TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG ------------------

ơ

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn : Th.s. Hồ Thuý Ngọc

Sinh viên thực hiện : Phan Thị Thu Trang

Lớp : A5 - K 41B- KTNT

HÀ NỘI - 11/2006

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

MỤC LỤC

Trang

Danh mục bảng ............................................................................................ 4

Lời nói đầu .................................................................................................. .5

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU.

Chương I

I. Bảo hiểm thân tàu ..................................................................................... 9

1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thân tàu ........................................... 9

2. Khái niệm bảo hiểm thân tàu… ................................................................ 11

3. Các hình thức bảo hiểm thân tàu… ........................................................... 12

4. Các điều kiện bảo hiểm thân tàu ............................................................... 14

II. Hợp đồng bảo hiểm thân tàu. ................................................................... 16

1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm thân tàu ................................................ 16

1.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng bảo hiểm thân tàu.............................. 16

1.2. Nội dung hợp đồng bảo hiểm thân tàu ................................................... 17

1.3. Hình thức pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thân tàu ............................... 19

1

PHAN THỊ THU TRANG

1.4. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu ............................................ 20

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

1.4.1 Bên tham gia bảo hiểm. ....................................................................... 20

1.4.2. Bên bảo hiểm ...................................................................................... 21

2. Quy trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu .................... 22

2.1 Giao kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu...................................................... .22

2.1.1. Yêu cầu bảo hiểm… ........................................................................... 23

2.1.2. Chấp nhận bảo hiểm ........................................................................... 23

2.2. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu .................................................. 24

3. Cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu

3.1. Các nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm thân tàu. ........................ 32

3..1.1. Các điều ước quốc tế chi phối bảo hiểm thân tàu ............................. 32

3.1..2. Luật quốc gia. .................................................................................... 35

3.1.3. Tập quán hàng hải. ............................................................................. 37

THỰC TRẠNG CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP

ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM

Chương II

I. Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công

ty hàng hải Việt Nam. ................................................................................ 38

1. Hình thức tham gia bảo hiểm thân tàu chủ yếu của các công ty hàng hải

2

PHAN THỊ THU TRANG

Việt Nam .................................................................................................... 38

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

2. Tình hình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công

ty hàng hải Việt Nam.................................................................................. 39

II. Đánh giá về thực trạng cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp

đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam. ...................... 54

1. Thuận lợi ................................................................................................ 54

2. Khó khăn ................................................................................................ 57

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN CẢI THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO

KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM.

Chƣơng III

I. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tham gia bảo hiểm thân tàu của

các công ty hàng hải Việt Nam. .................................................................... 68

II. Một số kiến nghị góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực

hiện hợp đồng bảo thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam. .................. 72

Kết luận ........................................................................................................ 79

3

PHAN THỊ THU TRANG

Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 80

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Thống kê số lượng tàu biển của Việt Nam qua các năm, tr. 40

Bảng 2: Thống kê các loại tàu hoạt động tuyến quốc tế, tr. 41

Bảng 3: Thống kê số tiền bảo hiểm của đội tàu Việt Nam từ năm 2000 đến

hết quý I năm 2005, tr. 43

Bảng 4: Tổng hợp các nguyên nhân dẫn đến sự cố hàng hải từ năm 2004

đến nửa đầu năm 2006, tr. 48

Bảng 5: Bồi thường bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ tàu của một số doanh nghiệp bảo hiểm năm 2005, tr. 49

Bảng 6: Một số thiệt hại về thân tàu đã được bảo hiểm bồi thường đáng

4

PHAN THỊ THU TRANG

chú ý từ năm 1995 đến hết tháng 06 năm 2006, tr.52

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong ngành giao thông vận tải, vận tải biển đóng một vai tró hết sức

quan trọng, nhất là khi quá trình quốc tế hoá về thương mại phát triển

mạnh thì ngành vận tải đường biển càng đóng vai trò then chốt trong việc

chuyên chở và vận chuyển hành khách, hàng hoá từ nước này sang nước

khác, từ châu lục này sang châu lục khác . . .

Không ai có thể phủ nhận lợi ích kinh tế của ngành hàng hải. Hàng

năm ngành này đã trực tiếp hay gián tiếp tạo ra nguồn lợi nhuận khổng lồ

cho nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới nói

chung, lợi nhuận mà ngành hàng hải đem lại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

thu nhập quốc dân của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, ngành hàng hải có

nhiệm vụ là tổ chức thực hiện các hoạt động vận tải, bốc xếp và dịch vụ

liên quan để phục vụ xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa, góp phần vào

việc tăng khả năng cạnh tranh cũng như mở rộng thị trường cho hoạt động

xuất nhập khẩu của đất nước. Chính vì vây, Việt Nam và các quốc gia trên

thế giới đều hết sức chú trọng vào việc phát triển các đội tàu chuyên chở

hàng hoá bằng đường biển với quy mô lớn và đồng bộ.

Tuy nhiên, do đặc trưng kinh doanh của ngành hàng hải là phạm vi

hoạt động rộng khắp trên các vùng sóng nước và thời gian hành trình trên

biển dài nên phương tiện vận chuyển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện

thiên nhiên, gánh chịu nhiều rủi ro, hiểm hoạ như: Thiên tai, thời tiết xấu,

bão lốc, sóng thần, cướp biển, các tai nạn hàng hải (Mắc cạn, đâm va, cháy

nổ …). Đặc biệt là đối với ngành hàng hải của Việt Nam, do hệ thống cảng

5

PHAN THỊ THU TRANG

biển chưa phát triển, đội tàu của các công ty hàng hải còn nhỏ hẹp về qui

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

mô và chất lượng, số lượng tàu đạt tiêu chuẩn quốc tế chưa nhiều, thêm

vào đó là trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ của đội ngũ thuyền viên chưa cao.

Do đó trong quá trình vận tải của tàu ngoài những tổn thất do tai nạn bất

ngờ có thể xảy ra còn gặp phải rất nhiều tổn thất không đáng có.

Với đặc trưng kinh doanh như vậy, việc mua bảo hiểm thân tàu cho

đội tàu của mình đối với các công ty hàng hải là một giải pháp tốt nhằm

đảm bảo tài sản, ổn định tài chính khi xảy ra tổn thất và đảm bảo kinh

doanh có lãi. Trên thực tế, nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu được tiến hành ở

Việt Nam từ năm 1965 nhưng thị trường bảo hiểm thân tàu ở Việt Nam

còn nhỏ bé, chưa phát triển do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vấn đề đặt ra

là làm thế nào để nâng cao hiệu quả của việc giao kết và thực hiện hợp

đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty hàng hải và các doanh nghiệp bảo

hiểm, thúc đẩy thị trường bảo hiểm thân tàu phát triển. Với mong muốn

được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm

thân tàu và nâng cao hiệu quả của việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo

hiểm thân tàu em xin chọn tề tài: “cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực

hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam”

làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Em xin chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm đưa ra những khó khăn

trong việc tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải cũng như

một số hạn chế trong việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu của các

công ty bảo hiểm và mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc

6

PHAN THỊ THU TRANG

nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giao kết và thực

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu nói riêng và thúc đẩy thị trường bảo hiểm

thân tàu ở Việt Nam phát triển nói chung.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Bảo hiểm hàng hải là một lĩnh vực rộng, bao gồm nhiều nghiệp vụ

như: bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, bảo

hiểm thân tàu biển, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu… Vì vậy

trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn này, em chỉ tập trung vào nghiên

cứu nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong

pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam, thị trường bảo hiểm thân tàu ở Việt

Nam, các công ty hàng hải Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm Việt

Nam cung cấp dịch vụ bảo hiểm thân tàu.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Những vấn đề của

lý luận và thực tiễn đều được xem xét trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ

thể.

- Phương pháp thống kê kinh tế: Tổng hợp số liệu, nghiên cứu các số

liệu rút ra từ các kết luận.

- Phương pháp phân tích tổng hợp: Mổ xẻ, bóc tách vấn đề từ đó rút

ra những kết luận mang tính bản chất.

- Phương pháp so sánh và đối chiếu.

7

PHAN THỊ THU TRANG

5. Kết cấu luận văn

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:

- Chương I: Lý luận chung về cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực

hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

- Chương II: Thực trạng cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam.

- Chương III: Một số kiến nghị góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc

giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải

Việt Nam.

Do thời gian nghiên cứu, khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế, chắc

rằng luận văn không tránh khỏi một số sai sót. Em rất mong nhận được sự

chỉ dẫn thêm của thầy cô, bạn bè và các chuyên gia bảo hiểm hàng hải.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến THS. Hồ Thuý Ngọc- Giáo viên

Bộ môn Luật Trường Đại Học Ngoại Thương, người đã dành thời gian và

công sức, nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt

nghiệp này.

Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, bạn

bè Trường Đại Học Ngoại Thương đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em

8

PHAN THỊ THU TRANG

trong việc sưu tầm tài liệu và hoàn thành tốt luận văn này.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC

GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU

I. Bảo hiểm thân tàu

1. Sự ra đời của bảo hiểm thân tàu.

Từ những năm 3000 trước công nguyên những lái buôn người

Trung Quốc đã nghĩ ra và áp dụng một số nguyên tắc bảo hiểm trong việc

chuyên chở hàng hoá trên sông Trường Giang vốn nổi tiếng nguy hiểm với

đá ngầm và ghềnh thác. Để đối phó với những rủi ro có thể xảy ra họ quyết

định phân tán khả năng xảy ra tổn thất bằng cách tại các đầu thác họ chia

đều các bao hàng của mỗi thuyền cho các thuyền khác. Như vậy khi một

thuyền bị tổn thất cũng có nghĩa là mỗi thuyền chỉ bị tổn thất một bao hàng

thôi.

Từ thế kỷ 13 bảo hiểm hàng hải đã trở thành một yếu tố không thể

thiếu trong đời sống buôn bán ở các cảng thuộc Địa Trung Hải. Bảo hiểm

tàu biển đã xuất hiện ở Anh và Châu Âu từ thế kỷ 16. Phương thức bảo

hiểm thời đó là các chủ tàu hoặc các thương nhân để được bảo hiểm phải

chuẩn bị một bản khai chi tiết về các rủi ro tài chính của chuyến đi, bên

dưới bản khai này “Các nhà buôn trung thực” hoặc các chủ ngân hàng

muốn chia sẻ rủi ro sẽ ghi số tiền mà họ phải chịu trách nhiệm và ký tên.

Do đó bảo hiểm hàng hải là nguồn gốc của thuật ngữ được sử dụng:

“Người bảo hiểm” (Underwriter) và “Bảo hiểm” (Underwriting).

Bảo hiểm thân tàu chỉ thực sự hình thành và phát triển thành một

nghiệp vụ kinh doanh từ cuối thế kỷ 17, bắt nguồn từ quán cà phê của

người thuyền trưởng giàu kinh nghiệm tên Eward Lloyd ở phố Tower

9

PHAN THỊ THU TRANG

street . Vào thời gian đó cứ mỗi lần đi biển trở về các thuyền trưởng, nhà

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

buôn lại ngồi quán cà phê bùi ngùi kể cho nhau nghe về đồng nghiệp của

mình đã bị rủi ro, mất mát như thế nào. Với óc thông minh, nhanh nhạy

của một nhà kinh tế, ông Edward Lloyd đã thu thập tin tức và lập bản tin

Lloyd’s về hàng hải và cho thông báo hàng ngày vào những giờ quy định.

Bản tin này dựa vào những tin tức của các nhà buôn, thuyền trưởng, sỹ

quan thuỷ thủ thường đến quán để trao đổi về những rủi ro, hiểm hoạ, tổn

thất xảy ra với các tàu đi biển trước khi dời bến. Dần dần các nhà kinh

doanh, các nhà môi giới bảo hiểm, những người muốn mua bảo hiểm cũng

đến đó để giao dịch và tiến hành ký kết hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên

Lloyd chỉ đóng vai trò chủ quán mà không trực tiếp tham gia bất kỳ hợp

đồng bảo hiểm nào. Mỗi người bảo hiểm phải tự chịu trách nhiệm về

những hợp đồng bảo hiểm đã ký kết của mình. Sau khi Lloyd qua đời vào

năm 1713, các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải thấy cần phải có một địa

điểm như quán cà phê của Lloyd’s để họ tập trung thực hiện giao dịch các

hợp đồng bảo hiểm, vào năm 1770 “Society of Lloyd’s” được thành lập

với tư cách là tổ chức tự nguyện. Tổ chức hoạt động với tư cách tư nhân

cho đến năm 1871 thì hợp theo luật Quốc hội (Act of Parliament) và trở

thành Hội Đồng Lloyd’s (The Corporation of Lloyd’s). Hiện nay tự thân

hội đồng Lloyd’s không kinh doanh mà chỉ tổ chức, điều khiển và đưa ra

những quy tắc cho các thành viên. Sau đó tổ chức này đã phát triển mạnh

mẽ và trở thành thị trường bảo hiểm lớn nhất về tái bảo hiểm và bảo hiểm

hàng hải. Như vậy từ cuối thế kỷ 17, các thể lệ và luật lệ về bảo hiểm tàu

biển đã ra đời. Từ năm 1881, các điều khoản đã trở thành tiêu chuẩn cho

các đơn vị bảo hiểm thân tàu (Hull Policies) và đã được tập hợp thành một

bộ điều khoản để dùng cho các đơn bảo hiểm thân tàu và máy tàu. Sau đó

Hiệp hội những người bảo hiểm London ấn hành gọi là ITC hay điều

khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu (Institute Time Clauses). Qua nhiều lần

chính lý, bổ sung như ITC 01/10/1983 và điềù khoản bảo hiểm thân tàu

mới nhất là ITC 2001. Dù việc sử dụng các điều khoản này không có tính

10

PHAN THỊ THU TRANG

chất bắt buộc song việc chấp hành nó đã trở thành hiển nhiên vì ITC đã trở

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thành cơ sở cho các điều khoản bảo hiểm thân tàu trên toàn thế giới. Như

vậy, bảo hiểm thân tàu phần nào đảm bảo cho ngành vận tải biển tái sản

xuất mở rộng và kinh doanh tàu biển.

Ở Việt nam, bảo hiểm thân tàu là một trong các nghiệp vụ đầu tiên

khi Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) được thành lập vào năm

1965. Năm 1975 sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,

BAOVIET mở rộng hệ thống chi nhánh vào các tỉnh phía nam và phát triển

nhất là công ty bảo hiểm thành phố Hồ chí Minh (BAOMINH), trên nền

tảng của công ty bảo hiểm VAR- Một công ty bảo hiểm hàng hải hàng đầu

hoạt động trước giải phóng miền Nam: thành lập (tháng11 năm 1994)

BAOMINH tiếp tục phát triển nghiệp vụ bảo hiểm tàu biển, pha sông, tàu

sông và tàu cá. Năm 1990, với sự ra đời của Bộ luật Hàng hải, nhà lập

pháp đã qui định hẳn một chương riêng (chương 16) dành cho hợp đồng

bảo hiểm hàng hải và gần đây nhất là Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005.

Nếu năm 1995 chỉ có 4 công ty bảo hiểm khai thác bảo hiểm thân tàu là

BAO VIET, BAO MINH, BAO LONG, PJICO, PVI thì tính đến hết tháng

8 năm 2006 đã có trên 10 công ty bảo hiểm bao gồm cả công ty liên doanh

với nước ngoài khai thác nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu như: QBE, UIC,

AAA, PTI, Samsung Vina, Công ty bảo hiểm Viễn Đông,

2. Khái niệm bảo hiểm thân tàu

Bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm những rủi ro vật chất xảy ra đối với

tàu, máy móc, và các thiết bị trên tàu và một phần trách nhiệm mà chủ tàu

phải chịu trong trường hợp hai tàu đâm va nhau.

Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm thân tàu là vỏ tàu, máy móc,

trang thiết bị trên tàu cước phí, chi phí hoạt động và một phần trách nhiệm

11

PHAN THỊ THU TRANG

trong các vụ tàu đâm va nhau (thông thường là 3/4 trách nhiệm đâm va).

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Ngoài ra, các chi phí và cung ứng liên quan đến con tàu và hành trình được

bảo hiểm tuỳ vào thoả thuận giữa chủ tàu và công ty bảo hiểm, các chi phí

này thường là:

 Lương thực, thực phẩm, nước ngọt.

 Lương ứng trước cho thuỷ thủ: Do hành trình của tàu thường rất dài.

Vì vậy chủ tàu thường trả lương cho thuỷ thủ trước hành trình. Khoản tiền

này chủ tàu cũng được bảo hiểm.

 Cước thu nhập: Cước của chủ tàu được coi là thu nhập mà chủ tàu có

được nhờ kinh doanh khai thác hàng hoá, khoản cước này có thể chủ tàu

được chủ hàng trả trước, cũng có thể trả sau. Tuy nhiên, để đảm bảo chắc

chắn chủ tàu sẽ được khoản cước này thì chủ tàu phải mua bảo hiểm trước.

 Các chi phí quản lý, trị giá gia tăng.

3. Các hình thức bảo hiểm thân tàu:

Bảo hiểm thân tàu thường được tiến hành theo các hình thức sau đây:

- Bảo hiểm theo thời hạn thân tàu (Hull Time Insurance)

Bảo hiểm thời hạn thân tàu là bảo hiểm thân tàu trong một thời gian

nhất định. Loại hình bảo hiểm này thường áp dụng cho hầu hết các loại tàu.

Thời hạn bảo hiểm theo hình thức này là 12 tháng hay ít hơn và phải được

ghi rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Thời điểm bắt đầu và kết thúc hiệu lực của

bảo hiểm cũng cần phải được cụ thể. Chẳng hạn, ở Anh thường ghi: “12

12

PHAN THỊ THU TRANG

months from 1 September 19… to 31 August 19… both days inclusive”

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

(B.D.I). Hình thức bảo hiểm này thường được bảo hiểm theo các điều kiện

sau đây:

 Điều kiện bảo hiểm thân tàu “mọi rủi ro” (Institute Time Clauses

(Hull) –“All Risks” );

 Điều kiện miễn bồi thường tổn thất riêng (Institute Time Clauses FPA

absolutely: ITC – FPA abs.);

 Điều kiện miễn bồi thường hư hỏng (Institute Time Clauses F.O.D.

abs.).

