ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THỦY
CÔNG TÁC HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN
TÁI HÒA NHẬP DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp hai xã Đốc Tín và Hương Sơn
– huyện Mỹ Đức – Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------
NGUYỄN THỊ THỦY
CÔNG TÁC HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN
TÁI HÒA NHẬP DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp hai xã Đốc Tín và Hương Sơn
– huyện Mỹ Đức – Hà Nội)
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Minh
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, không sao
chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu theo
danh mục tài liệu tham khảo. Những kết quả nghiên cứu của luận văn chưa
được công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước nhà trường về sự cam đoan này.
Tác giả
Nguyễn Thị Thủy
LỜI CẢM ƠN
Thật vui mừng và vinh dự biết bao khi em được là học trò của trường
Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Trong suốt quá trình hoc tập tại
khoa Công tác xã hội em đã được các thầy cô giáo truyền đạt những kiến thức
về ngành Công tác xã hội vô cùng quý báu, để chúng em có đủ hành trang, tự
tin bước vào cuộc sống sau này. Đặc biệt qua chương trình đào tạo sau đại
học này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ sự giúp đỡ của trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn; các thầy cô giáo bộ môn Công tác xã hội.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Các thầy cô giáo của bộ môn khoa Công tác xã hội đã giúp đỡ em rất
nhiệt tình để em hoàn thành luận văn này.
Em xin cảm ơn PGS.TS Nguyễn Hữu Minh đã truyền đạt nhưng kiến
thức vô cùng quý báu cũng như các kinh nghiệm để em hoàn thành tốt luận
văn này.
Do thời gian và trình độ còn có hạn nên bài viết của em còn nhiều thiếu
xót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý chân thành để bài viết của
em được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Học viên
Nguyễn Thị Thủy
MỤC LỤC
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ............ 1
1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ................................................................... 2
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ........................................................................ 10
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 11
4. Đối tượng nghiên cứu. ................................................................................. 11
5. Khách thể nghiên cứu .................................................................................. 12
6. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 12
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
8. Giả thuyết nghiên cứu. ................................................................................ 15
9. Kết cấu nội dung luận văn ........................................................................... 15
B. NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................. 16
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 16
1.1. Các lý thuyết áp dụng vào đề tài ........................................................... 17
1.2. Các kỹ năng vận dụng............................................................................ 20
1.3. Tầm quan trọng của công tác hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng ............................................................................... 22
1.4. Những dịch vụ hỗ trợ hiện có liên quan đến nhóm đối tƣợng nghiên cứu ... 23
1.5. Khái quát về địa bàn huyện Mỹ Đức – Hà Nội. .................................. 25
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN TÁI
HÒA NHẬP DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI ĐỊA BÀN XÃ ĐỐC TÍN
VÀ HƢƠNG SƠN – HUYỆN MỸ ĐỨC – HÀ NỘI ................................. 28
2.1. Khái quát chung về công tác hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng ............................................................................... 28
2.1.1. Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về việc làm ............................... 28
2.1.2. Những thuận lợi và rào cản trong hoạt động hỗ trợ và tìm kiếm việc
làm cho người sau cai nghiện ma túy. ............................................................ 31
2.1.3. Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về khả năng giao tiếp hòa nhập
với cộng đồng .................................................................................................. 36
2.1.4.Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về y tế ........................................ 43
2.2. Vai trò của cộng đồng trong việc hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng ............................................................................... 47
2.3. Các tổ chức xã hội tại địa phƣơng (Đội hoạt động xã hội tự nguyện –
quản lý ngƣời sau cai) ................................................................................... 50
2.4. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ ngƣời sau cai
nghiện ma túy tái hòa nhập dựa vào cộng đồng ......................................... 52
2.4.1. Vai trò hành chính ................................................................................. 52
2.4.2. Vai trò vận động nguồn lực ................................................................... 53
2.4.3. Vai trò là người tư vấn .......................................................................... 56
2.4.4. Vai trò là người giáo dục ...................................................................... 57
2.5. Một số nhân tố ảnh hƣởng vai trò của nhân viên công tác xã hội ..... 59
2.6. Mô tả một trƣờng hợp cụ thể ................................................................ 60
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI
NGHIỆN MA TÚY TÁI HÒA NHẬP DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG ........... 63
3.1. Giải pháp chung ..................................................................................... 63
3.2. Giải pháp cụ thể. .................................................................................... 66
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................... 83
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tệ nạn ma túy đang diễn biến phức tạp ở các nước trong khu vực nói
chung, ở Việt Nam nói riêng, hàng năm số người nghiện ma túy ở nước ta vẫn
tăng bình quân 11%. Theo thống kê của Bộ lao động thương binh xã hội năm
2015 thì tính đến hết năm 2015, toàn quốc có khoảng 350.000 người nghiện
ma túy có hồ sơ quản lý, tăng hơn 50% so với năm 2010.
Nghiện hút ma túy gây ra nhiều hậu quả cho cả người nghiện, gia đình
và toàn xã hội. Nó làm biến dạng các quan hệ xã hội, thay đổi các định hướng
giá trị theo hướng tiêu cực và nhất là sự suy giảm đạo đức, nhân cách của con
người, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của
cộng đồng dân tộc Việt Nam, gây rối trật tự an toàn xã hội.
. Song song với những biện pháp quyết liệt chống tội phạm buôn bán
ma túy, Nhà nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện,
giúp cho những người nghiện ma túy có thể cắt cơn, phục hồi sức khỏe, hành
vi và nhân cách để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục
hồi tuy đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng tính hiệu quả và sự bền
vững còn hạn chế, tỷ lệ tái nghiện còn cao.
Sẽ như thế nào nếu như những người nghiện ma túy sau khi cai nghiện
trở về mà không có sự trợ giúp từ phía gia đình, cộng đồng và xã hội. Rất có
thể họ sẽ lại nhanh chóng quay lại con đường nghiện ngập như trước bởi thế
cho nên đối với việc hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng là rất
cần thiết và cấp bách để góp phần làm cho một xã hội Việt Nam ngày càng
phát triển, văn minh. Xác định yếu tố then chốt giúp người nghiện ma túy
không tái nghiện chính là làm tốt công tác hỗ trợ, giúp đỡ người sau cai
nghiện hòa nhập cộng đồng. Xuất phát từ những lý do thực tiễn trên nên tôi đã
chọn đề tài: “Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng
đồng, nghiên cứu trường hợp hai xã Đốc Tín và Hương Sơn - huyện Mỹ Đức
– Hà Nội để tìm hiểu về công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
1
cộng đồng. Do thời gian có hạn nên nghiên cứu của tôi chỉ dừng lại trong việc
nghiên cứu về công tác hỗ trợ về việc làm, về khả năng giao tiếp và xây dựng
gia đình của người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và các chính sách,
quy định pháp luật hiện hành cho người sau cai nghiện, luận văn làm rõ thực
trạng hỗ trợ cho người sau cai nghiện tại địa phương.
1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Các tài liệu nước ngoài, chúng tôi chưa bắt gặp những nghiên cứu
nhằm hỗ trợ cả về việc làm, giao tiếp và y tế. Vì vậy những nghiên cứu sau
đây sẽ là bước đệm trong hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập dựa
vào cộng đồng.
Với phương châm phòng chống tệ nạn ma túy từ xa, ở một số nước đã
có nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý tiến hành ở tuổi vị thành niên, trong
đố tập trung vào hành vi và thái độ của chúng đối với các chất gây nghiện như
café, thuốc lá và các loại rượu. Viện nghiên cứu y học Mỹ 1994 đã nghiên
cứu những yếu tố bảo vệ trẻ thành niên để chúng không sử dung Alcohol.
Những yếu tố đó bao gồm khả năng kiểm soát bản thân, trong đó các nghiên
cứu về lòng tự trọng của Rulter (1990); Demo (1995) cho thấy lòng tự trọng
liên quan đến sử dung chất gây nghiện và ngược lại những trẻ có lòng tự trọng
thấp thường xuyên sử dụng chất gây nghiện.
Nghiên cứu của Brook (1990), Hawkin (1992) ở Mỹ chỉ ra các yếu tố
quan hệ với bạn bè trong xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn với việc sử dụng
ma túy và Alcohol ở trẻ. Nghiên cứu của Dón (1985), Kocach và Glichman
(1986); Shilter (1991)… cho thấy việc sử dụng chất gây nghiện và gây nghiện
của trẻ vị thành niên găn với các tri giác của việc sử dụng ma túy ở bạn bè (3).
Một nghiên cứu khác của Richardson, Myer, Bing (1997) (2) chỉ ra rằng
sự rối loạn tâm trạng, cảm giác lo âu, dự báo khả năng nghiện ma túy nặng.
2
Silvis và Perry (1987) áp dụng cơ chế phản xạ tạo tác của B.F. Skinner
giải thích rằng nghiện ma túy được củng cố âm tính bằng cách tránh các tình
cảm âm tính và củng cố dương tính bằng cảm giác dễ chịu mà nó tìm được.
O.Brier và các cộng sự (1990) giải thích hiện tượng nghiện ma túy theo
cơ chế phản xạ có điều kiện của Pavlow. Theo thuyết này thì các kích thích
thường liên kết với việc dung ma túy (sự tổn thương, sự ức chế…) có thể trở
thành có điều kiện, và khi tiếp xúc với những kích thích này thì sẽ gây cảm
giác thiếu thuốc. Và quá trình trị liệu cũng chú ý vào điểm này. Sự học tập xã
hội bằng cách tiếp xúc thường xuyên với các giá trị tích cực, sự nghỉ ngơi và
trải nghiệm các cảm xúc dương tính sẽ củng cố các phản xạ có điều kiện mới
cho người nghiện.
C.Madanes (1981) đã xác nhận rằng trong gia đình người nghiện ma
túy thì sự đảo lộn trật tự thứ bậc là một đặc trưng. Một số tác giả cũng phát
hiện ra trong gia đình người nghiện ma túy nổi bật lên các hành vi vi phạm
công khai hoặc tiềm ẩn và những lời phê phán về nguyên tắc và điều cấm
trong xã hội (1).
Ma túy và các tệ nạn liên quan đến ma túy không còn bó hẹp ở một
phạm vi, một lãnh thổ mà nó đã trở thành một vấn đề bức xúc mang tính toàn
cầu. Bởi hậu quả mà ma túy mang lại rất nghiêm trọng và ảnh hưởng đến mọi
mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa.
Hội nghị Báo cáo về tình hình ma túy trên toàn thế giới do Ủy ban
Quốc tế về phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc (UNODC) phối hợp với
văn phòng thường trực phòng chống ma túy (SODC) tổ chức, đánh giá (7).
Trong suốt 100 năm trên thế giới đã kiên trì đấu tranh tội phạm liên quan đến
ma túy. Kết quả đạt được có nhiều ấn tượng song ma túy vẫn chưa được loại
bỏ tận gốc khỏi đời sống con người (8).
Tại diễn đàn Liên Hợp Quốc, nguyên tổng thư Liên Hợp Quốc B.Ghali
đã đánh giá: “Tình trạng nghiện hút đã trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân
3
loại. Không một quốc gia nào, dân tộc nào có thể thoát khỏi vòng xoáy khủng
khiếp của nó, ma túy làm gia tăng bạo lực, tham nhũng làm cạn kiệt nguồn
nhân lực, tài lực, hủy diệt những nguồn tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải
được huy động để phát triển kinh tế - xã hội, mang lại ấm no hạnh phúc cho
toàn dân”
1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến hoạt động hỗ trợ người sau
cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng
Trong thời gian gần đây,Việt Nam là một trong những nước rất tích cực
trong chiến lược phòng chống tệ nạn ma túy. Trong đó nổi bật là một số
nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện có
việc làm và thu nhập sau cai nghiện.
Nhìn một cách tổng thể thì việc nghiên cứu chuyên biệt về ma túy ở Việt
Nam chưa nhiều bằng các nước khác song cũng có nhiều công trình được
công bố trong các cuộc hội thảo về vấn đề này. Hầu hết, các phương tiện
truyền thông đại chúng ở nước ta đều có mục bàn về phòng chống ma túy như
một trong những vấn đề cấp bách cần được giải quyết càng sớm, càng tốt.
Theo “Báo cáo chiến lược phòng chống ma túy quốc tế” (INCSR) của Vụ Các
Vấn đề về Thi hành Pháp luật liên quan đến luật phòng chống Ma túy ( Mỹ),
các tổ chức buôn bán ma túy này đang tăng cường tuyển thêm những sinh
viên và nam giới Việt Nam, thay vì truyền thống là sử dụng phụ nữ.
Tình hình này đã trở nên nghiêm trọng tới mức, tại hội nghị lần thứ 17
của lực lượng phòng chống ma túy khu vực châu Á – Thái Bình Dương (
ADEC), SODC đã phải rung một hồi chuông cảnh báo. Việt Nam ngày càng
trở thành “trạm trung chuyển” ma túy và các tiền chất bất hợp pháp với số
lượng lớn ra các nước khác trên thế giới. Kể từ năm 2010, việc sử dụng “hàng
đá” đã vượt xa lượng sử dụng ma túy tổng hợp dạng viên nén. Loại ma túy
chứa nhiều chất kích thích này được sử dụng phổ biến nhất ở các nhóm “dân
4
chơi” thành thị. Tuy nhiên ở một số vùng nông thôn cũng đã bắt đầu có dấu
hiệu hàng đá.
Theo báo cáo “Tình hình và kết quả phòng chống ma túy ở Việt Nam”
của SODC, công bố tháng 5 -2013, đã có 20 cơ sở sản xuất ma túy tổng hợp
bị triệt phá trong vài năm gần đây. Tuy vậy, “nguồn” cung cấp “đá” không chỉ
phụ thuộc vào những cơ sở này. Một số lượng lớn methamphetamine dạng đá
đã chui vào nước ta qua khu vực biên giới giáp Campuchia, Lào, với thị
trường mục tiêu là các con nghiện trong nước, hoặc được vận chuyển trái
phép sang Trung Quốc (8).
Hàng loạt các bài báo và tạp chí đề cập đến vấn đề ma túy, nghiện ma túy
và phòng chống ma túy ở thanh niên trước hết phải kể đến bài viết của tác giả
Mạc Văn Trung trong bài viết “Nạn nghiện ma túy xem xét ở góc độ cá nhân”
(Tạp chí khoa học thanh niên (1998) (38). Tác giả đề cập đến những động cơ
khiến một cá nhân bị rơi vào tình trạng nghiện ma túy hầu như không phải
xuất phát từ một nguyên nhân đơn lẻ mà là sự tổ hợp của nhiều tác nhân khác
nhau, cụ thể gồm: yếu tố sinh học, môi trường xã hội và lứa tuổi hoặc là giai
đoạn phát triển của cá nhân.
Bài “Chống tái nghiện nhìn từ góc độ tâm lý”của tác giả Đỗ Ngọc Yên
đề cập đến nguyên nhân tái nghiện do chính bản thân người nghiện và môi
trường sống của người nghiện sau khi đã cai nghiện ảnh hưởng đến việc họ
quyết tâm hay không quyết tâm từ bỏ ma túy (40).
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố: “Nghiên cứu các giải pháp
nhằm nâng cao quản lý cai nghiện và sau cai nghiện” “02-X07 của tiến sỹ
Nguyễn Thành Công, 2003. Đã chỉ ra những giải pháp nhằm hỗ trợ người sau
cai nghiện và cách thức quản lý người sau cai nghiện tại cộng đồng. Các giải
pháp chủ yếu đó là tạo được sự đồng thuận của toàn xã hội trong công cuộc
phòng chống ma túy, cùng nhau tạo mọi điều kiện giúp đỡ người nghiện ma
túy quyết tâm cai nghiện từ bỏ ma túy để làm lại cuộc đời, tái hòa nhập cộng
5
đồng, xây dựng cuộc sống mới góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã
hội. Bên cạnh đó, làm tốt công tác giáo dục tuyên truyền về tác hại của ma
túy, vận động toàn dân tham gia đấu tranh, bài trừ tệ nạn ma túy, vì vậy trong
những năm qua các tụ điểm nóng về ma túy được triệt phá, tội phạm ma túy
trên địa bàn tỉnh đã giảm đáng kể, tạo môi trường trong sạch cho các học viên
cai nghiện ma túy trở về tái hòa nhập cộng đồng.
Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng chính
phủ về cai nghiện và phục hồi.” Bộ lao động thương binh xã hội (2004) chỉ ra
các ưu điểm và hạn chế trong quá trình thực hiện quyết định của Thủ tướng
chính phủ về cai nghiện và phục hồi. Tuy nhiên, chưa đề cập đến vai trò của
nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện (7).
Đề tài “Tâm lý giáo dục nhân cách người cai nghiện ma túy từ thực tế
thành phố Hồ Chí Minh” do tác giả Phan Xuân Biên và Hồ Bá Thâm đồng
chủ biên, xuất bản năm 2004. Nhóm tác giả nói về nguyên nhân, đặc điểm
tâm lý và công tác giáo dục nhân cách người sau cai nghiện tại cộng đồng.
Qua đó, tác giả cũng khẳng định trách nhiệm của cộng đồng, gia đình, xã hội
và bản thân người sau cai nghiện trong việc điều chỉnh tâm lý, giáo dục, phục
hồi nhân cách cho người cai nghiện và những giải pháp giúp người sau cai
nghiện ma túy trở về với gia đình, cộng đồng được thực hiện bằng biện pháp
tâm lý (9).
Tác giả Phan Thị Mai Hương (2005) với nghiên cứu “Thanh niên
nghiện ma túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” là một cách tiếp cận mới về
thanh niên nghiện ma túy – từ góc độ của tâm lý học. Tác giả đã phân tích, hệ
thống hóa những lý luận về đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội và sự ảnh
hưởng cả chúng trong việc nghiên cứu hành vi của người nghiện ma túy cũng
như quan điểm về việc giải quyết chúng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra một số đặc điểm nhân cách và hoàn cảnh nổi trội của thanh niên nghiện
ma túy, mối quan hệ giữa các đặc điểm với hành vi nghiện. Trong đó, vai trò
6
của gia đình được tác giả tìm hiểu ở khía cạnh môi trường gia đình gắn với vị
thế kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến đặc điểm nhân cách và mức độ nghiện
của thanh niên nghiện ma túy, cách quản lý của cha mẹ đối với con cái. Trên
cơ sở, việc ngăn chặn hành vi nghiện ma túy và việc cai nghiện ma túy ở
thanh niên cần phải kết hợp giữa tri thức và biện pháp tâm lý học. Kết quả
nghiên cứu đã định hướng về hướng giáo dục và ứng xử thích hợp với người
nghiện ma túy cũng như góp phần ngăn ngừa việc lạm dụng ma túy ở thanh
thiếu niên (22).
Đề tài cấp Bộ: “Những giải pháp thực hiện việc ngăn chặn tệ nạn mại
dâm, ma túy trong thanh thiếu niên” (2007) do thạc sỹ Đỗ Thị Bích Điềm làm
chủ nhiệm. Đề tài đánh giá được cơ bản thực trạng nghiện ma túy trong thanh
thiếu niên Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng ngừa cho thực trạng này.
Tuy nhiên, đề tài chưa chia tách thực trạng nghiện ma túy trong nhóm thanh
thiếu niên và thanh niên, do đó đề tài cũng chỉ đề xuất được một số giải pháp
chung trong khi thực tế thì mỗi nhóm tuổi có một giải pháp riêng phù hợp (19).
Năm 2008, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội
“Tình trạng lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung cấp chuyên nghiệp – Một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn” đã
triển khai khảo sát tình trạng nghiện ma túy trong sinh viên có nhiều diễn biến
phức tạp, tình trạng lạm dụng các chất gây nghiện ngày càng tăng cao. Đề tài
cũng đưa ra một số giải pháp phòng ngừa và ngăn chặn nhưng chưa đưa ra
được những khảo sát có tính chiều sâu cụ thể như: nhà trường phối hợp với
gia đình, các lực lượng chức năng giám sát, quản lý chặt chẽ, giúp các em
tránh xa các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, ngành GD và ĐT còn huy động đội
ngũ giáo viên chủ nhiệm ở các trường phổ thông và ở các trường chuyên
nghiệp tích cực xây dựng các phong trào trường, lớp học an toàn, phòng
chống ma túy, tội phạm, đồng thời thường xuyên gần gũi, chia sẻ và giáo dục
học sinh tránh xa tệ nạn xã hội, nhận biết dấu hiệu liên quan đến ma tuý trong
7
môi trường học đường để phát hiện sớm, phòngngừa kịp thời. Các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trong tỉnh tổ chức khám sức khỏe cho
học sinh, sinh viên định kỳ theo quy định, nắm chắc tình hình sức khoẻ học
sinh, sinh viên, sàng lọc, phát hiện những trường hợp có biểu hiện hoặc liên
quan đến ma tuý…, xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh
trong các trường học. Nhà trường phối hợp với các ban ngành và các tổ chức
xã hội đẩy mạnh tuyên truyền nói không với ma túy (20).
Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma tuý và thí điểm tổ
chức dạy nghề, tạo việc làm cho người nghiện ma tuý sau cai nghiện tỉnh Yên
Bái”, giai đoạn 2006 - 2010 (Phê duyệt kèm theo Quyết định số523/QĐ-
UBND ngày 20/4/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã nêu ra những
vấn đề cần thiết và cấp bách nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện đặc biệt là vấn
đề việc làm của người sau cai nghiện qua đó cũng chỉ ra những khó khăn mà
người sau cai nghiện phải đối mặt và khó khăn trong việc hỗ trợ họ về mảng
tạo công ăn việc làm trong đó khó khăn nhất vẫn là vấn đề mặc cảm của
người sau cai nghiện và con mắt ái ngại của cộng đồng dành cho nhóm đối
tượng, rất khó để nhóm đối tượng có thể tìm kiếm việc làm.
Tác giả Lê Hồng Minh (2010), với đề tài “Tổ chức tư vấn hướng
nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở thành phố Hồ Chí Minh” (29) đã đề
cập khá cụ thể các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma túy và
sau cai nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, các nội dung,
phương pháp để hoàn thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau
cai nghiện tại cộng đồng. Về thực tiễn, luận án đã hệ thống hóa được các loại
hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma túy và sau cai nghiện ở thành
phố Hồ Chí Minh và chỉ ra các mặt hạn chế để tìm giải pháp khắc phục, hoàn
thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng
đồng. Đã đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của văn phòng tư
vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng; đề xuất đổi
8
mới mô hình tổ chức và phương pháp hoạt động của đội tình nguyện; xây
dựng nội dung chương trình giáo dục chuyển biến nhận thức và hành vi thanh
niên sau cai nghiện ở cộng đồng.
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, (2011) “Phát triển Dạy nghề đáp ứng nhu
cầu trong giai đoạn mới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (số 4) đã chỉ ra yêu cầu
cần phải đào tạo nghề trong giai đoạn hiện nay, không chỉ đào tạo nghề đòi
hỏi lượng chất xám cao mà còn phải đào tạo những nghề đơn giản nhằm đáp
ứng xu thế hội nhập với khu vực quốc tế, để tạo ra những sản phẩm nhằm đáp
ứng với nhu cầu thị trường (18).
Bàn về vai trò của nhân viên Công tác xã hội thì có một số công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài vai trò của nhân viên Công tác xã hội như:
Công trình nghiên cứu Đặng Kim Khánh Ly và Dương Thị Phương, năm
2012, bàn về "Định hướng vai trò của nhân viên Công tác xã hội trong bệnh
viện ở Việt Nam hiện nay", trong hội thảo quốc tế về an sinh xã hội và công
tác xã hội năm 2012. Chủ yếu đề cập đến khó khăn của người làm công tác xã
hội trong việc trợ giúp người bệnh. Mà khó khăn chủ yếu là hiện chưa có
chính sách nào quy định cụ thể về quyền và chính sách dành cho người làm
công tác xã hội để họ yên tâm thực hiện vai trò của mình (25).
Tác giả Phan Hồng Giang nghiên cứu về: "Vai trò của nhân viên Công
tác xã hội với người có HIV sử dụng ma túy", (2012) quan tâm đến vai trò
nhân viên công tác xã hội trong việc sử dụng phương pháp của công tác xã
hội vào can thiệp, trợ giúp người có HIV sử dụng ma tuý, sử dụng kỹ năng
công tác xã hội vào biện hộ (18).
Nhìn chung từ cách tiếp cận và nghiên cứu của các chuyên ngành khác
nhau các công trình trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn
của công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó có
giá trị tham khảo tốt để thực hiện đề tài luận văn. Với việc vận dụng những
9
kiến thức đã học về Công tác xã hội đề tài sẽ tìm hiểu thực trạng công tác hỗ
trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng; phân tích, đánh giá
những điểm đã làm được và những điểm chưa làm được thực hiện tại địa
phương; đồng thời tìm hiểu những nhu cầu của người sau cai nghiện, làm rõ
vai trò của cán bộ xã hội trong việc hỗ trợ nhóm đối tượng; từ đó đưa ra
những giải pháp theo hướng công tác xã hội nhằm nâng cao hiệu quả công tác
hỗ trợ người sau cai nghiện tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – huyện Mỹ
Đức – Hà Nội.
Có thể thấy rằng những tài liệu trên đã đề cập đến phần nào công tác hỗ
trợ cho người sau cai nghiện. Luận văn nghiên cứu các tài liệu trên cũng đã cho
hiểu được nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với
đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các vấn đề đã được nghiên cứu
ở các công trình nghiên cứu trên đề tài nghiên cứu vai trò của nhân viên công
tác xã hội trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng nhằm
mục đích đi sâu tìm hiểu thực trạng cai nghiện cho đối tượng nghiện ma túy,
các hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Bước đầu hệ thống hoá được cơ sở lý lụân và thực tiễn về vai trò nhân
viên Công tác xã hội trong việc hỗ trợ đối với người sau cai nghiện tái hòa
nhập cộng đồng.
Đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ dành cho người sau cai nghiện tại
huyện Mỹ Đức - Hà Nội. Thấy được khó khăn trong việc tái hòa nhập dựa
vào cộng đồng của người sau cai nghiện tại huyện Mỹ Đức Hà Nội hiện nay
trong việc tiếp cận với chính sách, dịch vụ hỗ trợ và vai trò của nhân viên
công tác xã hội trong việc thúc đẩy người sau cai có nhiều cơ hội để thụ
hưởng chính sách cũng như tái hòa nhập cộng đồng nhanh hơn. Nghiên cứu
cũng chỉ ra được các chương trình, mô hình hoạt động hỗ trợ, trợ giúp Người
sau cai nghiện tại huyện Mỹ Đức hiện nay. Bước đầu tư vấn giúp nhân viên
10
làm công tác xã hội tại địa phương phát triển các kỹ năng công tác xã hội, ứng
dụng vào thực tế khi làm việc tại cơ sở Nhà nước. Tìm hiểu về kết quả đạt
được trong việc thực hiện hệ thống các chính sách dành cho người sau cai
nghiện tại địa bàn huyện Mỹ Đức, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện công
tác hỗ trợ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng.
Kết quả đề tài cũng là tài liệu hữu ích cho việc học tập và nghiên cứu
của sinh viên ngành Công tác xã hội. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho người làm nghề công tác xã hội và các nhà quản lý.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng vai trò người làm công tác xã hội trong việc thực
hiện công tác người sau cai nghiện tại địa bàn huyện Mỹ Đức - Hà Nội. Trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò người làm công tác
xã hội trong việc hỗ trợ cho Người sau cai nghiện tại huyện Mỹ Đức trong
giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhân viên Công tác xã
hội trong việc thực hiện công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
cộng đồng;
Khảo sát thực trạng vai trò nhân viên Công tác xã hội trong việc hỗ trợ
người sau cai nghiện tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Chỉ ra một số nhân tố ảnh
hưởng đến vai trò nhân viên Công tác xã hội trong việc thực hiện hỗ trợ người
sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng;
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò nhân viên Công tác
xã hội trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện tại huyện Mỹ Đức trong thời
gian tới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy.
11
5. Khách thể nghiên cứu
Người sau cai nghiện tại địa phương.
Người thân trong gia đình của người sau cai nghiện.
Cán bộ công an khu vực quản lý người sau cai nghiện, hội phụ nữ.
Công tác hỗ trợ dành cho Người sau cai nghiện ở hai xã Đốc Tín và
Hương Sơn - huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về về thời gian: Nghiên cứu các hoạt động của nhân viên công tác
xã hội trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện từ tháng 1 năm 2014 - năm 2015.
Giới hạn về không gian nghiên cứu:
Phòng lao động thương binh xã hội huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
Người sau cai nghiện địa bàn hai xã Đốc Tín và xã Hương Sơn - huyện
Mỹ Đức.
Giới hạn về nội dung nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung vào việc phân tích, đánh
giá công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng gồm:
+ Hỗ trợ về việc làm
+ Hỗ trợ về giao tiếp.
+ Hỗ trợ về y tế.
Từ đó đưa ra những giải pháp theo hướng công tác xã hội để nâng cao
hiệu quả trong công tác hỗ trợ người sau cai nghiện để họ tự tin hòa nhập
cộng đồng.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát
Đề tài sử dụng phương pháp quan sát để đánh giá kỹ năng nghề nghiệp
của nhân viên công tác xã hội trong việc thực hiện hỗ trợ người sau cai nghiện
tái hòa nhập cộng đồng. Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tại cộng đồng
nơi có người sau cai nghiện.
12
Phương pháp phân tích tài liệu
Đề tài sử dụng phương pháp tài liệu để phân tích, tổng hợp các công
trình nghiên cứu của các tác giả đi trước; nghiên cứu các tài liệu chuyên
ngành công tác xã hội, các văn bản, Nghị quyết, các chính sách, hoạt động
liên quan đến hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu
nhằm tìm hiểu, bổ sung và tích lũy vốn tri thức, lý luận liên quan đến luận văn
ở nhiều góc độ như Tâm lý học, Công tác xã hội, Xã hội học… Đồng thời tác
giả nghiên cứu những chính sách, văn bản pháp luật trong nước và quốc tế
nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng. Đây là cơ
sở cho việc xây dựng phương pháp điều tra, phân tích và tìm hiểu nhu cầu của
người sau cai nghiện và việc hỗ trợ người sau cai nghiện tại địa bàn huyện Mỹ
Đức – Hà Nội.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phân tích tài liệu từ nguồn tài liệu thu
thập được như internet, sách báo, phim ảnh.. trên cơ sở đó tác giả sang lọc các
thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng như tham khảo các luận văn
khác để làm cơ sở bổ sung cho luận văn của mình.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp lắng nghe tích cực, khảo sát thực tế. Từ đó đưa ra được
cách nhìn nhận và đánh giá tổng quát nhất về chính sách triển khai dành cho
đối tượng. Qua đó cũng thấy rõ được nhu cầu của những người sau cai họ cần
gì và muốn gì? Đồng thời làm rõ được vai trò của những người làm công tác
xã hội tại địa phương.
Phỏng vấn sâu được thực hiện trên 12 người
04 nhân viên tham gia hoạt động công tác xã hội cụ thể là: 01 nhân viên làm
công tác xã hội ở huyện; 01 nhân viên công an khu vực; 02 nhân viên công
tác xã hội tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
04 thành viên trong gia đình có người sau cai nghiện ở 2 xã khác nhau
13
04 người sau cai nghiện ở 2 xã trong địa bàn huyện mà chúng tôi tiến hành
nghiên cứu.
Nội dung phỏng vấn bao gồm:
Tìm hiểu về nhu cầu, nguyện vọng của gia đình có ngừơi sau cai
nghiện.
Nhận định của chuyên viên và cán bộ về người sau cai nghiện và khả
năng tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Tìm hiều những hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện và đang áp dụng
tại địa bàn huyện.
Thực trạng công tác hỗ trợ về việc làm, y tế và khả năng giao tiếp.
Đánh giá của chuyên viên và cán bộ về hiệu quả của những hoạt động
hỗ trợ trên.
Đóng góp của cộng đồng và gia đình có người sau cai nghiện .
- Đối tượng là người sau cai nghiện
Nội dung phỏng vấn bao gồm:
Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình thân chủ.
Tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của thân chủ
Tìm hiểu những chính sách mà người sau cai nghiện nhận được.
Nhận thức, hiểu biết của họ về các hoạt động mà họ được hưởng thụ:
việc làm, y tế, giao tiếp với cộng đồng.
Nhận định của người sau cai nghiện thay đổi hoàn cảnh bằng chính
năng lực của mình.
Câu hỏi nghiên cứu.
Người sau cai nghiện sau khi trở về với cộng đồng có gặp khó khăn về
mặt tìm kiếm việc làm, giao tiếp cũng như được hưởng những chính sách hỗ
trợ về việc thăm khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn?
14
Nhân tố nào giúp người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng
đồng?
Nhân viên công tác xã hội có vai trò như thế nào trong việc hỗ trợ
người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng?
8. Giả thuyết nghiên cứu.
Giả thuyết 1. Đa số người sau cai nghiện khó tìm được việc làm, ngại
giao tiếp và ngại đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
Giả thuyết 2. Sự trợ giúp của gia đình và chính quyền đoàn thể xã hội ở
địa phương là yếu tố quan trọng, quyết định khả năng tái hòa nhập cộng đồng
của thân chủ.
Giả thuyết 3: Nhân viên công tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc
hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Vai trò đó thể
hiện qua công tác tham vấn, kết nối, vận động nguồn lực... nhằm tạo điều kiện
cho nhóm đối tượng nhanh chóng được hòa nhập cộng đồng.
9. Kết cấu nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu.
Chương 2: Hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào
cộng đồng tại địa bàn xã Đốc Tín và Hương Sơn – huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp hỗ trợ người sau nghiện ma túy tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng.
15
B. NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Các khái niệm công cụ.
Nghiện ma túy là hiện tượng bị phụ thuộc cả thực thể và tinh thần vào
ma túy do sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày càng tăng dẫn đến mất
khả năng kiểm soát bản thân của người nghiện ma túy có hại cho cá nhân và
xã hội.
Người sau cai nghiện: Là người nghiện ma túy đã thực hiện xong quy
trình cai nghiện ma túy theo quy định tại cơ sở cai nghiện ma túy để tái hòa
nhập cộng đồng và làm việc.
Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính và Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội quy định: người sau cai nghiện ma túy là người đã hoàn thành xong
thời gian cai nghiện ma túy tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động
xã hội áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú hoặc đã hoàn
thành xong thời gian cai nghiện ma túy tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục –
Lao động xã hội áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện tại Trung tâm.
Hòa nhập cộng đồng
Đề cập đến sự hòa nhập cộng đồng của con người vì lý do nhất định họ
bị tách ra khỏi môi trường xã hội của nó và sau đó được trả lại xã hội. Sau đó
được trả lại với xã hội. Khái niệm này đề cập đến một quá trình thích ứng
tương đối không đơn giản của cá nhân với môi trường xã hội hay những thành
kiến của xã hội đối với những người đang tái hòa nhập trở lại với cuộc sống
xã hội.
Công tác xã hội
Theo Hiệp hội nhân viên Công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7
năm 2000 tại Montréal, Canada (IFSW): Công tác xã hội là hoạt động chuyên
nghiệp để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục
việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp
16
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi
xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, nhằm tăng năng
lực và giải phóng cho con người nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng
thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống
xã hội, công tác xã hội tương tác vào những giữa con người với môi trường
của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là nguyên tắc căn bản của nghề.
Nhân viên Công tác xã hội
Nhân viên xã hội (Social Workers) là những người được đào tạo một
cách chuyên nghiệp về công tác xã hội mà hành động của họ nhằm mục đích
tối ưu hóa sự thực hiện vai trò của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, góp phần tích cực vào cải thiện, tăng cường chất lượng cuộc sống của
cá nhân, nhóm và cộng đồng.
Mục tiêu của công tác xã hội là giúp các cá nhân, gia đình, nhóm và
cộng đồng yếu thế, thiệt thòi, không đảm bảo được một hay một số chức năng
xã hội có thể nhận thức, giải quyết “vấn đề” của mình và vươn lên trong cuộc
sống, hoà nhập với cộng đồng góp phần ổn định, thúc đẩy xã hội phát triển.
Về mặt bản chất, Công tác xã hội cố gắng giúp các thân chủ của mình mạnh
lên để có thể tự giúp mình.
1.1. Các lý thuyết áp dụng vào đề tài
Lý thuyết hệ thống sinh thái
Hệ thống sinh thái là một trong những lý thuyết quan trọng được vấn
dụng trong công tác xã hội. Khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ không thể
thiếu được lý thuyết hệ thống sinh thái bởi vì nhân viên công tác xã hội chỉ
cần chỉ ra thân chủ của mình đang thiếu và cần những hệ thống trợ giúp nào
và tìm cách giúp đỡ họ có thể thiếp cận và tham gia vào các hệ thống. Con
người phụ thuộc vào môi trường trong quá trình tìm cách đáp ứng nhu cầu của
chính mình, phát triển kỹ năng và kiến thức cho bản thân. Mối quan hệ giữa
con người và môi trường có tính tương tác qua lại đa chiều.
17
Lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động mà các tổ chức, chính sách, các
cộng đồng và các nhóm ảnh hưởng lên cá nhân. Cá nhân được xem như là bị
lôi cuốn vào sự tương tác không dứt với nhiều hệ thống khác nhau trong môi
trường. Lý thuyết hệ thống xem mỗi một cá nhân con người được cấu thành
nên từ các tiểu hệ thống: sinh học, tâm lý - xã hội. Công tác xã hội khi tiếp
cận với cá nhân cần đặt cá nhân đó dưới góc nhìn hệ thống. Lý thuyết sinh
thái là tập hợp con của lý thuyết hệ thống với định nghĩa ba cấp độ hệ thống:
cấp vi mô, cấp trung mô, cấp vĩ mô.
Hệ thống sinh thái với mỗi cá nhân là không cố định, nó luôn biến đổi.
Vì vậy khi nhân viên công tác xã hội tiếp cận thân chủ cần đặt thân chủ vào
hệ thống – sinh thái hiện tại mà họ đang tồn tại và tìm ra những yếu tố tác
động. Từ đó, xem hệ thống nào tác động tới cá nhân, hệ thống nào cần phục hồi,
cần thiết lập lại.
Cả hệ thống lý thuyết hệ thống và sinh thái đều hỗ trợ rất lớn cho những
người làm công tác xã hội trong mọi lĩnh vực, nó cung cấp cho nhân viên
công tác xã hội khuôn khổ để phân tích sự tương tác luôn thay đổi và luôn
tác động lên con người.
Trên cơ sở đó, đòi hỏi nhân viên công tác xã hội khi xem xét thân chủ,
phải xem xét thân chủ như một hệ thống có mối liên hệ tổng hợp với các hệ
thống khác lớn hơn như bối cảnh, môi trường gia đình, cộng đồng…chứ
không được xem họ như các yếu tố tách biệt, tự thân, vận hành một mình. Vì
vậy khi phân tích, nhận diện về thân chủ cần đặt thân chủ trong hệ thống sinh
thái môi trường, gia đình, cộng đồng… để hiểu rõ về các mối quan hệ cũng
như các vấn đề của họ. Bên cạnh đó, đặt thân chủ trong hệ thống môi trường
cũng là để tìm ra cấp độ can thiệp.
Lý thuyết hệ thống sinh thái nhấn mạnh đến cá nhân trong mối quan hệ
với các chủ thể khác nhau trong xã hội. Trong đó đặc biệt mô tả đến mối liên
hệ có sự tác động đến thân chủ. Đại diện cho những người theo thuyết hệ
18
thống là Hasson, Macoslee, Siporin,…Trong đó 2 tác phẩm nổi tiếng về ứng
dụng những quan hệ về hệ thống trong thực hành công tác xã hội là Goldstein,
Pincus, Minahan.( Nguồn: Lý thuyết công tác xã hội – Phạm Huy Dũng)
Ứng dụng: Những hệ thống mà nhân viên công tác xã hội làm việc là
những hệ thống đa dạng: hệ thống gia đình, cộng đồng, hệ thống xã hội…
Đây là mối liên hệ giữa người sau cai nghiện với gia đình, bạn bè và cộng
đồng xã hội… Đây là những mối quan hệ đặc biệt quan trọng trong quá trình
hỗ trợ người sau cai nghiện dễ dàng hòa nhập cộng đồng.
Thuyết nhu cầu Maslow.
Lý thuyết nhu cầu của Maslow cho rằng mỗi nhu cầu của con người
trong hệ thống thứ bậc phải được thỏa mãn trong mối tương quan với môi
trường để con người có thể phát triển khả năng cao nhất của mình. Thuyết
nhu cầu của Maslow nêu ra 5 bậc thang. Bậc thang thứ nhất đó là nhu cầu vật
chất, bậc thang thứ hai là nhu cầu về sự an toàn, bậc thang thứ ba là nhu cầu
được thừa nhận, được yêu thương và được chấp nhận, thứ tư là nhu cầu về tôn
trọng và tự trọng. Cuối cùng là nhu cầu về sự phát triển cá nhân.
Ứng dụng: Người sau cai nghiện cũng có những nhu cầu ăn, mặc, ở như
những người bình thường, họ cũng muốn xã hội thừa nhận, muốn mọi người
trong cộng đồng yêu thương. Họ cũng mong muốn được mọi người tôn trọng
mình, không phân biệt kỳ thị, đối xử, và mong muốn được tạo điều kiện phát
triển toàn diện. Bên cạnh đó, họ còn có mong muốn hỗ trợ về mặt kinh tế để
từ đó có vốn để làm lại từ đầu. Làm lại những gì mà trước đây khi còn nghiện
ngập họ đã đánh mất cơ hội của chính mình. Như vậy, những nhu cầu trên
hoàn toàn chính đáng, hỗ trợ toàn diện cho người sau cai nghiện sẽ giúp họ tự
chủ về kinh tế, họ có thể nuôi sống chính bản thân mình, tái hòa nhập cộng
đồng được thể hiện và làm việc với năng lực của chính mình. Từ đó họ có
điều kiện nâng cao khả năng và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Phòng
ngừa việc tái nghiện trở lại.
19
Lý thuyết trị liệu nhận thức – thay đổi hành vi
Giả thuyết cơ bản của lý thuyết trị liệu hành vi cho rằng những hành vi
tập nhiễm có được qua quá trình học tập và nó có thể thay đổi, điều chỉnh qua
học tập có điều kiện. Trị liệu hành vi tập trung chú ý tới việc thay đổi hành vi
hiện tại và tạo lập chương trình hành động.
Ứng dụng: Lý thuyết trị liệu nhận thức hành vi giải thích về niềm tin sai
lệch có nghĩa là không phải việc nghiện ma túy làm cho người ta hỏng, mà là
suy nghĩ của họ cho rằng nghiện là hỏng dẫn đến họ tự cho rằng bản thân
mình nghiện là hỏng.
Áp dụng lý thuyết trị liệu nhận thức với đối tượng người sau cai nghiện
trong việc trợ giúp thân chủ hiểu ra được niềm tin sai lệch đó và họ tự điều
chỉnh bản thân tìm việc làm, giúp thân chủ tự tin vào chính mình, từ bỏ những
mặc cảm, tự ti để sống và làm việc, nâng cao năng lực của chính bản thân
mình. Nhận thức được những việc tốt, việc xấu và tìm thấy môi trường phù
hợp để tránh xa ma túy. Qua đó để thấy rằng khi người sau cai nghiện có được
sự trợ giúp của nhân viên công tác xã hội thì bản thân họ có sự thay đổi gì
trong nhận thức.
1.2. Các kỹ năng vận dụng
Kỹ năng vãng gia
Vãng gia là việc tác giả đến thăm gia đình hoặc nơi thân chủ đang sinh
sống, cư trú để thể hiện sự quan tâm của mình đối với thân chủ cũng như hiểu
rõ hơn về hoàn cảnh sống của thân chủ.
Mục đích của vãng gia là giúp tác giả có thêm sự hiểu biết về gia cảnh
thực tế và môi trường sống của thân chủ, sự tác động của môi trường sống
đến các vấn đề của thân chủ. Đồng thời thấy được sự tương tác của thân chủ
với những thành viên khác trong gia đình hay môi trường xã hội. Vãng gia
còn giúp tác giả thu được các thông tin về thân chủ, hoàn cảnh thực tế của
họ… Đặc biệt, tìm hiểu được sự tác động của chính quyền địa phương, các tổ
20
chức đoàn thể nơi thân chủ cư trú tới vấn đề sinh kế của họ. Từ đó có thể huy
động được các nguồn lực cho việc giải quyết vấn đề của thân chủ một cách
hiệu quả nhất.
Kỹ năng vấn đàm
Vấn đàm là một trong những công cụ của Công tác xã hội cá nhân
nhằm mục đích thu thập thông tin hay chia sẻ thông tin, để khảo cứu và đánh
giá vấn đề của thân chủ hay để đưa ra sự giúp đỡ cho thân chủ. Trong nghiên
cứu này, tác giả sử dụng vấn đàm như một công cụ để thu thập thông tin và
chia sẻ thông tin.
Khi sử dụng vấn đàm, tác giả thu được các thông tin mang tính chiều
sâu như: Các dữ kiện liên quan đến các vấn đề của thân chủ, những việc mà
họ đã làm để khắc phục những khó khăn đó,… cũng như để tìm hiểu về các
mối quan hệ, các nguồn lực trợ giúp cho thân chủ là người yếu thế.
Kỹ năng tham vấn
Kiến thức và kỹ năng trong tham vấn hỗ trợ rất nhiều cho nhân viên xã
hội trong quá trình giúp thân chủ giải quyết vấn đề hoặc tăng cường khả năng
tự giải quyết vấn đề của thân chủ.
Mục đích của tham vấn là giúp nhóm yếu thế tăng cường khả năng tự
ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn ở hiện tại và tương lai.
Kỹ năng lắng nghe
Đây là một trong những kỹ năng cơ bản trong Công tác xã hội cá nhân
cũng như của người nhân viên xã hội. Lắng nghe không chỉ đơn giản là quá
trình tri giác để thu nhận thông tin từ người nói mà còn là sự lắng nghe bằng
mọi giác quan, nghe bằng tai, bằng mắt, bằng cả trái tim, và phải biết tránh
các yếu tố gây nhiễu trong quá trình lắng nghe cũng như biết nghe có chọn
lọc, đồng thời nhân viên xã hội phải loại bỏ hoàn toàn những định kiến và
những suy nghĩ chủ quan của bản thân về thân chủ để có thể hiểu suy nghĩ và
21
lời nói của họ một cách chính xác. Đó cũng chính là việc nhân viên xã hội
thực hiện nguyên tắc chấp nhận thân chủ.
Với những người sau cai nghiện cũng vậy, khi khai thác những vấn đề
nhạy cảm mà họ cảm thấy khó trả lời, việc lắng nghe tích cực sẽ tạo cảm giác
được tôn trọng và như vậy thân chủ sẽ tin tưởng và chia sẻ những vấn đề của
mình một cách sâu sắc hơn.
1.3. Tầm quan trọng của công tác hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng
Ma túy đã và đang trở thành một thách thức lớn của nhân loại, đe dọa
đến sự ổn định và phát triển của thế giới. Ma túy và tệ nạn xã hội đã và đang
kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội làm giảm GDP thu nhập bình quân
đầu người, kéo theo đó là chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm sút.
Ma túy cũng làm cho xã hội bị phân hóa phân tầng và khoảng cách xã hội
ngày một lớn tạo ra hố sâu ngăn cách rào cản xã hội và quan hệ cộng đồng và
xã hội. Hệ lụy của ma túy là làm cho người nghiện và gia đình của họ bị thua
thiệt không có tiếng nói trong đời sống, lép vế, bất bình đẳng. Qua đó sẽ kìm
hãm sự phát triển kinh tế xã hội cản trở sự phát triển dân giàu nước mạnh, dân
chủ văn minh.
Chính vì thế công tác hỗ trợ người sau cai nghiện đang là một chiến
lược của Chính phủ nhằm giải quyết vấn đề tiêu cực và phát triển kinh tế xã
hội. Để thực hiện được điều đó thì cần phải có những biện pháp hỗ trợ cho
những người sau cai đang cần được trợ giúp. Hiện nay Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chương trình và chính sách nhưng công tác vẫn còn chuyển biến
chậm, đời sống của người sau cai và gia đình họ còn gặp nhiều khó khăn thiếu
thốn. Chính vì vậy cần có những hoạt động hỗ trợ nhằm khuyến khích người
sau cai từ bỏ ma túy hướng đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
22
1.4. Những dịch vụ hỗ trợ hiện có liên quan đến nhóm đối tƣợng nghiên cứu
Hỗ trợ người sau cai nghiện luôn là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước
ta quan tâm hàng đầu để nhằm đảm bảo trật tự an ninh xã hội. Đề ra các mục
tiêu quốc gia nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Mục
tiêu tổng quát của Chương trình nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành, các tầng lớp nhân dân về tác hại và hậu quả của tệ nạn ma túy, trách
nhiệm của chính quyền xã, phường, thị trấn, cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ
chức trong tham gia phòng, chống ma túy; đẩy mạnh xã hội hóa công tác
phòng, chống ma túy để huy động các nguồn lực cho công tác này; kiềm chế
sự gia tăng phức tạp về tội phạm ma túy; giảm số người nghiện ma túy; ngăn
chặn có hiệu quả ma túy xâm nhập qua biên giới; thu hẹp địa bàn có tệ nạn
ma túy.
Bên cạnh đó còn có các đề án cụ thể nhằm vạch ra phương hướng hiệu
quả để hỗ trợ người sau cai nghiện hòa nhập cộng đồng và huy động sức
mạnh nội lực và ngoại lực ví dụ như: Đề án hỗ trợ người sau cai nghiện thí
điểm tại tỉnh Yên Bái.
Doanh nghiệp và cộng đồng cùng dang tay giúp đỡ những người đã có
một thời lầm lỡ, tạo cho họ có cơ hội làm lại cuộc đời là mô hình được nhân
rộng ở nhiều nơi trong cả nước. Như ở thành phố Ðà Nẵng với đề án "Không
có người nghiện ma túy trong cộng đồng", hiện đã có 67 cơ sở sản xuất,
doanh nghiệp tham gia dạy nghề, tạo việc làm cho 165 người đang quản lý
sau cai và người sau cai nghiện. Còn ở tỉnh miền núi Lai Châu hiện có 15
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã và đang dạy nghề, hỗ trợ vốn và tạo việc làm
cho người sau cai nghiện. Tuy nhiên, theo Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, số
lượng đơn vị kinh tế đã tiếp nhận, sử dụng lao động là người sau cai nghiện
vào làm việc trong cả nước vẫn còn hạn chế, chỉ chiếm 0,07% số doanh
nghiệp (353/471.000 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh); (Theo
chương trình “5 không, 3 có”, tháng 12/2009 UBND thành phố Đà Nẵng đã
23
phê duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy trong
cộng đồng trên địa bàn thành phố đến năm 2015”). Có nhiều tỉnh, thành phố
có hàng nghìn doanh nghiệp nhưng chỉ có một hoặc hai doanh nghiệp tiếp
nhận người sau cai nghiện vào làm việc.
Tuy vậy, những mong muốn của người sau cai nghiện thật sự vẫn chưa
được đáp ứng một cách đầy đủ. Mặc dù công tác hỗ trợ người sau cai đã được
ưu tiên song một thực tế nữa hiện nay là công tác cai nghiện tại cộng đồng
khó triển khai. Bởi, cơ sở vật chất, đội ngũ y, bác sĩ, cán bộ làm công tác cai
nghiện phục hồi ở các địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu quy định theo
Nghị định 94 và Thông tư 03 của Liên bộ LĐ-TB&XH- Công an - Y tế.
Mô hình cai nghiện tại cộng đồng của Sơn La, từ năm 2006, Sơn La đã
tập trung đẩy mạnh công tác cai nghiện và quản lý sau cai tại cộng đồng nhằm
hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nghiện được tiếp cận dễ dàng hơn với các
dịch vụ cai nghiện, nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện. Mô hình này đã
phát huy mạnh mẽ sự tham gia của thôn bản, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể
trong việc vận động người nghiện ma túy tự giác khai báo tình trạng nghiện,
hỗ trợ cai nghiện cắt cơn tại cộng đồng, hỗ trợ quản lý người cai nghiện và
chăm sóc sau cai.
