LUẬN VĂN:
Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống cho thanh niên của Đảng Cộng sản Việt Nam 1996 - 2006
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, tầng lớp thanh niên có vai trò vô cùng to
lớn đối với tiến trình phát triển của xã hội. Thanh niên là một lực lượng to lớn, chiếm tỷ
lệ đông đảo trong dân cư, là chủ thể xây dựng xã hội, lớp người sáng tạo ra tương lai, lực
lượng có vai trò quan trọng thúc đẩy lịch sử phát triển. V.I Lênin đã chỉ ra rằng: “Ai nắm
được thanh niên, người đó làm chủ thế giới và theo một nghĩa nào đó nhiệm vụ xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa đó chính là thanh niên”. Quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ, đặt niềm tin vào thanh niên, đánh giá đúng vai trò của thanh niên chính là
việc làm cần thiết để đi tới xây dựng xã hội tương lai.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng trong bất cứ thời kì nào thanh
niên cũng là lực lượng cách mạng hùng hậu, có chí tiến thủ và hoài bão lớn lao, với lòng
yêu nước nồng nàn đã luôn đi đầu đáp ứng yêu cầu của dân tộc và trở thành những chiến
sĩ cách mạng kiên cường. Hàng triệu thanh niên đã ngã xuống vì độc lập tự do cho dân
tộc, ghi nên những trang sử vẻ vang, tạo nên những thế hệ thanh niên anh hùng của một
dân tộc anh hùng. Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, hăng hái tham gia các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”…thanh
niên Việt Nam đã trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước đang chuyển mình đi lên với
những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ nặng nề đó lại được giao phó cho thế hệ thanh niên. Hiện
tại và tương lai nước nhà hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng, sự sáng tạo, niềm đam
mê…của các thế hệ thanh niên hôm nay, đúng như Bác Hồ đã đánh giá: “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần là do
các thanh niên”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch cũng đang ra sức phá hoại công cuộc
đổi mới của chúng ta bằng âm mưu “diễn biến hoà bình”, chúng coi thanh niên là đối
tượng trước tiên cần lôi kéo, tác động nhằm làm cho thế hệ thanh niên hiện nay xa rời lý
tưởng cách mạng, xa rời sự lãnh đạo của Đảng, gieo rắc tâm lý hoài nghi, mơ hồ về chính
trị, tư tưởng bất mãn với chế độ, bên cạnh đó còn truyền bá lối sống đồi truỵ, thực dụng
để làm tha hoá thanh niên nhằm phá hoại thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Thực tế đó không thể không ảnh hưởng, tác động tới niềm tin, lý tưởng của thế hệ thanh
niên hiện nay mà còn làm băng hoại những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống, thay
đổi lối sống và nếp sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên. Do vậy, công tác thanh
niên đang là vấn đề có tính cấp thiết của công cuộc cách mạng hiện nay, công tác này đòi
hỏi phải có sự quan tâm, chăm sóc giáo dục toàn diện của toàn Đảng, của các tổ chức
chính trị xã hội…đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ thanh niên, coi công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc. Bên cạnh đó phải tăng cường chăm lo, quan tâm tới lợi ích của
chính đáng của thanh niên, giúp đỡ thanh niên rèn luyện lý tưởng, ý chí, đạo đức và lối sống
tốt đẹp nhằm phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành TW Đảng khoá VII đã khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng
Việt Nam có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào
lực lượng thanh niên và việc bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề
sống còn của dân tộc”.
Trong suốt tiến trình cách mạng cũng như trong giai đoạn 1996 - 2006, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên coi trọng và tiến hành việc rèn luyện, giáo dục
thanh niên về lý tưởng, đạo đức, lối sống - coi đây là nhiệm vụ chiến lược, thường xuyên
của Đảng và đã thu được nhiều kết quả, kinh nghiệm. Tuy nhiên, công tác giáo dục thanh
niên đã qua, thực trạng giáo dục thanh niên hiện nay đang có nhiều vấn đề phức tạp, bất
cập cần luận giải. Bên cạnh đó, giai đoạn 1996 - 2006 cũng là giai đoạn phát triển mới
của đất nước trong tình hình thế giới có những biến động phức tạp, xu hướng toàn cầu
hoá lan rộng, các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng và Nhà nước ta bằng các
thủ đoạn khác nhau trong đó đặc biệt là nhằm vào thế hệ trẻ, tương lai của đất nước. Với
lý do đó, tôi đã chọn đề tài: “Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh
niên của Đảng Cộng sản Việt Nam 1996 - 2006” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho các thế hệ thanh niên là một
việc làm quan trọng trong hoạt động của Đảng ta từ khi ra đời cho đến nay. Vì vậy đã có
rất nhiều tác giả quan tâm đi sâu nghiên cứu. Một số tác giả nhìn nhận thanh niên với tư
cách là lực lượng xung kích đi đầu trong mọi hoạt động của cách mạng như: Lê Duẩn,
Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên; Thanh niên trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Nxb Thanh niên …Các tác phẩm trên đã khái quát quá trình
ra đời, trưởng thành và phát triển của các thế hệ thanh niên Việt Nam cũng như ghi nhận
những đóng góp của thanh niên đối với tiến trình lịch sử của dân tộc. Khẳng định vai trò
của thanh niên cũng như quá trình phấn đấu học tập và rèn luyện vì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, coi lý tưởng cách mạng là cội nguồn sức mạnh của thanh niên.
Phát huy vai trò xung kích của thanh niên, hoạt động giáo dục, tổ chức thanh niên
luôn là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội thường xuyên
quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thanh niên cũng như xây dựng
cho thanh niên lý tưởng sống cao đẹp. Các tác giả đã đưa ra thực trạng và hướng giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục cho thanh niên như:
- Phạm Văn Đồng, Đào tạo thế hệ trẻ của dân tộc thành những chiến sĩ cách
mạng dũng cảm, thông minh, sáng tạo, Nxb Sự thật, Hà Nội,1969.
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách mạng
Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004.
- Quang Vinh, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb Thanh niên,
Hà Nội 2000…
Các tác phẩm dù đề cập ở khía cạnh nào cũng đều khẳng định vai trò của thanh
niên và tầm quan trọng của công tác giáo dục cho các thế hệ thanh niên.
Một số luận án sau Đại học chuyên ngành Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
CNXH KH...trong những năm gần đây đã trực tiếp nghiên cứu về vấn đề giáo dục thanh
niên của Đảng như:
- Tô Thành Phát, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên trong
thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2002.
- Đặng Thanh Phương, Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên – sinh viên ở
thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Nguyễn Thị Bình. Một số suy nghĩ về đổi mới tăng cường công tác bồi dưỡng,
giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên của Đảng trong thời kỳ hiện nay, Luận văn
thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1995.
- Trần Thị Mỹ Hường, Đảng lãnh đạo công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho
thanh niên ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Trần Thị Nhơn, Tư tưởng Hồ chí Minh về vai trò của thanh niên và sự vận đụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước 1975 - 1996, Luận án
tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001...
Các tác giả đều đã trình bày quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục
thanh niên trong các giai đoạn cách mạng trước đây, các công trình đã phản ánh được
phần nào những thành quả đã đạt được trong quá trình Đảng lãnh đạo công tác thanh
niên và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong các giai
đoạn tiếp theo. Đây chính là cơ sở tư liệu để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình
thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu về đề tài thanh niên
trong những năm qua nhưng dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, chưa có công trình nào
nghiên cứu hệ thống, chi tiết và tổng kết kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo
công tác giáo dục thanh niên trong giai đoạn 1996 - 2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo công tác giáo dục thanh niên 1996 - 2006 với
những ưu, nhược điểm, đánh giá thành tựu cũng như những hạn chế của quá trình. Khẳng
định vai trò to lớn của thanh niên trong cách mạng Việt Nam và đưa ra những giải pháp
cần thiết để phát triển công tác thanh niên trong những năm tiếp theo.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử và thực tiễn trong việc giáo
dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên
và công tác giáo dục thanh niên.
- Làm rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục lý tưởng,
đạo đức, lối sống cho thanh niên giai đoạn 1996 - 2006.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về công tác
giáo dục thanh niên cho các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh
niên, vai trò của thanh niên cũng như công tác giáo dục thanh niên của Đảng.
- Quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục thanh niên trong
giai đoạn 1996 - 2006.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống cho thế hệ thanh niên giai đoạn 1996 - 2006 nhằm làm rõ vai trò của thanh niên và
công tác thanh niên, bên cạnh đó chỉ ra những mặt hạn chế cần khắc phục trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên
và công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Ngoài ra tác
giả đã vận dụng một số phương pháp khác như thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…
- Luận văn chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu là các văn kiện, nghị quyết của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tài liệu lưu trữ tại trung
ương Đoàn, Uỷ ban Thanh thiếu niên của Quốc hội…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn lần đầu tiên góp phần làm rõ hơn nội dung, phương thức và quá trình
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống cho thanh niên trong giai đoạn 1996 -2006. Từ những thành quả đã đạt được trong
quá trình đó, rút ra những kinh nghiệm lý luận và thực tiễn của Đảng trong các giai đoạn
tiếp theo.
- Khẳng định vai trò của thanh niên và công tác thanh niên cũng như việc cần thiết
phải tăng cường công tác giáo dục thanh niên về lý tưởng, đạo đức, lối sống của Đảng ta
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
vị trí, vai trò của thanh niên và công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho
thanh niên
trong cách mạng Việt Nam
1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và việc xây dựng lý tưởng, đạo đức,
lối sống trong thanh niên
1.1.1. Một số vấn đề về khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm lý tưởng
Lý tưởng là mục đích cao đẹp mà con người lựa chọn hoặc tự xây dựng nên từ
những hình mẫu cụ thể trong hiện thực, nó có tác dụng lối cuốn toàn bộ cuộc sống của
con người nhằm đạt được mục tiêu mà mình đang nhắm tới. Trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta, Đảng và Bác hồ đã nhận ra sức mạnh to lớn của dân tộc, trong đó có sự
đóng góp của các thế hệ thanh niên mà động lực tạo nên sức mạnh to lớn đó chính là lý
tưởng cách mạng đã thôi thúc lớp lớp thanh niên chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do, vì
chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng chính là cái đích mà ta hướng tới, vì lý tưởng cách mạng mà
người ta sống, học tập, chiến đấu và dưới ánh sáng của lý tưởng, con người hiểu được ý
nghĩa sâu sắc của cuộc đời. Lý tưởng chẳng khác nào ngôi sao dẫn đường cho con người
bước tới, chỉ hướng cho con người hành động. Lý tưởng là động lực thúc đẩy, điều khiển
toàn bộ hoạt động của con người, thôi thúc nguyện vọng tự trau dồi, tự tu dưỡng. Lý
tưởng tạo cho con người niềm tin sắt đã vào thắng lợi cuối cùng và một sức mạnh phi
thường để hoàn thành các nục tiêu đề ra. Lý tưởng trở thành niềm tin, một lòng tin khoa
học trên cơ sở phát triển của lịch sử xã hội chứ không phải ở lòng tin mù quáng. Đồng
chí Trường Chinh khẳng định: “Lý tưởng là cái gì cao quý, cái gì tốt đẹp mà mình hằng
mơ ước và có thể thực hiện được nhưng phải đấu tranh gian khổ mới có”, “Trước đây hy
sinh chiến đấu cứu nước là anh hùng. Ngày nay hy sinh, phấn đấu để nhân dân ta được
ăn no, mặc đủ, có nhà ở, được học hành là sự nghiệp anh hùng. Phấn đấu không mệt mỏi
để trong vòng 15, 20 năm nữa biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh
là sự nghiệp anh hùng, là lý tưởng của thanh niên”.
Thắp sáng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong hai cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi việc thanh niên xác
định được lý tưởng đúng đắn là vấn đề rất quan trọng. Lý tưởng cách mạng chính là mục
tiêu phấn đấu của cách mạng. Ngay từ khi Đảng ta ra đời, Đảng và Bác hồ đã chỉ rõ mục
tiêu phấn đấu cuối cùng là thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Mục tiêu cách mạng đó của Đảng cũng chính là lý tưởng cách mạng của các thế hệ thanh
niên Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đông đảo thế hệ thanh niên Việt Nam đã viết tiếp
truyền thống anh hùng của dân tộc, đánh thắng hai tên đế quốc hùng mạnh, giành độc lập
tự do cho Tổ quốc và ngày nay đang bước tiếp trên con đường đổi mới mà Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức
Trong lịch sử Việt Nam và khu vực á đông theo tư tưởng Nho giáo, phạm trù đạo
đức được luận giải tập trung ở cương thường và mở rộng tới luân thường. Đạo chính là
năm mối quan hệ cơ bản của con người: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè; gọi
chung là ngũ luân. Trong đó ba mối quan hệ quan trọng nhất là vua tôi, cha con, vợ
chồng được gọi là tam cương. Đức theo Khổng Tử là trí, nhân, dũng. Sau đó các học trò
của ông mở rộng thành ngũ thường (nhân, lễ nghĩa, trí, tín). Đạo đức chính là sự kết hợp
tam cương với ngũ thường thành cương thường (nghĩa hẹp) hoặc kết hợp ngũ luân với
ngũ thường thành luân thường (nghĩa rộng). Cương thường và luân thường là nguyên tắc
chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con người, đó là cốt lõi của tư tưởng, đạo đức và
luân lý Nho giáo. ở phương Tây, thuật ngữ đạo đức xuất phát từ phạm trù luân lý, bao
quát các nguyên tắc hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng. Đạo đức gắn
liền với những thói quen, tập quán sống nên ý nghĩa của nó thường xuyên biến đổi theo
tiến trình phát triển của nhân loại.
Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với người khác. Đạo
đức luôn luôn là một quan hệ hai chiều, là một thể chế đặc thù của xã hội nhằm điều
chỉnh các hành vi của con người trong các lĩnh vực đời sống xã hội. C.Mác cho rằng đạo
đức chính là lực lượng bản chất của con người trong sự phát triển của nó theo hướng
ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện. Còn Ph.Ăngghen xác định ý thức đạo
đức là sự phản ánh thực tiễn đạo đức của xã hội, là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là phải “kính yêu nhân dân. Phải thực sự tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân…Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường
lối quân chúng, thành tâm học hỏi quần chúng…Phải thật thà, ngay thẳng, không được
giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được
kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn chăm lo đến đời sống
của quần chúng. Phải “chí công vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Tức là Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sự thống nhất tư tưởng và phong cách
sống. ở Người đạo đức đóng vai trò như là lẽ sống thấm vào tư tưởng và lối sống.
ý thức đạo đức xã hội cơ bản là sự phản ánh tồn tại xã hội, cho nên mỗi hình thái
kinh tế - xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức tương ứng. Trong đó, ngoài những giá trị chung nó cũng hàm chứa các nét đặc
thù, kể cả cái đơn nhất trong giá trị đạo đức. Đây là cơ sở hình thành các thang bậc đạo
đức của mỗi giai đoạn lịch sử hoặc mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Từ những lập luận trên, có thể thấy rằng: đạo đức chính là một hình thái ý thức
xã hội bao gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ
xã hội trong mối quan hệ giữa người với người.
1.1.1.3. Khái niệm lối sống
Khi bàn về khái niệm lối sống, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều ý kiến khác
nhau song hầu hết đều gặp nhau và thống nhất trên những vấn đề cơ bản như: lối sống là
phạm trù bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ bản của con người như lao động,
sinh hoạt, hoạt động xã hội, chính trị và giải trí. Chính vì thế nó mang tính lịch sử sâu
sắc.
Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, phương thức sản xuất là cơ sở vật chất của
lối sống. Lối sống được hình thành trên cơ sở tổng hợp toàn bộ mối quan hệ xã hội có
liên quan đến cơ cấu của hình thái kinh tế xã hội. Mỗi một lối sống nhất định phù hợp
với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Khi quá độ từ hình thái kinh tế này sang hình
thái kinh tế khác, lối sống cũng sẽ biến đổi cơ bản cả về hình thức và chất lượng.
ở Việt Nam cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lối sống. Song về cơ bản
khái niệm lối sống được xem xét với một góc nhìn tổng hợp, trong đó nói đến mối quan
hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt động sản xuất và hoạt động phi sản xuất.
Từ đó có thể hiểu lối sống của con người là kết quả hoạt động và tổ chức của con người
trong quá trình thích nghi và biến đổi hoàn cảnh sống mà con người vừa là sản phẩm của
hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính nó. Tác động của phương
thức sản xuất và những điều kiện sống khác đối với lối sống bao giờ cũng phải thông qua
các hoạt động của chủ thể và mang dấu ấn khúc xạ bởi các chủ thể. Lối sống là biểu hiện
của cái xã hội trong cá nhân, cho nên nó có tính linh hoạt và cơ động cao. Lối sống phản
ánh mối liên hệ biện chứng giữa cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất, cho nên nội
dung và phạm vi của nó rộng lớn và đa tầng, đa nghĩa.
Một số khái niệm gần gũi với lối sống như:
Lẽ sống: là thuật ngữ triết học, đạo đức, tâm lý để chỉ mặt ý thức của lối sống. Lẽ
sống có vai trò dẫn dắt, định hướng và định tính nhằm làm cho lối sống ổn định. Lẽ sống
dựa vào lý tưởng và các giá trị xã hội phản ánh tính chủ thể của lối sống.
Mức sống: là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá các nhu cầu vật chất và tinh
thần đã được thoả mãn và có thể đo lường trực tiếp bằng số lượng. Thông thường mức
sống phản ánh trình độ con người đạt được trong hoạt động sản xuất. Mức sống được
nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết và có tính khách quan để cải htiện lối sống. Tuy
nhiên, không thể đồng nhất mức sống với lối sống, vì lối sống còn chịu sự định hướng và
định tính của lẽ sống, định hướng giá trị và môi trường sống.
Chất lượng sống: là thuật ngữ triết học - xã hội để chỉ mức độ thoã mãn nhu cầu
vật chất và tinh thần nhưng không thể đo lường trực tiếp về số lượng. Chất lượng sống là
thước đo thiên về việc thể hiện mức độ tự do về mặt xã hội cũng như điều kiện phát triển
của cá nhân. Chất lượng sống cho biết lối sống đạt tới trình độ nào, tính chất và phạm vi
nào.
Phong cách sống: là thuật ngữ tâm lý - xã hội để đánh giá và nhận định thái độ và
hành vi ứng xử hàng ngày của cá nhân và các nhóm xã hội. Nó chính là hình thức biểu
hiện của lối sống trong hoạt động xã hội và sinh hoạt của cá nhân và của các nhóm xã
hội.
Nhịp (độ) sống: là thuậ ngữ tâm lý - xã hội để đánh giá cách thức và tính chất sử
dụng thời gian trong hoạt động và sinh hoạt của cá nhân và của các nhóm xã hội. Đó là
sự đo lường về mặt thời gian của lối sống, tức là một khía cạnh quan trọng đánh giá chất
lượng sống.