Hình thức bảo hiểm theo thời hạn thường được áp dụng cho các loại tàu

khác nhau: Tàu buôn (thường từ 100 GRT trở lên), tàu đánh cá, tàu dưới

100 GRT, tàu đặc biệt: nạo vét đẩy, kéo, xà lan, tàu gỗ, dàn khoan cố định

hay di động hoặc các cấu trúc khác cho khai thác dầu.

- Bảo hiểm chuyến thân tàu (Voyage Insurance)

Là bảo hiểm con tàu từ cảng này đến cảng khác (at and from) hoặc

bảo hiểm cho một chuyến khứ hồi (round trip). Hình thức này thường dùng

để bảo hiểm cho tàu mới đóng để xuất khẩu hoặc tàu đi sửa chữa, theo các

điều kiện như: Institute Voyage Clauses (I.V.C) “All Risks” (mọi rủi ro) và

I.V.C.- FPA abs. (miễn tổn thất riêng).

- Bảo hiểm chi phí (Hull Disbursement Insurance)

Các chi phí như chi phí hoạt động của tàu (nhiên liệu, nước ngọt,

lương thực, thực phẩm, tiền lương thuỷ thủ, cảng phí…) cũng được bảo

hiểm. Những chi phí này thường được bảo hiểm theo điều kiện TLO (Điều

kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ).

13

PHAN THỊ THU TRANG

- Bảo hiểm các rủi ro tại cảng

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Bảo hiểm chiến tranh, đình công

4. Các điều kiện bảo hiểm thân tàu

Các điều kiện bảo hiểm thân tàu của viện ILU (Viện các nhà bảo

hiểm London) được áp dụng phổ biến cho bảo hiểm theo thời hạn cũng như

bảo hiểm chuyến.

- Các điều kiện bảo hiểm các rủi ro hàng hải

(1) Điều kiện bảo hiểm “mọi rủi ro” theo thời hạn (Institute Time

Clauses (ITC) (Hull) – “All Risks”;

(2) Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng theo thời hạn (thân tàu)

(Institute Time Clauses – F.P.A. absolutely);

(3) Điều kiện bảo hiểm theo thời hạn (thân tàu) miễn tổn thất bộ phận

(Institute Time Clauses – FOD absolutely);

(4) Điều kiện bảo hiểm “mọi rủi ro” theo chuyến (thân tàu) (Institute

Voyage Clauses (IVC) “All Risks”);

(5) Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (Institute Voyage Clauses -

F.P.A. absolutely);

(6) Điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (Institute Standard T.L.O.

Clause) (thường dùng cho tàu nhỏ theo hình thức thời hạn và chuyến).

Các điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất bộ phận (FOD) và miễn tổn thất

14

PHAN THỊ THU TRANG

riêng (FPA), hiện ít được sử dụng.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Các điều kiện bảo hiểm các rủi ro tại cảng

(1) Institute Time Clauses Hulls: Port Risks (20/7/87): bảo hiểm

những rủi ro nằm tại cảng, thường dùng cho tàu nằm xó (laid up ship);

(2) Institute Clauses for Builders’ Risks (1/6/88): bảo hiểm rủi ro

của nhà đóng tàu, thường bảo hiểm các rủi ro như: cháy, sang thần, đắm khi

chuyên chở;

(3) Repairing Risks Insurance: bảo hiểm rủi ro tàu đang sửa chữa;

(4) Loss of Time Insurance: bảo hiểm thiệt hại do mất tiền lãi,

cước phí hoặc chi phí khai thác tàu, khi tàu buộc phải ngưng hoạt động do

các rủi ro hàng hải gây ra.

- Các điều kiện bảo hiểm phụ

(1) Điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động và nổi loạn

của dân chúng (Hull War and S.R & C.C Risks Insurance) (1/10/1983);

(2) Điều kiện bảo hiểm chiến tranh và đình công về thời hạn thân tàu –

(Institute War and Strike Clauses: Hull – Time) (1/11/95);

(3) Điều kiện bảo hiểm chiến tranh và đình công về chuyến thân tàu –

(Institute War and Strikes Clauses: Hulls – Voyage) (1/11/95);

(4) Điều kiện bảo hiểm chiến tranh và đình công về thời hạn cước phí –

(Institute War and Strikes Clauses: Freight – Time);

(5) Điều kiện bảo hiểm chiến tranh và đình công về chuyến cước phí

15

PHAN THỊ THU TRANG

(Institute War and Strikes Clauses: Freight – Voyage)…

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU

1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

1.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng bảo hiểm thân tàu

Xuất phát từ ý thức trách nhiệm nhằm bảo toàn tài sản để đảm bảo

cho việc kinh doanh và sự phát triển cũng như yên tâm về tài chính khi

có bất kỳ rủi ro gì xảy ra, việc mua bảo hiểm đối với những công ty vận

tải biển có trọng tải lớn, tuyến hoạt động rộng, những người bán và người

mua phải đi thuê tàu để chuyên chở hàng hoá là một yêu cầu bức thiết, cho

dù bảo hiểm là hoàn toàn từ nguyện. Hợp đồng bảo hiểm thân tàu là căn cứ

pháp lý quan trọng để xác định quan hệ giao dịch giữa các bên.

Hợp đồng bảo hiểm thân tàu là một văn bản trong đó người bảo hiểm

cam kết cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng

bảo hiểm do một rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm

cam kết trả phí bảo hiểm.

Hợp đồng bảo hiểm thân tàu (hợp đồng bảo hiểm) có thể được ký kết

theo hai loại: Hợp đồng bảo hiểm chuyến thân tàu và hợp đồng bảo hiểm

thời hạn thân tàu

 Hợp đồng bảo hiểm chuyến thân tàu: Khi một hợp đồng bảo hiểm

thân tàu có bao gồm thuật ngữ “tại và từ” hoặc từ một địa điểm này đến địa

16

PHAN THỊ THU TRANG

điểm khác thì gọi là hợp đồng bảo hiểm chuyến.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

 Hợp đồng bảo hiểm thời hạn thân tàu: Nếu một hợp đồng bảo hiểm

cho một con tàu trong một thời gian nhất định từ 3 tháng đến 1 năm

và thường là một năm thì gọi là hợp đồng bảo hiểm thời hạn.

Trong đăng ký hợp đồng bảo hiểm thân tàu, đối với hai loại hợp

đồng bảo hiểm thân tàu trên, chủ tàu phải nêu rõ tên tàu, cảng đăng ký,

quốc tịch tàu, năm và nơi đóng tàu, trọng tải của tàu..., đồng thời chủ tàu

phải đảm bảo 3 điều quy định:

+ Tàu dủ khả năng đi biển.

+ Quốc tịch của tàu không thay đổi suốt hành trình.

+ Hành trình con tàu phải hợp pháp.

Bảo hiểm theo thời hạn: thời hạn bảo hiểm tính theo dương lịch và

thời gian dài nhất là 12 tháng, ngắn nhất không dưới 3 tháng. Hiệu lực hợp

đồng bảo hiểm thời hạn thân tàu bắt đầu và kết thúc theo thời gian ghi trên

Giấy chứng nhận bảo hiểm, nhưng với điều kiện người được bảo hiểm đã

nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo quy định.

Bảo hiểm chuyến: Chuyến đi được bảo hiểm kể từ khi tàu thuyền

tháo gỡ giây chằng ra khỏi cột hoặc nhổ neo để bắt đầu chuyến đi và chấm

dứt hiệu lực sau 24 giờ kể từ khi thả neo hoặc được cột vào bờ ở nơi đến

ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc giấy sửa đổi bổ sung theo Giấy

chứng nhận đó (nếu có).

17

PHAN THỊ THU TRANG

1.2. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Một hợp đồng bảo hiểm nói chung và một hợp đồng bảo hiểm thân tàu

nói riêng thường bao gồm các nội dung cơ bản sau:

- Phần I: Nguyên tắc chung. Trong phần này các bên chủ thể của

hợp đồng sẽ đề cập đến những nguyên tắc chung nhất về thoả thuận giữa

hai bên, về đối tượng bảo hiểm…

- Phần II: Luật điều khoản, điều kiện chi phối hợp đồng. Trong

phần này thường đề cập đến luật chi phối hợp đồng,

- Phần III: Thủ tục bảo hiểm. Phần này của hợp đồng đề cập đến

những nội dung chi tiết về thủ tục của quá trình giao kết và thực hiện hợp

đồng giữa các bên chủ thể như: yêu cầu bảo hiểm, chấp nhận bảo hiểm,

hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.

- Phần IV: Phí bảo hiểm. Phần này của hợp đồng thường đề cập

đến một số nội dung chủ yếu như: tỷ lệ phí bảo hiểm, loại tiền đóng phí

bảo hiểm, thời hạn thanh toán phí bảo hiểm, phương thức thanh toán phí

bảo hiểm, hoàn phí bảo hiểm …

- Phần V: Thông báo giải quyết khiếu nại. Phần này của hợp đồng

thường bao gồm những nội dung như: thông báo sự cố, thu thập hồ sơ,

khắc phục sự cố, giải quyết bồi thường.

- Phần VI: Trách nhiệm bảo lưu quyền khiếu nại người thứ ba.

Phần này đề cập đến trách nhiệm của người được bảo hiểm trong trường

hợp tổn thất có liên quan đến người thứ ba về việc bảo lưu quyền khiếu

18

PHAN THỊ THU TRANG

nại cho bên bảo hiểm.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Phần VII: Chế tài bồi thường.

- Phần VIII: Thời hạn khiếu nại.

- Phần IX: Hiệu lực của hợp đồng.

- Phần X: Xử lý tranh chấp. Phần này đề cập đến hình thức xử lý

nếu xảy ra tranh chấp giữa hai bên trong quá trình thực hiện hợp đồng

như lựa chọn trọng tài, toà án…

1.3. Hình thức pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

Hình thức của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm

thân tàu nói riêng là phương tiện để ghi nhận nội dung của hợp đồng mà

các chủ thể đã xác định.

Điều 570 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định: “hợp đồng bảo hiểm

phải được lập thành văn bản. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo

hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm”

Như vậy pháp luật quy định hình thức của hợp đồng bảo hiểm là văn

bản nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết. Khi có

tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng

cứ pháp lý chắc chắn cho các bên dễ dàng thực hiện quyền của mình.

- Đơn bảo hiểm: phải xác định rõ nội dung tương tự như một bản dự

thảo hợp đồng, gồm các yếu tố chủ yếu như: ngày, tháng, năm lập đơn,

tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, những rủi ro được bảo hiểm,

19

PHAN THỊ THU TRANG

người được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm...

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Đơn bảo hiểm có thể ghi tên một hoặc nhiều người được bảo hiểm. Khi

đơn bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận và bên tham gia bảo

hiểm đóng phí bảo hiểm thì các cam kết bảo hiểm phát sinh hiệu lực;

- Giấy chứng nhận bảo hiểm là một loại chứng chỉ pháp lý do bên bảo

hiểm cấp cho người được bảo hiểm, xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được

giao kết. Thông thường giấy chứng nhận bảo hiểm được cấp để sử dụng

cho các trường hợp như hợp đồng bảo hiểm có nhiều người tham gia bảo

hiểm, hợp đồng bảo hiểm được giao kết theo chế độ bảo hiểm bắt buộc.

Giấy chứng nhận bảo hiểm có thể là chứng chỉ pháp lý xác nhận người sở

hữu giấy chứng nhận bảo hiểm tham gia một hoặc nhiều chế độ bảo hiểm;

Như vậy đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về

việc giao kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

1.4. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu

1.4.1. Bên tham gia bảo hiểm.

Người tham gia bảo hiểm thân tàu là các tổ chức và cá nhân mua bảo

hiểm (các công ty kinh doanh dịch vụ vận tải biển, các chủ tàu, các công

ty đóng tàu biển...) do có nhu cầu bảo hiểm hoặc có nghĩa vụ tham gia

bảo hiểm theo qui định của pháp luật hoặc của đối tác trong kinh doanh

của mình, là người trực tiếp ký kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm

nhằm đảm bảo sự an toàn cho các đối tượng là tài sản, tính mạng, sức

khoẻ của mình hay của người khác. Trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu thì

bêm tham gia bảo hiểm là các công ty kinh doanh dịch vụ vận tải biển,

20

PHAN THỊ THU TRANG

các công ty đóng tàu biển, và đối tượng của hợp đồng bảo hiểm thân tàu

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

là tàu biển chuyên dùng để kinh doanh các dịch vụ vận tải biển của các

công ty kinh doanh vận tải biển, các công ty đóng tàu thuỷ.

Trong xã hội có nhiều loại hình tổ chức như: doanh nghiệp, cơ quan

Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, ... tất cả các

tổ chức này đều có thể trở thành chủ thể tham gia bảo hiểm mà không phụ

thuộc họ có tư cách pháp nhân hay không, là tổ chức trong nước hay tổ

chức nước ngoài.

Đối với cá nhân để trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo

hiểm thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và phải

thoả mãn các điều kiện được qui định trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể.

Cá nhân là chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm có thể là người Việt Nam

hoặc người nước ngoài.

Đối với hợp đồng mà người tham gia bảo hiểm kí kết nhằm bảo vệ lợi

ích của bản thân thì người tham gia bảo hiểm cũng đồng thời là người

được bảo hiểm, còn đối với hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ

ba thì người được bảo hiểm là người thứ ba.

1.4.2. Bên bảo hiểm.

Bên bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu là tổ chức tham gia

hợp đồng bảo hiểm, thu phí bảo hiểm đồng thời chịu trách nhiệm bồi

thường cho người được bảo hiểm (chủ tàu) khi có sự kiện bảo hiểm xảy

ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm (tàu biển).

Trong giai đoạn hiện nay, thị trường bảo hiểm thân tàuViệt Nam đã

khá phát triển với sự đa dạng về các chủ thể tham gia hoạt động kinh

doanh bảo hiểm bao gồm cả các công ty bảo hiểm Việt Nam và các công

ty bảo hiểm nước ngoài. Đó là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường, xu

21

PHAN THỊ THU TRANG

thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, nó tạo ra môi trường khuyến khích và cởi

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

mở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các vấn đề hỗ trợ đào tạo và

chuyển giao công nghệ cũng như việc tiếp thu kinh nghiệm quản lý của

nước ngoài đang là đòi hỏi đối với sự phát triển của bảo hiểm Việt Nam.

Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật tạo nên cơ chế pháp

lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ngày 18/12/1993 Chính phủ ban

hành Nghị định 100/CP, văn bản này đánh dấu cho sự ra đời một thị

trường bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trường, thay cho sự độc quyền

của Bảo Việt là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể và gần đây nhất

là sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 với nhiều điểm mới

tích cực.

Các chủ thể được phép tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói

chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng theo Luật kinh doanh bảo hiểm

2000 bao gồm:

- Các doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, công

ty cổ phần, công ty bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh bảo hiểm, chi

nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước

ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

- Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) là doanh nghiệp

Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có chức năng chuyên kinh doanh tái bảo

hiểm.

- Tổ chức môi giới bảo hiểm.

- Đại lý bảo hiểm.

Trong đó, doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm muốn

tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải được Bộ Tài chính cấp

giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo

22

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

2. Quy trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu

2.1. Giao kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu

Giao kết hợp đồng bảo hiểm là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo

những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập nên hợp đồng bảo

hiểm.

Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhìn chung phải tuân thủ những

nguyên tắc mà pháp luật qui định như sau:

- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.

- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, cùng có lợi

Quy trình giao kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu thường diễn ra theo các

bước sau:

2.1.1. Yêu cầu bảo hiểm:

Người được bảo hiểm tuỳ theo điều kiện con tàu, khả năng tài

chính của mình mà lựa chọn hình thức bảo hiểm thời hạn hoặc chuyến,

điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro hay tổn thất toàn bộ... cho thích hợp để kê

khai trong Giấy yêu cầu bảo hiểm.

Giấy yêu cầu bảo hiểm phải gửi cho công ty bảo hiểm trước một số

ngày nhất định tuỳ theo quy định của từng công ty bảo hiểm kể từ ngày

yêu cầu bảo hiểm có hiệu lực với nội dung kê khai theo mẫu in sẵn của

công ty bảo hiểm. Đối với tàu mới tham gia bảo hiểm lần đầu tại công ty

bảo hiểm thì kèm theo Giấy yêu cầu bảo hiểm phải có các tài liệu sao chụp

nhất định theo yêu cầu của công ty bảo hiểm, thông thường các tài liệu này

23

PHAN THỊ THU TRANG

bao gồm các loại giấy tờ sau:

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Chứng nhận quốc tịch tàu.

- Giấy chứng nhận khả năng an toàn đi biển của tàu có kem theo các

biên bản kiểm tra từng phần của Đăng kiểm.

- Biên bản kiểm tra khi giao nhận tàu.

2.1.2. Chấp nhận bảo hiểm

Khi nhận được Giấy yêu cầu bảo hiểm và tài liệu có liên quan nêu ở

trên, công ty bảo hiểm sẽ xem xét và có thể tiến hành kiểm tra tình trạng

thực tế của tàu. Nếu tàu thực sự đảm bảo an toàn đi biển, công ty bảo hiểm

sẽ chấp nhận và cấp đơn bảo hiểm cho tàu.

Hợp đồng bảo hiểm được giao kết khi bên bảo hiểm trả lời chấp

nhận yêu cầu bảo hiểm của người yêu cầu bảo hiểm và hai bên đã thỏa

thuận xong về nội dung hợp đồng.

2.2. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm

Đây chính là quá trình hai bên thực hiện quyền và nghĩa vụ đã cam

kết. Khi hợp đồng bảo hiểm thân tàu đã được giao kết giữa các bên chủ thể

của hợp đồng thì các bên có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản của hợp

đồng mà các bên đã thoả thuận.

