BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN ĐẠI ĐỒNG
C¤NG NGHIÖP KHAI TH¸C Má CñA T¦ B¶N PH¸P
ë LµO CAI (1896 - 1945)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN ĐẠI ĐỒNG
C¤NG NGHIÖP KHAI TH¸C Má CñA T¦ B¶N PH¸P ë LµO CAI (1896 - 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 9.22.90.13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN NGỌC CƠ HÀ NỘI - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Công nghiệp
khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai (1896 - 1945)” dƣới
sự hƣớng dẫn của GS.TS. Nguyễn Ngọc Cơ là kết quả nghiên
cứu của cá nhân tôi, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, chƣa đƣợc công bố.
Người thực hiện
Nguyễn Đại Đồng
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Ngọc Cơ đã hƣớng dẫn
tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Ban Chủ
nhiệm Khoa Lịch sử, Khoa Sau đại học Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội đã tạo
điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin cảm ơn TTLTQG I, Thƣ viện Quốc gia, Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch tỉnh Lào Cai; Phòng Lƣu trữ Tỉnh uỷ, tỉnh Lào Cai; Thƣ viện tổng hợp tỉnh Lào
Cai, Thƣ viện Viện Thông tin khoa học xã hội... đã giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ,
động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận án NCS.
Tác giả luận án
Nguyễn Đại Đồng
iii
MỤC LỤC
Trang Lời cam đoan ............................................................................................................... i Lời cảm ơn ................................................................................................................. ii Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ....................................................................... v Danh mục các bảng ................................................................................................... vi Danh mục các hình, sơ đồ ........................................................................................ vii Lƣợc đồ hành chính tỉnh lào cai .............................................................................. viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ LIỆU ..................................................................................................................... 6 1.1. Nghiên cứu về khai mỏ ở Việt Nam trƣớc năm 1945 ...................................... 6 1.2. Nghiên cứu về Lào Cai nói chung ................................................................... 14 1.3. Nghiên cứu về khai mỏ ở Lào Cai trƣớc năm 1945 ...................................... 16 1.4. Những kế thừa và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án............. 18 1.5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu ................................................................................ 19 1.5.1. Tư liệu lưu trữ ........................................................................................ 19 1.5.2. Sách tham khảo, tạp chí và luận án........................................................ 21 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 22
CHƢƠNG 2: TIỀN ĐỀ, ĐIỀU KIỆN ĐỂ TƢ BẢN PHÁP THỰC HIỆN KHAI MỎ Ở LÀO CAI .......................................................................................... 23 2.1. Khái quát về tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945 ................................................... 23 2.1.1. Lịch sử hành chính và tên gọi ................................................................ 23 2.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................. 29 2.1.3. Dân cư và tình hình kinh tế - xã hội ....................................................... 32 2.2. Hoạt động khai mỏ ở Lào Cai thời phong kiến ............................................. 41 2.2.1. Thời Hậu Lê ............................................................................................ 41 2.2.2. Thời Nguyễn ........................................................................................... 41 2.3. Các điều kiện về pháp lý và cơ sở hạ tầng ..................................................... 43 2.3.1. Cơ sở pháp lý .......................................................................................... 43 2.3.2. Thực dân Pháp xâm chiếm Lào Cai và xây dựng cơ sở hạ tầng chuẩn bị cho việc khai thác mỏ ........................................................................ 50 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 58
iv
CHƢƠNG 3: HOẠT ĐỘNG KHẢO SÁT, THĂM DÕ VÀ KHAI THÁC MỎ CỦA TƢ BẢN PHÁP Ở LÀO CAI (1896 - 1945) ......................................... 59
3.1. Thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1929 ........ 59 3.1.1. Bối cảnh lịch sử ...................................................................................... 59
3.1.2. Hoạt động thăm dò, khai thác mỏ của người Pháp ở Lào Cai .............. 64
3.2. Khai thác mỏ ở Lào Cai từ năm 1929 đến năm 1939.................................... 82
3.2.1. Bối cảnh lịch sử ...................................................................................... 82
3.2.2. Hoạt động thăm dò, khai thác mỏ của người Pháp ở Lào Cai .............. 85 3.3. Khai thác mỏ ở Lào Cai của Pháp – Nhật từ năm 1940 đến năm 1945 .......... 90
3.3.1. Bối cảnh lịch sử ...................................................................................... 90
3.3.2. Khai thác mỏ của các công ty Nhật Bản (giai đoạn 1940 – 1945) .............. 95 3.4. Vấn đề công nghệ, nhân công trong khai thác mỏ ở Lào Cai .................... 106
3.4.1. Công nghệ, kỹ thuật khai thác, tuyển quặng mỏ .................................. 106
3.4.2. Lực lượng và đời sống công nhân khai mỏ ở Lào Cai ......................... 108
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 122
CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG KHAI MỎ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH LÀO CAI .......................... 123
4.1. Đặc điểm .......................................................................................................... 123
4.2. Tác động .......................................................................................................... 130
4.2.1. Tác động về kinh tế ............................................................................... 130
4.2.2. Tác động về xã hội ................................................................................ 135
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 .......................................................................................... 145
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ LUẬN ÁN .............................................. 149 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 150 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 1 PL
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFCI : Phông Nha Nông nghiệp, Rừng và Thƣơng mại (Direction
de l'Agriculture, de la Forêt et du Commerce de l'Indochine)
GGI : Phông Toàn quyền Đông Dƣơng
HN (Gouvernement général de l'Indochine) : Hà Nội
KHXH : Khoa học xã hội
Nxb : Nhà xuất bản
RST : Phông Thống sứ Bắc Kỳ (Résident Supérieur au Tonkin)
TTLTQG I : Trung tâm lƣu trữ Quốc gia I
TVQG : Thƣ viện Quốc gia
Tr. : Trang
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Dân số Lào Cai ngày 01 tháng 01 năm 1907 ......................................... 33
Bảng 2.2. Dân số, diện tích, mật độ dân cƣ của Nam Định, Lào Cai, Lai
Châu, Hà Giang năm 1930..................................................................... 34
Bảng 2.3. Bảng thống kê phân chia tƣ bản của tƣ bản Pháp ở Đông Dƣơng
(1903-1918) ........................................................................................... 45
Bảng 3.1. Số lƣợng Giấy cấp phép khai mỏ ở các tỉnh thuộc Bắc Kỳ (1923 – 1927) ....... 63
Bảng 3.2. Sản lƣợng than chì khai thác ở Lào Cai (1924-1927) ............................ 79
Bảng 3.3. Xuất khẩu than chì Lào Cai (1925 - 1927) ............................................ 80
Bảng 3.4. Số lƣợng giấy phép tìm kiếm, thăm dò mỏ cấp hàng năm ở Đông
Dƣơng (1929 – 1935) ............................................................................ 84
Bảng 3.5. Số lƣợng giấy phép khai thác mỏ cấp hàng năm ở Đông Dƣơng
(1929 – 1935) ......................................................................................... 84
Bảng 3.6. Sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở các tỉnh Bắc Kỳ năm 1936 ............... 87
Bảng 3.7. Sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở các tỉnh Bắc Kỳ năm 1937 ............... 88
Bảng 3.8. Danh sách khu nhƣợng mỏ tồn tại ở Lào Cai cho tới tháng 1/1938 ...... 89
Bảng 3.9. Sản lƣợng Apatite khai thác đƣợc ở Lào Cai từ khi Nhật đánh
chiếm Việt Nam (1939 – 1945) ........................................................... 105
Bảng 3.10. Sản lƣợng than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai từ khi Nhật đánh
chiếm Việt Nam (1939 – 1945) ........................................................... 106
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ
Hình 3.1. Bản đồ phân bố các mỏ than chì khai thác ở Đông Dƣơng năm 1919 ...... 71 Hình 3.2. Bản đồ chỉ dẫn khai thác mỏ và đất nhƣợng nông nghiệp Bắc Kỳ
năm 1929................................................................................................ 72
Hình 3.3. Lƣợc đồ phân bố các mỏ apatite ở Việt Nam ........................................ 98
Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan hành chính của Tổng thanh tra Mỏ và kỹ
nghệ Đông Dƣơng.................................................................................. 46
viii
LƢỢC ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH LÀO CAI
(Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai)
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm ở phạm vi tiếp xúc với các đới kiến tạo, tỉnh Lào Cai có nhiều loại khoáng sản chiếm ƣu thế trong nền kinh tế quốc dân. Điều này đƣợc nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét khi nói đến nguồn lợi mỏ thời Lê mạt ở các xứ Tuyên, Hƣng,Thái, Lạng: “Mối lợi về hầm mỏ phần nhiều là ở các xứ Tuyên Quang, Hƣng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc, đáng giá không biết bao nhiêu của. Việc chi dùng của nhà nƣớc sở dĩ đƣợc dồi dào, là do ở thuế các mỏ nộp đầy đủ” [22, tr.14].
Thời Lê mạt, châu Văn Bàn, Thủy vĩ (Lào Cai) thuộc xứ Hƣng Hóa, nhiều mỏ đƣợc khai thác: Đầu thế kỷ XVI, khai thác mỏ vàng ở Cam Đƣờng (châu Thủy Vĩ); Thế kỷ XVII, Vũ Công Ứng là cháu bốn đời của Vũ Công Mật tăng cƣờng khai thác bạc ở động Ngọc Uyển (Bắc Hà) và thƣợng lƣu sông Chảy (vùng Bảo Yên ngày nay), chì và diêm tiêu ở Cam Đƣờng, mỏ lƣu hoàng ở Văn Bàn. Năm 1759, Hân Trung hầu là Nguyễn Phƣơng Đĩnh Khải xin khai thác mỏ đồng Trình Lạn (Huyện Bát Xát ngày nay) [22, tr.140].
Thời Nguyễn, khai mỏ ở nƣớc ta rất phát triển, đặc biệt dƣới triều vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, miền Tuyên, Hƣng, Thái, Lạng có đến 92 mỏ, chiếm 74% tổng số mỏ cả nƣớc lúc bấy giờ [46, tr.42].
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Lào Cai có: mỏ lƣu hoàng và mỏ bạc ở động Khánh Yên (Châu Văn Bàn); Châu Thủy Vĩ có mỏ vàng ở Cam Đƣờng, mỏ đồng ở Trình Lạn và Sơn Yên, mỏ chì ở động Ngọc Uyển [80, tr.330-331]. Điều này đƣợc “Địa – dƣ các tỉnh Bắc Kỳ” ghi chép: “Tỉnh Lào Kay có lắm mỏ: Ở phía bắc có mỏ đồng, phía tây có mỏ thiếc và chì lẫn bạc, ở Nhật Sơn, gần Lào Kay có mỏ vàng…”[54, tr.66].
Do có nguồn lợi từ mỏ, trong lịch sử, Lào Cai luôn là vùng đất hấp dẫn các đối tƣợng làm giàu từ mỏ đến khai thác. Giữa thế kỉ XVIII, ngƣời Thiều Châu (Trung Quốc) đã đến khai thác mỏ ở đây. Nửa đầu thế kỉ XIX, nhiều thƣơng nhân Hoa kiều đã trở thành chủ mỏ giàu có ở Lào Cai.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam. Sau gần một phần ba thế kỷ bình định về quân sự, đến năm 1896, thực dân Pháp căn bản chiếm xong Việt Nam. Từ năm 1897 đến năm 1929, thực dân Pháp tiến hành hai đợt khai thác thuộc địa với quy mô và tốc độ ngày càng lớn. Trong đó, ngành công nghiệp khai thác mỏ
2
luôn chiếm vị trí ƣu tiên: vị trí số 1 trong đợt khai thác lần thứ nhất (1897-1914), vị trí số 2 trong đợt khai thác lần thứ hai (1919 - 1929). Với kết quả thăm dò của Sở Địa chất Đông Dƣơng vào đầu thế kỉ XX, một lần nữa càng khẳng định sự phong phú, đa dạng về tài nguyên khoáng sản vùng đất Lào Cai và càng cuốn hút sự quan tâm của tƣ bản Pháp.
Các loại khoáng sản ở Lào Cai đều thuộc loại quý hiếm, lộ thiên, nhất là
nhóm khoáng sản nhiên liệu (Than), nhóm khoảng sản kim loại (sắt, đồng, vàng)
và nhóm khoáng sản phi kim (không kim loại) là than chì, apatile. Vì vậy, ngành
công nghiệp khai thác mỏ của thực dân Pháp đã từng bƣớc hình thành trên vùng
đất Lào Cai.
Hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai đem lại lợi nhuận lớn cho thực dân Pháp
và có ảnh hƣởng không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Là một
ngành kinh tế chủ đạo thời kỳ thuộc địa, công nghiệp khai thác mỏ của thực dân
Pháp ở Lào Cai trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Mỗi
công trình đi sâu nghiên cứu một góc độ khác nhau, nhƣng cho tới nay vẫn chƣa có
công trình nào phản ánh một cách đầy đủ, toàn diện về vấn đề này. Do vậy, tôi chọn
đề tài: “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai (1896 - 1945)” làm
luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn làm rõ hơn lịch sử
xâm lƣợc, khai thác tài nguyên thiên nhiên của thực dân Pháp cũng nhƣ những tác
động nhiều chiều của nó đối với kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và Lào Cai nói
riêng. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khẳng định thêm bản chất tham
lam, tàn bạo của thực dân Pháp đồng thời đi sâu hơn trong việc nghiên cứu về công
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp - một mảng đề tài quan trọng của Lịch
sử Cận đại Việt Nam và làm phong phú hơn nguồn tƣ liệu lịch sử địa phƣơng giai
đoạn trƣớc năm 1945.
2. Đối tƣợng, nhiệm vụ, mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Khai thác mỏ là ngành công nghiệp hình thành sớm và đem lại nhiều lợi nhuận
cho thực dân Pháp. Luận án nghiên cứu về ngành công nghiệp này của thực dân Pháp ở
Lào Cai từ năm 1896 đến trƣớc tháng 8 năm 1945 trên nhiều góc độ: việc chuẩn bị cơ
sở hạ tầng, quá trình tìm kiếm, thăm dò mỏ, vốn đầu tƣ, phƣơng thức quản lý, quy trình
khai thác, số lƣợng công nhân, sản lƣợng và tiêu thụ sản phẩm.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Dựa trên những lý luận về hình thái kinh tế - xã hội và cơ sở địa lý kinh tế
công nghiệp, luận án làm rõ các điều kiện hình thành hoạt động khai thác mỏ của tƣ
bản Pháp ở Lào Cai.
- Luận án tập trung nghiên cứu quá trình tìm kiếm, thăm dò mỏ, vốn đầu tƣ,
phƣơng thức quản lý và quy trình khai thác, số lƣợng nhân công, sản lƣợng và tiêu thụ
sản phẩm của mỏ than chì, mỏ apatile ở tỉnh Lào Cai thời kỳ thực dân Pháp cai trị.
- Từ kết quả nghiên cứu, luận án rút ra đặc điểm trong hoạt động khai mỏ của
tƣ bản Pháp ở Lào Cai, đồng thời đánh giá khách quan những tác động của công
nghiệp khai thác mỏ đối với tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945.
2.3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua những nghiên cứu trên, luận án phục dựng lại bức tranh toàn cảnh
về hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai thời kỳ thực dân Pháp cai trị. Đồng thời làm rõ
mục đích và bản chất xâm đoạt tài nguyên khoáng sản cũng nhƣ bản chất bóc lột lao
động trong công nghiệp khai thác mỏ của thực dân Pháp ở tỉnh Lào Cai.
Căn cứ vào hoạt động khai mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai, luận án rút ra:
những đặc điểm trong hoạt động khai thác mỏ; tác động của khai thác mỏ của tƣ
bản Pháp đến kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945.
2.4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: giới hạn phạm vi tỉnh Lào Cai thời kì thuộc Pháp bao gồm 2
châu, 3 đại lý, 1 khu dân cƣ đơn vị hành chính: Châu Thuỷ Vĩ, Châu Bảo Thắng;
Đại lý Bát Xát, Đại lý Mƣờng Khƣơng, Đại lý Pa Kha; Khu Sa Pa.
Về giới hạn thời gian: luận án nghiên cứu khai thác mỏ ở Lào Cai từ năm
1896 đến năm 1945. Ngoài ra, luận án còn tìm hiểu hoạt động khai thác mỏ ở Lào
Cai thời phong kiến.
Sở dĩ tác giả lấy năm 1896 là mốc mở đầu cho hoạt động khai thác mỏ của tƣ
bản Pháp ở Lào Cai là do thời điểm này kỹ sƣ mỏ ngƣời Pháp Zeclère tiến hành
nghiên cứu mỏ sắt Bản Vƣợc (ngày nay là Huyện Bát Xát, Lào Cai). Mốc kết thúc
là năm 1945, vì thời điểm này Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam đã giành
đƣợc thắng lợi.
Về nội dung nghiên cứu: Luận án “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản
Pháp ở Lào Cai (1896 - 1945)” nghiên cứu: Các điều kiện, tiền đề để tƣ bản Pháp
thực hiện khai thác mỏ ở Lào Cai; Hoạt động thăm dò và khai thác mỏ của tƣ
4
bản Pháp ở Lào Cai (1896 – 1939), hoạt động thăm dò và khai thác mỏ ở Lào
Cai của Pháp – Nhật giai đoạn 1940 - 1945; Đặc điểm và tác động của hoạt
động khai thác mỏ của tƣ bản Pháp đến kinh tế - xã hội Lào Cai.
3. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Nguồn tài liệu
Trên cơ sở tham khảo và kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác
giả: giáo trình Lịch sử Việt Nam cận đại (1858-1945) của trƣờng Đại học sƣ phạm Hà
Nội, trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn…, các tác phẩm thông sử, sách
chuyên khảo viết về kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc của các nhà sử học
trong và ngoài nƣớc. Từ đó, chúng tôi có cái nhìn toàn diện về công cuộc khai thác
thuộc địa và hiện trạng ngành công nghiệp mỏ ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Với đề tài “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai (1896 –
1945)” nguồn tƣ liệu chính luận án sử dụng là các công trình nghiên cứu về chính
sách khai thác thuộc địa của Pháp ở Đông Dƣơng do ngƣời Pháp biên soạn, các báo
và tạp chí tiếng Pháp nhƣ Annuaires statistiques de l’Indochine (Niên giám thống kê
Đông Dƣơng), Bulletin esconomique de l’Indochine (Tập san Kinh tế Đông Dƣơng
từ năm 1909 – 1929), Bulletin Administratif du Tonkin (Tập san Hành chính Bắc
Kỳ), Journal officiel de l’Indochine Francaise (Công báo Đông Dƣơng thuộc Pháp),
L’Eveil esconomique de l’Indochine (Sự thức tỉnh Kinh tế Đông Dƣơng từ năm
1913- 1929), L’industrie minière de l’Indochine (Công nghiệp mỏ Đông Dƣơng từ
năm 1913 – 1937), lƣu trữ tại TVQG. Qua nguồn tƣ liệu này, tác giả thống kê đƣợc
một số tƣ liệu tin cậy về khai thác và sản lƣợng của một số mỏ Bắc Kỳ. Dựa trên cơ
sở đó, luận án so sánh và làm nổi bật những đặc điểm riêng của vùng mỏ Lào Cai.
Riêng về mỏ Lào Cai, tại Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia I (HN) có tập hồ sơ
gốc về thăm dò, tìm kiếm mỏ ở Đông Dƣơng và các Báo cáo kinh tế của tỉnh Lào
Cai. Các tài liệu này cung cấp cho chúng tôi tên, loại khoáng sản khai thác, diện tích
và sản lƣợng của một số mỏ tƣ bản Pháp khai thác ở Lào Cai. Khi khai thác nguồn
tƣ liệu này, chúng tôi gặp nhiều khó khăn. Vì hoạt động khai mỏ ở Lào Cai diễn ra
muộn hơn so với các tỉnh khác, các mỏ đƣợc khai thác trong thời gian ngắn nên
những tài liệu này nằm tản mạn trong phông Toàn quyền Đông Dƣơng, Phủ Thống
sứ Bắc Kỳ, Sở mỏ Đông Dƣơng, Sở địa chính Đông Dƣơng… (phông về Tòa Công
sứ Lào Cai chƣa đầy 1 trang, không có thông tin gì về khai mỏ), trong đó tƣ liệu về
phƣơng thức quản lý, khai thác và sản lƣợng của nhiều mỏ hầu nhƣ không có.
5
Nghiên cứu luận án, chúng tôi còn sử dụng các tƣ liệu thu thập đƣợc trong quá
trình khảo sát tại địa phƣơng, nhƣ các hồi ký của một số thợ mỏ ở Lào Cai thời Pháp
thuộc, các cán bộ cách mạng lão thành, các lãnh đạo mỏ từ sau khi hòa bình lập lại đến
nay; các tài liệu lƣu trữ ở Ủy ban nhân dân tỉnh, phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng thuộc
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Công ty apatite Việt Nam trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Hai phƣơng pháp chuyên ngành là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic đƣợc tác giả luận án vận dụng để tái hiện quá khứ thông qua nguồn tƣ liệu, đồng thời nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan.
Luận án nghiên cứu lịch sử của một ngành kinh tế nên có nhiều số liệu minh họa. Do vậy, tác giả luận án kết hợp sử dụng các phƣơng pháp khác nhau nhƣ thống kê, so sánh, lập bảng, biểu đồ, sơ đồ…để nghiên cứu vấn đề đặt ra.
4. Đóng góp của Luận án
- Luận án làm rõ những tiền đề, điều kiện để tƣ bản Pháp thực hiện hoạt động
khai thác mỏ ở Lào Cai từ năm 1896 đến năm 1945.
- Luận án nghiên cứu và chỉ ra những tác động của hoạt động khai thác mỏ đến tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Lào Cai thời kỳ thực dân Pháp cai trị. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ sự hình thành giai cấp công nhân mỏ Lào Cai và vai trò của công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Lào Cai thời kỳ trƣớc năm 1945.
- Từ quá trình nghiên cứu, luận án bƣớc đầu đƣa ra một số nhận định có tính chất gợi mở cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp khai thác mỏ ở tỉnh Lào Cai trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
- Nguồn tƣ liệu tiếng Pháp sử dụng trong luận án tƣơng đối phong phú, có những tài liệu lần đầu tiên đƣợc công bố. Trên cơ sở sƣu tầm, khai thác, dịch thuật và hệ thống hóa nguồn tƣ liệu, luận án đóng góp những tƣ liệu quan trọng cho ngành công nghiệp mỏ Việt Nam và lịch sử kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai thời kỳ cận đại. 5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận án chia làm 4 chƣơng: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nguồn tƣ liệu. Chương 2. Tiền đề, điều kiện để tƣ bản Pháp thực hiện khai mỏ ở Lào Cai. Chương 3. Hoạt động khảo sát, thăm dò và khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở
Lào Cai (1896 - 1945).
Chương 4. Đặc điểm và tác động của hoạt động khai mỏ đối với đời sống
kinh tế - xã hội Lào Cai.
6
Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ LIỆU
1.1. Nghiên cứu về khai mỏ ở Việt Nam trƣớc năm 1945
Vấn đề khai thác mỏ ở Việt Nam đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nƣớc về hoạt động khai thác
mỏ khoáng sản trƣớc năm 1945 đƣợc công bố.
Trƣớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hoạt động thác mỏ ở nƣớc ta đƣợc
biết đến qua những ghi chép rải rác trong các bộ sách Đại Nam nhất thống chí, Đại
Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đồng Khánh Dƣ địa chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Khai khoáng ở Lào Cai dƣới thời Nguyễn đƣợc
nhắc đến qua hoạt động khai thác các mỏ đồng Trình Lạn, Phong Dụ…
Ngay từ trƣớc và sau khi xâm lƣợc, ngƣời Pháp nghiên cứu rất kỹ về kinh tế
- xã hội Việt Nam. Trong đó, khai thác mỏ là một là một trong những ngành kinh tế
công nghiệp thu hút sự chú ý của các học giả, các cá nhân, tổ chức nghiên cứu về
địa chất và khai thác mỏ. Cụ thể, có những công trình nghiên cứu sau: L’Indochine
Francaise (souvenirs) [Xứ Đông Dương thuộc Pháp - Hồi ký] Paul Doumer, 1905;
Notice sur la carte geologique et les mines de l’ Indochine (Sơ lược về địa đồ các
mỏ ở Đông Dương) Sở Mỏ Đông Dƣơng, 1906; En Indocline – Du sous-sol
Conférence (Bài thuyết trình về khoáng sản Đông Dương), J.Marc Bel. Các công
trình này cho thấy tiềm năng khoáng sản của Việt Nam rất phong phú và đa dạng,
hứa hẹn nguồn lợi lớn cho các nhà tƣ bản công nghiệp Pháp.
Năm 1931, tác giả Louis Roubaud công bố công trình “Vietnam tragédie Indochinoise (Việt Nam bi thảm Đông Dương”) [Nxb Valois ở Pari]. Tác phẩm này
đƣợc Đƣờng Bá Bổn dịch và Nxb Đại Nam văn hiến xuất bản ở Sài Gòn. Nội dung
nghiên cứu cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình công nhân Việt Nam dƣới chính sách bóc lột của chính quyền thực dân Pháp. Cụ thể: vấn đề “cu li” với quyền đƣợc hội họp, đình công, đấu tranh chống tuyển “cu li” cho nƣớc ngoài; hoặc đấu tranh đòi tƣ bản Pháp “Áp dụng luật lệ thợ thuyền mẫu quốc, cấm tuyển dụng “cu li”… Về việc tuyển dụng thợ làm việc trong các đồn điền và trƣờng mỏ, tác giả đƣa ra một số minh họa điển hình về thủ đoạn của bọn cai mộ, về ngƣời công nhân đƣợc tuyển mộ. Kết quả nghiên cứu này góp phần bổ sung vào nghiên cứu việc tuyển mộ nhân công cho xây dựng tuyến đƣờng sắt Yên Bái – Lào Cai và cho các
công trƣờng mỏ trên địa bàn Lào Cai.
7
Tác giả ngƣời Pháp là P.Guillaumat đã nghiên cứu vấn đề: “L’ Industrie Minérale de L’ Indochine (Công nghiệp mỏ Đông Dương). Nội dung nghiên cứu đã cung cấp thông tin quan trọng về hoạt động khai thác mỏ ở Việt Nam, nhƣ: thủ tục cấp phép thăm dò, xác nhận quyền sở hữu nhƣợng khu mỏ đến quá trình sản xuất, chế biến, sản lƣợng mỏ qua một số năm 1933, 1934, 1936 và 1937. Nghiên cứu này giúp cho tác giả hiểu thêm về các hoạt động khai thác mỏ khi viết luận án.
Năm 1934, André Hibon công bố công trình La crise économique en Indochine” (Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Đông Dƣơng), [Tổng hội in và Xuất bản, Pari]. Công trình nghiên cứu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) đến Đông Dƣơng nói chung và Việt Nam nói riêng. Cuộc khủng hoảng đã tác động đến các ngành kinh kế Việt Nam, trong đó có công nghiệp khai mỏ. Trên cơ sở tác động của khủng hoảng kinh tế, tác giả chỉ ra nguyên nhân sụt giảm sản lƣợng khai thác phosphate Đông Dƣơng (khai thác apatile Lào Cai cũng bị ảnh hƣởng nghiêm trọng).
Năm 1941, Chính quyền Đông Dƣơng, Ban giám đốc các Sở Kinh tế công bố bản “Accords économiques Franco-japonais relatifs à l’Indochine” (Thỏa thuận kinh tế Pháp – Nhật liên quan tới Đông Dương), [Nhà in Viễn Đông, Hà Nội]. Bản thỏa thuận cho biết, Pháp buộc phải kí với Nhật một thỏa thuận kinh tế tại Tokyo. Thỏa thuận kinh tế này gồm 16 điều khoản, cho phép ngƣời Nhật ở Đông Dƣơng có quyền tự do đi lại, hoạt động thƣơng mại, công nghiệp... Ngay sau thỏa thuận kinh tế Pháp – Nhật, các công ty Nhật thâu tóm các mỏ ở Lào Cai, đặc biệt là than chì và apatite.
Năm 1948, James Boyd công bố công trình “Economics and statistics division: Mineral trade notes” (Kinh tế và thống kế lĩnh vực: Ghi chép về thương mại mỏ). Công trình nghiên cứu cho biết, năm 1940, các Công ty và Tập đoàn của Nhật đã thành lập Công ty khai thác phosphates Đông Dƣơng (Société d’Exploitation des phosphates de l’Indochine), trụ sở đặt tại Hà Nội. Từ năm 1941 đến năm 1943, các công ty của Nhật tiến khai thác các mỏ apatile ở Lào Cai (chủ yếu tập trung ở Cam Đƣờng), vận chuyển apatile từ Lào Cai về Hải Phòng rồi xuất khẩu sang Nhật.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhất là từ năm 1954 đến nay, giới sử học nƣớc ta công bố khá nhiều công trình nghiên cứu về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị. Năm 1956 – 1957, nhà sử học Trần Huy Liệu chủ biên biên soạn 12 tập “Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt
8
Nam”. Nội dung tài liệu đã cung cấp những thông tin quan trọng về công nghiệp mỏ ở Đông Dƣơng: nêu thực trạng của ngành khai mỏ quặng, sản lƣợng than và khoáng sản của toàn Đông Dƣơng trong một số năm (tập VII); Nhật vào Đông Dƣơng (1940) và các hoạt động khai khoáng của công ty Nhật (Tập VIII); Tác giả thống kê số vốn của các công ty Pháp bỏ ra khai thác ở Đông Dƣơng từ năm 1939 đến 1945, trong đó có vốn đầu tƣ cho ngành khai thác mỏ; Ngoài ra, tài liệu cung cấp bảng biểu thống kê: giấy phép tìm mỏ; về số lƣợng và diện tích nhƣợng địa về mỏ; trọng lƣợng nguyên liệu mỏ sản xuất và giá trị nguyên liệu mỏ sản xuất đƣợc qua các năm ở Đông Dƣơng (chủ yếu từ năm 1939 đến năm 1945). Nhƣ vậy, với những thông tin và nguồn tài liệu quan trọng sẽ giúp tác giả Luận án bổ sung số liệu, sản phẩm và sản lƣợng mỏ khi nghiên cứu khai mỏ ở Lào Cai.
Năm 1958, tác giả Nguyễn Khắc Đạm công bố công trình Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội). Trên nền chung về ngành khai mỏ, tác giả bƣớc đầu làm rõ sự phát triển của công nghiệp khai thác khoáng sản nhƣ than, kim loại của thực dân Pháp ở nƣớc ta. Từ công trình này, Luận án đƣợc kế thừa một số tƣ liệu đáng tin cậy về nguồn vốn đầu tƣ, địa bàn khai thác mỏ than chì của thực dân Pháp, phốt phát của Nhật ở Lào Cai
Dƣới góc độ một chuyên khảo, công trình Chủ nghĩa đế quốc Pháp tình hình công nghiệp ở Việt Nam dưới thời thuộc Pháp (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1959) của tác giả Phạm Đình Tân đã phác họa một cách rõ nét về nguồn tài nguyên khoáng sản của nƣớc ta. Tác giả khẳng định đây là một trong những cơ sở quan trọng hình thành ngành công nghiệp khai thác mỏ của thực dân Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Từ kết quả nghiên cứu về chính sách, phƣơng hƣớng phát triển, quá trình tuyển mộ và sử dụng nhân công trong công nghiệp khai thác mỏ của thực dân Pháp, tác giả rút ra một số tác động của ngành công nghiệp mỏ đến kinh tế - xã Việt Nam trƣớc năm 1945. Ngoài ra, tác giả đã cung cấp những thông tin quan trọng về mỏ apatit, than chì ở Lào Cai: Mỏ Apatít Lào Cai: ở Lào Cai có mỏ A-pa-tít rất quan trọng. Sản phẩm có thể chế thành Xuy-pephốt-phát (Super-phosphate) cho nông dân bón ruộng… Từ năm 1933, bọn tƣ bản Pháp bắt đầu chú ý mỏ apatile lớn ở Lào Cai, nhƣng cho đến 1939 chúng vẫn không tổ chức khai thác gì. Chỉ có từ 1940, sau khi ngƣời Nhật xâm nhập Đông Dƣơng, tƣ bản Nhật - Pháp mới bắt đầu khai thác để đƣa apatile về Nhật chế thành Xuy-pephốt- phát. Còn việc Xuy-pephốt-phát trên đất nƣớc ta thì chúng không bao giờ nghỉ đến; Hoặc than chì có ở Lào Cai, có thể dùng vào công nghiệp luyện kim [88, tr.22-142].
9
Từ năm 1961-1963, tác giả Trần Văn Giàu chủ biên tập “Lịch sử Việt Nam
cận đại”. Trong tập II, các tác giả nêu khái quát về công nghiệp mỏ của ngƣời Pháp
ở Việt Nam nhƣng chủ yếu là khai thác mỏ ở Hồng Gai, Cái Bầu, Yên Bái… Trong
tập III, nêu lên một số mỏ kim khí của ngƣời Pháp phát hiện và bắt đầu khai thƣợng ở vùng Thƣợng du Bắc Kỳ từ năm 1900 đến 1909. Tập IV, các tác giả thống kê số
lƣợng giấy phép đi tìm mỏ từ năm 1924 đến 1929. Những tƣ liệu liệu này là cơ sở
quan trọng cho tác giả khi nghiên cứu về bể than Lào Cai hoặc có hay không hoạt
động khai mỏ ở Lào Cai trong trong 10 năm (1900 – 1909) và Lào Cai có bao nhiêu giấy phép tìm kiếm mỏ (1924 – 1929).
Công cuộc khai thác thuộc địa nói chung và sự hình thành ngành công
nghiệp khai thác mỏ nói riêng của thực dân Pháp góp phần dẫn đến sự hình thành
đội ngũ công nhân mỏ Việt Nam. Chiếm số đông trong giai cấp công nhân Việt
Nam, công nhân mỏ đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Về vấn đề này, Trần Văn Giàu có tác
phẩm Giai cấp công nhân Việt Nam (Nxb Sử học, 1962). Trong tác phẩm này, tác
giả đã chỉ rõ sự ra đời và phát triển của phong trào công nhân Việt Nam thời kì
Pháp thống trị. Phong trào Công nhân mỏ Lào Cai đƣợc đề cập đến ở góc độ thủ
đoạn bóc lột của thực dân Pháp trong các hầm mỏ ở Bắc Kỳ.
Năm 1963, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 51, 52, 53 tác giả Phan Huy
Lê có bài viết Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn. Dựa trên các tƣ liệu gốc đƣợc
Quốc sử quán biên triều Nguyễn soạn, tác giả Phan Huy Lê nghiên cứu rất công phu
về địa bàn, quy trình khai thác, phƣơng thức quản lý của triều đình Nguyễn đối với
các mỏ khoáng sản nƣớc ta. Công trình phác thảo những nét sơ lƣợc về sự phát triển
của ngành khai mỏ ở Lào Cai trƣớc khi bị thực dân Pháp xâm lƣợc.
Năm 1965, tác giả Phạm Cao Dƣơng cho ra đời tác phẩm “Thực trạng của
giới nông dân Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc”, Nxb Sài Gòn. Nội dung tác phẩm nghiên cứu về sự phân hóa giai cấp nông dân Việt Nam qua cuộc khai thác thuộc địa của tƣ bản Pháp.
Năm 1974, tác giả Nguyễn Thế Anh cho xuất bản cuốn sách “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Nxb Sài Gòn, Sài Gòn. Tác giả đã trình bày một cách toàn diện chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh: việc chiếm đoạt đất đai, xây dựng các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền… đã đem
lại cho tƣ bản Pháp nhiều nguồn lợi to lớn, nhất là việc đầu tƣ khai thác mỏ. Ngoài
10
ra, việc xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Lào Cai – Vân Nam cũng đƣợc tác
đề cập đến. Nội dung nghiên cứu trên là cơ sở cho tác giá luận án đánh giá đúng
tính chất bóc lột của thực dân Pháp trong ngành khai mỏ và vai trò của tuyến đƣờng
sắt Hải Phòng – Vân Nam trong hoạt động khai mỏ của Pháp ở Lào Cai.
Trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 159/1974, tác giả Dƣơng Kinh Quốc có
bài viết về “Ngân sách của chính quyền thực dân Pháp (từ đầu thời kỳ thuộc địa đến
chiến tranh thế giới thứ nhất)”. Bài nghiên cứu đã thống kê toàn bộ ngân sách Đông
Dƣơng (chủ yếu ở Nam Kỳ, Bắc kỳ và Trung Kỳ) trƣớc và sau năm 1897, trong đó có ngân sách dành cho khai mỏ.
Ở một góc độ khác liên quan đến tầng lớp thợ mỏ, tác giả Ngô Văn Hòa có
bài nghiên cứu “Những thể lệ lao động chính được thực dân Pháp ban hành ở Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám” (Nghiên cứu lịch sử, số 6/1977). Qua bài viết,
tác giả giới thiệu một số Nghị định, thể lệ lao động đƣợc Toàn quyền Đông Dƣơng ban hành ở Việt Nam. Những Nghị định mà Chính quyền thực dân Pháp ban hành
giúp tác giả luận án có thêm một cách nhìn khi đánh giá về đời sống của công nhân
và phong trào đấu tranh của họ chống lại các viên chủ mỏ.
Năm 1985, tác giả Bùi Danh Phong có bài viết “Tài nguyên khoáng sản và
lịch sử khai thác, sử dụng chúng ở Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 năm
1985). Phác họa toàn bộ lịch sử khai thác và tìm kiếm khoáng sản của ngƣời Việt
qua 4 thời kỳ: từ thời Hùng Vƣơng đến năm 1954. Thời kỳ thứ 3: từ giữa thế kỷ
XIX khi Pháp chiếm đánh nƣớc ta cho đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Viết về thời kỳ này, tác giả tập trung phản ánh quá trình khai thác mỏ của tƣ bản
Pháp bao gồm than, thiếc, vonfram, kẽm, vàng, đồng, mangan, crôm, than… đồng
thời cho biết sản lƣợng khai thác, xuất khẩu khoáng sản của Pháp qua một số năm.
Nghiên cứu này giúp tác giả luận án thấy đƣợc Lào Cai là vùng đất giàu khoáng
sản, nhất là than chì và apatit.
Dƣới góc độ tài chính và kinh tế Pháp ở Đông Dƣơng, tác giả Jean Pierre Aumiphin đã nghiên cứu “Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859 – 1939)”(La Présence financiere et Economique francaise en Indochine (1859 – 1939)). Trong nghiên cứu này, tác giả cho biết vốn đầu tƣ của tƣ nhân và nhà nƣớc Pháp vào Đông Dƣơng; hoạt động đầu tƣ vốn theo khu vực; việc thành lập các công ty vô danh Đông Dƣơng từ năm 1875 đến 1939; tiền lãi thu về
qua việc đầu tƣ tài chính, trong đó có lĩnh vực khai thác mỏ. Về sự hiển diện của tƣ
11
bản Pháp ở Đông Dƣơng: tác giả đề cập đến những hoạt động thuộc khu vực kinh tế
hiện đại, trong đó có ngành công nghiệp mỏ và các tác động trên phƣơng diện xã
hội – kinh tế địa phƣơng.
Năm 1997, tác giả Alain Léger công bố công trình “L’Agonie de l’Indochine francaise 1940 – 1945” (Nỗi đau khổ của Đông Dương thuộc Pháp 1940 – 1945) [Paris 1997]. Tác giả phản ánh những khó khăn ở Đông Dƣơng nói chung và Việt Nam nói riêng trong ngành khai mỏ (1940 – 1945): Do chiến tranh tác động nên việc vận chuyển quặng mỏ khai thác xuất khẩu ra nƣớc ngoài gặp nhiều trở ngại; Năm 1943, quân Đồng minh cho ném bom các cơ sở quân sự, kinh tế, hầm mỏ của Nhật ở Bắc Kỳ dẫn đến đình trệ các hoạt động xuất khẩu sản phẩm; Giao thông Bắc Kỳ bị chia cắt. Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến tình trạng tồi tệ đối với khai thác mỏ ở Việt Nam. Tác giả cũng đề cập đến tình trạng bế tắc của việc tiêu thụ sản phẩm apatite, quặng sắt ở Lào Cai (Lào Cai có hơn 12.000 tấn apatite và quặng sắt không thể xuất khẩu và bị đọng lại tại Hải Phòng cho tới năm 1945).
Năm 1998, công trình "Công nghiệp Than Việt Nam thời kì 1888-1945 (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội) của tác giả Cao Văn Biền. Tác giả nghiên cứu việc tìm kiếm, khảo sát nguồn lợi than và hoạt động khai thác mỏ than ở Việt Nam, đặc biệt là ở Quảng Ninh. Bể than Lào Cai cũng đƣợc tác giả nghiên cứu. Đây là cứ liệu quan trọng giúp tác giả luận án có thêm tƣ liệu về hoạt động khai thác mỏ than của chính quyền thực dân ở địa phƣơng.
Trong nghiên cứu về ngành công nghiệp khai thác mỏ của ngƣời Pháp ở Việt Nam, mỗi nhà khoa học lại có cách tiếp cận khác nhau. Năm 1999, tác giả Nguyễn Văn Khánh với công trình Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858- 1945) [Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội] nhìn nhận ngành khai mỏ là một bộ phận của khu vực kinh tế hiện đại góp phần tạo nên sự biến đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa.
Năm 2001, Pierre Brocheux, Daniel Hémery công bố công trình nghiên cứu “Indochine: la colonisation ambigue 1858 – 1954” (Đông Dƣơng nền thuộc địa nƣớc đôi 1858 – 1954), [Nhà xuất bản la Découverte]. Công trình nghiên cứu cung cấp thông tin về các công ty của tƣ bản Pháp ở Đông Dƣơng, tình trạng công nhân: Từ năm 1929 đến năm 1937 có 1.348 công ty phá sản, trong đó có rất nhiều công ty khai mỏ; Sự phá sản của các công ty mỏ dẫn đến nhiều công nhân bị sa thải (Năm 1930 – 1931, có 11.000 công nhân Bắc Kì bị sa thải), số công nhân trụ lại thì bị cắt giảm lƣơng.
12
Năm 2002, nhà xuất bản Giáo dục cho xuất bản tác phẩm “Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1919 - 1945)” của tác giả Dƣơng Trung Quốc. Tác phẩm nêu những sự kiện diễn ra ở Việt Nam từ năm 1919 đến 1945. Ngoài ra, cung cấp một số thông tin về tình hình mỏ Lào Cai: Công ty than chì Đông Dƣơng với những hoạt động khai mỏ Nậm Si (Lào Cai) [75, tr.41].
Năm 2003, Nxb Khoa học xã hội cho tái bản tác phẩm “Giai cấp công nhân Việt Nam - sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình ” (tác giả Trần Văn Giàu). Trong tác phẩm này, khi nói về sự hình thành, phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam thời cận đại: có nhắc tới việc tuyển mộ, chăm sóc y tế cho công nhân phố Lu Lào Cai.
Năm 2003, Nxb Khoa học xã hội, HN cho tái bản tác phẩm “Lịch sử 80 năm chống Pháp”, do Trần Huy Liệu chủ biên. Tác phẩm nêu quá trình khai thác các mỏ ở Đông Dƣơng của thời thuộc Pháp, từ năm 1888.
Năm 2004, Nguyễn Khánh Toàn chủ biên cuốn thông sử “Lịch sử Việt Nam tập II (1858 – 1945)”. Tác phẩm cung cấp các số liệu về nhƣợng địa mỏ từ năm 1907; hoạt động khai mỏ của tƣ bản Pháp từ năm 1919 đến 1929. Khai thác mỏ Lào Cai đƣợc tác phẩm nhắc đến trong hoạt động của mỏ Apatít, mỏ Chì ở Nậm Ti (Lào Cai).
Năm 2006, Nxb Giáo dục tái bản tác phẩm “Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1858 1918)” của tác giả Dƣơng Kinh Quốc. Nội dung sách cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng về khai thác mỏ, nhƣ: Công ƣớc về chế độ mỏ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ năm 1885; các sắc lệnh của Tổng thống Pháp về thăm dò, tìm kiếm và nhƣợng mỏ; quy định về thuế lệ xin di nhƣợng và quyền sở hữu mỏ; giới thiệu sự ra đời của một số công ty mỏ. Ngoài ra, tác giả cũng cung cấp một số thông tin về tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai, công nhân công trƣờng đƣờng sắt Lào Cai đấu tranh.
Năm 2007, có bài “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc địa lần thứ hai của người Pháp (1919 – 1930) của tác giả Tạ Thị Thúy [Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6]. Tác giả dành riêng một tiểu mục nghiên cứu về khai thác mỏ: Vốn đầu tƣ ngành công nghiệp khai thác mỏ; Các công ty mới đƣợc thành lập trong năm 1919 đến 1930 (Công ty Nghiên cứu mỏ Đông Dƣơng (1920), Công ty mỏ và luyện kim Đông Dƣơng (1919), Công ty than Đồng Đăng - Hạ Long (1924), Công ty than Tuyên Quang (1924), Công ty thiếc Đông Dƣơng (1926), Công ty phốt phát mới Bắc Kỳ (1924), Công ty than và mỏ kim khí Đông Dƣơng (1924),
13
Công ty mỏ thuộc địa (1928)...[99, tr.32]; Tổng giá trị sản lƣợng mỏ ở Việt Nam đạt đƣợc trong thời kỳ này.
Năm 2008, NCS Hà Thị Thu Thuỷ bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cận hiện đại với đề tài: Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Thái Nguyên (1906-1945). Luận án tìm hiểu về đất và ngƣời Thái Nguyên trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc; phản ánh Quy chế khai mỏ của tƣ bản Pháp ở Việt Nam; quá trình thực dân Pháp tiến hành xây dựng bộ máy cai trị hỗ trợ tƣ bản Pháp khai mỏ ở Thái Nguyên…
Năm 2009, tác giả Nguyễn Văn Trƣờng viết bài “Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer với đường sắt Đông Dương”, (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử). Tác giả cung cấp những thông tin về kế hoạch, quá trình chuẩn bị và việc thực hiện xây dựng tuyền đƣờng sắt ở Đông Dƣơng của Paul Doumer. Đây là sự chuẩn bị để tƣ bản Pháp khai thác các nguồn lợi ở Đông Dƣơng. Tuyến đƣờng sắt Hải phòng - Hà Nội - Lào Cai và Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc) đƣợc xây dựng cũng nhằm mục đích phục vụ tốt nhất cho cuộc khai thác nguồn tài nguyên nơi đây, đặc biệt là nguồn lợi về mỏ khoáng sản.
Năm 2010, tác giả Phùng Phu có bài “Triều Nguyễn và vấn đề khai khoáng”, (Tạp chí Xƣa và nay). Hoạt động khai thác mỏ đồng Tụ Long (Tuyên Quang), Trình Lạn (Hƣng Hóa) đƣợc phần nào đề cập.
Ngày 20/05/2011, trang http://www.vusta.vn đăng bài viết của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Nhung về “ hai thác mỏ đồng thời triều Nguyễn”.
Năm 2012, NCS Lê Thị Hƣơng bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cận -hiện đại, đề tài: Công nghiệp khai thác mỏ kim loại của thực dân Pháp ở Cao Bằng (1888-1945). Luận án có phản ánh về chính sách của Pháp đối với ngành công nghiệp mỏ.
Cũng về lĩnh vực khai thác mỏ của thực dân Pháp, tác giả Tạ Thị Thúy còn có một loạt bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, nhƣ: Đường lối kinh tế và mục đích của việc chiếm đoạt, khai thác mỏ của thực dân Pháp ở Việt Nam (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 8 năm 2014); Thực dân Pháp chiếm đoạt quyền quản lý đối với khối công sản mỏ ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1 năm 2015); Về cơ quan quản lý mỏ của Pháp ở Đông Dương thời thuộc địa (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 7 năm 2015); Quy chế cấp nhượng và khai thác mỏ do thực dân Pháp ban hành ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6 và số 7 năm 2017). Các nghiên cứu trên giúp tác giả luận án
14
phác họa bức tranh về sự chiếm đoạt, khai thác mỏ, cách vận hành quản lý nguồn lợi mỏ của chính quyền thực dân Pháp.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hoạt động khai thác mỏ ở Việt Nam thời Pháp thuộc có hƣớng tiếp cận đa dạng, phong phú, khai thác nhiều góc độ khác nhau xung quanh vấn đề khai thác thuộc địa, khai thác mỏ của tƣ bản Pháp, cũng nhƣ ảnh hƣởng tác động của cuộc khai thác đối với kinh tế - xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khai thác mỏ ở Lào Cai ít nhiều đƣợc đề cập đến. Nguồn tài liệu này rất quan trọng, giúp cho tác giả có cơ sở dữ liệu về sự chuẩn bị mang tính pháp lý, hoạt động khai thác mỏ của Chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam. Từ đó, tác giả có thể nghiên cứu hoạt động khai thác khoáng sản của tƣ bản Pháp trên một địa phƣơng cụ thể - tỉnh Lào cai. 1.2. Nghiên cứu về Lào Cai nói chung
Năm 1994, Nxb chính trị quốc gia cho ra đời tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ Lào Cai 1930 – 1945”, Tập 1. Cuốn sách trình bày khái quát về kinh tế- xã hội Lào cai thời thuộc Pháp, phong trào yêu nƣớc trƣớc khi có Đảng. Phong trào cách mạng và quá trình ra đời của Đảng bộ Lào Cai. Những nội dung trên sẽ hỗ trợ cho tác giả khi nghiên cứu về kinh tế - xã hội Lào Cai thời kỳ chính quyền thực dân Pháp cai trị.
Năm 2001, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai xuất bản cuốn sách “Địa chí Lào Cai (Khái lƣợc). Cuốn sách cung cấp thông tin về Lào Cai, nhƣ: về diện tích, dân số, dân tộc, lịch sử, di tích, danh lam thắng cảnh và một số nét về đặc trƣng kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai cũng nhƣ các huyện thị xã trực thuộc. Đây à thông tin quan trọng giúp tác giả bổ sung nghiên cứu về tỉnh Lào Cai trong nội dung chƣơng 2.
Năm 2004, BCH Đảng bộ thị xã Lào Cai xuất bản cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ thị xã Lào Cai (1930 - 1954). Cuốn sách nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển thị xã Lào Cai, cƣ dân và kinh tế - xã hội thị xã Lào Cai sau ngày thành lập tỉnh, tiềm năng, thế mạnh chính của thị xã Lào Cai... Đây là nguồn tài liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên cứu về tiềm năng khoáng sản mỏ Lào Cai, tình hình dân cƣ và kinh tế xã hội Lào Cai thời kỳ trƣớc năm 1945.
2004, tác giả Nguyễn Văn Vãn cho xuất bản cuốn sách “Một số vấn đề về
lịch sử - văn hóa Lào Cai” (Lƣu tại thƣ viện Lào Cai). Nội dung sách gồm nhiều
bài viết về Lào Cai thời kỳ trƣớc năm 1945 và trong thời kỳ đổi mới. Trong đó, có
một số bài viết về: Vai trò Đảng bộ Lào Cai trong đấu tranh chống thực dân Pháp;
Những trang sử vẻ vang của nhân dân Lào Cai thời kỳ đầu chống Pháp; Tỉnh Lào
15
Cai 95 năm (1907-2002). Đây là nguồn tài liệu hay, có giá trị khi nghiên cứu về tỉnh
Lào Cai trƣớc năm 1945.
Năm 2006, tác giả Trần Hữu Sơn nghiên cứu vấn đề “Hành lang kinh tế Côn
minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng trong lịch sử và những bài học”, (Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc số 4 (68)-2006). Bài viết cung cấp những tƣ liệu quan
trọng về hoạt động buôn bán trên tuyến đƣờng thủy Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai
– Côn Minh thời phong kiến và Pháp thuộc.
Ngoài tuyến đƣờng buôn bán truyền thống, tác giả nghiên cứu hoạt động
buôn bán hàng hóa trên tuyến đƣờng sắt: “Ngày 16/02/1902, tuyến đƣờng sắt
Điền - Việt thông xe, hàng hoá đƣợc vận chuyển theo đƣờng sắt từ cửa biển Hải
Phòng qua Lào Cai đến Côn Minh chỉ mất ba ngày rƣỡi. Năm 1910, sau khi
đƣờng sắt Điền - Việt đƣợc thông xe toàn tuyến, hàng hóa đƣợc vận chuyển tăng
đột biến. Đƣờng sắt Điền – Việt trở thành tuyến đƣờng vận chuyển hàng hóa
nhiều nhất của ngƣời Pháp ở Đông Dƣơng: “Năm 1934, tuyến đƣờng đã vận
chuyển 263.397 tấn hàng hoá. Năm 1938, tuyến đƣờng đã vận chuyển tăng
nhanh lên 378.626 tấn hàng hoá. Trên tuyến đƣờng sắt này, sự trao đổi hàng hoá
diễn ra mạnh mẽ. Năm 1938, hàng xuất khẩu từ Hải Phòng vận chuyển qua Lào
Cai đến Côn Minh là 51.670 tấn hàng hoá, còn hàng từ Côn Minh qua Lào Cai
đến Hải Phòng là 15.518 tấn hàng hóa” [84, tr.5].
Những nghiên cứu trên là nguồn tài liệu quan trọng giúp tác giả luận án bổ
sung vào những nghiên cứu về kinh tế - xã hội Lào Cai trƣớc và sau khi thực dân
Pháp xâm lƣợc.
Năm 2007, Nxb Thông tấn xã Việt Nam phối hợp với Công ty văn hóa trí tuệ
Việt Nam xuất bản cuốn sách “Lào Cai một thế kỷ phát triển và hội nhập”. Cuốn
sách tập hợp nhiều bài viết về Lào Cai, trong đó có những bài viết liên quan đến
những vấn đề luận án đang nghiên cứu, cụ thể: Lào Cai trên bản đồ tổ quốc Việt
Nam, Lào Cai là một trung tâm chính trị lớn thời cổ đại, Lào Cai - Mảnh đất hội tụ
của các dân tộc anh em, Lào Cai – Di tích cội nguồn, Đô thị Lào Cai xƣa, Bác Hồ
với đồng bào các dân tộc Lào Cai. Nội dung nghiên cứu trên sẽ giúp tác giả luận án
có thêm những tƣ liệu khi nghiên cứu về Lào Cai.
Năm 2008, BCH Đảng bộ tỉnh Lào Cai cho phát hành cuốn “Kỷ yếu những sự kiện chính trị, Mốc son lịch sử tỉnh Lào Cai năm 2007. Cuốn kỷ yếu tập hợp những bài viết về Lào Cai xƣa và nay. Nhiều bài nghiên cứu viết về các vấn đề
16
mang tính thời sự trong lịch sử Lào Cai, nhƣ: Vùng đất lào Cai qua một số thƣ tịch cổ Việt Nam, Trung Quốc; Quá trình thành lập tỉnh Lào Cai. Đây là nguồn tài liệu quan trọng cho tác giả luận án nghiên cứu vấn đề tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945.
Năm 2008, Nxb Chính trị quốc gia cho in cuốn “Giáo trình Lịch sử tỉnh Lào Cai” do tác giả Trần Hữu Sơn, Nguyễn Nghĩa Vụ, Nguyễn Văn Vân biên soạn. Cuốn Giáo trình Lịch sử tỉnh Lào Cai đƣợc dùng làm tƣ liệu giảng dạy trong Trƣờng Chính trị tỉnh, các trung tâm chính trị ở các huyện Lào Cai. Tác phẩm trình bày khái quát phong trào yêu nƣớc, phong trào cách mạng của Đảng bộ nhân dân Lào Cai. Trong đó cũng đã đề cập sơ lƣợc chính sách cai trị của thực dân Pháp và phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào Cai trƣớc và sau khi Đảng bộ Lào Cai đƣợc thành lập. Dựa trên kết quả nghiên cứu của tác phẩm, tác giả luận án có thêm cái nhìn khi tìm hiểu về phong trào đấu tranh của công nhân mỏ Lào Cai chống lại giới chủ.
Năm 2010, BCH Đảng bộ tỉnh Lào Cai cho xuất bản cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1947 - 2007)”. Nội dung sách cung cấp một số thông tin liên quan đến kinh tế - xã hội Lào cai trƣớc năm 1945. Kế thừa kết quả nghiên cứu trên, tác giả luận án đƣa ra những nhận định, đánh giá tác động về kinh tế - xã hội Lào Cai qua công cuộc khai thác mỏ của thực dân Pháp ở Lào Cai
Những công trình nghiên cứu văn hóa, kinh tế - xã hội Lào Cai thời phong kiến và Pháp thuộc tuy không nhiều, nhƣng đã giúp tác giả có thêm nguồn tƣ liệu quý báu khi nghiên cứu về: tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945. Tác động của cuộc khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai đến kinh tế - xã hội Lào Cai trƣớc năm 1945.
1.3. Nghiên cứu về khai mỏ ở Lào Cai trƣớc năm 1945
Đối với hoạt động khai thác mỏ Lào Cai, chƣa có một công trình đi sâu nghiên cứu về hoạt động này trƣớc và sau thời kì Pháp đô hộ nƣớc ta. Tuy nhiên, trong một số công trình nghiên cứu về Lào Cai đã ít nhiều đề cập đến hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai trƣớc năm 1945.
Nghiên cứu Lào Cai, một số học giả nƣớc ngoài đã công bố kết quả nghiên về mỏ sắt, than chì, apatit, đồng, vàng… và tình hình khai thác ở các mỏ. Một trong những tác giả chúng ta phải nhắc đến là G. Duypouy viết cuốn sách “Minérais et minéraux du Tonkin” (Quặng và mỏ ở Bắc Kỳ) đƣợc Nhà xuất bản Émile Larose, Paris xuất bản năm 1909. Tác giả cung cấp thông tin kết quả nghiên cứu và khảo sát của ngƣời Pháp về vỉa sắt thuộc Bản Vƣợc (trữ lƣợng, chất lƣợng và địa bàn phân bố vỉa sắt), ý định xây dựng một nhà máy sản xuất gang thép tại đây.
Năm 1933, Robert Gavard công bố công trình “Étude sur les gisements de
17
Phosphates de Lang Hang et Lang Coc province de Lao ay (Tonkin)” (Nghiên cứu về các vỉa phosphates Làng Hàng, Làng Cóc của tỉnh Lào Cai (Bắc Kỳ)), [Nhà in G. Taupin et Cie, Hà Nội]. Theo nghiên cứu của Robert Gavard (Nhân viên địa chính dân sự Đông Dƣơng): trong số các vỉa Apatite ở Cam Đƣờng, mỏ Làng Cóc và Làng Hang có tầm quan trọng lớn. Hai vỉa này ở phía Nam tỉnh Lào Cai, cách trung tâm hành chính tỉnh Lào Cai chừng 13km, trong thung lũng sông Hồng. Nó cách bờ sông Hồng 6km, và cách đƣờng bộ đã đƣợc dải đá Hà Nội – Hải Phòng cũng chừng 6km. Ngoài ra, để có thể khai thác apatile, ngƣời Pháp đã lên kế hoạch chuẩn bị mọi điều kiện khai thác, nhƣ: Thiết lập cơ sở hạ tầng (xây dựng tuyến đƣờng vào mỏ, dự tính phƣơng tiện vận chuyển quặng, địa điểm tập kết quặng, xây dựng trung tâm phát điện ở Cam Đƣờng); Vấn đề tuyển mộ nhân công cho mỏ; Việc tiêu thủ quặng apatile. Tuy nhiên, trên thực tế thì cho tới năm 1930, quặng apatile ở Lào Cai vẫn chƣa đƣợc khai thác.
Năm 1941, Jacques Fromaget công bố cuốn sách “Étude géologique des gisements de phosphates (apatite) de Cam Duong (Tonkin) et des formations qui les contiennement” (Nghiên cứu địa chất một vài vỉa phosphates (Apatite) ở Cam Đường (Bắc Kỳ) và cấu tạo), [Nhà in Viễn Đông, Hà Nội]. Công trình công bố hoạt động khai thác apatile tƣơng đối sớm ở Lạng Sơn, Bắc Giang… Đối với Lào Cai, ngƣời Pháp cho nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm apatile từ rất sớm nhƣng việc khai thác lại diễn ra tƣơng đối muộn so với các mỏ trong cả nƣớc.
Năm 1943, Công ty nghiên cứu mỏ sắt và quặng Bảo Hà cho in cuốn Notice explicative, Project de statuts, Note succince sur l’affaire” (Chỉ dẫn giải thích, dự thảo quy chế, ghi chép ngắn gọn về hoạt động), [Nhà in G. Taupin et Cie, Hà Nội]. Nội dung cuốn sách cung cấp thông tin nghiên cứu của ngƣời Pháp phát hiện mỏ ở Bảo Hà: Mỏ sắt (có các vỉa ở Lang-Lech và Quan-San, trữ lƣợng khoảng 4 triệu tấn); Mỏ apatile (nghiên cứu thực địa, phân tích hàm lƣợng phosphate của quặng apatile ở Bảo Hà). Ngoài ra, cuốn sách ghi chép về việc thành lập Công ty nghiên cứu sắt và mỏ apatile Bảo Hà…
Năm 2000, Công ty Apatít Việt Nam cho xuất bản công trình “Mỏ Apatít
Lào Cai - 45 năm xây dựng và trưởng thành (1955 - 2000)”, tác giả Đinh Xuân
Lâm chủ biên. Công trình khái quát những nét cơ bản về vị trí địa lý và truyền
thống lịch sử Lào Cai trong lịch sử. Ngoài ra, tác giả dành một chƣơng nghiên cứu
về hoạt động khai thác mỏ apatít ở Lào Cai (1924 - 1954): sự phát hiện mỏ, quá
trình thăm dò, tuyển mộ nhân công, khai thác apatite (1939 – 1942) và phong trào
18
đấu tranh của công nhân mỏ apatite Lào Cai [23, tr.19-20]. Tƣ liệu này giúp cho tác
giả luận án có thêm thông tin củng cố nội dung nghiên cứu về hoạt động khai thác
mỏ apatite Lào Cai của Nhật – Pháp (1940 – 1945).
Năm 2004, Sở công nghiệp tỉnh Lào Cai cho xuất bản công trình nghiên cứu
“Lịch sử công nghiệp Lào Cai 1959 - 2004”. Công trình nghiên cứu chủ yếu về hoạt
động khai thác mỏ ở Lào Cai ở nƣớc ta từ năm 1959 - 2004. Tuy nhiên, công trình đã
cung cấp một số thông tin về khai mỏ Lào Cai thời kỳ phong kiến và dƣới thời Pháp
thuộc. Cụ thể, về tài nguyên: “Dải sông Hồng tập trung khoáng sản chủ yếu là apatít,
thạch anh, graphít, sắt, mi ca, caolin. Dải sông Chảy chủ yếu tập trung các khoáng sản
đá vôi, chì, kẽm, vàng, đá quý, đá xây dựng, cát, cuội, sỏi ... Dải Phanxipăng chủ
yếu gồm các khoáng sản và biểu hiện quặng của xạ, đất hiếm, môlipden, graphít,
đồng, chì, kẽm. Trong những năm qua, các mỏ, điểm mỏ đã đƣợc tìm kiếm thăm dò
đánh giá trữ lƣợng và phát hiện trên 130 mỏ, điểm mỏ và mỏ có giá trị kinh tế nhƣ
mỏ đồng Sinh Quyền, sắt Quý Xa, apatite Lào Cai, graphít Nậm Thi, môlíp đen Sa
Pa [87, tr.13]. Đây là nhƣng thông tin quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu về
tình hình khai mỏ sắt, đồng, vàng và đặc biệt là mỏ than chì, apatit ở Lào Cai.
Những công trình nghiên cứu về mỏ Lào Cai tuy không nhiều, nhƣng kết quả
nghiên cứu cho thấy tiềm năng khoáng sản trên vùng đất Lào Cai rất lớn. Đây là sự
gợi mở, cơ sở để tác giả bổ sung nguồn tƣ liệu còn thiếu trong nghiên cứu về hoạt
động khai thác khoáng sản của tƣ bản Pháp trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
1.4. Những kế thừa và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án
Qua tìm hiểu tổng quan về tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đã có
khá nhiều công trình đề cập đến vấn đề khai mỏ ở Việt Nam thời thuộc địa. Những
tài liệu sách, báo, tạp chí, luận án nói trên giúp tác giả luận án:
Một là, Có phông tƣ liệu về hoạt động khai thác mỏ của thực dân Pháp Việt
Nam: Quy chế trong lĩnh vực khai mỏ; hoạt động khai mỏ của Pháp ở Việt Nam.
Hai là, Kết quả nghiên cứu của những tài liệu sách, báo, tạp chí…đã cung
cấp cho tác giả luận án một phần cơ bản phông kiến thức chung về Lào Cai: Kinh tế
- xã hội Lào Cai trƣớc năm 1945; Khai mỏ ở Lào Cai thời kỳ phong kiến; việc thành
lập tỉnh lỵ Lào Cai năm 1907; quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng của thực dân Pháp ở
Lào; hoạt động tìm kiếm, khai thác mỏ của Pháp – Nhật ở Lào Cai.
Từ kết quả nghiên cứu về hoạt động khai mỏ Việt Nam nói chung và Lào Cai
nói riêng, tác giả luận án có sự kế thừa và tiếp tục nghiên cứu những vấn đề đặt ra
19
trong luận án “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai (1896 -
1945)”. Cụ thể, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Một là, Những tiền đề, điều kiện để thực dân Pháp thực hiện hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai: Tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945; Hoạt động khai mỏ ở Lào Cai thời phong kiến; các điều kiện pháp lý và cơ sở hạ tầng cho hoạt động khai thác mỏ. Hai là, Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác mỏ ở Lào Cai của tƣ bản Pháp trƣớc năm 1945: nghiên cứu mỏ than mỡ xung quanh thành phố Lào Cai; nghiên cứu về mỏ sắt ở Bát Xát, Bảo Hà; tìm kiếm và khai thác mỏ than chì; khai thác mỏ vàng, mỏ apatite…
Ba là, Đặc điểm và tác động của hoạt động khai thác mỏ đối với kinh tế - xã hội Lào Cai: Đặc điểm riêng trong hoạt động khai mỏ ở Lào Cai; tác động về kinh tế, xã hội Lào Cai qua hoạt động khai thác mỏ của thực dân Pháp.