Mô hình Câu lạc bộ giúp đỡ người nghiện ma túy cai nghiện và tái hòa
nhập cộng đồng được triển khai ở gần 600 xã, phường, thị trấn thuộc các tỉnh,
thành phố khu vực đồng bằng trong cả nước như: Hà Nội, Nam Định, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Ninh Bình, Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An,
Thanh Hoá, Hoà Bình, Cần Thơ, An Giang, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Lâm
Đồng... Các mô hình được thực hiện dưới các hình thức như Câu lạc bộ cai
nghiện ma tuý, Câu lạc bộ sau cai, Câu lạc bộ bạn giúp bạn, Tổ phụ nữ không
có chồng con nghiện ma tuý… do các chi bộ Đảng, Hội cựu chiến binh, Hội
phụ nữ, Đội công tác xã hội tình nguyện thực hiện dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ của
Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân cấp xã. Các mô hình đều có các hoạt động chung
24
như vận động, giúp người nghiện đi cai nghiện, trực tiếp thăm hỏi động viên
hàng ngày, tư vấn, tổ chức các hoạt động văn hoá, xã hội, bảo lãnh vay vốn,
tạo việc làm cho đối tượng và gia đình vợ con họ, trợ cấp khó khăn, xin việc
làm cho đối tượng vào các cơ sở sản xuất, họp mặt nhân các ngày lễ, tết để
khen thưởng, động viên...
Với việc đẩy mạnh các mô hình này đã đem lại hiệu quả khả thi cho
người sau cai góp phần làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, giảm thiểu số
người tái nghiện.
1.5. Khái quát về địa bàn huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội:
Đặc điểm tự nhiên
Mỹ Đức là một huyện ngoại thành TP. Hà Nội, nằm cách trung tâm thành
phố 50km, huyện Mỹ Đức nằm ở: Phía Tây Nam Hà Nội. Phía Đông giáp
huyện Ứng Hoà ranh giới là con sông Đáy. Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ.
Phía Tây giáp các huyện của tỉnh Hoà Bình Lương Sơn. Phía Tây Bắc Kim Bôi
(ở phía chính Tây). Phía Đông Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam
Mỹ Đức là vùng huyện bán sơn địa, nằm ở phía Nam của đồng bằng bắc
bộ. Phía Nam là vùng núi đá vôi hang động karst có vẻ đẹp nổi tiếng, là khu
thắng cảnh chùa hương. Mỹ Đức là một huyện với nhiều tuyến đường giao
thông quan trọng đi qua Đường bộ: có quốc lộ 21B chạy từ Hà Đông, qua thị
trấn Tế Tiêu sang tỉnh Hà Nam rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán hàng
hoá, Đường sông có Sông Đáy.(sông Thanh Hà), đặc biệt trong huyện có nhiều
khu du lịch như: Khu thắng cảnh Chùa Hương (Thiên Trù, suối Yến, động
Hương Tích...), nằm ở rìa phía Tây Nam huyện, ở địa phận xã Hương Sơn, trên
ranh giới với huyện Lạc Thủy, khu du lịch hồ Quan Sơn,rất thuận lợi trong việc
phát triển kinh tế và thu hút được nhiều luợt khách trong và ngoài nước. Mỹ
Đức là huyện được coi là địa bàn có vị trí quan trọng chiến lược trong phát
triển kinh tế, ổn định chính trị và bảo đảm an ninh quốc phòng.
25
Đặc điểm về kinh tế
Được sự quan tâm chỉ đạo của Thành Phố, cùng với những chủ trương,
biện pháp sát thực, vận dụng sáng tạo những chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào tình hình thực tế của địa phương, Đảng bộ, HĐND, UBND
huyện Mỹ Đức đã thu được những thành tựu kinh tế đáng kể về tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, sự nghiệp văn hoá giáo dục, y
tế đã có những đổi mới tiến bộ vượt bậc, với những thành tựu trên thì huyện
Mỹ Đức đã giải quyết tốt bài toán yên lòng dân, bộ mặt kinh tế của huyện đã
có sự thay đổi rõ rệt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong huyện
được nâng cao.
Đặc điểm về văn hoá - xã hội.
Cùng với việc phát triển kinh tế thì văn hoá - xã hội cũng có sự phát triển
mạnh mẽ. Công tác giáo dục đào tạo luôn được quan tâm sâu sắc, chất lượng
dạy và học ngày càng được nâng cao, trang thiết bị được đầu tư và nâng cấp,
khung cảnh, cảnh quan, môi trường của các trường học được đảm bảo.
Công tác y tế - dân số KHHGĐ ngày càng được củng cố phát triển, các
cơ quan y tế tiếp tục được đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, đội ngũ y bác sỹ
tại các trạm y tế của các xã, thị trấn ngày càng được củng cố nâng cao trình độ
chuyên môn, đảm bảo duy trì tốt công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế,
chỉ đạo có hiệu quả các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, không để
xảy ra dịch bệnh.
Khái quát về địa bàn hai xã Đốc Tín và Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức –
Hà Nội:
Xã Đốc Tín và Hương Sơn là hai xã giáp nhau nằm ở cuối huyện Mỹ
Đức. Giáp với Hà Nam. Hai xã này tham gia hoạt động du lịch phục vụ lễ hội
Chùa Hương. Ngoài hoạt động nông nghiệp ra. Trong ba tháng 1,2,3 người
dân hai xã này chủ yếu tham gia hoạt động lễ hội như: Chèo đò, làm dịch vụ
phục vụ du lịch… Nhờ có lễ hội chùa Hương nên kinh tế xã hội cũng phát
26
triển hơn. Bên cạnh những tác động tích cực như đời sống nhân dân được cải
thiện rõ ràng, trình độ dân trí cũng phát triển hơn thì cũng có những tác động
tiêu cực. Tệ nạn xã hội cũng ngày một gia tăng. Hàng năm tỷ lệ nghiện ma
túy tại hai xã này cũng cao hơn. Tuy vậy, số lượng nghiện ma túy cũng đã
được cơ quan chức năng kiểm soát và đưa đi vào trung tâm cai nghiện. Sau
khi cai nghiện trở về, những đối tượng này cũng gặp rất nhiều khó khăn khi
quay trở lại hòa nhập cộng đồng.
Kinh tế xã hội
Kinh tế tương đối phát triển, do đây là hai xã hoạt động kinh tế chủ yếu
dựa vào du lịch chùa Hương – lễ hội kéo dài nhất miền Bắc. Sau ba tháng
Xuân hội, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp và thủ
công nghiệp. Đặc biệt trong những năm gần đây, có thêm nghề phụ là nghề
trồng nấm và làm hạt vòng, làm rèn… Những nghề phụ này, cũng góp phần
tăng thêm thu nhập cho một số hộ gia đình, giảm bớt thời gian nông nhàn cho
người nông dân tại địa phương.
Tiểu kết chương 1:
Xem xét về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội tại đây, có thể
thấy đó là những điều kiện rất thuận lợi nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện có
thể tái hòa nhập dựa trên cơ sở những nguồn lực có sẵn tại cộng đồng để rồi
từ đó giúp đỡ người sau cai nghiện có cơ hội sửa chữa những lỗi lầm trong
quá khứ để rồi họ có thể tự lo liệu cho mình và bù đắp lại cho gia đình họ
những mất mát mà họ đã làm trước đây.
Tuy nhiên bên cạnh đó, do đặc điểm của người sau cai nghiện là một
nhóm đối tượng đặc thù bởi họ có số lượng không nhiều và hơn nữa mỗi
người sau cai nghiện lại có một hoàn cảnh khác nhau nên công tác hỗ trợ còn
gặp nhiều khó khăn. Trên địa bàn nghiên cứu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn
về cơ sở vật chất, hạ tầng cùng với những kĩ năng chuyên sâu, đặc biệt trong
việc chăm sóc các đối tượng này.
27
CHƢƠNG 2
HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN TÁI HÒA NHẬP
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI ĐỊA BÀN XÃ ĐỐC TÍN VÀ
HƢƠNG SƠN – HUYỆN MỸ ĐỨC – HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về công tác hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng
2.1.1. Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về việc làm
Như số liệu người cai nghiện do phòng lao động thương binh và xã hội
đã nêu trên thì số lượng người nghiện mặc dù ngày càng gia tăng nhưng số
lượng không lớn. Chính vì vậy, theo như các cán bộ địa phương thì chưa có
chính sách cụ thể nhằm trợ giúp riêng cho đối tượng sau cai nghiện. Những
người sau cai nghiện có nhu cầu học nghề sẽ được tạo điều kiện học nghề và
giới thiệu việc làm như những người lao động khác nếu như họ có mong
muốn tìm kiếm việc làm.
Người nghiện ma túy khi đi cai về thường thì họ muốn tìm việc làm, có
những việc làm nguy hiểm ngoài khả năng kiểm soát của gia đình (ví dụ: phụ
xe đi nơi này nơi khác, chạy xe ôm…) hoặc có những công việc đòi hỏi vốn
lớn ngoài khả năng của gia đình nên người nghiện không được đáp ứng và có
thể xảy ra mâu thuẫn giữa gia đình và người nghiện sau cai. Những mâu thuẫn
này có thể đưa người nghiện trở lại con đường nghiện hút ma túy.
Tác giả phỏng vấn sâu đối với từng đối tượng là người sau cai nghiện
ma túy tại địa bàn hai xã cho thấy rằng công việc hiện tại của người sau cai
nghiện ma túy trở về hòa nhập với cộng đồng rất đa dạng. Cụ thể như sau:
Công việc hiện tại Làm tự do thời vụ Làm kinh doanh buôn bán nhỏ Không có việc làm Cắt tóc, gội đầu Làm trong cơ quan nhà nước Số ngƣời 20 3 10 3 0
(Nguồn: Khảo sát nhu cầu vay vốn, tạo việc làm của người sau cai nghiện ma
túy huyện Mỹ Đức).
28
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy rằng tình trạng việc làm của
người sau cai nghiện còn chưa được đáp ứng được chất lượng cuộc sống của
người sau cai nghiện. Phần lớn người sau cai đều làm công việc tự do thời vụ.
Các công việc khác chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Bên cạnh đó, các công việc này
là do người sau cai nghiện tự tìm kiếm chứ không phải nhận được sự hỗ trợ từ
phía nhân viên công tác xã hội.
“Tôi chưa nghe thấy ở địa phương có hoạt động hỗ trợ người sau cai
nghiện về việc làm. Chắc là sắp có thì tôi không biết. Nhưng những người
cùng cành ngộ như tôi thì toàn tự tìm việc thôi. Mình không tự thân vận động
thì ai thương?” (PVS: Nam 28 tuổi, người sau cai nghiện xã Hương Sơn)
“May mà cậu ấy khéo tay nên có nghề cắt tóc không thì về đượt này chỉ
có chết rũ. Lấy đâu ra việc để làm. Túc tắc ngày ngày cậu ấy cũng kiếm được
răm ba chục. Vậy là yên tâm cháu ạ” (PVS người thân người sau cau nghiện
tại xã Đốc Tín)
Theo số liệu của phòng lao động thương binh và xã hội huyện Mỹ Đức
thì các ngành nghề đào tạo cho đối tượng sau cai nghiện chủ yếu là các ngành
nghề sau đây: Nghề may thêu, điện dân dụng, hàn, chăn nuôi nông nghiệp,
làm rèn…Các chính sách dạy nghề ngày càng được quan tâm nhiều hơn, thay
đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, nhu cầu của xã hội. Người sau cai
nghiện sẽ được tạo điều kiện học nghề theo nhu cầu của bản thân, nhu cầu
tuyển dụng của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường và chính sách từ huyện để
mở các lớp dạy nghề.
Các khóa đào tạo nghề ngắn hạn do Hội nông dân, hội cựu chiến binh,
hội phụ nữ và đoàn thanh niên phối hợp cùng thực hiện. Những người sau cai
nghiện thường tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn.
“Những người sau cai nghiện, thường cảm thấy lãng phí thời gian
trong những ngày tháng đi cai, sau khi trở về cộng đồng họ mong muốn tìm
việc làm ngay, nên họ tham gia các khóa đào tạo nghề ngắn hạn. Hiện nay,
29
trên địa bàn xã có nhiều nghề phụ, một số người sau cai cũng tham gia cùng,
dù ngày công không nhiều, nhưng các cô chú ấy cũng thấy vui và thoải mái”
(PVS Nữ, 32 tuổi, cán bộ thương binh xã hội xã Đốc Tín).
Tuy nhiên, số lượng người tham gia các khóa học ngắn hạn vẫn còn
hạn chế do nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến việc dạy và học. Do số lượng
người học ít nên ảnh hưởng không nhỏ tới công tác dạy và học.
Trong những năm gần đây, song song với số lượng người sau cai
nghiện trở về cộng đồng thì công tác đào tạo nghề cho người sau cai nghiện
cũng được tăng lên. Công tác dạy nghề và đào tạo việc làm cho người sau cai
nghiện bằng nhiều hình thức khác nhau cụ thể như việc tuyên truyền sâu rộng
về chế độ học nghề, dạy nghề và tạo việc làm đối với người sau cai. Đồng
thời, tuyên truyền rộng rãi các chương trình dạy nghề, học nghề, việc làm để
họ có thêm thông tin và cơ hội tiếp cận các chính sách. Bên cạnh đó, xã
thường xuyên có những bài viết tuyên dương những người tốt việc tốt, người
sau cai có công ăn việc làm tái hòa nhập cộng đồng qua loa phóng thanh để
nhiều người biết đến.
Dựa trên thuyết nhu cầu của Maslow tác giả đã thực hiện đánh giá nhu
cầu của người sau cai nghiện ở hai xã cho thấy nhìn chung người sau cai
nghiện đều có nhu cầu học nghề để có công việc ổn định, tạo thu nhập.
Họ muốn lao động, muốn thay đổi để đáp ứng những nhu cầu cá nhân
của mình. Người sau cai nghiện cũng giống như những người lao động khác –
họ muốn có việc làm, tạo thu nhập để bù đắp lại khoảng thời gian họ đã bỏ
phí trong quá trình đi cai nghiện.
Mặc dù họ xuất phát từ những hoàn cảnh khác nhau, nhưng họ đều có
mong muốn tìm kiếm việc làm tự tạo thu nhập cho bản thân và đóng góp cho
gia đình mà không cần sự trợ giúp của người khác ít nhất là giải quyết được
tình trạng không có việc làm hiện tại và được đảm bảo các chế độ xã hội.
30
“Ngày nào chú cũng quanh quẩn ở nhà, nghĩ mà phát chán cháu ạ. Bây
giờ chú đợi người khỏe hơn thì chú tìm việc đi làm cháu ạ. Chú để ý thấy nhà
đầu làng có mở nghề làm đồ trang sức đang cần tuyển công nhân cháu
ạ.Nghỉ ngơi vài hôm nữa rồi chú nộp hồ sơ xin vào đó làm, trước là làm phụ
việc thôi, sau học hỏi thêm, chú sẽ cố gắng để đỡ đần vợ con”
(PVS Nam, 43 tuổi người sau cai nghiện xã Hương Sơn)
“Từ ngày tôi về, toàn ở nhà, ai thuê việc gì thì làm, nhưng thu nhập
cũng không đáng bao nhiêu. Các công việc mà họ thuê tôi chủ yêu các công
việc như xếp gạch gọn vào, rồi phụ xây nhưng mà buổi đực, buổi cái. Không
ăn thua. Sức khỏe mình yếu nên việc làm nặng về lại ở một mình không được
ăn uống đầy đủ nên ốm một trận thì không đủ tiền thuốc cháu ạ. Nhưng cứ ở
nhà ăn bám vợ con mãi, nhiều lúc cũng thấy chán lắm. Chú cũng cảm thấy
mình vô dụng.”
(PVS Nam, 27 tuổi người sau cai nghiện xã Hương Sơn)
2.1.2. Những thuận lợi và rào cản trong hoạt động hỗ trợ và tìm kiếm việc
làm cho người sau cai nghiện ma túy.
- Thuận lợi:
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này, tác giả nhận diện
được một số thế mạnh để có thể phát huy hỗ trợ việc làm cho người sau cai
nghiện ma túy.
Thuận lợi trước hết là về nhu cầu của người sau cai nghiện ma túy.
Xuất phát từ những nhu cầu đó là động lực để họ tìm kiếm việc làm và cố
gắng trong quá trình lao động. Người sau cai nghiện ma túy có nhu cầu tìm
viêc rất cao.
“Những ngày tháng trong tù, anh chỉ mong nhanh chóng cai nghiện để
về cùng vợ lao động kiếm tiền nuôi các cháu. Nhưng khổ nỗi, giờ trở về mọi
dự định trong tù đều tan biến. Anh không thể tìm được việc làm khi chuyên
môn không có. Có làm thì chỉ làm được thời vụ thôi. Mọi người không ai nói
31
tận tai anh. Nhưng sau lưng họ vẫn coi anh là một thằng nghiện vô dụng. Nếu
như được giới thiệu việc làm anh hứa sẽ cố gắng chăm chỉ làm ăn để không
phụ công vợ mong mỏi” (PVS nam, 34 tuổi sau cai nghiện xã Đốc Tín)
Đối với người sau cai nghiện thì việc làm là rất quan trọng bởi chỉ có
việc làm và lao động sẽ là sợi dây liên kết vững vàng nhất của người nghiện
đối với cộng đồng, việc tạo việc làm tạo nên một vòng xoáy rất tích cực giúp
người nghiện quên và từ bỏ ma túy, gắn kết với cộng đồng ngày càng khăng
khít hơn. Việc làm giúp người sau cai nghiện kiểm soát được hành vi của
mình để rồi từ đó, họ tự ý thức được bản thân phải từ bỏ ma túy mà tìm kiếm
việc làm.
Những người sau cai nghiện tại địa bàn hai xã có nhu cầu rất lớn trong
việc tìm kiếm việc làm, bởi bản thân họ đã đều là người trưởng thành và đều
là người trụ cột của gia đình. Thế nên, mong muốn có việc làm tạo thu nhập
và kinh tế quả thực là yếu tố hết sức dễ hiểu. Xã hội ngày càng phát triển, nhu
cầu con người ngày càng cao, có việc làm tức là sẽ sẽ có thêm nguồn thu nhập
trang trải cho cuộc sống đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của bản thân cũng
như gia đình người sau cai nghiện. Khi những nhu cầu này được thỏa mãn thì
sẽ vươn tới mức độ cao hơn.
Bên cạnh đó người sau cai nghiện muốn có việc làm bởi chính bản thân
họ cảm thấy mình là người tội lỗi, họ cho rằng vì họ mà gia đình mang tiếng
và chịu khổ, kiếm việc làm để họ không cảm thấy mình là gánh nặng của gia
đình, cũng không phải là kẻ ăn bám, vô công rồi nghề. Và cũng chính vì điều
đó mà họ rất nhạy cảm, mặc cảm tự ti về bản thân
Bản thân người sau cai nghiện cũng có nhu cầu về việc làm với mong
muốn nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía cộng đồng. Đây cũng là con đường
để họ tự khẳng định bản thân và mong muốn được ghi nhận, được tin tưởng từ
phía cộng đồng xung quanh.
32
Bên cạnh những thuận lợi về mặt tâm lý của người sau cai nghiện tạo
động lực thúc đẩy người sau cai nghiện có động lực để từ bỏ ma túy thì về
phía cộng đồng cũng có những thuận lợi, các cơ sở dạy nghề ngắn hạn dành
cho người lao động được đặt rải rác trên địa bàn xã nên rất thuận tiện cho việc
đi lại sinh hoạt của người sau cai nghiện để có thể thoải mái tận dụng tối đa
hỗ trợ từ phía cộng đồng, gần dân cư cũng khiến cho người sau cai nghiện
không cảm thấy cô đơn hay chán nản. Tan giờ làm là về với gia đình, không
bị bạn xấu rủ rê. Các ngành nghề người sau cai nghiện được học như: may,
sâu hạt vòng, làm đồ trang sức mỹ ký, làm tăm hương, chăn nuôi… Những
ngành nghề này đều phù hợp với điều kiện đặc điểm của địa phương và phù
hợp với điều kiện sức khỏe, tinh thần của người sau cai nghiện cũng như trinh
độ học vấn của họ. Sau khi được đào tạo nghề, những người sau cai nghiện
nếu học tập và kỷ luật tốt sẽ được tiếp nhận và bố trí công việc tại cơ sở. Một
số chủ doanh nghiệp và giáo viên dạy nghề cũng vô cùng tâm huyết với đối
tượng nên những người sau cai nghiện sẽ không tự ti khi tham gia các khóa
học nghề ngắn hạn hay dài hạn tại địa phương.
Tìm kiếm việc làm đối với người sau cai nghiện còn một thuận lợi đáng
kể nữa đó là những người sau cai nghiện đều trong độ tuổi lao động. Chính vì
vậy, dù là học nghề hay tham gia lao động thì họ đều có khả năng tiếp thu công
nghệ sản xuất cũng như trình độ tay nghề sẽ tăng lên rất nhanh nên có thể phù
hợp với các khóa học kỹ năng ngắn hạn và có thể làm việc ngay cho cơ sở sau
khi kết thúc khóa học ngắn hạn mà vẫn đảm bảo về kỹ năng lao động.
Đối với người sau cai nghiện học tập tại cơ sở dạy nghề, nhiều người
sau cai nghiện có năng lực vượt trội, họ rất khéo tay và làm việc chăm chỉ do
bản thân họ luôn ý thức được những thiệt thòi của mình nên họ luôn chuyên
tâm vào chuyên môn và không ngừng trau dồi kỹ năng tay nghề.
“ Đi trại về là khoảng thời gian vô cùng khó khăn đối với tôi, tôi tham
gia học nghề này với mong muốn tìm kiếm cơ hội học nghề để có cơ hội tìm
33
kiếm công việc phù hợp với mình để phụ giúp gia đình. Chứ nhận thức mình
là trụ cột mà không giúp được gia đình, nhiều lúc tôi thấy thực sự bế tắc”.
(PVS Nam 30 tuổi,người sau cai nghiện xã Hương Sơn đang học nghề tại
trung tâm)
Bên cạnh đó, người sau cai nghiện còn nhận được sự quan tâm từ phía
Đảng ủy và các ban ngành đoàn thể của huyện như phòng lao động thương
binh và xã hội, hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên thường xuyên
xuống thăm hỏi động viên người sau cai nghiện.
- Rào cản
Trình độ văn hóa thấp, thiếu kiến thức và kỹ năng tay nghề.
Trình độ văn hóa thấp cũng là một yếu tố rào cản lớn đối với người sau
cai nghiện trong quá trình tìm kiếm việc làm để tái hòa nhập cộng đồng:
“Có bằng có cấp đi xin việc còn khó nói chi đến anh. Sinh viên đại học,
cao đẳng thất nghiệp nhan nhản. Anh chỉ làm được các công việc tay chân
thôi. Nhưng người ta cũng chẳng thuê anh em ạ” (PVS Nam 29 tuổi người
sau cai nghiện xã Hương Sơn).
“Không chỉ có trình độ văn hóa thấp mà người sau cai nghiện còn thiếu
cả kỹ năng tay nghề. Thực tế là họ chỉ biết làm ruộng thuần nông, công việc
làm theo mùa vụ và rất ngại đi học nghề. Chính vì vậy mà kỹ năng nghề của
họ hầu như không có. Nên xin việc thì lại phải học lại từ đầu và lý lịch nghiện
ngập của họ, sẽ là rào cản lớn cho bản thân họ” (PVS Nam, 29 tuổi, cán bộ
xã Đốc Tín).
Hay nghe như chính bản thân người sau cai nghiện ma túy cũng chia sẻ:
“Mặc dù ở trong trại cai nghiện anh cũng được học nghề mây tre đan,
nhưng giờ về quê thì lại không có nghề đó và không tìm được việc phù hợp
với nghề mình được đào tạo em ạ. Tự nhiên mình thành không có việc làm. Ở
nhà quanh quẩn anh cũng chán lắm em ạ. Thay đổi việc khác, một chốc
chuyển nghề có dễ đâu em”
(PVS Nam, 29 tuổi người sau cai nghiện tại xã Hương Sơn)
34
Đối với người bình thường để có thể tìm một công việc cũng không dễ
và càng khó khăn hơn khi người đó là người sau cai nghiện.
Sự kỳ thị của xã hội
Sự kỳ thị của xã hội là một trong những yếu tố chính gây trở ngại cho
người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Đó là một trong những nguyên
nhân khiến tỷ lệ tái nghiện tăng cao. Nhiều người trong cộng đồng có cái nhìn
coi thường, khinh bỉ hoặc soi xét người sau cai nghiện. Họ luôn tìm cách xa
lánh, và cho rằng người sau cai nghiện là hư hỏng hoặc là “ không nghe văn
thằng nghiện”; „không nghe thằng nghiện trình bày”.
“Tôi rất quý chú S, nhưng gặp tôi chỉ hỏi han thôi. Tôi nghĩ nếu người
ngoan ngoãn sẽ chẳng dính nghiện đâu, mà đã nghiện ngập rồi thì có bỏ
đằng giời”(PVS Nữ, 57 tuổi, người xung quanh người sau cai nghiện)
“Chú cai nghiện về nhà mà đi mọi người cứ nhìn rồi xì xào, lắm lúc
cũng ngại chẳng muốn đi đâu. Chú có cảm giác đến nhà họ họ luôn nghĩ là
chú dình mò ăn trộm. Đã đành là quá khứ lúc nghiện có ăn trộm đồ nhưng
chú đã cai được nghiện rồi. Tại lúc trước thèm thuốc nên làm liều. Còn giờ về
chú chỉ muốn tu chí làm ăn thôi” (PVS Nam,52 tuổi, người sau cai nghiện tại
xã Hương Sơn).
Một thực tế, nguyên nhân gây nghiện không hẳn là ăn chơi, đua đòi
mới nghiện. Nguyên nhân dẫn đến nghiện hút có nhiều nguyên nhân khác
nhau có thể do hoàn cảnh xô đẩy nên trở nên như vậy. Chứ không ai là người
muốn dính dáng đến ma túy.