Môi trường sống: gồm môi trường thiên nhiên, môi trường vật thể văn minh (hay
còn gọi là tự nhiên thứ hai, tức là cái tự nhiên do con người tạo ra) và môi trường xã
hội…
Tóm lại có thể coi các khái niệm trên đây là những hàm nghĩa của phạm trù lối
sống.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và việc xây dựng lý tưởng, đạo đức, lối
sống trong thanh niên
1.1.2.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thanh niên luôn là một lực lượng
hùng hậu, chiếm tỷ lệ đông đảo trong dân cư, có vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Họ chính là
chủ thể xây dựng nên xã hội mới, lớp người sáng tạo ra tương lai, là mắt xích quan trọng
trong sợi dây phát triển của nhân loại. Một trong những phát hiện vĩ đại nhất của chủ
nghĩa xã hội khoa học - học thuyết giải phóng và phát triển con người - là học thuyết về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà theo đó giai cấp công nhân sẽ tự giải phóng
mình và giải phóng toàn xã hội khỏi áp bức, bất công để xây dựng lên một xã hội mới tốt
đẹp hơn. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó cần có sự tham gia của các lực lượng
trong xã hội, đặc biệt là vai trò của tầng lớp thanh niên. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đề cập nhiều tới vị trí, vai trò của thanh niên và công tác giáo dục thanh
niên đối với vận mệnh lịch sử của mỗi dân tộc, của nhân loại và thời đại. C.Mác cho rằng
“tương lai của giai cấp công nhân và tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc và
thế hệ công nhân đang lớn lên”[27, 263]. Chính C.Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn
sức sống của dân tộc và giai cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc. Khi đánh
giá vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng, các nhà kinh điển Mác xít cho rằng
chỉ có con đường cách mạng vô sản và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thực sự làm
cho các thế hệ thanh niên phát huy được vai trò to lớn của mình một cách tích cực, chủ
động và sáng tạo. Do vậy, việc giáo dục thanh niên được coi là nhiệm vụ hàng đầu để
đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa - con người phát triển toàn diện, có cuộc sống
tập thể và cuộc sống cá nhân hài hoà, phong phú. Các ông cũng chỉ rõ công tác giáo dục,
đào tạo những người chủ tương lai của đất nước, những người trực tiếp xây dựng xã hội
mới là một vấn đề có ý nghĩa to lớn, quan hệ mật thiết tới sự tồn tại của bản thân nền
chuyên chính vô sản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Dưới nền chuyên chính vô sản,
Đảng của giai cấp công nhân đặc biệt coi trọng việc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ vì một
trong những nhiệm vụ trọng yếu của của Đảng trong thời kỳ chuyên chính vô sản là phát
triển công tác cải tạo các thế hệ cũ và giáo dục các thế hệ mới theo tinh thần chuyên
chính vô sản và chủ nghĩa xã hội. Các Mác có ý tưởng sâu sắc về thanh niên và giáo dục
thanh niên, theo ông thanh niên là một lực lượng “đang phát triển” trong đấu tranh cách
mạng, chính ở đây thanh niên sẽ tích luỹ tri thức và kinh nghiệm mở rộng các mối liên hệ
xã hội mà nhờ đó, thế hệ trẻ đạt được sự phong phú của con người, của nhân cách.
C.Mác và Ăngghen kịch liệt phản đối nền giáo dục kiểu phong kiến và giáo dục tư sản,
nền giáo dục ấy làm cho thanh niên, học sinh, sinh viên phát triển què quặt và các ông
đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt để về giáo dục, làm cho giáo dục mang tính nhân đạo bao
gồm: Trí lực, thể lực, kỹ thuật. Ăngghen đặt niềm tin vào thế hệ những người trẻ tuổi của
giai cấp vô sản giác ngộ, có học vấn, được giáo dục theo tinh thần của chủ nghĩa cộng
sản. Nó đảm bảo quyền được phát triển đầy đủ những tài năng của mình và vì thế cần
quan tâm giáo dục cẩn thận thế hệ đang lớn lên. Mác và Ăngghen luôn đánh giá cao vai
trò của thanh niên trong đời sống chính trị - xã hội. Từ các phong trào cách mạng cuối
thế kỷ XIX ở Đức, áo, Nga...với sự tham gia của tầng lớp thanh niên các ông đã nhận
thấy cũng như công nhân, tầng lớp thanh niên khi được tổ chức sẽ trở thành hạt nhân của
đội quân cách mạng, là lực lượng hùng hậu có khả năng hoàn thành xuất sắc vai trò của
mình trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ăngghen khẳng định thanh niên không
thể đứng ngoài chính trị, chính cuộc sống hiện thực đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào
đời sống chính trị.
1.1.2.1. Quan điểm của Lênin
Lênin lại đặc biệt đánh giá cao vai trò của thanh niên công nhân, coi đó là “nguồn
sinh lực chiến đấu của cách mạng”. Người đã quan sát thấy trong thanh niên công nhân
một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm được sự vươn tới lý tưởng dân chủ và
CNXH, thành công của phong trào thanh niên chính là chỗ biết gắn liền nhận thức lý
luận của chủ nghĩa Mác - tri thức khoa học với sự tham gia trực tiếp của họ vào cuộc đấu
tranh chính trị của giai cấp vô sản. Người đã khẳng định: “Ai nắm được thanh niên,
người đó làm chủ thế giới và theo một nghĩa nào đó nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa, đó chính là của thanh niên”. Thấu hiểu những đặc trưng của lớp người trẻ
tuổi, Lênin đặt niềm tin vào vai trò và sức sáng tạo của thế hệ thanh niên cách mạng một
cách sâu sắc, nhất quán. Ông cho rằng: “Nhiệm vụ thực sự sáng tạo ra xã hội cộng sản
chủ nghĩa chính là của thanh niên”. Cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là nhiệm
vụ quan trọng nhất của Đoàn thanh niên cộng sản cho nên phải động viên thanh niên tích
cực tham gia xây dựng kinh tế và văn hoá. Muốn kiến thiết kinh tế, muốn tăng năng suất
lao động để chiến thắng chủ nghĩa tư bản thì cần phải có tri thức, cần phải nắm được
khoa học - kỹ thuật, thanh niên phải chiếm lấy thành trì khoa học thì mới thật sự trở
thành chủ nhân của đất nước:
Thật sai lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản,
những kết luận của khoa học cộng sản mà không cần phải thấm nhuần tổng số
kiến thức mà chính bản thân chủ nghĩa cộng sản là kết quả. Nếu không có một
nền học vấn hiện đại thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi
[24, tr.365].
Để thanh niên phát huy được vai trò của mình, thực hiện được nhiệm vụ cao cả
đó, Lênin chủ trương cải tổ triệt để công tác tổ chức và giáo dục thanh niên với những
nội dung giáo dục cụ thể, toàn diện. Đó là giáo dục cho thanh niên tinh thần khắc phục
khó khăn: “Nếu sợ khó khăn thì Đoàn thanh niên cộng sản sẽ không phải là Đoàn thanh
niên cộng sản nữa”. Đoàn thanh niên cộng sản “không thể hành động như những kẻ hèn
yếu vốn quen trốn tránh khó khăn và đi tìm những việc dễ làm”. Phải giáo dục lòng tin
tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giáo dục cho
thanh niên tinh thần kiên cường và chí khí bền vững để có thể vượt qua những thất bại
buổi đầu, tiến thẳng tới mục đích lớn lao. Lênin cũng chỉ rõ rằng nhiệm vụ của thanh
niên trong đó thanh niên sinh viên là phải học tập, học chủ nghĩa cộng sản. Phải tiêu hoá
những tri thức sách vở biến nó thành phương pháp để làm việc một cách sáng tạo, tập
làm quen với những công tác thực tế, khắc phục những biểu hiện nhà trường tách với
cuộc sống, trong học tập chỉ biết tiếp thu tri thức một cách thụ động, máy móc và giáo
điều, không có đầu óc phê phán. Người nhấn mạnh, nhà trường mới, nền giáo dục của
chế độ mới phải giúp thanh niên thanh toán triệt để những hậu quả tiêu cực của nền giáo
dục tư sản để lại. Toàn bộ sự nghiệp giáo dục cho thanh niên phải hướng vào việc phát
triển đạo đức trong thanh niên để họ trở thành những con người tốt, những con người có
văn hoá phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Ngoài vấn đề học tập,
trau dồi đạo đức, thấm nhuần chủ nghĩa cộng sản, Lênin còn nhấn mạnh vấn đề thanh
niên phải không ngừng bồi dưỡng sức khoẻ, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và văn hoá, chỉ
có như vậy thanh niên mới tránh được những tác động không lành mạnh của xã hội đối
với cuộc sống, từ đó phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Thanh niên cần phải được tươi vui, yêu đời và có tinh thần sảng khoái.
Họ cần những môn thể thao lành mạnh, những ngón tay khéo léo. Có nghĩa là
được luyện tập để các bắp thịt được nhẹ nhàng và nhanh nhẹn đáp ứng lại
những đòi hỏi của lao động tinh xảo và cao [25, tr.269].
Các nhà kinh điển còn vạch rõ việc giáo dục thanh niên không phải theo lối cũ,
tách rời cuộc sống, tách rời đấu tranh. Đoàn thanh niên cộng sản phải gắn việc giáo dục,
học tập, thực tập của mình với lao động của những người công nhân và nông dân,
không nên chỉ giam mình trong việc đọc sách báo và tài liệu của cộng sản. Phải biết đặt
vấn đề như thế nào để hàng ngày ở mỗi làng mạc, mỗi thành phố, thanh niên giải quyết
đước một cách thực tiễn vần đề này hay vấn đề khác của lao động tập thể, dù là nhỏ bé
nhất, đơn giản nhất.
1.1.2.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
Kế thừa những di sản quý báu của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát triển luận điểm mácxít về vai trò của thanh niên trong xã hội, về nhiệm vụ giáo
dục thế hệ trẻ của Đảng thông qua tổ chức Đoàn thanh niên trong điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam. Nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn gắn thanh niên
với giai cấp công nhân, với đảng tiên phong của nó thì Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên
không những gắn với giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc. Muốn hồi sinh dân tộc
trước hết phải hồi sinh thanh niên. Việc tổ chức Việt Nam cách mạng Thanh niên để
chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ra Báo “Thanh niên” đă chứng
tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến lược khi nhìn nhận vai trò của thanh niên, chỉ
thanh niên mới có thể “nắm vai trò là người châm ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng Việt
Nam”. Người coi thanh niên là hạt giống quý của cách mạng, là người tiếp sức cách
mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên
tương lai. Xác định vị trí, vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước, Người
khẳng định:
Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh
niên, thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải
rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương
lai đó [33, tr.185].
Để giúp thanh niên thực hiện vai trò của mình, Hồ Chí Minh đặc bịêt nhấn mạnh
tới công tác giáo dục thanh niên coi đó là vai trò của người công dân đối với nhà nước,
với chế độ, vai trò của người chiến sĩ cách mạng đối với lý tưởng và sự nghiệp mà mình
theo đuổi. Từ đó, thanh niên phải biết trau dồi đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ cách
mạng, suốt đời phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cao quý: độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội. Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của thanh niên là phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước
nhà? Mình phải làm gì cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà
hy sinh phấn đấu chừng nào?”. Đó cũng chính là yêu cầu về giáo dục và tự giáo dục ở
thanh niên theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, chủ tịch
Hồ Chí Minh đều đề cập tới vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Theo
Người, giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ với các cuộc đấu tranh xã
hội, giáo dục thanh niên là nhiệm vụ của gia đình, nhà trường, Đoàn thanh niên và các
đoàn thể cách mạng khác nhằm biến nguồn lực dồi dào của tuổi trẻ ở dạng tiềm năng trở
thành hiện thực. Người viết:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có ý chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc quan trọng và cần thiết [34, tr.498].
Với quan điểm cho rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay sau khi cách
mạng tháng Tám thành công năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới việc xây
dựng nước nhà giàu mạnh, sánh kịp các nước anh em, bạn bè trên thế giới mà lực lượng
gánh vác công việc đó không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên:
“Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em”. Hồ Chí Minh luôn cho rằng việc bồi dưỡng cho đời sau
là công việc hết sức công phu, bền bỉ. Người coi giáo dục và đào tạo, rèn luyện thế hệ trẻ
là sự nghiệp “trồng người”. Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì lợi ích mười năm phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”[35,tr222] và để sự nghiệp này đạt kết
quả tốt thì phải có sự phối hợp của nhiều lực lượng trong xã hội, trước hết là của Đảng,
Nhà nước, gia đình và các đoàn thể xã hội. Người đề ra phương châm “giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng”. Trường học, gia đình và các đoàn thể thanh niên …cần phải chú
ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp
thời khuyến khích, uốn nắn và sửa chữa. Về phương pháp giáo dục thanh niên, Người
nhấn mạnh:
Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với
những cuộc đấu tranh của xã hội, lực lượng của chính phủ để ngăn ngừa những
cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của
thanh niên”[33,tr456]
Về nội dung giáo dục thanh niên, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn diện:
Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn
liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận
phải liên hệ với thực tế. Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các
mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá kỹ thuật, lao
động và sản xuất”[36,tr190].
Người nhắc nhở phải coi trọng việc giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống
cách mạng cho thế hệ trẻ:
Chúng ta cần ghi chép và thường nhắc nhở lại những sự tích ấy, để giáo
dục nhân dân ta chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, quyết tâm làm tròn
nhiệm vụ xây dựng lại nước nhà. Để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí
kiên quyết, quật cường, một tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương
lai của Tổ quốc, vào lực lượng của nhân dân, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích
chung của dân tộc”[33,tr387]
Khi yêu cầu thế hệ đi trước xung phong trong công việc, Hồ Chí Minh không quên
nhấn mạnh vai trò của cán bộ đảng viên phải luôn luôn nêu tấm gương sáng, làm khuôn
mẫu cho thanh niên học tập. Sau cách mạng tháng Tám Người đề nghị với các bậc cao
tuổi:
Con cháu ta, thanh niên thì gánh việc nặng, chúng ta già cả, không làm
được công việc nặng nề thì khua gậy đi trước, để khuyến khích thanh niên và
san sẻ những kinh nghiệm của chúng ta cho họ. Chúng ta là bậc phụ lão cần
phải tinh thần đoàn kết trước để làm gương cho con cháu ta theo[33,tr89]
Người đề nghị đảng viên, nhất là đảng viên lâu năm cần có tinh thần trách nhiệm
cao trong viẹc dìu dắt thế hệ trẻ. Người nói: “Các đồng chí già là rất quý, là gương bền bỉ
đấu tranh, dìu dắt bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí trẻ, dồng chí già phải có thái độ độ
lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức Cộng sản chủ nghĩa”.
Người nhắc nhở cán bộ và đảng viên lâu năm không nên có thái độ ích kỷ gia trưởng đối
với thế hệ trẻ mà ngược lại càng đào tạo thanh niên cho họ làm hơn mình: “Nếu thế hệ
già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt”. Đó là quan
điểm đúng đắn, hợp quy luật, truyền thống dân tộc “tre già măng mọc”, về việc chuyển
giao thế hệ “con hơn cha là nhà có phúc” và sự phát triển liên tục đi lên của xã hội loài
người.
Từ đó Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp bộ Đảng phải làm tốt công tác thanh niên,
chú ý đến việc phát triển đảng viên trẻ tuổi nhằm tăng sinh lực cho Đảng, bảo đảm sự kế
thừa giữa các thế hệ và tạo điều kiện cơ hội cho thanh niên trưởng thành. Đảng cần giúp
đỡ Đoàn thanh niên cộng sản phát triển tốt, đồng thời cần phải chọn ra nhữngđồng chí
doàn viên đã kinh qua thử thách và đủ điều kiện đưa họ vào Đảng. Bên cạnh đó, Hồ Chí
Minh cũng yêu cầu, đòi hỏi sự đóng góp, cống hiến của tuổi trẻ đối với sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Người đề nghị Đảng và Chính phủ cần quan tâm tới lợi ích chính
đáng của thanh niên. Theo đó sự quan tâm phải được thể hiện một cách thiết thực từ việc
nắm bắt nhu cầu,nguyện vọng, xu hướng của thanh niên đến việc giáo dục, đào tạo và bồi
dưỡng họ. Người cho rằng muốn phát huy vai trò thanh niên trước tiên Đảng và Nhà
nước phải đề ra đường lối chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp nguyện vọng chính
đáng của nhân dân và tuổi trẻ, sẽ có sức thu hút lớn ủng hộ của thanh niên tham gia hành
động cách mạng một cách tự giác. Người viết:
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu đều tỏ ra dũng cảm.
Đảng và Chính phủ cần chon một số ưu tú nhất cho các cháu ấy đi học thêm
các ngành, các nghề để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lâph trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực
trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.[37,tr504].
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo “cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm
lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giả quyết các vấn đề một cách thiết thực”. Người
đề nghị Đảng và Chính phủ phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những thanh
niên có công đối với cách mạng. Trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Người viết:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình
(cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…) Đảng, Chính
phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng
thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần
dần “tự lực cách sinh” [37, tr.503].
Với tư tưởng cách mạng, sự hiểu biết và tầm nhìn xa của mình, Hồ Chí Minh đã
luôn quan tâm tới các thế hệ thanh niên, quan tâm tới công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh
niên nhằm xây dựng lên một đội ngũ thanh niên cách mạng giỏi về chuyên môn, có đạo
đức, có lý tưởng cao đẹp để thực hiện được nguyện vọng thiết tha của Người là giành
độc lập tự do cho dân tộc, tiến bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước
Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã luôn coi trọng và đánh giá cao vai trò của thanh niên đối với sự nghiệp cách
mạng ở nước ta. Ngay từ khi mới thành lập, qua các phong trào cách mạng Đảng ta đã
thấy được thanh niên là một lực lượng cách mạng to lớn, vị trí của thanh niên trong
phong trào giải phóng dân tộc rất quan trọng, biểu thị qua việc thanh niên hăng hái tham
gia vào các cuộc đấu tranh, biểu tình…của nhân dân lao động chống áp bức, bất công,
đòi độc lập tự do cho dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất
(10/1930) đã thông qua án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động để tiến tới thành
lập Đoàn TNCS, giúp Đảng tiến hành công tác vận động và giáo dục thanh niên. Điều
này đã chứng tỏ Đảng ta đánh giá cao vai trò của thanh niên trong cuộc đấu tranh chống
đế quốc và phong kiến tay sai những năm đầu thành lập. Tháng 3 năm 1931, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần hai nhằm thực hiện nhiệm vụ: Cần kíp tổ chức
ra Cộng sản Thanh niên Đoàn, hội nghị cũng thông qua chương trình hành động của
Cộng sản Thanh niên đoàn. Dưới ánh sáng của Hội nghị TW 2, sau một thời gian ngắn
trên cả nước, nhiều tổ chức Đoàn cơ sở được thành lập. Sự ra đời và phát triển cảu tổ
chức Đoàn đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên, phong trào
cách mạng nước ta lúc đó. Từ 1931 đến 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các phong
trào cách mạng, thanh niên đèu anh dũng đứng đầu trong các cuộc đấu tranh. Thanh niên
công nhân, nông dân, học sinh, tiểu tư sản là lực lượng châm ngòi pháo, mở đầu và dẫ
đầu trong phong trào đấu tranh biểu tình, đình công, bãi khoá, chống sưu cao thuế nặng,
chống đàn áp khủng bố, chống chiến tranh, đòi hoà bình, đòi quyền tự do dân chủ. Thanh
niên cũng chính là lực lượng chủ yếu trong các đội vũ trang tuyên truyền, giải phóng
quân, là những người xung kích cùng toàn dân vùng dậy khởi nghĩa giành thắng lợi to
lớn trong cách mạng tháng Tám 1945 lịch sử, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
nhà nước dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông nam á. Tiếp sau cách mạng tháng Tám, khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, thanh niên Việt Nam lại lên
đường tòng quân chiến đấu nhằm bảo vệ thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân đã
giành được. Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ” thanh niên cả nước đã đứng lên cầm súng, tầm vông để chiến
đấu, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ Tổ quốc. Hàng triệu thanh niên đi
dân công, tham gia các đội thanh niên xung phong làm công tác phục vụ tiền tuyến.
