BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ---------------- DƯƠNG HÀ HIẾU CÙ LAO RÉ – QUÊ HƯƠNG CỦA ĐỘI HOÀNG SA (TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX)
Chuyên ngành:
Lịch sử Việt Nam
Mã số:
62.22.03.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc PGS.TS Đào Tố Uyên
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các trích dẫn và tài liệu tham khảo sử dụng trong luận án là
trung thực. Những kết quả nêu trong luận án chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Dương Hà Hiếu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1 1. Lý do chọn đề tài
3 2. Đối tượng, phạm vi, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
5 3. Nguồn tư liệu, hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7 4. Đóng góp của luận án
8 5. Bố cục luận án
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC NGUỒN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU
9 1.1. Tổng quan các nguồn tư liệu
1.1.1. Nguồn thư tịch cổ 9
1.1.2. Nguồn bản đồ cổ 11
1.1.3. Nguồn tư liệu địa phương 12
15 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 15
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 21
Chương 2: CÙ LAO RÉ: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ TỤ CƯ
29 2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Tên gọi, vị trí địa lý, địa hình và khí hậu 29
2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên 36
38 2.2. Lịch sử tụ cư trên Cù Lao Ré
2.2.1. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa 38
2.2.2. Quá trình khai phá định cư của cư dân Việt 43
55 Tiểu kết chương 2
Chương 3: ĐỜI SỐNG KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CƯ
DÂN CÙ LAO RÉ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
56 3.1. Đời sống kinh tế của cư dân Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến
giữa thế kỷ XIX
3.1.1. Nông nghiệp 56
3.1.2. Ngư nghiệp 64
3.1.3. Thủ công nghiệp 66
3.1.4. Thương nghiệp 68
3.1.5. Tô thuế 68
70 3.2. Tổ chức xã hội Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
3.2.1. Từ thế kỷ XVII đến trước năm 1804 70
3.2.2. Từ năm 1804 đến giữa thế kỷ XIX 80
88 Tiểu kết chương 3
Chương 4: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN
CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
89 4.1. Đời sống văn hóa vật chất của cư dân Cù Lao Ré
4.1.1. Kiến trúc 89
4.1.2. Ẩm thực 97
4.1.3. Phương tiện đi lại 99
100 4.2. Đời sống văn hóa tinh thần
4.2.1. Phong tục tập quán 100
4.2.2. Tôn giáo và tín ngưỡng 107
4.2.3. Một số lễ hội tiêu biểu 111
116 Tiểu kết chương 4
Chương 5: ĐỘI HOÀNG SA VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHỦ QUYỀN
VIỆT NAM Ở HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA – TRƯỜNG SA CỦA CƯ
DÂN CÙ LAO RÉ TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
117 5.1. Sự ra đời và hoạt động của đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn và Tây Sơn
5.1.1. Thời điểm ra đời và quê hương của đội Hoàng Sa 117
5.1.2. Cư dân Cù Lao Ré trong đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn 124
130 5.2. Cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa dưới triều Nguyễn đến giữa thế kỷ XIX
5.2.1. Dưới thời vua Gia Long (1802 – 1820) 130
5.2.2. Dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1840 – 1847) 133
145 Tiểu kết chương 5
147 151
152 KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO
173 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- CHND: Cộng hòa Nhân dân
- CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
- KHXH: Khoa học Xã hội
- LATS: Luận án Tiến sĩ
- Nxb: Nhà xuất bản
- TCN: Trước Công nguyên
- Tp: Thành phố
- UB: Ủy ban
- UBND: Ủy ban Nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp các mốc thời gian lớp cư dân Việt đầu tiên ra Cù Lao Ré
Bảng 3.1: Tình hình ruộng đất ở Cù Lao Ré năm Mậu Ngọ (1618)
Bảng 3.2: Tình hình ruộng đất ở Cù Lao Ré qua địa bạ năm 1821
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thời nguyên thủy, Việt Nam đã trở thành địa bàn xuất hiện và tụ cư của
con người. Bên cạnh hệ thống di chỉ khảo cổ lưu lại dấu vết quần tụ của người
nguyên thủy từ miền núi, trung du và đồng bằng còn có hàng loạt các di chỉ khảo
cổ ở duyên hải và hải đảo đã hình thành nên các nền văn hóa Đông Sơn, Sa
Huỳnh và Đồng Nai. Cùng những biến động lịch sử, các cư dân cổ của ba nền
văn hóa đã phát triển thành cộng đồng dân tộc Việt Nam. Yếu tố nước (sông -
biển) và các yếu tố liên quan đến nước ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình tạo lập
văn hoá dân tộc cũng như đặc trưng tính cách của người Việt Nam. Trong quá
trình khai phá đất đai lao động sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo
vệ lãnh thổ, biển đảo từ rất sớm đã thực sự trở thành một bộ phận chặt chẽ trong
không gian sinh tồn của dân tộc.