* Về phía người mua bảo hiểm cần thực hiện một số nghĩa vụ cơ bản sau:

Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng

hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Trong một

24

PHAN THỊ THU TRANG

hợp đồng bảo hiển thân tàu thì phí bảo hiểm là vấn đề quan trọng hàng đầu

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

bảo đảm cho hợp đồng có hiệu lực thi hành, phí bảo hiểm cũng là trách

nhiệm vật chất cao nhất mà các chủ tàu phải thực hiện trong hợp đồng bảo

hiểm. Phí bảo hiển thân tàu là khoản tiềm mà chủ tàu phải trả cho công ty

bảo hiểm trên cơ sở hai bên đã thoả thuận về tỷ lệ cũng như số tiền tuyệt

đối. Khâu thanh toán phí bảo hiểm rất quan trọng vì việc chủ tàu có thực

hiện nộp phí đủ, đúng thời hạn hay không là cơ sở để công ty bảo hiểm từ

chối hay chấp nhận bồi thường khi có tổn thất xảy ra;

Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp con tàu đúng như con tàu

có đặc điểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm, con tàu đó phải có đủ khả năng

đi biển, mọi chi tiết, máy móc phải đúng như đã khai báo với bên bảo

hiểm. Bên tham gia bảo hiểm cũng phải có trách nhiệm trong việc bảo

quản tàu và chú trọng công tác đề phòng tổn thất, bên tham gia bảo hiểm

thân tàu phải có trách nhiệm đối với tàu để tàu bảo đảm an toàn đi biển và

chuyên chở hàng hóa thích hợp theo quy định của hợp đồng bảo hiểm và

qui định về an toàn hàng hải. Đồng thời chủ tàu cần có các biện pháp để

phòng ngừa, hạn chế tổn thất cũng như tích cực hợp tác với công ty bảo

hiểm, các cơ quan liên quan để đề ra biện pháp phòng ngừa tổn thất;

Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm trong việc bảo lưu quyền khiếu nại

bên thứ ba cho bên bảo hiểm.

Bên cạnh những nghĩa vụ trên thì bên mua bảo hiểm còn có thể thực

hiện một số quyền theo quy định của pháp luật như:

 Người được bảo hiểm có quyền tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm

và chuyển cho người bảo hiểm quyền, nghĩa vụ của mình liên quan đến đối

tượng bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường tổn thất toàn bộ nếu việc đối

25

PHAN THỊ THU TRANG

tượng bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi hoặc việc ngăn ngừa tổn

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thất đó sẽ gây ra các chi phí quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm.

Nếu việc từ bỏ đối tượng bảo hiểm được bên bảo hiếm chấp nhận thì người

tham gia bảo hiểm có quyền được bồi thường tổn thất toàn bộ.

 Từ chối không tham gia hợp đồng bảo hiểm trong thời gian cân nhắc

hoặc sửa đổi một số điều khoản của hợp đồng như đã thoả thuận trước giữa

các bên chủ thể.

Điều 250 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 quy định về từ bỏ đối

tượng bảo hiểm như sau:

1. Người được bảo hiểm có quyền tuyên bố từ bỏ đối tượng bảo hiểm

và chuyển cho người bảo hiểm quyền, nghĩa vụ của mình liên quan đến đối

tượng bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường tổn thất toàn bộ nếu việc đối

tượng bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi hoặc việc ngăn ngừa tổn

thất đó sẽ gây ra các chi phí quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm.

2. Quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm có thể được áp dụng trong trường

hợp tàu biển bị mất tích, bị cưỡng đoạt, bị hư hỏng do tai nạn mà không thể

sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa, phục hồi, chuộc tàu là không có hiệu

* Về phí người bảo hiểm cần thực hiện một số nghĩa vụ cơ bản sau:

quả kinh tế.

Bên bảo hiểm có nghĩa vụ giải thích các thông tin, thắc mắc cho bên

mua bảo hiểm, đồng thời bên bảo hiểm cũng có nghĩa vụ cung cấp cho bên

mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao

26

PHAN THỊ THU TRANG

kết hợp đồng bảo hiểm.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Khi xảy ra tổn thất đối với đối tượng bảo hiểm thì bên bảo hiểm nhanh

chóng giám định tổn thất và tiến hành bồi thường cho bên được bảo hiểm.

Song song với việc thực hiện một số nghĩa vụ cơ bản trên thì bên bảo

hiểm cũng có thể thực hiện một số quyền cơ bản sau trong quá trình thực

hiện hợp đồng bảo hiểm:

- Bên bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm đối với người mua bảo

hiểm theo mức hai bên đã thoả thuận hoặc theo biểu phí mà pháp luật qui

định đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc.

- Bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người mua bảo hiểm phải cung cấp

cho bên bảo hiểm đầy đủ các thông tin có liên quan đến đối tượng bảo

hiểm trừ các thông tin mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết. Các thông

tin này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của bên

bảo hiểm như rủi ro xảy ra có phải là sự kiện bảo hiểm không, mức thiệt

hại bao nhiêu,... Điều 573 khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định:

“Trong trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm

giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn

phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm

chấm dứt hợp đồng.” Đây là một quyền quan trọng bởi bên bảo hiểm khó

có điều kiện theo dõi sát đối tượng bảo hiểm mà chỉ thông qua nghĩa vụ

khai báo của bên kia mới có thể nắm rõ tình trạng của đối tượng bảo hiểm.

Vì thế trong tất cả các hợp đồng bảo hiểm đều qui định quyền này cụ thể

và để đảm bảo sự khai báo trung thực của bên mua bảo hiểm, bên bảo hiểm

có thể áp dụng những chế tài nhất định. Đối với hợp đồng bảo hiểm thân

tàu , điều 231 Bộ luật hàng hải năm 2005 qui định: “Trong trường hợp

người được bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ khai báo thông tin thì bên bảo

27

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm có quyền rút khỏi hợp đồng và vẫn được thu phí bảo hiểm đầy đủ.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Nếu người được bảo hiểm không có lỗi trong việc khai báo không chính

xác hoặc không khai báo theo qui định thì bên bảo hiểm không có quyền

rút khỏi hợp đồng nhưng có quyền thu thêm phí bảo hiểm ở mức độ hợp lý

”.

Hiện nay, ở Việt Nam hiện tượng khách hàng trục lợi bảo hiểm bằng

cách khai báo thông tin sai lệch là hiện tượng phổ biến và ngày một tinh vi.

- Trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện

pháp phòng ngừa thiệt hại đã ghi trong hợp đồng thì bên bảo hiểm có

quyền ấn định một thời gian để bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp

đó; nếu hết thời hạn mà các biện pháp phòng ngừa vẫn không được thực

hiện thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng

ngừa đã không được thực hiện (Điều 574 khoản 2 Bộ luật dân sự năm

2005).

- Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được

bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm thì

bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình

phải trả (Điều 577 khoản 1 Bộ luật dân sự năm 2005).

Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, việc bồi thường tổn thất được thực hiện

theo các bước sau:

- Thứ nhất, giám định tổn thất:

Giám định tổn thất là hoạt động kiểm tra, kết luận của bên bảo

hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm (trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu

thì đối tượng bảo hiểm là con tàu đã được bảo hiểm) khi xảy ra sự kiện bảo

hiểm. Theo qui định của pháp luật, người được bảo hiểm phải kịp thời làm

giấy báo và yêu cầu bên bảo hiểm đến giám định tổn thất nhằm: xác định

28

PHAN THỊ THU TRANG

tình trạng tổn thất, mức độ thiệt hại vật chất, nguyên nhân gây ra tổn thất.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Người được bảo hiểm hoặc người đại diện phải để nguyên trạng đối tượng

đã bị tổn thất, không làm mất dấu vết, xáo trộn hoặc tự động di chuyển đi

nơi khác trừ khi có sự chứng kiến tại hiện trường của đại diện các cơ quan

hữu quan tạm lập biên bản để chờ giám định viên của bảo hiểm đến giám

định cụ thể. Việc giám định phải có mặt người được bảo hiểm và phải lập

thành biên bản giám định.

Nếu việc giám định mà hai bên không thoả thuận được mức độ

thiệt hại thì có thể mời giám định viên chuyên ngành tiến hành giám định.

Biên bản giám định kèm theo các văn bản xác nhận có liên quan khác là

chứng cớ có giá trị pháp lý để xử lý bồi thường tổn thất.

- Thứ hai, khiếu nại, đòi bồi thường.

Khiếu nại, đòi bồi thường là hành vi của người được bảo hiểm yêu

cầu bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm trên cơ sở những chứng cớ do người

được bảo hiểm đưa ra.

Bộ hồ sơ xuất trình khi khiếu nại, đòi bồi thường phải có:

+ Đơn yêu cầu bồi thường;

+ Giấy chứng nhận bảo hiểm;

+ Biên bản giám định tổn thất;

+ Các tài liệu khác như: chứng từ, hoá đơn làm cơ sở cho việc bồi thường.

Thiệt hại về người bao gồm các hoá đơn, chứng từ viện phí, làm chân

tay giả, tiền tàu xe, mai táng phí... Thiệt hại về tài sản bao gồm các chứng

từ hoá đơn liên quan đến chi phí sửa chữa...

Đối với hợp đồng bảo hiểm thân tàu thì hồ sơ khiếu nại của bên được

bảo hiểm thường bao gồm các chứng từ sau:

29

PHAN THỊ THU TRANG

- Công văn khiếu nại của chủ tàu;

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Bản sao Đơn bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm;

- Thông báo tổn thất cho người bảo hiểm biết tai nạn xảy ra;

- Bản sao các giấy tờ Đăng kiểm của tàu;

- Bản sao các bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn của thuyền trưởng và

những thuyền viên liên quan đến tổn thất;

- Kháng nghị hàng hải có xác nhận của cảng vụ hay công chức địa

phương nơi xảy ra tai nạn hoặc cảng đến đầu tiên nếu sự cố xảy ra khi tàu

đang trong hành trình trên biển;

- Báo cáo sự cố hoặc tường trình của những người liên quan;

- Trích sau nhật ký boong tàu, máy, thời tiết (nếu thời tiết xấu), đo

nước lacanh (nếu tổn thất xảy ra do nước vào hầm hàng);

- Sơ đồ vị trí xảy ra tai nạn (trường hợp đâm va, mắc cạn, va đá

ngầm);

- Biên bản đối tịch giữa hai tàu (trường hợp đâm va);

- Các tài liệu liên quan đến người thứ ba (nếu tổn thất liên quan đến

người thứ ba);

- Biên bản giám định của người bảo hiểm, đại lý bảo hiểm hoặc cơ quan

giám định do người bảo hiểm chỉ định trong đó nêu rõ mức độ tổn thất;

- Hồ sơ sửa chữa, khắc phục sự cố;

30

PHAN THỊ THU TRANG

- Các chứng từ, hóa đơn thanh toán;

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Hợp đồng vận chuyển, vận tải đơn hoặc phiếu vận chuyển.

Thời hạn khiếu nại, đòi bồi thường được qui định trong các quy tắc

bảo hiểm đối với từng loại hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ thời hạn đòi bồi

thường đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

là 6 tháng kể từ khi xảy ra tai nạn, đối với hợp đồng bảo hiểm hàng hoá

vận chuyển bằng đường biển là 2 năm kể từ khi xảy ra tai nạn, tổn thất.

Trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu thời hạn đòi bồi thường là 2 năm kể từ

khi xảy ra tai nạn, tổn thất.

Trong thời hạn quy định kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ, bên bảo hiểm

sẽ bồi thường hoặc trả lời từ chối bồi thường.

Điều 576 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định về trách nhiệm trả tiền bảo

hiểm như sau:

1. Bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm trong

thời hạn đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận về thời hạn, thì bên bảo

hiểm phải trả tiền bảo hiểm trong 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ

sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm.

2. Trong trường hợp bên bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm thì phải trả cả

lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước

qui định tại thời điểm trả tiền bảo hiểm tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xẩy ra thiệt hại, thì

bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm; nếu do lỗi vô ý của người

được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm không phải trả một phần tiền bảo hiểm

31

PHAN THỊ THU TRANG

tương ứng với mức độ lỗi của bên được bảo hiểm.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Thứ ba, thanh toán tiền bồi thường, theo nguyên tắc sau:

+ Bên bảo hiểm chỉ bồi thường bằng tiền chứ không bồi thường

bằng hiện vật.

+ Bảo hiểm chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm hay giá

trị bảo hiểm trừ khi có các chi phí hợp lý khác.

+ Khi trả tiền bồi thường, bên bảo hiểm được khấu trừ những khoản

tiền mà người được bảo hiểm đã đòi được ở người thứ ba.

Điều 577 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng qui định một trường hợp riêng.

1. Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên

được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo

hiểm, thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản

tiền mà mình đã trả. Bên được bảo hiểm có nghĩa vụ phải cung cấp cho

bên bảo hiểm mọi tin tức, bằng chứng mà mình biết để bên bảo hiểm thực

hiện quyền yêu cầu đối với người thứ ba.

Trường hợp bên được bảo hiểm đã nhận số tiền bồi thường thiệt hại do

người thứ ba trả, nhưng vẫn ít hơn số tiền mà bên bảo hiểm phải trả, thì

bên bảo hiểm chỉ phải trả phần chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm và số

tiền người thứ ba đã trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG

BẢO HIỂM THÂN TÀU

3.1. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm thân tàu

Bảo hiểm thân tàu là một nghiệp vụ khá phức tạp, không chỉ liên quan

32

PHAN THỊ THU TRANG

đến người bảo hiểm và người được bảo hiểm mà còn liên quan đến các

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

chủ hàng trong phân chia tổn thất chung, đến người cứu hộ, đến chính

quyền sở tại. Vì vậy cần phải có các văn bản luật đầy đủ để điều chỉnh

các mối quan hệ này để đảm bảo thoả mãn chính xác quyền lợi của các

bên khi có tranh chấp xảy ra.

3.1.1. Điều ƣớc quốc tế chi phối bảo hiểm thân tàu

- Điều khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu ITC.

Điều khoản này do Hiệp hội các nhà bảo hiểm London ban hành đã có

các bản ITC 1970, ITC 1983, ITC 1995, ITC 2001. Đây là nguồn luật

mang tính chất tuỳ ý, chỉ ràng buộc các bên khi được dẫn chiếu vào đơn

bảo hiểm.

- Quy tắc phòng ngừa va chạm tàu trên biển.

Do tổ chức hàng hải Quốc tế (IMO) ban hành năm 1972 và được bổ

sung năm 1981, bao gồm các qui tắc về an toàn giao thông trên biển,

trách nhiệm của các tàu thuyền đi lại nhằm hạn chế tối đa va chạm xảy ra

trên biển…

- Công ƣớc về trách nhiệm đâm va 1911

Công ước này ra đời năm 1911 từ yêu cầu cần có một công ước thống

nhất cho các quốc gia để giải quyết các tai nạn đâm va trên biển có yếu tố

quốc tế.

Nội dung công ước quốc tế bao gồm: quy định pháp lý về lỗi, thống

33

PHAN THỊ THU TRANG

nhất nguyên tắc phân chia tổn thất, đưa ra thời hạn tố quyền.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Công ƣớc York- Antwerp về tổn thất chung 1974.

Đây là công ước quốc tế về tổn thất chung, ban hành lần đầu vào năm

1950 và được sửa đổi bổ sung vào năm 1974, 1994. Bản mới nhất có hiệu

lực từ 01/01/1995. Công ước này giải quyết các vấn đề về tổn thất chung:

định nghĩa, các yếu tố cấu thành, các tính toán tổn thất chung…

- Công ƣớc về phòng ngừa và va chạm tàu thuyền trên biển

Công ước này được ban hành lần đầu vào năm 1972 và chính thức có

hiệu lực vào ngày 15/7/1977. Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam là ngày

18/12/1990

- Công ƣớc về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp đối với an toàn

hàng hải

Công ước này được ban hành năm 1988 và chính thức có hiệu lực

ngày 1/3/1992, chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày

10/10/2002. Nghị Định thư sửa đổi công ước này gần đây nhất là năm

2005

- Công ƣớc Quốc tế về cứu hộ hàng hải.

Năm 1971, Hiệp hội hàng hải ra đời tại Anh và đây là tiền đề để Công ước

Quốc tế về cứu hộ được phê chuẩn năm 1974. Năm 1989, công ước này

được sửa đổi và đây là bản vẫn được áp dụng hiện nay.

34

PHAN THỊ THU TRANG

- Quy tắc quản lý an toàn hàng hải quốc tế (quy tắc ISM).

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/1998 là một bộ phận của công ước về

an toàn sinh mạng trên biển (Solas1974) được thông qua bởi tổ chức hàng

hải quốc tế (IMO) và Việt nam là thành viên và nó có hiệu lức trong tất cả

các nước tham gia công ước Solas (khoảng 90%).

Quy tắc này có mục tiêu là cung cấp một tiêu chuẩn quốc tế cho việc

hoạt động và quản lý tàu một cách an toàn và phòng ngừa ô nhiểm. Nó

được xem là công cụ quyết định để cải thiên tiêu chuẩn hoạt động hàng hải.

Đối với Việt Nam, các điều ước quốc tế về bảo hiểm nói chung và bảo

hiểm hàng hải nói riêng mà Chính phủ đã tham gia ký kết hoặc do các

bên dẫn chiếu tới có những quy định khác với pháp luật Việt Nam thì có

thể căn cứ vào Điều 11, điểm 6 của pháp lệnh ký kết và thực hiện điều

ước quốc tế của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 759

khoản 3 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 để giải quyết xung đột pháp

luật

Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm

pháp luật thực chất đã được quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào các

điều ước quốc tế các chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thân tàu có thể thống

nhất trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh nhanh chóng và tiết kiệm

thời gian ... Đối với Việt Nam thì các điều ước quốc tế điều chưa phát huy

thật sự vai trò của nó do chúng ta chưa ký kết được nhiều điều ước quốc

tế.

35

PHAN THỊ THU TRANG

3.1.2. Luật quốc gia

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Khi các bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thân tàu thoả thuận chọn

luật một nước nào đó thì luật quốc gia đó trở thành nguồn luật điều chỉnh

hợp đồng bảo hiểm mà hai bên đã ký kết.

Luật quốc gia sẽ được áp dụng trong hợp đồng khi không có điều ước

quốc tế hoặc những điều ước quốc tế không đề cập đến hay không đầy đủ

những vấn đề về quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng.

Luật quốc gia với tư cách là nguồn luật áp dụng trong hợp đồng bảo

hiểm thân tàu có thể là luật của các bên ký kết hợp đồng lưạ chọn, hoặc

luật có liên quan đến hợp đồng như luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực

hiện nghĩa vụ của hợp đồng. Những luật trên có thể được áp dụng tuỳ vào

thảo thuận chọn luật của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Khi áp dụng luật

quốc gia của một nước để điều chỉnh hợp đồng có nghĩa là được áp dụng

những luật, văn bản dưới luật có liên quan đến hàng hải nói chung và hợp

đồng bảo hiểm thân tàu nói riêng, thông thường đó là luật hàng hải và chỉ áp

dụng luật thực chất chứ không áp dụng luật xung đột. Nếu luật thực chất đó

không có quy phạm điều chỉnh vấn đề tranh chấp cụ thể thì phải dựa vào

điều ước quốc tế hoặc tập quán hàng hải quốc tế hàng hải để giải quyết.