Thanh niên ở vùng tự do, vùng căn cứ du kích ngày đêm kiên cường chống giặc càn quét,
tăng gia sản xuất, cung cấp lương thực cho bộ đội ăn no đánh thắng. Những tấm gương
tiêu biểu như Võ Thị Sáu, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, La Văn Cầu, Cù Chính
Lan…cùng hàng triệu thanh niên dũng cảm khác đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ vĩ
đại, thanh niên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung đã đoàn kết một lòng làm nên
chiến thắng Điện Biên lững lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký
vào hiệp định Giơnevơ, làm phá sản sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở Đông
Dương. Từ năm 1954, khi đất nước tạm thời chia làm hai miền, trong lúc thanh niên
miền Bắc bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và bước đầu xây
dựng những cơ sở vật chất kỹ thuật đầu tiên của chủ nghĩa xã hội thì thanh niên miền
Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống chủ nghĩa thực
dân mới của Mỹ và tay sai cho tới thắng lợi cuối cùng. Phong trào “Ba sẵn sàng” đã cuốn
hút 4 triệu thanh niên miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với khí
thế cách mạng sôi sục, quyết chiến quyết thắng. Với ý chí “tiền tuyến gọi thanh niên sẵn
sàng”, “có lệnh là đi, có giặc là đánh”, “đã đánh là thắng”, hàng triệu lượt thanh niên đã
hăng hái lên đường ra tiền tuyến giết giặc lập công. Hoà với khí thế cách mạng của thanh
niên miền Bắc, ở miền Nam hàng triệu thanh niên dũng cảm đi đầu trong các cuộc đấu
tranh chính trị, đấu tranh vũ trang với kẻ thù trong phong trào “Đồng khởi”. Hơn 3 triệu
thanh niên sôi nổi tham gia phong trào “năm xung phong”. Bằng tinh thần dũng cảm.
mưu trí và sự thông minh của mình, các nữ thanh niên đã đống góp tích cực vào các cuộc
đấu tranh của “đội quân tóc dài”. Trong các đô thị vùng Mỹ – nguỵ kiểm soát, các cuộc
xuống đường vang lời ca “Dậy mà đi”, phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe”…phát
triển rộng khắp.
Với tinh thần “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi”, lớp lớp thanh niên Việt Nam
lại tiếp tục lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương
lai” nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
Đã có hàng vạn lượt thanh niên miền Bắc nhập ngũ, hàng vạn tấn hàng được vận chuyển
vào chiến trường miền Nam, rất nhiều phong trào thi đua như: “Ba đảm đang. Ba sẵn
sàng” ở miền Bắc, “Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công” ở miền Nam đã được đông đảo
thanh niên tham gia để “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Chiến công và sự
trưởng thành của tuổi trẻ cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước xứng
đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, thanh niên ở miền Bắc được sự giáo dục của
Đảng và sự dìu dắt của Đoàn đã tỏ ra rất xững đáng là thế hệ của cách mạng
tháng Tám vẻ vang…Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay, theo
tiếng gọi của Tổ quốc, thanh niên cả nước ta càng giương cao ngọn cờ của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều thành tích xuất sắc. Hàng triệu thanh
niên miền Bắc đã hăng hái tham gia phong trào “Ba sẵn sàng”. Hàng vạn cháu
trai và gái đã tình nguyện vào các đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu
nước. Thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên trong hai cuộc đấu tranh yêu
nước. Ngày nay dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã
được rèn luyện thành một thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ thông minh, không
sợ gian khổ, hy sinh, quyết chiến, quyết thắng, noi gương oanh liệt của các anh
hùng Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang và nhiều liệt sĩ khác, khắp thành thị,
nông thôn, miền xuôi, miền núi thanh niên ta ngày nay đã thành một đội quân
to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc thân yêu, vì
tiến bộ xã hội. [38,tr503]
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn
và triệt để trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nêu cao tinh
thần của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và là tấm gương đi đầu trong phong trào chống
chủ nghĩa thực dân mới ở khu vực và thế giới. Thắng lợi này cũng đã mở ra một kỷ
nguyên mới cho đất nước ta - kỷ nguyên cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Bước vào thời kỳ mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ của thanh niên phải
đáp ứng được những yêu cầu mới của cách mạng. Đoàn thanh niên phải được xây dựng
và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học cộng
sản chủ nghĩa của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Do đó Đoàn phải giáo dục rèn luyện thanh niên một cách toàn diện trong thực tế đấu
tranh cách mạng, phát huy những truyền thống tốt đẹp của thanh niên, bồi dưỡng thanh
niên cả nước thành những con người mới xã hội chủ nghĩa có lý tưởng cao đẹp, có khí
phách anh hùng. Thanh niên phải làm tròn vai trò xung kích trong 3 cuộc cách mạng,
trong phong trào thi đua lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, “Sống, chiến đấu và học
tập theo tấm gương Bác hồ vĩ đại”, trở thành lớp người kế tục trung thành và xuất sắc sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc.
Năm 1986, Đảng và nhân dân ta bắt tay vào công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Để phát huy vai trò của thanh niên, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan
trọng về thanh niên và công tác giáo dục thanh niên, điều này đã khẳng định sự quan
tâm đặc biệt đến thanh niên và công tác giáo dục thanh niên của Đảng ta. Đó là các
Nghị quyết của Bộ Chính trị TW Đảng: Nghị quyết 26 (khoá V), Nghị quyết 25 (khoá
VI), Nghị quyết TW 4 (khoá VII)…trong đó Đảng ta chỉ rõ: “Thanh niên là lực lượng
xã hội to lớn có khả năng hùng hậu. Thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”; “Đảng đặt niềm
tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh
niên để thanh niên thực hiện sứ mệnh của lịch sử”. Bên cạnh đó, ý thức tầm quan
trọng của lực lượng thanh niên trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Đảng ta cũng
chủ trọng tới việc giáo dục thế hệ trẻ nhằm tạo nên một lớp người mới “có lý tưởng
cao đẹp, có ý thức, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi. Sống
có văn hoávà tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và có tinh thần quốc tế chân chính. Cổ
vũ thanh niên Việt Nam nuôi dưỡng hoài bão lớn, tự cường dân tộc, năng động, sáng
tạo, làm chủ được khoa học và công nghệ vươn lên ngang tầm với thời đại…hình
thành một lớp thanh niên vững vàng về chính trị, kiên điịnh con đường xã hội chủ
nghĩa, trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý kinh doanh giỏi, những chuyên gia xuất
sắc trên mọi hoạt động xã hội…”.
Cách mạng là sự nghiệp lâu dài đầy khó khăn, thử thách của rất nhiều thế hệ, do
vậy việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là quy luật của cách mạng, của vận
động lịch sử. Quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau chính là thực
hiện quy luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng. Tuy
nhiên, đây là công việc lâu dài, công phu, cần có sự phối hợp của nhiều lực lượng có
trách nhiệm trong xã hội trong việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ để họ có thể vươn lên
đáp ứng được yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Thanh niên ngày nay đang đứng
trước tương lai tốt đẹp với rất nhiều cơ hội thuận lợi cũng như thách thức, do đó đòi hỏi
thế hệ thanh niên không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tình cảm cách
mạng để có thể phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình, xứng đáng với kỳ vọng của
Đảng và nhân dân đã tin tưởng, giao phó trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
1.2. Thực trạng thanh niên trong những năm gần đây
Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, dân số thanh niên (từ 16 đến 30
tuổi) trong những năm gần đây dao động khoảng 22 - 23,8 triệu người. Mỗi năm dân số
thanh niên tăng khoảng 500 - 700 ngìn người, chiếm khoảng hơn 20% dân số cả nước.
Trong những năm gần đây sự khác biệt về giới tính trong cơ cấu thanh niên ngày càng
tăng theo hướng theo chiều nam nhiều hơn nữ. Tính đến nay, tỷ lệ thanh niên nam đạt
51,5% trong tổng số thanh niên, cao hơn so với cơ cấu giới tính chung của dân số cả
nước (cơ cấu nam giới chiếm 49,1% so với 50,9% nữ giới). Cùng với công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì quá trình đô thị hoá cũng đã phát triển
nhanh chóng, tác động không nhỏ tới việc thanh niên nông thôn chuyển dịch đi làm ăn và
sinh sống tại các đô thị tăng cao. Đánh giá về tư tưởng, thái độ chính trị của thanh niên
trong giai đoạn hiện nay có thể thấy những chuyển biến tích cực. Đa số thanh niên tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Thanh niên gương mẫu tham gia thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, các chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bên
cạnh đó, với tinh thần xung phong tình nguyện của mình, thanh niên tích cực tham gia
vào các phong trào mang tính xã hội như đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn…Với
ý chí tự lập tự cường, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, thanh niên hiện nay đang nỗ
lực vươn lên học tập, phát triển kinh tế, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế
giới nhằm làm giàu cho bản thân, gia đình và cho xã hội. Hoạt động của tổ chức Đoàn
ngày càng được mở rộng với rất nhiều phong trào, thu hút được đông đảo đoàn viên
thanh niên tham gia và đạt chất lượng tốt. Số lượng thanh niên được kết nạp vào Đoàn
và đoàn viên được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày càng tăng. Thanh niên
hiện nay quan tâm nhiều tới các vấn đề như việc làm, nghề nghiệp, học tập, tình hình
phát triển kinh tế xã hội, các tệ nạn xã hội, tình hình chính trị trong và ngoài nước, hiểu
rõ trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước, sẵn sàng tham gia các hoạt động tình nguyện tại địa phương hay ở những vùng sâu,
vùng xa. Trong xu hướng biến đổi của xã hội hiên jnay, thanh niên nhìn chung vẫn giữ
được những điểm tích cực trong lối sống của mình, tự ý thức về năng lực cá nhân, mong
muốn thể hiện và khẳng định mình nhưng vẫn quan tâm, chăm lo tới lợi ích chung. Đa số
thanh niên cho rằng ý nghĩa của cuộc sống được khẳng định qua lao động, đồng thời
thanh niên đang càng quan tâm nhiều hơn đến những giá trị tinh thần của lao động. Điều
này tạo nên một sự cân bằng trong nhìn nhận và đánh giá về lao động giữa nội dung giá
trị tinh thần và giá trị vật chất của lao động hơn trước kia. Chính những nhận thức đúng
đắn về giá trị lao động đã có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên hiện
nay.
Có thể nói rằng, thanh niên ngày nay có trình độ học vấn cao hơn trước, thông
minh, nhanh nhạy, có năng lực tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới, tích cực đi trước đón
đầu ở những ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn. Đa số thanh niên tự giác học tập, chủ
động học thêm nhiều ngành, nghề, nhất là ngoại ngữ, tin học, các kiến thức khoa học kỹ
thuật. Bên cạnh đó, thanh niên ngày nay tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước nồng
nàn của dân tộc: có lòng tự tôn dân tộc, chí tiến thủ và khát vọng vươn lên lập thân, lập
nghiệp, mong muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên cũng diễn ra một thực
tế là quan niệm về cuộc sống của một bộ phận thanh niên còn lệch lạc, có lối sống thực
dụng, không có lý tưởng, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị văn hoá tinh thần. Một bộ
phận thanh niên bản lĩnh chính trị còn non kém, dao động về lập trường, tư tưởng, thờ ơ
chính trị, dễ bị kích động, lôi kéo tham gia các hoạt động trái với pháp luật. Sự phân hoá
giàu nghèo, một số biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội đã tác động mạnh tới một bộ
phận thanh niên hiện nay dẫn tới lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi thường các
giá trị truyền thống của dân tộc. Trên đây là những biểu hiện sai lệch đó:
1.2.1. Những sai lệch về lý tưởng
Thanh niên là lứa tuổi giàu mơ ước, hoài bão đối với cuộc sống tương lai của
mình. Để hình thành lý tưởng sống cho bản thân, mỗi thanh niên đều hình thành cho
mình một hình mẫu lý tưởng để vươn tới, trong đó có sự thống nhất hài hoà giữa nhận
thức tình cảm và ý chí. Chính nhờ sự thống nhất này mà lý tưởng có tác dụng như một
động lực to lớn, thúc đẩy cá nhân vượt qua khó khăn vươn tới mục đích cuối cùng. Trong
hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, trước những biến đổi to lớn và nhanh chóng của tình
hình kinh tế - xã hội đã có tác động không nhỏ tới tư tưởng, tình cảm niềm tin và lý
tưởng của thanh niên.
Trong lúc tình hình thế giới hiện nay có nhiều biến động phức tạp, kẻ địch tiếp tục
tấn công ta trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là chúng tấn công vào thế hệ
trẻ, tương lai của đất nước bằng âm mưu “diễn biến hoà bình” thì một bộ phận thanh niên
của ta tỏ ra bi quan, chán nản, giảm sút ý chí phấn đấu, mất lòng tin đối với tổ chức Đoàn
và Đảng, mất lòng tin vào lý tưởng cộng sản, không tin vào thành công của sự nghiệp đổi
mới mà Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Những biểu hiện của lối sống buông thả như: nạn
cờ bạc, rượu chè, chạy theo đồng tiền, chạy theo những cái lợi trước mắt…đang ngày
một phát triển nhanh chóng trong thanh niên hiện nay. Họ tranh thủ hưởng thụ, sống gấp
mà không thấy được trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, đối với gia đình. Mặc
dù đa số thanh niên hiện nay đều mong muốn được đóng góp sức mình cho việc xây
dựng quê hương đất nước nhưng một bộ phận thanh niên vẫn thờ ơ với chính trị, có xu
hướng thực dụng trong việc lựa chọn giá trị, họ quan tâm nhiều tới lợi ích của các nhân
hơn là lợi ích của tập thể, coi các giá trị kinh tế hơn các giá trị tinh thần, những giá trị
trước mắt hơn những giá trị tương lai, những giá trị hiện đại lấn át gía trị truyền thống…
Xu hướng hướng ngoại và đòi hỏi sức tiêu dùng ngày càng cao theo lối sống Mỹ và
phương Tây đang có chiều hướng phát triển mạnh trong khi mức sống của ta còn thấp,
thậm chí còn nghèo và lạc hậu. ở bộ phận thanh niên này thì sự mơ hồ về chính trị là rất
rõ nét, họ không quan tâm tới chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước mà chỉ quan tâm tới những gì liên quan trực tiếp tới mình. (Số liệu tổng hợp từ
31 báo cáo nhanh và báo cáo điều tra chuyên đề về dư luận xã hội trong năm 1995 của
Vụ Tuyên truyền, Ban Tư tưởng - Văn hoá TW cho biết: 43% thanh niên không quan tâm
tới các ngày lễ kỷ niệm lớn; 68% sinh viên không quan tâm đến nội dung gắn với những
ngày kỷ niệm lớn…). Chính vì điều này đã dẫn tới hệ quả là nhận thức xã hội của số
thanh niên này hết sức nghèo nàn, nông cạn, đặc biệt là trước các vấn đề được cả xã hội
quan tâm…Bên cạnh đó, thanh niên hiện nay cũng quan tâm mạnh mẽ tới vấn đề việc
làm, lựa chọn nghề nghiệp lý tưởng cho bản thân mình. Tuy thế, xu hướng chọn nghề của
thanh niên có thiên hướng nặng về yếu tố vật chất, miễn sao kiếm được nhiều tiền cho
bản thân và gia đình. Tuy chỉ là suy nghĩ rất thực tế nhưng từ đó để đi tới lối sống thực
dụng là khoảng cách rất gần, từ đó thanh niên dễ có lối sống coi trọng đồng tiền, xem
thường tình nghĩa. Thanh niên được đào tạo có trình độ thì luôn muốn ở lại làm việc tại
các trung tâm đô thị lớn mà không quay về xây dựng quê hương làm cho tình trạng thiếu
việc làm ở thành phố tăng nhanh, trong khi ở nông thôn lại rất thiếu lao động có tay
nghề. Trong thanh niên sinh viên hiện nay, nảy sinh xu hướng chỉ quan tâm đến lợi ích
cá nhân với tiêu chí chọn lựa ngành nghề có thu nhập cao, thích làm cho doanh nghiệp
nước ngoài hơn là làm trong cơ quan nhà nước. Khi được phân công công tác sau khi tốt
nghiệp ra trường, nhiều sinh viên ngại đi tới những nơi vùng sâu vùng xa còn nhiều khó
khăn đang rất cần đến họ; tìm mọi cách để ở lại thành phố, sẵn sàng làm việc trái nghề,
thậm chí chấp nhận bỏ chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo. Cùng với nó, nạn “chảy
máu chất xám” đang diễn ra một cách tự phát, một số không nhỏ thanh niên sinh viên
Việt Nam du học ở nước ngoài “một đi không trở về” phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước. Đó cũng chính là những định hướng lý tưởng nghề nghiệp sai lệch
trong một bộ phận đông đảo thanh niên hiện nay. Nghị quyết TW 4 khoá VII đã đánh giá
về tình hình sai lệch về lý tưởng chính trị - xã hội của thanh niên như sau: “Trong giai
đoạn hiện nay có một bộ phận thanh niên đang gặp nhiều khó khăn về định hướng
chính trị trong khi tình hình kinh tế xã hội ở nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng…Một
bộ phận thanh niên ít quan tâm đến sinh hoạt chính trị, coi thường truyền thống cách
mạng, trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Một số dao động, thiếu niềm tin ở chủ nghĩa xã hội”.
Những biến động phức tạp và có phần bất lợi của tình hình chính trị thế giới, khu vực
cùng những ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đã và đang tác động tiêu cực đến
quá trình xây dựng lý tưởng cho tầng lớp thanh niên nước ta hiện nay, làm cho một bộ
phận không nhỏ thanh niên có những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng
cách mạng của Đảng, vào con đường chủ nghĩa xã hội. Do nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa
Mác - Lênin, đã có một số thanh niên do bất mãn về một khía cạnh nào đó đã đặt lợi ích
của cá nhân cao hơn lợi ích của Đảng, xâm hại lợi ích của tập thể, thậm chí phản bội Tổ
quốc. Hiện tượng thanh thiếu niên thờ ơ với các hoạt động chính trị, với truyền thống
cách mạng và truyền thống dân tộc đang trở nên phổ biến làm nguy hiểm tới sự tồn vong
của chế độ.
1.2.2. Những sai lệch về đạo đức, lối sống
Đạo đức và lối sống là phạm trù xã hội rộng lớn, thể hiện qua các hoạt động thực
tiễn như hành vi ứng xử, sinh hoạt văn hoá, trong học tập, trong tình yêu hôn nhân và gia
đình của thanh niên hiện nay. Thực tế xã hội ta cho thấy dưới ảnh hưởng của văn hoá Mỹ
và phương Tây cùng với hệ quả của nền kinh tế thị trường là lối sống thực dụng, ở một
bộ phận thanh niên đã xuất hiện những lệch lạc về đạo đức, lối sống trái với những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lối sống buông thả, sống gấp, hưởng thụ, lãng
phí trong thanh niên không thể phù hợp với điều kiện sống còn khá nhiều khó khăn của
chúng ta hiện nay. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc …cũng thường xuyên xảy ra
trong sinh hoạt của thanh niên, làm nguy hại tới môi trường giáo dục lành mạnh. Nó
không những làm thanh niên sa sút về học tập, lao động mà còn gây ảnh hưởng xấu tới
quá trình trau dồi đạo đức và hình thành nhân cách của thanh niên. Tệ nạn nghiện hút
cũng phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây đã khiến bao gia đình tan vỡ hạnh
phúc, đặc biệt số lượng con nghiện chủ yếu tập trung vào lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi lao
động, là gánh nặng của gia đình và cả xã hội. Rất nhiều thanh niên trước khi rơi vào hoàn
cảnh nghiện ngập đã là những con ngoan, trò giỏi, khi đi theo tiếng gọi của ma tuý đã
đánh mất mình, làm băng hoại các giá trị đạo đức của gia đình, gây nên sự mất ổn định
cho xã hội.
Tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu, hợp tác với
các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu
kém phát triển. Cùng với quá trình mở cửa, các luồng văn hoá ngoại lai cũng du nhập
vào nước ta đã và đang làm mất đi những giá trị văn hoá truyền thống. Một bộ phận
thanh niên đã quay lưng lại với văn hoá dân tộc, quay lưng lại với văn hoá truyền thống
mà tiếp thu những luồng văn hoá lai căng, thác loạn thậm chí là phản động. Thay vào
việc tham gia vào việc sinh hoạt trong các hoạt động văn hoá truyền thống ở các trung
tâm văn hoá, số thanh niên này lại tham gia vào các hoạt động hưởng thụ tại các vũ
trường, nhà hàng, sử dụng các loại ma tuý tổng hợp để thấy phấn khích hơn, cảm giác tự
do hơn…Vụ việc vũ trường New Centery tại phố Tràng Thi, Hà Nội đã là bài học cảnh
tỉnh đối với các bậc làm cha, làm mẹ về sự giáo dục và quản lý con cái trong các hoạt
động vui chơi giải trí cũng như là hồi chuông cảnh báo đối với xã hội về sự xuống cấp
trong việc hưởng thụ các giá trị văn hoá trong giới trẻ hiện nay.