1.5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu 1.5.1. Tư liệu lưu trữ
Xác định tầm quan trọng của nguồn tƣ liệu lƣu trữ khi nghiên cứu về khai mỏ ở Lào Cai, chúng tôi đã tìm kiếm, khai thác tƣ liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 Hà Nội, Thƣ viện Quốc gia Hà Nội. Kết quả là chúng tôi đã tra cứu đƣợc 86 hồ sơ tƣ liệu liên quan tới khai mỏ ở Lào Cai. Những hồ sơ tƣ liệu này có giá trị lớn về mặt sử học, phản ánh đa dạng, tƣơng đối chân thực, khách quan về các khía cạnh khác nhau của khai mỏ ở Lào Cai.
Ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 (CANV1), chúng tôi tiếp cận đƣợc 69 hồ sơ liên quan tới khai mỏ ở Lào Cai, gồm: Phông Toàn quyền Đông Dƣơng (Gouvernement général de l’Indochine (GGI); Phông Phủ thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin (RST); Phông Nha Nông nghiệp, Rừng và Thƣơng mại (Direction de l’Agriculture, des Forêts et du Commerce de l’Indochine (AFCI); Phông Trƣớc Bạ, Đất đai và Tem Đông Dƣơng (Enregistrement, des Domaines et du Timbre (EDTI).
Có thể nói, hồ sơ lƣu trữ ở Trung tâm 1 về khai mỏ ở Lào Cai có số lƣợng lớn nhất và có nội dung rất phong phú, đa dạng. Nội dung các cặp hồ sơ mà chúng tôi tìm kiếm tập trung vào một số vấn đề nhƣ: quy chế và chính sách mỏ; tìm kiếm, thăm dò mỏ; thống kê về các mỏ; đơn xin cấp phép khai thác và nhƣợng mỏ; tình hình khai mỏ; báo các kinh tế các năm; thông tin về mỏ quặng sắt Bắc Kỳ; tình hình thuế của ngành công nghiệp mỏ. Cụ thể nhƣ sau:
Những tìm tòi, điều tra về quy chế và chính sách mỏ của chính quyền thuộc địa trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (Nghị định, sắc lệnh
20
về mỏ ở Đông Dƣơng), chính sách và sự điều chỉnh thuế đối với ngành công nghiệp mỏ ở Việt Nam qua từng thời kỳ, các đơn xin tìm kiếm, thăm dò mỏ (sắt, vàng, than, diêm tiêu, than chì, apatile) ở Lào Cai, các thống kê về mỏ ở Bắc Kỳ (Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hòa Bình, Lào Cai) (Phông GGI, AFCI và EDTI).
Các đơn xin cấp phép khai mỏ, chuyển nhƣợng mỏ (Nam Si, Jeannet, Nam Kou, Na Tsiou, Lang Mo), báo cáo kinh tế từ năm 1931 – 1941 (Phông GGI), thông tin về ngƣời Mỹ đến khai thác các mỏ phốt phát (Phông RST), thông tin về mỏ sắt Bản Vƣợc (Phông AFCI).
Một thực tế khi khai thác nguồn tƣ liệu tại Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia I, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Vì khác với các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Cao Bằng, Quảng Yên …, Lào Cai không phải là một trung tâm kinh tế thời Pháp thuộc nên những tài liệu này không tập trung trong một phông riêng về Toà Công sứ Lào Cai mà nằm tản mạn trong các phông Toàn quyền Đông Dƣơng, Phủ thống sứ Bắc Kỳ, Nha Nông nghiệp, Rừng và Thƣơng mại, Phông Trƣớc bạ, Đất đai và Tem Đông Dƣơng, trong đó những tƣ liệu về phƣơng thức quản lý, khai thác và số lƣợng của nhiều mỏ hầu nhƣ lại không có.
Tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu về những hoạt động khai thác mỏ thời phong kiến, chúng tôi tìm hiểu các bộ chính sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, nhƣ: Đại Việt sử ký toàn thƣ, Khâm định Việt sử thông giám Cƣơng mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam Hội điển sự lệ chinh biến và tục biên; Đại Nam nhất thống chí ... . Những ghi chép trong các bộ sử nói trên đã cung cấp thông tin về chủ trƣơng, chính sách và các hoạt động khai thác mỏ trên vùng đất Lào Cai thời phong kiến.
Nghiên cứu về hoạt động khai mỏ thời Pháp thuộc, tác giả luận án đã khai thác nguồn tƣ liệu từ công trình sách do ngƣời Pháp biên soạn, các báo và tạp chí tiếng Pháp: G.Duypouy viết cuốn “Minérais et minéraux du Tonkin” (Quặng và mỏ ở Bắc Kỳ); Robert Gavard công bố công trình “Étude sur les gisements de Phosphates de Lang Hang et Lang Coc province de Lao ay (Tonkin)” (Nghiên cứu về các vỉa phosphates Làng Hàng, Làng Cóc của tỉnh Lào Cai (Bắc Kỳ)); Jacques Fromaget công bố cuốn sách “Étude géologique des gisements de phosphates (apatite) de Cam Duong (Tonkin) et des formations qui les contiennement” (Nghiên cứu địa chất một vài vỉa phosphates (Apatite) ở Cam Đường (Bắc Kỳ) và cấu tạo); Công ty nghiên cứu mỏ sắt và quặng Bảo Hà cho in cuốn “Notice explicative, Project de statuts, Note succince sur
21
l’affaire” (Chỉ dẫn giải thích, dự thảo quy chế, ghi chép ngắn gọn về hoạt động); Annuaires statistiques de l’Indochine (Niên giám thống kê Đông Dương); Bulletin esconomique de l’Indochine (Tập san Kinh tế Đông Dương từ năm 1909 – 1929); Bulletin Administratif du Tonkin (Tập san Hành chính Bắc Kỳ); Journal officiel de l’Indochine Francaise (Công báo Đông Dương thuộc Pháp); L’Eveil esconomique de l’Indochine (Sự thức tỉnh Kinh tế Đông Dương từ năm 1913- 1929); L’industrie minière de l’Indochine (Công nghiệp mỏ Đông Dương từ năm 1913 – 1937)…
Nguồn tƣ liệu tiếng Pháp trên đã cung cấp cho tác giả một số số liệu về hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai, cụ thể: Việc phát hiện 2 vỉa mỏ sắt và quặng apatile ở Bảo Yên (Bảo Hà), dự báo trữ lƣợng sắt (khoảng 4 triệu tấn), kế hoạch khai thác sắt và quặng apatile nơi đây; Báo cáo về vỉa mỏ than đƣợc tìm thấy xung quanh khu vực thị xã Lào Cai, bƣớc đầu thực hiện khai thác mỏ than; hoạt động, sản lƣợng vàng, đồng khai thác đƣợc; số liệu khai thác than chì trong những năm 20 của thế kỷ XX; số liệu khai thác mỏ apatile dƣới thời Pháp – Nhật…
Bổ sung thêm nguồn tƣ liệu tiếng Pháp khi nghiên cứu luận án, chúng tôi tra cứu đƣờng link: https://gallica.bnf.fr (Gallica là thƣ viện số thuộc Thƣ viện Quốc gia Pháp), http://www.entreprises-coloniales.fr (Doanh nghiệp thuộc địa Pháp). Tại đây, chúng tôi đã thu thập đƣợc nhiều tƣ liệu bổ trợ cho nghiên cứu khai mỏ ở Lào Cai, cụ thể: Tập tƣ liệu về hoạt động khai thác mỏ than chì (nghiên cứu về chất lƣợng than chì, thành lập công ty, xây dựng nhà máy xử lý than chì, khai thác và xuất khẩu than chì (1923- 1927)); số liệu về khai thác than, đồng, vàng, apatile. 1.5.2. Sách tham khảo, tạp chí và luận án
Nghiên cứu về “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản Pháp ở Lào Cai (1896 – 1945)”, thì nguồn tài liệu không thể thiếu đƣợc đó là sách, báo, tạp chí, luận án viết về khai mỏ. Chúng tôi đã nghiên cứu, sƣu tập tài liệu tại Thƣ viện Quốc gia Hà Nội, Thƣ viện tỉnh Lào Cai, Thƣ viện trƣờng Đại học Sƣ phạm I Hà Nội, Thƣ viện Viện thông tin khoa học xã hội, Thƣ viện viện Khoa học xã hội. Tại đây, chúng tôi đã sƣu tầm đƣợc nhiều tài liệu quan trọng bổ sung hoàn thiện vấn đề nghiên cứu, nhƣ: vùng đất Lào Cai trong lịch sử, điều kiện tự nhiên, dân cƣ, văn hóa, kinh tế - xã hội, khai mỏ Lào Cai thời phong, các sách viết về các hoạt động khai mỏ ở Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Kỳ nói riêng.
22
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Nghiên cứu về hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai của tƣ bản Pháp (1896 – 1945), tác giả luận án tìm hiểu tình hình nghiên cứu và nguồn tƣ liệu khai thác mỏ trƣớc năm 1945 ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng.
Đối với tình hình nghiên cứu về khai thác mỏ: tác giả tìm hiểu những công trình sách viết về hoạt động khai thác mỏ ở Việt Nam trƣớc năm 1945; những công trình nghiên cứu về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội Lào Cai trƣớc năm 1945; công trình nghiên cứu về khai mỏ Lào Cai trƣớc năm 1945. Những công trình đã nghiên cứu giúp cho tác giả có phông thông tin chung về hoạt động khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Việt Nam, phông về tình hình kinh tế - chính trị và văn hóa – xã hội Lào Cai trƣớc năm 1945, phông thông tin về việc tƣ bản Pháp thăm dò, tìm kiếm, nghiên cứu và khai thác mỏ ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Trên cơ sở những nội dung đã nghiên cứu, tác giả luận án tiếp thu, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu vấn đề đặt ra trong luận án.
Để nghiên cứu hoạt động khai mỏ ở Lào Cai, tác giả luận án tìm kiếm nguồn tƣ liệu gốc (tiếng Pháp, tiếng Việt) về hoạt động khai mỏ ở Lào Cai của tƣ bản Pháp. Nguồn tƣ liệu này cung cấp cho tác giả thông tin về việc tìm kiếm, nghiên cứu mỏ than, sắt cuối thế kỷ XIX. Hoạt động tìm kiếm than chì và việc thành lập công ty, nhà máy khai thác than chì (graphit) ở Lào Cai giai đoạn (1917 – 1929), (1940 – 1945). Ngoài ra, các tƣ liệu này đã cung cấp cho tác giả thông tin về hoạt động khai thác mỏ vàng trong năm 1936 – 1937, hoạt động tìm kiếm, nghiên cứu và khai thác mỏ apatite Lào Cai từ năm 1924 đến năm 1945.
Nhƣ vậy, từ tài liệu nghiên cứu chung về khai mỏ ở Việt Nam (trong đó có Lào Cai), tác giả nghiên cứu tƣ liệu gốc về hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai để hoàn thiện nội dung luận án. Vấn đề này đƣợc tác giả nghiên cứu cụ thể trong chƣơng 2 (Tiền đề điều kiện để tƣ bản Pháp thực hiện khai thác mỏ ở Lào Cai), chƣơng 3 (Hoạt động khảo sát, thăm dò và khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai từ năm 1896 đến năm 1945) và chƣơng 4 (Đặc điểm và tác động của hoạt động khai thác mỏ đối với đời sống kinh tế - xã hội Lào Cai.
23
Chƣơng 2 TIỀN ĐỀ, ĐIỀU KIỆN ĐỂ TƢ BẢN PHÁP THỰC HIỆN KHAI MỎ Ở LÀO CAI
2.1. Khái quát về tỉnh Lào Cai trƣớc năm 1945 2.1.1. Lịch sử hành chính và tên gọi Lào Cai trước năm 1907 Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía bắc Lào Cai giáp Trung Quốc, phía tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía nam giáp tỉnh Yên Bái.
Tỉnh Lào Cai trải qua các tên gọi Lão Nhai, Lao Kay, Lao Cai, rồi sau cùng là Lào Cai nhƣ bây giờ. Nguồn gốc tên gọi “Lão Nhai” có nhiều cách lý giải nhƣng theo cố Giáo sƣ Đào Duy Anh, từ "Lão Nhai", khi làm bản đồ, ngƣời Pháp viết "Lao Cai" thành "Lào Kay". Danh từ "Lào Kay" đã đƣợc ngƣời Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu còn ngƣời Việt khi đọc, biến âm theo tiếng Việt thành Lào Cai và trong giao tiếp và dân gian ngƣời ta vẫn gọi là Lao Cai.
Dựa vào các phát hiện khảo cổ học thập kỷ 70, 90 của thế kỷ XX, có thể chứng minh ngƣời nguyên thủy đã có mặt ở Lào Cai muộn nhất từ 20.000 năm đến 30.000 năm [90, tr.151]. Họ đã để lại các các di tích văn hóa Sơn Vi sớm ở Cầu Đen, Đồi Công nghiệp, Vĩ Kim, Bến Đền, Phố Lu, Xuân Quang, Ngòi Nhù…
Thời các Vua Hùng dựng nƣớc, Lào Cai cũng nhƣ cả vùng Hƣng Hóa rộng lớn thuộc bộ Tân Hƣng. Những phát hiện mới về mật độ các di tích đồ đồng Đông Sơn phân bố dày đặc bên hữu ngạn sông Hồng (Từ Cốc Lếu đến Bắc Cƣờng) làm cơ sở cho giả thuyết Lào Cai là một trung tâm kinh tế – chính trị quy mô lớn trƣớc công nguyên. Công trình nghiên cứu mới nhất về lịch sử Việt Nam của Viện Sử học – công trình “Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X” do PGS.TS Đỗ Văn Ninh chủ biên đã nhận định Lào Cai là một trung tâm của cộng đồng Tây Vu của Thục Phán [63, tr.164].
Thời kỳ Âu Lạc bị phong kiến phƣơng bắc xâm chiếm và đô hộ, Lào Cai là một châu Ki mi với nhiều tên gọi khác nhau. Đến đời nhà Đƣờng, vùng đất Lào Cai hiện nay thuộc 2 châu Ki mi Đan Đƣờng (Cam Đƣờng) và Chu Quý (Văn Bàn) [11, tr.361].
Sau khi nƣớc ta giành đƣợc độc lập, các triều đại phong kiến đều chú trọng
24
quản lý hành chính, nhiều lần phân chia lại địa giới hành chính. Năm Quang Thái thứ 10 đời nhà Trần (1397), Hồ Quý Ly cải cách hành chính, đổi các lộ phủ làm trấn, thành lập các huyện, châu trực thuộc. Trong đó, huyện Thủy Vĩ, huyện Văn Bàn đƣợc thành lập trực thuộc Châu Quy Hóa trấn Thiên Hƣng [2, tr.145]. Nhƣ vậy, từ nay Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng Lào Cai) đã chính thức trở thành tên đơn vị hành chính của nhà nƣớc Đại Việt. Tháng 4, mùa hạ năm Quang Thái thứ 10 triều đại nhà Trần (1397) có thể đƣợc coi nhƣ sự kiện quan trọng đầu tiên về thành lập tỉnh Lào Cai. Huyện Thủy Vĩ, Văn Bàn đến đời nhà Lê đổi làm châu. Tên của hai châu này tồn tại mãi đến sau này.
Ngày 30/3/1886 thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai, đặt ách cai trị. Nhƣng suốt hàng chục năm dòng, ngƣời dân Lào Cai bất khuất, kiên cƣờng nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Do không bình định nổi vùng biên giới, nhà cầm quyền Pháp phải áp dụng chế độ quân quản. Nhằm tăng cƣờng chính sách vừa bình định, vừa củng cố sự chiếm đóng, khai thác vùng bị chiếm, ngày 15/4/1888 thực dân Pháp đã phân chia địa bàn Bắc Kỳ từ Thanh Hóa trở ra thành 14 quân khu. Quân khu I bao gồm Lào Cai và vùng thƣợng lƣu sông Hồng. Ngày 5/4/1890, thực dân Pháp lại điều chỉnh phạm vi các quân khu, chia các quân khu thành nhiều tiểu quân khu [75, tr.192-205]. Mỗi tiểu quân khu gồm một số điểm chốt đóng quân gọi là các đồn binh. Lào Cai trở thành tiểu quân khu của quân khu I. Tiểu quân khu Lào Cai có các đồn binh Lào Cai, Bát Xát, Phố Lu, Phong Thổ, Bảo Hà. Ngày 6/6/1890, Kinh lƣợc xứ Bắc Kỳ ra nghị định tách châu Lục Yên khỏi tiểu quân khu Yên Bái để nhập vào tiểu quân khu Lào Cai. Nhƣ vậy, tiểu quân khu Lào Cai vào năm 1890, nằm ở 21054 và 230 vĩ bắc, 1000 36 và 1020 40 kinh đông. Diện tích Lào Cai là 10.100 km2 bao gồm 4 châu, 13 tổng 56 làng với 34.800 ngƣời và 1395 xuất đinh [9, tr.93].
- Châu Thủy Vĩ có 3 tổng 11 xã, phố, vạn. - Châu Văn Bàn; có 3 tổng, 7 xã trại. - Châu Chiêu Tấn có 2 tổng và 11 xã. - Châu Lục Yên có 6 tổng 27 xã. Bộ máy hành chính cấp quân khu sau một thời gian hoạt động đã tỏ ra kém hiệu quả, giới cầm quyền quân sự và dân sự nhiều khi mâu thuẫn, các hoạt động quân sự kém hiệu lực. Vì vậy ngày 6/8/1891, Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định bãi bỏ các quân khu thành lập các Đạo quan binh. Mỗi Đạo quan binh do một tên Tƣ lệnh đứng đầu với đầy đủ quyền hành về quân sự cũng nhƣ dân sự. Bộ máy đạo quan binh tạo mọi điều kiện cho sĩ quan quân sự toàn quyền chủ động trong việc
25
đàn áp phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi Bắc Kỳ. Đồng thời bộ máy cai trị này cũng phản ánh chế độ quân quản gắt gao.
Ngày 20/8/1891, Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định thành lập 4 đạo quan binh ở Bắc Kỳ: Đạo quan binh 1 (Phả Lại), Đạo quan binh 2 (Lạng Sơn), Đạo quan binh 3 (Yên Bái), Đạo quan binh 4 (Sơn La). Địa bàn Lào Cai trực thuộc đạo quan binh 3 (Yên Bái).
Ngày 9/9/1891, Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định quy định địa bàn của
đạo quan binh 3 (Yên Bái) chia đạo quan binh 3 thành 3 tiểu quân khu:
- Tiểu quân khu Lào Cai thủ phủ đóng tại Lào Cai gồm toàn bộ Lào Cai (trừ châu Lục Yên đƣợc đƣa sang tiểu quân khu Yên Bái). Tiểu quân khu Lào Cai bao gồm các bốt ở khu vực Lào Cai, Bát Xát, Phong Thổ, Phố Lu, Bảo Hà.
- Tiểu quân khu Yên Bái thủ phủ đóng tại Yên Bái. Địa bàn gồm châu Lục Yên (từ Lào Cai chuyển sang) huyện Hạ Hòa (tỉnh Sơn Tây) và các huyện Cấm Khê, Yên Lập, Trấn Yên (tỉnh Hƣng Hóa).
- Tiểu quân khu Tuyên Quang, thủ phủ đặt tại Tuyên Quang. Với việc quy định lại địa bàn thì châu Lục Yên mới chuyển về Lào Cai đƣợc hơn 1 năm (6/6/1890) nay lại tách về Tiểu quân khu Yên Bái. Vùng đất Lào Cai thời điểm này chỉ gồm địa bàn châu Thủy Vĩ, châu Văn Bàn, châu Chiêu Tấn.
Ngày 21/1/1896, Toàn quyền Đông Dƣơng tách vùng Lào Cai thành 2 khu vực: Khu Lào Cai gồm địa bàn châu Thủy Vĩ và các xã Phong Thổ, Bình Lƣ của châu Chiêu Tấn; Khu Bảo Hà gồm châu Văn Bàn và tổng Dƣơng Quỳ cùng trại làng Nam, trại Thân Thuộc của tổng Phong Thổ.
Ngày 3/10/1896, đạo lỵ Đạo quan binh 4 chuyển về Lào Cai. Lào Cai vừa là tiểu đạo lỵ tiểu quân khu Lào Cai vừa là đạo lỵ đạo quan binh số 4. Đạo quan binh số 4 gồm 4 tiểu quân khu: Tiểu quân khu Lào Cai (gồm châu Thủy Vĩ, châu Chiêu Tấn); Tiểu quân khu Bảo Hà (gồm châu Văn Bàn và châu Lục Yên); Tiểu quân khu Yên Bái (huyện Trấn Yên); Tiểu quân khu Nghĩa Lộ (huyện Văn Chấn).
Ngày 7/11/1899, đạo quan binh số 4 đƣợc tổ chức lại, sát nhập 4 tiểu quân khu thành 2 tiểu quân khu chính là tiểu quân khu Yên Bái (Trấn Yên, Văn Chấn) và tiểu quân khu Lào Cai (Thủy Vĩ, Chiêu Tấn, Văn Bàn, Lục Yên).
Ngày 11/4/1900, tỉnh dân sự Yên Bái đƣợc thành lập. Địa bàn Lào Cai và hạt Bảo Hà trực thuộc đạo quan binh 4 Lào Cai. Nhƣng ngày 28/3/1905, toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định tách khu vực Bảo Hà và Dƣơng Quỳ từ đạo quan binh số 4 nhập về tỉnh Yên Bái. Nhƣ vậy đạo quan binh số 4 chỉ còn địa phận Lào Cai gồm
26
châu Thủy Vĩ và tổng Phong Thổ, Bình Lƣ của Châu Chiêu Tấn. Đạo quan binh số 4 Lào Cai có 3 trung tâm: Trung tâm Bắc Hà (tổng Ngọc Uyển); Trung tâm Cốc Lếu (tổng Lạc Sơn, tổng Gia Phú, xã Hƣớng Vinh); Trung tâm Phong Thổ (xã Phong Thổ, xã Bình Lƣ) [9, tr.97].
Nhƣ vậy, suốt từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai 30/3/1886 đến năm
1905, địa bàn Lào Cai luôn biến động, địa giới hành chính Lào Cai đã 7 lần thay
đổi. Riêng năm 1896, Lào Cai thay đổi địa giới hành chính 2 lần (ngày 21/1/1896
và ngày 3/10/1896). Sự thay đổi địa giới hành chính cũng nhƣ sự kéo dài của chế độ
quân quản phản ánh sự lúng túng của thực dân Pháp trƣớc phong trào đấu tranh
mạnh mẽ của đồng bào các dân tộc Lào Cai. Suốt 10 năm (1886 – 1896), thực dân
Pháp chỉ tập trung lo đối phó với các cuộc tập kích, nổi dậy của đồng bào các dân
tộc Lào Cai. Bình quân, mỗi năm có hàng chục đợt tập kích, chặn đánh quân Pháp.
Điển hình nhƣ trận tập kích ở Thác Tây (8/1886), ở Sa Pa (1/1887), ở Cốc Mỳ
(1/1888) ... Đặc biệt, đồng bào các dân tộc Lào Cai liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa
chống thực dân Pháp xâm lƣợc: Tháng 12/1888, đồng bào ngƣời Dao ở huyện Bảo
Thắng đã nổi dậy chống Pháp ở các xã Xuân Giao, Gia Phú và tiến đánh xuống Võ
Lao (Văn Bàn), uy hiếp cả một vùng rộng lớn thuộc hữu ngạn sông Hồng; Năm
1891, Pháp tấn công lên huyện Bắc Hà, nghĩa quân ngƣời Hmông Bắc Hà do Giàng
Chẩn Hùng lãnh đạo đã phối hợp với quân Cờ Đen phục kích đánh Pháp tại dốc
Trung Đô. Cuộc kháng chiến kéo dài đến năm 1896 (Khi Giàng Chẩn Hùng mất)
phong trào tạm thời lắng xuống [85, tr.76-77]... Trƣớc tình hình chiến sự ở Lào Cai
diễn ra quyết liệt, quân Pháp bị thƣơng và đau ốm khá nhiều, ngày 3/10/1896 thực
dân Pháp phải chuyển cả bộ chỉ huy đạo quan binh 4 lên Lào Cai. Mặc dù chiếm
đƣợc Lào Cai từ năm 1881 nhƣng đến đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp vẫn chƣa bình
định nổi Lào Cai. Do đó, thực dân Pháp vẫn phải duy trì chế độ quân quản kéo dài.
Những năm đầu thế kỷ 20, phong trào đấu tranh của ngƣời dân Lào Cai tạm
thời lắng xuống: năm 1901 có 4 vụ tấn công quân Pháp, năm 1902 có 4 vụ tấn công,
năm 1903 có 2 vụ và năm 1905 có 2 vụ… Theo tài liệu “Chuyên khảo Lào Cai”, từ
năm 1886 đến năm 1889, hai mục “sự kiện quân sự” “giặc giã” đƣợc ghi chép tỉ mỉ
nhƣng từ năm 1900 đến 1911, các chuyên mục về “xây dựng đƣờng xá”, “buôn
bán”, “trƣờng học”, “công trình”… đƣợc đề cập nhiều hơn. Quan hệ giữa Vân Nam
và Lào Cai giai đoạn này cũng khá nồng ấm băng cƣớp từ Vân Nam sang Lào Cai
bị tiễu trừ tận gốc. Tình hình Lào Cai, cũng nhƣ tình hình biên giới Lào Cai - Vân
27
Nam dần dần ổn định. Đây là một điều kiện để thực dân Pháp chuyển từ chế độ cai
trị quân sự sang chế độ dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai dân sự [9, tr.98].
Để chuyển Lào Cai thành tỉnh dân sự thì trƣớc tiên Lào Cai phải tƣơng đối ổn định, nhƣng đây chỉ là điều kiện thứ yếu. Điều kiện quan trọng hơn là vị trí vùng Lào Cai càng trở thành một địa phƣơng chiến lƣợc, có vai trò cửa ngõ tiến vào Trung Quốc của thực dân Pháp. Từ sau kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ nhất đƣợc khởi động, vị trí Lào Cai càng đƣợc đề cao. Tháng 12/1897, Hội đồng tối cao Đông Dƣơng đã đồng ý xây dựng tuyến đƣờng sắt từ Hải Phòng đi Hà Nội ngƣợc lên Lào Cai và xâm nhập vào Vân Nam Trung Quốc. Ngày 14/9/1898, Hội đồng tối cao Đông Dƣơng quyết định cho tuyến đƣờng Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai đi Vân Nam đƣợc là một trong những tuyến ƣu tiên đầu tƣ xây dựng. Nhƣ vậy, cùng với việc khởi công tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam, địa bàn Lào Cai càng trở lên quan trọng. Đầu năm 1899, đích thân Toàn quyền Đông Dƣơng Poule Dou mer đã đến Lào Cai và sang Vân Nam để thuyết minh tầm quan trọng của tuyến đƣờng sắt với nhà chức trách Trung Quốc. Từ năm 1901 đến ngày 1/2/1906, tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai đƣợc xây dựng và đƣa vào khai thác. Nhờ tuyến đƣờng sắt, Lào Cai đã nối liền với vùng đồng bằng Bắc Bộ và cửa biển Hải Phòng. Nhờ ở vị trí đầu cầu đƣợc khai thông bằng đƣờng sắt Lào Cai càng có điều kiện đƣa hàng hoá thâm nhập vào vùng Vân Nam rộng lớn. Nhƣ vậy, Lào Cai đã hội đủ 3 yếu tố thành lập tỉnh dân sự: Đƣờng sắt nối liền Lào Cai (thông qua vị trí đầu cầu Lào Cai) nối liền cả vùng Vân Nam rộng lớn với Bắc Bộ và cửa biển Hải Phòng; Tình hình Lào Cai ổn định; Quan hệ Lào Cai và Vân Nam hoà hợp, các toán phỉ, toán cƣớp xâm phạm vùng biên bị tiễu trừ, không còn tác yêu tác quái nhƣ những năm cuối thế kỷ XIX.
Bên cạnh các yếu tố này đến năm 1907 Lào Cai cũng đạt nhiều kết quả trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của tỉnh dân sự, xây dựng cơ sở thiết yếu của địa bàn tỉnh lỵ: Mùa xuân năm 1899, cầu Hồ Kiều nối liền Lào Cai với Hà Khẩu bắc qua sông Nậm Thi đƣợc xây dựng; Tháng 6/1900, trụ sở Đạo Quan binh, sau là dinh công sứ, đƣợc khánh thành; Đặc biệt ngày 22/2/1902, nghị định của Phủ Toàn quyền xây dựng trung tâm đô thị Lào Cai đƣợc ban hành càng đẩy nhanh tốc độ xây dựng; Hàng loạt các công trình dân sự khác đƣợc xây dựng nhƣ chợ Lào Cai (khánh thành ngày 5/3/1903), Quảng Trƣờng Lào Cai (tháng 10/1905), chợ Cốc Lếu (khánh thành ngày 26/11/1905)… Năm 1904, thực dân Pháp bƣớc đầu chú ý quy hoạch tổng thể trung tâm đô thị Lào Cai. Trung tâm này đƣợc mở rộng sang hữu ngạn
28
sông Hồng với khu Cốc Lếu và mở rộng xuống phía nam với khu Phố Mới. Với việc quy hoạch và xây dựng khu đô thị Lào Cai đã tạo tiền đề phát triển tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai sau này.
Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907)
Ngày 12/7/1907, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định bãi bỏ Đạo quan
binh 4 Lào Cai, chuyển Lào Cai sang chế độ dân sự để thành lập tỉnh Lào Cai. Ngày
12/7/1907 đƣợc lấy làm mốc thành lập tỉnh Lào Cai.
Giới thiệu về địa dƣ chí Tỉnh Lào Cai năm 1907: “Tỉnh Lào Cai (Đạo quan
binh 4) nằm ở phía Tây Bắc Bắc Kì, giới hạn ở toạ độ 22°15'-23° vĩ độ Bắc,
100°36'-102°40' kinh độ Đông. Địa giới của tỉnh nhƣ sau: phía Bắc giáp biên giới
Vân Nam, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp vùng Lai Châu và phía Đông
giáp huyện Vĩnh Tuy. Diện tích đo đƣợc là 580.000ha; diện tích đất canh tác:
19.580ha; diện tích đất có cây cối: 55.000ha, 132.500ha cây bụi và 372.920ha rừng.
Tỉnh Lào Cai có 3 đại lí, trụ sở đặt tại Cốc Lếu, Phong Thổ và Pa Kha. Tỉnh
không có đƣợc tính đồng nhất của một thành hệ tự nhiên song lại mở rộng ra 3
miền: phía Đông là lƣu vực sông Chảy, phía Tây là phụ lƣu của sông Đà Giang và ở
giữa là sông Hồng Hà.
Về phƣơng diện quản lí dân bản xứ, đạo quan binh 4 (hay còn gọi là tỉnh Lào
Cai) đƣợc chia làm 2 châu: châu Thuỷ Vỹ và châu Bảo Thắng.
Tất cả các dân tộc vùng cao đều sinh sống tại đây. Ngoài ra, ở đây, còn có
ngƣời Việt, ngƣời Hoa, ngƣời Thái trắng và đen, ngƣời Mán, ngƣời Mông (Mèo),
ngƣời Nhắng, ngƣời Dao, ngƣời U Ní, ngƣời Lào... Ngƣời Mông (Mèo) sống tại Đại
lí Pa Kha; ngƣời Nhắng ở lƣu vực sông Hồng Hà phía trên Lào Cai; ngƣời U Ní,
Dao và Phù Lá sống tại khu vực giáp biên. Ngƣời Lào sống tại lƣu vực sông Nậm
Mu, có thể họ đến từ sông Mã. Ngƣời Việt và ngƣời Hoa chỉ sống tại lƣu vực sông
Hồng Hà. Ngƣời Thái sống ở hầu khắp mọi nơi, tiếp đến là ngƣời Nùng, ngƣời
Mông (Mèo) và ngƣời Mán.
Dân cƣ nơi đây không giàu và theo đạo Phật. Tại khu vực này, phụ nữ là
ngƣời đảm đƣơng toàn bộ việc nhà và phần lớn việc đồng áng. Ở Phong Thổ, vai trò
của phụ nữ có vẻ ít hơn, họ bị coi là nô lệ đƣợc ngƣời ta mua về” [40].
Qua nghiên cứu về địa giới Lào Cai, có thể ngay sau (hoặc trƣớc khi) thành lập tỉnh dân sự Lào Cai chỉ có 2 đơn vị hành chính trực thuộc là châu Thuỷ Vĩ và châu Bảo Thắng. Châu Thuỷ Vĩ gồm toàn bộ phần đất nằm ở hữu ngạn sông Hồng, châu Bảo
29
Thắng là phần đất nằm ở tả ngạn sông Hồng. Lỵ sở châu Thuỷ Vĩ đóng ở Cốc Lếu, lỵ sở châu Bảo Thắng đóng ở Lào Cai. Hai trụ sở này nằm cách nhau gần 1km.
Năm 1924, Ngô Vi Liễn và các tác giả Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thƣ biên soạn công trình “Địa dƣ các tỉnh Bắc Kỳ” vẫn ghi 2 châu Thuỷ Vĩ, Bảo Thắng là đơn vị hành chính của tỉnh Lào Cai. Bản đồ Lào Cai minh hoạ vẫn ghi rõ ranh giới 2 châu (Thuỷ Vĩ ở hữu ngạn sông Hồng, còn Bảo Thắng ở tả ngạn sông Hồng). Nhƣng mục “tỉnh lỵ và các châu” các tác giả còn ghi có 4 Đại lý: “Việc chính trị ở Lào Kay cũng nhƣ ở các tỉnh khác. Tỉnh chia làm 2 châu: châu Thuỷ vĩ (xƣa thuộc Hƣng Hoá, ở hữu ngạn sông Hồng Hà) và châu Bảo Thắng ở tả ngạn. Các châu ấy lại chia làm xã, làm giáp. Những xã lắm khi thuộc ngay về các Đại lý. Có 4 Đại lý là Mƣờng Khƣơng, Pa Kha, Bát Xát, Phong Thổ” [55, tr.624].
Năm 1926, trong công trình “Các đơn vị hành chính ở Bắc Kỳ”, Ngô Vi Liễn viết Lào Cai có 7 đơn vị hành chính: Châu Bảo Thắng; Đại lý Mƣờng Khƣơng; Đại lý Pa Kha (Bắc Hà); Châu Thuỷ Vĩ; Đại lý Bát Xát; Đại Lý Phong Thổ; Khu Sa Pa. Ngày 15/12/1930, Công sứ Lào Cai có văn bản thống kê toàn bộ danh mục các đơn vị hành chính tỉnh Lào Cai. Bảng thống kê ghi rõ Lào Cai có 2 châu, 4 đại lý, 1 khu dân cƣ với 27 xã 2 phố, 679 làng, khu phố, thôn. Cụ thể: Châu Thuỷ Vĩ có 4 xã 83 thôn bản; Châu Bảo Thắng có 11 xã, khu phố với 38 thôn bản; Đại lý Bát xã có 3 xã, 32 thôn bản; Đại lý Mƣờng Khƣơng có 3 xã, 144 thôn bản; Đại lý Pa Kha có 3 xã, 1 phố với 151 thôn bản, phố; Đại lý Phong Thổ có 4 xã 194 thôn, bản; Khu Sa Pa gồm 1 phố 36 làng, bản.
Việc thành lập tỉnh Lào Cai thành lập ngày 12/7/1907 nhƣng phải đến năm
1930 mới ổn định các đơn vị hành chính.
Nhƣ vậy, để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Năm 1907, Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây, địa danh tỉnh Lào Cai đƣợc xác định trên bản đồ Việt Nam. 2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Về địa hình: Lào Cai có độ dốc lớn, phân bậc và bị chia cắt mạnh, đƣợc hình thành từ những dãy núi, khối u lớn, trong đó có hai dãy núi chính là Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi chạy song song với nhau theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Vùng thấp nhất có độ cao từ 70 - 80m so với mặt biển; cao nhất là dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ, có nhiều đỉnh núi cao: Phanxipăng cao 3.143m, Tả Giàng Phình cao 3.000m, Phú Luông cao 2.938m.
30
Địa hình thuộc khối nang kiến tạo mạnh, có độ chia cắt sâu. Phân bậc tƣơng đối rõ, có 7 bậc độ cao: 100 - 150m, 200 - 500m, 600 - 1000m, 1300 - 1400m, 1700 - 1800m, 2100 - 2200m, 2500 - 2900m; Trong đó bậc hai, ba chiếm 64,8% diện tích toàn tỉnh. Địa hình có độ dốc thay đổi lớn, từ thoải (3° - 8°), nghiêng (8° - 15°), dốc ít (15° - 25°), dốc nhiều (25° - 35°), trong đó phần lớn là địa hình nghiêng và dốc.
Về Sông ngòi: Do địa hình phân cách nên Lào Cai có mạng sông suối khá dày đặc, mật độ trung bình đạt 1km/1km2. Trữ lƣợng nƣớc mặt 9,3 tỷ m3, trữ lƣợng nƣớc ngầm 30 triệu m3. Lào Cai có tổng số 107 sông suối chạy qua địa phận của tỉnh thuộc 2 hệ thống sông chính: sông Hồng chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam, bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn cao trên 2.000m thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Sông có chiều dài chạy qua tỉnh Lào Cai là 140km, lƣu lƣợng nƣớc thay đổi lớn, mùa lũ gấp 42 lần mùa khô. Có nhiều phụ lƣu lớn nhƣ ngòi Phát, ngòi Bo, ngòi Đum, ngòi Nhù...
Sông Chảy chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua huyện Si Ma Cai, Bắc Hà, Bảo Yên, có chiều dài chảy qua địa phận Lào Cai là 120km. So với lƣu vực sông Hồng thì độ dốc lƣu vực sông Chảy nhỏ hơn nhiều, nhƣng hiểm trở hơn, lắm thác, nhiều ghềnh hơn. Đoạn sông Chảy từ Bảo Nhai đến Phố Ràng dài 41km có 41 thác, ghềnh lớn nhỏ. Vách bờ sông rất cao và dốc gây nhiều khó khăn cho giao thông đƣờng thuỷ. Sông có dạng lƣu vực dài, hẹp, độ uốn khúc quanh co và có các phụ lƣu lớn nhƣ ngòi Phong, ngòi Nghĩa Đô, ngòi Là, ngòi Phằng.
Do Lào Cai có hệ thống sông suối nhiều, nên ngay từ khá sớm thực dân Pháp cho xây dựng nhà máy điện (1902). Mục đích của thực dân Pháp nhằm phục vụ bộ máy cai trị và hoạt động khai thác tài nguyên Lào Cai, trong có có nguồn tài nguyên mỏ.
Về thổ nhưỡng, đất Lào Cai nằm trong hai lƣu vực sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, đƣợc hình thành bởi các loại hình: bồi tích ở các thung lũng giữa núi, trƣớc núi, thung lũng sông với chiều dày từ 0,3 - 1m. Sƣờn tích do phong hoá lớp mặt ở các sƣờn núi với chiều dày thƣờng 0,3 - 0,5m. Thành phần cơ giới của đất phụ thuộc vào phong hoá đá gốc, có dạng đất cát, đất thịt, đất sét thuộc loại nhẹ và trung bình. Đất đƣợc chia ra đất bằng (< 5°), đất dốc ít (< 15°), đất dốc (> 15°). Tuỳ theo từng loại đất mà có phƣơng thức canh tác khác nhau [87, tr.13].
Về khí hậu, Việt Nam là nƣớc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhƣng các tỉnh phía bắc trong đó có Lào Cai nằm sâu trong lục địa nên có hai vùng đặc trƣng: vùng thấp và vùng cao tƣơng ứng với nhiệt đới và ôn đới, tức là
31
chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mƣa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22°C - 24°C nên đã hình thành tính đa dạng sinh học, động thực vật phát triển, có thảm thực vật phong phú, trong đó có nhiều loài thuộc nguồn gen quý, hiếm đƣợc ghi trong sách đỏ thế giới. Do có điều kiện khí hậu phù hợp nên Lào Cai có nguồn dƣợc liệu phong phú với trên 400 loại thuốc, có nhiều loại có giá trị kinh tế cao nhƣ thảo quả, xuyên khung, đỗ trọng, hoàng liên ... vƣờn quốc gia Hoàng Liên có trên 2.000 loài thực vật, trên 4.000 loài chim thú, bò sát ... và nhiều loài động thực vật quý hiếm của Việt Nam.
Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản trên lãnh thổ Lào Cai phân thành 3 dải trùng hợp với các hệ thống đứt gãy sông Hồng, sông Chảy, Phanxipăng. Dải sông Hồng tập trung các khoáng sản chủ yếu là apatít, thạch anh, graphít (than chì), sắt, mi ca, caolin. Dải sông Chảy chủ yếu tập trung các khoáng sản đá vôi, chì, kẽm, vàng, đá quý, đá xây dựng, cát, cuội, sỏi... Dải Phanxipăng chủ yếu gồm các khoáng sản và biểu hiện quặng của xạ, đất hiếm, molipden, graphít, đồng, chì, kẽm. Đƣợc thiên nhiên ƣu đãi, trên vùng đất Lào Cai có nhiều loại khoáng sản. Điều này đƣợc ghi chép trong “Địa – dƣ các tỉnh Bắc Kỳ”: “Tỉnh Lào Kay có lắm mỏ: Ở phía bắc có mỏ đồng, phía tây có mỏ thiếc và chì lẫn bạc, ở Nhật Sơn, gần Lào Kay có mỏ vàng…”[54, tr.66].
Do có nhiều nguồn lợi về mỏ nên ngay từ rất sớm, các mỏ ở Lào Cai đƣợc triều đình cho khai thác. Thời Hậu Lê, một số mỏ ở hai châu Văn Bàn, Thủy Vĩ (địa phận Lào Cai ngày nay) đƣợc triều đình cho lĩnh trƣng khai thác, cụ thể: Đầu thế kỷ XVI, mỏ vàng ở Cam Đƣờng châu Thuỷ Vì đƣợc khai thác; Thế kỷ XVII, khai thác bạc ở động Ngọc Uyển (Bắc Hà), chì và diêm tiêu ở Cam Đƣờng, mỏ lƣu hoàng ở Văn Bàn. Thời nhà Nguyễn, nhiều mỏ đƣợc khai thác, cụ thể: mỏ đồng Trình Lạn ở Bát Xát (mỏ đồng lớn thứ hai toàn quốc, sau mỏ Tụ Long), mỏ đồng Phong Dụ (Văn Bàn); mỏ vàng (Cam Đƣờng); mỏ bạc (Bát Xát); mỏ chì (Cam Đƣờng); mỏ sắt lƣu hoàng Khánh Yên, Bảo Hà (Văn Bàn); mỏ diêm tiêu (Bát Xát, Cam Đƣờng, Văn Bàn) ...[87, tr.32-33].
Sau khi đánh chiếm Lào Cai, chính quyền thực dân cho tìm kiếm, thăm dò, điều tra nguồn tài nguyên mỏ Lào Cai. Một số mỏ đã đƣợc các triều đại phong kiến khai thác trƣớc đây nay đƣợc điều tra khai thác trở lại, nhƣ mỏ vàng, đồng… Ngoài ra, chính quyền thực dân còn phát hiện ra những mỏ mới mà nhu cầu thị trƣờng thế giới đang cần, nhƣ mỏ than, sắt, than chì, apatite…
Qua việc tìm kiếm, thăm dò và đánh giá trữ lƣợng mỏ trên vùng đất Lào Cai
32
đã phát hiện đƣợc 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản khác nhau nhƣ: than, graphít (than chì), apatít, sắt, đồng, vàng…Trong đó, nhiều mỏ có trữ lƣợng lớn, giá trị kinh tế cao. Một số mỏ chất lƣợng thuộc loại quy mô lớn nhất nƣớc là khu vực mỏ apatite Cam Đƣờng với trữ lƣợng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa trữ lƣợng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lƣợng 53 triệu tấn…[87, tr.13-14].
Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng đã tạo ra cơ hội cho Lào Cai trong phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp và công nghiệp. Đặc biệt, do lịch sử phát triển địa chất, Lào Cai nằm ở phạm vi tiếp xúc với các đới kiến tạo nên giàu khoáng sản. Vì vậy, khi cai trị ở Lào Cai, chính quyền thực dân cho tìm kiếm, thăm dò, nghiên cứu các mỏ nơi đây. Nhiều mỏ đƣợc thực dân Pháp cho tiến hành khai thác, nhƣ mỏ than, vàng, đồng và đặc biệt là mỏ graphít (than chì), apatitle... 2.1.3. Dân cư và tình hình kinh tế - xã hội 2.1.3.1. Dân cư
Thời thuộc Pháp, điều đặc biệt dễ nhận thấy ở Bắc Kỳ nói chung và Trung du miền núi Bắc Kỳ nói riêng, Lào Cai là tỉnh có diện tích lớn thứ 6 trong tổng số các tỉnh Bắc Kỳ, đứng sau Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang và Lạng Sơn. Nhƣng dân số Lào Cai lại thấp nhất trong tất cả các tỉnh ở Bắc Kỳ.
Ngày 6/6/1890, Kinh lƣợc xứ Bắc Kỳ ra nghị định tách châu Lục Yên khỏi tiểu quân khu Yên Bái để nhập vào tiểu quân khu Lào Cai. Lúc này, tiểu quân khu Lào Cai năm 1890 có diện tích là 10.100 km2 bao gồm 4 châu, 13 tổng 56 làng với 34.800 ngƣời và 1395 xuất đinh.
Năm 1892, tổng dân số của Lào Cai khoảng 40.000 ngƣời, mật độ dân cƣ vô cùng thấp, chỉ 4 ngƣời/km2. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng dân số và mật độ dân cƣ của Lào Cai thấp là do địa hình và tiềm năng phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, là do tình trạng chiến sự, xung đột diễn ra liên miên ở Lào Cai, đặc biệt là khu vực biên giới với Trung Quốc [170, tr.60].
Cùng với sự thay đổi về mặt địa giới, số lƣợng dân cƣ Lào Cai ở Lào Cai cũng có sự thay đổi. Ngày 01/01/1907, theo kết quả điều tra dân số ở đô thị Lào Cai, đại lí Cốc Lếu, Phong Thổ và Pa Kha thì dân số Lào Cai khoảng 21.801 ngƣời. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là con số tƣơng đối. Vì theo nhận định của chính quyền thực dân: thực tế, khó có thể thống kê dân số một cách chính xác vì rất nhiều ngƣời dân tìm cách trốn thuế và họ sống ẩn dật tại những khu vực hầu nhƣ ít ngƣời biết tới. Dân số Lào Cai năm 1907 của các dân tộc Việt, Hoa, Thái trắng và đen, Mán, Mông (Mèo), Nhắng, Dao, U Ní, Lào... và cả một số ngƣời Âu, ngƣời Nhật đến làm ăn đƣợc trình bày dƣới bảng biểu sau:
33
Bảng 2.1. Dân số Lào Cai ngày 01 tháng 01 năm 1907
Thành phố Lào Cai Đại lí Cốc Lếu Đại lí Phong Thổ Đại lí Pa Kha
Ngƣời Âu: 73 Ngƣời Việt: 132 Ngƣời Nhắng: 420 Ngƣời Thổ (Tày) và Nhắng: 1.530
Ngƣời Việt: 1.500 Ngƣời Mông: 1.100 Ngƣời Mán: 636 Ngƣời Thổ và Nhắng: 3.247
Ngƣời Hoa: 460 Ngƣời Mán: 3.789 Ngƣời Hoa: 47 Ngƣời Mông: 3.204
Ngƣời Nhật: 16 Ngƣời Mông: 2.342 Ngƣời U Ní: 522 Ngƣời Hoa: 110
Ngƣời Hoa: 494 Ngƣời Thái: 1.331 Ngƣời Âu: 3
Ngƣời lai: 28 Ngƣời Dao: 680
Ngƣời U Ní: 100 Ngƣời Lào: 37
Ngƣời Thái: 985 Ngƣời Mán Làn Tẻn: 503
Ngƣời Nùng: 1.834
[40]
Năm 1921, tổng dân số của Lào Cai là 36.000 dân trong tổng số 6,9 triệu ngƣời của toàn Bắc Kỳ. Mật độ dân cƣ trung bình của Lào Cai năm 1921 cũng thấp nhất so với các tỉnh ở Bắc Kỳ, chỉ có 6 ngƣời/km2[176, tr.33]. Dân cƣ thƣa thớt dẫn tới thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lƣợng lao động cho khai thác, phát triển kinh tế, trong đó có khai mỏ ở Lào Cai.
Năm 1924, về diện tích, dân số, dân tộc tỉnh Lào Cai đƣợc công bố qua tác phẩm “Địa dƣ các tỉnh Bắc Kỳ”. Theo tác giả Ngô Vi Liễn: Lào Cai có diện tích 1.284.722 mẫu ta (4.625km2), dân cƣ tổng cộng đƣợc 38.000 ngƣời (đông nhất là ngƣời Mèo 11.100 ngƣời, ngƣời Mán có 7.500 ngƣời, ngƣời Thổ có 6.340 ngƣời, ngƣời Nhắng có 5.300 ngƣời, ngƣời Nùng có 3.000 ngƣời, ngƣời Việt có 3.750 ngƣời…)[54, tr.65-66].
Trong nghiên cứu của Henri Yves về “Kinh tế nông nghiệp Đông Dƣơng” (Économie agricole de l'Indochine). Tác giả đã cung cấp số liệu về dân số, diện tích, mật độ dân số của 29 tỉnh Bắc Kỳ năm 1930. Trong đó, Lào Cai năm 1930 cũng chỉ có 45 000 dân, mật độ chỉ 7 ngƣời/km2[180, tr.23].
34
Từ bảng số liệu trên cho thấy, tỉnh Nam Định có dân số đông nhất (1.011.000 ngƣời) và có mật độ dân số cao nhất trong 29 tỉnh Bắc Kỳ (676 ngƣời/Km2). Còn Lào Cai là 1 trong 3 tỉnh có mật độ dân số thấp nhất, cùng với Lai Châu (dân số 66.000 ngƣời; mật độ dân số 3 ngƣời/Km2) và Hà Giang (dân số 61.000 ngƣời; mật độ dân số 5 ngƣời/Km2). Dân số, diện tích, mật độ dân cƣ của Nam Định, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang đƣợc tác giả tổng hợp trong bảng biểu sau:
Bảng 2.2. Dân số, diện tích, mật độ dân cƣ của Nam Định, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang năm 1930
ROVINCES (Tỉnh) POPULATION (Dân số tổng) AU KMQ (Mật độ dân/km2)
Nam Định 1.011.000 SUPERFICIE TOTALE EN KMQ (Diện tích tổng km2) 1.494 676
Lào Cai 45.000 5.850 7
Hà Giang 61.000 10.769 5
Lai Châu 66.000 20.116 3
[180, tr.23].
Về dân số Lào Cai năm 1930, tác giả Trần Hữu Sơn cung cấp số liệu thống
kê ngày 1/1/1930: Lào Cai có 45.513 ngƣời, có 24 ngành nhóm dân tộc [9, tr.103].
So sánh hai số liệu dân cƣ Lào Cai năm 1930 ở trên, chúng ta thấy số liệu dân số có độ chênh rất nhỏ (513 ngƣời) và có thể chấp nhận đƣợc trong bối cảnh điều tra dân số thời điểm lúc bấy giờ. Số liệu này cũng là tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về dân số Lào Cai trƣớc năm 1945.
Nhƣ vậy, những điều tra về dân cƣ Lào Cai qua các năm cho thấy, Lào Cai có diện tích đất rộng lớn nhƣng dân số tƣơng đối thấp, mật độ dân cƣ rất thấp so với các tỉnh Bắc Kỳ. Đây cũng là bài toán khó về lực lƣợng nhân công cho chính quyền thực dân khi thực hiện hoạt động khai khoáng ở Lào Cai. 2.1.3.2. Kinh tế
Về nông nghiệp, nền kinh tế truyền thống của đồng bào dân tộc Lào Cai trƣớc năm 1945 chủ yếu là kinh tế nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, một số nghề phụ mang tính chất gia đình nhƣng còn lạc hậu, mang nặng tính tự cung, tự cấp).
Ở vùng thấp, ngƣời Tày, Thái, Giáy, Nùng khai khẩn các thung lũng ven sông, ven suối nên hoạt động kinh tế chính của họ là trồng lúa nƣớc. Ngoài ra họ còn trồng các loại cây hoa màu khác (lúa mì, mạch ba góc, cây lấy củ, lấy hạt...)
35
Ở rẻo giữa, ngƣời Kháng, La Ha, Phủ Lá ... tạo nên văn hoá nƣơng rẫy với nhiều tri thức bản địa phù hợp với kinh tế đối rừng. Họ trồng các loại cây công nghiệp (lai trầu, sở ...), các loại cây ăn quả (mận, đào, lê, mít, trám trắng ...) và các loại cây tre, trúc, nứa, mai ... Trong quá trình sản xuất, ngƣời dân tích lũy đƣợc nhiều kinh nghiệm trong việc chọn giống, kinh nghiệm cày ải, làm cỏ, bón phân qua từng thời kỳ phát triển của cây trồng, nên năng suất mùa vụ thƣờng khá cao.
Ở vùng cao, ngƣời Mông, Hà Nhì, Dao khai khẩn các sƣờn núi thành ruộng bậc thang nhƣ những bậc thang bắc lên trời hùng vĩ. Ngoài ra, ngƣời dân còn khai phá đất đồi để làm nƣơng rẫy, gieo trồng lúa nƣơng, ngô, khoai, sắn, kế, vừng, lạc, bầu, bí, các loại đỗ ... Tuy nhiên, do có độ dốc lớn, đất canh tác vùng này chóng bạc màu, năng suất thấp, ít điều kiện thâm canh tăng vụ. Vì thế, tình trạng “du canh, du cƣ” còn diễn ra phổ biến, đời sống kinh tế của ngƣời dân gặp rất nhiều khó khăn.
Chăn nuôi cũng là một ngành kinh tế quan trọng ở Lào Cai. Vật nuôi chủ yếu là trâu, bò. Đây là một tài sản quý của ngƣời dân - nguồn sức kéo chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trâu đƣợc nuôi nhiều ở vùng thấp, thích hợp với việc cày cấy ở đồng lầy. Bò có nhiều thế mạnh cày ruộng khô, nƣơng rẫy nên đƣợc nuôi nhiều ở vùng cao. Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Lào Cai còn nuôi các loại gia súc (ngựa, dê, lợn…), gia cầm (gà, vịt…). Sản phẩm từ ngành nghề chăn nuôi kể trên phản ánh khá rõ nét nền kinh tế truyền thống với phƣơng thức tự cung, tự cấp là chủ yếu của cƣ dân Lào Cai trong lịch sử.
Về nghề thủ công, từ xa xƣa ở Lào Cai nghề thủ công luyện kim đã có bƣớc phát triển, với những sản phẩm trống đồng, các vũ khí công cụ bằng đồng phát triển khá mạnh, mang tính truyền thống và có tính bản địa liên tục. Nhiều hiện vật văn hóa Đông Sơn đƣợc tìm thấy trên vùng đất Lào Cai: phát hiện 17 di tích văn hóa Đông Sơn với hàng trăm hiện vật đồ đồng có giá trị. Riêng trống đồng phát hiện đƣợc 31 chiếc, trong đó có loại hình trống đồng cổ nhất [5, tr.18].
Bên cạnh nghề luyện kim, Lào Cai còn xuất hiện một số cơ sở sản xuất gạch, ngói với quy mô khá lớn. Điển hình là xƣởng sản xuất gạch ngói ống của thành Nghị Lang (Phố Ràng) của các Chúa Bầu tồn tại suốt thế kỷ XVI, XVII. Các sản phẩm ở đây không chỉ phục vụ xây đình, chùa, thành quách, nhà cửa trong thành mà còn vận chuyển dọc sông Chảy xây các công trình ở Trung Đô, Bảo Nhai (Bắc Hà), xây thành Việt Tĩnh (ở Đại Đồng - Yên Bình) [87, tr.34-35].
Nghề thủ công thời kỳ này phong phú nhƣng chƣa xuất hiện các làng nghề thủ công nhƣ ở miền xuôi. Quy mô tổ chức ngành nghề đều bó hẹp trong phạm vi
36
gia đình. Sản phẩm làm ra đƣợc đem trao đổi với số lƣợng không nhiều, nhƣng chất lƣợng sản phẩm thủ công của đồng bào các dân tộc ít ngƣời ở Lào Cai đã đạt đến mức độ khá tinh xảo, có giá trị cao. Nghề đan lát rất phổ biến ở hầu hết các dân tộc, nhất là của dân tộc Hà Nhì, Kháng, La Ha có giá trị cao. Các sản phẩm nhƣ mâm, hòm đựng quần áo, các gùi lúa... của ngƣời Kháng, La Ha nổi tiếng khắp vùng Tây Bắc. Nghề dệt xuất hiện ở hầu hết các vùng, các dân tộc. Ngƣời Tày - Thái có sản phẩm dệt từ vải bông, tạo ra nhiều sản phẩm đẹp nhƣ vải kẻ nhiều màu, vải thổ cẩm có nhiều hoa văn... Ngƣời Mông ngay từ thế kỷ XVIII đã nổi tiếng với loại vải sợi lanh nhuộm chàm, in sáp ong đƣợc gọi là miêu bố. Loại vải lanh này đƣợc quan lại phong kiến chọn mua dâng triều đình, làm quà để Vua ban thƣởng cho ngƣời có công, cho sứ thần. Kỹ thuật trang trí trên y phục đạt trình độ cao. Phụ nữ Mông, Dao thêu ở mặt trái của vải nhƣng mẫu lại nổi ở mặt phải. Phụ nữ Mông kết hợp cả ba biện pháp kỹ thuật thêu, vẽ sáp ong, chắp vải để tạo nên hoa văn trang trí. Phụ nữ Xá Phó kết hợp thêu với ghép hạt cƣờm tạo hoa văn hình học khổ to đẹp ở áo.
Nghề rèn đúc nổi tiếng là của đồng bào Mông ở Lào Cai. Sản phẩm phổ biến của nghề rèn đúc của ngƣời Mông là lƣỡi cày to khoẻ, dao sắc, lƣỡi cuốc bƣớm cắt đƣợc rễ cây, cỏ tranh. Dao của ngƣời Mông đƣợc coi nhƣ một công cụ quý, nó vừa sắc vừa bền hơn bất cứ con dao nào của các dân tộc khác trong vùng. Ngoài ra, ngƣời Mông vừa rèn đƣợc nòng súng vừa khoan nòng súng bằng phƣơng pháp khoan nƣớc. Nghề rèn của ngƣời Dao, ngƣời Nùng và ngƣời Hà Nhì đen (Ý Tý - Bát Xát) có nhiều sản phẩm có giá trị.
Nghề mộc ở Lào Cai cũng đƣợc coi trọng. Ngƣời Mông, ngƣời Dao làm thùng đựng nƣớc, nhuộm chàm, làm chậu, muôi, thìa bằng gỗ... Đặc biệt, đồng bào Kháng ở ven sông Nậm Mu còn giỏi làm thuyền, cả thuyền nhỏ chở ngƣời, cả thuyền chở hàng... Trong nghề mộc đồng bào không sử dụng các loại đinh, chủ yếu dùng kỹ thuật ghép mộng.
Ở vùng biên giới Mƣờng Khƣơng, ngƣời Pa Dí, ngƣời Nùng, ngƣời Bố Y cũng rất giỏi làm đồ trang sức bằng bạc. Khác với các nghề thủ công khác, nghề làm bạc mang tính chất gia truyền. Sản phẩm đồ trang sức là vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn... Các trang sức này đƣợc đúc với nhiều kiểu dáng khác nhau và đƣợc chạm trổ hoa văn khá công phu, tinh xảo. Lào Cai còn các nghề thủ công khác nhƣ nghề làm giấy của ngƣời Dao, nghề làm hƣơng của ngƣời Dao đỏ, nghề làm tranh cắt giấy trong lễ tết của ngƣời Nùng, ngƣời Mông, nghề làm ngói của ngƣời Nùng, nghề đục đá của ngƣời Tày, Mông...
37
Điểm nổi bật trong các nghề thủ công thời phong kiến của đồng bào các dân tộc ở Lào Cai là mang đậm dấu ấn tộc ngƣời. Cũng là nghề dệt nhƣng khung cửi dệt của ngƣời Xá Phó khác ngƣời Dao, khung dệt của ngƣời Mông khác ngƣời Tày. Sản phẩm đan lát của ngƣời Kháng khác ngƣời Khơ Mú kiểu gùi của ngƣời Kháng miệng lại loe nhỏ, thân cao, còn chiếc gùi của Ngƣời Khơ Mú lại xoè ra nhƣ bông hoa gạo. Ngƣời Tày ở Văn Bàn cũng là những cƣ dân dệt thổ cẩm giỏi. Tại các làng Tày, Thái, hầu nhƣ mỗi gia đình đều có khung dệt nhƣng đồng bào chị dệt vải vào thời gian nông nhàn hoặc buổi tối.
Về buôn bán, ngay từ rất sớm Lào Cai đã trở thành trung tâm giao thƣơng buôn bán sầm uất. Thời phong kiến Lào Cai trở thành một trong những trung tâm thƣơng mại lớn ở vùng Thƣợng du Bắc Kì. Đến thời Pháp thuộc, hoạt động giao thƣơng buôn bán ở Lào Cai diễn ra tấp nập trên tuyến đƣờng thủy, đƣờng sắt.
Trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, hoạt động buôn bán ở Lào Cai chủ yếu nằm trong tay Hoa kiều và ngƣời Kinh ở thị xã Lào Cai. Trên tuyến biên giới lƣu vực sông Hồng, các triều đại phong kiến Việt Nam xây dựng một số trung tâm buôn bán lớn. Thời nhà Lý đến thời Lê ở Việt Nam chú trọng phát triển các chợ đƣờng biên, đồng thời dành riêng một số khu vực trên sông Hồng xây dựng thành trung tâm thƣơng mại trong đó có vùng Bảo Thắng (Lào Cai). Đến thời Nguyễn, chợ ở các vùng biên rất phát triển: các chợ Bảo Thắng (Lào Cai), chợ Bách Lẫm (Yên Bái) ... đều trở thành trung tâm buôn bán khá sầm uất. Nhiều thuyền buôn tấp nập neo đậu ở bến sông. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, gần các chợ này còn hình thành các khu buôn bán, xƣởng sản xuất tàu, thuyền. Cửa quan Bảo Thắng giữa thế kỷ XVIII thu thuế buôn muối đƣợc 180 hốt bạc. Cuối thế kỷ XVIII thu 1000 lạng bạc thuế muối. Hàng tơ lụa, thuốc nổ ... cũng nhập về Việt Nam qua vùng biên giới Lào Cai. Trao đổi kinh tế Vân Nam - Lào Cai - Hà Nội qua lƣu vực sông Hồng phát triển khá mạnh. Năm Gia Long thứ XVIII (1819), các cửa quan trên dọc sông Hồng đều có mức thu thuế cao nhất toàn quốc. Cửa quan Bảo Thắng thu 43.000 quan (đứng thứ 3 toàn quốc) [84, tr.53]. Đến giữa thế kỷ XIX, đƣờng giao thông từ Côn Minh đến Mông Tự - Mạn Hảo (đƣờng ngựa) và từ Mạn Hảo qua Lào Cai về Hà Nội (đƣờng thủy), trở thành tuyến đƣờng quan trọng trao đổi buôn bán giữa Vân Nam và Bắc Kì Việt Nam. Mỗi năm trên tuyến sông Hồng có khoảng 1500 đến 2000 thuyền buôn vận chuyển hàng hoá ngƣợc xuôi.
Khi thực dân Pháp cai trị Việt Nam, bƣớc đầu chính quyền thực dân đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng trên tuyến giao thông huyết mạch này. Những năm 1886
38
đến 1890, ngƣời Pháp chi hàng vạn Frăng nạo vét dòng sông Hồng, phá bỏ các dải đá ngầm. Năm 1899, Mông Tự thành lập hải quan và lập chi nhánh hải quan tại bến thuyền lớn Mạn Hảo… Nhờ vậy, vận chuyển hàng hoá qua tuyến Mông Tự - Mạn Hảo - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Hƣơng Cảng trở thành con đƣờng huyết mạch. Trao đổi buôn bán qua tuyến sông Hồng từ năm 1890 đến năm 1910 là giai đoạn phát triển mạnh nhất.
Bên cạnh tuyến đƣờng thủy, còn hình thành một hệ thống đƣờng biên giới nhƣ đƣờng từ Lào Cai ngƣợc sông Nậm Thi đến Nam Khê lên phủ Khai Hoá. Hoặc từ Lào Cai đi Mƣờng Khƣơng - Pha Long đến Mã Quan.
Nhờ mở cửa, trao đổi buôn bán Việt - Trung phát triển đã nhanh chóng hình thành các trung tâm buôn bán sầm uất. Trong đó, Lào Cai trở thành trung tâm buôn bán phía Tây Bắc của Việt Nam. Lào Cai vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XIX đã là một khu phố khá sầm uất, đến năm 1904, đô thị Lào Cai đã đƣợc quy hoạch mở rộng gấp 5 lần. Trung tâm đô thị không chỉ bó hẹp trong thành cổ mà còn phát triển mạnh sang hữu ngạn sông Hồng (khu vực Cốc Lếu) và phía Nam (khu vực Phố Mới). Năm 1886, dân số chỉ vài trăm ngƣời, năm 1907 tăng lên gần 2000 ngƣời. Đô thị Lào Cai thực sự trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của toàn tỉnh Lào Cai [84, tr.55].
Nhằm tăng cƣờng khai thác Bắc Kỳ (Việt Nam), vơ vét tài nguyên khoáng sản của Vân Nam (Trung Quốc) và phục vụ các mục đích chính trị, quân sự, từ cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam (đƣờng sắt Điền - Việt). Ngày 16/02/1902, tuyến đƣờng sắt Điền - Việt thông xe, hàng hoá đƣợc vận chuyển theo đƣờng sắt từ cửa biển Hải Phòng qua Lào Cai đến Côn Minh chỉ mất ba ngày rƣỡi. Năm 1910, sau khi đƣờng sắt Điền - Việt đƣợc thông xe toàn tuyến, hàng hóa đƣợc vận chuyển tăng đột biến. Đƣờng sắt Điền – Việt trở thành tuyến đƣờng vận chuyển hàng hóa nhiều nhất của ngƣời Pháp ở Đông Dƣơng: “Năm 1934, tuyến đƣờng đã vận chuyển 263.397 tấn hàng hoá. Năm 1938, tuyến đƣờng đã vận chuyển tăng nhanh lên 378.626 tấn hàng hoá. Trên tuyến đƣờng sắt này, sự trao đổi hàng hoá diễn ra mạnh mẽ. Năm 1938, hàng xuất khẩu từ Hải Phòng vận chuyển qua Lào Cai đến Côn Minh là 51.670 tấn hàng hoá, còn hàng từ Côn Minh qua Lào Cai đến Hải Phòng là 15.518 tấn hàng hóa”[84, tr.57].