Ở Việt Nam, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu chịu

sự điều chỉnh của một số luật và các văn bản dưới luật sau của pháp luật:

- Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 01/04/2001

- Bộ luật hàng hải Việt Nam ngày 16/04/2005.

- Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 có quy định liên quan đến hợp đồng

bảo hiểm tại chương 18, mục 11 (từ điều 567- điều 580).

- Nghị định số 42/2001/NĐ- CP của Chính phủ từ ngày 01/08/2001 về

hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

- Thông tư số 27/1998/TT- BTC ngày 04/03/1998 về hoạt động khai

36

PHAN THỊ THU TRANG

thác bảo hiểm và quản lý phí bảo hiểm.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Nghị định 100/NĐ- CP của Chính phủ ban hành tháng 12/1993 phá

bỏ thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm, tách rời chức năng quản lý và chức

năng kinh doanh của Bảo Việt, cho phép thành lập các doanh nghiệp bảo

hiểm đủ điều kiện để kinh doanh bảo hiểm.

Việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công

ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm phải tuân thủ các qui định

của các luật này về tư cách chủ thể của hợp đồng, hình thức pháp lý của

hợp đồng, nội dung của hợp đồng, ... Và trong hợp đồng phải chỉ rõ luật sẽ

dẫn chiếu đến khi xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể trong quá trình

thực hiện hợp đồng bảo hiểm.

3.1.3. Tập quán hàng hải

Tập quán quốc tế về hàng hải cũng là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng

bảo hiểm thân tàu. Tập quán hàng hải là những thói quen hàng hải được

lặp đi lặp lai nhiều lần, được công nhận rộng rãi và áp dụng liên tục đến

mức trở thành một nguyên tắc mà các bên mặc nhiên tuân theo, nhiều tập

quán hàng hải được hình thành ở các cảng biển.

Tập quán hàng hải thường được áp dụng với tư cách là nguồn luật để

giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm hàng hải (hợp

đồng bảo hiểm thân tàu), đơn bảo hiểm cũng như luật do đơn bảo hiểm

này chỉ ra không điều chỉnh hay điều chỉnh không đủ nội dung tranh chấp

phát sinh. Hay nói cách khác, tập quán hàng hải sẽ được áp dụng trong

hợp đồng bảo hiểm thân tàu trong 3 trường hợp sau:

- Khi hợp đồng bảo hiểm quy định.

37

PHAN THỊ THU TRANG

- Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Khi luật (luật quốc gia) do các bên chủ thể của hợp đồng bảo

hiểm thân tàu thoả thuận lựa chọn, không có hoặc có nhưng không đầy

đủ, còn khiếm khuyết về những vấn đề tranh chấp phát sinh, về những

vấn đề cần phải điều chỉnh.

Theo qui định tại Điều 2, khoản 3 của Luật kinh doanh bảo hiểm

Việt Nam năm 2000 thì các bên tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận áp

dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt

Nam. Như vậy, các bên tham gia trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu có

quyền áp dụng các tập quán hàng hải trong quá trình giao kết và thực hiện

38

PHAN THỊ THU TRANG

hộ đồng bảo hiểm thân tàu.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO

KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU

CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM

I. Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của

các công ty hàng hải Việt Nam.

1. Hình thức tham gia bảo hiểm thân tàu chủ yếu của các công ty hàng

hải Việt Nam.

Hiện nay, thị trường bảo hiểm thân tàu tại Việt Nam đang áp dụng hai

quy tắc bảo hiểm thân tàu chủ yếu:

 Nếu tàu hoạt động trên phạm vi quốc tế, số tiền bảo hiểm bằng ngoại

tệ: áp dụng điều khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu (ITC).

 Nếu tàu thuyền hoạt động trong vùng lãnh hải Việt Nam, số tiền bảo

hiểm bằng đồng Việt Nam: áp dụng quy tắc bảo hiểm tàu thuyền của Việt

Nam.

Trên thị trường bảo hiểm thân tàu Việt Nam hầu như không có các hợp

đồng bảo hiểm chuyến thân tàu, hình thức bảo hiểm này chỉ áp dụng cho

tàu đóng mới trong hành trình giao cho người mua tàu, tàu đóng mới để

xuất khẩu. Các công ty hàng hải Việt Nam chủ yếu mua bảo hiểm thân tàu

cho đội tàu của mình theo hình thức bảo hiểm thời hạn thân tàu, thời hạn

của một hợp đồng bảo hiểm thường kéo dài từ 3 tháng đến một năm. Nhìn

trên thị trường bảo hiểm thân tàu Việt Nam và số lượng hợp đồng bảo

* Mai Xuân Dũng (2005), “Bảo hiểm thân tàu”, Tạp chí Bảo hiểm – Tái bảo hiểm Việt Nam, số 03 tháng 8 năm 2005, tr.19

39

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm thân tàu mà các công ty hàng hải Việt Nam tham gia cho đội tàu của mình, thì có tới 99,9%(* là các hợp đồng bảo hiểm thời hạn thân tàu. Hiện

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

nay, các công ty bảo hiểm của Việt Nam có kinh doanh nghiệp vụ bảo

hiểm thân tàu mà chủ yếu là một số công ty lớn như: Bảo Việt, Bảo Minh,

Bảo Long, PVI, PJICO đều áp dụng thống nhất điều khoản bảo hiểm thân

tàu theo thời hạn (ITC) do các nhà bảo hiểm Lodon (IUL) ấn hành kết hợp

với việc điều chỉnh cho phù hợp với những quy định của Luật kinh doanh

bảo hiểm, Luật Hàng hải, các thông tư và nghị định điều chỉnh hoạt động

bảo hiểm tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ bảo hiểm thân tàu cho các công

ty hàng hải có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình.

2. Tình hình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu

của các công ty hàng hải Việt Nam.

Ở Việt Nam có trên 4001 công ty hàng hải lớn nhỏ chuyên kinh doanh

dịch vụ vận tải biển (tính đến hết năm 2005), nhưng chỉ có trên 40 công ty

vận tải biển có đội tàu hoạt động các tuyến viễn dương với tổng số luợng tàu tính đến tháng 02 năm 2006 là 10802 chiếc lớn nhỏ các loại. Như vậy,

nhờ chính sách cơ cấu lai đội tàu biển của Chính phủ, đội tàu biển Việt

Nam đã phát triển và lớn mạnh hơn nhiều so với những năm trước, nếu năm 1995 số lượng tàu biển của các công ty hảng hải Việt Nam chỉ là 6943

1 Nguyễn Danh Hoàng (2005), “doanh nghiệp hàng hải trước thềm hội nhập”, tạp chí hàng hải, số 09 năm 2005, trang 15 2 Bảng 1 – Thống kê số lượng tàu biển của Việt Nam qua các năm 3 Bảng 1 – Thống kê số lượng tàu biển của Việt Nam qua các năm

40

PHAN THỊ THU TRANG

chiếc các loại thì đến năm 2006 số lượng tàu biển đã tăng gần gấp đôi.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Bảng 1: Thống kê số lƣợng tàu biển của Việt Nam qua các năm

Năm Số lƣợng tàu Tổng dung tích

694 1995 744.134

781 1996 833.189

796 1997 838.912

832 1998 905.792

840 1999 964.709

850 2000 1.232.196

861 2001 1.817.364

881 2002 1.965.103

927 2003 2.032.321

1007 2004 2.143.007

1065 2005 2.176.454

1080 2006 2.222.035

Nguồn: Báo cáo của cục Đăng kiểm Việt Nam tại hội thảo về bảo hiểm

thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu tháng 2/2006, thống kê của

cục hàng hải Việt Nam qua các năm

Tuy số lượng tàu biển của các công ty hàng hải Việt Nam có sự gia

tăng về số lượng nhưng số lượng tàu biển có trọng tải lớn, hoạt động

tuyến quốc tế chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (33%) tổng số lượng tàu biển,

41

PHAN THỊ THU TRANG

tính đến đầu năm 2006 số lượng tàu biển có trọng tải lớn là 357 chiếc các loại với tổng dung tích đăng ký là 1.405.910 tấn đăng ký(4)

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Bảng 2: Thống kê các loại tàu hoạt động tuyến quốc tế

Số Tổng dung Tổng trọng tải Loại tàu Tỷ lệ DWT lượng tích (GT) (DWT)

Tàu chở dầu 42 62068.07 24.33 245160.30

Tµu container 3.43 4 26236.00 34566.46

0.13 Tàu chở khách 13 3447.00 1325.52

Tàu hàng khô 185 298532.20 477793.88 47.42

Tµu c«ng vô 0.01 11 768.00 128.43

0.46 Tàu chở gas, khí 2 4712.00 4666.00

hoá lỏng

Tàu chở hoá chất 2 0.37 2010.00 3700.60

Tµu chë hµng dêi 16.80 2 22279.00 169303.00

0.09 Tàu lai kéo 26 3133.88 883.84

Tàu thể thao 2 0.47 3035.00 4765.00

Tµu chë kh¸ch vµ 0.07 1189.00 673.13 6

hµng

Khác 26 15382.80 14726.21 1.46

Tổng số 357 1.405.910 100.00

Nguồn: Báo cáo tháng 02/2006 của Cục Đăng kiểm Việt Nam tại hội thảo

về bảo hiểm thân tàu và thống kê của cục hàng hải Việt Nam năm 2005

Trong đó các tàu có trọng tải lớn này chủ yếu nằm trong đội tàu của

các công ty vận tải biển lớn như: VICONSHIP, Công ty vận tải biển Thuỷ

Bắc, công ty HAMATCO, DAMATOSCO, GERMANTRANS,

SAIGONSHIP- APM, công ty vận tải Biển Đông, công ty vận tải biển Sài

Gòn, công ty vận tải Biển Hà Nội, Công ty vận tải biển Đông Long và các

42

PHAN THỊ THU TRANG

doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

(VOSCO,VITRANSCHART, VINASHIP, NOSCO, VISERTRANS,

FALCON, công ty vận tải biển Bắc …

Về tình hình tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt

Nam. Trong những năm gần đây, số lượng các công ty hàng hải tham gia

bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình ngày càng tăng. Điều này có thể

nhận thấy rõ qua sự tăng trưởng về số lượng các con tàu tham gia bảo

hiểm và giá trị tham gia bảo hiểm của các con tàu thuộc các công ty hàng

hải Việt Nam. Nếu năm 1996 chỉ có khoảng 185 tàu biển tham gia bảo

hiểm thân tàu với 195 triệu US$ giá trị tham gia bảo hiểm thì đến hết năm

2005 đã có khoảng 340 tàu với 751 triệu US$ gía trị tham gia bảo hiểm.

Số lượng tàu tham gia bảo hiểm chỉ thực sự phát triển kể từ năm 2000,

khi đó có khoảng 230 tàu với 291 triệu US$ giá trị tham gia bảo hiểm.

Sau 5 năm, số lượng tàu đã tham gia bảo hiểm đã tăng 1,4 lần với 340 tàu

với tổng trị giá tham gia bảo hiểm của các con tàu (kể cả khấu hao) đã tăng thêm khoảng 460 triệu US$ trong năm 5 năm5. Trong giai đoạn từ

2000 đến hết quý I/2005 số lượng các con tàu của các công ty hàng hải

Việt Nam với giá trị bảo hiểm lớn ngày càng tăng, nếu chỉ tính các con

tàu có số tiền tham gia bảo hiểm lớn hơn 2 triệu US$ đã là 65 con tàu với

tổng số tiền tham gia bảo hiểm lên tới 481 triệu US$ (xin tham khảo chi

tiết ở bảng dưới đây). Tiêu biểu là một số con tàu lớn được đầu tư mua

mới từ nước ngoài về có giá trị tham gia bảo hiểm rất cao như tàu

Petrolimex 06 của công ty vận tải biển VOSCO với giá trị tham gia bảo

hiểm là 20,7 triệu US$, tàu Poseidon M của công ty vận tải biển Đông

5 Bảng 3- thống kê giá trị tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam

43

PHAN THỊ THU TRANG

Long với giá trị tham gia bảo hiểm là 29,5 triệu US$, tàu Vinashin

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Mariner và tàu Vinashin Navigator của công ty công nghiệp tàu thuỷ VINASHIN với giá trị tham gia bảo hiểm mỗi chiếc là 19,5 triệu US$6.

Bảng 3: Thống kê số tiền bảo hiểm của đội tàu Việt Nam từ năm 2000

đến hết quý I năm 2005

Số tiền bảo hiểm (triệu USD) Số lượng tàu Tổng giá trị bảo hiểm

> 20 5 55,4

15- 20 8 75,4

10- 15 10 88,5

5- 10 30 198,6

3-5 16 63,5

2- 3 9 23,4

Tổng 65 481,4

Nguồn: Tạp chí bảo hiểm-tái bảo hiểm Việt Nam số 03 tháng 8 năm 2005

Điều này chứng tỏ rằng các công ty hàng hải Việt Nam, đặc biệt là các

công ty kinh doanh vận tải biển lớn, hoạt động trên các tuyến viễn dương

rộng đã ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc mua bảo

hiểm thân tàu cũng như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu cho đội

6 Mai Xuân Dũng 2006, “Bảo hiểm thân tàu biển”, tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Việt Nam, số 3. Tháng 8/2006, trang 19

44

PHAN THỊ THU TRANG

tàu của mình, cho dù việc mua bảo hiểm là hoàn toàn tự nguyện vì rủi ro

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà không lường trước được. Mua bảo hiểm

chính là hành động nhằm phòng ngừa rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của

con người. Vì chỉ có bảo hiểm mới giúp cho các công ty hàng hải nói

chung và các công ty hàng hải Việt Nam nói riêng chuyên kinh doanh vận

tải biển bảo toàn được tài sản, ổn định tài chính, bảo đảm kinh doanh có

lãi và phát triển.

Một trong những thực trạng đáng mừng là đa số các công ty hàng hải

Việt Nam- các chủ tàu đều tham gia bảo hiểm thân tàu tại các công ty bảo

hiểm Việt Nam mà chủ yếu là 4 công ty bảo hiểm: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, PVI (chỉ riêng 4 công ty này đã chiếm tới trên 90%7 thị phần của

thị trường bảo hiểm thân tàu biển. Do đó các bên chủ thể có thể dễ dàng

tìm hiểu về nhau, việc xung đột pháp luật hầu như không xảy ra và đặc

biệt là quá trình đàm phán ký kết hợp đồng diễn ra nhanh chóng.

Song thực tế các công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu mà nổi bật là

các công ty vận tải biển trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam có

số lượng hợp đồng bảo hiểm thân tàu được giao kết là rất ít bởi hầu như

hợp đồng được ký kết chủ yếu là ở các công ty vận tải biển lớn như

SAIGONSHIP, DAMATOSCO, Công ty vận tải Biển Đông, Công ty Vận

tải biển Sài Gòn, Công ty Vân tải biển Hà Nội, Công ty vận tải biển Thuỷ

Bắc, VICONSHIP, … và một số công ty vận tải thành viên thuộc Tổng

công ty Hàng hải Việt Nam có trọng tải lớn tuyến hoạt động rộng như:

VOSCO, VITRANSCHART, VINASHIP, FALCO... Các công ty này

chủ yếu là các công ty nhà nước và các công ty liên doanh có điều kiện tài

chính đảm bảo, kết quả kinh doanh tốt chứ hầu như chưa có sự đầu tư của

7 Mai xuân Dũng 2006, “bảo hiểm thân tàu”, tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Việt Nam, số 3. Tháng 8/2006, trang 20

45

PHAN THỊ THU TRANG

các chủ tàu tư nhân nên các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu cho đội

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

tàu của mình còn hạn chế. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này ở tỷ lệ

số con tàu được tham gia bảo hiểm thân tàu với số tàu biển thực tế mà các

công ty hàng hải Việt Nam đang quản lý và khai thác, nếu như các công

ty hàng hải có tới trên 1000 tàu biển cho tính cho đến hết năm 2005 thì số con tàu tham gia bảo hiểm chỉ là trên 300 tàu8. Hiện nay vẫn còn một số

các công ty vận tải biển địa phương chỉ quản lý khai thác một hoặc một

vài con tàu với khả năng tài chính yếu kém, thậm chí không còn đủ khả

năng tài chính để duy trì hoạt động thường xuyên của các con tàu chứ

chưa nói đến việc mua bảo hiểm. Do đó ngoài những công ty vận tải biển

có uy tín và khả năng kinh doanh chắc chắn thì còn một bộ phận nhỏ các

công ty không hề quan tâm đến vấn đề này.

Một thực trạng nữa là độ tuổi trung bình của đội tàu thuộc quyền khai

thác và sử dụng của các công ty hàng hải Việt Nam đa số có độ tuổi trung

bình cao (trên 15 tuổi), nên khi các công ty hàng hải tham gia mua bảo

hiểm cho đội tàu của mình thường phải chịu mức phí bảo hiểm cao, các

công ty bảo hiểm của Việt Nam lại không có khả năng bảo hiểm cho các

con tàu có giá trị lớn nên phảu tiến hành tái bảo hiểm qua các công ty bảo

hiểm của nước ngoài có tiềm lực tài chính, nên mức phí lại còn phải phụ

thuộc vào mức phí của các công ty tái bảo hiểm này, khiến cho các công

ty hàng hải của Việt Nam rất dè dặt trong việc giao kết các hợp đồng bảo

hiểm thân tàu với các công ty bảo hiểm.

Đội tàu biển của các công ty hàng hải Việt Nam vẫn tiếp tục được tăng

cường thên tàu đóng mới và mua tàu đã qua sử dụng từ nước ngoài.