Đối với lứa tuổi thanh niên thì tình yêu và hôn nhân cũng là một lĩnh vực được
đông đảo các bạn trẻ quan tâm bởi nó định hướng cho hạnh phúc của các bạn trong tương
lai. Bên cạnh những tình yêu trong sáng, hồn nhiên và cao thượng của đao số thanh niên
thì vẫn còn có những quan niệm sai lầm về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong giới trẻ
hiện nay. Họ cho rằng tình yêu và hôn nhân là hai lĩnh vực tách biệt, không có quan hệ
với nhau, rằng thì là “yêu cho biết”, quan niệm “yêu 100, chọn 10, lấy 1”…Yêu không
nhất thiết phải đi tới hôn nhân. Hơn thế nữa là các tình yêu tính toán kiểu kinh tế thị
trường, tình yêu vụ lợi nhằm có thể thay đổi cuộc đời bằng những sự tính toán, đánh đổi
sự trong sáng, cao đẹp của tình yêu chân chính để lấy một cuộc sống đầy đủ hơn, giàu có
hơn mà không cần phải có tình yêu. Một số thanh niên quan niệm về tình yêu và tình dục
một cách giản đơn, cho rằng đã yêu là phải dâng hiến tất cả, tình yêu sẽ vững bền hơn
nếu có sự đảm bảo về tiền bạc…Họ sẵn sàng chỉ vì những cái lợi trước mắt mà tự đánh
mất đi nhân phẩm, tình yêu và cả hạnh phúc của cuộc đời bởi những quan niệm sai lầm
về cuộc sống, tình yêu và hôn nhân. Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, ở
toàn án sơ thẩm cấp huyện đến hết tháng 9 năm 2004 số cặp vợ chồng ly hôn là 7.786
cặp, tăng 446 cặp so với năm 2003. Đã có không ít kiểu tình yêu vụ lợi phải trả giá cho
quan niệm sai lầm, tỷ lệ nạo phá thai, ly hôn ngày càng gia tăng trong xã hội ta, đặc biệt
nguy hiểm hơn là tỷ lệ này lại đa số nằm trong lứa tuổi thanh niên. Lối sống tự do cá
nhân vị kỷ đang đặt ra những thách thức mới trong quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình, sự gắn bó với nhau giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo hơn. Xu
hướng thích ra ở riêng ngay từ khi mới lập gia đình ngày càng trở nên phổ biến, mô hình
gia đình truyền thống nhiều thế hệ trong đó cùng chung sống với cả ông bà, cha mẹ lẫn
con cái ngày càng giảm đi, mối quan hệ huyết thống theo đó cũng dần phai nhạt. Không
ít người già bị cô đơn, bị ngược đãi, bị hành hạ về tinh thần, âm thầm cắn răng chịu
đựng, xa lạ trong chính ngôi nhà của mình, bị chính đứa con mình dứt ruột đẻ ra “báo
hiếu” bằng sự ngược đãi, bỏ rơi khi mình già yếu. Từ sự biến đổi trong quan niệm sống,
đề cao giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ thấy cái lợi trước mắt không thấy cái
lợi lâu dài đã dẫn đến hiện tượng trong mỗi gia đình, tập thể, xóm làng xuất hiện sự xung
đột tâm lý mà nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu vẫn là về lợi ích. ở nhiều địa phương vấn
đề tranh chấp lợi ích, va chạm xô xát án mạng đã xảy ra làm mất đi tình làng nghĩa xóm,
để lại những hậu quả nặng nề về mặt pháp lý, sức khoẻ, tinh thần cho gia đình và xã hội.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, có thể nói tình yêu của lứa tuổi thanh niên đang bị tác
động, ảnh hưởng sâu sắc bởi sự coi nhẹ các giá trị đạo đức, các giá trị truyền thống của
dân tộc của các bạn trẻ thời @. Đây thực sự là hồi chuông báo động cho các bậc phụ
huynh, các thầy cô giáo, các nhà quản lý và các đơn vị chức năng có liên quan về thực
trạng lối sống, đạo đức của giới trẻ trong giai đoạn hiện nay và sau này bởi tuổi trẻ chính
là mùa xuân, là tương lai của đất nước.
1.2.3. Nguyên nhân
Những biểu hiện sai lệch về lý tưởng, đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay
xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản: đó là sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường lên một bộ phận không nhỏ thanh niên, lối sống ích kỷ, chạy theo đồng tiền, lấy
đồng tiền làm thước đo nhân cách, chạy theo sự hưởng thụ các giá trị văn hoá thấp hèn.
Không thể phủ nhận những thành quả của nền kinh tế thị trường đã mang lại cho đời
sống xã hội, góp phần bồi đắp hình thành nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy trí tuệ và năng lực sáng tạo cá nhân,
tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên cơ chế thị trường lại lấy cạnh
tranh và lợi ích làm nguyên tắc cơ bản, đề cao các giá trị, hiệu quả và lợi ích kinh tế dễ
làm cho con người tuyệt đối hoá giá trị vật chất, lợi ích các nhân đối lập với lợi ích xã
hội và giá trị tinh thần chân chính. Để đạt được lợi ích cá nhân vị kỷ, nhiều người đã
quay lưng lại, thậm chí chà đạp lên lợi ích tập thể, xã hội; làm đảo lộn các giá trị, chuẩn
mực đạo dức xã hội, biểu hiện ở sự xuống cấp đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng,
niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã làm gia tăng về
khoảng cách giàu - nghèo, sự phân hoá sâu sắc trong xã hội đã dẫn tới sự xuống cấp về
đạo đức, lối sống của thanh niên. Cơ chế thị trường đã tạo ra sự mất cân đối trong xã hội
khi mà “kẻ ăn không hêt, người lần chẳng ra”, khoảng cách giàu nghèo cứ bị kéo dài mãi
khiến tư tưởng muốn “đổi đời” của một bộ phận thanh niên đi theo chiều hướng tiêu cực,
ngược lại với các giá trị truyền thống của dân tộc. Hội nhập kinh tế, văn hoá quốc tế
trong nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến sự đụng độ, pha tạp các giá trị chuẩn mực
đạo đức, lối sống phi xã hội chủ nghĩa gây cản trở định hình các chuẩn mực đạo đức xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng mở cửa giao lưu quốc tế, hội nhập kinh
tế thế giới luôn là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh những mặt tích
cực do quá trình này đem lại cũng có không ít tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá
của đất nước nói chung và đạo đức nói riêng. Sự du nhập ồ ạt lối sống và văn hoá, đạo
đức phi xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với đạo đức truyền thống của dân tộc đã và đang
trực tiếp đánh vào những giá trị thiêng liêng của đạo đức và bản sắc văn hoá của dân tộc
Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử. Những văn hoá phẩm xấu, độc hại,
phản động, đồi truỵ, kích động bạo lực và khiêu dâm đã tràn vào nước ta qua sách báo,
video đen, đĩa Compach nhập lậu, internet…của các nước tư bản tràn ngập thị trường
Việt Nam làm vẩn đục môi trường đạo đức truyền thống của dân tộc. Điều đó đã tác
động nhanh chóng vào cuộc sống của thanh niên, tầng lớp thích ứng rất nhanh với các
luồng văn hoá mới. Từ đó, lối sống đua đòi, tâm lý tiêu xài, hưởng thụ phát triển nhanh
chóng trong thanh niên. Để có thể đắm mình trong cuộc sống hưởng thụ kiểu tư bản, đã
có không ít thanh niên có hoàn cảnh gia đình nghèo khó phải đánh đổi nhân cách, nhân
phẩm, thậm chí là cả cuộc sống của mình nhằm tìm thấy một cuộc sống xa hoa, không
tưởng. Tệ nạn xã hội gia tăng trong đó bộ phận thanh niên dính vào nghiện ma tuý, mại
dâm ngày càng nhiều. Đa số trong số họ đều chỉ vì ham muốn một cuộc sống hưởng thụ
mà không muốn lao động.
Sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội tới thế hệ trẻ còn chưa thật sự thoả
đáng. Đặc biệt là tìm hiểu nhu cầu và định hướng phát triển nhân cách cho thanh niên.
Một số gia đình do mải kiếm tiền nên đã phó mặc vai trò giáo dục nhân cách con trẻ cho
nhà trường mà quên rằng, giáo dục gia đình mới là nền tảng cho sự phát triển nhân cách
của con trẻ. Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, chạy theo đồng tiền ở một bộ phận các
thầy cô giáo hiện nay cũng khiến cho công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng cho
thanh niên bị buông lỏng. Cuộc sống xa gia đình, tự do cũng là một nguyên nhân khiến
thanh niên dễ bị lôi kéo, tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Sự buông lỏng quản lý của các cấp, các ngành, đoàn thể cũng như sự phối kết hợp
trong công tác tuyên truyền, giáo dục thanh niên còn chồng chéo, chưa hợp lý, hiệu quả
giáo dục chưa cao. Hơn nữa, một số địa phương tổ chức cơ sở Đoàn còn yếu, số lượng
đoàn viên ưu tú còn ít, thanh niên chưa được thu hút vào các hoạt động của Đoàn, đội
ngũ cán bộ làm công tác Đoàn và thanh niên còn thiếu và yếu, nội dung, hình thức,
phương pháp công tác Đoàn chậm được đổi mới và nâng cao. Bên cạnh đó, nhiều cấp uỷ
Đảng và chính quyền cũng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng chiến lược của công
tác vận động và giáo dục thanh niên cho nên coi thường và buông lỏng công tác này.
Nhiều cán bộ đảng viên thiếu ý thức trách nhiệm, có thái độ hẹp hòi, không đánh giá
đúng bản chất của thanh niên, thường chỉ thấy mặt non kém của một số thanh niên, chưa
coi trọng và phát huy năng lực sáng tạo của thanh niê, chưa cố gắng đáp ứng nhu cầu
phát triển lành mạnh của tuổi trẻ. Đảng chưa chỉ đạo tốt sự phân công và phối hợp giữa
các tổ chức trong hệ thống chính trị để chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ trẻ, chưa phát huy
đầy đủ vai trò chính trị của tổ chức Đoàn. Nhiều cơ quan Nhà nước chỉ nặng về động
viên, sử dụng thanh niên mà coi nhẹ việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên. Một số cán bộ
đảng viên thoái hoá biến chất cũng như sự thiếu trách nhiệm của nhiều gia đình đã ảnh
hưởng xấu tới công tác giáo dục thanh thiếu niên. Bản thân thanh niên cũng không có ý
thức vươn lên trong học tập, trong cuộc sống, không tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, coi
nhẹ các giá trị lao động, thích hưởng thụ, ăn chơi đua đòi, tham gia vào các tệ nạn xã hội
để làm mình nổi bật với người khác…đã dẫn tới những sai lệch về lý tưởng, đạo đức và
lối sống. Đã có không ít thanh niên phải trả giá cho những việc làm sai trái của mình khi
tham gia vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ đối với Tổ quốc,
lười lao động và học tập…phải trá giá bằng tuổi thanh xuân của mình, có khi là chính
cuộc đời mình bởi lối sống đua đòi, hưởng thụ.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải
từng bước xây dựng và hoàn thiện nền tảng chính trị xã hội, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cho cán bộ đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Hết sức chăm lo bồi dưỡng các giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, kiên quyết đấu
tranh đẩy lùi nạn tham nhũng, buôn lậu, cửa quyền và các hiện tượng tiêu cực trong xã
hội. Có như vậy chúng ta mới phát huy được những tác động tích cực và ngăn ngừa hạn
chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường. Có thể nói rằng hiện nay, sự
sai lệch về lý tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh niên đang có những biểu hiện hết sức
phức tạp, có xu hướng lan rộng không chỉ ở các trung tâm thành phố lớn mà trên địa bàn
cả nước. Đây chính là hậu quả của việc buông lỏng quản lý, giáo dục, bồi dưỡng thanh
niên của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội. Mặt khác, những sai lệch này cũng là
hệ quả của nền kinh tế thị trường mở cửa mà chúng ta đang tiến hành. Đây chính là hồi
chuông cảnh tỉnh đối với sự tồn vong của chế độ, của đất nước vì nếu không ngăn chặn
được sự suy thoái của đạo đức, lối sống và các chuẩn giá trị xã hội sẽ làm lây lan các
“căn bệnh” khác nhau vào văn hoá của dân tộc ta.
Chương 2
Đảng cộng sản Việt Nam với công tác
giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên
1996 - 2006
2.1. Bước chuyển của đất nước và nhiệm vụ của thanh niên trong thời kỳ mới
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã tạo ra bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa quan trọng
đối với dân tộc Việt Nam, nó mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã
hội. Ngay sau khi giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã bắt tay vào công cuộc
xây dựng cuộc sống mới với niềm tin chắc chắn về một tương lai tươi sáng khi nước
nhà hoàn toàn độc lập, thống nhất, hoà bình. Sau 10 năm tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên cả nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta khắc phục được một bước sự lạc
hậu và phân tán của nền kinh tế, cải tiến một phần cơ cấu nền kinh tế - xã hội, đặt
những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới, đồng thời giành thêm những thắng lợi to
lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc
tế. Bên cạnh những thành quả đạt được, nền kinh tế xã hội nước ta vẫn đứng trước
những khó khăn mới gay gắt và phức tạp. Đến giữa thập kỷ 80, đất nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng kinh tê - xã hội, sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp, lạm phát ở mức độ cao, ngân sách thâm hụt, phân phối lưu thông rối ren…dẫn tới
đời sống của nhân dân lao dộng còn nhiều khó khăn, hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều
nơi, quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành
của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu đưa đến tình trạng đó là do những sai lầm, khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Để làm xoay chuyển tình thế, tạo sự chuyển biến có ý nghĩa trên bước đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, tháng 12 năm 1986, Đảng tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ VI.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng
đúng mức những thành tựu đạt được trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm khuyết điểm trong
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đại hội đã đề xướng chủ trương đổi
mới toàn diện và sâu sắc đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở
nước ta. Đại hội là bước đột phá, đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong tư duy của Đảng
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới. Tại Đại hội, Đảng ta cũng đã thể
hiện cách nhìn nhận mới về vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội:
Thanh niên phải được đảm bảo việc làm khi bước vào đời và được quan
tâm giáo dục về nhân cách, bản lính, lý tưởng theo phương châm “sống, chiến
đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Phải có ý thức đầy đủ
rằng chính thanh niên là lớp người có sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Mạnh dạn giáo trách nhiệm cho thanh niên và thông qua các
hoạt động xã hội mà đào tạo và bồi dưỡng họ [2, tr.116].
Tuy nhiên, chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn các
nước xã hội chủ nghĩa đã bộc lộ sự khủng hoảng với những khó khăn, trì trệ về chính trị
và kinh tế, đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự nghiệp cách mạng của nước ta. Đó là những sai
lầm, khuyết điểm của các Đảng cầm quyền trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đặc biệt là khi mô hình chủ nghĩa xã hội sụp đổ thành hệ thống ở Liên Xô và
Đông Âu thì ở Việt Nam, các thế lực phản động đứng đầu là Mỹ vẫn điên cuồng chống
phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Đất nước đứng trước những thử
thách mới với rất nhiều khó khăn, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta, trong đó có tuổi trẻ phải
thể hiện được bản lĩnh của mình, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác
ghềnh. Để hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi sự phấn đấu
nỗ lực vượt bậc của Đảng, của nhân dân, đòi hỏi ý chí, nghị lực và trí tuệ của cả dân tộc,
của tất thảy mọi người lao động trong đó có lực lượng thanh niên.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tiến hành vào
thời điểm đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra đã biến thành phong trào cách mạng của
quần chúng, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. Đại hội VII của Đảng khẳng định kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa
chọn duy nhất đúng. Đại hội cũng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng và nêu ra quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đó
là xã hội có đặc trưng:
- Do nhân dân lao động làm chủ
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội đã mở ra một chân trời mới đối với thế hệ trẻ
nước ta. Từ nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, từ chỗ học tập lao động trong hoàn
cảnh có chiến tranh trong các giai đoạn trước, thanh niên được sống và, học tập và lao
động trong hoà bình. Chế độ mới đã cho phép tuổi trẻ phát huy cao độ những tiềm năng
vốn có, được vươn tới đỉnh cao của sáng tạo, ước mơ, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ:
Một điều rất quan trọng mà thanh niên ta phải nhận rõ là dưới chế độ tư
bản đế quốc và phong kiến, quyết không thể có một phong trào thanh niên tốt
đẹp. Chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta thì mới phát động được lực
lượng và tài năng của nhân dân, của thanh niên và biến họ thành con người
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội [34, tr.106].
Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho tuổi trẻ học tập,
phấn đấu trưởng thành, đồng thời đòi hỏi cao sự cố gắng của họ, đòi hỏi mỗi một thanh
niên phải rèn luyện mình để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Đó là con người
có lý tưởng cách mạng, có đạo đức trong sáng, có trình độ chính trị, văn hoá, khoa học
kỹ thuật cao, có tay nghề vững vàng, có sức khoẻ dồi dào đủ sức làm tròn những nhiệm
vụ nặng nề và vẻ vang của mình như lời căn dặn của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười tại
Đại hội Đoàn toàn quốc lần VI: “Ngày nay, thanh niên nước ta đang đứng trước những
nhiệm vụ to lớn và đầy vinh quang là cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi
mới nhằm phấn đấu thực hiện dân giàu, nước mạnh, xây dựng xã hội lành mạnh, văn
minh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Để có đủ
khả năng hoàn thành nhiệm vụ trọng đại đó, tuổi trẻ Việt Nam mà nòng cốt là Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phải xây dựng cho mình hoài bão, trí tuệ, đạo đức
và ý chí cách mạng”.
Đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, cũng đồng thời xuất hiện nhiều vấn đề
mới mẻ đặt ra từ phía thanh niên:
- Niềm tin bị giảm sút trong nhiều bộ phận thanh niên, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
của họ bị tác động mạnh bởi sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu… Nhiều thanh niên mất phương hướng chính trị, không muốn vào sinh hoạt trong tổ
chức Đoàn, một số đoàn viên không muốn hoặc ngại tham gia sinh hoạt đoàn, sinh hoạt
chính trị. Một bộ phận thanh niên sống bàng quan, vô trách nhiệm với xã hội, lười lao
động, trồn tránh nghĩa vụ, thích ăn chơi, hưởng thụ, một số lao vào kiếm tiền với bất cứ
giá nào, coi thường các giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo đức.
- Trình độ học vấn và nghề nghiệp của thanh niên còn thấp, chưa tương xứng với
yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tình trạng thất học, mù
chữ trong thanh thiếu niên đang tăng lên, chủ yếu là ở các khu vực miền núi, dân tộc
thiểu số…
- Các lực lượng phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc
lôi kéo thanh niên làm cho một bộ phận thế hệ trẻ có biểu hiện xa rời lý tưởng cách
mạng và các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Tâm lý, nhu cầu, sở thích của thanh niên có nhiều biến đổi so với các giai đoạn
trước. Thanh niên mong muốn được học tập, vui chơi giải trí, tự do phát triển, được
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi…
- Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia
đình cũng là mong muốn cháy bỏng của thanh niên. Thanh niên thiếu việc làm khién đời
sống khó khăn. Hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên không có việc làm và hàng
triệu thanh niên khác không có việc làm đầy đủ. Số có việc làm phần đông có thu nhập
thấp và không ổn định.