Trao đổi hàng hoá giữa Vân Nam - Lào Cao và các tỉnh Việt Nam phát triển mạnh cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển các khu công nghiệp, hình thành các nhà máy, xƣơng sản xuất ở nhiều vùng, trong đó có Lào Cai.
39
Như vậy, thời xa xƣa cƣ dân Lào Cai sống chủ yếu bằng nghề nông truyền thống. Nghề thủ công với nhiều ngành nghề đặc trƣng của các tộc ngƣời có bƣớc phát triển. Sản phẩm làm ra trong nông nghiệp và thủ công nghiệp góp phần quan trọng trong thúc đẩy giao thƣơng buôn bán ở Lào Cai phát triển. Do vậy, Lào Cai sớm trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng của vùng Tây Bắc Việt Nam. 2.1.3.3. Văn hóa - xã hội
Năm 1930, dân số Lào Cai có khoảng 45.000 ngƣời với 24 ngành nhóm dân tộc. Do có đông dân tộc anh em cùng sinh sống đã tạo nên nét nổi bật trong văn hóa các dân tộc Lào Cai là văn hóa đa dân tộc, giàu bản sắc. Ở vùng thấp, ngƣời Tày, Thái, Giáy, Nùng khai khẩn các thung lũng ven sông suối, sáng tạo truyền thống văn hoá lúa nƣớc. Ở rẻo giữa, ngƣời Kháng, La Ha, Phù Lá ... tạo nên văn hoá nƣơng rẫy với nhiều trị thức bản địa phù hợp với kinh tế đối rừng. Ở vùng cao, ngƣời Mông, Hà Nhì, Dao khai khẩn các sƣờn núi thành ruộng bậc thang nhƣ những bậc thang bắc lên trời hùng vĩ. Tính đa dạng, phong phú của văn hoá thể hiện cả ở văn hoá vật thể và phi vật thể.
Riêng về trang phục có 34 kiểu loại với sắc màu, chất liệu khác nhau. Lào Cai có gần 100 điệu múa. Đặc biệt, kho tàng lễ hội ở Lào Cai rất đặc sắc, loại hình lễ hội phong phú. Có hội cầu mùa, hội gắn với tín ngƣỡng thờ thần mặt trời, thần nƣớc, phồn thực, bảo vệ rừng. Có hội có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử chống ngoại xâm, đề cao bản sắc văn hoá ngƣời Việt cổ. Quy mô các lễ hội cũng đa dạng. Thời gian lễ hội cũng trải dài cả 4 mùa xuân, hạ, thu, đông.
Các dân tộc Lào Cai đã sáng tạo, lƣu giữ hàng trăm di tích lịch sử văn hoá. Nổi bật là các di tích về khu chạm khắc đá cổ với các hình khác về bản đồ, chữ viết, hình ngƣời có niên đại cách ngày nay hàng nghìn năm ở thung lũng Mƣờng Hoa (Sa Pa). Di tích thờ ông Hoàng Bảy, di tích Đền Thƣợng – thờ Quốc công tiết chế Trần Hƣng Đạo. Đặc biệt Lào Cai còn có hệ thống các hang động kỳ ảo trở thành các danh thắng tuyệt đẹp nhƣ động Thủy Tiên (Bát Xát), động Tả Phời (Cam Đƣờng), hang Tiên - Trung Đô (Bắc Hà), động Xuân Quang (Bảo Thắng) ... Thiên nhiên Lào Cai cũng tạo nên các thắng cảnh đẹp nhƣ khu Hàm Rồng - một "tiểu Thạch Lâm” ở Sa Pa có bãi đá cổ hàng vạn năm với hàng trăm phiến đá muôn hình muôn vẻ, hoặc đỉnh Phan Xi Păng hùng vĩ – nóc nhà của Tổ quốc [8, tr.8-10].
Sinh sống ở vùng núi cao phải đối mặt thƣờng xuyên với thiên nhiên khắc
nghiệt, cũng nhƣ với giặc giã, cƣớp bóc, áp bức. Để chế ngự thiên nhiên, chống giặc
ngoại xâm, trộm cƣớp, các dân tộc đã ở thành các làng, bản, khu phố. Khi Lào Cai
40
hình thành nơi buôn bán, các dân tộc đều có truyền thống đoàn kết, giao lƣu văn
hoá để phát triển. Do vậy, văn hoá dân gian của các dân tộc ở Lào Cai khá phong
phú, độc đáo bao gồm các loại hình dân ca: hát ru, đồng dao, giao duyên, các bài ca
trong lễ cƣới, lễ tang ... Hệ thống lễ hội trong các dân tộc rất phong phú, nhƣ: Hội
mùa xuân, hội xuống đồng, hội mừng đƣợc mùa...đã tạo nên truyền thống văn hoá
của nhân dân các dân tộc, góp phần làm phong phú kho tàng văn hoá Việt Nam.
Bên cạnh tín ngƣỡng cổ truyền, Lào Cai xuất hiện sự du nhập đạo Thiên
chúa giáo. Năm 1912, thực dân Pháp xây dựng nhà thờ Cốc Lếu. Số dân theo đạo
lúc đầu là ở nội thị, sau phát triển đến các họ Soi Mãn, An Lạc, Cánh Đông... Giáo
dân ở Lào Cai hầu hết là những ngƣời lao động chân chính, có tinh thần yêu nƣớc
nên luôn hƣớng về cách mạng mong muốn một cuộc đổi đời thật sự [6, tr.22].
Khi thực dân Pháp xâm lƣợc và cai trị Lào Cai, chúng thực hiện chính
sách “ngu dân nô dịch”. Sau 14 năm chiếm đóng Lào Cai, thực dân Pháp chỉ mở
hai lớp dạy phiên dịch: lớp ở Bắc Hà có 14 học viên, lớp ở thị xã Lào Cai có 16
học viên. Năm 1933, toàn tỉnh Lào Cai chỉ có 4 trƣờng tiểu học bán cấp với 142
học sinh là con em tầng lớp trên theo học. Đầu thập niên 1940, Lào Cai có 6
trƣờng bán cấp, tổng số khoảng 200 học sinh cũng chủ yếu là con em các quan
lại, chức dịch trong bộ máy cai trị ở địa phƣơng. Con em nông dân hầu nhƣ
không đƣợc cắp sách đến trƣờng [85, tr.83]. Vì vậy, đến năm 1945 tỷ lệ ngƣời mù
chữ ở Lào Cai chiếm 95% dân số.
Nội dung giáo dục mang nặng tính nô dịch, học sinh không đƣợc học tiếng
mẹ đẻ, không coi tiếng Việt là ngôn ngữ chính mà học tiếng Pháp, văn hoá Pháp là
chủ yếu. Mục đích giáo dục là để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và tiên chức nhỏ
phục vụ bộ máy cai trị chứ không phải là để nâng cao dân trí.
Ngoài ra, thực dân Pháp đã đƣa các tệ nạn ở phƣơng Tây du nhập vào Lào
Cai, hậu quả là các tệ nạn xã hội phát triển. Nạn nghiện hút thuốc phiện, cờ bạc,
rƣợu chè và mê tín dị đoan tràn lan khắp mọi nơi đã làm cho tình hình trật tự trị an
xã hội mất ổn định.
Chính sách cai trị của chính quyền thực dân đã làm phân hóa xã hội Lào Cai,
hình thành những giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tuy vậy, sự phân hóa trong xã hội
Lào Cai vẫn còn những nét đặc thù của một xã hội miền núi. Các giai cấp ở Lào Cai
trƣớc năm 1945, gồm: Giai cấp địa chủ, phong kiến; Giai cấp nông dân; Giai cấp
tiểu tƣ sản; Giai cấp tƣ sản; Giai cấp công nhân.
41
2.2. Hoạt động khai mỏ ở Lào Cai thời phong kiến 2.2.1. Thời Hậu Lê
Thời phong kiến Lào Cai là đất phên dậu, dân cƣ không tập trung nên chƣa có điều kiện khai mỏ, phát triển tiểu thủ công nghiệp. Thời Hậu Lê, chính quyền phong kiến bƣớc đầu cho khai thác một số mỏ ở hai châu Văn Bàn và Thuỷ Vĩ. Đầu thế kỷ XVI, ở Lào Cai có 7 mỏ khoáng sản đƣợc tổ chức khai thác gồm mỏ vàng ở Cam Đƣờng, mỏ bạc ở động Ngọc Uyển. Mỏ đồng và chì ở Phong Dụ (Văn Bàn), Thạch Bi, Trình Lạn và Yên Sơn ở Thuỷ Vĩ.
Thế kỷ XVII, gia tộc Thuỵ quận công Vũ Công Ứng là cháu 4 đời của Vũ Công Mật (Chúa Bầu) - Thổ tù địa phƣơng chiếm lĩnh cả vùng sông Chảy, châu Thu Vật, Lục Yên (Yên Bái) và châu Thuỷ Vĩ (Lào Cai), đã đẩy mạnh việc khai mỏ bạc ở động Ngọc Uyển và mở rộng việc khai thác vàng, khai mỏ chì ở Cam Đƣờng. Để tăng cƣờng nguyên liệu chế thuốc nổ, giữa thế kỷ XVII Vũ Công ứng còn khai thác mỏ diêm tiêu ở Cam Đƣờng, mỏ lƣu hoàng ở Văn Bàn. Trong “ hâm định Việt sử thông giám cương mục” (tập 2, tr40) có viết: “Nhà Lê thấy các mỏ ở các châu phần nhiều có ngƣời nhà Thanh khai thác, phu mỏ quần tụ mỗi ngày một nhiều, triều đình e rằng sẽ có sự biến động bèn định thể lệ, số phu mỏ nhiều nhất 300 ngƣời, thứ đến 200 ngƣời và ít nhất là 100 ngƣời”[82, tr.40].
Ngay từ thời quân chủ, trên vùng đất Lào Cai đã diễn ra các hoạt động khai mỏ. Mỏ đƣợc khai thác là vàng, đồng, chì. Hoạt động này cho thấy trên vùng đất Lào Cai có nguồn tài nguyên khoáng sản mỏ phong phú.
2.2.2. Thời Nguyễn
Thời Nguyễn, vùng đất Lào Cai thuộc trấn Hƣng Hoá. Năm 1831, Minh Mạng đổi thành tỉnh Hƣng Hoá. Dƣới thời Nguyễn, hoạt động khai mỏ có bƣớc phát triển hơn so với thời Hậu Lê.
Hoạt động khai thác mỏ dƣới triều Nguyễn chủ yếu đƣợc ghi chép lại trong bộ “Đại Nam thực lục” và bộ “Đại Nam hội điển sự lệ”... do cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Ghi chép của cơ quan Quốc sử quán cho chúng ta biết về hoạt động khai khoáng ở nƣớc ta, trong đó có vùng đất Lào Cai.
Khai thác khoáng sản ở Lào Cai phát triển mạnh nhất là vào thời nhà Nguyễn. Thời Vua Gia Long và Minh Mạng: Ở hai châu Thuỷ Vĩ, Văn Bàn và một phần châu Chiêu Tấn (vùng đất Lào Cai sau này) có tới năm mỏ đồng trong tổng số chín mỏ đồng có quy mô lớn của toàn quốc đƣợc khai thác, trong đó có mỏ đồng Trình Lạn (Bát Xát) là mỏ đồng lớn thứ hai toàn quốc (sau mỏ Tụ Long ở Tuyên
42
Quang), nên nhà nƣớc phong kiến triều Nguyễn trực tiếp khai thác từ năm 1806. Đầu tiên các viên quan đƣợc cử đến khai thác đã huy động hơn 300 quân lính phu mỏ khai thác thành nhiều hầm. Nhƣng do quản lý không tốt nên kết quả khai thác hạn chế, thua lỗ nên năm 1816 phải chuyển sang phƣơng thức cho tƣ nhân lãnh trƣng, nộp thuế. Đội phu khai thác mỏ khá đông. Chủ mỏ quản lý thợ theo chế độ làm thuê khoán sản phẩm, đƣợc trả công cao hơn trƣớc nên có năm sản lƣợng đồng khai thác đƣợc khá cao, góp phần cung cấp một nguồn nguyên liệu quan trọng cho các công xƣởng nhà Nguyễn.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, mỏ đồng Phong Dụ (Văn Bàn) đƣợc khai thác từ năm 1830, mỗi năm nộp thuế bằng đồng là 400 cân/năm [80, tr.384]. Đến năm 1850 do “mỏ ấy là nơi lam chƣớng, không có ngƣời tìm kiếm khai thác, cho lấp lại ngay”. Bên cạnh việc khai thác đồng, nhà Nguyễn cũng chú trọng khai thác mỏ vàng (Cam Đƣờng), mỏ đồng (Trình Lạn và Sơn Yên), mỏ bạc (Bát Xát), mỏ chì (Cam Đƣờng), mỏ sắt lƣu hoàng Khánh Yên, Bảo Hà (Văn Bàn). Mỏ diêm tiêu (Bát Xát, Cam Đƣờng và Văn Bàn)...đƣợc khai thác từ năm 1806, mỗi năm nộp thuế bằng diêm tiêu là 100 cân. Đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829) mỏ này đã bị đóng cửa [87, tr.33].
Mỏ đồng (Phong Dụ), mỏ chì (Cam Đƣờng), mỏ bạc (Bát Xát), mỏ lƣu hoàng (Văn Bàn)... đều do thổ ty địa phƣơng lãnh trƣng khai thác. Họ thuê nhân công là ngƣời địa phƣơng hoặc ngƣời Việt khai thác, Hoa Kiều làm kỹ thuật [13, tr.53]. Họ không có vốn nên đƣợc Nhà nƣớc cho vay và trả lãi bằng sản phẩm. Quan hệ sản xuất ở các mỏ vẫn là quan hệ phong kiến, tiền công trả cho nhân công rất thấp, phƣơng tiện thủ công nên sản lƣợng khai thác không cao. Đời sống khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, sốt, rét thƣờng xuyên xảy ra cƣớp đi nhiều sinh mạng phu mỏ. Từ thập kỷ 40 của thế kỷ XIX, các phu mỏ đều bỏ đi, mỏ phải đóng cửa. Điển hình là mỏ đồng Phong Dụ - trữ lƣợng đồng lớn nhƣng chủ mỏ quản lý kém nên từ năm 1830 - 1850 mỏ Phong Dụ phải năm lần tạm ngừng vì không có phu mỏ. Các thổ ty nhƣ Bạc Cầm Chính bị cách chức, thổ ty Điều Chính Khiêm bị giáng bốn cấp vì không trả đƣợc thuế [61, tr.169].
Với những chính sách khuyến khích khai mỏ thời Nguyễn, hoạt động khai mỏ phát triển. Khai mỏ diễn ra khắp cả nƣớc (trừ vùng đất Thanh Hóa), đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc. Theo GS Phan Huy Lê, khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, tính chung trong cả nƣớc tổng số mỏ đã khai thác là 124 mỏ, trong đó bao gồm: 34 mỏ vàng, 29 mỏ sắt, 20 mỏ diêm tiêu, 14 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 7 mỏ kẽm, 4 mỏ chì, 3 mỏ gang, 2 mỏ lƣu hoàng, 1 mỏ thiếc, 1 mỏ châu sa. Trong đó: “Hƣng Hoá: 4
43
mỏ vàng là Yết Ong, Gia Nguyên, Bản Lỗ, Hƣơng Sơn; 2 mỏ bạc là Phú Thành, Ly Bô; 5 mỏ đồng là Trình Lạn, Lại Xƣơng, Phong Dụ, Mãn Đổ, Suối Lẫm; 5 mỏ diêm tiêu là Bảo Đàm, Hiếu Trai, Bản Vĩnh, Trình Ban, Mạn Thẩm”[46, tr.40-41]. Theo thống kê về số lƣợng mỏ các tỉnh của GS Phan Huy Lê thì tỉnh Hƣng Hóa đứng thứ 3 trong cả nƣớc về mỏ đƣợc khai thác dƣới thời Nguyễn. Điều này đã đƣợc nhà sử học Phan Huy Chú khẳng định: “mối lợi về hầm mỏ phần nhiều ở các xứ Tuyên, Hƣng, Thái, Lạng với mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc, diêm không biết bao nhiêu của…Trong nửa đầu thế kỷ XIX, miền Tuyên, Hƣng, Thái, Lạng có đến 92 mỏ chiếm trên 74% tổng số mỏ của cả nƣớc lúc bấy giờ” [46, tr.42].
Nhƣ vậy, dƣới triều Nguyễn, trình độ và quy mô khai thác mỏ ở Lào Cai đã đƣợc nâng cao, mở rộng. Tuy nhiên do chƣa mạnh dạn cải cách phƣơng thức quản lý và kỹ thuật khai thác, chƣa xuất hiện các công trƣờng thủ công, do đó các mỏ ở Lào Cai từ giữa thế kỷ XIX đều đóng cửa hoặc khai thác với quy mô nhỏ. Tuy nhiên, với các mỏ đƣợc đƣợc khai thác nơi đây, nó là cơ sở cho thực dân Pháp cho tìm kiếm, thăm dò và khai thác mỏ khi cai trị Lào Cai.
2.3. Các điều kiện về pháp lý và cơ sở hạ tầng 2.3.1. Cơ sở pháp lý
Để thực hiện âm mƣu chiếm đoạt nguồn tài nguyên của Việt Nam, phục vụ cho nền công nghiệp chính quốc, thực dân Pháp vừa đẩy mạnh chiến tranh xâm lƣợc, từng bƣớc áp đặt ách thống trị thực dân, vừa xác lập quyền khai thác mỏ, trên cơ sở đó để ra quy chế mỏ, chi phối mọi hoạt động thăm dò, chuyển nhƣợng, khai thác mỏ ở Việt Nam.
Ngày 6/6/1884, sau khi buộc triều đình Huế ký kết Hiệp ƣớc Pa-tơ-nốt, thực dân Pháp đã đặt cơ sở pháp lý cho việc thống trị nhân dân ta, đồng thời đòi ngay quyền khai thác mỏ ở Bắc Kỳ. Trong điều 18 của Hiệp ƣớc Pa-tơ-nốt đã ghi rõ: “Sau này quan của 2 nƣớc sẽ hội đồng để phân định giới hạn các nơi phải khai trƣơng và quy định việc đặt vọng đăng ở ven biển nƣớc Đại Nam từ giáp giới Biên Hòa đến giáp giới Ninh Bình, cùng địa hạt Bắc Kỳ, cùng là định lệ thuế khai mỏ, lệ thuế dùng tiền bạc” [68, tr.829].
Ngày 18/02/1885, thực dân Pháp buộc triều đình Huế phải ký bản Công ước về chế độ mỏ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Bản Công ƣớc có 4 điều khoản, là sự cụ thể hóa điều 18 của Hiệp ƣớc Pa-tơ-nốt, trong đó điều 3 quy định “Mọi khoản thu đƣợc về lệ phí và thuế má đối với các mỏ ở Bắc Kỳ, đối với những sản vật của những mỏ đó, cũng nhƣ đối với các mỏ sẽ bán đấu giá hoặc sẽ là đối tƣợng của
44
việc di nhƣợng, đều thuộc quyền chi tiêu của nhà cầm quyền Bắc Kỳ (tức chính quyền thực dân) [75, tr.147].
Ngày 23/2/1886, cấp cao của hai bên đã chuẩn y Công ƣớc. Ngày 2/3/1886,
Tổng thống Pháp ra sắc lệnh cho thi hành.
Trên cơ sở Công ƣớc 1885, ngày 16/10/1888, Tổng thống Pháp đã ra Sắc lệnh thứ 1 về mỏ cho Đông Dương. Sắc lệnh này quy định thuê lệ xin di nhƣợng và quyền sở hữu mỏ.
Về thuế lệ xin di nhƣợng, quy định “Ngay khi nộp đơn xin di nhƣợng ngƣời nộp đơn phải nộp ngay toàn bộ số tiền lệ phí tính theo cách sau đây cho chính quyền: Đối với mỏ than, lệ phí là 20 phơ răng một ha; đối với các loại mỏ khác là 30 phơ răng một ha; đối với đất phù sa là 40 phơ răng một ha”.
Về thuế lệ quyền sở hữu mỏ, quy định “Sau khi đã đƣợc chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu mỏ, chủ mỏ phải nộp hằng năm cho chính quyền một số tiền là 10 phơ răng một ha, tính theo diện tích toàn khu nhƣợng địa”[75, tr.197].
So với Nhà Nguyễn về quy định khai mỏ, thì những quy định của Tổng thống Pháp trong Quy chế mỏ năm 1888, đơn giản hơn, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho ngƣời khai thác. Nếu thời Nguyễn, quyền cấp giấy phép khai mỏ hoàn toàn thuộc về Vua, thì ở thời thuộc Pháp, Tổng thống Pháp chỉ đƣa ra luật mỏ, còn quyền cấp giấy phép lại thuộc về ngƣời đứng đầu các cấp chính quyền thuộc địa có mỏ.
Cũng theo “Quy chỉ mỏ năm 1888” của Tổng thống Pháp quy định: sau khi đƣợc chính quyền cấp giấy chứng nhận sở hữu mỏ, hàng năm ngƣời khai thác không những nộp cho chính quyền một số tiền là 10 phơ răng/ha, tính theo diện tích toàn khu nhƣợng địa hoặc khi nộp đơn xin di nhƣợng, phải nộp một số tiền lệ phí cho chính quyền nhƣ đối với mỏ than là 20 phơ răng/1 ha. Về sản phẩm tiêu thụ, ngƣời khai thác phải nộp 10% giá bán, nếu xuất khẩu nộp thuế 3% thuế xuất khẩu và đóng một số tiền nhỏ lệ phí thống kê [106, tr.42].
Nhƣ vậy, có thể gần 90% giá trị sản lƣợng khai thác thuộc về ngƣời khai thác. Với giá nhân công rẻ mạt thì tỷ suất lợi nhuận của ngành khai thác rất lớn, đặc biệt là khai thác than.
Nghiên cứu về sự hiện diện của nền tài chính Pháp ở Đông Dƣơng, Aumiphin thừa nhận “Một bên là chính sách hải quan và bên kia là quy chế khai mỏ, đã cho phép các nhóm tài chính thực hiện những khoản lợi nhuận quan trọng mà hầu hết vận chuyển ra ngoài Đông Dƣơng. Khai mỏ là ngành có lợi cho chính quốc nhƣng lại trở thành phi lợi nhuận cho kinh tế Đông Dƣơng”[2, tr.156].
45
Đặc biệt năm 1897, chƣơng trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất đƣợc tiến hành ở Đông Dƣơng, thì ngành công nghiệp khai thác mỏ thực sự trở thành nơi thu hút nhiều vốn đầu tƣ của tƣ bản Pháp. Từ năm 1903 đến năm 1918, trong số vốn đầu tƣ vào ngành kinh tế Đông Dƣơng, thì ngành công nghiệp nói chung và ngành khai thác mỏ nói riêng chiếm tỷ lệ cao nhất.
Bảng 2.3. Bảng thống kê phân chia tƣ bản của tƣ bản Pháp ở Đông Dƣơng (1903-1918)
Khu vực đầu tƣ tƣ bản Số tiền Phần trăm (%)
177 Công nghiệp và hâm mộ 74%
27 Nông nghiệp 11%
34 Thƣơng nghiệp 15%
238 100% Tổng cộng
[28, tr.45] Để tập trung tài nguyên mỏ vào tay tƣ bản Pháp. Chính phủ Pháp tiếp tục thi hành những chủ trƣơng, biện pháp thích hợp để quản lý chặt chẽ các hoạt động thăm dò, khai thác mỏ.
Ngày 25/2/1897, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thứ 2 về mỏ cho Đông Dương
quy định một số điều cơ bản nhƣ sau:
“Bƣớc 1: Về thăm dò mỏ. Diện tích xin thăm dò tối đa là 5000 ha; khu vực này phải là hình tròn, với đƣờng kính 4km. Lệ phí xin thăm dò quy định 5 xăng- tim/1ha (tối đa 250 phơ răng cho toàn bộ diện tích xin thăm dò).
Bƣớc 2: Xin di nhƣợng mỏ. Diện tích xin đi nhƣợng tối thiểu là 24 ha, diện tích xin đi nhƣợng tối đa đối với mỏ than là 2.400 ha, đối với các loại mỏ khác là 800 ha, đối với vùng đất phù sa là 600 ha. Lệ phí xin đi nhƣợng đối với mỏ than là 1 phơ răng/1ha; đối với các loại nhỏ khác là 2 phơ răng/1ha.
Bƣớc 3: Về khai thác. Có 2 loại thuế: a) Thuế hàng năm nộp cho chính quyền địa phƣơng đƣợc quy định nhƣ sau: Trong 4 năm đầu, chủ mỏ phải nộp 1 phơ răng/1ha (đối với mỏ than) hoặc 2 phơ răng/1ha (đối với các loại mỏ khác); trong 5 năm tiếp sau: 2 phơ răng/1ha (mỏ than) hoặc 4 phơ răng (đối với mỏ khác); từ năm thứ 10 trở đi: 3 phơ răng/1ha (mỏ than) hoặc 6 phơ răng/1ha (đối với mỏ khác).
b) Thuế khai thác: Ngƣời thăm dò và khai thác có quyền sở hữu toàn bộ sản
46
phẩm thăm dò và khai thác của mình; song một khi những sản phẩm đó không để tiêu thụ ở thuộc địa mà đem đi xuất khẩu, thì ngƣời thăm dò và khai thác phải nộp thuế cho chính quyền theo mức sau: 1% giá xuất khấu 1 tấn sản phẩm (đối với than và quặng sắt), 2% giá xuất khẩu 1 tấn sản phẩm (đối với các mỏ khác)”[75, tr234].
Cùng với các Sắc lệnh đảm bảo quyền lợi cho ngƣời khai thác, tƣ bản Pháp ra sức mở rộng các điều tra cơ bản trên lãnh thổ này với ý đồ sẽ tiến hành khai thác lâu dài ở đây. Năm 1899, Sở Địa chất Đông Dƣơng đƣợc thành lập dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Toản quyền Đông Dƣơng. Trong suốt thời gian hoạt động (từ 1899- 1945), Sở Địa chất Đông Dƣơng có nhiều công trình nghiên cứu địa chất tìm kiếm thăm dò và xúc tiến khai thác mỏ ở Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, để phân cấp cụ thể việc quản lý hành chính đối với khai thác mỏ ở Đông Dƣơng, ngày 15/01/1903, chính quyền thực dân ban hành Nghị định “Tổ chức lại tài sản ở Đông Dƣơng”. Theo Nghị định, tài sản của Đông Dƣơng đƣợc chia thành 4 khu vực: tài sản công, tài sản Nhà nƣớc, tài sản thuộc địa và tài sản cấp xứ.
Trong Nghị định ngày 15/01/1903 quy định: Tài sản cấp xứ có thể đƣợc di nhƣợng, sản phẩm thu đƣợc sẽ thuộc về ngân sách cấp xứ. Ngƣời đứng đầu cấp xứ (Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ) đƣợc quyền đại diện cho khối loại tài sản này, nghĩa là đƣợc phép ký kết, phê chuẩn các loại giấy tờ liên quan đến đơn xin cấp nhƣợng, văn tự mua bán.
Ngày 21/12/1911, Chính phủ Pháp thành lập Tổng thanh tra mỏ và kỹ nghệ Đông Dƣơng. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý địa bàn và kỹ thuật khai thác mỏ ở Đông Dƣơng. Căn cứ vào tài liệu “L'Inspection Gô né rale des mines et de I’ Industrie”, có thể tóm lƣợc việc quản lý và khai thác mỏ của cơ quan này ở Đông Dƣơng bằng sơ đồ sau:
Tổng Thanh tra Mỏ và Kỹ nghệ Đông Dƣơng
Sở Thống kê Đông Dƣơng Đông
Sở Địa chất Đông Dƣơng
Sở mỏ Đông Dƣơng Sơ đồ 2.1: Hệ thống các cơ quan hành chính của Tổng thanh tra Mỏ và kỹ nghệ Đông Dƣơng
47
Trong đó, Sở Mỏ có nhiệm vụ: - Soạn thảo và áp dụng những quy tắc liên quan đến quyền sở hữu thăm dò và khai thác mỏ, quản lý các ngành công nghiệp liên quan và vấn đề vệ sinh, an toàn lao động trong các công trƣờng mỏ.
- Tập hợp mọi ý kiến liên quan đến công nghiệp khai khoáng. - Xác nhận các khu vực mỏ đã khai thác hoặc đã thăm dò ở Đông Dƣơng và
những nghiên cứu địa chất đã đƣợc áp dụng.
- Nghiên cứu toàn bộ vấn đề kinh tế có liên quan với công nghiệp mỏ, nhằm khai thác nó, chuẩn bị cách chế biến lý học, hóa học hoặc cơ học các loại khoáng chất, hợp tác nghiên cứu, quy hoạch các nguồn lực khác, đồng thời điều tra các chi phí liên quan đến ngành công nghiệp này, nhƣ: Chi phí sản xuất, phí nhập khẩu, phí vận chuyển.
Đứng đầu Sở Mỏ là một kỹ sƣ ngƣời Pháp. Hệ thống giúp việc kỹ sƣ trƣởng
các mỏ gồm một kỹ sƣ dân sự mỏ và 8 kỹ sƣ mỏ (có một kỹ sƣ ngƣời Việt Nam).
Sở Địa chất có nhiệm vụ thành lập Bản đồ địa chất, tiến hành những nghiên
cứu địa chất, địa lý trong phạm vi Đông Dƣơng.
Sở Thống kê có trách nhiệm công bố thƣờng xuyên các kết quả nghiên cứu,
tình hình kinh tế Đông Dƣơng trong 12 tập thông báo kinh tế một năm.
Do có sự đảm bảo của hệ thống chính quyền quản lý việc thăm dò, khai thác, cũng nhƣ có các văn bản pháp lý về mỏ đƣợc ban hành, cho nên việc tiến hành thăm dò tìm mỏ của tƣ bản Pháp ở Việt Nam tăng nhanh. Đến năm 1912, khai thác mỏ bắt đầu trở thành ngành công nghiệp chủ đạo và đem lại lợi nhuận lớn cho tƣ bàn Pháp.
Ngày 26/1/1912, Tổng thống Pháp tiếp tục ra Sắc lệnh thứ 3 về mỏ cho Đông
Dương. Sắc lệnh này quy định một số điểm cơ bản sau:
“Bƣớc 1: Thăm dò mỏ. Diện tích xin thăm dò tối đa là 900 ha; khu vực này phải là hình vuông, cạnh 3 km; lệ phí xin thăm dò quy định đồng loạt (không phân biệt diện tích lớn hay nhỏ) tối thiểu là 100 phơ răng, tối đa là 500 phơ răng, tùy theo từng vùng.
Bƣớc 2: Xin di nhượng. Diện tích xin di nhƣợng tối thiểu là 100 ha; diện tích xin di nhƣợng tối đa là 900 ha (không phân biệt loại mỏ gì); lệ phí xin di nhƣợng quy định đồng loạt (cố định, không phân biệt diện tích, loại mỏ) là 500 phơ răng.
Bƣớc 3: Khai thác. Có 2 loại thuế: a). Thuế hằng năm chủ mỏ phải nộp cho chính quyền địa phƣơng. Loại này
48
đƣợc quy định nhƣ sau, không phân biệt loại mỏ: 2 phơ răng/1ha trong 4 năm đầu; 4 phơ răng/lha trong 5 năm tiếp theo, 6 phơ răng/1 ha từ năm thứ 10 trở đi.
b). Thuế khai thác. Ngƣời thăm dò và khai thác có quyền sở hữu hoàn toàn
những sản phẩm mà họ thăm dò và khai thác đƣợc; Song khi những sản phẩm đó không
để tiêu thụ ở thuộc địa mà lại đem đi xuất khẩu thì ngƣời thăm dò và khai thác phải nộp
thuế cho chính quyền theo mức: 1% giá xuất khẩu 1 tấn sản phẩm đối với than và sắt;
2% giá trị xuất khẩu 1 tấn sản phẩm đối với các loại mỏ khác”[75, tr.333-334].
So với Sắc lệnh thứ 2 năm 1897, thì Sắc lệnh thứ 3 năm 1912, hạn chế diện
tích cấp cho chủ mỏ và tăng thuế cho phù hợp với lợi nhuận thu đƣợc từ ngành này
nhƣng có lợi thế là quyền ƣu tiên thuộc về ngƣời khai thác mỏ thậm chí tạo ra sự
độc quyền cho những nhà khai thác Pháp. Cụ thể, chỉ có những ngƣời có quốc
tịch, thuộc dân hoặc dân bảo hộ Pháp hay là những công ty thành lập theo đúng
luật của nƣớc Pháp, mà trụ sở hoặc đặt ở nƣớc Pháp hoặc đặt ở các nƣớc thuộc địa
Pháp và những ngƣời quản trị là thuộc dân hay dân bảo hộ Pháp mới có thể là
những ngƣời chủ, những ngƣời có quyền sở hữu hoặc nhũng ngƣời khai thác
những mỏ đã cấp nhƣợng.
Để khuyến khích đầu tƣ rộng rãi vào công nghiệp mỏ và tập trung quyền
khai thác mỏ vào tay tƣ bản độc quyền, Sắc lệnh thứ 3 năm 1912 còn đảm bảo
điều kiện thăm dò và khai thác mỏ hết sức dễ dàng nên phong trào đi tìm mỏ,
khai thác mỏ ở Đông Dƣơng nói chung và ở Việt Nam nói riêng càng có điều
kiện phát triển mạnh.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù đế quốc Pháp là một nƣớc thắng
trận, nhƣng bị tổn thất lớn trên nhiều lĩnh vực. Những vùng công nghiệp phát triển
bị tàn phá nặng nề. Chính phủ Pháp phải đẩy mạnh vừa đẩy mạnh sản xuất trong
nƣớc, vừa đẩy mạnh khai thác thuộc địa nhằm khôi phục nền kinh tế và vị thế chính
trị của nƣớc Pháp trên trƣờng quốc tế. Từ kinh nghiệm khai thác thuộc địa ở Đông
Dƣơng cũng nhƣ sự đóng góp kinh tế của Đông Dƣơng thuộc địa, càng làm cho giới
tƣ bản tài chính Pháp chú trọng khả năng bóc lột xứ sở này.
Từ năm 1919, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai ở Đông Dƣơng. Cuộc khai thác này do Albert Sarraul - Toàn quyền Đông
Dƣơng đề ra, triển khai thực hiện trong thời gian 10 năm (1919 - 1929). Mặc dù
cuộc khai thác lần thứ hai diễn ra thời gian ngắn, nhƣng nó thể hiện tƣ tƣởng đầy
tham vọng của Toàn quyền Đông Dƣơng và giới tƣ bản Pháp.
49
Theo Albert Sarraul, có 2 loại sản phẩm quan trọng đối với nền kinh tế Pháp sau chiến tranh là nông phẩm nhiệt đới và mỏ quặng. Trên cơ sở đó, số vốn đầu tƣ vào Đông Dƣơng, chủ yếu là Việt Nam, trong vòng 30 năm, từ năm 1888 đến năm 1919, khoảng 1 tỷ phơ răng, trong khi đó chỉ tính riêng 6 năm, từ năm 1924 đến năm 1929, số vốn đầu tƣ đã lên tới 400 triệu phơ răng.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929), việc thăm dò, khai
thác mỏ của Pháp càng đƣợc đẩy mạnh hơn.
Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933), Chính phủ Pháp ban hành một số văn bản nhằm tăng cƣờng hơn nữa chính sách đầu tƣ khai thác mỏ để có hiệu quả hơn ở thuộc địa, nhất là áp dụng ở Đông Dƣơng:
Sắc lệnh thứ 4 ngày 29/5/1931, quy định những điều kiện mà chính quyền có thể tuyên bố rút quyền di nhƣợng mỏ trong trƣờng hợp chủ mỏ không khai thác hoặc khai thác không đủ.
Sắc lệnh thứ 5 ngày 23/10/1933, quy định những ngƣời khai thác mỏ phải
nộp một khoản tiền ký qũy và làm một số thủ tục khi thi hành sắc lệnh ấy.
Nghị định ngày 29/08/1936, quy định việc cấp giấy phép khai mỏ chuyển
sang hình thức đấu giá công cộng.
Mặc dù so với Sắc lệnh thứ 3 năm 1912, các sắc lệnh này thu hẹp quyền thăm dò và sở hữu mỏ, nhƣng thực chất là chính quyền thuộc địa lại tập trung quyền khai mỏ vào những kẻ có khả năng kỹ thuật nhất và cũng là những kẻ có khả năng tài chính nhất.
Nhƣ vậy, bằng hệ thống văn bản pháp lý, chính quyền Pháp ngày càng hoàn thiện quy chế về mỏ. Đây là cơ sở để Nhà nƣớc bảo hộ chi phối mọi hoạt động thăm dò, chuyển nhƣợng và khai thác mỏ ở Đông Dƣơng nói chung và Việt Nam nói riêng. Quy chế đó đã tạo mọi điều kiện thuận lợi tối đa cho những ngƣời khai thác. Từ cuối thế kỷ XIX, ngành công nghiệp khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ngày càng lớn mạnh về quy mô, sản lƣợng và giá trị sản phẩm đều tăng. Điều đó càng thúc đẩy quá trình xâm lƣợc thuộc địa, chiếm đoạt đất đai, mở rộng khai thác mỏ của thực dân Pháp ở khắp Đông Dƣơng, mà chủ yếu là Việt Nam.
Sự thông thoáng về chính sách, quy chế chẳng qua là tạo điều kiện cho hoạt động khai thác mỏ phát triển, với phƣơng châm càng khai thác đƣợc nhiều sản phẩm mỏ có giá trị, càng tốt và cuối cùng mọi nguồn lợi đều rơi hết vào tay Ngân hàng Đông Dƣơng của Pháp. Bởi vì Nhà nƣớc bảo hộ đang nắm độc quyền về tài chính và thƣơng nghiệp.
50
2.3.2. Thực dân Pháp xâm chiếm Lào Cai và xây dựng cơ sở hạ tầng chuẩn bị cho việc khai thác mỏ
Là tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản ở vùng Thƣợng du Bắc Kỳ nên khi căn bản chiếm xong vùng đồng bằng Bắc Kỳ, trong kế hoạch bình định cấp tốc vùng Thƣợng du Bắc Kỳ, Lào Cai là một trong những mục tiêu xâm chiếm của thực dân Pháp. Ngày 30/3/1886, một đạo quân do đại tá Maussion chỉ huy đánh chiếm Lào Cai. Ngay khi chúng tấn công đã vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Từ năm 1886 - 1887, thực dân Pháp đã chiếm đóng đƣợc Lào Cai. Phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng, nhân dân các dân tộc Lào Cai đã liên tiếp nổi dậy tiến hành các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp.
Ngay sau khi chiếm đƣợc Lào Cai, thực dân Pháp rất chú trọng xây dựng bộ máy cai trị. Thời kỳ đầu mới chiếm đóng (1886 - 1906), Lào Cai thuộc địa phận của đạo quan binh, áp dụng theo chế độ quân quản. Ngày 29/8/1891, thực dân Pháp chia các vùng thƣợng du Bắc Kỳ thành các đạo quan binh. Lào Cai thuộc Đạo quan binh 4, đóng tại Sơn La. Ngày 3/10/1896, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định chuyển Đạo quan binh về Lào Cai. Từ ngày 12/7/1907, Toàn quyền Đông Dƣơng chuyển Lào Cai sang chế độ cai quản dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Đứng đầu tỉnh có Công sứ, các châu có Tri Châu, xã có Chánh tổng, Lý trƣởng nhƣng thực chất ở các huyện nhất là ở cơ sở thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ Thổ ty để dễ bề áp bức, bóc lột nhân dân. Khi mới chiếm đóng Lào Cai, thực dân Pháp chủ yếu dựa vào bọn tay sai qua lại nhà Nguyễn đã đầu hàng Pháp để đàn áp nhân dân nhƣng chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của ngƣời dân Lào Cai. Tên Trung tá Pen-nơ-canh chỉ huy quân Pháp tại Lào Cai đã phải thú nhận “Lúc đầu chúng ta chỉ có những thất bại cay đắng vì chúng ta muốn dựa thẳng vào bọn quan lại An Nam” [21, tr.12]. Đến những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thay đổi chính sách cai trị, ra sức nâng đỡ tầng lớp thổ ty hoặc bọn chức dịch mới trỗi dậy tỏ ra trung thành với chúng, nhƣ: Phó lý Lùng Khai Phà, Tri châu Nông Vĩnh An, Tri châu Hoàng Yến Chao. Thực dân Pháp đã dùng thế lực thổ ty dân tộc này để đàn áp, khiêu khích ngƣời dân khác, gây chia rẽ giữa ng H’Mông, ngƣời Tày, ngƣời Nùng và ngƣời Hoa ở Bắc Hà; giữa ngƣời Dao với ngƣời Giáy ở Bát Xát; giữa ngƣời Kinh với ngƣời La Ha, Kháng, Lào, Giáy, ... ở Than Uyên, giữa ngƣời Nùng với ngƣời Pa Dí, Tu Dí ở Mƣờng Khƣơng. Thông qua bộ máy thống trị này th ực dân Pháp bắt đầu tiến hành xây dựng hạ tầng cơ sở, chuẩn bị cho việc khai thác tài nguyên khoáng sản ở Lào Cai.
Đầu tƣ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng là điểm đầu tiên trong chƣơng trình khai
51
thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) của Paul Doumer. Trong đó, đƣờng sắt, đƣờng bộ đến khu vực hầm mỏ, đồn điền, bến cảng, vùng biên giới đƣợc tƣ bản Pháp ƣu tiên hơn cả. Điều này đƣợc thể hiện trong bảng dƣới đây:
Bảng 2.4. Phân phối chi phí cho các công trình công cộng (1899-1924)
Phần trăm Tính chất của các công trình công cộng Theo giá trị tiền tệ (triệu đồng Đông Dƣơng)
Đƣờng sắt Thủy lợi Đƣờng bộ Nạo vét lòng sông Bến cảng Các chi phí khác 248 38 62 13 17 28 36,3% 15,3% 25.0% 5,2% 68,8% 11.4%
338 100%
[89, tr.46]
Từ khả năng sẵn có về vốn và sản phẩm gang thép trên thị trƣờng chính quốc, trƣớc hết thực dân Pháp rất chú ý đến việc xây dựng hệ thống đƣờng sắt Việt Nam. Vì "mở mang đƣờng sắt là một việc đã đƣợc giới tƣ bản Pháp coi là ƣu tiên hàng đầu để phục vụ cho việc chuyên chở hàng hóa và nguyên liệu"[89, tr.47]. Dự án xây dựng đƣờng sắt ở Lào Cai đƣợc thực dân Pháp đặt ra từ cuối thế kỷ XIX, chủ yếu là tuyến đƣờng từ Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai sang vùng Vân Nam (Trung Quốc).
Đường sắt Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân phƣơng Tây đều đổ dồn về đất nƣớc Trung Quốc rộng lớn. Ngƣời Pháp cũng vậy. Báo cáo của các phái đoàn điều tra đã đem về cho họ những số liệu về sự giàu có của vùng Vân Nam. Trong khi đó, đƣờng sông Hồng đã tỏ rõ những bất lợi lớn trong việc vận tải giao thƣơng. Do đó, chính quyền thực dân Pháp nhận thấy cần phải nhanh chóng thay thế con đƣờng huyết mạch lâu đời này bằng con đƣờng sắt nối liền từ cảng biển lớn nhất Bắc Kỳ đến thủ phủ của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đây là cánh cửa để ngƣời Pháp có thể tiến sâu vào nội địa Trung Quốc và tạo ra một thị trƣờng rộng lớn ở đất nƣớc đông dân, giàu có này. Hơn nữa, ngƣời Pháp phải hành động nhanh chóng vì ngƣời Anh sau khi chiếm Miến Điện cũng đang tìm đƣờng để vào Vân Nam. Toàn quyền Đông Dƣơng Paul Doumer là ngƣời đã tạo nên bƣớc ngoặt quan trọng cho lịch sử tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh.
52
Theo tính toán của tƣ bản Pháp, việc xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh hứa hẹn đem lại cho thực dân Pháp những lợi nhuận khổng lồ không chỉ từ vùng Bắc Kỳ mà còn cả vùng Vân Nam (Trung Quốc) rộng lớn.
Đối với Bắc Kỳ: Giới tƣ bản Pháp nhận định, Bắc Kỳ là một vùng đông dân cƣ, nhiều sản vật, giàu nguyên liệu. Với 3/4 diện tích là đối núi, Bắc Kỳ tập trung các mỏ lớn với các loại nguyên, nhiên liệu có giá trị nhƣ: chì, kẽm, đồng, than đá,.... và các loại lâm thổ sản quý hiếm (gỗ, các loài động, thực vật). Mặt khác, đồng bằng Bắc Kỳ là một vùng đông dân sẽ cung cấp một đội nhân công đông và rẻ. Sau một thời gian khảo sát, ngƣời Pháp nhận thấy Bắc Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt với hoạt động của Pháp ở Viễn Đông.
Vùng núi Bắc Kỳ là nơi tập trung nhiều tài nguyên nhƣng dân cƣ thƣa thớt, địa hình khó khăn cho việc vận chuyển. Vì vậy, cần có phƣơng tiện giao thông vận chuyển đƣợc nhiều và rẻ để đƣa nhân công từ vùng đồng bằng lên khai thác và cũng không thể chở nguyên vật liệu về các trung tâm công nghiệp để chế biến hay ra cửa biển để xuất cảng. Do đó, đối với việc khai thác tài nguyên ở Bắc Kỳ, đƣờng sắt giữ vai trò vô cùng quan trọng.
Theo Paul Dumer: Nói chung, đối với việc khai thác của thực dân Pháp,
đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai có nhiều tác dụng:
1. Mở rộng phạm vi và đẩy mạnh việc nghiên cứu tìm mỏ. 2. Chuyên chở nhân công từ vùng đồng bằng đến các mỏ. 3. Do chuyên chở thuận tiện sẽ khai thác đƣợc cả các mỏ tƣơng đối nghèo và xấu. 4. Chuyên chở than đá đến tận một số mỏ mà quặng cần phải luyện trƣớc khi
chở đi bán.
5. Có thể chở than đá đến các mỏ sắt để tổ chức việc luyện kim tại chỗ.. Khai thác, bóc lột kinh tế là mục đích của chủ nghĩa thực dân. Song, củng cố và bảo vệ chính quyền là nhiệm vụ thƣờng xuyên và đặt lên hàng đầu. Việc xây dựng đƣờng sắt cũng góp phần vào việc ổn định chính trị và củng cố quốc phòng của chính quyền thuộc địa. Tuyến đƣờng sắt này xuyên ngang qua vùng Bắc Kỳ, nối liền các đƣờng giao thông thủy, bộ với nhau, nhờ đó, thực dân Pháp có thể chuyển quân và phân phối lực lƣợng đi các nơi một cách nhanh chóng.
Vùng Vân Nam: Edmond Blanchet viết về nguồn tài nguyên của Vân Nam: Trƣớc hết, Vân Nam có 8 triệu dân, khí hậu rất thuận lợi đối với ngƣời Châu Âu và là nơi cung cấp nguồn lƣơng thực dồi dào. Mỏ đồng, mỏ chì lẫn bạc, mỏ thiếc, mỏ than và mỏ sắt nhan nhản ở Vân Nam. Theo Leclère - kỹ sƣ mỏ của Hội Địa lý Pháp
53
đƣợc cử đi nghiên cứu vùng Hoa Nam thì từ biên giới Bắc Kỳ cho đến tận sông Dƣơng Tử có những lớp than mỡ đặc biệt rộng, thuộc vào một loại than đặc biệt không có ở Bắc Kỳ mà cũng hiếm ở Châu Âu.
Đối với tham vọng của ngƣời Pháp lúc bấy giờ, họ muốn từ Vân Nam đi Tứ Xuyên, Tây Tạng và đi sâu vào nội địa Trung Quốc, tạo ra hệ thống giao thƣơng quốc tế. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu đƣợc chính quyền thuộc địa cử đi khảo sát thì tất cả những sản phẩm của Tây Tạng từ trƣớc đến nay đều đƣa về Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên để xuất cảng, phải đi mất 2.500 km từ Thành Đô ra đến cửa bể, trong đó có 800 km đi lại rất vất vả nguy hiểm; nếu theo con đƣờng Vân Nam - Bắc Kỳ thì sẽ tiết kiệm đƣợc 2.000 cây số để chuyên chở sản phẩm của Tây Tạng ra cửa bể. Nhƣ thế, đƣờng sắt đƣợc thực dân Pháp kỳ vọng để mở tung cánh cửa Vân Nam để bƣớc vào thị trƣờng Trung Quốc đầy tiềm năng. Bởi “việc mở đường xe lửa chuyên chở nhanh chóng và rẻ tiền các nông phẩm và khoáng sản ra tận cửa bể để xuất cảng sẽ thúc đẩy thương nghiệp phát triển mạnh. Đây là những lý do kinh tế thúc đẩy chúng ta nên xâm nhập Vân Nam và cần kiến thiết một con đường sắt nối liền Vân Nam với Bắc Kỳ” [16, tr.38-39].
Nhƣ vậy, về mọi phƣơng diện, đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh trở thành một nhu cầu thiết yếu đối với thực dân Pháp. Ngƣời Pháp đặt kỳ vọng lớn vào tuyến đƣờng sắt này. Họ tin tƣởng rằng nó sẽ là một phƣơng tiện để Pháp có đƣợc vị thế đáng nể ở Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh với các nƣớc đế quốc khác, đồng thời khai thác tối đa nguồn tài nguyên khoáng sản ở Bắc kỳ và góp phần vào việc ổn định chính trị và củng cố quốc phòng của chính quyền thuộc địa. Mọi việc chỉ thực sự đƣợc khởi động dƣới thời của Toàn quyền Đông Dƣơng Paul Doumer.
Sự ra đời của tuyến đường sắt Hải Phòng - Côn Minh: Sau khi nhậm chức Toàn quyền Đông Dƣơng, Paul Doumer đề xuất xây dựng hệ thống đƣờng sắt. Trong dự án thiết lập đƣờng sắt ở Đông Dƣơng, tuyến đƣờng Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh đƣợc đặt lên hàng đầu. Ngày 25/12/1898, Chính phủ Pháp chính thức phê chuẩn việc thiết lập 5 tuyến đƣờng sắt trên lãnh thổ Đông Dƣơng trong đó tuyến Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai đƣợc đặt lên hàng đầu và cần xây dựng nhanh chóng trong thời gian tới.
Quá trình xây dựng: Đoạn đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai Ngày 25/12/1898 là mốc mở đầu cho quá trình thiết lập tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Lào Cai - Côn Minh. Ngày 20/4/1899, Uỷ ban các Công trình giao thông công chính ở thuộc địa ra quyết định xây dựng đoạn đƣờng sắt Hải Phòng - Việt Trì và Quyết định ngày 7/12/1900 cho phép xây dựng đoạn Việt Trì - Lào Cai.
54
Đoạn Hải Phòng - Việt Trì: Toàn quyền Đông Dƣơng Paul Doumer ra lệnh xây dựng những đoạn đƣờng dễ nhƣ Hải Phòng - Hà Nội - Việt Trì mà không chờ đợi việc nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tuyến Việt Trì - Lào Cai hoàn thành.
Những công trình bắt đầu xây dựng. Đoạn thứ nhất Hải Phòng - Hà Nội dài 102 km đƣợc khởi công xây dựng vào năm 1901 và đến ngày 16/6/1902 toàn tuyến đƣợc đƣa vào khai thác…[69, tr.26].
Ngày 10/3/1903, đoạn Hà Nội - Việt Trì dài 78 km đƣợc đƣa vào khai thác,
tháng 11/1903 đƣợc chuyển giao cho công ty nhƣợng quyền.
Đoạn Việt Trì - Lào Cai: Cung đƣờng Việt Trì đến Lào Cai: việc tổ chức, sắp xếp ở các công trƣờng rất phức tạp do tiến hành xây dựng đồng thời các đoạn nhỏ và tập trung một lƣợng nhân công đông trong cùng một thời gian. Sau khi nhận đƣợc việc xây dựng hạ tầng đoạn đƣờng sắt Việt Trì - Lào Cai, ông Daurelle và Briffaut đã nhanh chóng tập trung những cơ sở xí nghiệp ở Yên Bái. Yên Bái là nơi ở của kỹ sƣ trƣởng, nơi giải quyết các khoản thanh toán và là trung tâm điều hành việc xây dựng đoạn Việt Trì - Lào Cai, phụ trách công tác hậu cần. Ngoài ra, Nha Công chính Đông Dƣơng còn phải xây dựng nơi ở cho các kỹ sƣ, thầy ký, giám sát công trình và nhân công.
Từ Việt Trì đến Lào Cai, tuyến đƣờng đƣợc xây dựng theo hình thức làm đồng thời từng đoạn nhỏ. Toàn tuyến đƣợc chia làm 3 lô để tiến hành đấu thầu: Việt Trì- Yên Bái 80 km, Yên Bái - Trái Hút 49 km, Trái Hút - Lào Cai 91,5 km.
Để mở một số công trƣờng xây dựng đƣờng sắt giữa Trái Hút và Lào Cai, Toàn quyền Đông Dƣơng đã ban hành Nghị định số 2454 ngày 29/8/1904 về việc tách đạo quan binh số 4 nhập vào tỉnh Yên Bái để thành lập khu Công chính theo lãnh thổ. Đứng đầu đơn vị mới sáp nhập là Tri huyện. Bản Nghị định đã giải thích rõ: do việc hình thành các công trƣờng, cần thiết phải tập hợp ngƣời bản xứ đến các công trƣờng nên cần có sự phối hợp giữa hoạt động của nhân viên giám sát và cảnh sát một cách hiệu quả. Giới hạn của vùng đất trả về cho Đạo quan binh số 4 là: phía Đông Nam: theo bờ trái của sông Hồng; phía Tây Bắc: song song với đƣờng sắt và cách trục đƣờng 200m; phía Tây Nam: giáp phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái; phía Đông Bắc: song song với sông Nậm Ti và cách điểm hợp lƣu của hai con sông (sông Hồng và sông Nậm Ti - TG) 1km [208]. Các công trƣờng đƣợc bảo vệ bởi một số đội tự vệ do thống sứ Bắc Kỳ bố trí và sắp xếp.
Từ Yên Bái đến Lào Cai, Nha Công chính Đông Dƣơng đã thiết lập 4 trạm y tế đặt ở Yên Bái, Bảo Hà, Phố Lu, Lào Cai [199]. Song do điều kiện làm việc cũng
55
nhƣ khí hậu độc hại của vùng miền núi nên số công nhân bị ốm, bị thƣơng và chết nhiều. Do đó, chính quyền phải tăng cƣờng đội ngũ bác sĩ và các trạm khám bệnh lƣu động. Giữa năm 1904, chính quyền đã trƣng tập các bác sĩ ngƣời bản xứ đến các trạm y tế với tƣ cách là ngƣời phụ tá. Ba trạm quân y lƣu động đƣợc thiết lập gần các công trƣờng đƣờng sắt, đƣợc trang bị một khối lƣợng dự trữ thuốc của ngƣời An Nam và ngƣời Trung Quốc [216].
Công nhân sau khi đến công trƣờng đƣợc tổ chức thành từng đội theo quê quán. Đứng đầu mỗi đội là một cai. Trên chức cai có chức đội. Mỗi đội phụ trách từ 3 đến 5 cai. Trên chức đội là chức quản, quản có thể phụ trách từ 2 đến 4 đội trƣởng. Hàng ngày, “cai thầu đến tận công trƣờng để điểm danh và giao việc cho họ (công nhân-TG)”[35, tr.131].
Vƣợt qua những khó khăn và thử thách, từng cung đƣờng trên đoạn Việt Trì - Lào Cai cũng đƣợc khai thông và chuyển cho Công ty Hoả xa Đông Dƣơng và Vân Nam thuộc Pháp. Ngày 1/7/1904, đoạn Việt Trì - Yên Bái dài 83 km đƣợc đƣa vào khai thác. Đoạn Yên Bái - Lào Cai dài 140km đƣợc đƣa vào khai thác ngày 1/2/1906. Đến tháng 4/1906, đoạn Việt Trì - Lào Cai đƣợc chuyển giao cho công ty hoả xa Đông Dƣơng và Vân Nam thuộc Pháp.
Từ Việt trì đi Lào Cai dài khoảng 233km, đi qua vùng núi, ít dân và ít trồng lúa. Đoạn đƣờng này không có những công trình hầm cầu quan trọng nhƣ đoạn Hải Phòng - Việt Trì nhƣng số lƣợng các công trình lại nhiều hơn. Tổng cộng có 175 cây cầu bằng kim loại đƣợc xây dựng. Ngoài cầu bằng kim loại ra còn có cầu máng và cầu cạn. Theo thống kê đoạn đƣờng giữa Thái Văn và Lào Cai có 6 cây cầu kim loại vào năm 1908 có chiều dài tổng cộng 123m và nặng 50 tấn. Trên toàn tuyến từ Hà Nội đến Lào Cai có 46 điểm đỗ gồm 7 ga chính, 27 ga xép và 12 điểm dừng. Đoạn đường sắt trên lãnh thổ Trung Quốc: Lào Cai - Côn Minh: Tháng 3/1899, phái đoàn kỹ sƣ của các tập đoàn tài chính đƣợc đƣa đến Vân
Nam để xem xét những điều kiện xây dựng tuyến đƣờng sắt ở đây.
Từ năm 1903 đến 1905 là thời gian sắp xếp và tổ chức các công trƣờng xây dựng. Từ năm 1906 đến 1908 là thời gian hoạt động với việc hoàn thiện các công trình xây dựng. Từ sau năm 1908 mọi việc xây dựng gần nhƣ hoàn thành và các đoạn đƣờng dần đƣợc đƣa vào khai thác.: Ngày 15/6/1908, đoạn từ cây số 1 tới cây số 71 đƣợc đƣa vào khai thác; Ngày 15/4/1909 khai thác tới cây số 165; Ngày 1/5/1909 khai thác tới cây số 221; Ngày 1/6/1909 khai thác đến cây số 236; Ngày 17/7/1909 khai thác đến cây số 296; Ngày mùng 10/1/1909 khai thác đến cây số
56
396; Ngày mùng 1/4/1910 khai thác đến cây số cuối cùng [75, tr.325]. Chƣơng trình khánh thành đƣợc tổ chức long trọng vào ngày 1/4/1910.
Đường bộ Theo “Địa – dƣ các tỉnh Bắc Kỳ” của tác giả Ngô Vi Liễn, Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thƣ, trƣớc năm 1930 Lào Cai đã có những tuyến đƣờng bộ: “Có những đƣờng cái đi từ:
1) Lào-Kay đến Phong-Thổ qua Bát-xát và Mƣờng Hum dài 100 km. 2) Lào-Kay đến Long-Pô, 64 km. 3) Lào-Kay đến. Cha-Pa, 38 km. Con đƣờng này là đƣờng thuộc địa số 4, đi
mãi đến Lai Châu, qua Bình-Lƣ và Chính -Nua.
4) Lào-Kay đến Mƣờng-Khuơng, dài 53 km. Lại có những đƣờng xép đi từ: 1) Mƣờng-Khƣơng đến Xim-Ma-Kai (một ngày); 2) Mƣờng-Khƣơng sang Tàu qua Tầu-Ma, Xim-Ten; 3) Pha-Long sang Tàu; 4) Pa-Kha đến Phố-Lu; 5) Phong-Thổ đến Si-Leu-Lao qua Ban-Lang; 6) Ban-Moun đến đèo Hô-Qui-Hô, qua Tam-Dƣơng và Bình-Lƣ.
A) Đƣờng từ Lào-Kay đến Mƣờng-Khƣơng: dài 53 km, chia làm hai độ: Ban-Lao 21km, Mƣờng-Khƣơng 32km, - đến km 15 là Ban-Phiếc – 21 là đồn Ban- Lao ở cao 225 thƣớc (về phía tây-bắc có núi Ban-Lao cao 734 thƣớc tây) – 31 là đồn Kế-Châu có một làng ngƣời Tầy và ngƣời Nùng ở. Cách Kế-Châu 13km, về phía bắc ở đồn Nan-Trai ở Biên thùy. – 53 là Mƣờng-Khƣơng. Cách Mƣờng- Khƣơng 10km, về Bắc có đồn Tu-Ma, 24km về đông-bắc có đồn Pha-Long.
B) Đƣờng Lào-Kay đi Phong-Thổ: dài 101 km. Ở Lào-Kay đi qua sông sang Cốc-Lếu có lắm ngƣời Thổ và ngƣời Nùng ở; đến km 8 là Nhất-Sơn. Khỏi Nhất- Sơn đến Ban-Qua, đến km 19 là đồn Bát-Xát, lập ở trên một cái đồi cao 108 thƣớc, có tre mọc um tùm và có chợ.
Đi khỏi Bát-Xát đến Mƣờng-Vi, có một cái động dài 350 thƣớc… Trèo qua núi “Đỉa” thì đến Mƣờng-Hum (tự là Ngọc-Phƣớc). Miền ấy lắm núi cao mọc ngổn ngang làm cho sự giao thông thực là khó khăn.
Khỏi Mƣờng-Hum thì đƣờng lại theo con sông Nam Gia-Ho lên đến Đèo
“Mây” cao 20 thƣớc, rồi xuống dần dần cho đến Phong-Thổ.
Từ Phong-Thổ lại có đƣờng đi Bình - Lƣ, dài 51 km, qua Tam -Đƣờng”[54, tr.67-68]. Những tuyến đƣờng này có từ trƣớc khi thực dân Pháp đặt chân đến Lào Cai, tuy nhiên đƣờng nhỏ, gập ghềnh nên việc đi lại gặp nhiều khó khăn. Để thuận lợi cho việc đi lại, phục vụ mục đích khai thác và cai trị, chính quyền thực dân đã cho
57
mở rộng, nâng cấp, sữa chữa và mở tuyến đƣờng bộ mới trong địa bàn tỉnh Lào Cai. Trong đó tiêu biểu là đƣờng số 4 từ Lào Cai đi Sa Pa đƣợc trải nhựa, đƣờng số 2 từ Lào Cai đi chợ Chậu (Mƣờng Khƣơng), đƣờng số 3 từ Phố Lu đi Bảo Nhai - Bắc Hà, đƣờng số 5 từ Lào Cai đi Bát Xát - Trịnh Tƣờng, đƣờng số 109 từ Lào Cai xuống Cam Đƣờng. Đặc biệt từ cuối năm 1939, thực dân Pháp khảo sát mở tuyến đƣờng từ Bắc Quang - Yên Bình xã - Nghĩa Đô - Lào Cai. Số công nhân tập trung xây dựng cầu đƣờng khá đông. Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1940, có tới 2 vạn công nhân làm đƣờng. Còn các tuyến đƣờng khác, thực dân Pháp tập trung xây dựng cầu, mở rộng mặt đƣờng, bình quân có tới 500 - 800 công nhân làm đƣờng giao thông. Do thiếu nhân công, tuyến đƣờng Lào Cai đi Sa Pa hoặc từ Lào Cai xuống Cam Đƣờng cũng huy động hơn 200 tù nhân làm đƣờng. Nhìn chung ở địa bàn Lào Cai, bình quân hàng năm đều có thƣờng xuyên từ 200 - 500 công nhân làm đƣờng, tham gia vận tải đƣờng bộ.
58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Lào Cai là 1 tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc Việt Nam, có lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển lâu đời, có truyền thống văn hóa giàu bản sắc, có tiềm năng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.
Là vùng “phên dậu” phía Tây Bắc tổ quốc, Lào Cai có vị trí chiến lƣợc quan trọng về chính trị - kinh tế - văn hóa, là cửa ngỏ thông thƣơng với nhiều vùng trong cả nƣớc và quốc tế.
Trong lịch sử, Lào Cai là tỉnh có tiềm năng lớn về nhiều mặt, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản. Đồng, than chì, apatite Lào Cai có trữ lƣợng lớn, chất lƣợng tốt và có giá trị đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nguồn nhân lực còn thiếu và hệ thống giao thông đi lại còn khó khăn. Mặc dù vậy, hoạt động khai mỏ ở Lào Cai đã manh nha xuất hiện dƣới thời Hậu Lê và đặc biệt là thời Nguyễn.
Đến giữa thế kỉ XIX, hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai đã có chuyển biến đáng kể về địa bàn, phƣơng thức khai thác và có đóng góp lớn cho ngân sách của triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, do không xuất phát từ chính sách phát triển ngành khai mỏ mà triều đình chỉ muốn thâu tóm nguồn lợi này nên nhà nƣớc vẫn giữ độc quyền khai thác mỏ và đặt ra chính sách thuế mỏ nặng nề. Do vậy, địa vị ngành mỏ trong nền kinh tế quốc dân còn rất nhỏ bé, chƣa tạo điều kiện để hình thành một nền công nghiệp xứng đáng.
Với mục đích vơ vét nguồn tài nguyên khoáng sản phục vụ công nghiệp chính quốc, khi xâm chiếm Việt Nam, Chính phủ Pháp và chính quyền thực dân đã từng bƣớc xây dựng hệ thống các văn bản pháp quy mỏ. Đây là chỗ dựa căn bản về mặt pháp lý cho việc cƣớp đoạt tài nguyên mỏ ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng.
Năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai và từng bƣớc thiết lập bộ máy cai trị nơi đây. Cuối thế kỷ XIX trở đi, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đƣờng giao thông, chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho việc khai thác các mỏ ở địa phƣơng.
59
Chƣơng 3 HOẠT ĐỘNG KHẢO SÁT, THĂM DÕ VÀ KHAI THÁC MỎ CỦA
TƢ BẢN PHÁP Ở LÀO CAI (1896 - 1945)
3.1. Thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1929
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Trước năm 1900, mặc dù tình hình chƣa ổn định nhƣng các tập đoàn tƣ
bản ngân hàng Pháp vẫn chớp lấy thời cơ, thành lập công ty đại diện cho các thế
lực tài chính của tƣ bản Pháp. Sau Ngân hàng Đông Dƣơng, lần lƣợt các công ty
khác đƣợc thành lập, nhƣ: Hãng Vận tải đƣờng sông Nam Kỳ (lập ngày
1/6/1881); Công ty Pháp Mỏ than Bắc Kỳ (lập ngày 4/4/1888), khai thác mỏ than
Hồng Gai; Công ty Pháp Tàu điện (Đông Dƣơng), lập ngày 14/2/1890, kinh
doanh chạy tàu điện ở Sài Gòn, Chợ Lớn và đi Hóc Môn, xe lửa ở Đông Dƣơng;
Công ty luyện kim và mỏ Đông Dƣơng (1890), chuyên nghiên cứu, thăm dò,
khai thác mỏ ở Đông Dƣơng và các nƣớc ở vùng Viễn đông; Công ty Xi măng
Poóc-lăng nhân tạo Đông Dƣơng (lập ngày 10/7/1899), “chế và bán ở Đông
Dƣơng và xuất khẩu vôi, xi măng…”[88, tr.53-54].
