diện tích trồng trọt và tiêu chủ động cho 70% diện tích úng

vào mùa mưa [2, tr.50].

Ngoài ra, huyện còn tạo điều kiện cho các hộ nông dân vay đủ số vốn để sản xuất,

nhằm nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và trình độ sản xuất kinh doanh đến

từng hộ nông dân, qua đó phổ biến kiến thức làm vườn, chăn nuôi, trồng trọt, tạo nghề

mới. Xây dựng và nhân rộng những mô hình làm ăn có hiệu quả phù hợp với từng vùng

để mỗi hộ nông dân được vay vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất.

- Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp

Với mục tiêu không ngừng nâng cao giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất nông

nghiệp trong điều kiện diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, Từ Liêm đã luôn chú

trọng áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện các chính sách khuyến nông, tăng cường cơ sở

vật chất kỹ thuật nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.

Từ Liêm đã chú trọng đến việc cải tiến kỹ thuật, sử dụng phân bón… để đưa

năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi tăng lên nhưng lại đảm bảo giữ được môi

trường trong sạch. Ví dụ như việc sử dụng phân sinh học trong trồng trọt cũng có tác

dụng lớn trong bảo vệ môi trường, an toàn sản phẩm, góp phần thúc đẩy tốc độ chuyển

dịch cơ cấu kỹ thuật sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái. Theo các

số liệu thống kê thì nông dân ngoại thành Hà Nội sử dụng bình quân hàng năm 4.500 tấn

phân sinh học, trong đó Từ Liêm sử dụng bình quân 1.067,2 tấn/năm (đứng thứ hai, sau

huyện Đông Anh - 1.839,8 tấn); với 56,3% số hộ trong các xã của huyện có sử dụng

phân sinh học, 100% số xã trong huyện có sử dụng phân sinh học với số lượng bình

quân 66,7 tấn/xã/năm [185].

Trong lĩnh vực trồng trọt, huyện rất chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu cây

trồng theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Nhiều giống lúa mới được thử nghiệm

thành công đã được nông dân tiếp thu và đưa vào sản xuất đại trà như: CR203, C70,

C71, VDIO, 98-10, 98-20, lúa lai, Bắc thơm… Kết quả là đã có 80% giống lúa tiến bộ

được gieo trồng trên địa bàn huyện.

Các quy trình sản xuất rau an toàn cho một số giống như cà chua, ngô, rau, súp

lơ… được ứng dụng rộng rãi. Các mô hình trồng rau an toàn trong nhà lưới đã được áp

dụng như HTX Phúc Lý, HTX Yên Nội, HTX Phú Diễn… Những nỗ lực đó đã góp

phần đưa diện tích rau an toàn đạt trên 90%, năng suất đạt trên 200 tạ/ha, đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của thị trường [163].

68

Về cây ăn quả, huyện Từ Liêm đã triển khai ứng dụng, hoàn thiện và chuyển giao

quy trình nhân giống cam Canh, bưởi Diễn theo phương pháp khoa học, góp phần bảo

tồn, duy trì giống cam Canh, bưởi Diễn.

Ngoài ra, như đã trình bày, trên địa bàn huyện đã hình thành vùng sản xuất hoa tập

trung tại xã Tây Tựu với quy mô lớn. Huyện đã cho nghiên cứu và thử nghiệm gieo

trồng 8 giống hoa mới nhập nội, xây dựng được 2 quy trình nhân giống và sản xuất hoa

thương phẩm cho 3 giống hoa hồng, 3 giống cúc và 2 giống đồng tiền, ứng dụng kỹ

thuật trồng hoa loa kèn trắng Hà Lan, ứng dụng phương pháp Mes-Modul trong dạy

nghề và chuyên giao công nghệ sản xuất hoa, cây cảnh phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh

tế của huyện Từ Liêm. Việc ứng dụng sản xuất theo đúng quy trình công nghệ cao, khoa

học đã tạo ra được sản phẩm hoa có chất lượng so với giống cũ, tăng hiệu quả kinh tế,

nâng cao thu nhập cho nông dân; đồng thời từng bước thay đổi tập quán sản xuất thủ

công tiến tới nền sản xuất hàng hóa, công nghệ cao. Mô hình trồng hoa nhà lưới, công

nghệ cao, quy trình hiện đại với các giống hoa mới nhập nội từ Pháp, Hà Lan, Trung

Quốc… với nhiều chủng loại, màu sắc phong phú đa dạng được đẩy mạnh ứng dụng và

nhân rộng đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất hoa.

3.2.3. h n h ơ ấ inh t n ng nghi

3.2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành

Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn 1996-2005

đã đề ra, cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp cụ thể cũng có sự thay đổi tương ứng với

điều kiện thực tế của địa phương. Trong sản xuất nông nghiệp, diện tích cây ăn quả được

mở rộng, bưởi Diễn, cam Canh trở thành những loại cây đặc sản của huyện. Vùng hoa

Tây Tựu trở thành vùng hoa của thành phố. Lúa đặc sản chiếm 35% diện tích trồng lúa,

đưa giá trị sản xuất nông nghiệp từ 39 triệu đồng/ha đất canh tác vào năm 1995 lên 57

triệu đồng/ha vào năm 2000 [158] và 78 triệu đồng năm 2005 [6, tr.393], đạt giá trị cao

nhất Thành phố. Mặc dù đất nông nghiệp bị thu hẹp, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế

nông nghiệp trong giai đoạn này vẫn tăng bình quân 4,1%/năm [6, tr. 378].

Cơ cấu ngành nông nghiệp trong những năm 1996-2005 đã chuyển dịch theo hướng

giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản. Tỷ trọng

ngành trồng trọt trong giá trị sản xuất nông nghiệp từ 72,3% năm 1995 đã giảm xuống

70,3% năm 2000 và 69,7% vào năm 2005, trong khi tỷ lệ ngành chăn nuôi từ 26,4% năm

2005 tăng lên 27,7% năm 2000 nhưng lại giảm xuống 24% năm 2005, giá trị thủy sản từ

1,1% năm 1995 lên 4,8% năm 2000 và 5,1% năm 2005 [158].

69

Từ năm 2006 đến năm 2013, Từ Liêm chủ trương đưa sản xuất nông nghiệp phát

triển theo hướng đô thị sinh thái, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao hiệu quả

sản xuất, tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích lúa, rau, không

phát triển vật nuôi, giữ vững diện tích hoa, cây cảnh, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ

thuật để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Đây chính là một trong những điểm nổi

bật minh chứng cho quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Từ

Liêm [6, tr.423].

Có thể thấy rõ kết quả cụ thể của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông

nghiệp trong giai đoạn này như sau: Tỷ trọng ngành trồng trọt trong giá trị sản xuất

nông nghiệp thuần túy của huyện còn lớn (82,3% năm 2011), trong khi tỷ lệ ngành chăn

nuôi chỉ chiếm 14,2%, giá trị thủy sản chiếm 2,3% và giá trị dịch vụ nông nghiệp chiếm

tỷ trọng không đáng kể (1,2%) [115, tr.68]. Tuy nhiên, do áp dụng khoa học kỹ thuật

vào sản xuất nên giá trị sản xuất nông nghiệp đạt bình quân 120 triệu đồng trên 1 hecta

đất nông nghiệp, tăng 1,5 lần so với năm 2005 [6, tr. 423]. Giá trị sản xuất nông lâm

thủy sản tăng nhanh, năm 2011 đạt 432 tỷ đồng, năm 2013 lên 480 tỷ đồng, bình quân 3

năm 2011-2013 tăng 6,2%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên ha đất nông nghiệp từ 145

triệu năm 2011 lên 320 triệu đồng 2013 [166]. Trong khi ở huyện Thanh Trì, mặc dù

diện tích đất nông nghiệp của huyện trong 10 năm (2001-2010) giảm 65,61 ha, nhưng

nông nghiệp của huyện vẫn phát triển với tốc độ 0,96%. Giá trị sản xuất trên ha đất nông

nghiệp hàng năm cũng tăng từ 40,7 triệu đồng năm 2000 lên 55 triệu đồng năm 2005,

đến năm 2012 đạt 118,4 triệu đồng [7]. Ở huyện Gia Lâm, giá trị sản xuất trên ha đất

nông nghiệp hàng năm cũng tăng từ 54,3 triệu đồng năm 2005 [8, 342].

Bảng 3.1: Giá trị sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Từ Liêm

Đơn vị tính: triệu đồng, %

Chỉ tiêu

Năm 2000

Năm 2005

Năm 2010

Năm 2011

Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Giá trị

%

Trồng trọt

172.618 71,5

235.560

257.125

82,9

236.000

83

82,3

Chăn nuôi

59.412 24,6

36.900

39.624

12,8

40.733

13

14,2

Thủy sản

9.051

3,7

8.500

11.974

3,8

6.533

3

2,3

Lâm nghiệp

385

-

-

-

-

Dịch vụ

1.970

1.546

0,5

3.277

1

1,2

Tổng cộng

241.466

282.930

100

288.000

100

286.043

100

Giá

trị

57

78

110

145

SXNN/ha

Nguồn: [151, 158]

70

- Ngành trồng trọt: Từ số liệu của bảng 3.1 cho thấy, giá trị sản xuất ngành trồng

trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao, nhưng cơ cấu cây trồng đã có sự chuyển dịch theo hướng

giảm dần diện tích lúa, tăng diện tích hoa, cây ăn quả, rau màu là những cây có giá trị và

hiệu quả kinh tế cao. Các tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất. Nhiều

quy trình công nghệ, giống cây, con mới được huyện ứng dụng rộng rãi có hiệu quả, góp

phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng từ 172,618 t tỷ đồng năm 2000 lên 219,482 tỷ

đồng năm 2005 và 236,000 tỷ đồng năm 2011 [151].

Biểu đồ 3.2: GTSX ngành trồng trọt của huyện Từ Liêm năm 2005 và 2013

Nguồn: [134, 140]

+ Sản xuất lúa: Diện tích trồng lúa giảm nhanh chóng từ 4.973ha năm 2001 còn

2.385ha năm 2006 [151] và chỉ còn 812 ha năm 2013 [166]; phần diện tích trồng lúa của

huyện chủ yếu tập trung ở Tây Mỗ (140 ha), Đại Mỗ (120 ha), Mễ Trì Thượng (50 ha),

Xuân Phương, Thượng Cát, Liên Mạc…; còn những xã như Mỹ Đình, Thụy Phương, Đông

Ngạc, thị trấn Cầu Diễn… hầu như không còn đất để trồng lúa. Trong sản xuất, các giống

lúa mới có năng suất, chất lượng cao được ứng dụng rộng rãi như: DH85, Bắc thơm 7, T2,

T5, góp phần đưa năng suất lúa của huyện từ 80 tạ/ha năm 1995 lên 81,5 tạ/ha năm 2000;

86,5 tạ/ha năm 2005; 82 tạ/ha năm 2007 và gần 93 tạ/ha năm 2012 [151].

+ Trồng rau: Diện tích trồng rau cũng bị giảm từ 1.103 ha năm 1995 xuống còn

980ha năm 2000; năm 2005 tăng lên 1.015ha nhưng năm 2013 giảm xuống còn 646ha

năm [166]. Sản xuất rau được xác định là ngành mũi nhọn của nông nghiệp Thủ đô để

cung cấp thực phẩm tươi sống, cao cấp, an toàn và tạo màu xanh, do đó được Từ Liêm

chú trọng phát triển. Mặc dù quá trình ĐTH ngày càng làm cho phần lớn diện tích trồng

rau truyền thống của Từ Liêm bị thu hẹp dần nhưng do chú trọng phát triển theo mô

71

hình chiều sâu đồng thời áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất rau an toàn vào

việc trồng ngô, rau, cải bắp, súp lơ... cho nên sản xuất rau vẫn tăng lên qua các năm cả

về sản lượng lẫn năng suất (từ 186 tạ/ha năm 1995 lên 195 tạ/ha năm 2005). Giá trị sản

xuất rau tăng từ 15,6% năm 2000 lên 16,9% năm 2005, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của thị trường, nâng cao đời sống nhân dân [157]. Trên địa bàn huyện, chủng loại rau

chủ yếu là rau an toàn, rau gia vị có giá trị kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu của thị

trường. Các xã có khả năng sản xuất và cung cấp nhiều rau xanh là Liên Mạc, Minh

Khai, Thượng Cát…

+ Trồng hoa: Từ đầu những năm 2000, do nhu cầu của thị trường tăng cao nên

diện tích trồng hoa của huyện đã được chú trọng phát triển mạnh, các loại hoa mới

thường xuyên được đưa vào sản xuất. Hoa là cây có giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tổng giá trị ngành trồng trọt. Diện tích trồng hoa chỉ chiếm có 9,5% diện tích

đất canh tác nhưng giá trị sản xuất của nó chiếm tới 40,8% giá trị ngành trồng trọt. Năm

1995, diện tích trồng hoa trên địa bàn huyện là 270ha thì đến năm 2000 tăng lên 994 ha,

năm 2005 đạt 1.500 ha [151] và vào năm 2013 giảm xuống còn 1.182 ha [166]. Diện

tích trồng hoa tập trung chủ yếu ở Tây Tựu (689 ha), Minh Khai (153 ha), Liên Mạc

(142 ha), Đại Mỗ (20ha)...

Tây Tựu là vùng hoa lớn nhất của Từ Liêm, chiếm tới 70% diện tích toàn huyện.

Năm 1994, toàn xã mới chỉ có 18ha trồng hoa thì đến 2005 toàn bộ diện tích đất nông

nghiệp của xã đều để trồng hoa; hoa của Tây Tựu không chỉ cung cấp cho riêng Hà Nội,

mà đã mở rộng thị trường tiêu thụ ra các tỉnh phía Bắc, phía Nam và còn xuất khẩu…

Có tới 95% số hộ dân Tây Tựu tham gia trồng hoa. Trồng hoa tại xã Tây Tựu là hướng

phát triển nông nghiệp lâu dài của Từ Liêm và đã được huyện tập trung đầu tư xây dựng

cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, nước, hệ thống giao thông, thủy lợi…

Bên cạnh đó, huyện Từ Liêm còn mở rộng trồng hoa đào ở xã Đại Mỗ với diện

tích khoảng hơn 20 ha. Đây là loại cây trồng mới du nhập vào huyện Từ Liêm trong thời

gian gần đây. Khi đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, giá trị trồng lúa mang lại không

cao, người dân địa phương đã chuyển đổi sang trồng hoa đào vì trồng loài hoa này có

giá trị kinh tế cao hơn, khoảng 200 triệu đồng/ha [151] …

Việc bố trí vùng sản xuất hoa tập trung thể hiện rõ nét tính chất sinh thái và đô thị

của một nền nông nghiệp đô thị hóa. Trong những năm 2001 đến năm 2010, các huyện

ngoại thành Hà Nội đều được bố trí lại vùng sản xuất hoa tập trung, trong đó đáng chú ý

72

là việc chuyển trọng điểm sản xuất hoa tập trung từ Nhật Tân, Tứ Liên của quận Tây Hồ

(do mất đất) sang huyện Từ Liêm và Đông Anh là những huyện nằm trong vùng trọng

điểm đô thị hóa, cho thấy cơ cấu sản xuất đã chuyển dịch rõ nét theo hướng hình thành

các vùng sinh thái hoa và cây cảnh đan xen trong các khu đô thị tạo nét đẹp cảnh quan

môi trường.

+ Trồng cây ăn quả: Từ Liêm là huyện có tỷ trọng diện tích cây ăn quả lớn (11-

16%), chỉ đứng sau huyện Sóc Sơn (70-75%); Diện tích trồng cây ăn quả từ 270ha năm

1995 đã tăng lên 450ha năm 2000, 515 ha năm 2005 và giảm xuống còn gần 200 ha năm

2013 [166]; giá trị sản xuất tăng từ 11,1% lên 13,5% [151]. Cây ăn quả cũng là một

trong những loại cây trồng chính được huyện chú trọng phát triển. Điều này thể hiện xu

hướng bố trí sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh hợp lý nhằm khai thác tiềm

năng của địa phương để phát triển nông nghiệp sinh thái. Định hướng của huyện là phát

triển các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao như cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm

Xuân Đỉnh… Từ đầu những năm 2000, diện tích trồng một số loại cây ăn quả cao cấp

truyền thống như hồng xiêm Xuân Đỉnh đã nhanh chóng bị thu hẹp và chỉ còn lại cam

Canh, bưởi Diễn, tập trung chủ yếu tại các vùng trồng giống cây đặc sản này ở Minh

Khai (khoảng 80ha), Phú Diễn (khoảng 115,4ha), Xuân Phương [151].

Ở huyện Từ Liêm, mặc dù đã hình thành vùng tập trung trồng cam Canh, bưởi

Diễn, nhưng diện tích đất canh tác lại chủ yếu nằm xen kẽ trong các hộ dân. Cam Canh,

bưởi Diễn không chỉ là giống cây có giá trị về kinh tế (đạt khoảng 120 triệu đồng/ha),

mà còn có giá trị về văn hóa và đa dạng sinh học.

- Ngành chăn nuôi: Từ năm 1996 đến năm 2013, tỷ trọng ngành chăn nuôi của

huyện giảm mạnh, từ 24,6% năm 1995 xuống còn 14,2% năm 2011; chủ yếu chỉ nuôi

tập trung trong các trang trại của hộ gia đình. Xu hướng giảm dần tỷ trọng ngành chăn

nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp phù hợp với quá trình đô thị hóa của huyện. Các sản

phẩm chính của ngành chăn nuôi là lợn hướng nạc, gia cầm. Trên địa bàn huyện đã hình

thành một số những khu tập trung chăn nuôi như khu lò mổ tập trung tại xã Trung Văn để

nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và đảm bảo vệ sinh môi trường.

Diện tích nuôi trồng thủy sản cũng suy giảm nhanh chóng; đến năm 2013 trên địa

bàn huyện chỉ còn khoảng 82,4 ha, nhưng giá trị sản suất của ngành này lại gia tăng.

Huyện Từ Liêm đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất như nuôi

cá rô phi, cá chim trắng… để tăng giá trị sản xuất trên 1 ha diện tích canh tác. Mặc dù

73

sản lượng thủy sản suy giảm nhưng giá trị sản xuất nhìn chung có xu hướng tăng, từ

7.137 triệu đồng năm 2010 lên 8.216 triệu đồng năm 2013 [151]. Khu vực nuôi trồng

thủy sản tập trung ở hồ Tây Mỗ, Đại Mỗ, Trung Văn, Mễ Trì, Xuân Phương… và chủ

yếu là nuôi cá theo phương thức cá thể, đấu thầu nhỏ lẻ.

3.2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng

Bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, do quá trình ĐTH, diện tích đất của Từ

Liêm dành cho phát triển kinh tế nông nghiệp đã trở nên chật hẹp. Hơn nữa, việc thay

đổi địa giới hành chính những năm 1996, 1997 đã ảnh hưởng nhiều đến quy hoạch phát

triển kinh tế, xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng nên huyện đã thông qua

Chương trình 12/CT-HU về “Phát triển nông nghiệp và nông thôn huyện Từ Liêm 1998-

2000”. Triển khai trên thực tiễn, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện trong giai

đoạn này đã hình thành các vùng sản xuất tập trung như: i). Vùng sản xuất cây lương

thực (vùng lúa) tập trung ở 7 xã: Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mễ Trì, Xuân Phương, Thượng Cát,

Liên Mạc, Mỹ Đình; ii). Vùng sản xuất rau và rau sạch; iii). Vùng sản xuất hoa (ở các xã

Tây Tựu, Đông Ngạc, Thụy Phương); iv). Vùng cây ăn quả (tại các xã Minh Khai, Phú

Diễn, Xuân Phương); v). Vùng chăn nuôi.

Bắt đầu từ năm 2001, thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô

Hà Nội đến năm 2010, bố trí không gian tổng thể nông nghiệp ngoại thành theo hướng

đô thị sinh thái, có nghĩa là đan xen, kết hợp giữa các vùng chuyên canh, các khu công

viên cây xanh, hồ nước với các khu dân cư và khu công nghiệp nhằm tạo cảnh quan môi

trường. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương nên huyện Từ

Liêm đã bước đầu bố trí việc quy hoạch nông nghiệp theo hướng đô thị hóa.

Bảng 3.2: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội

Huyện

Vùng hoa

Vùng rau sạch

Vùng cây ăn quả-du lịch

Vùng thủy sản-du lịch

Khu công nghiệp đô thị

Từ Liêm Thanh Trì Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn

3 0 0 5 4

2 3 4 5 2

3 0 5 5 8

0 6 0 0 1

Khu công viên-cây xanh 5 2 0 3 4

8 7 8 7 5

[Nguồn: 185] Theo đó, huyện Từ Liêm cũng có những vùng sản xuất chuyên biệt như: vùng sản

xuất hoa, sản xuất rau và cây ăn quả.

74

- Vùng sản xuất hoa: Trong những năm 2001 đến năm 2010, các huyện ngoại

thành Hà Nội đều được bố trí lại vùng sản xuất hoa tập trung. Đáng chú ý là việc chuyển

trọng điểm sản xuất hoa tập trung từ Nhật Tân, Tứ Liên của quận Tây Hồ (do mất đất)

sang huyện Từ Liêm và Đông Anh là những huyện nằm trong vùng trọng điểm đô thị

hóa, cho thấy rõ cơ cấu sản xuất đã chuyển dịch rõ nét theo hướng hình thành các vùng

sinh thái hoa và cây cảnh đan xen trong các khu đô thị tạo nét đẹp cảnh quan môi

trường. Việc phân bố vùng hoa tập trung chủ yếu ở huyện Từ Liêm, chiếm khoảng 70-

80% trong tổng diện tích hoa tập trung, sau đó là huyện Đông Anh, với tỷ trọng khoảng

20-25% và một diện tích nhỏ ở Sóc Sơn (3%). Vùng hoa Từ Liêm có tốc độ tăng diện

tích bình quân năm là 20%, tập trung ở các xã Tây Tựu, Liên Mạc và Thượng Cát. Nếu

như huyện Từ Liêm được đánh giá là vùng hoa lớn nhất ngoại thành Hà Nội thì xã Tây

Tựu chiếm tới 70% diện tích toàn huyện.

- Vùng sản xuất rau sạch tập trung: Sản xuất rau được xác định là ngành mũi nhọn

của nông nghiệp Thủ đô để cung cấp thực phẩm tươi sống, cao cấp, an toàn và tạo màu

xanh, do đó cũng được chú trọng phát triển trong thời gian qua. Mặc dù đô thị hóa đã

lấy đi phần lớn diện tích trồng rau truyền thống tại các xã của huyện Từ Liêm nói riêng

và một số huyện ngoại thành khác nhưng sản xuất rau của huyện vẫn tăng lên qua các

năm cả về diện tích và sản lượng. Vùng sản xuất rau sạch của huyện Từ Liêm tập trung

tại các xã Minh Khai, Liên Mạc.

- Vùng sản xuất cây ăn quả tập trung: Từ Liêm là huyện có tỷ trọng diện tích cây

ăn quả lớn (11-16%), chỉ đứng sau huyện Sóc Sơn (70-75%). Các vùng trọng điểm thế

mạnh cây ăn quả của Hà Nội là Từ Liêm và Sóc Sơn, trong đó Từ Liêm là vùng truyền

thống, còn Sóc Sơn là vùng có nhiều tiềm năng do đất đai, địa hình có thể phát triển

trang trại cây ăn quả kết hợp du lịch sinh thái. Tuy nhiên, những năm gần đây, do quá

trình đô thị hóa nhanh đã làm thu hẹp nhanh chóng một số loại cây ăn quả cao cấp

truyền thống như hồng xiêm Xuân Đỉnh và chỉ còn lại chủ yếu là cam Canh, bưởi Diễn,

tập trung chủ yếu ở xã Minh Khai, Phú Diễn, Xuân Phương.

Từ năm 2013, khi quy hoạch không gian đất đai đã được điều chỉnh nhằm phục vụ

cho phát triển Từ Liêm trở thành một đô thị hiện đại trong tương lai, thì diện tích đất

nông nghiệp giảm xuống và ổn định ở mức khoảng 1.000 ha. Phần đất này thuộc khu

vực ngoài đô thị, lúc đó các vùng sản xuất chuyên canh đã được hình thành một cách bài

75

bản và đi sâu vào sản xuất sản lượng ổn định, sản xuất nông nghiệp của huyện chỉ còn

lại 3 vùng tập trung chuyên canh:

- Vùng sản xuất hoa, cây cảnh: tập trung ở vùng hoa xã Tây Tựu, Thượng Cát.

- Vùng trồng cây ăn quả, cây lâu năm: tập trung ở xã Minh Khai, Phú Diễn, Xuân

Phương.

- Vùng sản xuất rau an toàn: tại xã Liên Mạc, Minh Khai.

Trong giai đoạn này, tại các huyện ngoại thành khác cũng hình thành các vùng

chuyên canh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và thế mạnh của mình. Tại huyện Gia

Lâm hình thành vùng cây giống ở thị trấn Trâu Quỳ; vùng cây ăn quả: Đa Tốn, Đông

Dư, Đặng Xá; vùng rau sạch: Đặng Xá, Lệ Chi, Văn Đức; vùng chăn nuôi: bò sữa ở Phù

Đổng, Dương Hà; vùng chăn lợn nạc Yên Thường, Văn Đức; thủy sản: Yên Thường, Đa

Tốn, Dương Xá. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng theo định

hướng của huyện, tỷ trọng ngành trồng trọt 35%; chăn nuôi 62,5%; dịch vụ 2,5%. Nhiều

mô hình cây ăn quả cho thu nhập trung bình trên 500 triệu đồng/ha như ổi Đông Dư,

cam canh Kiêu Kỵ, Đa Tốn; có những mô hình cho thu nhập cao từ 700 triệu đến 1 tỷ

đồng/ha như tại các xã Lệ Chi, Đông Dư [140].

Trên địa bàn huyện Thanh Trì cũng hình thành những vùng sản xuất tập trung

như: thủy sản Đại Áng, Tả Thanh Oai, Đông Mỹ; rau an toàn và cây dược liệu tại các xã

vùng bãi: Yên Mỹ, Duyên Hà; lúa chất lượng cao tại xã Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh. Tỷ

trọng ngành nông nghiệp đã giảm đáng kể từ 38,84% năm 2001 xuống 7,86% năm 2012,

trong khi giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tương đối ổn định và tăng nhẹ. Trong nội bộ

ngành nông nghiệp, thủy sản là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với tốc độ tăng

bình quân đạt 9,57% (từ 11,65% năm 2001 lên 25,99% năm 2012), trong khi đó trồng

trọt đang có xu hướng giảm dần với tốc độ 0,83%, chăn nuôi cũng giảm dần với tốc độ

bình quân 0,27% [51].

3.2.3.3. Các mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp

Về kinh tế HTX: Số lượng HTXNN của huyện Từ Liêm tăng từ 32 HTX năm 1997

lên 46 HTX năm 2011. Các HTXNN sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì, ổn định, có

doanh thu. Doanh thu từ các HTX từ 26 tỷ đồng năm 2006 [33, tr.46] lên gần 66 tỷ đồng

năm 2011, tổng lợi nhuận sau thuế là 6 tỷ đồng [2, tr.51]. 100% HTXNN đã chuyển đổi

hoạt động theo Luật hợp tác xã; chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp sang dịch vụ và

kinh doanh là chính. Một số HTX có vốn lớn, có đội ngũ cán bộ khá am hiểu kinh tế thị

76

trường đã mạnh dạn đầu tư sang các lĩnh vực khác như dịch vụ chợ, hoạt động hỗ trợ

vận tải… Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ chủ yếu do các hộ gia đình tự đảm nhiệm. Nội

dung hoạt động của HTX chưa có chuyển biến rõ nét, cơ cấu ngành nghề dịch vụ còn

chưa hợp lý, chủ yếu tập trung vào dịch vụ thủy lợi, bảo vệ thực vật… mà chưa chú ý

đến dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản phẩm.

Về kinh tế hộ: Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ

chế thị trường đã khơi dậy được tiềm năng kinh tế của các hộ nông dân Từ Liêm. Tiềm

năng kinh tế của hộ được phản ánh thông qua việc huy động tổng hợp các nguồn lực: đất

đai, lao động và vốn vào sản xuất. Năm 2011, số vốn huy động được từ các hộ dân ở Từ

Liêm cho các hoạt động kinh tế là gần 90 tỷ đồng [2, tr.51]. Một phần số vốn này được đầu

tư vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vào mô hình kinh tế trang trại.

Tuy nhiên, có nhiều khác biệt giữa các hộ trong từng vùng khác nhau. Vùng 1 chủ

yếu trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả có giá trị cao, chăn nuôi gia cầm tập trung với quy mô

hộ. Vì nằm trong quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, có tốc độ ĐTH nhanh, đất

nông nghiệp không nhiều, sản xuất trong điều kiện khó khăn nhưng người dân chịu khó

nâng cao trình độ sản xuất, huy động các nguồn vốn, tín dụng, tiếp cận công nghệ mới và

mô hình sản xuất tiên tiến nên đưa lại hiệu quả sản xuất khá cao.

Vùng 2 và 3 tuy có nhiều hộ thuần nông hơn vùng 1 nhưng sản xuất chậm áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật, mô hình sản xuất chưa hợp lý nên hiệu quả chưa cao. Ngoài

khu vực nằm trong quy hoạch vùng sản xuất tập trung với những cây trồng chủ lực mang

tính đặc trưng, thì đa phần các hộ dân sản xuất nông nghiệp thuần túy không mấy hiệu

quả, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đô thị hóa.

Về kinh tế trang trại, trong giai đoạn 2001-2005, trên địa bàn huyện có 25 trang

trại, chủ yếu là trang trại trồng cây lâu năm. Tổng vốn đầu tư đạt 11,7 tỷ đồng, vốn bình

quân một trang trại là 469 triệu đồng; Giá trị sản xuất bình quân một trang trại đạt 232

triệu đồng, thu nhập 65 triệu đồng và thu hút 5-6 lao động [33, tr.47]. Đến năm 2013,

huyện Từ Liêm có trên 200 trang trại hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ

nông nghiệp. Vốn bình quân cho mỗi trang trị vẫn ở mức 400-500 triệu đồng, chủ yếu

được huy động trong dân cư, ở phần cốn tự có của các chủ trang trại [151]. Kinh tế trang

trại không những gặp khó khăn về vốn vì chủ yếu là nguồn vốn tự có của các chủ trang trại, quy mô lại quá nhỏ (bình quân 5.542m2/trang trại), hơn nữa trình độ quản lý cũng

còn yếu kém nên đã hạn chế khả năng phát triển của mô hình kinh tế này. Kinh tế trang

77

trại luôn đòi hỏi một lượng vốn đầu tư gấp nhiều lần, đầu tư đồng bộ, theo chiều sâu

nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để đủ sức xuất khẩu ra thị trường trong

và ngoài nước.

3.3. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

3.3. . ng nghi , â ựng

3.3.1.1. Công nghiệp

Như đã trình bày ở chương 2, trong giai đoạn trước năm 1996, ngành công nghiệp

của huyện Từ Liêm nói chung gặp khó khăn về vốn, vật tư, do vậy tốc độ phát triển cả

về số lượng quy mô và trình độ kỹ thuật còn rất hạn chế. Theo biểu đồ 3.2, từ năm 1996

đến năm 2000, ngành công nghiệp của địa phương bắt đầu có bước phát triển mới, giá

trị sản xuất không ngừng tăng lên, từ 195.119 triệu đồng năm 1996 [155] lên 270.136

triệu đồng năm 2000. Sản phẩm chính là chế biến thực phẩm, cao su platics, chất

khoáng phi kim loại, chế biến lâm sản, bao bì caton… [151].

Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao là do

huyện đã tích cực thực hiện cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. Thời gian này toàn huyện

có 381 doanh nghiệp, trong đó có 154 doanh nghiệp được thành lập, nhiều doanh nghiệp

đã đi vào sản xuất ổn định, một số doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị kỹ thuật, nâng cao sản

phẩm, mở rộng thị trường góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển [151]. Đặc

biệt các ngành nghề truyền thống vẫn duy trì ổn định sản xuất và phát triển: chế biến gỗ

tăng 28%, sản xuất sản phẩm từ kim loại tăng 46%, sản xuất sản phẩm từ giấy tăng 58%,

may mặc tăng 66%; một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng rất cao như ngành

in 122%, sản xuất sản phẩm từ giấy 142% [152]. Do đó, trong giai đoạn này, giá trị sản

xuất ngành công nghiệp tăng 213% so với năm 2000 (bình quân tăng 25,7%/năm), vượt

kế hoạch 15,7% [147]. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 531 tỷ đồng năm 2005 [151].

Tiếp đến, trong giai đoạn 2006-2010, tốc độ phát triển công nghiệp của huyện đạt

tốc độ tăng trưởng bình quân là 18,2%/năm, tăng 2,3% so với năm 2005 [6, tr.422]. Giá

trị sản xuất công nghiệp đạt 2.318 tỷ đồng năm 2010 [151], và đạt 3.304 tỷ đồng (theo

giá cố định 2010) vào năm 2013 [166]. Số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp của huyện

ngày càng tăng (từ 1.460 cơ sở năm 2005 lên 1.621 cơ sở vào năm 2010 [23].

78

Biểu đồ 3.3: GTSX ngành công nghiệp huyện Từ Liêm qua các năm

Nguồn: [151, 152]

Những năm 2010-2013, ngành công nghiệp Từ Liêm có xu hướng giảm dần, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng thương mại, dịch vụ - công nghiệp - nông

nghiệp, đảm bảo đúng định hướng của huyện và của toàn thành phố. Điều này đã thể

hiện tính chất cơ cấu kinh tế đô thị rõ rệt, đồng thời phản ánh một cách khách quan về

tác động của đô thị hóa đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội của huyện Từ Liêm.

Mặc dù giá trị sản xuất ngành công nghiệp vẫn tăng nhưng tỷ trọng của ngành

trong cơ cấu kinh tế chung của huyện có xu hướng giảm. Ngoài các doanh nghiệp nằm

trong cụm công nghiệp, trên địa bàn huyện còn có hơn 1.600 cơ sở sản xuất công

nghiệp, trong đó có khoảng 130 doanh nghiệp có doanh thu lớn (trên 15 tỷ đồng/năm).

Các doanh nghiệp lớn tập trung ở các xã Mỹ Đình 1 (27 doanh nghiệp), Mễ Trì (17

doanh nghiệp) và Trung Văn (10 doanh nghiệp) [151]. Các cơ sở sản xuất còn lại chủ

yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đi lên từ hộ gia đình, sản xuất còn thủ công, chưa được

đầu tư về máy móc, thiết bị hiện đại. Các cơ sở sản xuất công nghiệp tập trung chủ yếu

ở các ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại, sản phẩm từ giấy, chế biến gỗ và sản phẩm

từ gỗ, sản phẩm từ cao su, plastic, thiết bị điện, sản xuất trang phục và các ngành nghề

khác. Cụ thể như sau:

79

Biểu đồ 3.4: Các ngành sản xuất công nghiệp của huyện Từ Liêm năm 2013

+Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại, chiếm hơn 40% cơ cấu ngành công

nghiệp, là ngành công nghiệp chủ lực của huyện trong giai đoạn này, với tốc độ tăng

trưởng bình quân qua các năm là 11%, thu hút tới hơn 5.053 lao động [151]. Trong số

các cơ sở đang hoạt động, Công ty CP cơ điện lạnh Thăng Long, Công ty CP thép đỉnh

cao, Công ty TNHH kim loại màu Trường Thành, Công ty TNHH cơ khí Chung Sơn...

là những cơ sở sản xuất nổi bật có doanh thu hàng năm từ 15 tỷ đồng trở lên. Các sản

phẩm chính: bàn, hệ thống bếp, thang máy bằng inox, thép, các sản phẩm bằng sắt thép,

tấm lợp inox...

+ Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy: Đây là ngành mang lại giá trị sản xuất

lớn thứ hai trong ngành công nghiệp với chiếm 16,2% cơ cấu ngành công nghiệp. Ngành có

tốc độ tăng trưởng bình quân 98%/năm, đặc biệt năm 2012, tốc độ tăng trưởng đạt

208.8%/năm; ngành này có 12 cơ sở sản xuất giấy với 1.362 lao động [151].

+Ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tạo ra giá trị sản xuất lớn thứ ba

trong ngành công nghiệp, có tốc độ tăng trung bình vào khoảng 9%, chiếm 15% cơ cấu

giá trị sản xuất ngành công nghiệp, thu hút 735 lao động tham gia sản xuất tại 36 cơ sở

[151]. Những cơ sở kinh doanh có đóng góp lớn cho sự phát triển của ngành: công ty

TNHH đầu tư và phát triển thị trường hóa chất MDI, công ty hóa chất Việt Quang với

sản phẩm chính: hóa chất xử lý bề mặt kim loại, hóa chất công nghiệp (muối kim loại,

thức ăn chăn nuôi) và hóa chất phòng thí nghiệm.

+Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm là ngành có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ

86,9%/năm. Sản xuất chế biến thực phẩm chiếm 5,5% cơ cấu giá trị sản xuất với 268 cơ sở hoạt

động và 981 lao động [151]. Công ty lớn: công ty TNHH công nghệ thực phẩm Vinh Anh với

sản phẩm chính: thịt heo thái lát đóng gói, thịt đóng khay, nem tai, chả nướng chân giò.

80

+Ngành sản xuất thiết bị điện chiếm 5,4% cơ cấu ngành công nghiệp, tốc độ tăng

trưởng đạt 947.5%/năm. Từ năm 2012-2013, tốc độ tăng trưởng duy trì mức 5%/ năm [151].

+Ngành may mặc là ngành thu hút lao động nhiều thứ 3 trong các ngành công

nghiệp với 1.014 lao động tại 126 cơ sở. Ngành hiện đang chiếm 2,5% tỷ trọng ngành

công nghiệp với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 20%/năm [151].

+Ngành sản xuất đồ uống là một ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh của Từ Liêm.

Ngành sản xuất đồ uống chỉ mới bắt đầu phát triển trong các năm 2010-2013 nhưng đã

mang lại hiệu quả kinh tế cao, có đóng góp lớn cho ngân sách huyện, giá trị sản xuất của

ngành sản xuất đồ uống xếp thứ năm trong sản xuất công nghiệp của Từ Liêm. Ngành

đồ uống chiếm 3,5% cơ cấu giá trị sản xuất với 19 cơ sở hoạt động tạo công việc cho

125 lao động [151]. Trong số các cơ sở đang hoạt động sản xuất đồ uống, bia Sài Gòn-

Hà Nội là một thương hiệu mạnh, có quy mô sản xuất lớn, áp dụng dây chuyển sản xuất

hiện đại. Ngoài ra nước khoáng Vital cũng là một sản phẩm nổi bật khác của ngành này.