- Tình trạng sức khoẻ và các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm và các biểu hiện
vi phạm Pháp luật không ngừng gia tăng ở mức báo động. Số thanh niên nghiện rượu,
thuốc phiện, tiêm chích xì ke, ma tuý tăng nhanh. Chiều cao, cân nặng và thể lực của
thanh niên đang giảm và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực…
Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương và
chính sách phù hợp với đặc điểm của thế hệ trẻ trong thời kỳ mới, bên cạnh đó cũng đặt
ra yêu cầu cho công tác vận động thanh niên phải có nội dung và phương pháp thích hợp
nhằm tổ chức đoàn kết, tập hợp thanh niên có hiệu quả, phát huy cao nhất tiềm năng của
tuổi trẻ vào sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ mới, với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta không thể
lãnh đạo theo phương thức cũ mà cũng phải đổi mới sự lãnh đạo trong tất cả các lĩnh
vực, trong đó có việc đổi mới phương pháp lãnh đạo công tác thanh niên. Mặt khác, do
bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội cũng có sự đóng góp của thanh niên, đòi hỏi
thanh niên không những có tinh thần hăng hái xung phong mà còn phải có trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn và quản lý để có thể đảm đương những trọng trách trên các mặt
trận lao động, sản xuất, sáng tạo khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội, an ninh quốc
phòng…Hơn nữa, trong điều kiện mới, yêu cầu và nguyện vọng của thanh niên nước ta
trở nên đa dạng, vấn đề lợi ích của thanh niên không còn đơn giản như trước. Đảng và
Nhà nước ta trước hết đòi hỏi sự cống hiến của thanh niên nhưng đồng thời cũng chủ
trương giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩ vụ chính đáng của thanh niên
nhằm tạo ra động lực tinh thần và vật chất cần thiết. Có được như vậy thì công cuộc đổi
mới của Đảng mới giành được những thắng lợi to lớn, thực hiện được mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.2 công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên của Đảng
cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 1996 -
2006
2.2.1. Giai đoạn 1996 - 2001
Tháng 6 năm 1996, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII tại thủ đô Hà Nội. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội VII, tổng kết 10 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước và đề ra những
mục tiêu, biện pháp cho thời kỳ phát triển mới của đất nước. Đại hội đã khẳng định:
Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội lần thứ VII đề ra cho 5 năm 1991 -
1995 đã hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn
thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá [6, tr.67-68].
Báo cáo chính trị đã trình bày những đặc điểm của tình hình thế giới hiện nay,
chỉ ra những xu thế của thời đại, vạch rõ những thời cơ và thách thức đối với cách
mạng nước ta. Trên cơ sở đó, Báo cáo chính trị đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đến năm 2020:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
[6, tr.19].
Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đại hội đã
nêu lên 6 nguyên tắc cơ bản:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Dựa vào nguồn lực
trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển bền vững.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Đại hội chỉ rõ, bằng các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các
dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân
dân. Đối với thanh niên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi ngành. Coi trọng hơn nữa việc giáo dục rèn luyện thế
hệ trẻ về chính trị, tư tưởng, văn hoá, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan tâm đào tạo
nghề và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động sáng tạo, hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên. Tạo điều kiện cho
Đoàn thanh niên thực hiện tốt trách nhiệm đối với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm
độc hại. Chăm lo giáo dục, đào luyện thế hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức trong hệ thống chính trị, của gia đình và của toàn xã hội. Nghiên cứu ban hành
Luật Thanh niên.
Để thực hiện nhiệm vụ do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra, tháng 12
năm 1996 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ hai, thông qua 2 nghị
quyết quan trọng: Nghị quyết “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”; Nghị quyết
“Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”. Trong Nghị quyết “Về định hướng chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ
đến năm 2000” Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định những tư tưởng chỉ đạo
phát triển công tác giáo dục - đào tạo:
- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và các
thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, có
năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri
thức khoa học hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”. Giữ vững mục
tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, giáo dục, đào tạo trong chính sách, nhất là chính
sách công bằng xã hội, phát huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, chống khuynh hướng “thương mại hóa” trong giáo dục đào tạo, đề phòng khuynh
hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
- Phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Những
tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo. Tạo điều kiện ai cũng được
học hành. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng.
- Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hoá loại
hình giáo dục - đào tạo trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý về nội dung, chương
trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên…Mở rộng các hình thức đào
tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hoá hình thức giáo dục.
Từ những định hướng trên, Nghị quyết chỉ ra những nhiệm vụ và mục tiêu phát
triển chủ yếu của giáo dục - đào tạo từ nay đến năm 2000 và những giải pháp chủ yếu để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó. Nghị quyết nhấn mạnh: Đảng phải tăng cường sự lãnh
đạo giáo dục đào tạo thể hiện không chỉ trên chủ trương, đường lối mà còn thể hiện ở
những việc cụ thể. Đồng thời mỗi gia đình, mỗi người đều phải có trách nhiệm đóng góp
vào sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo. Đóng góp vào sự nghiệp giáo dục đào tạo
không chỉ là trách nhiệm là nghĩa vụ của mỗi gia đình, mỗi người dân đối với đất nước,
với dân tộc mà còn là lợi ích thiết thân của mỗi người, vì tương lai của con em mình.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai của Đảng có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng về định hướng chiến lược và mục tiêu nhiệm vụ đến năm 2000 trên 2
lĩnh vực giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Đây là yếu tố cơ bản, là khâu đột phá
trong giai đoạn mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện quyết định
để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nghị quyết đã đề ra những
quyết định hữu hiệu để khắc phục những hạn chế của lĩnh vực giáo dục - đào tạo và chỉ
rõ định hướng nhiệm vụ, giải pháp cho giáo dục làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học công nghệ. Nghị quyết đã thể hiện sâu
sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa
học kỹ thuật trong quá trình xây dựng xã hội mới: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài, tiến lên chủ nghĩa xã hội không
thể vội vàng, nôn nóng. Đây là một quá trình bao gồm “công tác tổ chức và giáo dục” và
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nhân dân ta phải ra sức thi đua tăng gia sản
xuất và thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật. Muốn phát
triển khoa học kỹ thuật, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa trước hết phải đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục, “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học
tốt”, phải tổ chức và quản lý đời sống vật chất và tinh thần ở các trường học ngày càng
tốt hơn. Người nhắc nhở: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy
đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thất chặt chẽ giữa thầy
và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và
nhân dân để hoàn thành thắng lợi đó”.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai có ý nghĩa lớn
đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Nó tạo cơ hội và điều kiện cho thanh niên thực hiện nhu cầu
học tập, vươn lên nhằm đào tạo nguồn nhân lực trẻ có trình độ học vấn và tay nghề cao,
có đạo đức và nhiệt tình cách mạng, có khả năng đảm dương và hoàn thành mọi nhiệm
vụ bảo đảm sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành TW lần hai về giáo dục và khoa học công nghệ, từ ngày 26 đến
29/11/1997, Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã diễn
ra tại thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 899 đại biểu, đại diện cho trí tuệ, niềm tin của
hàng triệu đoàn viên thanh niên từ mọi miền đất nước. Đây là sự kiện chính trị trọng đại
của tuổi trẻ Việt Nam. Những đại biểu ưu tú nhất của phong trào Đoàn và thanh niên cả
nước trên tất cả các lĩnh vực thuộc nhiều dân tộc đã mang về cho Đại hội sức sống trẻ
trung và trí tuệ sâu sắc, sáng tạo. Đại hội đã tổng kết những thành tích to lớn cùng những
bài học kinh nghiệm quý giá của nhiệm kỳ VI đồng thời đề ra phương hướng hoạt động
trong nhiệm kỳ khoá VII (1997 - 2002) nhằm huy động đầy đủ sức mạnh của tuổi trẻ cho
sự nghiệp đổi mới của đất nước. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng giao cho, Đại
hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của công tác Đoàn và phong trào thanh
thiếu nhi trong nhiệm kỳ VII và:
- Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cộng sản chủ nghĩa, lòng yêu nước,
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc; Xây dựng nếp sống, lối sống lành mạnh
cho thanh thiếu nhi, khơi dậy trong ý thức tự tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường không
cam chịu đói nghèo, lạc hậu; có tinh thần khắc phục khó khăn, xung phong tình nguyện,
gương mẫu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Chăm lo bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt về thể lực của thanh thiếu nhi;
động viên và tổ chức thanh thiếu nhi học tập, rèn luyện, vươn lên làm chủ khoa học công
nghệ, góp phàn phát triển và nâng cao chất lượngnguồn nhân lực trẻ phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Cổ vũ tinh thần xung phong tình nguyện của thanh niên, hướng dẫn và tổ chức
cho thanh niên xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh ở mỗi địa phương, cơ sở.
- Xây dựng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, xứng đáng là môi trường cho thanh niên phán đấu rèn luyện, cống hiến
và trưởng thành, là hạt nhân đoàn kết mọi tầng lớp thanh thiếu nhi xung quanh Đảng;
góp phần xây dựng Đảng và chính quyền nhân dân; làm tốt công tác chăm sóc giáo dục
thanh thiếu niên nhi đồng.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ cơ bản đó, trên cơ sở những kinh
nghiệm của công tác Đoàn và phong trào thanh thêíu nhi trong nhiệm kỳ qua, Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ VII quyết định tiếp tục phát triển hai phong trào lớn “Thanh niên
lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” lên tầm cao mới nhằm tổ chức động viên Đoàn viên
thanh niên tình nguyện “lên rừng xuống biển”, đem tài năng sức trẻ đóng góp cho sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Phong trào “Thanh niên lập nghiệp” trong thời kỳ mới thể hiện ý chí và quyết tâm
của tuổi trẻ Việt Nam tập trung sức cho mục tiêu phát triển đất nước, nó động viên và tổ
chức cho tuổi trẻ ra sức học tập, rèn luyện tiến quân vào làm chủ khoa học công nghệ,
góp phần nhanh chóng nâng cao nguồn lực trẻ, phát huy tiềm năng sáng tạo và thế mạnh
thanh niên xung kích thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm giàu cho bản thân và
đất nước.
Phong trào “Tuổi trẻ giữ nước”cũng thể hiện quyết tâm và ý chí của tuổi trẻ tham
gia bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước nhằm giữ vững
ổn định chính trị và an toàn xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh vững mạnh, sẵn sàng
đối phó với mọi tình huống. Đó cũng chính là tình cảm và trách nhiệm của tuổi trẻ ngày
nay trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống
mới, bài trừ các tệ nạn xã hội, góp phần tạo ra môi trường văn hoá xã hội lành mạnh để
mỗi thanh niên có cơ hội phát triển và hoàn thiện nhân cách. Khẩu hiệu của thanh niên
là: Thanh niên Việt Nam xung kích, sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, vì tương lai tươi sáng của tuổi trẻ.
Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của công tác Đoàn và phong trào
thanh niên, Đại hội đã đề ra 7 chương trình hành động cách mạng xuyên thế kỷ của Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt Nam tham gia phát triển kinh tế xã
hội, quốc phòng an ninh, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương trình 1: “Giáo dục lý tưởng cho thanh niên; tham gia xây dựng nến văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Mục tiêu của chương trình là giáo dục lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh, hình thành bản lĩnh chính trị, ý thức tự tôn dân tộc, đạo đức
cách mạng, lối sống, nếp sống cho thanh thiếu nhi. Động viên tuổi trẻ tham gia tích cực
xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lòng yêu nước cho thanh thiếu nhi.
- Tăng cường giáo dục nâng cao hiểu biết cho thanh thiếu nhi về các giá trị văn
hoá truyền thống; lòng tự hào dân tộc, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt
Nam; tiếp thu văn hoá nhân loại trong ý thức, nếp sống, lối sống và hành vi của thanh
thiếu nhi.
- Coi trọng đẩy mạnh các hoạt động giáo dục đạo đức cách mạng trong thanh thiếu
niên.
Chương trình 2: “Thanh niên học tập, sáng tạo, làm chủ khoa học - công nghệ”.
Mục tiêu: chăm lo bồi dưỡng để nâng cao trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật, công
nghệ, chuyên môn, nghề nghiệp cho thanh thiếu nhi. Vì sự phát triển của thanh thiếu nhi,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Cổ vũ và thúc đẩy phong trào học tập, rèn luyện trong thanh thiếu nhi cả nước ở
trong và ngoài nhà trường, thực hiện mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học
vào năm 2000; phổ cập giáo dục THCS cho thanh niên ở đô thị và các vùng kinh tế phát
triển. Phấn đấu để mỗi thanh niên vào đời biết ít nhất 1 nghề.
- Tăng cường công tác giáo dục hướng nghiệp cà đào tạo nghề nghiệp cho thanh
thiếu nhi, hình thành thái độ và phong cách nghề nghiệp đúng đắn cho thanh niên.
- Tổ chức và động viên thanh niên tiến quân vào khoa học - công nghệ.
Chương trình 3: “Thanh niên tình nguyện thực hiện các chương trình, dự án trọng
điểm quốc gia”. Mục tiêu: động viên đông đảo đoàn viên thanh niên tình nguyện tham
gia xây dựng các công trình, chương trình trọng điểm của dịa phương và cả nước qua đó
rèn luyện, bồi dưỡng thanh niên. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Khơi dậy trong thanh niên khí thế “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, tinh thần
“Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”, sẵn sàng đi bất cứ nới đâu
để làm giàu cho đất nước.
- Toàn Đoàn tích cực hưởng ứng tham gia trồng rừng, góp phần thực hiện mục
tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Chủ động xây dựng các đề án phù hợp để Đoàn thanh niên khai thác và phát
triển kinh tế biển, nhất là các vùng biển xa…
Chương trình 4: “Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát triển kinh tế -
xã hội”. Mục tiêu: Động viên, tổ chức và hướng dẫn đoàn viên thanh niên tham gia thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và từng địa phương. Góp
phần giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập và xây dựng môi trường xã hội lành
mạnh, tiến bộ. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Phát triển rộng rãi mô hình trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông
thôn, vùng sâu vùng xa. Đoàn thanh niên sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, các cấp chính
quyền tham gia phát triển kinh tế xã hội tại các xã vùng sâu, vùng xa, miền núi đặc biệt
khó khăn.
- Tăng cường hướng dẫn và vận động thanh niên tự giúp nhau lập nghiệp, phát
triển các loại quỹ qua các chương trình, dự án, khuyến khích thanh niên tự góp vốn và tự
giúp nhau phát triển kinh tế gia đình..
- Tích cực tham gia thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, cùng
Nhà nước và xã hội tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động mỗi năm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp cho thanh niên…
- tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng các hoạt động giáo dục cho thanh thiếu
niên về dân số, sức khoẻ, môi trường.
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tổ chức thanh niên
tham gi phòng chống các tiêu cực, tệ nạn xã hội, các cơ sở đoàn phấn đấu đạt danh hiệu
“Đoàn trường không có ma tuý”; “chi đpàn, chi đội không có ma tuý và tệ nạn xã hội”…
- Phát triển rộng rãi các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện giúp đỡ thanh thiếu
niên nghèo, trẻ em mồ côi, tàn tật, thiên tai hoạn nạn…
Chương trình 5: “Thanh niên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Mục tiêu: phát
huy vai trò tuổi trẻ tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội
dung và biện pháp thực hiện:
- Động viên tổ chức thanh niên tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân
- Tăng cường các hoạt động thanh niên tham gia giữ gìn an ninh và trật tự xã hội.
- Đẩy mạnh các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”, cói đó vừa là trách nhiệm, vừa là tình cảm của thế hệ trẻ với cha anh
đi trước.
- Phát triển phong trào thanh niên khoẻ để lập nghiệp và giữ nước, góp phần nâng
cao sức khoẻ cho thanh niên.
Chương trình 6: “Bảo vệ chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng”. Mục tiêu:
hình thành lớp thiếu nhi Việt Nam giàu có về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể lực, trong sáng về
đạo đức, có lối sống lành mạnh. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Tổ chức tốt các phong trào và hoạt động thiếu nhi trong và ngoài nhà trường,
giúp đỡ trẻ em ở các vùng khó khăn.
- Làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt Luật bảo vệ và
chăm sóc trẻ em và Luật phổ cập giáo dục tiểu học, hình thành ý thức cộng đồng trách
nhiệm của xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Chương trình 7: “Hội nhập quốc tế thanh niên và tăng cường công tác quốc tế
của Đoàn”. Mục tiêu: tạo điều kiện và cơ hội cho tuổi trẻ Việt Nam hội nhập quốc tế,
thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta, tạo nguồn lực phục vụ
cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Giáo dục tinh thần quốc tế chân chính cho tuổi trẻ, giáo dục ý thức cảnh giác
chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
- Đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế của Đoàn, các
hoạt động giao lưu, hợp tác để tranh thủ sự giúp đỡ về kinh nghiệm, khoa học công
nghệ…cho các hoạt động của Đoàn.
- Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền đối ngoại thanh niên Việt Nam ở nước
ngoài hướng về và góp sức xây dựng quê hương.
Trên tinh thần đó tháng 2 năm 1998, Hội nghị Ban chấp hành TW Đoàn lần thứ
hai đã thảo luận và xây dựng công tác Đoàn và phong trào thanh niên, thiếu niên. Ngay
từ đầu năm 1998, các cấp bộ Đoàn đã tổ chức nghiên cứu, thảo luận đẻ quán triệt nghị
quyết Đại hội Đoàn lần thứ VII thu hút đông đảo đoàn viên tham gia với nhiều hình thức
phong phú, phù hợp với các đối tượng thanh niên. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
định hướng lý tưởng cho thanh niên, giáo dục pháp luật đã được các cấp bộ đoàn triển
khai rộng khắp với nhiều hình thức và chủ đề gần gũi với đoàn viên thanh niên như: “Tôi
- người đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”; “Lý tưởng của thanh niên ngày
nay”; “Hành trang và thế hệ mới”. Công tác giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng,
giáo dục lòng yêu nước, xây dựng nếp sống mới có nhiều nét mới, hấp dẫn và hiệu quả
hơn trước.
Bên cạnh đó các cấp bộ đoàn đã chủ động đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để
quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như quán triệt
các Nghị quyết, hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ 5, lần thứ 6, lần thứ 7, lần thứ
8 (khoá VIII).
Để nâng cao nhận thức chính trị và giác ngộ lý tưởng cho đoàn viên thanh niên,
Ban Thường vụ TW Đoàn đã quyết định lấy năm 1999 là năm mở đầu học ấy luận chính
trị cho đoàn viên thanh niên và tổ chức biên soạn phát hành cuốn sách “Năm bài học lý
luận chính trị”. Đến cuối năm năm 1999, tất cả các Tỉnh, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc
đã triển khai việc học tập 5 bài học lý luận chính trị cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên các cấp, chỉ đạo điểm rút kinh nghiệm và tổ chức triển khai học tập cho đông
đảo đoàn viên thanh niên. Trong năm 1999, công tác giáo dục truyền thống tiếp tục được
triển khá rộng, nổi bật là các hoạt động mừng Đảng, mừng xuân, kỷ niệm ngày thành lập
Đoàn 26/3, kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, 24 năm ngày giải phóng
miền Nam, 30 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ, 55 năm ngày thành lập quân đội nhân
dân Việt Nam …
Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới trên điạn
bàn dân cư” do Uỷ ban TW Mặt trân Tổ quốc Việt Nam phát động, đông đảo thanh niên
đã tham gia và đạt hiệu quả cao. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phòng chống
tệ nạn xã hội được tăng cường. Các mô hình như câu lạc bộ “Sức khoẻ sinh sản vị thành
niên”, phòng chống tệ nạn xã hội và HIV/AIDS được phát triển rộng khắp các cơ sở
đoàn. Đặc biệt là mô hình trung tâm tư vấn khá phát triển. Từ 2 trung tâm tư vấn do
Trung ương thí điểm xây dựng năm 1998, đến cuối năm 1999 đã có thêm 7 trung tâm tư
vấn trải dọc chiều dài từ Bắc vào Nam. Các trung tâm này đã tư vấn qua điện thoại và
trực tiếp cho hơn 50.000 trường hợp…Cuộc thi “Vì sức khỏe và hạnh phúc của bạn”
trong năm 1999 đã nhận được hơn 1,3 triệu bài dự thi. Có thể nói sau 2 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đoàn lần thứ VII, công tác xây dựng và củng cố tổ chức Đoàn và
công tác đoàn kết tập hợp thanh niên đã có bước tiến vượt bậc, đánh dấu sự chuyển biến
mạnh mẽ trong hoạt động Đoàn và phong trào thanh niên.