Thời kỳ 1900 -1918: Năm 1900, đánh dấu một thời kỳ mới - thời kỳ chủ nghĩa
tƣ bản thế giới chuyên hẳn sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Thời kỳ này, chủ nghĩa
tƣ bản hiện đại ngày càng chạy đua giành các nguồn nguyên liệu trên thế giới.
Ở Việt Nam, so với thời kỳ trƣớc 1900, thời kỳ này có phần ổn định hơn,
nhƣng chƣa phải hoàn toàn ổn định. Phong trào chống Pháp vẫn âm ỉ diễn ra với
cuộc khởi nghĩa của Đề Thám, phong trào dân chủ tƣ sản (Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh), hoạt động của Trƣờng Đông kinh nghĩa thục… Từ 1914, nƣớc Pháp
lại phải tiến hành chiến tranh với Đức. Tuy vậy, sau một thời gian lấy lại sức cuối
thế kỷ XIX, sức mạnh của chủ nghĩa đế quốc Pháp đƣợc củng cố. Tình hình này cho
phép tƣ bản tài chính Pháp bắt đầu đầu tƣ về các mặt. Những công ty lớn đƣợc
thành lập, có trụ sở ở Pháp.
Về nông nghiệp: năm 1908, thành lập Công ty Biên Hòa công nghiệp và rừng rú
(sau này đổi tên là Cao su Đồng Nai), kinh doanh đồn điền cây cao su, dừa, mía; Công
ty cao su Đông Dƣơng (1910), khai thác đồn điền cao su Nam Kỳ; Công ty đồn điền
đất đỏ (1910); Công ty nông nghiệp Tuy Hạ (1910); Công ty đồn điền An Lộc (1911);
Công ty đồn điền cao su Xuân Lộc (1911); Công ty cây cao su Tây Ninh (1913)…
60
Về công nghiệp: Công ty mỏ Thiếc Thƣợng du Bắc Kỳ (1902), khai thác
mỏ thiếc Cao Bằng; Công ty Thiếc và Von-fram Bắc Kỳ (10/2/1911); Công ty mỏ
than Đông Triều (1916); Công ty nƣớc và điện Đông Dƣơng (2/4/1900); Công ty
điện Đông Dƣơng (17/11/1902); Công ty Pháp nhà máy rƣợu Đông Dƣơng
(1/5/1901); Công ty bông vải Bắc Kỳ (8/1900); Hãng L.Đơ-li-nhông (1911), kinh
doanh về ƣơm tơ, dệt lụa; Công ty công trình nạo vét sông và công chính
(10/5/1902); Công ty Đông Dƣơng rừng và diêm (1901); Công ty nhà máy cƣa và
xƣởng diêm Thanh Hóa (1905); Công ty nhà máy gạch ngói Đông Dƣơng
(5/1909); Công ty ô-xy và a-xê-ty-len Viễn đông (9/1909); Công ty nhà máy xay
gạo Đông Dƣơng (1910), kinh doanh xay gạo ở Bắc Kỳ (Hải - phòng); Công ty
nhà máy xay gạo Viễn Đông (1916), kinh doanh xay gạo ở Nam Kỳ (Chợ Lớn);
Công ty nhà máy giấy Đông Dƣơng (1913).
Về vận tải: Công ty Pháp xe lửa Đông Dƣơng và Vân Nam (10/8/1901).
Về thƣơng mại xuất nhập khẩu: Công ty thƣơng mại và hàng hải Viễn đông
(1909); Tổng công ty Viễn đông (1917)...
Đi đôi với việc thành là những công ty lớn nói trên, ở Đông Dƣơng cũng
thành lập những công ty của tƣ bản thực dân, nhƣ: Công ty vô danh nhà máy rƣợu
miền trung Trung Kỳ (1912); Công ty vô danh Pháp khai thác thuộc địa ở Trung
Kỳ, Bắc Kỳ (1913); Công ty mới đồn điền cao su Tân - thanh - đông (1915)…
Thời kỳ 1919-1929: Đại chiến thế giới thứ nhất kết thúc, Pháp là nƣớc
thắng trận. Tuy nhiên, thời kỳ này cuộc cạnh tranh giữa các nƣớc đế quốc chủ
nghĩa diễn ra gay gắt hơn, chủ nghĩa đế quốc Phát buộc phải tăng cƣờng chạy
đua giành các nguồn nguyên liệu từ thuộc địa. Cùng với đó là kinh nghiệm về sự
đóng góp sức ngƣời và tiền của của Đông Dƣơng qua chiến tranh làm cho tƣ bản
tài chính và chính giới Pháp càng chú ý đến khả năng bóc lột Đông Dƣơng
(Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Đông Dương đã đóng góp: Về người, Đông
Dương cung cấp 48.922 lính nhập ngũ, trong số đó 43.430 sang châu Âu, 51,000
người lao động được tuyển, trong số đó 48.981 người sang châu Âu; Về tài
chính, Đông Dương đóng góp 367 triệu frăng…; Về kinh tế, Đông Dương cung
cấp 335.882 tấn sản vật các loại...)[88, tr.56]. Hơn nữa, sau một thời kỳ các
phong trào yêu nƣớc lần lƣợt bị dìm trong biển máu, sức đối kháng của dân tộc
ta chuyển sang một giai đoạn phát triển âm ỷ và có phần giảm sút. Do vậy, chủ
61
nghĩa đế quốc Pháp có đủ điều kiện thuận lợi đề tăng cƣờng và đẩy mạnh đầu tƣ
khai thác ở Đông Dƣơng (chủ yếu ở Việt Nam). Trên văn chƣơng kinh tế và
chính trị, trên báo chí cũng nhƣ trong nghị trƣờng, bọn đế quốc đi sâu hơn vào
việc nghiên cứu tài nguyên Đông Dƣơng và ra sức hô hào tăng cƣờng xuất khẩu
tƣ bản sang Đông Dƣơng.
Những công ty hiện có tăng nhanh thêm cổ phần, phát hành thêm trái khoán,
cụ thể:
Ngân hàng Đông Dƣơng, vốn ban đầu là 8 triệu phơ-răng (1875), tăng lên 48
triệu năm 1910, thì đến năm 1920 tăng thành 72 triệu.
Công ty cao su Đông Dƣơng, vốn ban đầu là 1,5 triệu phơ-răng (1910), tăng
lên 3 triệu năm 1912 thì đến năm 1919 tăng lên thành 6 triệu, năm 1920 là 8 triệu,
năm 1923 là 10 triệu.
Công ty Pháp Mỏ than Bắc Kỳ, vốn ban đầu là 4 triệu phơ-răng (1888), tăng
lên 6 triệu năm 1896, năm 1920 tăng lên thành 8 triệu, năm 1922 là 16 triệu, năm
1928 là 38,4 triệu.
Trong khi đó, một loạt công ty mới xuất hiện cũng tăng nhanh vốn đầu tƣ tƣ
bản trong thời kỳ này, nhƣ:
Công ty mỏ và Luyện kim Đông Dƣơng (1919), khai thác mỏ kẽm Chợ Điền,
vốn ban đầu là 1,6 triệu phơ-răng, năm sau tăng lên thành 16 triệu.
Công ty tài chính Pháp và thuộc đại (12/11/1912), vốn ban đầu là 5 triệu,
năm sau tăng lên thành: 10 triệu, 1923 là 20 triệu, 1924 là 30 triệu, 1926 là 50 triệu,
1927 là 60 triệu, 1929 tăng lên 96 triệu.
Ngân hàng công thƣơng Pháp - Hoa (1922), vốn lúc đầu là 10 triệu, năm
1925 tăng lên thành 20 triệu, 1926 là 40 triệu, 1927 là 50 triệu.
Công ty Pháp Mỏ than Hạ Long - Đồng Đăng (1924), vốn tƣ bản lúc đầu là
4,8 triệu phơ-răng, năm 1926 tăng lên thành 11 triệu.
Công ty vô danh Mỏ than Tuyên Quang (1924), vốn tƣ bản lúc đầu là
800.000 phơ-răng, cùng năm đó tăng lên thành 2 triệu, 1926 là 3 triệu, 1927 là 4
triệu, 1928 là 8 triệu.
Công ty mới Phốt-phát Bắc Kỳ (1924), vốn đầu tƣ lúc đầu là 200.000 phơ-
răng, tháng 2/1925 tăng lên 3 triệu, tháng 3/1925 tăng lên 5,5 triệu, năm 1928 tăng
lên 11 triệu.
Công ty Đông Dƣơng mỏ than và kim khí (1924), khai thác than Phấn Mễ,
62
kẽm Làng Hít, vốn tƣ bản lúc đầu là 5 triệu phơ-răng, năm 1927 tăng lên thành 10
triệu, cùng năm đó tăng lên 20 triệu.
Công ty mỏ thiếc Đông Dƣơng (1926), vốn tƣ bản lúc đầu là 18 triệu phơ-
răng, năm 1928 tăng lên thành 22 triệu.
Công ty mỏ thuộc địa (1928), vốn tƣ bản lúc đầu là 1 triệu phơ-răng, năm
1929 tăng lên thành 10 triệu, cùng năm đó tăng thành 20 triệu.
Liên hợp mỏ Đông Dƣơng (1928), vốn tƣ bản lúc đầu là 8 triệu phơ-răng.
Liên hợp tài chính Viễn đông (1929), vốn tƣ bản lúc đầu 15 triệu phơ-Răng.
Đi đôi với việc thành lập những công ty lớn có trụ sở ở Pháp nói trên, ở
Đông Dƣơng cũng thành lập những công ty tƣ bản, nhƣ: Công ty nông nghiệp, tài
chính, công nghiệp và mỏ Đông dƣơng (1928)…
Thời kỳ 1919 – 1929 đƣợc coi là thời kỳ phồn thịnh của việc xuất khẩu
tƣ bản. Năm 1920, với 74 công ty lớn của Pháp kinh doanh về thƣơng mại,
công nghiệp, nông nghiệp và lâm nghiệp có trụ sở ở Pháp, tổng số tƣ bản danh
nghĩa là 255.634.000 phơ-răng (trong đó phần Ngân hàng Đông dƣơng là 72
triệu), nhƣng chỉ trong sáu năm (1924 – 1929) số tƣ bản danh nghĩa bỏ thêm
của toàn bộ các loại công ty có trụ sở ở Pháp và ở Đông Dƣơng đã lần lƣợt tăng
lên nhƣ sau:
1924: 248,9 triệu phơ-răng
1925: 201,1 triệu phơ-răng
1926: 633,1 triệu phơ-răng
1927: 656,3 triệu phơ-răng
1928: 752,5 triệu phơ-răng
1929: 729,1 triệu phơ-răng
Tổng cộng.... 3.221,0 triệu phơ-răng [88, tr.57-60].
Trƣớc cơn sốt mỏ của giới tƣ bản, hoạt động khai mỏ ở các tỉnh Bắc Kỳ,
trong đó có Lào Cai liên tiếp tăng theo từng năm. Điều này đƣợc phản ánh qua việc
cấp giấy phép cho khai mỏ ở Bắc Kỳ từ năm 1923 đến năm 1927, cụ thể đƣợc thể
hiện dƣới bảng biểu thống kê sau:
63
Bảng 3.1. Số lƣợng Giấy cấp phép khai mỏ ở các tỉnh thuộc Bắc Kỳ (1923 – 1927)
STT Tỉnh 1923 1925 1926 1924 1927
347 267 1 Hà Nội 69 188 202
Bắc Kan 2 60 45 66 101 30
Cao Bằng 3 4 28 25 170 3
4 Hà Giang 8 0 5 7 69
Lạng Sơn 5 35 29 29 49 142
Lào Cai 6 5 14 44 0 7
Sơn La 7 1 7 9 27 0
Thái Nguyên 8 17 12 95 148 100
Tuyên Quang 9 70 72 95 148 100
10 Yên Bái 33 20 24 48 92
302 415 661 759 825 Tổng cộng:
[181, tr.6]
Từ bảng 3.1 về việc cấp giấy phép khai thác mỏ ở các tỉnh Bắc Kỳ từ năm
1923 đến năm 1927, chúng ta thấy:
Thứ nhất, nhìn chung nhiều tỉnh ở Bắc Kỳ đƣợc thực dân Pháp cấp số lƣợng lớn giấy phép khai thác mỏ giai đoạn 1923 – 1927. Ngoài ra, số lƣợng giấy phép cấp cho các tỉnh liên tục tăng.
Thứ hai, đối với Lào Cai, tổng số giấy phép đƣợc cấp khai mỏ là 70 giấy phép. Nhƣ vậy, số giấy phép đƣợc cấp ở Lào Cai gần nhƣ thấp nhất trong 10 tỉnh thành ở Bắc Kỳ (Lào Cai đứng trên Sơn La (44 giấy phép))..
Thứ ba, giấy phép cấp cho khai mỏ Lào Cai liên tục tăng trong 3 năm (1923 – 1925). Cụ thể, năm 1923 có 5 giấy phép, năm 1924 có 14 giấy phép và năm 1925 có 44 giấy phép đƣợc cấp.
Thứ tƣ, số lƣợng giấy phép đƣợc cấp ở Lào Cai sụt giảm trong những năm 1926 và 1927. Cụ thể, năm 1926 chỉ đƣợc cấp 7 giấy phép và không có giấy phép nào đƣợc cấp năm 1927. Sở dĩ có hiện tƣợng này là do nhu cầu của thị trƣờng thế giới và tƣ bản Pháp đã “hạ nhiệt” với nguyên liệu than chì.
64
Nhìn chung, trƣớc năm 1897, chính quyền thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn ở Việt Nam. Tại Lào Cai, chính quyền thực dân cũng gặp phải những khó khăn tƣơng tự, nhƣ: tình hình chính trị chƣa ổn định, các cuộc nổi dậy chống Pháp của đồng bào các dân tộc Lào Cai, sự chống đối của ngƣời Hoa với chính quyền thực dân, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Điều này đã làm hạn chế các hoạt đông khai mỏ ở Lào Cai. Trƣớc năm 1897, trên vùng đất Lào Cai mới ghi nhận một số hoạt động tìm kiếm, nghiên cứu mỏ sắt, mỏ than.
Bƣớc sang thế kỷ XX, tình hình chính trị ở Việt Nam có phần ổn định, thực dân Pháp đã cho xây dựng các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho mƣu đồ khai thác và cai trị, đặc biệt từ năm 1924 thị trƣờng thế giới và Pháp rất cần nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Vì vậy, hoạt động tìm kiếm và khai thác mỏ ở Lào Cai diễn ra nhộn nhịp đầu thế kỷ XX.
3.1.2. Hoạt động thăm dò, khai thác mỏ của người Pháp ở Lào Cai 3.1.2.1. Nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm thăm dò mỏ
Thời thuộc địa, mỏ đƣợc phân thành 3 loại: Mỏ nhiên liệu; mỏ kim loại; và các loại mỏ khác. Trên vùng Lào Cai, có cả 3 loại mỏ này. Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu thị trƣờng và mục đích khai thác của chính quyền thực dân Pháp, các mỏ này đƣợc tìm kiếm, khai thác vào những thời điểm khác nhau.
Ngay từ những năm đầu sau khi bình định đƣợc Bắc Kỳ, ngƣời Pháp đã tiến hành khai thác những mỏ đã có, đồng thời bắt đầu tìm kiếm, thăm dò các loại mỏ ở các tỉnh, trong đó có Lào Cai.
Ở khu vực Lào Cai, vào năm 1892 – 1893, hai ngƣời Pháp là Mallet và Sarrant đã có những nghiên cứu và báo cáo sơ bộ về mỏ ở Lào Cai. Có thể nói, đây là hai ngƣời Pháp đầu tiên tiến hành thăm dò và nghiên cứu về mỏ ở Lào Cai trong thời thuộc địa Pháp. Sau đó, hai ngƣời Pháp khác là Leclère và Guillemoto (đều là kỹ sƣ mỏ), đã tiến hành các cuộc tìm kiếm rộng khắp trên các thung lũng thuộc vùng thƣợng sông Hồng, gồm cả Lào Cai. Năm 1898, Leclère đã làm một báo cáo khá tỉ mỉ về các vỉa mỏ ở Lào Cai. Từ kết quả thăm dò và báo cáo này đã tạo dựng cho chính quyền Pháp và các công ty tƣ bản Pháp một “niềm hy vọng rất lớn về những kết quả quan trọng khai mỏ ở Lào Cai trong tương lai” [194, tr.6]. Với những dự báo tƣơi sáng về mỏ ở Lào Cai, cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nhiều hoạt động tìm kiếm, thăm dò, nghiên cứu mỏ ở Lào Cai đã diễn ra.
3.1.2.1.1. Mỏ nhiên liệu Mỏ than: cuối thế kỷ XIX, ngƣời Pháp cho tìm kiếm, thăm dò, nghiên cứu
65
các mỏ than béo, than nâu, than đá ở Lào Cai. Kết quả là đã tìm thấy đƣợc các mỏ than ở Lào Cai.
Năm 1898, Theo báo cáo của Leclère, ở xung quanh thành phố Lào Cai có 3 mỏ than béo: Mỏ thứ nhất ở phía Tây; mỏ thứ hai cũng ở phía Tây; mỏ thứ ba bên bờ phải của sông Hồng, bên phía dƣới, giáp bệnh viện Cốc Lếu (hôpital de Kokléou). Vào thời điểm cuối năm 1898, thì không có một khai thác mỏ than béo nào đƣợc tiến hành ở Lào Cai.
Ngƣời Pháp đã phát hiện ra một dải vỉa than béo kéo dài từ Yên Bái lên đến Lào Cai. Trƣớc năm 1898, việc khai thác một số vỉa than béo đã đƣợc ngƣời Pháp tiến hành ở các khu vực xung quanh thành phố Lào Cai. Ở khu vực phía Nam, cách trung tâm Lào Cai chừng 6km, ngƣời Pháp đã cho mở một mỏ tƣơng đối lớn, gần giáp sông Hồng. Mỏ này do Công ty “Correspondances fluviales” sở hữu. Công ty này đã đào sâu xuống lòng đất khoảng 40m, sâu hơn rất nhiều so với lòng sông Hồng.
Chất lƣợng than mỡ khai thác ở mỏ này có chất lƣợng rất tốt. Theo đánh giá của Leclère, chất lƣợng than béo ở Lào Cai tốt hơn rất nhiều lần ở Hòn Gai. Tuy nhiên, vào năm 1898, một vụ tai nạn ở mỏ này đã làm sập gần nhƣ toàn bộ. Sau một vài mùa mƣa, chính quyền đã sử dụng khu mỏ này để chứa nƣớc lũ và bị bỏ hoang [194, tr.8].
Từ khi đánh chiếm Lào Cai, theo ghi chép của Monod, ông ta đã tới Yên Bái sau đó ngƣợc sông Hồng lên Lào Cai để tìm kiếm các loại mỏ. Khi tới Lào Cai, ông ta đã khám phá ra một dải mỏ than béo kéo dài từ vùng Vân Nam cho tới khu vực Bản Lầu (nay thuộc huyện Mƣờng Khƣơng) của Lào Cai. Tƣ lệnh đạo quan binh Lào Cai khi đó là Leclère đã cho xây dựng một xƣởng nhỏ để thử nghiệm khai thác vừa nghiên cứu về khả năng khai thác và chất lƣợng than béo ở Lào Cai [194, tr.92]. Monod xác nhận có 3 mỏ: ở Bản Lầu, Cốc Lếu và Bản Phiệt.
Trong một nghiên cứu, tìm kiếm mỏ than ở Lào Cai, tập tài liệu lƣu trữ “Những ghi chép về địa chất lưu vực và phụ lưu sông Hồng từ 1891 đến 1898”, có một bản báo cáo đề ngày 1/11/1898 của E.Sappan về “Đất Đệ Tam kỷ (Terrain tertiaire) của sông Hồng” cho biết về những phát hiện mới trong gần chục năm điều tra trên các lƣu vực sông này [198]: Bên cạnh những phát hiện về các lớp than béo của Lào Cai không kết quả là những phát hiện cả một vùng than rộng lớn thuộc Đệ Tam kỷ, một loại than nâu béo đƣợc cho là tuyệt vời của lƣu vực sông Hồng có giới hạn ở phía Bắc là Bảo Hà, ở phía Đông là sông Chia, ở phía Tây là dãy Tam
66
Đảo, ở phía Nam là Việt Trì, có bề rộng trung bình 15km và chiều dài từ Việt Trì đến Hạ Hòa (Phú Thọ).
Việc tiến hành nghiên cứu các tầng 1, 2, 3, 4 trong cấu tạo của bể than Đệ
Tam kỷ đã cho kết quả:
- Tầng 1: Tầng đá vôi, dày từ 300m đến 400m, trải từ sông Lô, Yên Lƣơng, Ba Triệu, hữu ngạn sông Hồng (tỉnh Hƣng Hóa) đến Ngòi Tia, Lang Kai, Bảo Hà (Lào Cai).
- Tầng 2: Tầng Bái Đƣờng, dày từ 200m đến 300m, trải từ Ngòi Tia - Bái
Đƣờng, Yên Bái - hữu ngạn sông Yên Lƣơng.
- Tầng 3: Tầng Poudingue, dày từ 200m đến 300m, trải từ Ngòi Tia, Ngòi
Lau, Ba Hoa, Ngòi Hóp.
- Tầng 4: Tầng Yên Bái, dày 200m, trải từ Yên Bái, Trái Hút đến Ba Hoa,
Ngòi Tia, sông Hồng, Ngòi Hóp.
Đây là những tầng chất đốt, là than béo rất tốt cho công nghiệp, cho nghề rèn, chế tạo gas thắp sáng và nếu trộn với than gầy của Bắc Kỳ sẽ thu đƣợc sản phẩm tốt để chế tạo gạch.
Từ việc nghiên cứu lƣu vực sông Hồng và những phụ lƣu của nó, ngƣời Pháp dự tính mở rộng phạm vi thăm dò, điều tra sang cả các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Cao Bằng... Vì theo các nhà nghiên cứu địa chất ngƣời Pháp, do cấu tạo của Đệ Tam kỷ nên nó không tách rời nhau ở Bắc Kỳ.
Cũng trong làn sóng tìm kiếm mỏ than ở Lào Cai, ngày 26/01/1898, Dupont Charles công bố kết quả của mình về việc tìm kiếm đƣợc mỏ than đá ở Nam Thy. Dupont Charles mô tả vị trí mỏ, khu vực và bán kính mỏ than đá Song-My (Lào Cai).
Sau mỏ Nam Thy, Ngày 6/4/1898, Ch. Dupont gửi đơn thông báo việc thăm
dò mỏ than đá Song My tại Lào Cai. Ông đặt tên mỏ là Song - My, đồng thời vẻ chỉ
dẫn đƣờng đến khu mỏ tìm đƣợc, phạm vi khu mỏ thăm dò [164].
Từ kết quả tìm kiếm, thăm dò các mỏ than ở Lào Cai, chúng tôi đi vào
nghiên cứu về hoạt động khai thác mỏ than ở Lào Cai. Tuy nhiên, chúng tôi gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tƣ liệu về các số liệu khai thác mỏ than qua
các năm. Khó khăn này bắt nguồn từ lý do hoạt động khai thác mỏ than ở Lào Cai
diễn ra nhỏ, lẻ và chỉ trong một thời gian ngắn nên chƣa có công trình nghiên cứu
sâu về hoạt động khai thác than nơi đây. Tình hình khai thác than ở Lào Cai đƣợc
tác giả Cao Văn Biền nói đến, khi nghiên cứu về “Công nghiệp than Việt Nam
67
thời kỳ 1888 – 1945”: Năm 1920, bể than Lào Cai do công ty thiếc và vonfram
Bắc Kỳ khai thác, than chủ yếu dùng trong việc luyện thiếc. Tuy nhiên, trữ lƣợng
bể than Lào Cai không đáng kể nên hoạt động khai thác diễn ra nhỏ, lẻ và trong
một thời gian ngắn [19, tr.20].
3.1.2.1.2. Mỏ kim loại
Mỏ sắt ở Bản Vược (Bát Xát): theo nghiên cứu của tác giả Tạ Thị Thúy, tác
giả cho rằng: ở Lào Cai, mỏ sớm nhất đƣợc điều tra là mỏ sắt Bản Vƣợc (mỏ ở một làng nhỏ nằm cách đồn Bát Xát và Trinh Thƣờng 2km) [105, tr.59].
Tháng 2/1896, kỹ sƣ mỏ Zeclère khi có đƣợc thông tin về mỏ Bản Vƣợc đã
tới thăm dò. Tháng 3/1898, Zeclère viết báo cáo cho Toàn quyền Đông Dƣơng về
kết quả điều tra.
Từ thông tin về mỏ sắt Bản Vƣợc, tháng 10/1896, Bélard - kỹ sƣ mỹ nghệ và
công nghiệp (Ingénieur des Ats et Manufactures), do Ủy ban Rèn từ Chính quốc
gửi sang thuộc địa đã tới Bản Vƣợc điều tra. Việc điều tra cho thấy mỏ Bản Vƣợc
trải rộng trên một cánh đồng cạnh Sông Hồng ở độ cao từ 30m đến 100m. Đây là
mỏ có giá trị rất lớn về công nghiệp, với hàm lƣợng kim loại cao, đƣợc thể hiện
dƣới dạng magnétide hay oxít sắt (Fer oxydules), trong đó phần lớn là quặng sắt,
tụ thành từng khối lớn (compacte cristalline), với màu xám của sắt và tiếng kêu rất
rõ nét của kim loại, trữ lƣợng từ 2.200 tấn đến 2.600 tấn. Việc khai thác mỏ này
không mấy khó khăn, cũng không tốn kém do không phải xây dựng hầm lò, dễ
tuyển mộ nhân công vì ngƣời Việt không thích làm việc dƣới hầm lò và dễ chấp
nhận khai thác lộ thiên [218].
Ngay khi điều tra xong, Bélard đã quyết định làm tờ khai xin cấp phép cho
một khu thăm dò và đƣợc Thống sứ Bắc Kỳ chấp nhận qua tờ thƣ ngày
24/10/1898. Tháng 11/1898, Bélard về Pháp, trình mẫu quặng cho Ủy ban Rèn và
khi Ủy ban này từ chối can thiệp, ông ta đã quyết định tự khai thác bằng nguồn
vốn riêng và bằng nhân công ngƣời bản xứ trong vùng, với mức lƣơng khoảng 0,20 đồng/ngày và năng suất của một ngƣời có thể là 1m3/ngày, chi phí sẽ là khoảng 0,50 francs cho 6 tấn [218].
Từ những thí nghiệm ban đầu có vẻ khả quan, Bélard định sẽ chế biến sắt tại
chỗ và sẽ xây dựng các lò nung ở Bản Vƣợc. Bélard cho rằng việc lập một trung
tâm công nghiệp tại thung lũng sông Hồng sẽ chỉ có thể là một sự kiện rất tốt. Đó sẽ
là hạt nhân thu hút dân cƣ đến cƣ trú vì dân vùng cao sẽ xuống, ít nhất là vào mùa
68
Đông, dân từ Vân Nam cùng sẽ di cƣ đến đây. Hơn nữa, lò cao sẽ giúp cho đƣờng
sắt việc buôn bán đƣợc đảm bảo và hấp dẫn. Than cung cấp cho lò nung này sẽ
đƣợc tìm thấy từ Vân Nam. Nhƣ vậy, với những việc làm và dự định của Bélard,
Pháp muốn biến mỏ Bản Vƣợc thành một trung tâm công nghiệp khai thác sắt từ
việc xây các lò cao luyện sắt bằng nhân công ngƣời Việt, ngƣời Hoa và bằng than
của Vân Nam, Trung Quốc.
Ngày 23/5/1900, một bản báo cáo sơ bộ về mỏ sắt Bản Vƣợc đƣợc gửi từ
Lào Cai về cho chính quyền thuộc địa để triển khai kế hoạch [218].
Theo nghiên cứu của ngƣời Pháp, Bắc Kì có hai loại mỏ sắt là Oligiste và Magnétite: Loại Oligiste (Fe203) có các mỏ sắt ở Cao Bằng (có hàm lƣợng sắt là 56%), mỏ sắt ở Thái Nguyên (rất tinh khiết, hàm lƣợng 70%); Loại Magnétite (Fe304) là mỏ Bản Vƣợc, mỏ gần Bát Xát, trên bờ sông Hồng, cách Lào Cai 20 km về phía Đông Bắc [212].
Năm 1900, trong một công trình nghiên cứu về mỏ sắt ở Lào Cai, ngƣời Pháp đã công bố những thông tin quan trọng về vỉa sắt Bản Vƣợc: ở phía Bắc Lào Cai, bên bờ phải của sông Hồng, có vỉa sắt thuộc Bản Vƣợc. Vỉa này có trữ lƣợng tƣơng đối lớn. Vỉa này kéo dài từ biên giới Trung Hoa tới Lào Cai. Vào năm 1900, Monod đã công bố một chỉ dẫn khá tỉ mỉ về vỉa sắt Bản Vƣợc. Monod đã nghiên cứu, kiểm tra và đánh giá trữ lƣợng và chất lƣợng sắt ở Bản Vƣợc có thể khai thác và xây dựng tại đây một nhà máy sản xuất gang thép [173, tr.100].
Đầu thế kỷ XX, trong một Báo cáo năm 1906 về Bản thông báo về bản đồ địa chất và mỏ năm 1906 đã đƣa ra kết quả điều tra 12 nhóm kim loại, phân bố trên các địa phƣơng ở Bắc Kỳ. Bắc Kỳ có 4 nhóm sắt, trong đó có nhóm sắt ở Lào Cai, cụ thể: nhóm Bát Xát, Lào Cai; nhóm Thái Nguyên, trong đất đỏ thuộc Đệ Nhị kỷ; nhóm Chợ Rã, Bắc Kạn, trong đá vôi; nhóm Cao Bằng cũng đƣợc hình thành trong đá vôi [105, tr.75].
Năm 1911, tác giả Henry Russier và Henry Brenier trong cuốn Đông Dương thuộc Pháp (L’Indochine francaise), đã trình bày những kết quả thăm dò, nghiên cứu mới nhất đầu thế kỷ XX về kim loại. Trong đó, tác giả cung cấp thông tin về mỏ sắt ở Lào Cai: … Mỏ sắt, gồm các nhóm:
Nhóm Bát Xát, Phố Lu, Ca Vinh, Tây Hà (Lào Cai) đƣợc tạo thành từ Magnétile và d’hématite. Ở Bát Xát, nhiều nhất là Magnétile, hàm lƣợng 64,3% sắt. Ở Tây Hà lại là Hématite, hàm lƣợng sắt cao hơn với 65,45%.
69
Nhóm sông Cầu, mỏ Na Khôn và Cù Vân (Thái Nguyên) (hàm lƣợng magné
oxit cao nhất là 7,4%). Mỏ magné lớn còn đƣợc tìm thấy ở Niệm Sơn (Phủ Liễn), có
hàm lƣợng magné kim loại 37,30% và sắt kim loại 27,55 %.
Nhóm bể sông Bằng Giang, trong đó mỏ tốt nhất là mỏ Xát có hàm lƣợng
66,10 % sắt kim loại.
Ngoài ra, quặng sắt cũng đƣợc tìm thấy rải rác ở Đông Triều, trên đảo Hai
Sông cũng nhƣ ở Hòn Gai, nhƣng hàm lƣợng sắt thấp hơn (42,60% đến 57,65%).
Tất cả các quặng sắt đều có chất lƣợng tốt, ít phosphoreux và một số vỉa, nhất là các
vỉa Bát Xát và mỏ Na Khôn là những mỏ rất giàu [179, tr.187-188].
Mỏ đồng: Cuối thế kỷ XIX, trong báo cáo của ngƣời Pháp về những điểm mỏ
đồng ở Bắc Kỳ, thì Lào Cai có điểm mỏ đồng. Mỏ đồng thuộc Beauverie – một kỹ
sƣ mỏ, nằm bên bờ sông Hồng, giữa TrinhThƣờng và Long Po (Lào Cai). Tại đây, ngƣời ta tìm thấy những mẫu quặng có chứa Azurite (H2CU3 C2O8) và Malachite (H2Cu2CO5) [105, tr.60-61].
Năm 1921, Cơ quan quản lý mỏ đã kiêm kê các điểm mỏ và xem xét tình
hình khai thác ở các mỏ. Về mỏ đồng, Bắc Kỳ có 11 điểm mỏ đồng, trong đó Lào
Cai có 1 điểm ở Mật Đông.
Năm 1926, Tạp chí Kinh tế Viễn Đông cung cấp một số thông tin về mỏ
đồng ở Lào Cai, cụ thể: các công ty mỏ của Pháp đã tìm kiếm và phát hiện ở phía
Tây của Lào Cai có các vỉa đồng có trữ lƣợng tƣơng đối lớn: vỉa thứ nhất ở Hoa-
Loung -San; vỉa thứ hai ở Kong-Si -Tay ở Ta-Phing. Hai mỏ này có thể khai thác,
quặng đồng chứa khoảng 50% đồng. Tuy nhiên giáo thông cực kì khó khăn, chỉ có
thể tiếp cận từ phía Lai Châu qua đƣờng sông Đà [189, tr.155].
Trong việc tìm kiếm, khai thác đồng ở Lào Cai, tƣ bản pháp đã thành lập ra
Công ty Mỏ đồng Toung – Chang (Mine de Cuivre de Toung – Chang, LaoKay),
Công ty này có trụ sở tại số 109, đƣờng Pellerin, Sài Gòn [177, tr.939].
Về mỏ chì, ngƣời Pháp cũng phát hiện ở phía Tây Lào Cai, cách Sa Pa 30 km
có một mỏ chì, quặng chì ở đây chứa 70% chì [189, tr.155].
Mỏ kẽm (Mỏ Marie Thérèse): Cuối thế kỷ XIX, ông Francois Dupont tìm
thấy mỏ kẽm ở thôn Nậm Chảy, thuộc Keschan (Lào Cai). Sau khi tìm thấy mỏ
kẽm, ngày 10/11/1896, Francois Dupont gửi lá đơn đến Tƣ lệnh Tiểu quân khu Lào
Cai về việc xác nhận khu mỏ mà ông tìm kiếm đồng thời nộp một khoản tiền kèm
theo đơn [164].
70
Mỏ vàng: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân cho tìm kiếm vàng ở Lào Cai. Quá trình tìm kiếm đã phát hiện đƣợc những điểm mỏ có khoáng chất vàng:
Ngày 9/7/1898, Lichtenfelder William công bố về khoáng chất vàng mà ông tìm
đƣợc ở khu vực giữa các làng Trinh Thuong và Ni-Thi, đặt tên mỏ là Élisat...[164].
Năm 1901, Laire Hector công bố khoáng chất vàng tìm thấy ở khu vực ngôi làng Nhat Son (Chỗ này nằm cách khoảng 250m từ chỗ ngã rẽ của con đƣờng Lào Cai – Bat Xat và Lào Cai – Nhat Son)...[164].
Năm 1911, Bà Nguyễn Thị Ba tìm đƣợc khoáng chất vàng ở gần làng Nhi Xa
Chai (gi xan) - cách đƣờng Côc Lêu (Lào Cai) 1km, tên khu mỏ là Lilly...[165].
Nhìn chung, việc tìm kiếm, nghiên cứu mỏ kim loại trên vùng đất Lào Cai đƣợc bắt đầu từ khá sớm. Tuy nhiên, do nhƣng do những khó khăn về việc thiết lập cơ sở hạ tầng, do nhu cầu thị trƣờng thế giới và chính quyền thực dân chƣa thực sự “sốt” nguồn nguyên liệu này nên trƣớc năm 1929 các mỏ kim loại ở Lào Cai hầu nhƣ chƣa đƣợc khai thác, các mỏ này đƣợc đƣa vào mỏ dự trữ chiến lƣợc của Pháp ở Việt Nam.
3.1.2.1.3. Các loại mỏ khác Mỏ diêm tiêu: Năm 1904, Ông Triêu Văn Chi ở Lào Cai tìm thấy mỏ diêm
tiêu (salpêtre) trên vùng đất “Tuy Deo” (thuộc khu Bảo Hà) [125].
Mỏ amiante (amiăng): Năm 1904, K.Lion Cref và Ce tìm thấy mỏ amiante
(amiăng) ở khu vực Núi Nhai (Thuộc địa phận Lào Cai - Yên Bái) [124].
Khoáng chất thuộc loại 2: Đầu thế kỷ XX, các cuộc tìm kiếm, thăm dò mỏ
trên vùng đất Lào Cai đã tìm thấy nhiều mỏ chứa khoáng chất thuộc loại 2, cụ thể:
Năm 1911, Ông Phùng Văn Cốc tìm thấy chất khoáng loại 2 tại khu vực trung tâm làng Sine Cai- Yaho, cách Phong-Cho 17km về phía tây bắc, tên công trình thăm dò là Alfred [165].
Năm 1911, Ông Vũ Văn Đông tìm thấy khoáng chất loại 2, cách vành đai
405.700m về phía đông nam, tên công trình là Juliette [165].
Năm 1911, Ông Nguyễn Văn Hải tìm thấy khoáng chất loại 2 cách làng Na
Noi 100m về phía bắc, gần một con suối, công trình tên là Emma [165].
Năm 1911, Ông Tạ Văn Lân tìm thấy khoáng chất loại 2 cách vành đai 754 hoặc 764.300m về phía nam và cách đƣờng Vang Oua Toung ở Nam Tsay 100m, công trình tên là Germaine [165].
Năm 1911, Ông Đỗ Ba Thạch tìm thấy khoáng chất loại 2, nằm ở phía đông
71
nam của Ban Moun, phía bên trái của đƣờng Baxat ở Phong Tho và ở đỉnh cách 1km so với điểm cố định Ban Moun. Công trình tên là Alice [165].
Mỏ than chì
Đầu thế kỷ XX, nhu cầu về than chì ở các nƣớc tƣ bản là rất lớn, đặc biệt là
nƣớc Mỹ. Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu nguyên liệu than chì, chính quyền thực
dân cho tìm kiếm và khai thác than chì. Việc khai thác than chì bắt đầu ở Việt Nam
vào năm 1917, bắt đầu ở Quảng Ngãi.
Năm 1917, ở Bắc Kỳ, ngƣời Pháp tìm thấy than chì phân bố dọc sông Hồng,
thuộc Yên Bái, Lào Cai, một phần thuộc địa phận Thái Nguyên, Bắc Kạn. Ở Lào
Cai, ngƣời Pháp tìm thấy than chì đầu tiên ở mỏ Phố Mới, than chì ở đây có hàm
lƣợng từ 50 đến 60 % chì carbon [237, tr.199].
Việc phát hiện và khai thác mỏ than chì ở Lào Cai là điều vô cùng quan
trọng vì nó có thể cung cấp nguyên liệu cho sự phát triển công nghiệp chung của
chính quốc, và cũng là yếu tố tạo sự phát triển cho kinh tế ở thuộc địa. Đây là nguồn
nguyên liệu rất hiếm và thƣờng xuyên đƣợc kiếm tìm ở thị trƣờng âu Châu, Pháp và
Mỹ để sản xuất que hàn, điện cực và nồi lò trong luyện kim.
Hình 3.1. Bản đồ phân bố các mỏ than chì khai thác ở Đông Dƣơng năm 1919 [237, tr.200].
72
Năm 1922, mỏ than chì thứ hai đƣợc phát hiện ở Nậm Thi. Mỏ than chì Nậm Thi rộng tới 8.100 ha, nếu tính đất nhƣợng mỏ khai thác than chì dọc sông Hồng từ Lào Cai xuống Yên Bái, diện tích của nó lên tới 32.000 ha.
Cùng với việc khai thác mỏ Phố Mới, Nậm Thi, từ năm 1926 – 1927, do nguồn lợi từ than chì đã thu hút nhiều công ty Pháp đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm than chì trên địa hạt tỉnh Lào Cai. Họ đã phát hiện một mỏ than chì thứ 3 ở khu vực Bản Lầu (thuộc huyện Mƣờng Khƣơng hiện nay). Mỏ này cách mỏ Nậm Thi khoảng 1,5 km. Đây đƣợc đánh giá là mỏ không có trữ lƣợng lớn, nhƣng chất lƣợng thì cực tốt, 95% chì carbon [174, tr.15].
Nhìn chung, trƣớc năm 1929, ở Lào Cai chỉ duy nhất mỏ than chì đƣợc khai thác. Còn các mỏ khác do nhu cầu thị trƣờng thế giới và chính quyền thực dân chƣa thực sự “sốt” nguồn nguyên liệu nên chƣa có hoạt động khai thác nào. Hiện tƣợng này đƣợc biểu hiện rõ trên Bản đồ chỉ dẫn khai thác mỏ và đất nhƣợng nông nghiệp ở Bắc Kỳ năm 1929.
Trong bản đồ, nhiều tỉnh vùng thƣợng du Bắc Kỳ có nhiều loại mỏ đƣợc khai thác, nhƣ (Cao Bằng khai thác thiếc, kẽm, chì, Tungstene); Tuyên Quang khai thác kẽm, chì; Hà Giang khai thác magiê, phosphates; Thái Nguyên khai thác sắt, kẽm, chì). Tuy nhiên, Lào Cai trong thời điểm này chỉ có một loại mỏ duy nhất đƣợc khai thác – mỏ than chì (graphite). Thống kê này đƣợc tác giả dẫn minh họa qua bản đồ chỉ dẫn dƣới đây [175].
Hình 3.2. Bản đồ chỉ dẫn khai thác mỏ và đất nhƣợng nông nghiệp Bắc Kỳ năm 1929
73
3.1.2.2. Khai thác mỏ than chì (1917 – 1929)
3.1.2.2.1. Thành lập công ty khai thác than chì Ở Pháp và các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây, than chì là một trong những nguyên liệu quan trọng đƣợc sự dụng vào nhiều ngành sản xuất khác nhau, đặc biệt là sản xuất pin điện, ắc quy điện, bút chì. Nhu cầu của Pháp và thế giới về than chì ngày càng tăng nhanh, do sự phát triển của kinh tế - xã hội, trong khi đó, than chì trên thế giới không thực sự nhiều. Chỉ một số nƣớc sở hữu nguồn tài nguyên này, gồm: Madagascar, Srilanca, Canada và Việt Nam. Ở Việt Nam, theo sự thăm dò của ngƣời Pháp, than chì có ở Quảng Ngãi, Lào Cai và Yên Bái và một phần có trong địa phận Thái Nguyên, Bắc Kạn.
Để kịp thời điều hành việc tìm kiếm và khai thác, xuất khẩu than chì ở Đông Dƣơng, chính quyền Pháp cho thành lập Công ty Than chì Đông Dƣơng (Société des graphites de l’Indochine), công ty thành lập ngày 13/7/1915, lúc đầu vốn còn rất khiêm tốn, chỉ với 700.000 francs. Đây là công ty cổ phần, gồm 1.400 cổ đông góp vốn, mỗi cổ đông 500 francs. Tiền thân của Công ty này là Công ty mỏ Pac-van (Société des Mines de Pac-van).
Năm 1922, do làm ăn thua lỗ, 400 cổ đông góp vốn đã bỏ công ty. Điều này dẫn tới việc, Công ty buộc phải giảm vốn kinh doanh xuống còn 500.000 francs vào ngày 15/3/1922. Tuy nhiên, sau đó nhờ những cổ đông mới, Công ty này đã tăng vốn lên 1 triệu francs [229, tr.120].
Trƣớc năm 1924, thị trƣờng than chì trên thế giới tƣơng đối ổn định nhờ nguồn cung đến từ Srilanca. Tuy nhiên, vào năm 1924, phần lớn mỏ than chì ở Srilanca, khi đó là thuộc địa của Anh, đều bị ngƣng hoạt động, do chính sách của chính quyền thuộc địa Anh. Điều này đã gây ra cuộc khủng hoảng trầm trọng than chì trên thị trƣờng thế giới, do cung không đáp ứng đƣợc cầu.
Từ việc mất cân bằng cung cầu, giá bán than chì trên thị trƣờng thế giới tăng nhanh chóng. Khai thác than chì trở thành một nguồn lợi lớn đối với tƣ bản Pháp. Giá than chì năm 1925 là 2.500 francs/tấn, tƣơng đƣơng khoảng 160 đồng bạc Đông Dƣơng/tấn [197, tr.15]. Đầu năm 1926, giá than chì tăng lên 210 đồng bạc/tấn.
Tờ L’Éveil économique de l’Indochine đánh giá: “Sự tăng giá của than chì trên thị trường là điều kiện thuận lợi để đầu tư tài chính cho việc khai thác than chì ở Bắc Kỳ. Điều này thực sự cần thiết và xứng đáng cho việc sáng lập các công ty khai thác than chì ở Lào Cai” [232].
Trƣớc nhu cầu than chì trên thế giới tăng cao, chính phủ Pháp cho thành lập
74
Công ty Đông Dƣơng Than chì (Société indochinoise des Graphites), công ty đƣợc thành lập chính thức ngày 8/4/1925. Đây là công ty chuyên về khai thác mỏ, gồm khai thác mỏ than chì, than hoặc mỏ kim loại và tất cả các loại mỏ khác ở Đông Dƣơng và ở Pháp. Ngoài ra, công ty này còn kinh doanh trong lĩnh vực thƣơng mại mỏ, chế biến mỏ, cũng nhƣ các sản phẩm phụ từ khai thác mỏ.
Lúc đầu, Công ty Đông Dƣơng Than Chì (Société indochinoise des Graphites) đƣợc thành lập và có trụ sở tại Pháp, số 97 đại lộ Malesherbes, Paris. Khi thành lập, Công ty này có vốn kinh doanh là 5 triệu francs. Đây là công ty cổ phần, mỗi cổ phần là 500 francs [220].
Trong Hội đồng quản trị của công ty khi mới thành lập gồm có Eugène Dumond (thành viên Hội đồng quản trị của Công ty Phốt Phát Bắc Kỳ), J.Gollion (Tổng giám đốc Công ty Than Bắc Kỳ), Granval (thành viên Hội đồng quản trị Công ty Kính Đông Dƣơng và Công ty Mỏ Bắc Kỳ), Émile Gué (thành viên Hội đồng quản trị Công ty Công nghiệp than chì Pháp) và Malézieux (thành viên Hội đồng quản trị Công ty Công nghiệp than chì Pháp).
Eugène Dumond sinh năm 1872, đƣợc đánh giá là một trong những ngƣời tiên phong trong việc tìm kiếm và khai thác than chì ở Bắc Kỳ nói chung và Lào Cai nói riêng. Bên cạnh là thành viên quản trị của Công ty Than Chì Đông Dƣơng (Société des Graphites de l’Indochine), Eugène Dumond còn là nhà sáng lập Công ty Thuộc da Đông Dƣơng năm 1912 (Société des Tanneries de l’Indochine), thành viên Hội đồng quản trị Công ty Antimoine Đông Dƣơng (Société des Antimoines de l’Indochine), Giám đốc Công ty Lò cao Bắc Kỳ (Société des Hauts fourneaux du Tonkin), thành viên Hội đồng quản trị Công ty Kính Đông Dƣơng, thành lập năm 1923 có trụ sở tại Hải Phòng (Société des Verreries d’Indochine). Năm 1937, trong chuyến công cán, Eugène Dumond bị tai nạn ô tô và chết ở Algérie.
Cũng từ năm 1925, giá than chì trên thị trƣờng thế giới tăng lên nhanh chóng, đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Công ty Than Chì Đông Dƣơng quyết định chuyển trụ sở chính sang Việt Nam, đặt tại Lào Cai để thuận lợi hơn, thúc đẩy khai thác than chì ở đây.
Ngày 20/6/1925, để tập trung khai thác mỏ than chì ở Lào Cai, Hội đồng quản trị của Công ty Đông Dƣơng Than chì (Société indochinoise des Graphites) chuyển trụ sở chính đến Lào Cai. Vốn của công ty khi mới chuyển đổi là 3,6 triệu francs chi làm 7.200 cổ phần, mỗi cổ phần 500 francs. Hội đồng quản trị đã bổ nhiệm Georges Barondeau làm giám đốc, một ngƣời đƣợc đánh giá là có rất nhiều kinh
75
nghiệm, am hiểu về khai thác mỏ ở vùng thƣợng du Bắc Kỳ. Georges Barondeau từng theo học và tốt nghiệp kỹ sƣ Trƣờng Mỏ Douai (Pháp). Georges Barondeau đến Đông Dƣơng từ năm 1910 với tƣ cách là Giám đốc Công ty mỏ Bắc Kỳ (Société minière du Tonkin), tiếp đó là Giám đốc Công ty Kính Đông Đông Dƣơng (Société des Verreries d’Indochine), Giám đốc Công ty Nƣớc khoáng Vĩnh Bảo (Société des Eaux minérales de Vĩnh Bảo), Giám đốc Công ty Than Tuyên Quang, Công ty Đồng Pia-Ouac (Société des Charbonnages de Tuyên Quang), Công ty Công nghiệp mỏ Đông Dƣơng (Compangie indochinoise d’industrie minière) [231].
So với các công ty khai mỏ ở Việt Nam, thì Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai ra đời khá muộn, ngƣời Pháp đánh giá công ty này thuộc nhóm “Những ngƣời chậm trễ” ở Đông Dƣơng.
Nhờ kinh nghiệm và sự hối thúc của giám đốc mới, Georges Barondeau, việc khai thác than chì ở Lào cai của Công ty Đông Dƣơng Than chì đã có bƣớc tiến triển quan trọng. Công ty đã tiến hành khai thác than chì ở mỏ Nậm Si, bên bờ trái của sông Nậm Thi. Sản lƣợng khai thác tăng lên nhanh chóng. 3.1.2.2.2. Xây dựng nhà máy xử lý quặng than chì Ở Lào Cai Ngƣời ta phát hiện mỏ than chì bên bờ trái của sông Nậm Thi, cách trung tâm Lào Cai khoảng 4km. Mỏ than chì ở Lào cai chạy dọc bờ trái của sông Hồng, cách tuyến đƣờng sắt Hà Nội - Lào Cai chừng 2 đến 4 km. Ngoài ra, than chì còn có ở Phố Lu, Bảo Hà.
Việc phát hiện và khai thác mỏ than chì ở Lào Cai là điều vô cùng quan trọng vì nó có thể cung cấp nguyên liệu cho sự phát triển công nghiệp chung của chính quốc, và cũng là yếu tố tạo sự phát triển cho kinh tế ở thuộc địa. Đây là nguồn nguyên liệu rất hiếm và thƣờng xuyên đƣợc kiếm tìm ở thị trƣờng Âu Châu, Pháp và Mỹ để sản xuất que hàn, điện cực và nồi lò trong luyện kim.
Đánh giá về vỉa than chì ở Lào Cai, Raby cho rằng, đây là dải mỏ kéo dài suốt từ vùng Vân Nam dọc sông Hồng, qua Lào Cai, Yên Bái cho tới tận Phú Thọ, khoảng 175 km. Điều này cho phép và cần thiết phải mở rộng quy mô, số lƣợng các nhà máy tuyển nổi than chì ở Lào Cai và các tỉnh khác, nhằm đảm bảo và tạo điều kiện cho việc mở rộng khai thác than chì ở Lào Cai, cũng nhƣ trong phạm vi địa hạt của Bắc Kỳ [214, tr.325-347].
Qua đánh giá, than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai chứa khoảng 12 đến 15% carbon, do vậy vấn đề chế biến than chì khai thác đƣợc để thu đƣợc than chì có chất lƣợng tốt đƣợc đặt ra. Việc chế biến sẽ giúp tăng giá bán của sản phẩm,
76
giảm chi phí vận chuyển. Trên thực tế, giá mỗi tấn than chì hàm lƣợng 85% là 2.500 francs (168 đồng)/tấn, trong khi đó, than chì thô chƣa qua xử lý chỉ có giá 3 đồng/tấn. Trong khi đó, chi phí các loại khác, nhƣ: vận chuyển, máy móc cho mỗi tấn đã là 20 đồng bạc. Nhƣ vậy, việc khai thác và xuất thô than chỉ ở Lào Cai sẽ không có lãi, thậm chí thua lỗ nặng. Theo đánh giá của các kỹ sƣ mỏ của Pháp, để có 1 tấn than chì đạt tỷ lệ 85% cần phải sử lý 7 tấn than chì thô khai thác đƣợc ở Lào Cai [197, tr.15].
Năm 1926, trong 1 vỉa than chì ở Lào Cai, với trữ lƣợng khoảng 900.000 tấn thì có 450.000 tấn cần phải chế biến để đạt đƣợc than chì có hàm lƣợng 88%. Vì chƣa có nhà máy xử lý, nên số quặng than chì này phải chờ về Pháp xử lý sau đó mới xuất khẩu. Ở Pháp, công ty chuyên xử lý than chì thô thành than chì có hàm lƣợng 99% đƣợc đặt tại Gauchy (miền Bắc nƣớc Pháp).
Trƣớc những yêu cầu bức thiết về việc xây dựng nhà máy xử lý quặng than chì, năm 1926, ý tƣởng xây dựng một nhà máy xử lý quặng than chì ở Lào Cai đƣợc Công ty Đông Dƣơng Than chì nghiên cứu với sự hỗ trợ của Công ty Công nghiệp Than Chì Gauchy (Société industrielle des graphites). Sau khi đƣợc xây dựng, nhà máy này có thể xử lý 250 tấn quặng than chì mỗi tháng, sau đó tăng lên 450 tấn/tháng [231].
Nhà máy này đƣợc xây dựng ngay bên bờ sông Nậm Thi, đƣợc trang bị máy móc, thiết bị hiện đại. Máy tuyển quặng than chì chạy bằng ga, công suất mỗi máy khoảng 180 mã lực. Năm 1927, Công ty tiếp tục đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý quặng than chì thứ hai, ngay cạnh khu mỏ khai thác. Công suất thiết kế có thể xử lý 3.000 tấn/năm. Năm 1928, nhà máy đƣợc đầu tƣ thêm một máy mới công suất 320 mã lực, nâng công suất xử lý quặng chì lên khoảng 300 tấn mỗi tháng [232].
3.1.2.2.3. Nguồn lao động cho khai thác mỏ ở Lào Cai Điều đặc biệt dễ nhận thấy là, ở Bắc Kỳ nói chung và Trung du miền núi Bắc Kỳ nói riêng, thời thuộc Pháp, Lào Cai là tỉnh có diện tích lớn 6 trong tổng số các tỉnh Bắc Kỳ, đứng sau Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang và Lạng Sơn. Nhƣng dân số Lào Cai lại thấp nhất trong tất cả các tỉnh ở Bắc Kỳ.
Năm 1892, dân số tổng của Lào Cai khoảng 40.000 ngƣời, mật độ dân cƣ vô cùng thấp, chỉ 4 ngƣời/km2. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng dân số và mật độ dân cƣ của Lào Cai thấp là do địa hình và tiềm năng phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, là do tình trạng chiến sự, xung đột diễn ra liên miên ở Lào Cai, đặc biệt là khu vực biên giới với Trung Quốc [170, tr.60].
Năm 1921, tổng dân số của Lào Cai là 36.000 dân trong tổng số 6,9 triệu
77
ngƣời của toàn Bắc Kỳ. Mật độ dân cƣ trung bình của Lào Cai năm 1921 cũng thấp nhất so với các tỉnh ở Bắc Kỳ, chỉ có 6 ngƣời/km2 [176, tr.33].
Dân cƣ thƣa thớt dẫn tới thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lƣợng lao động
cho khai thác, phát triển kinh tế, trong đó có khai mỏ ở Lào Cai.
Lao động chính là một trong những lo lắng nhất đối với khai thác than chì nói chung và các mỏ khác ở Lào Cai. Ngoài khan hiếm lao động, thì tình trạng vệ sinh của ngƣời lao động trong các khu mỏ cũng khá tồi tệ. Tuy nhiên, nhìn chung vấn đề đã đƣợc giải quyết. Tờ L'Éveil économique de l'Indochine khẳng định rằng, trên các khu mỏ than chì, Công ty Than Chì Đông Dƣơng đã xây dựng chỗ ở cho công nhân, có vƣờn, khu xung quanh đƣợc phát quang để đảm bảo vệ sinh, trồng cây lọc không khí, đƣờng dẫn nƣớc uống đƣợc thiết lập, xây dựng trạm y tế. Cách mỏ Nam Si 35 km, ngƣời Pháp cho thiết lập một trạm khí tƣợng ở độ cao 1.000 m, để theo dõi khí hậu, dự báo thời tiết [190]. Bên cạnh khu mỏ than chì ở Lào Cai, Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai cho trồng nhiều cây khuynh diệp để lọc không khí, đồng thời cũng trồng một ít cà phê.
Về vấn đề lao động, đây là vấn đề lớn, gặp nhiều khó khăn nhƣng theo đánh giá của ngƣời Pháp, vấn đề này có thể đƣợc giải quyết, bằng việc tuyển mộ lao động ngƣời Việt ở đồng bằng sông Hồng lên. Họ cũng đặt ra khả năng, nếu khó khăn quá, có thể sử dụng lao động ngƣời Hoa. Lực lƣợng này tƣơng đối dồi dào, sống ở quanh vùng sông Nậm Thi.
Ngay sau khi đặt trụ sở ở Lào Cai, cùng với việc tăng vốn, công ty Đông Dƣơng Than chì đã mở rộng quy mô, phạm vi thăm dò và khai thác, chạy dọc theo bờ sông Hồng dài 115 km, với tổng diện tích khoảng 42.000ha. Công ty này đã vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các công ty khác, tuy nhiên nó đã đánh bại các đối thủ khác để độc chiếm khai thác than chì ở Lào Cai.
Năm 1926, vốn của Công ty đã tăng từ 3,6 triệu francs lên 10 triệu francs. Lãi dòng ƣớc tính mỗi năm đạt từ 3 đến 5 triệu frans [231]. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sức mạnh tài chính của Công ty Đông Dƣơng Than chì từ năm 1925 là sự tham gia góp vốn của các công ty, ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Đông Dƣơng (Banque de l’Indochine), Công ty Tàu điện Đông Dƣơng (Compagnie française des Tramways de l'Indochine), Công ty Điện Đông Dƣơng (l’Énergie électrique indochinoise), Công ty Công nghiệp Than chì Pháp,…[231]. Trong đó, Công ty Công nghiệp Than chì Pháp sở hữu 32% vốn của Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai. Việc tăng vốn nằm mục đích mở rộng quy mô khai thác và đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý quặng than chì thô. Năm 1928, vốn của công ty tiếp tục
78
đƣợc tăng lên 12 triệu francs nhằm mở rộng quy mô khai thác trên tám công trƣờng mỏ than chì ở Lào Cai. Tuy nhiên, vào năm 1928, trụ sở công ty lại chuyển về Hải Phòng, số 21, đƣờng Jules Ferry [234].
Điều đáng chú ý là trong đại hội cổ đông của Công ty Đông Dƣơng Than chì năm 1928 là việc bổ nhiệm thêm một số thành viên trong Hội đồng quản trị của công ty. Trong số thành viên mới, đáng chú ý nhất là Emmanuel Rousseau, con trai của Toàn quyền Đông Dƣơng Armand Rousseau. Điều này tạo thêm thế lực mới cho công ty trong việc cạnh tranh, độc quyền khai mỏ than chì ở Lào Cai.
Armand Rousseau là một chính trị gia, nhà tài chính đã kinh qua rất nhiều chức trách quan trọng khác nhau trong Chính phủ Pháp cũng nhƣ trong chính quyền và hệ thống các công ty tài chính ở Đông Dƣơng. Sau khi rời ghế Thứ trƣởng Bộ Chiến tranh, Armand Rousseau đảm trách Chủ tịch Ngân hàng Nhà đất Đông Dƣơng.
3.1.2.2.4. Sản lượng khai thác và xuất khẩu - Khai thác than chì: Một nguồn than chì quan trọng cho nhu cầu của nƣớc Mỹ đến từ việc nhập khẩu than chì ở Đông Dƣơng thuộc Pháp. Vào tháng 9/1919, Mỹ đã nhập khẩu từ Đông Dƣơng 7.600 tấn dài, với giá trị 1 triệu USD. Đây là một phần trong hợp đồng 15.600 tấn dài với các công ty Than chì của Pháp ở Đông Dƣơng, tổng trị giá gần 2,4 triệu USD trong năm 1919. Việc ký kết hợp đồng này thông qua sự hỗ trợ của Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn.
Việc khai thác than chì bắt đầu ở Việt Nam vào năm 1917, bắt đầu ở Quảng Ngãi, với sản lƣợng 8.000 tấn dài, sau đó tăng lên 8.000 tấn vào năm 1918. Ở Bắc Kỳ, than chì phân bố dọc sông Hồng, thuộc Yên Bái, Lào Cai, một phần thuộc địa phận Thái Nguyên, Bắc Kạn. Theo tác giả, việc khai thác than chì ở Lào Cai và Yên Bái cũng bắt đầu tiến hành vào năm 1917. Ở Lào Cai, mỏ Phố Mới, than chì ở đây có hàm lƣợng từ 50 đến 60 % chì carbon [237, tr.199].
Nhƣ vậy, có thể thấy, ở Lào Cai, mỏ than chì Pháp khai thác đầu tiên là mỏ ở Phố Mới (dấu vết hiện nay vẫn còn, gần sát bến xe Trung tâm Lào Cai, nằm sát cạnh bên đại lộ 58, nay khu này là trung tâm chính trị - hành chính quan trọng, khu đô thị hiện đại và sầm uất nhất của Lào Cai). Mỏ Nậm Si, có thể là mỏ thứ hai đƣợc khai thác, bắt đầu từ năm 1922.
Cùng với việc khai thác mỏ Phố Mới, Nậm Si, từ năm 1926 – 1927, do nguồn lợi từ than chì đã thu hút nhiều công ty Pháp đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm than chì trên địa hạt tỉnh Lào Cai. Họ đã phát hiện một mỏ than chì thứ 3 ở khu vực
79
Bản Lầu (thuộc huyện Mƣờng Khƣơng hiện nay). Mỏ này cách mỏ Nậm Si khoảng 1,5 km. Đây đƣợc đánh giá là mỏ không có trữ lƣợng lớn, nhƣng chất lƣợng thì cực tốt, 95% chì carbon [174, tr.15].
Các vỉa than chì ở Lào Cai đƣợc đánh giá là mở khai thác duy nhất ở Bắc Kỳ cho đến năm 1926, đồng thời là mỏ rất quan trọng về trữ lƣợng và chất lƣợng. Công ty đã khoanh vùng và đạt đƣợc quyền sở hữu trên một diện tích khoảng 32.000 ha.
Công ty tập trung khai thác, chủ yếu là khai thác theo kiểu lộ thiên, trong 3 vỉa chính, dài khoảng 1km. Hoạt động khai thác than chì ở Lào cai bắt đầu từ năm 1917, nhƣng chỉ thực sự diễn ra tấp nập từ năm 1924. Việc khai thác ở Lào Cai trƣớc năm 1926 do Công ty than chì Đông Dƣơng tiến hành. Tuy nhiên, Ngày 15/4/1926, công ty này sáp nhập vào Công ty Đông Dƣơng than chì.
Năm 1924, công ty khai thác đƣợc 300 tấn. Năm 1925, than chì khai thác ở Lào Cai đạt 221 tấn, giá trị 230.000 francs. Trong 6 tháng năm 1926, xuất khẩu đƣợc 418 tấn. Trong thời gian này, than chì đƣợc khai thác nhiều, đây là thời hoàng kim trong khai thác than chì ở nƣớc ta, trong đó Lào Cai là nơi cung cấp than chì chủ yếu.
Đến năm 1926, mới chỉ có 1 vỉa đƣợc khai thác [231], trữ lƣợng khoảng 25.000 tấn. Từ năm 1926, hoạt động của Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai rất năng động. Sản lƣợng than chì tăng từ 221 tấn năm 1925 lên 492 tấn trong 6 tháng đầu năm 1926. Năm 1926, Barondeau, Giám đốc của Công ty dự đoán, sản lƣợng khai thác đƣợc trong tƣơng lai có thể đạt từ 2.000 đến 3.000 tấn/năm [232].
Năm 1927, công ty khai thác đƣợc 412 tấn. Sản lƣợng khai thác than chì của
tƣ bản Pháp ở Lào Cai từ năm 1924 đến năm 1927 đƣợc trình bày dƣới bảng sau:
Bảng 3.2. Sản lƣợng than chì khai thác ở Lào Cai (1924-1927)
Năm Sản lƣợng khai thác (tấn)
1924 300
1925 221
1926 814
1927 412
[181, tr.6].
Từ bảng sản lƣợng khai thác than chì (1924 – 1927), chúng ta nhìn thấy sản lƣợng khai thác than chì ở Lào Cai là rất lớn. Tuy nhiên, sản lƣợng khai thác giữa các năm lại không đồng đều.
80
Năm 1925, khai thác chỉ đạt 221 tấn. Lý do lúc này tại Lào Cai chƣa xây dựng đƣợc nhà máy xử lý quặng than chì và thời điểm này đang thực hiện việc sáp nhập Công ty than chì Đông Dƣơng vào Công ty Đông Dƣơng than chì. Vì vậy, sản lƣợng năm 1925 khai thác chỉ đƣợc 221 tấn cũng Là điều dễ hiểu.
Năm 1927, khai thác than chì chỉ đạt 412 tấn, thấp hơn gần một nữa so với năm 1926 (814 tấn). Hiện tƣợng sụt giảm này đƣợc lý giải là do công ty giảm quy mô khai thác để tái cơ cấu lại hầm mỏ, và tập trung đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý quặng chì.
Trong năm 1926, than chì đƣợc khai thác đạt mức cao nhất là 814 tấn. Lý do, thời điểm này nhu cầu nguồn nguyên liệu than chì đang lên “cơn sốt”, công ty lúc này đã tổ chức khai thác ở cả 3 mỏ Phố Mới, Nậm Si, Bản Lầu và việc xây dựng một nhà máy xử lý quặng than chì ở Lào Cai đƣợc hoàn thành.