Tại huyện ngoại thành khác như Thanh Trì, mặc dù không phải là trung tâm phát

triển công nghiệp của thành phố Hà Nội, song trong thời gian này, công nghiệp huyện

Thanh Trì cũng đã phát triển với tốc độ khá cao, góp phần đưa cơ cấu kinh tế của huyện

từ huyện nông nghiệp trở thành huyện công nghiệp. Đến năm 2012, giá trị sản xuất

ngành công nghiệp và xây dựng trên địa bàn huyện đạt 4.143,5 tỷ đồng, trong đó công

nghiệp do Trung ương và Thành phố quản lý chiếm tới 76,1% (do các doanh nghiệp lớn

trên địa bàn chủ yếu do Trung ương và Thành phố quản lý). Về các hoạt động sản xuất

công nghiệp do Huyện quản lý, chủ yếu là các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh với

tổng số 1649 cơ sở, hộ sản xuất, trong đó: 1477 hộ cá thể và 281 doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực công nghiệp [51].

3.3.1.2. Xây dựng

Cũng như ngành công nghiệp, trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000, giá trị

ngành xây dựng của Từ Liêm tăng nhanh theo từng năm, từ 21.333 triệu đồng vào năm

1996 [151] lên 34.444 triệu đồng năm 1999 [151].

Là huyện nằm trong quy hoạch phát triển đô thị, từ năm 1998 đến năm 2000, Từ Liêm

đã tiếp nhận 13 dự án đầu tư xây dựng với diện tích giải phóng mặt bằng gần 100ha, trong đó

có dự án trọng điểm quốc gia để phục vụ Sea Game 22 diễn ra cuối năm 2003 là khu Liên

hợp thể thao Quốc gia Mỹ Đình (64ha), tập trung ở 2 xã Mễ Trì và Mỹ Đình [6, tr.387].

Từ năm 2001 đến năm 2005, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật hạ tầng được

đẩy mạnh hơn trước nên kết quả là một số công trình đã được hoàn thành đưa vào sử

81

dụng như: cụm công nghiệp vừa và nhỏ Minh Khai (giai đoạn 1), công trình trụ sở

Huyện ủy-HĐND-UBND huyện, trường tiểu học Xuân Đỉnh, đường Phú Diễn-Liên

Mạc, chợ đầu mối nông sản Xuân Đỉnh, chợ Mỹ Đình, kênh tưới trạm bơm Liên Mạc,

hệ thống điện Thượng Cát… [151].

Từ năm 2006 đến năm 2010, ngành xây dựng huyện Từ Liêm tiếp tục tiếp nhận

triển khai 521 dự án với diện tích trên 2.000ha, và đã hoàn thành trên 300 dự án, thu hồi

1.000ha đất đai. Trong đó có nhiều dự án trọng điểm như: Trung tâm Hội nghị Quốc gia,

Bảo tàng Hà Nội, Công viên Hòa bình, Khu ngoại giao đoàn, Bộ Quốc phòng, các khu

đô thị mới, một số công trình Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội, các dự án trọng

điểm về giao thông (đường 32, đường vành đai 3, đường 32 đi khu công nghiệp Nam

Thăng Long…). Riêng trong năm 2010, để phục vụ cho việc xây dựng các công trình

trọng điểm Chào mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Từ Liêm đã giải phóng mặt

bằng hơn 1.000ha đất phục vụ cho hơn 300 dự án.

Đến năm 2013, ngành xây dựng Từ Liêm có giá trị sản xuất lớn và tốc độ tăng

trưởng khá nhanh (13%/năm). Ngành này luôn có tỷ trọng lớn hơn ngành công nghiệp.

Xây dựng chiếm 25% trong cơ cấu kinh tế chung của huyện và chiếm hơn 70% trong cơ

cấu ngành Công nghiệp - xây dựng; mang lại giá trị sản xuất là 12.332 tỷ đồng năm

2013 (theo giá cố định 2010) [166]. Trong số 200 doanh nghiệp hàng đầu của huyện, có

khoảng 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng có doanh thu trên 15 tỷ

đồng như Công ty CP đầu tư xây dựng Token Việt Nam, Công ty xây dựng và thương

mại Toàn Hiền, Công ty CP tư vấn kỹ thuật E&R, Công ty CP Tư vấn và Xây dựng Phú

Xuân, Công ty CP đầu tư và xây dựng 703, Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ

Thuận An Building, Công ty CP Thương mại Dịch vụ và Xây dựng Dũng Thành…

3.3.2. i th ng nghi và làng nghề

Từ sau đổi mới, các cơ sở công nghiệp, TTCN, thương nghiệp của huyện Từ Liêm

đã chuyển sang hạch toán kinh doanh. Do đó, ngành TTCN của huyện gặp khó khăn,

các HTX TTCN phải giải thể hàng loạt, hình thức sản xuất theo hộ gia đình nhanh

chóng thích nghi với cơ chế mới.

Trong các năm 1996-1997, sau khi bàn giao một số xã cho Tây Hồ, Thanh Xuân,

Cầu Giấy, nên các làng nghề Từ Liêm có sự xáo trộn; một số bị mai một, một số lại

được phục hồi phát triển, và cũng có những làng nghề mới được xuất hiện. Sự phát triển

của làng nghề theo xu hướng mới đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của huyện, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của người dân.

82

3.3.2.1. Về số lư ng làng nghề và cơ cấu ngành nghề

Trong giai đoạn từ sau đổi mới, Hà Nội đã xây dựng nhiều chương trình, đề án về

“Đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, về

“Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn” và đã phê duyệt “Quy hoạch

phát triển nghề và làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng 2015”…

Các chương trình, đề án này của thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho các làng nghề

Từ Liêm đẩy mạnh phát triển sản xuất. Từ chủ trương chung, Từ Liêm xác định củng cố

và phát triển làng nghề là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của huyện giai đoạn

2000-2005 với mục tiêu: Khôi phục và phát triển làng nghề và xây dựng, quy hoạch khu

công nghiệp làng nghề tập trung. Theo đó, huyện đã rà soát, đánh giá lại tình hình phát

triển làng nghề và phối hợp với các cấp, ngành chức năng của thành phố như Sở Công

nghiệp, Liên minh hợp tác xã để tiến hành xây dựng quy hoạch làng nghề của Từ Liêm.

Thực hiện chương trình 01/CT-HU, huyện đã khuyến khích vận động từng bước hình

thành các hiệp hội nghề trong các làng nghề như Hiệp hội nghề may (Cổ Nhuế), đồng thời

triển khai xây dựng dự án cụm công nghiệp làng nghề Xuân Phương, Cổ Nhuế, Trung Văn.

Theo kết quả khảo sát của Sở Công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2000-2005, Từ Liêm là

huyện có tổng số xã, thị trấn ít nhất trong các huyện ngoại thành Hà Nội (có 16 xã và thị

trấn), nhưng là một trong những huyện có số làng nghề nhiều nhất với 8 làng nghề. Những

xã có làng nghề phát triển mạnh đạt giá trị sản xuất lớn trong tổng giá trị sản xuất công

nghiệp, TTCN của huyện là Xuân Phương (rèn), Cổ Nhuế (may), Tây Mỗ (gò hàn).

Bảng 3.3: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội

Huyện

Gia Lâm Đông Anh Thanh Trì Sóc Sơn Từ Liêm Tổng cộng

Tổng số xã, thị trấn 35 24 25 26 16 126

Tổng số làng nghề 7 3 5 2 8 25

Xã có làng nghề 7 3 5 2 8 25

Xã có cụm ngành nghề 18 20 10 19 13 80

Nguồn: [164]

Số lượng và cơ cấu ngành nghề trên địa bàn huyện được phân chia theo đơn vị

hành chính như sau: chế biến lương thực, thực phẩm ở Mễ Trì, Xuân Đỉnh, Liên Mạc;

ngành cơ khí ở Xuân Phương, Tây Mỗ; ngành tre đan ở Trung Văn, Đại Mỗ; ngành dệt

may ở Cổ Nhuế. Các làng nghề chủ yếu tập trung ở các xã giáp ranh với nội thành Hà

Nội. Cũng trong giai đoạn 2000-2005, một số làng nghề do sản phẩm không đáp ứng

83

được nhu cầu của thị trường đã bị mai một như mây tre đan (Đông Ngạc), đan lưới (Tây

Mỗ), dệt (Đại Mỗ)… Một số làng nghề được khôi phục lại như bún (Mễ Trì), rèn (Xuân

Phương), bánh mứt kẹo (Xuân Đỉnh), may mặc (Cổ Nhuế), gò hàn tôn (Tây Mỗ).

Giá trị sản xuất từ làng nghề của Từ Liêm từ năm 2000 đến 2005 liên tục tăng: từ

70,5 tỷ đồng vào năm 1999 (theo giá cố định năm 1994) đã lên đến 134,5 tỷ đồng vào

năm 2005 [164].

Bảng 3.4: Tổng giá trị sản xuất từ nghề chính tại các làng nghề trên địa bàn Từ Liêm

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Tt Làng nghề 1 Rèn Xuân Phương 2 Gò hàn tôn Tây Mỗ 3 Bún Mễ Trì 4 May Cổ Nhuế 5 Bện dây thừng Trung

1999 7,4 9 1,35 30 15,2

2000 8,3 20 1,65 35 16

2001 9,7 27 1,42 45 16,2

2002 10,3 32 1,4 48 10,0

2003 11,1 40 1,35 48 11,27

2004 12,5 45 1,36 50 11,3

2005 12,5 50 1,5 50 11,5

Văn

6 Bánh mứt kẹo Xuân

3,7

3,7

5,6

5,95

5,81

6,2

6,0

Đỉnh

1 2

1 2

7 Đậu phụ Liên Mạc 8 Đan phên nứa Đại Mỗ

Tổng cộng

1 2,5 70,15

1 2,5 88,15

1 2 107,95

1 2 111,05 120,53 129,36

1,3 2 134,5

Nguồn: [164]

Bước sang giai đoạn 2006-2013, Từ Liêm chỉ còn 7 làng nghề: bún (Phú Đô), cốm

(Mễ Trì), may (Cổ Nhuế), bánh kẹo (Xuân Đỉnh), gò hàn tôn (Tây Mỗ), rèn (Xuân

Phương), bện dây thừng (Trung Văn)… nhưng giá trị sản xuất của các làng nghề Từ

Liêm đạt tới 127,14 tỷ đồng và thu nhập bình quân của làng nghề là 14,6 triệu đồng

[178, tr.103].

Có thể thấy một số làng nghề tiêu biểu ở Từ Liêm:

ún Phú Đô: Làng Phú Đô có nghề làm bún với quy mô 210 hộ sản xuất và 300 hộ

khác phân phối bún. Thu nhập từ sản xuất bún chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của

người dân. Trong số các hộ sản xuất bún có khoảng 70 hộ áp dụng dây chuyền hiện đại,

còn lại vẫn sử dụng công nghệ bán thủ công. Tổng sản lượng bún tiêu thụ đạt 60

tấn/ngày. Làng Phú Đô đã được UBND Thành phố công nhận là Làng nghề truyền

thống năm 2010.

Cốm Mễ Trì: Mễ Trì là làng nghề truyền thống làm cốm lâu đời, đến nay vẫn được

duy trì; hiện có 66 cơ sở sản xuất, trong đó hộ sản xuất nhiều nhất đạt 70 kg/1 ngày; hộ

sản xuất ít đạt 20-30 kg/1 ngày, chất lượng sản phẩm luôn được các hộ chú trọng duy trì,

từng bước nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường.

84

Thu mua, tái chế phế liệu Trung Văn: Trung Văn trước đây nổi tiếng là làng nghề bện

dây thừng nhưng hiện tại các hộ gia đình chuyển sang thu gom, mua phế liệu, tái chế túi

nilon, đồ nhựa. Các nguyên liệu nhựa phế thải được người dân thu mua về và tái chế lại

thành nhựa thô; một phần được tái chế tại chỗ thành các sản phẩm, đồ gia dụng bằng nhựa,

dây buộc hóa học... phần còn lại xuất cho các công ty, xí nghiệp chuyên sản xuất đồ

nhựa. Đời sống nhân dân tại đây có phần được nâng lên nhờ nghề này với doanh thu trung

bình năm của 1 hộ hiện nay là 260 triệu đồng.

Cơ khí Xuân Phương: Xuân Phương trước có nghề rèn truyền thống rất phát triển

nhưng cũng dần bị mai một. Thay thế cho nghề rèn, Xuân Phương phát triển nghề sản

xuất cửa hoa sắt, làm tôn, lan can cầu thang, điêu khắc gỗ theo đơn đặt hàng và phục vụ

hoạt động xây dựng nhà ở dân dụng, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với nghề rèn

truyền thống; Có khoảng 110 hộ kinh doanh cá thể, doanh thu trung bình hàng năm đạt

76 triệu đồng/hộ.

ò hàn Tây Mỗ: Làng nghề truyền thống gò hàn Phú Thứ trước đây nổi tiếng,

chuyên sản xuất các mặt hàng trang kim, đồ tôn với rất nhiều mẫu mã, để bán trên thị

trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quy mô của làng

nghề nhỏ, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư xứng tầm để phát huy tay nghề của những

người thợ giỏi ở Phú Thứ, hoạt động của các cơ sở này đã bị thu hẹp lại, quy mô sản

xuất cầm chừng và giảm dần.

Làng nghề bánh kẹo Xuân Đỉnh: chuyên sản xuất bánh mứt kẹo, có thương hiệu

trên thị trường, cung cấp sản phẩm cho thị trường Hà Nội và các tỉnh thành phố phía

Bắc. Theo thời gian, số hộ tham gia làm nghề giảm do các cơ sở sản xuất với quy mô

nhỏ lẻ không có khả năng cạnh trạnh nên đã dần rút lui để chuyển nghề; Hiện chỉ còn

khoảng 23 cơ sở sản xuất.

Làng nghề may Cổ Nhuế: là làng nghề truyền thống gần trăm năm của Từ Liêm.

Làng nghề may Cổ Nhuế đem lại thu nhập khá và ổn định cuộc sống của người dân địa

phương, có đội ngũ công nhân may tay nghề cao. Tuy nhiên, may Cổ Nhuế hiện chưa

tạo được thương hiệu riêng, chủ yếu là may gia công theo đơn đặt hàng; các sản phẩm

chính là quần áo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Làng nghề hiện có trên 40 chủ

doanh nghiệp, xưởng sản xuất với quy mô từ 20 đến 100 máy may và hàng trăm hộ làm

nghề quy mô nhỏ. Nhiều công ty may đã thành lập ở Cổ Nhuế, điển hình như Công ty

TNHH may Hải Bảo; xưởng may Thủy Dũng; Bích Cường, tạo công ăn việc làm cho

85

hàng nghìn lao động trong trong và ngoài địa bàn. Bên cạnh sản xuất, người dân Cổ

Nhuế còn mở các cửa hàng bán sản phẩm tại chợ Đồng Xuân, chợ Ninh Hiệp và nhiều

chợ lớn, nhỏ ở Hà Nội và các tỉnh lân cận.

3.3.2.2. Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh

Trong thời kỳ bao cấp ở tất cả các làng nghề đều tổ chức sản xuất theo mô hình

hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Từ những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ

XX mô hình hợp tác xã không còn thích hợp nên đã tự giải thể. Làng nghề trở về với mô

hình sản xuất kinh doanh truyền thống là theo hộ gia đình.

Sang giai đoạn 2000-2005, các làng nghề ở Từ Liêm có nhiều hình thức tổ chức sản

xuất khác nhau, nhưng cơ bản hình thức hộ gia đình vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Các hộ

có quy mô lớn thì sẽ phát triển thành công ty hoặc HTX khi có điều kiện. Công ty và HTX

đi đầu trong việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, thu gom tiêu thụ sản phẩm các hộ

gia đình, các hộ gia đình là vệ tinh gia công cho công ty, HTX.

Bảng 3.5: Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh

ở các làng nghề Từ Liêm năm 2005

Làng nghề

Rèn (Xuân Phương) Gò hàn (Tây Mỗ) Bún (Mễ Trì) May (Cổ Nhuế) Dây thừng (Trung Văn) Bánh kẹo (Xuân Đỉnh) Đậu phụ (Liên Mạc) Phên nứa (Đại Mỗ)

Số hộ gia đình 405 230 429 411 278 85 245 1210

Công ty TNHH 2 - - 7 - 1 - -

Công ty tư nhân 0 3 - 2 3 - - 5

HTX cổ phần 1 1 1 1 1 1 0 0

Tổ hợp tác 15 12 30 12 10 8 - 4

Nguồn: [164]

Trong các năm 2006-2013, mô hình sản xuất theo hình thức hộ gia đình vẫn chiếm

ưu thế tuyệt đối, nhưng số làng nghề lúc này không phát triển mạnh như giai đoạn trước;

một số làng nghề như phên nứa (Đại Mỗ), đậu phụ (Liên Mạc) bị mai một dần; một số

làng chuyển sang nghề khác như dây thừng (Trung Văn) chuyển sang thu mua phế liệu;

một số làng nghề giảm mạnh về số hộ kinh doanh như: Làng rèn (Xuân Phương) từ 405

hộ gia đình năm 2005 giảm xuống còn 110 hộ năm 2013, Bún (Mễ Trì) từ 429 hộ còn

210 hộ; May (Cổ Nhuế) từ 411 hộ năm 2005 còn 40 hộ năm 2013, Bánh kẹo (Xuân

Đỉnh) từ 85 hộ năm 2005 còn 23 cơ sở năm 2013 [151].

3.3.2.3. Các nguồn lực phát triển làng nghề

86

- Về kỹ thuật và công nghệ, các hộ gia đình, cơ sở sản xuất đã tiến hành đổi mới kỹ

thuật theo hướng kết hợp yếu tố truyền thống và công nghệ hiện đại. Làng nghề đã sử

dụng điện, máy móc vào sản xuất. Như nghề rèn Xuân Phương, trước đây mọi công

đoạn trong quy trình sản xuất đều được tiến hành bằng lao động thủ công (chặt, đập,

dập, tạo ren…) nay được thay thế bằng máy móc (búa máy, máy mài, hàn, tán…). Làng

Xuân Phương đã đầu tư 200 máy đột dập, 150 máy tán, 300 máy mài. Hay làng bún Mễ

Trì trước đây các khâu sản xuất (xay gạo, đánh quả, nhào bột…) đều thực hiện bằng lao

động thủ công nay được thay thế bằng máy có động cơ điện. Làng có trên 400 máy xay,

450 máy quấy bột, 450 máy ép sợi bún [122, tr.55]. Bên cạnh đó, một số làng nghề vẫn

còn sản xuất thủ công, chưa sử dụng máy móc, chưa mạnh dạn đổi mới công nghệ như

làng làm đậu phụ Liên Lạc, làng đan phên nứa Đại Mỗ.

- Về thị trường tiêu thụ và nguyên vật liệu sản xuất: Do sản xuất của làng nghề

Từ Liêm đã chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa, cho nên sản phẩm của làng nghề

được bán tự do trên thị trường; chủ yếu ở trong nước, trong đó phần lớn được tiêu thụ

ngay tại Hà Nội, chiếm tới 62% trong tổng doanh thu như bún (Mễ Trì), đậu phụ (Liên

Mạc), rèn (Xuân Phương), bánh kẹo (Xuân Đỉnh). Tỷ lệ các sản phẩm làng nghề Từ

Liêm được tiêu thụ tại các địa phương khác trong cả nước chiếm 29,3%, xuất khẩu

chiếm 8,7%. Huyện Từ Liêm có hai làng nghề có sản phẩm xuất khẩu là gò hàn tôn

(Tây Mỗ) và may mặc (Cổ Nhuế). Đặc biệt, sản phẩm của gò hàn tôn (Tây Mỗ) được

xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia… đạt giá trị kim ngạch xuất

khẩu đạt 25 - 30 tỷ đồng/mỗi năm, chiếm 60% tổng giá trị doanh thu của làng nghề

này [122, tr.58-59].

Bên cạnh, đa số các loại nguyên vật liệu trong sản xuất của các làng nghề ở Từ Liêm

đều là các nguyên vật liệu trong nước nên khá ổn định; đây là điều kiện thuận lợi để phát

triển. Như nguồn nguyên liệu của làng may Cổ Nhuế được mua ở chợ Đồng Xuân; nguồn

nguyên liệu của làng rèn (Xuân Phương) gồm các díp ô tô phế thải, sắt sẵn có… Các làng

nghề mà nguồn nguyên liệu mang tính thời vụ như bánh kẹo Xuân Đỉnh, phên nữa (Đại

Mỗ) thì khó hơn nhưng cũng là những loại dễ mua, giá rẻ và có thể dự trữ được.

- Vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Để đẩy mạnh phát triển làng nghề, Từ

Liêm luôn có nhu cầu về vốn rất lớn. Theo số liệu thống kê của huyện, vốn đầu tư cho

tài sản cố định của làng nghề Từ Liêm chỉ chiếm 34% trong tổng số vốn, còn vốn lưu

động chiếm 66%. Các hộ sản xuất kinh doanh mới tự đảm bảo được 60-80% vốn cho chi

87

phí đầu vào của quá trình sản xuất. Số vốn thiếu còn lại chủ yếu phải vay từ họ hàng,

bạn bè, người thân. Một số ngành nghề còn thiếu vốn là những ngành phải đầu tư nhiều

để mua máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu như rèn, hàn tôn, may, bánh mứt kẹo… Để hỗ

trợ cho nhân dân sản xuất, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tích cực

cho vay vốn tới tận hộ, tuy nhiên nguồn vốn hàng năm vay từ ngân hàng vẫn chưa cao,

thủ tục rườm rà. Vốn vay ưu đãi từ các quỹ xóa đói giảm nghèo, Hội liên hiệp phụ nữ

còn ít về số lượng và thời hạn cho vay ngắn. Do đó, việc đầu tư cải tiến máy móc, thiết

bị, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm làng nghề Từ

Liêm còn nhiều khó khăn.

Đối với các huyện ngoại thành ven đô khác, Thanh Trì có nhiều tiềm năng để

phát triển các ngành nghề truyền thống như: dệt Triều Khúc, mây tre đan Vạn Phúc,

làng miến Hữu Hòa… Xã Tân Triều hiện có 42 công ty và hợp tác xã, trên 400 hộ sản

xuất tiểu thủ công nghiệp với trên 1.000 lao động. Các sản phẩm chủ yếu là dệt khăn,

dây giày, khóa nhựa kéo, hàng thổ cẩm, chỉ khâu, tua cờ, hàng tơ tằm, guốc dép với tổng

doanh số hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng [51].

Huyện Gia Lâm có nhiều làng nghề phát triển. Huyện đã thành lập các hội nghề

nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường như Hội

may da Kiêu Kỵ (2006), Hội dát vàng bạc quỳ Kiêu Kỵ (2008). Đến năm 2010 đã có 5

làng nghề được công nhận là “làng nghề truyền thống Hà Nội” (làng nghề gốm Bát

Tràng, làng nghề gốm sứ Giang Cao, làng nghề gốm sứ Kim Lan, làng nghề may da, dát

quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ, làng nghề thuốc nam Ninh Giang, Ninh Hiệp) [8, tr.361].

3.4. Thương mại - dịch vụ

3.4.1. iá trị ngành thương mại - dịch vụ

Từ năm 1986, thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh hơn, phạm vi trải

rộng từ các chợ đến các quầy bán lẻ. Khu vực thương nghiệp quốc doanh vẫn phát triển,

nhưng có xu hướng chậm lại. Đến những năm 1990, trước áp lực của cơ chế thị trường,

thương mại-dịch vụ thuộc thành phần quốc doanh giảm dần và đã được điều chỉnh lại cơ

cấu để hoạt động có hiệu quả hơn.

Từ năm 1996 ngành thương mại-dịch vụ của Từ Liêm bắt đầu phát triển nhanh và

đa dạng. Trong giai đoạn 1996-2000, các thành phần kinh tế doanh nghiệp quốc doanh,

ngoài quốc doanh và tập thể của huyện đã từng bước được củng cố, sắp xếp lại sản xuất

kinh doanh. Năm 1996, giá trị thương nghiệp - dịch vụ - du lịch trên địa bàn đạt 577.146

88

triệu đồng. Hoạt động thương mại - dịch vụ sôi động đáp ứng nhu cầu đời sống của một

huyện đang đô thị hóa với tốc độ tăng trưởng 19,5%. Trong giai đoạn này, tổng kim

ngạch nhập khẩu trên địa bàn là 5.674.000 USD, đạt 141,9% kế hoạch nhưng giá trị xuất

khẩu chỉ có 14.000 USD, là do thị trường bị thu hẹp lại [6, tr.364]. Năm 1998, huyện có

7 doanh nghiệp quốc doanh với tổng số vốn gần 100 tỷ đồng. Thành phần kinh tế ngoài

quốc doanh từng bước phát triển với tốc độ nhanh. Năm 1998, trên địa bàn huyện có 21

tổ HTX, 18 công ty trách nhiệm hữu hạn, 6.019 hộ kinh doanh; những thành phần kinh

tế này đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện phát triển theo hướng đa dạng

hóa ngành nghề, giải quyết một phần lớn nhu cầu lao động tại địa phương. Tỷ trọng

ngành thương mại-dịch vụ trong tổng giá trị sản xuất của huyện tăng từ 26% năm 1995

lên 26,9% năm 2000 [6, tr.377-378].

Trong giai đoạn 2001-2005, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, hệ thống

thương nghiệp - dịch vụ nhiều thành phần trên địa bàn huyện đã dần hình thành. Từ

Liêm đã củng cố các doanh nghiệp quốc doanh, tập thể, tạo điều kiện cho doanh nghiệp

ngoài quốc doanh phát triển; mở rộng mạng lưới cung cấp vật tư, hàng tiêu dùng, tăng

thêm điểm mua bán hàng hóa và các điểm dịch vụ - thương nghiệp khu vực nông thôn.

Hệ thống thương mại có chất lượng cao có xu hướng phát triển nhanh, hình thành các

trung tâm thương mại lớn như chợ đầu mối, siêu thị, mạng lưới chợ được sắp xếp lại…,

thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư vào kinh doanh, góp phần thúc đẩy lưu

chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân. Doanh số

thương mại dịch vụ năm 2004 đạt 1.655.300 triệu đồng, tăng 209% so với năm 2000

(tăng bình quân 22,5%/năm). Giá trị sản xuất thương mại dịch vụ đạt 404.654 triệu

đồng, tăng 121,2% so với năm 2000 (tăng bình quân 21,9%/năm) [152].

Nhằm đẩy mạnh kinh tế thương mại - dịch vụ, Từ Liêm chủ động đầu tư xây dựng

một số chợ như: chợ đầu mối Xuân Đỉnh, Cầu Diễn, Mỹ Đình, chợ hoa Tây Tựu, chợ

vật liệu xây dựng Đại Mỗ; lập kế hoạch xây dựng một số chợ đầu mối: chợ lâm sản

Thượng Cát, chợ đầu mối Tây Mỗ… Năm 2004, huyện có 12 chợ, trong đó có 2 chợ đầu mối - chuyên doanh, 2 chợ loại II, 8 chợ loại III với tổng diện tích là 65.393km2.

Sang giai đoạn 2006-2013, tốc độ tăng trung bình ngành dịch vụ trên địa bàn Từ

Liêm là 18-20%. Năm 2012, giá trị ngành thương mại dịch vụ chiếm 39,6% trong cơ

cấu kinh tế của huyện. Giá trị sản xuất ngành thương mại-dịch vụ từ 15.664 tỷ đồng năm

2012 tăng lên 16.213 tỷ đồng năm 2013 (giá cố định năm 2010) [166]. Số cơ sở kinh

89

doanh thương nghiệp, dịch vụ tăng từ 5.578 cơ sở, 9.850 lao động năm 2005 lên 7.204

cơ sở, 11.004 lao động năm 2010. Những kết quả đó đã góp phần nâng cao ngân sách

của huyện từ 183 tỷ đồng năm 2005 lên 1.906 tỷ đồng năm 2010 [184] và 2.528,3 tỷ

đồng năm 2013 [166] và là một trong số ít huyện ngoại thành Hà Nội có mức ngân sách

tăng nhiều như vậy.

Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán buôn, bán lẻ năm 2010 trên địa bàn huyện đạt

23.090 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp tư nhân có số doanh thu là 22.441 tỷ đồng,

chiếm 97% [154]. Các hộ kinh doanh cá thể, bán lẻ hoạt động buôn bán tương đối đa

dạng với nhiều mặt hàng dưới nhiều hình thức khác nhau. So với bán buôn, những hộ

bán lẻ có mức doanh thu thấp hơn và mức lợi nhuận không cao; đa số tập trung vào lĩnh

vực bán lẻ hàng lương thực thực phẩm, đồ uống, các loại tạp phẩm phục vụ nhu cầu đời

sống hàng ngày.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2008 của huyện đạt 302.978 nghìn USD,

tăng 196.090 nghìn USD so với năm 2007. Trong đó kim ngạch xuất khẩu 23.985 nghìn

USD, tăng 7.083 nghìn USD so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu 278.993 nghìn

USD, tăng 189.052 nghìn so với năm 2007. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ

công mỹ nghệ (81,5%), hàng dệt may (9,2%) và sản phẩm chế biến thực phẩm nông sản

(3,3%) [154]. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là các loại hóa chất, nguyên liệu vải các

loại giấy, men bia và một số sản phẩm trung gian khác. Hầu hết các hoạt động xuất nhập

khẩu tại huyện đều thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Từ năm 2006 đến năm 2010, huyện đã đầu tư 24 tỷ đồng để xây dựng, cải tạo

mạng lưới chợ, đầu tư và đưa vào sư dụng chợ đầu mối Minh Khai và đang thi công các

chợ: Thụy Phương, Phúc Lý, Phú Diễn. Đến năm 2013, huyện đã có hơn 20 chợ đang

hoạt động, góp phần tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, phát triển

thương mại dịch vụ. Công tác chuyển đổi chợ sang mô hình doanh nghiệp, HTX quản lý

được Từ Liêm tích cực triển khai, đã chuyển đổi được 8 chợ loại 3 cho HTX quản lý

khai thác, hoàn thành đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện 4 dự án chợ: chợ lâm sản

Thượng Cát, chợ Cầu Diễn, Nhổn, chợ Sắng - Đại Mỗ cho doanh nghiệp quản lý. Trên

địa bàn huyện có 4 siêu thị lớn: Metro, City Max, điện máy HC, Tây Đô và 01 trung tâm

thương mại (The Garden). Toàn huyện có 1.064 doanh nghiệp, trong đó có 40 doanh

nghiệp nhà nước, 1.004 doanh nghiệp ngoài nhà nước, 39 hợp tác xã dịch vụ và gần

8.000 hộ kinh doanh cá thể [47].

90

Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu về ngành thương mại, dịch vụ,

du lịch huyện Từ Liêm năm 2010

Lĩnh vực

Số cơ sở kinh doanh (Doanh nghiệp) 1.839 1.169 1.112 54

Số lao động (người) 19.945 12.584 11.219 1.365

Doanh thu (triệu đồng) 24.789.170 22.441.000 20.196.900 2.244.100

I. Kinh tế tư nhân 1. Thương mại - Bán buôn - Bán lẻ

70 11 59 18 586 10.529 6.798 826 5.952 1.921 65 1.856 - 1.810

1.310 84 1.226 88 5.963 15.701 8.141 2.162 5.979 4.408 106 4.302 - 3.152

90.100 7.208 82.892 - 2.258.070 930.100 651.070 110.628 540.388 229.735 4.595 225.140 - 49.295

2. Khách sạn, nhà hàng - Khách sạn -Nhà hàng 3. Du lịch 4. Dịch vụ II. Kinh tế cá thể 1. Thương mại - Bán buôn - Bán lẻ 2. Khách sạn, nhà hàng - Khách sạn - Nhà hàng 3. Du lịch 4. Dịch vụ

Nguồn: [151]

3.4.2. Một số ngành thương mại - dịch vụ

Lĩnh vực thương mại - dịch vụ của Từ Liêm đang phát triển mạnh dựa trên xu

hướng phát triển đô thị hiện đại, có tiềm năng và đang hình thành một số ngành dịch vụ

chất lượng cao như: dịch vụ bưu chính viễn thông, trung tâm thương mại, khách sạn nhà

hàng, thể thao giải trí, bất động sản, mặt hàng gia dụng, vật liệu xây dựng, vận tải, văn

phòng cho thuê, dịch vụ lưu trú…

Dịch vụ bưu chính viễn thông, thông tin là ngành dịch vụ đóng góp lớn trong cơ

cấu ngành thương mại dịch vụ của huyện, tập trung chủ yếu ở khu vực Mỹ Đình, Mễ

Trì. Đây chính là nguyên nhân giúp ngành thương mại dịch vụ Từ Liêm năm 2013 đạt

mức tăng trưởng cao.

Dịch vụ khách sạn, nhà hàng, ăn uống: Năm 2010 huyện Từ Liêm có 70 doanh

nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng, trong đó khách sạn - 11 và nhà hàng - 59 và 17

doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, lực lượng hộ cá

thể tham gia đông đảo hơn, năm 2010 có 1.921 hộ tham gia kinh doanh dịch vụ ăn uống

và đóng góp tới 95% vào doanh thu hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng [154].

Quy mô đầu tư và sử dụng lao động của các cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà hàng còn

91

nhỏ, sử dụng ít lao động (bình quân 143 lao động đối với doanh nghiệp và 1,6 lao động

đối với hộ cá thể). Mức đầu tư trung bình mỗi hộ kinh doanh dịch vụ này cũng thấp. Theo

số liệu điều tra một số nhà nghỉ, khách sạn và nhà cho thuê, mức vốn cố định đầu tư bình

quân cũng chỉ khoảng 300 triệu đồng, mức doanh thu phổ biến từ 50-70 triệu đồng và thu

hút lao động bình quân từ 3-5 người/mỗi nhà hàng [154].

Ngành dịch vụ lưu trú, văn phòng cho thuê: Huyện còn có nhiều tổ hợp văn phòng đã

đi vào hoạt động như Keangnam Hanoi Landmark Tower (4 doanh nghiệp doanh thu trên

15 tỷ đồng), Handico Tower, Viglacera Tower (6 doanh nghiệp doanh thu trên 15 tỷ đồng),

Sudico, The Mannor (4 doanh nghiệp doanh thu trên 15 tỷ đồng), FLC Landmark Tower (5

doanh nghiệp có doanh thu trên 15 tỷ đồng) là điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ dịch

vụ cho thuê văn phòng cao cấp. Nhiều công trình quan trọng của Thành phố và Trung ương

như: Bảo tàng Hà Nội, Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Khu Liên hợp thể thao quốc gia Mỹ

Đình… là điều kiện để phát triển dịch vụ tổ chức sự kiện và tham quan du lịch.

Với các khu đô thị đã phát triển ổn định như Mỹ Đình 1, 2, Mễ Trì, Cầu Diễn,

hàng loạt tòa nhà hiện đại được xây dựng, tạo ra nguồn cung khá lớn cho hoạt động của

dịch vụ cho thuê văn phòng, lưu trú, đặc biệt là khách nước ngoài. Theo thống kê trên

địa bàn có khoảng 5.000 người nước ngoài lưu trú, đây là số lượng khá lớn mà các

huyện ven đô khác không có được.

Tại một số xã như Cổ Nhuế, Phúc Diễn, Phú Diễn, Xuân Đỉnh, Đông Ngạc, Minh

Khai, Xuân Phương, Phương Canh, Đại Mỗ, Tây Mỗ phát triển mạnh dịch vụ cho thuê

nhà, phòng trọ, với loại hình nhà trọ bình dân cho người lao động và học sinh, sinh viên.

Năm 2013, huyện Từ Liêm có khoảng trên 2.000 hộ gia đình kinh doanh xây nhà trọ cho

thuê. So với năm 2000 thì số lượng nhà trọ trên địa bàn huyện năm 2013 tăng lên nhanh

chóng. Bình quân hộ gia đình ít thì 2 đến 5 phòng trọ; nhà nhiều thì 15-20 phòng cho

thuê. Giá phòng trọ dao động từ 800 đến 1.500.000 đ/phòng. Trung bình tiền thu nhập từ

cho thuê phòng trọ của các hộ gia đình từ 1.500.000đ đến 40.000.000đ/tháng [133, tr.

140]. Kèm theo dịch vụ cho thuê nhà là dịch vụ bán các mặt hàng như ăn uống, tạp

hóa… cũng góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho cư dân.

Ngành bán buôn bán lẻ là ngành có tăng trưởng ổn định 18%/năm. Trên địa bàn

huyện có 09 siêu thị ở Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Mỹ Đình, Mễ Trì; nhiều trung tâm thương

mại đã đi vào hoạt động; Đã có hơn 20 chợ đang hoạt động, góp phần tạo việc làm và

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, phát triển thương mại dịch vụ.

92

Ngành hoạt động kinh doanh bất động sản là ngành có tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu

thương mại - dịch vụ của huyện, đặc biệt là trong những năm 2000-2013. Do nhu cầu mua

bất động sản ở các khu vực ven đô tăng cao nên tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức

khá cao. Thị trường bất động sản dần phát triển trong thế chậm nhưng chắc chắn, một số

dự án nhà ở trên địa bàn huyện tiếp tục được triển khai, đặc biệt khi cơ sở hạ tầng giao

thông được hoàn thiện, tỷ trọng của ngành sẽ tiếp tục đà tăng trưởng tốt.

So với huyện Thanh Trì, ngành dịch vụ của huyện Từ Liêm chiếm tỷ trọng khá so

với cơ cấu kinh tế. Nếu như năm 2013, tỷ trọng các ngành kinh tế của huyện Từ Liêm

là: công nghiệp: 58,9%, dịch vụ: 39,7%, nông nghiệp: 1,4%, thì ở huyện Thanh Trì, tỷ

trọng ngành dịch vụ tăng từ 15,46% năm 2001 lên chiếm 22,52% năm 2012. Trên địa

bàn huyện có 587 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, 5.516 hộ

kinh doanh cá thể. Xét theo đơn vị hành chính, số hộ kinh doanh dịch vụ tập trung nhiều

nhất ở các xã ven đô và trung tâm huyện như: Tân Triều, Tam Hiệp, Tả Thanh Oai,

Thanh Liệt và thị trấn Văn Điển. Ngược lại, các xã xa trung tâm, các xã ngoài đê như:

Liên Ninh, Vạn Phúc, Duyên Hà, Yên Mỹ… có số hộ tham gia hoạt động dịch vụ ít hơn.

Về các loại hình dịch vụ ở Thanh Trì vẫn chủ yếu là dịch vụ thương mại. Tuy nhiên

trong lĩnh vực thương mại, ngoài các doanh nghiệp, các công ty của Trung ương và

Thành phố ra, vẫn chủ yếu là các hộ kinh doanh nhỏ, phân tán và bán lẻ. Dịch vụ ăn

uống chỉ tập trung ở thị trấn Văn Điển, Ngọc Hồi và Tứ Hiệp với những nhà hàng, quán

ăn quy mô không lớn. Các dịch vụ khác như vận tải, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân

hàng, dịch vụ văn hóa, tư vấn… nhìn chung còn nhỏ, mới bước đầu phát triển. Dịch vụ

cho thuê nhà trọ bắt đầu phát triển mạnh do trên địa bàn huyện mới mở thêm một số

doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện, trường Đại học… [51].

Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cùng với phát triển

công nghiệp, TTCN, huyện Gia Lâm cũng chú trọng phát triển hoạt động thương

mại, dịch vụ. Gia Lâm tập trung thực hiện cải tạo, xây dựng hệ thống chợ, siêu thị để

tăng cường năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.

Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 10%, giai đoạn 2006-2010 đạt

11,25% [35, tr.111].

i t h ơng 3:

Quá trình chuyển dịch kinh tế của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 phù

hợp với xu hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị

93

hóa. Quá trình đó diễn ra đồng thời trong tất cả các ngành kinh tế, mà biểu hiện rõ

nét nhất là trong ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ. Các ngành

kinh tế này không chỉ tăng nhanh về giá trị sản xuất mà còn cả về số lượng cơ sở sản

xuất, góp phần vào việc tăng nguồn ngân sách cho địa phương. Bên cạnh đó, nông

nghiệp - ngành kinh tế chủ đạo của huyện trước năm 1996 lại chịu sự tác động mạnh

mẽ và trực tiếp từ quá trình đô thị hóa (do sự thu hẹp nhanh chóng diện tích đất nông

nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất

phi nông nghiệp, mở rộng cơ sở hạ tầng đô thi, xây dựng các khu dân cư đô thị…).

Mặc dù vậy, trong sản xuất nông nghiệp, huyện đã chú trọng việc chuyển dịch cơ cấu

cây trồng, từ loại cây có giá trị thấp sang loại cây trồng có giá trị cao, hình thành các

vùng chuyên canh, tăng cường vốn và áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao giá

trị sản xuất trên một đơn vị diện tích nuôi trồng.

Chuyển dịch kinh tế của Từ Liêm đã dẫn đến sự hình thành và phát triển nền kinh

tế thị trường có định hướng, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng, đa dạng, hiệu quả và

mang tính bền vững. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực tiễn sản xuất và

kinh doanh theo hướng thị trường đã góp phần mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng

suất, sản lượng, giá trị các sản phẩm, đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời quá trình

đó cũng đã góp phần cải biến nhận thức của dân cư trong sản xuất, kinh doanh, trong

việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, trong việc hình thành tâm lý sản xuất

sản xuất hàng hóa mang thương hiệu và có chất lượng cao.

94

Chương 4

CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI CỦA HUYỆN TỪ LIÊM

4. . Về ân s

4.1.1. Quy mô dân số

Khác với giai đoạn trước, từ năm 1996, Từ Liêm là huyện có tỷ suất gia tăng cơ

học cao nhất so với các huyện ngoại thành Hà Nội, năm 2012 là 4,95% [133, tr.76]. Cơ

cấu kinh tế huyện chuyển dịch theo hướng tăng nhanh ngành công nghiệp, thương mại -

dịch vụ và giảm mạnh ngành nông nghiệp nên đã thu hút một lượng lớn cư dân từ nơi

Nguồn: [23]

khác đến sinh sống và làm việc tại Từ Liêm.

Theo biểu đồ 4.1, dân số huyện Từ Liêm tăng từ 177.300 người năm 1996 lên

523.400 người năm 2013, gấp hơn 3 lần so với năm 1996. Kể từ khi thành lập năm 1961

đến trước khi tách thành hai quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm (11/2013), huyện Từ

Liêm đã trải qua 6 lần chia tách địa giới hành chính, mặc dù diện tích tự nhiên ngày

càng bị thu hẹp nhưng không vì thế mà quy mô dân số trong toàn huyện giảm, ngược lại

tăng gấp hơn ba lần, chiếm trên 7% dân số trung bình của toàn thành phố Hà Nội. Tỷ lệ

tăng dân số của huyện Từ Liêm giai đoạn 2005-2013 là 6,8 - 7,3%, trong đó tăng tự

nhiên là 11,3% [133, tr.75].

Cũng giống như huyện Từ Liêm, Gia Lâm và Thanh Trì sau khi điều chỉnh địa giới

hành chính năm 2003, dân số hai huyện này cũng có sự tăng lên đáng kể, tuy nhiên vẫn

khiêm tốn so với huyện Từ Liêm. Cụ thể: Huyện Thanh Trì gồm 16 đơn vị hành chính

(01 thị trấn và 15 xã), dân số từ năm 2004 từ 164.800 người tăng lên 208.200 người năm

2011, chiếm khoảng 3,1% dân số của Thành phố Hà Nội; mật độ dân số trung bình là

95

3.153 người/km2, tốc độ tăng dân số của huyện tăng bình quân 2,90% năm [51]; Trong

khi đó huyện Gia Lâm gồm 22 xã và 1 thị trấn, dân số từ 206.404 người năm 2004 tăng

lên 251.400 năm 2013. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn này là 2,05%/năm [141].

Theo số liệu niêm giám thống kê năm 2013, với dân số 523.400 người, gấp 3,2 lần

so với các huyện ngoại thành khác. Từ Liêm trở thành huyện có quy mô dân số đứng

đầu trong toàn Thành phố Hà Nội, nhưng lại là huyện đứng thứ 18 về diện tích. Điều

này cho thấy sức hấp dẫn của cuộc sống đô thị cùng với với sự gia tăng ngày càng nhiều

của các tòa nhà cao tầng trong những năm gần đây là một trong những nguyên nhân

chính thu hút số lượng dân cư khổng lồ từ các địa phương tìm về làm cho quy mô dân số

của Từ Liêm tăng lên nhanh chóng trong bối cảnh đô thị hóa.

Với tốc độ đô thị hóa nhanh, từ năm 1996 đến năm 2013, Từ Liêm là huyện ngoại

thành có nhiều biến động về quy mô dân số đô thị. Năm 1996, số dân đô thị của huyện

là 10,599 nghìn người và chủ yếu tập trung ở 4 thị trấn Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô,

Nghĩa Tân thì đến năm 2013, dân số đô thị tăng lên 30,6 nghìn người, tăng gần gấp 3

lần. So với các huyện ngoại thành của Hà Nội, từ năm 1996 đến năm 2013, huyện Từ

Liêm là địa bàn có dân số đô thị tăng nhanh thứ hai sau huyện Gia Lâm [133]. Trong khi

đó ở huyện Gia Lâm, cũng trong giai đoạn này, số dân đô thị của huyện tăng từ 29,9

nghìn người lên 35,9 nghìn người; huyện Thanh Trì từ 12,6 nghìn người lên 17,6 nghìn

người; huyện Đông Anh từ 25,4 nghìn người lên 28,5 nghìn người; huyện Sóc Sơn từ

4,0 nghìn người lên 4,7 nghìn người [23]. Dân cư đô thị của huyện Từ Liêm tập trung

chủ yếu ở Thị trấn Cầu Diễn và các xã có tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình, Mễ Trì,

Trung Văn, Cổ Nhuế.

Mức độ gia tăng dân cư có sự khác nhau và không đồng đều giữa các đơn vị hành

chính trên địa bàn huyện. Theo số liệu của Phòng thống kê huyện, xã Mỹ Đình năm

1996 có 8.695 người, đứng thứ 13 trong toàn huyện, thì đến năm 2013 đã tăng lên

52.791 người, vươn lên thứ 2 toàn huyện; xã Cổ Nhuế từ 15.969 người năm 1996 tăng

lên 73.257 người năm 2013; Mễ Trì từ 13.910 người năm 1996 tăng lên 39.770 người

năm 2013; Trung Văn từ 9.457 người năm 1996 tăng lên 28.013 người năm 2013.

Thư ng Cát là đơn vị hành chính có quy mô dân số thấp nhất huyện, chỉ tăng từ 5.709

người năm 1996 lên 9.691 người năm 2013 [104]. Nhiều xã như Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế,

Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn có quy mô dân số lớn đã phải thành lập các tổ dân phố cho

phù hợp với đặc điểm của các khu dân cư mới.

96

Bảng 4.1: Tình hình dân số và mật độ dân cư huyện Từ Liêm (2000-2013)

2000

2005

2010

2013

Tên xã/thị trấn

Diện tích tự nhiên (km2)

Dân số (người)

Dân số (người)

Dân số (người)

Dân số (người)

Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương

75,32 2,13 4,57 5,29 3,95 4,83 3,89 6,29 2,85 3,61 5,55 6,15 2,73 7,06 5,99 4,97 5,46

197.919 10.714 9.542 13.443 10.740 11.519 6.131 6.494 7.335 17.096 18.649 22.680 15.003 14.434 10.110 12.181 10.557

Mật độ (người/k m2) 2.628 5.679 2.068 2.541 2.719 2.383 1.576 1.032 2.574 4736 3.360 3.688 5.496 2.044 1.688 2.451 1.933

268.789 12.095 17.271 19.035 15.050 17.072 7.042 7.521 8.648 20.078 26.054 30.966 19.591 20.296 13.288 14.869 14.155

Mật độ (người/k m2) 3.569 8.086 3.779 3.598 3.810 3.535 1.810 1.196 3.034 5.736 4.694 5.035 7.176 2.875 2.218 2.992 2.592

419.523 17.223 41.820 22.046 35.619 30.977 8.272 8.966 11.272 33.488 37.905 59.815 24.375 30.679 18.672 20.118 26.269

Mật độ (người/km 2) 5.678 13.059 8.955 4.118 8.838 6.157 2.108 1.511 3.876 9.537 6.254 9.632 8.565 3.976 2.962 3.937 4.520

523.411 31.787 52.791 25.524 40.610 34.416 9.691 12.167 12.663 41.931 43.592 73.257 28.013 39.770 21.541 23.767 31.891

Mật độ (người/km 2) 6.922 14.923 14.923 4.816 10.229 7.081 2.491 2.031 4.428 11.615 7.529 11.797 10.077 5.625 3.560 4.772 5.814

Nguồn: [104]

Theo bảng 4.1, mật độ dân cư bình quân của huyện Từ Liêm cũng tăng lên nhanh chóng, từ 2.360 người/km2 năm 1996 tăng lên gần 7.000 người/km2 năm 2013, chỉ đứng sau các quận nội thành Hà Nội (11.950người/km2) [133, tr.70]. Trong đó tập trung nhiều nhất là ở thị trấn Cầu Diễn (14.923 người/km2, gấp hơn 2 lần mật độ trung bình); tiếp đến là Mỹ Đình (11.304 người/km2), Đông Ngạc (11.615/ người/km2), Cổ Nhuế là 11.797 người/km2. Hai đơn vị hành chính có mật độ dân số thấp nhất là Thượng Cát (2.491 người/km2) và Liên Mạc (2.031 người/km2) [104].

Nguyên nhân làm cho quy mô, mật độ dân số Từ Liêm cao hơn gấp 3 lần các

huyện ngoại thành khác của Hà Nội là do tốc độ đô thị hóa nhanh cùng với chính sách

giãn dân của thành phố ra các vùng ven ngoại thành. Ở Từ Liêm, sự gia tăng nhanh của

các tòa nhà cao tầng, khu tái định cư (KĐT Mỹ Đình 1, KĐT Mỹ Đình 2, KĐT Bitexco,

Sông Đà, Keangnam, The Manor…), các dự án phát triển đô thị, khu công nghiệp (KCN

Nam Thăng Long, các cụm công nghiệp vừa và nhỏ…) là nguyên nhân làm cho mật độ

dân cư toàn huyện tăng nhanh.

Bên cạnh đó, số lượng dân cư tạm trú ở huyện Từ Liêm trong những năm này cũng

tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê năm 2013, các hộ dân diện KT3, KT45 sống trên địa bàn Từ Liêm chiếm ¼ dân số. Một số xã như Mỹ Đình, Mễ Trì,

5 Những người không có hộ khẩu Hà Nội, gồm 2 đối tượng chính: 1/ Những người không có hộ khẩu Hà Nội nhưng đã sinh sống khá lâu ở phường; 2/ Và KT4: những người lao động di cư từ nông thôn, cư trú tạm thời trên địa bàn phường. Theo sự phân loại này, nhóm KT3 cư trú ở các xã là những người dân từ các tỉnh khác chuyển về cư trú lâu dài. Tuy nhiên họ không được đăng ký hộ khẩu do chưa có nhà cố định. Những người dân lao động tạm trú chủ yếu là những di dân tạm thời từ nông thôn ra Hà Nội tìm việc.

Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế còn chiếm tỷ lệ cao hơn. Trên địa bàn huyện, có khá nhiều trường

97

đại học, cao đẳng, trung cấp nên lượng sinh viên học tập và sinh sống khá lớn. Năm

2013, có trên 7 vạn sinh viên cư trú trên địa bàn Từ Liêm. Ngoài ra còn một lượng lao

động đến tạm trú theo các công trình, dự án xây dựng giao thông, đô thị cũng thu hút số

lượng lớn dân ngoại tỉnh [133, tr.72].

Ví dụ, xã Mễ Trì là nơi có sự gia tăng đột biến về dân số, thành phần dân cư cũng

ngày càng đa dạng và liên tục biến động. Theo thống kê của UBND xã Mễ Trì, năm

2000 xã quản lý hơn 15.900 nhân khẩu, năm 2005 là 20.290 nhân khẩu và đến tháng

12/2010 là hơn 27.000 nhân khẩu. Mức tăng dân số trong giai đoạn trước đó ở Mễ Trì

chủ yếu là tăng tự nhiên. Chỉ từ khi có Dự án Khu liên hợp Thể thao Quốc gia được đầu

tư xây dựng ở địa phương mới có biến động về tăng tỷ lệ cơ học, một số người từ nơi

khác đến mua đất xây dựng nhà ở dưới dạng nhân khẩu KT2. Đặc biệt trong giai đoạn

2005-2010, theo thống kê của UBND xã Mễ Trì, số nhân khẩu KT3 lên tới trên 2.000

người, chủ yếu là lao động xây dựng từ các tỉnh về thi công các công trình nhà ở tại Mễ

Trì và các làng lân cận [132, tr.51].

4.1.2. Cơ cấu dân số

Trong giai đoạn 2001-2010, dân số của Từ Liêm có tỷ lệ nữ giới tương đối thấp

hơn nam giới. Tính chung trong toàn huyện, tỷ lệ nữ chiếm 48,49% và nam chiếm

51,51% theo số liệu năm 2005, trong khi tỷ lệ nữ ở các huyện nội thành chiếm tỷ lệ trên

50% [33, tr.32]. Năm 2010, dân số nữ ở Từ Liêm chiếm 48,58% và nam chiếm 51,42%;

đến năm 2013, tỷ lệ nữ giới chiếm 48,66% và nam giới là 51,34% [151].

Cơ cấu độ tuổi của cư dân Từ Liêm cũng có sự thay đổi theo xu thế hợp lý nhưng ở

mức độ chậm. Tỷ lệ dân số trẻ (dưới 15 tuổi) tăng từ 23,48% năm 2001 lên 24,60% năm

2010; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động có sự dịch chuyển nhẹ từ 65% (2001) lên

65,93% (2010) [154]. Dân số trong tuổi lao động tăng nhanh tạo nên sức ép cho vấn đề

việc làm, đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.

Trong giai đoạn 2005-2010, dân số thành thị tăng nhanh, dân số nông thôn giảm

dần. Dân cư đô thị Từ Liêm chủ yếu tập trung ở thị trấn Cầu Diễn, các xã Mễ Trì, Mỹ

Đình, Trung Văn, Cổ Nhuế. Dân số trung bình phân theo thành thị/nông thôn qua các năm

như sau: năm 2005 là 16.800/273.000 người, năm 2007 là 18.600/313.300 người, năm

2008 là 20.400/334.800 người, năm 2009 là 26.900/367.800 người và năm 2010 là

27.500/392.000 người [23]. Đây là thời kỳ ở Từ Liêm có nhiều công trình được xây dựng

98

như các khu đô thị mới, khu giãn dân, khu công sở… nên cư dân nông thôn dịch chuyển

vào khu vực thành thị, kết hợp với dân nhập cư từ các nơi khác đến.

4.1.3. Vấn đề di dân

Di dân cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế -

xã hội của huyện. Số người đến Từ Liêm làm ăn, sinh sống không ngừng gia tăng. Như

năm 2000, tổng số người chuyển đi là 938 người, nhưng chuyển đến là 3.363 người,

tăng cơ học 2.425 người; năm 2005, tổng số người chuyển đi là 1.433 người; tổng số

người chuyển đến là 12.544 người, tăng cơ học 11.111 người; đến năm 2012, số người

chuyển đi là 5.825 người; số người chuyển đến là 21.849 người, tăng cơ học là 16.027

người [104].

Theo bảng 4.2 cho thấy, từ năm 2005 đến năm 2012, số người chuyển đến Từ

Liêm lớn hơn rất nhiều so với số người chuyển đi nơi khác, gấp 7, 8 lần. Đặc biệt là từ

năm 2008 đến năm 2012, tỷ lệ người nhập cư về Từ Liêm tăng nhanh, trung bình

khoảng 25.000 - 30.000 người/năm, tập trung chủ yếu ở một số xã như Mễ Trì, Mỹ

Đình, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Xuân Phương, Cổ Nhuế...

Bảng 4.2: Tình hình di dân huyện Từ Liêm (2000-2012)

Tên xã, thị trấn

Chuyển đi 938

2000 Chuyển đến 3363

Chênh lệch 2425

Biến động cơ học 2005 Chuyển đến 12544

Chênh lệch 11111

Chuyển đi 1433

Chuyển đi 2185

2010 Chuyển đến 17731

Chênh lệch 15546

Chuyển đi 5852

2012 Chuyển đến 21849

Chênh lệch 16027

152 33 46 53 50

543 155 12 116 644

391 122 -34 63 594

226 45 54 66 61

584 910 896 727 998

358 865 842 661 937

542 8 126 128 17

835 3126 489 1332 482

254 2950 388 1191 -53

812 60 177 1705 219

270 52 51 1677 202

581 176 101 141 535

18

78

60

20

140

120

54

596

542

265

252

13

25 41

59 104

34 63

45 38

189 424

144 386

320 366

3942 1476

3622 1110

1685 372

1667 347

18 25

47

124

77

160

205

133

1363

1230

375

215

2114

1909

89

295

206

75

114

222

1115

1040

1332

1218

723

501

142 43

451 182

309 139

197 67

1837 931

1640 864

16 108

500 821

484 713

1258 1096

1021 980

237 116

36 73 56 34

155 113 100 116

119 40 66 82

192 46 75 197

705 559 1115 1837

513 513 1040 1640

37 81 78 30

2251 1761 531 1173

2514 1680 453 1143

5058 216 462 2336

1834 177 360 2217

3224 39 102 119

Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương

Nguồn: [104]

Từ năm 2000 đến năm 2013, số người nhập cư vào Từ Liêm khoảng hơn 204.532 nghìn người, chưa tính tạm trú và số hộ khẩu KT26 và KT3. Việc một lượng lớn dân di

cư từ nhiều nơi đến Từ Liêm làm ăn, sinh sống một mặt tạo điều kiện cho huyện có 6 KT2 là những người cư trú trên địa bàn phường nhưng vẫn có hộ khẩu ở các phường hoặc các quận khác ở Hà Nội.

99

nguồn lao động dồi dào, trẻ, sẵn sàng tham gia các hoạt động kinh tế nhưng mặt khác

tạo ra một áp lực lớn đối với việc giải quyết việc làm cho lao động địa phương, vấn đề

nhà ở, quản lý xã hội, làm nảy sinh các tệ nạn xã hội...

Ngoài bộ phận dân nhập cư từ các tỉnh ngoài, Từ Liêm còn là nơi giãn dân của

nội thành. Với chính sách phát triển đô thị của thành phố, Từ Liêm đã tiếp nhận một

bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra theo kế hoạch dãn dân hoặc dân tự

mua đất ở các quận ngoại thành để xây biệt thự làm nơi ở và thư giãn cuối tuần.

Đô thị hoá không chỉ tác động đến động thái phát triển dân số mà còn làm đa dạng

hoá cơ cấu, thành phần dân cư. Việc gia tăng dân số tự nhiên của cư dân sở tại, sự có mặt

của cư dân nhập cư đã làm thay đổi mật độ và sự phân bố dân cư. Cư dân nhập cư tập

trung tất cả ở các xã trong huyện, nhưng chủ yếu đông nhất ở những xã có nhiều trường

học, công sở, các cơ sở sản xuất, làng nghề… vì những nơi này đường giao thông thuận

lợi cho việc đi lại, buôn bán và tiện lợi cho việc sinh hoạt. Sự phân bố dân cư mang tính

chất đan xen lẫn nhau giữa dân nhập cư và dân sở tại.

Bảng 4.3: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm

Xã/phường

Tỷ lệ người nhập cư so với dân số trong xã, phường (%)

Từ tỉnh ngoài

Trong quận, huyện

Trong thành phố Hà Nội

Tổng số nhập cư trong nước

Thị trấn.Cầu Diễn Đông Ngạc Minh Khai Cổ Nhuế Phú Diễn Xuân Phương Mỹ Đình Mễ Trì Trung Văn

1,72 0,97 1,27 2,52 2,51 7,34 3,28 2,40 0,21

16,76 7,48 8,14 7,29 8,10 4,25 13,50 39,70 15,50

21,05 30,55 44,95 34,55 40,19 40,15 31,29 12,52 28,95

39,52 39,00 54,36 44,36 50,79 51,73 48,07 54,61 44,66

Nguồn: [40]

Số liệu ở bảng 4.3 cho thấy, các phường, xã của Từ Liêm có tỷ lệ người nhập cư

trong 5 năm (2004-2009) chiếm từ 39%-54,61% tổng dân số của mình. Cũng trong thời

kỳ 2004-2009, Từ Liêm là huyện đứng đầu trong 29 đơn vị cấp huyện của Hà Nội về

tổng số người nhập cư, với tổng số người nhập cư là 137.272 người (quy mô lớn gấp 3

lần thời kỳ 1994-1999), với tỷ suất di cư chung là 38,8%. So sánh với các huyện lân cận

như Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn… trong giai đoạn này sẽ thấy sự chênh

lệch lớn về tỷ suất di cư. Cụ thể là: huyện Thanh Trì có tổng số 26.341 người, chiếm

14,7%; huyện Gia Lâm là 17.196 người, chiếm 8,2%; huyện Đông Anh là 43.929 người,

chiếm 14,6%; huyện Sóc Sơn là 9.915 người, chiếm 3,9% [133, tr.80].

100

Hiện tượng di cư của các xã trong huyện Từ Liêm cũng có sự khác nhau. Những

xã có tỷ lệ đô thị hóa cao sẽ thu hút nhiều người đến, còn những xã có tỷ lệ đô thị hóa

thấp thì sẽ có tỷ suất người di cư cao. Năm 2012, các xã có số dân nhập cư lớn là Mễ Trì

(5.058 người), Mỹ Đình (3.126 người), Xuân Phương (2.336), Đông Ngạc (2.114

người). Xã có mức độ thay đổi thấp nhất là Thượng Cát với số người chuyển đến là 265

người, số người chuyển đi là 13 người [40].

Về độ tuổi nhập cư, khoảng 89% dân di cư đến Từ Liêm thuộc độ tuổi 15 - 35,

trong đó đông nhất là ở độ tuổi từ 20 - 25, chiếm 39,5% và độ tuổi 26 - 35 chiếm 35,7%,

độ tuổi từ 15 - 19 chiếm 13,8%, còn lại là trên 36 tuổi. Di dân chủ yếu là người trong độ

tuổi lao động trẻ, khỏe, rất ít người trên 50 tuổi; nam giới có xu hướng di cư nhiều hơn

so với nữ giới. Xét tương quan từng nhóm thì nữ giới chiếm ưu thế hơn ở các nhóm tuổi

trên 30; còn ở các nhóm tuổi dưới 30 thì nam giới chiếm tỷ lệ nhiều hơn [133, tr.88].

Việc gia tăng dân số cơ học đã tạo nên diện mạo đô thị rõ nét cho Từ Liêm. Từ

một huyện thuần nông, đến 2013, dân số của huyện đã tăng gần 3 lần. Nhiều xã như

Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Mỹ Đình, Mễ Trì, Phú Diễn… đã thành lập các tổ dân phố cho

phù hợp với đặc điểm của các khu dân cư mới.

Có thể nói rằng, trong quá trình ĐTH, sự dịch chuyển dân cư của Từ Liêm diễn ra

khá phức tạp, tuy nhiên có thể phân thành 2 dòng cơ bản: (1) ịch cư địa lý từ các

huyện, tỉnh lân cận vào, bao gồm những người có ý định định cư lâu dài tại Hà Nội như

sinh viên mới ra trường, các cán bộ chuyển chỗ làm… Dân nhập cư tạm thời, theo thời

vụ: Lực lượng khá đông sinh viên đang học tập, thợ xây dựng, lao động tự do, trồng

hoa, may mặc, chế biến thực phẩm, người buôn bán trung chuyển hàng hoá từ các vùng

nông nghiệp gần kề; (2) Sự chuyển cư nội thành-ngoại thành. Rõ nét nhất là sự dịch cư

từ vùng trung tâm đến các làng xã đô thị hóa vùng ven. Đây là hệ quả tất yếu của quá

trình thực hiện chính sách giãn dân của thành phố và hạn chế xây dựng nhà cao tầng

trong nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, vùng ven đô

nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các

quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người có khả năng từ các quận trung tâm

cũng tìm đến mua đất trong các làng xã đô thị hoá để xây nhà, nhằm đáp ứng nhu cầu về

nhà ở hay xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn vào các dịp cuối tuần, các ngày tết, lễ. Do

đó, không chỉ có số người trong diện giải tỏa được bố trí nhà ở tại các khu tái định cư

101

mà còn có một số lượng lớn người dân nội thành vì nhiều lý do khác nhau đã đến Từ

Liêm định cư hoặc tạm trú dài hạn.

Những phân tích trên cho thấy rõ nét sự biến đổi về quy mô, mật độ, thành phần

dân cư của huyện Từ Liêm. Đến năm 2013, huyện Từ Liêm đã trở thành huyện có quy

mô dân số đứng đầu cả nước về số dân của một đơn vị hành chính cấp quận, huyện với

thành phần dân cư ngày càng đa dạng và liên tục biến động trong bối cảnh đô thị hóa.

Sự biến động và gia tăng dân số của huyện có sự khác nhau giữa các xã thuần nông cách

xa trung tâm huyện và nội thành Hà Nội, có tốc độ đô thị hóa chậm và nhóm các xã sát

với nội đô nơi có tốc độ đô thị hóa nhanh.

4.2. Về l o ộng, vi làm

4.2.1. Quy mô và số lư ng lao động, việc làm

Như đã trình bày, cùng với quá trình đô thị hóa là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị. Xu hướng này đã khiến cho dân số

cơ học của huyện Từ Liêm hàng năm tăng lên, chủ yếu là dân nhập cư từ các địa phương

khác chuyển đến. Họ làm việc trong các cơ quan hành chính, công ty, xí nghiệp, tham

gia hoạt động thương mại-dịch vụ, sinh viên thuê trọ, công nhân, xây dựng…

Dân số tăng nhanh đã giúp cho Từ Liêm bổ sung được một nguồn lao động dồi dào

tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, các công ty xí nghiệp, các hoạt động thương mại -

dịch vụ… và nguồn lao động đó tăng lên theo từng năm. Năm 2001, Từ Liêm có

111.583 người trong độ tuổi lao động, đến năm 2006 tăng lên 140.594 người [174,

tr.40]. Năm 2013, lực lượng lao động ở Từ Liêm chiếm 52,4%, trong đó số người từ 15

tuổi trở lên chiếm 46,74%, số người chưa có việc làm chiếm tỷ lệ khoảng 5,35% lao

động trong độ tuổi. Tốc độ gia tăng lực lượng lao động của huyện từ năm 2000 đến năm

2010 là 2,8%/năm, một tỷ lệ cao so với tốc độ tăng dân số [133, tr.58]. Trong khi đó, lực

lượng lao động ở huyện huyện Thanh Trì là 42,6%, trong đó độ tuổi từ 35-55 chiếm

51,2%. Nguồn lao động của Thanh Trì hàng năm tăng khoảng 5%/năm. Mặc dù lực

lượng lao động trẻ nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở huỵên đạt 50% [51].

Mặc dù số lượng lao động tăng qua các năm nhưng huyện Từ Liêm đã có nhiều

biện pháp trong công tác giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ

thất nghiệp và ổn định cuộc sống người dân. Theo bảng 4.4, số lao động được hỗ trợ

việc làm hàng năm ở huyện Từ Liêm có xu hướng tăng theo từng năm, năm 2001, số lao

động có việc làm là 3.820 người, đến năm 2013 là 8.700 người.

102

Bảng 4.4: Kết quả tạo việc làm qua các năm của huyện Từ Liêm

Nguồn: [16, 157]

Năm 2001 3.820 Năm 2003 5.865 Năm 2005 6.530 Năm 2006 6.550 Năm 2010 8.500 Năm 2013 8.700 lao động Tổng số được hỗ trợ việc làm

So với một số huyện ngoại thành thì số việc làm mới được tạo ra ở Từ Liêm là

tương đối cao, một mặt do tốc độ đô thị hóa nhanh thu hút được nhiều dự án đầu tư, mặt

khác nhiều doanh nghiệp mới được thành lập thu hút được lao động địa phương vào làm

việc. Do đó, số người có việc làm cũng tăng lên hàng năm. Từ năm 2001 đến năm 2005,

tổng số lao động được tạo việc làm của huyện đạt 26.660 người, bình quân mỗi năm tạo

việc làm mới cho 5.332 lao động [60, tr.32]. Từ năm 2006 đến năm 2010, bình quân

hàng năm giải quyết việc làm cho 7.899 lao động. Trong tổng số 254.000 người trong độ

tuổi lao động, số người có việc làm ổn định là 71,6% [60, tr. 69]. Từ năm 2011 đến năm

2013, huyện đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho 25.963 lao động, bình quân mỗi năm tạo

việc làm mới cho hơn 8.654 lao động [16, tr.45].

Cùng với quá trình phát triển của các khu đô thị mới, sự xuất hiện của các KCN

vừa và nhỏ, các dự án đầu tư xây dựng và các doanh nghiệp… đã tạo ra việc làm cho

hàng ngàn lao động. Năm 2005, tỷ lệ công nhân trong tổng số lao động của toàn huyện

là 18,5%, đến năm 2010 là 30%. Ngoài ra, hàng năm các KCN vừa và nhỏ cũng tuyển

dụng một lượng lớn lao động từ các địa phương khác. Mức thu nhập của công nhân tại

các KCN ở Từ Liêm cũng tăng từ 700 - 900.000 đồng/tháng vào năm 2007 lên 3 - 4

triệu đồng/tháng vào năm 2010 [133, tr.138]. Thu nhập từ việc làm công nhân đã trở

thành nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình lao động ở địa phương.

4.2.2. Cơ cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong các ngành nghề ở

Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 cũng chuyển dịch theo hướng lao động tăng dần

trong các ngành thương mại-dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và giảm dần tỷ trọng lao động

nông nghiệp. Đến năm 2013, tỷ trọng lao động phi nông nghiệp chiếm 90,8% [151].

- Lao động nông nghiệp

Cũng như nhiều huyện ngoại thành Hà Nội, Từ Liêm vẫn giữ truyền thống sản

xuất nông nghiệp trong nhiều năm, vẫn là nơi cung cấp một lượng rau - thực phẩm, hoa

quả lớn cho nội đô, nhưng dưới tác động của quá trình đô thị hóa, nông nghiệp của

103

huyện đứng trước những thách thức lớn. Đó là đất nông nghiệp bị giảm mạnh, tỷ trọng

số hộ gia đình bị mất đất sản xuất cũng như số lao động hoạt động trong khu vực này mất

việc tăng lên, thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp.

Theo thống kê, trong giai đoạn 2000-2011, Từ Liêm đã thu hồi 2.035,86ha đất

nông nghiệp với tổng số hộ có đất bị thu hồi là 18.685 hộ, trong đó số hộ bị thu hồi toàn

bộ diện tích đất nông nghiệp là 7.269 hộ (chiếm 38,9%); số hộ gia đình bị thu hồi một

phần diện tích là 11.416 hộ (chiếm 61,6%) [17, tr.48]. Như thế, một lực lượng lao động

lớn của huyện sẽ buộc phải chuyển đổi nghề, không còn tư liệu sản xuất. Sự biến đổi

này đã tác động trực tiếp đến thực trạng việc làm của các hộ nông dân bị mất đất. Trên

thực tế, số lao động có việc làm sau khi bị thu hồi đất còn thấp, chỉ từ 30 đến 45% trong

tổng số lao động bị thu hồi đất [174, tr.51]. Phần lớn lao động sản xuất nông nghiệp

chuyển sang hoạt động trong các ngành dịch vụ - thương mại, công nghiệp, xây dựng…

theo hướng đa ngành nghề. Theo một nghiên cứu cho thấy, tình hình chuyển đổi nghề

nghiệp đã diễn ra ở hầu hết các hộ nông dân trên địa bàn Từ Liêm (85,7%). Trong giai

đoạn 2000-2013, hầu hết các hộ gia đình ở Từ Liêm đều có lao động chuyển đổi nghề

nghiệp, ít nhất là 1 người chiếm 46,2%; hai người chiếm 24,3% và trên 3 người là 4,8%

[133, tr.130].

Tỷ trọng lao động trong sản xuất nông nghiệp những năm 2001-2006 có giảm

nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, từ 48,56% năm 2001 xuống còn 40,76% vào

năm 2006 [104], nhưng đến năm 2013 thì giảm xuống chỉ còn 9,2% [151].

Việc làm trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi giảm mạnh, từ 39% và 28,9% vào

thời điểm trước khi bị thu hồi đất xuống còn 21,5% và 7,8% vào năm 2013. Ngược lại,

việc làm thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ như kinh doanh buôn bán, cho thuê nhà trọ

tăng lên đáng kể từ 5,0% và 0,7% lên 19,3% và 17,2%. Lực lượng lao động nông nghiệp

làm các công việc trong ngành thủ công nghiệp như làm bún, thợ sản xuất cũng tăng hơn

so với trước khi bị thu hồi đất [16, tr.64].

Có một thực tế là số lao động nông nghiệp bị mất việc làm do mất đất luôn cần có

việc làm để duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Vì vậy đa số lao động bị mất việc phải

tự tìm việc làm cho mình hoặc làm kinh tế hộ gia đình. Số lao động tìm việc làm trong

các doanh nghiệp hoặc đi làm thuê bên ngoài chiếm tỷ lệ không cao. Trước tình hình

này, huyện Từ Liêm đã đầu tư mạng lưới chợ như: chợ Cầu Diễn, chợ đầu mối Minh

Khai, chợ Phú Diễn, chợ Nhổn… để thu hút số lao động mất đất vào làm việc. Huyện

104

còn khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua phát triển các ngành nghề

truyền thống, kinh tế trang trại… cho vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giúp các

hộ đầu tư mở rộng sản xuất.

- Lao động trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Ngành công nghiệp - xây dựng Từ Liêm đã phát triển mạnh từ đầu năm 2000 đến

2010. Công nghiệp của huyện đạt tốc độc tăng trưởng bình quân trong 5 năm (2005-2010)

là 18,2%, vượt 2,2% so với chỉ tiêu năm 2005. Trong những năm 2001-2006, tỷ trọng lao

động trong ngành công nghiệp - xây dựng không ngừng tăng lên, từ 20,09% năm 2001 lên

28,96% năm 2006. Hoạt động công nghiệp, TTCN và các nghề truyền thống ở Từ Liêm chủ

yếu là các hoạt động kinh tế phi kết cấu, các doanh nghiệp (cơ sở) sản xuất ngoài nhà nước;

đã tạo ra được nhiều việc làm mới cho lao động, đặc biệt là các hoạt động của các cơ sở sản

xuất ngoài nhà nước, giá trị sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm.

Các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút lao

động việc làm trong giai đoạn này. Số lao động trong các cơ sở này khá lớn và hàng năm

tạo được số chỗ làm việc mới khá cao. Ví dụ năm 2001 có 339 chỗ làm việc mới; năm

2006 là 1.646 chỗ làm việc mới. Giá trị sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm, từ

152.737 triệu đồng năm 2001 lên 732.816 triệu đồng năm 2006 [174, tr.55].

So với tổng số lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng và số chỗ làm việc

được tạo ra trong ngành này cho thấy vai trò của các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài

nhà nước trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Năm 2002, trong tổng số 2.839

chỗ làm việc mới được tạo ra trong công nghiệp - xây dựng thì có 2.053 chỗ làm việc

được tạo ra ở các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước. Năm 2006, trong tổng số 3.099 chỗ

làm việc mới được tạo ra trong ngành này thì các cơ sở sản xuất ngoài nhà nước đã tạo

ra 1.646 chỗ làm việc.

Sang giai đoạn 2005-2010, số cơ sở sản xuất công nghiệp ngày càng tăng, từ

1.460 cơ sở năm 2005 lên 1.621 cơ sở năm 2010, tăng 161 cơ sở [23]. Bên cạnh đó, Từ

Liêm đã tiếp nhận triển khai 521 dự án và đã hoàn thành trên 300 dự án, trong đó có

nhiều công trình trọng điểm cấp quốc gia, thành phố như: Trung tâm Hội nghị quốc gia,

Bảo tàng Hà Nội, Công viên Hòa bình, Khu ngoại giao đoàn, Bộ Quốc phòng, các khu

đô thị mới, các dự án trọng điểm về giao thông… nên thu hút hàng ngàn lao động thuộc

các ngành cơ khí, xây dựng, may mặc, in…

105

Hoạt động sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước ở Từ Liêm nếu chia theo thành

phần kinh tế thì lao động tập trung chủ yếu là kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp. Hình

thức hoạt động chủ yếu là theo hộ gia đình với phần lớn lao động là người thân, họ

hàng. Do đó nó phát triển khá tự do, có khả năng thu hút nhiều lao động, giải quyết việc

làm tại chỗ của địa phương.

Bảng 4.5: Cơ sở sản xuất, lao động, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước của Từ Liêm phân theo thành phần kinh tế

tập

Phân theo thành phần kinh tế Kinh tế thể

2001 1 15 6 598

2002 2 15 0 857

2003 0 0 0 0

2004 0 16 16 60

2005 2 23 7 0

2006 2 12 -11 69

Kinh tế nhân

Kinh tế thể

4 115 6 3744 2359 6233 9 118912

7 126 11 6849 2680 7691 1458 128088

14 322 196 13180 2486 7292 610 104309

14 168 54 12100 1884 5430 662 154072

14 141 27 12751 1289 4292 758 173594

0 148 7 11635 1335 4366 74 176604

Kinh tế hỗn hợp

16 727 318 50928

30 1311 584 73291

77 2858 854 103487

134 4206 620 218068

154 4744 538 334135

223 6320 1576 544508

Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng) Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng) Cơ sở Lao động Số chỗ làm việc mới Giá trị sản xuất (triệu đồng)

Nguồn: [102]

Bảng 4.5 cho thấy số lao động qua các năm đều tập trung chủ yếu vào thành phần

kinh tế cá thể. Kinh tế tập thể số lượng lao động ít, và thành phần kinh tế này gần như

không có vai trò tạo việc làm hàng năm. Điều này cho thấy việc chú trọng phát triển

kinh tế hộ gia đình, khuyến khích các loại hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp và làm nghề truyền thống là hướng phát triển đúng đắn của huyện và đã có tác

động mạnh mẽ đến việc tạo việc làm cho lao động của huyện Từ Liêm. Ở Từ Liêm, các

hộ sản xuất công nghiệp cá thể chủ yếu tập trung tại một số xã như Mễ Trì, Trung Văn,

Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh… Do thu nhập làm nghề cao hơn thu nhập của lao động thuần

nông từ 2-5 lần nên các xã này thu hút một lượng khá lớn lao động.