Trên con đường Nam tiến khai phá đất đai mở rộng bờ cõi, Cù Lao Ré là
một trong những hòn đảo thuộc duyên hải miền Trung sớm được người Việt
chinh phục làm cơ sở sinh cơ lập nghiệp. Từ đất liền và ở Cù Lao Ré, cư dân
Việt tiếp tục tiến ra khai thác vùng Biển Đông rộng lớn với ngư trường chính
xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự phát hiện và khai thác nguồn
lợi ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của các ngư dân là cơ sở đặc biệt quan
trọng để các triều đại phong kiến Việt Nam xác lập và thực thi chủ quyền quốc
gia đối với hai quần đảo này.
Với vị trí địa lý của một hòn đảo gần bờ và là địa điểm đi đến Hoàng Sa
gần nhất, lại án ngữ trên tuyến hải thương Biển Đông nối liền Thái Bình Dương
sang Ấn Độ Dương, Cù Lao Ré nhanh chóng được Nhà nước phong kiến Việt
Nam coi trọng. Các chúa Nguyễn đã coi Cù Lao Ré như là một trong những
tiền đồn, là nơi tuyển lính, cắt cử người dẫn đường cho đội Hoàng Sa thực thi
nhiệm vụ khai thác, quản lý và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
2
Cùng với các xã gốc bên cửa biển Sa Kỳ, Cù Lao Ré trở thành bộ phận quan
trọng trong không gian quê hương của đội Hoàng Sa, là địa phương điển hình gắn
bó máu thịt giữa đất liền và hải đảo. Trong chính sách hướng biển và khẳng định sự
toàn vẹn chủ quyền quốc gia giữa đất liền và hải đảo của Nhà nước phong kiến Việt
Nam, Cù Lao Ré với vị trí trọng yếu đã sớm được tách ra khỏi sự phụ thuộc từ các
xã gốc trong đất liền và lập thành đơn vị hành chính cơ sở độc lập dưới triều
Nguyễn (1804). Sự đóng góp của các thế hệ cư dân Cù Lao Ré đối với sự ra đời và
hoạt động của đội Hoàng Sa sau đó là lực lượng Thủy quân kéo dài cho đến giữa
thế kỷ XIX, trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) đã nói lên vị trí,
tầm quan trọng của cái nôi sinh ra lực lượng bảo vệ biển đảo này.
Trong bối cảnh quốc tế diễn ra phức tạp hiện nay, đặc biệt vấn đề chủ
quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tồn tại những
tranh chấp đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học Việt Nam tập trung
nguồn lực vào công tác nghiên cứu nhằm đưa ra đầy đủ những luận chứng, luận
cứ vững chắc khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông. Do vậy, công tác nghiên cứu
và cung cấp những cứ liệu về việc khẳng định, thực thi nhiệm vụ chủ quyền lãnh
thổ của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong
quá trình đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ hiện nay là vô cùng quan trọng.
Việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển cùng đóng góp của Cù
Lao Ré đối với sự ra đời, hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như sự nghiệp bảo
vệ, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong lịch sử được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Mặc dù vậy cho
đến hiện nay, chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu toàn diện và cụ thể nào của
các nhà khoa học về vị trí địa thế cũng như vai trò của cư dân Cù Lao Ré trong
mối quan hệ với lực lượng thực thi nghĩa vụ chuyên trách đặc biệt là bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên biển – đội Hoàng Sa.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tác giả quyết định chọn “Cù Lao Ré –
quê hương của đội Hoàng Sa (Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX)” làm đề
tài luận án tiến sĩ của mình.