- Xuất khẩu than chì: Than chì khai thác ở Lào Cai chủ yếu đƣợc xuất khẩu về Pháp. Nó đƣợc chuyên chở từ Lào Cai qua đƣờng sắt đến cảng Hải Phòng, sau đó chất lên tàu. Tàu chở than chì xuất phát từ cảng Hải Phòng và cập cảng Havre, một trong những cảng hiện đại ở vùng Normandie thuộc Tây Nam nƣớc Pháp.
Trong những năm đầu, khi nhà máy chƣa thể xử lý đƣợc hết quặng than chì, một phần quặng thô đƣợc chở về nhà máy ở Gauchy để tuyển lọc. Nhà máy này có vai trò rất quan trọng tiếp nhận, xử lý quặng than chì khai thác từ Lào Cai.
Sản lƣợng than chì xuất khẩu đi các nƣớc từ năm 1925 đến năm 1927
đƣợc trình bày dƣới bảng sau:
Bảng 3.3. Xuất khẩu than chì Lào Cai (1925 - 1927)
Sản lƣợng xuất khẩu (tấn) Năm
1925 221
1926 700
1927 350
[181, tr.6].
Từ bảng 3.2 về sản lƣợng khai thác và bảng 3.3 về sản lƣợng xuất khẩu than chì ta thấy, than chì khai thác ở Lào Cai một phần nhỏ để lại trong nƣớc, còn phần lớn than chì đƣợc chính quyền thực dân xuất khẩu sang các nƣớc khác: Năm 1925, khai thác đƣợc 221 tấn thì xuất khẩu 221 tấn; Năm 1926, khai thác 814 tấn thì xuất khẩu 700 tấn; năm 1927, khai thác đƣợc 412 tấn thì xuất khẩu 350 tấn.
81
Thị trƣờng than chì năm 1927 khá hài lòng. Cho tới năm 1927, Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai là công ty duy nhất khai thác và xuất khẩu than chì ở Đông Dƣơng, trong khi đó ở Madagascar số lƣợng các nhà khai thác, xuất khẩu than chì rất đông đảo. Trong khi ở Madagascar, các nhà khai thác chủ yếu tập trung khai thác và xuất khẩu than chì dành cho sản xuất nồi lò dùng trong lĩnh vực luyện kim, thì khai thác than chì ở Lào Cai gồm nhiều sản phẩm đa dạng, phục vụ đa lĩnh vực khác nhau, nhƣ sản xuất pin điện, sơn bả, chất chống cáu cặn, bút chì, chất bôi trơn, que hàn điện, ... Điều này tạo ra thế mạnh và thị trƣờng đa dạng của than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai.
Ngoài thị trƣờng Pháp, than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai, sau khi xử lý đƣợc xuất khẩu qua một số thị trƣờng ở châu Âu và Mỹ. Về vấn đề này, Tạp chí « Sự thức tỉnh kinh tế Đông Dƣơng” cho biết: “Trong năm 1927, chúng tôi có một thị trƣờng đầy thành công, nhƣ thị trƣờng Đức, Anh, Italy. Hiện nay, chúng tôi đang chiếm lĩnh cả thị trƣờng Mỹ” [190].
Khi nghiên cứu về hoạt động khai thác than chì năm 1928, tác giả chƣa tìm đƣợc số liệu về sản lƣợng khai thác trong năm này. Theo tác giả, hoạt động khai thác năm 1928 đình trệ là do:
Thứ nhất, vốn của công ty đã sử dụng hết cho đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý
quặng than chì và mở rộng quy mô khai thác trong năm 1926 -1927.
Thứ hai, năm 1928 công ty rót vốn cho nhà máy đầu tƣ thêm một máy mới công suất 320 mã lực, nâng công suất xử lý quặng chì lên khoảng 300 tấn mỗi tháng. Thêm vào đó là lúc này, trụ sở công ty từ Lào Cai lại chuyển về Hải Phòng, số 21, đƣờng Jules Ferry.
Thứ ba, do lúc bấy giờ thế giới đang đứng trƣớc cuộc khủng hoảng kinh tế thừa (1929 – 1933), vì vậy, giới tƣ bản các nƣớc không còn mặn mà với nhiều nguồn nhiên liệu mỏ, trong đó có than chì.
Năm 1929, khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra đã gây thiệt hại lớn cho Công ty Đông Dƣơng than chì Lào Cai, dẫn tới Công ty này buộc phải dừng hoạt động. Tất cả hầm mỏ, nhà máy bị đóng cửa, máy móc, thiết bị phải đem bán.
Tóm lại, Than chì là nguyên liệu quan trọng đƣợc sự dụng trong nhiều ngành sản xuất, nhƣ: sản xuất pin điện, ắc quy điện, bút chì. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Pháp và thế giới rất cần nguyên liệu than chì. Vì vậy, thực dân Pháp đã cho bọn tƣ bản tìm kiếm, khai thác mỏ than chì ở Lào Cai.
Để có thể điều hành hoạt động khai thác than chì ở Bắc Kỳ, Chính phủ Pháp
82
cho thành lập Công ty Đông Dƣơng than chì (trụ sở tại Pháp). Sau đó, trụ sở Công ty chuyển về Lào Cai để đẩy mạnh khai thác than chì nơi đây.
Nhằm thu khai thác và thu lợi nhuận tối đa nguồn lợi than chì, thực dân Pháp cho xây dựng nhà máy xử lý quặng than chì ngay bên bờ sông Nậm Thi, đƣợc trang bị máy móc, thiết bị hiện đại để chế biến than chì.
Trong suốt thời gian từ năm 1924 đến 1927, thực dân Pháp khai thác một sản lƣợng lớn than chì ở Lào Cai. Phần lớn than chì đƣợc khai thác chủ yếu xuất khẩu về Pháp, một phần xuất sang các nƣớc Châu Âu và Mỹ.
Hoạt động khai thác than chì ở Lào Cai diễn ra mạnh mẽ trong những năm 20 của thế kỷ XX. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra, khai thác than chì ở Lào Cai buộc phải dừng hoạt động. 3.2. Khai thác mỏ ở Lào Cai từ năm 1929 đến năm 1939 3.2.1. Bối cảnh lịch sử
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ Mỹ sau đó nhanh chóng tác động tới nền kinh tế toàn bộ thế giới, trong đó có kinh tế Việt Nam nói riêng và Đông Dƣơng nói chung. Giá nông sản sụt giảm nhanh chóng: Giá gạo loại 1 xuất khẩu giảm từ 11 đồng bạc/tạ năm 1930 xuống còn 6 đồng năm 1931 và 4,5 đồng vào năm 1933. Rất nhiều công ty nông nghiệp, đồn điền phải nhƣng hoạt động, hoặc sản xuất cầm chừng vì thu không bù đủ chi phí, nhiều trong số đó phải tuyên bố phá sản. Ở Nam Kỳ, thị trƣờng nội địa tiêu thụ nhiều phosphate và apatite nhất để sản xuất phân bón, diện tích lúa bị bỏ hoang lên tới 200.000 ha [128, tr.27].
Sự suy giảm của kinh tế nông nghiệp dẫn tới việc tìm kiếm, khai thác một số quặng phục vụ cho sản xuất phân bón, cung cấp cho sản xuất nông nghiệp cũng giảm theo. Trong vòng một năm, từ 1930 đến 1931, sản lƣợng phosphate khai thác đƣợc ở Đông Dƣơng giảm từ 26.000 tấn xuống còn 3.800 tấn [128, tr.92]. Trong thời gian này, việc tìm kiếm, nghiên cứu việc khai thác apatite ở Lào Cai vì thế cũng bị ảnh hƣởng.
Nhiều tập đoàn, công ty tài chính, ngƣời đứng sau các công ty tƣ bản Pháp về nông nghiệp, đồn điền cao su, mỏ ở Việt Nam cũng lâm vào tình trạng lao đao, nhiều công ty tài chính phải vay nợ chính quyền để duy trì sản xuất. Sự suy giảm tiềm lực của các công ty tài chính đến từ chính quốc cũng là một trong những nhân tố quan trọng làm giảm nhiệt công cuộc tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ của các công ty Pháp ở Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng.
- Do tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh tế và chính sách hạn chế của
chính quyền thuộc địa, từ năm 1929 trở đi, đặc biệt là từ 1930, vốn đầu tƣ vào khai
83
mỏ ở Đông Dƣơng giảm nhanh chóng và chạm đáy vào năm 1935. Nếu nhƣ năm
1929, năm bắt đầu khủng hoảng, vốn đầu tƣ của các công ty vào khai mỏ có giảm
so với năm 1928, nhƣng vẫn giữ ở mức 125,8 triệu francs. Tuy nhiên, năm 1930,
vốn đầu tƣ vào khai mỏ đã giảm xuống còn 522 triệu francs, tiếp tục giảm còn 1,2
triệu francs vào năm 1931 và chỉ còn 0,2 triệu francs vào năm 1935. Vốn đầu tƣ vào
khai mỏ năm 1935 chỉ còn chiếm 0,5% tổng số vốn đầu tƣ của các công ty vào toàn
bộ các lĩnh vực kinh tế của Đông Dƣơng [188, tr.78]. Sự tác động tiêu cực của cuộc
đại khủng, chính sách hạn chế phát triển công nghiệp mỏ để điều tiết thị trƣờng, sự
giảm sút vốn đầu tƣ là những nhân tố làm giảm nhiệt hoạt động tìm kiếm, thăm dò
và khai thác mỏ ở Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng từ năm 1929. Trên thực
tế, việc thăm dò, tìm kiếm mỏ ở Lào Cai trong giai đoạn này diễn ra dè dặt, mặc dù
vẫn có một số yêu cầu xin cấp nhƣợng mỏ ở Lào Cai, nhƣng đều bị chính quyền từ
chối. Hoạt động khai thác các mỏ có từ trƣớc cũng diễn ra cầm chừng và hạn chế.
Theo thống kê của Pierre Brocheux và Daniel Hémery, từ năm 1929 đến năm
1937, ở Đông Dƣơng có tới 1.348 công ty của tƣ bản Pháp bị phá sản và giải thể,
thiệt hại vốn đầu tƣ lên tới 290 triệu francs vàng, trong số này có rất nhiều công ty
khai mỏ [204, tr.261]. Nhiều công ty rơi vào tình trạng nợ nần, trong đó có nhiều
tập đoàn tài chính, ngân hàng, chỗ dựa tài chính cho các công ty mỏ với tƣ cách là
công ty con của nó. Nhiều công ty mỏ phải sa thải công nhân, ở Bắc Kỳ, trong năm
1930 – 1931, có tới 11.000 công nhân bị sa thải, số còn lại trụ đƣợc trong các nhà
máy, hầm mỏ thì bị giảm lƣơng [204, tr.267].
- Đứng trƣớc cuộc đại khủng hoảng kinh tế, không chỉ làm ăn thua lỗ, hoạt
động cầm chừng hoặc ngừng hoạt động, hoặc phá sản, các công ty mỏ ở Việt Nam
còn gặp khó khăn do thiếu vốn để duy trì sản xuất do các ngân hàng ngừng các
khoản cho vay, thậm chí là ngân hàng lớn nhất nhƣ Ngân hàng Đông Dƣơng.
Nguồn vốn đầu tƣ từ các tập đoàn tài chính ở chính quốc vào Đông Dƣơng cũng bị
gián đoạn, vì nguy cơ rủi ro mất các khoản đầu tƣ và các khoản cho vay trong thời
điểm khủng hoảng là rất lớn.
“Sự đổ dồn vốn từ bên ngoài, từ Pháp hoặc từ Trung Quốc bất thình lình bị dừng. Các ngân hàng cũng dừng thỏa thuận các khoản cho vay đối với các công ty ở Đông Dương” [168, tr.451-461].
Chính quyền Pháp đánh giá và thừa nhận sự tác động ghê gớm của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới tới Đông Dƣơng nhƣ sau: “Những khó khăn của cuộc
84
khủng hoảng đã tác động lên tất cả các quốc gia, tất cả các thị trường và tất cả các lĩnh vực kinh tế. Ở Đông Dương, thời kỳ bình yên không còn nữa, chúng ta đang sống trong những ngày tồi tệ và khó khăn nhất”[201, tr.519-537].
- Số lƣợng giấy phép cấp nhƣợng mỏ giảm nhanh chóng từ năm 1930, cho tới năm 1936, nền kinh tế Việt Nam nói chung, khai mỏ nói riêng vẫn chƣa thực sự phục hồi, và chƣa bao giờ đạt đƣợc mức nhƣ trƣớc cuộc đại khủng hoảng kinh tế. Điều này phần nào đƣợc phản ảnh qua số lƣợng giấy phép khai mỏ đƣợc cấp trong giai đoạn này.
Bảng 3.4. Số lƣợng giấy phép tìm kiếm, thăm dò mỏ cấp hàng năm ở Đông Dƣơng (1929 – 1935)
Xứ
Bắc Kỳ Trung Kỳ Lào Campuchia Nam Kỳ
Tổng 1929 2.335 2.051 4.363 2.595 243 11.587 1930 401 268 207 63 3 942 1931 145 49 367 9 0 570 1932 187 44 135 95 0 461 1933 132 36 110 8 0 286 1934 114 54 35 1 0 204 1935 260 63 74 1 0 298
[188, tr.15].
Bảng 3.5. Số lƣợng giấy phép khai thác mỏ cấp hàng năm ở Đông Dƣơng (1929 – 1935)
Xứ
Bắc Kỳ Trung Kỳ Lào Campuchia Nam Kỳ 1929 72 88 61 49 24 1930 35 27 22 8 7 1931 20 13 5 8 3 1932 21 8 9 8 3 1933 24 7 3 4 2 1934 27 8 3 2 2 1935 20 1 1 1 0
Tổng 294 99 49 40 42 23 33
[188, tr.11]. Giá trị khai mỏ giảm từ năm 1930, năm này đạt 17 triệu đồng bạc, đến năm
1934 chỉ còn đạt 10 triệu đồng bạc.
Nhìn chung, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 làm cho các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa nói chung hay nƣớc Pháp nói riêng đều bị ảnh hƣởng nặng nề bởi những hậu quả do cuộc khủng hoảng thừa. Cuộc khủng hoảng này đã tác động trực tiếp đến nền kinh tế nƣớc ta, cụ thể nhƣ sau:
85
Thực dân Pháp đã rút vốn đầu tƣ ở Đông Dƣơng về các ngân hàng Pháp,
đồng thời lại dùng ngân sách Đông Dƣơng để hỗ trợ cho tƣ bản Pháp. Chính điều
này đã làm sản xuất công nghiệp ở Việt Nam bị thiếu vốn lại dẫn đến đình trệ. Lúa
gạo trên thị trƣờng thế giới bị mất giá cũng khiến cho lúa gạo Việt Nam không xuất
khẩu đƣợc. Điều này dẫn đến tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang.
Hậu quả là nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng bởi ruộng đất bỏ hoang, công nghiệp suy sụp, xuất khẩu thì bị đình
đốn … . Những điều này đã làm cho đời sống của đại bộ phận nhân dân Việt Nam
lâm vào cảnh khó khăn khốn cùng.
Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số ngƣời có việc làm thì tiền lƣơng
bị giảm từ 30 đến 50%.
Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn.
Tiểu tƣ sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa
thải, học sinh, sinh viên ra trƣờng bị thất nghiệp.
Một bộ phận lớn tƣ sản dân tộc lâm vào cảnh khó khăn do không thể buôn
bán và sản xuất.
Không những thế, thực dân Pháp còn tăng sƣu thuế lên gấp 2, 3 lần cùng với
việc đẩy mạnh các chính sách khủng bố trắng nhằm dập tắt phong trào cách mạng
Việt Nam… Có thể thấy cuộc sống của ngƣời dân Việt Nam khốn khổ đến tột cùng.
3.2.2. Hoạt động thăm dò, khai thác mỏ của người Pháp ở Lào Cai
3.2.2.1. Khai thác mỏ than chì
Trƣớc năm 1929, Lào Cai có một một sự phát triển đầy hy vọng về công
nghiệp nhờ việc khai thác mỏ than chì bên bờ trái sông Nậm Thi, cách trung tâm
Lào Cai chừng 5 km. Tuy nhiên, đến nay (1931), việc khai mỏ than chì đã bị ngƣng
trệ. Hy vọng về sự phát triển vẫn còn đó, nếu ngƣời ta tiếp tục tái khởi động việc
khai mỏ than chì ở Lào Cai, và mở rộng khám phá để khai thác bên bờ phải sông
Hồng những mỏ phosphates, mỏ sắt và những mỏ khác ở vùng Bát Xát.
Năm 1931, tờ L'Éveil économique de l'Indochine đã miêu tả về tác động của
cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới đến khai mỏ ở Đông Dƣơng nhƣ sau: “Cuộc
khủng hoảng đã gây ra nhiều hậu quả tai hại, nó làm lụi tàn công nghiệp mỏ và các
ngành công nghiệp khác. Cám ơn Chúa ! Chúng tôi chỉ nhận thấy một sự suy giảm,
đặc biệt là trong khai thác mỏ kim loại. Rất nhiều mỏ đã phải thu hẹp quy mô, giảm
sản lượng khai thác, hoặc ngừng khai thác, như mỏ kẽm. Duy nhất mỏ than chì ở
86
Lào Cai là bị tổn hại nghiêm trọng. Đó là sự bất công của số phận, vì công ty này
đã thực sự đã nỗ lực hết sức”[186, tr.1-2].
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại vô cùng lớn cho Công ty Đông Dƣơng
Than chì Lào Cai, dẫn tới Công ty này buộc phải tuyên bố phá sản. Tất cả hầm mỏ,
nhà máy bị đóng cửa, máy móc, thiết bị phải đem bán. Sau khi tuyên bố phá sản,
Công ty Thảm viễn Đông (Société des tapis d'Extrême-Orient) đã mua lại Công ty
Đông Dƣơng Than chì Lào Cai. Từ tháng 11/1929, nhà máy xử lý quặng mỏ của
công ty đã phải ngƣng hoạt động. Ngày 1/7/1930, Công ty buộc phải triệu tập cuộc
họp bất thƣờng của Hội đồng quản trị để tìm cách giải quyết khó khăn do cuộc
khủng hoảng kinh tế gây ra. Trong cuộc họp, tất cả các thành viên đã thống nhất
quyết định ngƣng hoạt động hoàn toàn, tuyên bố phá sản và bán thanh lý mọi
phƣơng tiện thiết bị và cơ sở hạ tầng của công ty.
Gần một tháng sau đó, Tờ L’Éveil économique de l’Indochine, bình luận về
vụ Công ty Đông Dƣơng Than chì Lào Cai nhƣ sau: “Cuộc khủng hoảng đã gây ra
một điều tồi tệ với một người và mang lại hạnh phúc cho người khác. Nếu chúng ta
tiếc thương điều không may dẫn tới sự phá sản của Công ty Đông Dương Than Chì
Lào Cai […] thì chúng ta có thể chúc mừng Công ty Thảm Viễn Đông đã tận dụng
cơ hội này để mua lại cơ sở của nó với một giá rẻ mạt” [187].
Đây là thực trạng chung của các công ty tƣ bản Pháp, cả công ty của tƣ sản
ngƣời Việt trong tất cả các lĩnh vực trƣớc sự tàn phá ghê gớm của cuộc đại khủng
hoảng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh đồn điền cây công nghiệp, nông
nghiệp và mỏ. Công ty Thảm Viễn Đông mua lại các thiết bị mỏ của Công ty Đông
Dƣơng Than chì Lào cai chỉ bằng 25%, thậm chí 10% giá trị thực tế. Đặc biệt là
Trung tâm máy phát điện của Công ty này phục vụ khai mỏ, gồm hay tổ máy, một
140 mã lực và tổ khác 60 mã lực.
Trong quá trình thành lập và góp vốn, giá mỗi cổ phần góp vốn là 500 francs.
Tuy nhiên, khi bán thanh lý cổ phần vào năm 1931, giá mỗi cổ phần chỉ là 5,55 francs.
Nhƣ vậy, cuộc đại khủng hoảng kinh tế (1929 – 1933) đã kết thúc những
năm tháng tƣơi đẹp về khai thác than chì ở Lào Cai. Năm 1929, hoạt động xử lý
quặng mỏ của công ty đã phải ngƣng hoạt động. Đến năm 1930, công ty buộc tuyên
bố phá sản và bán thanh lý mọi phƣơng tiện thiết bị và cơ sở hạ tầng của công ty.
Hoạt động khai thác than chì Lào Cai bị ngƣng trệ cho đến năm 1939.
Một thực tế đã diễn ra đối với mỏ than chì ở Lào Cai, từ cuộc đại khủng
87
hoảng kinh tế trở đi, việc khai thác than chì ở Lào Cai bị ảnh hƣởng, ngƣng trệ và
gần nhƣ không có hoạt động gì cho tới khi Nhật xâm lƣợc Đông Dƣơng vào năm
1940. Về điều này, Charles Robequin đánh giá:“Việc khai thác than chì đã bị dừng
hoạt động cho tới năm 1939”[134, tr.294].
3.2.2.2. Khai thác vàng ở Việt Nam, Lào Cai
Theo các tài liệu ghi chép của ngƣời Pháp, khai thác vàng ở Việt Nam thời
thuộc địa, ngoài các công ty nhà nƣớc kiểm soát đƣợc, thì ngƣời Việt tổ chức khai
thác vàng theo cách thủ công truyền thống, thƣờng là khai thác lậu, họ luôn né tránh
sự kiểm soát của chính quyền. Trên thực tế, chính quyền thuộc địa không thống kê
chính xác đƣợc số lƣợng vàng do ngƣời Việt khai thác đƣợc, mà chỉ thống kê đƣợc
lƣợng vàng khai thác đƣợc của các công ty chịu sự kiểm soát về hành chính và thuế
quan của chính quyền.
Ở Lào Cai, ngƣời Pháp đã tiến hành khai thác vàng ở một số nơi, tuy nhiên
số lƣợng khai thác đƣợc không nhiều. Sản lƣợng vàng khai thác ở Bắc Kỳ trong
năm 1936, 1937 đƣợc thể hiện dƣới bảng biểu thống kê sau:
Bảng 3.6. Sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở các tỉnh Bắc Kỳ năm 1936
STT Tỉnh Sản lƣợng (gram)
1 Lai Châu 200
2 Lào Cai 4.185
3 Cao Bằng 4.307
4 Thái Nguyên 0
5 Lạng Sơn 528
6 Bắc Kạn 12.670
7 Hòa Bình 2.500
8 Sơn La 25.000
9 Hà Đông 2.000
10 Hà Nam 410
11 Bắc Giang 1.200
Tổng 53.000
[188, tr.61].
88
Bảng 3.7. Sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở các tỉnh Bắc Kỳ năm 1937
STT Tỉnh Sản lƣợng (gram)
1 Lai Châu 3.800
2 Lào Cai 1.875
3 Cao Bằng 5.691
4 Thái Nguyên 256
5 Lạng Sơn 2.000
6 Bắc Kạn 28.125
7 Hòa Bình 4.125
8 Sơn La 50.000
9 Hà Đông 5.500
Tổng 101.366
[203, tr.1245-1338].
Nhƣ vậy, năm 1936, sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở Lào Cai là 4.185gr, đứng thứ 4 trong số 11 tỉnh Bắc Kỳ (sau Sơn La, Bắc Kạn, Cao Bằng), chiếm 7,9% tổng sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở Bắc Kỳ. Tuy nhiên, năm 1937, khai thác vàng ở Lào Cai sụt giảm, sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở Lào Cai chỉ đạt 1.875gram (đứng thứ 8/9 tỉnh ở Bắc Kỳ), chiếm 1,84 % tổng sản lƣợng vàng khai thác đƣợc ở Bắc Kỳ. Trên thực tế, Lào Cai không có nhiều mỏ vàng, đặc biệt là các mỏ vàng có trữ lƣợng lớn. Phần lớn các mỏ vàng có trữ lƣợng lớn thuộc Trung Kỳ và một số tỉnh khác ở Bắc Kỳ, nhƣ Sơn La, Hòa Bình, Bắc Kạn và Thái Nguyên.
Việc khai thác vàng ở Lào Cai, cũng nhƣ trên địa phận Bắc Kỳ chủ yếu do Công ty Kẽm và Vol fram Bắc Kỳ thực hiện (Société des Etains et Wolfram du Tonkin). Ngoài ra còn có Công ty Vàng Bảo Lạc ở Cao Bằng (Société des Mines d’Or de Bao -Lac à Pac Nam) cũng tiến hành thăm dò, khai thác vàng ở Lào Cai. Tuy nhiên, việc khai thác vàng ở Lào Cai chủ yếu thực hiện manh mún, trữ lƣợng không lớn, sản lƣợng không nhiều [188, tr.62].
Nhìn chung, sau cuộc đại khủng hoảng năm 1929 -1933, khai mỏ ở Đông
Dƣơng nói chung, Lào Cai nói riêng bị ngƣng trệ do:
- Tác động của cuộc khoảng thừa làm cho ngành công nghiệp ở Việt Nam bị
sụt giảm nghiêm trọng, trong đó có ngành công nghiệp mỏ.
89
- Chính sách hạn chế, cấm cấp nhƣợng mỏ của chính quyền thuộc địa làm cho việc xin lập nhƣợng mỏ giảm sút, nhiều mỏ bị phá sản: xu hƣớng co hẹp thị trƣờng và phát triển “tự túc” đƣợc thực hiện trong chính sách của chính quyền thực dân và Nhà nƣớc tƣ bản chủ nghĩa Pháp. Vì vậy, từ chủ trƣơng thuyết “thăng bằng” thì “từ giữa năm 1931 về sau, sự can thiệp của chính quyền thực dân ở Đông Dương và Nhà nước tư bản chủ nghĩa Pháp trở thành một thường lệ nhằm ủng hộ và duy trì thế lực tài chính lũng đoạn ở Đông Dương”[88, tr.63-64]. Điều này dẫn đến hiện tƣợng số công ty tƣ bản lớn có trụ sở ở Pháp hầu nhƣ không thành lập thêm, trái lại những công ty lớn hiện có đều không ngừng tăng thêm vốn tƣ bản. Trong khi đó, những công ty tƣ bản vừa và nhỏ lại giảm bớt tƣ bản, một số bị phá sản.
Mặc dù đƣợc phục hồi, nhƣng sau cuộc đại khủng hoảng, khai mỏ ở Lào Cai không còn nhiều nhƣ trƣớc. Theo báo cáo của Pierre Guillaumat, Giám đốc Sở mỏ Đông Dƣơng, vào năm 1938, trên toàn lãnh thổ Đông Dƣơng, chỉ còn 350 mỏ còn hoạt động, trong đó Lào Cai chỉ còn 4 mỏ (Mỏ Lào Cai cho tới tháng 1/1938 đƣợc thống kê dƣới bảng sau):
Bảng 3.8. Danh sách khu nhƣợng mỏ tồn tại ở Lào Cai cho tới tháng 1/1938
Stt Tên mỏ Tỉnh Chủ sở hữu Ghi chú Ngày thiết lập
1 Nam Si Lào Cai 30/8/1924 Đình chỉ khai thác vì mục đích dự trữ Năm 1933 mới chấp thuận cho khai thác tiếp
2 Nam Ho Lào Cai 26/9/1929 Đình chỉ khai thác vì mục đích dự trữ Năm 1933 mới chấp thuận cho khai thác tiếp
3 Jeannette Lào Cai 6/11/1929 Đình chỉ khai thác vì mục đích dự trữ Năm 1933 mới chấp thuận cho khai thác tiếp
4 Désire Lào Cai 31/10/1933 Malortigue, Magne
[203, tr.1245-1338].
Qua đó cho chúng ta thấy rằng: Thứ nhất, số lƣợng nhƣợng mỏ ở Lào Cai không đáng kể so với các tỉnh
khác ở Bắc Kỳ, duy nhất chỉ có 4 khu nhƣợng mỏ còn hoạt động vào năm 1938.
Thứ hai, cuộc đại khủng hoảng kinh tế đã tác động vô cùng lớn tới khai mỏ ở Lào Cai, trong tổng số 4 mỏ khai thác ở Lào Cai, thì 3 mỏ bị dừng hoạt động, một phần do tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh tế, phần khác do chính sách của
90
chính quyền thuộc địa, họ buộc dừng một số mỏ có ý nghĩa và vai trò chiến lƣợc quan trọng đối với nền kinh tế Pháp, đặc biệt là than chì. Các mỏ buộc dừng, bị quy vào các mỏ thuộc phạm trù dự trữ, không đƣợc tiếp tục khai thác.
Mặt khác, trong giai đoạn này, nhu cầu về than chì của Pháp, cũng nhƣ thị trƣờng thế giới không còn sốt nhƣ trƣớc nữa. Chính vì thế, chính quyền thuộc địa coi các mỏ ở Lào Cai nhƣ là “của để dành” cho nhu cầu của Pháp sau khi cuộc đại khủng hoảng kinh tế đi qua.
3.3. Khai thác mỏ ở Lào Cai của Pháp – Nhật từ năm 1940 đến năm 1945 3.3.1. Bối cảnh lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ đã tác động mạnh mẽ tới tình hình chính trị, kinh tế thế giới và Việt Nam, trong đó có khai mỏ ở Lào Cai. Nhìn một cách tổng thế có ba yếu tố tác động chính: Thứ nhất, Nhật Bản xâm lƣợc Đông Dƣơng và các thỏa thuận kinh tế giữa Pháp và Nhật. Thứ hai, Đông Dƣơng gần nhƣ bị cô lập với thế giới, mặc dù vẫn có quan hệ kinh tế với một số nƣớc ở khu vực châu Á, trong đó có Nhật, điều này gây nhiều khó khăn cho thị trƣởng tiêu thụ sản phẩm mỏ. Thứ ba, chính sách kinh tế và sự hiện diện của các công ty khai mỏ của Nhật hoặc liên minh Pháp – Nhật ở Việt Nam.
Có thể nói cuộc chiến tranh thế giới lần thứ Hai đã làm cho tình hình chính trị, kinh tế và xã hội ở Đông Dƣơng trở nên hỗn loạn, đặc biệt là khi Nhật Bản đánh chiếm và xâm lƣợc Đông Dƣơng. Từ năm 1939 đến năm 1945, trong một giai đoạn ngắn, nhƣng bối cảnh lịch sử luôn biến động nhanh chóng và chia thành các lát cắt thời gian nhỏ, những lát cắt này chi phối lớn tới hoạt động khai mỏ ở Lào Cai.
Sau khi tấn công Trung Quốc năm 1937, vào tháng 2/1939, quân Nhật chiếm đảo Hải Nam, đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa của Việt Nam, kiểm soát toàn bộ vịnh Bắc Bộ (ngƣời Pháp gọi là vịnh Bắc Kỳ, le golf du Tonkin). Đầu năm 1940, Nhật Bản cho máy bay ném bom vào nhiều vị trí quan trọng trên tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Vân Nam.
Từ năm 1939 đến năm 1940, trong năm đầu chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, ở Việt Nam, hoạt động xuất khẩu gạo gần nhƣ bị ngƣng trệ. Điều này ảnh hƣởng lớn tới sản xuất lúa gạo và các cây trồng khác ở Việt Nam. Sự ngƣng trệ của sản xuất nông nghiệp bắt nguồn từ khó khăn trong xuất khẩu nông sản do tình hình chiến tranh, cũng nhƣ chính sách dự trữ của chính quyền thuộc địa nhằm cung cấp cho nƣớc Pháp trong thời chiến đã tác động tới hoạt động khai thác các mỏ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất phụ gia và phân bón, Trong đó có
91
việc khai thác apatite ở Lào Cai. Trên thực tế, diện tích lúa ở Đông Dƣơng giảm từ 6.070.000ha năm 1938 xuống còn 6.027.000ha năm 1941, sau hai năm, diện tích lúa giảm 43.000ha [171, tr.61].
Từ năm 1941 đến cuối năm 1943 đầu năm 1944, đây là giai đoạn có thể nói là ổn định tạm thời ở Việt Nam về cả chính trị lẫn kinh tế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, trong đó có khai mỏ ở Lào Cai.
Trƣớc hết, sau khi xâm lƣợc Việt Nam và các nƣớc khác trên bán đảo Đông Dƣơng, Pháp và Nhật tạm thời hòa hoãn, cấu kết cùng khai thác các nguồn lợi kinh tế ở Việt Nam trong đó có khai mỏ ở Lào Cai. Trên thực tế, sự hòa hoãn tạm thời này ở Việt Nam xuất phát từ sự đầu hàng, nhƣợng bộ chính trị, kinh tế, đặc biệt là vấn đề thƣơng mại và khai mỏ của Pháp đối với Nhật: “Yêu sách của Nhật Bản không ngừng tăng để nhằm kiểm soát, thâu tóm các sản phẩm mỏ, nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp chiến tranh. Mặt khác, Nhật Bản tuyên bố Đông Dương phải cung cấp đay, thầu dầu, lạc cho quân Nhật qua các nhân viên hành chính của của họ. Nhật Bản buộc phải nhổ lúa để trồng các loại cây trồng mới, thậm chí nhổ cả lúa sắp tới kỳ trổ bông hoặc sắp cho thu hoạch” [171, tr.57].
Trƣớc khi Nhật vào Đông Dƣơng, Pháp đã buộc phải ký với Nhật thỏa ƣớc ngày 30/8/1940, qua đó, Pháp thừa nhận tất cả lợi ích của Nhật ở Viễn Đông trong lĩnh vực kinh tế cũng nhƣ chính trị. Đổi lại, Nhật Bản chấp thuận việc tôn trọng quyền cai trị Đông Dƣơng của Pháp.
Ngày 6/5/1941, Pháp buộc phải kí với Nhật một thỏa thuận kinh tế tại Tokyo, giữa đại diện của Pháp là Đại sứ của Pháp tại Nhật, Arsène Henry với Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản, Yosuke Matsuoka. Thỏa thuận kinh tế này gồm 16 điều khoản. Theo thỏa thuận này, ngƣời Nhật ở Đông Dƣơng có quyền tự do đi lại, hoạt động thƣơng mại, công nghiệp. Họ có quyền sở hữu nhà cửa, bất động sản, cửa hàng để phục vụ cho mục đích hoạt động công nghiệp, nông nghiệp hoặc kinh doanh thƣơng mại [178].
Qua đó các thỏa thuận trên, Pháp chấp nhận ngƣời Nhật, các công ty của Nhật hoặc các công ty liên kết Nhật - Pháp ở Đông Dƣơng có quyền sở hữu đất nhƣợng mỏ, đất nhƣợng nông nghiệp. Bên cạnh đó, các tàu chở hàng hóa của Pháp đặt dƣới sự kiểm soát của Nhật, mặc dù về chính trị Đông Dƣơng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp. Trên thực tế, toàn bộ nền kinh tế Đông Dƣơng thuộc quyền kiểm soát và do ngƣời Nhật nắm giữ [202, tr.2].
Việc Nhật Bản xâm lƣợc Đông Dƣơng, buộc Pháp kí các thỏa thuận kinh tế
92
tạo điều kiện thuận lợi lớn cho các công ty Nhật thâu tóm các mỏ ở Lào Cai, động thời mở ra thị trƣờng tiêu thụ mỏ khai thác đƣợc ở Việt Nam, đặc biệt là các nguyên liệu mỏ và Nhật Bản rất cần, mà những mỏ này lại chỉ Lào Cai mới có, quan trọng nhất là than chì và apatite.
Ngay sau khi thỏa thuận đƣợc ký kết, Nhật bản đã điều 142 nhân viên đến Đông Dƣơng vào tháng 12/1941 để nghiên cứu, điều tra tất cả các nguồn lợi kinh tế, đặc biệt là mỏ, để lập kế hoạch khai thác một các nhanh chóng.
Cùng với nhu cầu của thị trƣờng Nhật Bản, nhu cầu apatite ở thị trƣờng nội địa Việt Nam nói riêng, Đông Dƣơng nói chung cũng tăng hơn so với các năm 1939 – 1940. Điều này xuất phát từ chính sách kinh tế nông nghiệp của Nhật Bản ở Việt Nam. Từ cuối năm 1940, sau khi xâm lƣợc Việt Nam, Nhật Bản có chủ trƣơng mở rộng diện tích, phát triển một số sản phẩm nông nghiệp nhằm cung cấp cho công nghiệp chiến tranh của Nhật, đặc biệt là đay, thầu dầu, lạc, cao su, bên cạnh đó là ngô, lúa gạo, … Điều này đã tạo ra sự khởi sắc mới cho nông nghiệp Việt Nam (mặc dù không thể bằng giai đoạn trƣớc), nhu cầu quặng nguyên liệu apatite cho sản phân bón vì thế cũng tăng hơn. Theo số liệu của ngƣời Pháp công bố, từ năm 1939 đến năm 1944, diện tích thầu dầu ở Đông Dƣơng tăng từ 17.000 ha lên 77.000 ha (tăng thêm 60.000 ha); diện tích bông tăng từ 9.000 ha lên 52.000 ha (tăng thêm 43.000 ha); diện tích đay tăng từ 5.000 ha lên 15.000 ha (tăng thêm 10.000 ha). Phần lớn những sản phẩm này đều xuất khẩu về Nhật Bản [171, tr.55].
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc khai thác mỏ ở Việt Nam nói chung, Lào Cai nói riêng cũng gặp rất nhiều khó khăn, trong đó đặc biệt là khó khăn trong việc xuất khẩu và khai thác. Trƣớc hết là khó khăn trong tuyển mộ lao động, vận chuyển lao động từ các tỉnh trung tâm ở đồng bằng sông Hồng lên các khu mỏ ở Lào Cai. Ngƣời Pháp thừa nhận: “Việc tuyển mộ, vận chuyển lao động là một trong những khó khăn trầm trọng nhất cho khai mỏ ở Đông Dương. Vấn đề này dường như đã làm tê liệt việc khai thác mỏ. Đến năm 1943, trên toàn Đông Dương, công nhân khai mỏ chỉ còn lại 6.000 người, trong khi đó trước năm 1939 là 50.000 người” [171, tr.60].
Khó khăn thứ hai là việc vận chuyển quặng mỏ khai thác đƣợc xuất khẩu ra nƣớc ngoài. Từ khi chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, đặc biệt là khi mặt trận Thái Bình Dƣơng mở ra, việc đi lại bằng đƣờng biển gặp rất nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Bên cạnh đó, rất nhiều tàu, thuyền của các Công ty thƣơng mại bị chính quyền trƣng dụng phục vụ cho mục đích quân sự và phòng thủ
93
Đông Dƣơng. Chính vì thế, phƣơng tiện vận chuyển trở lên thiếu thốn. Vì khó khăn đi lại, thiếu phƣơng tiện, cho nên giá cƣớc vận chuyển từ Việt Nam đi châu Âu và các nƣớc ở khu vực châu Á, trong đó có Nhật Bản vì thế cũng leo thang. Điều này gây ra chi phí giá thành sản phẩm mỏ cũng tăng, gây nhiều khó khăn cho việc khai thác, kinh doanh các sản phẩm mỏ ở Việt Nam nói chung, Lào Cai nói riêng.
Khó khăn thứ ba, từ tháng 8/1943, quân đồng minh mở các cuộc tấn công bằng đƣờng không vào Nhật Bản và các khu vực do quân Nhật chiếm đóng, nhƣ: Trung Quốc, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, trên thực tế, quân Đồng minh đã tiến hành ném bom, từ cuối năm 1943, vào các cơ sở quân sự, kinh tế do Nhật kiểm soát, đặc biệt là các mỏ, nhà máy. Tháng 10/1943, nhà máy xi măng Hải Phòng, cảng Hải Phòng bị máy bay của quân đồng minh đánh phá, dẫn tới hai cơ sở này phải dừng hoạt động, gây ứ đọng hàng hóa, hoạt động xuất khẩu bị ngƣng trệ, trong đó có các sản phẩm mỏ khai thác ở Lào Cai. Máy bay của quân Đồng minh cũng ném bom phá hủy một số hệ thống giao thông huyết mạch, gây chia cắt một số vùng ở Bắc Kỳ, trong đó có Lào Cai với cảng Hải Phòng, con đƣờng huyết mạch chuyên chở quặng mỏ khai thác đƣợc phục vụ xuất khẩu. Việc chia cắt này cũng ảnh hƣởng tới việc vận chuyển, lƣu thông hàng hóa giữa Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Một số lƣợng không nhỏ apatite khai thác đƣợc ở Lào Cai, Thanh Hóa là nguyên liệu cũng không thể vận chuyển vào Nam Kỳ để sản xuất phân bón. Tiêu thụ nội địa apatite cũng bị ngƣng trệ. Những khó khăn đó gây ra tình trạng tồi tệ đối với khai mỏ ở Việt Nam, trong đó có Lào Cai. Cuối năm 1943 đầu 1944, việc xuất khẩu một số sản phẩm khai mỏ, trong đó có apatite và than chì ở Lào Cai bị dừng gần nhƣ hoàn toàn [168, tr.56]. Điều này dẫn tới một khối lƣợng lớn apatite bị tồn đọng ở Hải Phòng. Theo Martin, hơn 12.000 tấn apatite và quặng sắt không thể xuất khẩu và bị đọng lại tại Hải Phòng cho tới năm 1945, do tình trạng chiến tranh và khó khăn về giao thông đƣờng biển [129, tr.55].
Chƣa hết, máy bay quân đồng minh cũng tiến hành ném bom dữ dội vào các tỉnh của Trung Quốc và các tỉnh của Việt Nam giáp ranh với Trung Quốc, trong đó có Lào Cai. Theo Alain Léger, lực lƣợng máy bay ném bom này toàn bộ là máy bay US Air Force của Mỹ. Chiến lƣợc tấn công quân Nhật bằng đƣờng hàng không đƣợc máy bay Mỹ thực hiện từ tháng 6/1942, trung tâm đánh phá đầu tiên là Côn Minh. Mục tiêu đánh phá của các máy bay quân Đồng minh là hệ thống đƣờng giao thông, các nhà máy và hầm mỏ do Nhật kiểm soát. Cuối năm 1943, cả khu mỏ than chì, đặc biệt là các mỏ khai thác apatite ở Cam Đƣờng bị trúng bom của quân Đồng
94
minh. Một số mỏ bị bom vùi lấp, các công ty của Nhật vì thế ngừng khai thác vào cuối năm 1943 và ngừng hoàn toàn vào đầu năm 1944. Điều này thể hiện rất rõ về diễn trình sản lƣợng apatite khai thác đƣợc ở Cam Đƣờng, Lào Cai.
“Cuộc tấn công đầu tiên của quân Nhật ở Bắc ỳ là vào tuyến đường sắt Lào Cai – Vân Nam, gần biên giới với Trung Quốc, kho hàng và một số hạng mục ở Hải Phòng cũng bị phá hủy, nhiều người Nhật bị chết. Tiếp đó là cuộc ném bom vào mỏ than Hòn Gai, mỏ ở Yên Bái và tất cả các mỏ ở Cam Đường (Lào Cai), khiến gần 500 người chết” [129, tr.59].
Bƣớc sang năm 1945, trong cơn hấp hối, quân Nhật ở Đông Dƣơng tiến hành đảo chính, tấn công quân Pháp trên toàn cõi Đông Dƣơng. Khác với thời điểm năm 1940, cuộc tấn công của quân Nhật vào hệ thống chính quyền và phòng ngự của Pháp dữ dội, mạnh mẽ và ác liệt hơn. Có thể vì đã dự đoán đƣợc trƣớc số phận của mình trong tƣơng lai gần, quân Nhật không chỉ tấn công vào lực lƣợng quân sự, dân sự của Pháp, mà còn thực hiện chính sách phá hoại không thƣơng tiếc vào các cơ sở kinh tế, hạ tầng giao thông, hệ thống mỏ ở Việt Nam. Theo ghi chép của ngƣời Pháp, việc Nhật đảo chính và cai trị ở Đông Dƣơng từ sau ngày 9/3/1945 đã gây ra 3 thảm họa: Lạm phát tài chính; Cơ sở hạ tầng bị phá hủy; Sản lƣợng lúa giảm sút do bị phá hoại và lụt lội. Ba thảm họa này đã kéo lùi sự phát triển kinh tế của Việt Nam, trong đó có khai mỏ ở Lào Cai, và gây ra hỗn loạn về xã hội, trầm trọng nhất là làm 2 triệu ngƣời bị chết đói: “Nhật Bản đã tấn công vào ngày 9/3/1945 và giành lấy quyền cai trị. Chính quyền quân sự Nhật Bản đã tàn phá xứ này. Tất cả sự phát triển do người Pháp xây dựng đã bị sụp đổ” [171, tr.58].
Cũng từ năm 1941, đặc biệt là từ khi Nhật đảo chính Pháp, phong trào đấu tranh cách mạng, đặc biệt là phong trào kháng Nhật cứu nƣớc phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh, nhiều cuộc khởi nghĩa, nổi dậy của nhân dân bùng nổ gây cho Nhật, Pháp nhiều khó khăn, trong đó có hoạt động khai mỏ. Trên thực tế, hoạt động khai mỏ đã bị ảnh hƣởng và phải dừng khai thác, một phần do các cuộc tấn công của phong trào khởi nghĩa: “Tình trạng an ninh là một trong những vấn đề thực sự lo lắng nhất. Ở khắp các vùng miền núi, nhiều cuộc nổi dậy của người Nùng, người Việt bùng nổ, họ cướp phá các làng và nhiều khu vực. Một số nhóm được trang bị súng các loại” [182, tr.462].
Nhƣ vậy, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, hoạt động khai thác thác mỏ ở Đông Dƣơng và Lào Cai gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, khi Nhật đánh chiếm Đông Dƣơng, các thỏa thuận kinh tế giữa Nhật và Pháp, nhu cầu của thị trƣờng
95
Nhật Bản đối với nguyên liệu mỏ, đặc biệt là nguyên liệu mỏ mang tính đặc hữu ở Lào Cai. Vì vậy, Nhật Bản đã tìm cách độc chiếm các mỏ ở Lào Cai.
3.3.2. Khai thác mỏ của các công ty Nhật Bản (giai đoạn 1940 – 1945) 3.3.2.1. Đấu giá khu nhượng mỏ ở Lào Cai năm 1940
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, nhiều công ty mỏ ở Lào Cai phải ngừng khai thác, hoặc còn khai thác thì manh mún, nhỏ lẻ và chỉ diễn ra trong thời gian ngắn (khai thác vàng năm 1936, 1937). Do vậy, nhiều công ty làm ăn thua lỗ, phá sản. Đứng trƣớc những khó khăn trên, nhiều khu nhƣợng mỏ ở Lào Cai phải đem bán đấu giá. Năm 1940, ở Lào Cai đã cho đấu giá 2 khu nhƣợng mỏ.
Bán đấu giá khu nhượng mỏ của Jeannette ở Lào Cai: Ngày 31/8/1940, tại Sở mỏ Đông Dƣơng, địa chỉ tại số 6 đƣờng Nhƣợng địa Hà Nội, khu nhƣợng mỏ của Jeannette đƣợc đƣa ra bán đấu giá công khai. Khu mỏ này đƣợc thiết lập rộng 773 hecta, theo Nghị định ngày 6/11/1929 của Toàn quyền Đông Dƣơng.
Theo quy định tại Sắc lệnh ngày 30/3/1935 của Tổng thống Pháp, ngƣời sở
hữu mỏ ở Đông Dƣơng phải là ngƣời có quốc tịch Pháp. Bán đấu giá khu nhượng mỏ Nam Ho ở Lào Cai: Cùng ngày 31/8/1940, tại Sở mỏ Đông Dƣơng ở Hà Nội, tổ chức bán đấu giá khu mỏ Nam Ho ở Lào Cai. Mỏ này có tổng diện tích 900 ha, đƣợc thiết lập theo Nghị định ngày 29/9/1929 của Toàn quyền Đông Dƣơng.
Giá khởi điểm đấu giá mỗi khu mỏ là 1.000 piastres, ngƣời tham gia đấu giá
phải nộp 100 piastres chi phí cho hồ sơ đấu giá [191, tr.2]. 3.3.2.2. Nghiên cứu, tìm kiếm mỏ sắt và apatite ở Bảo Hà (huyện Bảo Yên)
Trong quá trình nghiên cứu, ngƣời Pháp phát hiện ở Bảo Yên có hai vỉa mỏ quan trọng là mỏ sắt và mỏ apatite. Dƣới thời Pháp thuộc, Bảo Hà thuộc tỉnh Yên Bái. Qua khảo sát, ngƣời Pháp đã phát hiện ở khu vực Bảo Hà có các vỉa sắt ở Lang-Lech và Quan -San. Theo đánh giá, trữ lƣợc quặng sắt của các vỉa sắt ở Bảo Hà có thể cho trữ lƣợng khoảng 4 triệu tấn [235, tr.29].
Trong khu vực này, ngƣời Pháp cũng phát hiện các vỉa apatite. Tuy nhiên, cho đến năm 1942, chƣa có một nghiên cứu thực tiễn hoặc lấy mẫu mỏ ở đây đƣợc thực hiện. Từ năm 1941 trở đi, khi nguyên liệu apatite ở Việt Nam gần nhƣ bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nhu cầu apatite trên thị trƣờng thế giới ngày càng tăng. Đặc biệt sau khi xâm lƣợc Đông Đông Dƣơng và buộc chính quyền thuộc địa Pháp ký các thỏa ƣớc thƣơng mại, nhu cầu apatite khai thác ở Đông Dƣơng của thị trƣờng
96
Nhật Bản ngày càng lớn, việc xuất khẩu sang Nhật quặng apatite cũng dễ dàng hơn nhờ những thỏa thuận thƣơng mại giữa Đông Dƣơng và Nhật Bản. Chính điều này đã thúc đẩy không chỉ tƣ bản Pháp mà các công ty Nhật tăng cƣờng thăm dò, tìm kiếm và đẩy mạnh khai thác apatite ở Lào Cai.
Trong năm 1942, một vài nghiên cứu thực địa các mỏ apatite ở Bảo Hà mới đƣợc thực hiện, qua phân tích cho thấy, quặng apatite ở Bảo Hà có hàm lƣợng phosphate giao động từ 38 - 39%. Từ các nghiên cứu ban đầu, cuối năm 1942, hai vợ chồng nhà Jules Francois Mittard, sống tại Hà Nội đã thành lập Công ty Nghiên cứu mỏ sắt và mỏ apatite Bảo Hà. Công ty này có trụ sở tại số 32, Đại lộ Pierre Pasquier, Hà Nội. Lúc mới thành lập, công ty này có vốn điều lệ hoạt động là 200.000 đồng bạc Đông Dƣơng. Hoạt động chính của công ty là nghiên cứu, tìm kiếm, khảo sát và khai thác mỏ trong 8 khu vực ở Yên Bái và Lào Cai.
Trƣớc khi thành lập Công ty, vợ chồng nhà Jules Francois Mittard đã đạt đƣợc một khu đất nhƣợng mỏ 900 ha thuộc cả tỉnh Lào Cai và Yên Bái, trong đó có khu vực Bảo Hà [235, tr.13-14]. Qua đánh giá, việc khai thác mỏ sắt và apatite ở Bảo Hà sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với khai thác apatite ở Cam Đƣờng. Lý do: điều kiện thâm nhập và khai thác ở Bảo Hà dễ dàng hơn do điều kiện giao thông thuận lợi, vì khu mỏ gần với ga Bảo Hà, việc vận chuyển quặng khai thác đƣợc từ trung tâm mỏ ra ga Bảo Hà và từ Bảo Hà về cảng Hải Phòng cũng rút ngắn đƣợc thời gian, chi phí ít hơn so với khai thác apatite ở Cam Đƣờng [235, tr.30].
Tuy nhiên, do những khó khăn về việc thiết lập cơ sở hạ tầng, đặc biệt là tình hình chính trị bất ổn từ năm 1943, khi quân Đồng minh bắt đầu ném bom đánh phá quân Nhật ở Trung Quốc và một phần các tỉnh biên giới giáp ranh với Trung Quốc, trong đó có Lào Cai, chính vì vậy, việc mỏ sắt và apatite ở Bảo Hà chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, xây dựng kế hoạch. Trên thực tế, ngƣời Pháp và cả ngƣời Nhật chƣa tiến hành khai thác gì ở Bảo Hà. 3.3.2.3. Khai thác mỏ apatite ở Lào Cai
- Quá trình thăm dò, khảo sát, đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác các
mỏ apatite ở Cam Đường trong 30 năm đầu thế kỷ XX
Năm 1886, sau khi chiếm đóng Laokay (Lao Cai), với khát khao thu lợi từ vùng thuộc địa trên “con đƣờng tơ lụa” mà nhà buôn kiêm nhà ghi chép lịch sử Joan Dupus vẽ lên, chúng rất mong sớm khai thác tài nguyên quý hiếm tại đây. Từ năm 1900 đến năm 1914, dù phải đối phó với việc bình định các cuộc nổi dậy, chúng cũng đã cấp 11 giấy phép thăm dò các mỏ ở Laokay. Sau chiến tranh thế giới 1914 -
97
1918, Công sứ Laokay cấp 84 giấy phép tìm mỏ ở 27 điểm với 114 khu vực đƣợc thăm dò, trong đó có nhiều mỏ đƣợc phát hiện nhƣ mỏ phấn chì (graphite) Nậm Ty, mỏ cao lanh ở thị xã, mỏ đồng ở Làng Nhớn, mỏ đá ở Cốc San…
Apatite đƣợc ngƣời Pháp chú ý và khai thác tƣơng đối sớm ở Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc. Những mỏ khai thác đầu tiên phải kể tới các điểm mỏ ở Lạng Sơn, Bắc Giang, ... Năm 1911, một số tƣ bản Pháp đã thành lập ra Công ty Phosphates có trụ sở tại Hải Phòng. Tuy nhiên, việc khai thác apatite ở Lào Cai lại diễn ra tƣơng đối muộn, mặc dù việc nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm diễn ra sớm.
Việc phát hiện Mỏ apatite năm 1924 là một sự kiện ngẫu nhiên, không phải do các kỹ sƣ hoặc các nhà địa chất chuyên môn của chính quyền thực dân thực hiện. Theo tài liệu trong báo cáo lƣu trữ của “Công sứ Laokay”, bố con ông Trần Văn Nỏ, ngƣời Tày ở làng Hẻo, xã Cam Đƣờng đã phát hiện ra nguyên liệu quặng trong một chuyến đi rừng. Ngay sau đó, Toàn quyền Đông Dƣơng đã phái nhiều đoàn khảo sát thăm dò từ suối Nậm Thi về Cam Đƣờng. Ông Nỏ cùng dân bản lại phải bỏ công việc nƣơng rẫy, đi dẫn đƣờng, khiêng cáng, đào mẫu cho chúng đem về nghiên cứu. Trong suốt 3 năm (1931 – 1934), đã có 11 đoàn thăm dò địa chất lùng sục khắp vùng. Năm 1934, bản đồ trữ lƣợng apatite Laokay đƣợc công bố, đây là nguyên liệu sản xuất phân bón chất lƣợng cao trong trồng trọt và sản xuất ra nhiều loại hóa chất mà thị trƣờng tƣ bản đang khát khao tìm đến.
Một trong những lý do quan trọng khiến tƣ bản Pháp không tiến hành khai thác sớm apatite ở Lào Cai là do những khó khăn gặp phải ở đây: Trƣớc tiên đó là vấn đề cơ sở hạ tầng thiếu thốn ở khu vực mỏ, đặc biệt là hệ thống giao thông chƣa đƣợc đầu tƣ từ trục chính về đƣờng thủy từ sông Hồng vào khu mỏ, hay từ ga Lào Cai vào khu mỏ. Đây là khó khăn lớn nhất. Khó khăn thứ hai là sự khan hiếm về nguồn lao động do dân cƣ thƣa thớt. Trong khi đó, một số mỏ apatite ở Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang có điều kiện khai thác thuận lợi hơn về giao thông, đặc biệt là thuận lợi về nguồn nhân công do các khu mỏ này thuộc các tỉnh giáp danh, hoặc không quá xa vùng trung châu của đồng bằng sông Hồng, nơi có mật độ dân cƣ rất cao, cung cấp nguồn lao động dồi dào.
Ngƣời Pháp đã tiến hành rất nhiều khảo sát, tìm kiếm, thăm dò và lấy mẫu apatite ở Lào Cai tiến hành phân tích tại Phòng thí nghiệm thuộc Sở mỏ Đông Dƣơng tại Hà Nội. Những ngƣời đi tiên phong trong tìm kiếm apatite ở Lào Cai nhƣ, Lantenois, Jacob, Bourret, Dussault. Năm 1934, trên cơ sở các nghiên cứu trƣớc đó, Jacques Fromaget, khi đó là Giám đốc Sở địa chất Đông Dƣơng đã tiến
98
hành tổng hợp, nghiên cứu bổ sung về các mỏ apatite ở Lào Cai. Nghiên cứu của Jacques Fromaget tập trung vào mỏ apapite Cam Đƣờng, cách trung tâm Lào Cai chừng 7 km [183, tr.1].
Hình 3.3. Lƣợc đồ phân bố các mỏ apatite ở Việt Nam [131]
Những nghiên cứu của ngƣời Pháp cho thấy, các mỏ apatite ở Lào Cai tập trung chủ yếu ở xã Cam Đƣờng. Ở đây, có các vỉa apatite có trữ lƣợng rất lớn, tiềm năng khai thác có thể đem lại lợi nhuận khổng lồ cho các công ty khai mỏ của Pháp. Theo nghiên cứu của Robert Gavard (Nhân viên địa chính dân sự Đông Dƣơng), công bố năm 1933, trong số các vỉa Apatite ở Cam Đƣờng, mỏ Làng Cóc và Làng Hàng có tầm quan trọng lớn. Hai vỉa này ở phía Nam tỉnh Lào Cai, cách trung tâm hành chính tỉnh Lào Cai chừng 13km, trong thung lũng sông Hồng. Nó cách bờ sông Hồng 6km, và cách đƣờng bộ đã đƣợc dải đá Hà Nội – Hải Phòng cũng chừng 6km.
Việc thâm nhập vào khu mỏ Làng Cóc và Làng Hàng bằng đƣờng bộ rất khó khăn. Trong khi đƣờng thủy chỉ có duy nhất một cách đi qua sông Cam Đƣờng. Tuy
99
nhiên, dòng sông này vì nƣớc thƣờng thấp, nhiều ghềnh đá. Đây là một trong những vấn đề, mặc dù phát hiện mỏ đã từ lâu nhƣng Pháp chƣa có điều kiện khai thác, vì khó khăn về giao thông. Robert Gavard nhận xét: “Sông Cam Đường ở phần cao của địa hình không có thể di chuyển trên sông bằng xà lan hoặc ca nô. Điều này hoàn toàn loại bỏ khả năng quy hoạch sông này trở thành đường thủy để thâm nhập vào vùng mỏ Làng Cóc và Làng Hàng. Tóm lại, không thể đến trung tâm của khu mỏ này, cả bằng đường bộ và đường thủy” [215, tr.1].
Khu vực có mỏ Làng Hàng và Làng Cóc đƣợc ngƣời Pháp gọi là khu Désiré, có diện tích 900 ha. Ngày 1/5/1929, hai tƣ bản Pháp là Magne và Obtiguf đã đệ đơn xin cấp nhƣợng khu mỏ này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, chuẩn bị các phƣơng tiện, xây dựng cơ sở hạ tầng cho khai thác. Sau khi đƣợc cấp nhƣợng, hai tƣ bản Pháp này đã tiến hành các công việc nghiên cứu, khảo sát kỹ lƣỡng hơn ở khu mỏ Làng Hàng và Làng Cóc trong các năm 1931 – 1932. Họ đã tiến hành đào thăm dò nhiều hố, đặc biệt là đào theo kiểu dạng giao thông hào có độ sâu khoảng 3 - 4m để lấy mẫu apatite đem đi phân tích. Ngoài ra, việc đào các rãnh kiểu giao thông hào cho phép họ khoanh vùng phạm vi diện tích có chứa Apaptite, đánh giá độ dày của các vỉa mỏ, tính toán trữ lƣợng, từ đó định giá giá trị mang lại của khu mỏ [215, tr.5].
Sau khi lấy các mẫu apatite đem phân tích, đánh giá trữ lƣợng và giá trị, ngƣời Pháp đã tiến hành lên các kế hoạch và tiến hành xây dựng hệ thống giao thông để thâm nhập vào khu mỏ, đồng thời dự kiến phƣơng tiện, phƣơng pháp khai thác và vận chuyển mỏ apatite khai thác đƣợc từ khu mỏ đƣa ra đƣờng chính hoặc sông Hồng xuôi về Hải Phòng phục vụ xuất khẩu.
- Thiết lập cơ sở hạ tầng Trƣớc tiên tiến hành xây dựng tuyến đƣờng 6,5 km từ khu khai thác mỏ ra đƣờng kết nối giữa Lào Cai với Hải Phòng và bờ sông Hồng. Chi phí để xây dựng tuyến đƣờng này, cùng với xây dựng tuyến đƣờng ở đèo Châu Vi tổng cộng là 20.000 đồng bạc Đông Dƣơng.
Về phƣơng tiện vận chuyển, sẽ dùng đầu máy kéo có rơ mooc 5 tấn, từ khu mỏ ra tới nơi tập kết gần đƣờng Lào Cao – Hải Phòng, mỗi ngày có thể vận chuyển đƣợc 5 chuyến, tổng cộng mỗi ngày vận chuyển đƣợc 25 tấn quặng/một đầu kéo. Trong giai đoạn đầu chỉ cần khoảng 3 đầu kéo nhƣ vậy. Ngƣời Pháp còn dự tính, có thể xây dựng hệ thống cáp treo để vận chuyển quặng từ điểm khai thác tới nơi tập kết mỏ ở đƣờng bộ Lào Cai – Hải Phòng.
100
Việc thiếu cơ sở hạ tầng giao thông, khu mỏ nằm cách xa đƣờng giao thông
chính, đặc biệt là xa cửa ngõ xuất khẩu của Bắc Kỳ chính là Hải Phòng gây ra rất
nhiều khó khăn cho quá trình khai thác, đặc biệt là làm tăng giá quặng apatite khai
thác đƣợc. Đây là một trong những lý do tƣ bản Pháp trần chừ việc tiến hành khai
thác apaptite ở Lào Cai. Theo nghiên cứu của Robert Gavard, giá thành một toa mỏ
khai thác đƣợc ở Lào Cai lên tới 8,5 dollars, trong khi đó giá bán trên thị trƣờng thế
giới chỉ là 7,5 dollars/toa quặng apatite. Trong 8,5 dollars giá thành, chỉ có 0,5
dollar là chi phí khai thác, còn lại 7 dollars cho chi phí vận chuyển từ mỏ về đến
cảng Hải Phòng, 1 dollar còn lại là thuế, cụ thể nhƣ sau:
Chi phí vận chuyển quãng đƣờng 6,5 km từ mỏ ra đƣờng Lào Cai - Hải
Phòng hoặc bờ sông Hồng đƣa xuống xà lan: 4 dollars
Chi phí vận chuyển bằng đƣờng bộ, hoặc bằng đƣờng sắt từ Lào Cai về Hải
Phòng với quãng đƣờng dài 380 km: 3 dollars
Thuế phí các loại: 1 dollars [215, tr.15].
Năm 1933, để chuẩn bị cho khai thác, ngƣời Pháp đã dự tính xây dựng hai
trung tâm phát điện ở Cam Đƣờng. Trung tâm thứ nhất ở Bo-Lay có công suất 400
KW; trung tâm thứ hai xây dựng ở trung tâm hành chính Cam Đƣờng cũng khoảng
400 KW. Ngoài ra, một thác nƣớc cách trung tâm Cam Đƣờng chừng 15 km cũng
có thể xây dựng thủy điện, công suất có thể đạt 4.000 KW để phục vụ dân sinh cũng
nhƣ phục vụ khai thác mỏ.
Bên cạnh đó, ngƣời Pháp còn cho xây dựng tuyến đƣờng sắt cho xe goòng
chở quặng mỏ từ nơi khai thác ra bờ sông Hồng, song song với tuyến đƣờng bộ.
Mặt khác xây dựng các khu nhà ở cho quản lý mỏ ngƣời Âu, nhà ở cho công nhân,
văn phòng, phòng thí nghiệm và các kho.
- Về vấn đề lao động
Đây là vấn đề lớn, gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, theo đánh giá của ngƣời
Pháp, vấn đề này có thể đƣợc giải quyết, bằng việc tuyển mộ lao động ngƣời Việt ở
đồng bằng sông Hồng lên. Họ cũng đặt ra khả năng, nếu khó khăn quá, có thể sử
dụng lao động ngƣời Hoa. Lực lƣợng này tƣơng đối dồi dào, sống ở quanh vùng
sông Nậm Thi. Theo đánh giá, việc sử dụng lao động ngƣời Hoa có thể mang lại
hiệu quả tốt hơn lao động ngƣời Việt tuyển ở đồng bằng sông Hồng lên, vì ngƣời
Hoa ở đây dễ thích ứng với điều kiện địa hình, khí hậu ở Lào Cai [215, tr.13].
Ngƣời Pháp tự tin về vấn đề lao động cho khai thác khu mỏ này nhƣ sau:
101
“Có thể không cần tính đến phương án tuyển mộ lao động từ đồng bằng lên. Chúng
ta sẽ dễ dàng tuyển mộ được lao động người Hoa hoặc người Thổ”[215, tr.14].
- Về tiêu thụ quặng apatite Theo dự báo của chính quyền, thị trƣờng tiêu thụ quặng apatite là rất khả
quan. Chỉ tính riêng Bắc Kỳ tiêu thụ hàng năm khoảng 25.000 tấn cho các nhà máy
sản xuất phân bón. Trƣớc khi các mỏ apatite ở Lào Cai đƣợc khai thác, phần lớn
nguyên liệu này đều do các mỏ ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thanh Hóa cung cấp.
Tuy nhiên, chó tới năm 1930, gần nhƣ quặng ở các mỏ trên đã bị hút cạn. Trong khi
đó, các mỏ apatite khai thác ở Campuchia chỉ đủ phục vụ cho nhu cầu của xứ này.
Trên thực tế, Đông Dƣơng đã tìm phƣơng án nhập khẩu quặng apatite ở châu phi để
phục vụ cho công nghiệp sản xuất phân bón [215, tr.14].