- Lao động trong ngành thương mại - dịch vụ

Thương mại - dịch vụ là ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các ngành kinh

tế chủ đạo ở Từ Liêm. Do vậy trong những năm 2001-2006, giá trị sản xuất ngành dịch vụ

- thương mại cũng tăng trưởng từ 29,85% năm 2002 lên 30,28% vào năm 2006. Khi

106

nguồn lao động tăng nhanh, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, chỗ làm việc ngày

càng thiếu, thì những người có tay nghề có thể mở các loại hình dịch vụ kiếm sống; từ đó

các loại hình kinh doanh dịch vụ đã dần hình thành và phát triển.

Bảng 4.6: Tình hình lao động trong khu vực kinh doanh thương nghiệp-dịch vụ

huyện Từ Liêm

Tên xã, thị trấn

Số hộ

2003 Số lao động

Số hộ

2004 Số lao động

Số hộ

Số hộ

2005 Số lao động

2006 Số lao động

Số chỗ làm việc mới

Số chỗ làm việc mới 1240 -107 287 134 95 153 10 -32 -48 -50 -90 242 148 128 70 130 70

5172 525 359 179 271 356 88 56 95 367 517 723 372 447 125 366 326

7847 627 558 316 454 558 153 58 271 496 654 1138 650 772 218 478 446

8420 673 599 339 487 599 164 62 291 532 702 1221 697 828 234 513 479

5578 566 387 193 292 384 95 60 102 396 558 780 401 482 135 395 352

6015 610 417 208 312 414 102 65 110 427 603 841 432 520 145 426 380

9034 722 643 364 522 643 176 67 312 571 753 1310 748 887 252 550 514

614 49 44 25 35 44 12 5 21 39 51 89 51 59 18 37 35

Số chỗ làm việc mới 573 46 41 23 33 41 11 4 20 36 48 83 47 56 16 35 33

Số chỗ làm việc mới 1209 -139 268 120 87 185 -8 -36 -53 -58 -207 231 133 354 87 151 166

Toàn huyện Cầu Diễn Mỹ Đình Tây Tựu Phú Diễn Minh Khai Thượng Cát Liên Mạc Thụy Phương Đông Ngạc Xuân Đỉnh Cổ Nhuế Trung Văn Mễ Trì Tây Mỗ Đại Mỗ Xuân Phương

4336 510 174 145 233 252 94 71 98 350 539 596 391 218 131 327 207

6638 766 290 196 367 373 161 94 324 554 861 907 517 418 163 367 280

Nguồn: [102]

Bảng 4.6 cho thấy loại hình kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ cá thể ở Từ Liêm

có số các hộ tham gia lớn và không ngừng tăng lên: năm 2003 có 4.336 hộ, năm 2005 là

5.578 hộ, đến năm 2006 là 6.015 hộ, tăng 1,4 lần so với năm 2003. Số lao động thu hút

vào khu vực này cũng không ngừng tăng, từ 6.638 lao động năm 2003 lên 9.034 lao

động năm 2006 [174, tr.62]. Số hộ tham gia kinh doanh tập trung chủ yếu ở Thị trấn

Cầu Diễn và một số xã như Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì. Các xã này cũng

là nơi có số lượng lao động lớn và ổn định qua các năm. Ngoài ra, có một số xã do có

tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình thì số chỗ làm việc mới được tạo ra là rất lớn, chủ

yếu là sự gia tăng các hàng quán tự phát. Khu vực này cũng đóng góp đáng kể số chỗ

làm việc mới cho người lao động, đặc biệt là những lao động mất việc làm do bị mất đất.

Ở huyện Từ Liêm giai đoạn này tồn tại nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ khác

nhau, phổ biến nhất là dịch vụ nhà hàng, nhà trọ, dịch vụ bán hàng tạp hóa, sản phẩm

tiêu dùng hàng ngày, lương thực thực phẩm… Đây là loại công việc đơn giản, không

đòi hỏi tay nghề, do vậy đã góp phần giải quyết việc làm cho một số lao động thất 107

nghiệp, thiếu tay nghề, chuyên môn. Một số loại dịch vụ mới xuất hiện như dịch vụ y

tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ văn hóa thể dục thể thao, thẩm mỹ, tư vấn nhà đất, giặt

là… cũng có một vai trò nhất định để giải quyết việc làm. Tuy nhiên, chủ sở hữu

những cơ sở dịch vụ loại này không chỉ người dân trong huyện mà còn có cả người

ngoài đến thuê địa điểm hoạt động. Bên cạnh, để hỗ trợ cho ngành dịch vụ thương mại

phát triển, huyện Từ Liêm đã có nhiều chính sách ưu tiên về vốn và cấp giấy phép cho

nhiều hộ gia đình phát triển dịch vụ và nhiều loại hình kinh doanh, quy hoạch các chợ

để tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động làm ăn sinh sống.

4.2.3. Đào tạo, hỗ tr nguồn lao động

Quá trình đô thị hóa ở Từ Liêm còn góp phần nâng cao chất lượng lao động. Từ

Liêm cũng là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực không chỉ cung cấp cho địa

phương mà còn cho các huyện lân cận. Trước năm 2000, việc đào tạo nghề cho lao

động vẫn chưa được chú trọng nhiều, số lượng cơ sở đào tạo nghề còn ít. Năm 1997,

toàn bộ cơ sở vật chất đào tạo nghề của huyện trước đó bao gồm hệ thống trường sở,

đội ngũ cán bộ đã được chuyển giao cho quận Cầu Giấy. Lúc này, Từ Liêm chỉ còn

một trường bổ túc văn hóa vừa học vừa làm tại xã Xuân Phương với 4 phòng học cấp bốn, với diện tích 3.000m2; ngoài ra một số trung tâm dạy nghề mới bắt đầu hình thành

song chưa ổn định về địa điểm, về hệ thống ngành nghề và nội dung đào tạo [79,

tr.53]. Tuy nhiên, sau năm 2000, đặc biệt là giai đoạn 2005-2010, các cơ sở dạy nghề

của huyện đã có chiều hướng phát triển trở lại nhằm đáp ứng nhu cầu học nghề ngày

càng tăng. Đến năm 2010, huyện đã có 10 cơ sở đào tạo nghề, với nhiều ngành nghề

được đào tạo như: cơ sở đào tạo nghề điện, điện tử, tin học (7 cơ sở), ngành cơ khí (3

cơ sở); ngành lái xe, sửa chữa ô tô, xe máy (3 cơ sở), ngành kế toán, thư ký văn phòng

(2 cơ sở), ngành nấu ăn, phục vụ khách sạn (2 cơ sở), ngành cắt may, thiết kế thời

trang (1 cơ sở) [174, tr.27]… Sự phân bổ số lượng các cơ sở dạy nghề như vậy cho

thấy nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động phát triển theo hướng phục vụ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế; ngành nghề đào tạo lao động ở Từ Liêm được điều chỉnh theo hướng

tăng tỷ trọng các ngành công nghệ cao như tin học, điện tử, điện lạnh; giảm các ngành

khác như thiết kế thời trang.

Bên cạnh đó, quá trình ĐTH nhanh, trên một góc độ nào đó đã tạo ra sức ép đối

với địa phương trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là bộ

phận lao động trẻ. Vấn đề đặt ra cho Từ Liêm là phải tạo ra việc làm cho số lao động

108

nông nghiệp bị mất đất do ĐTH. Do đó, huyện đã có nhiều giải pháp như: Dự án cho

vay vốn tự tạo việc làm theo chủ trương của Chính phủ, Chương trình vay vốn từ Quỹ

quốc gia hỗ trợ việc làm gắn với Chương trình, và nhất là đào tạo nghề.

Từ Liêm đã triển khai Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn

huyện Từ Liêm giai đoạn 2011-2020”, trong đó có vấn đề thực hiện chính sách hỗ trợ

cho đối tượng thuộc diện ưu tiên trên địa bàn khi tham gia học nghề ngắn hạn với 8

nhóm nghề; Kinh phí hỗ trợ 350.000đồng/tháng cho lao động học nghề và

200.000đồng/tháng cho cán bộ thực hiện giải quyết việc làm từ nguồn ngân sách địa

phương. Trên cơ sở đó, đến năm 2013, Từ Liêm đã mở được 53 lớp đào tạo trình độ sơ

cấp nghề 3 tháng. Tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo đạt 70%. Tỷ lệ lao động qua

đào tạo trên địa bàn huyện đạt 56%. Trong 3 năm (2011-2013), số lao động được đào

tạo nghề của huyện là 521.108 người [16, tr.36].

Mặc dù công tác đào tạo nghề của Từ Liêm đã có nhiều bước tiến bộ song vẫn còn

nhiều vấn đề tồn tại. Đó là: nội dung các chương trình đào tạo nghề, việc gắn kết giữa nội

dung đào tạo và yêu cầu thực tế, vấn đề tìm đầu ra cho người đã qua đào tạo; thiếu sự hợp

tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng, hiệu quả trong việc đào tạo đội ngũ lao

động kỹ thuật cao… Những hạn chế này đã mang lại hệ quả là lao động cần việc làm nhưng

khó xin việc vì thiếu tay nghề chuyên môn. Doanh nghiệp cần lao động nhưng không tuyển

dụng được vì lao động thiếu năng lực thực hành. Người học chủ yếu chỉ được học trên lý

thuyết mà ít được tiếp xúc thực tiễn sản xuất và không có sự kèm cặp và truyền đạt kinh

nghiệm của đội ngũ thợ lành nghề bậc cao. Do đó, có đến 32% số lao động trong các doanh

nghiệp ở Từ Liêm không được sử dụng đúng chuyên ngành đào tạo.

Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo lao động chuyển đổi nghề nghiệp, Từ Liêm

cũng rất chú trọng đến đối tượng người nghèo ở địa phương, thông qua giải pháp

hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, coi đây là biện

pháp cơ bản để giảm nghèo bền vững. Trong giai đoạn 2005-2010, huyện đã tổ chức

trên 100 lớp tập huấn kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm và hướng dẫn cách làm ăn cho

gần hàng nghìn lượt hộ nghèo, với tổng kinh phí hàng trăm triệu đồng. Ngoài các hộ

nghèo, các hộ cận nghèo, hộ di dời giải toả gặp khó khăn cũng được huyện chủ

trương cho vay vốn từ nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội để giải

quyết việc làm, phòng chống tái nghèo, chuyển đổi nghề nghiệp. Huyện đã bố trí, sắp

109

xếp cho các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp 100% được chuyển đổi nghề nghiệp, ổn

định cuộc sống, hướng dẫn phương cách sản xuất để thoát nghèo.

Trước tình hình số người thất nghiệp do bị mất đất gia tăng (chỉ riêng Mễ Trì có

khoảng 5.000 lao động và Mỹ Đình khoảng 3.000 lao động), Từ Liêm đã tích cực tìm

nhiều biện pháp nhằm giải quyết việc làm cho các hộ gia đình bị thu hồi đất. Huyện đã

tạo điều kiện hỗ trợ cho, số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất chuyển sang các ngành

nghề phi nông nghiệp thông qua các chương trình, dự án cho vay vốn tự tạo việc làm

theo chủ trương của Chính phủ. Cụ thể là: + Đến hết năm 2004, số doanh nghiệp, cơ

sở sản xuất - kinh doanh đóng trên địa bàn là gần 27.000 đơn vị với số lao động làm

việc trong các doanh nghiệp này là 63.256 người. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, Từ Liêm quy định: cứ 1.000 m2 sẽ tuyển 5 lao động của huyện vào

làm việc. Tuy nhiên, việc triển khai trong thực tế còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện

tốt. + Thực hiện Chương trình vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm gắn với

Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi, trong các năm 2010-2013

huyện đã duyệt cho vay 246 dự án, với 6.597 hộ được vay, với tổng số tiền là 23.124

triệu đồng, giải quyết việc làm cho 9.686 lao động. Các Hội, đoàn thể đã tạo việc làm

cho 2.000 lao động bằng các hoạt động hỗ trợ học nghề, cho vay vốn phát triển sản

xuất không lấy lãi, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi…

4.3. Giáo dục - y tế

4.3.1. iáo dục

Giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ chiến lược nhằm nâng cao nguồn nhân lực cả về

số lượng và chất lượng, phục vụ cho quá trình phát triển của địa phương. Từ năm 1996

đến năm 2013, hệ thống giáo dục của huyện Từ Liêm không ngừng tăng nhanh cả về số

lượng và chất lượng, về cơ sở vật chất, học sinh và thầy cô giáo.

Về cơ sở vật chất: Từ Liêm đã thực hiện đề án xây dựng cơ sở vật chất trường học

với sự đóng góp của nhân dân, đầu tư ngân sách của nhà nước và ngân sách của xã.

Trường mầm non, trường PTCS, PTTH đều được chú ý xây dựng và phát triển, đáp ứng

nhu cầu đến trường của trẻ em. Số trường mẫu giáo tăng từ 16 trường năm 1996 lên 30

trường năm 2005 và 57 trường năm 2013. Số trường tiểu học từ 17 trường năm 1996 lên

53 trường năm 2013; Số trường THCS từ 16 trường năm 1996 lên 27 trường năm 2013;

Số lượng trường THPT từ 4 trường năm 2005 lên 5 trường năm 2010 [104].

110

Từ năm 1996 đến năm 2000, huyện đã xây thêm 228 phòng học kiên cố. Đến

năm 2009, 100% phòng học đã được kiên cố hóa, với 1.108 phòng học, tăng 160

phòng so với năm 2005; không còn phòng học cấp 4 ở khối phổ thông và mầm non.

Một số trường học được trang bị dụng cụ cho phòng thí nghiệm, nhiều trường có

phòng máy vi tính, máy chiếu, thư viện được nâng cấp phục vụ cho công tác giảng dạy

và học tập [6, tr.438-439]. Đến 2013, huyện đã đầu tư cho giáo dục công lập trên 300

tỷ đồng và đã có 32 trường học ở cả ba cấp THCS, Tiểu học và Mầm non đạt chuẩn

quốc gia, tăng 24 trường so với năm 2005 (trong đó, trường THCS Trung Văn - trường

đầu tiên của Thành phố đạt chuẩn mức độ II).

Về chất lượng giáo dục - đào tạo: Huyện rất quan tâm đến vấn đề không ngừng

nâng cao chất lượng dạy và học. Huyện đã tiến hành nhiều hình thức bồi dư ng cho cán

bộ giáo viên về tư tưởng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cho nên đội ngũ giáo viên có

phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức phấn đấu, tỷ lệ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục

đạt chuẩn và trên chuẩn là 100%.

Số lượng học sinh và giáo viên của các khối học không ngừng tăng qua các năm.

Giáo viên mẫu giáo năm 2005 là 189 người lên 511 người năm 2010; học sinh mẫu giáo

tăng từ 4.956 em năm 2005 lên 11.540 em năm 2010. Số lượng học sinh tiểu học và

PTCS từ 23.997 em năm 2005 lên 26.649 em năm 2010; Giáo viên tiểu học và trung học

cơ sở từ 1.194 người năm 2005 lên 1.425 người năm 2010 [133]; Giáo viên cấp PTTH

từ 205 người năm 2005 tăng lên 334 người năm 2010. Học sinh PTTH từ 4.266 em năm

2005 lên 7.201 em năm 2010 [23].

Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên ở cả ba bậc học phổ thông. Tỷ lệ

học sinh tốt nghiệp các cấp tăng theo từng năm: tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học từ

95,3% năm 1994 tăng lên 99,2% năm 2005 và 100% năm 2010; Tỷ lệ tốt nghiệp trung

học cơ sở từ 95,6% năm 1995 tăng lên 99,9% năm 2010; Số học sinh thi đỗ hết cấp phổ

thông trung học từ 95% năm 1993 lên 99% năm 1995 và 98% năm 2010; 100% học sinh

trung học cơ sở được hướng nghiệp và dạy nghề, số tốt nghiệp vào trung học phổ thông

và bổ túc trung học phổ thông đạt 100%; học sinh khá giỏi các cấp học đạt bình quân

71,3%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 97%; Tỷ lệ trẻ được huy động vào

mẫu giáo đạt 83%, 100% trẻ trong độ tuổi được vào lớp 1, đặc biệt huy động được 86%

trẻ em khuyết tật ra học các lớp hòa nhập cộng đồng [6, tr.439].

111

Bảng 4.7: Tình hình giáo dục ở các bậc học của huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013

Năm

1996

2000

2005

2010

2013

Bậc mầm non Trường Giáo viên Học sinh

15 115 2.962

29 238 4.678

30 418 8.668

49 774 14.671

57 1.290 21.820

Bậc tiểu học

Trường Giáo viên Học sinh

17 551 17.018

20 602 15.412

22 691 15.116

25 966 23.984

53 1.255 32.191

Trung học cơ sở

Trường Giáo viên Học sinh

16 584 13.182

16 602 12.147

18 846 13.413

21 910 13.393

27 1.075 15.176

Nguồn: [133, tr. 111]

Ngoài việc tập trung xây dựng cơ sở vật chất cho trường học, quỹ khuyến học, hội

khuyến học của các xã cũng được người dân chú trọng xây dựng; Hội khuyến học của

các xã hoạt động rất tích cực và có hiệu quả, hàng năm trao thưởng cho học sinh giỏi các

cấp và học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng với tổng số tiền từ 15 đến 20

triệu đồng.

Trình độ dân trí của người dân Từ Liêm cũng được nâng lên, tính năng động, sáng

tạo của người lao động được khơi dậy. Khi cuộc sống đã khá giả, thì việc học hành của

con cái trở thành mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ; họ sẵn sàng cho con tiếp

tục học lên trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học chứ không dừng vào lúc học

hết tiểu học, hay trung học cơ sở như trước đó.

Đến năm 2013 trong toàn huyện đã hoàn thành phổ cập chương trình tiểu học và

trung học cơ sở, các cấp học được củng cố phát triển toàn diện, số học sinh trong độ tuổi

đến trường đạt 99%. Cán bộ, giáo viên đã có nhiều cố gắng thực hiện chương trình cải

cách giáo dục, đội ngũ giáo viên dần dần được chuẩn hoá, chất lượng giáo dục được

nâng lên, số học sinh đạt loại giỏi các cấp hàng năm đều tăng.

Tuy đã có những thay đổi tích cực trong công tác giáo dục - đào tạo, song vấn đề

giáo dục của Từ Liêm vẫn đang chịu sức ép quá tải ở các khu đô thị và những xã đô thị

hóa nhanh. Nhiều trường công lập cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu đến

trường của trẻ vì số lượng quá đông. Thậm chí có một số trường ở khu vực sát nội

thành, số lượng học sinh một lớp lên tới 55-60 học sinh nên không đảm bảo được chất

lượng dạy học. Ngược lại, những trường dân lập tư thục trên địa bàn tuy cơ sở tốt nhưng

112

chỉ đáp ứng được cho một bộ phận gia đình có thu nhập cao mà chưa đáp ứng được mặt

bằng chung của xã hội.

Trong dạy học cũng còn nhiều bất cập. Nhiều trường còn thiên về thành tích nên

chất lượng dạy học chưa đúng thực chất. Nội dung đào tạo thì quá tải so với học sinh.

Ngay cả bậc tiểu học, học sinh còn quá nhỏ để có thể dung nạp được nội dung giáo trình

mà trường đang dạy.

4.3.2. Y tế

Năm 2004, huyện Từ Liêm có 12/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế thì đến

năm 2010, đã có 16/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác dân số - kế

hoạch hóa gia đình và trẻ em thường xuyên được đẩy mạnh đã làm hạn chế tỷ suất sinh

và sinh con thứ ba. Trong giai đoạn này, tỷ suất sinh của huyện giảm còn 1,34%; tỷ lệ

sinh con thứ 3 giảm hàng năm, 5% (2006) xuống còn 4,8% (2007), 4,7% (2008), 4,5%

(2009) và 4,4% (2010) [6, tr.443].

Hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân phát triển ngày càng

mạnh và đa dạng hóa. Từ Liêm đã thực hiện tốt chương trình y tế, đảm bảo tốt công tác

chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân nhất là công tác vệ sinh phòng dịch và vệ sinh

an toàn thực phẩm. Ở lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, Từ Liêm đã được công nhận

đạt chuẩn quốc gia ở cả 16 xã, thị trấn; huyện đã đầu tư khoảng 60 tỷ đồng để nâng cấp

các trạm y tế, bổ sung thay mới trang thiết bị khám chữa bệnh nhằm đáp ứng nhu cầu

khám bệnh của người dân ngày một tăng, nhất là ở những xã có số dân tăng cơ học lớn.

Hơn nữa, huyện còn chú trọng đến vấn đề xã hội hóa hoạt động y tế nhằm đáp ứng

cho công tác bảo vệ sức khỏe toàn dân. Nhiều cơ sở y tế tư nhân đăng ký hoạt động.

Đến cuối năm 2010, huyện có 371 cơ sở hành nghề y dược tư nhân [6, tr. 444].

Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Đến

năm 2010, huyện đã có 190 cán bộ y, bác sĩ. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 76 y tế

thôn; 250 cán bộ y tế hành nghề y tế tư nhân, góp phần cùng cơ sở y tế nhà nước chăm

sóc sức khỏe nhân dân [6, tr.441].

Công tác y tế dự phòng được huyện rất coi trọng. Chính quyền địa phương, Phòng

Y tế, Trung tâm Y tế, các phòng khám đa khoa huyện phối hợp hoạt động có hiệu quả,

tích cực hướng dẫn công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; phối hợp chặt

chẽ với Chi cục thú y huyện kiểm định, giám định vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo

113

không có các vụ ngộ độc lớn xảy ra trên địa bàn huyện; kịp thời phát hiện, ngăn chặn

các dịch bệnh lây lan nguy hiểm như tiêu chảy, sốt xuất huyết, dịch cúm gia cầm…

Các chương trình y tế quốc gia được triển khai đồng bộ có hiệu quả tại cộng đồng,

100% trẻ em được tiêm chủng đủ 7 loại vắc xin theo chương trình tiêm chủng mở rộng.

Chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em được nâng cao. Tính

riêng năm 2009 đã có 29.500 lượt người đếm khám tại tuyến y tế cơ sở, tăng 8.500 lượt

so với năm 2005 [6, tr. 442].

Chương trình y tế học đường được triển khai tốt, chăm sóc sức khỏe cho 99% học

sinh các khối trung học cơ sở, mầm non. Từ năm học 2009-2010, hệ thống giáo dục thực

hiện thống nhất chế độ bảo hiểm y tế đối với 100% học sinh các cấp học. Phòng chống

suy dinh dư ng có hiệu quả, sức khỏe và thể lực của trẻ em phát triển; tỷ lệ tăng cân đạt

98,52% ở độ tuổi mẫu giáo; 98,08% số trẻ trong độ tuổi nhà trẻ; Tỷ lê trẻ em suy dinh

dư ng giảm dần theo từng năm, từ 34,2% năm 1994 xuống 26,5% năm 1995, 14,3%

năm 2005 và 10,1% năm 2010 [6, tr. 443].

Công tác y tế vệ sinh môi trường cũng thường xuyên được củng cố, hoạt động

khám, chữa và phòng chống dịch bệnh cho nhân dân được tổ chức thường xuyên như

hoạt động “nâng cao chất lư ng vệ sinh gia đình, phòng chống dịch chủ động”. Từng

thôn đã tăng cường duy trì tổ thu gom rác, vệ sinh thôn xóm, quy hoạch nơi đổ rác thải

và từng bước khắc phục và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, gây mất vệ sinh an

toàn thực phẩm.

4.4. M i t ờng

Đô thị hóa làm biến đổi môi trường cảnh quan của Từ Liêm. Nếu như trước đây,

cảnh quan môi trường của huyện chủ yếu là một bức tranh làng quê điển hình thì từ

những năm 2000 đã nhanh chóng nhường chỗ cho diện mạo đô thị với những khu chung

cư cao tầng, khu vui chơi, giải trí, khu biệt thự sang trọng… Hệ thống đường giao thông

phát triển nhanh, đường nhựa, đường bê tông đã được xây dựng đến tận các xã, xóm

làng, ngõ ngách. Trong 10 năm (2000-2010), huyện đã chỉ đạo phát quang 6.447m

đường làng, nạo vét 27.890m kênh, rãnh thoát nước thải với với 20.000 ngày công khơi

thông cống rãnh; vận động quyên góp nâng cấp 37 đoạn đường dài 15.260m tại các xã

Phú Diễn, Đông Ngạc, Liên Mạc, Cổ Nhuế; ao hồ công cộng thường xuyên được quan

tâm cải tạo, vớt rác, trồng sen, nuôi cá… 100% rác thải sinh hoạt được thu gom, vận

114

chuyển đến nơi tập kết của thành phố với tổng khối lượng thu gom, vận chuyển từ năm

2008 đến 2013 là 597.615 tấn; chất thải rắn cũng được xử lý đúng quy trình.

Cảnh quan ở những địa bàn xây dựng các khu đô thị mới, các khu chung cư… với

quy mô lớn như khu Liên hợp thể thao Quốc gia, KĐT Mỹ Đình hay những khu tái định

cư nhỏ hơn cũng đều có thay đổi nhanh chóng. Hình ảnh thôn quê hoàn toàn được thay

thế bằng cảnh quan đô thị hiện đại với hệ thống phố xá, cao ốc chung cư, những khu biệt

thự, hay công viên giải trí...

Công tác đầu tư cho bảo vệ môi trường cũng được chú trọng. Nếu năm 2000, kinh

phí cho sự nghiệp bảo vệ môi trường của huyện chỉ khoảng 2 tỷ đồng thì vào năm 2009,

kinh phí cho công tác này đã gần 6.8 tỷ đồng [6, tr. 450], và đến cuối năm 2013 tăng lên

hơn 29,5 tỷ đồng [166]. Nguồn nước phục vụ sinh hoạt của cư dân địa phương đã được

xây dựng. Nước sạch là một trong những chỉ báo của đô thị hóa.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, sự phát triển của các làng nghề còn thiếu biện pháp

xử lý chất thải, nước thải cộng với hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu của các doanh

nghiệp chưa được thay mới đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tại một số khu vực

nông thôn ngoại thành, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông. Tại một số khu,

cụm công nghiệp, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp chưa được xây dựng đồng thời

cùng với sự phát triển của các dự án đầu tư và thiếu các nhà máy xử lý rác thải công

nghiệp hiện đại cũng là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều đó

đã trực tiếp ảnh hưởng có hại đến đời sống sức khỏe của người lao động và nhân dân. Hơn

nữa, để đạt được mục tiêu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi người dân phải áp dụng các

biện pháp kỹ thuật tiên tiến, thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu giống, sử dụng hóa chất,

sử dụng phân bón hóa học. Các loại hóa chất này đã và đang là nguyên nhân làm giảm số

lượng của nhiều loại sinh vật có ích, làm giảm đa dạng sinh học, làm xuất hiện các loài

sâu hại kháng thuốc,... đã tác động rất lớn đến môi trường sinh thái.

Vấn đề ô nhiễm môi trường của Từ Liêm đang ngày càng trở thành một vấn đề

nóng. Vì vậy, các cấp quản lý ở địa phương cần đưa ra những qui định cho hành vi bảo

vệ môi trường một cách hệ thống, cần chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho công

tác vệ sinh công cộng, xử lý vấn đề rác thải đô thị, khắc phục ô nhiễm nguồn nước,

không khí của các khu công nghiệp, các làng nghề... Ngoài ra, cũng cần khuyến khích

cư dân có ý thức giữ vệ sinh môi trường, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường thì mới

mang lại kết quả tích cực.

115

4.5. Đời s ng ân

4.5.1. Đời sống vật chất

Trong giai đoạn nghiên cứu, điều kiện nhà ở của người dân Từ Liêm đã được cải

thiện rất nhiều. Cùng với hệ thống điện, đường giao thông, thông tin liên lạc…, nhà ở đã

góp phần tạo nên bộ mặt kiến trúc và cảnh quan của một đô thị. Phần lớn nhà ở của

người dân đã được xây dựng kiên cố, đảm bảo quy hoạch chung, không gian các công

trình, có đủ các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ sinh hoạt như điện, nước sạch, vệ

sinh môi trường, đủ diện tích sử dụng. Mỗi năm ở Từ Liêm có hàng nghìn ngôi nhà

được cải tạo hoặc xây mới, đặc biệt là ở những xã có nhiều hộ dân được đền bù diện tích

đất bị thu hồi. Với số tiền nhận được từ bồi thường, hỗ trợ do bị mất đất, các hộ dân ở

huyện Từ Liêm đã sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, trong đó họ ưu tiên cho việc

xây dựng nhà cửa khang trang hơn và xây nhà trọ cho thuê. Từ năm 2005 đến năm 2010,

số hộ gia đình đã sử dụng gần 70% số tiền bồi thường vào việc xây dựng nhà cửa. Do

đó, chất lượng nhà ở của người dân trong huyện đã có nhiều biến đổi. Nếu như trước

năm 2000, nhà cửa trên địa bàn huyện chủ yếu là loại nhà cấp 4 hoặc nhà 1 tầng thì đến

năm 2013 có rất nhiều nhà kiên cố, đẹp đẽ và khang trang hơn. Phần lớn nhà ở của

người dân được xây dựng kiên cố, trung bình từ 3 đến 4 tầng đảm bảo quy hoạch chung,

đủ diện tích sử dụng. Những năm 2006-2010, huyện Từ Liêm đã cấp 3.613 giấy phép

xây dựng mới chưa kể cải tạo, sửa chữa [6]. Trung bình mỗi năm ở Từ Liêm có từ 900-

1.000 ngôi nhà được cải tạo hoặc xây mới [133, tr.178]. Bên cạnh đó, theo Quy hoạch

phát triển kinh tế-xã hội của thành phố và huyện Từ Liêm trong những năm qua, rất

nhiều khu đô thị được xây dựng theo quy hoạch hiện đại, liên kết nâng cấp cơ sở hạ tầng

các làng xã, bước đầu tạo thành vùng đô thị mới phía Tây Hà Nội [6, tr.428-429].

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội không những đã làm thay đổi bộ mặt đô thị mà

còn giúp cho thu nhập và mức sống của người dân không ngừng tăng lên. Thu nhập bình

quân đầu người trên địa bàn huyện tăng lên hàng năm, từ 3 triệu đồng năm năm 1996

tăng lên 6,275 triệu đồng năm 2006 [6, tr.314] và hơn 52 triệu đồng/người/năm năm

2013 [151]. Năm 2010 mức thu nhập trung bình toàn huyện là 25 triệu đồng/người/năm

(trong đó khu vực nông thôn là 23 triệu đồng/người/năm). Cơ cấu nguồn thu nhập cũng

thay đổi theo hướng tích cực. Năm 2000, thu nhập chủ yếu của người dân từ nông

nghiệp chiếm 60,5%, đến năm 2013 chỉ còn 19,3%; thu nhập từ các ngành nghề thuộc

sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao 67,2% [151].

116

So sánh với một số huyện lân cận như Thanh Trì, thì mức thu nhập bình quân của

người dân của huyện Từ Liêm cao hơn. Cụ thể, thu nhập bình quân/người của huyện

Thanh Trì từ 8,2 triệu đồng năm 2007 tăng lên 19 triệu đồng năm 2012 [51]. Ở huyện

Gia Lâm, năm 2000 là 8 triệu đồng/người/năm tăng lên 9,9 triệu năm 2005 [8, tr.304].

Trong lĩnh vực nông nghiệp, thu nhập của người nông dân cũng được cải thiện

đáng kể. Bình quân một ha canh tác đạt 30,8 triệu đồng năm 1990 [6, tr.313] tăng lên

120 triệu đồng năm 2010; thu nhập một lao động nông nghiệp tăng từ 1,5 triệu đồng vào

năm 1995 tăng lên 2,5 triệu đồng năm 2006 và 2,78 triệu đồng năm 2010 [6, tr.423].

Ngành công nghiệp, TTCN đã thu hút được số đông lao động tham gia sản xuất

trong các làng có nghề. Nhiều làng nghề có thu nhập bình quân đạt khoảng 1.092.000

đồng/người/tháng (khoảng 13 triệu đồng/năm), cá biệt có làng nghề có thu nhập bình

quân cao nhất từ 21-31 triệu đồng/năm [178, tr.97] như Cổ Nhuế (may mặc), Mễ Trì

(cốm, bún), Xuân Đỉnh (bánh kẹo, mứt hoa quả)… Thu nhập bình quân của người dân

xã Cổ Nhuế từ 150.000đ năm 1996 tăng lên 830.000đ năm 2005 và 2.100.000đ năm

2012 [45, tr. 26]. Thu nhập bình quân của lao động sản xuất bún ở Mễ Trì là

2.500.000đ/tháng so với thu nhập khác là 1.500.000đ/tháng [133, tr.51].

Cơ cấu nguồn thu nhập của người dân huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013

cũng thay đổi. Nếu như trước năm 2000 thu nhập chủ yếu của người dân là từ nông

nghiệp, chiếm 60,5% thì đến năm 2013 nông nghiệp chỉ còn 19,3%; các ngành nghề sản

xuất kinh doanh, phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ 67,2%, trong đó buôn bán, dịch vụ chiếm

34,3%, cho thuê nhà trọ chiếm 10,2% [133, tr.146].

Trong bối cảnh ĐTH nhanh như ở Từ Liêm, các xã trong huyện cũng có nguồn thu

khác nhau. Các xã như Mễ Trì, Mỹ Đình, Xuân Đỉnh, Trung Văn, nguồn thu chính của

các hộ gia đình chủ yếu là từ những việc làm phi nông nghiệp như buôn bán, dịch vụ

nhỏ (49,78%); làm thuê, lao động giản đơn (18,65%). Thị trấn Cầu Diễn, Cổ Nhuế

nguồn thu chủ yếu từ buôn bán, dịch vụ hay các hộ kinh doanh cá thể. Các xã Thượng

Cát, Xuân Phương, Liên Mạc tuy là khu vực thuần nông với 32,4% hộ làm nông nghiệp,

nhưng nguồn thu từ trồng trọt và chăn nuôi chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu nguồn

thu của hộ, chỉ đạt 6% [133, tr. 146].

Bên cạnh, chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm đã đem lại hiệu quả

thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện cũng giảm theo từng năm, từ 3,5% năm 1993

xuống 2,3% năm 1996, 1% năm 2001 và 0,48% năm 2005. Năm 2005, toàn huyện chỉ

117

còn 348 hộ nghèo với 1.342 nhân khẩu, bình quân mỗi năm giảm 277 hộ, vượt 40% kế

hoạch [16, tr.39]. Trong khi đó, số hộ nghèo ở huyện lân cận như Thanh Trì còn khoảng

2,8% năm 2010 [51].

Thu nhập tăng, người dân huyện Từ Liêm có điều kiện để chi tiêu các khoản để

phục vụ cho cuộc sống của mình như ăn uống, may mặc, mua sắm các trang thiết bị sinh

hoạt hiện đại, khám chữa bệnh, sửa chữa và xây nhà mới, giải trí, du lịch... Nếu như

trước năm 2000, các hộ gia đình ở huyện Từ Liêm chủ yếu chi tiêu vào ăn uống, may

mặc, thì đến năm 2013, các khoản chi tiêu dành cho xây nhà cửa, khám chữa bệnh, giải

trí, du lịch tăng nhanh. Chi ăn uống giảm từ 61,2% năm 2000 xuống còn 37,9%; chi mặc

từ 1,0% xuống 0,7%; Chi xây nhà mới từ 40,0% tăng 63,4%; giải trí, du lịch từ 0,2% lên

21,0%. Các hộ dân sau khi có tiền đền bù đất thì hầu hết đều lấy tiền đó để sửa nhà, có

nhiều hộ xây nhà mới. Kết quả khảo sát cho thấy có đến 70% số tiền bồi thường được sử

dụng vào việc xây nhà cửa [133, tr. 147]. Do vậy, từ năm 2005-2010, hàng loạt các hộ

gia đình đã xây dựng nhà mới, sửa chữa... với nhiều nhà cao tầng, đã tạo ra diện mạo

mới cho đô thị ở huyện Từ Liêm.

Các loại đồ dùng và tiện nghi sinh hoạt trong gia đình như tivi, tủ lạnh, xe máy,

điện thoại, máy tính… khá đầy đủ. Một số tiện nghị đắt tiền như điều hòa, bình nóng

lạnh, máy giặt, ô tô… cũng có nhiều gia đình đã mua sắm sử dụng. Điều này cho thấy,

hiện nay với mức sống ngày càng được nâng cao, người dân không chỉ quan tâm đến

việc ăn no, mặc đẹp mà còn quan tâm đến những nhu cầu cao cấp hơn trong cuộc sống.

4.5.2. Đời sống tinh thần

- Lối sống

Quá trình ĐTH ở Từ Liêm đã cho thấy một bức tranh về một xã hội đô thị đan xen

với một xã hội nông thôn truyền thống ở vùng ven đô. Sự đan xen này thể hiện ở nhiều

lĩnh vực như không gian sống, cơ sở hạ tầng, sinh kế và lối sống của người dân. Đó là

cách họ tiếp cận thông tin, sử dụng thời gian rỗi, cách hưởng thụ văn hóa, chuẩn mực

đạo đức, quan hệ cộng đồng, gia đình, dòng họ... Mặc dù mức độ tham dự của mỗi

nhóm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức sống, học vấn, nghề nghiệp, thói quen, nơi

cư trú…, nhưng nhìn chung cư dân Từ Liêm đã và đang hoà nhập khá nhanh vào xã hội

đô thị.

Trong một xã hội năng động, biến đổi hàng ngày với biết bao sự kiện, việc cập

nhật thông tin là hết sức cần thiết. Vì vậy, chính quyền Từ Liêm cũng rất quan tâm đến

118

lĩnh vực này, kịp thời đầu tư để đưa thông tin đến từng người dân, khu phố. Đồng thời

cư dân cũng có thể tiếp cận thông tin qua các phương tiện như báo, đài, tivi, điện thoại,

máy tính, mạng Internet… Tỉ lệ gia đình ở Từ Liêm có các phương tiện nghe nhìn tăng

lên rõ rệt. Việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của người dân trở nên đa dạng và phong phú

hơn; người dân có thể tham gia nhiều hoạt động văn hoá tinh thần với các loại hình giải

trí khác nhau.

Cơ cấu nghề nghiệp, thu nhập, mức sống không chỉ đơn giản là những thay đổi

trong đời sống của người dân về mặt vật chất mà nó tự tạo ra những biến đổi trong chiều

sâu của đời sống, tác động đến đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư. Sự thay đổi

đó diễn ra trong quan hệ xã hội, trong hệ giá trị chuẩn mực và trong sự hưởng thụ văn

hoá của người dân. Việc hưởng thụ cuộc sống một cách tích cực, lành mạnh có xu

hướng tăng so với trước. Quan hệ giao lưu của cộng đồng dân cư không còn bị bó hẹp

trong phạm vi làng xã mà đã được rộng mở hơn; dân cư có điều kiện giao lưu tiếp xúc

với nhiều tầng lớp và nhóm người trong xã hội, tham gia nhiều vào các hoạt động văn

hóa xã hội ở địa phương.