3
2. Đối tượng, phạm vi, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Cù Lao Ré – quê hương của đội Hoàng
Sa từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Cụ thể hơn là quá trình khai canh, định
cư hình thành các phường1, phát triển kinh tế, tổ chức quản lý xã hội và đời sống
văn hóa của cư dân Cù Lao Ré từ thời các chúa Nguyễn thế kỷ XVII cho đến giữa
thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về thời gian: Điều này thể hiện ở ngay tên đề tài luận án. Tác giả đặt trọng
tâm vào việc nghiên cứu Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX trên tất
cả các mặt: tình hình kinh tế, tổ chức xã hội và đời sống văn hóa của cư dân Cù Lao
Ré gắn với sự ra đời và hoạt động của đội Hoàng Sa cho đến khi đội Hoàng Sa nhập
vào đội Thủy quân triều Nguyễn. Bên cạnh đó, tác giả coi phông thời gian trước thế
kỷ XVII là cơ sở tiền đề nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ sự phát triển của Cù Lao Ré
ở giai đoạn sau.
+ Về không gian: Giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu của luận án là đảo
Cù Lao Ré2. Tuy nhiên, do mối quan hệ mật thiết của Cù Lao Ré với đất liền về
nguồn gốc cư dân, những thay đổi về tổ chức hành chính cũng như đời sống văn hóa
nên ngoài việc lấy Cù Lao Ré làm không gian nghiên cứu chính, tác giả đặt Cù Lao
Ré trong không gian chỉnh thể quốc gia để nghiên cứu. Từ đó, tác giả tập trung làm
sáng tỏ vị trí địa thế, đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của cư dân Cù Lao Ré trong
mối quan hệ giữa đất liền và hải đảo cũng như đối với hoạt động thực thi chủ quyền ở
Hoàng Sa và Trường Sa của cư dân Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
Mục tiêu của luận án
Thông qua việc khôi phục diện mạo lịch sử Cù Lao Ré trên tất cả các mặt
1 Cách gọi đơn vị “làng” của cư dân Cù Lao Ré. 2 Hiện nay, địa giới huyện Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi gồm hai đảo: đảo Cù Lao Ré (nay gọi là đảo Lý Sơn) gồm hai xã, là nơi đặt trụ sở hành chính huyện và đảo Cù lao Bờ Bãi có một xã là An Bình.
đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, luận án góp một cái nhìn cụ thể và toàn diện
4
về vai trò, vị trí và những đóng góp của cư dân Cù Lao Ré đối với hoạt động thực
thi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây:
- Làm rõ tầm quan trọng về vị trí địa lý của Cù Lao Ré trên tuyến hải thương
quốc tế Biển Đông ở thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX cùng mối quan hệ của Cù
Lao Ré với đất liền trong chính sách hướng biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo của
Nhà nước phong kiến Việt Nam;
- Tập trung nghiên cứu về tổ chức bộ máy quản lý, đời sống kinh tế, văn hóa
xã hội của cư dân Cù Lao Ré với tư cách là đơn vị hành chính cấp cơ sở đặc biệt
của một “đảo tiền đồn”, nơi tuyển quân và xuất phát của đội Hoàng Sa ra quần đảo
Hoàng Sa – Trường Sa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia;
- Nghiên cứu về sự ra đời, tổ chức và hoạt động của đội Hoàng Sa gắn liền
với Cù Lao Ré trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khai thác, khẳng định và bảo vệ
chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên cơ sở đó,
luận án nghiên cứu làm sáng tỏ sự đóng góp của cư dân Cù Lao Ré đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX;
- Nội dung của luận án cũng vạch trần và phê phán những âm mưu, luận điệu
xuyên tạc của một số học giả Trung Quốc khi cho rằng Cù Lao Ré chính là Hoàng
Sa của Việt Nam.
Những vấn đề trên của luận án sẽ làm sáng tỏ lịch sử hình thành và phát
triển của Cù Lao Ré cùng đóng góp của cư dân hòn đảo này đối với sự ra đời,
hoạt động của đội Hoàng Sa và sau là đội Thủy quân trong việc khai thác, khẳng
định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Mặt khác, luận án cũng góp phần vào
công cuộc đấu tranh nhằm khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông hiện nay.