Sau khi đƣợc thành lập, Công ty Phosphates Bắc Kỳ đã tiến hành từ năm
1912-1914 nhiều thí nghiệm đối sánh về hữu dụng của phân bón phosphates sản
xuất từ quặng apatite ở các trạm thí nghiệm cây trồng khác nhau. Số phosphate này
đƣợc khai thác ở dãy núi Cai Kinh (Lạng Sơn) và ở Hạ Long (Quảng Ninh). Việc
thí điểm bón phân phosphate đƣợc làm tại trạm thí nghiệm Phú Hộ, Tuyên Quang
trên các loại cây trồng khác nhau, chất đất khác nhau để đối sánh với việc bón phân
động vật và phân xanh. Kết quả cho thấy, cây trồng, gồm đỗ, lạc, lúa, sắn đƣợc bón
phân phosphates cho năng suất cao hơn rất nhiều so với bón các loại phân truyền
thống. Từ kết quả này, Công ty Phosphate Bắc Kỳ và Chính quyền đã làm một cuộc
tuyên truyền rộng rãi trên báo chí khuyến khích chủ đồn điền và ngƣời dân nên sử
dụng phân phosphate. Đồng thời mở rộng quy mô khai thác quặng apatite phục vụ
cho sản xuất phân bón [172, tr.158-168].
Trƣớc năm 1940, apatite chủ yếu đƣợc khai thác ở Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Hạ Long và Thanh Hóa. Ở Lào Cai, những khai thác đầu tiên thực hiện vào năm
1934, tuy nhiên, chỉ một vài năm sau đó, năm 1940, khi Nhật xâm lƣợc Đông
Dƣơng, chính quyền Nhật tìm mọi cách thâu tóm các mỏ apatite ở Việt Nam bao
gồm cả Lào Cai để khai thác xuất khẩu về Nhật.
Ngay sau khi xâm lƣợc Đông Dƣơng, Nhật Bản đã thành lập Tập đoàn tài
chính chuyên đầu tƣ vào khai thác apatite ở Đông Dƣơng, dƣới tên gọi Dai Nippon
Rock Phosphates với số vốn lên tới 10 triệu yên. Đây là Tập đoàn tập hợp nhiều
công ty từng có nhiều năm làm ăn ở Đông Dƣơng, nhƣ: Công ty phát triển kinh tế
trong vùng biển phía Nam (Compagnie pour le développement économique dans les
102
mer du Sud), Công ty phát triển kinh tế Formose (Compagnie pour le développement
de Formose), Công ty công nghiệp Mitsui,…
Sau khi thành lập, Giám đốc của Tập Đoàn Dai Nippon Rock Phosphates
cùng chuyên gia công nghệ của Bộ Thƣơng mại và Công nghiệp Nhật Bản đã tới
Đông Dƣơng để tìm hiểu về nguồn apatite.
Sự sốt sắng, tập trung vốn, tìm cách thâu tóm apatite ở Đông Dƣơng của
Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu ngày càng lớn nguồn nguyên liệu này và nguồn lợi
mang lại từ loại mỏ này do giá trên thị trƣờng ngày càng tăng, vì sự mất cân bằng
giữa cùng và cầu.
Tính đến năm 1940, ở Lào Cai có 23 điểm khai thác apatite, đến năm 1941,
toàn bộ các điểm này, Nhật Bản đã tìm mọi cách buộc ngƣời Pháp phải nhƣợng lại
cho ngƣời Nhật. Trong đó, Tập đoàn Dai Nippon Rock Phosphates thâu tóm 21
điểm, 2 điểm khai thác còn lại thuộc về hai công ty khác của Nhật: Công ty phát
triển kinh tế trong vùng biển phía Nam (Compagnie pour le développement
économique dans les mer du Sud) và Công ty phát triển Formose (Compagnie pour
le développement de Formose).
Với diện tích các khu nhƣợng mỏ apatite ở Lào Cai, ngƣời ta dự báo, các
công ty của Nhật sẽ khai thác đƣợc khoảng 60.000 tấn apatite có chất lƣợng tốt mỗi
năm [192, tr.1].
Theo thông tin từ Sở mỏ Đông Dƣơng, từ năm 1940, nhu cầu thị trƣờng
apatite trên thế giới ngày càng tăng, đặc biệt là thị trƣờng Nhật Bản. Mỗi năm Nhật
có thể nhập khẩu từ 700 đến 800.000 tấn apatite. Đây là một trong những lý do Tƣ
bản Pháp tăng cƣờng tìm kiếm, khai thác các mỏ apatite ở Việt Nam. Sở mỏ Đông
Dƣơng đánh giá, việc khai thác các mỏ ở Lào Cai sẽ cho phép Đông Dƣơng tăng
cƣờng xuất khẩu apatite sang Nhật Bản [191, tr.4].
Năm 1940, các Công ty và Tập đoàn của Nhật đã thành lập Công ty khai thác
phosphates Đông Dƣơng (Société d’Exploitation des phosphates de l’Indochine), trụ
sở đặt tại Hà Nội. Đây là Công ty cổ phần, vốn điều lệ 2.500 piastres, chia thành
250.000 cổ phần, mỗi cổ phần 100 piastres. Trên thực tế, các công ty này có sự kết
hợp giữa ngƣời Nhật và Pháp. Công ty khai thác phosphates Đông Dƣơng (Société
d’Exploitation des phosphates de l’Indochine), giám đốc là ngƣời Nhật, ngoài ra,
trong hội đồng quản trị còn có hai ngƣời Nhật khác và hai ngƣời Pháp [184, tr.45-46].
Theo Raoul Dumont, tất cả các mỏ apatite ở Lào Cai đều đƣợc khai thác
103
theo kiểu lộ thiên. Tổng trữ lƣợng có thể khai thác đƣợc khoảng 150 triệu tấn có hàm lƣợng 32% acide phosphorique và 1 tỷ tấn có hàm lƣợng 18% acide phosphorique. Đây là chất quan trọng để sản xuất phân bón hóa học, gồm lân, đạm phục vụ xuất khẩu và cho nhu cầu tiêu dùng trong thuộc địa, đặc biệt là ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long và sông Hồng, nơi tập trung nhiêu đồn điền của ngƣời Pháp [213, tr.351].
- Về khai thác apatít Các vỉa apatite ở Lào Cai, nằm ở phía Nam của tỉnh, bên bờ phải của sông Hồng, mở rộng về phía Tây Bắc đến tận chân phía Đông của dãy Hoàng Liên Sơn. Mỏ Cam Đƣờng có chiều rộng khoảng 6 km, dài 15 km, thuộc xã Cam Đƣờng, trung tâm chính quyền của xã đặt tại Làng Nhớn.
Việc khai thác mỏ apatite ở Cam Đƣờng đã đƣợc tiến hành bƣớc đầu từ năm 1934, ở Làng Giàng, Làng Nhớn, Làng Cóc (mỏ Cóc). Trƣớc năm 1939, phần lớn mỏ khai thác đƣợc đều đƣợc vận chuyển thô sơ từ Cam Đƣờng lên ga Lào Cai để trở về Hải Phòng.
Năm 1939, Pháp cho xây dựng tuyến đƣờng ray, nối khu mỏ Làng Giàng, mỏ Cóc tới cửa Ngòi. Cũng trong năm 1939, những tấn quặng apatit đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng đƣợc kéo bằng đầu máy hơi nƣớc ra Cửa Ngòi, rồi đƣợc đổ vào ve-re-my giống nhƣ máng rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà đƣợc tời qua sông, bốc lên toa xe đƣa về cảng Hải Phòng để xuất khẩu. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đƣờng thô sơ trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.
Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc khai thác, nâng khối lƣợng gấp rƣỡi thời chủ thầu Pháp quản lý. Năm 1942, chúng nâng cấp tuyến đƣờng sắt trên từ khổ 60cm lên 115cm, đầu máy hơi nƣớc kéo 3 đến 4 toa đĩa và toa vagông phía sau bảo vệ, thúc đẩy việc khai thác đạt sản lƣợng thêm 300 tấn/năm. Chủ thầu Nhật còn có ý định khôi phục việc khai thác mỏ đồng làng Nhớn, làng Phời mà chủ thầu Pháp mới triển khai. Theo tài liệu thống kê của Kho lƣu trữ Trung ƣơng, từ khi khai thác năm 1934 đến khi đóng cửa mỏ lần thứ nhất (cuối năm 1944), Pháp, Nhật đã khai thác trên 445.700 tấn quặng loại tốt. Hầu hết, số lƣợng quặng đƣợc chuyên chở trên tuyến đƣờng ray từ ga Gốc Đa ra Cửa Ngòi.
Nhân lực khai thác, quản lý trực tiếp trong các mỏ apatite ở Cam Đƣờng phần lớn chủ Pháp thuê lao động ngƣời Việt. Mỗi lĩnh vực có một ngƣời phụ trách chính, vào năm 1943, phụ trách mỏ apatite Làng Nhớn, gồm có: Đinh Phú San, trƣởng ga đƣờng sắt Làng Giàng; Lƣu Đức Thủy, y tá mỏ; Võ Sỹ, trƣởng kíp giám
104
sát vận chuyển quặng khai thác đƣợc; Vũ Kim Oanh, nhân viên đo đạc địa chất mỏ. Ở Cam Đƣờng có hàng nghìn công nhân ngƣời Việt làm việc dƣới sự giám sát của các cai mỏ. Ở mở Làng Nhớn, phần lớn cai mỏ là ngƣời Việt, gồm 3 ngƣời là: Trần Cao Dê, Nguyễn Hồng Nguyên và Trần Đình Tiến [132, tr.645].
Từ năm 1941 đến năm 1943, các công ty của Nhật đã khai thác các mỏ apatite ở Lào Cai (chủ yếu tập trung ở Cam Đƣờng) tổng cộng 200.000 tấn quặng apatite. Trong giai đoạn này, quy mô, sản lƣợng khai thác đƣợc ở mỏ Lào Cai thuộc loại lớn nhất ở Việt Nam. Tiếp đó là hai mỏ apatite khác ở Thái Nguyên và Thanh Hóa. Sản lƣợng apatite khai thác đƣợc ở Lào Cai chiếm 40% tổng sản lƣợng apatite khai thác đƣợc trên toàn Đông Dƣơng. Trong khi đó hai mỏ ở Thái Nguyên và Thanh hóa chỉ chiếm 20% tổng sản lƣợng apatite khai thác đƣợc ở Đông Dƣơng [184, tr.45-46]. Điều này cho thấy, từ năm 1940 trở đi, Lào Cai sở hữu hai mỏ nguyên liệu vô cùng quan trọng, mang tính đặc hữu đó là than chì và apatite. Đây là hai nguồn nguyên liệu rất quan trọng đối với một số ngành công nghiệp của các nƣớc tƣ bản.
Phần lớn apatite khai thác đƣợc ở Lào Cai từ năm 1940 trở đi đều phục vụ cho xuất khẩu. Apatite khai thác đƣợc ở Cam Đƣờng đƣợc vận chuyển phần lớn bằng đƣờng sông bởi các sà lan, chỉ một phần nhỏ đƣợc vận chuyển bằng tuyến đƣờng sắt. Quặng apatite đƣợc vận chuyển thẳng từ Lào Cai về Hải Phòng, trung tâm hải cảng quan trọng nhất Bắc Kỳ và cũng là một trong những 2 hải cảng quan trọng nhất Việt Nam khi đó, cùng với cảng Sài Gòn. Trong tổng số 200.000 tấn khai thác đƣợc trong giai đoạn 1941 – 1943, thì 160.000 tấn đƣợc xuất khẩu sang Nhật, 40.000 tấn còn lại đƣợc tập kết, dự trữ tại các kho của Nhật ở Hải Phòng [184, tr.45-46].
Từ năm 1943, tình hình chiến sự của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ Hai ngày càng leo thang quyết liệt ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dƣơng, đặc biệt trên các vùng biển. Đây là một trong những lý do khiến Nhật gặp nhiều khó khăn trong giao thông hàng hải, trong đó có việc vận chuyển quặng apatite xuất khẩu từ Việt Nam về Nhật. Trong khi đó, quặng apatite khai thác đƣợc tồn đọng ở cảng Hải Phòng ngày càng lớn. Trƣớc những khó khăn đó, Công ty của Nhật đã tuyên bố đóng tạm thời việc khai thác apatite ở Lào Cai từ cuối năm 1944. Sau năm 1945, chính quyền cách mạng đã chính thức cho đánh sập các mỏ apatite ở Lào Cai vào năm 1947 [183, tr.45-46]. Có thể vì lý do tránh thực dân Pháp đánh chiếm và khai thác. Dƣới đây là bảng biểu thống kê sản lƣợng apatite khai thác đƣợc từ năm 1939 đến năm 1945:
105
Bảng 3.9. Sản lƣợng apatite khai thác đƣợc ở Lào Cai từ khi Nhật đánh chiếm Việt Nam (1939 – 1945)
(Đơn vị tính: tấn)
Sản phẩm 1939 1940 1941 1942 1943 1944 1945
Apatite 0 2.070 30.800 98.800 64.800 300 0
[171, tr.47-67].
Từ bảng số liệu trên đây cho chúng ta những nhận định về tình hình khai thác
loại mỏ đặc hữu ở Lào Cai là apatite (mặc dù số liệu trên là chung cho cả Việt
Nam). Thứ nhất, từ khi Nhật Bản đánh chiếm Việt Nam và ép Pháp nhƣợng lại
những lợi ích kinh tế, sự thâu tóm của các công ty Nhật cùng với nhu cầu ngày càng
lớn về một số nguyên liệu mỏ cho công nghiệp của Nhật đã thúc đẩy việc tăng sản
lƣợng khai thác mỏ ở Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng. Trên thực tế bảng
trên cho thấy, từ năm 1940 sản lƣợng khai thác apatite có xu hƣớng tăng một cách
nhanh chóng, đạt đỉnh cao nhất vào năm 1942 (98.800 tấn apatite). Từ năm 1943,
do tác động tiêu cực của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, nhƣ đã phân tích ở
trên, việc khai thác tất cả các mỏ ở Việt Nam nói chung, Lào Cai nói riêng bắt đầu
có xu hƣớng giảm đột ngột, đặc biệt là apatite.
Đối với việc khai thác apatite, từ năm 1940 đến năm 1944, tổng sản lƣợng
apatite mà các công ty Nhật và Pháp khai thác đƣợc ở Việt Nam đạt 196.770 tấn. So
sánh với số liệu trong nghiên cứu của James Boyd, chúng ta thấy, số liệu của ngƣời
Pháp về khai thác apatite ở Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng có sự tƣơng
đồng gần nhƣ tuyệt đối: 196.770 tấn so với 200.000 tấn. Toàn bộ sản lƣợng apatite
này đƣợc khai thác ở Lào Cai. Trong đó, chỉ tính riêng hai năm 1942 và 1943, sản
lƣợng khai thác đƣợc xấp xỉ 164.000 tấn, chiếm 83% tổng sản lƣợng apatite khai
thác đƣợc từ năm 1940 đến năm 1944.
3.3.2.4. Khai thác than chì
Đối với than chì, có thể nói đây là của hiếm của Lào Cai và Việt Nam, tuy
nhiên trữ lƣợng không lớn, số lƣợng mỏ không nhiều. Trong khi đó, than chì đã
đƣợc ngƣời Pháp khai thác từ khá sớm. Điều này dễ hiểu khi sản lƣợng than chì
khai thác đƣợc từ khi Nhật vào Việt Nam không lớn, mặc dù có xu hƣớng tăng.
Tổng khối lƣợng than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai trong giai đoạn 1939 –
1945 chỉ có 71 tấn quặng đã qua xử lý. Cụ thể: Năm 1939 - 1940, sản lƣợng khai
106
thác than chì bằng không; Năm 1941, khai thác đƣợc 2 tấn; Năm 1942, khai thác
tăng lên 14 tấn; Năm 1943, khai thác đƣợc 25 tấn; Năm 1944, khai thác đƣợc 30
tấn; Năm 1945, không khai thác đƣợc tấn nào. Sản lƣợng khai thác than chì thời kỳ
1939 – 1945 đƣợc thống kê cụ thể dƣới bảng biểu sau:
Bảng 3.10. Sản lƣợng than chì khai thác đƣợc ở Lào Cai từ khi Nhật đánh chiếm Việt Nam (1939 – 1945)
(Đơn vị tính: tấn)
Sản phẩm 1939 1940 1941 1942 1943 1944 1945
Than chì 0 0 2 14 25 30 0
[171, tr.47-67]. Nhƣ vậy, từ khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ (1939) cho đến năm cuối của chiến tranh, hoạt động khai thác mỏ than chì ở Lào Cai vẫn tiếp tục diễn ra, nhƣng với quy mô nhỏ. Đến năm 1945, khai thác than chì ngừng hoạt động.
3.4. Vấn đề công nghệ, nhân công trong khai thác mỏ ở Lào Cai 3.4.1. Công nghệ, kỹ thuật khai thác, tuyển quặng mỏ
Công nghệ trong khai thác mỏ: Ở Lào Cai, các mỏ khai thác hoàn toàn theo
kiểu “lộ thiên”, nên hoạt động khai thác chủ yếu bằng lao động thủ công.
Trên công trƣờng mỏ than chì, apatile (Lào Cai), công nhân bằng các phƣơng
tiện thô sơ và dùng sức lao động phổ thông (cuốc, gánh, đội) khai thác quặng.
Phương tiện, kỹ thuật vận chuyển: quặng khai thác đƣợc đƣa từ mỏ ra đƣờng
lớn, bờ sông Hồng; Từ đƣờng lớn, bờ sông Hồng về Hải Phòng.
Quặng than chì sau khi khai thác đƣợc chuyên chở từ mỏ lên ga Lào Cai theo tuyến đƣờng đƣờng sắt về cảng Hải Phòng, sau đó chất lên tàu rồi từ cảng Hải Phòng chở đến bến cảng Havre (Pháp).
Apatile ở Cam Đƣờng, trong thời kỳ đầu, khi đƣờng sắt goòng chƣa làm xong, cu ly phải gùi hoặc gánh từng cân quặng khai thác đƣợc chuyển theo đƣờng 109 Cam Đƣờng – Lào Cai (nay là Quốc lộ 4E) lên tập kết tại ga Lào Cai, sau đó quặng đƣợc chở về cảng Hải Phòng bằng tuyến đƣờng sắt.
Về sau, Pháp cho xây dựng tuyến đƣờng ray, nối khu mỏ Làng Giàng, mỏ Cóc tới cửa Ngòi, đồng thời huy động các toa tàu (xe gòng) để vận chuyển quặng apatite ra cửa Ngòi. Năm 1939, những tấn quặng apatile đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng đƣợc kéo bằng đầu máy hơi nƣớc ra Cửa Ngòi, rồi đƣợc đổ vào ve-re-my giống nhƣ máng rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà đƣợc tời qua
107
sông, bốc lên toa xe đƣa về cảng Hải Phòng. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đƣờng thô sơ trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.
Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc
khai thác, nâng khối lƣợng gấp rƣỡi thời chủ thầu Pháp quản lý. Năm 1942, chúng
nâng cấp tuyến đƣờng sắt trên từ khổ 60cm lên 115cm, đầu máy hơi nƣớc kéo 3
đến 4 toa đĩa và toa vagông phía sau bảo vệ, thúc đẩy việc khai thác đạt sản lƣợng
thêm 300 tấn/năm.
Công nghệ tuyển nổi quặng than chì: Để thu đƣợc lợi nhuận tối đa từ quặng
than chì khai thác đƣợc, ngƣời Pháp đã nghiên cứu và cho xây dựng nhà máy xử lý
quặng than chì ở Lào Cai. Nhà máy đƣợc xây dựng ngay bên bờ sông Nậm Thi,
đƣợc trang bị máy móc, thiết bị hiện đại (máy tuyển quặng than chì chạy bằng ga,
công suất mỗi máy khoảng 180 mã lực). Theo tính toán của kỹ sƣ ngƣời Pháp, nhà
máy có thể xử lý 250 tấn quặng than chì mỗi tháng, sau đó tăng lên 450 tấn/tháng.
Năm 1927, Công ty Đông Dƣơng than chì xây dựng thêm nhà máy xử lý than chì
thứ hai. Đến năm 1928, nhà máy đầu tƣ thêm một máy mới công suất 320 mã lực.
Nói về công nghệ tuyển nổi than chì ở Lào Cai, Theo ghi chép của Giám đốc
Sở mở Đông Dƣơng, việc sử dụng công nghệ tuyển nổi nhằm loại bỏ các đá tạp
không có quặng để chuyển các quặng thô, tạp thành một sản phẩm có tính chất hàng
hóa cao đã đƣợc ứng dụng ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Công nghệ tuyển nổi đƣợc áp dụng đầu tiên vào Việt Nam thời thuộc địa bởi
hai công ty: Công ty Than chì Đông Dƣơng ở Lào Cai (Société des graphites de
l’Indochine) và Công ty mỏ Trảng Đà.
Ở mỏ than chì Nậm Si, công nghệ tuyển nổi đƣợc áp dụng, giống với công
nghệ tuyển nổi đã đƣợc áp dụng trong các công thi than chì ở Mỹ, nó tạo ra than chì
đạt 98% carbon ở Công ty Américan Graphite Cie (trụ sở đặt tại New York), áp
dụng ở Quebec (Canada) bởi Công ty Quebec Graphite Cie,…
Trong nhà máy chế biến than chì ở Lào Cai, Công nghệ tuyển nổi than chì
đƣợc thực hiện qua các giai sau để thu đƣợc than chì không có tạp chất và có giá trị
thƣơng mại cao: Trƣớc tiên các khối quặng than chì lẫn trong các khối đá đƣợc
nghiền ra; dùng sức nƣớc rửa để loại bỏ các tạp chất và sàng lọc bỏ các loại đá
không chứa than chì; Cuối cùng là bƣớc thu than chì, tuy nhiên tỷ lệ sản phẩm than
chì thu đƣợc chỉ đạt 56% than chì carbon.
Than chì 56% carbon sau đó lại đƣợc nghiền thêm một lần nữa, tiếp tục dùng
108
nƣớc để tuyển nổi than chì qua hệ thống sàng, lọc. Cuối cùng, ở nhà máy than chì Lào
Cai, ngƣời ta thu đƣợc than chì có tỷ lệ từ 80 đến 86% chì carbon [214, tr.325-347].
Giám đốc Sở mỏ Đông Dƣơng đánh giá: Công nghệ tuyển nổi than chì ở Lào Cai cho phép đạt đƣợc sản phẩm than chì có chất lƣợng rất tốt, mang tính hàng hóa và có giá trị thƣơng mại cao hơn rất nhiều quặng than chì thô mới khai thác đƣợc.
3.4.2. Lực lượng và đời sống công nhân khai mỏ ở Lào Cai 3.4.2.1. Quy chế lao động mỏ của thực dân Pháp ở Việt Nam
Tác giả Cao Văn Biền nhận xét: “Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp tất yếu sẽ tạo ra một tầng lớp những người lao động làm thuê, một giai cấp làm thuê cho tư bản, tức giai cấp công nhân. Trong xã hội thuộc địa, giai cấp xã hội mới ra đời sẽ là lực lượng chống đối quyết liệt nhất là chế độ thống trị”[18, tr.178-179]. Để ngăn chặn mọi sự phản kháng có thể xảy ra trong thời kỳ tiến hành khai thác thuộc địa Việt Nam, Chính phủ Pháp và chính quyền thực dân đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy về chế độ lao động đối với công dân bản xứ. Trong đó, có một số văn bản liên quan đến lao động trong các mỏ. Về quy chế lao động mỏ của thực dân Pháp ở Việt Nam, luận án trình bày trên cơ sở kế thừa một số kết quả nghiên cứu của tác giả Cao Văn Biền trong công trình “Công nghiệp than Việt Nam thời kỳ 1888 – 1945”.
- Nghị định ngày 21/4/1891 của Toàn quyền Đông Dương: Nghị định này bao gồm ba nội dung cơ bản là giao kèo lao động, sổ lao động và các hình thức trừng trị ngƣời lao động. Nghị định bắt buộc ngƣời làm công cho các chủ Pháp phải ký giao kèo lao động có thời hạn hoặc không có thời hạn. Trƣờng hợp chủ muốn thôi thuê và thợ muốn thôi làm thì phải báo trƣớc 15 ngày. Ai vô cớ bỏ việc hoặc bỏ việc không báo trƣớc 15 ngày, phá giao kèo hoặc hết hạn giao kèo không thông báo thì bị phạt tù từ 1 đến 5 ngày và phạt tiền từ 1 đến 15 phơ răng.
Nghị định bắt buộc ngƣời làm công phải có sổ lao động, ai không có sổ hoặc có sổ không làm đúng nghề ghi trong sổ đều bị phạt nhƣ trên. Còn những hành động bị phạt thì có rất nhiều: không làm đúng lời chủ, không hoàn thành công việc, không tuân theo lệnh của chủ, không lễ phép với chủ và gia đình chủ; chủ Pháp có quyền trừng phạt và đánh đập ngƣời công dân dƣới 16 tuổi, chủ Pháp có quyền bắt ngƣời làm công giải đến cảnh sát nếu chủ không bằng lòng với ngƣời làm công đó…
Vậy là bằng giao kèo, bằng sổ lao động, đặc biệt là những điều khoản quy định về các hành động bị phạt và quyền hành của chủ pháp, nghị định ngày
109
21.1.1891 đã trói buộc ngƣời làm thuê vào chế độ nô lệ phục tùng chủ không điều kiện [19, tr.180-181].
- Nghị định ngày 26/8/1899 của Toàn quyền Đông Dương Trên cơ sở hoàn thiện tất cả các điều kiện cơ bản có trƣớc kia và thỏa mãn tối đa những yêu cầu của chủ nghĩa tƣ bản Pháp, nghị định này bắt buộc tất cả mọi công dân ở Bắc Kỳ phải làm giao kèo lao động thời hạn 1 năm. Trong thời gian đó, dù khó khăn, cực khổ ngƣời công nhân cũng không đƣợc bỏ việc, nếu bỏ việc sẽ bị phạt tù và phạt tiền.
Các nghị định trƣớc đã đặt ra giao kèo lao động, nhƣng mới chỉ thi hành ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Nghị định 26/8/1899 đã mở rộng giao kèo lao động khắp Bắc Kỳ đối với mọi công nhân. Thời hạn giao kèo là 1 năm, nhƣng nếu chủ yêu cầu thì chính quyền có thể can thiệp gia hạn; đối với ngƣời lao động dƣới 18 tuổi, nghị định cho phép chính quyền cấp làng xã ký thay giao kèo lao động. Các điều khoản này đã đảm bảo cho chủ tƣ bản một số lƣợng lao động thƣờng xuyên và hạn tình trạng công nhân làm thuê theo mùa ở các khu mỏ.
Về sổ lao động, điều 2 của nghị định ghi rõ: sổ lao động có mục đích để biết lý lịch của ngƣời lao động, quê quán, chỗ ở hiện tại, tính chất và thời hạn giao kèo, biết số lƣợng và cách trả lƣơng. Sổ lao động có giá trị nhƣ một tờ giấy phép cƣ trú. Với điều khoản này, chính quyền thực dân đã cho phép nhà tƣ bản kiểm soát lý lịch, hoạt động công nhân và quyền cấp cho họ “giấy phép cƣ trú” nhƣ một cấp chính quyền ở khu vực nhƣợng địa của mình. Ai không có “giấy phép cƣ trú” đó không đƣợc vào khu vực nhƣợng địa.
Các điều khoản tiếp theo của nghị định chủ yếu quy định các hình phạt về vi phạm giao kèo, vi phạm sổ lao động, không tuân theo mệnh lệnh của chủ, không trình sổ lao động cho các nhà chức trách khi chuyển nơi làm việc… Nghị định ngày 26/8/1899 đặc biệt nhấn mạnh hình phạt về “sự bỏ việc là kết quả của một kế hoạch tính trƣớc giữa nhiều ngƣời”, tức là bỏ việc tập thể hay đình công để phản đối chủ tƣ bản. Hình phạt có thể đến 3.000 phơ răng và 3 năm tù. Có thể nói, nội dung các quy chế pháp lý về lao động là cƣỡng bức ngƣời lao động phải làm việc cho chủ tƣ bản và trừng phạt những ngƣời lao động không chịu phục tùng [19, tr.181-184].
- Nghị định ngày 8/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương Nghị định này bao gồm 51 điều khoản, nội dung liên quan đến việc tuyển mộ và sử dụng nhân công nƣớc ngoài. Về điều kiện lao động, nghị định giành tới 24 điều khoản. Chẳng hạn, điều 4 quy định tuổi tối thiểu của ngƣời lao động có
110
thể tuyển dụng là 18. Hợp đồng phải ghi rõ một số chỉ dẫn nhƣ: tên, tuổi và nơi sinh của ngƣời tuyển mộ; tính chất của công việc; nơi làm việc và thời gian hợp đồng; số ngày nghỉ; số giờ làm việc/ngày; phƣơng thức trả lƣơng; quyền lợi về nơi ở, ăn uống và chăm sóc y tế; số tiền ứng trƣớc (nếu có) và phƣơng thức hoàn trả… Điều 5,6,7 quy định công nhân đƣợc tuyển mộ làm việc trong các mỏ có quyền đƣợc hƣởng lƣơng, đƣợc đƣợc quyền có chỗ ở sạch sẽ, nƣớc sạch, chăm sóc y tế và thuốc bệnh miễn phí. Nếu nhân công là ngƣời nƣớc ngoài còn đƣợc miễn thuế thân, các khoản phụ thu… nói chung là tất cả các nghĩa vụ phải chịu ở thuộc địa, các tỉnh hoặc làng xã.
Điều 13,14 quy định mọi công dân phải làm việc 10 giờ mỗi ngày, trừ ngày nghỉ và các ngày lễ đƣợc quy định rõ trong hợp đồng. Trong hoàn cảnh ngƣời chủ yêu cầu giờ làm việc thêm, tiền công phải trả là hơn một nửa so với lƣơng bình thƣờng. Phụ nữ không thể đƣợc thuê mƣớn và những công việc vƣợt quá sức của họ. Họ có quyền hƣởng một tháng nghỉ sau khi sinh con. Điều 15,16,17,18,19 quy định ngƣời chủ phải thiết lập hàng ngày một danh sách tên hợp lệ có ký và xác nhận của những công nhân đƣợc miễn lao động. Những ngƣời ốm phải đƣợc miễn lao động và ở trạm y tế cách biệt với nơi ở. Những bệnh nhân nặng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng đƣợc chuyển đến bệnh viện bản xứ của tỉnh với chi phí của ông chủ; Ông chủ phải đảm bảo sự mai táng thích hợp cho mọi ngƣời làm công bị chết khi làm việc. Trƣờng hợp chết tại bệnh viện, phí mai táng thuộc trách nhiệm của ông chủ. Điều 20,21 quy định các cửa hàng bán cho ngƣời lao động, giá hàng phải đƣợc niêm yết bằng nhiều thứ tiếng bên trong và bên ngoài cửa hàng. Điều 22,23,24 quy định việc trả lƣơng cho ngƣời lao động: lƣơng đƣợc trả hàng tháng và trong thời hạn 10 ngày sau khi kết thúc tháng trƣớc. Việc trả lƣơng phải gửi trực tiếp cho ngƣời làm bởi ông chủ hoặc đại diện của ông chủ và không qua trung gian. Để tính lƣơng, tất cả các tháng đƣợc coi là có 30 ngày.
Về sổ lao động, từ điều 34 đến điều 39 quy định: mỗi ngƣời đƣợc coi là làm thuê chính thức khi nhận một sổ nhỏ theo mẫu quy định của toàn quyền. Trên sổ ghi rõ các thông tin tên, tuổi và nơi sinh, ngày và thời hạn của hợp đồng, lƣơng, tiền tạm ứng, các khoản hoàn trả hàng tháng, các ngày vắng và lý do… Sổ do ông chủ giữ nhƣng phải cung cấp thông tin cho ngƣời làm công nếu họ yêu cầu, những ngƣời làm công chỉ có quyền làm điều này một lần trên tháng. Trong trƣờng hợp hết hạn hợp đồng sổ phải đƣợc trả cho ngƣời làm công cùng với chứng chỉ tự do của ông chủ.
111
Về hình phạt đối với ngƣời lao động trong các mỏ, điều 46,47 quy định: Ngƣời lao động bị phạt tiền từ 1 đến 15 phơ răng và phạt tù từ 1 đến 5 ngày hoặc 1 trong hai hình phạt với một trong các vi phạm sau: vắng mặt 5 ngày liên tục tại nơi làm việc. Nếu bỏ việc có thể gây hại lớn cho ông chủ, làm chậm trễ hoặc ngừng công việc, hình phạt trên đây có thể tăng gấp đôi. Cố ý gây thƣơng tật hoặc bị thƣơng. Từ chối, không có lý do chính đáng việc tuân theo một lệnh hợp thức của ông chủ hoặc đại diện của ông ta, cố ý phá hủy động sản hoặc bất động sản. Cố tình thông đồng hoặc thỏa thuận giữa ngƣời làm công để tạo một sự dừng lao động có chủ mƣu hoặc rời bỏ cơ sở khai thác.
Ngƣời lao động bị phạt tiền từ 1 – 15 phơ răng và phạt tù từ 1 - 5 ngày hoặc 1 trong hai hình phạt với các vi phạm sau: từ chối trình diện cho chính quyền thẻ căn cƣớc; rời khỏi mà không đƣợc phép của trạm nhập cƣ; Từ chối hoặc rời khỏi bệnh viện mà không đƣợc phép; vắng bất hợp pháp trên 48 giờ…[133, tr.367-380]. - Nghị định 33 ngày 30/3/1926, 25/10/1927, 19/7/1927 của Toàn quyền Đông Dương Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện bắt đầu cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô rộng lớn hơn lần trƣớc. Nhu cầu về lao động rất lớn, Nhà nƣớc thực dân lại đề ra các quy định quy chế lao động mới để đáp ứng yêu cầu về lao động. Trong đó sự cƣỡng bức lao động này trở nên nặng nề hơn thể hiện trong các thể lệ và giao kèo lao động, các nghị định về mộ phu cho các đồn điền, khu mỏ. Tuy nhiên, do phong trào đấu tranh của công nhân mỏ nƣớc ta thời điểm này bắt đầu dâng lên mạnh, chính quyền thuộc địa phải ban hành một số quy chế lao động vừa xoa dịu, vừa trói buộc công nhân bằng cách mở rộng áp dụng các hình phạt. Đó là các Nghị định ngày 25/10/1927 về chế độ lao động, Nghị định ngày 30/3/1926 và ngày 19/7/1927 về thanh tra lao động. Trong các quy định về thanh tra lao động, lần đầu tiên chính quyền thực dân thừa nhận đại biểu của những ngƣời lao động, mặc dù trên thực tế thi hành, ngƣời đại biểu cho giới lao động đó lại là một viên chức từng làm việc cho Pháp ít nhất là 10 năm, chứ không phải là do công dân bầu ra.
Trong các quy chế đƣợc ban hành này, quan trọng hơn cả là Nghị định 25/10/1927 thi hành cho những công nhân giao kèo lao động, trong đó quy định ngày lao động 10 giờ, mỗi tuần nghỉ 1 ngày. Tuy nhiên, những quy định này không áp dụng đối với công nhân mỏ, vì công nhân mỏ đƣợc xếp vào loại công dân “tự do”. Để ngăn ngừa ảnh hƣởng của chế độ lao động ngày làm 10 giờ, bọn chủ mỏ đã chuyển từ chế độ làm công sang chế độ làm khoán [19, tr.184-185].
112
- Các Sắc lệnh ngày 29/4/1930 và ngày 2/4/1932 của Tổng thống Pháp: Từ cuối những năm 20 và nửa đầu những năm 30, xã hội Việt Nam có những chuyển biến lớn nhƣ: phong trào cách mạng 1930 – 1931, trong đó giai cấp công nhân đã tỏ rõ là giai cấp tiên phong và đội quân chủ lực của cách mạng; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bƣớc ngoặt trong phong trào cách mạng. Giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, đấu tranh kiên cƣờng, hy sinh dũng cảm chống kẻ thù; cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho hàng loạt công nhân bị thất nghiệp.
Bốn sự kiện lớn này tác động lẫn nhau nhƣ một thách thức đối với các quy chế lao động đã ban hành. Nếu tình trạng thất nghiệp là cơ hội thuận lợi cho chính quyền thuộc địa siết chặt hơn nửa chế độ lao động nô lệ thì phong trào cách mạng, phong trào công nhân đòi hỏi phải đƣợc xóa bỏ các quy chế lao động cũ. Trong hình đó, chính quyền thực dân đã buộc phải ban hành các quy chế mới. Đó là Sắc lệnh 29/4/1930 của Tổng thống Pháp về ủy ban hòa giải, Sắc lệnh 2/4/1932 về việc cấm sử dụng lao động nữ và trẻ em làm việc nơi độc hại, làm việc ban đêm (từ 22 giờ đến 5 giờ sáng), về nghỉ đẻ (một tháng không lƣơng), về nghỉ cho con bú giữa giờ làm việc (20 phút buổi sáng và 20 phút buổi chiều). Các quy định mới này cho thấy về mặt pháp lý thực dân Pháp cũng không thể bất chấp phong trào công nhân [19, tr.185-186].
- Nghị định 10/10/1936: Nghị định này do Toàn quyền Đông Dƣơng ký, có
29 điều khoản, gồm những nội dung chủ yếu sau:
Về chế độ ngày lao động, nghị định quy định ngày làm việc không quá 10 giờ kể từ ngày 1/1/1936, không quá 9 giờ kể từ ngày 1/1/1937 và không quá 8 giờ kể từ ngày 1/1/1938; tuần làm việc không quá 6 ngày; mỗi năm làm việc đƣợc nghỉ phép có lƣơng 5 ngày kể từ ngày 1/1/1937, 10 ngày kể từ 1/1/1938; những ngày nghỉ công nhân đƣợc lĩnh lƣơng trƣớc. Chế độ nghỉ này là bắt buộc. Đây là lần đầu tiên chính quyền thuộc địa thừa nhận chế độ ngày làm việc 8 giờ và nghỉ phép hàng năm có lƣơng.
Riêng về chế độ phạt, nghị định này có tới 9 điều khoản (từ điều 20 đến điều 28). Điều mới mẻ là cái hình phạt không áp dụng đối với công nhân mà là đối với những chủ tƣ bản không thi hành nghị định. Mức phạt tối đa lên đến 3.000 phơ răng, tức 300 đồng Đông Dƣơng, tƣơng đƣơng với tiền lƣơng của 1.000 công nhân trong một ngày. Đây là lần đầu tiên có một đề nghị dùng đến 1/3 số điều khoản để quy định chế độ phạt chủ tƣ bản và mức phạt rất nặng. Mặc dù đây là một hiện
113
tƣợng chƣa từng có trƣớc kia nhƣng cho thấy việc thi hành nghị định trên thực tế không phải là dễ dàng [19, tr.186-190].
- Sắc lệnh ngày 30/12/1936 của Tổng thống Pháp Sắc lệnh gồm 10 chƣơng, nội dung để cập đến các quy chế lao động của ngƣời bản xứ, trong đó chủ yếu đề ra những nguyên tắc cơ bản về chế độ lao động đối với công nhân tự do. Chẳng hạn, về thanh tra lao động phần 3 chƣơng 3 quy định thanh tra lao động là đại diện cho công nhân. Công nhân phải thực hiện những thỏa thuận giữa thanh tra lao động và chủ. Tuy nhiên, Sắc lệnh này vẫn chƣa chấp nhận những đại biểu cho chính công nhân cử ra, mặc dầu trên thực tế từ cuối những năm 20, chủ đã phải tiếp các đại biểu của công nhân trong các cuộc bãi công.
Về tiền lƣơng, phần 4 chƣơng 3 quy định mức lƣơng tối thiểu, cách trả lƣơng, cấm khấu trừ lƣơng công nhân, trừ trƣờng hợp chủ đã cho công nhân ứng lƣơng trƣớc. Về cách trả lƣơng, điều khoản này có nhiều điểm tiến bộ ở chỗ đã ngăn cấm chủ tƣ bản trả lƣơng cho công nhân bằng hàng tiêu dùng, thẻ nhận hàng, phiếu mua hàng hoặc trả lƣơng không đủ, không đúng ngày quy định. Về việc bán hàng cho công nhân trong xí nghiệp, phần 5 quy định ngƣời bán phải niêm yết giá, không đƣợc ăn lãi.
Về điều kiện lao động, chƣơng 4 quy định tuổi lao động, thời gian lao động. Đối với thợ mỏ, quy định thời gian lao động kể từ lúc vào lò cho đến lúc ra khỏi lò. Về việc sử dụng lao động dƣới 18 tuổi, chƣơng 5 quy định về cấm sử dụng lao động nữ và trẻ em dƣới 15 tuổi làm việc trong lòng đất. Về vệ sinh và an toàn lao động, đặc biệt là lao động hầm lò chƣơng 6 quy định chủ phải có nhà ở, nƣớc sạch, phát thuốc, chữa bệnh cho công nhân; cấm dùng các chất độc nhƣ sulfate chì, dầu lanh và các loại sơn có chất độc tố. Về tai nạn lao động chƣơng 7 quy định chủ phải bồi thƣờng mọi tai nạn lao động khiến công nhân phải nghỉ việc từ 4 ngày trở lên.
Về chế độ phạt, chƣơng 9 quy định mức phạt tối đa đối với chủ là 1.000 phơ
răng. Tuy nhiên so với mức phạt của Nghị định 11/10/1936 đã giảm nhẹ tới hai phần.
Căn cứ vào Sắc lệnh ngày 30/12/1936, từ năm 1937 đến 1939, Toàn quyền Đông Dƣơng đã ra các nghị định cụ thể hóa các điều khoản trong sắc lệnh. Có thể nói một số nghị định đã có tính chất tiến bộ, chẳng hạn về chế độ nghỉ phép hàng năm có lƣơng, Nghị định 19/1/1937 của Toàn quyền Đông Dƣơng quy định công nhân đã làm việc 280 ngày đƣợc nghỉ 10 ngày, 250 ngày đƣợc 8 ngày, 200 ngày đƣợc nghỉ 6 ngày, 150 ngày thì đƣợc nghỉ 4 ngày, 130 ngày đƣợc nghỉ 3 ngày, dƣới 130 ngày không đƣợc nghỉ phép [19, tr.191-192].
114
Tuy nhiên, đến khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nƣớc Pháp tham chiến, Đông Dƣơng đặt trong tình trạng chiến tranh, mọi quy định về chế độ lao động đều bị đảo ngƣợc. Ngày 10/11/1939, Toàn quyền Đông Dƣơng đã ra nghị định ấn định thời giờ làm việc tại các cơ sở công nghệ, khai khoáng thƣơng mại của đàn ông là 60 giờ, của đàn bà và trẻ con là 54 giờ một tuần. Những công sở, sở quốc phòng còn đƣợc phép tăng giờ làm việc mỗi tuần lên 72 giờ. Các quy chế lao động trên đây mặc nhiên bị xóa bỏ. 3.4.2.2. Thực trạng đời sống và phong trào đấu tranh của công nhân mỏ Lào Cai
- Phương thức tuyển mộ, sử dụng nhân công của thực dân Pháp và tiền
lương của công nhân mỏ Lào Cai
Khi nghiên cứu về Chủ nghĩa đế quốc Pháp và tình hình công nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, tác giả Phạm Đình Tân nhận xét: “Có ba nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp nói chung của tư bản Pháp: sự giàu có về tài nguyên, tình trạng nhân công đông đảo và rẻ mạt, tình hình thị trường của thế giới tư bản chủ nghĩa. Trong đó, công nhân là nhân tố vô cùng quan trọng đối với bọn tư bản, nó ảnh hưởng nhiều đến tình hình chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, khả năng tiêu thụ hàng hóa và khả năng thu hoạch lợi nhuận” [88, tr.226].
Vì vậy, trong thời kỳ đầu khai thác thuộc địa ở Việt Nam thực dân Pháp rất chú ý đến việc chuẩn bị nhân công. Đối với tỉnh Lào Cai nhân công càng là vấn đề bức thiết vì Lào Cai là vùng có dân cƣ thƣa thớt dẫn tới thiếu nguồn nhân lực. Thêm vào đó, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX song song với quá trình tìm kiếm thăm dò, khai thác mỏ, thực dân Pháp bắt tay xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Lào Cai – Vân Nam, đẩy mạnh việc chiếm đoạt đất đai lập các đồn điền. Do vậy nhu cầu nhân công ở Lào Cai là rất lớn. Nhân công làm việc trong các mỏ Lào Cai đƣợc tuyển mộ theo từng giai đoạn và dƣới nhiều hình thức khác nhau. Ban đầu, do công đoạn thăm dò mỏ đòi hỏi lao động phải có sức lực và những kinh nghiệm nhất định nên công nhân làm việc trong các mỏ Lào Cai đƣợc lấy tại chỗ.
Từ sau năm 1917, khi chính sách di dân của chính quyền thực dân đƣợc thực hiện sự không đồng đều về dân cƣ trên các vùng địa lý giảm bớt, điều hoà lực lƣợng nhân công bản địa và bổ sung một lực lƣợng lớn lao động cho khai mỏ. Số lƣợng nhân công trong các mỏ ở Lào Cai tăng lên đáng kể. Vào giữa thập kỷ 20, Lào Cai có 570 công nhân tập trung ở các mỏ than chì (graphite) Nậm Thi, mỏ đồng, vàng rải rác Cam Đƣờng, Văn Bàn và ở apatít Lào Cai [23, tr.19]. Trong số công nhân
115
này phần nhiều là di dân từ các tỉnh miền xuôi lên. Các cai di dân tuyển mộ nhân công cho các mỏ ở Lào Cai bằng cách lập các điểm mộ phu ở một số tỉnh đông dân thuộc đồng bằng sông Hồng nhƣ Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình. Hàng năm tuyển mộ công nhân hai lần vào tháng 3 ngày 8 là những tháng giáp hạt, khi dân đang đói và công việc đồng ruộng đang rỗi. Các cai di dân ký giao kèo với nhân công đƣợc mộ. Để tuyển đƣợc nhiều nhân công các cai thầu mộ phu làm giao kèo trong thời gian ngắn với nhiều lao động cùng một lúc. Một mặt, tạo nên thị trƣờng lao động rẻ mạt nhƣng công nhân vẫn tranh nhau làm. Mặt khác, do khai thác mỏ chủ yếu bằng phƣơng pháp thủ công không cần nhiều công nhân kỹ thuật nên tƣ bản Pháp không tuyển nhân công làm việc lâu dài và không tốn chi phí đào tạo.
Trong 4 năm (1939 - 1942), bất chấp Chiến tranh thế giới thứ hai gây nhiều khó khăn cho đời sống kinh tế thuộc địa, tƣ bản Pháp vẫn ra sức vơ vét đƣợc 249.014 tấn quặng apatite. Riêng Mỏ Cóc đƣợc khai thác trƣớc tiên đã cung cấp 58.379 tấn [23, tr.20]. Công việc đầu tiên là tiến hành việc tuyển mộ phu từ miền xuôi lên khai thác mỏ apatite. Chủ thầu Vũ Đức Sâm đƣợc cử về Hƣng Yên mộ phu. Gặp năm vỡ để mất mùa đói kém, những ngƣời nghèo khổ, mỗi ngƣời một cảnh từ nhiều tỉnh vùng đồng bằng nhƣ Hƣng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông, Sơn Tây lũ lƣợt kéo về chen chúc nhau trong sở mộ phu chật hẹp trƣớc ngày lên đƣờng đi Lào Cai. Những lời hứa hẹn cho vay tiền, mỗi ngƣời phu đƣợc vay 5 đồng, cuối cùng đều là lời nói hão, chủ thầu nói đã giao cho lý trƣởng ở làng rồi, còn đâu mà lĩnh! Cuối cùng rồi cũng bị dồn lên toa tàu chật ních, ngƣời lớn, trẻ con lẫn lộn. Xuống tàu ở ga mới lại phải ngủ qua đêm trong khu rừng cạnh nhà ga dƣới trời sƣơng lạnh, trong tiếng cú kêu khắc khoải, tiếng gà rừng xao xác, cả tiếng hổ gầm, suối réo. Để rồi đến tờ mờ sáng hôm sau lại bị bọn cai đi áp tải quát tháo, nạt nộ, đánh thức cả đoàn dậy qua sông đi tiếp đoạn đƣờng vào khu mỏ. Phải vƣợt sang sông Hồng cuồn cuộn trôi xuôi trên những chiếc đò nan nhỏ, tính mệnh họ hoàn toàn phụ thuộc vào tài chèo chống của ngƣời lái đò. Cả đoàn lên bờ tiếp tục đi vào mỏ. Đến nơi rồi, lại phải vật vã chờ đợi mới đƣợc chia kíp, lĩnh thẻ, phân vào các lán trại ở sau đó mới đƣợc đi lĩnh tiền, gạo ứng trƣớc để sống tạm qua mấy ngày đầu. Mà không phải chỉ mấy ngày đầu thôi, cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả, thiếu thốn trăm đƣờng của họ dƣới làn roi vọt của bọn cai xếp sẽ kéo dài về sau, không một tia hy vọng dù cho hiu hắt theo lời hứa hẹn bịp bợm của bọn đi mộ phu. Số lƣợng ngƣời tin vào những lời phỉnh phờ của bọn chủ mỏ ngày càng đông. Theo thống kê: năm 1939, mộ gần 200 ngƣời, năm 1940 mộ 287 ngƣời lên mỏ làm phu, đến năm 1944 con số này đã tăng lên 7.346 ngƣời [23, tr.20-21].
116
Tại mỏ apatite, công nhân phải làm từ 12 -14 giờ mỗi ngày, đồng lƣơng nhận
đƣợc thì không đủ sống, nhiều công nhân chết đói và khát trên các đống quặng,
nhiều ngƣời vào rừng tìm lá để ăn không may ăn phải lá han, lá ngón mà chết,
ngƣời thì bỏ trốn. Trong giai đoạn đầu của hoạt động khai mỏ apatite, chủ mỏ cần
rất nhiều công nhân, nhƣng rồi chúng thấy tốn kém, phiền phức, đã vậy chúng cũng
sớm nhận ra rằng phu dƣới đồng bằng không phải dễ doạ nạt, đè nén, họ cũng biết
đấu tranh khi cần thiết cho các quyền lợi thiết thân hàng ngày của họ. Chúng bèn
chủ trƣơng tuyển mộ phu ngƣời sở tại mà chúng cho là hiền lành, dễ bảo hơn, chi
phí cũng ít hơn trong việc di chuyển đi lại. Để thực hiện âm mƣu này, chúng đã liên
kết với bọn chức dịch địa phƣơng. Chủ thầu Vũ Đức Sâm đã cùng lý trƣởng xã Cam
Đƣờng tuyển mộ thêm một số lớn phu mỏ ngay tại chỗ. Nắm chắc ngƣời dân Tày ở
Cam Đƣờng không thích đi phu vì đều có nhà cửa, ruộng lúa, đồi cây, hơn nữa họ
cũng không lạ gì những cảnh đói khổ, chết chóc diễn ra hàng ngày ở khu mỏ, bọn
chúng đã cho đắp một cái đập chắn không cho nƣớc suối Cam Đƣờng chảy vào
ruộng của đồng bào Tày, lại cấm không cho vào phát rừng, làm rẫy, khai thác gỗ là
những nguồn sống hàng ngày của họ để dồn dân vào cái thế phải đi phu cho chúng.
Về chế độ lao động, các chủ mỏ ở Lào Cai cũng không thực hiện quy định
làm việc theo ngày nhƣ các quy chế đối với lao động mỏ mà áp dụng chế độ làm
khoán. Thậm chí, ở Lào Cai một số chủ mỏ còn bỏ qua luôn cả luật lệ của chính
quyền thực dân, thay vào đó là hình thức thuê mƣớn nhân công không cần giao kèo,
nhất là đối với công nhân là ngƣời bản địa hoặc ngƣời Hoa. Ngƣời công nhân chỉ
biết việc từ một ngƣời trung gian giữa họ và chủ tƣ bản. Ngƣời trung gian (thƣờng
gọi là cai thầu) đứng ra ký giao kèo bao thầu với chủ mỏ rồi về giao khoán lại cho
công nhân gọi là chế độ bao thầu khoán. “Đặc điểm chính của chế độ cai thầu chỉ
là cách chuyển hết trách nhiệm trực tiếp của chủ mỏ đối với công nhân lên vai chủ
thầu ... đã sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm ấy để lợi dụng nó bóc lột công nhân với
mức độ cao nhất”[10, tr.28]. Đƣợc toàn quyền sử dụng, bóc lột công nhân, các cai
thầu sẵn sàng đánh đập, sỉ nhục, hãm hiếp công nhân bất chấp mọi luật lệ.
Nhân lực khai thác, quản lý trực tiếp trong các mỏ apatite ở Cam Đƣờng
phần lớn chủ Pháp thuê lao động ngƣời Việt. Mỗi lĩnh vực có một ngƣời phụ trách
chính, vào năm 1943, phụ trách mỏ apatite Làng Nhớn, gồm có: Đinh Phú San,
trƣởng ga đƣờng sắt Làng Giàng; Lƣu Đức Thủy, y tá mỏ; Võ Sỹ, trƣởng kíp giám
sát vận chuyển quặng khai thác đƣợc; Vũ Kim Oanh, nhân viên đo đạc địa chất mỏ.
117
Ở Cam Đƣờng có hàng nghìn công nhân ngƣời Việt làm việc dƣới sự giám sát của
các cai mỏ. Ở mở Làng Nhớn, phần lớn cai mỏ là ngƣời Việt, gồm 3 ngƣời là: Trần
Cao Dê, Nguyễn Hồng Nguyên và Trần Đình Tiến [132, tr.645].
- Điều kiện lao động của công nhân mỏ Lào Cai Theo tác giả Cao Văn Biền, “công nhân mỏ là công nhân “tự do”, nghĩa là họ tự tìm đến khu mỏ tìm việc làm thuê chức không phải theo một chế độ lao động cƣỡng bức nào” [19, tr.192]. Nhƣng trên thực tế thì công nhân “tự do” trở thành ngƣời không tự do và tại các mỏ ở Bắc Kỳ nói chung, ngƣời đứng ra thuê công nhân có thể là nhân viên Sở Mỏ hoặc cai thầu. Ngƣời Công nhân đang cần có việc làm để sinh sống và nuôi gia đình bắt buộc phải chấp nhận các điều kiện lao động do ngƣời thuê đặt ra. Ngƣợc lại chủ mỏ dƣờng nhƣ bất chấp các quy chế lao động đƣợc tự do đặt ra các điều kiện lao động có lợi nhất cho mình và tự do đối xử với công nhân theo ý muốn của mình.
Về thời gian làm việc, các chủ mỏ apatite ở Lào Cai đều quy định mỗi ngày làm việc 12 – 14 giờ chƣa kể giờ đi và giờ về. Thời gian làm việc thì nhiều nhƣng điều kiện làm việc ở mỏ thì hết sức tồi tệ.
Do các chủ mỏ không chú ý đầu tự trang thiết bị sản xuất và bảo hiểm lao động nên môi trƣờng làm việc của công nhân mỏ Lào Cai rất khắc nghiệt. Khi đến mỏ apatile làm, bọn chủ mỏ bắt phu mỏ khai thác hầm lò, đi thẳng vào hầm đào quặng, những ngƣời phu mỏ phải dùng hoàn toàn sức ngƣời để cắt tầng khai thác lộ thiên, dùng đƣờng goòng để vận chuyển. Sau khi chuyển quặng từ tầng cao xuống bằng các máng phễu hoặc bằng goòng hãm phanh tời, các goòng quặng đƣợc dồn thành đoàn chở đi các mỏ Cóc Cam Đƣờng bằng đầu máy hơi nƣớc. Các goòng quặng này đƣợc chuyển qua sông sang ga Làng Giàng bằng đƣờng cáp tời. Từ đây, quặng đƣợc chuyển lên tàu cũng bằng sức của những ngƣời phụ cực khổ để rồi về cảng Hải Phòng qua Pháp. Từ năm 1940 đến năm 1944, bọn chúng đã khai thác 196.720 tấn quặng, trong đó đã bán đi đƣợc 151.908 tấn. Để đạt đƣợc con số này những ngƣời phu mỏ đã bị bóc lột rất dã man. Họ phải làm việc từ sáng đến tối đêm, 12 - 14 giờ mỗi ngày. Những ngƣời ốm nằm gục ở nhà đến giờ vẫn phải đi làm, nếu không bọn cai xếp sẽ lùng sục, dùng mọi đòn roi để thúc ép. Đau ốm, đói khát, nhiều ngƣời đã chết gục trên các đống quặng, nhiều ngƣời chết vì sập hầm lò do chủ mỏ không chống gỗ hầm lò. Chế độ làm việc vô cùng cực khổ đối với ngƣời phu mỏ, nơi đây đói rách vẫn hoàn đói rách. Hết một ngày làm việc, bọn cai xếp trả cho ngƣời làm lƣợng gạo đủ ăn trong ngày. Bởi vậy, nếu ai đó ốm, cố trốn nghỉ
118
đƣợc thì cả nhà nhịn đói. Nhiều gia đình lên rừng kiếm lá ăn cho qua cơn đói đã ăn phải lá han, lá ngón mà chết. Để kiếm lời hơn, sau này bọn chú mỏ không phát gạo mà phát bông (các) để phu mỏ đem đến đong gạo của cửa hàng do vợ các cai xếp bán, để bị bóc lột thêm một lần nữa. Đói, rét, thú dữ, ruồi vàng, muỗi độc, sốt rét, ngã nƣớc ... không thuốc thang cứu chữa đã cƣớp đi sinh mạng của biết bao phu mỏ. Ngƣời chết chỉ đƣợc bó trong manh chiếu đem chôn mặc dù gỗ đầy rừng; nhiều khi chôn xuống rồi còn bị thú dữ moi lên, giết thêm một lần nữa. Trƣớc tình cảnh cơ cực đó nhiều ngƣời đã tìm cách chạy trốn, nhƣng quanh họ chỉ là rừng thiêng nƣớc độc đầy thú dữ rình rập, là dòng sông Hồng thác xoáy. Con đƣờng duy nhất có thể đi đƣợc là tàu hoả, nhƣng những ngƣời phu mỏ không một xu dính túi, lên tàu lập tức bị bọn xếp ga, culít trên tàu đánh đập, bắt trả về cho bọn chủ mỏ. Sự cơ cực của những ngƣời phu mỏ đối lập với cảnh ăn chơi đàng điếm của bọn chủ mỏ, cai xếp và vợ con chúng. Sòng bạc, xóc đĩa, tổ tôm, ổ hút ... mọc lên khắp nơi cùng cô đầu, gái điếm. Sự cơ cực của phu mỏ hoàn toàn không làm động lòng chủ mỏ. Trƣớc mặt chúng, chỉ miễn sao khai thác đƣợc thật nhiều quặng, bán đƣợc thật nhiều tiền, thu đƣợc lợi nhuận lớn. Ai oán những ngƣời phụ mỏ đã than trời:
Ai đưa tôi đến chốn này Bên kia Cốc Lếu, bên này Lào Cai ...
Hay lời ru của ngƣời công nhân nữ trong đêm khuya nơi núi rừng âm u lạnh
buốt đã phản ánh cuộc sống bi thảm của những phu Mỏ Apatít Lào Cai:
“À ơi! Tiếng đồn Mỏ Cóc thảnh thơi, Lên đây chỉ những xơi roi cặc bò, Thằng Tây đầu nhỏ, bụng to, Luôn mồm chửi "mẹc", "xà lù", "cu soong ... " … Ai lên mỏ Cóc Cam Đường hi đi thời có, khi về thời không ...[23, tr.22].
Từ đầu tháng 10/1940, quân Nhật đã tới thị xã Lào Cai, đóng quân Phố Mới, đặt cơ quan tình bảo đƣợc nguỵ trang dƣới cái tên “Công ty Chiêu Hoà”. Thực dân Pháp đã phải khuất phục nhƣợng bộ Nhật về mọi mặt, nhất là về kinh tế, trong đó có nguồn lợi lớn của Mỏ Apatít. Nhƣng mặc dù tham vọng có thừa tự bản Nhật vẫn chƣa thể thẳng tay hất Pháp để độc chiếm khu mỏ, mà phải dựa vào chủ Pháp và mạng lƣới xếp, cai, ký ngƣời Việt để khai thác cầm chừng. Mặc dù vậy, chúng đã
119
bắt công nhân phải làm thêm giờ dƣới roi, gậy, mà lại trả lƣơng hạ hay qụyt lƣơng, bắt giam nhiều ngƣời thậm chí có ngƣời bị đánh chết. Tình hình đó buộc công nhân phải vùng lên đấu tranh, kiên trì bãi công biểu tình. Trƣớc khí thế của công nhân đấu tranh, bọn chủ đã phải nhƣợng bộ, thả những ngƣời bị bắt, tăng khẩu phần gạo, tiền “avăng”, giảm giờ làm. Chủ đã nhƣợng bộ, công nhân mỏ buộc phải ra mỏ, nhƣng lại lãn công kéo dài. Trong đấu tranh công nhân mỏ đã nhận đƣợc sự ủng hộ tích cực của đồng bào Tày ở Cam Đƣờng về tinh thần lẫn vật chất.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dƣơng. Tại Lào Cai, Nhật hoàn toàn thay thế Pháp. Nhật độc chiếm Mỏ apatite để tiếp theo Pháp khai thác quặng. Tên chủ mới tỏ ra độc ác, tàn bạo hơn chủ cũ. Nhƣng bọn Nhật chƣa khai thác đƣợc bao lâu thì máy bay Mỹ đã kéo tới ném bom phá sập cầu đƣờng, dây cáp treo để chuyển quặng qua sông Hồng. Từ đó mỏ phốt phát Cam Đƣờng bị tê liệt hoàn toàn. Chủ Nhật cuốn gói về Hà Nội. Hơn 3.000 phu mỏ bị bỏ rơi, không có công ăn việc làm, sống vất vƣởng, không nơi nƣơng tựa, không một bát gạo, đồng tiền. Hàng trăm ngƣời phải đi làm phu xây sân bay cho Nhật ở Trái Hút, Cốc Lếu. Những ngƣời không đủ sức đi làm phu thì lên Lào Cai, xuống Phố Lu gồng thuê, gánh mƣớn, hay là vào làng của đồng bào Tày làm thuế kiếm sống qua ngày. Có khi phải vào rừng đào củ, hái rau dại về ăn. Bệnh tật phát triển làm cho nhiều ngƣời chết. Mỏ đã “vỡ” trên sự tan tác, đau thƣơng, chết chóc của cả một đội ngũ công nhân đông tới mấy ngàn ngƣời.
- Phong trào đấu tranh của công nhân mỏ Lào Cai Việc chiếm đất đai làm hầm mỏ, làm đƣờng giao thông, thuê mƣớn nhân công rẻ mạt cũng đồng nghĩa với việc tƣớc đoạt ngƣời dân bản xứ. Nó là nguyên nhân làm thức tỉnh quyền con ngƣời của họ và thổi bùng lên ở họ ý thức dân tộc và sự phản kháng đối với kẻ áp bức cũng nhƣ kẻ cƣớp nƣớc. Lênin đã nhận định: “Một trong những đặc tính căn bản nhất của chủ nghĩa đế quốc, chính là ở chỗ nó đẩy nhanh sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản trong các nƣớc lạc hậu nhất, do đó mở rộng và làm gay gắt thêm cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc” [50, tr.171].
Do vậy, những áp bức về kinh tế - xã hội là nguyên nhân của những cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân mỏ Lào Cai trong những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng nhƣ trên cả nƣớc, đội ngũ công nhân mỏ Lào Cai ra đời trong lúc phong trào yêu nƣớc bùng nổ mạnh mẽ. Đó là các cuộc đấu tranh vũ trang do của ngƣời Dao ở Bảo Thắng (1888), cuộc kháng chiến do Giàng Chẩn Hùng lãnh đạo năm 1891, cuộc tấn công của đồng bào ngƣời Hà Nhì
120
và ngƣời Mông ở Ý Tý, Mƣờng Hum (Bát Xát) năm 1903, cuộc kháng chiến chống Pháp của ngƣời Dao ở huyện Bắc Hà do Triệu Tiến Tiên lãnh đạo năm 1913… Vì vậy, ý thức dân tộc đã có sẵn trong họ. Đây chính là chất keo kết dính những thân phận làm thuê riêng lẻ thành một khối chống lại sự áp bức bóc lột và hình thành ý thức giai cấp.
Những năm 20 của thế kỉ XX, công nhân mỏ Lào Cai tổ chức các cuộc đấu tranh chống giới chủ mỏ bằng nhiều hình thức. Ngày 1/7/1927, công nhân mỏ than chì (Nậm Si) ở gần thị xã Lào Cai cử đại diện viết đơn phản kháng chủ mỏ bắt công nhân làm việc 12 tiếng/ngày hè, đòi giảm giờ làm, đòi cải thiện sinh hoạt, chống đánh đập phu mỏ. Chủ mỏ không đáp ứng đƣợc yêu sách của công nhân, ngày 29/7/1927, nhiều công nhân ở mỏ bãi công, đập phá máy móc và bỏ trốn tập thể.
Trong giai đoạn đầu của hoạt động khai mỏ apatile, do cần nhiều công nhân nên Chủ thầu Vũ Đức Sâm đã cùng lý trƣởng xã Cam Đƣờng âm mƣu ép buộc ngƣời Tày ở Cam Đƣờng đi phu. Biết đƣợc âm mƣu này, phu mỏ đã đoàn kết cùng dân làng Cam Đƣờng đấu tranh làm thất bại âm mƣu của chủ thầu. Cuộc đấu tranh của ngƣời Tày xã Cam Đƣờng phối hợp với cuộc bãi công của công nhân mỏ khẳng định tình đoàn kết của ngƣời dân miền cao với ngƣời dân miền xuôi, sự bất lực của thực dân Pháp trong việc thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc của chúng. Đó là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự bùng nổ phong trào đấu tranh cách mạng khi thời cơ tới.
Năm 1940, quân Nhật tới thị xã Lào Cai, đóng quân Phố Mới. Tại đây, Nhật – Pháp câu kết với nhau để bóc lột công nhân mỏ apatite. Trƣớc tình hình đó, công nhân mỏ apatite vùng lên đấu tranh, kiên trì bãi công biểu tình. Trƣớc khí thế của công nhân đấu tranh, bọn chủ phải nhƣợng bộ, thả những ngƣời bị bắt, tăng khẩu phần gạo, tiền “avăng”, giảm giờ làm. Chủ đã nhƣợng bộ, công nhân mỏ buộc phải ra mỏ, nhƣng lại lãn công kéo dài. Trong đấu tranh, công nhân mỏ đã nhận đƣợc sự ủng hộ của đồng bào Tày ở Cam Đƣờng về tinh thần lẫn vật chất [23, tr.24].
Tính từ năm 1939 đến năm 1942, công nhân mỏ apatite đã tổ chức 12 lần đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau nhƣ lãn công, bỏ trốn, phá công cụ lao động, đốt lán trại và đặc biệt là bãi công, một hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp công nhân chống giai cấp thống trị [85, tr.89-90].