Đô thị hóa đã đem lạo diện mạo mới cho huyện Từ Liêm, người dân đang chuyển dần

từ thói quen hưởng thụ thụ động sang hướng chủ động và trực tiếp tham gia các sinh hoạt

văn hóa. Họ chủ động tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; lễ hội

truyền thống ở địa phương; chủ động trong việc hưởng thụ cuộc sống như giải trí, tiếp cận

thông tin, chăm sóc sức khỏe và kết nối chặt chẽ hơn với các mối quan hệ xã hội.

Bên cạnh việc tiếp cận thông tin, sử dụng thời gian rỗi, người dân Từ Liêm cũng

có sự thay đổi trong thói quen ăn uống và tiêu dùng. Cư dân được tiếp cận với nguồn

thực phẩm phong phú và đa dạng hơn từ các vùng miền, các trung tâm thương mại, dịch

vụ… Năm 2000 người dân chỉ mua lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng ở chợ truyền

thống địa phương là chính (chợ thôn, xã) nhưng đến năm 2013 thì số người dân đi chợ

địa phương giảm từ 95,8% xuống còn 51,2% và thay vào đó là siêu thị, trung tâm

thương mại, cửa hàng tạp hóa… [133, tr.194-195].

Bữa ăn hàng ngày cũng được người dân chú trọng và quan tâm hơn trước, từ chất

lượng, khẩu vị, xuất xứ thực phẩm, dinh dư ng đến hình thức bài trí món ăn. Ngoài

những bữa cơm với gia đình thì nhiều gia đình hiện nay đã thường xuyên ăn uống tại

nhà hàng, khách sạn… Nếp sống công nghiệp đã ít nhiều làm thay đổi vai trò, vị trí và

119

thói quen của văn hóa ẩm thực trong đời sống của cư dân; có gia đình vẫn giữ truyền

thống, có gia đình vừa tìm cách thích nghi vừa bảo tồn…

Ngoài ra, quá trình đô thị hóa còn làm thay đổi tính cố kết cộng đồng trong giao

tiếp, ứng xử. Trước hết, đó là tổ chức dòng họ đã và đang được củng cố chặt chẽ hơn, ý

thức cộng đồng dòng họ của mỗi cá nhân với tư cách là thành viên của dòng họ có xu

hướng ngày càng rõ nét hơn. Biểu hiện cụ thể ở thái độ quan tâm của thành viên đến

việc sửa chữa hoặc xây dựng nhà thờ của dòng họ; tham gia đóng góp quỹ họ; tổ chức

sinh hoạt trong dòng họ…

Hơn nữa, người dân không chỉ bó mình trong các quan hệ gia đình, họ hàng mà đã

mở rộng hơn như quan hệ láng giềng thôn xóm, quan hệ với đồng nghiệp, cộng đồng. Ý

thức về làng xóm, lối sống tình nghĩa làng quê vốn là truyền thống tốt đẹp của người

dân khi nền kinh tế phát triển, xã hội hài hòa thì sẽ có điều kiện thuận lợi để củng cố và

phát triển, nhân rộng theo hướng tích cực. Người dân Từ Liêm sẵn sàng tương trợ lẫn

nhau trong lúc khó khăn. Việc tương trợ này thể hiện ở việc đóng góp ủng hộ những

người gặp khó khăn, bệnh tật…

Như vậy, quan hệ hàng xóm láng giềng và quan hệ huyết thống trong làng xã vẫn

chiếm vị trí cao trong xã hội ở Từ Liêm trong bối cảnh đô thị hóa. Tuy nhiên, trong bối

cảnh kinh tế thị trường, con người bị chi phối nhiều vào các điều kiện kinh tế kéo theo

các quan hệ xã hội có xu hướng biến đổi cho phù hợp hơn với thực tiễn đời sống

thường nhật của các tầng lớp cư dân. Ở đâu càng đô thị hóa nhanh thì những yếu tố trì

trệ, bảo thủ và lạc hậu của văn hóa làng càng nhanh bị đào thải, và đó cũng là điều tất

yếu, mang tính quy luật trong quá trình CNH, HĐH nông thôn hiện nay.

- Văn hóa, thể dục thể thao

Trong quá trình phát triển chung, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể

thao cũng được huyện chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất cũng như thường xuyên tăng

cường tổ chức các hoạt động thực tiễn.

Hệ thống các thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở từng bước được hoàn thiện;

công tác giữ gìn, bảo tồn phát huy các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống và các di tích

lịch sử luôn được quan tâm. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá,

nhiệm vụ Xây dựng người Hà Nội thanh lịch-văn minh được triển khai sâu rộng và được

hầu hết người dân ở địa phương hưởng ứng. Nếp sống văn minh trong việc cưới xin,

tang lễ, lễ hội được quan tâm sâu sát. Nhiều giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống trong

120

gia đình, dòng họ, làng xã được kế thừa. Theo thống kê năm 2013, hơn 64% số đám

cưới ở Từ Liêm có sự tiến bộ trong việc tổ chức; 51% số đám tang xóa bỏ được các hủ

tục lạc hậu [166]. Những hình thức cưới gọn nhẹ, tiết kiệm xuất hiện ngày càng nhiều,

được cộng đồng dân cư ủng hộ. Lễ hội tại địa phương diễn ra tương đối lành mạnh, bên

cạnh phần lễ là phần hội với các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống diễn ra sôi

động và lành mạnh.

Đời sống kinh tế ngày càng được cải thiện và nâng cao, người dân càng có điều

kiện dành nhiều sự quan tâm đến đời sống văn hóa tín ngư ng, lễ hội. Trong những

năm gần đây, các di tích lịch sử, văn hóa ở Từ Liêm đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ

theo hướng tu bổ, phục dựng và xây mới. Nếu từ năm 1990 đến năm 2000 ở Từ Liêm

mới chỉ có các lễ hội cổ truyền ở làng xã được phục hồi, đình, chùa, miếu bắt đầu được

xây dựng lại, sinh hoạt dòng họ phục hồi chủ yếu ở các vùng nông thôn thì từ năm

2001, rất nhiều nghi lễ, sinh hoạt văn hóa và tôn giáo tưởng chừng đã mai một đã hồi

sinh mạnh mẽ. Các hội làng vẫn tiếp nối quá khứ, mang đậm màu sắc truyền thống.

Nhiều tục lệ, lễ nghi cổ xưa được thực hành đúng với vị trí quan trọng của nó ở Từ

Liêm. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 81% tỷ lệ người được hỏi cho biết họ có tham

gia các lễ hội truyền thống hàng năm trên địa bàn sinh sống [133]. Việc người dân

ngày càng tích cực tham gia nhiều vào các hoạt động tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ

trẻ về các di tích, lễ hội truyền thống địa phương đã góp phần phát huy các giá trị của

các di tích lịch sử văn hóa và các lễ hội truyền thống ở Từ Liêm.

Huyện Từ Liêm tích cực phấn đấu thực hiện mục tiêu mỗi thôn có một nhà văn

hóa, mỗi xã ít nhất có 1 sân vận động thể thao. Năm 2005-2010 huyện đã đầu tư 150

tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và huy động xã hội hóa để xây dựng các công trình

văn hóa và tu bổ di tích lịch sử - văn hóa. Đến năm 2010, toàn huyện đã có 102 nhà

văn hóa thôn và tổ dân phố (đạt tỷ lệ 90%), 165 điểm vui chơi, Trung tâm văn hóa - thể thao huyện, 10 xã có sân vận động với diện tích từ 10.000m2 - 16.000 m2/sân [6,

tr.435]. Trong giai đoạn 2008-2013, huyện đã đầu tư hơn 600 tỷ đồng để xây dựng

mới 04 trung tâm văn hóa, thể dục thể thao; tu bổ 134 hạng mục di tích; xây dựng và

cải tạo 32 nhà văn hóa thôn, tổ dân phố, đưa tỷ lệ thôn có nhà văn hóa đạt 96% trong

toàn huyện, tăng 2,25% so với năm 2008 [133, tr.63]. Hệ thống thiết chế văn hóa từ

huyện đến cơ sở từng bước được hoàn thiện về quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt

động được nâng lên, đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.

121

Song song với cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá,

huyện cũng rất chú trọng đầu tư vào những hoạt động văn hoá tinh thần khác như hoạt

động của các câu lạc bộ, nhà văn hoá, thư viện, sân chơi. Huyện có 156 câu lạc bộ văn

hóa, 24 câu lạc bộ thơ. Hàng năm, huyện tổ chức nhiều hội diễn ca múa nhạc, nhiều đội

văn nghệ tích cực tham gia hội diễn cấp huyện, cấp thành phố.

Các câu lạc bộ thể dục thể thao thường xuyên duy trì hoạt động. Số người tham gia

luyện tập thể dục thể thao tăng từ 25% (2005) lên 31,5% (2010); Số gia đình tham gia

luyện tập thể thao tăng từ 18% (2005) lên 25% (2010); 100% trường phổ thông đảm bảo

giảng dạy về thể chất [6, tr.437]. Hàng năm, Trung tâm thể dục thể thao phối hợp với

Phòng Giáo dục đào tạo tổ chức Hội khỏe Phù Đổng.

Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng làng văn

hóa, tổ dân phố văn hóa, cơ quan, trường học văn hóa, gia đình văn hóa thường xuyên

duy trì có hiệu quả. Đến năm 2010, có 79/79 thôn làng được UBND huyện phê chuẩn

quy ước văn hóa. Số làng đạt danh hiệu văn hóa tăng từ 12 làng (2005) lên 40 làng

(2010), đạt 50,5% tổng số làng; 41/58 tổ dân phố văn hóa (70%); 87% gia đình đạt danh

hiệu gia đình văn hóa, tăng 5,5% so với năm 2005 [6, tr.436].

Như vậy, điều kiện kinh tế hộ gia đình hiện nay ở huyện Từ Liêm đã khá hơn

nhiều so với những năm trước. Đạt được những kết quả đó là nhờ vào chính sách phát

triển kinh tế-xã hội của Hà Nội nói chung và của huyện Từ Liêm nói riêng. Đời sống vật

chất, tinh thần của người dân được nâng lên, có nhiều thay đổi tích cực. Điều kiện và

chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện từng ngày. Đó là kết quả của việc

phát triển kinh tế đã hướng tới việc thay đổi đời sống của cộng đồng dân cư theo tác

động ngày càng tốt hơn, tăng trưởng hơn.

i t h ơng 4

Quá trình ĐTH ở Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 đã có tác động mạnh mẽ

đến mọi mặt của đời sống xã hội của địa phương. Trước hết, đó là tác động của ĐTH

đến vấn đề dân số, làm gia tăng nhanh chóng số lượng cư dân trên địa bàn do sự dịch

cư từ nông thôn cũng như các khu vực khác về Từ Liêm. Dân số gia tăng làm cho cơ

cấu cộng đồng dân cư thay đổi, mật độ dân cư đô thị trở nên đông đúc, làm đa dạng

hóa các tầng lớp cư dân.

Việc gia tăng dân số đã tác động mạnh đến vấn đề lao động - việc làm của địa

phương trên nhiều góc độ: Quy mô và số lượng lao động - việc làm tăng là nguồn bổ

122

sung số lượng lớn lao động, nhất là đội ngũ lao động trẻ, có tay nghề, chuyên môn. Cơ

cấu lao động, việc làm trong các ngành kinh tế… cũng như việc đào tạo nguồn lao động

đáp ứng ngày càng cao cho yêu cầu phát triển của huyện. Từ thực tế đó, trong cộng

đồng dân cư trên một chừng mực nào đó và đối với từng đối tượng đã dần dần hình

thành tập quán của người lao động với môi trường đô thị cả trên khía cạnh sản xuất và

sinh hoạt.

Đặc biệt, quá trình ĐTH đã tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và văn hóa

tinh thần của cư dân trên địa bàn, trong đó yếu tố tích cực vẫn là chủ đạo. Nhờ có quá

trình này mà đời sống vật chất của cư dân không ngừng được nâng cao, đời sống văn

hóa tinh thần trở nên phong phú hơn và hướng chuyển dần sang môi trường văn hóa đô

thị. Các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, môi trường ngày càng được chăm lo chu đáo và

củng cố về mọi mặt; môi trường cảnh quan đô thị dần dần được hình thành và đã mang

lại những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình đó không ít thách thức đã và đang

được đặt ra, đòi hỏi cần được giải quyết, khắc phục kịp thời và triệt để.

123

Chương 5

MỘT SỐ NHẬN XÉT

5.1. Thành tựu

5. . . Kinh t hát t i n toàn i n v i t ộ tăng t ng o gắn v i á t nh

th h

Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Thành phố Hà Nội nói chung và huyện

Từ Liêm nói riêng, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, kinh tế huyện Từ Liêm trong giai

đoạn từ năm 1996 đến năm 2013, đã có sự chuyển biến nhanh chóng, phát triển toàn diện.

Từ một nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là nông nghiệp truyền thống, đã từng bước

chuyển sang nền kinh tế hàng hóa với đa dạng sản phẩm chất lượng cao, phát triển nhiều

vùng sản xuất hàng hóa tập trung; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và vùng

của nông thôn ven đô sang đô thị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng

hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu ngân sách của thành phố, là cơ sở tăng ngân sách cho

khu vực phòng thủ; nâng cao số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu sản phẩm hàng hóa

công nghiệp, nông sản, thực phẩm, dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng đảm bảo kinh tế

tại chỗ cho các lực lượng trong khu vực phòng thủ Thành phố.

Là huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện Từ

Liêm từ năm 1996 đến năm 2013 luôn duy trì ở mức từ 16% đến 21%/năm, mức khá

cao so với các huyện ngoại thành của Hà Nội. Trong giai đoạn 1996-2000, kinh tế huyện

Từ Liêm có tốc độ tăng trưởng 11%/năm. Xu hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần,

công nghiệp và dịch vụ tăng lên; nông nghiệp từ 40,9% (1995) xuống 32,9% (2000);

công nghiệp từ 33,1% (1995) lên 42,1% (2000); còn dịch vụ có sự suy giảm chút ít, từ

26% xuống còn 25% [6, tr. 362].

Trong giai đoạn 2000-2005, nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt

17,8%, tăng 2,6 lần so với giai đoạn 1996-2000. Cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển

dịch nhanh, tỷ trọng công nghiệp từ 42,1% (năm 2000) lên 57% (năm 2005); dịch vụ từ

25% (năm 2000) lên 25,8% (năm 2005); nông nghiệp giảm từ 32,9% (năm 2000) xuống

còn 17,2% (năm 2005) [6, tr.391].

Bước sang giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng bình quân đạt

18,9% (riêng năm 2010 tăng 21,2%). Cơ cấu kinh tế của huyện từ chỗ công nghiệp-dịch

vụ-nông nghiệp đã chuyển dần sang cơ cấu kinh tế dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp.

124

Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 25,8% (năm 2005) lên 36,3% (năm 2010); công nghiệp

từ 57% (năm 2005) còn 55% (năm 2010); nông nghiệp giảm từ 17,2% (năm 2005) còn

1,8% (năm 2010). Tổng thu ngân sách giai đoạn 2006-2010 đạt 4.700 tỷ đồng, tăng bình

quân 52,5%/năm [6, tr.427]. Từ năm 2011-2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện

đạt 16,7%/năm.

Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn 2000-2013, ngành nông nghiệp có tốc độ tăng

trưởng giảm dần do diện tích đất canh tác thu hẹp nhanh chóng bởi quá trình đô thị hóa. Các

ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng cao là một xu thế hợp lý.

5. .2. ơ ấ inh t h n h theo h ng ng nghi h , hi n ại h

Từ năm 1996 đến năm 2013, cơ cấu kinh tế của huyện Từ Liêm đã có bước chuyển

dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với chiến lược phát triển kinh

tế, xã hội đối với vùng ngoại thành Hà Nội, đó là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ

trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại-dịch vụ; từ nền kinh tế nông

nghiệp với 2 thành phần chính: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang

nền kinh tế nhiều thành phần; kinh tế hộ được trả lại vị trí và phát triển lên một trình độ

cao hơn về mọi phương diện so với thời kỳ trước. Trên thực tế, như đã nói ở trên, cơ cấu

kinh tế của huyện Từ Liêm trong giai đoạn 1996-2013 từ chỗ ban đầu xác định là nông

nghiệp-công nghiệp, xây dựng-thương mại, dịch vụ phải chuyển đổi theo hướng công

nghiệp, xây dựng-dịch vụ, thương mại-nông nghiệp và cuối cùng là chuyển sang cơ cấu

theo hướng thương mại, dịch vụ - công nghiệp, xây dựng - nông nghiệp sinh thái.

Đối với nông nghiệp, trong giai đoạn 1996-2013, chuyển dịch kinh tế nông nghiệp

của huyện Từ Liêm phù hợp với xu hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngoại

thành đang trong quá trình ĐTH. Là huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh, đất dành cho

nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên chủ trương của huyện là coi trọng chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giảm nhanh diện

tích trồng lúa, đưa các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị cao vào sản xuất. Chuyển dịch

kinh tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm đã góp phần hình thành các vùng sản xuất

chuyên canh tập trung theo hướng kinh tế thị trường và xuất khẩu. Trong điều kiện diện

tích đất nông nghiệp giảm mạnh, trồng rau màu và hoa là một hướng phát triển nông

nghiệp mới không chỉ xuất hiện ở Từ Liêm mà đã phát triển có quy mô, thành các vùng

chuyên canh ở nhiều làng ven đô Hà Nội. Người nông dân vẫn làm nông nghiệp, nhưng

nền nông nghiệp đang có chiều hướng chuyển dần theo hướng nông nghiệp dịch vụ,

125

nông nghiệp đô thị/sinh thái - tức nền nông nghiệp hiện đại, có ứng dụng khoa học và

công nghệ vào sản xuất trong các đô thị ở vùng ven đô.

Về công nghiệp-xây dựng, với mức tăng trung bình trong giai đoạn 2008-2013

khoảng 16%, Từ Liêm là huyện có tốc độ tăng trưởng khá cao so với các địa phương

khác trong Thành phố. Sự tăng trưởng giá trị sản xuất trên địa bàn, trong thời gian đầu

(từ năm 1996) chủ yếu phụ thuộc nhiều vào ngành công nghiệp-xây dựng. Bởi vì, trước

mốc nghiên cứu ngành công nghiệp của Từ Liêm chậm phát triển cả về quy mô cũng

như về trình độ kỹ thuật, vì gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nguồn vốn đầu tư, vật

tư sản xuất, lao động có tay nghề, đầu ra sản phẩm... Quá trình ĐTH đã mang lại những

điều kiện mới cho sự phát triển của công nghiệp-TTCN-xây dựng trên địa bàn Từ Liêm.

Chính vì thế, giá trị sản xuất của ngành công nghiệp không ngừng tăng lên và từ sau

năm 2000 ngành này luôn chiếm tỷ trọng trên 57% cơ cấu kinh tế của huyện [151].

Bên cạnh ngành công nghiệp-xây dựng, ngành thương nghiệp-dịch vụ cũng là

ngành phát triển rất nhanh chóng và đa dạng nhờ quá trình ĐTH. Từ chỗ khu vực

thương nghiệp quốc doanh là chủ đạo trước thời kỳ Đổi mới, thì từ 1996 thành phần

kinh tế quốc doanh giảm dần, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể càng

ngày càng được củng cố và mở rộng. Các thành phần kinh tế thuộc ngành thương mại-

dịch vụ được tổ chức sắp xếp lại sản xuất, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Từ Liêm phát

triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, và quan trọng nhất là trực tiếp góp phần vào

việc giải quyết nhu cầu lao động của địa phương. Tỷ trọng ngành thương mại-dịch vụ

trong tổng giá trị sản xuất của huyện tăng từ 26% năm 1995 lên 26,9% năm 2000 [6,

tr.377-378], lên 36,3% vào năm 2010 [154]. Nếu tính giá trị sản xuất của các ngành

công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ thì những ngành này đã chiếm tỷ trọng

98,2% tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Đến năm 2013, toàn huyện có khoảng 12.000 hộ

kinh doanh đang hoạt động, trong đó lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm 80%, nâng giá

trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 5.781 tỷ đồng, góp phần tích cực trong việc thu ngân sách

trên địa bàn huyện cả năm 2013 đạt 2.528,3 tỷ đồng [166].

Có thể nói, lĩnh vực thương mại - dịch vụ của huyện Từ Liêm trong giai đoạn này

phát triển mạnh dựa trên xu hướng phát triển đô thị hiện đại, có tiềm năng, có điều kiện

thực tiễn và đang hình thành một số ngành dịch vụ chất lượng cao như: văn phòng cho

thuê, trung tâm thương mại, khách sạn - nhà hàng, thể thao - giải trí, giáo dục phổ thông…

126

Hệ thống hạ tầng thương mại dịch vụ tương đối phát triển với nhiều trung tâm thương

mại, siêu thị quy mô lớn và hệ thống chợ dân sinh đáp ứng cơ bản nhu cầu của nhân dân.

Sự tăng trưởng nhanh chóng các hoạt động phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp, xây dựng, buôn bán và dịch vụ... đã tạo ra một số lượng lớn việc làm

cho vùng ven đô như huyện Từ Liêm. Hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ-

thương mại không chỉ có vai trò thu hút lực lượng lao động tại chỗ và lao động nhập cư

từ các vùng nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho cư dân trong huyện, mà thông

qua sản xuất thực tế người nông dân có điều kiện để mở rộng tầm nhìn đối với các hoạt

động kinh tế thị trường, nâng cao trình độ nghề nghiệp và cả tiếp nhận lối sống đô thị -

một lối sống tương đối khác biệt so với đời sống làng xã cổ truyền ở thôn quê. Đô thị

hóa tạo cơ hội cho người dân được tiếp xúc với lối sinh hoạt hiện đại, mang đặc trưng

của đời sống đô thị, đời sống công nghiệp nên đã làm nảy sinh những nhu cầu tiêu dùng

mới trong cuộc sống, dẫn đến thúc đẩy các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,

thị trường và dịch vụ phát triển. Vì vậy, nhiều cơ sở sản xuất và các dịch vụ được hình

thành để đáp ứng những nhu cầu mới đó, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của huyện

Từ Liêm nói riêng cũng như vùng ven đô Hà Nội nói chung.

5. .3. Hạ tầng ơ s hát t i n mạnh theo h ng văn minh và hi n ại

Như đã trình bày ở chương 2, mặc dù về mặt hành chính là đơn vị cấp huyện, song

Từ Liêm trong giai đoạn nghiên cứu có tốc độ ĐTH rất nhanh, phát triển theo hướng

hiện đại với sự đan xen mới - cũ, hiện đại - lạc hậu, hoàn thiện - dở dang... Sự phát triển

với tốc độ nhanh trên con đường đô thị hóa, trước hết tác động rõ nhất và mạnh nhất là

đến sự thay đổi của hạ tầng cơ sở đô thị. Nói đến hạ tầng đô thị thì không thể không kể

đến trước tiên là hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống đường ống cấp nước

sạch… Đây là những hạng mục quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình ĐTH

của mỗi địa phương.

Huyện Từ Liêm được Thành phố đánh giá là huyện đi đầu trong việc quy hoạch

xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong những năm qua, huyện chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng

nông thôn với tổng số vốn đầu tư là trên 100 tỷ đồng gồm: Giao thông nông thôn: tổng

số vốn đầu tư gần 20 tỷ đồng bằng nguồn vốn của Thành phố là 3,284 tỷ đồng, ngân

sách huyện là 11,2 tỷ đồng, vốn huy động là 5,5 tỷ đồng, kết quả nâng cấp được 85,4km

đường liên xã [47]. Trong giai đoạn 2008-2013, huyện đã bê tông hóa được 385,4km

đường trục liên xã, thôn, xóm, đạt 98%; tập trung đầu tư giao thông nội đồng tại vùng

127

hoa xã Tây Tựu là 5,3km nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng hoa của huyện,

kết hợp phát triển du lịch sinh thái của Thành phố [151].

Hệ thống giao thông vận tải giữa nội thành và ngoại thành được nâng cấp như

Quốc lộ 32, đường 23 (đường Đông Ngạc - Thụy Phương - Liên Mạc - Thượng Cát - Từ

Liêm), đường 69 (Dịch Vọng - Chèm), đường 70 (Hà Đông - Thượng Cát), đường 65

(Nhật Tân - Ngã Tư Sở)… Những tuyến đường giao thông huyết mạch như đường Phạm

Hùng - Phạm Văn Đồng – cầu Thăng Long đi sân bay Nội Bài,… Hệ thống giao thông

mới xây dựng, nâng cấp đã tạo điều kiện cho phát triển vận chuyển hàng hóa, hành

khách và giao lưu mạnh mẽ hơn giữa huyện Từ Liêm với nội thành.

Từ năm 1996 đến năm 2013, trên địa bàn huyện Từ Liêm đã xuất hiện nhiều khu

đô thị mới xuất hiện: Khu đô thị Mỹ Đình 1 và 2, Khu đô thị Bitexco, The Manor, Tòa

nhà Keangnam, Cổ Nhuế, Ciputra (Nam Thăng Long)… Nhiều trụ sở bộ, ngành Trung

ương, Trung tâm hội nghị, Trung tâm thể thao quốc gia… cũng tập trung tại đây, đưa Từ

Liêm trở thành một phần của trung tâm hành chính mới của thành phố. Điển hình như

KĐT The Manor, KĐT Mỹ Đình - Mễ Trì, KĐT Ciputra hiện là một trong những

thương hiệu khu đô thị đẳng cấp, văn minh, thu hút khá đông những người có mức sống

cao và người nước ngoài đến sinh sống. Các khu này được thiết kế, đầu tư cơ sở hạ tầng,

trang thiết bị hiện đại bậc nhất trong số nhiều khu đô thị ở Thủ đô Hà Nội và cả nước,

mang đến dịch vụ đô thị đầy đủ cùng nhiều tiện ích cao cấp. Bên cạnh đó, với hàng loạt

tòa nhà hiện đại được xây dựng cũng tạo ra nguồn cung khá lớn cho hoạt động của dịch

vụ cho thuê văn phòng, lưu trú, đặc biệt là khách nước ngoài…

Đánh giá thực trạng về cơ sở hạ tầng đô thị ở huyện Từ Liêm năm 2013 so với

trước năm 2000, đa phần người dân đều hài lòng với các chỉ số đánh giá. Cụ thể: có

87,9% người dân cho rằng giao thông (đường sá) tốt hơn; 94,3% hài lòng về nhà ở;

94,8% hài lòng về điện lưới; 75,7% về trường học; 60,7% về trạm y tế xã/phường;

79,0% về hệ thống cung cấp nước sạch; 90,2% về hệ thống thu gom rác, vệ sinh [133,

tr.156]. Tỷ lệ các hộ gia đình hài lòng với cơ sở hạ tầng tại địa phương như trên đã phần

nào cho thấy các khu đô thị mới, các trung tâm thương mại, văn hóa và các khu tái định

cư đã được chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cũng như sự quan

tâm của chính quyền cơ sở nhằm tạo điều kiện tốt cho cộng đồng dân cư huyện Từ Liêm

trong quá trình ĐTH.

128

Không thể phủ nhận rằng, tính chất đô thị của huyện Từ Liêm trong tương lai rất

đa dạng, là trung tâm chính trị, hành chính, văn hóa, ngoại giao, thương mại, tài chính, y

tế, đào tạo, giải trí chất lượng cao của cả nước và khu vực; là không gian hội tụ các công

trình biểu tượng của Thủ đô; là vùng cây xanh cảnh quan đặc trưng; trung tâm thể thao

cấp quốc gia và công viên đô thị cấp thành phố; các khu đô thị mới hiện đại có hệ thống

hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ đáp ứng cho sinh hoạt dân cư và các hoạt

động công sở, văn phòng.

5. .4. ơ ấ l o ộng, ng tá giải t vi làm và th nhậ ho ng ời l o

ộng h n i n tí h ự , hù hợ v i ầ hát t i n inh t

Đô thị hoá đã và đang tạo ra sự chuyển biến về cơ cấu lao động của huyện Từ

Liêm trong giai đoạn 1996-2013. Với dân số trên 523.400 người (năm 2013), lực lượng

lao động của huyện Từ Liêm chiếm 52,4% trong tổng số dân cư của toàn huyện. Tốc độ

tăng lực lượng lao động trong giai đoạn 2000-2010 trung bình là 2,8% cao hơn nhiều so

với tốc độ tăng dân số, là một lợi thế cho huyện Từ Liêm trong bối cảnh ĐTH. Quá trình

ĐTH của huyện Từ Liêm trong giai đoạn nghiên cứu đã có tác động tích cực, thúc đẩy

thị trường lao động phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao động, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực, tạo ra môi trường và nhiều cơ hội cho người lao động tìm được việc làm, ổn

định đời sống. Điều này được thể hiện rõ nét trong các lĩnh vực nghề nghiệp cơ bản như

đã phân tích ở phần trên.

Dân số cơ học tăng nhanh mang lại những thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bổ sung lực lượng lao động của huyện. Số lượng lớn

người nhập cư lớn đến làm việc trong các khu vực phi chính thức, cung cấp nguồn nhân

lực lớn, đóng góp cho việc phát triển kinh tế-xã hội của huyện, góp phần vào việc làm

tăng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động trong toàn huyện. Bên cạnh đó, lao

động di cư là nguồn cung cấp nhân lực cho các công việc lao động giản đơn, nặng nhọc

như xây dựng, chuyên chở vật liệu xây dựng, bốc vác… Sự hiện diện của người nhập cư

đã góp phần thúc đẩy phát triển các ngành nghề dịch vụ như rửa xe máy, ô tô, đưa các

dịch vụ thiết yếu đến các nhà dân…

Chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp là

nguyên nhân chính dẫn đến chuyển đổi trong cơ cấu ngành nghề của huyện Từ Liêm nói

riêng và các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung. Trong cơ cấu nghề nghiệp của các

huyện hiện nay, các ngành nghề phi nông nghiệp như dịch vụ, thương mại xuất hiện

129

ngày càng nhiều và phát triển mạnh, do đó thu nhập từ những ngành này tăng dần tỷ

trọng trong cơ cấu nguồn thu của các hộ gia đình. Tuy nhiên mức độ chuyển đổi cơ cấu

nghề nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung và giữa các xã trong huyện

Từ Liêm nói riêng cũng khác nhau. Những xã có tốc độ đô thị hóa cao như Mỹ Đình,

Mễ Trì, Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh thì nông nghiệp hầu như không còn chiếm vai trò quan

trọng trong đời sống của người dân. Các yếu tố có vai trò quan trọng tác động đến chuyển

đổi nghề nghiệp của người dân là: sự hiện diện của các ngành nghề truyền thống, thị

trường tiêu thụ, chính sách chuyển đổi nghề ở địa phương và nhu cầu chuyển đổi của các

cá nhân, hộ gia đình. Theo một nghiên cứu, khi được hỏi về công việc mà người dân

mong muốn được chuyển đổi, kết quả nhận được là 58,5% tỷ lệ người dân mong muốn

được chuyển qua làm nghề kinh doanh buôn bán và dịch vụ; thứ hai là công nhân, viên

chức 29,4%; thứ ba là công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 8% [133, tr. 136]. Do

đó, ở huyện Từ Liêm, năm 2005, số cơ sở kinh doanh thương nghiệp là 5.578 cơ sở với

9.850 lao động thì đến năm 2011 tăng lên 7.434 cơ sở với 11.334 lao động [23]. Còn ở

huyện Thanh Trì, năm 2005, số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ là 3.308 hộ với 4.683

người thì đến năm 2010 tăng lên 5.784 hộ với 9.682 người. Đối với huyện Sóc Sơn, một

huyện có tốc độ đô thị hóa chậm hơn so với Từ Liêm, năm 2005 số cơ sở kinh doanh

thương nghiệp là 4.355 cơ sở thì đến năm 2011 đã tăng lên 6.516 cơ sở [23].

Những năm gần đây, hoạt động ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở

nông thôn ngoại thành Hà Nội cũng thu hút được số lao động tham gia sản xuất trong

các làng có nghề là khá lớn. Ở Từ Liêm có 11 làng, Thanh Trì 24 làng nghề, Gia Lâm 22

làng… Thu nhập bình quân của một lao động trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công

nghiệp đạt khoảng 1.092.000 đồng/người/tháng (khoảng 13 triệu đồng/năm). Các huyện

có thu nhập khá là Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh đạt từ 21-31 triệu đồng/năm; Thanh

Trì từ 10-20 triệu đồng/năm [178, tr.97]. Qua đó, có thể nhận thấy rằng, trong quá trình

chuyển đổi nghề nghiệp của người dân ở huyện Từ Liêm, buôn bán thương mại và phát

triển nghề phụ tại các làng nghề được cho là phù hợp hơn cả, bởi hai nhóm ngành này có

thể đem lại thu nhập cao và có tính ổn định.

5. .5. Đời s ng vật hất, tinh thần ng ời ân ợ nâng o

Hiện nay có nhiều tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân

cư, song các tiêu chí này chủ yếu xoay quanh việc thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của

người dân, đó là nhu cầu về đời sống vật chất và nhu cầu về đời sống tinh thần. Đời

130

sống vật chất là sự đáp ứng về các phương tiện vật chất sinh hoạt hàng ngày như nhà

cửa, phương tiện sinh hoạt, các thiết bị tiện nghi trong gia đình... Còn đời sống tinh thần

là sự thỏa mãn về nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ tri thức, nhu cầu vươn lên cái chân

thiện mỹ, được thể hiện qua các hoạt động vui chơi, lễ hội, thể dục thể thao...

Quá trình phát triển của huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị hóa đã mang lại

sự thay đổi đời sống của nhiều gia đình theo chiều hướng tích cực cả trên phương diện

đời sống kinh tế lẫn đời sống tinh thần. Có thể thấy rằng, điều kiện cuộc sống của người

dân Từ Liêm ào thời điểm trước khi huyện bị giải thể so với những năm trước đó có

bước phát triển mới. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã đưa lại cho người dân những

lợi ích cụ thể, mức thu nhập ít nhiều đã được nâng cao, điều kiện làm việc, sinh hoạt

được cải thiện theo xu hướng hiện đại hóa, đô thị hóa, điều kiện ăn ở và sinh hoạt hàng

ngày được cải thiện. Sự biến đổi trong đời sống kinh tế được ghi nhận một cách rõ nét

trong mức thu nhập và cơ cấu nguồn thu của người dân. Như đã trình bày, thu nhập bình

quân đầu người trên địa bàn huyện tăng nhanh từ năm 1996 đến năm 2013. Năm 2012,

thu nhập bình quân/người/năm của huyện Từ Liêm đạt 34,5 triệu đồng, tăng 12,7%

so với năm trước; trong đó hướng thu nhập hoạt động từ sản xuất kinh doanh ngành

nghề phi nông nghiệp tăng mạnh. Nguyên nhân dẫn đến thu nhập tăng là do thị trường

được mở rộng, có cơ hội làm việc nhiều hơn, buôn bán thuận lợi hơn, ngành nghề mới

tốt hơn... là những nguyên nhân chính tạo ra thu nhập cao hơn cho người dân. Đánh giá

về đời sống kinh tế của hộ gia đình, đa số người dân ở huyện Từ Liêm cho rằng điều

kiện, chất lượng cuộc sống của họ được cải thiện từng ngày. Một nghiên cứu chỉ ra rằng

có 68% người dân cho biết cuộc sống khá hơn so với trước kia, chỉ có 19,1% đánh giá

đời sống kinh tế và tinh thần của gia đình vẫn như cũ [133, tr.151].

ĐTH nhanh ở huyện Từ Liêm không chỉ làm thay đổi đời sống vật chất mà còn

chuyển biến sâu sắc trên khía cạnh đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân địa phương.

Những biến đổi đó được biểu hiện qua quá trình hòa nhập lối sống đô thị vào cuộc sống

nông thôn, qua tính cố kết cộng đồng, đến các hành vi và cách ứng xử của mỗi cư dân

trong đời sống gia đình và xã hội. Những thay đổi này làm cho đô thị và nông thôn xích

lại gần nhau hơn, nhưng nó cũng làm phá v cơ cấu xã hội nông thôn truyền thống.

ĐTH cũng làm biến đổi các mối quan hệ xã hội của cộng đồng dân cư huyện Từ

Liêm. Sự biến đổi này không chỉ diễn ra trong các mối quan hệ dòng tộc, làng xã mà

còn diễn ra ở trong các mối quan hệ xã hội đa chiều hơn do sự pha trộn nhiều tầng lớp

131

dân cư và sự chuyển đổi của các mô hình cư trú. Các khía cạnh văn hóa khác như hiếu,

hỷ, việc tham gia vào hoạt động văn hóa, thể dục thể thao cũng có nhiều biến đổi từ hình

thức đến nội dung.

Có thể nói rằng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân huyện Từ Liêm được

nâng lên rõ rệt, có nhiều thay đổi tích cực. Điều kiện và chất lượng sống của người dân

được cải thiện từng ngày. Đây là kết quả của việc phát triển kinh tế đã hướng tới việc

thay đổi đời sống của cộng đồng dân cư theo tác động ngày càng tốt hơn.

5.2. Hạn chế

5.2.1. Kinh t t ộ tăng t ng o nh ng h ền vững, ơ ấ inh t

h n h òn hậm

Bên cạnh những thành tựu cơ bản nêu trên, kinh tế huyện Từ Liêm vẫn còn những

hạn chế nhất định. Tốc độ kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng chưa bền vững, cơ cấu kinh

tế chuyển dịch vẫn còn chậm, chưa tương xứng với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, xã

hội mà huyện đang có. Đặc biệt, trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh như hiện

nay, phát triển kinh tế của huyện đang đứng trước nhiều thách thức. Hiện nay, ngành công

nghiệp đang giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế của huyện nhưng công nghệ và thiết

bị còn lạc hậu do thiếu vốn nên sản phẩm chất lượng chưa cao, thiếu tính đa dạng, giá

thành cao, khả năng cạnh tranh yếu. Hơn nữa, trong thời gian tới, với tính chất là một đô

thị, hoạt động công nghiệp không còn được khuyến khích và có xu hướng chuyển dịch ra

khỏi nội đô… nên điều tất yếu là các ngành công nghiệp hiện tại sẽ không còn cơ hội phát

triển nhiều và dần dần giảm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện.

Trong khi đó, hoạt động thương mại - dịch vụ chất lượng cao của huyện, được xác

định là hướng ưu tiên đối với một đô thị, lại gặp nhiều khó khăn để phát triển trong thời

gian tới do phụ thuộc lớn vào sự phát triển của các khu đô thị mới, của hệ thống hạ tầng

giao thông trong tương lai. Các hoạt động dịch vụ cá thể (cho thuê nhà, tạp hoá...) không ổn

định, phụ thuộc nhiều vào sự dịch chuyển dân số cơ học và đang có xu hướng chững lại.

Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng tiến bộ nhưng

chưa đáp ứng được yêu cầu và tiềm năng của địa phương. Mặc dù huyện đã chú trọng

ứng dụng khoa học kỹ thuật nhưng vẫn ở mức độ thấp so với yêu cầu phát triển. Quy

trình canh tác tại các vùng sản xuất chuyên canh của huyện còn đơn giản, manh mún, tự

phát, sản phẩm còn hạn chế về chất lượng, chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm

nông nghiệp sạch, đặc sản của địa phương. Việc phát huy thế mạnh của từng vùng trong

132

quá trình phát triển nông nghiệp chưa được khai thác nhiều dẫn đến tình trạng chênh

lệch giữa các vùng còn lớn về trình độ kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, năng suất và thu nhập.

Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp đã được huyện quan tâm nhưng vẫn còn thấp,

thiếu và chưa thu hút được các nguồn đầu tư từ các lĩnh vực kinh tế khác cho nông

nghiệp. Nông nghiệp vốn là một đặc thù riêng vốn có của huyện với nhiều sản phẩm nổi

tiếng như cam canh, bưởi diễn, hoa Tây Tựu lại đang đứng trước nguy cơ thu hẹp sản

xuất do việc triển khai các quy hoạch, dự án phát triển đô thị.

Bên cạnh đó, khả năng huy động nguồn lực tài chính để đầu tư, phát triển kinh tế

trong những năm qua của huyện còn khó khăn do tình hình kinh tế cả nước nói chung và

Hà Nội nói riêng chưa thực sự tăng trưởng ổn định, khả năng phát triển mạnh của các

doanh nghiệp không cao, việc thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn từ ngân

sách Thành phố cũng rất hạn chế, vấn đề nợ công chưa giải quyết được cơ bản sẽ là

thách thức lớn đối với huy động đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.

5.2.2. Hạ tầng ơ s hát t i n mạnh nh ng vẫn h theo t ộ hát t i n

inh t , hội

Không thể phủ nhận rằng trong giai đoạn 1996-2013, hạ tầng đô thị của huyện Từ

Liêm phát triển vượt bậc, đem lại bộ mặt mới mang tính cách thị thành, khang trang, sạch

đẹp, văn minh cho huyện Từ Liêm. Nhưng hệ thống hạ tầng giao thông của huyện vẫn chưa

theo kịp tốc độ tăng dân số cơ học và sự phát triển của kinh tế - xã hội. Hiện trạng cơ sở hạ tầng giao thông còn thiếu và yếu, tỷ lệ đất dành cho giao thông thấp, tỷ lệ km đường/km2

diện tích mới đạt 50% so với yêu cầu. Trong khi đó tỷ lệ phương tiện cá nhân tăng nhanh;

vận tải công cộng mới chỉ chiếm 10-15%... nên thường xuyên xảy ra ùn tắc, nhất là các giờ

cao điểm. Nhiều tuyến đường trục chính trên địa bàn một số xã Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mễ Trì,

Đông Ngạc, Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu... qua thời gian đã bị hư hỏng nặng và xuống

cấp nghiêm trọng do mật độ các phương tiện tham gia giao thông quá lớn, đặc biệt các loại

phương tiện vận tải quá khổ, quá tải trọng lưu thông qua đây đã tác động nghiêm trọng đến

chất lượng đường, ảnh hưởng đến hoạt động đi lại của nhân dân.

Huyện vẫn còn nhiều hộ dân chưa được sử dụng nước sạch từ nguồn nước cấp

chung của Thành phố. Một số địa phương có 100% hộ dân chưa được cấp nước sạch là:

Tây Mỗ, Xuân Phương, Liên Mạc, Thượng Cát. 1/3 hộ dân trên địa bàn xã Đại Mỗ chưa

được cấp nước sạch. Một số khu vực đang sử dụng nước cấp từ các trạm cấp nước của

nhà đầu tư các khu đô thị như KĐT Mỹ Đình 2 (khoảng 6000-7000 hộ dân) và những

133

khảo sát gần đây của cơ quan chuyên môn cho thấy chất lượng nước cấp của trạm không

đạt yêu cầu. Một số khu vực mặc dù đã được hòa mạng cấp nước của Thành phố nhưng

do nguồn nước yếu nên người dân vẫn phải dùng nước giếng khoan hoặc sử dụng nước

từ các trạm cấp nước khu vực như tại khu vực Mỹ Đình 2 (khoảng 20% hộ dân tại khu

dân cư cũ), Phú Đô và Trung Văn [151].

Hệ thống thoát nước chưa tương xứng với một đô thị hiện đại. Nhiều tuyến thoát

nước còn ở dạng mương, cống hở (mương chảy qua làng Phú Đô, dẫn về trạm bơm

Đồng Bông, nhiều tuyến mương thoát nước trong các khu dân cư tại xã Đại Mỗ, Tây

Mỗ, Xuân Phương, mương chảy qua làng Trung Văn…) gây ô nhiễm môi trường, mất

mỹ quan đô thị. Hệ thống thoát nước của các khu dân cư cũ chưa được khớp nối với các

khu đô thị (khu dân cư cũ Phú Đô, Mễ Trì..) thường xuyên gây hiện tượng úng ngập khi

trời mưa. Đối với khu dân cư cũ, trong ngõ xóm thường xảy ra hiện tượng úng ngập, vì

cốt nền thấp hơn khu đô thị mới xung quanh. Tại những khu vực đang có những dự án

triển khai, tồn tại các điểm úng ngập cục bộ do quá trình xây dựng làm ảnh hưởng đến

hệ thống thoát nước.

Hệ thống công viên, vườn hoa vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân vì lý do

phân tán, không tập trung thành một quần thể và gắn kết với hạ tầng kỹ thuật xung

quanh. Trong các khu dân cư cũ hầu như chưa có hệ thống công viên, điểm vui chơi cho

người dân. Đa số hồ nước chưa được cải tạo làm nơi vui chơi, giải trí cho người dân.

Hệ thống chiếu sáng trong khu vực chưa đồng bộ, chưa cung cấp điện áp và còn

lạc hậu về công nghệ và thiết bị. Nhiều nơi tỷ lệ đường đô thị chưa đạt tỷ lệ chiếu sáng

100%; Đối với khu vực làng xóm dân cư cũ hệ thống chiếu sáng đèn đường còn nhiều

hạn chế về thiết bị, công suất và không đồng bộ. Hiện có trên 70% đường ngõ xóm được

chiếu sáng, chủ yếu do người dân cùng đóng góp theo phong trào xây dựng nông thôn

mới. Mạng lưới cấp điện chưa được thiết kế theo quy hoạch tổng thể và hệ thống thiết bị

điện còn thiếu đồng bộ, phù hợp tiêu chuẩn và cảnh quan khu vực đảm bảo cấp điện

hiệu quả, nâng cao hiệu suất và hạn chế tổn thất điện áp.

5.2.3. Sứ é về vi làm, nhà , vấn ề n sinh hội, phân hóa giàu nghèo

ngà àng tăng

ĐTH ở Từ Liêm đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là mục tiêu giảm tỷ lệ

thất nghiệp của địa phương do áp lực giải quyết lao động; đào tạo nguồn lao động và đặc

biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp khi đất đai của họ bị thu hồi

134

trong quá trình đô thị hóa. Việc mất đi một số lượng lớn đất nông nghiệp đã đẩy người

dân đến chỗ thất nghiệp và thiếu việc làm. Nhiều hộ gia đình có hàng tỷ đồng từ việc

nhận tiền đền bù do mất đất mà vẫn không có việc làm. Bởi vì sau khi được Nhà nước

đền bù, đa số hộ nông dân dùng số tiền này vào việc xây nhà và mua sắm tiện nghi sinh

hoạt mà không chú ý dùng số tiền đó để tạo dựng việc làm. Thực trạng trên đã ảnh

hưởng lớn tới đời sống và việc làm của hàng nghìn người dân Từ Liêm. Những người

nông dân mất dần đất canh tác dẫn đến dư thừa lao động nông nghiệp và số lao động

thiếu việc làm ngày càng tăng trên địa bàn huyện. Theo đánh giá của các cơ quan chức

năng, trung bình cứ mỗi hộ bị mất đất có khoảng 1,5 lao động bị mất việc làm, cứ mỗi ha

nông nghiệp bị chuyển đổi sẽ có 20 lao động bị mất việc làm. Trước đây khi chưa mất đất

những lao động này chủ yếu làm nghề nông. Đến nay do đất sản xuất bị thu hẹp thì một

bộ phận lớn người lao động nông nghiệp chuyển sang các lĩnh vực khác như công nghiệp,

dịch vụ... Đến năm 2013, tỷ lệ lao động nông nghiệp Từ Liêm chỉ còn 9,2%, còn số lao

động phi nông nghiệp chiếm tới 90,8% [151]. Tuy vậy, trình độ học vấn cũng như nghề

nghiệp của phần lớn lao động chuyển sang khu vực phi nông nghiệp còn yếu, chưa thể

đáp ứng được yêu cầu của công việc mới. Ví dụ như lao động ở các khu công nghiệp là

những người phải có kỹ năng nghề nghiệp khá, có khả năng tiếp thu công nghệ mới,

nhưng số đông thanh niên nông thôn vùng ngoại thành chưa hội tụ đủ những điều kiện đó.

Đặc biệt những thanh niên thuộc những xã bị KCN lấy đất như Nam Thăng Long, Minh

Khai, Phú Minh…, họ là đối tượng được Ban quản lý KCN ưu tiên tiếp nhận nhưng chính

họ chưa đáp ứng kịp những tiêu chí về tay nghề, trình độ văn hóa… Và thực tế là xảy ra

sự thiếu hụt đội ngũ lao động trẻ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, công nhân lành nghề

cung cấp cho thị trường lao động trong khi thừa lao động giản đơn, trình độ thấp chưa qua

đào tạo nghề. Do vậy, vấn đề đào tạo, học nghề cho người lao động thuộc các lĩnh vực

công nghiệp và dịch vụ trở thành một vấn đề quan trọng không chỉ đối với huyện Từ Liêm

nói riêng mà còn đối với tất cả các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung.

Sự gia tăng dân số nhanh chóng trong khi cơ sở hạ tầng đô thị của huyện dù có

bước phát triển đột phá nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của một đô thị

thực sự đã tạo nên sức ép quá tải ngày càng lớn trên nhiều góc độ khác nhau. Các dòng

dịch cư từ nông thôn, các tỉnh, huyện lân cận đổ vào huyện ngày càng tăng và rất khó

kiểm soát, quản lý. Sức ép dân số đô thị vốn đã quá tải lại càng quá tải hơn (về đất đai,

nhà ở, công tác quy hoạch và quản lý đô thị, giáo dục, y tế…). Chỉ riêng ở lĩnh vực

135

chăm sóc sức khỏe nhân dân, mặc dù công tác y tế của Từ Liêm đã được công nhận đạt

chuẩn quốc gia ở cả 16 xã, thị trấn; thời gian qua, huyện đã đầu tư khoảng 60 tỷ đồng

cho nâng cấp các trạm y tế, bổ sung thay mới trang thiết bị khám chữa bệnh cho người

dân nhưng cũng không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội vì số dân quá đông. Nhất là

ở những xã có số dân cơ học lớn như Cổ Nhuế, Minh Khai, Mễ Trì, Phú Diễn, Tây Tựu,

Trung Văn... Ngay cả trong giáo dục, trong những năm gần đây, huyện đầu tư cho giáo

dục công lập tới 300 tỷ đồng và đã có tới gần 30 trường học ở ba cấp THCS, Tiểu học

và Mầm non của huyện đạt chuẩn quốc gia. Song vấn đề giáo dục của Từ Liêm vẫn

đang chịu sức ép quá tải về số lượng học sinh ở các khu đô thị và những xã đô thị hóa

nhanh. Ở nhiều trường công lập cơ sở vật chất, nhất là phòng học, giáo viên... không đáp

ứng được nhu cầu đến trường của trẻ vì quá đông. Ngược lại, những trường dân lập tư

thục trên địa bàn tuy cơ sở tốt nhưng chỉ đáp ứng được cho một bộ phận gia đình có thu

nhập cao mà không đáp ứng được mặt bằng chung của xã hội.

Nhà ở cũng là vấn đề nan giải đối với huyện Từ Liêm. Đa phần người nhập cư không

có khả năng mua được nhà để ở, do vậy họ phải đi thuê nhà. Tình trạng mất an ninh trật tự,

thiếu an toàn và ô nhiễm môi trường ở những khu nhà trọ trong huyện thường xuyên xảy ra. Trong những năm gần đây, huyện Từ Liêm cũng đã xây dựng hàng chục ngàn m2 nhà để

phục vụ nhu cầu cho người nhập cư nhưng vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu nhà ở. Đó là

một bài toán khó đối với huyện Từ Liêm trong bối cảnh đô thị hóa.

Số lượng dân cư quá đông nhưng cơ chế quản lý nhà nước lại là mô hình cấp

huyện nên rất khó để đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội trên

địa bàn. Đất chật người đông sẽ kéo theo một khối lượng công việc khổng lồ về quản lý

nhà nước trên địa bàn. Qua thống kê, năm 2012, huyện đã giải quyết nhiều thủ tục hành

chính của các tổ chức và công dân, gấp nhiều lần các quận, huyện khác của Thành phố

Hà Nội. Cụ thể, năm 2012, toàn huyện tiếp nhận 701.509 hồ sơ, đã giải quyết 699.213

hồ sơ; trong đó bộ phận “một cửa” của huyện tiếp nhận 44.386 hồ sơ, đã giải quyết

được 99,71%; Tại bộ phận “một cửa” của các xã, thị trấn, đã tiếp nhận 194.691 hồ

sơ, giải quyết được 194.586 hồ sơ [151]. Vì vậy, huyện Từ Liêm gặp nhiều khó khăn

trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đô thị, quản lý quá trình phát

triển kinh tế - xã hội và quản lý dân cư. Từ thực tế của địa phương, Từ Liêm đã được

tách thành hai đơn vị hành chính cấp quận, vừa bảo đảm công tác quản lý nhà nước ở

136

địa phương, đồng thời cũng phù hợp với thực tế của khu vực, tạo điều kiện phát triển

vùng đô thị mới phía Tây của Thủ đô.

Trên thực tế, với tốc độ ĐTH nhanh như trong giai đoạn nghiên cứu đã làm cho

một bộ phận dân cư ven đô giàu lên nhanh chóng. Một số do sở hữu được một diện tích

lớn đất đai lại có vị trí đắc địa nên họ dễ dàng bán ra với giá cả thị trường cho nên thu

lại được những khỏan tiền lớn và hiển nhiên họ giàu lên nhanh chóng, trở thành những

người thượng lưu. Có không ít người đã biết đưa nguồn vốn thu lại nhờ bán đất vào sản

xuất, kinh doanh... nên chẳng bao lâu nguồn vốn ban đầu càng ngày càng lớn dần. Một

số khác, có thể thu nhập về bán đất không là bao nhiêu, nhưng trong tiến trình đô thị

hóa, họ nhanh nhạy nắm bắt được thời cơ, bắt nhịp được với tốc độ chuyển đổi, họ

nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi này. Đối với những người như vậy thì họ có

nhiều cách để phát triển kinh tế hộ gia đình như chủ động đầu tư vốn để phát triển các

ngành nghề khác như dịch vụ (buôn bán nhỏ, cho thuê phòng trọ, kinh doanh nhà

hàng,…) hay tham gia vào các ngành sản xuất ra các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, lãi

suất lớn hoặc chuyển sang làm một số nghề đơn giản nhưng có thu nhập tương đối ổn

định theo nhu cầu của thị trường như lái xe taxi, xe ôm, thợ xây hay học nghề để có đủ

tay nghề làm việc trong các khu công nghiệp… Còn nếu vẫn còn ít nhiều đất canh tác để

tiếp tục sản xuất nông nghiệp thì họ quay trở lại đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật… để

nâng cao giá trị sản xuất, đem lại nguồn thu cho gia đình.

Bên cạnh số người thích ứng nhanh thì quá trình ĐTH cũng đồng thời làm cho một

số khác nghèo đi do mất đất và không có sự nhạy bén để kịp thời hội nhập vào các hoạt

động đô thị. Một số người không thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của dô thị

hóa sẽ dần dần rơi vào tình trạng mất hết tư liệu sản xuất, bản thân không đáp ứng được yêu

cầu công việc mới nên tình trạng đã nghèo lại càng nghèo hơn. Số hộ nghèo tập trung chủ

yếu ở những gia đình không có người chuyển đổi nghề; đa số là những gia đình chủ yếu là

người lớn tuổi, ngại thay đổi và không theo kịp được với sự thay đổi. Hệ quả là sự phân hóa

giàu nghèo và những mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội đã nảy sinh. Các nhóm

được hưởng lợi từ việc thu hồi đất thì ủng hộ chính sách quy hoạch của thành phố, còn

nhóm bị mất đất và không chuyển đổi kịp thời thì không đồng tình, thậm chí chống đối và

gây cản trở cho việc thu hồi đất. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc đầu tư, dẫn đến

hạn chế tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Và cũng như một tất yếu, đã nghèo

về kinh tế thì lại càng khó có cơ hội để tiếp cận nhiều hơn với giáo dục, y tế và các nhu cầu

137

khác trong đời sống; đồng thời với đó là không ít người trong tình trạng nghèo đói lại rất dễ

rơi vào vòng tệ nạn xã hội. Có thể thấy rằng, phân hóa giàu nghèo được thể hiện khá rõ nét

ở cộng đồng dân cư nông thôn ở Từ Liêm trong bối cảnh ĐTH. Những người chiếm lợi thế

xã hội về vốn kinh tế, vốn văn hóa đang có những thuận lợi nhất định để thay đổi vị trí của

mình. Trong khi đó những người không có hoặc có ít vốn kinh tế thì lại có ít vốn văn hóa

nên họ nghèo lại càng nghèo thêm.

Bên cạnh đó, quá trình ĐTH đã làm biến đổi lối sống của người dân huyện Từ

Liêm trên tất cả các lĩnh vực theo hai xu hướng tích cực và tiêu cực. Văn hóa, lối sống ở

Từ Liêm đã có nhiều sự thay đổi, từ văn hóa, lối sống nông thôn truyền thống chuyển

sang văn hóa, lối sống thị thành. Sự chuyển hướng trong đới sống văn hóa và lối sống

trước hết được thể hiện qua sự thay đổi về kiến trúc, kết cấu nhà ở, nề nếp sinh hoạt gia

đình, cách sử dụng thời gian nhàn rỗi, trong quan hệ xã hội như tham gia, tổ chức lễ hội,

sử dụng các phương tiện giải trí... Có thể nhận thấy sự đa dạng về thành phần dân cư và

khác biệt trong văn hóa, lối sống hàng ngày là một sự pha trộn, giao thoa giữa văn hóa

đô thị và văn hóa nông thôn ở Từ Liêm hiện nay. Điều này là quy luật tất yếu và xu

hướng biến đổi tích cực vẫn chiếm một cách ưu thế, tạo nền tảng cho sự phát triển ngày

một toàn diện của Từ Liêm; tuy nhiên sự xung đột về lối sống, nếp sinh hoạt “cũ-mới”

trong cộng động dân cư vẫn còn là một điều không thể tránh khỏi và cần được giải quyết

thật thấu đáo, có lý, có tình. Vấn đề đặt ra là vừa phải phát huy duy trì những nét đẹp

văn hóa truyền thống đặc trưng của địa phương, vừa tiếp thu, tiếp biến những tinh hoa

văn hóa hiện đại trên cơ sở là hướng đến một môi trường văn hóa, văn minh hài hòa.

5.2.4. nạn hội, nhiễm m i t ờng ngà àng iễn i n hứ tạ

Với tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng cùng với làn sóng di cư từ các địa

phương khác đến Từ Liêm dẫn đến sự gia tăng dân số và đặt ra nhiều thách thức cho Từ

Liêm trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực môi trường, an ninh xã hội. Bức tranh

đô thị đã có sự đối lập giữa một bên là tốc độ phát triển ngày càng nhanh các khu chung

cư, khu đô thị mới hiện đại và một bên là sự tồn tại của các khu nhà tạm bợ, hệ thống hạ

tầng kỹ thuật thấp kém, tệ nạn xã hội gia tăng và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.

- Tệ nạn xã hội: Tốc độ đô thị hóa nhanh kéo theo các tệ nạn xã hội cũng có xu

hướng tăng lên nhanh chóng. Tình trạng mua bán, sang nhượng, cắm cọc, san lấp, bỏ

hoang diện tích đất chờ sang nhượng khá phổ biến; điều này làm ảnh hưởng đến cuộc

sống của cộng đồng dân cư. Người nông dân Từ Liêm trước đây là nông dân thuần túy,

138

thu nhập không cao, mức sống thấp, nay bị thu hồi đất được đền bù một khoản tiền lớn.

Đa phần trong số họ có kế hoạch làm ăn, chuyển hướng đào tạo nghề nghiệp phù hợp

với các thành viên trong gia đình nhưng cũng có một bộ phận với số tiền thu hồi do bán

đất, họ xây nhà, mua xe, sắm sửa mà không nghĩ rằng hết tiền sẽ trắng tay, lại rơi vào

tình trạng còn nghèo hơn cả khi không có tiền đền bù. Hơn nữa, việc trông chờ bán đất

khiến không ít hộ ngại đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, khiến diện tích đất ruộng bỏ

hoang. Đô thị hóa ở một số xã đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị xé nhỏ, đan xen

với các công trình công cộng; đồng thời hệ thống thuỷ lợi, tưới tiêu cũng bị chia cắt, bị

phá v dẫn đến hệ quả là trời mưa thì ngập úng không thể thoát, trời nắng thì không dẫn

được nước vào đồng, phải chịu cảnh hạn hán, ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp.

Có nhiều mảnh đất còn trở thành nơi chưa chất thải xây dựng, rác thải… của dự án; trở

thành nơi trú ngụ cho sâu bệnh, chuột bọ thậm chí trở thành nơi gây mầm bệnh lây

nhiễm đối với sức khỏa của con người và gia súc; nhiều mảnh đất “kẹp” đã bị bỏ hoang,

dừng hẳn canh tác.

Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội

và gia tăng bạo lực do tranh giành đất đai vì đất là nguồn sinh kế chính của nhiều hộ

nông dân của huyện Từ Liêm. Do đất ở khu vực huyện Từ Liêm nói riêng và vùng ven

đô nói chung ngày càng trở nên khan hiếm, dẫn đến giá đất ở đây ngày càng tăng cao,

tạo ta một sức ép tâm lý cho người dân. Việc gia tăng giá trị của quyền sử dụng đất cũng

làm nảy sinh tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, làng xóm… Trước

kia, khi giá trị đất còn thấp thì việc phân chia dường như là một việc dễ dàng hơn nhiều.

Năm 2012, huyện Từ Liêm đã giải quyết trên 500 vụ kiện tụng, tranh giành đất đai,

nhiều gia đình tan nát. Hiện tượng đánh nhau gây thương tích do tranh chấp đất đai

thường xuyên diễn ra trên địa bàn huyện.

Bên cạnh đó là sự gia tăng các tệ nạn xã hội thâm nhập vào cộng đồng nông thôn

như cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma túy… Đây không phải là điều mới nhưng nó gia

tăng mạnh mẽ kể từ khi người dân có nhiều tiền nhờ bán đất và nhiều thời gian rỗi vì

không có việc làm. Theo khảo sát của chúng tôi, đặc biệt tại các địa phương có nhiều đất

nông nghiệp bị thu hồi như Mỹ Đình, Mễ Trì… rất dễ dàng nhìn thấy những nhóm

người (đủ mọi lứa tuổi) tụ tập chơi bời ở nơi công cộng hay tại các gia đình. Nguyên

nhân chính của hiện tượng này là do họ quá nhàn rỗi, không có việc để làm cộng vào đó

là tâm lý lười lao động, thích đua đòi. Năm 1996, huyện Từ Liêm có 121 người nghiện

139

hút, 12 người hành nghề mại dâm, nhưng đến năm 2013, số lượng đã tăng lên rất nhiều [6].

Cụ thể tại xã Mễ Trì, tình trạng cờ bạc, cho vay nặng lãi, ma túy, mại dâm vẫn tồn tại dai

dẳng; vi phạm đất đai, trật tự xây dựng chưa được giải quyết dứt điểm dẫn đến gây mất an

ninh trật tự. Toàn xã có tổng số 218 vụ vi phạm, trong đó: 22 đối tượng ma túy,135 đối

tượng hình sự, 5 đối tượng lô đề, 25 cơ sở cầm đồ, 17 nhà nghỉ, 6 khách sạn, 2 cơ sở tầm

quất, 6 cơ sở karaoke [171]. Còn ở xã Trung Văn đã xảy ra 36 vụ phạm pháp hình sự, đã

điều tra làm rõ 20 vụ, 33 đối tượng, xử lý hành chính 05 vụ với 14 đối tượng [172]. Hiện

tượng thanh niên nghiện ma túy cũng vẫn còn tái diễn như xã Tây Mỗ có 21 đối tượng,

trong đó có 9 người điều trị thay thế bằng methađon, 5 người chưa cai lần nào, có 6 người

đang ở tại các trung tâm cai nghiện [173]; xã Đại Mỗ có 19 người. Trong nghiên cứu với

540 hộ gia của huyện Từ Liêm, Bùi Văn Tuấn đã cho thấy, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô

đề, nghiện bia rượu, nghiện hút, tiêm chích ma túy chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tiếp đến là

nạn trộm cắp, cướp giật 29,1%; gây rối mất trật tự an ninh 19,0%; bạo lực gia đình 14,2%.

Theo đó, tệ nạn xã hội ở địa phương ngày càng phổ biến và nghiêm trọng chiếm 20.9%; tệ

nạn xã hội ngày càng tinh vi hơn chiếm 33,9% [133, tr. 190].

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tệ nạn xã hội của huyện Từ Liêm phát triển nhiều

hơn trong giai đoạn này là do những mặt trái của ĐTH. ĐTH làm cho dân số tăng

nhanh, kinh tế phát triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Tình trạng

thất nghiệp, nghèo đói đã đẩy một bộ phận dân cư sa vào tệ nạn xã hội. Tình trạng đạo

đức xuống cấp đã làm tha hóa một bộ phận dân cư trong đó có nhiều thanh thiếu niên,

học sinh coi thường pháp luật. Cùng với đó là sự thiếu quan tâm chăm sóc của gia đình,

xã hội và tình trạng buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, các cơ quan chức

năng cũng là một nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Một số nguyên nhân cơ

bản dẫn đễn tình trạng phát triển tệ nạn xã hội ở Từ Liêm: Kỷ cương pháp luật không

nghiêm 58,2%; Công tác phòng ngừa và đấu tranh chưa tốt 62,2%; Mặt trái của cơ chế

thị trường 54,4%; Nhận thức của người dân 41,1%; Đạo đức của một bộ phận dân cư

xuống cấp 43,6%... [133, tr.110].

- Ô nhiễm môi trường: Quá trình ĐTH cũng tác động không nhỏ đến môi trường

của huyện Từ Liêm. Sự phát triển của các làng nghề thiếu biện pháp xử lý chất thải,

nước thải và hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu của các doanh nghiệp chưa được quan

tâm đổi mới đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tại một số khu vực nông thôn, đặc

biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông do chất thải, nước thải, rác thải và bụi

140

công nghiệp. Tại một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp, hệ thống xử lý nước thải

công nghiệp chưa được xây dựng đồng thời cùng với sự phát triển của các dự án đầu tư

công nghiệp và thiếu các nhà máy xử lý rác thải công nghiệp một cách có hiệu quả cũng

là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái của trên địa bàn huyện. Tất

cả điều đó đã trực tiếp ảnh hưởng có hại đến đời sống sức khỏe của người lao động và

nhân dân. Một bộ phận không nhỏ người dân quanh các khu công nghiệp… luôn trong

tình trạng đau đầu, ù tai, chóng mặt, mệt mỏi; một bộ phận khác thì bị bệnh thần kinh,

đường ruột, da liễu… Hơn nữa, để đạt được mục tiêu tăng năng suất cây trồng, vật nuôi

người dân phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu

giống, sử dụng hóa chất, sử dụng phân bón hóa học. Các loại hóa chất này đã và đang là

nguyên nhân làm giảm số lượng của nhiều loại sinh vật có ích, làm giảm đa dạng sinh học,

làm xuất hiện các loài sâu hại kháng thuốc,... đã tác động rất lớn đến môi trường sinh thái.

Về mức độ ô nhiễm không khí, theo kết quả đo đạc, phân tích chất lượng môi

trường không khí, đa số các huyện ngoại thành Hà Nội đều bị ô nhiễm nặng nề về bụi,

tiếng ồn... Từ Liêm là một trong các huyện của Hà Nội bị ô nhiễm nặng nhất. Ở huyện

Từ Liêm, số liệu quan trắc không khí có kết quả là 103,9; huyện Gia Lâm là 137,5 [39,

tr.1159]. Môi trường không khí trên địa bàn một số nơi có hoạt động sản xuất nghề có

dấu hiệu bị ô nhiễm như bún Phú Đô (Mễ Trì), Trung Văn... Theo kết quả quan trắc của

Trung tâm quan trắc, Sở Tài nguyên môi trường, các thông số bụi tổng số (TSP) vượt

1,61 lần QCVN; SO2 vượt là 1,01 lần, bụi As vượt 1,53 lần QCVN; nồng độ Cr vượt

22,86 lần quy chuẩn cho phép [151]. Hay tại các tuyến đường có mật độ giao thông lớn

như Phạm Văn Đồng, đường 32, khu vực bến xe Mỹ Đình…, môi trường không khí có

dấu hiệu ô nhiễm bởi khí CO, SO2, NO2, bụi PM10, bụi chì, Benzen và tiếng ồn. Bên

cạnh đó, do hoạt động xây dựng của huyện Từ Liêm như: nhà cửa, đường xá, cầu

cống,... rất mạnh và diễn ra ở khắp nơi đã gây ra hiện tượng ô nhiễm bụi cục bộ, ảnh

hưởng đến cuộc sống của người dân.

Về mức độ ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm môi trường nước mặt hiện đang là

vấn đề quan trọng của Từ Liêm. Với dân số của huyện Từ Liêm là 523.400 người năm 2013, lượng nước thải sinh hoạt thải ra ước tính hơn 60.000m3/ngày. Khối lượng nước

thải này một phần được xả trực tiếp xuống các ao, hồ trong khu vực dân cư, phần lớn

còn lại qua các kênh, mương, cống thoát nước xả thẳng vào sông Nhuệ.

141

Có thể lấy ví dụ như Hồ Mễ Trì thuộc xã Mễ Trì là hồ có chức năng điều hòa của

khu vực, tuy nhiên hiện tại hồ nhận toàn bộ nước thải sinh hoạt của khu Đô thị Mễ Trì,

theo đường dẫn dưới hồ chảy ra sông Nhuệ. Nước hồ có màu đen và ô nhiễm nghiêm

trọng. Hay như Sông Cầu Đá (chảy qua nhiều phường và đổ về sông Nhuệ), hứng chịu

toàn bộ nước bẩn, rác thải dồn ứ lại của khu vực dân cư phía trên. Hiện nay, khu đô thị

mới Cổ Nhuế được xây dựng đã chặn đường thoát nước của thôn Hoàng 2 và Hoàng 3

phường Cổ Nhuế khiến đoạn sông đi qua xã Cổ Nhuế dài chừng 1 km nước đen đặc, ô

nhiễm nghiêm trọng [151]. Hay tại làng nghề bún Phú Đô, cứ trong 10.200 tấn sản phẩm

mỗi năm đã thải các chất ô nhiễm 76,9 tấn COD; 53,14 tấn BOD5; 9,38 tấn SS, toàn bộ

được thải xuống sông Nhuệ, gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng. Sự ô nhiễm

của các thủy vực nước mặt ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt và sức khỏe

con người, gây mất mỹ quan đô thị.

Công tác thu gom chất thải rắn trên địa bàn chưa được thực hiện triệt để, chỉ đạt

khoảng 90% đối với chất thải rắn sinh hoạt. Với dân số của Từ Liêm, lượng rác thải sinh

hoạt thải ra ước tính khoảng gần 500 tấn/ngày. Hiện toàn bộ lượng rác thải thu gom và

không phân loại được vận chuyển trực tiếp về các khu xử lý rác thải sinh hoạt tập trung

của của thành phố. Theo kết quả khảo sát, hiện tượng đổ thải ra môi trường tại các khu

dân cư vẫn tồn tại (tại Thượng Cát, Xuân Tảo,…). Nguyên nhân chủ yếu do ý thức của

người dân chưa cao, chưa quen với nếp sống sinh hoạt đô thị. Hiện tượng đổ chất thải

rắn xây dựng ra khu vực công cộng xảy ra phổ biến và chưa có biện pháp quản lý hữu

hiệu. Tại một số tuyến đường cho thấy, tình trạng đổ trộm phế thải xây dựng hoặc đổ

phế thải xây dựng không đúng nơi quy định vẫn đang diễn ra như: khu vực đường Phan

Bá Vành, đường Sông Nhuệ, khu vực đường Phúc Diễn, Lương Thế Vinh, Trung Văn,

khu vực phía sau bến xe Mỹ Đình… Trong đó đặc biệt những khu đất trống, đất chưa

xây dựng,… là điểm tập kết phế thải xây dựng nhiều nhất. Phế thải xây dựng tại những

khu vực này chất thành hàng, đống qua thời gian đã có cây, cỏ dại mọc trên hoặc xung

quanh… một số ống, cọc bê tông v , hỏng hoặc không sử dụng cũng được để trên một

số tuyến đường, ảnh hưởng tới mỹ quan và giao thông đi lại của người dân.

5.3. Một số vấn đề đặt ra

5.3. . Vấn ề hoạ h và ản lý th

Quá trình ĐTH là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, kinh tế đô

thị chiếm tỷ trọng chi phối trong tổng GDP, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp,

142

giá trị xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận tiến bộ khoa học công nghệ, đã

góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân… Song bên cạnh tác động tích cực

cũng nảy sinh nhiều vấn đề nan giải, bất cập giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn,

giữa quy hoạch và quản lý đô thị… Là nơi giáp ranh với nội đô nên các huyện ngoại

thành như Từ Liêm phải đối mặt với những khó khăn, tồn tại trong công tác quản lý, sử

dụng đất đai, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép trên đất nông

nghiệp, đất để hoang hóa và sử dụng không hiệu quả. Mặc dù trong giai đoạn này, huyện

Từ Liêm đã rất chú ý đến việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ quy

hoạch, các dự án đầu tư được phê duyệt, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm quy

hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết xây dựng của huyện; thực hiện các quy định về

quản lý đô thị, đất đai, trật tự xây dựng… trên địa bàn huyện, nhưng trên thực tế vẫn xảy

ra tình trạng trên. Theo báo cáo của UBND huyện Từ Liêm năm 2009, toàn huyện hiện

có tổng số 119 dự án liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), với tổng diện tích đất cần GPMB hơn 4 triệu m2; trong đó, có 113 dự án đủ điều kiện thực hiện

GPMB và 6 dự án không đủ điều kiện. Các dự án này được thành phố quyết định giao

đất để triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ trước năm 2009, (trong đó có

5 dự án chủ đầu tư không có quỹ đất tái định cư và 1 dự án chủ đầu tư không thực hiện

dự án). Bên cạnh đó còn phát hiện 108 trường hợp vi phạm trên đất nông nghiệp với diện tích khoảng 6.800m2 [151]. Hay năm 2012, huyện Từ Liêm đã xử lý vi phạm về đất

đai, môi trường với tổng số 210 biên bản, 92 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, 94

quyết định cư ng chế, 16 trường hợp vi phạm pháp luật đê điều. Trong công tác quản lý

trật tự xây dựng, đã lập biên bản vi phạm 263 công trình, đình chỉ thi công 202 công

trình; xử phạt 78 trường hợp, cư ng chế 170 công trình vi phạm [151].

Bên cạnh đó, như trên đã trình bày, năm 2013, huyện Từ Liêm có diện tích là 7.562ha, dân số là 532.400 người, mật độ dân số là 7.300km2. Theo Quy hoạch tổng thể

phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy

hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng

phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2011, huyện Từ Liêm

nằm trong khu vực quy hoạch đô thị trung tâm Thủ đô Hà Nội. Do đó, trong tương lai,

nhiều đô thị mới sẽ được đưa vào sử dụng; khi đó quy mô cũng như mật độ dân số

huyện Từ Liêm sẽ gia tăng một cách nhanh chóng. Đất chật người đông sẽ kéo theo một

khối lượng công việc khổng lồ về quản lý nhà nước trên địa bàn. Qua thống kê, năm

2012, huyện đã giải quyết 506.818 thủ tục hành chính của các tổ chức và công dân, gấp

143

nhiều lần các quận, huyện khác của Thành phố Hà Nội [151]. Vì vậy, huyện Từ Liêm

gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đô thị,

quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội và quản lý dân cư. Do đó, để đảm bảo cho sự

phát triển bền vững trong khu vực, ngay từ năm 2007, huyện Từ Liêm và Thành phố Hà

Nội đã xây dựng đề án, đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập hai quận và

các phường. Tại Đề án điều chỉnh địa giới hành chính, UBND huyện Từ Liêm cho rằng,

với tốc độ đô thị hóa nhanh như lúc bấy giờ, việc quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng

đô thị, quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện nếu không được

chuẩn bị kỹ càng, cụ thể thì sẽ không bảo đảm tính hiệu quả và thiếu yếu tố bền vững.

Và sau hơn 7 năm chuẩn bị, đến ngày 27 tháng 12 năm 2013, huyện Từ Liêm được giải

thể để thành lập nên 2 quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.

Quận Bắc Từ Liêm có 4.335,34 ha diện tích tự nhiên và 320.414 nhân khẩu, gồm

địa giới hành chính của 9 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh

Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế và một phần diện tích thị trấn Cầu

Diễn. Đơn vị hành chính trực thuộc quận Bắc Từ Liêm gồm 13 phường: Thượng Cát,

Liên Mạc, Thụy Phương, Minh Khai, Tây Tựu, Đông Ngạc, Đức Thắng, Xuân Đỉnh,

Xuân Tảo, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn, Phú Diễn.

Quận Nam Từ Liêm có 3.227,36 ha diện tích tự nhiên và 232.894 nhân khẩu, gồm

diện tích trong địa giới hành chính của 7 xã: Mễ Trì, Mỹ Đình, Trung Văn, Tây Mỗ, Đại

Mỗ; một phần diện tích xã Xuân Phương, một phần diện tích thị trấn Cầu Diễn. Đơn vị

hành chính của 1uận Nam Từ Liêm gồm 10 phường: Trung Văn, Đại Mỗ, Tây Mỗ, Mễ

Trì, Phú Đô, Mỹ Đình 1, Mỹ Đình 2, Cầu Diễn, Phương Canh, Xuân Phương.

Kinh nghiệm từ huyện Từ Liêm cho thấy, tốc độ đô thị hóa ở các huyện ngoại

thành Hà Nội, nhất là các huyện ven đô đang diễn ra nhanh chóng, vì vậy Thành phố

cũng như các huyện cần có quy hoạch phân bố đồng đều giữa các khu dân cư, khu đô thị

phù hợp với địa bàn, chú trọng xây dựng cơ chế quản lý xã hội và phát triển xã hội cộng

đồng hiện đại thay cho cơ chế quản lý mang tính nông thôn truyền thống. Chú trọng hơn

nữa vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp nhằm hướng đến xây dựng chính quyền đô thị;

tăng cường những biện pháp quản lý xã hội chặt chẽ nhằm bảo đảm trật tự và an toàn xã

hội ở khu vực nông thôn, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư vào quản trị biến

đổi xã hội trong bối cảnh đô thị hóa. Thành phố và các huyện đã chủ động đưa ra những

giải pháp thực hiện xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, tạo cơ sở vững chắc để

chuyển đổi và thích ứng với quá trình đô thị hóa; từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ

thống đô thị có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi

trường và chất lượng sống đô thị tốt; có kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; bảo tồn 144

và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp. Phát triển đô thị ổn định, bền

vững, trên cơ sở tổ chức không gian phù hợp; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất

đai, tiết kiệm năng lượng; bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái.