Trong 6 tháng đầu năm 2006, đội tàu biển Việt Nam đã được bổ sung

8 Mai xuan Dũng 2006, “bảo hiểm thân tàu biển”, tạp chí bảo hiểm-tái bảo hiểm Việt Nam, số3. Tháng 8 năm 2006, trang 19

46

PHAN THỊ THU TRANG

thêm khá nhiều tàu mới, có thể kể đến như Lan Hạ, Sài Gòn Queen,

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Vinashine Trader, Vinashin Ship 2, Vinashin Ship 4, ASean 02, Asean

sea 01, Dong Thap 18… Tuy vậy tổng phí bảo hiểm khai thác mà các

công ty bảo hiểm có được từ các hợp đồng bảo hiểm thân tàu giao kết với

các công ty hàng hải Việt Nam tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm

2005, phần tăng phí chủ yếu do các tàu được đưa vào sử dụng từ giữa và

cuối năm 2005 nay chuyển sang tham gia dài hạn chứ không phải có thêm

các hợp đồng bảo hiểm thân tàu mới được ký kết. Qua quan sát kết quả tái

tục các hợp đồng bảo hiểm thân tàu năm 2006, tỷ lệ phí bảo hiểm thân tàu

vẫn chưa có chiều hướng tăng để bù đắp lại những thiệt hại lớn ở những

năm trước. Số lượng các tàu tái tục với cùng tỷ lệ phí như năm trước chiếm trên 30%(8) tổng số tàu như đội tàu Vitranchart, Vosco hay Vận tải

biển Đông Long…

Tình trạng các công ty hàng hải Việt Nam chia nhỏ đội tàu của mình để

tham gia bảo hiểm thân tàu tại các Công ty bảo hiểm khác nhau vẫn là phổ

biến, các công ty hàng hải thường chia đội tàu của mình theo giá trị và độ

tuổi của tàu để tham gia bảo hiểm thân tàu cho con tàu của mình ở các

công ty bảo hiểm khác nhau, Ví dụ như Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

tham gia bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình ở cả Bảo Việt và Bảo

Minh,… Với cách làm này, các công ty hàng hải Việt Nam là chủ của đội

tàu tham gia bảo hiểm thân tàu có thể tận dụng được tối đa cạnh tranh giữa

các công ty bảo hiểm, có thể tận dụng sự cạnh tranh giữa các công ty bảo

hiểm trong việc giành giật khách hàng bằng cách giảm tỷ lệ phí bảo hiểm.

Ngược lại, đối với một số công ty bảo hiểm, do sức ép doanh thu, tăng thị

phần… vẫn sẵn sàng chấp nhận mức phí thấp hơn năm trước ngay cả tái

tục bảo hiểm cho một số tàu vừa gặp sự cố tổn thất. Có nhiều tàu bị sự cố

liên tục trong một thời gian ngắn nên giảm phí có thể coi là chấp nhận kết

47

PHAN THỊ THU TRANG

quả xấu. Một trong số những tàu gặp nhiều sự cố nhất có thể kể đến là tàu

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Hải Thịnh 27: năm 2005, Hải Thịnh 27 đã bị đắm tại cảng Chinfon. Sau

khi được trục vớt, sửa chữa và chuyển cho công ty bảo hiểm khác bảo

hiểm, công ty bảo hiểm thứ 2 đã phải gánh chịu liên tiếp hai sự cố của tàu

này: một sự cố hỏng máy chính ước phải bồi thường 1, 7 tỷ VND, một sự cố vỡ máy phải bồi thường hơn 900 triệu9 VND.

Tình trạng nợ đọng phí bảo hiểm của các công ty hàng hải tham gia bảo

hiểm thân tàu- các chủ tàu còn cao, một số chủ tàu do nợ đọng phí bảo

hiểm gốc hay lạm dụng sự cạnh tranh của thị trường bảo hiểm thân tàu, bất

chấp thời gian sẵn sàng di chuyển bảo hiểm cho một con tàu hoặc một số

con tàu đang được bảo hiểm tại công ty bảo hiểm này sang bảo hiểm ở

công ty bảo hiểm khác, kỳ vọng có thể nhận được tỷ lệ phí bảo hiểm thân

tàu thấp hơn, gây ảnh hưởng xấu đến tính ổn định của đội tàu tham gia bảo

hiểm và sự hợp tác của các chủ tàu với các công ty bảo hiểm, không phù

hợp với thông lệ quốc tế, ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường bảo

hiểm thân tàu tại Việt Nam và đặc biệt gây khó khăn cho hoạt động của các

công ty bảo hiểm vì hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng kinh tế ngược,

các công ty bảo hiểm thường biết doanh thu trước- chính là phí bảo hiểm

thu được từ người tham gia bảo hiểm, và biết chi phí kinh doanh sau- số

tiền mà các công ty bảo hiểm phải bỏ ra chi trả cho người tham gia bảo

hiểm khi xảy ra tổn thất.

Tuy đã được đầu tư nhiều trong việc đóng mới tàu biển trong nước và

mua tàu đã qua sử dụng từ nước ngoài nhưng các đội tàu của các công ty

hàng hải Việt Nam hiện nay vẫn đang ở độ tuổi trung bình tương đối cao

(hơn 15 tuổi) và vẫn tồn tại một số tàu trên 30 tuổi. Tình trạng kỹ thuật và

9 Mai Xuân Dũng (2006), “Bảo hiểm thân tàu”, Tạp chí Bảo hiểm – Tái bảo hiểm Việt Nam, số 3

48

PHAN THỊ THU TRANG

trang thiết bị an toàn của đội tàu vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

của các Công ước quốc tế, nên thời gian vừa qua có khá nhiều tàu biển

treo cờ Việt Nam bị chính quyền cảng nước ngoài do tình trạng kỹ thuật

yếu kém của tàu. Chính vì vậy, với sự gia tăng về số lượng tàu cùng với

tình hình khí hậu ngày càng khắc nghiệt, thiên tai trên thế giới và trong

khu vực xảy ra ngày càng nhiều, các chủ tàu lại chưa có những biện pháp

phòng ngừa và hạn chế tổn thất thích hợp nên số vụ tai nạn đường biển

xảy ra ngày càng có chiều hướng tăng lên. Nếu năm 2000 chúng ta chỉ có

48 vụ tai nạn hàng hải xảy ra thì đến năm 2005 là 68 vụ và chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2006 con số đó đã là 36 vụ10. Có rất nhiều nguyên nhân

dẫn đến việc xảy ra tai nạn như: sự cố đâm va, sự cố chìm tàu, sự cố do

lỗi của thuyền viên, sự cố cháy nổ, sự cố mắc cạn…trong đó sự cố do lỗi

/8/2006, tr.21 10 thống kê tai nạn hàng hải các năm 2004, 2005, 2006 của cục hàng hải Việt Nam tại trang web WWW.vinamarine.gov.vn, cập nhật ngày 28/7/2006

49

PHAN THỊ THU TRANG

của thuyền viên và sự cố đâm va chiếm tỷ lệ rất cao.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Bảng 4: Tổng hợp các nguyên nhân dẫn đến sự cố hàng hải từ năm

2004 đến nửa đầu năm 2006.

Năm 2004 Năm 2005

Nguyên nhân

Số vụ Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Nửa đầu năm 2006 Tỷ lệ Số (%) vụ

Tai nạn mắc cạn 07 13,2 09 13,2 03 8,33

Tai nạn đâm va 08 15,0 11 16,1 05 13,89

Sự cố kỹ thuật 15 28,3 17 25 09 25

Tai nạn đắm tàu 12 22,6 15 22,0 03 8,33

Sự cố do công nhân 02 3,77 04 5,88 05 13,89

gây ra

Sự cố hàng hải do

09 17 05 17,6 11 30,56 những nguyên nhân

khác(*)

100 100 Tổng cộng 53 68 100% 36 % %

Nguồn: bảng thống kê tai nạn hàng hải của Cục Hàng hải Việt Nam qua

các năm 2004, 2005, 2006

(*): Những nguyên nhân khác có thể kể đến ở đây như: yếu tố thiên nhiên,

tình trạng bất khả kháng, tàu thuyền mắc cạn hoặc bị trấn cướp các phụ

tùng thiết bị.

Do ngày càng có nhiều tai nạn hàng hải xảy ra, số vụ tổn thất với mức

50

PHAN THỊ THU TRANG

độ tổn thất nghiêm trọng ngày càng lớn dẫn đến số tiền khiếu nại và bồi

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thường bảo hiểm rất lớn khiến tỷ lệ bồi thường bảo hiểm thân tàu và bảo

hiểm trách nhiệm và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu rất cao.

Bảng 5: Bồi thƣờng bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ tàu của một số doanh nghiệp bảo hiểm năm 2005.

TT Doanh nghiệp Phí thực thu Bồi thường thực chi Tỷ lệ bồi

thường

Bảo Long 2.283,00 1.540,00 60,94% 1

Bảo Minh 54.361,00 49.815,00 38,17% 2

Bảo Việt 97.292,00 59.714,00 70,98% 3

PJICO 42.828,00 10.827,00 34,22% 4

PTI 8.591,00 0,00 0% 5

PVI 161.950,00 23.099,00 18,79% 6

7 UIC 1.509,00 0,00 0%

8 VIA 704,00 0,00 0%

9 Samsung Vina 2.000,05 1.539,74 76,99%

10 Viễn Đông 190,000 0,00 0%

Nguồn: Bản tin hiệp hội bảo hiểm số2, tháng 8/2006

Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển khá tốt,

trung bình khoảng 55%. Tuy nhiên, tình hình tổn thất 5 năm trở lại đây là

khá xấu, đặc biệt xấu ở các năm 2002 (177%) và năm 2004 (212%). Tỷ lệ

51

PHAN THỊ THU TRANG

bồi thường trung bình từ năm 2000 đến nay là 130%. Các vụ tổn thất lớn

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

liên tục xảy ra do mắc cạn, chìm, đắm, đâm va. Điển hình như vụ tàu

“Tràng An” bị chìm năm 2000, bồi thường 1,2 triệu $, Tàu “Lục Nam” bị

chìm năm 2001, bồi thường hơn 1 triệu $. Cháy máy tàu “Phú Xuân” năm

2002, bồi thường 3,32 triệu $. Tàu “Vi Han 05” bị mắc cạn tại Nhật Bản

ngày 30/8/2004, bồi thường toàn bộ ước tính 2,6 triệu $. Và gần đây, vụ

tàu “Sea Bee” bị đắm tại Trung Quốc ngày 1/5/2005 và “Mimosa” bị đấm

tại Vũng Tàu ngày 12/05/2005. Số tiền bảo hiểm của 2 tàu tương ứng 2

triệu $ mỗi chiếc.Trong tháng 06/2006 cũng đã xảy ra 3 vụ đắm tàu của tàu

Hoàng Chiến 08 ngày 06/06/2006, Hải Phòng 07 ngày 16/06/2006 và tàu

Hoàng Sơn 16 ngày 29/06/2006. Giá trị bảo hiểm thân tàu của các tàu này tương ứng là 3 tỷ VND, 13 tỷ VND, 4 tỷ VND11.

Vụ tàu Bạch Đằng thuộc tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt

Nam, trong tải 14.891 GRT do Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu

hoán cải từ tàu Rayna. Ngày 21/05/2002 Tổng công ty Công nghiệp tàu

thuỷ Việt Nam có quyết định số: 258CNT/KDDN cho phép Công ty Vận

tải và dịch vụ hàng hải (là đơn vị thành viên,hạch toán phụ thuộc Tổng

Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam) được quyền quản lý và khai thác

tàu Bạch Đằng Giang. Công ty Vận tải và Dịch vụ hàng hải sau đó được

đổi tên thành Công ty Vận tải viễn dương VINASHIN.Tàu Bạch Đằng

được công ty Vân tải viễn dương VINASHIN mua bảo hiểm tại Công ty

bảo hiểm Dầu khí theo giấy chứng nhận bảo hiểm thân tàu số: 00463/Hull.

Vào hồi 23h30’ ngày 31/01/2003 tàu Bạch Đằng gặp sự cố và bị chìm tại

11 Mai Xuân Dũng (2005), “Bảo hiểm thân tàu vẫn chưa tìm được lời giải”, tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Việt Nam, số 03 tháng 08/2005, trang 19

52

PHAN THỊ THU TRANG

khu vực cảng Hòn Gai. Số tiền khiếu nại được bồi thường là 10 tỷ VND.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Ngoài những tổn thất toàn bộ thực tế hay toàn bộ ước tính trên, các

tổn thất bộ phận cũng xảy ra khá nhiều do hỏng máy, chân vịt, vv… Chi

phí sửa chữa của các tổn thất bộ phận cũng ngày càng cao do giá nguyên

vật liệu thay thế cao. Mặt khác, do tàu của chúng ta đã được đóng từ những

năm 1980s thậm trí 1970s nên đôi khi phải đặt hàng từ các nhà sản xuất

trước đây và yêu cầu giám sát kỹ thuật từ nhà sản xuất nên chi phí sửa

chữa thường tăng cao.

Tuy là tổn thất bộ phận nhưng số tiền được bồi thường cũng khá

nhiều. Điển hình là vụ tàu Long Xuyên trong khi neo đậu chờ vào cầu xếp

hàng bị cơn bão Nabi đánh giạt vào cạn tại cảng Pohang (Hàn Quốc) ngày

06/09/2005, chi phí cứu hộ tàu 440.000 USD, chi phí sửa chữa các tổn thất

đáy tàu khoảng 200.000 USD, tổng số tiền khiếu nại đòi bồi thường bảo

hiểm thân tàu ước tính 640.000 USD. Trong khi chờ đợi chủ tàu thu thập

chứng từ, tài liệu liên quan lập hồ sơ khiếu nại, Công ty Bảo hiểm Dầu khí

đã tạm ứng cho chủ tàu 650.000 USD để trả tiền cứu hộ và chi phí sửa

chữa các tổn thất của tàu. Vụ tàu Bình Minh 01 thuộc công ty liên doanh

vận tải biển Thái Bình Dương đâm vào mạn phải của tàu Atora ngày

17/02/2005 trên sông Sài Gòn. Qua kiểm tra đã xác định tàu Bình Minh 01

mũi tàu bị thụt vào bên trong, toàn bộ bên trong, toàn bộ be chắn sóng

vòng cung chính mũi bị bẹp, gãy, chiều dài vòng cung gãy đổ khoảng 6m,

15 Mai Xuân Dũng (2005) "Bảo hiểm thân tàu", Tạp chí Bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam, số 03 tháng 8/2005, tr. 21

53

PHAN THỊ THU TRANG

phần boong dâng mũi chính diện bị móp vào 10cm được bồi thường 670.000 USD15

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Bảng 6 Một số thiệt hại về thân tàu đã đƣợc bảo hiểm bồi thƣờng đáng chú ý từ năm 1998 đến hết tháng 06 năm 2006

(Đơnvị: USD)

Tên tàu gặp sự cố Năm xảy ra tổn thất Ngày xảy ra tổn thất Số tiền được bồi thường

Hà Thành 08/02/1998 360.000 1998 Sài Gòn 04 03/11/1998 282.855

Nguyễn Du 18/02/1999 299.724

1999 Pacific Falcon 07/07/1999 1.159.579

Golden Star 03/06/1999 130.599

2000 Tràng An 08/07/2000 1.200.000

Lục Nam 10/07/2001 1.024.267

2001 Petrolimex 07/09/2001 1.245.890

Quốc Tử Giám 28/07/2001 120.446

Duyên Phát 01 05/11/2002 400.000 2002 Đại Long 13/09/2202 400.000

2004 Vi Han 05 30/08/2005 1.300.000

Sea Bee 01/05/2005 2.000.000 2005 Mimosa 12/05/2005 2.000.000

2006 Hải Phòng 07 16/06/2006 987.000

Nguồn: Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 03 tháng 08 năm

2006

Do tỷ lệ bồi thường các tổn thất xảy ra đối với con tàu tham gia bảo

hiểm của các công ty bảo hiểm khá tốt nên các công ty hàng hải Việt Nam-

54

PHAN THỊ THU TRANG

các chủ tàu ngày càng chú trọng vào việc tiếp tục tham gia các hợp đồng

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

bảo hiểm thân tàu đang còn hạn và đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các

hợp đồng bảo hiểm mới để hạn chế các tai nạn, sự cố tiếp tục xảy ra.

Tuy tình hình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm giữa các

công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu và các công ty bảo hiểm thực hiện

nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu diễn ra theo chiều hướng ngày càng có nhiều

triển vọng, đẩy mạnh sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu tại Việt

Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của đội tàu Việt Nam so với đội tàu

của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tạo đà cho ngành hàng hải

phát triển mạnh mẽ, ngày càng trở thành ngành kinh tế quan trọng, có đóng

góp lớn cho nền kinh tế nước nhà. Nhưng trên thực tế, do nghiệp vụ bảo

hiểm thân tàu là một loại hình nghiệp vụ tương đối phức tạp, yêu cầu trình

độ chuyên môn nghiệp vụ cao, vốn kinh nghiệm lớn và tiềm lực tài chính

mạnh nên trong quá trình giao kết và thực hiện các hợp đồng bảo hiểm

thân tàu giữa các công ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm còn

nảy sinh rất nhiều tranh chấp. Có thể kể ra đây một số tranh chấp thường

phát sinh như: người được bảo hiểm (chủ tàu) không thanh toán phí bảo

hiểm đầy đủ đúng thời hạn, người bảo hiểm không trả tiền bồi thường tổn

thất, người ký kết hợp đồng với tư cách là người bảo hiểm không phải là

đại diện hợp pháp của công ty bảo hiểm, người được bảo hiểm với tư cách

là chủ tàu không phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp vận tải biển,

...

Khi có tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm

thân tàu xảy ra thì quá trình giải quyết tranh chấp được thực hiện theo các

thủ tục chủ yếu sau: hoà giải, trọng tài, toà án do các bên tự thoả thuận

trong hợp đồng hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Thông thường biện pháp

55

PHAN THỊ THU TRANG

hoà giải và trọng tài được sử dụng nhiều hơn vì đỡ tốn kém về lợi ích kinh

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

tế, nhanh chóng về thời gian đồng thời giữ được bí mật kinh doanh. Biện

pháp giải quyết tại toà án là biện pháp giải quyết cuối cùng, được áp dụng

khi các bên tranh chấp không thể có sự nhất trí với nhau mặc dù đã qua hoà

giải, trọng tài bởi lẽ kết quả của hai phương pháp trên không mang tính

cưỡng chế nên không bảo đảm tính thi hành của các bên tranh chấp.

Toà án được lựa chọn để giải quyết tranh chấp giữa các công ty hàng

hải Việt Nam- các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu với bên bảo hiểm là

các công ty bảo hiểm nước ngoài thường là toà án nước ngoài như: Toà án

ở Hồng Kông hoặc Anh. Còn các tranh chấp với các doanh nghiệp, tổ chức

trong nước thì toà án được chọn là toà án kinh tế các tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương (toà án nơi ký kêt hợp đồng). Ví dụ: Toà án kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh, Toà án Nhân dân TP Hà Nội.

Một thực trạng nữa là, do các công ty hàng hải Việt Nam tham gia bảo

hiểm thân tàu chưa nắm vững các nguyên tắc bảo hiểm, không nghiên

cứu kỹ các điều khoản của hợp đồng nên thường gặp phải khó khăn trong

việc thu thập hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường từ công ty bảo hiểm.