“Anh lên quê vợ ở Sơn La làm nghề cắt tóc và sửa đồng hồ. Xung
quanh hàng xóm nhà nào cũng nghiện, nghiện ngay sát vách nhà anh luôn.
Vậy là anh tò mò nông nổi nên hút thử thành ra nghiện luôn em ạ. Anh ân hận
lắm”(PVS Nam, 32 tuổi người sau cai nghiện tại xã Đốc Tín).
Nếu có dính rồi họ cũng chỉ mong muốn từ bỏ mà thôi. Nhưng vì
không đủ bản lĩnh nên kéo họ vào vòng luẩn quẩn nghiện – cai – nghiện. Vì
35
vậy, về phía cộng đồng cần nhận thức rõ và thay đổi suy nghĩ không nên đánh
đồng tất cả người có quá khứ nghiện ngập đều đáng coi thường và khinh bỉ
họ. Hãy cho họ một cơ hội để có thể từ bỏ ma túy. Sự kỳ thị, phân biệt đối xử
sẽ không giúp người sau cai nghiện tốt hơn mà thậm trí còn đẩy họ vào sự
chán trường mà nhanh chóng tìm đến ma túy. Nếu mọi người hiểu và xem
những người nghiện ma túy như một nạn nhân đồng thời có cái nhìn đồng
cảm đối với người nghiện ma túy và có thái độ tích cực, hỗ trợ họ kịp thời, kiên
trì và bao dung thì có lẽ người sau cai nghiện sẽ có động lực bỏ ma túy mạnh
mẽ hơn. Nhận thức đúng, hành động tích cực để người nghiện ma túy nhận
được sự hỗ trợ từ phía cộng đồng giúp họ tự tin hơn để sống và làm việc.
2.1.3. Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về khả năng giao tiếp hòa nhập
với cộng đồng
- Nhu cầu giao tiếp của người sau cai nghiện khi hòa nhập cộng đồng.
Nhu cầu giao tiếp là một loại nhu cầu tinh thần của con người, nó giúp
con người thỏa mãn nhu cầu trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, tình cảm,
thiết lập quan hệ với người khác. Đó là một trong những nhu cầu quan trọng
nhất của con người cần phải được đáp ứng.
Người sau cai nghiện trở về với cộng đồng mong muốn của họ là nhận
được sự quan tâm của mọi người. Họ mong muốn được giao tiếp, được sẻ chia.
- Thuận lợi:
Mạng lưới xã hội bao gồm: Gia đình, họ hàng, bạn bè… là chủ thể rất
quan trọng trong quá trình tạo sự tự tin trong giao tiếp cho người sau cai
nghiện ma túy. Trước nhất là gia đình của người sau cai nghiện ma túy bởi
đây là nơi gần gũi nhất với người sau cai nghiện.
Trước hết, gia đình có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người sau cai
nghiện tái hòa nhập, dựa vào cộng đồng. Gia đình được xem như một tế bào
của xã hội, là một trong những môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người,
chính vì vậy, tìm hiểu mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình sẽ là một
36
yếu tố quan trọng tác động tới quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người sau
cai nghiện ma túy. Đối với người sau cai nghiện ma túy, gia đình không chỉ là
nơi bao bọc, che chở mà còn là nơi sẻ chia, động viên giúp đỡ họ để họ từ bỏ
ma túy. Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả số người được hỏi cho biết gia đình
là chủ thể đầu tiên giúp đỡ họ trong mọi công việc.
“Gia đình là điều tuyệt vời nhất với anh, anh nghiện ma túy rồi đi trại
4 năm nay mới trở về, nhìn bạn bè xung quanh vợ con đề huề. Còn mỗi mình
cảnh mẹ già nheo nhóc. Kinh tế gia đình không có. Nhưng không vì thế mà mẹ
bỏ rơi anh. Từ hôm về nhà tới giờ. Mẹ luôn luôn bên cạnh động viên cố gắng
cai nghiện. Mẹ còn cắt thuốc bắc bồi bổ cho anh nữa. Đấy em xem dạo này
anh có béo không?Khác hẳn với lúc anh mới về” (PVS Nam, 29 tuổi, người
sau cai nghiện tại xã Đốc Tín).
Phần lớn gia đình đều không có mặc cảm gì nhiều đối với người nghiện
ma túy sau cai. Họ luôn mở rộng vòng tay đón nhận con em mình cho dù
người sau cai nghiện có mắc phải lỗi lầm, khuyết điểm, đa số gia đình đều
chú ý quan tâm, chăm sóc, chia sẻ động viên tinh thần con em mình, mong
muốn những người sau cai nghiện có thể nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng
và sớm trở thành người con, người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
“Anh đi cai nghiện tại trại 3 năm, mới về được 1 năm em ạ. Được vợ và
bố mẹ đỡ đần. Anh mở được quán cắt tóc này đây. Mỗi ngày túc tắc cũng
được 20.000 đến 50.000 đồng. Thêm thắt đồng vào đồng ra. Nông dân thì em
bảo như vậy là được rồi. Còn vợ con nuôi thêm con ngan con gà cải thiện. Từ
ngày anh về, gia đình có thêm tiếng cười và niềm vui” (PVS Nam, 27 tuổi,
người sau cai nghiện tại xã Đốc Tín)
Có thể nói rằng gia đình là nơi luôn bảo vệ che chở cho mỗi chúng ta.
Mỗi khi chúng ta đau khổ nhất thì hơn ai hết. gia đình là nơi che chở chúng ta
nhiều nhất. Vì thế, hơn tất cả mọi thứ, gia đình chính là sức mạnh to lớn có
thể giúp người sau cai nghiện ma túy có thể vượt qua những vấp ngã để làm
37
lại cuộc , trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội. Nếu có được sự
trợ giúp của gia đình thì quả thật nghững người sau cai nghiện sẽ tự tin hòa
nhập cộng đồng hơn so với những người thiếu đi sự quan tâm từ gia đình.
Trên thực tế, số người sau cai nghiện trở về lại có hoàn cảnh gia đình đặc biệt
khác do đó mà dẫn đến việc nhận được sự hỗ trợ gia đình là rất ít.
“Tháng 4 năm 2012, anh dính nghiện nặng tới nỗi không thể kiểm soát
được hành vi của bản thân. Lúc nào cũng chỉ nhăm nhe vác tất cả những thứ
gì có thể bán được để có thuốc. Em chưa hình dung ra lúc lên cơn nghiện nó
vật vã như thế nào đâu. Lúc đó em hãy tưởng tượng ra có hàng ngàn con ròi
đục rũi trong xương. Chỉ mong có thuốc để bớt đi đau đớn thôi. Lúc đó, anh
bán hết đồ đạc, đuổi vợ con về nhà ngoại. Nay anh về, chị ấy mang gạo và
thức ăn lên cho anh. Bận Xuân Hội mấy tháng nên giờ mới về cùng anh. Có
vợ con yêu thương nên anh giờ rất hạnh phúc em ạ!” (PVS Nam, 32 tuổi,
người sau cai nghiện tại cộng đồng).
“Bố anh mất từ năm anh mới 5 tuổi, giờ anh đã 37 tuổi rồi. Một mình
mẹ anh nuôi ba chị em anh, hai chị gái đi lấy chồng. Còn anh với mẹ, nhà
nghèo nên anh chỉ có ham muốn làm giàu, anh lên Sơn La và dính nghiện từ
đó. Anh đi tù cai nghiện về được hai năm rồi. Mẹ già, lại mắt kém. Anh thì ở
nhà chăn nuôi, cũng chẳng có thời gian đi đâu. Hai mẹ con động viên
nhau.”(PVS Nam 35 tuổi, người sau cai nghiện tại Hương Sơn).
Đối với người sau cai nghiện sau khi trở về cộng đồng trong thời gian
đầu, gần như chỉ có mối liên hệ với gia đình, họ rất ít liên hệ với họ hàng làng
xóm và bạn bè. Khả năng kết nối với cộng đồng của họ là rất hạn chế bởi họ
không chỉ thiếu vốn, thiếu trình độ, kỹ năng… Nên họ rất tự ti trong giao tiếp
và hòa nhập cộng đồng.
“Từ ngày con trai cai nghiện trở về, cô chú luôn luôn động viên con
phải cố gắng lên, thương bố, thương mẹ thì phải cố gắng ngoan ngoãn làm
ăn. Em nó về được hai năm nay rồi nhưng cũng không đi đâu. Ở nhà, mẹ
38
nhận hạt vòng thì sâu hạt kiếm thêm thu nhập. Được tiền thì thỉnh thoảng cho
con mua quần áo, thanh niên mà. Phải có quần áo đẹp thỉnh thoảng đi chơi”.
(PVS mẹ của người sau cai nghiện tại xã Đốc Tín)
“Nếu không có sự hỗ trợ đắc lực từ phía gia đình, chắc anh sẽ chán
nản mà quay lại con đường nghiện ngập mất”( PVS, Nam 29 tuổi, người sau
cai nghiện tại cộng đồng được 2 năm)
Thông qua quá trình phỏng vấn sâu, hoàn cảnh gia đình của người sau
cai nghiện ma túy có tác động rất lớn đến việc hỗ trợ người sau cai nghiện hòa
nhập cộng đồng dễ dàng hơn. Nếu nhận được sự trợ giúp từ phía gia đình, thì
người sau cai nghiện có thể tự tin để hòa nhập cộng đồng hơn và ngược lại.
Khẳng định lại một lần nữa, yếu tố gia đình thực sự rất cần thiết đối với người
sau cai nghiện ma túy. Giúp họ dễ dàng từ bỏ ma túy hơn. Trước hết là hỗ trợ
về mặt tinh thần, sau đó là mặt vật chất cho người sau cai nghiện.
Thực tế cho thấy rằng, người sau cai nghiện sẽ tái nghiện nhanh chóng
nếu không có được sự hỗ trợ đắc lực từ phía gia đình bởi khi đó họ mất đi chỗ
dựa vững chắc nhất về mặt tinh thần, họ hụt hẫng và chán nản. Đẩy họ vào
cuộc sống bế tắc hơn. Rồi họ lại tìm đến ma túy để giải khuây.
Từ gia đình, sẽ là sợi dây tạo nên sự tự tin cho người sau cai nghiện dễ
dàng giao tiếp với mọi người hơn.
“Biết chồng nghiện, chị gần như suy sụp hoàn toàn. Nhất là khi đồ đạc
trong nhà lần lượt bị anh ấy bán sạch Không dưới một lần chị có ý định nhảy
xuống ao trước cửa nhà tự tử. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại. Giờ mình tự tử, trước
hết là thiệt thân sau đến bố mẹ đẻ và con cái mình thiệt. Cố sống đợi anh ấy
đi tù 5 năm về đợt tháng 8 năm 2014 anh ấy về, thấy anh ấy cũng ngoan làm
ngoan ăn. Lại được xã tạo điều kiện cho mở quán cắt tóc đầu ngõ đấy. Nên
vợ chồng bảo nhau làm ăn. Được cái, anh ấy khéo mồm, lại cắt tóc đẹp nên
mọi người đến đông lắm. Người ta lấy 15 nghìn một đầu, anh ấy lấy 10 nghìn
39
thôi em ạ. Được ít thôi nhưng lấy công làm lãi em ạ” (PVS Nữ, 32 tuổi,
người thân người sau cai nghiện).
Gia đình luôn luôn mở rộng vòng tay chào đón và tha thứ cho những lỗi
lầm của người sau cai nghiện:
“Nhà bác nghèo, bác trai mất cách đây 30 năm nay, các anh chị phải
bươn chải từ nhỏ. Thằng S nó nghĩ tới cách làm giàu nhanh, ai ngờ lên Sơn
La lấy vợ rồi dính nghiện. Khi biết tin con nghiện, bác đau lắm, đồ đạc nó
bán hết, đến cái chăn nhung nó cũng đem bán. Nó đi tù về rồi xin lỗi bác, hai
mẹ con động viên nhau. Mới đầu về nó nằm ở nhà suốt. Có cô cháu ngoại
thỉnh thoảng lên chơi với cậu thôi còn thì cũng không đi đâu. Về nhà được
hơn một năm nay rồi. Bác thấy ngoan hơn. Không biết có cai được không?
Không cai được chỉ có chết thôi”(PVS: Nữ 72 tuổi, người thân người sau cai
nghiện tại xã Hương Sơn)
Cùng với gia đình, liên hệ với cộng đồng là yếu tố thứ hai quan trọng
trong công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng về mặt
giao tiếp. Mối liên hệ với cộng đồng bao gồm liên hệ với nhóm bạn bè thân,
hàng xóm, những người có uy tín trong cộng đồng và doanh nghiệp tiếp nhận
lao động.
Với nhóm bạn bè: Bạn học cùng trung học, phổ thông.. trong quá trình
gặp gỡ trao đổi, người sau cai nghiện có thể dễ dàng trao đổi thông tin cũng
như tâm sự riêng của mình.
“Anh vẫn được bạn bè rủ đi họp lớp, và vì được tạo cơ hội như vậy
nên anh cũng tích cực tham gia. Xung quanh hàng xóm, họ hàng có công to
việc lớn gì thì đều gọi anh đến giúp đỡ. Những lúc như vậy, anh thấy rất vui
và cảm thấy được mọi người tôn trọng. Xóa hẳn việc mặc cảm tự ti của
mình. Anh nghĩ các cụ nói cũng có cái đúng; đánh kẻ chạy đi không ai đánh
người chạy lại đúng không em” (PVS Nam 32 tuổi, người sau cai nghiện xã
Hương Sơn).
40
Cũng thông qua giao tiếp với bạn bè, họ hàng, người sau cai nghiện ma
túy có thể có mối liên hệ tìm kiếm được việc làm ngày một dễ dàng hơn.
Với hàng xóm, họ hàng và những người có uy tín tại cộng đồng. Ở đây,
họ hàng bao gồm: cô, dì, chú, bác..Hàng xóm được hiêu là những người sống
cùng khu vực cư trú (cùng xóm, cùng làng…). Những người có uy tín trong
cộng đồng là những người cao tuổi được mọi người xung quanh kính trọng,
nhiều tấm gương điển hình người tốt việc tốt luôn sẵn sàng giúp đỡ người
khác khi gặp khó khăn.
- Rào cản
Bên cạnh vấn đề tìm kiếm việc làm tạo thu nhập thì vấn đề giao tiếp
của người sau cai nghiện ma túy cũng gặp phải không ít khó khăn.
Khó khăn thứ nhất đó là định kiến xã hội giành cho người sau cai
nghiện ma túy:
Định kiến xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học nghề của
người sau cai nghiện.
“ Nói chung, tôi không tin tưởng lắm vào khả năng người sau cai
nghiện có thể làm tốt và gắn bó lâu dài với công việc, hầu hết họ chỉ cai được
một thời gian rất ngắn rồi lại thói quen đường cũ thôi. Đào tạo cho phí của
và công sức.” ( PVS: Chủ một xưởng sản xuất tại đại phương)
“Quan điểm của tôi thì ai cũng có người thế này người thế khác. Người
nghiện cũng có nhiều người cai được nhưng theo tôi thì khó lắm. Dù sao đi
chăng nữa thì tôi nghĩ để cai nghiện ma túy phải có bản lĩnh lắm mới có thể
bỏ được. Và những người có bản lĩnh thì thường không mắc nghiện, chỉ có
đua đòi thì mới nghiện ngập thôi” (PVS người dân xung quanh người sau cai
nghiện ma túy)
Hầu hết mọi người đều cho rằng, những người có dính líu đến ma túy
đều là người hư hỏng và khó có thể làm việc tốt được công việc, cũng như
ngại giao tiếp với người sau cai nghiện. Điều đó gây cản trở đối với người sau
cai nghiện, họ sẽ thấy tự ti khi nói chuyện với mọi người.
41
“Từ lúc cai nghiện về, anh cứ có tâm lý mình là người xấu, và anh cảm
thấy xấu hổ vì mình là người xấu. Ngại đi xin việc và ngại giao tiếp với mọi
người” (PVS Nam, 32 tuổi, người sau cai nghiện ma túy tại xã Hương Sơn).
Ngại giao tiếp với cộng đồng cũng có nghĩa là họ tự thu mình vào trong
một căn phòng không lối thoát.
“Anh rất ngại khi đi xin việc mà họ biết mình là người vừa cai nghiện
trở về. Họ sẽ không tin tưởng mà giao việc cho anh”.
(PVS Nam 29 tuổi người sau cai nghiện xã Hương Sơn)
Những người sau cai nghiện khi đi xin việc làm hoặc giao tiếp với những
người xung quanh luôn có tâm lý tự ti. Nhất là khi người nghiện đi xin việc tại
các công ty. Họ cho rằng sẽ chẳng có ai nhận một thằng nghiện vào làm.
“Trong sổ hộ khẩu ghi anh có án, đi xin việc khó lắm em ạ, vết dơ
trong lý lịch. Chẳng ai muốn nhận anh vào làm”.
(PVS Nam 32 tuôi, người sau cai nghiện xã Đốc Tín)
Đây chính là vấn đề cản trở họ trong việc hòa nhập cộng đồng. Rào
cản lớn nhất của họ là do chính bản thân họ tạo nên và không ai có thể giúp
họ xóa bỏ rào cản đó tốt như chính họ. Họ ngại và e thẹn nên càng dần càng
kéo dài khoảng cách giữa người nọ với người kia.
“ Đã nhiều lần tôi muốn sang hàng xóm chơi nhưng tôi ngại, tôi sợ mọi
người nói tôi là thằng nghiện, hoặc tôi luôn có cảm giác họ xét nét và soi mói
tôi. Tôi lại ngại không dám sang. Ngày ngày tôi quanh quẩn ở nhà. Tôi nghĩ
rằng, tôi cố gắng ngoan ngoãn rồi mọi người sẽ chấp nhận tôi. Coi tôi bình
đẳng như mọi người. Tôi ân hận lắm.” (PVS Nam 27 tuổi,người sau cai
nghiện tại xã Đốc Tín)
Sự thu hẹp trong mối quan hệ giao tiếp khiến người sau cai nghiện cảm
thấy rằng mình như một gánh nặng trong gia đình, họ không chịu được áp lực
về mặt tinh thần.
42
“ Từ ngày cậu ấy về, chị vẫn mang trứng và gạo lên cho nó ăn, cũng
không thấy đi chơi đâu. Hy vọng lần này sẽ cai được. Đi nhiều lại hư hỏng thì
chỉ còn nước chết”. (PVS 48 tuổi, Người thân của người sau cai nghiện)
Như vậy có thể thấy rằng, thực chất của vấn đề ngại giao tiếp này của
người sau cai nghiện chính là thiếu lòng tin vào bản thân mình. Tâm lý sợ
giao tiếp, ngại ngùng, không nói chuyện được với người lạ, luôn suy nghĩ mọi
thứ, lúc nào cũng buồn rầu.
Để xóa bỏ đi sự tự ti đó. Không gì khác là thay bằng hai chữ “Tự tin”.
Vậy, làm cách nào đẻ người sau cai nghiện có thể tự tin. Đó quả là một câu
hỏi khó.
Trong quá trình cai nghiện tại Trung tâm, tuy không hoàn toàn biệt lập
với xã hội song họ cũng phải chịu sự cách lý một phần khỏi đời sống xã hội.
Do vậy, sự hiểu biết, năng lực lao động, năng lực tiếp cận những vấn đề mới
của xã hội hiện nay rất hạn chế. Đây chính là điểm yếu của người sau cai
nghiện ma túy bởi trong quá trình cai nghiện tập trung tại trung tâm họ đã có
nhiều kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm chưa bắt kịp thời đại. Vì vậy không
tránh khỏi những khó khăn trong cả về suy nghĩ lẫn hành động.
Những người hàng xóm, họ hàng của người sau cai nghiện thường chỉ
giúp đỡ về mặt tinh thần như động viên thăm hỏi đối với người sau cai
nghiện. Như vậy cũng đã góp phần không nhỏ để họ có thể tự tin hòa nhập
cộng đồng.
2.1.4.Công tác hỗ trợ người sau cai nghiện về y tế
- Nhu cầu hỗ trợ về y tế
Người sau cai nghiện khi trở lại cộng đồng, thời gian đầu thường chưa
hoàn toàn phục hồi về sức khỏe cộng thêm với việc đầu óc suy nghĩ sợ bị mọi
người kỳ thị. Nên sức khỏe cũng không được khỏe khoắn nhất có thể làm
việc, lao động.
43
Trong suốt quá trình phỏng vấn tìm hiểu về nhu cầu sử dụng các dịch vụ
khám chữa bệnh của người sau cai nghiện phần lớn những người sau cai
nghiện nếu có bị ốm thì thường xuyên ra cửa hàng mô tả bệnh rồi lấy thuốc.
Số còn lại là mời thày thuốc đến nhà, kết hợp với cắt thuốc đông y để chữa
bệnh. Nhu cầu đến các cơ sở y tế của người sau cai nghiện là không lớn.
“Tôi thấy sức khỏe hoàn toàn bình thường nên không có nhu cầu hỗ trợ
y tế. Nếu có ốm đau thì ra viện lớn. Chứ ở đây không ăn thua”
“ Ốm thì anh toàn ra hiệu thuốc gần nhà chứ anh không ra trạm y tế”
(PVS Nam 32 tuổi, Người thân của người sau cai nghiện xã Hương Sơn)
- Thuận lợi:
Người sau cai nghiện có nhận thức rõ ràng về tình trạng sức khỏe của
mình và họ có thể tự chủ động trong việc khám chữa bệnh của mình.
“Lúc mới về anh tưởng như là mình không sống nổi, chân tay mỏi rã rời
còn không muốn bước ra khỏi giường. Nhưng động lực chính của anh là Tự
do. Anh không còn phải nằm trong tù nữa mà là nằm trong nhà mình. Sức
khỏe của anh thế nào anh biết chứ. Chẳng qua là suy nhược cơ thể thôi em ạ.
Không cần thiết phải đi khám chữa bệnh. Nếu có thế nào, anh chủ động được.
Hôm mới về, vợ anh có cho anh đi thử máu ở trung tâm y tế dự phòng xem là
có bị AIDS không? Nhưng mà không em ạ”( PVS Nam, 29 tuổi, người sau cai
nghiện tại xã Đốc Tín)
Công tác khám chữa bệnh đang dần dần cải thiện. Các cơ sở khám chữa
bệnh đang dần hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu của người khám chữa bệnh
với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng năng lực
và trình độ để phục vụ thăm khám cho bệnh nhân.
“Về phía lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc công tác khám chữa
bệnh của người dân, cơ sở y tế của chúng tôi có phòng tư vấn riêng cho các
bệnh nhân nếu có thắc mắc. Chúng tôi cũng ưu tiên đối với các trường hợp
đặc biệt. Tuy chưa có các chính sách riêng cho người sau cai nghiện, nhưng
44
tại cơ sở chúng tôi cũng nắm bắt và các nhưng hỗ trợ khác nếu người sau cai
nghiện đến khám tại cơ sở”(PVS Nữ, 43 tuổi, cán bộ y tế xã Hương Sơn)
Các cơ sở y tế đang từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày
càng cao của người dân, nhiều năm qua, Bộ Y tế đã xây dựng, hoàn thiện
chính sách và công cụ quản lý chất lượng, hàng loạt các giải pháp nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh đã được triển khai tích cực.
- Rào cản
Công tác chăm sóc sức khỏe cho người sau cai nghiện chưa được chú
trọng do số lượng người sau cai nghiện chưa được quan tâm sát sao. Cũng
chưa có chính sách nào liên quan đến thăm khám chữa bệnh cho người sau cai
nghiện tại cộng đồng.
“ Khó khăn lớn nhất ở địa phương là người dân không biết tự bảo vệ sức
khỏe, đặc biệt là người sau cai nghiện ma túy. Người sau cai nghiện ma túy
không chủ động hợp tác với các cơ sở y tế, sợ hàng xóm láng giềng xa lánh
nên họ không mặn mà với việc thăm khám bệnh và tư vấn của trạm y tế”
(PVS: Nữ 34 tuổi, cán bộ y tế xã Hương Sơn)
Người sau cai nghiện hầu nhu cầu khám chữa bệnh cũng không cao bởi
họ luôn chủ quan về sức khỏe của mình và tâm lý “sợ tốn tiền” của người sau
cai nghiện.
Trên thực tế, tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn chưa có chính sách gì hỗ
trợ người sau cai nghiện về mặt y tế.
“ Các trường hợp ra trạm y tế để khám chữa bệnh đối với người sau cai
nghiện là rất ít. Nếu có ra cũng chỉ là những bệnh hắt hơi, sổ mũi bình
thường thôi. Tôi cũng chưa thấy có chính sách gì hỗ trợ người sau cai nghiện
về mặt cấp phát thuốc men cho nhóm đối tượng này. Vì thực tế mà nói, thì
nhóm đối tượng này cũng chiếm một tỷ lệ không cao hay nói đúng hơn là ít,
trong địa phương nên chưa thấy.”(PVS cán bộ y tế xã Đốc Tín).
“Về việc thăm khám sức khỏe, anh chưa thấy xã có ý kiến gì về khám
chữa miễn phí. Với lại chúng tôi cũng ít đi khám ngoài trạm. Nếu bệnh nhẹ thì
45
mua thuốc ngoài hiệu thuốc. Nếu bệnh nặng thì ra viện lớn.” (PVS Nam,32
tuổi người sau cai nghiện tại Hương Sơn).
Chất lượng khám chữa bệnh của các cơ sở tại địa bàn xã là chưa cao bởi
trang thiết bị vẫn sơ sài. Nếu như người bệnh mắc phải những bệnh phức tạp
thì lại phải điều chuyển lên tuyến trên.
Thái độ phục vụ của nhiều cán bộ y bác sỹ còn chưa tận tình với người
dân đặc biệt là với người sau cai nghiện ma túy. Nhiều y, bác sỹ có thái độ
khó chịu hoặc hách dịch với người nghiện làm cho họ cảm thấy chạnh lòng
khi đi khám chữa bệnh.