5.3.2. Vấn ề ào tạo và hát t i n ng ồn nhân lự

Cùng với phát triển kinh tế, trong giai đoạn 1996-2013, huyện Từ Liêm cũng chú

trọng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và

trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế

tri thức trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa từ năm 1996

đến năm 2013 đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của huyện Từ Liêm.

Năm 2006, tỷ lệ lao động qua đào tạo của toàn huyện là 39%, năm 2010 đã tăng lên

49%, là kết quả trực tiếp của quá trình đô thị hoá. Thực hiện theo Quyết định 1956/QĐ-

TTg của Thủ tướng Chính phủ, huyện Từ Liêm đã hoàn thiện Đề án "Đào tạo nghề cho

lao động nông thôn huyện Từ Liêm (2011 - 2020)" với kinh phí hơn 38 tỷ đồng dành

cho 14.700 người đang được triển khai... Cùng đó là kế hoạch hỗ trợ chi phí học nghề

cho nhiều loại hình lao động qua cơ sở đào tạo nghề và Phòng Lao động - Thương binh

và Xã hội với nhiều hình thức hỗ trợ chi phí học nghề như kinh phí học nghề, kinh phí

đi lại… Huyện đã mở nhiều các khóa học nghề dài hạn và ngắn hạn tại Trung tâm

hướng nghiệp dạy nghề của huyện và tại các cơ sở liên kết khác với đa dạng các ngành

nghề như: điện dân dụng, nghề sửa chữa điện thoại, may thời trang, sửa chữa vi tính, xe

máy, ô tô, tin học văn phòng, nấu ăn, trồng rau an toàn…

Tuy nhiên, việc đào tạo nghề của huyện còn mang tính dàn trải, ồ ạt, chủ yếu dạy

các nghề mà trung tâm có chứ chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế, chưa có sự quan tâm

tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Việc vận động người dân học nghề mới chỉ mang tính

hình thức phong trào, chưa chú ý đến việc phổ biến và định hướng nghề học cho người

dân phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong huyện. Hơn nữa, trang thiết bị dạy

học hầu hết đã lạc hậu, ít được đầu tư nâng cấp. Việc đào tạo chủ yếu theo theo các

chương trình có sẵn, không đáp ứng nghề mà người học cần và nhu cầu của người sử

dụng lao động. Do đó chất lượng đào tạo chưa cao, nhiều lao động học xong vẫn khó

khăn trong việc tìm kiếm việc làm do trình độ không đáp ứng được yêu cầu của nhà

tuyển dụng. Hơn nữa, việc xã hôi hóa trong đào tạo nghề chưa phát triển, chưa có cơ chế

khuyến khích các tổ chức kinh tế sử dụng lao động tham gia chương trình đào tạo nghề.

Do đó, trong thời gian tới, hai quận Bắc và Nam Từ Liêm phải tập trung nâng cao

chất lượng đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu

phát triển của vùng và địa phương; Tăng cường đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho

người dân tiếp tục chuyển đổi việc làm nâng cao thu nhập; Điều chỉnh công tác đào tạo 145

nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao động; liên kết chặt chẽ giữa các trường dạy nghề với

doanh nghiệp nhằm đào tạo đội ngũ lao động lành ghề đáp ứng nhu cầu việc làm và sử

dụng lao động ở nông thôn ven đô.

5.3.3. Vấn ề giải t hài hò giữ hát t i n inh t và ời s ng hội

Từ thực tế tác động của ĐTH đối với sự phát triển kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm,

có thể thấy, đối với mỗi quốc gia/địa phương trong quá trình ĐTH, phát triển kinh tế là

nguồn động lực chính, nhu cầu tất yếu để đảm bảo cuộc sống. Tuy nhiên, để phát triển

kinh tế mà không chú ý đến những yếu tố văn hóa, xã hội, môi trường sống… thì chiến

lược phát triển kinh tế đó sẽ không bền vững. Do đó phải giải quyết hài hòa giữa phát

triển kinh tế với đời sống xã hội.

Thứ nhất, phát triển văn hóa phải hài hòa với phát triển kinh tế: Văn hóa là động

lực của sự phát triển, do đó cần phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, đồng

thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn

hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh

tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đối với vùng ven đô Hà Nội nói chung và huyện Từ

Liêm mà nay là hai quận Bắc và Nam Từ Liêm nói riêng, cần tuyên truyền giáo dục

cộng đồng dân cư thực hiện nếp sống văn minh đô thị; xây dựng lối sống và môi trường

văn hóa lành mạnh ở địa phương; nâng cao trách nhiệm xã hội và ý thức chấp hành pháp

luật của cư dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển đô thị ở Từ Liêm

và vùng ven đô Hà Nội. Thực hiện quản lý tốt hơn đối với dân nhập cự, góp phần lập lại

trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội ổn định, bền vững.

Thứ hai, xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng:

Xây dựng và củng cố vững chắc nông thôn theo các tiêu chí nông thôn mới, phù hợp với

đặc điểm từng vùng; giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của nông thôn

truyền thống. Coi trọng mối liên kết đô thị - nông thôn. Giảm bớt sự khác biệt giữa các

vùng, khu vực nông thôn với thành thị, giữa các cộng đồng dân cư và tạo sự hòa nhập xã

hội bền vững; Quản lý tốt lao động di cư để thúc đẩy phân bố dân cư, lao động hợp lý

giữa các vùng.

Thứ ba, nâng cao hệ thống an sinh xã hội cả số lượng và chất lượng như y tế, giáo

dục, chăm sóc sức khỏe; bảo đảm an toàn thực phẩm; đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe

người dân theo hướng toàn diện.

Thứ tư, bảo vệ, khai thác hiệu quả và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên đất đai,

nguồn nước trên cơ sở quản lý, bảo đảm an ninh cho phát triển kinh tế - xã hội; sử dụng tiết

kiệm và tăng hiệu quả kinh tế trong sử dụng tài nguyên nước, đất đai. Tăng cường xây dựng

hệ thống thu gom và xử lý nước thải, rác thải ở các khu đô thị và khu công nghiệp; đẩy 146

mạnh nghiên cứu các biện pháp xử lý nước thải, rác thải từ hoạt động sản xuất, sinh hoạt

hàng ngày; nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.

i t h ơng 5:

Quá trình biến chuyển kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm dưới tác động của đô thị

hóa trong giai đoạn 1996-2013 đã diễn ra một cách sâu rộng, toàn diện trên các lĩnh

vực kinh tế cũng như xã hội. Đô thị hóa đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã

hội của địa phương theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực.

Đô thị hóa trước hết tác động rõ nhất và mạnh nhất là đến sự thay đổi của hạ tầng

cơ sở đô thị như hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống đường ống cấp nước

sạch, các khu nhà ở cao tầng, các công trình công cộng, hệ thống hạ tầng thương mại

dịch vụ với các trung tâm thương mại, siêu thị và chợ dân sinh, hệ thống công viên giải

trí, khu cây xanh, trung tâm thể thao... Đồng thời, đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực phi

nông nghiệp và đi kèm theo đó là sự biến đổi về thành phần kinh tế và phân vùng kinh

tế. Đô thị hóa cũng trực tiếp tác động làm cho quy mô dân số của huyện tăng lên nhanh

chóng, tạo ra sự chuyển biến rất sâu sắc về cơ cấu lao động của Từ Liêm. Cùng với biến

chuyển về kinh tế, đô thị hóa cũng đã mang lại sự thay đổi đời sống của nhiều gia đình

theo chiều hướng tích cực cả trên phương diện đời sống kinh tế lẫn đời sống tinh thần,

điều kiện sống của người dân được cải thiện một cách rõ nét so với những năm trước

mốc nghiên cứu.

Bên cạnh những tác động tích cực, đô thị hóa cũng làm nảy sinh nhiều hệ lụy đối

với đời sống xã hội huyện Từ Liêm. Đó là hệ thống hạ tầng giao thông vẫn chưa phát

triển theo kịp tốc độ tăng dân số cơ học và sự phát triển của kinh tế - xã hội, là sự phân

hóa giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội ngày càng gia tăng, là áp lực giải quyết

vấn đề lao động việc làm, đào tạo nguồn lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt là

vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác. Đô thị hóa

đồng thời kéo theo sự gia tăng nhanh chóng các loại tệ nạn xã hội, tác động xấu đến môi

trường sinh thái tại địa phương, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước sông do

chất thải, nước thải, rác thải và bụi công nghiệp.

Những vấn đề đặt ra đó đòi hỏi được nghiên cứu một cách cụ thể, khách quan và

khoa học để có thể giải quyết thấu đáo, tận gốc nhằm đảm bảo phát triển hài hòa giữa

nhiệm vụ kinh tế với văn hóa-xã hội; có như vậy địa phương mới có thể phát triển một

cách bền vững theo chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.

147

KẾT LUẬN

1. Từ năm 1996, cùng với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, bộ mặt đô thị của

huyện Từ Liêm nói riêng, của thành phố Hà Nội nói chung có những chuyển biến quan

trọng. Quá trình đô thị hóa ở Hà Nội đã nhanh chóng biến đổi nhiều khu vực ven đô

thành khu vực nội đô, nhiều khu vực ngoại ô trở thành vùng ven đô, trong đó có huyện

Từ Liêm. Từ Liêm là một huyện ngoại thành của Hà Nội có nhiều đặc trưng tiêu biểu

cho đô thị hóa vùng ven đô Hà Nội. Đô thị hóa đã mang lại cho Từ Liêm một bộ mặt

văn minh, hiện đại hơn và đồng thời cũng mang đến nhiều thay đổi tích cực trong cuộc

sống cả về vật chất lẫn tinh thần của người dân nơi đây. Cơ cấu kinh tế-xã hội đã có

nhiều biến đổi căn bản và sâu rộng, hệ thống cơ sở hạ tầng được xây dựng theo hướng

đô thị hóa, nhiều khu đô thị hiện đại xuất hiện, môi trường cảnh quan có nhiều thay đổi

phù hợp với lối sống đô thị... Trước năm 1996, Từ Liêm là một huyện thuần nông thì

hiện nay với những chính sách phát triển của Thủ đô, Từ Liêm đã được quy hoạch, xây

dựng lại và phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm hành chính của

Thủ đô Hà Nội. Có thể nói, trong giai đoạn 1996 đến 2013, huyện từ Liêm là huyện có

tốc độ đô thị hóa nhanh và chuyển biến kinh tế, xã hội mạnh nhất trong các huyện ngoại

thành của Hà Nội.

2. Quá trình đô thị hoá của huyện Từ Liêm đã dẫn tới sự chuyển biến mạnh mẽ và

toàn diện trên các lĩnh vực. Trên lĩnh vực kinh tế, trước hết là quá trình chuyển biến cơ

cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và thành phần kinh tế của một địa phương vùng

nông thôn ven đô sang đô thị. Từ một huyện thuần nông, lấy nông nghiệp là chính, kinh

tế huyện chuyển dịch theo hướng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ-thương mại và

sang thương mại-dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp, thương

mại-dịch vụ đã chiếm 98,2%, nông nghiệp chỉ còn 1,8%; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp

đạt 90,8%, lao động nông nghiệp còn 9,2%.... Sự chuyển dịch về cơ cấu đã góp phần

đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đa dạng hóa nguồn thu và tăng khối lượng thu

ngân sách của huyện và thành phố.

Trong nông nghiệp, huyện Từ Liêm chủ trương đưa sản xuất nông nghiệp phát

triển theo hướng đô thị sinh thái, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao hiệu quả

sản xuất nông nghiệp, tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích

lúa, rau, hạn chế phát triển vật nuôi, giữ vững diện tích hoa, cây cảnh, tăng cường ứng

dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Chuyển

148

dịch kinh tế nông nghiệp của huyện Từ Liêm đã góp phần hình thành các vùng sản xuất

chuyên canh tập trung theo hướng kinh tế thị trường và xuất khẩu.

Công nghiệp và thủ công nghiệp được huyện đầu tư, đổi mới công nghệ, sắp xếp,

củng cố, tổ chức lại sản xuất, trong đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có bước

phát triển nhanh về cả số lượng và chất lượng. Huyện tập trung phát triển công nghiệp

và thủ công nghiệp có chọn lọc, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch. Bên

cạnh đó, huyện đã tạo điều kiện cho các khu công nghiệp trên địa bàn phát triển, góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao.

Thương mại-dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển một cách mạnh mẽ và

rộng khắp. Từ một huyện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, dịch vụ-thương mại đã vươn

lên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các loại hình dịch vụ thịnh hành

như nhà ở, kinh doanh buôn bán nhỏ, bất động sản…

3. Kinh tế thay đổi đã làm cho đời sống xã hội của huyện Từ Liêm cũng biến đổi

mạnh mẽ; sự chuyển biến đó được thể hiện trên nhiều mặt như: dân cư, lao động việc

làm, đời sống cư dân, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và lối sống.

Trong bối cảnh đô thị hóa, cơ cấu dân cư huyện Từ Liêm tăng nhanh và liên tục

biến động. Dân số cơ học tăng nhanh, một mặt tạo ra lực lượng lao động dồi dào, có

chất lượng nhưng mặt khác tạo ra sự đa dạng của thành phần cư dân ở Từ Liêm.

Sự biến đổi trong lối sống của người dân ở huyện Từ Liêm được thể hiện rõ trong

việc thay đổi về kiến trúc, kết cấu nhà ở, trong sự chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp và

quá trình thích ứng của người dân với cuộc sống không còn ruộng đồng, trong quan hệ

cộng đồng cư dân từ cộng đồng làng xã sang cộng đồng đô thị và trong đời sống văn hoá

tinh thần. Có thể nhận thấy sự đa dạng về thành phần dân cư và khác biệt trong lối sống

là một sự pha trộn của lối sống đô thị và lối sống nông thôn ở Từ Liêm. Bên cạnh đó,

quá trình đô thị hoá cũng giúp cho người dân có phạm vi giao tiếp rộng với cường độ

cao, giảm các giao tiếp truyền thống, tăng cường các giao tiếp thứ cấp, theo chức năng

và vai trò, theo sở thích. Tuy nhiên, sự biến đổi của văn hoá và lối sống mặc dù diễn ra

trên nhiều mặt nhưng vẫn chưa có một sự thay đổi thật mạnh mẽ về chất.

Đối với giáo dục, đã có nhiều sự biến đổi tích cực, hệ thống trường học được đầu

tư xây dựng. Trong quá trình đô thị hóa nhanh, đa số người dân đều cố gắng đầu tư cho

con cái học tập, sẵn sàng cho con cái đi học thêm dù có tốn kém đến đâu và bất chấp nỗi

lo lắng về sự bội chi của ngân sách gia đình. Về y tế, người dân cũng khá hài lòng về hệ 149

thống y tế thôn xã về chăm sóc sức khỏe ban đầu, dịch vụ ngày càng thuận tiện hơn,

phong cách phục vụ của nhân viên y tế ngày càng tốt hơn, người dân yên tâm hơn vì có

thẻ bảo hiểm y tế.

4. Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hoá cũng đã làm các vấn đề xã

hội ở địa phương có nhiều thay đổi. Diện tích đất nông nghiệp, đất ở bị thu hẹp, tình

trạng thất nghiệp, thiếu việc làm gia tăng, sự chuyển đổi nghề nghiệp của người dân

chưa bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế ở địa phương, cơ sở hạ tầng chưa có sự đầu tư

thoả đáng, tệ nạn xã hội xuất hiện ngày một nhiều... Những vấn đề trên tác động trực

tiếp đến cuộc sống của người dân Từ Liêm.

Quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự thay đổi điều kiện sống là nguyên nhân dẫn

tới một bộ phận dân cư ở các địa phương khác chuyển đến Từ Liêm, làm cho mật độ dân

cư đông đúc, đồng thời đặt ra những vấn đề cấp bách phải giải quyết như công ăn việc

làm, vấn đề nhà ở và tệ nạn xã hội. Điều này dẫn tới trật tự xã hội ở địa phương ngày

càng thêm phức tạp. Hệ thống an sinh xã hội cần được hoàn thiện hơn để hỗ trợ những

nhóm yếu thế. Các chương trình tạo việc làm, phát triển nghề truyền thống... cần được

đầu tư đúng mức để giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập, nâng cao khả năng tiếp

cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội cơ bản.

Vấn đề ô nhiễm môi trường, việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, hệ thống

thủy nông, lấn chiếm lòng đề đường để làm nhà và xây dựng trái phép diễn ra thường

xuyên làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước và chất thải ở Từ Liêm. Hệ thống cơ sở hạ

tầng không đáp ứng đủ, đường xá nhỏ hẹp, nguồn nước ngầm bị đe dọa, nhiễm bẩn

nghiêm trọng, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề vì bụi công trường, khói xe, bãi

rác.... Như vậy, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã có những tác động toàn diện

đến đời sống kinh tế, xã hội của các huyện ngoại thành Hà Nội nói chung, huyện Từ

Liêm nói riêng. Từ một cộng đồng nông thôn truyền thống đã trở thành cư dân đô thị

phát triển ở khu vực vùng ven Thủ đô Hà Nội. Bên cạnh những tác động tích cực là

một số những thách thức đặt ra cần phải có biện pháp để giải quyết. Hiện nay, huyện

Từ Liêm đã được chia thành 2 quận là Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, vì vậy cần có

những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả những mặt đã đạt được và giải quyết tốt

những mặt hạn chế của quá trình đô thị hóa, góp phần phát triển toàn diện và bền

vững.

150

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Mạnh An, Nguyễn Mộng Tường. 2003. Lịch sử cách mạng xã Minh Khai

huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội 1930-2000, Nxb. Hà Nội.

2. Nguyễn Hoài An. 2012. Huy động vốn cho phát triển nông nghiệp Từ Liêm-Hà

Nội, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG HN.

3. Ari Kokko (Chủ biên, 2008). Việt Nam 20 năm đổi mới. Nxb. Thế giới, Hà Nội.

4. Nguyễn Thế á. 1998. Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị. Nxb. Xây dựng, Hà

Nội.

5. an Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm. áo cáo kết quả triển khai thực hiện

Chương trình 04 - CTr/HU của huyện ủy về phát triển và nâng cao hiệu quả kinh

tế giai đoạn 2006 - 2010, phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn

2011 - 2015.

6. an Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm. 2010. Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm

7. an Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì. 2011. Lịch sử Đảng bộ huyện Thanh

(1930-2010), Nxb. Chính trị-Hành chính.

Trì (1930-2010). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. an Chấp hành Đảng bộ huyện ia Lâm. 2015. Lịch sử Đảng bộ huyện Gia Lâm

(1930-2015), Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

9. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 1996. Văn kiện đại hội Đảng bộ

thành phố lần thứ XII. Nxb. Hà Nội.

10. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2001. Văn kiện đại hội Đảng bộ

thành phố lần thứ XIII. Nxb. Hà Nội.

11. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2006. Văn kiện đại hội Đảng bộ

thành phố lần thứ XIV. Nxb. Hà Nội.

12. an Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. 2004. Lịch sử Đảng bộ Thành phố

Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội.

13. an Nông nghiệp Trung ương. 1991. Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày

nay, tập , , , Nxb. Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

14. Vũ Đình ách (Chủ biên . 2008. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Công ằng. 2009. Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong

quá trình đô thị hóa, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

151

16. Trần Thị Hồng ích. 2014. Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông

nghiệp ở huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học

Kinh tế, ĐHQ HN.

17. oãn Thị ình. 2011. Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề

và tạo việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội,

Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQ HN.

18. Nguyễn Thị ình. 2009. Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo phát triển nông nghiệp

trong những năm 1986-2005, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Lịch sử, Trường Đại học

KHXH&NV, ĐHQ HN.

19. Vũ Quốc ình. 2011. Một số giải pháp đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp nông

thôn Hà Nội tới năm 2020, áo cáo khoa học đề tài cấp Thành phố, Viện Nghiên

cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.

20. Trần Văn ính. 1997. Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb.

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

21. ộ Chính Trị, Nghị Quyết 15 NQ/TW, ngày 15 tháng 12 năm 2000.

22. ộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 2001. Nông nghiệp Việt Nam, 61 tỉnh và

thành phố, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

23. Cục Thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Hà Nội các năm 1995, 1996, 2000,

2002, 2005, 2008, 2009, 2010, 2011, 2013.

24. Nguyễn Thị Phương Châm. 2009. Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, Nxb.

Văn hóa Thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Phương Châm. 2014. Chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh đô thị hóa

hiện nay ở Xuân Đỉnh, Từ Liêm. Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5.

26. Nguyễn Sinh Cúc. 1991. Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt

Nam (1976-1990), Nxb. Thống kê, Hà Nội.

27. Trường Chinh (1987 . Đổi mới đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại. Nxb.

Sự thật, Hà Nội.

28. Nguyễn Sinh Cúc. 2005. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 20 năm đổi mới, Tạp

chí Lịch sử Đảng, số 12.

29. Phạm Hùng Cường. 2001. Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn Đồng

bằng sông Hồng thành các đơn vị ở trong quá trình đô thị hoá, Luận án Tiến sĩ,

Đại học Xây dựng, Hà Nội.

30. Hoàng Văn Cường. 2004. Xóa đói giảm nghèo ở Từ Liêm - Hà Nội, Nxb. Nông

nghiệp, Hà Nội.

152

31. Hoàng Văn Cường (Chủ biên . 2006. Định hướng phát triển kinh tế xã hội vùng

ngoại thành Hà Nội đến năm 2020, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

32. Nguyễn Việt Cường. 2011. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn các huyện ngoại thành Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh

tế Quốc dân.

33. Nguyễn Tiến Công. 2009. Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp huyện

Từ Liêm trong xu thế đô thị hóa, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Môi trường

Hà Nội, Hà Nội.

34. Cấn Hữu ạn. 2010. Tạo việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị

hóa ở Hà Nội đến năm 2015, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Quốc dân, Hà Nội.

35. Lê Tiến ũng. 2016. Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại

thành từ năm 1991 đến năm 2008, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường

ĐHKHXH&NV, ĐHQ HN.

36. Nguyễn Thị Thùy ương. 2011. Lịch sử tụ cư, quá trình đô thị hóa và những đặc

điểm dân số học: nghiên cứu trường hợp phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội. Tạp

chí Xã hội học, số 2.

37. Nguyễn Đình ương (Chủ biên . 2014. Kinh tế - xã hội Hà Nội sau 5 năm mở

rộng địa giới hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996 . Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ

VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Phạm Ngọc Đăng. 2012. Biến đổi môi trường trong quá trình đô thị hóa Thủ đô

Hà Nội trong Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội, Nxb. Hà Nội.

40. Đỗ Thị Minh Đức. 2015. Gia tăng dân số và di dân trên địa bàn Hà Nội. Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Thủ đô Hà Nội: Truyền thống nguồn lực và định hướng phát

triển, Nxb. Chính trị, Hà Nội.

41. Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh. 2015. Di cư ở Hà Nội và những chính sách

quản lý trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội

phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.

42. Lê Quý Đôn. 2005. Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng nông

nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010, Báo

cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà Nội.

43. ùi Xuân Đính, Phạm Văn Thắm, Đỗ Thỉnh. 2010. Lịch sử cách mạng xã Thượng

Cát - huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội (1930-2009), Nxb. Hà Nội.

153

44. Ngô Xuân Giá. 2007. Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng

ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Nguyễn Thị Hà iang. 2013. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình dưới

tác động của quá trình đô thị hóa (nghiên cứu trường hợp xã Cổ Nhuế, Từ Liêm,

Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà

Nội.

46. Nguyễn Thị Vĩnh Hà. 2006. Tác động của quá trình đô thị hóa đến cơ cấu lao động

và việc làm của các hộ gia đình huyện Từ Liêm - Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ,

Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, ĐHQ HN.

47. Ngô Thái Hà. 2007. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo

hướng đô thị hóa ở huyện Từ Liêm (Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học

Kinh tế, ĐHQ HN.

48. Nguyễn Ngọc Hà. 2012. Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng

sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2011), Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà

Nội.

49. Đỗ Thị Lệ Hằng. 2008. Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp của cư dân vùng ven

đô trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Tâm lý học, số 3.

50. Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử. 1998. Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị

51. Trần Thị Thu Hiền. 2015. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công

trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Luận

văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

52. Hoàng Văn Hoa. 2005. Tác động của quá trình đô thị hóa đối với lao động, việc

làm ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

53. Huyện ủy Từ Liêm. Các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, báo cáo của an

Chấp hành, an Thường vụ Thường trực huyện ủy, từ khóa X đến khóa XX .

54. Huyện ủy Từ Liêm. 1990. Lịch sử cách mạng huyện Từ Liêm, tập 1 1926-1945,

Nxb. Hà Nội.

55. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XIX

nhiệm kỳ 1996-2000.

56. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XX

nhiệm kỳ 2000-2005.

57. Huyện ủy Từ Liêm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Từ Liêm lần thứ XXI

nhiệm kỳ 2006-2010.

154

58. Huyện ủy Từ Liêm. 2005. Báo cáo chính trị đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ

huyện Từ Liêm nhiệm kỳ 2005-2010.

59. Huyện ủy Từ Liêm. 2008. Lịch sử cách mạng xã Đại Mỗ (1930-2007), Nxb. Hà

Nội.

60. Phạm Thị Huyền. 2014. Đảng bộ huyện Từ Liêm (Hà Nội) lãnh đạo thực hiện

chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQ HN.

61. Phan Thị Mai Hương. 2008. Chiến lược sống qua những dự định nghề nghiệp của

cư dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Tâm lý học, số 12.

62. Phan Thị Mai Hương (Chủ biên . 2010. Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng

ven đô trong quá trình đô thị hóa, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

63. Phan Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến (Chủ biên . 2006. Một số vấn đề kinh tế - xã

hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng,

Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

64. Phạm Văn Khôi. 2004. Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng

nông nghiệp sinh thái, Nxb. Nông nghiệp.

65. Kim Kyung. 2009. Đô thị hóa và tác động của nó đến những biến đổi làng xã ngoại

thành Hà Nội (qua trường hợp làng Phú Đô), Luận văn thạc sĩ, Viện Việt Nam học

và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội.

66. Kim Jong Ouk. 2009. Một số biến đổi ở làng xã châu thổ sông Hồng từ đầu thế kỷ

XIX đến giữa thế kỷ XX (qua trường hợp làng Mễ Trì), Luận án Tiến sĩ, Trường

ĐHKHXH&NV Hà Nội.

67. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì

hòa bình, Hà Nội, 2010.

68. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam trong thế kỷ XX. Nxb. Nxb. Chính trị Quốc gia,

2001.

69. Lê Tiểu La. 2007. Một số biến đổi xã hội ở nông thôn vùng ven đô Hà Nội trong

thời kỳ đổi mới, Học viện CT-HCQGHCM.

70. Nguyễn Đình Long. 2004. Nghiên cứu giải pháp và đề xuất mô hình ứng dụng

khoa học - công nghệ để dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn -

Thành phố Hà Nội, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học, Sở khoa học và Công

nghệ Hà Nội.

71. Ngô Thắng L i. 2010. Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ góc độ phát triển bền vững

trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh

hùng vì hòa bình. Hà Nội.

155

72. Liên hiệp xã thủ công nghiệp Hà Nội. 1985. Tiểu thủ công nghiệp Từ Liêm trước

đây, hiện nay và sau này, Lưu tại an Tuyên giáo huyện ủy Từ Liêm.

73. Nguyễn Văn Linh (1987 . Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt

động. Nxb. Sự thật, Hà Nội.

74. Lisa Drummond. 1998. Đô thị hóa ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh trong Kỷ yếu

Hội nghị quốc tế về nghiên cứu Việt Nam và tăng cường sự h p tác quốc tế, Hà

Nội.

75. Lisa Drummond. 2008. Những hình ảnh của tầng lớp trung lưu ở một thành phố

đang chuyển mình trong Kỷ yếu hội thảo về “Các xu hướng đô thị hóa và đô thị

hóa vùng ven Đông Nam Á”, Thành phố Hồ Chí Minh.

76. Đặng Thị Loan (Chủ biên, 2006 . Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 -

2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra. Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

77. Đỗ Thị Thanh Loan. 2015. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo điều chỉnh địa giới

hành chính Thành phố Hà Nội từ 1978 đến 2008, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường

Đại học KHXH&NV, ĐHQ HN.

78. Phan Đăng Long. 2015. Văn hóa lối sống đô thị Hà Nội (từ năm 1986 đến nay),

Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

79. Hoàng Văn Luân. 2005. Đào tạo nghề cho người lao động ở ngoại thành Hà Nội

hiện nay (trường hợp huyện Từ Liêm), Đề tài khoa học cấp trường Đại học Quốc

gia Hà Nội.

80. Trịnh uy Luân, Michael Leaf (Chủ biên . 1996. Vấn đề nhà ở đô thị trong nền

kinh tế thị trường của thế giới thứ ba, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Trịnh uy Luân. 1999. Những biến đổi kinh tế - xã hội ở Dịch Vọng trong quá

trình đô thị hóa từ làng, xã thành phường. Đề tài cấp Viện, Viện Xã hội học.

82. Trịnh uy Luân. 2000. Hà Nội: một số biến đổi trong đời sống và diện mạo đô thị

hiện nay trong Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, Nxb. Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

83. Trịnh uy Luân. 2004. Xã hội học đô thị, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Hoa Hữu Lân. 2010. Điều tra xã hội học về đời sống văn hoá-xã hội của Hà Nội

sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Viện Nghiên cứu Kinh tế-xã

hội Hà Nội.

85. Phạm Trọng Mạnh, Phạm Quang Huân. 2015. Quy hoạch nông thôn mới ở ngoại

thành Hà Nội trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thủ đô Hà Nội: Truyền thống,

nguồn lực, định hướng phát triển, Hà Nội.

156

86. Mike Douglass (2008). Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công

cộng. Kỷ yếu hội thảo về Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở Đông

Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.

87. Nguyễn Hữu Minh. 2005. Biến đổi kinh tế xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá

trình đô thị hóa. Tạp chí Xã hội học, số 1.

88. Lê Văn Nãi. 2004. Nghiên cứu đánh giá các mặt tích cực, tồn tại trong quá trình đô

thị hóa làng-xã thành phường ở Hà Nội và kiến nghị các giải pháp khắc phục, Tạp

chí Người xây dựng, số 2.

89. Phạm Xuân Nam. 1991. Đổi mới kinh tế - xã hội: thành tựu, vấn đề và giải pháp,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

90. Phạm Xuân Nam. 2001. Mấy nét tổng quan về quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở

Việt Nam 15 năm qua, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.

91. Phạm Xuân Nam. 2001. Nhìn lại bước thăng trầm của nông nghiệp, nông thôn

nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.

92. Phạm Thị Kim Ngân. 2003. Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo công tác quy hoạch xây

dựng đô thị thời kỳ 1991-2000, Luận văn thạc sĩ, Khoa Lịch sử, Trường

ĐHKHXH&NV.

93. Nguyễn Quang Ngọc, ùi Văn Tuấn. 2015. Quy hoạch và phát triển đô thị Hà Nội

giai đoạn 1945-2015: Thực trạng và thách thức trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học:

Thủ đô Hà Nội: Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, Hà Nội.

94. Trần Đức Ngôn (Chủ biên . 2005. Văn hóa truyền thống ngoại thành Hà Nội dưới

tác động của kinh tế thị trường, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

95. Cao Thị Nhàn. 2006. Tác động của đô thị hóa tới quá trình chuyển đổi việc làm

của nông dân ven đô (trường hợp thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội),

Luận văn tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQ HN.

96. Những vấn đề kinh tế-xã hội ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.

97. Nghị quyết số 132/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm

để thành lập 02 quận và 23 phường thuộc Thành phố Hà Nội.

98. Đặng Kim Oanh. 2005. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1.

99. Phát triển bền vững kinh tế-xã hội các thành phố theo hướng hiện đại, Nxb. Chính

trị Quốc gia và Sự thật, Hà Nội, 2012.

157

100. Lê Quang Phi. 2012. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến 2002, Luận án tiến sĩ,

Học viện Chính trị quân sự.

101. Lê u Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa. 2002. Ảnh hưởng của đô thị hoá

đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

102. Phòng Lao động-Thương binh và xã hội. áo cáo tình hình lao động, việc làm

huyện Từ Liêm 2001-2006.

103. Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Từ Liêm. Thống kê đất đai huyện Từ Liêm

các năm 1996, 2000, 2005, 2010, 2011, 2012, 2013.

104. Phòng Thống kê huyện Từ Liêm. Niên giám thống kê huyện Từ Liêm các năm

1996, 2000, 2005, 2010, 2012, 2013.

105. ùi Thị Kim Phương. 2010. Từ làng đến phố: Đô thị hóa và quá trình chuyển đổi

lối sống ở một làng ven đô Hà Nội (trường hợp phường Nhân Chính, quận Thanh

Xuân, Hà Nội ., Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà

Nội.

106. Đỗ Lan Phương. 2014. Lễ hội ở Xuân Đỉnh: Sự phục hồi và kiếm tìm bản sắc

cộng đồng đương đại, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5.

107. Ngô Thị Phư ng. 2008. Một số biến đổi trong đời sống xã hội nông thôn Việt

Nam từ Việt Nam từ quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp hiện

nay. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam hội nhập và phát

triển, Hà Nội.

108. Lương Hồng Quang (chủ biên . 2011. Câu chuyện làng Giang, Nxb. Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

109. Vũ Hào Quang. 2008. Tác động của đô thị hóa đến tính cố kết cộng đồng ở nông

thôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương). Kỷ yếu Hội thảo quốc tế

Việt Nam học lần thứ ba Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội.

110. Quyết định số 12/2002/QĐ-U của U N Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt

quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2010,

ngày 07 tháng 02 năm 2002.

111. Quyết định số 1259/QĐ-TTg về Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến

năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 đã đư c Thủ tướng phê duyệt ngày 26 tháng 7

năm 2011.

112. Lê Thanh Sang. 2008. Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi

mới 1979-1989 và 1889-1999, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

158

113. Võ Văn Sen, Huỳnh Đức Thiện. 2015 Biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội trong tiến

trình công nghiệp hóa và đô thị hóa: cơ hội và thách thức trong Kỷ yếu Hội thảo

khoa học: Thủ đô Hà Nội: Truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, Hà

Nội.

114. Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Hà Nội. 2005. Báo cáo quy hoạch phát

triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

115. Nguyễn Trường Sơn. 2015. Giải pháp phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho

doanh nghiệp nhỏ và vừa: nghiên cứu điển hỉnh tại huyện Từ Liêm, Luận án tiến sĩ

Quản trị kinh doanh, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

116. Nguyễn Văn Sửu. 2008. Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế

của nông dân Việt Nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo

quốc tế Việt Nam học lần thứ ba Việt Nam hội nhập và phát triển, Hà Nội.

117. Nguyễn Văn Sửu. 2014. Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô

118. Thành ủy Hà Nội. 1996. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ

Hà Nội, Nxb. Trí thức, Hà Nội.

Thành phố, Hồ sơ vẫn đề công tác kinh tế khóa XII (1996-2000). Hộp số 590,

119. Thành ủy Hà Nội. 1996. Kế hoạch tiếp tục thực hiện chương trình 06 của Thành

Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.

tủy về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới Thủ đô đến năm

120. Thành ủy Hà Nội. 2006. Chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước

2000. Hồ sơ vấn đề công tác kinh tế khóa X (1996-2000 , hộp số 590, Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.

hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006-2010, Hồ sơ vấn đề công tác kinh tế khóa

XIV (2006-2010 , hộp số 999, Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội.

121. Thành ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam Thành phố Hà Nội. 2015. 60 năm giải phóng Thủ đô: Thành tựu, thời cơ,

thách thức và phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

122. Nguyễn Thị Thọ. 2005. Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

chính trị, Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

123. Phạm Quý Thọ (2015 . Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi. Nxb. Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội.

159

124. Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú. 2006. Phát triển kinh tế vùng trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

125. Nguyễn Văn Thường (2004 . Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi

mới (Nguyễn Văn Thường chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

126. Thời báo Kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam và thế giới 2009-2010.

127. Trương Thị Tiến. 1999. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Lê Xuân Trinh (1990). Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương

hướng và giải pháp chủ yếu. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

129. Nguyễn Phú Trọng (2006 . Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý

luận và thực tiễn. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

130. Nguyễn Văn Toàn. Sử dụng tài nguyên đất Hà Nội theo hướng bền vững trong Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì

hòa bình. an chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội.

131. Lê Xuân Tú. 2015. Đảng bộ huyện Từ Liêm (Hà Nội) lãnh đạo bảo vệ môi trường

sinh thái từ năm 1996 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQ HN.

132. ùi Văn Tuấn. 2012. Đô thị hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà

Nội (trường hợp nghiên cứu xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn thạc sĩ,

Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, ĐHQ HN.

133. ùi Văn Tuấn. 2017. Biến đổi xã hội vùng ven đô Hà Nội trong bối cảnh đô thị

hóa (trường hợp huyện Từ Liêm từ 1996 đến 2013), Luận án Tiến sĩ Việt Nam học,

Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, ĐHQ HN.

134. Đào Thế Tuấn. 2008. Đô thị hóa vùng ven đô ở Hà Nội, Kỷ yếu hội thảo về Các

xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven đô ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí

Minh.

135. Nguyễn Đình Tuấn. 2013. Biến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư vùng đô thị

hóa (nghiên cứu trường hợp tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà Nội),

Luận án Tiến sĩ nhân học, Học viện Khoa học xã hội.

136. Nguyễn Kế Tuấn. 2006. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn

ở Việt Nam con đường và bước đi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

137. Nguyễn Ngọc Tuấn. 2003. Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường vùng ven

đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

138. Nguyễn Thanh Tuấn. 2006. Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam, Nxb. Văn hóa

Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

160

139. Nguyễn Mộng Tường, Nguyễn Thị Thuỷ, Nguyễn Đức Hùng. 2007. Lịch sử cách

140. Nguyễn Mạnh Tưởng. 2016. Thành tựu về phát triển kinh tế nông nghiệp huyện

mạng xã Thuỵ Phương huyện Từ Liêm - Hà Nội (1972-2006). Nxb. Hà Nội.

Gia Lâm (2003-2015). Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2.

141. Nguyễn Mạnh Tưởng. Quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở huyện Gia Lâm (Hà

Nội) từ năm 1986 đến năm 2010. Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã

hội, 2018.

142. Tổng cục thống kê. 2002. Tư liệu kinh tế - xã hội 631 huyện, quận, Nxb. Thống kê.

143. Tổng cục thống kê. 2006. Tư liệu kinh tế - xã hội 671 huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh Việt Nam, Nxb. Thống kê.