II. Đánh giá về thực trạng cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam

1.Thuận lợi

(1). Nhìn chung các nguồn luật có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới

bảo hiểm thân tàu đều thống nhất với nhau. Hơn nữa do trình độ hiểu biết

về pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý của các công ty hàng hải Việt

Nam nên các quy định của pháp luật liên quan được vận dụng triệt để và

56

PHAN THỊ THU TRANG

khéo léo vào việc ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhằm bảo vệ

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

quyền lợi của mình trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo

hiểm thân tàu.

(2). Bộ luật hàng hải Việt Nam ra đời năm 1990 qua nhiều lần sửa đổi

và lần sửa đổi gần đây nhất là Bộ Luật hàng hải năm 2005 có nhiều điểm

mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia bảo hiểm thân tàu của các

công ty hàng hải Việt Nam khi giành hẳn chương XVI để qui định về hợp

đồng bảo hiểm hàng hải với nhiều điều khoản cụ thể như: Điều khoản về

trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu, trách nhiệm của người

bảo hiểm, thời hạn hiệu lực của hợp đồng, các rủi ro hàng hải….Điều này

khiến cho quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu

diễn ra nhanh chóng hơn, và khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì quá trình

khiếu nại đòi bồi thường từ hợp đồng bảo hiểm thân tàu mà các công ty

hàng hải đã ký kết đơn giản và hiệu quả hơn. Chúng ta có thể nhận thấy

rõ điều này ở tỷ lệ bồi thường tổn thất từ bảo hiểm thân tàu đều rất cao và

liên tục tăng trong các năm gần đây. Tỷ lệ bồi thường giai đoạn trước

năm 2000 đạt trung bình khoảng 55%, nhưng từ năm 2000 trở lại đây con

số này là 130%

(3). Việc nhà nước ban hành rất nhiều văn bản pháp luật tạo cơ chế pháp

lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm như Nghị định 100/CP

và gần đây nhất là luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, đã đánh dấu cho sự

ra đời một thị trường bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trường, thay cho

sự độc quyền của Bảo Việt là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể.

Nếu cho đến năm 1993 Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất

tại Việt Nam có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu thì đến hết năm

2005 đã có trên 10 doanh nghiệp có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân

57

PHAN THỊ THU TRANG

tàu. Điều này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho các công ty hàng hải Việt Nam

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

trong việc tham giao bảo hiểm thân tàu vì có nhiều doanh nghiệp kinh

doanh nghiệp vụ này cũng đồng nghĩa với việc là các công ty hàng hải Việt

Nam có nhiều cơ hội lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hơn,

đồng thời phí bảo hiểm cũng giảm xuống do các công ty bảo hiểm cạnh

tranh với nhau để thu hút khách hàng tham gia.

(4). Trên cơ sở thừa kế các quy định của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm

1906 (MIA 1906), Pháp luật hàng hải của một số nước và Luật kinh doanh

bảo hiểm của Việt Nam năm 2001, Luật hàng hải năm 2005 đã có những

qui định mới về hợp đồng bảo hiểm hàng hải, tạo điều kiện và bảo vệ

quyền lợi cho các công ty hàng hải- các chủ tàu trong việc tham gia bảo

hiểm thân tàu.

Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 đã bổ sung khái niệm “rủi ro hàng

hải”, là một trong những khái niệm đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực

tiếp đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng

hải là các chủ tàu tham gia bảo hiểm. Tại Điều 2 khoản 224 Bộ Luật hàng

hải năm 2005 qui định: “Rủi ro hàng hải là những rủi ro xảy ra liên quan

đến hành trình đường biển, bao gồm các rủi ro của biển, cháy, nổ, chiến

tranh, cướp biển, trộm cắp, kê biên, quản thúc, giam giữ, ném hàng xuống

biển, trưng thu, trưng dụng, trưng mua, hành vi bất hợp pháp và các rủi ro

tương tự hoặc những rủi ro khác được thoả thuận trong hợp đồng bảo

hiểm”. Đây là cơ sở để xác định xem nguyên nhân của tai nạn hàng hải đối

với con tàu được bảo hiểm có phải là nguyên nhân khách quan và rủi ro có

phải là rủi ro được bảo hiểm không nói cách khác đây chính là một căn cứ

58

PHAN THỊ THU TRANG

pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thân tàu.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

(5). Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 đã mở rộng khái niệm về hợp

đồng bảo hiểm hàng hải cho phù hợp với thông lệ và thực tế hoạt động bảo

hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng tại Việt Nam. Điều

224, khoản 2 Bộ luật Hàng hải Việt Nam qui định: “Hợp đồng bảo hiểm

hàng hải cũng có thể mở rộng theo những điều kiện cụ thể hoặc tập quán

thương mại để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đối với những

tổn thất xảy ra trên đường thuỷ nội địa, đường bộ hoặc đường sắt thuộc

cùng một hành trình đường biển”. Do đó, quyền lợi của các chủ tàu tham

gia bảo hiểm được mở rộng và phù hợp với điều kiện thực tế của ngành

hàng hải.

(6). Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam đã có những khái niệm rõ ràng

và cụ thể về quyền lợi được bảo hiểm và điều kiện để một người có quyền

được hưởng lợi bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra. Điều 226, khoản 1 Bộ Luật

hàng hải Việt Nam năm 2005 qui định: “ Người có quyền lợi có thể được

bảo hiểm là người có quyền lợi đối với đối tượng bảo hiểm trong một hành

trình đường biển” hay Điều 3, khoản 9 Luật kinh doanh bảo hiểm năm

2000 cũng qui định: “ Quyền có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền

chiếm hữu, quyến sử dụng, quyền nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng

bảo hiểm”. Những qui định này đã góp phần hạn chế hành vi trục lợi bảo

hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm không có quyền lợi đối với

đối tượng bảo hiểm hoặc cố ý gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm để đòi

tiền bồi thường gây khó khăn và thất thoát cho cả người tham gia bảo hiểm

và công ty bảo hiểm.

(7). Bên cạnh những qui định chung về hợp đồng bảo hiểm tài sản của

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Bộ Luật hàng hải Việt Nam năm

59

PHAN THỊ THU TRANG

2005 đã có những bổ sung và giải thích rõ ràng về các loại đơn bảo hiểm

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

cho phù hợp với đặc thù của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và các nghiệp vụ

bảo hiểm hàng hải khác tại Việt Nam cũng như pháp luật và thông lệ bảo

hiểm hàng hải quốc tế như: đơn bảo hiểm chuyến (Khoản 2, điểm a, Điều

228), đơn bảo hiểm thời hạn ( Khoản 2, điểm b, Điều 228), đơn bảo hiểm

định giá (Khoản 2, điểm c, Điều 228), đơn bảo hiểm không định giá

(Khoản 2, điểm d, Điều 224).

2. Khó khăn

- Hệ thống luật pháp và các qui định có liên quan đến bảo hiểm thân tàu của nƣớc ta còn chƣa đồng bộ.

Hệ thống luật pháp và các qui định có liên quan đến bảo hiểm thân tàu

của nước ta còn chưa đồng bộ. Bảo hiểm tàu biển là một loại hình nghiệp

vụ tương đối phức tạp và có liên quan đến rất nhiều nguồn luật khác nhau.

Nó vừa phải tuân theo những qui định chung của luật pháp quốc tế và

quốc gia, tuân theo Luật kinh doanh bảo hiểm như các loại hình bảo hiểm

khác; nhưng đồng thời do tính chất đặc thù của nghiệp vụ, bảo hiểm tàu

biển còn bị chi phối bởi các nguồn luật khác như Bộ Luật hàng hải, những

quy định về vận tải đường biển, các công ước quốc tế mà Việt Nam có

tham gia và các thoả thuận hợp tác giữa Việt Nam và một số quốc gia

…Vì vậy, để có đủ điều kiện tham gia bảo hiểm thân tàu, các công ty

hàng hải phải đáp ứng được rất nhiều các qui định và các tiêu chuẩn khác

nhau. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu ở Việt Nam tuy đã hình

thành từ khá lâu nhưng chưa thực sự phát triển, các công ty hàng hải Việt

Nam còn chưa thực sự nắm vững các qui tắc bảo hiểm, các Luật và qui

định có liên quan đến bảo hiểm hàng hải nên không mặn mà lắm với việc

60

PHAN THỊ THU TRANG

tham gia bảo hiểm thân tàu.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Qui định pháp luật về trách nhiệm giải quyết bồi thƣờng của ngƣời

bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu còn có nhiều điểm bất

cập.

Qui định pháp luật về trách nhiệm giải quyết bồi thường của người

bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu còn có nhiều điểm bất cập,

dẫn đến thực trạng là người được bảo hiểm thường gặp phải rất nhiều khó

khăn trong việc khiếu nại đòi bồi thường tổn thất. Tại Điều 256 Bộ Luật

hàng hải 2005 có qui định: “Khi thanh toán tiền bồi thường tổn thất của

đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo

hiểm trình bày về sự kiện liên quan, xuất trình các tài liệu, bằng chứng

cần thiết cho việc đánh giá sự kiện và mức độ tổn thất”, như vậy việc

trình bày về sự kiện liên quan và các tài liệu cũng như chứng từ chỉ được

qui định một cách chung chung mà không được liệt kê một cách cụ thể.

Điều này đã gây trở ngại cho các công ty hàng hải trong việc thu thập tài

liệu và bằng chứng về sự kiện bảo hiểm để đòi bồi thường tổn thất từ phía

các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường đưa ra lý do từ chối

trách nhiệm bồi thường là các chứng từ của chủ tàu không hợp lệ hoặc

không đúng yêu cầu, hoặc tổn thất không thuộc trách nhiệm bồi thường

của công ty bảo hiểm. Đồng thời pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thân

tàu cũng chưa có định nghĩa cụ thể về lỗi do sơ xuất của thuyền trưởng,

nên người được bảo hiểm không có căn cứ để chứng minh lỗi của thuyền

trưởng là do so xuất nhằm đòi bồi thường từ phía công ty bảo hiểm.

- Pháp luật Việt Nam chƣa có qui định rõ ràng về khả năng an toàn

61

PHAN THỊ THU TRANG

đi biển của tàu biển.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật hàng hải Việt Nam nói riêng

chưa có qui định rõ ràng về khả năng an toàn đi biển của con tàu tham gia

bảo hiểm. Trong phần qui định về hợp đồng hàng hải, Bộ Luật hàng hải

Việt Nam năm 2005 có qui định: “trừ trường hợp có thoả thuận khác

trong hợp đồng bảo hiểm, khi bảo hiểm tàu biển và tiền cước vận chuyển,

người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh trong

trường hợp tàu biển không đủ khả năng an toàn đi biển, vào lúc bắt đầu

chuyến đi, trừ trường hợp tàu biển có khuyết tật ẩn tỳ hoặc khi xảy ra các

tình huống không thể tránh khỏi mặc dù người được bảo hiểm đã có sự

quan tâm thích đáng”. Như vậy, người tham gia bảo hiểm thân tàu mà ở

đây chính là các công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu có nhu cầu tham

gia bảo hiểm thân tàu không có cơ sở để có thể xác định rõ xem trách

nhiệm cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển là như thế nào. Điều

này khiến cho các công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu tham gia bảo

hiểm thân tàu gặp bất lợi trong việc khiếu nại đòi bồi thường từ phía các

công ty bảo hiểm, họ không có căn cứ pháp luật để chứng minh rằng họ

đã cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển khi bắt đầu hành trình. Vì

vậy các công ty bảo hiểm thường dựa vào kẽ hở này đổ lỗi cho chủ tàu đã

không cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển theo những tiêu

chuẩn mà họ lấy làm cơ sở để từ chối trách nhiệm bồi thường tổn thất cho

chủ tàu.

- Pháp luật nƣớc ta chƣa có qui định cụ thể và thống nhất về khả

năng đi biển của tàu biển Việt Nam.

Pháp luật nước ta chưa có qui định cụ thể và thống nhất về khả năng đi

biển của tàu biển Việt Nam. Thực trạng này có thể dẫn đến tình trạng tuỳ

62

PHAN THỊ THU TRANG

tiện và áp đặt của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khi giải quyết

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm thân tàu hoặc giải quyết tranh chấp

hàng hải…Các cơ quan toà án hoặc trọng tài kinh tế sẽ gặp khó khăn khi

giải quyết các vụ tranh chấp về khiếu nại đòi bồi thường tổn thất từ hợp

đồng bảo hiểm thân tàu hoặc các tranh chấp về hàng hải có liên quan đến

khả năng đi biển của tàu biển Việt Nam. Vì vậy rất cần có một hành lang

pháp lý đầy đủ, thuận tiện, phục vụ tốt cho nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu ở

nước ta nói riêng và phục vụ tốt cho hoạt động hàng hải nói chung.

- Qui định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của ngƣời tham gia

bảo hiểm còn khá dƣờm dà.

Qui định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của người tham gia bảo

hiểm còn khá dườm dà và chồng chéo. Thực trạng này thường gây nhiều

trở ngại cho người tham gia bảo hiểm trong quá trình giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm thân tàu nói riêng.

Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu được qui định ở nhiều

giai đoạn khác nhau trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo

hiểm. Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu được qui định từ

thời điểm giao kết hợp đồng. Bộ Luật hàng hải việt Nam năm 2005 qui

định, “người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm

biết tất cả các thông tin mà mình biết hoặc phải biết liên quan đến việc

giao kết hợp đồng bảo hiểm có ảnh hưởng đến việc xác định khả năng xảy

ra rủi ro hoặc quyết định của người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và

các điều kiện bảo hiểm”, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng qui định,

“Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung

cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp

bảo hiểm”. Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết thì người tham gia bảo

63

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm lại phải tiếp tục thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin về bất kỳ sự

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thay đổi nào về rủi ro được bảo hiểm làm tăng mức độ rủi ro. Khi xảy ra

tổn thất hoặc giải quyết bồi thường người tham gia bảo hiểm lại phải có

nghĩa vụ thông báo ngay lập tức cho người bảo hiểm về tình trạng tổn thất

và có biện pháp khắc phục. Điều này có thể khiến cho các công ty hàng hải

Việt Nam- các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu thường gặp phải bất lợi

trong việc khiếu nại đòi bồi thường từ các công ty bảo hiểm, vì các công ty

bảo hiểm luôn tìm mọi kẽ hở để chứng minh rằng người tham gia bảo hiểm

đã vi phạm trách nhiệm theo qui định của pháp luật để từ chối bồi thường,

ngay cả khi lỗi của người tham gia bảo hiểm là khách quan và không ảnh

hưởng đến các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm trước

đó.

- Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam chƣa có những qui định xử lý

nghiêm ngặt và cụ thể đối với hành vị trục lợi bảo hiểm

Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam chưa có những qui định xử lý

nghiêm ngặt và cụ thể đối với hành vị trục lợi bảo hiểm. Hiện nay, trục lợi

bảo hiểm thực sự là một vấn đề nhức nhối, một cản trở lớn cho quá trình

giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nói chung và việc giao kết và

thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty hàng hải Việt Nam

– các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu với các công ty bảo hiểm nói

riêng. Bọn tội phạm kinh tế thường lợi dụng những sơ hở của pháp luật và

những qui định không chặt chẽ trong các qui trình, điều khoản, qui tắc và

những yếu kém trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhất là công

tác bồi thường để trục lợi. Trục lợi bảo hiểm có rất nhiều hình thức, có thể

xuất phát từ phía chủ tàu với các hành vi như: Khai báo tai nạn khống, tạo

hiện trường giả và lập hồ sơ khiếu nại không có thật để đòi bồi thường bảo

64

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm hoặc mua bảo hiểm cho những con tàu cũ nát với giá trị bảo hiểm cao

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

hơn giá trị thực tế, sau đó tìm cách tạo ra tai nạn với tổn thất toàn bộ để lấy

tiền bồi thường, trục lợi cũng có thể xuất phát từ phía cán bộ bảo hiểm với

các hành vi như: lợi dụng sự kiểm tra, giám sát không thường xuyên của

đơn vị để thông đồng bày vẽ cho chủ tàu hợp lý hoá hồ sơ khiếu nại rút

tiền bồi thường, cho thay chi tiết hư hỏng và kết luận nguyên nhân tai nạn

thuộc mọi rủi ro được bảo hiểm. Do đó, các công ty bảo hiểm thường đưa

ra các điều khoản nghiêm ngặt đối với khác hàng tham gia bảo hiểm, đôi

khi còn cứng nhắc để tránh hành vi gian lận. Chính điều này đã khiến cho

việc đàm phán để đi đến giao kết một hợp đồng bảo hiểm giữa các công ty

hàng hải- các chủ tàu và các công ty bảo hiểm thường kéo dài và khó đi

đến một thoả thuận chung, kết quả là hợp đồng bảo hiểm giữa hai bên

không hình thành. Cũng do hành vi trục lợi bảo hiểm mà khâu giải quyết

khiếu nại và bồi thường tổn thất thường diến ra trong thời gian rất dài, ảnh

hưởn đến công việc kinh doanh và tình hình tài chính của các chủ tàu, có

khi còn dẫn đến việc kiện ra toà gây tốn kém cho cả hai bên.

- Việt Nam chƣa có luật dành riêng cho bảo hiểm hàng hải.

Hiện nay, Việt Nam chưa có luật trực tiếp điều chỉnh bảo hiểm hàng

hải nói chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng, Việc giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam và các

công ty bảo hiểm chủ yếu vào các luật có liên quan đến bảo hiểm hàng

hải như Bộ Luật hàng hải năm 2005, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000

hay Bộ Luật Dân sự năm 2005 và các Nghị định chi phối hoạt động bảo

hiểm, những qui định này còn có nhiều điểm chưa thống nhất thậm chí

mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, việc áp dụng linh hoạt các Luật và các qui

định có liên quan đến bảo hiểm thân tàu vào việc giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải và các công ty bảo

65

PHAN THỊ THU TRANG

hiểm gặp phải rất nhiều khó khăn.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

- Việt Nam chƣa có Luật tố tụng hàng hải .

Chúng ta chưa có Luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh về tố tụng hàng

hải. Ở Việt Nam, Bộ luật hàng hải Việt Nam bao gồm các chế định cơ

bản có liên quan đến hoạt động hàng hải, được ban hành ngày 30/06/1990

qua nhiều lần sửa đổi và lần sửa đổi gần đây nhất là năm 2005 và luật này

có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, sau đó nhiều văn bản dưới luật đã được

ban hành tiếp theo tạo điều kiện cho việc áp dụng Bộ Luật. Tuy nhiên,

pháp lệnh về tố tụng hàng hải, một văn bản pháp luật quy định về trình tự

thủ tục tố tụng hàng hải tại Việt Nam đến nay vẫn chưa được ban hành.