Người sau cai nghiện ma túy tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – Mỹ Đức
– Hà Nội thường là những người có điều kiện kinh tế khó khăn do trước đây
đã dốc toàn bộ tài sản vào hút, chích nên không có điều kiện tiếp cận với các
cơ sở khám chữa bệnh có trình độ cao tại tuyến tỉnh và trung ương mà các
tuyến y tế cơ sở lại không thể đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của họ.
“Người sau cai nghiện thực tế có nhu cầu khám chữa bệnh rất lớn.
Thông qua các dịch vụ sẽ giúp họ định hướng đúng đắn các hành vi và có
hướng điều trị bệnh kịp thời. Nhưng để vận động họ tự giác đến các cơ sở y tế
nhằm đấy mạnh việc chống mặc cảm tự ti thì quả thật lầ khó khăn”(PVS: Cán
bộ y tế xã Đốc Tín)
Phần đông người đi khám bệnh tại các cơ sở cho rằng thủ tục khám chữa
bệnh rườm rà nhất là trong cách thức tổ chức khám bệnh. Chính những khúc
mắc trong thủ tục làm ảnh hưởng đến tâm lý người đi khám chữa bệnh. Trên
thực tế, có khá nhiều trường hợp có bệnh trong người nhưng cũng không đến
khám bệnh, chỉ đến khi phát bệnh mới tìm đến các cơ sở y tế tuyến trên.
Việc phân tuyến, thủ tục hành chính để được khám cũng là một vấn đề
khiến người sau cai nghiện ngại đi khám chữa bệnh chỉ là bất đắc dĩ. Họ cho
rằng nếu có bệnh thì khám chốc nhát tư nhân rồi về. Đến trạm y tế xã phải
chờ lâu và mất thời gian.
46
2.2. Vai trò của cộng đồng trong việc hỗ trợ ngƣời sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng
Qua phân tích ở trên cho thấy hầu hết các mối quan hệ giữa thân chủ với
các nhóm, tổ chức xung quanh đều là mối quan hệ tốt, tương tương qua lại hai
chiều. Tuy nhiên, ta cần lưu tâm đến mối quan hệ rời rạc giữa thân chủ với cơ sở y
tế. Điều này đã hạn chế cơ hội tiếp cận dịch vụ thăm khám bệnh và là vấn đề tồn
tại đang gặp khó khăn của thân chủ. Những nguồn lực hỗ trợ thân chủ hòa nhập
cộng đồng dựa trên sơ đồ sinh thái sau:
* Sơ đồ sinh thái:
Gia đình
Doanh nghiệp tại địa phương
Hàng xóm, bạn bè
Thân chủ
Trạm y tế
Ủy ban nhân dân xã Các tổ chức đoàn thể tại địa phương
CHÚ THÍCH
Mối quan hệ tương tác hai chiều:
Mối quan hệ tương tác một chiều:
Mối quan hệ rời rạc:
Mối quan hệ mật thiết:
47
Nhìn vào sơ đồ ta có thể thấy
Đặt thân chủ làm trọng tâm trợ giúp ta có thể dễ dàng nhận thấy nhất và nhu
cầu khám chưa bệnh tại tram y tế là khá rời rạc. Doanh nghiệp địa phương và
các tổ chức đoàn thể cũng như ủy ban xã có mối quan hệ tương tác qua lại với
thân chủ.
Gia đình và hàng xóm bạn bè:
Đây là yếu tố quan trọng nhất đối với sự hỗ trợ người sau cai nghiện khi họ
trở về cộng đồng. Là điểm đến đầu tiên và mục tiêu phấn đầu giúp người sau
cai nghiện có động lưc quên đi ma túy và quá khứ nghiện ngập của mình. Gia
đình có mối quan hệ khăn khít và tương tác với người sau cai nghiện. Tiếp
theo gia đình đó là bạn bè, hàng xóm là những điểm mấu chốt, gần gũi với
người sau cai nghiện nhất và có mối quan hệ khăng khít với người sau cai
nghiện nhất.
Doanh nghiệp tại địa phương:
Có vai trò cung cấp kinh phí, tài trợ cho các hoạt động tuyên truyền, liên kết
cần có cho sự tham gia của cộng đồng nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tái
hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, các hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện
trong việc tìm kiếm việc làm cũng rất quan trọng.
Vai trò của các đoàn thể xã hội
- Vai trò của Đoàn thanh niên:
Là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền, giáo dục ý thức cho thế hệ
thanh niên vì thế, bí thư đoan thanh niên ở hai xã cần triển khai các hoạt động
thiết thực phối hợp với đội xã hội tự nguyện, tổ chức các hoạt động giao lưu
văn nghệ, bong đá, tạo sân chơi lành mạnh, kéo người sau cai nghiện vào môi
trường an toàn, tránh xa các rủi ro và nguy cơ trở lại với ma túy.
- Vai trò của Hội phụ nữ
Kết hợp trong tuyên truyền, giáo dục nhân thân của người sau cai nghiện tại
địa bàn về vai trò của họ đối với việc hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
48
dựa vào cộng đồng, đồng thời đấu tranh đẩy lùi tệ nạn xã hội ra khỏi khu dân
cư, tổ chức tạo điều kiện giúp đỡ cho các gia đình có người sau cai nghiện
đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Ví dụ: vay vốn, hỗ trợ công tác tìm kiếm
việc làm.
- Vai trò của Hội cựu chiến binh, Mặt trận Tổ Quốc
Phát huy truyền thống “Bộ đội cụ Hồ” đấu tranh chống các mặt tiêu cực trong
xã hội, cũng như có vai trò to lớn trong xây dựng các phong trào cấp cơ sở.
Hội Cựu chiến binh sẽ kết hợp cùng với lực lượng công an xã và các tổ chức
chính trị xã hội khác trong việc quản lý, giáo dục người sau cai nghiện ma
túy, tiến hành các buổi giao lưu, nói chuyện tạo không khí hài hòa, cởi mở
giữa mọi người với nhau, trong đó có cả người sau cai nghiện. Sử dụng những
cán bộ cựu chiến binh có uy tín, có nhiều tình cảm đối với dân để giáo dục,
cảm hóa người sau cai nghiện ma túy.
Thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, gặp gỡ vớ người sau cai nghiện ma
túy tại gia đình với mục tiêu tạo không khí cở mở, tự tin cho người sau cai
nghiện hòa nhập cộng đồng.
- Vai trò của công an xã
Công an xã là lực lượng trực tiếp quản lý đối tượng sau cai nghiện tại địa
phương; trực tiếp nắm bắt và giải quyết ngay những vấn đề liên quan đến an
ninh trật tự nói chung và tình hình người sau cai nghiện nói riêng sau khi hòa
nhập cộng đồng.
Có thể nói rằng, cộng đồng đóng vai trò rất to lớn trong việc hỗ trợ người sau
cai nghiện, giúp họ nhanh chóng hòa nhập cuộc sống và tự tin hơn trong giao
tiếp.
Vai trò của trạm y tế xã:
Hỗ trợ về mặt thăm khám sức khỏe khi người bệnh có nhu cầu. Tư vấn về
cách chăm sóc sức khỏe cho người sau cai nghiện.
49
2.3. Các tổ chức xã hội tại địa phƣơng (Đội hoạt động xã hội tự nguyện –
quản lý ngƣời sau cai)
Tại hai xã cũng có những mô hình hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy
tại cộng đồng như Đội hoạt động xã hội tự nguyện. Cơ cấu của đội có nét
khác biệt so với những địa phương khác. Đội gồm 1 đội trưởng, 5 đội phó và
các thành viên. Đội trưởng, đội phó là những cán bộ đại diện cho các ban
ngành đoàn thể ở địa phương, có kinh nghiệm và có năng lực trong lĩnh vực
công tác xã hội. Tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn thì đội trưởng đội phó là
Bí thư Đoàn và trưởng công an xã. Thành viên trong đội là những người sau
cai nghiện và hoàn thành việc cai nghiện tại cơ sở hoặc có giấy chứng nhận
cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, tham gia sinh hoạt và những người không
nghiện ma túy là cán bộ đại diện cho các ban ngành đoàn thể.
Hoạt động của câu lạc bộ bao gồm các nội dung sau:
Đội tổ chức sinh hoạt định kỳ một tháng 3 lần với các nội dung sau:
Phối hợp với bên công an rà soát đối tượng sau cai nghiện tại nhà, đến động
viên theo dõi nắm bắt tình hình kịp thời phát hiện các đối tượng tái nghiện, tổ
chức tư vấn nhóm, tư vấn cá nhân và gia đình hội viên.
“Đội bên anh tổ chức thường là một tháng 3 lần vào các ngày mồng
7,20,30 hàng tháng. Các hoạt động thì phong phú, nhưng thường là ngồi với
nhau để trao đổi kinh nghiệm, tham gia văn nghệ. Qua đó, cũng biết được
nhiều anh có năng khiếu, bố trí, sắp xếp tổ chức thi cầu lông cho đội và giao
lưu với các đội khác trong xã. Cũng vui” “(PVS, nam, 32 tuổi, hội viên trong
đội hoạt động xã hội tình nguyện)
Hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng bao
gồm: các hoạt động tọa đàm, tuyên truyền và phòng chống ma túy, dã ngoại,
tham quan, thể thao, các hoạt động tạo thu nhập bao gồm định hướng nghề
nghiệp và việc làm, tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm, tổ chức cho học
viên lao động tập thể gây quỹ. Đội bắt đầu hoạt động từ năm 2009, lấy nòng
cốt từ bên Đoàn. Về kinh phí chuyên biệt thuộc ngân sách của xã.
50
Đội vận động các đoàn viên tại cơ sở có hiểu biết về ma túy thu gom
các điểm chích hút những xi lanh, ống tiêm ở các bở mương, ngoài ruộng...
tránh làm ảnh hưởng tới người dân địa phương.
Đội thường xuyên tiến hành căng treo băng zôn khẩu hiệu tuyên truyền tại
các cơ sở thôn nơi người dân dễ quan sát nhất. Đặc biệt là gần trường học. Nhằm
tuyên truyền rộng rãi về tác hại của ma túy đối với mọi người và gia đình.
Tiếp cận những người sau cai ngay sau khi họ trở về cộng đồng để vận
động họ tham gia sinh hoạt tập thể lành mạnh ngay sau khi họ trở về gia đình và
cộng đồng.
“Vừa về nhà được mấy hôm, tôi hầu như không đi đâu ra khỏi nhà, tôi
sợ mọi người nói tôi là thằng nghiện. Tôi rất bất ngờ khi được mọi người đến
động viên thăm hỏi. Trong lòng tôi vừa cảm động, vừa vui. Tôi đã tham gia
vào đội từ đó”( PVS: Nam, 30 tuổi, hội viên của đội hoạt động tự nguyện).
Đội còn thường xuyên trao đổi, thảo luận với người sau cai nghiện và
nhân thân về cách ứng xử với gia đình, cộng đồng để giảm bớt kỳ thị, phân
biệt đối xử. Tổ chức các buổi tập huấn về kỹ năng sống của các nạn nhân trở
về, định hướng cuộc sống tương lai cho người sau cai nghiện, cung cấp thông
tin liên quan đến việc phòng ngừa tái nghiện. Nhằm giúp người sau cai nghiện
ma túy ổn định tâm lý trong suốt quá trình tái hòa nhập cộng đồng.
Không chỉ có vậy, đội xã hội tự nguyện còn lập nhóm nòng cốt thường
xuyên tuyên truyền về tác hại của ma túy. Mỗi tháng, đội thường xuyên mở
những buổi tọa đàm để sinh hoạt định kỳ với các câu hỏi vừa mang tính giáo
dục vừa mang tính giải trí. Các thành viên tham gia nếu có câu trả lời đúng sẽ
có qua. Tuy món quà giá trị vật chất nhỏ, nhưng giá trị tinh thần lớn thông
qua đó, cũng giúp người sau cai nghiện nói ra được những ý kiến của mình,
lĩnh hội được nhiều kiến thức hơn và tự tin hòa nhập cộng đồng hơn. Bên
cạnh đó, các hoạt động trên cũng làm cho cộng đồng giảm kỳ thị và phân biệt
đối xứ với người sau cai nghiện và gia đình họ.
51
Như vậy, chúng ta có thể thấy được vai trò to lớn của Đội hoạt động xã
hội tự nguyện trong công tác tuyên truyền , phòng chống tái nghiện cho người
sau cai nghiện tại cộng đồng. Câu lạc bộ với tư cách là nơi hội tụ những người
đồng cảnh ngộ, cùng chí hướng và sở thích nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cảm
xúc để họ không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Từ đó họ có thể dễ dàng chia sẻ,
bộc bạch những khúc mắc, những điều tế nhị của bản thân. Trong hoạt động
quản lý cai nghiện tại cộng đồng, quản lý tái hòa nhập sau cai và hỗ trợ tạo
việc làm phòng chống tái nghiện thì các hội viên ngày càng phát huy được
chức năng, vai trò của mình. Thông qua các buổi sinh hoạt hàng tháng, các
thành viên có điều kiện để gặp gỡ, dám sát và trao đổi những thông tin cho
nhau. Từ đó, họ dễ dàng hòa nhập cộng đồng hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động Đội cũng vấp phải rất nhiều khó
khăn, nhất là vấn đề tài chính do ngân sách còn hạn hẹp chính vì vậy cần nhận
được sự quan tâm sâu sắc hơn từ phía chính quyền địa phương. Hoạt động của
phong trào ngày càng đi xuống, do vấn đề tài chính để duy trì hoạt động của hội.
2.4. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ ngƣời sau cai
nghiện ma túy tái hòa nhập dựa vào cộng đồng
Nhân viên công tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ
người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập dựa vào cộng đồng. Trong chương
này chúng tôi xem xét vai trò nhân viên công tác xã hội ở 4 vai trò sau đây:
2.4.1. Vai trò hành chính
Nhân viên công tác xã hội là những người trực tiếp theo dõi, giúp đỡ
những người sau cai nghiện và làm công tác tham mưu với cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương các giải pháp giúp họ hoàn thiện các đơn từ cũng như
đảm bảo chế độ cho họ. Hiện nay Nhân viên công tác xã hội trên địa bàn
huyện vừa phải tiến hành động viên, theo dõi những người sau cai nghiện khi
trở về với cộng đồng vừa phải tham mưu cho cấp trên về các chính sách hỗ
trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng. Theo nhận định của
52
một số cán bộ thì công việc diễn ra khá suôn sẻ bởi lẽ người sau cai nghiện
chiếm số lượng không nhiều tại địa phương.
Nhân viên công tác xã hội phải lựa chọn thời gian để đến từng hộ gia
đình, vào buổi tối để gặp gỡ, giao lưu với đối tượng trên địa bàn bàn.
Nhân viên xã hội phải phối hợp với chính quyền địa phương và người
dân xung quanh để tìm hiểu, đánh giá một cách chính xác, nhằm tìm ra
phương hướng, biện pháp hỗ trợ người sau cai nghiện kịp thời, phòng ngừa
việc tái nghiện trở lại.
Thường xuyên nắm bắt, rà soát các đối tượng là người sau cai nghiện trở
về trên địa bàn xã, thị trấn, các nhân viên công tác xã hội còn nắm bắt nhu cầu
của họ, để kịp thời tư vấn, hỗ trợ.
Một nhân viên công tác xã hội bán chuyên nghiệp tại xã Hương Sơn cho biết:
" Nhân viên công tác xã hội làm việc cần có kỹ năng giao tiếp, đa số
người sau cai nghiện rất cần sự hỏi han, chia sẻ ân cần, họ rất hay ốm khi
thay đổi khí hậu, hay tủi thân và cảm thấy cô lập với mọi người. Chúng tôi
thường xuyên tham mưu cho lãnh đạ cấp trên các hình thức hỗ trợ người sau
cai nghiện về tài chính hoặc tạo điều kiện việc làm cho người sau cai nghiện"
2.4.2. Vai trò vận động nguồn lực
Vai trò vận động nguồn lực của nhân viên xã hội là sự định hướng cho các
cá nhân tiếp cận đến nguồn lực hiện có hoặc có xu hướng xây dựng các dịch
vụ cho các cá nhân gọi là người môi giới theo cùng nghĩa việc môi giới cổ
phần định hướng cho khách hàng tiềm năng về cổ phiếu hữu ích đối với họ.
Là người kết nối, tiếp sức và tổ chức các nhóm hiện có hoặc xây dựng các
nhóm mới thực hiện vai trò của người vận động nguồn lực. Vai trò này
thường gắn với vai trò rộng lớn hơn của cả tổ chức.
Đây là một vai trò quan trọng của nhân viên công tác xã hội với tư cách là
một người trung gian kết nối người sau cai nghiện với các nguồn lực cần thiết.
Nguồn lực này có thể đến từ nhiều nơi nhưng quan trọng nhất vẫn là nguồn
lực từ phía gia đình và cộng đồng.
53
Nhân viên công tác xã hội trên địa bàn huyện Mỹ Đức là người trợ giúp
người sau cai nghiện ma túy tìm kiếm nguồn lực (nội lực, ngoại lực) cho giải
quyết vấn đề việc làm, chăm sóc y tế, học hành cho thân nhân họ, mua bán gia
súc, hỗ trợ mùa màng, ma chay, hội hè, ma chay, cưới xin... Nguồn lực hỗ trợ
người sau cai nghiện cũng có khi là con người, có khi là cơ sở vật chất, tài
chính, kỹ thụật, thông tin, sự ủng hộ về chính sách, chính trị và quan điểm...
Người sau cai nghiện ma túy đã có một thời gian dài tách biệt khỏi
cộng đồng và gần như tách biệt khỏi xã hội, mối liên hệ với gia đình, bạn bè..
Vì vậy, đội ngũ nhân viên công tác xã hội có thể giúp họ tiếp cận được các
nguồn lực bên ngoài, phát huy nguồn lực bên trong để họ trở nên mạnh mẽ
hơn, có khả năng sống độc lập và tham gia vào các hoạt động lao động như
những người bình thường.
“ Anh muốn mở một cửa hàng cắt tóc nam. Trước khi đi trại cai nghiện anh
cũng đã mở quán và quán rất đông khách. Nhưng dính nghiện vào anh bán
hết đồ đạc đi. Giờ về, không có vốn mở cửa hàng, không có đồ đạc gì nên
đành bó tay.” (PVS, người sau cai nghiện được 03 năm)
Nhân viên công tác xã hội trợ, giúp người sau cai nghiện trong việc
đánh giá nhu cầu tiếp cận vay vốn từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm
kinh tế. chăm sóc sức khoẻ, đồng thời đóng vai trò là người quản lý trường
hợp, hỗ trợ người sau cai nghiện tiếp cận những dịch vụ phù hợp và duy trì
tiếp cận một loạt các dịch vụ phối hợp tốt nhất. Trong trường hợp cần thiết,
nhân viên công tác xã hội cũng cung cấp hỗ trợ tâm lý cho người sau cai
nghiện và gia đình của họ. Như vậy, bằng những kiến thức, kỹ năng và
phương pháp, nhân viên công tác xã hội đã trợ giúp cá nhân cho người sau cai
nghiện phục hồi các chức năng xã hội mà họ bị suy giảm. Nhân viên công tác
xã hội còn có vai trò vận động nguồn lực từ các doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tìm kiếm việc làm.
Nhân viên công tác xã hội đề xuất với các doanh nghiệp tư nhân:
54
Hỗ trợ nguồn vốn xây dựng quỹ hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa
nhập cộng đồng.
Hỗ trợ về việc làm cho lao động phổ thông cho người sau cai nghiện,
tạo cơ hội cho người sau cai nghiện được học nghề và tham gia làm
việc tại cơ sở.
Địa bàn huyện Mỹ Đức là thuộc địa phận của Hà Tây cũ. Từ tháng
1/2008 đã sát nhập vào Hà Nội, nên ngày càng phát triển, trên địa bàn huyện
đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân. Vai trò của nhân viên công tác xã hội là
kết nối để tìm kiếm sự trợ giúp đó cho những người sau cai nghiện.
Một nam cán bộ là nhân viên công tác xã hội ở Đốc Tín cho biết:
"Khi biết anh A cai nghiện trở về , mẹ già, con nhỏ, thu nhập gia
đình chủ yếu dựa vào chăn nuôi lợn của vợ. Năm 2014 đàn lợn bị dịch chết
hết khiến gia đình anh ấy mất cả vốn, chúng tôi đã liên hệ với doanh nghiệp
may "Thắng Lợi" xin cho anh vào làm, giờ anh An không những có thu nhập
ổn định mà còn có chút ít vốn"
Trên thực tế, rất nhiều người sau cai nghiện đã được nhân viên công
tác xã hội liên hệ, giúp có việc làm tại các cơ quan, doanh nghiệp tại địa
phương. Chính vì lẽ đó mà nhân viên công tác xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc kết nối người sau cai nghiện với các nguồn lực cần thiết để
họ có thể hòa nhập cộng đồng một cách nhanh chóng và hiệu quả.
”Trên công ty may Đại Nghĩa đang tuyển lao động phổ thông, anh
mới nộp hồ sơ và đi làm được một tuần nay, đi làm cho khuây khỏa em ạ”
(PVS Người sau cai nghiện)
Quá trình kết nối của nhân viên công tác xã hội cho người sau cai
nghiện với cộng đồng là điều hết sức ý nghĩa và nên làm. Nếu như người sau
cai nghiện được hỗ trợ từ phía cộng đồng thì họ sẽ ngày càng tự tin trong
giao tiếp hơn. Giúp họ quên đi quá khứ buồn và phục hồi chức năng xã hội
của mình.
55
Bên cạnh việc kết nối các nguồn lực từ phía cộng đồng. Nhân viên
công tác xã hội còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình kết nối nguồn lực
ngay trong gia đình của người sau cai nghiện ma túy. Gia đình đóng vai trò là
chỗ dựa tinh thần giúp người sau cai nghiện ổn định tâm lý, tự tin tiếp cận các
dịch vụ việc làm. Do vậy, nhân viên công tác xã hội cần phải phát huy được
nguồn lực này để giúp người sau cai nghiện có động lực để phấn đấu tìm việc
làm không chỉ vì chính bản thân họ mà còn vì cả gia đình của họ nữa.
2.4.3. Vai trò là người tư vấn
Vai trò tư vấn của nhân viên công tác xã hội được thể hiện qua việc tư
vấn cho thân chủ chưa có kỹ năng tái hòa nhập cộng đồng sau một thời gian
dài cai nghiện tại cộng đồng. Nhân viên công tác xã hội tư vấn về các dịch vụ
hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy, cách tự chăm sóc sức khỏe của mình đồng
thời các kỹ năng hòa nhập cộng đồng, hướng dẫn người sau cai nghiện các kỹ
năng để có thể lựa chọn cho mình một công việc phù hợp. Bên cạnh đó, với
những người có kiến thức thì nhân viên công tác xã hội hỗ trợ và tư vấn thêm
cho họ về mặt nhận thức, sức khỏe để họ kiếm việc và duy trì công việc của
mình một cách lâu dài, quên đi tâm lý buồn chán và tự ti để rồi từ đó có thể
tạo cho mình tâm lý tự tin hòa nhập với cộng đồng. Nhân viên công tác xã hội
cần tư vấn, tạo động lực cho người sau cai nghiện có tâm lý rụt rè ngại đối
diện với cộng đồng hiểu rằng, không ai có thể giúp họ tốt hơn bản thân họ tự
mình đối mặt và vượt qua thử thách do chính mình tạo nên.
Những người nghiện ma túy đã mất một thời gian dài chìm ngập ma túy
và đi cai tại trung tâm cai nghiện. Sẽ rất khó khăn để trở lại hòa nhập với cộng
đồng, tìm kiếm việc làm, tìm kiếm các dịch vụ hỗ trợ người sau cai nghiện…
Bản thân thân chủ luôn mang trong mình sự mặc cảm, thiếu tự tin vì bị bạn bè
xa lánh, cộng đồng kỳ thị; tâm lý chán nản. Đây chính là vấn đề cần giải
quyết của nhân viên công tác xã hội với vai trò là người tư vấn cần phải khơi
dậy, đánh thức, thắp lên sự tự tin của họ vào chính bản thân họ.
56
Vai trò của người tư vấn còn thể hiện qua việc nhân viên công tác xã
hội tham gia tư vấn cho gia đình, bạn bè của người sau cai nghiện về những
nhu cầu, mong muốn của họ để gia đình, bạn bè có thể hiểu rõ và có những
biện pháp hỗ trợ người sau cai nghiện thực hiện được những nhu cầu, mong
muốn đó của họ để rồi từ đó có những biện pháp hỗ trợ kịp thời, thỏa mãn
những mong muốn của thân chủ. Một thực tế cho thấy rằng, người sau cai
nghiện không được nhiều người tin tưởng ngay cả những người thân của họ.
Vì vậy, nhân viên công tác xã hội cần tư vấn cho gia đình, bạn bè về những sự
nỗ lực, phấn đấu của người sau cai nghiện với mong muốn hòa nhập dựa vào
cộng đồng và phòng chống tái nghiện đồng thời giúp gia đình đưa những hỗ
trợ cần thiết tạo điều kiện cho người sau cai nghiện quên đi nỗi ám ảnh mang
tên “Nàng Tiên Nâu”.
Là người cung cấp kiến thức kỹ năng liên quan tới vấn đề họ cần giải
quyết, nâng cao năng lực cho cá nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng qua tập
huấn, giáo dục cộng đồng để họ có hiểu biết, tự tin và tự mình nhìn nhận vấn
đề đánh giá vấn đề phân tích và tìm kiếm nguồn lực cho vấn đề cần giải quyết.
2.4.4. Vai trò là người giáo dục
Vai trò giáo dục trong công tác xã hội, nhân viên công tác xã hội có
nhiệm chính là truyền đạt và phổ biến thông tin, tri thức và phát triển các kỹ
năng được xem là có vai trò như một giáo viên. Vai trò này có thể hoặc không
thể thực hiện theo một tình huống sư phạm chính thức. Để trở thành người
giáo dục hiệu quả, nhân viên công tác xã hội đầu tiên phải có kiến thức
chuyên môn và đặc biệt là kiến thức hỗ trợ từng nhóm đối tượng cụ thể. Thêm
vào đó, nhân viên công tác xã hội phải là người giao tiếp để thông tin được
truyền tải rõ ràng và dễ hiểu với khách hàng hay hệ thống vĩ mô.