5
3. Nguồn tư liệu, hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Để hoàn thành nội dung nghiên cứu, luận án sử dụng các nguồn tư liệu sau:
- Nguồn thư tịch cổ Việt Nam gồm các châu bản, các công trình lịch sử, địa
lý và các bản đồ Việt Nam thời phong kiến;
- Nguồn tư liệu địa phương tác giả thu thập được từ các dòng họ trong quá
trình thực địa điều tra thực tế trên Cù Lao Ré, tức huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi ngày nay;
- Các bản đồ và tài liệu nước ngoài đề cập đến Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến
giữa thế kỷ XIX;
- Các công trình nghiên cứu về Cù Lao Ré liên quan đến luận án của các học
giả Việt Nam và thế giới.
Hướng tiếp cận
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành luận án, tác giả tiếp cận vấn đề chủ
yếu dựa trên quan điểm lịch sử, khôi phục, nhìn nhận và đánh giá vấn đề dưới góc
độ của khoa học lịch sử. Do đề tài nghiên cứu mang tính tổng hợp nên tác giả còn
sử dụng các hướng tiếp cận phụ trợ khác như địa – văn hóa, địa – chính trị, khu vực
học, văn hóa học, … trong quá trình hoàn thành luận án. Từ các hướng tiếp cận đó,
tác giả đặt Cù Lao Ré vào trong không gian sinh tồn của người Việt: Đất – Nước,
tức là mối quan hệ giữa đất liền và biển đảo, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa giữa
Biển Đông. Vì vậy, tác giả đặt Cù Lao Ré trong dòng chảy của lịch sử, từ lớp cư
dân đầu tiên của nền văn hóa Sa Huỳnh – Chămpa cho đến khi lớp cư dân Việt đầu
tiên ra đảo khai khẩn định cư lập phường, phát triển kinh tế - xã hội và đời sống văn
hóa. Hướng tiếp cận này là cần thiết bởi vì sự ra đời, hoạt động của đội Hoàng Sa
không chỉ liên quan đến Cù Lao Ré mà còn liên quan đến ý chí, hành động của
chính quyền phong kiến Việt Nam. Từ các hướng tiếp cận đó, vấn đề nghiên cứu
của luận án được giải quyết một cách khoa học, toàn diện.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành nội dung luận án, trên cơ sở nắm
vững quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả sử dụng nhuần
6
nhuyễn hai phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học lịch sử là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic cùng phương pháp tổng hợp phân tích tài liệu để phục
dựng lại những biến động của Cù Lao Ré trên các phương diện theo trình tự thời
gian trong mối quan hệ với bối cảnh lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Từ đó giúp
cho tác giả nhìn nhận, lý giải, đánh giá vấn đề trong chiều sâu lịch sử và theo quy
luật vận động khách quan của lịch sử.
Tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp
thống kê toán học, phương pháp định tính và định lượng. Những phương pháp này
giúp xử lý các tư liệu cùng loại để tìm ta khuynh hướng và đặc trưng của vấn đề.
Trong khả năng cho phép, tác giả lượng hóa các số liệu thông tin từ các gia phả, địa
bạ,… hoặc những cá nhân của Cù Lao Ré được nhắc đến trong các tài liệu. Từ đó,
tác giả phân tích thông tin nhằm cung cấp những kết quả mới cho luận án.
Bên cạnh đó, phương pháp so sánh đối chiếu được tác giả sử dụng để phân
tích mức độ chính xác của thông tin tư liệu cung cấp, đặc biệt là những thông tin
trong các công trình sử học biên niên, những ghi chép của các học giả Việt Nam và
thế giới đương thời. Sử dụng phương pháp này góp phần đảm bảo độ chính xác,
khoa học của luận án.
Tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích bản đồ của khoa học Địa lý
vào việc nghiên cứu các bản đồ cổ của Việt Nam và thế giới khi đo đạc biên vẽ về
Cù Lao Ré và quần đảo Paracels3 của Việt Nam ở thế kỷ XVII cho đến nửa đầu thế
kỷ XIX. Việc sử dụng phương pháp này góp phần làm rõ vị trí địa lý của Cù Lao Ré
trong mối quan hệ với đất liền và trên tuyến hải thương quốc tế Biển Đông.
Đề tài của luận án nghiên cứu về Cù Lao Ré như một địa phương trong mối
quan hệ với cả nước. Để hoàn thành luận án, ngay từ khâu tư liệu, tác giả cũng đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của các khoa học liên ngành khác
3 Tên gọi quốc tế lúc bấy giờ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
như Văn hóa học, Dân tộc học trong quá trình điều tra thực tế như phục vụ cho quá
7
trình thu thập, xử lý tài liệu và nghiên cứu các vấn đề về nguồn gốc dân cư, văn hóa,
lịch sử Cù Lao Ré.
4. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận án có những đóng góp sau:
- Dựng lại bức tranh về quá trình khai phá và làm chủ Cù Lao Ré: từ quá trình
lập phường, phát triển kinh tế, đời sống văn hóa đến quản lý xã hội trên đảo trong các
thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Qua đó, luận án góp phần nhận thức sâu sắc và toàn
diện về lịch sử Cù Lao Ré cũng như vị trí, vai trò của Cù Lao Ré trong tổ chức bộ máy
hành chính cấp cơ sở và chính sách hướng biển của Nhà nước phong kiến Việt Nam;
- Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân Cù Lao Ré đã phát triển kinh tế, xã
hội vươn lên trở thành cơ sở quan trọng để Nhà nước phong kiến Việt Nam thực hiện
tuyển quân, lập đội Hoàng Sa. Mặt khác, Cù Lao Ré có vị trí chiến lược quan trọng nên
đã sớm trở thành hậu phương, là bàn đạp để đội Hoàng Sa tiến ra Biển Đông thực hiện
nhiệm vụ khai thác, khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa;
- Dựng lại đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Cù Lao Ré để từ đó
có cái nhìn toàn diện hơn về quá trình khai chiếm, lao động sản xuất và xây dựng đời
sống văn hóa mang đậm chất biển đảo của cư dân hòn đảo này. Từ hệ thống các di tích
văn hóa, lịch sử cũng như lễ hội quan trọng của Cù Lao Ré cho thấy tuyệt đại bộ phận
đời sống tín ngưỡng của cư dân trên đảo gắn liền với không gian biển và các sự kiện
liên quan đến sự ra đời và hoạt động của đội Hoàng Sa cùng những người con ưu tú
của đảo tham gia đội Thủy quân đi lính Hoàng Sa trong lịch sử;
- Góp phần làm sáng tỏ về sự ra đời, hoạt động và nhiệm vụ của đội Hoàng Sa
cũng những đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong công cuộc gìn giữ và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia dân tộc;
- Góp thêm nguồn tư liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
8
5. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, chú thích, phụ lục thì luận
án có cấu trúc gồm 5 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan các nguồn tư liệu và tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cù Lao Ré: Điều kiện tự nhiên và lịch sử tụ cư
Chương 3. Đời sống kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân Cù Lao Ré từ đầu
thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
Chương 4. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Cù Lao Ré
Chương 5. Đội Hoàng Sa và hoạt động thực thi chủ quyền Việt Nam ở hai quần
đảo Hoàng Sa – Trường Sa của cư dân Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
9
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC NGUỒN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nguồn tư liệu
1.1.1. Nguồn thư tịch cổ
Từ thời phong kiến, Cù Lao Ré đã được cơ quan chép sử Nhà nước và các cá
nhân đề cập đến. Ngoài ra, Cù Lao Ré còn được thể hiện trên các bản đồ Việt Nam
và thế giới cho thấy vị trí tầm quan trọng của hòn đảo này trong tổ chức bộ máy
hành chính quốc gia cũng tuyến hải thương quốc tế lúc bấy giờ.
Đầu tiên cần kể đến là tập bản đồ “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá
vẽ vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686) (xem phụ lục 1.12). Trong tập bản đồ này,
Cù Lao Ré được gọi là “núi Du Trường” thuộc về phủ Thăng Hoa (Quảng Ngãi)
ngoài cửa biển Sa Kỳ với những thông tin cho biết trên đảo đã có sự quản lý từ
đất liền gọi là “tuần”.
Tài liệu sớm đề cập cụ thể đến Cù Lao Ré là “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý
Đôn hoàn thành năm 1776. Công trình này chép Cù Lao Ré thuộc về phủ Quảng
Ngãi có cư dân sinh sống bằng nghề trồng đậu phụng,… Bên cạnh những thông tin
về Cù Lao Ré là ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc khai thác quần
đảo Hoàng Sa. Đây là tài liệu đầu tiên ghi chép về Cù Lao Ré cũng như mối quan
hệ của hòn đảo này đối với hoạt động của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn.