Vì vậy, hiện nay việc xét các tranh chấp hàng hải được áp dụng theo pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án kinh tế. Nhưng do những đặc thù của hoạt động hàng hải mà

việc xét xử các tranh chấp hàng hải theo tố tụng kinh tế hoặc tố tụng dân

sự là bất cập vì những đặc thù của hoạt động hàng hải là mang tính quốc

tế, con tàu không chỉ hoạt động giữa các cảng của một quốc gia mà có thể

đến tất cả các cảng trên thế giới. Vì vậy, việc xét xử tranh chấp hàng hải

có thể được tiến hành tại tòa án trong nước hoặc toà án nước ngoài phù

hợp với điều khoản đã quy định trong hợp đồng hàng hải dựa trên sự thỏa

thuận giữa các bên tham gia ký kết hoặc phù hợp với các quy định về tố

tụng hàng hải cho phép thụ lý vụ án.

- Tàu biển Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn quốc tế về

vận tải biển.

Những luật lệ, những quy định đối với vận tải đường biển rất chặt chẽ,

tàu biển của các công ty hàng hải Việt Nam muốn có đủ điều kiện để

66

PHAN THỊ THU TRANG

tham gia bảo hiểm thân tàu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

kỹ thuật, về an toàn hàng hải , về đội ngũ thuyền viên theo qui định của

Code, STCW, SOLAS, PSC… vừa phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo qui định

các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như những qui định về ISM

của luật pháp Việt Nam. Đây vừa là thuận lợi nhưng cũng đồng thời là

khó khăn đối với việc tham gia bảo hiểm tàu biển của các công ty hàng

hải bởi vì một mặt nó buộc các chủ tàu phải tuân thủ các điều kiện về an

toàn đường biển, an toàn đối với con tàu nên phần nào hạn chế được tổn

thất xảy ra, nhưng mặt khác cũng do quá trình chặt chẽ hoá nên không

phải chủ tàu nào cũng đáp ứng được để kinh doanh vận tải viễn dương- vì

vậy mà họ không sẵn sàng mua bảo hiểm.

- Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời năm 2000 đã có nhiều bổ sung và sửa

đổi về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhưng vẫn còn nhiều kẽ hở mà các

công ty bảo hiểm có thể vận dụng “lách luật” để cạnh tranh, giành giật

khách hàng, họ có thể bỏ qua một số qui định của pháp luật về việc kinh

doanh bảo hiểm để chấp nhận bảo hiểm cho những khách hàng không có

đủ điều kiện và tư cách tham gia bảo hiểm dẫn đến tình trạng người tham

gia bảo hiểm sẽ không được bảo vệ quyền lợi khi có tổn thất xảy ra đối với

đối tượng bảo hiểm hoặc khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên.

- Qui định về mức phí tham gia bảo hiểm thâu tàu chƣa hợp lý

Qui định của Nhà nước về mức phí đối với việc tham gia bảo hiểm thân

tàu còn nhiều bất cập, thông tư số 27/1998/TT- BTC ngày 04/03/1998 về

hoạt động khai thác bảo hiểm và quản lý phí bảo hiểm chưa linh hoạt và

phù hợp với điều kiện kinh tế của các chủ tàu Việt Nam. Biểu phí bảo hiểm

thân tàu thường rất cao, trong khi đó đội tàu của các công ty hàng hải Việt

67

PHAN THỊ THU TRANG

Nam đa số là tàu già, độ tuổi trung bình tương đối cao (hơn 15 tuổi) và vẫn

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

tồn tại một số tàu trên 30 tuổi khiến cho các công ty hàng hải gặp rất nhiều

khó khăn trong khi tham gia các hợp đồng bảo hiểm thân tàu do không đủ

điều kiện kinh tế để thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo hiểm như đã

quy định trong hợp đồng, thậm chí một số công ty hàng hải Việt Nam

không dám nghĩ đến việc tham gia mua bảo hiểm cho các con tàu của họ.

- Nhà nƣớc chƣa có những qui định cụ thể cho việc phối hợp giữa

các bên liên quan tron viẹc giải quyết và khắc phục hạn chế tổn thất.

Nhà nước chưa có những qui định cụ thể cho việc phối hợp giữa các

bên có liên quan trong việc giải quyết và hạn chế tổn thất khi tai nạn xảy ra

đối với đối tượng bảo hiểm. Do vậy, việc phối hợp giữa các công ty hàng

hải Việt Nam tham gia bảo hiểm thân tàu, công ty bảo hiểm với các cơ

quan chức năng liên quan trong quá trình giải quyết các sự cố còn hạn chế,

đôi khi chưa kịp thời và thiếu đồng bộ. Lực lượng ứng cứu ngoài hiện

trường nghèo nàn, thô sơ, lạc hậu về nguồn lực, phương tiện trang thiết bị

phục vụ cứu hộ. Các đội cứu hộ không có hoặc có rất ít kinh nghiệm thực

tế dẫn đến chậm khắc phục hậu quả của các sự cố xảy ra đối với các con

tàu tham gia bảo hiểm, các công ty hàng hải Việt Nam là chủ của con tàu

tham gia bảo hiểm thường gặp rắc rối trong việc khiếu nại đòi bồi thường,

thậm chí phải dẫn đến kiện cáo, chi phí tốn kém mà tiền bồi thường thu lại

chẳng được bao nhiêu. Bên cạnh đó là những bất cập từ phía công ty bảo

hiểm, những vụ tổn thất lớn có số tiền khiếu nại đòi bồi thường vượt mức

phân cấp của các công ty (chi nhánh) bảo hiểm địa phương phải báo cáo về

Tổng công ty (công ty) để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết, do đó dẫn đến việc

mất thêm thời gian, khiến việc thực hiện công tác bồi thường theo hợp

68

PHAN THỊ THU TRANG

đồng bảo hiểm thân tàu đã giao kết cho khách hàng đôi khi bị chậm trễ.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Chính vì vậy các công ty hàng hải Việt Nam không thực sụ thiết tha trong

việc tham gia bảo hiểm thân tàu.

- Nhà nƣớc chƣa có những qui định cụ thể cho việc liên doanh, liên

kết trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm.

Nhà nước chưa có những qui định cụ thể cho việc liên doanh, liên kết

trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Vì vậy, các công ty hàng hải

Việt Nam không có nhiều sự lựa chọn cho việc tham gia bảo hiểm thân tàu

cho đội tàu của mình, trên thị trường bảo hiểm thân tàu Việt Nam chỉ có

một số lượng rất ít các doanh nghiệp có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm

thân tàu mà chủ yếu là các công ty bảo hiểm lớn và hoạt động lâu năm như

: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, PVI… nên các công ty hàng hải thường phải

chịu sức ép từ phía các công ty bảo hiểm, phải chịu mức phí cao. Đây là

một bất lợi lớn cho các chủ tàu có nhu cầu tham gia bảo hiểm thân tàu cho

đội tàu của mình.

- Qui định về thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm

hàng hải chƣa rõ ràng.

Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 tuy đã qui định về thời hiệu khởi

kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Điều 257 Bộ Luật hàng

hải qui định: “Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng

hải là hai năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp”. Nhưng để xác định đúng

thời hiệu khởi kiện đòi hỏi phải xác định thời điểm quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân trong giao dịch hợp đồng bảo hiểm hàng hải bị

vi phạm. Do đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm

hàng hải. Tuy nhiên qua thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài

phán của Việt Nam cho thấy, việc xác định đúng các mốc thời gian để tính

69

PHAN THỊ THU TRANG

thời hiệu khởi kiện không phải là lúc nào cũng thuận lợi, không biết chính

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

xác được thời điểm nào được coi là ngày phát sinh tranh chấp, ngày chấm

dứt hợp đồng. Vì thế các chủ tàu thường gặp bất lợi trong việc khiếu kiện

các công ty bảo hiểm và việc xét xử các tranh chấp giữa các bên liên quan

cũng gặp phải rất nhiều lúng túng. Dẫn đến quyền lợi của bên bị vi phạm

70

PHAN THỊ THU TRANG

lợi ích không được bảo vệ một cách thích đáng.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN CẢI THIỆN CƠ SỞ

PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO

HIỂM THÂN TÀU CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM

I. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tham gia bảo hiểm thân

tàu của các công ty hàng hải Việt Nam.

(1). Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về mặt tài chính và tăng

cường các biện pháp quản lý Nhà nước nhằm trẻ hoá đội tàu từ đó giúp các

công ty hàng hải Việt Nam nâng cao hiệu quả vận tải, cải thiện tình hình

tài chính, có điều kiện tham gia giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

Hiện nay việc mua bảo hiểm thân tàu là hết sức cần thiết đối với các công

ty hàng hải Việt Nam để hạn chế, khắc phục những rủi ro tổn thất của hoạt

động kinh doanh vận chuyển đường biển đầy những rủi ro dình dập.

Nhưng ngoài các công ty hàng hải kinh doanh dịch vụ vận tải biển lớn, có

uy tín và khả năng kinh doanh chắc chắn còn có một số công ty vận tải

biển địa phương do khả năng tài chính yếu kém chưa đủ để duy trì hoạt

động thường xuyên chứ chưa nói gì đến khả năng mua bảo hiểm cho đội

tàu của mình. Vì vậy các cơ quan Nhà nước ở địa phương có thẩm quyền

thành lập các công ty đó nên có biện pháp hỗ trợ (như đầu tư tài chính, tạo

điều kiện thuận lợi...) để các công ty vận tải biển địa phương kinh doanh có

lãi, ổn định tài chính và có khả năng mua bảo hiểm cho đội tàu biển của

mình.

Như đã phân tích trong chương II, đội tàu biển Việt Nam với độ

tuổi tàu tương đối già và trang thiết bị lạc hậu là những nguyên nhân chính

của nhiều vụ tai nạn trên biển, đồng thời cũng là một trở ngại đối với sự

71

PHAN THỊ THU TRANG

phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển ở nước ta.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để trẻ hoá và chuyên môn hoá đội

tàu trong khi khả năng tài chính của các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam-

Các chủ tàu còn hạn chế, nguồn vốn để tái đầu tư mua sắm tài sản cố định

rất nhỏ bé. Chỉ một số ít các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam có thể vay

vốn ngân hàng để đầu tư mua tàu mới. Phần lớn các doanh nghiệp hàng hải

Việt Nam không được những dự án khả thi để vay vốn mua tàu. Đó là do

nguồn vốn tự có của họ không đáng kể nên khi đã vay thì gần như phải vay

toàn bộ, thời gian trả nợ kéo dài. Trong các trường hợp như thế, các ngân

hàng thường không nhiệt tình cho vay. Có một số ít ngân hàng vẫn giải

quyết cho doanh nghiệp hàng hải vay nhưng với điều kiện lãi suất cho vay

cao, trong khi lãi suất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng hải này lại

không lớn, nên phải mất nhiều năm họ mới trả được vốn vay. Do đó, chẳng

mấy công ty chủ tàu dám vay ngân hàng để đầu tư mua tàu mới. Vì vậy

chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ tài chính cho các công ty hàng hải vay

vốn để họ có thể đầu tư nâng cao chất lượng đội tàu của mình, từ đó nâng

cao năng lực cạnh tranh trong ngành kinh doanh vận tải biển nhằm thu tỉ

suất lợi nhuận cao. Đây chính là một trong những động lực thúc đẩy các

công ty hàng hải Việt Nam tích cực giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân

tàu với các công ty bảo hiểm.

Chính phủ cũng cần nghiên cứu các biện pháp hỗ trợ phát triển ngành

công nghiệp đóng tàu trong nước để họ có thể tạo ra các sản phẩm chất

lượng cao với mức giá hợp lý. Khi đó các công ty hàng hải Việt Nam sẽ có

thêm điều kiện để mua phương tiện vận tải mới, trẻ hoá và hiện đại hoá đội

tàu, đặc biệt là những con tàu nhỏ và trung bình phục vụ vận tải nội địa

hoặc vận tải các tuyến viễn dương gần. Những con tàu trong nước đã đóng

được thì chúng ta không nên tiêu tốn ngoại tệ để nhập khẩu. Từ đó tiết

72

PHAN THỊ THU TRANG

kiệm nguồn ngoại tệ, nâng cao chất lượng đội tàu, nâng cao năng lực vận

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

tải làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng hải

Việt Nam chuyên kinh doanh trong lĩnh vực vận tải biển, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc ngày càng có nhiều công ty hàng hải Việt Nam tham gia

giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân tàu.

Bên cạnh đó, Chính phủ phải kiên quyết chấn chỉnh những những

công ty hàng hải Việt Nam làm ăn thua lỗ kéo dài, những công ty đang

quản lý những con tàu quá cũ đã hết khấu hao từ lâu cũng cần được thực

hiện để trẻ hoá và hiện đại hoá đội tàu quốc gia. Những con tàu quá cũ gây

mất an toàn cho con người, cho hàng hoá cũng như cho môi trường. Mặt

khác, việc tiếp tục sử dụng tàu cũ dẫn đến tình trạng cung vượt cầu. Một số

chủ tàu không có cơ hội phát triển, trẻ hoá đội tàu của mình do những con

tàu mới mua về khấu hao cao hơn sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh về giá từ

những con tàu cũ. Vì vậy, các chủ tàu không đủ điều kiện để duy trì hoạt

động kinh doanh chứ chưa nói gì đến mua bảo hiểm thân tàu, do đó Chính

phủ cần phải có những hỗ trợ về mặt tài chính cũng như mặt quản lý ở tầm

vĩ mô để các doanh nghiệp hàng hải của Việt Nam có điều kiện trẻ hoá đội

tàu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Từ đó họ mới có ý thức về tầm quan

trọng của việc mua bảo hiểm thân tàu và có đủ điều kiện kinh tế để mua

bảo hiểm thân tàu cho con tàu của mình.

Trong điều kiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các công

ty- các chủ tàu luôn phải tính đến bài toán kinh tế, làm sao cho tiết kiệm

tối đa chi phí. Theo tính toán của họ, không mua bảo hiểm cho các con

tàu tức là đã tiết kiệm được một khoản chi phí lớn. Hơn thế nữa, do công

tac tuyên truyền, quảng cáo về lợi ích của bảo hiểm thân tàu đối với các

73

PHAN THỊ THU TRANG

công ty hàng hải- các chủ tàu được các công ty bảo hiểm triển khai chưa

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

tốt nên nhận thức của các chủ tàu về lợi ích và sự cần thiết của việc mua

bảo hiểm cho con tàu- phương tiện kinh doanh của chủ tàu chưa cao.

(2). Để cải thiện tình hình tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty

hàng hải Việt Nam đồng thời thúc đẩy loại hình bảo hiểm này phát triển

Nhà nước cần có các biện pháp tuyên truyền về tầm quan trọng của việc

tham gia bảo hiểm thân tàu đối với các công ty hàng hải. Hiện nay, có

một thực tế là rất nhiều công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu mua bảo

hiểm thân tàu cho đội tàu của mình là do bắt buộc phải tuân thủ theo các

quy định của pháp luật hoặc của các đối tác nước ngoài chứ không phải

do tự nguyện. Họ luôn tìm cách trốn không mua bảo hiểm thân tàu để tiết

kiệm chi phí.

Đây là một cách nghĩ rất sai lầm, Các công ty hàng hải Việt Nam-

các chủ tàu đã không nhận thức được những lợi ích to lớn mà bảo hiểm

thân tàu mang lại cho họ. Chỉ với một khoản tiền nhỏ họ có thể “mua”

được sự an toàn, đảm bảo được sự ổn định trong kinh doanh khai thác tàu.

Những vụ tổn thất lớn và số tiền bồi thường khổng lồ mà các công ty bảo

hiểm đã chi trả trong lịch sử bảo hiểm thân tàu là những chứng minh về

lợi ích của bảo hiểm.

Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp thiết thực nhằm thay đổi

quan điểm của các công ty hàng hải về việc tham gia bảo hiểm thân tàu,

giúp họ nhận thấy được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm thân

tàu. Bởi là những người mà công việc kinh doanh luôn gắn liền với những

rủi ro, họ cần phải coi bảo hiểm thân tàu là sự lựa chọn thiết yếu, là yếu tố

74

PHAN THỊ THU TRANG

không thể thiếu trong quá trình kinh doanh của mình. Khi đó bảo hiểm

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thân tàu sẽ trở thành một thông lệ, một tập quán và thị trường bảo hiểm

thân tàu ở Việt Nam cung từ đó mà phát triển.

(3). Nhà nước cần có những chính sách bảo vệ thị trường cho ngành

hàng hải giành quyền vận tải cho đội tàu quốc gia như thông lệ quốc tế qua

đó tạo điều kiện tốt cho thị trường bảo hiểm tàu biển Việt Nam phát triển.

Để các công ty hàng hải Việt Nam giữ được uy tín, nâng cao khả năng kinh

doanh, khả năng tài chính chắc chắn để duy trì hoạt động thương xuyên và

có khả năng mua bảo hiểm thân tàu nhằm khắc phục hậu quả của các rủi ro

gây tổn thất thiệt hại.. Trong những năm gần đây, Chính phủ và các cơ

quan quản lý Nhà nước chuyên ngành đã quan tâm tháo gỡ một số vướng

mắc về cơ chế chính sách nhưng chưa có một chế độ ưu tiên, bảo hộ thích

đáng với ngành hàng hải Việt Nam bởi chính sách chưa đồng bộ việc triển

khai còn rời rạc, tản mạn chưa gắn bó với lợi ích kinh tế. Vì vậy, chính

sách giành quyền vận tải cần được quy định và thực hiện thống nhất từ

người quản lý, các nhà xuất nhập khẩu phải liên kết với những nhà vận

chuyển giành lấy thị trường vận chuyển hàng hóa bằng cách đàm phàn thoả

thuận từ phương thức mua bán (CIF, FOB) vì tăng các hợp đồng bán CIF

và mua FOB chính là đã dành quyền mua hợp đồng bảo hiểm cho các

doanh nghiệp nuớc nhà.

II. Một số kiến nghị góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết

và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải

Việt Nam.