Nhân viên công tác xã hội với tư cách là người giáo dục không chỉ giáo
dục cho riêng nhóm đối tượng mà còn có vai trò giáo dục đối với cả gia đình
và cộng đồng xung quanh người sau cai nghiện ma túy. Người sau cai nghiện
57
khi trở về sẽ gặp nhiều cản trở trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Nhân viên
công tác xã hội với tư cách là người giáo dục cần hướng tới giáo dục người
dân tại cộng đồng mà người sau cai nghiện sinh sống để họ giảm kỳ thị, tham
gia vào quá trình giúp đỡ người sau cai nghiện ổn định cuộc sống. Sự kỳ thị
của cộng đồng có thể đẩy những người sau cai nghiện trở lại con đường cũ.
Chính vì thế vai trò giáo dục với cộng đồng là rất cần thiết.
Một trong những mục tiêu giáo dục của nhân viên công tác xã hội là hỗ
trợ giúp người sau cai nghiện ma túy có thêm kiến thức, kỹ năng và hình
thành những thái độ, hành vi mới để họ tự tin trong cuộc sống. Tùy thuộc vào
những tình huống cụ thể mà nhân viên công tác xã hội có những hoạt động
hay cung cấp cho người sau cai nghiện những thông tin phù hợp như những
kiến thức về pháp luật; cách phòng chống tái nghiện; các thông tin về việc
làm, học nghề; phòng ngừa bệnh tật hay giáo dục các kỹ năng sống, giá trị
sống cơ bản… để họ tự tin tiếp cận các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm và
tham gia tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp. Các hình thức giáo
dục cũng được nhân viên công tác xã hội triển khai một cách đa dạng như
tham vấn cá nhân, tổ chức sinh hoạt, tọa đàm nhóm hay cung cấp tài liệu…
Giáo dục cho người sau cai nghiện về thái độ đối với cuộc sống hiện tại và
trách nhiệm, vai trò của họ đối với cộng đồng nhằm tạo nên sợi dây tương tác
bền chặt, phòng ngừa tái nghiện.
Mặc dù, nghiện ma túy là một hành động đáng lên án nhưng chúng ta
cần phải nhìn nhận rằng hiện có rất nhiều người sau cai nghiện ma túy trở về
và vượt qua tất cả, sống khỏe, sống có ích và tích cực tham gia các hoạt động
chung của cộng đồng và xã hội qua đó làm thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ
của xã hội với người nghiện ma túy.
Tập trung giải thích cho người dân hiểu được các tác hại của sự phân
biệt kỳ thị và phân biệt đối xử với người nghiện và gia đình họ, nhấn mạnh
đến các tác hại đối với cộng đồng và sự phát triển kinh tế xã hội và làm cho
người nghiện tiêu cực dẫn đến tái nghiện nhanh chóng.
58
Nhân viên công tác xã hội cần giáo dục về thái độ, cách nhìn nhận của
các thành phần khác nhau khi giúp đỡ tạo việc làm cho người sau cai nghiện.
Không tính toán về lợi ích kinh tế trước mắt khi thuê mướn hợp đồng lao
động mà còn phải xóa bỏ mặc cảm và nâng đỡ, gần gũi, kèm cặp đối tượng
trong công việc, tạo môi trường phù hợp để quản lý , hỗ trợ họ cách ly môi
trường có tệ nạn xã hội, khuyến khích họ làm việc.
2.5. Một số nhân tố ảnh hƣởng vai trò của nhân viên công tác xã hội
Phần lớn các cán bộ đã được đào tạo bài bản nhưng chưa được chuyên
sâu, đội ngũ cán bộ trẻ, nhanh nhẹn năng động tiếp thu nhanh song vẫn chưa
có kinh nghiệm thực tiễn nên việc làm chính sách với những người sau cai
nghiện tại cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn. Cần phải có nhiều kiến thức và
tập huấn chuyên sâu.
Các cán bộ công tác xã hội là nữ giới họ hiện gặp nhiều khó khăn trong
việc hỗ trợ người sau cai nghiện vì người nghiện chủ yếu là nam giới nên họ
ngại tiếp xúc với nữ giới và người sau cai nghiện khó chia sẻ với các cán bộ
công tác xã hội là nữ giới.
Để việc thực thi chính sách đạt kết quả cao, cán bộ xã hội phải là người
giữ vai trò nòng cốt chính vì thế cần phải nâng cao vai trò của cán bộ làm
công tác cho người sau cai nghiện ma túy; xây dựng lực lượng tuyên truyền
cơ sở có kỹ năng, kinh nghiệm về hỗ trợ để vận động và hướng dẫn người dân
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Để làm được điều
đó thì cán bộ xã hội phải thường xuyên trau dồi kiến thức cũng như kĩ năng
chuyên môn nghiệp vụ. Sử dụng những kiến thức mới áp dụng cho đối tượng
của công tác xã hội.
Chính sách xã hội phải gắn liền với khả năng xây dựng và triển khai
các dịch vụ xã hội. Việc chuyển các mô hình chính sách từ trợ cấp về mặt tài
chính sang các mô hình đào tạo nghề, đào tạo kỹ năng sống, tổ chức các dịch
vụ nâng cao khả năng sống độc lập của người sau cai nghiện là hết sức cần
59
thiết. Đồng thời, tiếng nói của người sau cai nghiện cần được thể hiện rõ trong
tiến trình xây dựng luật và hệ thống chính sách cho chính người sau cai
nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Các hoạt động nghiên cứu và thực hành về
công tác xã hội cũng cần thêm chức năng và nhiệm vụ đóng góp vào việc trợ
giúp người sau cai nghiện trong các chính sách xã hội và chương trình xã hội.
2.6. Mô tả một trƣờng hợp cụ thể
Thân chủ: Đỗ Thế S. Sinh năm: 1974.
Quê quán: Đốc Tín – Mỹ Đức – Hà Nội
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Thời gian cai nghiện tại trung tâm: Từ 9/2009 đến tháng 9/2013
Thời gian trở về cộng đồng từ 9/2013 đến nay.
Công việc hiện tại: thợ cắt tóc
Hoàn cảnh gia đình:
Có vợ và một con gái 7 tuổi. Đang nuôi thêm mẹ già 74 tuổi. Hai vợ
chồng đều làm ruộng. Vợ có một cửa hàng tạp hóa nhưng chỉ hoạt động vào
ba tháng xuân hội của Lễ Hội Chùa Hương. Hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do
trong suốt thời gian nghiện ma túy thân chủ không tham gia sản xuất và lao
động mà thay vào đó là bán hết đồ đạc trong gia đình để hút, chích.
Hiện tại S đã tái hòa nhập cộng đồng được hơn 2 năm và giờ làm thợ
cắt tóc tại địa phương. Quán cắt tóc của thân chủ khá đông khách bởi thân chủ
cắt tóc rất đẹp, rẻ và khéo mồm nên mọi người quý. Thu nhập bình quân một
ngày khoảng 70.000 đồng.
Những việc cộng đồng đã giúp thân chủ:
Về phía gia đình:
Mẹ, vợ và chị gái luôn hỗ trợ đắc lực cho thân chủ. Trong suốt thời
gian thân chủ đi cai nghiện tại trung tâm. Vợ thân chủ buôn bán và tiết kiệm
được một khoản trợ giúp thân chủ về mặt vật chất trong khoảng thời gian thân
chủ mới trở về cộng đồng không làm được gì ra tiền và hỗ trợ vốn ban đầu để
60
mở quán cắt tóc. Chi phí mua kéo, gương, lược… là 5 triệu đồng. Quán cắt
tóc nam, xơ xài và đơn giản nên chi phí thấp, bên cạnh đó còn thường xuyên
động viên tinh thần cho thân chủ
Vợ anh S cho biết: “Từ ngày anh về, chị từ nhà bà ngoại dưới Yến Vỹ
mang con Ánh – con gái của anh chị về đây cùng với bố cho vui cửa vui nhà.
Đợt trước anh ấy nghiện, bà nội cũng phải ra Hà Nội ở với chị gái giờ anh ấy
về chị đón bà về ở cùng cho đông vui và ấm cúng em ạ, anh ấy cắt tóc túc tắc
vậy thôi chứ chị vẫn phải đi làm thuê thêm ai có việc gì bảo chị là chị làm. Đỡ
đần chồng chứ một mình trông vào anh ấy thì cũng không đủ, chỉ cần anh ấy
không nghiện nữa thì chị vui lắm. Ăn rau, ăn cháo chị cũng thấy vui rồi em ạ”
Mẹ đẻ thân chủ cho biết: “Thấy con trai về bác từ Hà Nội về ngay cùng
con trai và con dâu cho tình cảm, thằng S nó thế thôi chứ lúc nó không nghiện
nó ngọt ngào với bác lắm. Mình là bố là mẹ, phải gột cho con cháu ạ. Bác về
đây trông con Ánh đỡ vợ chồng nó cho chúng nó đi làm. Già thì làm việc già.
Một người già bằng ba người trẻ cháu ạ”
“Về nhà có mẹ, có vợ và con anh vui lắm. Những ngày tháng trong tù
với anh nó quá khủng khiếp. Anh đã thề với bản thân sẽ tu chí không để mẹ và
người thân khổ em ạ” Anh S cho biết.
Về phía chính quyền địa phương:
Một cán bộ làm công tác xã hội tại xã Đốc Tín cho biết: “Chúng tôi
không tìm việc làm cho S, do anh ấy khéo tay nên tự mở nghề cắt tóc. Ngày
trước chú ấy chưa nghiện thì cũng mở quán, giờ mở quán cũng tốt có thêm
thu nhâp.Về phía Ủy ban nhân dân và chính quyền địa phương vừa rồi chúng
tôi đã hỗ trợ anh ấy và những người sau cai nghiện trwor về là 1 triệu đồng
để gọi là có ít vốn ban đầu làm ăn. Việc anh ấy mở quán cắt tóc chúng tôi
cũng rất khuyến khích và tạo điều kiện trợ giúp anh ấy để anh ấy yên tâm
kiêm sống”.
61
Công an xã Đốc Tín cho biết: “Anh S về địa phương thuộc đối tượng
quản lý của chúng tôi, tôi thường xuyên ghé qua nhà hỏi han về tình hình của
anh ấy như thế nào đồng thời động viên anh ấy làm ăn lương thiện đó vừa là
trách nhiệm mà chúng tôi phải làm, vừa là tình làng nghĩa xóm với nhau”.
“Anh được các cán bộ địa phương quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ,
trong họ ngoài làng cả mà” Anh S cho biết.
Về phía bạn bè, hàng xóm của thân chủ:
Anh H. bạn cùng làng, cùng cấp với anh S cho biết: “Chúng tôi không
bao giờ có ý xa lánh hay coi thường S. Mỗi người có một số phận riêng nên
không nên đem ra phán xét. Riêng cá nhân tôi đã là bạn thì mãi mãi là bạn.
Họp lớp hay có vụ gì an hem vẫn gọi nhau đi uống rượu, giao lưu. Tình cảm
mới đáng trân trọng”
Chú K hàng xóm của anh S cho biết: “Công việc của làng xóm chú S
tham gia hết, chúng tôi cũng rủ chú ấy tham gia cùng cho vui. Quá khứ chú
ấy nghiện nhưng hiện giờ chú ấy rất quan tâm và lễ phép với mọi người. Nhìn
chung chưa có ảnh hưởng gì đến hàng xóm đâu”.
Trạm trưởng trạm y tế: “Chúng tôi chưa có kế hoạch hỗ trợ riêng cho
nhóm đối tượng sau cai nghiện ma túy. Tuy nhiên, nếu bất cứ công dân nào
có nhu cầu đến khám chữa bệnh chúng tôi đều nhiệt tình khám và tư vấn”
Thông qua một trường hợp cụ thể có thể thấy được công tác hỗ trợ
người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng tại địa phương.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, chúng ta có thể thấy có rất nhiều yếu tố tác động tới quá trình
tái hòa nhập dựa vào cộng đồng tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – huyện
Mỹ Đức – Hà Nội trong đó có cả yếu tố thuận lợi và rào cản. Từ việc làm rõ
và phân tích vấn đề đó. Chúng ta sẽ đưa ra được những giải pháp hỗ trợ
người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng một cách hiệu quả nhất.
62
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
TÁI HÒA NHẬP DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
3.1. Giải pháp chung
Cần phải nâng cao trình độ học vấn của người sau cai nghiện ma túy;
Muốn vậy cần tổ chức học văn hóa cho người sau cai nghiện ma túy đang cai
nghiện tại các cơ sở tại địa phương. Đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và việc làm
chuyên sâu hơn trong những lĩnh vực mà xã hội yêu cầu.
Đào tạo nghề, tìm việc làm thích hợp cho người sau cai nghiện ma túy
cũng là mục tiêu quan trọng cần hướng tới trong quá trình tái hòa nhập cộng
đồng của người sau cai nghiện ma túy. Để tìm được việc làm, trước hết cần
phải đào tạo nghề. Với người nghiện ma túy, số được đào tạo nghề trước khi
nghiện không nhiều. Do vậy, đào tạo nghề trong quá trình cai nghiện tập trung
có vai trò quan trọng. Cần đào tạo những nghề mà xã hội đang cần như may
mặc, làm hàng thủ công, rèn, mộc, điện gia dụng... Cần đặc biệt chú ý đào tạo
nghề cho người sau cai nghiện ma túy hướng vào những tiêu chí như: đơn
giản, ngắn hạn, thu nhập vừa phải, phù hợp với sức khỏe, với học vấn dễ tìm
kiếm việc lam khi người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Cần đẩy mạnh giao tiếp xã hội giữa người sau cai nghiện với gia đình,
cộng đồg và hệ thống chính trị, ít nhiều bị suy giảm. Chính vì thế để người sau
cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng tốt cần phải tạo môi trường xã hội thuận lợi
cho họ. Trước hết cần kết hợp với gia đình và cộng đồng động viên, quan tâm
hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy. Nhân viên công tác xã hội có vai trò kết nối
các nguồn lực cần thiết để trợ giúp người sau cai nghiện ma túy.
Chống tâm lý kỳ thị đối với người sau cai nghiện ma túy tại cộng đồng
nhất là người nghiện đẫ đi cai thường có tâm lý tự ti, mặc cảm, xa lánh cộng
đồng. Do vậy, tìm biện pháp khắc phục tâm lý này cũng là điều kiện để giúp
đỡ họ tự tin hơn. Ở đây, để giúp đỡ, động viên, thăm hỏi, họ hàng, bạn bè
63
thân, cộng đồng, hàng xóm kể cả bạn nghiện đã cải tạo tốt, cần tăng cường
các cuộc tiếp xúc, giúp đỡ trong những ngày đầu mới về để động viên, giúp
đỡ hiểu thêm tâm tư, nguyện vọng tạo điều kiện hỗ trợ, giải quyết việc làm
cho họ. Có thể thành lập nhóm đồng đẳng để họ thường xuyên trao đổi, giúp
đỡ động viên nhau cùng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Tăng cường hỗ trợ các chính sách xã hội về y tế nhằm chăm sóc sức
khỏe cho người sau cai nghiện ma túy để đảm bảo sức khỏe để làm việc.
Để hỗ trợ cho người sau cai nghiện ma túy cần phải huy động sức mạnh
tổng hợp từ phía cộng đồng, các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội, các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư, các hoạt động xã hội.
Bên cạnh đó công tác hỗ trợ người sau cai nghiện luôn phải đi liền với sự
quản lý tốt an ninh trật tự, cắt nguồn cung chất gây nghiện. Công tác hỗ trợ
sau cai nghiện không phải là công tác của một ngành hoặc của từng địa
phương riêng lẻ, nó chỉ được thực hiện tốt khi huy động được sự tham gia của
toàn hệ thống chính trị và các nguồn lực của cộng đồng. Phải xem đây là một
trong những tiêu chí quan trọng của cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư. Phải tạo ra được sự kết hợp đồng bộ trong mối quan hệ
giữa các ngành chức năng, cấp ủy, chính quyền địa phương.
Hơn nữa bản chất của công tác hỗ trợ người sau cai nghiện trước hết là
công tác phát hiện, bù đắp và điều chỉnh những khiếm khuyết về đạo đức, lối
sống cho người nghiện. Nếu đạt được một định chuẩn tốt về đạo đức và giá trị
văn hóa, con người sẽ không tìm đến các chất gây nghiện và khi được phục
hồi các định chuẩn này, con người sẽ dễ dàng hơn trong việc rời xa các chất
gây nghiện. Các giải pháp y tế, nghề nghiệp, việc làm là các yếu tố cần chứ
chưa phải là điều kiện đủ. Có nhận thức được như thế chúng ta mới có thể xác
định đúng hướng về giải pháp trọng tâm cho cộng đồng và cho những người
chuyên trách làm công tác cai nghiện.
64
Trong công tác quản lý sau cai nghiện tuyệt đối không tách rời nỗ lực
của đội ngũ cán bộ viên chức chuyên nghiệp với sự nỗ lực của gia đình đối
tượng. Đối tượng đã cố gắng để đoạn tuyệt với quá khứ nghiện ngập của
mình, gia đình cũng cần phải điều chỉnh môi trường sống, thường xuyên gần
gũi, động viên người nghiện trong khi cai và phải học hỏi kỹ năng hỗ trợ
người nghiện sau cai. Nếu nhân tố này không đạt hiệu quả như mong muốn
thì quá trình điều trị duy trì sau chữa bệnh tập trung sẽ rất khó thành công.
Kết quả điều trị tại Trung tâm sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa gì nếu
không có sự hỗ trợ của cộng đồng sau khi người nghiện trở về từ Trung tâm.
Cần phải hiểu khái niệm “hỗ trợ” đúng với ý nghĩa tích cực của nó. Hỗ trợ
không phải chỉ là quản lý trật tự an ninh, mà là sẵn sàng cảm thông, chia sẻ;
sẵn sàng xóa bỏ mặc cảm dị biệt; sẵn sàng tạo cơ hội việc làm và điều kiện
thăng tiến trong công việc - thậm chí đôi lúc còn phải ưu tiên hơn so với các
đối tượng khác. Có như thế mới tạo được lòng tin và góp phần tái tạo sự tự tin
trong bản thân nhóm đối tượng cá biệt này.
Đối với gia đình người nghiện
Cung cấp kiến thức vể ma túy, cách thức chăm sóc, hỗ trợ người nghiện
ma túy
Tham vấn gia đình có người nghiện để họ vượt qua khó khăn và cùng
hợp tác hỗ trợ tích cực người nghiện trước, trong và sau khi cai nghiện.
Tập huấn những kỹ năng chăm sóc sức khỏe, tâm lý, tình cảm cho thành
viên gia đình để họ cùng tham gia vào quá trình giúp đỡ đối tượng
Tìm kiếm, kết nối gia đình với các nguồn lực bên trong và bên ngoài
giúp gia đình ổn định, yên tâm giúp đỡ người nghiện. Ví dụ như trong nhiều
trường hợp, gia đình người nghiện ma túy có khó khăn về kinh tế, không thể
hỗ trợ được người nghiện, nhân viên xã hội có thể giúp họ kết nối với các
nguồn lực vay vốn, học cách kinh doanh, sản xuất nâng cao đời sống gia đình
để từ đó phần nào yên tâm về kinh tế và hợp tác hỗ trợ đối tượng.
65
Giúp gia đình chuẩn bị tâm thế đón nhận và hỗ trợ đối tượng hồi gia, tái
hòa nhập cộng đồng.
Đối với cộng đồng
Thực hiện các chương trình giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của mọi
người trong cộng đồng, tại các trường học, công sở về vấn đề ma tuý và
những hệ luỵ của ma tuý đối với người nghiện và người xung quanh;
Hỗ trợ, vận động cộng đồng hiểu biết về vấn đề sử dụng các chất gây
nghiện, không có hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với người nghiện.
Đối với xã hội
Thực hiện vận động chính sách cho người nghiện nhằm đáp ứng nhu cầu
hỗ trợ của đối tượng và gia đình
Góp phần xây dựng các chính sách xã hội và pháp luật liên quan đến hỗ
trợ người nghiện và gia đình.
3.2. Giải pháp cụ thể.
Học nghề gắn với tạo việc làm
Người sau cai nghiện ma túy, trước khi về với cộng đồng họ đã gắn bó
một thời gian dài cai nghiện tập trung tại trung tâm. Họ cũng được học nhiều
nghề khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế, những nghề mà nhóm người sau cai
nghiện được học lại không phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
tại địa phương. Xuất phát tình hình kinh tế, xã hội, địa bàn huyện. Cần đẩy
mạnh công tác định hướng nghề nghiệp cho người sau cai nghiện ma túy.
Người sau cai nghiện ngoài việc tự ti với cộng đồng, tay nghề chưa có
và sức khỏe yếu nhưng họ ý thức được sự cần thiết phải lao động rất cao.
Hiện nay, tại các doanh nghiệp tư nhân như may, làm nghề thủ công,
làm tăm hương đây chính là những nguồn lực có thể hỗ trợ người sau cai
nghiện có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các doanh nghiệp tư nhân này. Việc
đào tạo người sau cai nghiện thông qua các khóa học ngắn hạn để họ quen tay
rồi nhận họ làm việc tại cơ sở luôn. Điều đó góp phần cho người sau cai
66
nghiện thấy yên tâm học hành vì họ đã có việc làm ngay sau hoàn thành khóa
học, tuy nhiên hình thức này còn nhỏ lẻ, thiếu đầu ra cho sản phẩm hoặc sản
phẩm làm thành phẩm giá rẻ. Chính quyền cần phối hợp tạo điều kiện cho các
cơ sở về mặt vốn và kỹ thuật để họ có thể tiếp tục nâng cao và phát triển mô
hình đào tạo nghề cho người lao động nói chung và người sau cai nghiện tái
hòa nhập cộng đồng nói riêng.
Mô hình đào tạo nghề ngắn hạn cho người sau cai nghiện do các ban
ngành đoàn thể cùng phối hợp thực hiện và tổ chức. Năm 2014 toàn huyện có
15 xã được đào tạo nghề ngắn hạn. Tuy nhiên, số lượng người sau cai nghiện
tham gia học nghề chưa đạt được mức 70%. Thời gian tham gia khóa học này
mất khoảng 3 đến 5 ngày. Mục đích của việc học nghề này nhằm đáp ứng nhu
cầu thực tế việc làm tại địa phương và bước đầu cũng có những kết quả đáng
ghi nhận. Người sau cai nghiện học làm tăm hương, làm thủ công tại các cơ
sở sản xuất tư nhân. Đây là các nghề dễ học và sau khi kết thúc khóa học, họ
được nhận vào làm việc cho cơ sở luôn. Bước đầu đảm bảo nguồn thu nhập
tài chính của người sau cai nghiện. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao hơn
nữa của mô hình này cần chú ý đến khâu tổ chức, nội dung chương trình và
đối tượng hướng tới.
Trước khi tiến hành tổ chức lớp học nghề các ban ngành cần phối hợp
với phòng Lao Động Thương Binh và Xã Hội huyện, công chức văn hóa xã
hội để rà soát, theo dõi, động viên người sau cai nghiện trên địa bàn xã. Việc
thường xuyên thăm hỏi và động viên cũng làm cho người sau cai nghiện tự tin
hòa nhập cộng đồng.
Trong thời gian học nghề, cần hỗ trợ kinh phí đi lại, ăn uống cho người
sau cai nghiện, tạo tâm lý thoải mái khuyến khích họ học nghề. Bỏ qua rào
cản tâm lý mặc cảm tự ti của người sau cai.
Xây dựng khung chương trình đào tạo nghề phải sát với tình hình thực
tế, phù hợp với trình độ và khả năng của người sau cai nghiện, các nghề được
67
đào tạo phải có tính ứng dụng thực tế cao mới thu hút được người học. Bên
cạnh đó, nội dung học nghề phải phù hợp thời gian.
Đối với người sau cai nghiện làm việc tại các cơ sở tư nhân phải
thường xuyên trau dồi và tu dưỡng đạo đức. Đồng thời, các cơ sở tạo điều
kiện cho họ được tham gia các lớp tập huấn kỹ năng đào tạo nghề để họ có
thêm kinh nghiệm và kỹ năng và điều quan trọng nhất chính là việc giải quyết
việc làm và tìm đầu ra cho sản phẩm mà họ làm ra. Đảm bảo thu nhập cho họ.
Về giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói
và người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó. Hay nói cách khác đó là
cách ứng xử, cử chỉ, nói năng... như thế nào để mọi người xung quanh chấp
nhận, để thích ứng xử xã hội, hoàn cảnh và thể hiện phẩm cách, trình độ văn
hóa của mỗi con người. Phần lớn người sau cai nghiện ngại giao tiếp, môi
trường xã hội đã dần bị thu hẹp. Bởi có một tâm lý xấu hổ vì quá khứ nghiện
ngập của mình nên người sau cai nghiện dễ bị mặc cảm và tự ái, muốn sống
xa lánh xã hội.
Tại 2 xã Đốc Tín và Hương Sơn – Mỹ Đức – Hà Nội đã có đội xã hội
tự nguyện nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy
chính quyền và địa phương cần hỗ trợ tổ chức này ngày càng phát triển nhằm
làm nhiều việc có ý nghĩa hơn cho người sau cai nghiện ma túy.
Những người sau cai nghiện khi giao tiếp ngoài cộng đồng ít nhiều
cũng phải nhận những ánh mắt xét nét nên bản thân họ phải ý thức được bản
thân nên trang bị những gì cần cho mình thông qua việc học hỏi mọi người
xung quanh.
Về y tế
Hiện tại, công tác khám chữa bệnh cho người sau cai nghiện ma túy tại
cộng đồng chưa thực sự được quan tâm và chú trọng. Chính vì thế cần đẩy
mạnh công tác thăm khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tại địa phương.
68
Khuyến khích người sau cai nghiện đi khám chữa bệnh định kỳ nhằm phát
hiện ra sớm bệnh của bản thân mình. Các cơ sở y tế cần phối hợp với các ban
ngành đoàn thể bên khối ủy ban nhân dân tích cực tuyên truyền, vận động và
cách tự chăm sóc bản thân mình.