Trong “Quảng Thuận đạo sử tập” của Nguyễn Huy Quýnh viết khi ông làm
việc ở Thuận Hóa năm 1785, phần mô tả về giao thông đường biển từ vùng Quảng
Nam đến Phú Yên ngày nay cũng chép những thông tin sơ lược về tình hình dân cư
và hoạt động kinh tế của Cù Lao Ré. Đặc biệt trong công trình này còn có bản đồ
khu vực Quảng Ngãi từ vùng cửa Đại Cổ Lũy (tức cửa Đại) đến cửa biển Sa Kỳ vẽ
về Cù Lao Ré (劬 劳 哩) kèm thông tin cho biết Cù Lao Ré lập đội Hoàng Sa Nhị
với 8 chiếc thuyền ra Hoàng Sa khai thác sản vật. Điều này hoàn toàn trùng khớp
với những thông tin mà Lê Quý Đôn đã phản ánh.
10
Tiếp theo là “Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789)” do Quốc sử viện thời Lê
Trịnh biên soạn. Công trình sử học này cũng đề cập đến Cù Lao Ré và hoạt động
của đội Hoàng Sa không khác nhiều so với “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn
trước đó nhưng đã khẳng định tầm quan trọng của chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa trên danh nghĩa quốc gia.
Sang thời nhà Nguyễn, hàng loạt các công trình đề cập đến Cù Lao Ré như
“Đại Nam thực lục”, “Minh Mạng chính yếu”, “Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, “Đại Nam nhất thống chí”, “Khâm định Việt
sử thông giám cương mục”, … và các công trình cá nhân khác như “Lịch triều hiến
chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Việt sử cương giám khảo lược” của Nguyễn
Thông, “Sử học bị khảo” của Đặng Xuân Bảng.
Trong các công trình trên, đáng lưu ý là “Đại Nam thực lục”, ngoài phần
Tiền biên chép về Cù Lao Ré cùng hoạt động của đội Hoàng Sa tương tự như “Phủ
biên tạp lục” của Lê Quý Đôn đã đề cập thì ở phần Chính biên, các ghi chép rải rác
về các vấn đề kinh tế, tô thuế của Cù Lao Ré khá nhiều. Những thông tin về cư dân
Cù Lao Ré trong hoạt động của đội Hoàng Sa thời Gia Long và sau đó là đội Thủy
quân dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị cũng được ghi chép khá nhiều và cụ thể.
Thứ đến là công trình “Đại Nam nhất thống chí” – bộ địa chí quốc gia đồ sộ
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn và là bộ địa chí đầy đủ nhất của nước ta
thời phong kiến. Trong quyển 8 chép về tỉnh Quảng Ngãi, các vấn đề về tên gọi, vị
trí địa lý, dân cư, chế độ thuế khóa và sản vật của Cù Lao Ré được ghi chép khá cụ
thể. Cũng tư liệu này còn cho biết Cù Lao Ré với vị trí trọng yếu nên được coi là
một “tấn” ngoài cửa biển Sa Kỳ. Những thông tin về Cù Lao Ré và đội Hoàng Sa
được chép thành một mục riêng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ của cư dân Cù Lao
Ré với lực lượng đặc biệt này.
Nguồn tư liệu nữa cần kể đến đó là châu bản triều Nguyễn hiện lưu giữ tại
Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, ví dụ như “Châu bản triều Nguyễn ngày 22 tháng 11
năm Minh Mạng thứ 14 (1833)” đề cập đến Phạm Văn Sênh người Cù Lao Ré đi
thực hiện nhiệm vụ ở Hoàng Sa trở về. Bên cạnh còn có các tờ lệnh của quan địa
11
phương như “Tờ lệnh ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834)” của quan Bố
chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãi nêu rõ danh tính, quê quán của từng người con của
Cù Lao Ré vâng mệnh triều đình đi Hoàng Sa. “Châu bản triều Nguyễn ngày 13
tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835)” đề cập đến Cai đội Phạm Văn Nguyên
cũng là người Cù Lao Ré dẫn đoàn đi Hoàng Sa trở về quá hạn chịu xử phạt,… Một
số châu bản trong các năm tiếp theo đề cập những thông tin liên quan đặc biệt đến
những người con của Cù Lao Ré với những chức vụ cụ thể trong hoạt động bảo
vệ chủ quyền quốc gia ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.1.2. Nguồn bản đồ cổ
Cù Lao Ré không chỉ được ghi chép trong các tài liệu lịch sử, địa lý mà
còn được thể hiện trên các bản đồ quốc gia thời phong kiến. Ngoài các bản đồ
của Đỗ Bá và Nguyễn Huy Quýnh, Cù Lao Ré còn được thể hiện trong các bản
đồ quốc gia triều Nguyễn sau này như “Đại Nam nhất thống toàn đồ” (xem phụ
lục 1.13) vẽ năm 1838 thời Minh Mạng và được coi là một trong những bản đồ
thể hiện toàn vẹn nhất lãnh thổ Việt Nam. Trong bản đồ này, Cù Lao Ré được vẽ
sát với bờ biển tỉnh Quảng Ngãi và đối diện với Cù Lao Ré, ở giữa Biển Đông là
quần đảo “Hoàng Sa” và “Vạn lý Trường Sa”, tức quần đảo Trường Sa. Bên cạnh
đó, bản đồ “Đồng Khánh bản đồ” và một số bản đồ khác cũng thể hiện rõ ràng vị
trí của Cù Lao Ré.