Tuy phong trào công nhân ở Lào Cai chƣa đạt đƣợc những thắng lợi to lớn nhƣng đã góp phần cổ vũ cho phong trào đấu tranh cách mạng trên cả nƣớc chống ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến.
121
Nhƣ vậy, hòa chung với phong trào đấu tranh của nhân dân, công nhân mỏ Lào Cai đấu tranh chống lại chủ mỏ đòi những lợi ích tối thiểu cho bản thân. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân cùng với nhân dân các dân tộc Lào Cai đứng lên đấu tranh giành độc lập. Ngày 12/11/1946, tỉnh Lào Cai hoàn toàn đƣợc giải phóng. Mỏ apatile Cam Đƣờng đƣợc giải phóng sau một thời kỳ ngừng hoạt động, đội ngũ công nhân mỏ Lào Cai đón chào tƣơng lại mới dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
122
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Cuối thế kỷ XIX, trên cơ sở những điều kiện, tiền đề đã có ở Lào Cai, chính quyền thực dân Pháp cho tiến hành các hoạt động thăm dò, nghiên cứu và khai thác mỏ ở Lào Cai.
Hoạt động tìm kiếm, khai thác mỏ của chính quyền thực dân diễn ra từ cuối
thế kỷ XIX đến năm 1945. Cụ thể qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1929: tƣ bản Pháp cho tìm kiếm, thăm dò các mỏ than, sắt, vàng, diêm tiêu, đồng, than chì…ở Lào Cai. Tuy nhiên, chỉ có mỏ than chì đƣợc đầu tƣ khai thác trong giai đoạn này.
- Giai đoạn từ năm 1929 đến năm 1939: Đây là thời điểm mà số lƣợng và sản lƣợng mỏ ở Lào Cai đƣợc khai thác ít nhất. Trong toàn tỉnh Lào Cai chỉ có mỏ vàng đƣợc khai thác nhƣng với sản lƣợng thấp hơn nhiều so với các tỉnh Thƣợng du Bắc Kỳ (Sơn La, Bắc Kạn, Cao Bằng…).
- Giai đoạn 1940 – 1945: Thời điểm này, khai mỏ Lào Cai có nét khởi sắc. Các đợt khảo sát, nghiên cứu mỏ apatile, mỏ sắt diễn ra. Tuy nhiên, chỉ có mỏ apatite đƣợc khai thác chủ yếu trong giai đoạn này. Ngoài ra, mỏ than chì đƣợc khai thác lại nhƣng với tổng sản lƣợng không lớn (71 tấn).
Trong khai thác mỏ ở Lào Cai, việc đầu tƣ công nghệ, kỹ thuật khai thác mỏ và công nhân khai mỏ là vấn đề quan trọng đƣợc tƣ bản Pháp nghiên cứu rất kỹ lƣỡng khi thực hiện khai thác mỏ than chì, mỏ apatite: Để tận thu lợi nhuận tối đa trong khai thác mỏ than chì, giới chủ Pháp đã cho xây dựng ở Lào Cai nhà máy tuyển nổi than chì; Vấn đề thiếu nhân công trong khai thác các hầm mỏ than chì, mỏ apatile đƣợc ngƣời Pháp đặt ra và đƣa có giải pháp giải quyết vấn đề này. Để cung cấp nguồn lao động cho các hầm mỏ, giới chủ đã cho tuyển mộ nhiều nhân công từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ (Thái Bình, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Nam Định…) đƣa lên các hầm mỏ Lào Cai.
Dƣới chính sách bóc lột của chủ mỏ, công nhân ở các hầm mỏ Lào Cai đã đứng lên đấu tranh để đòi quyền lợi cho mình. Khi đƣợc giác ngộ, công nhân mỏ Lào Cai đoàn kết cùng nhân dân trong tỉnh đứng lên đấu tranh giành chính quyền.
Nhìn chung, từ năm 1896 đến năm 1945, chính quyền thực dân đã cho tìm kiếm, thăm dò và khai thác mỏ ở Lào Cai, một khối lƣợng lớn khoáng sản quặng than chì, quặng apatite trong lòng đất Lào Cai bị Pháp – Nhật vơ vét về chính quốc hoặc xuất khẩu đi các nƣớc kiếm lợi.
123
Chƣơng 4 ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG KHAI MỎ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH LÀO CAI
4.1. Đặc điểm
Khi thực dân Pháp thống trị Việt Nam, hoạt động khai thác mỏ diễn ra khắp cả nƣớc, đặc biệt là vùng Thƣợng du Bắc Kỳ. Lào Cai cũng giống nhƣ các tỉnh, bị giới chủ mỏ khai thác nhiều nguồn khoáng sản dƣới lòng đất. Tuy nhiên, khai thác mỏ ở Lào Cai so với các tỉnh lại có những đặc điểm khác nhau. Nghiên cứu về hoạt động khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai, tác giả luận án rút ra 4 đặc điểm trong khai mỏ nơi đây.
- Đặc điểm thứ nhất, Số lượng, quy mô, trữ lượng mỏ ở Lào Cai rất khiêm tốn so với một số tỉnh khác thuộc Bắc Kỳ, đặc biệt là Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Yên, Thái Nguyên
Nói về hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai thời Pháp thuộc, một điều dễ nhận thấy là hoạt động khai mỏ ở đây so với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ còn rất khiêm tốn. Theo kết quả tìm kiếm thăm dò mỏ của ngƣời Pháp, ở Lào Cai đã phát hiện mỏ than, sắt, chì, kẽm, đồng, vàng, than chì và apatile… Nhƣng suốt thời gian từ năm 1896 – 1945, chính quyền thực dân chỉ tập trung khai thác mỏ than chì, apatile. Còn mỏ than, mỏ vàng đƣợc khai thác nhƣng chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, sản lƣợng rất nhỏ bé: mỏ than đƣợc khai thác trƣớc năm 1898, nhƣng mỏ rất nhỏ, trữ lƣợng không đáng kể, năm 1898 bị sập lò và sau đó bị bỏ hoang không khai thác nữa; mỏ vàng khai thác trong năm 1936 – 1937, tổng sản lƣợng khai thác chỉ đƣợc 6.060 gram.
Do có ít mỏ đƣợc khai thác nên số lƣợng các công ty, việc đầu tƣ vốn của các công ty Pháp vào mỏ ở Lào Cai vì thế cũng không lớn nhƣ các tỉnh khác. Ở Lào Cai có 4 công ty đƣợc thành lập: Công ty Đông Dƣơng than chì (1925), có vốn kinh doanh là 5 triệu franc, khai thác than chì; Năm 1926, thành lập Công ty mỏ đồng Toung – Chang Lào Cai, trụ sở đặt tại số 109, đƣờng Pellerin, Sài Gòn. Nhiệm vụ tìm kiếm, khai thác đồng; Năm 1940, thành lập Công ty khai thác phosphates Đông Dƣơng, trụ sở đặt tại Hà Nội, vốn điều lệ là 2.500 piastres, khai thác apatile ở Cam Đƣờng); Cuối năm 1942, hai vợ chồng nhà Jules Francois Mittard thành lập Công ty Nghiên cứu mỏ sắt và mỏ Apatite Bảo Hà, trụ sở tại số 32, Đại lộ Pierre Pasquier, Hà Nội. Công ty này có vốn điều lệ hoạt động là 200.000 đồng bạc Đông Dƣơng.
124
Nhiệm vụ là nghiên cứu, tìm kiếm, khảo sát và khai thác mỏ trong 8 khu vực ở Yên Bái và Lào Cai. Tuy nhiên, việc mỏ sắt và apatite ở Bảo Hà chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, xây dựng kế hoạch. Trên thực tế, ngƣời Pháp và cả ngƣời Nhật chƣa tiến hành khai thác gì ở Bảo Hà.
Về sản lƣợng khai thác mỏ, ở Lào Cai khai thác chủ yếu là quặng than chì, quặng apatile và một số lƣợng nhỏ vàng, cụ thể: Quặng than chì khai thác đƣợc 1.756 tấn (thời kì 1924 – 1927 và 1941 – 1944); Quặng apatile khai thác đƣợc 196.770 tấn (1940 – 1944); vàng khai thác đƣợc 6.060 gram (1936 – 1937).
Nhƣ vậy, nhìn vào việc tìm kiếm thăm dò, thành lập công ty, sản lƣợng mỏ khai thác đƣợc ở Lào Cai so với các với các mỏ khác ở Việt Nam cũng rất khiêm tốn. Để làm rõ nhận định này, chúng tôi so sánh với các tỉnh Bắc Kỳ, cụ thể là các tỉnh Quảng Ninh, Cao Bằng, Thái Nguyên:
Thứ nhất, So sánh với khai thác than ở Bắc Kỳ lại càng thấy, khai quy mô, số lƣợng công ty, vốn đầu tƣ vào khai mỏ ở Lào Cai thật nhỏ bé. Khai mỏ ở Lào Cai đến năm 1929 chỉ có Công ty Than chì Đông Dƣơng, với số vốn vài triệu francs, trong khi chỉ khai thác than ở Bắc Kỳ năm 1929 có tới 9 công ty rất lớn, với số vốn mỗi công ty lên tới vài chục triệu francs, gồm: Công ty Than Bắc Kỳ (38,4 triệu francs), Công ty Than Kế Bào (20 triệu francs), Công ty Than Đông Triều (28 triệu francs), Công ty Than gầy Bắc Kỳ (15 triệu francs), Công ty than và mỏ kim loại Đông Dƣơng (20 triệu francs), Công ty than Hạ Long và Đồng Đăng (11 triệu francs), Công ty Than Tuyên Quang (8 triệu francs), Công ty Than Ninh Bình (35 triệu francs) và Công ty Tìm kiếm và Thăm dò mỏ (2,1 triệu francs) [182, tr.227].
Thứ hai,về sản lƣợng khai mỏ khai thác ở Lào Cai so với các tỉnh Bắc Kỳ
còn rất nhỏ bé.
Quảng Ninh, sản lƣợng khai thác mỏ từ năm 1888 – 1945 đạt đƣợc con số rất lớn. Ví dụ trong lĩnh vực khai thác than: Từ năm 1898 – 1901, Công ty Pháp mỏ Bắc Kỳ khai thác đƣợc 925 ngàn tấn; Năm 1937, Công ty Pháp mỏ Bắc Kỳ khai thác đƣợc 1.638 ngàn tấn, Công ty than Đông Triều khai thác 483,6 ngàn tấn, Công ty Hạ Long – Đồng Đăng khai thác đƣợc 41,3 ngàn tấn, Mỏ Bí Chợ của Bạch Thái Bƣởi khai thác 3,8 ngàn tấn, Mỏ Tambua của Nguyễn Văn Nhân 20,6 ngàn tấn, Mỏ Sasa của Seeguy khai thác 31,5 ngàn tấn, Mỏ Néptunơ của Đoàn Văn Công khai thác 30 ngàn tấn, Mỏ Cơlerettơ của Bôgiơrô khai thác 23 ngàn tấn, Mỏ Mùa Xuân của Phạm Kim Bảng 2 ngàn tấn. Tổng cộng năm 1937, sản lƣợng than khai thác ở Quảng Ninh đạt 2273,8 ngàn tấn [19, tr.112-139].
125
Cao Bằng, các công ty đƣợc thành lập khai thác thiếc và Volfram, vàng, bạc, chì… Sản lƣợng khai thác các mỏ ở các khu vực nhƣ sau:Khu vực Tĩnh Túc, từ năm 1908 đến 1918, trung bình mỗi năm khai thác đƣợc 8 đến 12 tấn quặng thiếc; Khu vực mỏ Pia Oắc, năm 1914 đến 1919 sản lƣợng Volfram trung bình khoảng 250 tấn. Thời kỳ 1919 đến 1945, khai thác đƣợc 100 tấn; Mỏ vàng, trƣớc Cách mạng Tháng Tám 1945, tƣ bản Pháp khai thác đƣợc khoảng 200kg vàng sa khoáng [39, tr.105-135].
Thái Nguyên, từ năm 1906 – 1945, hoạt động tìm kiếm, khai thác mỏ diễn ra liên tục, nhiều mỏ đƣợc khai thác đạt sản lƣợng lớn. Sản lƣợng khoáng sản khai thác ở Thái Nguyên đạt đƣợc nhƣ sau:
Về than, nhiều mỏ than đƣợc khai thác trên địa bàn Thái Nguyên: Giai đoạn 1912 – 1918, Công ty than Phấn Mễ khai thác than nguyên khai đƣợc 42.646 tấn; Giai đoạn 1919 – 1930, Công ty than và kim khí Đông Dƣơng khai thác than mỡ ở Phấn Mễ đƣợc 308. 652 tấn; Giai đoạn 1931 – 1938, sản lƣợng than mỡ, than gầy, than cốc khai thác đƣợc 21.200 tấn; Giai đoạn 1939 – 1945, sản lƣợng than mỡ khai thác đƣợc 110,9 nghìn tấn [106, tr.71-87].
Về sản lƣợng khai thác các mỏ kim loại ở Thái Nguyên, từ năm 1912 đến 1945 khai thác đƣợc: 27.069 tấn kẽm, 827 tấn chì, 98 tấn bạc, 174.306 tấn quặng sắt [106, tr.99-110].
- Đặc điểm thứ 2, Lào Cai sở hữu một số loại mỏ mang tính đặc hữu, quan
trọng, quý hiếm mà các tỉnh khác không có: Than chì và apatite.
Than chì là nguồn nguyên liệu đặc hữu, quý hiếm mà thế giới rất cần. Trên thế giới chỉ một số nƣớc có nguồn nguyên liệu này, nhƣ Madagascar, Srilanca, Canada và Việt Nam. Năm 1917, ở Lào Cai, tƣ bản Pháp phát hiện mỏ than chì, Lào Cai là một trong số ít tỉnh ở Việt Nam có mỏ than chì. Ngoài Lào Cai, chỉ có Quảng Ngãi, Yên Bái và một phần thuộc địa phận Thái Nguyên, Bắc Kạn có nguồn nguyên liệu than chì. Tuy nhiên, nhiều tỉnh giàu có về khoáng sản mỏ nhƣng lại không có nguyên liệu than chì đặc hữu, quý hiếm này, gồm: Quảng Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa…
Apatite cũng là một nguyên liệu đặc hữu, quý hiếm có ở Lào Cai, năm 1934, tƣ bản Pháp khai thác những tấn quặng apatile đầu tiên. Từ năm 1940 – 1945, Nhật – Pháp bắt tay nhau khai thác quặng apatite Lào Cai, tổng sản lƣợng khai thác apatite từ năm 1941 - 1943 khoảng 200.000 tấn, chiếm 40% tổng sản lƣợng apatite khai thác đƣợc trên toàn Đông Dƣơng (mỏ ở Thái Nguyên, Thanh Hóa chiếm 20% tổng sản lƣợng apatite khai thác đƣợc ở Đông Dƣơng). Thực tế cho thấy, nhiều tỉnh giàu có về các loại khoáng sản nhƣng lại không có đƣợc
126
nguyên liệu mỏ apatite nhƣ ở Lào Cai. các tỉnh không có mỏ apatite, nhƣ: Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Ninh Bình…
Nhƣ vậy, trong các mỏ khoáng sản mang tính đặc hữu, quan trọng, quý hiếm ở Việt Nam thì Lào Cai sở hữu hai mỏ nguyên liệu vô cùng quan trọng, mang tính đặc hữu đó là than chì và apatite. Đây là hai nguồn nguyên liệu rất quan trọng đối với một số ngành công nghiệp của các nƣớc tƣ bản.
- Đặc điểm thứ 3, việc khai thác mỏ ở Lào Cai được người Pháp tiến hành tương đối muộn, thậm chí là rất muộn so với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Việc khai thác mỏ ở Lào Cai chủ yếu tập trung vào hai giai đoạn chính: Giai đoạn 1924 – 1929, khai thác mỏ than chì; Giai đoạn 1940 – 1943, khai thác apatile và than chì.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở Lào Cai mới chỉ dừng lại ở hoạt động tìm kiếm thăm dò mỏ, còn khai thác mỏ chƣa thực sự bắt đầu. Sở dĩ xảy ra hiện tƣợng này vì nơi đây có nhiều vấn đề khó khăn chƣa đƣợc giải quyết.
Khó khăn đầu tiên gặp phải là dân số Lào Cai ít, mật độ dân cƣ rất thấp, chỉ 4 ngƣời/km2 (1892) và đến năm 1921 thì mật độ dân cƣ chỉ 6 ngƣời/km2, dân số ít dẫn tới tình trạng thiếu hụt lực lƣợng lao động trong khai thác mỏ. Thêm vào đó là tình trạng chiến sự diễn ra liên miên ở khu vực biên giới giữa Lào Cai với Trung Quốc nên gây khó khăn cho chính quyền thực dân Pháp khi triển khai hoạt động khai mỏ nơi đây. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng thiếu thốn ở những khu vực có mỏ, đặc biệt là hệ thống giao thông chƣa đƣợc đầu tƣ xây dựng từ trục đƣờng chính về đƣờng thủy từ sông Hồng vào khu vực mỏ, hay từ ga Lào Cai vào khu vực mỏ. Đơn cử nhƣ trƣờng hợp mỏ apatile, mỏ đƣợc phát hiện năm 1924, nhƣng đến năm 1934 tƣ bản Pháp mới khai thác những tấn quặng apatile đầu tiên. Việc khai thác mỏ apatile diễn ra chậm chạp ngoài nguyên nhân: thiếu nguồn lao động, xung đột biên giới với Trung Quốc thì còn có nguyên nhân vô cùng quan trọng đó là khó khăn về hệ thống giao thông. Khó khăn này đƣợc miêu tả nhƣ sau: Việc thâm nhập vào khu mỏ Làng Cóc và Làng Hang bằng đƣờng bộ rất khó khăn. Trong khi đƣờng thủy chỉ có duy nhất một cách đi qua sông Cam Đƣờng. Tuy nhiên, dòng sông này vì nƣớc thƣờng thấp, nhiều ghềnh đá nên không thể di chuyển trên sông bằng xà lan hoặc ca nô. Khó khăn về giao thông đƣợc Robert Gavard nhận xét: … không thể đến trung tâm của khu mỏ này, cả bằng đường bộ và đường thủy” [215, tr.1].
Trong khi đó, việc khai mỏ ở các tỉnh khác, đặc biệt là mỏ than đƣợc ngƣời Pháp quan tâm đầu tƣ thăm dò, nghiên cứu và bắt đầu khai thác từ rất sớm, ngay từ
127
năm 1874. Từ cuối thế kỷ XIX, năm 1888, tƣ bản Pháp đã thành lập ra Công ty Than Bắc Kỳ để khai mỏ than ở Hòn Gai. Từ đầu thế kỷ XX, hàng loạt các công ty khác đƣợc thành lập ở các tỉnh Quảng Yên, Tuyên Quang, nhƣ Công ty Than Kế Bào thành lập năm 1911, Công ty Phosphte Bắc Kỳ năm 1913, Công ty Than Đông Triều 1916, … Trong khi đó, ở Lào Cai hoạt động khai mỏ hoàn toàn gần nhƣ im ắng, chƣa có công ty nào đƣợc thành lập và tiến hành khai mỏ quy mô lớn ở đây.
- Đặc điểm thứ 4, Việc đầu tư thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai hoàn toàn do tư bản Pháp, từ năm 1940 do Nhật – Pháp tiến hành, không hề có sự hiện diện của tư sản Hoa kiều và tư sản người Việt tham gia vào khai mỏ ở Lào Cai
Thứ nhất, điều khác hẳn với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ, bên cạnh ngƣời Pháp, tiếp đó là Nhật, thì khai mỏ có sự tham gia tƣơng đối năng động của tƣ sản Hoa kiều và tƣ sản ngƣời Việt, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác than ở Quảng Yên.
Trong lĩnh vực khai mỏ, tƣ sản ngƣời Việt tham gia khai thác mỏ chỉ đứng sau ngƣời Pháp. Sở dĩ có điều này là do: Sắc lệnh ngày 25/2/1897 về mỏ đƣợc ban hành, đến năm 1900, sự tác động của điều kiện khách quan và yêu cầu của cuộc khai thác thuộc địa về kinh tế đặt ra. Do vậy, Paul Doumer đã ban hành Nghị định ngày 30/4 lập Danh dự bội tinh (Thƣởng cho ngƣời Việt có nhiều công trạng trong các hoạt động công – nông – thƣơng và thủ công nghiệp) khuyến khích ngƣời Việt hoạt động trong bốn ngành công, nông, thƣơng và thủ công nghiệp, trong đó khuyến khích hoạt động trong ngành mỏ; Năm 1902, Paul Beau làm Toàn quyền Đông Dƣơng, thực hiện chính sách “hợp tác với ngƣời bản xứ”. Chính sách cởi mở của Nhà cầm quyền đã tạo điều kiện cho nhiều ngƣời Việt tham gia vào lĩnh vực khai mỏ. Theo thống kê, từ năm 1888 – 1945, ở Việt Nam có 367 chủ mỏ ngƣời Việt, với tổng số mỏ đƣợc cấp nhƣợng là 473 mỏ và tổng diện tích 525.616,5972ha, tức là chiếm 39,68% tổng số chủ mỏ, 27,01% tổng số mỏ và 28,12% tổng diện tích mỏ. Khu vực sở hữu mỏ chủ yếu ở Quảng Ninh, Cao Bằng, Hòa Bình, Phú Thọ, Lạng Sơn, Thanh Hóa …
Đối với tƣ sản Hoa kiều, do trƣớc đây họ đã khai thác một số mỏ vàng, bạc, sắt, chì… ở Bắc Kỳ và do hoàn cảnh lúc bấy giờ nên chính quyền thực dân để mặc cho Hoa kiều tiếp tục khai thác những khu mỏ mà họ đang khai thác. Theo thống kê, cho đến trƣớc năm 1945 đã có 24 chủ mỏ ngƣời Hoa đƣợc cấp nhƣợng 29 mỏ, tổng diện tích 19.831,54ha, tức là chiếm 2,59% chủ mỏ, 1,66% tổng số mỏ và 1,06% tổng diện tích mỏ. Khu vực mỏ của ngƣời Hoa chủ yếu ở các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn…[105, tr. tr259-301].
128
Thứ hai, về cơ bản, hầu hết toàn bộ khai mỏ ở Việt Nam do ngƣời Pháp nắm giữ, tuy nhiên, trong một số địa phƣơng, ở một số lĩnh vực khai mỏ có sự tham gia của ngƣời Việt, trong khi đó ở Lào Cai thì không. Năm 1921, ở Việt Nam có 69 khu nhƣợng mỏ than thì 5 khu nhƣợng mỏ thuộc về ngƣời Việt, nhƣ ở Quảng Yên có: Bạch Thái Bƣởi, Nguyễn Hữu Thu, Phạm Kim Bảng, Lê Thị Tâm, ….
Bạch Thái Bƣởi bắt đầu tham gia vào lĩnh vực khai mỏ năm 1920, ở khu vực Hòn Gai, Từ năm 1920 đến năm 1925, ông tiếp tục sở hữu mỏ than Bí Chợ. Đến năm 1926, vốn đầu tƣ vào khai mỏ than ở Quảng Yên của Bạch Thái Bƣới tăng lên 280.000 đồng bạc (khoảng 4,8 triệu francs). Từ năm 1928 trở đi, do hoạt động vận tải gặp nhiều khó khăn, Bạch Thái Bƣởi tập trung mọi nguồn lực vào khai thác than ở Bí Chợ, số vốn đầu tƣ vào đây tăng lên 500.000 đồng bạc (6,4 triệu francs).
Nguyễn Hữu Thu cũng là một trong số tƣ sản ngƣời Việt tham gia khai thác mỏ, chủ yếu là than ở Uông Bí, từ năm 1924 đến 1929, công ty của Nguyễn Hữu Thu khai thác đƣợc 24.000 tấn than.
Nguyễn Hữu Lan, một kỹ nghệ gia ở Hải Phòng đƣợc nhƣợng mỏ từ năm
1923 đến năm 1937, ông chủ sở hữu 19 mỏ ở 5 tỉnh Bắc Kỳ.
Năm 1924, Phạm Kim Bảng và một ngƣời Pháp là Soubie liên kết thành lập Công ty mỏ Đông Dƣơng (Société minière indochinoise) tiến hành khai thác than ở Cổ Kênh (Quảng Yên). Năm 1928, Công ty này bán cho Pháp.
Đinh Văn Thiệu, quê ở thôn Gián Khẩu, huyện Gia Khánh (Ninh Bình), ông
là chủ sở hữu 13 mỏ, đƣợc nhƣợng mỏ năm 1927 ở Thanh Hóa
Ở Ninh Bình có Bùi Xuân Phái, khai mỏ than ở Đồng Giao từ năm 1901. Ở Quảng Nam có Lƣơng Văn Phong, khai thác mỏ Nông Sơn. Lê Thị Tâm, khai mỏ than ở Quảng Yên từ năm 1911. Ở Hải Dƣơng có Lê Đắc Tôn, Lê Văn Chung khai mỏ từ năm 1913. Ở Hà Nam, có Lê Thị Ngọc khai thác mỏ từ năm 1915…
Thứ ba, lý giải nguyên nhân về khai mỏ ở Lào Cai không có sự hiển diện của
tƣ sản Hoa kiều và tƣ sản ngƣời Việt, tác giả luận án cho rằng:
Một trong những lý do quan trọng của tình trạng này xuất phát từ chính sách độc quyền của Pháp trong việc cấp phép tìm kiếm và khai thác mỏ ở Việt Nam đƣợc thực hiện từ năm 1912.
Dƣới triều Nguyễn, ngƣời Hoa đƣợc phép tìm kiếm và khai thác mỏ ở Việt Nam. Sau khi buộc triều đình Nguyễn ký hiệp ƣớc Harmand và Patenotre, thừa nhận sự đô hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam, ngày 18/2/1885, chính quyền Pháp buộc triều đình Nguyễn ký một thỏa thuận liên quan tới tìm kiếm và khai thác mỏ.
129
Theo đó, hoàng đế nhà Nguyễn “chấp nhận phục tùng chế độ khai thác mỏ theo quy chế đặt ra bởi chính quyền Cộng hòa Pháp” [137, tr.1].
Từ năm 1885 đến năm 1912, chính quyền thuộc địa ban hành nhiều quy định về quy chế nhƣợng, khai thác mỏ, theo đó tất cả các cá nhân và công ty không phân biệt quốc tịch, chủng tộc đều có thể xin cấp phép trong việc tìm kiếm và khai thác mỏ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, năm 1912, giới tƣ bản và chính quyền Pháp tìm cách độc quyền khai thác mỏ ở Việt Nam bằng cách gạt bỏ sự hiện diện các cá nhân, công ty nƣớc ngoài, đặc biệt là ngƣời Hoa. Giới tƣ bản tƣ nhân và chính quyền Pháp coi ngƣời Hoa là mối đe dọa lớn về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực đất nhƣợng và khai thác mỏ ở Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân làm nổi lên một làn sóng tẩy chay ngƣời Hoa và ngƣời nƣớc ngoài trong giới tƣ bản và giới cầm quyền Pháp ở Đông Dƣơng. Để bảo vệ lợi ích kinh tế của tƣ bản và các công ty Pháp, ngăn ngừa những nguy cơ từ các công ty nƣớc ngoài, đặc biệt là ngƣời Hoa, theo đề nghị của Toàn quyền Đông Dƣơng và Bộ thuộc địa, ngày 26/1/1912, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh quy định chế độ mới về khai mỏ ở Đông Dƣơng. Điều 8 Sắc lệnh năm 1912 quy định: “Chủ sở hữu mỏ, cá nhân tiến hành khai thác mỏ chỉ có thể là người Pháp, cá nhân có quốc tịch Pháp hoặc người dân chịu sự bảo hộ của Pháp. Đối với các công ty, chỉ những công ty nào được thành lập và hoạt động theo luật của nước Pháp, ban quan trị, ban giám đốc của công ty phải đa số là công dân Pháp, có quốc tịch Pháp hoặc người dân chịu sự bảo hộ của Pháp thì mới được phép tìm kiếm và khai thác mỏ ở Đông Dương” [138, tr.27].
Theo quy định này thì từ năm 1912, không một cá nhân hoặc công ty nƣớc ngoài nào, trong đó có ngƣời Hoa, đƣợc phép tìm kiếm, sở hữu và khai thác mỏ ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh ở đây rằng, quy định này không có hiệu lực “hồi tố”, có nghĩa là ngƣời Hoa và ngƣời nƣớc ngoài sở hữu mỏ ở Đông Dƣơng trƣớc khi quy định này đƣợc ban hành không chịu điều khoản này. Họ vẫn có quyền khai thác và sở hữu mỏ. Trong khi đó, ở Lào Cai, khai thác mỏ diễn ra khá muộn so với các tỉnh khác, phần lớn là sau khi quy định này đã đƣợc ban hành và có hiệu lực. Trong khi đó, ở các tỉnh khác, khai thác mỏ bắt đầu từ rất sớm và có sự tham gia của tƣ sản ngƣời Hoa. Đây là lý chính khiến khai mỏ ở Lào Cai không có sự hiện diện của ngƣời Hoa.
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, làn sóng bài ngoại tiếp tục tiến thêm một bƣớc, khi chính quyền Pháp ban hành các quy định cấm ngƣời nƣớc ngoài, trọng
130
tâm là ngƣời Hoa trong việc sở hữu đất nhƣợng ở nông thôn cho mục đích khai thác nông nghiệp, công nghiệp và thƣơng mại. Trong Báo cáo số 65-C ngày 8/8/1922 gửi Thống sứ Bắc Kỳ, Công sứ Sơn La đề xuất rằng: cần tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời Pháp và ngƣời bản địa sở hữu đất nhƣợng, trừ ngƣời Trung Quốc. Ông ta khẳng định: “Người Trung Quốc cần bị tống cổ khỏi quyền sở hữu đất nhượng” [222]. Năm 1924, 1925 và 1928, chính quyền Pháp đã ban hành 3 Nghị định quy định về chế độ đất nhƣợng, theo đó, cấm tất cả ngƣời nƣớc ngoài, bao gồm cả ngƣời Hoa sở hữu đất nhƣợng ở nông thôn để lập đồn điền, xây dựng nhà máy công nghiệp, gồm cả khai thác chế biến mỏ và thiết lập các cơ sở thƣơng mại [111, tr.10- 25]. Quy định cấm ngƣời nƣớc ngoài, bao gồm cả ngƣời Hoa sở hữu và khai thác mỏ tiếp tục đƣợc khẳng định trong Sắc lệnh ngày 30/3/1935 của chính phủ Pháp.
Rõ ràng rằng, bằng các quy định về quốc tịch từ năm 1912, chính quyền Pháp đã dành độc quyền khai mỏ cho tƣ bản và các công ty của Pháp, loại bỏ cá nhân và công ty nƣớc ngoài ra khỏi lĩnh vực này, bao gồm cả ngƣời Hoa.
Một lý do khác cũng không thể không nhắc tới đó là Lào Cai không có nhiều mỏ, trữ lƣợng không lớn nhƣ các tỉnh khác, đặc biệt là so với Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn. Điều kiện cơ sở hạ tầng gặp nhiều khó khăn trong khai thác và vận chuyển, đặc biệt là nguồn lao động ở Lào Cai rất khó khăn. Có thể đây cũng là lý do khiến tƣ sản ngƣời Việt ít quan tâm chú ý tới khai thác mỏ ở Lào Cai.
Nhƣ vậy, qua hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai so với các tỉnh khác, đặc biệt là các tỉnh Bắc Kỳ, ngoài những điểm chung giống nhau thì hoạt động khai mỏ ở Lào Cai có 4 đặc điểm riêng, nhƣ: Số lƣợng, quy mô, trữ lƣợng mỏ rất khiêm tốn; sở hữu mỏ mang tính đặc hữu, quan trọng, quý hiếm; khai mỏ tiến hành tƣơng đối muộn; Hoạt động khai mỏ không có sự tham gia của tƣ sản Hoa kiều và tƣ sản ngƣời Việt.
4.2. Tác động 4.2.1. Tác động về kinh tế
Với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, Lào Cai trở thành một trong những mục tiêu quan trọng của cả hai cuộc khai thác thuộc địa, trƣớc và sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác ở Việt Nam. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dƣơng Paul Doumer gửi một bản báo cáo cho Bộ trƣởng Thuộc địa Pháp trình bày một chƣơng trình khai thác quy mô về kinh tế toàn Xứ Đông Dƣơng. Chƣơng trình này của Doumer còn đƣợc gọi là “Chƣơng trình khai thác lần thứ nhất”. Tinh thần cơ bản
131
của chƣơng trình này là thuộc địa Đông Dƣơng phải đƣợc dành riêng cho thị trƣờng Pháp. Sản xuất ở đây chỉ tập trung vào việc cung cấp cho Chính quốc nguyên liệu hoặc sản phẩm chính quốc thiếu. Công nghiệp thuộc địa chỉ nhằm bổ sung cho sự phát triển của công nghiệp Chính Quốc [89, tr.41-42]. Dƣới tác động của các cuộc khai thác thuộc địa, nền kinh tế Lào Cai có những chuyển biến rõ nét, đặc biệt là sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của công nghiệp khai mỏ theo phƣơng thức hiện đại đƣơng thời, đi liền với nó là sự phát triển của thƣơng nghiệp và một số nghề thủ công khác.
Việc khai thác khoáng sản thời Pháp thuộc mặc dù còn mang nặng tính thủ công, bán cơ khí nhƣng nó vẫn phải có những ngành công nghiệp, dịch vụ phụ trợ khác, nhƣ: điện để vận hành máy móc, giao thông vận tải để chuyển chuyên chở sản phẩm. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiếm đóng Lào Cai, chính quyền thuộc địa tạo điều kiện để phát triển thêm một số ngành công nghiệp khác.
Bên cạnh công nghiệp khai khoáng, Lào Cai cũng xuất hiện một số cơ sở công nghiệp với quy mô nhỏ. Năm 1906, Nhà máy nƣớc Lào Cai đƣợc xây dựng. Năm 1920, một nhà máy điện đƣợc xây dựng ở Lào Cai, gồm hai máy phát điện và ba đƣờng dây cáp tải điện cung cấp cho Lào Cai và Cốc Lếu thay cho hệ thống chiếu sáng bằng a-xê-ti-len...[167]. Lào Cai là một tỉnh miền núi đầu tiên có điện lúc bấy giờ, sau Hà Nội (1892) và Hải Phòng (1903). Tuy nhiên, nhà máy điện, nhà máy nƣớc đƣợc xây dựng chủ yếu là để phục vụ nhu cầu của ngƣời Pháp.
Năm 1927, Xƣởng sản xuất đá và nƣớc giải khát đƣợc thành lập. Đến năm 1935, hai cơ sở khai thác đất sét phục vụ công nghiệp sành sứ của hai ông Lƣu Thế Tuyết và Vanmose ra đời. Ngoài ra, ở Sapa cũng xây dựng Nhà máy nƣớc và Xƣởng dệt thổ cẩm...[87, tr.43].
Với mục đích chính là phục vụ khai thác nguồn tài nguyên phong phú ở Lào Cai (trong đó có mỏ khoáng sản), mục đích quân sự, chính trị, chính quyền thực dân đã cho xây dựng, nâng cấp hệ thống các tuyến đƣờng giao thông, nhƣ: tuyến đƣờng sông, đƣờng sắt Hải Phòng – Hà Nội - Lào Cai – Vân Nam và các tuyến đƣờng bộ trên địa bàn Lào Cai.
Nâng cấp, sửa chữa tuyến đường sông Hồng lên Lào Cai: Những năm 1886 đến 1890, ngƣời Pháp chi hàng vạn Frăng nạo vét dòng sông Hồng, phá bỏ các dải đá ngầm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán từ sông Hồng lên Lào Cai rồi sang Mông Tự (Trung Quốc). Khi tuyến đƣờng thủy đƣợc mở rộng và nâng cấp, hoạt động buôn bán trên cung đƣờng này rất phát triển. Việc vận chuyển hàng hoá
132
qua tuyến Mộng Tự - Mạn Hảo - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Hƣơng Cảng trở thành con đƣờng huyết mạch. Trao đội buôn bán qua tuyến sông Hồng từ năm 1890 đến năm 1910 là giai đoạn phát triển mạnh nhất.
Tuyến đường sắt Hải Phòng – Hà Nội - Lào Cai – Vân Nam: Nhằm tăng cƣờng khai thác vùng Thƣợng du Bắc Kỳ, vơ vét tài nguyên khoáng sản của Vân Nam (Trung Quốc) và phục vụ các mục đích chính trị, quân sự, từ cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tập trung nghiên cứu xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam (đƣờng sắt Điền - Việt). Ngày 16/02/1902, đoạn đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội đƣợc đƣa vào khai thác. Ngày 01/02/1906, đoạn đƣờng sắt Hà Nội - Lào Cai đƣợc khai thác, ngày 11/04/1910 toàn tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh đƣợc thông xe.
Tuyến đƣờng sắt Điền - Việt đƣợc đƣa vào vận hành góp phần mở rộng tuyến kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh. Hàng hoá đƣợc vận chuyển theo đƣờng sắt từ cửa biển Hải Phòng qua Lào Cai đến Côn Minh chỉ mất ba ngày rƣỡi, so với vận chuyển đƣờng thuỷ bộ xƣa kia đã giảm đƣợc 26 ngày rƣỡi. Nhờ giao thông đƣờng sắt thuận lợi nên giao lƣu văn hoá, trao đổi kinh tế giữa Vân Nam - Lào Cai đƣợc đẩy mạnh. Năm 1910, sau khi đƣờng sắt Điền - Việt đƣợc thông xe toàn tuyến, tổng mức xuất nhập khẩu của Vân Nam đạt 11.464.929 quan bình lƣỡng. Tổng ngạch xuất khẩu năm 1910 so với năm 1890 tăng 11,36 lần. Mặt hàng chủ lực trong kinh tế xuất khẩu của Vân Nam thời kỳ đó là thiếc. Lƣợng xuất khẩu thiếc đã tăng đột biến sau khi có đƣờng sắt Điền - Việt. Năm 1907, xuất khẩu thiếc chủ yếu qua đƣờng sông Hồng mới đạt 3.456 tấn. Nhƣng đến năm 1909, xuất khẩu thiếc chủ yếu qua đƣờng sắt, sản lƣợng thiếc xuất khẩu tăng rất nhanh, năm 1910 Vân Nam xuất khẩu gần 6000 tấn thiếc. Đƣờng sắt Điền - Việt trở thành tuyến đƣờng vận chuyển hàng hoá nhiều nhất của ngƣời Pháp ở Đông Dƣơng. Năm 1934, tuyến đƣờng đã vận chuyển 263.397 tấn hàng hoá. Năm 1938, tuyến đƣờng đã vận chuyển tăng nhanh lên 378.626 tấn hàng hoá. Trên tuyến đƣờng sắt này, sự trao đổi hàng hoá diễn ra mạnh mẽ. Năm 1938, hàng xuất khẩu từ Hải Phòng vận chuyển qua Lào Cai đến Côn Minh là 51.670 tấn hàng hoá, còn hàng từ Côn Minh qua Lào Cai đến Hải Phòng là 15.518 tấn hàng hoá. Năm 1938, hàng hoá xuất khẩu từ Bắc Kỳ (Việt Nam) sang Vân Nam là 9.702 tấn, hàng xuất khẩu từ Vân Nam sang Bắc Kỳ là 2.536 tấn [84, tr.57].
Sự trao đổi kinh tế phát triển, giao thông đƣờng sắt đƣợc tăng cƣờng góp phần thúc đẩy mở rộng thị trƣờng và lƣu thông hàng hoá giữa các vùng có tuyến
133
đƣờng sắt đi qua, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi địa phƣơng. Ngay tại Lào Cai, các mặt hàng thảo quả, gỗ Pơ mu, cánh kiến ... xuất sang Vân Nam và Hồng Kông tăng mạnh: Năm 1931, xuất khẩu đƣợc 75 tấn thảo quả, năm 1940 xuất khẩu 504 tấn thảo quả… Các sản phẩm than, xi măng, hàng dệt may (Nam Định), sản phẩm sơn, hoá học...của Bắc Kỳ cũng là các mặt hàng quen thuộc xuất khẩu sang Vân Nam. Thông qua hệ thống đƣờng sắt, các tỉnh ở Bắc Kỳ, các địa phƣơng ở Vân Nam cũng đẩy mạnh trao đổi hàng hoá.
Nhƣ vậy, việc trao đổi hàng hoá ở Vân Nam với các tỉnh ở lƣu vực sông Hồng (trong đó có Lào Cai) bƣớc đầu “tấn công”, góp phần từng bƣớc phá vỡ nền kinh tế tự cung, tự cấp khép kín của vùng lƣu vực sông Hồng.
Trao đổi hàng hoá giữa Vân Nam - Lào Cai và các tính Việt Nam góp phần thúc đẩy sự phát triển các khu công nghiệp, hình thành các nhà máy, xƣởng sản xuất ở nhiều địa phƣơng. Ở Lào Cai, ngay sau khi đƣờng sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng thông xe (01/02/1906) một làn sóng ồ ạt thăm dò, khai thác mỏ nổi lên. Từ năm 1906 đến năm 1914 có 185 đơn xin khai thác mỏ, năm 1929 có 408 đơn và đến năm 1932 có 714 đơn xin thăm dò khai mỏ khoáng sản. Một loạt mỏ liên tiếp đƣợc xây dựng khai thác nhƣ mỏ mỏ than chì (Graphit) ở ven sông Nậm Thi gần đô thị Lào Cai, mỏ Mi Ca ở làng Múc, ... Đặc biệt mỏ apatite Lào Cai đƣợc xây dựng và khai thác từ năm 1939.
Tuyến đường bộ: Bên cạnh tuyến đƣờng thủy, đƣờng sắt, chính quyền thực dân Pháp cho xây dựng, mở rộng, nâng cấp, sữa chữa những tuyến đƣờng bộ trong địa bàn tỉnh Lào Cai, nhƣ: đƣờng số 4, đƣờng số 2, đƣờng số 3, đƣờng số 5, đƣờng số 109. Đặc biệt từ cuối năm 1939, thực dân Pháp khảo sát mở tuyến đƣờng từ Bắc Quang - Yên Bình xã Nghĩa Đô - Lào Cai.
Các tuyến đƣờng bộ đƣợc hoàn thành đã góp phần phát triển kinh tế Lào Cai về vận chuyển ngƣời, hàng hóa, khai thác du lịch. Nhằm phục vụ vận tải hành khách trên tuyến đƣờng Lào Cai – Sapa, từ năm 1923, ông Plovano (Thầu vận tải, Giám đốc khai thác giao thông liên lạc) dùng hai ô tô của mình chuyên chở khách trên tuyến Lào Cai - Sapa.
Năm 1924, phục vụ vận tải trên tuyến đƣờng Lào Cai -Sa pa đƣợc giao cho một ngƣời Trung Quốc khai thác. Năm 1925, tuyến đƣợc này đƣợc chuyển sang ông Josephlact khai thác. Sau đó, ông Josephlact nhƣợng lại cho một ngƣời Việt là Hoàng Đình Ninh khai thác. Do tình hình khai thác không khả quan nên Hoàng Đình Ninh đã giao quyền khai thác cho Công ty giao thông Desgouttes – Marty.
134
Công ty hoạt động từ tháng 4/1926, Công ty mua 5 ô tô tải (2 xe Aries, 2 xe Latils, 1 xe Renault) và 5 xe ô tô du lịch (1 xe Zeidel, 1 xe Gtroen, 1 xe Studebaker, 1 xe Berliet, 1 xe Peugeot) để phục vụ chở ngƣời và hàng hóa.
Để sữa chữa toa xe phục vụ cho việc vận chuyển, Xƣởng đêpô đƣợc xây
dựng ở Phố Mới, nhƣng với quy mô nhỏ.
Nhờ xây dựng, nâng cấp, sữa chữa các tuyến đƣờng sông, đƣờng sắt, đƣờng bộ nên các hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập trên cung đƣờng Lào Cai. Do vậy, Lào Cai trở thành trung tâm buôn bán phía Tây Bắc của Việt Nam. Năm 1904, đô thị Lào Cai đƣợc ngƣời Pháp quy hoạch mở rộng gấp 5 lần, trung tâm đô thị không chỉ bó hẹp trong thành cổ mà còn phát triển mạnh sang hữu ngạn sông Hồng (khu vực Cốc Lếu) và phía Nam (khu vực Phố Mới). Nếu nhƣ, năm 1886, dân số ở đô thị cổ Lào Cai mới chỉ vài trăm ngƣời, năm 1907 tăng lên gần 2.000 ngƣời. Đô thị Lào Cai thực sự trở thành một trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của toàn tỉnh Lào Cai.
Lao Cai là một tỉnh vùng Thƣợng du Bắc Kỳ, phần lớn lãnh thổ là núi rừng, đất đai canh tác chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Nông sản chủ yếu của Lào Cai là một số loại lúa, ngô, đậu, mía và một số cây lƣơng thực, cây công nghiệp khác nhƣ mạch ba gốc, đỗ tƣơng, đỗ trắng, đỗ xanh, khoai lang, sắn, lạc, khoai tây, mía, bông, lanh, cây cao lƣơng, chè... Tuy nhiên, do điều kiện canh tác khó khăn, sản xuất nông nghiệp thƣờng bấp bênh, phƣơng thức canh tác nông nghiệp của nhân dân các dân tộc Lào Cai thời Pháp thuộc không có biến đổi gì nhiều so với thời kỳ trƣớc.
Cùng với lối canh tác truyền thống, Chính quyền thực dân cũng cố gắng đƣa vào áp dụng trong nông nghiệp những phƣơng thức canh tác mới, mang tính chất sản xuất hàng hóa, hƣớng vào thị trƣờng - lập các đồn điền - tìm cách khai thác sức ngƣời và đất đai Lào Cai. Để làm đƣợc điều này, thực dân Pháp tăng cƣờng cƣớp đất, lập đồn điền và trang trại: Năm 1901, có 11 đơn xin cấp đất lập đồn điền, có 3 tƣ sản Pháp chiếm gần 400ha trồng cao su, cây ăn quả, cà phê; Năm 1918, Lào Cai có 7 đồn điền với tổng diện tích 17.216ha; Từ năm 1935 - 1941, thực dân Pháp và tay sai ồ ạt chiếm đoạt ruộng đất ở vùng thấp, nhất là Bảo Thắng, Bảo Hà, Văn Bàn... để khai mỏ, lập đồn điền. Trong vòng 6 năm (1935 - 1941), chúng đã cƣớp 1.115ha ruộng đất của nhân dân.
Nhìn chung, trong suốt thời gian cai trị ở Lào Cai, tƣ bản Pháp cho đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng (các tuyến đƣờng giao thông, các ngành công nghiệp, dịch
135
vụ hỗ trợ…) nhằm phục vụ mục đích khai thác bóc lột, mục đích quân sự, chính trị của chính quyền thực dân. Do vậy, tình hình kinh tế ở Lào Cai có sự thay đổi: hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập, manh nha xuất hiện nền công nghiệp (khai khoáng, vận tải, du lịch…). Tuy nhiên, những hoạt động này thực chất chỉ đem lại lợi nhuận cho chính quyền thực dân, còn lại đại đa số nhân dân lao động ở Lào Cai bị bóc lột tàn bạo.
4.2.2. Tác động về xã hội 4.2.2.1. Gia tăng dân số và biến đổi cơ cấu giai cấp
Tỉnh Lào Cai có sự cộng cƣ của nhiều dân tộc sinh sống, nhƣ ngƣời Kinh, H’mông, Tày, Nùng, Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Thái, Mƣờng, Giáy, Ngái, Lô Lô, Kháng, La Ha, Phù Lá, Hà Nhì, Nhắng, U Ní, ngƣời Lào.... mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có ngôn ngữ riêng, có hoạt động kinh tế, văn hóa đặc thù, có nhiều phong tục tập quán riêng và phân bố không đều trong tỉnh.
Thông thƣờng ngƣời Tày, Thái, Giáy, Nùng sống ở vùng thấp, khẩn hoang các thung lũng ven sông, ven suối, sáng tạo truyền thống văn hóa lúa nƣớc. Ngƣời Kháng, La Ha, Phù Lá... ở rẻo giữa, tạo nên văn hóa nƣơng rẫy với nhiều tri thức bản địa phù hợp với kinh tế đồi rừng. Ngƣời H’mông, Hà Nhì, Dao ở vùng cao, khai khẩn các sƣờn núi thành ruộng bậc thang nhƣ những bậc thang bắc lên trời hùng vĩ. Theo những số liệu thống kê của Pháp, năm 1890 Lào Cai có 34.800 ngƣời, năm 1892 tổng dân số của Lào Cai khoảng 40.000 ngƣời. Đến năm 1907, sự thay đổi về mặt địa giới, số lƣợng dân cƣ ở Lào Cai có sự thay đổi: dân số tỉnh Lào Cai khoảng 21.801 ngƣời. Trong đó, ngƣời Mông có 6.646; ngƣời Mán có 4.928; ngƣời Thái có 2.316; ngƣời Nùng có 1.834; ngƣời Việt có 1.632; ngƣời Hoa có 1.111; ngƣời Âu có 76; ngƣời Nhật có 16…[40]. Nhìn vào cƣ dân ở Lào Cai năm 1907, chúng ta thấy đã xuất hiện ngƣời Pháp, Nhật.
Cùng với việc xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng - Lào Cai, đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm, khai thác mỏ ở Lào Cai, một lực lƣợng lớn công nhân đƣợc tuyển mộ từ các tỉnh miền xuôi lên các công trƣờng làm việc đã làm cho dân số ở Lào Cai tăng dần qua từng năm. Năm 1921, tổng dân số của Lào Cai là 36.000 ngƣời, năm 1924, dân số có khoảng 38.000 ngƣời (đông nhất là ngƣời Mèo 11.100 ngƣời, ngƣời Mán có 7.500 ngƣời, ngƣời Thổ có 6.340 ngƣời, ngƣời Nhắng có 5.300 ngƣời, ngƣời Nùng có 3.000 ngƣời, ngƣời Việt có 3.750 ngƣời…) [54, tr.65-66], năm 1930 dân số tăng lên 45 000 dân (mật độ 7 ngƣời/km2) [180, tr.23].
Theo nghiên cứu của Trần Hữu Sơn, năm 1930 Lào Cai có 24 ngành nhóm
136
dân tộc, dân số có 45.513 ngƣời. Trong đó gồm có ngƣời Âu (84 ngƣời), Hoa Kiều (1.047 ngƣời), Kinh (2.996 ngƣời), Thổ (6.084 ngƣời), Thái (446 ngƣời), Nùng (3.728 ngƣời), Nhắng (3.800 ngƣời), Quý Châu (2.221 ngƣời), Mán đại bản (796 ngƣời), Mán Làn Tẻn (1.592 ngƣời), Mán Son Pa (86 ngƣời), Xe Mang (40 ngƣời), Tu Dí (360 ngƣời), Pi Tao (142 ngƣời), Mèo (12.660 ngƣời), U Ní (645 ngƣời). Pou La (856 ngƣời), Thu Lao (273 ngƣời), Pa dí (248 ngƣời), La Tí (371 ngƣời), Lô Lô (71 ngƣời), Xá Phó (91 ngƣời), Lự (202 ngƣời), Ấn Độ (3 ngƣời) [9, tr.103]. Nhìn vào dân số của các dân tộc sinh sống ở Lào Cai, ngƣời Mèo, ngƣời Thổ, ngƣời Nhắng chiếm số lƣợng đông nhất. Có thể nói, trƣớc năm 1945, Lào Cai là địa bàn sinh sống chủ yếu của ngƣời Mèo, Thổ, Nhắng.
Chính sách cai trị cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã biến Việt Nam từ một xã hội phong kiến mang đặc trƣng phƣơng Đông chuyển sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Lào Cai cũng nhƣ vậy, nhƣng vẫn còn những nét đặc thù của một xã hội miền núi. Sự phân hoá xã hội diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc, hình thành những giai cấp, tầng lớp cơ bản sau:
Giai cấp địa chủ, phong kiến: Giai cấp địa chủ, phong kiến ở Lào Cai chia làm hai thành phần: địa chủ ở vùng thấp và thổ ty ở vùng cao. Trƣớc năm 1945, toàn tỉnh có khoảng 400 địa chủ và thổ ty.
Đặc điểm chung của địa chủ, thổ ty ở Lào Cai là đều chiếm hữu phần lớn đất đai, biến ruộng công thành ruộng tƣ hoặc tự coi mình là chủ đất đai, tài nguyên trong vùng. địa chủ, thổ ty giao ruộng chiếm đoạn đƣợc cho nông dân nghèo cày cấy rồi hàng năm thu tô hiện vật và tô lao dịch. Đây là hình thức bóc lột phổ biến của giai cấp phong kiến Lào Cai.
Trong thời phong kiến, các thổ ty còn làm chủ cả những khúc sông, suối, các khu rừng nhiều lâm sản, nắm quyền thống trị ở địa phƣơng về cả hành chính và quân sự.
Khi thực dân Pháp xâm lƣợc và đặt ách cai trị ở Lào Cai, chính quyền thực dân vẫn dựa vào lực lƣợng địa chủ, thổ ty ở địa phƣơng để phục vụ âm mƣu cai trị của mình. Thời kỳ đầu, các thổ ty chỉ có một số lĩnh dõng, nhƣng từ đầu năm 1945, lực lƣợng bán vũ trang của các thổ ty phát triển mạnh. Chúng xây dựng thành các đội quân thƣờng trực có từ 30 đến 60 lính, đƣợc trang bị vũ khí tƣơng đối đầy đủ và do sỹ quan Pháp trực tiếp huấn luyện. Đặc biệt nhƣ thổ ty Nông Vĩnh An có 60 lính thƣờng trực đƣợc trang bị cả súng cối, đại liên và khoảng 300 dân binh. Thổ ty
137
Hoàng A Tƣởng có lực lƣợng vũ trang gồm 60 lính thƣờng trực và hàng trăm lính bán vũ trang đƣợc trang bị súng trƣờng, súng cối, đại liên…[85, tr.84].
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần hai, dựa vào những đặc quyền, đặc lợi mà Pháp tạo cho, nhiều thổ ty đã bắt đầu kinh doanh mang tính chất tƣ sản mại bản. Thời gian đầu, chúng độc quyền nhận thầu vận chuyển hàng hóa, cai sòng bạc, mở đại lý bán muối và các mặt hàng tiêu dùng, cung cấp lƣơng thực, thực phẩm cho các đồn binh. Sau này chúng tổ chức các chuyến buôn đƣờng dài, xây dựng các cửa hàng kinh doanh, góp cổ phần với tƣ sản Pháp hoặc với chủ các hãng buôn Hoa kiều. Giai cấp phong kiến, thổ ty ở Lào Cai nhìn chung đều là bọn tay sai đắc lực của thực dân Pháp.
Giai cấp nông dân: Nông dân là lực lƣợng đông đảo nhất trong xã hội, chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột. Về danh nghĩa họ là những ngƣời đƣợc hƣởng ruộng công của làng xã, có nghĩa vụ nộp thuế, đi phu, đi lính cho thực dân và phong kiến. Nhƣng ở vùng thấp nhiều hộ nông dân là ngƣời miền xuôi do bị địa chủ phong kiến cƣớp hết ruộng đất, họ phải rời bỏ quê hƣơng lên Lào Cai sinh sống. Song ruộng nƣơng do họ khai khẩn đƣợc lại phải nộp địa chủ phong kiến và đóng thuế cho chính quyền thực dân, do đó đời sống ở vùng quê mới của đồng bào cũng rất khổ cực.
Ở vùng cao, ngƣời nông dân vừa phải đóng thuế, đi phu cho chính quyền thực dân, vừa phải nộp thóc và các cống vật quý hiếm. Có nhiều ngƣời phải bỏ cả ruộng công để đi làm thuê hoặc đi ở cho địa chủ, thổ ty, trở thành đầy tớ cho các gia đình giàu có. Tuy nhiên, ở vùng cao sự phân hóa giai cấp chƣa diễn ra sâu sắc. Do quan hệ dòng họ, đồng tộc, cộng đồng bản làng còn đậm nét nên nhân dân dễ tin và nghe theo ngƣời đứng đầu dòng họ và bộ máy cai trị. Giai cấp nông dân chƣa có ý thức đấu tranh giai cấp quyết liệt, chống lại phong kiến, thổ ty, nhƣng khi đã đƣợc cách mạng giác ngộ thì họ sẽ trở thành một lực lƣợng nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Giai cấp công nhân: Ở Lào Cai, cùng với quá trình đầu tƣ khai thác của thực dân Pháp, đội ngũ công nhân cũng dần đƣợc hình thành. Tuy nhiên, khi nói đến đội ngũ công nhân Lào Cai thì lực lƣợng đông đảo nhất, có mặt sớm nhất ở Lào Cai là những công nhân đƣờng sắt.
Với mục đích củng cố chính quyền cai trị và khai thác nguồn tài nguyên phong phú ở Lào Cai, đặc biệt là khoáng sản mỏ dƣới lòng đất, chính quyền thực dân cho cơ sở hạ tầng, trong đó xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Lào Cai – Vân Nam.
138
Đoạn đƣờng sắt từ Việt Trì đến Lào Cai đi qua vùng rừng núi, dân cƣ thƣa thớt. Vì thế, các nhà thầu phải tuyển mộ nhiều nhân công từ vùng đồng bằng lên các công trƣờng xây dựng đƣờng sắt. Nhân công tuyển đƣợc qua các năm: Năm 1904 là 7.975 ngƣời (Ngoại vi Hải Phòng 35, Thái Bình 1.300, Phúc Yên 210, Ngoại vi Hà Nội: 70, Vĩnh Yên: 420, Sơn Tây: 380, Hà Nam: 330, Phủ Liễn: 300, Ninh Bình: 350, Bắc Ninh: 600, Hƣng Yên: 610, Hải Dƣơng 1.000, Cầu Đơ: 1.000, Nam Định: 1.050, Hƣng Hoá 320). Trong đó, đoạn đƣờng từ Trái Hút đến Lào Cai luôn duy trì khoảng 1000 công nhân trên các công trƣờng; Năm 1905, một đợt tuyển mộ quy mô lớn tổ chức, đợt này tuyển đƣợc 6.393 công nhân (Yên Bái: 26, Hƣng Hoá: 253, Cầu Đơ: 825, Nam Định: 1.010, Hải Dƣơng: 784, Phủ Liễn: 227, Vĩnh Yên: 320, Bắc Ninh: 474, Ninh Bình: 278, Hƣng Yên: 474, Hà Nam: 208, Sơn Tây: 289, Thái Bình: 1.010) [139]. Nhƣ vậy, hàng vạn nông dân An Nam đã phải rời bỏ làng quê của mình để đến làm việc trên các công trƣờng đƣờng sắt. Hình ảnh những làng mạc xơ xác, vắng vẻ là bức tranh thƣờng thấy ở các vùng đồng bằng. Những đợt tuyển mộ ráo riết và quyết liệt với nhiều biện pháp, chính quyền có đủ đội ngũ nhân công để đảm bảo cho hoạt động thi công các công trình. Theo học giả Phan Văn Trƣờng .... để khẩn trƣơng hoàn thành tuyến đƣờng sắt Yên Bái – Lào Cai - Vân Nam, ngƣời ta ƣớc tính tối thiểu đã có khoảng 20 vạn nông dân bị nhổ bật khỏi xóm làng và đƣa đến bên bờ sông Nậm Thi.
Khi cơ sở hạ tầng đƣợc xây dựng, tuyến đƣờng sắt đƣợc thông xe, các tuyến đƣờng bộ, đƣờng thủy ở Lào Cai đƣợc sữa chữa, mở rộng và mở những tuyến đƣờng mới, hoạt động tìm kiếm, khai thác ở Lào Cai diễn ra sôi động. Lào Cai có nhiều loại mỏ khoáng sản: sắt, đồng, than, than chì, apatile. Tuy nhiên, trong tính toán của ngƣời Pháp, khoáng sản ở Lào Cai là của để dành, nên chính quyền đã đƣa vào danh mục khoáng sản dự trữ chiến lƣợc và chỉ những khoáng sản thật cần thiết mới đƣa vào khai thác. Vì thế, từ năm 1896 đến năm 1945, rất ít mỏ ở Lào Cai đƣợc khai thác. Đây cũng là lý do dẫn đến số lƣợng công nhân mỏ Lào Cai ít hơn so với các tỉnh vùng Thƣợng du Bắc Kỳ. Số nhân công ở các mỏ Lào Cai khoảng gần 8.000 ngƣời: Vào giữa thập kỷ 20, Lào Cai có 570 công nhân tập trung ở các mỏ than chì (graphite) Nậm Thi, các mỏ đồng, vàng; Năm 1944, tại mỏ apatite công nhân đã tăng lên 7.346 ngƣời.
Dƣới tác động của cuộc khai thác thuộc địa mà chủ yếu là khai thác mỏ đã làm xuất hiện các giai tầng mới ở Lào Cai, trong đó giai cấp công nhân là đại diện của phƣơng thức sản xuất mới, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ nhất vì quyền lợi của giai cấp mình.
139
Tầng lớp tiểu tư sản: ở Lào Cai chủ yếu là những công chức và một số tiểu thƣơng, ngƣời buôn bán nhỏ. Những ngƣời buôn bán chịu nhiều loại thuế và các loại lệ phí bất hợp lý nên cuộc sống cũng khó khăn và họ mâu thuẫn với chính quyền địa phƣơng. Bộ phận công chức ở Lào Cai chủ yếu là những ngƣời ở dƣới xuôi đƣợc chính quyền thực dân đƣa lên Lào Cai, đa phần họ là giáo viên và những ngƣời làm việc trong các cơ sở công nghiệp. Tầng lớp này có mối quan hệ mật thiết với miền xuôi, có trình độ và có điều kiện tiếp xúc, nắm bắt đƣợc thông tin. Vì thế họ có tinh thần cách mạng, hăng hái tham gia vào các tổ chức để chống Pháp.
Giai cấp tư sản: Ở Lào Cai, số lƣợng tƣ sản không nhiều, tập trung chủ yếu ở thị xã Lào Cai. Ở đây, tƣ sản chủ yếu là bộ phận ngƣời Hoa và một số ngƣời Việt sống ở trong các khu phố lớn. Trong số tƣ sản ngƣời Hoa ở thị xã nổi lên có Ả Lim, Trần Ca, có cửa hiệu lớn chuyên kinh doanh nhiều loại hàng hoá, Điệp Xuân Dân chuyên kinh doanh vận tải khách. Tƣ sản ngƣời Việt nổi lên có Hoàng Đình Ninh, chủ thầu xây dựng và chuyên cho thuê nhà [6, tr.37].
Ở thị xã Lào Cai, còn một số thƣơng nhân loại vừa đang cố ngoi lên thành tƣ sản nhƣ: chủ hiệu Vĩnh Thịnh (buôn thuốc lào); Các gia đình Thông Sƣ, Ký Vƣợng (buôn thuốc lào, mắm muối); An Lợi (chuyên buôn muối, cho thuê trâu, ngựa); Quán Thánh, Kỷ Thuận, Ký Minh, Đốc An (chuyên buôn vải)…
Tƣ sản ngƣời Hoa có thế lực mạnh hơn. Họ cấu kết với nhau để làm ăn và dùng uy thế kinh tế để lấn át số tƣ sản ngƣời Việt có khả năng cạnh tranh. Số tƣ sản ngƣời Việt và những tƣ thƣơng muốn vƣơn lên thành tƣ sản bị tƣ sản ngƣời Hoa cạnh tranh, o ép nên không phát triển đƣợc. Do đó, số tƣ sản ngƣời Việt ít nhiều có tinh thần dân tộc, sẵn sàng đi theo cách mạng để gạt bỏ lực lƣợng cản trở trên bƣớc đƣờng lên ăn, song cũng dễ thoái lui khi cách mạng gặp khó khăn.
Tóm lại, khi thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị ở Lào Cai, công việc đƣợc đặt lên hàng đầu là xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tƣ bản Pháp khai thác nguồn tài nguyên, khoáng sản ở Lào Cai. Hệ thống các tuyến đƣờng giao thông đƣợc xây dựng, những con đƣờng dẫn tới các mỏ đƣợc hình thành, điều này dẫn tới nhu cầu cần một số lƣợng lớn nhân công làm việc trên các công trƣờng xây dựng đƣờng sắt, ở các mỏ khoáng sản. Vì vậy, hàng vạn ngƣời từ đồng bằng đƣợc tuyển mộ đƣa lên Lào Cai đã làm dân số Lào Cai gia tăng. Sự biến đổi dân cƣ, chính sách cai trị của chính quyền thực dân đã dẫn tới sự ra đời những giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội Lào Cai.
140
4.2.2.2. Phong trào yêu nước ở Lào Cai
- Phong trào đấu tranh của công nhân Khi chính quyền thực dân Pháp xây dựng tuyến đƣờng sắt Hải Phòng – Lào Cai – Vân Nam, khoảng 20 vạn nông dân ở các tỉnh đồng bằng đƣợc tuyển mộ lên Lào Cai để làm việc trên các công trƣờng đƣờng sắt. Với đồng lƣơng chết đói, điều kiện ăn, ở, y tế tồi tàn, thời gian làm việc từ 12 – 14h mỗi ngày, công nhân tại các công trƣờng đƣờng sắt đã nổ phát súng đấu tranh đầu tiên chống lại giới chủ, tiêu biểu nhƣ: Năm 1904, công nhân làm việc khu vực cây số 74 đấu tranh, công nhân quê Vĩnh Phúc đấu tranh; Năm 1905, công nhân đội 2 lán Thái Bình đấu tranh; Năm 1907, công nhân ở bên bờ sông Nậm Thi đốt lán trại bỏ về…).
Sau khi tuyến đƣờng đƣờng sắt đƣợc hoàn thành và đƣa vào khai thác, nhiều cuộc tìm kiếm thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai diễn ra. Tại các mỏ đƣợc khai thác, công nhân phải làm việc từ 12 – 14h mỗi ngày, đồng lƣơng nhận không đủ sống, điều kiện ăn, ở tồi tàn, công nhân các mỏ đã đứng lên đấu tranh chống lại giới chủ, tiêu biểu: Năm 1927, công nhân mỏ than chì (Nậm Si) ở gần thị xã Lào Cai cử đại diện đấu tranh; Từ năm 1939 đến năm 1942, công nhân mỏ apatile đã tổ chức 12 lần đấu tranh [85, tr.89].