Những nhân tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty

bảo hiểm và các công ty hàng hải Việt Nam cũng có những ảnh hưởng

75

PHAN THỊ THU TRANG

không nhỏ đến hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động giao kết và

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

thực hiện hợp dồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam

và đối tác của họ (các công ty bảo hiểm) nói riêng. Những qui định, những

chính sách của Nhà nước về cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện

hợp đồng bảo hiểm thân tàu cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong

việc cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đông

bảohiểm thân tàu, đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động giao kết và

thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Em xin đưa ra một số kiến nghị

góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng

bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam như sau:

(1). Nhà nước cần ban hành Luật bảo hiểm hàng hải để các công ty hàng

hải có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình và các doanh

nghiệp bảo hiểm có cơ sở pháp lý vững chắc trong việc giao kết và thực

hiện các hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu la một

nghiệp vụ tương đối phức tạp, nó vừa chịu sự chi phối của Luật kinh doanh

bảo hiểm như các loại hình bảo hiểm khác, đồng thời nó lại chịu sự điều

chỉnh của các qui định về hàng hải, các qui định về an toàn trong vận tải

biển. Việc Nhà nước ban hành Luật bảo hiểm hàng hải sẽ giúp cho các

công ty hàng hải có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu nhận thức rõ hơn về

quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm thân

tàu, tạo cho họ cảm giác yên tâm khi tham gia bảo hiểm thân tàu, thay vì

phải vận dụng quá nhiều qui định về bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo

hiểm thân tàu nói riêng có thể rất đến xảy ra những tranh chấp mà quyền

lợi của họ không được pháp luật bảo vệ.

(2). Để thị trường bảo hiểm thân tàu thực sự phát triển, thực sự vì quyền

lợi của người tham gia bảo hiểm Nhà nước cần ban hành các văn bản

76

PHAN THỊ THU TRANG

hướng dẫn thực hiện các Luật và qui định của Chính phủ về kinh doanh

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Đây là một nhân tố

rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự lớn mạnh của thị trường bảo

hiểm Việt Nam. Hiên nay ở Việt Nam có tất cả trên 10 doanh nghiệp

kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Nhưng nhìn chung các công ty

bảo hiểm Việt Nam đều có tiềm năng tài chính rất yếu. Nghiệp vụ bảo

hiểm hàng hải nói chung và bảo hiển thân tàu nói riêng đã được triển khai

ở các công ty bảo hiểm như BAOVIET, BAOMINH, PJICO, PVI ...

nhưng khi có các hợp đồng bảo hiểm lớn hoặc giá trị bảo hiểm lớn đều

được tái bảo hiểm ra cho các công ty, hội bảo hiểm của nước ngoài. Điều

này dẫn đến một hạn chế là khi có tổn thất xảy ra đối với đối tượng được

bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm Việt Nam phải thông tin cho các công

ty, hội bảo hiểm bên nước ngoài dẫn đến việc giải quyết bồi thường chậm

trễ về mặt thời gian ảnh hưởng lớn đến tiến độ kinh doanh của người

được bảo hiểm. Như vậy, thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa thật sự phát

triển, chưa thực sự vì quyền lợi của người được bảo hiểm. Để đạt được

mục tiêu đưa thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh, bảo vệ

quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thì việc đưa ra các văn bản hướng

dẫn cụ thể về hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hết sức cần thiết.

(3). Nhà nước nên có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc liên doanh liên kết về bảo hiểm. Hiện nay trên thị trường

bảo hiểm thân tàu Việt Nam chỉ có trên 10 doanh nghiệp bảo hiểm có kinh

doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu như: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam

(BAOVIET), Công ty Bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh),

Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), Công ty cổ phần Bảo

hiểm Petrolimex (PJICO), Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVI), Công ty liên

doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA), Công ty Bảo hiểm liên hợp

77

PHAN THỊ THU TRANG

(UIC)…, trong đó 4 công ty bảo hiểm ra đời đầu tiên (BAOVIET, Bảo

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

Minh, PJICO, PVI) vẫn chiếm 99% thị phần thị trường bảo hiểm thân tàu

Việt Nam. Trong điều kiện ngành bảo hiểm nước tao còn tụt hậu so với sự

phát triển của bảo hiểm thế giới như hiện nay thì liên doanh liên kết về bảo

hiểm với các công ty bảo hiểm có uy tín trên thế giới sẽ giúp chúng ta học

tập được kinh nghiệm về quản lý, về nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó có công

tác giải quyết khiếu nại và bồi thường nhằm tăng hiệu quả của công tác

giải quyết khiếu nại và bồi thường. Chúng ta có thể thấy rằng trong vài

năm gần đây thị trường bảo hiểm Việt Nam luôn gánh chịu thua lỗ từ kinh

doanh bảo hiểm gốc nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển, thậm trí có những

doanh nghiệp đã không mấy mặn mà với cả khách cũ có kết quả xấu. Việc

liên doanh liên kết trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho thị trường bảo

hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm thân tàu tại Việt Nam nói riêng

phát triển và thu hút được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm hơn. Đồng

thời Nhà nước nên cho phép rộng rãi hơn nữa các công ty bảo hiểm 100%

vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam tham gia khai thác một

số loại hình bảo hiểm, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Điều này

cho phép các chủ tàu Việt Nam có khả năng khai thác dịch vụ bảo hiểm từ

những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng sự lựa chọn cho

các công ty hàng hải trong việc lựa chọn đối tác để mua bảo hiểm thân tàu

cho đội tàu của mình. Cũng nhờ đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

có cơ hội học hỏi và tranh thủ những kỹ thuật mới của họ.

(4). Để việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các

công ty hàng hải có nhu cầu mua bảo hiểm cho đội tàu của mình Nhà nước

cần xem xét và bổ sung những qui định cần thiết về bảo hiểm hàng hải

trong Bộ Luật Hàng hải Việt Nam. Cần có những chỉ dẫn và định nghĩa rõ

ràng về nghĩa vụ cung cấp con tàu có đủ khả năng đi biển và có đảm bảo

78

PHAN THỊ THU TRANG

an toàn đi biển sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta và tạo

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

điều kiện thuận lợi cho các công ty hàng hải trong việc tham gia bảo hiểm

thân tàu. Họ sẽ xác định rõ ràng được trách nhiệm của mình khi giao kết và

thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu, đồng thời có cơ sở pháp lý để bảo

vệ quyền lợi cuả mình khi xảy ra tranh chấp.

(5). Nhà nước cần có những qui định cụ thể về biểu phí đối với việc

tham gia bảo hiểm thân tàu. Do đối tượng bảo hiểm của loại hình bảo hiểm

này thường có giá trị rất lớn, tỷ lệ xảy ra tổn thất cao nên phí bảo hiểm

cũng rất cao. Tuy nhiên, việc xây dựng một biểu phí hợp lý và phù hợp với

điều kiện kinh tế của các công ty hàng hải Việt Nam và phù hợp với điều

kiện phát triển của nước ta nói chung là rất cần thiết. Việc làm này sẽ góp

phần khuyến khích các công ty hàng hải tích cực tham gia giao kết hợp

đồng bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình.

(6). Để quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu được diễn ra

thuận lợi và nhanh chóng, nhất là công tác giải quyết và khắc phục hạn chế

tổn thất Nhà nước cần có những qui định, những hướng dẫn cụ thể về việc

phối hợp giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo

hiểm thân tàu, đặc biệt trong công tác giải quyết và khắc phục hạn chế tổn

thất. Do lực lượng ứng cứu ngoài hiện trường nghèo nàn, thô sơ, lạc hậu về

nguồn lực, phương tiện trang thiết bị phục vụ cứu hộ. Các đội cứu hộ

không có hoặc có rất ít kinh nghiệm thực tế dẫn đến chậm khắc phục hậu

quả của các sự cố xảy ra đối với các con tàu tham gia bảo hiểm, hơn nữa

lại chưa có qui định cụ thể về thời gian đối với việc nên công tác giải quyết

và khắc phục hạn chế tổn thất thường diễn ra rất lâu. Việc Nhà nước đưa ra

những qui định cụ thể và có các biện pháp hỗ trợ nhằm giúp đẩy nhanh tiến

độ của công tác giải quyết và khắc phục tổn thất, công tác bồi thường sẽ

79

PHAN THỊ THU TRANG

giúp các công ty hàng hải hạn chế được tổn thất lớn xảy ra, việc khiếu nại

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

đòi bồi thường từ hợp đồng bảo hiểm sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nhờ

đó, các công ty hàng hải có thể nhanh chóng được bù đắp tổn thất, bảo đảm

điều kiện tài chính và thời gian để tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình.

(7). Nhà nước cần sớm ban hành luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh về

trình tự tố tụng hàng hải để các bên liên quan có cơ sở cho việc kiện tụng

và giải quyết các tranh chấp hàng hải nói chung và các tranh chấp về bảo

hiểm hàng hải nói riêng. Việc ban hành luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh

về trình tự tố tụng hàng hải sẽ giúp cho việc xét xử các vụ tranh chấp hàng

hải diễn ra thuận lợi hơn, thay vì gặp nhiều lúng túng khi áp dụng Luật dân

sự và Luật kinh tế cho việc xét xử các tranh chấp về hàng hải.

(8). Để bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm hàng hải trong

quá trình khiếu nại đòi bồi thường tổn thất từ hợp đồng bảo hiểm, Nhà

nước cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật hàng hải,

trong đó có các hướng dẫn cụ thể về cách xác định thời hiệu khởi kiện liên

quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải, giúp chủ tàu tiến hành khiếu nại đòi

bồi thường đúng qui định và đòi được tiền bồi thường từ phía công ty bảo

hiểm.

(9). Nhà nước cần bổ sung và hoàn thiện hơn nữa Luật kinh doanh bảo

hiểm cho phù hợp với điều kiện phát triển của thị trường bảo hiểm nói

riêng và nền kinh tế- xã hội nói chung. Nhà nước cần phải có những bổ

sung chặt chẽ đối với những qui định về việc kinh doanh bảo hiểm nhằm

ổn định thị trường bảo hiểm, tạo ra sự cạnh tranh công bằng cho các công

ty bảo hiểm, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm.

(10). Nhà nước cũng cần có những qui định xử lý nghiêm ngặt đối với

80

PHAN THỊ THU TRANG

hành vi trục lợi bảo hiểm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước,

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

ngành bảo hiểm không ngừng lớn mạnh, các loại hình bảo hiểm ngày càng

đa dạng. Đặc biệt là đối với loại hình bảo hiểm thân tàu, khi ngành hàng

hải ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước nhà, nhu cầu

mua bảo hiểm thân tàu là cần thiết và hết sức quan trọng đối với các công

ty hàng hải. Bên cạnh sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và

nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu nói riêng thì sự gia tăng về tội phạm kinh tế

trong lĩnh vực bảo hiểm cũng phát triển theo với tính chất ngày càng

nghiêm trọng hơn. Việc pháp luật sớm có những qui định xử lý đối với các

hành vi gian lận trong lĩnh vực bảo hiểm là hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ

quyền lợi của người tham gia bảo hiểm , tạo tâm lý an toàn cho họ khi

tham gia bảo hiểm và góp phần hạn chế lãng phí và thất thoát lớn về mặt

tài chính cho các bên trong hợp đồng bảo hiểm.

(11). Nhà nước cũng cần vận dụng các qui định của luật pháp quốc tế và

các tiêu chuẩn quốc tế về hàng hải vào hệ thống luật có liên quan đến bảo

hiểm hàng hải ở Việt Nam để các chủ tàu ngày càng tiếp cận được với sự

phát triển của ngành hàng hải thế giới và có đủ điều kiện để khai thác bảo

hiểm thân tàu với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thường có những

qui định rất chặt chẽ về điều kiện đối với đối tượng bảo hiểm là tàu biển.

Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá

trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty

hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên để thực hiện được

các biện pháp đó, đòi hỏi các công ty hàng hải Việt Nam tham gia bảo

hiểm thân tàu và các công ty bảo hiểm phải có sự nỗ lực hết mình. Ngoài

sự nỗ lực của các công ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm, sự

giúp đỡ từ phía Nhà nước là không thể thiếu.Những giải pháp kiến nghị

81

PHAN THỊ THU TRANG

trên đây, nếu Nhà nước quan tâm thực hiện, chắc chắn sẽ góp phần thúc

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

đẩy sự phát triển hơn nữa của ngành bảo hiểm nói chung và sự phát triển

82

PHAN THỊ THU TRANG

của ngành hàng hải và nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu nói riêng.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

KẾT LUẬN

Bảo hiểm thân tàu có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát

triển các đội tàu biển thuộc quyền quản lý và khai thác của các công ty

hàng hải Việt Nam nói riêng và sự phát triển của ngành hàng hải nói chung

cũng như sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong đó cơ sở pháp

lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu biển và chế

độ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động hàng hải và kinh doanh bảo

hiểm có vai trò quan trọng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng

bảo hiểm thân tàu mà các chủ thể tham gia giao kết không thể coi nhẹ.

Thực tiễn việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu

của các công ty hàng hải Việt Nam với các công ty bảo hiểm cho thấy số

lượng các công ty hàng hải- các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu còn

thấp so với nhu cầu thực tế và chưa tương xứng với sự phát triển của lĩnh

vực dịch vụ vận tải biển của nước ta. Số vụ khiếu nại đòi bồi thường tổn

thất của các chủ tàu còn rất cao, vẫn còn nhiều tranh chấp phát sinh trong

quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty hàng hải

và các công ty bảo hiểm.

Chính vì vậy, để gia tăng số lượng hợp đồng bảo hiểm thân tàu, tăng

giá trị tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam nói

riêng và tạo tiền đề sự phát triển của thị trường bảo hiểm thân tàu tại Việt

Nam nói chung cũng như nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện hợp

đồng bảo hiểm thân tàu nhất là công tác giải quyết khiếu nại, bồi thường

thì các công ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm cần chú ý hơn

nữa trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Về

phía các cơ quan Nhà nước, điều quan trọng nhất là phải tạo ra một cơ sở

83

PHAN THỊ THU TRANG

pháp lý chặt chẽ và phù hợp, khắc phục sự thiếu đồng bộ giữa các quy định

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

có liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm

84

PHAN THỊ THU TRANG

thân tàu nói riêng.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Các văn bản Luật và dƣới Luật

1. Công ước Brussels 25/08/1924 Thống nhất một số quy tắc về đơn

vận tải đường biển (The International Convention for Unification of certain

of law relating to bill of lading).

2. Nghị định thư sửa đổi công ước quốc tế Brussels 1924 để thống

nhất một số quy tắc về đơn vận tải đường biển Visby Rule 1968

3. Quy tắc York-Antwerp 1950, 1974 về tổn thất chung

4. Công ước an toàn sinh mạng trên biển SOLAS 1974

5. Quy tắc ISM 01/07/1998 về quản lý an toàn hàng hải quốc tế

6. Quy tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển 1972

7. Các điều kiện về bảo hiểm thời hạn thân tàu (Institule tim clause -

Hulls): ITC 1888 và ITC 01/10/1970, ITC 01/10/1983 và ITC 1995, ITC

2001

8. Luật hàng hải quốc tế của Anh (Marine insurance ACT 1906:

MIA)

9. Bộ luật dân sự (2005), NXB Chính trị Quốc gia

85

PHAN THỊ THU TRANG

10. Bộ luật hàng hải Việt Nam (2005), NXB Lao Động- Xã Hội

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

11. Luật kinh doanh bảo hiểm (2002), NXB Chính trị Quốc gia

12. Quyết định của Tổng giám đốc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam

về việc áp dụng điều khoản ITC ngay 01/10/19083 về bảo hiểm thân tàu

đối với các tàu tham gia bảo hiểm hoạt động tuyến nước ngoài.

II. Sách, tạp chí và các tài liệu khác

1. GS- TS. Hoàng văn Châu, TS. Vũ Sĩ Tuấn, TS. Nguyễn Như Tiến

(2002), Bảo hiểm trong kinh doanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

2. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, GS.TS. Hoàng Ngọc Thiết (2005), Pháp

luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB Giáo Dục.

3. PGS.TS. Hồ Sĩ Hà (Chủ Biên) (2002), Giáo trình bảo hiểm, NXB

Thống kê.

4. TS. David Bland (1998), Bảo hiểm- Nguyên tắc và thực hành, NXB

Tài Chính.

5. PGS.TS. Hồ Sỹ Sả, PGS.TS. Nguyễn Cao Thường, TS. Phan Công

Nghĩa (2002), Giáo trình kinh tế bảo hiểm, NXB Khoa Học và Kỹ

Thuật

6. Tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Việt Nam các số: số 03 tháng

08/2006, số 03 tháng 06/2006, số 03 tháng 8/2005, số 03 tháng

5/2005, số 2 tháng 09/ 2005, số 03 tháng 8/2004

7. Tạp chí Hàng hải các số: 01+02/2006, 05/2006, 07/2006, 05/2005,

86

PHAN THỊ THU TRANG

07/2005.

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41

8. Tạp chí Giao Thông- Vận Tải các số 08/2006, 05/2205.

9. Tạp chí bảo hiểm các số: 01+02/2006, 05/2006, 09/2005

10. Trần Diệu Linh (2005), công tác khiếu nại và bồi thường tổn thất

trong bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu ở

Việt Nam, Luận Văn tốt nghiệp, Trường Đại Học Ngoại Thương.

11. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (1997), Một số kiến thức

chung về bảo hiểm tàu thuỷ.

12. Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, thông tin thị trường bảo

hiểm- tái bảo hiểm, các số từ năm 1996 đến tháng 8/2006.

13. TS. Vũ Sỹ Tuấn (chủ nhiệm đề tài), Th.S. Trịnh Thị Thu Hương, Cử

nhân Đỗ Thanh Tùng (2003), thực trạng bảo hiểm thân tàu ở Việt

Nam và giải pháp phát triển, Đề Tài nghiên cứu cấp bộ

(3). Một số Trang Web

1. Trang Web của Cục Hàng hải Việt Nam:

http://w.w.w.Vinamarine.gov.vn.

2. Trang Web của Cục Đăng kiểm Việt Nam:

http://w.w.w.vr.org.vn

3. Trang Web trung tâm dữ liệu bảo hiểm của Trường Đại Học

Kinh Tế TP HCM:

http://w.w.w.baohiem.pro.vn.

4. Trang web của Tổng công ty hàng hải Việt Nam:

http://ww.w.vinalines.com.vn

5. Trang Web của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.

87

PHAN THỊ THU TRANG

http://w.w.w.vcci.gov.vn