Ngày 10/1/2000, trong văn bản số 378 – CV/TW của Ban Chấp hành TW Đảng
gửi Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ghi rõ: “Thường vụ Bộ Chính trị đồng ý với
đề nghị của Ban Bí thư TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về việc lấy năm 2000 là Năm
thanh niên”(tờ trình số 122/TT/TWĐTN ngày 2/12/1999 và công văn số 124/TWĐTN
ngày 15/12/1999). Khắp nơi trên cả nước, tuổi trẻ dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi
với tinh thần xung phong tình nguyện, đem hết tài năng của mình để thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước tin cậy giao cho.
Ngày 15/1/2000 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Liên hiệp thanh niên
Việt Nam đã họp tại Hà Nội. Đại hội đã vinh dự được đón đồng chí Lê Khả Phiêu, Tổng
Bí thư Ban Chấp hành TW Đảng đến dự và phát biểu: “Kết thúc một thế kỷ đấu tranh
oanh liệt là năm thanh niên. Vinh dự và tự hào! Năm thanh niên là năm học tập và truyền
thụ lý tưởng yêu nước, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực nghiệp vụ; là năm nâng
cao chất lượng toàn diện về học tập và nghiên cứu. Thanh niên có nghề và tiến lên đuổi
kịp trình độ hiện đại của thế giới; là năm tình nguyện, xông pha đem hết sức trẻ và hoài
bão cách mạng hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào của Đảng và Nhà nước giao cho…là năm
các nhà khoa học trẻ, các nhà doanh nghiệp trẻ có nhiều sáng tạo mới, cống hiến mới góp
phần giải quyết các vấn đề thực tiễn của nền kinh tế – xã hội nước ta; là năm thanh niên
giữ nghiêm phép nước, rèn luyện sức khoẻ, đời sống lành mạnh, sinh hoạt văn hoá đậm
đà bản sắc dân tộc”. Tuổi trẻ cả nước dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi với tinh thần
xung phong tình nguyện đem hết tài năng và tâm huyết thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
mà Đảng và Nhà nước tin cậy giao cho.
Năm 2000 cũng là năm kỷ niệm nhiều ngày lễ trọng đại của dân tộc như 75 năm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 110 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, 55
năm thành lập nước..Các địa phương, các cấp bộ đoàn đã phát động phong trào thi đua
chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc. Phong trào tình nguyện được phát triển rộng
khắp với 500 tri thức tình nguyện về 125 xã nghèo, vùng sâu vùng xa hẻo lánh, mang ánh
sáng văn hoá của Đảng đến với các đồng bào vùng sâu vùng xa. Chiến dịch “Mùa hè
xanh” của thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh cũng như chiến dịch “ánh sáng văn hoá”
của thành đoàn thành phố Hà Nội đã thu hút được hàng vạn thanh niên, đoàn viên tham
gia. Trong nhiệm kỳ Đoàn này, đã có 81.700 thanh niên tình nguyện tham gia chiến dịch
ánh sáng văn hoá; 600 thanh niên tình nguyện đi dạy xoá mù chữ tại các vùng khó khăn
từ 1-2 năm; trên toàn quốc đã tổ chức được 34.555 lớp xoá mù chữ cho hơn 740.000
người. Đến năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học trên phạm vi cả nước và được thế giới công nhận.
Phong trào thanh niên tình nguyện dấy lên từ năm thanh niên được triển khai toàn
diện đẩy lên thành cao trào, bằng các hoạt động tham gia xoá đói giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới, phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, tham gia xây dựng và chi viện cho tuyến
đường Hồ Chí Minh, triển khai dự án đưa 500 tri thức trẻ tham gia phát triển nông thôn,
miền núi, triển khai chương trình xoá cầu khỉ, xây cầu mới ở đồng bằng sông Cửu Long,
triển khai dự án đưa 500 y bác sĩ trẻ về vùng sâu, vùng xa, tham gia trồng rừng và xây
dựng các cụm dân cư dọc tuyến đường Hồ Chí Minh…Việc tham gia thực hiện có hiệu
quả các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia và địa phương trên khẳng định một tư
duy mới về chỉ đạo và tính mục tiêu của các phong trào thanh niên, đó là đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chăm lo quyền lợi của đoàn viên thanh niên và
củng cố tổ chức đoàn, góp phần khẳng định tầm cao mới của phong trào thanh niên lập
nghiệp trong thời kỳ mới.
Phong trào “giành ba đỉnh cao quyết thắng” (lý tưởng đẹp - trách nhiệm cao, học
tập tốt - hành động giỏi, đoàn kết tốt - kỷ luật nghiêm) trong thanh niên quân đội và
phong trào thi đua học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân trong thanh
niên công an tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần tạo ra môi trường để thanh niên các lực
lượng vũ trang rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trưởng thành về mọi
mặt.
Bên cạnh đó các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được đẩy
mạnh, thu hút sự tham gia tự nguyện, tự giác của các đối tượng thanh niên. Các cấp bộ
Đoàn trong cả nước đã xây dựng được 2.621 ngôi nhà tình nghĩa trí giá 39,9 tỷ đồng;
năm 2000 nhận phụng dưỡng đến cuối đời 3.264 bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhận chăm
sóc thường xuyên 6.104 mẹ. Nhìn chung các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện, các
cuộc vận động của Đoàn phát triển ngày càng sâu rộng, thu hút sự tham gia tự giác của
đông đảo đoàn viên, thanh niên, thiếu nhi, được xã hội, các cấp, các ngành đánh giá cao
và ủng hộ, góp phần đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên. Phong trào “khoẻ để lập
nghiệp giữ nước” được duy trì thông qua các giải thể thao và phong trào thể dục thể thao
quần chúng thu hút đông đảo thanh thiếu niên tham gia. Năm 2000 đã có gần 1,5 triệu
đoàn viên, thanh niên đã tích cực phấn đấu dạt danh hiệu thanh niên khoẻ, 34.160 chi
đoàn, chi hội được công nhận là chi đoàn, chi hội khoẻ.
Có thể nói, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
và 15 năm đất nước tiến hành đổi mới, các phong trào thanh niên đã có sự biến đổi cả về
chất và lượng. Hàng loạt các công trình thanh niên được xây dựng, hàng trăm phong trào
thanh niên được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới các thế hệ thanh thiếu niên và đã
được đông đảo thanh niên nhiệt tình tham gia có hiệu qủa. Các hoạt động đoàn trên đã
mang lại hiệu quả giáo dục to lớn, đặc biệt là cuộc vận động “nghĩa tình biên giới hải
đảo”, phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” cùng các phong trào trong
cac lực lượng vũ trang đã góp phần khẳng định tầm cao mới của phong trào thanh niên
lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước trong nhiệm kỳ qua.
* Hạn chế:
- Công tác chỉ đạo của các cấp bộ Đoàn còn thụ động, dàn trải, thiếu trọng tâm,
trọng điểm. Chưa được tổ chức thường xuyên đều khắp trong các đối tượng, lĩnh vực;
phong trào trong khối công nhân, hành chính thanh niên đô thị vẫn khó khăn, các hoạt
động phong chống tệ nạn xã hội chưa đến với thanh niên chậm tiến, các tệ nạn xã hội có
xu hướng tăng.
- Các chính sách đối với thanh niên, đặc biệt là Luật Thanh niên chưa đi vào cuộc
sống, gây khó khăn cho việc triển khai các phong trào thanh niên.
- Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành thường xuyên nhưng hiệu quả
chưa cao, nội dung và hình thức còn nghèo nàn, thiếu những hình thức thiết thực có tính
hiệu quả cao.
- Hoạt động của tổ chức cơ sở đoàn tuy có nhiều cố gắng nhưng kết quả đạt được
chưa cao, đặc biệt là ở các khu vực vùng sâu, vùng xa.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ Đảng có nơi có lúc chưa chặt chẽ và
thường xuyên.
- Chính quyền các cấp ở một số địa phương chưa có chương trình kế hoạch cụ thể
hoá Nghị quyết của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên, chứ quan tâm đầu tư
thích đáng cho hoạt động Đoàn.
* Nguyên nhân:
- Đội ngũ cán bộ Đoàn tuy đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng đôi chỗ, đôi lúc
trong công việc vẫn còn lúng túng, thiếu linh hoạt trong xử lý công tác. Cá biệt có một số
cán bộ Đoàn thiếu nhiệt tình trong các hoạt động, tham gia các phong trào theo kiểu hình
thức, trên chỉ đạo như thế nào thì thực hiện theo thế đó, thiếu sự sáng tạo của tuổi trẻ…
- Công tác kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng chưa thường xuyên,
chặt chẽ, liên tục. Có nơi buông lỏng, phó mặc công tác cho tổ chức Đoàn thanh niên, do
đó hiệu quả chưa cao.
- Kinh phí đầu tư cho hoạt động Đoàn còn thấp, chế độ ưu đãi đối với cán bộ đoàn
còn gặp khá nhiều khó khăn nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng, hiệu quả của
các phong trào đoàn.
- Chính quyền các cấp ở cơ sở một số nơi chưa có chương trình, kế hoạch để cụ
thể hoá các Nghị quyết của Đảng về thanh niên và công tác giáo dục thanh niên. Chưa có
sự đầu tư thích đáng cho các hoạt động Đoàn…
2.2.2. Giai đoạn 2001 - 2006
Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được triệu tập
tại Hà Nội. Đại hội đã đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; kiểm điểm, đánh
giá việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kin h tế- xã hội 1991 – 2000; tổng kết
những thành tựu bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới; hoạch định đường lối phát triển
đất nước trong thời kỳ mới. Sau khi đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII
trong 5 năm 1996 - 2000, Đại hội IX đã tập trung Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội dến năm 2000”. Kết quả là đến năm 2000, tổng
sản phẩm trong nước tăng hơn gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng khan hiếm nghiêm trọng đã
chuyển sang sản xuất đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể đã chuyển sang có nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế –
xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được
thế bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; không để bị cuốn sâu vào khủng hoảng tài chính kinh tế ở một số nước châu á mặc dù
hậu quả của nó đối với nước ta khá nặng nề. Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định.
Quốc phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn
nhiều so với 10 năm trước.
Đại hội đánh giá tổng quát: Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước
phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng
tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước; khả năng độc lập tự chủ được
nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội VI, VII, VIII
của Đảng đúc rút vẫn có giá trị, nhất là các bài học chủ yếu sau:
- Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực
tiễn và luôn luôn sáng tạo.
- Ba là, đổi mới kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được của 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời
giúp Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
của đất nước.
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu, khuyết điểm, bài học của 15 năm đổi mới và
dự báo tình hình phát triển trong những năm tiếp theo, Đại hội IX đã hoạch định Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tổng quát là: đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao.
Đối với công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong thời kỳ mới, Đại hội IX chỉ
rõ: “Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo, phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát
triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”.
Với tinh thần “Đoàn kết, sáng tạo, xung kích, tình nguyện”, Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ VIII tháng 12 - 2002 được triệu tập tại Hà Nội đã mở ra một trang mới trong
lịch sử phát triển của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đại hội đã đánh giá thực trạng và công
tác Đoàn, phong trào thanh niên trong nhiệm kỳ trước, những mặt còn tồn tại và phương
hướng phát triển trong thời gian tới. đồng thời phát động rộng rãi trong toàn Đoàn và
thanh thiếu nhi cả nước phong trào lớn “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Ban Chấp hành Trung ương đoàn khoá VIII đã thông qua chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết Đại hội, trong đó đề ra 6 chương trình hành động cách mạng của
tuổi trẻ, xác định nhiệm vụ xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh, xứng đáng
đóng vai trò nòng cốt trong phong trào thanh thiếu niên, lực lượng dự bị tin cậy của
Đảng, chỗ dựa vững chắc của chính quyền nhân dân. Đại hội đã phát động các phong
trào lớn “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và kêu gọi tuổi trẻ Việt
Nam cùng siết chặt tay dưới lá cờ vinh quang của Đoàn, nguyện đi theo con đường cách
mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, nắm chắc thời cơ, vượt qua thử thách,
góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Phong trào mới với sức sống mới, hàng triệu thanh niên thi đua học tập, tiến quân
vào khoa học công nghệ; thi đua lao động sáng tạo để lập thân lập nghiệp; xung phong
tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng; góp phần giữ vững an ninh, chính trị, đảm bảo trật
tự an toàn xã hội. Các cuộc vận động, phong trào mới được triển khai rộng rãi: “Sáng tạo
trẻ”, “Bốn mới”(kỹ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới), “cán bộ
công chức trẻ với cải cách hành chính”, “học tập tốt, rèn luyện tốt”;…đã góp phần khơi
sức thanh niên trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra nhiều mô hình hay, cách làm
sáng tạo từ thực tiễn.
Đặc biệt, với sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh”, cuộc vận
động “Tuổi trẻ Việt Nam sống, chiến đấu và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” được
Ban Bí thư TW Đoàn phát động đúng vào dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh nhật Bác đã
tạo nên sự chuyển biến cả trong nhận thức và hành độnh của đông đảo Đoàn viên thanh
niên. Đợt sinh hoạt “Tiếp lửa truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”, “Tuổi trẻ sống đẹp,
sống có ích” đã có sức lôi cuốn và lan toả mạnh mẽ, tạo hiệu ứng xã hội sâu rộng góp
phần quan trọng nâng cao nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng và niềm tin cho thế hệ
trẻ.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng chính trị, củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng,
đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá và ý thức công dân cho đoàn viên, thanh niên. Bằng
nhiều hình thức và biện pháp sáng tạo, các cấp bộ Đoàn đã tổ chức tốt việc học tập các
Nghị quyết của Đảng, của Đoàn. Việc cung cấp thông tin, tình hình thời sự, chính trị đặc
biệt là những sự kiện nổi bật trong nước và quốc tế, về âm mưu chống phá nước ta của
các thế lực thù địch cho cán bộ đoàn viên, thanh niên được chú trọng. Các cấp bộ Đoàn
đã chủ động tìm tòi, tổ chức nhiều nội dung và cách làm sáng tạo để đưa chủ trương,
Nghị quyết của Đảng, của Đoàn đến với Đoàn viên, thanh niên như: tổ chức thi báo cáo
viên, tuyên truyền viên trẻ về Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tổ chức thi
viết tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh…Thực hiện chỉ thị số 23 - CT/TW ngày
27/3/2003 của Ban Bí thư TW Đảng về: “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”; phát động trong toàn Đoàn triển khai cuộc
vận động: “Tuổi trẻ Việt Nam Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại”…Tổ chức tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cán bộ làm
công tác tư tưởng văn hoá ở các tỉnh, thành đoàn, đoàn trực thuộc về các chuyên đề tư
tưởng Hồ Chí Minh; biên tập tài liệu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên;
hướng dẫn chỉ đạo cơ sở tổ chức cho đoàn viên thanh niên xem, trao đổi và thuyết trình
về nội dung bộ phim “Hồ Chí Minh chân dung một con người”, thi tuyên truyền viên trẻ,
diễn đàn, trao đổi, thi viết liên hoan văn nghệ các công tác khúc viết về Bác Hồ…
Trên cơ sở kết quả và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai học tập 5 bài lý
luận chính trị cho Đoàn viên, thanh niên nhiệm kỳ VII, Ban Bí thư TW Đoàn phối hợp
với Ban Tư tưởng văn hoá TW Đảng biên soạn tài liệu “6 bài học lý luận chính trị cho
Đoàn viên, thanh niên ” đồng thời phối hợp chỉ đạo việc triển khai học tập lý luận chính
trị cho cán bộ Đoàn viên, thanh niên. Tổ chức sinh hoạt chính trị : “ Nghị quyết Đại hội
Đoàn VIII và hành động của tuổi trẻ” và sinh hoạt chính trị “ Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ
Chí Minh ” với nhiều nội dung phong phú, hình thức sáng tạo…Đặc biệt các cấp bộ
Đoàn đã tích cực hưởng ứng triển khai đợt sinh hoạt chính trị “ Tiếp lửa truyền thống –
Mãi mãi tuổi 20” do Ban Bí thư TW Đoàn phát động. Đoàn viên cả nước đã sôi nỏi tham
gia các phong trào hoạt động quyên góp xây dựng bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm, đọc và tìm
hiểu 2 cuốn sách Mãi mãi tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm.
Đây là đợt sinh hoạt chính trị có sức lan toả trong thanh niên, trở thành một hiện tượng
trong đời sông văn hoá tư tưởng của giới trẻ và toàn xã hội, có tác dụng sâu sắc về giáo
dục lý tưởng, truyền thống cách mạng của cha anh, khẳng định niềm tin, tình cảm và
trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước, góp phần làm thay đổi suy nghĩ, cách nhìn
nhận của một bộ phận đối với thế hệ trẻ hôm nay. Đồng thời đặt ra cho các cấp bộ đoàn
những suy nghĩ và yêu cầu tiếp tục đổi mới công tác giáo dục hiện nay sao cho thiết thực
và hiệu quả thông qua gương người tốt việc tốt, những điển hình trong mọi mặt đời sống
xã hội, tránh lối giáo dục phô trương, hình thức giáo dục theo lối một chiều không phát
huy được trí tuệ của đoàn viên thanh niên.
Công tác giáo dục truyền thống thông qua các hoạt động lớn, thông qua các cuộc
thi, thông qua các hoạt động xã hội đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn cũng được
tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu, được đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia
tích cực. Qua các hoạt động như mít tinh, hội trại, các hoạt động về nguồn, thăm chiến
trường xưa, gặp gỡ các chứng nhân lịch sử, kể chuyện truyền thống …đã thu hút được
hàng chục triệu lượt thanh niên tham gia. Công tác giáo dục vè truyền thống vẻ vang của
Đoàn và của tuổi trẻ Việt Nam cho thanh thiếu niên đã có sự chuyển biến tích cực thông
qua việc triển khai các hoạt động trong “Tháng Thanh niên”, kết hợp giữa các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục truyền thống với các phong trào hành động cách mạng của tuổi
trẻ, thể hiện sự sáng tạo của Đoàn trước yêu cầu của tình hình mới. Trung ương Đoàn đã
tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu truyển thống do Đoàn, Hội tổ chức như cuộc thi “Âm
vang Điện Biên”; “Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ”; “Tìm hiểu 75 năm ngày thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Tìm hiểu 60 năm, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”; “Tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”…Nhiều cấp bộ
đoàn đã nhận phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, ủng hộ
nguyên vật liệu, ngày công giúp đỡ các gia đình chính sách, thăm hỏi tặng quà ngày lễ
tết…Thông qua các hoạt động trong “Tháng Thanh niên”, công tác giáo dục truyền thống
đã được đẩy mạnh, các liên hoan văn nghệ, các buổi giao lưu kết nghĩa, các hoạt động
tình nguyện vì cộng đồng trong đó có các nộidung giúp đỡ các gia đình chính sách là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giáo dục truyền thống với phong trào hành động cách mạng của
tuổi trẻ. Riêng trong tháng Thanh niên 2005 với chủ đề “Tự hào tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ”
đã có 34.922 công trình phần việc thanh niên được thực hiện với tổng trị giá trên 103 tỷ
đồng; 415.093 ngày công và trên 5 tỷ đồng giúp đỡ các gia đình chính sách, 2 tỷ 737
triệu đồng ủng hộ cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới hải đảo”; 3.938 đội thanh niên
tình nguyện tham gia tuyên truyền giữ gìn trật tự an toàn giao thông; trên 40 ngìn cuộc
giao lưu, biểu diễn văn nghệ và diễn đàn, toạ đàm về lối, nếp sống; 11.110 buổi xem,
thuyết trình, thi tìm hiểu các bộ phim về tư tưởng Hồ Chí Minh; 2.390 lượt đội tuyên
truyền thanh niên về tư tưởng Hồ Chí Minh đến với cơ sở; 12.036 cuộc giao lưu giữa cấp
uỷ, chính quyền và các Ban ngành đoàn thể với thanh niên; 10.629 đoàn viên thanh niên
được vay vốn sản xuất kinh doanh với số vốn 11 tỷ 336 triệu đồng; kết nạp 205.851 đoàn
viên mới, đưa số đoàn viên cả nước đạt trên 5 triệu; 1.465 cơ sở đoàn được củng cố,
thành lập mới; 10.788 đoàn viên được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng...Các hoạt
động giáo dục đạo đức, lối sống, nếp sống và tổ chức các hoạt động văn hoá - thể dục,
thể thao trong thanh thiếu nhi được mở rộng. Giáo dục đạo dức cách mạng cho thanh
niên được triển khai gắn với nội dung sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí
Minh ” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”. Nhiều diễn
đàn được tổ chức như: Tuổi trẻ học tập và làm theo đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh;
Cần, kiệm là nếp sống đẹp của thanh niên. Bên cạnh đó là các phong trào thực hiện lời
Bác Hồ dạy đối với thanh niên, thiếu niên nhi đồng nói chung và thanh niên các lực
lượng vũ trang nói riêng. Các cấp bộ đoàn đã chú trọng hơn trong việc triển khai cuộc
vận động cưới văn minh - tiết kiệm trong thanh niên thông qua việc ban hành văn bản
hướng dẫn, trao đổi về việc cưới gắn với nội dung sinh hoạt “Cần kiệm là nếp sống đẹp
của thanh niên”. Cuộc vận động cưới văn minh - tiết kiệm đã được thanh niên đồng
tình hưởng ứng, từng bước đi vào đời sống sinh hoạt của thanh niên. Đoàn thanh niên
còn vận động thanh niên giúp đỡ, hỗ trợ các cặp vợ chồng trẻ ngay khi lập gia đình về
tiền vốn, giống cây trồng, vật nuôi để lập nghiệp.