Mục đích của công tác tăng cường hỗ trợ về y tế nhằm tăng khả năng của
người sau cai nghiện đảm bảo sức khỏe để tham gia vào công việc cũng như
hòa nhập cộng đồng.
Tiểu kết chương 3
Để nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
dựa vào cộng đồng cần phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, nâng cao hiệu
quả hoạt động, phòng chống ma túy của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và cộng đồng, bằng các biện pháp đồng bộ, thống nhất như:
hoàn thiện các văn bản pháp lý giúp đỡ họ ổn định cuộc sống. Ngoài ra, ủy
ban nhân dân tại địa bàn hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – Mỹ Đức – Hà Nội
cần có các biện pháp cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho ngwoif sau cai
nghiện không tái nghiện, hòa nhập cộng đồng; đổi mới công tác quản lý,
giáo dục giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy... cũng là việc cần làm một
cách đồng bộ, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước và các
tổ chức xã hội.
69
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Trong quá trình phân tích, tìm hiểu và đánh giá về vai trò của nhân viên
Công tác xã hội trong công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa
vào cộng đồng tôi đã nhận thấy rằng các cán bộ chính sách thực hiện khá tốt,
nhiệt tình, có kiến thức chuyên môn để hỗ trợ kịp thời về tinh thần cũng như
định hướng nghề nghiệp cho người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Giải quyết ổn định kinh tế cho đối tượng sau cai nghiện ma túy là mục
tiêu chung của toàn xã hội. Giải quyết tốt vấn đề này không chỉ làm ổn định
và làm giảm bớt tệ nạn ma túy còn tạo thêm được một lực lượng lao động có
ích cho toàn xã hội. Để làm được điều này, không chỉ đòi hỏi trách nhiệm của
Nhà nước mà còn là trách nhiệm của chính bản thân họ những người sau cai
nghiện ma túy. Những người đã từng mắc sai lầm và họ mong muốn được sửa
chữa lại những sai lầm đó, chính chúng ta, hãy tạo cơ hội cho họ, giúp họ
quay lại với chính mình không chỉ thực hiện bằng lời nói mà còn hành động.
Trên cơ sở làm rõ hệ thống các khái niệm, phạm trù tạo cơ sở cho việc
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các lý thuyết hệ thống, lý thuyết thay đổi
nhận thức hành vi...Luận văn đã làm rõ được những đặc trưng nghề nghiệp và
việc làm của người sau cai nghiện ma túy; những yếu tố ảnh hưởng đến nghề
nghiệp và việc làm của họ. Từ đây, đưa ra các giải pháp và khuyến nghị nhằm
mở rộng, tăng cường cơ hội tìm kiếm việc làm cho người sau cai giúp họ tái
hòa nhập cộng đồng tốt nhất và hiệu quả nhất.
Những phân tích ở trên cho thấy rằng:
Nghề nghiệp và việc làm của người sau cai nghiện là đa dạng và phong
phú, bao gồm: nghề làm nông nghiệp, làm công nhân, lao động tự do... Song
đa số người sau cai nghiện khá khó khăn trong tìm kiếm việc làm sau khi cai
nghiện, tái hòa nhập cộng đồng. Yếu tố tự ti, mặc cảm của người nghiện và
yếu tố kỳ thị, xa lánh của cộng đồng là những tác động chính tạo nên tình
70
trạng này. Những hành động sai trái trong quá khứ của người sau cai nghiện
khó có thể nhận được sự cảm thông từ phía cộng đồng nên khả năng tái hòa
nhập cộng đồng bị hạn chế. Đặc điểm cá nhân của người sau cai nghiện ảnh
hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm, đến sự tự tin trong giao tiếp cũng như
không chịu đến khám bệnh tại các cơ sở y tế của họ. Giả thuyết thứ nhất đã
được chứng minh.
Trong các yếu tố tác động đến quá trình tạo việc làm, tạo sự tự tin khi
giao tiếp cũng như được tạo điều kiện và chăm sóc sức khỏe cho người sau
cai nghiện thì vai trò của gia đình được khẳng định. Gia đình vừa hỗ trợ về
tinh thần và vật chất, định hướng cho việc chọn nghề, đào tạo nghề và tìm
kiếm việc làm, tự tin trong giao tiếp. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội cũng
đóng vai trò to lớn trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng
đồng. Về mặt y tế công tác chăm sóc sức khỏe đã được cải thiện tuy nhiên
nguồn y bác sĩ còn thiếu hụt, chưa có nhiều y bác sĩ có trình độ chuyên môn
cao, trang thiết bị y tế còn lạc hậu điều đó ảnh hưởng không nhỏ tớ chất lượng
khám chữa bệnh. Giả thuyết thứ hai: ” Sự trợ giúp của gia đình và chính
quyền đoàn thể xã hội ở địa phương là yếu tố quan trọng, quyết định khả
năng tái hòa nhập cộng đồng của thân chủ” chỉ kiểm chứng được một phần.
Sự hướng dẫn nhiệt tình và vai trò kết nối của người làm công tác xã hội
đã tạo điều kiện cho những người sau cai nghiện được tiếp cận với các dịch vụ
y tế, văn hóa, cũng như các hoạt động giao lưu một cách tốt nhất. Tạo điều kiện
cho phát triển sự nghiệp giáo dục đối với người sau cai nghiện bằng việc hỗ trợ
miễn giảm học phí, hỗ trợ dụng cụ học tập cho người sau cai nghiện có cơ hội
tham gia các khóa đào tạo nghề và được giới thiệu việc làm. Giả thuyết thứ ba
” Nhân viên công tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người sau
cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Vai trò đó thể hiện qua công tác
tham vấn, kết nối, vận động nguồn lực... nhằm tạo điều kiện cho nhóm đối
tượng nhanh chóng được hòa nhập cộng đồng” đã được chứng minh.
71
Để công tác hỗ trợ người sau cai nghiện được hiệu quả đem lại cuộc
sống tốt đẹp cho họ và gia đình cũng như cộng đồng thì cần nâng cao đội ngũ
nhân viên công tác xã hội tại các địa phương hơn nữa, phổ biến kiến thức về
công tác xã hội, phát triển cộng đồng, vận dụng những phương pháp và kĩ
năng của công tác xã hội vào quá trình công tác xã hội ở địa phương trong
gian đoạn hiện nay. Địa bàn cũng đang có các chương trình đào tạo cán bộ
nguồn để phục vụ lợi ích toàn dân.
Như vậy, công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào
cộng đồng tại hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – Mỹ Đức – Hà Nội đang đặt ra
khá nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đặc điểm nhân khẩu của họ, mạng lưới
quan hệ xã hội, những chính sách của hệ thống chính trị tác động đến khả
năng tái hòa nhập dựa vào cộng đồng của người sau cai nghiện ma túy đặt ra
nhiều vấn đề cần tiếp tục phải nghiên cứu. Trong đó, cần phải mở rộng đối
tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu sẽ cho kết quả nghiên cứu sâu sắc và
toàn diện hơn. Đó là cơ sở để xây dựng các giải pháp, khuyến nghị khả thi
hơn nhằm tăng cường mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm, mở rộng cơ hội
được giao lưu, học hỏi, được thăm khám chữa bệnh giúp người sau cai nghiện
tái hòa nhập cộng đồng nhanh chóng, hiệu quả hơn, góp phần phòng, chống
ma túy đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tiễn chỉ ra rằng, xã hội càng phát triển thì càng nhiều vấn đề xã hội
nổi lên đòi hỏi những biên pháp khắc phục. Sự xuất hiện và phát triển của nghề
Công tác xã hội là tất yếu khách quan, sẽ đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội
góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, bình đẳng, hạnh phúc cho mọi người.
72
KHUYẾN NGHỊ
Từ thực trạng của công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tá hòa nhập
cộng đồng trên địa bàn hai xã Đốc Tín và Hương Sơn – Mỹ Đức – Hà Nội,
luận văn có một số kiến nghị cụ thể như sau:
Khuyến nghị đối với Nhân viên công tác xã hội:
Người nhân viên công tác xã hội luôn là người tiên phong đi đầu
trong các nguồn lực và từ đó cũng là người có vai trò kết nối, phát triển.
Người nhân viên công tác xã hội phải có đạo đức nghề nghiệp và bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Làm việc với đối tượng sau cai nghiện, phải hiểu về họ.
Cần tự hoàn thiện chính bản thân mình trước hết cả về sức khỏe, tinh
thần và sự hiểu biết để công việc ngày được cải thiện và củng cố.
Hiện nay, nghề công tác xã hội tại Việt Nam chưa thực sự phát triển, do
đó cần tăng cường và phối hợp mở rộng mạng lưới công tác xã hội ở Việt Nam.
Đối với cán bộ làm công tác xã hội:
Cán bộ làm công tác xã hội là người đại diện bênh vực quyền lợi chính
đáng cho thân chủ là người sau cai nghiện nên vai trò của nhân viên xã hội
đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
dựa vào cộng đồng.
Người sau cai nghiện ma túy thuộc nhóm yếu thế nên các mối quan hệ
của họ đều bị hạn chế. Cán bộ làm công tác xã hội có thể giúp họ tiếp cận các
nguồn lực bên ngoài phát huy nội lực bên trong để họ trở nên mạnh mẽ hơn,
có khả năng sống độc lập và tham gia vào quá trình tái hòa nhập dựa vào cộng
đồng.
Công tác xã hội với người sau cai nghiện chính là đánh giá nhu cầu về
khía cạnh xã hội của đối tượng, hỗ trợ thân chủ tiếp cận các dịch vụ xã hội
phù hợp. Trong trường hợp cần thiết nhân viên xã hội cũng cần hỗ trợ tâm lý
cho đối tượng và gia đình họ.
73
Bên cạnh đó, công tác xã hội còn thúc đẩy môi trường xã hội, bao gồm:
chính sách, pháp luật, cộng đồng thân thiện giúp đỡ người sau cai nghiện hòa
nhập cộng đồng.
Nhân viên công tác xã hội, ngoài việc tham gia giải quyết các vấn đề xã
hội còn thực hiện các hoạt động như giáo dục phòng ngừa, tập huấn, cung cấp
kiến thức cho gia đình, người thân cách trợ giúp đối tượng trở nên chủ động,
như vậy họ sẽ tự tin vào cuộc sống và tránh tái nghiện. Đồng thời, nhân viên
xã hội còn tư vấn để chính quyền có những chính sách phù hợp nhằm ngăn
chặn các vấn đề xã hội khác. Thông qua việc cung cấp các dịch vụ xã hội như:
chăm sóc sức khỏe, cải thiện tình hình kinh tế gia đình, việc làm, cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ tâm lý tình cảm... Nhân viên công tác xã hội sẽ giúp người sau cai
nghiện ma túy có được cơ hội tiếp cận các dịch vụ để giải quyết các vấn đề
của bản thân, phát huy được những khả năng của mình, vượt qua khó khăn
đó, vươn lên tự lập trong cuộc sống. Bằng hoạt động giáo dục, cung cấp kiến
thức, kỹ năng giải quyết vấn đề cho cá nhân, gia đình và cộng đồng người sau
cai nghiện, đội ngũ này sẽ cung cấp cho người sau cai nghiện cơ hội tái hòa
nhập cộng đồng – là một biện pháp giúp họ nhanh phát triển nhân cách, tăng
cường giao lưu và học hỏi xã hội.
Cần điều chỉnh các chính sách phù hợp với người sau cai nghiện ma túy.
Cần thường xuyên mở các lớp tập huấn về chuyên ngành công tác xã
hội. Do công tác xã hội là một ngành khoa học đang trên đà phát triển và khá
mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, nhân viên công tác xã hội cần vận dụng linh
hoạt những kiến thức và kỹ năng cơ bản để tiếp cận đối tượng, lập kế hoạch
trợ giúp và giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy tái hòa nhập với cộng đồng một
cách bền vững. Cùng với đó, nhận thức về nghề công tác xã hội còn rất mới
mẻ, sự phát triển và đào tạo cán bộ, nhân viên trong lĩnh vực này còn chưa
được hình thành một cách đồng bộ. Mạng lưới nhân viên và tổ chức còn
mỏng và thiếu tính chuyên nghiệp.
74
Việc quan tâm, tạo nguồn nhân viên công tác xã hội cần chú trọng nhiều
hơn đến khía cạnh kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp. Công tác xã hội là một
ngành khoa học đang trên đà phát triển ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng trợ
giúp của công tác xã hội tương đối đa dạng, trong đó có người sau cai nghiện.
Người sau cai nghiện ma túy ở Việt Nam đa dạng về nghề nghiệp, trình độ và
lứa tuổi... Vì vậy, nhân viên công tác xã hội cần vận dụng linh hoạt những kiến
thức và kỹ năng cơ bản để tiếp cận đối tượng, lập kế hoạch trợ giúp và giúp đối
tượng sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập dựa vào cộng đồng.
Hỗ trợ về tài chính cho nhân viên công tác xã hội, tạo điều kiện cho họ
gắn bó lấy nghề công tác xã hội.
Quản lý nguồn vốn và thu hút đầu tư nhằm hõ trợ và phục vụ những đối
tượng yếu thế trong xã hội.
Xây dựng, củng cố và hoàn thiện chính sách giành cho mọi đối tượng.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc nhằm phục vụ toàn dân.
Đối với chính quyền địa phƣơng
Xác định công tác quản lý giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy là
nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. Trước hết phải quan
tâm giúp đỡ, thực hiện các biện pháp cứu trợ xã hội khi người sau cai nghiện
ma túy gặp khó khăn. Xây dựng và thực hiện quản lý sau cai nghiện, hỗ trợ tái
hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện.
Tăng cường các cuộc tiếp xúc, động viên, nhằm hiểu rõ hoàn cảnh gia
đình bản thân người nghiện để kịp thời vận dụng và thực hiện những chính
sách, chế độ cụ thể, giúp người sau cai nghiện vay vốn, đào tạo nghề, giải
quyết việc làm, tạo điều kiện để họ vượt qua những khó khăn gặp phải trong
cuộc sống và sinh hoạt.
Vận động gia đình, cộng đồng kiên trì và tận tâm tham gia giáo dục,
giúp đỡ người sau cai nghiện đồng thời coi đây là trách nhiệm của mỗi người
và của cả cộng đồng.
75
Giúp đỡ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng thông qua các thủ
tục về hồ sơ, lý lịch cần đươn giản, gọn nhẹ, tránh rườm rà, mất thời gian.
Huyện cần chỉ đạo các xã, thị trấn tổ chức điều tra, thống kê, rà soát lại
đời sống của từng đối tượng trên địa bàn để có biện pháp và hình thức chăm
sóc, giúp đỡ phù hợp. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” để tiếp tục dẩy mạnh phong trào nói
không với ma túy mại dâm.
Mỗi xã, thị trấn cần nhất thiết phải có cán bộ chuyên trách làm công tác
Xã hội, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với những cán bộ đó.
Cần tổ chức tuyên truyền sâu rộng nhằm phát động những phong trào
quần chúng rộng rãi, đặc biệt là ở cơ sở, phát huy sự sáng tạo của toàn Đảng,
toàn dân trong việc phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm trên địa bàn.
Đối với cán bộ làm công tác xã hội, địa phương cần:
Phát huy vai trò của người nhân viên công tác xã hội trong việc kết nối
và huy động các nguồn lực.
Có các chính sách hỗ trợ phù hợp với năng lực và trình độ của nhân
viên công tác xã hội.
Đối với các đoàn thể tổ chức chính trị xã hội
Đối với các đoàn thể chính trị xã hội như: Mặt trận Tổ Quốc, hội phụ
nữ, đoàn thanh niên, cộng tác viên xã hội… Cần chủ động tham gia cuộc vận
động „ Xây dựng các mô hình giúp tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai
nghiện ma túy” nhằm tập hợp, tổ chức, giáo dục hướng dẫn người nghiện,
người sau cai nghiện ma túy rèn luyện sức khỏe, từ bỏ ma túy, chọn nghề để
học và tìm kiếm việc làm.
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần phải cụ thể hóa
hơn nữa nhiệm vụ phòng, chống ma túy, thiết lập mối quan hệ giữa người
nghiện ma túy với gia đình họ và cộng đồng. Hàng tháng, hàng quý, hàng
năm phai cùng ban chỉ đạo phòng, chống ma túy, chống mại dâm, phòng
76
chống HIV/AIDS tuyên truyền, vận động , thực hiện phòng chống ma túy ở
cơ sở; thiết lập mối quan hệ chặt chẽ hơn với người nghiện ma túy và gia đình
họ. Thông qua đó mà giúp đỡ người nghiện ma túy tái hòa nhập thành công
vào cộng đồng. Đặc biệt, vai trò của người cao tuổi và những người có uy tín
trong cộng đồng cần được chú trọng và phát huy.
Đối với đối tƣợng và gia đình đối tƣợng
Gia đình là cái nôi chăm sóc, che trở cho mọi người. Ở gia đình, ngoài
việc củng cố mối quan hệ giữa người sau cai nghiện ma túy với cha, mẹ, anh
chị em ruột thịt, cần tạo điều kiện củng cố mối quan hệ vợ chồng và các con.
Đây là hạt nhân bền vững của gia đình. Những mối quan hệ này thường bị
lỏng lẻo, trục trặc, rạn nứt, hoặc đổ vỡ do những hành vi lệch chuẩn của người
nghiện ma túy. Do vậy, củng cố mối quan hệ này đang là yếu tố quan trọng
chính yếu để tăng cường ảnh hưởng của gia đình với người nghiện để họ an
tâm, quyết tâm cai nghiện, hoàn lương và tái hòa nhập cộng đồng.
Trước hết, gia đình, người thân và bạn bè cần quan tâm để nắm bắt
được tâm tư nguyện vọng của người nghiện xóa bỏ mặc cảm, xây dựng niềm
tin, giúp người nghiện dũng cảm vượt qua cám dỗ của ma túy. Đối với gia
đình có điều kiện phải biết đầu tư hợp lý nhằm hỗ trợ con em làm lại cuộc
sống. Đối với gia đình không có điều kiện, ít tài sản, cần phải huy động sức
mạnh tổng hợp của cả gia đình bạn bè giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy,
giúp họ có ý chí, nghị lực điều kiện kinh tế nhất định để đứng vững, vươn lên.
Đây là cách thức mà gia đình, người thân, họ hàng thể hiện tình thương, lòng
nhân ái của những người cùng huyết thống trong việc giúp người sau cai
nghiện ma túy tái hòa nhập tốt dựa vào cộng đồng.
Đối với người sau cai nghiện ma túy để có thể tái hòa nhập cộng đồng,
chống tái nghiện, nhận được sự trợ giúp của xã hội thì cần phải kiên quyết từ bỏ
ma túy, kiên trì cai nghiện và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định chung của
pháp luật và nhà nước. Tích cực tham gia các phong trào chung của cộng đồng,
77
các hoạt động xã hội khác như văn hóa – thể dục thể thao, qua đó giúp người sau
cai nghiện nâng cao sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tinh thần, khắc phục tình
trạng bi quan, tâm lý mặc cảm.
Xây dựng được lòng tin vào cộng đồng xã hội và tin vào bản thân là
điều rất quan trọng. Để làm được điều này, người sau cai nghiện cũng cần
phải có những hành vi đúng đắn, tuân thủ những giá trị chuẩn mực mà xã hội
đang tuân theo, tạo niềm tin vững chắc trong cộng đồng. Người sau cai nghiện
ma túy phải tăng cường quan hệ hai chiều và mọi người có cơ hội hiểu, thông
cảm cho quá khứ lỗi lầm của họ từ đó sẵn sàng giúp đỡ trong những điều kiện
và khả năng có thể.
Người sau cai nghiện ma túy nên tham gia các buổi sinh hoạt tập thể để
được chia sẻ, giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau giúp nhau trong cuộc sống.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Madanes, C.(1981), Strategic Family Therary, San Francisco: Jossey Bas
Inc.
2. Richardson MA, Newcomb MD, Myers HF, Coombs RH. (2002)
Pcyshocial predictors of recent drug use among Anglo and Hispanic
childern and adolescents. Journal of Child and Adolescent Substance
Abuse.
3. Feyerico, 1973
4. Mc Pheeters và Ryan trong cuốn sách A core of Competence for
Baccalauraeate Social welfare (1971 và Betty j Piccard 1988,
Introduction to Social work A primer, 4th Edition, the Dorsey Press,
Chicago.
5. Lê Tuấn Anh, (2003), Báo chí với vấn đề phòng chống ma túy trong
thanh thiếu niên, ĐHKHXNV&NV.
6. Chu Quốc Ân, (2007), Thông tin, giáo dục truyền thông thay đổi hành vi
phòng chống HIV/AIDS, dự án phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam,
Ngân hành thế giới.
7. Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng chính
phủ về cai nghiện và phục hồi.” Bộ lao động thương binh xã hội (2004).
8. Báo cáo về tình hình ma túy trên toàn thế giới do Ủy ban Quốc tế về
phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc (UNODC)
9. Phan Xuân Biên và Hồ Bá Thâm đồng chủ biên, (2004).
10. “Tâm lý giáo dục nhân cách người cai nghiện ma túy từ thực tế thành
phố Hồ Chí Minh” do tác
11. CARE (2001), Bộ công cụ và hướng dẫn công tác vận động.
12. Hoàng Bảo Châu, (2001), nghiện ma túy và cơ chế gây nghiện ma túy,
Kỷ yếu hội thảo khoa học về công tác cai nghiện và phục hồi cho người
cai nghiện ma túy Bộ LĐ-TB&XH, cục phòng chống tệ nạn xã hội.
79
13. Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
14. Nguyễn Thành Công, (2003), Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai, Hà Nội.
15. Cục phòng chống tệ nạn xã hội (2011), Truyền thông thay đổi hành vi
trong can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV – Tài liệu dành cho các học
viên trong các trung tâm giáo dục lao động xã hội.
16. Cục phòng chống tệ nạn xã hội Hà Nội, 2007: (Giới thiệu và hướng dẫn
áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả).
17. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ LĐ-TB&XH, Báo cáo tổng kết
công tác phòng chống ma túy 2012.
18. Nguyễn Tiến Dũng, (2011) “Phát triển Dạy nghề đáp ứng nhu cầu trong
giai đoạn mới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (số 4).
19. Đỗ Thị Bích Điềm, (2007), “Những giải pháp thực hiện việc ngăn chặn
tệ nạn mại dâm, ma túy trong thanh thiếu niên”.
20. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội, (2008),
“Tình trạng lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp – Một số biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn”
21. Phan Hồng Giang, (2012), "Vai trò của nhân viên Công tác xã hội với
người có HIV sử dụng ma túy".
22. Phan Thị Mai Hương, (2002), Luận án Tiến sỹ: Tìm hiểu đặc nhân cách,
hoàn cảnh xã hội của thanh niên nghiện ma túy và mối tương quan giữa
chúng.
23. Lê Đức Hiền (2003), Kinh nghiệm và mô hình tổ chức cai nghiện, dạy
nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện nước ngoài và
trong nước
80
24. Http://matuy.hoabinh.gov.vn/index.php?option=com_content&view=arti
cle&id=254:cac-mo-hinh-mi-nang-cao-hiu-qu-cong-tac-cai-nghin-
&catid=62:ubnd-cac-xa-th-trn&Itemid=78
25. Đặng Kim Khánh Ly và Dương Thị Phương, (2012), "Định hướng vai
trò của nhân viên Công tác xã hội trong bệnh viện ở Việt Nam hiện nay".
26. Nguyễn Thị Thái Lan (chủ biên), (2012), giáo trình công tác xã hội
nhóm, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
27. Luật phòng chống ma túy năm 2000.
28. Luật phòng, chống ma túy năm 2000 và sửa đổi năm 2008.
29. Tác giả Lê Hồng Minh (2010), “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho
thanh niên sau cai nghiện ở thành phố Hồ Chí Minh”
30. Bùi Thị Xuân Mai, Hoàng Huyền Trang, Romeoyap, (1996), Tài liệu
Tập huấn Hỗ trợ tâm lý xã hội cho những người dễ bị tổn thương, Tổ
chức quốc tế phục vụ Cộng đồng và Gia đình – Tổ chức Liên Hợp quốc
– Bộ LĐTBXH.
31. Nguyễn Văn Minh, (2001), “Các giải pháp tạo việc làm cho người
nghiện ma túy, người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi”. Đề tài
cấp Bộ năm 2011.
32. Phan Trọng Ngọ, (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý con người,
NXB Đại học Sư Phạm.
33. Mai Kim Thanh, (2010), Nhập môn Công tác xã hội, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
34. Lê Thế Tiệm, (1993), (Thực trạng tệ nạn xã hội ở Việt Nam, nhân cách
con người Việt Nam trước, trong và sau tệ nạn xã hội, kỷ yếu hội thảo
một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu ảnh hưởng của các tệ nạn
xã hội đến hình thành nhân cách con người Việt Nam, chương trình khoa
học công nghệ cấp Nhà Nước KX-07, đề tài K-07-11), Hà Nội, tr.35.
81
35. Nguyễn Tiệp, (2011), Giáo trình Chính sách xã hội, NXB Lao động –
Xã hội.
36. Nguyễn Thị Như Trang, Tập bài giảng về lý thuyết công tác xã hội.
37. Lưu Minh Trị, (2000), “Hiểm họa ma túy, nhận biết và hành động”, Nxb
Văn hóa thông tin.
38. Mạc Văn Trung, (1998). “ Nạn nghiện ma túy xem xét ở góc độ cá nhân”
(Tạp chí khoa học thanh niên).
39. Trịnh Tiến Việt, (2014), Chủ thể, phương thức và phương tiện kiểm soát
xã hội đối với tội phạm, Tập 30 (số 1), Tạp chí khoa học Đại học Quốc
gia Hà Nội.
40. Đỗ Ngọc Yên, (2004) “Chống tái nghiện nhìn từ góc độ tâm lý“.
41. Trương Văn Vỹ (2011), Tự tử là một hành vi lệch lạc – Quan điểm của
Emile Durkheim về sai lệch chuẩn mực xã hội., Tập 14 ( Số X1), Tạp chí
phát triển Khoa học và Công nghệ.