Nhƣ vậy, chính sách cai trị, khai thác bóc lột tài nguyên khoáng sản của thực dân Pháp ở Lào Cai làm cho đời sống công nhân rơi vào cảnh cùng cực. Trƣớc tình cảnh trên, công nhân Lào Cai đã đứng lên đấu tranh chống lại giới chủ, chính quyền thực dân. Tuy phong trào công nhân ở Lào Cai chƣa đạt đƣợc những thắng lợi to lớn nhƣng đã góp phần cổ vũ cho phong trào đấu tranh cách mạng trên cả nƣớc chống ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên lật đổ chính quyền thực dân giải phóng tỉnh Lào Cai năm 1946.
- Phong trào đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Lào Cai (1930 – 1946) Phong trào đấu tranh của công nhân trên các công trƣờng đƣờng sắt, công nhân các mỏ than chì, mỏ apatite đã có ảnh hƣởng và giác ngộ tinh thần đấu tranh của nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của phong trào đấu tranh giải phóng Lào Cai năm 1946.
Tháng 2/1930, cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học lãnh đạo đã nổ ra ở Yên Bái, sau đó lan rộng ra các tỉnh Phú Thọ, Hải Dƣơng, Thái Bình… Thực dân Pháp dàn áp dã man cuộc khởi nghĩa. Tuy thất bại, nhƣng cuộc khởi nghĩa Yên Bái có tác động mạnh mẽ đến Lào Cai.
141
Trong giai đoạn 1929 - 1939, ở huyện Mƣờng Khƣơng có 18 cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc thiểu số phản kháng không đóng thuế, không di lính cho Pháp. Năm 1938, đồng bào ngƣời Dao ở Bảo Yên tham gia phong trào “Minh nhân” tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp, kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí chuẩn bị đấu tranh.
Có thể nói, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm Lào Cai, nhân dân các dân tộc đã kiên cƣờng chống đế quốc xâm lƣợc và bè lũ tay sai. Do chƣa có tổ chức tiên phong lãnh đạo nên các phong trào yêu nƣớc cuối cùng đều bị thất bại, song ngọn lửa yêu nƣớc của đồng bào các dân tộc Lào Cai vẫn âm ỉ cháy chờ bão táp cách mang để bùng lên, vùng lên đấu tranh giải phóng quê hƣơng.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam dƣợc thành lập, đánh dấu bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử nƣớc ta, chấm dứt thời kỳ khủng, hoảng về đƣờng lối giải phóng dân tộc kể từ khi thực dân Pháp xâm lƣợc. Sau khi ra đời, với Cƣơng lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nƣớc ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn.
Là một tỉnh miền núi, biên giới, gồm nhiều dân tộc thiểu số, lại bị giai cấp địa chủ, thể ty kìm hãm, khống chế mọi mặt, nên ảnh hƣởng của cách mạng, của Đảng đến với đồng bào các dân tộc ở Lào Cai rất khó khăn. Tuy nhiên, sau năm 1930 các cao trào cách mạng ở trong nƣớc phát triển mạnh đã có tác động trực tiếp đến các phong trào của địa phƣơng. Tuy bị tra tấn cực hình và khủng bố gắt gao nhƣng các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù chính trị Sa Pa đã kiên cƣờng đấu tranh với chế độ nhà tù, nêu cao tinh thần yêu nƣớc, tìm mọi cách tuyên truyền đƣờng lối cách mạng ra bên ngoài. Tại đây, lá cờ đỏ có dòng chữ “Thành công Việt Nam” đã xuất hiện.
Nhờ đƣợc tiếp xúc với những tài liệu sách báo của Đảng, năm 1936, nhân dân ở thị xã Lào Cai, thị trấn Sa Pa, Phố Lu bƣớc đầu đƣợc tiếp xúc với đƣờng lối cách mạng của Đảng.
Trong những năm 1936 - 1939, những đảng viên Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng, đang sinh sống và hoạt động tại Côn Minh (Trung Quốc) đã thành lập chi
bộ Đảng ở Vân Nam và Quế Lâm (hai tỉnh phía nam của Trung Quốc, giáp với Lào
Cai) gọi là chi bộ Vân - Quý. Nhiệm vụ của chi bộ là vận động và tổ chức Việt kiều
ủng hộ phong trào cách mạng trong nƣớc, không tin theo những luận điệu phản
động của kẻ thù. Khi phát xít Nhật đánh chiến Trung Quốc, chi bộ Vân - Quý đã
tranh thủ chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc ở Côn Minh công khai thành lập
142
“Việt Nam nhân dân kháng Nhật hậu Việt hội”, đồng thời xây dựng đƣợc nhiều cơ
sở cách mạng trong cộng đồng Việt kiều từ Côn Minh đến Hà Khẩu. Đồng chí Bùi
Đức Minh (Giáo Hách) phụ trách giao thông của Xứ uỷ Bắc Kỳ đã gây dựng đƣợc
một số “nhân mối” cách mạng ở thị xã Lào Cai và thị trấn Hà Khẩu (Trung Quốc).
Đây là những sự kiện đầu tiên có tác động tích cực tới phong trào cách mạng Lào
Cai. Qua đó, ảnh hƣởng của Đảng đối với quần chúng nhân dân các dân tộc ngày
càng sâu rộng hơn.
Một số địa phƣơng của Lào Cai nằm trên trục đƣờng giao thông, nên có điều
kiện đƣợc tiếp xúc với sách báo bí mật của tổ chức Việt Minh. Những sách báo ấy
đã ảnh hƣởng tới những ngƣời có tinh thần yêu nƣớc ở thị xã Lào Cai, thị trấn Sa
Pa, vùng thấp huyện Bảo Thắng, Cam Đƣờng và một số công sở ở tỉnh lỵ. Từ sau
ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), khí thế cách mạng sôi sục của cả nƣớc đã tác
động đến Lào Cai nên mặc dù lúc này chƣa có cán bộ của Đảng, nhƣng một số quần
chúng có tƣ tƣởng tiến bộ đã đứng ra tổ chức các nhóm yêu nƣớc theo xu hƣớng
Việt Minh nhƣ: nhóm của hãng ô tô vận tải STAI do Nguyễn Chiến (Ba Bạch và
Tài Thiết sáng lập; nhóm ở Sở Dây thép (Bƣu điện) và Sở Thú y gồm các anh Trần
Ba Đa, Đỗ Xuân Vọng, Mẫu Hải; Sở Thuỷ lâm có nhóm các anh Quý Tân, Hiếu,
Minh, Long, Lƣu; thị trấn Sa Pa có nhóm của anh Giáo Hồng. Đặc biệt, trong Trại
Bảo an binh cũng có những binh sĩ có tinh thần yêu nƣớc tiến bộ nhƣ đội Dĩ, đội
Duy...[85, tr.93-94]. Các nhóm yêu nƣớc trên có một số sách báo, tài liệu bí mật của
Việt Minh để tuyên truyền cách mạng ở Cam Đƣờng, Phố Lu (Bảo Thắng) và nhiều
nơi khác. Đây là sự chuẩn bị đầu tiên rất cần thiết để tạo tiền đề cho sự ra đời của tổ
chức Việt Minh ở Lào Cai.
Sự phát triển của phong trào cách mạng trên dọc tuyến đƣờng sắt Hà Nội -
Yên Bái cũng có tác động tích cực đến Lào Cai. Nhân dân ở các địa phƣơng nhƣ
Phố Lu (Bảo Thắng), phố Mới (thị xã Lào Cai), Sa Pa... đã bí mật tụ họp tuyên
truyền cho nhau những tin tức cách mạng từ dƣới xuôi, đọc cho nhau nghe những
tài liệu của Mặt trận Việt Minh về chủ trƣơng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhờ đƣợc tiếp xúc với những tài liệu của Đảng và của Việt Minh, khí thế
cách mạng trong nhân dân, nhất là ở khu vực tỉnh lỵ và thị trấn các huyện không
ngừng đƣợc nâng cao, đòi hỏi phải có một tổ chức Việt Minh và những cán bộ của
Đảng làm nòng cốt lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó, cuối tháng 4 năm 1945, Ban Cán
sự khu D cử đồng chí Mai Văn Ty - Bí thƣ chi bộ thị xã Yên Bái và là công nhân xe
143
lửa Yên Bái lên gây dựng cơ sở cách mạng, đồng chí đã tuyên truyền giác ngộ đƣợc
nhiều công nhân ở ga Phố Mới và thành lập tổ Việt Minh đầu tiên ở Lào Cai.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tình hình chính trị - xã hội ở Lào Cai
diễn biến hết sức phức tạp. Theo hiệp ƣớc đồng minh, quân đội Tƣởng Giới Thạch
vào miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Trong khi chƣa giành đƣợc
chính quyền cách mạng cấp tỉnh thì nhân dân Lào Cai lại phải đối phó ngay với
quân đội Tƣởng Giới Thạch và bè lũ Việt Nam Quốc dân đảng phản động. Thực
hiện chủ trƣơng “hoà để tiến” của Trung ƣơng Đảng, tháng 10/1945, Xứ uỷ Bắc Kỳ
và Kỳ bộ Việt Minh cử đoàn cán bộ lên Lào Cai với nhiệm vụ xúc tiến việc xây
dựng chính quyền và thành lập các tổ chức đoàn thể quần chúng cứu quốc.
Ngày 24/10/1945, Uỷ ban Hành chính tỉnh Lào Cai đƣợc thành lập. Tiếp sau
đó, các Uỷ ban nhân dân lâm thời của thị xã Lào Cai, huyện Sa Pa, huyện Bảo
Thắng cũng lần lƣợt ra đời.
Nhƣ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi đoàn cán bộ Trung ƣơng lên
xây dựng phong trào, ở Lào Cai, chính quyền tỉnh và một số huyện đã đƣợc thành
lập. Việc ra đời chính quyền nhân dân ở Lào Cai không những là thành quả phát
triển cách mạng ở địa phƣơng mà còn thể hiện lòng nhiệt tình cách mạng của đồng
bào các dân tộc Lào Cai luôn hƣớng theo Đảng, theo Mặt trận Việt Minh.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 diễn ra và thắng lợi hầu hết trong cả nƣớc,
nhƣng Lào Cai không giành đƣợc chính quyền. Tình hình ở Lào Cai diễn biến hết
sức phức tạp. Đến cuối tháng 11/1945, phần lớn tỉnh Lào Cai do Việt Nam Quốc
dân đảng kiểm soát. Tuy nhiên, trong thời gian dƣới ách kìm kẹp của quân Tƣởng
và bè lũ phản động, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nhất là các vùng có cán bộ hoạt
động vẫn giữ đƣợc lòng tin với Đảng, với cách mạng.
Tháng 6/1946, các đơn vị vũ trang của ta đƣợc lệnh tiến đánh bọn phản động
ở các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.
Ngày 13/8/1946, quân và dân thị xã Yên Bái đập tan quân Quốc dân đảng,
giải phóng hoàn toàn thị xã Yên Bái. Sau đó, một đại đội của Trung đoàn Yên Bái
(E115) đã tiến lên Lào Cai xây dựng cơ sở. Theo Quyết định của Xứ uỷ Bắc Kỳ,
đầu tháng 9/1946, Ban Cán sự Đảng tỉnh Lào Cai đƣợc thành lập do đồng chí Ngô
Minh Loan làm Trƣởng ban, các đồng chí Đào Đình Bảng, Lê Thanh làm uỷ viên.
Sự kiện Ban Cán sự Đảng tỉnh Lào Cai đƣợc thành lập đã đánh dấu bƣớc ngoặt
quan trọng trong lịch sử cách mạng của nhân dân Lào Cai. Từ đây Lào Cai đã có tổ
144
chức Đảng lãnh đạo, là động lực to lớn thúc đẩy quần chúng đứng lên đấu tranh giải
phóng quê hƣơng.
Ngày 4/10/1946, Ban Cán sự Đảng đã tổ chức cuộc họp với chỉ huy các đơn
vị bộ đội chủ lực để bàn kế hoạch chi tiết về chiến dịch giải phóng Lào Cai.
Ngày 26/10/1946, các cánh quân chủ lực của ta bắt đầu tiến công bọn Quốc dân đảng ở Phố Lu (Bảo Thắng). Ngày 28/10/1946, thị trấn Phố Lu đƣợc giải phóng. Nhân dân các địa phƣơng trong huyện Bảo Thắng đã tổ chức phục kích, tiêu diệt những toán quân Quốc dân đảng trên đƣờng bỏ chạy.
Sau khi đánh thắng địch ở huyện Bảo Thắng, ta quyết định tiến quân lên giải phóng thị xã Lào Cai và vùng ven. Ngày 12/11/1946, sau khi giải phóng Cam Đƣờng, quân ta chia làm ba mũi đánh vào thị xã Lào Cai. Mũi thứ nhất tiến đánh hƣớng Vạn Hoà - Phố Mới; mũi thứ hai từ Cam Đƣờng đánh lên; mũi thứ ba từ Bản Lầu (Mƣờng Khƣơng) đánh vào thị xã Lào Cai. Lúc này lực lƣợng thổ ty cũng tích cực tham gia cùng ta tấn công địch. Trƣớc sức mạnh của ta, bọn Quốc dân đảng hoảng loạn rút chạy sang Trung Quốc qua cầu Hồ Kiều và theo đƣờng biên giới thuộc huyện Bái Xát. Dọc đƣờng rút chạy, chúng đã bị quân ta truy kích gây thiệt hại nặng nề. Ngày 12/11/1946 là ngày đi vào lịch sử tỉnh Lào Cai nhƣ một mốc son quan trọng, ngày giải phóng Lào Cai lần thứ nhất. Từ đây, trên mảnh đất quê hƣơng Lào Cai không còn bóng quân Quốc dân đảng phản động. Cuối tháng 11/1946, chính quyền cách mạng tỉnh Lào Cai đƣợc tái lập theo chế độ quân quản. Ngay sau khi ra đời, Uỷ ban quân quản đã đứng ra giải quyết những vấn đề lớn, cấp bách về chính trị, kinh tế, xã hội của địa phƣơng.
145
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
Ngay khi đặt chân đến Lào Cai, thực dân Pháp từng bƣớc thiết lập bộ máy cai trị nơi đây. Khi đã cơ bản bình định Lào Cai, chính quyền thực dân cho phép giới tƣ bản Pháp nghiên cứu, tìm kiếm và khai thác mỏ trên vùng đất này. Từ tình hình thực tế về khai mỏ ở Lào Cai (1896 – 1945), tác giả luận án rút ra đặc điểm trong khai mỏ ở Lào Cai. Ngoài ra, hoạt động khai thác mỏ của tƣ bản Pháp đã có những tác động cụ thể đến đời sống kinh tế - xã hội Lào Cai.
Về đặc điểm, qua việc khai mỏ của tƣ bản Pháp, tác giả rút ra 4 đặc điểm
riêng trong khai mỏ ở Lào Cai.
Thứ nhất, Số lƣợng, quy mô, trữ lƣợng mỏ ở Lào Cai rất khiêm tốn so với
các tỉnh khác ở Bắc Kỳ, đặc biệt là Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Yên, Thái Nguyên.
Thứ hai, Lào Cai sở hữu một số loại mỏ mang tính đặc hữu, quan trọng, quý
hiếm mà các tỉnh khác không có: Than chì và apatite.
Thứ ba, việc khai thác mỏ ở Lào Cai đƣợc ngƣời Pháp tiến hành tƣơng đối muộn, thậm chí là rất muộn so với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Thứ tƣ, việc đầu tƣ thăm dò, khai thác mỏ ở Lào Cai hoàn toàn do tƣ bản Pháp, từ năm 1940 do Nhật – Pháp tiến hành, không hề có sự hiện diện của tƣ sản Hoa kiều và tƣ sản ngƣời Việt tham gia vào khai mỏ ở Lào Cai.
Về tác động, công cuộc khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai đã có tác
động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội Lào Cai.
- Tác động về kinh tế: kinh tế ở Lào Cai có sự thay đổi, hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập, manh nha xuất hiện nền công nghiệp (khai khoáng, vận tải, du lịch…). Tuy nhiên, những hoạt động này thực chất chỉ đem lại lợi nhuận cho chính quyền thực dân, còn lại đại đa số nhân dân lao động ở Lào Cai bị bóc lột tàn bạo.
- Tác động về xã hội: Việc tuyển mộ công nhân ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đƣa lên các hầm mỏ ở Lào Cai đã góp phần làm tăng dân số trong tỉnh Lào Cai. Ngoài ra, còn góp phần dẫn đến sự biến đổi cơ cấu xã hội (sự phân hóa trong giai cấp truyền thống (giai cấp địa chủ, thổ ty phong kiến; giai cấp nông dân); xuất hiện những giai cấp mới (giai cấp công nhân, tiểu tƣ sản, tƣ sản)).
Đời sống các tầng lớp nhân dân dƣới ách thống trị Pháp - Nhật vô cùng cơ cực, vì thế phong trào yêu nƣớc của nhân dân Lào Cai diễn ra liên tục. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã anh dũng đấu tranh giành chính quyền vào năm 1946.
146
KẾT LUẬN
Lào Cai là tỉnh miền núi phía Bắc, đất không rộng, dân cƣ thƣa thớt, nhƣng có nguồn tài nguyên khoáng sản, hoàn toàn phù hợp với tham vọng vơ vét bóc lột nguồn tài nguyên của thực dân Pháp. Do đó, trong cuộc khai thác thuộc địa, Lào Cai cũng là nơi thu hút tƣ bản Pháp đến tìm kiếm, khai thác mỏ. Qua quá trình nghiên cứu về công nghiệp khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai từ cuối thế kỷ từ năm 1896 đến năm 1945, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
1. Thực dân Pháp chính thức bắt đầu tìm kiếm thăm dò mỏ ở Lào Cai vào năm 1896. Thời điểm mở đầu này muộn hơn nhiều so với các hầm mỏ ở Quảng Ninh (1888), Cao Bằng (1889) và một số nhà máy nhƣ dệt Nam Định (1890), xi măng Hải Phòng (1899).
2. Hoạt động khai thác của thực dân Pháp ở Lào Cai tập trung vào 2 loại khoáng sản chính: than chì và apatite. Từ năm 1896 đến năm 1945 thực dân Pháp đã lấy đi khỏi lòng đất Lào Cai khoảng 1.756 tấn than chì và khoảng 196.770 tấn quặng apatile. Qua các thống kê về sản lƣợng, cho thấy hoạt động khai thác mỏ của tƣ bản Pháp ở Lào Cai không không nhiều. Nguyên nhân là do các mỏ hầu hết nằm sâu trong núi, khó khai thác, xa đƣờng giao thông không thuận tiện cho việc vận chuyển nên tƣ bản Pháp ít chú ý khai thác. Việc khai thác mỏ than chì, apatile chỉ đƣợc diễn ra khi Pháp, Nhật và nhu cầu thị trƣờng thế giới cần nguyên liệu này.
3. Phƣơng pháp quản lý việc khai thác diễn ra đúng với phƣơng pháp kinh doanh trong công nghiệp của thực dân Pháp. Chủ mỏ xin thăm dò mỏ tƣơng đối tự do bao gồm cả ngƣời Pháp và ngƣời Việt, nhƣng quyền khai thác lại thuộc về tƣ bản Pháp. Các công ty tƣ bản (Công ty Đông Dƣơng Than chì (Société indochinoise des Graphites), Công ty khai thác phosphates Đông Dƣơng (Société d’Exploitation des phosphates de l’Indochine)) lần lƣợt đến đầu tƣ cơ sở vật chất, khai thác, bán sản phẩm lấy lãi ngay. Phƣơng pháp khai thác chủ yếu là thủ công. Tƣ bản Pháp đã bƣớc đầu trang bị máy móc chuyến dùng, tuy lạc hậu so với trình độ kĩ thuật thế giới ở thời điểm đó. Than chì khai thác đƣợc đƣa vào Nhà máy xử lý quặng than chì bên bờ sông Nậm Thi, sau đó than chì đƣợc vận chuyển bằng đƣờng sắt về cảng Hài Phòng, từ Hải Phòng than chì đƣợc đƣa về nƣớc Pháp hoặc đƣợc xuất khẩu qua một số thị trƣờng châu Âu và Mỹ. Đối với apatile, sau khi đƣợc khai thác thì chuyển về Nhật là chủ yếu.
4. Sự ra đời của công nghiệp khai thác mỏ về chủ quan đã đem lại cho các nhà tƣ bản món lợi kếch sù, nhƣng về khách quan đã có những tác động lớn tới đời sống
147
kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai. Phƣơng thức sản xuất từ bản chủ nghĩa từng bƣớc du nhập vào đã phá vỡ nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự túc của đồng bào các dân tộc và bƣớc đầu làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp. Đồng thời với quá trình đó là sự phân tầng xã hội tuy ở trình độ thấp, biểu hiện ở sự hình thành một số lực lƣợng mới trong xã hội nhƣ: tƣ sản bao gồm tƣ sản nƣớc ngoài (chủ mỏ, chủ đồn điền ngƣời Pháp), tƣ sản dân tộc (chủ mỏ, chủ đồn điền, chủ thầu khoán vận tải); tiểu tƣ sản (Công chức làm việc trong các mỏ, những ngƣời buôn bán nhỏ, dịch vụ) và đội ngũ công nhân mỏ, trong số đó không ít ngƣời sau này là những ngƣời công nhân công nghiệp thực thụ phục vụ cho chế độ ta (Việt Nam dân chủ cộng hòa).
5. Mặc dù cuộc khai thác chỉ diễn ra ở một tỉnh nhỏ không phải trung tâm trọng điểm, nhƣng thể hiện rất rõ tính chất độc quyền của tự bản Pháp, hay nói cách khác là sự cụ thể hoá đƣờng lối chung của chủ nghĩa thực dân. Tƣ bản Pháp chỉ tổ chức khai thác và bán sản phẩm lấy lãi ngay không nhằm phát triển công nghiệp địa phƣơng nên sau gần 60 năm bị thực dân Pháp thống trị nền kinh tế tỉnh Lào Cai vẫn luẩn quẩn trong vòng lạc hậu và phát triển phiến diện, què quặt. Đời sống của đồng bào các dân tộc Lào Cai ít có chuyển biến lớn so với thời kỳ phong kiến. Thậm chí, họ còn bị thực dân Pháp chiếm đoạt đất đai làm hầm mỏ, đồn điền, đƣờng giao thông. Do bị trói buộc làm nhân công, làm thuê cho chủ tƣ bản Pháp với đồng lƣơng rẻ mạt và bị đối xử vô nhân đạo nên mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc Lào Cai nói chung và giai cấp công nhân mỏ nói riêng với thực dân Pháp ngày càng sâu sắc. Đó chính là động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân mỏ và nhân dân lao động tỉnh Lào Cai trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiện nay, Lào Cai đƣợc đánh giá là giàu có về tài nguyên khoáng sản. Nguồn tài nguyên này đóng vai trò quan trọng trong nền công nghiệp của tỉnh, đồng thời là nguồn lực quan trọng để Lào Cai phát triển thành một trung tâm công nghiệp lớn của vùng miền núi phía Tây Bắc Việt Nam. Để ngành công nghiệp khai thác mỏ Lào Cai phát triển một cách bền vững, cần phải có sự nghiên cứu nghiêm túc của các nhà khoa học và sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phƣơng. Dƣới góc độ một đề tài nghiên cứu về lịch sử kinh tế ngành công nghiệp khai thác mỏ của tỉnh Lào Cai thời kỳ cận đại, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra một số ý kiến có tính chất gợi mở cho sự phát triển bền vững ngành Công nghiệp khai khoáng tỉnh Lào Cai trong thời kì công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay.
- Một là, về cách thức tổ chức thăm dò và khai thác mỏ, lãnh đạo các mỏ và chính quyền địa phƣơng nên phối hợp chặt chẽ với nhau thực hiện thăm dò, khai
148
thác mỏ theo đúng các văn bản pháp quy của nhà nƣớc. Hiện nay, một số vùng mỏ Lào Cai đang tồn tại tình trạng tƣ nhân khai thác mỏ tự do, trái phép. Để giải quyết tình trạng này, một trong những biện pháp quan trọng là tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về vai trò của khoáng sản đối với sự phát triển kinh tế, xã hội địa phƣơng trong hiện tại và tƣơng lai; về tác hại của việc khai thác tự do, trái phép đối với sự thất thoát khoáng sản và môi trƣờng sinh thái đồng thời làm cho ngƣời dân ý thức rõ về trách nhiệm bản thân trong việc thực hiện Luật Khoáng sản - pháp lệnh của Nhà nƣớc về bảo vệ và giữ gìn tài nguyên quốc gia.
- Hai là, về phƣơng pháp khai thác, ngoài những quy trình khai thác hầm lò có đầu tƣ vốn lớn về công nghệ khai thác nên có sự kết hợp với phƣơng pháp khai thác vừa và nhỏ ở những nơi khoáng sản lộ thiên hoặc nguồn quặng phân tán để đảm bảo tận thu nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp địa phƣơng.
- Ba là, việc khai thác khoáng sản bừa bãi không có kế hoạch của tƣ bản Pháp đã làm cho nguồn tài nguyên khoáng sản của tỉnh bị phá huỷ nghiêm trọng và làm ô nhiễm môi trƣờng. Do đó, nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho lãnh đạo địa phƣơng, lãnh đạo các mỏ hiện nay là cần phải sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, đặc biệt đối với những khoáng sản quý hiếm và tiềm năng không lớn. Trƣớc hết, các cấp lãnh đạo mỏ cần tập trung đào tạo đội ngũ công nhân, thợ mỏ có trình độ kỹ thuật, đồng thời đầu tƣ nghiên cứu và thực hiện đổi mới công nghệ khai thác, thu gom, sàng tuyển, chế biến và xử lý chất thải để tận dụng tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trƣờng, áp dụng các công nghệ tiên tiến để sử dụng các loại quặng có hàm lƣợng thấp.
- Bốn là, về phƣơng pháp quản lý và sử dụng nhân công, bên cạnh việc nâng cao trình độ công tác quản lý các cấp lãnh đạo mỏ, cần quan tâm đến đời sống của công nhân lao động. Ngoài tiền lƣơng, phụ cấp nghề nghiệp, các cấp lãnh đạo mỏ và chính quyền địa phƣơng nên dành một phần ngân sách thu đƣợc từ khai thác mỏ đầu tƣ trở lại phát triển kinh tế, xã hội ở các địa phƣơng có hoạt động khai thác mỏ để công nhân và ngƣời lao động đƣợc hƣởng đầy đủ các phúc lợi xã hội. Đây là biện pháp duy nhất để tái tạo sức lao động và có một nguồn nhân lực ổn định.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ LUẬN ÁN
[1]. Nguyễn Đại Đồng (2014), “Bước đầu khảo sát nguồn tư liệu về hoạt động
khai thác mỏ của Nhà Nguyễn ở Lào Cai (1802 - 1858)”, Kỷ yếu Hội nghị
nghiên cứu khoa học năm học 2013 – 2014, Nxb Đại học Thái Nguyên,
tr.157-170.
[2]. Nguyễn Đại Đồng (2017), “Hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai dưới thời Gia Long và Minh Mạng”, Tập 167, số 09, Tạp chí Khoa học& Công nghệ, tr.3-8.
[3]. Nguyễn Đại Đồng (2017), “Hoạt động thăm dò mỏ của tư bản Pháp đầu thế
kỷ XX”, Hội thảo Khoa học Quốc tế - ISBN/Đại học Quốc gia HN, Nxb Đại
học Quốc Gia Hà Nội, tr.633-643.
[4]. Nguyễn Đại Đồng (2020), “Hoạt động thăm dò mỏ kim loại của tư bản Pháp
ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tập 225, số 7, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tr.107-113.
[5]. Nguyễn Đại Đồng (2020), “Tư bản Pháp khai thác than chì (graphites) ở
Lào Cai (1924 – 1928)”, Tập 225, số 7, Tạp chí Khoa học và Công nghệ -
Đại học Thái Nguyên, tr.605-609.
[6]. Nguyễn Đại Đồng (2020), “Hoạt động thăm dò mỏ than và khoáng sản
không kim loại (khoáng sản phi kim) của tư bản Pháp ở Lào Cai (1898 –
1945), Tập 225, số 10, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tr.11-15.
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Thế Anh (1974), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Sài Gòn, SG.
2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế.
3. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn (1990), Lịch sử Đảng bộ Hoàng
Liên Sơn 1930-1954, tập 1, Sở Văn hoá và Thông tin Hoàng Liên Sơn.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1994), Lịch sử Đảng bộ Lào Cai 1930
– 1945”, Tập 1, Nxb chính trị quốc gia, HN.
5.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1947 - 2007), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Lào Cai (2004), Lịch sử Đảng bộ thị xã Lào
Cai (1930 - 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
7. Ban Chấp Hành Đảng bộ huyện Bắc Hà (2008), Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc
Hà, tập I (1930 - 1954), Bắc Hà.
8. Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai (2001), Địa chí Lào Cai ( hái lược).
9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2008), ỷ yếu những sự kiện chính
trị, mốc son lịch sử tỉnh Lào Cai năm 2007, Lào Cai.
10. Ban nghiên cứu lịch sử Công đoàn Việt Nam (1977), Sơ thảo lần thứ nhất
lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam (1860 - 1945), Nxb
Lao động.
11. Đặng Xuân Bàn (1997), Sử học bi khảo, Nxb Văn hóa Thông tin, H.
12. Phan Trọng Báu (1994), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục, HN.
13. Đỗ Bang (1998), hảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước Triều
Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.
14. Bảo tồn Bảo tàng (1972), Truyền thống Lào Cai, Ty Văn hóa thông tin Lào Cai.
15. Báo Lào Cai (2007), Lào Cai 100 tuổi: Đặc san Báo Lào Cai kỷ niệm 100
năm thành lập tỉnh 12/7 (1907 - 2007), Lào Cai.
151
16. Phan Gia Bền, Nguyễn Khắc Đạm (1956), “Tài liệu tham khảo về lịch sử
đƣờng sắt Hải Phòng - Côn Minh”, Tạp chí Văn - Sử - Địa số 20.
17. Cao Văn Biền (1974), “Tiền lƣơng của công nhân thời kỳ 1936 -1939”, Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử, số 156.
18. Cao Văn Biền (1995), “Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 6.
19. Cao Văn Biền (1998), Công nghiệp than Việt Nam thời kỳ 1888 – 1945”,
Nxb Khoa học xã hội, HN.
20. Phạm Công Bình (1959), Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc, Nxb Văn – Sử - Địa, HN.
21. Chuyên khảo Lào Cai, kí hiệu M12246, Thƣ viện Quốc gia.
22. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb Giáo dục, HN.
23. Công ty Apatít Việt Nam (2000), Mỏ Apatít Lào Cai 45 năm xây dựng và
trưởng thành (1955 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
24. Nguyễn Ngọc Cơ - Hà Thị Thu Thủy (2004), “Hoạt động khai thác than của
thực dân Pháp ở Thái Nguyên”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
25. Hồ Tuấn Dung (2001), “Tìm hiểu hệ thống thuế thực dân Pháp áp dụng ở
Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.
26. Hồ Tuấn Dung (2003), Chính sách thuế của thực dân Pháp ở Bắc kì từ năm
1897 – 1945, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Phạm Cao Dƣơng (1965), Thực trạng của giới nông dân Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, Nxb Sài Gòn.
28. Nguyễn Khắc Đạm (1958), Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt
Nam, Nxb Văn - Sử - Địa, HN.
29. Trần Văn Giàu (chủ biên) (1961), Lịch sử Việt Nam cận đại, tập II, Nxb
Giáo dục, HN.
30. Trần Văn Giàu (chủ biên) (1961), Lịch sử Việt Nam cận đại, tập III, Nxb
Giáo dục, HN.
31. Trần Văn Giàu (chủ biên) (1963), Lịch sử Việt Nam cận đại, tập IV, Nxb
Giáo dục, HN.
152
32. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 2, Nxb Sử học, Hà Nội.
33. Trần Văn Giàu (2003), Giai cấp công nhân Việt Nam - sự hình thành và sự
phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình ”, Nxb Khoa
học xã hội, HN.
34. Ngô Văn Hòa (1977), “Những thể lệ lao động chính đƣợc thực dân Pháp ban
hành ở Việt Nam trƣớc cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
35. Ngô Văn Hoà, Dƣơng Kinh Quốc (1978), Giai cấp công nhân Việt Nam
những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, HN.
36. Ngô Văn Hòa - Phạm Quang Trung (2002), “Hệ thống tiền tệ nƣớc ta thời
Cận đại”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.
37. Hội đồng biên soạn (2008), Địa lý tỉnh Lào Cai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Vũ Minh Hƣơng, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (dịch) (1999), Địa
danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Nxb Thế giới, HN.
39. Lê Thị Hƣơng (2012), Luận án “Công nghiệp khai thác mỏ kim loại của thực
dân Pháp ở Cao Bằng (1888-1945)”. Lƣu tại Thƣ viện trƣờng Đại học sƣ
phạm I Hà Nội.
40. https://luutru.gov.vn/tinh-lao-cai-nam-1907-478-vtlt.htm
41. Nguyễn Văn Khánh (1995), “Quá trình chuyển biến cơ cấu xã hội Việt Nam
từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 4.
42. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Trọng Khang (Chủ biên) (1994), Sa Pa, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
44. Phan Khoang (1971), Việt Nam Pháp thuộc sử (1862 - 1945), Sài Gòn.
45. Đinh Xuân Lâm (2005), Đại cương lịch sử Việt Nam” (tập 2), Nxb Giáo dục, HN.
46. Phan Huy Lê (1963), “Tình hình khai mỏ dƣới triều Nguyễn”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 51.
47. Phan Huy Lê (1963), “Tình hình khai mỏ dƣới triều Nguyễn”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 52.
153
48. Phan Huy Lê (1963), “Tình hình khai mỏ dƣới triều Nguyễn”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 53.
49. Phan Huy Lê (1964), “Thêm vài ý kiến về tình hình khai mỏ dƣới triều
Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 64.
50. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
51. Nguyễn Đình Lễ - Nguyễn Anh Thái (1985), “Sự bành trƣớng và xâm lƣợc của chủ nghĩa quân phiệt Nhật ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3.
52. Liên Đoàn lao động Lào Cai (1999), Lịch sử phong trào công nhân, viên
chức và công đoàn tỉnh Lào Cai, Lào Cai.
53. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, 1924-
1930, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
54. Ngô Vi Liễn, Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thƣ (1930), Địa dư các tỉnh Bắc
ỳ, In tại nhà in Lê Văn Tân, 136, phố Hàng Bông – Hà Nội.
55. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hoá-
Thông tin, HN.
56. Trần Huy Liệu (1956), Lịch sử 80 năm chống Pháp, Nxb Văn sử địa, Hà Nội.
57. Trần Huy Liệu (Chủ biên) (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận
đại Việt Nam, tập VII, Nxb Văn Sử Địa, HN.
58. Trần Huy Liệu (Chủ biên) (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận
đại Việt Nam, tập VIII, Nxb Văn Sử Địa, HN.
59. Louis Roubaud (1931), Việt Nam bi thảm Đông Dương (Vietnam tragédie Indochinoise), (bản dịch của Đƣờng Bá Bổn), Nxb Đại Nam văn hiến xuất bản năm 1963.
60. Đỗ Xuân Mai (2014), Đời sống văn hóa & di sản múa các dân tộc Lào Cai,
Nxb Hội nhà văn, Lào Cai.
61. Nội Các Triều Nguyễn (1993), hâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, Tập 4,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
62. Nội các triều Nguyễn (2005), hâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Tục biên),
Tập III, Nxb Thuận Hóa.
154
63. Đỗ Văn Ninh (Chủ biên), (2001), Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ
X, Nxb Khoa học xã hội, H.
64. Mai Thị Thanh Nga (2015), “Công nghiệp khai thác vàng của Pháp ở Việt Nam thời thuộc địa: Nghiên cứu trƣờng hợp mỏ vàng Bồng Miêu (Quảng Nam)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
65. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2011), “Khai thác mỏ đồng thời triều Nguyễn”.
Tra cứu 20/03/2019, link http://www.vusta.vn.
66. Paul Doumer (1905), Hồi ký “Xứ Đông Dương thuộc Pháp” (L’Indochine francaise (souvenirs)), (bản dịch của Lƣu Đình Tuấn - Hiệu Constant – Lê Đình Chi – Hoàng Long – Vũ Thúy), Nxb Thế giới tái bản năm 2017.
67. Bùi Danh Phong (1985), “Tài nguyên khoáng sản và lịch sử khai thác, sử
dụng chúng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3.
68. Vũ Huy Phúc (chủ biên) (2003), Lịch sử Việt Nam 1858 – 1896, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
69. Phùng Hữu Phú (chủ biên) (2006), Lịch sử đường sắt Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, HN.
70. Phùng Phu (2010), “Triều Nguyễn và vấn đề khai khoáng”, Tạp chí Xưa và nay.
71. Nguyễn Ái Quốc (1962), “Đây là công lý” của thực dân Pháp ở Đông
Dương, Nxb Sự thật, HN.
72. Dƣơng Kinh Quốc (1974), “Ngân sách của chính quyền thực dân Pháp (từ đầu thời kỳ thuộc địa đến chiến tranh thế giới thứ nhất) ”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 159.
73. Dƣơng Kinh Quốc (1988), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách
mạng Tháng Tám 1945, Nxb Khoa học xã hội, HN.
74. Dƣơng Trung Quốc (2002), Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1919 - 1945),
Nxb Giáo dục, HN.
75. Dƣơng Kinh Quốc (2006), Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1858 1918),
Nxb Giáo dục, HN.
76. Quốc sử Quán triều Nguyễn (2005), Đại Nam Hội Điển sự lệ tục biên, tập 3,
Nxb Giáo dục.
155
77. Quốc sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục.
78. Quốc sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục.
79. Quốc sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb Giáo dục.
80. Quốc sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Nxb
Thuận Hóa.
81. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VIII, NXB Giáo
dục, HN.
82. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), hâm định Việt sử thông giám cương
mục, tập 2, Nxb Giáo dục, HN.
83. Thi Sảnh (1974), Lịch sử phong trào công nhân mỏ Quảng Ninh, tập 1, Ty
Văn hóa - thông tin Quảng Ninh.
84. Trần Hữu Sơn (2006), “Hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội –
Hải Phòng trong lịch sử và những bài học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (68).
85. Trần Hữu Sơn, Nguyễn Nghĩa Vụ, Nguyễn Văn Vân (2008), Giáo trình lịch
sử tỉnh Lào Cai, Nxb Chính trị Quốc Gia, HN.
86. Lê Tùng Sơn, Hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương ở Vân Nam và
Trung Quốc từ năm 1935 đến cách mạng tháng Tám năm 1945, Tƣ liệu Viện
Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
87. Sở công nghiệp tỉnh Lào Cai (2004), Lịch sử công nghiệp Lào Cai 1959 -
2004, Lào Cai.
88. Phạm Đình Tân (1959), Chủ nghĩa đế quốc Pháp và tình hình công nghiệp ở
Việt Nam dưới thời thuộc Pháp, Nxb Sự thật Hà Nội.
89. Chƣơng Thâu (Chủ biên) (1999), Lịch sử Việt Nam (1897 - 1918), Nxb Khoa
học xã hội, HN.
90. Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chung (1999), Văn hóa Sơn Vi,
Nxb Khoa học xã hội, H.
91. Thành ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy bản nhân dân thành phố Lào Cai (2005),
Thành phố Lào Cai truyền thống và phát triển, Lào Cai.
156
92. Trần Xuân Thanh (2015), “Hoạt động khai mỏ của ngƣời Hoa ở vùng thƣợng
du miền Bắc Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3.
93. Tống Duy Thanh, Mai Trọng Nhuận, Trần Nghi (2016), Bách khoa thư địa
chất, Nxb Đại học Quốc gia HN.
94. Vũ Văn Tỉnh (1970), “Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Bắc Kỳ
trong thời Pháp thuộc”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 133.
95. Vũ Văn Tỉnh (1970), “Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Bắc Kỳ
trong thời Pháp thuộc”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 134.
96. Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên) (2004), Lịch sử Việt Nam tập II (1858 –
1945), Nxb Khoa học xã hội.
97. Tổng Liên Đoàn lao động Việt Nam (2003), Lịch sử phong trào công nhân và
công đoàn Việt Nam, tập I (cuối thế kỷ XIX - 1954), Nxb Lao Động Hà Nội.
98. Tạ Thị Thúy (2007), Lịch sử Việt Nam tập III (1919 – 1930), Nxb Khoa học
xã hội, HN.
99. Tạ Thị Thúy (2007), “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc địa lần thứ hai của ngƣời Pháp (1919 – 1930)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
100. Tạ Thị Thúy (2014), “Đƣờng lối kinh tế và mục đích của việc chiếm đoạt, khai thác mỏ của thực dân Pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8.
101. Tạ Thị Thúy (2015), “Thực dân Pháp chiếm đoạt quyền quản lý đối với khối công sản mỏ ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
102. Tạ Thị Thúy (2015), “Về cơ quan quản lý mỏ của Pháp ở Đông Dƣơng thời
thuộc địa”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7.
103. Tạ Thị Thúy (2017), “Quy chế cấp nhƣợng và khai thác mỏ do thực dân Pháp ban hành ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
104. Tạ Thị Thúy (2017), “Quy chế cấp nhƣợng và khai thác mỏ do thực dân Pháp ban hành ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7.
105. Tạ Thị Thúy (2018), Công nghiệp khai khoáng ở Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc”, Nxb Khoa học xã hội, HN.
157
106. Hà Thị Thu Thuỷ (2008), Luận án “Công nghiệp khai thác mỏ của tư bản
Pháp ở Thái Nguyên (1906-1945)”. Lƣu tại Thƣ viện Trƣờng Đại học sƣ
phạm I Hà Nội.
107. Hà Thị Thu Thủy (2005), “Hoạt động khai thác mỏ kim loại của thực dân Pháp ở một số tỉnh khu vực miền núi phía Bắc”, Tạp chí Khoa học trường
Đại học sư phạm Hà Nội, số 6.
108. Hà Thị Thu Thủy - Nguyễn Thị Lan Phƣơng (2015), “Quá trình xây dựng
đƣờng sắt Hải Phòng - Côn Minh trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt Nam và việc tuyển mộ, quản lý nhân công của ngƣời Pháp”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 6.
109. Trần Thị Thủy (2017), “Quá trình phát triển đạo Công giáo và tin lành của ngƣời Mông vùng núi phía Bắc”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 402.
110. Nguyễn Văn Trƣờng (2009), “Toàn quyền Đông Dƣơng Paul Doumer với
đƣờng sắt Đông Dƣơng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
111. Trần Xuân Trí (2019), “Quyền sở hữu đất nhƣợng của ngƣời nƣớc ngoài ở
Việt Nam thời thuộc địa: Từ hạn chế đến cấm đoán”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 10.
112. Nguyễn Văn Vân (2004), Một số vấn đề về lịch sử - văn hóa Lào Cai, Nxb
Lào Cai.
113. Jean-Pierre Aumiphin: Sự hiện diện tài chính và kinh tế Pháp ở Đông Dương
(1859 - 1939) (La Présence Financiere et Economique Francaise en Indochine
(1859 – 1939)), (bản dịch của Đinh Xuân Lâm, Ngô Thị Chính, Hồ Song, Phạm
Quang Trung), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1994.
B. TÀI LIỆU TIẾNG PHÁP
114. Annuaire statistique de l'indochine. TVQG, H.
115. Annuaire Général de l’Indochine - 1905, TVQG, H.
116. A.s réglementation minière de l'Indochine, Hồ sơ số 77329, TTLTQG I, HN.
117. A.s application du décret du 28 Juillet 1918 a.s régime des mines en
Indochine, Hồ sơ số 69854, TTLTQG I, HN.
158
118. A.s prorogation et renouvellement des permis de recherches minières, Hồ sơ
69856, TTLTQG I, HN.
119. A.s application du décret du 28 juillet 1918 relatif aux autorisations
personnelles à exiger des explorateurs ou exploitants de mine, Hồ sơ 69860, TTLTQG I, HN.
120. A.s constitution des Sociétés minières du Tonkin, Hồ sơ 69962, TLTQG I, HN.
121. A.s des concession minières, Hồ sơ 38241, TTLTQG I, HN.
122. A.s revision du régime fiscal des Industries minérales en Indochine. 1942-
1943, Hồ sơ 13010, TTLTQG I, HN.
123. A.s fixation du statut des permis généraux de recherches de mines en
Indochine. 1939, Hồ sơ 10799, TTLTQG I, HN.
124. Au sujet des recherches minières en périmètre réservé ''Espérancia'' de
l'explorateur K.Lion à la province de Laokay, Hồ sơ 2305, TTLTQG I, HN.
125. Au sujet des recherches minières en périmètre réservé ''Tuy Deo'' de l'explorateur
Trieu Van Chi à la province de Laokay, 1904. Hồ sơ 2306, TTLTQG I, HN.
126. Au sujet des recherches minières en périmètre réservé ''Long Kanh'' de
l'explorateur Marguet, mandataire de Lasserre à la province de Laokay, Hồ
sơ 2307, TTLTQG I, HN.
127. Adjudication aux enchères publiques des mines de l'Indochine en 1936 à
Hanoi. 1936-1937, Hồ sơ 11340, TTLTQG I, HN.
128. André Hibon, La crise économique en Indochine, Société génrale
d’Imprimerie et d’Édition, Paris, 1934.
129. Alain Léger, L’Agonie de l’Indochine francaise 1940 – 1945, Paris 1997.
130. Báo cáo của công sứ Pháp ở Lào Cai. Hồ sơ: RST 74424, TTLTQG I, HN.
131. Trƣơng Bình, Cristian Fayard, Valorisation des phosphates naturels du
Vietnam, 1990.
132. Bulletin administratif du Tonkin, 16/6/1943.
133. Bulletin Administratif du Tonkin 21/3/1910; TVQG, H.
134. Charles Robequin, L’évolution économique de l’Indochine francaise, Paris, 1939.
159
135. Concession des mines au Tonkin (Nhƣợng mỏ ở Bắc Kỳ), Hồ sơ 26977,
TTLTQG I, HN.
136. Constitution d'un Comité consultatif des Mines pour examiner les questions intéressant la réglementation et l'exploitation des mines en Indochine, Hồ sơ 76675, TTLTQG I, HN.
137. Convention entre la France et l’Annam sur le régime minier en Annam et au Tonkin, H. Deseille, Le nouveau Régime minier de l’Indochine, imprimerie Extrême – Orient, Hanoi, 1912.
138. Décret du 26 janvier 1912 Réglementant le régime minier en Indochine, H. Deseille, Le nouveau Régime minier de l’Indochine, imprimerie Extrême – Orient, Hanoi, 1912.
139. Départ des coolies pour les chantiers de construction de chemins de fer (ligne Trai hut - Laokay), 1904/1905, Fonds RST - Hồ sơ 29818, TTLTQG I, HN.
140. Décret du 16 Février 1942 modifiant les décrét minières des 30 mars 1935 et
26 Janvier 1912, Hồ sơ số 69994, TTLTQG I, HN.
141. De Lanessan: La colonisation francaise en Indochine (1895). Félix Alcan
Editeur, Paris, TVQG, H.
142. Demande en concession de la mine Nam Si sise dans la province de Laokay formulée par Baudot, adjudant d'infanterie coloniale en retraite, Hồ sơ 77132-02, TTLTQG I, HN.
143. Demande en concession de la mine Paris sise dans la province de Laokay formulée par Albert Malortigue commercant, Hồ sơ số 77131, TTLTQG I, HN.
144. Demandes en concession des mines Ernest et Emile sises dans la province de Laokay, formulées par Alphonse Zenner, concessionnaire, Hồ sơ 77129-01, TTLTQG I, HN.
145. Demande en concession de la mine Lang Mo sise dans la province de Laokay formulée par Géorge Barondeau, ingénieur. 1940-1941, Hồ sơ 77128, TTLTQG I, HN.
146. Demandes d'autorisation d'acquérir des droits miniers en Indochine formulées par des indigènes classés par ordre alphabétique de nom de B à X, Hồ sơ 76714-02, TTLTQG I, HN.
160
147. Demandes d'autorisation d'acquérir des droits miniers en Indochine
formulées par des indigènes classés par ordre alphabétique de nom de B à
N, Hồ sơ 76714-03, TTLTQG I, HN.
148. Demandes d'autorisation d'acquérir des droits miniers en Indochine formulées par les indigènes classés par ordre alphabétique de nom de P à X,
Hồ sơ 76714-04, TTLTQG I, HN.
149. Demandes d'autorisation d'acquérir des droits miniers en Indochine
formulées par les indigènes classés par ordre alphabétique de nom de B à H, Hồ sơ 76714-05, TTLTQG I, HN.
150. Demandes d'autorisation d'acquérir des droits miniers en Indochine
formulées par les indigènes classés par ordre alphabétique de nom de K à N, Hồ sơ 76714-06, TTLTQG I, HN.
151. Demandes d'autorisation de recherche de mines en périmètres réservés à Laokay, formulées par les explorateurs indigènes, classés par ordre alphabétique
de nom de T à V, en 1911 et 1912, Hồ sơ 77135-01, TTLTQG I, HN.
152. Demande d'autorisation d'acquérir des droits miniers au Tonkin formulée
par Luong Van Dinh, demeurant à Chau Uy de Cam Duong (Laokay, Hồ sơ
47096, TTLTQG I, HN.
153. Demande d'autorisation d'acquérir des droits miniers au Tonkin formulée
par Nguyen van Vinh, entrepreneur des T.P, Hồ sơ 47056, TTLTQG I, HN.
154. Demande d'autorisation en matière minière formulée par Hoang Dinh Ninh,
entrepreneur à Laokay, Hồ sơ 47018, TTLTQG I, HN.
155. Demande d'acquistion des droits miniers formulée par Bandot, adjudant en
retraite à Laokay, Hồ sơ số 46988, TTLTQG I, HN.
156. Demande d'autorisation personnelle d'acquérir en Indochine des permis miniers formulée par Charles Bonnet, Chef de district des Chemins de fer à Bao Ha, Hồ sơ 46986, TTLTQG I, HN.
157. Demande d'acquisition des droits miniers formulée par Mazière contrôleur à
la Compagnie des Chemins de fer du Yunnan à Laokay, Hồ sơ 46968,
TTLTQG I, HN.
161
158. Demande d'autorisation de recherches minières au Tonkin formulée par Vanmousse Alexandre, entrepreneurr à Laokay, Hồ sơ 46884, TTLTQG I, HN.
159. Demande d'autorisation de recherches minières au Tonkin formulée par Ja Tchao Lyn, ly truong de la commune de Muong Hum à Laokay, Hồ sơ 46874, TTLTQG I, HN.
160. Demande d'autorisation de recherche des mines en périmètre réservé ''Ban Vuoc'' dans la commune de Dông Quan, secteur de Bat Sat- province de Laokay, formulée par Rélard- ingénieur civil à Paris, Hồ sơ 9591, TTLTQG I, HN.
161. Demande d'autorisation d'acquérir les droits miniers au Tonkin formulée par Belot, inspecteur principal au Chemins de fer de l'Indochine et du Yunnan, Hồ sơ 47458, TTLTQG I, HN.
162. Demande formulée par Gabriel Viaud sous- chef de section à la Compagnie des Chemins de fer de l'Indochine et du Yuannan pour l'obtention de l'autorisation d'acquérir des droits miniers au Tonkin, Hồ sơ 47066, TTLTQG I, HN.
163. Demande d'autorisation en matière minière formulée par Hoang Dinh Ninh,
entrepreneur à Laokay, Hồ sơ 47018, TTLTQG I, HN.
164. Demandes d'autorisation de recherche de mines en périmètres réservés à Laokay, formulées par les Européens, classés par ordre alphabétique de nom de D à L, en 1897, 1898 et 1907, Hồ sơ RST 77133.
165. Demandes d'autorisation de recherche de mines en périmètres réservés à Laokay, formulées par les Européens, classés par ordre alphabétique de nom de B à S, en 1911, Hồ sơ RST 77135.
166. Demandes en concession des mines Maurice, Mairie Thérèse sises dans la province de Laokay formulées par Alphonse Zenner concessionnaire, Hồ sơ 77129, TTLTQG I, HN.
167. Documents sur la centrale électrique de Lao Cai, Hồ sơ RST 79926,
TTLTQG I, HN.
168. Discours du Gouverneur général de l’Indochine (René Robin) sur la situation économique et financière de l’Indochine, à l’ouverture de la session de l’année 1934, du Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l’Indochine dans “Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine” N0 84, décembre 1934.
162
169. Établissement des redevances superficiaires pour les mines en Annam et au
Tonkin.1904, Hồ sơ số 10820, TTLTQG I, HN.
170. E,Franquet, De l’importance du fleuve Rouge, Henri Charles – Lavauzelle É
diteur millitaire, Paris, 1910.
171. Évolution de la situation économique en Indochine de 1939 à 1946, Etudes et
conjoncture – Union francaise, N0 7, 1947.
172. Fumures et engrais vers dans l’agriculture au Tonkin, Bulletin économique
de l’Indochine, 2/1930.
173. G.Duypouy, Minérais et minéraux du Tonkin, Émile Larose, Libraire –
Éditeur, Paris, 1909.
174. Graphites et Mica à Laokay, Éveil économique, 13/02/1927.
175. Georges Maspero, Un empire colonial francaise, tome 2, Paris, 1929.
176. Gouvernement général de l’Indochine, Annuaire statistique d l’Indochine,
tome I, Imprimerie d’Extrême – Orient, Hanoi, 1927.
177. Gouvernement général de l’Indochine, Indochine adresses 1933 -1934,
Imprimerie Albert Portrai, Saigon, 1934.
178. Gouvernement général de l’Indochine, Direction des Services économique, “Accords économiques Franco-japonais relatifs à l’Indochine”, Imprimerie D’Extrême-Orient, Hanoi, 1941.
179. Henry Russier - Henry Brenier (1911), Đông Dương thuộc Pháp
(L’Indochine francaise), TVQG, H.
180. Henri Yves, Économie agricole de l'Indochine, Imprimerie d'Extreme-Orient,
Hanoi, 1932.
181. Industrie minière de l’Indochine francaise en 1927, L'Éveil économique de
l'Indochine, 23 décembre 1928.
182. Jaehun Jeoung, Exploitation minière et Exploitation humaine: Les charbonages dans le Vietnam colonial 1874 -1945, Université Sorbonne Paris Cité, 2018.
183. Jacques Fromaget, Étude géologique des gisements de phosphates (apatite) de Cam Duong (Tonkin) et des formations qui les contiennement, Imprimerie d’Extrême – Orient, Hanoi, 1941.
163
184. James Boyd, Economics and statistics division: Mineral trade notes,
Washinton D.C, 1948.
185. J.Mare Bel: En Indochine - Du sous. - sol. TVQG, H).
186. La situation économique de l'Indochine, L’Éveil économique de l’Indochine,
8 mars 1931.
187. L'usine Texor fait une belle affaire, L’Éveil économique de l’Indochine, 5
avril 1931.
188. Longeaux, Industrie de l’Indochine en 1936, Bulletin économique de
l’Indochine, 40e année.
189. Les mines indochinoises, Revue économique d’Extrême -Orient, N0 10,
20/5/1926.
190. Les Graphites de l'Indochine, L'Éveil économique de l'Indochine, 19 février 1928.
191. Les mines indochinoises, L’Information d’Indochine économique et
financière, N0 345, 27/7/1940.
192. Les phosphates indochinoises, L’Effort indochinois, No 216, 20/12/1940.
193. Les travaux publics au Tonkin, Le Monde illustré, N0 2167, 8/10/1898
194. Monod, Les charbonnages du Tonkin, Bulletin économique de l’Indochine,
n_1, premier juillet 1898, Saigon, 1898.
195. Modification au programme d’organisation ouvrière lors des travaux de
construction des chemins de fer (ligne Trai Hut – Laokay), 1904/1905, Fonds
RST - 29841, TTLTQG I, HN.
196. Mise en adjudication des terrains miniers à Bat Xat (Laokay), Hồ sơ số
77127, TTLTQG I, HN.
197. Mine de graphite de Laokay, L’Éveil économique de l’Indochine, 18 avril 1926.
198. Notes sur la géologie au bassin du Fleure Rouge et ses affluants 1891 -
1898, AFCI. 760, TTLTQG I, HN.
199. Organisation du service médical sur les chantiers de construction des chemins
de fer (ligne Vietri - laokay), 1904/1905, KH: RST 29856, TTLTQG I, HN.
164
200. Paiement des redevances superficiaires sur les périmètres mis en
exploitation en Indochine.1929, Hồ sơ 10835, TTLTQG I, HN.
201. Pagès André, La situation politique et économique de la Cochinchine
(discours à l’ouverture de la session ordinaire du Conseil colonial en date du 9 octobre 1934 dans “Revue du Pacifique”, n0 7-8, les mois de juillet et d’août 1934.
202. Pierre Jauté, Les Camps japonais en Indochine pendant la seconde guerre mondiale, Bulletin de la Fondation pour la Mémoire de la Déportation, N0 52, avil 2007
203. Pierre Guillaumat, l’Industrie minérale de l’Indochine en 1937, Bulletin
économique de l’Indochine, 6/1938.
204. Pierre Brocheux, Daniel Hémery, Indochine: la colonisation ambigue 1858 –
1954, Éditions la Découverte, 2001.
205. P.v de contrôle des déclarations des quantités de mine exploitées par les
Sociétés d'exploitation des mines de l'Indochine et des redevances
proportionnelles perçues pour ces exploitants dans les mines du Tonkin de
l'année 1932 par le Service des mines de l'Indochine. 1933, Hồ sơ 10869,
TTLTQG I, HN.
206. P.Guillaumat (1938), L’Industrie Minérale de L’Indochine en 1937, TVQG, HN.
207. Projet de loi ayant pour object d’approuver la convention conclue par le
gouvernement général de l’Indochine pour la contruction partielle et
l’exploitation du Chemin de fer de Haiphong à Yunnan-sen (renvoyé à la commission des colonie), Phông RST, hồ sơ 10966, TTLTQGI, HN.
208. Rattachement au 4e Territoire Militaire de la zone de
terrain momentanément détaché pendant la durée des travaux des construction des chemins de fer (ligne Trai hut - Laokay), 1905, Phông RST, hồ sơ 29799, TTLTQG I, HN.
209. Rapport de ingénieur en chef des mines sur les gisements miniers susceptibles D'accord mis en relation avec la ligne de chemin de fer de
Laokay à Yunnansen, Hồ sơ 2925, TTLTQG I, HN.
165
210. Rapport sur la situation de l'Industrie minéral en Indochine, Hồ sơ 8899,
TTLTQG I, HN.
211. Rapport commercial de la ligne Hai Phong – Yunnan- fou. Pour l’année
1924, Phông RST, hồ sơ 77559, TTLTQG I, HN.
212. Rapport sur les gisements métallifères de l’Indochine 1901, GGI 2578,
TTLTQG I, HN.
213. Raoul Dumont, utilisation d’engrais dans l’agricole tropicale, Revue de
botanique appliquée et d’agriculture coloniale, 1/1945.
214. Raby (Chef du Service des Mines de l’Indochine), Application en Indochine
flottage, Bulletin
des procédés d’enrichissement des minérais par économique de l’Indochine, N0 167, avril 1924.
215. Robert Gavard, Étude sur les gisements de Phosphates de Lang Hang et
Lang Coc province de Lao Kay (Tonkin), Imprimerie G. Taupin et Cie, Hanoi, 1933.
216. Recrutement de la main d’œuvre nécessaire à la construction des chemins de fer
(ligne Vietri -Laokay). 1904/ 1905, Phông RST, hồ sơ 29835, TTLTQG I, HN.
217. Renseignements de L'Industrie minérale indochinoise en 1938-1939, RST
69979. TTLTQG I, HN.
218. Renseignements sur les gisements de fer au Tonkin et minière à 1900, GGI
2471. TTLTQG I, HN.
219. Renseignements sur les mines de l'Indochine 1900-1907, GGI 2467.
TLLTQG I, HN.
220. Renseignements statistiques relatives aux concessions minières du Tonkin,
Hồ sơ 77306, TTLTQG I, HN.
221. Recouvrement des redevances superficiaires en matière minière au Tonkin,
Hồ sơ 76636, TTLTQG I, HN.
222. Renseignements sur le régime foncier dans la province de Sơn La, 1922.
Phông RST, mã hồ sơ 68983, TTLTQG I, HN
223. Repertoire des gissements miniers du Tonkin, Hồ sơ 77307, TTLTQG I, HN.
166
224. Recouvrement des redevances superficiaires dues par les concessionnaires
de mines au Tonkin.1916-1932, Hồ sơ 10832, TTLTQG I, HN.
225. Recouvrement des redevances superficiaires minières au Tonkin.1903-1923,
Hồ sơ 10831, TTLTQG I, HN.
226. Renseignements sur l'industrie mineur de l'Indochine destin à la statistique
commerciale, Hồ sơ 9380, TTLTQG I, HN.
227. Renseignements sur les produits miniers de l'Indochine, Hồ sơ 4761,
TTLTQG I, HN.
228. Registre du recensement de 1930 à Lao Cai, ký hiệu RCR 27130, TVQG, H.
229. Société des graphites de l’Indochine, Éveil économique de l’Indochine, 1
aout 1922.
230. Société indo-chinoise des graphites, L’Écho des mines et de la métallurgie,
20 mai 1925.
231. Société indochinoise des Graphites, Le Temps, 5 décembre 1926
232. Société indochinoise des graphites, L’Éveil économique de l’Indochine, 23
janvier 1927.
233. Société indochinoise des graphites, L'Éveil économique de l'Indochine, 18
mars 1928.
234. Société indochinoise des graphites, Avis de convocation, L'Éveil économique
de l'Indochine, 11 novembre 1928.
235. Société d’Étude des gisements de minerais de fer et minerais connexes de
Bao Ha, Notice explicative, Project de statuts, Note succince sur l’affaire, Imprimerie G. Taupin et Cie, Hanoi, 1943
236. Travaux des construction des chemins de fer (ligne Trai hut - Laokay), 1905,
Phông RST 29799, TTLTQG I, HN.
237. United States Geological survey, Mineral ressources of the United States
1919, Washington, 1922.
1 PL
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: TÀI LIỆU VỀ MỎ Ở LÀO CAI
Thông tin về các mỏ quặng sắt ở Bắc Kỳ (ghi chép tạm về mỏ quặng sắt Ban Vƣợt gần Bát Xát (lịch sử hình thành, khoáng vật học, địa chất)
Hồ sơ 2471
2 PL
3 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ D đến L (Hồ sơ 77133)
4 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ D đến L (Hồ sơ 77133)
5 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ D đến L (Hồ sơ 77133)
6 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ B đến S, trong năm 1911
(Hồ sơ 77135)
7 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ B đến S, trong năm 1911
(Hồ sơ 77135)
8 PL
Đơn xin cấp phép thăm dò mỏ trong các khu bảo tồn ở Lào Cai của ngƣời Âu, tên đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái từ B đến S, trong năm 1911 (Hồ sơ 77135)
9 PL
Đơn xin nhƣợng mỏ Nam Si trong tỉnh Lào Cai của Baudot, Thƣợng sĩ Bộ binh nghỉ hƣu (Hồ sơ 77132-02)
10 PL
Mỏ than chì ở Lào Cai và Công nghiệp mỏ Đông Dƣơng trên báo “Éveil économique de l’Indochine”, số ra ngày 18/4/1926 (Thƣ viện Quốc gia
Pháp)
11 PL
12 PL
13 PL
14 PL
Sự thành lập và hoạt động tài chính của Công ty Đông Dƣơng Than chì, đăng trên “Tạp chí Kinh tế Viễn Đông”, số 9, ngày 5/5/1927 (Trung tâm Lƣu trữ Hải
Ngoại Pháp)
15 PL
16 PL
Về khai thác than chì trên thế giới và ở Đông Dƣơng trên báo “Tạp chí Quốc tế về những sản phẩm thuộc địa”, số 25, tháng 1/1928 (Trung tâm Lƣu trữ Hải
Ngoại Pháp)
17 PL
18 PL
Bìa cuốn sách “Nghiên cứu về vỉa phosphates ở Làng Hàng và Làng Cóc” (Cam Đƣờng – Lào Cai – Bắc Kỳ), xuất bản năm 1933
19 PL
Bìa cuốn sách về Công ty Nghiên cứu mỏ sắt Bảo Hà (Lào Cai), xuất bản năm 1942
20 PL
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG, HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC MỎ Ở LÀO CAI
Bản đồ Tiểu Quân khu Lào Cai vào năm 1893
[164, tr.61]
21 PL
Quang cảnh khu vực sông Nậm Thi, sông Hồng ở Lào Cai vào cuối thế kỷ XIX
Xây dựng cầu bắc qua sông Hồng ở Lào Cai cuối thế kỷ XIX kết nối với Vân Nam và vùng giàu tài nguyên mỏ gần sông Nậm Thi
Phu vận chuyển hàng hóa, thiết bị thăm dò mỏ qua sông Hồng ở Lào Cai
Quang cảnh nhà dân khu vực sông Nậm Thi và sông Hồng ở Lào Cai vào cuối thế kỷ XIX
[190, tr.288-290].
22 PL
Cầu bắc qua sông Nậm Thi, mỏ than chì Nậm Thi, cách cầu chừng 600m ngƣợc lên biên giới Trung Hoa
[Nguồn: https://www.cartacaro.fr/spip.php?article960 (Truy cập ngày 26/6/2020)]
23 PL
Cổ phiếu của Công ty Đông Dƣơng than chì năm 1926
[Nguồn: www.entreprises-coloniales.fr/inde-indochine/Graphites_Indochine_1915- 1926.pdf (tra cứu ngày 2/1/2020)].
24 PL
Một góc khai thác tại mỏ than chì Nậm Si ở Lào Cai
Bên trong nhà máy tuyển nổi than chì ở Lào Cai
Nhà máy tuyển nổi than chì ở Lào Cai (nhìn từ xa)
Một số hình ảnh về mỏ than chì Nậm Si ở Lào Cai
[210, tr.325-347].
25 PL
[Ảnh tác giả chụp tại Đền Thượng – Lào Cai (ngày 10 tháng 4 năm 2019)]
Bác Hồ và cụ Trần Văn Nỏ (Ngƣời phát hiện mỏ apatit năm 1924)
[ Nguồn: Phòng lưu trữ Tỉnh uỷ tỉnh Lào Cai]
26 PL
Lƣợc đồ các khu mỏ apatite ở Cam Đƣờng – Lào Cai và kế hoạch xây dựng các tuyến đƣờng vào khu mỏ
[211]
27 PL
Lƣợc đồ khu nhƣợng mỏ sắt và apatite Bảo Hà và kế hoạch xây dựng hệ thống giao thông khai phục vụ cho khai thác
[228, tr.29].