Các hoạt động văn hoá thể dục thể thao được tổ chức thường xuyên, chất lượng
hoạt động được nâng cao, tiêu biểu là hội thi các nhà thiếu nhi toàn quốc nhằm vừa góp
phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh cho thanh thiếu niên vừa giáo dục
truyền thống cách mạng, nâng cao khả năng cảm thụ nghệ thuật cho thanh niên, đồng
thời vừa là cách thức để tập hợp thanh thiếu niên đến với tổ chức đoàn, hội.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ý thức công dân cho thanh
thiếu nhi; giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, nâng cao cảnh giác cách mạng và trách
nhiệm của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc cũng được quan tâm đẩy mạnh. Các hoạt
động tuyên truyền giáo dục pháp luật tập trung và các văn bản luật liên quan trực tiếp tới
thanh thiếu nhi, xây dựng ý thức công dân, chấp hành pháp luật. Các vấn đề bức xúc của
thanh thiếu nhi được giải đáp và lồng ghép với các chương trình giáo dục khác. Hoạt
động của các đội, nhóm thanh niên tình nguyện tư vấn pháp luật, trung tâm trợ giúp pháp
lý cho thanh thiếu niên và nhân dân tại các vùng sâu, vùng xa là nét mới trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật do đoàn tổ chức. Nhiều mô hình, cách làm hay được duy trì
và phát huy hiệu quả ở cơ sở, góp phần nâng cao kiến thức pháp luật, hình thành lối
sống, hành vi pháp luật tích cực trong thanh thiếu niên như: Tuyên truyền trên bản tin
công tác thanh niên; hệ thống thông tin của đoàn, tờ rơi, panô, áp phích, trang thông tin
điện tử; thi tìm hiểu kiến thức pháp luật…Ngoài ra tại các tỉnh cũng thành lập những đội
thanh niên xung kích an ninh, tập huấn công tác phòng chống tội phạm có hiệu quả, tạo
đà cho hoạt động ở cơ sở đi lên. Nhiều mô hình đã hoạt động có hiệu quả và phát triển ở
hầu hết các tỉnh, thành như: “Câu lạc bộ pháp luật”, hòm thư tố giác tội phạm, tiếng kẻng
thanh niên, khu phố không có tệ nạn xã hội…tổ chức cho thanh thiếu niên tham gia các
chiến dịch, các đợt cao điểm phòng chống ma tuý, mại dâm, đua xe trái phép…Phối hợp
phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giúp đỡ người phạm tội và tệ nạn xã hội hoàn
lương ở cộng đồng dân cư.
Với nhận thức bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ biên cương, lãnh
thổ, chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, bảo vệ hệ thống
chính trị và giữ vững an ninh tư tưởng, các cấp bộ đoàn đã tổ chức nhiều hoạt động thiết
thực về ý thức quốc phòng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho thanh niên. Các
hoạt động tăng cường nâng cao nhận thức cho đoàn viên thanh niên về đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước, về tình hình nhiệm vụ mới, về nghĩa vụ tham gia xây dựng
nền quốc phòng toàn dân và dân quân tự vệ, dự bị động viên, về âm mưu diễn biến hoà
bình của kẻ thù…Nghiên cứu học tập Nghị quyết TW Đảng lần thứ 8 (khoá IX) về Chiến
lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới,; thủ đoạn của các thế lực thù địch trong âm mưu
diễn biến hoà bình.
Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, thực hiện chính sách
hậu phương quân đội đã trở thành phong trào tự nguyện và rộng khắp trong thanh thiếu
nhi cả nước. Có thể nói, công tác giáo dục ý thức quốc phòng - an ninh cho thanh niên đã
được coi trọng và đạt được những kết quả thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức, ý
thức trách nhiệm của tuổi trẻ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các chương trình thanh niên xung kích, tình nguyện tham gia phát triển kinh tế –
xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng cũng được quan tâm triển khai rộng khắp trong
thanh niên cả nước. Các hoạt động trong tháng Thanh niên thường xuyên được sự quan
tâm của các cấp uỷ Đảng, các cấp bộ đoàn, sự tham gia tích cực của các lực lượng xã hội,
đã đạt được kết quả toàn diện trên các mặt công tác, là động lực thúc đẩy sự phát triển
của công tác đoàn và phong trào thanh niên hàng năm. Tính riêng tháng thanh niên từ
năm 2003 đến năm 2006, toàn Đoàn đã thực hiện 149.939 công trình, phần việc thanh
niên với tổng trị giá 732 tỷ đồng, huy động hàng triệu lượt thanh niên và các lực lượng
xã hội khác tham gia, kết nạp 957.360 đoàn viên mới, giới thiệu cho Đảng 161.321 đoàn
viên ưu tú, được Đảng xem xét kết nạp 38.729 đảng viên trẻ. Phong trào thanh niên thi
đua học tập, đi đầu xây dựng xã hội học tập và tiến quân vào khoa học công nghệ được
đẩy mạnh. Thông qua Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, phong trào sinh viên nghiên cứu
và tập sự nghiên cứu khoa học, chủ động tham gia chương trình cải cách giáo dục, góp
phần xây dựng học đường văn minh, lành mạnh…xây dựng các quỹ khuyến học, khuyến
tài. Đến nay 100% Đoàn các cấp huyện và hầu hết các Đoàn trường học có quỹ khuyến
học, khuyến tài…
* Hạn chế:
- Việc tổ chức các hình thức giáo dục cho đoàn viên thanh niên vẫn còn hình thức,
rập khuôn, máy móc. Việc tổ chức học tập, quán triệt các chủ trương, Nghị quyết của
Đảng, Đoàn vẫn theo hình thức các báo cáo viên độc thoại về nội dung, vai trò chủ động
của học viên không được phát huy.
- Khả năng cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của
Đoàn, Hội ở một số địa phương cơ sở còn hạn chế. Công tác chỉ đạo, kiểm tra, hướng
dẫn của các cấp uỷ Đảng, của Đoàn thanh niên còn chưa thường xuyên, chưa phát huy
được hết sức mạnh của các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục thanh thiếu niên.
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống, nếp sống; giáo dục ý thức cảnh giác
cách mạng cho thanh thiếu niên; việc nắm và xử lý tư tưởng và dư luận xã hội trong
thanh niên nhất là ở địa bàn, khu vực trọng điểm, đối tượng đặc thù còn nhiều hạn chế,
mọt số vấn đề mới trong thanh niên như các diễn đàn, blog…trên mạng thực hiện chưa
hiệu quả, còn lúng túng trong việc xác định cả về nội dung cũng như hình thức thực hiện.
- Công tác giáo dục đạo đức, lối sống và nhân cách cho thanh niên, nhất là thanh
niên các khu đô thị lớn chưa được quan tâm tương xứng với công tác giáo dục chính trị
tư tưởng và giáo dục truyền thống; điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế; việc phát
hiện, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến chưa thường xuyên.
- Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được
yêu cầu công tác giáo dục của Đảng và Đoàn hiện nay. Việc tổ chức học tập 6 bài học
chính trị ở nhiều địa phương, cơ sở chưa được quan tâm, đầu tư chỉ đạo đúng mức nên
chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. s
- Các hoạt động của Đoàn có hiệu quả chủ yếu ở các địa bàn và những đối tượng
thanh niên có thuận lợi, thanh niên tiên tiến, chưa đầu tư quan tâm đến các đối tượng
thanh niên chậm tiến. Hình thức triển khai một số nội dung giáo dục cho thanh thiếu niên
còn giản đơn, xơ cứng, thiếu hấp dẫn với thanh thiếu niên. Một số mô hình giáo dục tại
cộng đồng hoạt động chưa hiệu quả, thiếu tin bền vững. Đội ngũ cán bộ tư tưởng – văn
hoá của đoàn chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục thanh thiếu niên trong
tình hình mới.
- Mặt trái của cơ chế thị trường, lối sống thực dụng, vị kỷ có chiều hướng tác động
tiêu cực trong giới trẻ, sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận xã hội tác động không
nhỏ tới đoàn viên thanh niên dẫn đến một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, hoài
bão, thờ ơ với sinh hoạt chính trị và các hoạt động xã hội do Đoàn tổ chức. Trình độ văn
hoá, chuyên môn, nghề nghiệp của một bộ phận thanh niên còn hạn chế; lực lượng đoàn
viên, thanh niên ở nông thôn biến động mạnh do khó khăn về việc làm. Số thanh thiếu
nhi mắc tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, quá trình toàn cầu hoá, giao lưu văn hoá
và bùng nổ thông tin tác động nhiều chiều tới tư tưởng, tình cảm của thanh niên; tác động
tới cơ cấu xã hội của thanh niên, chi phối nhận thức, tư tưởng và hành động của thanh
niên.
- Các thế lực thù địch ngày càng ra sức chống phá, lôi kéo thanh niên; tiếp tục đẩy
mạnh các chiêu bài về “diễn bién hoà bình”, tuyên truyền về dân chủ, nhân quyền…Đặc
biệt là việc truyền đạo trái phép trong thanh niên, học sinh, sinh viên diễn ra phức tạp.
Các lực lượng phản động lợi dụng mạng thông tin điện tử (Internet), lợi dụng kích động
khiếu kiện trong nhân dân để truyền bá thông tin phản động, kích động, chia rẽ làm phai
nhạt lý tưởng trong thanh thiếu niên.
* Nguyên nhân:
- Sự lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến các cấp Đảng bộ vẫn chưa thoát ra
khỏi phương thức cũ, hành chính quan liêu mệnh lệnh. Tính gương mẫu, tiên tiến, nhân
cách của không ít cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu sót, chưa thuyết phục, thu hút được
đông đảo nhân dân.
- Nhận thức và tổ chức công tác thanh niên trong thời kỳ mới vẫn chỉ chú trọng về
mặt chính trị, trong khi vấn đề thanh niên đã trở thành vấn đề xã hội lớn và phức tạp, cần
có sự quản lý của Nhà nước. Nhiều yêu cầu sửa đổi cơ chế, chính sách đối với thanh niên
trong học tập, kinh doanh, sản xuất, đi nước ngoài chậm được thực hiện, ảnh hưởng đến
lòng tin của tuổi trẻ vào chế độ xã hội mới, những vấn đề xã hội của thanh niên chậm được
giải quyết.
- Đoàn thanh niên có nhiều cố gắng trong công tác nhưng vẫn bộc lộ những yếu
kém.
+ Hệ thống tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đoàn còn yếu, chưa đủ sức tiếp
cận quá trình đổi mới của đất nước.
+ Số lượng và chất lượng đoàn viên, uy tín của Đoàn trong xã hội và sức hấp dẫn
đối với tuổi trẻ giảm sút.
+ Đoàn chậm đổi mới về cơ cấu tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động trong điều kiện
cơ chế quản lý kinh tế - xã hội đang chuyển biến nhanh chóng.
+ Cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của Đoàn còn nghèo nàn thiếu thốn.
2.3. Những kinh nghiệm rút ra trong công tác giáo dục thanh niên của Đảng
1996 -2006
Qua 10 năm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ 1996 – 2006, có
thể thấy rằng công tác giáo dục thanh niên của Đảng ta đã đạt được những thành tựu
đáng tự hào. Thông qua hoạt động thực tiễn 10 năm qua, bước đầu rút ra một số kinh
nghiệm:
2.3.1 Khẳng định vai trò, vị trí tầm quan trọng của thanh niên và công tác
giáo dục thanh niên trong công tác của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác thanh niên
Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước có vững bước trên con
đường xã hội chủ nghĩa hay không hoàn toàn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên và
công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên của Đảng. Do đó phải luôn coi trọng công tác
thanh niên và giáo dục thanh niên của Đảng nhằm xây dựng một lớp người mới có đạo
đức, có trình độ đáp ứng nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh niên là nhiệm vụ cấp bách, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược
con người của Đảng. Điều đó quyết định sự phát triển đi lên của xã hội. Đảng phải có
chính sách đúng về công tác thanh niên, công tác đó phải được tiến hành bằng sức mạnh
tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể xã hội...Đảng phải nắm lấy
thanh niên, đào tạo bồi dưỡng giáo dục thanh niên trở thành lực lượng cách mạng hùng
hậu, hướng tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.3.2. Đảng phải có sự chỉ đạo cụ thể đối với từng phong trào thanh niên, nhân
rộng điển hình tiên tiến, làm hạt nhân cho phong trào phát triển trên diện rộng cả về
hình thức lẫn nội dung
Từ các Nghị quyết lần thứ 26 của Bộ Chính trị khoá V, Nghị quyết 25 của Bộ
Chính trị khoá VI và Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành TW Đảng khoá VII, công tác
thanh niên của Đảng đã có sự phát triển vượt bậc với hàng loạt các phong trào xuất hiện
như phong trào sản xuất kinh doanh giỏi ở nông thôn; phong trào luyện tay nghề thi thợ
giỏi ở trung tâm các thành phố lớn…Các phong trào thanh niên làm theo lời Bác, uống
nước nhớ nguồn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…được đông đảo thanh niên tham gia.
Trên cơ sở đó, hội nghị Ban Chấp hành TW Đoàn lần thứ hai khoá VI đã quyết định phát
động sâu rộng trong toàn thể đoàn viên thanh niên hai phong trào lớn là “Thanh niên lập
nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”, đáp ứng nguyện vọng mong mỏi của các thế hệ thanh
niên đang muốn cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Phong trào đã diễn ra
sôi nổi và thu được những thắng lợi to lớn.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII,
hàng loạt phong trào thi đua của thanh niên được phát triển mạnh mẽ. Các phong trào
tình nguyện như: thanh niên tham gia chiến dịch ánh sáng văn hoá giúp đỡ đồng bào
miền núi, vùng sâu, vùng xa; thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội, làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội; thanh niên tham gia phòng chống tệ nạn xã hội; tiếp lửa
truyển thống, học tập tấm gương Bác Hồ vĩ đại.. đã nhanh chóng đi sâu vào quần chúng
lôi cuốn hàng triệu lượt đoàn viên thanh niên tham gia. Qua các hoạt động này Đảng ta
đã rút ra được kinh nghiệm quý báu trong công tác thanh niên là từ những chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng phải làm tốt vai trò chỉ đạo thực hiện những chủ
trương chính sách đó thông qua tổ chức Đoàn thanh niên xuống tới từng đoàn viên thanh
niên bằng các hình thức tổ chức vận động phong phú, đa dạng nhằm nhân rộng các điển
hình tiên tiến để làm hạt nhân cho phong trào phát triển rộng khắp.
2.3.3. Đảng quan tâm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chăm lo, bồi
dưỡng, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, cống hiến và trưởng thành, vừa
phát huy cao độ tiềm năng, lực lượng thanh niên hướng vào mục tiêu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, nâng cao tri thức cho thanh niên là một nhiệm
vụ của công tác thanh niên của Đảng. Thông qua các tổ chức Đoàn, Hội, Đảng ta phát
động sâu rộng trong thanh niên các phong trào rèn đức luyện tài, học tập vì ngày mai lập
nghiệp. Xây dựng các quỹ hỗ trợ tài năng trẻ, quỹ khuyến học, khuyến tài, giúp bạn
nghèo vượt khó. Trong việc hoạch đinh đường lối chính sách phát triển kinh tế đất nước,
Đảng luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, chăm lo phát triển giáo dục đào tạo nhằm
đào tạo nên thế hệ trẻ vừa có đức vừa có tài, vừa Hồng là vừa Chuyên. Bên cạnh đóm
Đảng ta cũng luôn có kế hoạch bồi dưỡng giáo dục phát huy nhân tố con người, phát
triển con người toàn diện, chăm lo tới sự nghiệp “trồng người”, góp phần nâng cao dân
trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Giáo dục đaog tạo là chìa khoá mở cửa để tiến vào
tương lai. Thanh niên sẽ là những người vừa được thừa hưởng lâu dài những kết quả của
sự đầu tư đó, họ vừa là lực lượng chính trong việc tạo ra những kết quả tốt đẹp đó.
Không ai khác mà chính là thanh niên sẽ giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy
nhân tố và nguồn lực con người của Đảng.
Đảng phải thường xuyên chăm lo tới việc nâng cao nhận thức cho thanh niên, tạo
điều kiện cho thanh niên phát huy nội lực khai thác tối đa tiềm năng của tuổi trảitong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn được như vậy, Đảng
phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách đối với thanh niên nhằm phát huy
tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thanh niên
cống hiến tốt nhất, cổ vũ thanh niên hăng say lập thân lập nghiệp, chấn hưng đất nước và
bảo về vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa. Những chính sách đó phải bao gồm các vấn
đề sử dụng tốt nguồn lực trẻ, tạo việc làm, bồi dưỡng các mặt trí, đức, thể, mỹ,phát huy
tài năng trẻ, chăm lo tới các vấn đề xã hội của thanh niên.
Bên cạnh đó Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là
môi trường thanh niên rèn luyện cống hiến và trưởng thành, là hạt nhân đoàn kết mọi
tầng lớp thanh thiếu niên xung quanh Đảng. Hơn thế nữa còn góp phần xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, đủ sức gánh vác những nhiệm vụ to lớn mà Đảng và nhân dân
giao phó.
2.3.4. Đảng thường xuyên tiến hành kiểm tra, đánh giá tổng kết lãnh đạo chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác thanh niên
Các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải có chương trình công tác thanh
niên trong từng nhiệm kỳ và phải được cụ thể hoá thành kế hoạch công tác thanh niên
trong từng tháng, từng quý, từng năm. Xây dựng chương trình công tác thanh niên và cụ
thể hoá thành kế hoạch công tác thanh niên của các cấp uỷ Đảng, coi đó là tiêu chuẩn để
đánh giá Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình xây dựng các chương trình, phong trào đối với công tác thanh
niên, Đảng phải thường xuyên lãnh đạo và tổ chức tốt công tác kiểm tra.Làm tốt được
chức năng này thì phong trào thanh niên mới thực sự đi vào cuộc sống, nếu không những
chủ trương, chính sách của Đảng đối với phong trào thanh niên sẽ chỉ mang tính hình
thức, không có hiệu quả. Các chính sách đối với côngtác thanh niên có tác dụng như
động lực thúc đẩy phong trào thanh niên phát triển hoặc ngược lại, do đó Đảng cần phải
có sự kiểm tra, đánh giá nhằm bổ xung những thiếu xót trong quá trình thực hiện những
chủ trương, chính sách, phong trào của mình đề ra.