144. Ngô Đăng Tri, Đỗ Thị Thanh Loan. Bốn lần điều chỉnh địa giới hành chính Thành

phố Hà Nội (1954-2008) - Ý nghĩa và kinh nghiệm trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế

Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình. an chỉ đạo

quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội.

145. Tôn Nữ Quỳnh Trân, Trương Hoàng Trương. 2010. Hà Nội đô thị hóa trong bổi

cảnh đô thị hóa chung của cả nước. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Phát triển bền vững

Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, Hà Nội.

146. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2000, áo cáo chiến lư c phát triển kinh tế

xã hội thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001-2010.

147. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2001, áo cáo Chương trình phát triển kinh

tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn, số 12 CTr-TU.

148. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2005. áo cáo tổng kết 5 năm Chương trình

12/CTr-Tu phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn

(2001-2005 , định hướng phát triển giai đoạn 2006-2010.

149. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. 2005. áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội các huyện ngoại thành đến năm 2010.

150. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo tổng kết sản xuất nông nghiệp và xây

dựng nông thôn mới huyện Từ Liêm 1992-1994.

151. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển

kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm các năm 1995, 1996, 1999, 2000, 2001, 2003, 2005,

2010, 2012, 2013.

152. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo sơ kết 4 năm (2001-2004 thực hiện

Chương trình 12/Ctr-TU của Huyện ủy Từ Liêm.

153. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo quy hoạch sử dụng đất huyện Từ Liêm

thời kỳ 2001-2010.

161

154. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-

xã hội huyện Từ Liêm đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

155. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 1997. áo cáo tình hình phát triển kinh tế, xây

dựng nông thôn mới năm 1996, phương hướng nhiệm vụ năm 1997.

156. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2001, áo cáo tổng h p quy hoạch phát triển

kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2010.

157. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tình hình phát triển kinh tế từ

năm 1980 đến năm 2005.

158. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tình hình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp huyện Từ Liêm từ năm 1995 đến năm 2005.

159. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo thực trạng sản xuất nông nghiệp,

cơ sở hạ tầng nông thôn, tình hình nông dân và hiện trạng các công trình thủy l i

trên địa bàn huyện Từ Liêm (1995-2005).

160. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. áo cáo tổng kết chương trình 01/CT-HU

về phát triển kinh tế huyện Từ Liêm giai đoạn 2001-2005.

161. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2005. Quy hoạch chi tiết phát triển kinh tế xã

hội giai đoạn đến năm 2010 của các xã thuộc huyện Từ Liêm.

162. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2006. áo cáo tình hình phân cấp quản lý kinh

tế-xã hội năm 2001-2005.

163. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2009. áo cáo tổng kết 20 năm thực hiện đường

lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế-xã hội huyện Từ Liêm (1991-2009).

164. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2010. anh mục hệ thống bảng, biểu khảo sát

phục vụ xây dựng quy hoạch phát triển nghề và làng nghề huyện Từ Liêm.

165. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2012. áo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế-xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013.

166. Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm. 2013. áo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát

triển kinh tế-xã hội và dự toán thu chi ngân sách năm 2013, phương hướng, kế

hoạch năm 2014.

167. U N xã Đông Ngạc. 2011. Lịch sử cách mạng xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm -

Thành phố Hà Nội 1930-2010.

168. UBND xã Minh Khai. 2001. Lịch sử cách mạng xã Minh Khai huyện Từ Liêm -

Thành phố Hà Nội 1930-2000.

169. U N xã Thụy Phương. 2007. Lịch sử cách mạng xã Thụy Phương huyện Từ

Liêm - Hà Nội (1972-2006).

162

170. U N xã Thư ng Cát. 2001. Lịch sử cách mạng xã Thượng Cát huyện Từ Liêm -

Thành phố Hà Nội (1930-2000).

171. U N xã Mễ Trì. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Mễ Trì năm 2013.

172. U N xã Trung Văn. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Trung Văn năm

2013.

173. U N xã Tây Mỗ. 2013. áo cáo tình hình kinh tế, xã hội xã Tây Mỗ năm 2013.

174. Đoàn Thị Yến. 2007. Tạo việc làm cho người lao động huyện Từ Liêm - Hà Nội

đến năm 2015, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

175. Trần Thị Hồng Yến. 2014. Biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá

trình đô thị hóa tại Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

176. Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN. Nxb. Lao động,

Hà Nội, 2006.

177. Nguyễn Thị Ngọc Vân (Chủ biên . 2010. Hà Nội qua số liệu thống kê, Nxb. Hà

Nội.

178. Nguyễn Thị Hải Vân. 2013. Đô thị hóa và việc làm, lao động ở ngoại thành Hà

Nội, Nxb. Khoa học xã hội.

179. Trần Thị Tường Vân. 2008. Kinh tế - xã hội vùng nông thôn huyện Gia Lâm - Hà

Nội trên tiến trình đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

180. Vấn đề đào tạo nghề cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị

hóa. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ộ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 2005.

181. Viện Sử học. Lịch sử Việt Nam - Tập 15 (từ năm 1986 đến năm 2000). Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội, 2017.

182. Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN, Nxb. Lao động,

Hà Nội, 2006.

183. Trần Thị Hồng Việt. 2002. Phát triển nông nghiệp đô thị, sinh thái ở huyện Từ

Liêm, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

184. Trần Thị Hồng Việt. 2005. Sắc màu sinh thái trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà

Nội những năm đầu chuyển dịch, Tạp chí Kinh tế và Phát triển - Đại học Kinh tế

Quốc dân, Hà Nội.

185. Trần Thị Hồng Việt. 2006. Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái,

Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

163

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bản đồ hành chính huyện Từ Liêm

164

Phụ lục 2

Các nghị định của Chính phủ liên quan đến việc điều chỉnh địa giới

hành chính huyện Từ Liêm từ năm 1996 đến năm 2013

CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

********

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

********

Số: 69-CP

Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 1995

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 69-CP NGÀY 28 THÁNG 10 NĂM 1995 VỀ VIỆC THÀNH LẬP QUẬN TÂY

HỒ THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Xét đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và ộ trưởng, Trưởng ban an Tổ chức -

Cán bộ Chính phủ,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1.- Nay thành lập quận Tây Hồ và các phường thuộc quận Tây Hồ thuộc thành phố Hà Nội như

sau:

1. Thành lập quận Tây Hồ trên cơ sở các phường: Bưởi, Thuỵ Khê, Yên Phụ của quận Ba Đình và các

xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thư ng của huyện Tư Liêm.

2. Thành lập các phường: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc quận Tây Hồ trên

cơ sở các xã Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng cũ.

- Phường Tứ Liên có 351,1 hécta diện tích tự nhiên và 4480 nhân khẩu;

- Phường Nhật Tân có 103,5 hécta diện tích tự nhiên và 6914 nhân khẩu;

- Phường Quảng An có 345,8 hécta diện tích tự nhiên và 4796 nhân khẩu;

- Phường Xuân La có 217,7 hécta diện tích tự nhiên và 6386 nhân khẩu;

- Phường Phú Thượng có 601,6 hécta diện tích tự nhiên và 7386 nhân khẩu;

3. Quận Tây Hồ có diện tích tự nhiên: 2.042,7 hécta và 69.713 nhân khẩu; gồm 8 phường: Bưởi, Thuỵ

Khê, Yên Phụ, Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng.

Địa giới quận Tây Hồ: phía Đông giáp huyện Gia Lâm và quận Ba Đình; phía Tây giáp huyện Từ Liêm;

phía Nam giáp quận Ba Đình; phía Bắc giáp huyện Đông Anh.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:

- Quận Ba Đình còn lại 909 hécta diện tích tự nhiên và 170.348 nhân khẩu gồm 12 phường: Phúc Xá,

Nguyễn Trung Trực, Trúc Bạch, Quán Thánh, Cống Vị, Cầu Giấy, Ngọc Hà, Kim Mã, Đội Cấn, Điện

Biên, Giảng Võ, Thành Công.

- Huyện Từ Liêm còn lại 8.870 hécta diện tích tự nhiên và 288.023 nhân khẩu gồm 24 đơn vị hành chính

là các xã: ịch Vọng, Yên Hoà, Trung Hoà, Nhân Chính, Cổ Nhuế, Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại Mỗ,

165

Phú iễn, Tây Tựu, Thư ng Cát, Liên Mạc, Thuỵ Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Mễ Trì, Minh Khai,

Mỹ Đình, Trung Văn, và các thị trấn: Cầu iấy, Nghĩa Đô, Cầu iễn, Mai ịch, Nghĩa Tân.

Điều 2.- Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với Nghị định này đều bị bãi

bỏ.

Điều 3.- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ trưởng, Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ

Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Võ Văn Kiệt

(Đã ký)

166

CHÍNH PHỦ ********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********

Số: 74-CP

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 1996

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 74-CP NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1996 VỀ VIỆC THÀNH LẬP QUẬN

THANH XUÂN, QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH LẬP VÀ ĐỔI TÊN MỘT SỐ PHƯỜNG THUỘC

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Xét đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và ộ trưởng - Trưởng ban Tổ chức - Cán

bộ Chính phủ,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1.- Nay thành lập Quận Thanh Xuân, quận Cầu Giấy, thành lập và đổi tên một số phường thuộc

thành phố Hà Nội như sau:

I- Thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các phường

Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Kim Giang, Phương Liệt; 78,1 ha diện tích tự nhiên và

20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường

Khương Thượng (thuộc quận Đống Đa); toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân Chính

(huyện Từ Liêm và xã Khương Đình (huyện Thanh Trì).

- Quận Thanh Xuân có diện tích tự nhiên 913,2 ha và 117.863 nhân khẩu, gồm 11 đơn vị hành chính

trực thuộc là:

1- Phường Thanh Xuân (được đổi tên thành phường Thanh Xuân Trung) có 106,2 ha diện tích tự nhiên

và 11.036 nhân khẩu.

2. Phường Thượng Đình có 65,8 ha diện tích tự nhiên và 13.516 nhân khẩu.

3- Phường Kim Giang có 22,3 ha diện tích tự nhiên và 8.387 nhân khẩu.

4- Phường Phương Liệt có 102,8 ha diện tích tự nhiên và 13.030 nhân khẩu.

5- Phường Thanh Xuân Nam được thành lập trên cơ sở 32,8 ha diện tích tự nhiên và 8.266 nhân khẩu

của phường Thanh Xuân Bắc.

Địa giới phường Thanh Xuân Nam: Đông giáp phường Hạ Đình, phường Thanh Xuân Trung; Tây giáp

xã Trung Văn (huyện Từ Liêm); Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì), phường Văn Mỗ (thị xã Hà

Đông, tỉnh Hà Tây), Bắc giáp phường Thanh Xuân Bắc.

6- Phường Thanh Xuân Bắc còn lại 48,4 ha diện tích tự nhiên và 17.857 nhân khẩu.

7- Phường Khương Mai được thành lập trên cơ sở 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của

phường Khương Thượng.

Địa giới phường Phương Mai: Đông giáp phường Phương Liệt; Tây giáp phường Khương Trung; Nam

giáp xã Định Công (huyện Thanh Trì); Bắc giáp phường Khương Thượng (quận Đống Đa).

Phường Khương Thượng (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 33,5 ha diện

tích tự nhiên và 10.010 nhân khẩu.

167

8- Phường Khương Trung được thành lập trên cơ sở 78,1 ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của

phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa).

Địa giới phường Khương Trung: Đông giáp phường Khương Mai; Tây giáp phường Thượng Đình; Nam

giáp phường Khương Đình và xã Định Công (huyện Thanh trì); Bắc giáp phường Nguyễn Trãi (quận

Đống Đa).

Phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 23,4 ha diện tích tự

nhiên và 11.230 nhân khẩu, được đổi tên thành phường Ngã Tư Sở.

9- Phường Khương Đình được thành lập trên cơ sở 138,9 ha diện tích tự nhiên và 5.929 nhân khẩu của

xã Khương Đình.

Địa giới phường Khương Đình: Đông giáp xã Định Công (huyện Thanh Trì); Tây giáp phường Hạ Đình;

Nam giáp phường Kim Giang và xã Đại Kim (huyện Thanh Trì); Bắc giáp phường Khương Trung.

10- Phường Hạ Đình được thành lập trên cơ sở phần còn lại của xã Khương Đình gồm 58,6 ha diện tích

tự nhiên và 4.245 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Hạ Đình: Đông giáp phường Khương Đình; Tây giáp phường Thanh Xuân

Trung, Thanh Xuân Nam; Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì); và phường Kim Giang; Bắc giáp

phường Thượng Đình.

11- Phường Nhân Chính được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân

Chính, gồm 160,9 ha và 9.229 nhân khẩu.

Địa giới quận Thanh Xuân: Đông giáp quận Hai Bà Trưng, Tây giáp huyện Từ Liêm và thị xã Hà Đông

(tỉnh Hà Tây); Nam giáp huyện Thanh Trì; Bắc giáp quận Đống Đa và quận Cầu Giấy.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính quận Đống Đa còn lại 993,9 ha diện tích tự nhiên và 268.858

nhân khẩu gồm 21 phường: Văn Miếu, Văn Chương, Cát Linh, Quốc Tử Giám, Hàng Bột, Ô Chợ Dừa,

Nam Đồng, Quang Trung, Trung Liệt, Thổ Quan, Khâm Thiên, Trung Phụng, Phương Liên, Kim Liên,

Trung Tự, Láng Hạ, Phương Mai, Láng Thượng, Thịnh Quang, Khương Thượng, Ngã Tư Sở.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Trì còn lại 9.791 ha diện tích tự nhiên và 195.757

nhân khẩu, gồm 24 xã: Tân Triều, Yên Sở, Thanh Trì, Trần Phú, Hoàng Liệt, Lĩnh Nam, Tứ Hiệp, Vĩnh

Tuy, Đại Kim, Thịnh Liệt, Định Công, Thanh Liệt, Yên Mỹ, Vĩnh Quỳnh, Hiểu Hoà, Tả Thanh Oai,

Tam Hiệp, Liên Ninh, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Duyên Hà, Đông Mỹ, Đại Đúng, Vạn Phúc và thị trấn Văn

Điển.

II- Thành lập quận Cầu Giấy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các thị trấn: Cầu

iấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai ịch và các xã ịch Vọng, Yên Hoà, Trung Hoà của huyện Từ Liêm.

Quận Cầu Giấy có diện tích tự nhiên 1.210,07 ha và 82.994 nhân khẩu, gồm 7 đơn vị hành chính trực

thuộc là:

1- Phường Quan Hoa được thành lập trên cơ sở thị trấn Cầu Giấy, có diện tích tự nhiên 99,9 ha và

13.716 nhân khẩu.

2- Phường Nghĩa Đô được thành lập trên cơ sở thị trấn Nghĩa Đô, có diện tích tự nhiên 128,7 ha và

13.753 nhân khẩu.

3- Phường Nghĩa Tân được thành lập trên cơ sở thị trấn Nghĩa Tân, có diện tích tự nhiên 57,37 ha và

14.519 nhân khẩu.

168

4- Phường Mai Dịch được thành lập trên cơ sở thị trấn Mai Dịch, có diện tích tự nhiên 208,4 ha và

13.087 nhân khẩu.

5- Phường Dịch Vọng được thành lập trên cơ sở Xã Dịch Vọng, có diện tích tự nhiên 262,7 ha và 9.613

nhân khẩu.

6- Phường Yên Hoà được thành lập trên cơ sở xã Yên Hoà, có diện tích tự nhiên 207,2 ha và 9.204 nhân

khẩu.

7- Phường Trung Hoà được thành lập trên cơ cơ cở xã Trung Hoà, có diện tích tự nhiên 245,8 ha và

9.102 nhân khẩu.

Địa giới Quận Cầu Giấy: Đông giáp quận Tây Hồ, quận Ba Đình và Quận Đống Đa; Tây giáp huyện Từ

Liêm; Nam giáp quận Thanh Xuân; Bắc giáp huyện Từ Liêm và quận Tây Hồ.

Sau khi điều chỉnh địa giới huyện Từ Liêm còn lại 7.499,63 ha diện tích tự nhiên và 156.690 nhân khẩu,

gồm 16 đơn vị hành chính, gồm các xã: Mỹ Đình, Tây Tự, Phú iễn, Minh Khai, Thư ng Cát, Liên Mạc,

Thuỵ Phương, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Xuân Phương và

thị trấn Cầu iễn.

III- Đổi tên các phường sau:

- Đổi tên phường Cầu Giấy thuộc quận Ba Đình thành Phường Ngọc Khánh.

- Đổi tên phường Nguyễn Trãi thuộc quận Đống Đa (sau khi đã điều chỉnh địa giới hành chính) thành

phường Ngã Tư Sở.

- Đổi tên phường Thanh Xuân thuộc quận Thanh Xuân (sau khi đã điều chỉnh địa giới hành chính) thành

phường Thanh Xuân Trung.

Điều 2.- Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Mọi quy định trước đây trái với Nghị định này

đều bãi bỏ.

Điều 3.- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ

Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Võ Văn Kiệt

(Đã ký)

169

CHÍNH PHỦ -------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 132/NQ-CP

Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2013

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH HUYỆN TỪ LIÊM ĐỂ THÀNH LẬP 02 QUẬN VÀ 23 PHƯỜNG THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Xét đề nghị của ộ trưởng ộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 quận và 23 phường thuộc thành phố Hà Nội.

1. Thành lập quận Bắc Từ Liêm và 13 phường trực thuộc.

a) Thành lập quận Bắc Từ Liêm trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ Liêm có 4.335,34 ha diện tích tự nhiên và 320.414 nhân khẩu.

Địa giới hành chính quận Bắc Từ Liêm: Đông giáp các quận Cầu Giấy và Tây Hồ; Tây giáp các huyện Hoài Đức và Đan Phượng; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp huyện Đông Anh.

b) Thành lập 13 phường thuộc quận Bắc Từ Liêm:

- Thành lập phường Thượng Cát trên cơ sở toàn bộ 388,90 ha diện tích tự nhiên và 10.000 nhân khẩu của xã Thượng Cát.

Địa giới hành chính phường Thượng Cát: Đông giáp phường Liên Mạc; Tây giáp huyện Đan Phượng; Nam giáp phường Tây Tựu; Bắc giáp huyện Đông Anh.

- Thành lập phường Liên Mạc trên cơ sở toàn bộ 598,70 ha diện tích tự nhiên và 12.966 nhân khẩu của xã Liên Mạc.

Địa giới hành chính phường Liên Mạc: Đông giáp phường Thụy Phương; Tây giáp phường Thượng Cát; Nam giáp các phường Tây Tựu và Minh Khai; Bắc giáp huyện Đông Anh.

- Thành lập phường Thụy Phương trên cơ sở toàn bộ 287,59 ha diện tích tự nhiên và 13.753 nhân khẩu của xã Thụy Phương.

Địa giới hành chính phường Thụy Phương: Đông giáp các phường Đông Ngạc và Đức Thắng; Tây giáp phường Liên Mạc; Nam giáp các phường Cổ Nhuế 2 và Minh Khai; Bắc giáp huyện Đông Anh.

- Thành lập phường Minh Khai trên cơ sở toàn bộ 485,91 ha diện tích tự nhiên và 36.709 nhân khẩu của xã Minh Khai.

Địa giới hành chính phường Minh Khai: Đông giáp các phường Cổ Nhuế 2, Phúc Diễn và Phú Diễn; Tây giáp phường Tây Tựu; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp các phường Liên Mạc và Thụy Phương.

170

- Thành lập phường Tây Tựu trên cơ sở toàn bộ 530,18 ha diện tích tự nhiên và 26.970 nhân khẩu của xã Tây Tựu; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương. Phường Tây Tựu có 539,48 ha diện tích tự nhiên và 27.566 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Tây Tựu: Đông giáp phường Minh Khai; Tây giáp các huyện Đan Phượng và Hoài Đức; Nam giáp các phường Minh Khai và Phương Canh; Bắc giáp các phường Thượng Cát và Liên Mạc.

- Thành lập phường Đông Ngạc trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Đông Ngạc. Phường Đông Ngạc có 241 ha diện tích tự nhiên và 23.922 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Đông Ngạc: Đông giáp quận Tây Hồ; Tây giáp phường Thụy Phương; Nam giáp các phường Xuân Đỉnh và Đức Thắng; Bắc giáp huyện Đông Anh.

- Thành lập phường Đức Thắng trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Đông Ngạc. Phường Đức Thắng có 120 ha diện tích tự nhiên và 19.923 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Đức Thắng: Đông giáp phường Xuân Đỉnh; Tây giáp phường Thụy Phương; Nam giáp phường Cổ Nhuế 2; Bắc giáp phường Đông Ngạc.

- Thành lập phường Xuân Đỉnh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Đỉnh. Phường Xuân Đỉnh có 352,20 ha diện tích tự nhiên và 33.659 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Xuân Đỉnh: Đông giáp quận Tây Hồ và phường Xuân Tảo; Tây giáp các phường Đức Thắng và Cổ Nhuế 2; Nam giáp phường Xuân Tảo; Bắc giáp phường Đông Ngạc.

- Thành lập phường Xuân Tảo trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Xuân Đỉnh. Phường Xuân Tảo có 226,30 ha diện tích tự nhiên và 12.622 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Xuân Tảo: Đông giáp quận Tây Hồ; Tây giáp phường Cổ Nhuế 1; Nam giáp quận Tây Hồ; Bắc giáp phường Xuân Đỉnh.

- Thành lập phường Cổ Nhuế 1 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số (217,70 ha và 33.346 nhân khẩu) của xã Cổ Nhuế; 3,30 ha diện tích tự nhiên và 372 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Phường Cổ Nhuế 1 có 221 ha diện tích tự nhiên và 33.718 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Cổ Nhuế 1: Đông giáp phường Xuân Tảo và quận Cầu Giấy; Tây giáp các phường Phú Diễn và Cổ Nhuế 2; Nam giáp quận Cầu Giấy; Bắc giáp phường Cổ Nhuế 2.

- Thành lập phường Cổ Nhuế 2 trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại (403,43 ha và 44.488 nhân khẩu) của xã Cổ Nhuế; 1,60 ha diện tích tự nhiên và 292 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Phường Cổ Nhuế 2 có 405,03 ha diện tích tự nhiên và 44.780 nhân khẩu.

Địa giới hành chính của phường Cổ Nhuế 2: Đông giáp phường Xuân Đỉnh; Tây giáp phường Minh Khai; Nam giáp các phường Phú Diễn và Cổ Nhuế 1; Bắc giáp các phường Đức Thắng và Thụy Phương.

- Thành lập phường Phúc Diễn trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Phú Diễn (209,03 ha và 21.820 nhân khẩu); một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (8 ha và 1.914 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Tây Sông Nhuệ). Phường Phúc Diễn có 217,03 ha diện tích tự nhiên và 23.734 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Phúc Diễn: Đông giáp phường Phú Diễn và quận Nam Từ Liêm; Tây giáp phường Minh Khai; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp phường Minh Khai.

- Thành lập phường Phú Diễn trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại (189,62 ha và 19.514 nhân khẩu) của xã Phú Diễn; một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (62,58 ha và 7.548 nhân khẩu phần Bắc quốc lộ 32). Phường Phú Diễn có 252,20 ha diện tích tự nhiên và 27.062 nhân khẩu.

171

Địa giới hành chính phường Phú Diễn: Đông giáp các phường Cổ Nhuế 2, Cổ Nhuế 1 và quậnCầu Giấy; Tây giáp phường Phúc Diễn; Nam giáp quận Nam Từ Liêm; Bắc giáp phường Cổ Nhuế 2.

2. Thành lập quận Nam Từ Liêm và 10 phường trực thuộc.

a) Thành lập quận Nam Từ Liêm trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã: Mễ Trì, Mỹ Đình, Trung Văn, Tây Mỗ, Đại Mỗ; một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Phương (536,34 ha và 34.052 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32); một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (137,75 ha và 23.279 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Đông sông Nhuệ). Quận Nam Từ Liêm có 3.227,36 ha diện tích tự nhiên và 232.894 nhân khẩu.

Địa giới hành chính quận Nam Từ Liêm: Đông giáp các quận Thanh Xuân và Cầu Giấy; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.

b) Thành lập 10 phường thuộc quận Nam Từ Liêm:

- Thành lập phường Trung Văn trên cơ sở toàn bộ 277,58 ha diện tích tự nhiên và 29.850 nhân khẩu của xã Trung Văn.

Địa giới hành chính phường Trung Văn: Đông giáp quận Thanh Xuân; Tây giáp phường Đại Mỗ; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp các phường Mễ Trì và Phú Đô.

- Thành lập phường Đại Mỗ trên cơ sở toàn bộ 498,19 ha diện tích tự nhiên và 26.741 nhân khẩu của xã Đại Mỗ.

Địa giới hành chính phường Đại Mỗ: Đông giáp các phường Phú Đô và Trung Văn; Tây giáp phường Tây Mỗ; Nam giáp quận Hà Đông; Bắc giáp các phường Phú Đô và Tây Mỗ.

- Thành lập phường Tây Mỗ trên cơ sở toàn bộ 604,53 ha diện tích tự nhiên và 22.557 nhân khẩu của xã Tây Mỗ.

Địa giới hành chính phường Tây Mỗ: Đông giáp phường Đại Mỗ; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp quận Hà Đông và phường Đại Mỗ; Bắc giáp phường Xuân Phương.

- Thành lập phường Mễ Trì trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mễ Trì. Phường Mễ Trì có 467,30 ha diện tích tự nhiên và 26.688 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Mễ Trì: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp phường Phú Đô; Nam giáp phường Trung Văn; Bắc giáp phường Mỹ Đình 1.

- Thành lập phường Phú Đô trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Mễ Trì. Phường Phú Đô có 239 ha diện tích tự nhiên và 13.856 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Phú Đô: Đông giáp phường Mễ Trì; Tây giáp các phường Đại Mỗ và Tây Mỗ; Nam giáp các phường Đại Mỗ và Trung Văn; Bắc giáp phường Mỹ Đình 1.

- Thành lập phường Mỹ Đình 1 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mỹ Đình. Phường Mỹ Đình 1 có 228,20 ha diện tích tự nhiên và 23.987 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Mỹ Đình 1: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp các phường Cầu Diễn, Xuân Phương và Tây Mỗ; Nam giáp các phường Mễ Trì và Phú Đô; Bắc giáp các phường Mỹ Đình 2 và Cầu Diễn.

- Thành lập phường Mỹ Đình 2 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mỹ Đình. Phường Mỹ Đình 2 có 197 ha diện tích tự nhiên và 26.991 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Mỹ Đình 2: Đông giáp quận Cầu Giấy; Tây giáp phường Cầu Diễn; Nam giáp phường Mỹ Đình 1; Bắc giáp quận Cầu Giấy.

- Thành lập phường Cầu Diễn trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cầu Diễn (137,75 ha và 23.279 nhân khẩu phần phía Nam quốc lộ 32 và phía Đông sông Nhuệ);

172

phần diện tích và dân số còn lại của xã Mỹ Đình (41,47 ha diện tích tự nhiên và 4.893 nhân khẩu). Phường Cầu Diễn có 179,22 ha diện tích tự nhiên và 28.172 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Cầu Diễn: Đông giáp phường Mỹ Đình 2; Tây giáp các phường Phúc Diễn và Xuân Phương; Nam giáp phường Mỹ Đình 1; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.

- Thành lập phường Phương Canh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Xuân Phương, Phường Phương Canh có 260,76 ha diện tích tự nhiên và 20.243 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Phương Canh: Đông giáp phường Xuân Phương; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp phường Xuân Phương; Bắc giáp quận Bắc Từ Liêm.

- Thành lập phường Xuân Phương trên cơ sở phần diện tích tự nhiên và dân số còn lại của xã Xuân Phương. Phường Xuân Phương có 275,58 ha diện tích tự nhiên và 13.809 nhân khẩu.

Địa giới hành chính phường Xuân Phương: Đông giáp các phường Cầu Diễn và Mỹ Đình 1; Tây giáp huyện Hoài Đức; Nam giáp phường Tây Mỗ; Bắc giáp phường Phương Canh.

3. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 quận và 23 phường, thành phố Hà Nội có diện tích tự nhiên 332.889 ha, 6.957.300 nhân khẩu và 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận: Ba Đình, Bắc Từ Liêm, Cầu Giấy, Đống Đa, Hà Đông, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Long Biên, Nam Từ Liêm, Thanh Xuân, Tây Hồ, 17 huyện: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phúc Thọ, Phú Xuyên, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa; thị xã Sơn Tây; 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177 phường, 21 thị trấn.

Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Thủ trưởng các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.

Nguyễn Tấn Dũng

(Đã ký)

173

Phụ lục 3:

Một số thống kê về kinh tế, xã hội huyện Từ Liêm

Bảng 1: Biến động đất nông nghiệp của huyện Từ Liêm

và các huyện ngoại thành Hà Nội Đơn vị: ha

Huyện

Nguồn: Cục thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội

các năm 1992, 1995, 2000, 2002, 2010, 2013

Sóc Sơn Đông Anh Gia Lâm Từ Liêm Thanh Trì 1992 12.954 10.034 9.149 5.325 5.559 1995 12.408 9.870 9.105 4.858 5.648 2000 14.539 9.947 9.139 4.201 5.190 2002 14.334 9.920 9.098 4.009 5.025 2010 13.207 8.630 5.931 2.774 2.587

Bảng 2: Dân số trung bình phân theo thành thị/nông thôn của Từ Liêm

Đơn vị tính: 1.000 người

Năm 2005

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Thành thị 16,8

Nông thôn 273,0

Thành thị 18,6

Nông thôn 313,3

Thành thị 20,4

Nông thôn 334,8

Thành thị 26,9

Nông thôn 367,8

Thành thị 27,5

Nông thôn 392,0

Nguồn: Cục thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Hà Nội các năm 2005, 2007, 2008, 2009, 2010.

% dân số của

% tổng số người nhập cư từ

Số người

quận/huyện

ngoại tỉnh vào Hà Nội

71,6

H.Từ Liêm

97.512

25,4

86,1

H.Đông Anh

37.451

9,7

36,9

Q.Hoàng Mai

30.347

7,9

35,4

Q.Cầu Giấy

29.146

7,6

37,9

Q.Thanh Xuân

21.644

5,6

Nguồn: Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2015). i cư ở Hà Nội và những chính sách quản lý

trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội phát triển bền vững

Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, tr. 1031

Bảng 3: Năm quận, huyện Hà Nội có số người nhập cư từ nông thôn lớn nhất giai đoạn 2004-2009

174

Bảng 4: Những phường, xã có tỷ lệ nhập cư cao của huyện Từ Liêm và Hà Nội

Quận/Huyện

Xã/phường

Tỷ lệ người nhập cư so với dân số trong xã, phường (%)

Trong quận, huyện 7,03 2,84 5,96 6,18

Trong thành phố Hà Nội 33,84 9,06 23,36 16,45

Từ tỉnh ngoài 10,89 33,53 20,94 26,54

Tổng số nhập cư trong nước 51,76 45,43 50,26 49,17

Q.Long Biên Q.Cầu Giấy

3,94 3,04 2,92 1,93 5,17 7,88 3,13 5,44 5,80

12,49 23,27 29,25 12,52 21,76 34,30 20,72 8,67 7,94

23,13 22,15 15,34 19,77 19,27 32,74 15,77 16,96 21,13

39,56 48,46 47,51 34,22 46,20 74,92 39,62 31,06 34,87

P.Giang Biên P. Mai Dịch P. Dịch Vọng P. Dịch Vọng Hậu P. Quan Hoa P. Yên Hòa P.Trung Hòa P.Thanh Trì Q.Hoàng Mai P.Đại Kim P.Hoàng Liệt Q.Thanh Xuân P.Nhân Chính

2,89

12,64

21,28

36,81

7,48 1,15 1,15 0,71 1,72 0,97 1,27 2,52 2,51 7,34 3,28 2,40 0,21 0,31 2,46 1,75 3,17 1,11

1,38 10,91 2,51 4,48 16,76 7,48 8,14 7,29 8,10 4,25 13,50 39,70 15,50 5,92 20,14 2,43 19,24 7,21

24,98 55,20 36,61 28,63 21,05 30,55 44,95 34,55 40,19 40,15 31,29 12,52 28,95 26,86 22,01 27,97 9,92 32,55

33,84 67,26 40,28 33,82 39,52 39,00 54,36 44,36 50,79 51,73 48,07 54,61 44,66 33,09 44,60 32,15 32,32 40,87

P.Hạ Đình P.Khương Đình P.Thanh Xuân Nam Quang Tiến Kim Chung Lệ Chi TT.Trâu Quỳ TT.Cầu iễn Đông Ngạc Minh Khai Cổ Nhuế Phú iễn Xuân Phương Mỹ Đình Mễ Trì Trung Văn Tân Triều Thanh Liệt TT.Tri Đông P.Phúc La Di Trach

H.Sóc Sơn H.Đông Anh H.Gia Lâm H.Từ Liêm H.Thanh Trì H.Mê Linh Q.Hà Đông H.Hoài Đức

Nguồn: Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2015). Di cư ở Hà Nội và những chính sách quản lý.

trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội phát triển bền vững

Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, tr. 1029-1030

175

Bảng 5: Bố trí không gian sinh thái của nông nghiệp một số huyện ngoại thành Hà Nội

Huyện

Từ Liêm Thanh Trì Gia Lâm Đông Anh Sóc Sơn

Vùng hoa 3 0 0 5 4

Vùng rau sạch 2 3 4 5 2

Vùng cây ăn quả-du lịch 3 0 5 5 8

Vùng thủy sản-du lịch 0 6 0 0 1

Khu công viên-cây xanh 5 2 0 3 4

Khu công nghiệp đô thị 8 7 8 7 5

Nguồn: áo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội

các huyện ngoại thành đến năm 2010

Bảng 6: Phân bố diện tích các vùng sản xuất hoa tập trung

Chỉ tiêu

1995

2000

2002

2004

2006

SL %

SL

%

SL %

SL

%

SL %

Tổng

120

100

405

100

460

100

485

100

498

100

Sóc Sơn

-

-

5

0,1

10

2,2

15

3,1

18

3,6

Đông Anh

50

41,6

80

19,8

100

21,7

110

22,7

120

24,1

Từ Liêm

70

58,4

320

79,1

350

76,1

360

74,2

360

72,3

Nguồn: Trần Thị Hồng Việt (2006). Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái. LATS Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội

Bảng 7: Sử dụng phân sinh học trong nông nghiệp Từ Liêm và một số huyện ngoại thành Hà Nội

Huyện

Số hộ trong

Số xã trong huyện

Số lượng mỗi

Số lượng sử dụng

xã sử dụng

sử dụng %/huyện)

xã sử dụng

bình quân năm

(%/xã)

(tấn/xã/năm)

(tấn)

Thanh Trì

93,5

30,8

19,0

146,3

Sóc Sơn

21,2

69,2

37,9

681,9

Đông Anh

57,0

90,9

88,0

1339,8

Từ Liêm

56,3

100,0

66,7

1067,2

Gia Lâm

42,4

75,0

31,9

765,3

Tổng cộng

4.500,8

Nguồn: Trần Thị Hồng Việt (2006). Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái. LATS Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội

176

Bảng 8: Tỷ trọng diện tích các vùng rau sạch của huyện Từ Liêm và một số huyện ngoại thành

Vùng

2000

2002

2006

2008

Cơ cấu DT các vùng rau sạch

Cơ cấu DT các vùng rau sạch

Cơ cấu DT các vùng rau sạch

Cơ cấu DT các vùng rau sạch

% rau sạch trong tổng DT rau 0 7,3

0 28,8

% rau sạch trong tổng DT rau 3,7 20,2

3,4 35,9

% rau sạch trong tổng DT rau 0 12,8

0 35,0

% rau sạch trong tổng DT rau 0 15,4

0 27,9

0 9,7 0 7,9

0 22,5 0 100

21,4 12,0 0 18,0

14,6 12,1 0 100

6,4 9,5 0 13,0

6,7 15,5 0 100

61,9 8,3 2,4 18,3

36,4 5,6 0,9 100

Sóc Sơn Đông Anh Từ Liêm Thanh Trì Các quận Toàn Tp

Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Bảng 9: Tổng hợp phát triển làng nghề của các huyện ngoại thành Hà Nội

Stt

Các huyện

Số lượng

Số hộ

Số lao động

Giá trị

Thu nhập bình

làng nghề

(nghìn người)

(tỷ đồng)

quân (triệu đồng

8716

127,14

14,6

Từ Liêm

7

1345

1

Thanh Trì

5

114

538

4,20

7,8

2

Gia Lâm

5

84

319

2,30

7,2

3

Đông Anh

8

67

257

2,20

8,6

4

Sóc Sơn

11

152

693

6,40

9,2

5

Ba Vì

8

198

957

7,97

8,3

6

Chương Mỹ

5

163

731

5,32

7,3

7

Đan Phượng

8

212

949

6,79

7,2

8

Hoài Đức

7

69

354

3,50

9,9

9

Mê Linh

6

64

237

1,80

7,6

10

Phúc Thọ

6

368

2304

28,43

12,34

11

Phú Xuyên

11

213

879

6,70

7,6

12

Quốc Oai

2

170

1295

16,44

12,7

13

Thạch Thất

6

216

891

6,10

6,8

14

Thường Tín

11

1856

9401

125,92

13,39

15

Ứng Hòa

8

128

642

4,70

7,3

16

Mỹ Đức

17

359

1508

10,80

7,2

17

Nguồn: Nguyễn Thị Hải Vân, Đô thị hóa và việc làm lao động ngoại thành Hà Nội,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 103

177

Bảng 10: Số lượng làng nghề, cụm ngành nghề Hà Nội

Huyện

Tổng số xã, thị

Tổng số làng

Xã có làng

Xã có cụm ngành

trấn

nghề

nghề

nghề

7

Gia Lâm

35

7

18

3

Đông Anh

24

3

20

5

Thanh Trì

25

5

10

2

Sóc Sơn

26

2

19

8

Từ Liêm

16

8

13

Tổng cộng

126

25

80

25 Ủy ban Nhân dân huyện Từ Liêm (2010). Danh mục hệ thống bảng, biểu khảo sát phục vụ xây dựng

quy hoạch phát triển nghề và làng nghề huyện Từ Liêm

Đơn vị: cơ sở

Bảng 11: Số lượng cơ sở đào tạo nghề của huyện Từ Liêm và các huyện ngoại thành Hà Nội

Tt

Huyện

Tổng số cơ

Số lượng các ngành đào tạo nghề cơ bản

sở đào tạo

Nấu ăn,

Điện,

Kế toán, thư

Lái xe, sửa

Cắt may,

phục vụ

điện tử,

ký văn

chữa ô tô,

thiết kế thời

khí

khách sạn

tin học

phòng

xe máy

trang

10

2

7

2

3

3

1

1

Từ Liêm

7

3

1

3

3

3

2

Thanh Trì

6

0

5

0

1

3

1

3

Đông Anh

12

8

1

2

4

2

4

Gia Lâm

7

5

2

2

5

Sóc Sơn

42

2

28

4

9

15

9

Ngoại thành

100

4,76

66,67

9,52

21,43

21,43

35,71

% ngoại thành

193

22

103

23

62

55

59

Toàn thành phố

Nguồn: Đoàn Thị Yến (2007). Tạo việc làm cho người lao động huyện Từ Liêm - Hà Nội đến năm 2015.

Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 27

178