42. Văn phòng Kiểm soát Ma túy và Phòng chống tội phạm của Liên Hợp
Quốc (ODCCP). Báo cáo tình hình ma túy thế giới năm 2000.
43. Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh, (2004-2005), Những
giải pháp chủ yếu quản lý, dạy nghề cho người sau cai nghiện ma túy
trong chương trình ba năm ở các trường, trung tâm tại thành phố Hồ Chí
Minh.
44. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, (2003), Những giải
pháp hữu hiệu quản lý nghiện và sau cai, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
45. Trung tâm thông tin và giáo dục sức khỏe thành phố Hồ Chí Minh
(1996), Sổ tay tham vấn HIV/AIDS.
82
PHẦN PHỤ LỤC
Các chính sách áp dụng hỗ trợ người sau cai nghiện.
Các văn bản của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác
phòng chống tệ nạn xã hội trong các năm qua:
Chỉ thị số 33/CT-TW ngày 01/4/1994 về lãnh đạo phòng chống các tệ nạn xã
hội
Chỉ thị số 64-CT/TW ngày 25/12/1995 về tăng cường lãnh đạo, quản lý, lập
lại trật tự, kỷ cương trong các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá, đẩy
mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
Chỉ thị số 06/CT-TW ngày 30/11/1996 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác phòng chống và khảo sát ma tuý.
Các Nghị quyết Trung ương 5; Trung ương 6 (lần 2) quy định 55/QĐ-TW về
19 điều cán bộ, đảng viên không được làm, trong đó có nhiều nội dung liên
quan đến phòng chống tệ nạn xã hội, đó là thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết,
thường xuyên của Đảng, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao phẩm chất, uy
tín của tổ chức Đảng.
Qui định của các văn bản pháp qui nhà nước:
Hiến pháp 1992, điều 61 “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng
trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy
định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa bệnh xã hội nguy hiểm”.
Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân cũng qui định chế độ bắt buộc chữa bệnh đối
với người nghiện ma tuý, điều 29 “Các cơ sở y tế phải tiến hành các biện pháp
bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh tâm thần thể nặng, bệnh lao,
phong đang thời kỳ lây truyền, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, bệnh
nghiện ma tuý, bệnh SIDA và một số bệnh truyền nhiễm khác có thể gây nguy
hại cho xã hội.
83
Nghị quyết 06/CP ra ngày 29/1/1993 của Chính phủ về “Tăng cường chỉ đạo
công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý” đề ra các nhiệm vụ đấu tranh
phòng chống tệ nạn ma tuý là:
Cần phải đấu tranh kiên quyết chống các tệ nạn này bằng các biện pháp tuyên
truyền, vận động, giáo dục, kinh tế, xử lý hành chính và hình sự.
Đối với người nghiện, tổ chức cai nghiện thuốc phiện và các chất ma tuý, coi
là biện pháp bắt buộc, như đã ghi tại Điều 29 Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Tuỳ theo tình hình thực tế từng nơi và từng loại đối tượng mà áp dụng các
biện pháp cai nghiện tại các trung tâm y tế của nhà nước, tại các cơ sở y tế tư
nhân hoặc cai nghiện tại nhà, đồng thời với dạy nghề, tạo việc làm và giải
quyết các vấn đề xã hội có liên quan.
Bộ luật Hình sự hiện hành (được Quốc hội khoá X thông qua ngày
21/12/1999) có dành một chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý”. Trong đó
có 4 điều (197, 198, 199, 200) về các tội sử dụng trái phép chất ma tuý, tổ
chức, chứa chấp và cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma
tuý. Khung hình phạt các tội này thấp nhất là 2 năm, cao nhất có thể tử hình.
Riêng điều 199 qui định tội sử dụng trái phép chất ma tuý trong trường hợp
người sử dụng trái phép chất ma tuý đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý
hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tái
phạm, tiếp tục sử dụng trái phép chất ma tuý. Khung hình phạt tội này từ 3
tháng tới 5 năm
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (ngày 2/7/2002) đã qui định các biện
pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma tuý như giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng (người từ 12 tuổi tới dưới 18
tuổi); đưa vào cơ sở chữa bệnh
Các Nghị định 53/CP (ngày 28/6/1994), 87/CP(12/12/1995) và 88/CP
(14/12/1995), 49/CP(15/8/1996), 19/CP và 20/CP (4/1996), 34/NĐCP
84
(28/3/2002), 56/NĐCP (15/5/2002) đều có những qui định cụ thể về xử phạt
hành chính đối với người nghiện ma tuý.
Luật Phòng, chống ma túy là đạo luật mang số 23/2000/QH10 do được Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 09 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6
năm 2001 với nội dung quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống
tệ nạn ma tuý, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý, trách
nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma tuý.
Luật đã được sửa đổi vào năm 2008.
Các văn bản quy định cai nghiện tại gia đình và cộng đồng.
Nghị định số 56/2002/NĐ-CP, ngày 15/05/2002 của Chính phủ về tổ chức cai
nghiện tại gia đình và cộng đồng (GĐ&CĐ): cho người nghiện ma tuý đăng
ký cai nghiện tại GĐ&CĐ, không thuộc đối tượng đưa vào CSCB bắt buộc
hoặc đang giáo dục tại xã phường (Nghị định 163/2003/NĐ-CP ngày
19/12/2003 quy định chi tiết biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn);
trường giáo dưỡng (Nghị định 142/2003/ NĐ-CP ngày 24/11/2003 của Chính
phủ quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng); CSGD (Nghị định 76/2003/NĐ-CP, ngày 27/06/2003 quy định và
hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục), hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT/BLĐTBXH-BYT-BCA, ngày
24/01/2003 hướng dẫn một số điều Nghị định 56. Trong đó thành lập tổ công
tác giúp Chủ tịch UBND xã, phường tổ chức tiếp nhận cai nghiện ma tuý cho
người nghiện tại gia đình và cộng đồng, theo một quy trình biểu mẫu thống
nhất.
Văn bản quy định các cơ sở khác về cai nghiện ma tuý:
Nghị định số 147/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 của Chính phủ quy định về
điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động của các cơ sở cai nghiện
85
ma tuý tự nguyện để cai nghiện cho người nghiện ma tuý tự nguyện. Quy định
các điều kiện được cấp giấy phép hoạt động cai nghiện ma túy; thẩm quyền
cấp giấy phép là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Quyền, trách nhiệm
của cơ sở cai nghiện và người cai nghiện được quy định rõ và trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước.
Các văn bản quy định cai nghiện ma tuý tại các Cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thông qua ngày 02/07/2002, có hiệu lực
ngày 01/10/2002, quy định: hình thức, biện pháp, thẩm quyền, thủ tục áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính bao gồm các biện pháp:
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (UBND xã, phường, thị trấn).
Đưa vào trường giáo dưỡng (Công an).
Đưa vào trường giáo dục (Công an).
Đưa vào CSCB (LĐ-TB&XH, thuộc UBND tỉnh, thành phố).
Quản chế hành chính (UBND xã, phường, thị trấn).
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào CSCB: Người nghiện ma tuý từ 1 năm
đến 2 năm (24 tháng).
Nghị định 20/CP (13/04/1996) ban hành quy chế về CSCB quy định: Thủ tục,
chế độ đưa người vào CSCB, tổ chức CSCB và trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước; Ngành LĐ-TB&XH ở địa phương quản lý mạng lưới cơ sở này
(Chuẩn bị có văn bản thay thế).
Lĩnh vực cai nghiện, phục hồi:
Thông tư 30/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 25/12/1999 hướng dẫn quản
lý các hoạt động y tế ở các Cơ sở chữa bệnh thuộc ngành LĐTBXH.
Thông tư 31/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 20/12/1999 hướng dẫn quy
trình cai nghiện, phục hồi sức khoẻ, nhân cách cho người nghiện.
Lĩnh vực tài chính:
86
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP (16/01/2002) về chế độ tài chính áp dụng cho
các đơn vị sự nghiệp có thu và Thông tư 25/2002/TT-BTC (21/03/2002) của
Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 10/2002/NĐ-CP.
Thông tư số 45/2002/TTLT-BTC-LĐTBXH (16/05/2002) hướng dẫn quản lý
tài chính đối với các CSCB.
Lĩnh vực chế độ, chính sách:
Quyết định số 25/2002/QĐ-TTg (01/02/2002) về một số chế độ, chính sách
đối với cán bộ làm việc tại các cơ sở chữa bệnh.
Thông tư liên tịch số 12/2002/TTLT-BLĐTBXH-BTC (12/07/2002) hướng
dẫn chế độ, chính sách đối với cán bộ làm việc tại CSCB.
Chính sách chung của Đảng và Nhà nước tại một số địa phương.
Hiện nay Nhà nước đã ban hành một số chính sách hỗ trợ việc làm đối với
người sau cai nghiện ma túy. Đối tượng tệ nạn xã hội (người nghiện ma túy)
là loại đối tượng đặc biệt. Nhà nước đã ban hành một hệ thống chế độ, chính
sách liên quan đến dạy nghề, tạo việc làm cho đối tượng này. Nghị quyết
06/CP ngày 29 tháng 01 năm 1993 và Nghị định số 20/CP ngày 13 tháng 4
nam 1996 của Chính phủ ban hành Quy chế về Cơ sở chữa bệnh, Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính số 44/2002/PL – UBTVQH.
Quyết định số 186/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Tổ chức quản lý,
dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý" tại tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Mục đích chính của đề án
là quản lý, giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện
để tạo điều kiện cho người sau cai nghiện tiếp tục rèn luyện nhân cách nâng
cao văn hóa hoặc nâng cao tay nghề, năng lực sản xuất trong môi trường
không có người nghiện
Quyết định số 80/2006/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế hoạt động của
Hội đồng tư vấn đưa người vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở dạy nghề và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý và giải quyết tái hoà nhập cộng
87
đồng cấp thành phố do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành.
Đây là quyết định nhằm tư vấn đưa người vào các cơ sở để khám chữa bệnh,
cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện tái hòa nhập
cộng đồng.
Nghị định 94/2010 ngày 09/09/2010 quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại
gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng. Mục đích của Nghị định là nhằm
đưa ra các quyết định áp dụng cai nghiện ma túy bắt buộc đối với các đối
tượng tại cộng đồng.
Nghị định 61/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
135/2004/NĐ-CP về chế độ áp dụng biện pháp đưa đưa vào cơ sở chữa bệnh,
tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào
cơ sở chữa bệnh. Quy định về chế độ áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh
theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính &chế độ áp dụng đối với người
chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Nghị định 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 quy định chi tiết thi hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy về quản lý sau cai
nghiện. Mục đích chính của Nghị định này quy định những biện pháp quản lý
sau cai nghiện ma túy cũng như quyền hạn trách nhiệm của người sau cai
nghiện. Đồng thời xem xét tạo điều kiện cho ngươi sau cai nghiện có thể học
nghề.
Trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước đã ban hành về công tác cai
nghiện phục hồi đều quy định nhiệm vụ dạy nghề, tổ chức lao động cho người
cai nghiện ở Trung tâm cai nghiện hay cai nghiện tại gia đình và cộng đồng;
khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào dạy nghề, tạo việc làm cho đối
tượng. Luật phòng chống ma túy ( 12/2000) quy định : Người đã cai nghiện
ma túy được chính quyền cơ sở, gia đình và các tổ chức tiếp nhận,tạo điều
88
kiện học nghề, tạo việc làm, vay vốn, tham gia các hoạt động xã hội để hòa
nhập cộng đồng.” ( Điều 33)
Một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc triển khai nghị
quyết 16/2003/QH11.
Nghị định số 146/2004/NĐ – CP, ngày 19/7/2004 về “ Quy định thủ tục, thẩm
quyền quyết định đưa vào cơ sở quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm đối
với người sau cai nghiện ma túy.
Tờ trình 06/TTr – CP ngày 03/7/2007 và Tở trình 33 TTr – CP ngày 9/5/2007,
tờ trình Quốc hội cho phép được áp dụng một số chế độ ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các cơ sở và doanh nghiệp sử dụng lao động và người
sau cai nghiện ma túy trong thời gian thực hiện Nghị quyết 16/2003/QH11
của Quốc hội.
Quyết định 212/2006/QĐ –TTg ngày 20/9/2006: Tín dụng đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai
nghiện ma túy.
Trong thông tư số 05/2007/TT –BTC ngày 18/1/2007: Hướng dẫn một số nội
dung Quyết định số 212/2006/QĐ – TTg ngày 20/9/2006 của Thủ tướng
Chính Phủ về tín dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và
doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai nghiện ma túy.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 212/2006/QĐ –TTg ngày 20
tháng 9 năm 2006 về tín dụng đối với các doanh nghiệp sử dụng người lao
động là người sau cai nghiện ma túy và sau đó là ngày 19 tháng 01 năm 2007
Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 05/2007/TT – BTC về hướng dẫn một số
nội dung của quyết định trên. Những văn bản trên đã thể hiện sự quan tâm của
Trung Ương đến đề án sau cai nghiện của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
thực hiện Nghị quyết 16/2003/QH11 ngày 17/6/2003 “Về thực hiện thí điểm
tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma
túy” ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác trực thuộc
89
Trung ương. Nhìn chung, chế độ, chính sách dạy nghề tạo việc làm cho đối
tượng nghiện ma túy là tương đối đầy đủ về chủ trương và biện pháp tổ chức
thực hiện. Tuy nhiên, để chính sách về vấn đề việc làm đối với đối tượng tệ
nạn xã hội thực sự phát huy hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội, nhà nước
cần đưa ra những giải pháp cụ thể hơn, thiết thực hơn nhằm huy động nhiều
thành phần kinh tế tham gia tích cực trong việc giải quyết việc làm cho đối
tượng tệ nạn xã hội đã hoàn lương.
Quyết định 29/2014/QĐ – TTg về tín dụng đối với hộ gia đình và người
nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương được ban hành
đã tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi cho người sau cai nghiện ma túy có
cơ hội được vay vốn, tạo cho mình một công việc để ổn định cuộc sống.
Khái quát về đặc điểm người sau cai nghiện tại địa bàn.
- Số lượng
Theo số liệu từ phòng Lao động thương binh xã hội huyện Mỹ Đức tính
đến cuối tháng 12/2014 số lượng là 154 người (chiếm 0,09%) trong tổng số
dân của toàn huyện chia làm nhiều độ tuổi khác nhau. Cụ thể phân chia theo
từng xã là:
Số Đơn vị Tổng số TT
1 Đồng Tâm 7
2 Thượng Lâm 6
3 Tuy Lai 8
4 Phúc Lâm 7
5 Bột Xuyên 4
6 Mỹ Thành 3
7 An Mỹ 7
90
7 Hồng Sơn 8
2 Lê Thanh 9
5 Xuy Xá 10
8 Phùng Xá 11
9 Phù Lưu Tế 12
8 TT. Đại Nghĩa 13
7 Đại Hưng 14
3 Vạn Kim 15
11 Đốc Tín 16
25 Hương Sơn 17
6 Hùng Tiến 18
4 An Tiến 19
3 Hợp Tiến 20
8 Hợp Thanh 21
6 An Phú 22
154 Tổng
Phân theo độ tuổi và cơ cấu là:
Độ tuổi Số lƣợng Tỷ lệ (%)
5,1 Dưới 16 8
31,1 Từ 16 -25 48
32,5 25-35 50
13,6 35-45 21
6,1 Trên 45 26
100 Tổng cộng 154
(Nguồn: Phòng lao động thương binh xã hội huyện Mỹ Đức – Hà
Nội)
91
Một số hình ảnh hòa nhập cộng đồng của người sau cai nghiện tại
cộng đồng:
Hình ảnh đội xã hội tự nguyện họp bàn bạc về kế hoạch trong tháng.
92
Cuộc thi chạy tại xã Đốc Tín do đội xã hội tự nguyện phối hợp cùng Đoàn
thanh niên tổ chức.
93
Buổi tuyên truyền giáo dục nhân dân về phòng chống tệ nạn ma túy tại xã
Hương Sơn.
Anh H – sau cai nghiện ma túy.
94
BẢNG PHỎNG VẤN NGƢỜI SAU CAI NGHIỆN TẠI 2 XÃ ĐỐC TÍN
VÀ HƢƠNG SƠN – MỸ ĐỨC - HÀ NỘI
Xin chào các anh (chị)
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu với đề tài : Công tác hỗ trợ
người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng tại hai xã Đốc Tín và
Hương Sơn – Mỹ Đức - Hà Nội. Để có thể hoàn thành được đề tài này, chúng
tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của các anh (chị) bằng cách trả lời các câu
hỏi sau.
Anh (chị) hãy đánh dấu (X) vào câu trả lời mà anh (chị) cảm thấy phù
hợp nhất với mình. Các câu trả lời của anh (chị) hoàn toàn được giữ bí mật.
Xin chân thành cảm ơn!
95
1. Từ ngày cai nghiện trở về đến nay, anh chị đã hoàn toàn cắt cơn nghiện
chưa?
Hoàn toàn cắt cơn Thỉnh thoảng vẫn thèm Chưa cắt cơn
2. Khi cai nghiện trở về, anh (chị) có gặp khó khăn gì trong giao tiếp với
mọi người không?
Có Đôi lúc gặp khó khăn Không gặp khó khăn gì
3. Mức độ tự tin khi giao tiếp với mọi người xung quanh như thế nào?
Không tự tin Thỉnh thoảng mất tự tin Hoàn toàn tự tin
4. Hiện tại địa phương có những chương trình hay hoạt động nào nhằm
mục đích giúp anh chị tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người chưa?
Đã có một số tổ chức, đoàn thể
Chưa có hoạt động nào.
Kể tên một số đoàn thể, tổ chức hỗ trợ
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Trong khoảng thời gian từ khi trở về với cộng đồng, sức khỏe của anh chị có
ổn định không ạ?
Sức khỏe tốt Sức khỏe không ổn định Sức khỏe yếu
5. Anh (chị) có thể cho biết anh chị có hay đến trạm y tế để khám bệnh
không/
Thỉnh thoảng Không bao giờ Thường xuyên
6. Nhà nước có những chính sách gì nhằm hỗ trợ nhóm đối tượng này về
mặt y tế không?
Có Không có dịch vụ nào
96
7. Hiện tại, anh chị đang làm công việc gì?
.............................................................................................................................
Anh (chị) cho biết trình độ học vấn của anh (chị):
Chưa biết đọc/biết viết
Biết đọc/ biết viết
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Cao đẳng, đại học, trên đại học
8. Anh (chị) đã được đào tạo nghề ở trình độ nào?
Chưa qua đào tạo nghề
Sơ cấp
Trung cấp chuyên nghiệp
Cao đẳng/ đại học
11. Anh/chị đã nghiện ma túy bao nhiêu năm?
Dưới 2 năm
Từ 2 năm đến dưới 4 năm
Từ 4 năm đến dưới 7 năm
Từ 7 năm đến dưới 10 năm
Trên 10 năm
Anh (chị) từng cai nghiện bao nhiêu lần?
1 lần
97
2 lần
3 lần trở lên
12. Thời gian anh (chị) tái hòa nhập cộng đồng (từ lần cai cuối) đến nay được
bao nhiêu lâu?
Dưới 2 năm
Từ 2 năm đến dưới 4 năm
Từ 4 năm đến dưới 7 năm
Từ 7 năm đến dưới 10 năm
Trên 10 năm
13. Trước đây anh (chị) đã cai nghiện tại trung tâm theo hình thức nào?
Cai nghiện tự nguyện
Cai nghiện bắt buộc
Cả hai hình thức trên 14. Mức sống hiện tại của gia đình anh (chị)?
Giàu có
Trung bình
Nghèo
15. Trước khi cai nghiện và hiện nay anh chị làm nghề gì?
Trước khi cai Hiện nay
nghiện
98
Nông nghiệp
Cán bộ viên chức
Công nhân/thợ cơ
khí
Nghề thủ công
nghiệp
Lái xe
Thợ mộc
Thợ cắt tóc
Kinh doanh dịch
vụ
Không có nghề
16. Thu nhập từ việc làm hiện tại của anh (chị) như thế nào?ư
Thu nhập cao, có tích lũy
Thu nhập trung bình vừa đủ chi tiêu
Thu nhập không đảm bảo mức sống
Khó đánh giá.
17. Trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng, tìm kiếm việc làm anh (chị) đã
được sự quan tâm, giúp đõ của những chủ thể nào nhiều nhất? ( kể tên
5 chủ thể0
Tổ chức Đảng
Chính quyền xã
Mặt trận Tổ Quốc
99
Hội phụ nữ
Hội cựu chiến binh
Hội Người cao tuổi
Đoàn thanh niên
Công an
Trung tâm cai nghiện
Khác ( ghi rõ)
18. Lý do khiến anh (chị) mất tự tin khi tái hòa nhập cộng đồng là những lý
do nào sau đây?
Cảm thấy mình tội lỗi khi đối mặt với những người xung quanh. Nên không
dám nói.
Sợ bị mọi người xì xào mình là con nghiện.
Chưa được đào tạo nghề
Sức khỏe không đảm bảo
Không có vốn
Chính quyền địa phương thiếu quan tâm
Theo anh (chị) để tái hòa nhập cộng đồng cần sự quan tâm, giúp đỡ của
những chủ thể nào sau đây?
Gia đình
Họ hàng
Hàng xóm
Bạn đã cai nghiện được
Bạn thân
100
Tổ trưởng tổ dân phố
Bí thư chi bộ khu phố
Công an
Cán sự xã hội
Giáo dục viên đồng đẳng
Cán bộ trung tâm cai nghiện
Cán bộ các đoàn thể xã hội địa
phương
Cộng tác viên xã hội
Khác (rõ)
19. Từ khi về địa phương, anh chị có tham gia các hoạt động chung của địa
phương không
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
20. Trong các hoạt động hỗ trợ người sau cai nghiện như: hỗ trợ việc làm, hỗ
trợ về y tế, về giao tiếp cộng đồng thì hoạt động nào anh chị cảm thấy hài
lòng nhất?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
21. Đánh giá cụ thể của anh (chị) đối với từng hoạt động hỗ trợ:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
22. Đối với việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người sau cai nghiện hiện
nay, anh (chị) có ý kiến đóng góp gì để nâng cao chất lượng các chính sách hỗ
trợ và để các chương trình trên hiệu quả hơn.
101
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
23. Theo ý kiến của anh(chị), có cần triển khai thêm các chính sách nào để hỗ
trợ cho người sau cai nghiện khi trở về với cộng đồng?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của anh/chị.
102
Bảng phỏng vấn ngƣời thân; họ hàng; bạn bè của ngƣời sau cai nghiện
1. Anh / chị có người sau cai nghiện, hiện nay họ thế nào? Họ có tự tin khi giao tiếp với mọi người không? Sức khỏe của họ có tốt không? 2. Hoàn cảnh gia đình hiện nay như thế nào? Gia đình anh chị có bao
nhiêu thành viên?
3. Sau cai nghiện trở về nhà, biểu hiện của người sau cai nghiện như thế
nào?
4. Bản thân anh/chị có giúp đỡ gì cho người sau cai tái hòa nhập cộng
đồng không?
5. Để người thân của anh/chị có được sự tự tin khi giao tiếp và có sức khỏe tốt cũng như là tìm kiếm việc làm, theo anh/chị cần làm gì để giúp đỡ họ?
6. Đánh giá của anh/chị về người sau cai nghiện? Họ có đoạn tuyệt được
với ma túy không?
7. Theo anh/chị ai là người có thể giúp đỡ người sau cai nghiện tái hòa
nhập dựa vào cộng đồng?
8. Đề xuất của anh/chị nhằm tạo điều kiện giúp đỡ người sau cai nghiện
tái hòa nhập dựa vào cộng đồng?
103
BẢNG PHỎNG VẤN CÔNG AN KHU VỰC
1. Trách nhiệm của cán bộ công an phải làm những gì khi tiếp nhận người
sau cai nghiện trở về địa phương?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
2. Trong quá trình giúp đỡ người sau cai nghiện tại cộng đồng, anh/ chị
gặp những khó khăn và thuận lợi gì?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
3. Anh/chị đánh giá như thế nào về công tác hỗ trợ người sau cai nghiện
tại địa phương? Tích cực, hạn chế của công tác hỗ trợ.
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………
4. Về phía công an có những hoạt động hỗ trợ riêng biệt nào không đối
với nhóm đối tượng trên.
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
5. Đánh giá về các hoạt động hỗ trợ đặc thù đó.
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
6. Theo anh/chị, cần có những biện pháp gì để nâng cao công tác hỗ trợ
người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
104
Bảng phỏng vấn cán bộ y tế tại hai xã Đốc Tín và Hƣơng Sơn.
1. Hàng tháng, cơ sở y tế có tiếp nhận người sau cai nghiện đến khám
chữa bệnh không?
............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. .....................................................
2. Người sau cai nghiện thường mắc những bệnh gì là phổ biến?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………....
3. Nhà nước có các dịch vụ y tế hỗ trợ gì riêng cho nhóm đối tượng này
không?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………….
4. Đánh giá của cán bộ y tế tại cơ sở đối với các dịch vụ y tế tại địa
phương dành cho đối tượng sau cai nghiện?
………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………
105
Bảng phỏng vấn cán bộ xã hội địa phƣơng
1. Xin anh/chị cho biết tình hình tệ nạn ma túy và người nghiện ma túy
hiện nay ở địa phương nơi anh chị công tác và cư trú như thế nào?
2. Ở địa phương có người cai nghiện thành công không? 3. Các đối tượng cai nghiện tại trung tâm khi tái hòa nhập cộng đồng có
gặp khó khăn gì không?
4. Chính quyền địa phương có quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ không? 5. Cụ thể là các hoạt động hỗ trợ nào? 6. Trong các hoạt động hỗ trợ đó, anh (chị) đã làm những gì? 7. Những thuận lợi và khó khăn của nhân viên công tác xã hội trong quá
trình hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng
8. Các chính sách xã hội nào hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập
cộng đồng
9. Những ý kiến đóng góp của anh chị nhằm giúp đỡ người sau cai nghiện
tái hòa nhập dựa vào cộng đồng
Xin trân trọng cảm ơn
106