Đảng viên phải là hạt nhân trong mọi phong trào, phải là tầm gương sáng cho
quần chúng noi theo, do vậy Công tác giáo dục đảng viên của Đảng phải được quan tâm
đúng mức, phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình trong mỗi Đảng viên, để đảng
viên luôn là tấm gương cho các thế hệ trẻ học tập phấn đấu. Đổi mới công tác xây dựng
chính đốn Đảng đòi hỏi Đảng phải coi công tac thanh niên là công tác tự thân của Đảng.
Đảng phải tự toả sáng trong bản chất cách mạng và khoa học của mình. Chỉ có như vậy
thanh niên mới thực sự tin tưởng theo Đảng, đi theo Đảng và phấn đấu để được đứng
trong hàng ngũ của Đảng.
2.3.5. Đảng phải quan tâm xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững
mạnh; mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, tích cực tham gia công tác
xây dựng Đảng
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước đòi hỏi Đảng phải luôn quan tâm tới
việc xây dựng phát triển tổ chức Đoàn vững mạnh, làm cho tổ chức Đoàn là tổ chức cộng
sản trẻ của thanh niên, phải thực sự là tổ chức vì thanh niên. Bên cạnh đó là hạt nhân
trong tập hợp, giáo dục thanh niên, là người bạn, người đồng chí, đồng hành cùng thanh
niên trên con đường lập thân, lập nghiệp, xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. Trong công tác này, Đảng phải xác định “chất lượng cơ sở là trọng tâm, cán bộ
là then chốt, tập hợp đoàn kết thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu”.
2.3.6 Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn để đáp ứng
yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên
Đây là công việc quan trọng của Đảng bởi xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn trong
giai đoạn hiện nay là quá trình tạo dựng đội ngũ cán bộ trẻ, giỏi, thực sự là những người
bạn, người đồng chí có khả năng hướng dẫn tổ chức hoạt động cho thanh thiếu niên.
Trong quá trình đó, Đảng phải thường xuyên phối hợp với Đoàn, Đội, Hội tiến hành đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác Đoàn, nâng cao chất lượng và hiệu
quả của công tác thanh niên. Đổi mới mạnh mẽ phong cách làm việc và phương pháp
công tác của cán bộ Đoàn sao cho vừa phù hợp với tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng của
thanh niên, vừa đáp ứng được các yêu cầu chỉ đạo và phối hợp liên ngành trong công tác
Đoàn và phong trào thanh niên.
2.3.7. Đổi mới nội dung, phương thức, cách thức giáo dục, tuyên truyền đường lối
chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
Trong tuyên truyền, giáo dục chính trị cho thanh niên Đảng phải lấy tuyên truyền,
vận động thuyết phục thanh niên là phương thức quan trọng nhất. Cách thức tiến hành
tuyên truyền giáo dục cần ngắn gọn, cụ thể, thiết thực, hấp dẫn, sinh động phù hợp với
từng lĩnh vực công tác, từng đối tượng thanh niên. Đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn với
giáo dục thông qua các phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước.
2.4. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục thanh
niên trong giai đoạn tiếp theo
* Phương hướng:
- Tăng cường giáo dục chính trị, truyền thống lý tưởng, đạo đức và lối sống cho
thanh thiếu niên. đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, văn hoá, thông tin, truyền thông
của Đoàn; phối hợp với chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể nhân dân và huy
động các nguồn lực xã hội nhằm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thanh thiếu nhi.
- Nâng cao chất lượng rổ chức cơ sở Đoàn, chất lượng đoàn viên, chất lượng cán
bộ; tăng cường tập hợp, đoàn kết thanh niên, phát triển Hội liên hiệp thanh niên Việt
Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các tổ chức thanh niên khác do Đoàn làm nòng cốt; đề
cao trách nhiệm của Đoàn trong việc phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh và tổ chức các
hoạt động thiếu nhi, xây dựng Đảng chính quyền và đoàn thể nhân dân.
- Chăm lo bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ có chất lượng, phát huy cao độ vai trò
xung kích, sáng tạo và tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong phát triển kinh tế xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.
* Giải pháp:
- Tăng cường giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống cho
thanh niên góp phần xây dựng lớp thanh niên tiên tiến và phát triển toàn diện
Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ của toàn Đảng là cùng cả xã hội chăm lo xây dựng
lớp thanh niên tiên tiến, phát triển toàn diện, giầu lòng yêu nước, biết đặt lợi ích của
mình trong lợi ích thống nhất của quốc gia, dân tộc; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh
chính trị vững vàng; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; có văn
hoá và lối sống tình nghĩa; có sức khoẻ thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết
sáng tạo và tinh thần tình nguyện. Người thanh niên của thời kỳ mới vừa biết gìn giữ và
phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu văn hoá dân tộc
bằng những giá trị, những tinh hoa văn hoá nhân loại, là hiện thân tiêu biểu của các giá
trị văn hoá Việt Nam.
+ Triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo
lời Bác”, đây là cuộc vận động có ý nghĩa quan trọng, là quá trình tuổi trẻ không ngừng
rèn luyện, tu dưỡng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về đạo đức, lối sống nhằm hình thành
những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam.
+ Các cấp bộ Đoàn cần cụ thể hoá các nội dung của cuộc vận động: Xây dựng tình
đoàn kết, tương thân tương ái vì cộng đồng, chống bàng quan, vị kỷ cá nhân; xây dựng
thái độ học tập say mê, nghiêm túc, làm việc gì cũng phải học, học suốt đời, tiến quân
vào khoa học công nghệ, chống tiêu cực gian dối, không trung thực; xây dựng tinh thần
lao động cần cù, sáng tạo, chống ỷ lại, lười lao động; xây dựng ý thức tiết kiệm….
- Đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của
Đoàn
Trước hết là đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính
trị, coi đây là quá trình bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đoàn viên thanh niên.
nội dung giáo dục phải gần gũi thiết thực, phương thức giáo dục phải phát huy được dân
chủ, trí tuệ của đoàn viên thanh niên, kết hợp giáo dục thông qua các phong trào thi đua
yêu nước và xây dựng củng cố tổ chức Đoàn.
Trong giáo dục truyền thống, coi trọng giáo dục truyền thống vẻ vang của dân tộc,
của Đảng, của Đoàn, truyền thống đoàn kết, ý chí tự cường tự tôn dân tộc, xây dựng khát
vọng chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, tinh thần xung kích, tình nguyện vì cộng đồng.
Trong giáo dục đạo đức, lối sống đề cao giáo dục cho thanh niên lòng yêu lao
động, biết hưởng thụ chính đáng chống lười biếng, lối sống thực dụng. Kịp thời định
hướng hướng dẫn thanh niên trước những loại hình văn hoá mới trong âm nhạc, game
online, blog…
- Tiếp tục đổi mới công giáo dục ý thức pháp luật và ý thức công dân cho thanh
thiếu nhi, góp phần hình thành lối sống “sống và làm viẹc theo hiến pháp và pháp luật”
giúp cho thanh niên thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời vận động
thanh niên g]ơng mẫu chấp hành luật pháp, tuân thủ nội quy, quy định của tổ chức.
- Giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân và tinh thần đoàn kết quốc tế chân chính
cho thanh thiếu niên là một trong những nội dung quan trọng trong công tác giáo dục của
Đảng, Đoàn, góp phần giáo dục cho mỗi thanh niên nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay, hiểu rõ bản chất các sự kiện, các quá trình quốc tế, xây
dựng cho mính bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ động sáng tạo trong quá trình hội nhập.
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp của đoàn, đồng thời phát triển đội
ngũ cộng tác viên; củng cố bộ máy tổ chức làm công tác tư tưởng văn hoá của Đảng,
Đoàn; khai thác tốt các nguồn lực và phối hợp với các lực lượng xã hội trong công tác
giáo dục thanh niên.
- Phát huy vai trò của báo chí và các thiết chế do Đảng, Đoàn quản lý trong giáo
dục thanh thiếu nhi, đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường, các
tổ chức, các cấp chính quyền trong công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh; mở
rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên; tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính
quyền nhân dân.
kết luận
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một năm bắt đầu từ mùa
xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Thanh niên ngày
nay chính là người chủ tương lai của đất nước, Người khẳng định: nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Thực tiễn lịch sử nước ta đã cho thấy
những quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh niên và vai trò của thanh niên là hoàn toàn
đúng đắn. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vai trò của thanh niên là không thể phủ
nhận. Nếu như trước đây, các thế hệ thanh niên sống, chiến đấu và hy sinh vì lý tưởng
độc lập tự do cho dân tộc, khát khao cho hoà bình, thống nhất đất nước để Nam - Bắc
một nhà đi lên chủ nghĩa xã hội thì trong giai đoạn cách mạng hiện nay, lý tưởng đó
cũng không hề thay đổi, chỉ khác là thanh niên hiện nay có khát khao cháy bỏng làm
sao để nước nhà đổi mới, có nền kinh tế phát triển, làm giàu cho bản thân, gia đình và
xã hội nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. ở thời
kỳ nào thì thanh niên cũng là lực lượng xung kích đi đầu trong các phong trào và khẳng
định to lớn của mình. Họ chính là những người làm rạng danh dân tộc Việt Nam, viết
nên những trang sử, những mốc son chói lọi trong cuộc cách mạng chống lại áp bức,
bạo lực, bất công. Ngày nay, thế hệ trẻ lại đang bước tiếp những bước đi của cha anh
chống lại nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên phát triển kinh tế, dám nghĩ, dám làm, tiếp thu
khoa học công nghệ tiên tiến để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cùng với những luồng tư tưởng, văn
hoá ngoại lai đang xâm nhập vào nước ta hiện nay đã khiến một bộ phận không nhổ
thanh niên đi chệch con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn. Lối sống buông thả,
thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi đồng tiền là thước đo giá trị đang phát triển mạnh
trong thanh niên. Sự nhạt phai lý tưởng xã hội chủ nghĩa, suy thoái về đạo đức xã hội
và nhân cách con người đang là hồi chuông cảnh tỉnh đối với thế hệ trẻ nói riêng và
toàn xã hội nói chung. Làm thế nào để thanh niên nhận thức đúng đắn về vai trò của
mình đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước là một việc làm đang được toàn Đảng,
toàn dân ta quan tâm bởi thanh niên chính là tương lai của đất nước. Nếu không được
quan tâm một cách đúng mức, không có những biện pháp hiệu quả trong việc giáo dục,
định hướng cho thanh niên thì tương lai, sự tồn vong của đất nước sẽ bị đe doạ, công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ khó có thể thực hiện thành công. Do đó, công tác
giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay là một
việc làm cấp bách đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội.
Trong suốt những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng quan tâm
phát triển công tác giáo dục thanh niên và đã nhận được sự đồng thuận của toàn xã hội.
Các phong trào thanh niên tình nguyện giúp đỡ nhau học tập, phát triển kinh tế, đẩy lùi
tệ nạn xã hội…đã được các ban, ngành quan tâm, cổ vũ động viên và đã đem lại những
thành quả to lớn cho toàn xã hội. Cũng qua các phong trào đó, đoàn viên thanh niên
được rèn luyện, trau dồi kiến thức, trình độ nhận thức chính trị, hoàn thiện nhân cách
của mình, đem tới những tác động tích cực cho toàn xã hội. Có được những thành tựu
to lớn đó phải kể tới sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước và tổ chức Đoàn Thanh
niên đã luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong công tác giáo dục thanh niên.
Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên của Đảng cộng sản Việt
Nam giai đoạn 1996 - 2006 đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng nên một thế hệ thanh niên nhiệt huyết cách mạng, hăng hái đi đầu trong mọi công
việc. Tuy nhiên trong quá trình đó đôi lúc, đôi chỗ, sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền cơ sở còn chưa sâu sát, sự chống phá của kẻ thù ngày càng tinh vi… nên
công tác giáo dục thanh niên của Đảng vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Nỗ lực phấn
đấu vươn lên trở thành công dân có ích cho đất nước đang là nguyện vọng thiết tha
cháy bỏng của thanh niên hiện nay. Quan tâm chăm sóc thế hệ trẻ để ngày mai họ có
thể đảm đương được trọng trách gánh vác sự nghiệp cách mạng của đất nước là việc
làm cần thiết không những của Đảng và Nhà nước ta hiện nay mà đó còn là công việc
của mỗi chúng ta, từ đó xây dựng một đội ngũ tri thức trẻ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có lối sống đẹp, ý chí vươn lên lập thân lập
nghiệp góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước giàu đẹp.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), Một số văn kiện của Đảng về công tác
tư tưởng - văn hoá, tập 1 (1930 - 1986), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2007), Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ, Nxb Thanh
niên.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 8, khoá VI.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5,
khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 2,
khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần 3, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 4,
khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 5,
khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
15. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Thanh niên, Hà Nội
16. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1992), Quá trình tự đổi mới, Nxb Thanh
niên, Hà Nội
17. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1996), Tự giới thiệu từ Đại hội đến
phong trào, Nxb Thanh niên, Hà Nội
18. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Thanh niên, Hà Nội
19. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2001), Văn kiện Đoàn từ 1995 đến 2001,
Nxb Thanh niên, Hà Nội
20. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự
thật, Hà Nội
21. Phạm Văn Đồng (1986), Mấy vấn đề về văn hoá giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Phạm Văn Đồng (1999), Mấy vấn đề về giáo dục đào tạo, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Đức (chủ biên), Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
24. Hội Sinh viên Việt Nam (2003), Lịch sử phong trào học sinh, sinh viên Việt Nam
và Hội sinh viên Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội
25. V.I. Lênin (1959), Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Tuyển tập, quyển 2, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
26. V.I. Lênin (1979), Những nhiệm vụ của thanh niên cách mạng, Toàn tập, tập 7, Nxb
Tiến bộ, Mátxơcơva.
27. V.I. Lênin (1981), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
28. C.Mác và Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 16, Nxb Sự thật, Hà Nội
29. C. Mác và Ph.Ăngghen (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Trần Văn Miều (2001), Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 70 năm xây dựng
và trưởng thành, Nxb Thanh niên, Hà Nội
31. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1973), Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội thanh niên ta hăng hái tiến lên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (1987), Những sự kiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
36. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
38. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
39. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Hồ Chí Minh (1995), Thư gửi các bạn thanh niên, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1996), Việt Nam dân chủ cộng hoà, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
42. Đỗ Mười (1993), Tuổi trẻ Việt Nam phải xây dựng cho mình hoài bão trí tuệ, đạo
đức và ý chí cách mạng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
43. Vũ Oanh (1995), Tập hợp đoàn kết rộng rãi thanh niên vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
44. Vũ Oanh (1990), Nói chuyện về Đảng với thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
45. Nguyễn Trọng Phúc (1998), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Các Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2006), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
47. Vũ Quang, Giáo dục cho thanh niên lý tưởng cộng sản và lập trường tư tưởng, đạo
đức của giai cấp công nhân, Hồ sơ 1197, lưu trữ Trung ương Đoàn.
48. Vũ Quang, Lưu Minh châu, Tạ Quang Chiến (1969), Bốn bài giáo dục chính trị cơ
bản cho đoàn viên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
49. Vũ Quang (1990), Đảng là người giáo dục và rèn luyện thanh niên ta, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
50. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1996), Báo cáo công tác
Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1996, Chương trình công tác Đoàn và
phong trào thiếu nhi năm 1997 của Ban Chấp hành TW Đoàn.
51. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1998), Báo cáo công tác
Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1997. Chương trình công tác Đoàn và
phong trào thiếu nhi năm 1998 của Ban Chấp hành TW Đoàn.
52. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), tổng quan tình hình
thanh niên, công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2002 –
2007, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
53. Lê Văn Tu (1997), "Công nhgiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp tất yếu của
thanh niên", Tạp chí Thông tin khoa học thanh niên, (12), tr.35.
54. Hồ Đức Việt (1996), Thanh niên với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
55. Quang Vinh (Tuyển chọn) (2002), Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
56. GS, TSKH Huỳnh Khái Vinh(2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức chuẩn giá
trị xã hội, Nxb CTQG, Hà Nội
57. Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự (2006), Chuẩn mực đạo đức con người
vn hiện nay, Nxb QĐND.
Phụ lục
Phụ lục 1
ý kiến của thanh niên – sinh viên về sự cần thiết tăng cường
công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên
trong tình hình nước ta hiện nay
STT Mức độ Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Rất cần thiết 82 21,13
2 Cần thiết 214 55,15
3 Chưa thật cần thiết 70 18,04
4 Không cần thiết 22 5,67
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phụ lục 2
ý kiến của cán bộ và thanh niên – sinh viên về trách nhiệm
giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên – sinh viên
của một số cơ quan, tổ chức
STT Cơ quan tổ chức Sinh viên Cán bộ
1 Nhà trường 96,74 100,0
2 Đoàn thanh niên 89,30 88,92
3 Hội sinh viên 70,23 77,06
4 Tổ chức Đảng 100,0 100,0
5 Công đoàn 42,33 45,10
6 Hội Phụ nữ 28,84 38,66
7 Hội cựu chiến binh 51,63 73,45
8 Các cơ quan truyền thông 65,12 82,47
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội
Phụ lục 3
ý kiến của sinh viên về những chủ đề quan tâm thảo luận
trong các buổi học tập, toạ đàm về giáo dục lý tưởng cách mạng
trong sinh viên
Tỷ lệ Thứ STT Chủ đề (%) hạng
1 Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng theo con đường mà 99,48 1 Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn
2 Niềm tin lý tưởng 96,91 2
3 Thái độ và trách nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp 88,66 3 xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
4 Giáo dục truyền thống cách mạng 79,89 4
5 Tiêu chuẩn người đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ 45,10 9 Chí Minh
6 Con đường phấn đấu trở thành người Đảng viên cộng 47,68 8 sản
53,09 7 7 Những gương điển hình
5 8 Hình mẫu lý tưởng của thanh niên Việt Nam hiện nay 76,80
6 9 Các phong trào hành động cách mạng của thanh niên 70,62
3 10 Phong trào học sinh, sinh viên tình nguyện 88,66
11 Khác 21,13 10
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội
Phụ lục 4
Kết quả sinh viên trả lời câu hỏi
“Mẫu người lý tưởng mà thanh niên học sinh, sinh viên cần phấn đấu
trong thế kỷ XXI” là như thế nào?
STT Tiêu chí Số Tỷ lệ Thứ
lượng (%) hạng
1 Có chuyên môn nghề nghiệp vững vàng 387 99,84 1
2 Có hiểu biết xã hội rộng 386 99,48 2
3 Có sức khoẻ tốt 376 96,91 5
4 Có ý chí, nghị lực 320 82,47 7
5 Có niềm tin, lý tưởng cách mạng vững vàng 384 98,97 4
6 Có lòng nhân ái, vị tha 298 76,80 9
7 Năng động sáng tạo 344 88,66 6
8 310 79,89 8 Có chí khí, dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực xã
hội
9 Biết làm giàu chính đáng 385 99,23 3
10 Sống trung thực, thẳng thắn 375 96,91 5
11 Khác 82 21,13 10
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Phụ lục 5
ý kiến của cán bộ và sinh viên về những hình thức có hiệu quả cao
trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên - sinh viên
Sinh Cán bộ STT Hình thức viên (%) (%)
1 Các hoạt động giáo dục chính khoá trong nhà 96,39 95,35 trường
2 Tổ chức cuộc thi (viết chuyên đề, tuyên truyền 27,84 51,16 viên…)
3 Các hoạt động giáo dục của Đoàn, Hội 90,21 88,37
4 Tổ chức các nhóm tu dưỡng, rèn luyện 39,95 33,02
5 Tổ chức phong trào thanh niên tình nguyện 96,91 82,79
6 Tổ chức hoạt động giao lưu kết nghĩa 17,01 22,32
7 Tổ chức các diễn đàn thanh niên 31,19 23,26
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.