Cùng với các bản đồ cổ Việt Nam, các bản đồ thế giới đều ghi nhận Cù
Lao Ré như bản đồ “Insulae Indiae Orientalis” (Những hòn đảo phía đông Ấn
Độ) của tác giả Jodocus Hondius (1606) (xem phụ lục 1.1) và “Asiae Nova
Descriptio” (Bản đồ châu Á mới) của G. Mercator và Jodocus Hondius (1630)
[204] và hàng loạt bản đồ khác như bản đồ của Nicolas Sanson (1658) [208],
Giovanni Giacomo Rossi (1683) (xem phụ lục 1.2), Nicolas de Fer (1709) (xem
phụ lục 1.3), bản đồ của Guilaume Danet (1721) (xem phụ lục 1.4), bản đồ của
G.B. Albrizzi (1740) (xem phụ lục 1.5), Emanuel Bowen (1747) (xem phụ lục
1.6), D.J. Changuion (1773) (xem phụ lục 1.7), bản đồ do Rollos và George vẽ
năm 1779 (xem phụ lục 1.9), bản đồ của Phillippe Vandermaelen (1827) (xem
12
phụ lục 1.10), Jean Louis Taberd (1838) (xem phụ lục 1.11),… Trong các bản đồ
của các tác giả trên, tấm bản đồ “Partie de la Cochinchine” (Một phần của
Cochinchine) của Phillippe Vandermaelen cũng như các tấm bản đồ khác của
ông trong bộ bản đồ “Atlas Universel de Géographie (Physique, politique,
statisque et minnéralogique)” (Bộ Atlas Địa lý (Vật lý, Chính trị, Thống kê và
Khai mỏ)) được coi là đặc biệt quan trọng vì nó là bản đồ đầu tiên đo vẽ tuyệt
đối chính xác vị trí về kinh độ, vĩ độ, đặc điểm địa lý, tên gọi của phương Tây về
Cù Lao Ré cũng như các địa danh khác thuộc lãnh thổ Việt Nam, trong đó có
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.1.3. Nguồn tư liệu địa phương
Ngoài các nguồn tư liệu trên, không thể không kể đến nguồn tư liệu địa
phương còn lưu giữ tại Cù Lao Ré – huyện đảo Lý Sơn ngày nay. Đó là gia phả
của các dòng họ, các văn khế mua bán ruộng đất, địa bạ, văn tế đình làng, các tờ
đơn, kê trình thuế lệ của Cù Lao Ré. Ngoài ra còn có các truyền thuyết dân gian,
các tư liệu liên quan đến các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo của Cù Lao Ré.
Về nguồn tư liệu gia phả trên Cù Lao Ré, do thời gian, hỏa hoạn và nhiều
yếu tố khác, một số gia phả của các tộc họ tiền hiền trên Cù Lao Ré đã không
còn. Hiện nay, trên 10 gia phả còn lại được các trưởng tộc cất giữ rất cẩn thận
trong các khán tại nhà thờ tộc họ và đa phần còn khá nguyên vẹn, rõ chữ. Một số
gia phả khác bị ẩm mốc rách nát, mối mọt nên nhiều chỗ không thể đọc được.
Ngoài đề cập đến lịch sử dòng họ, gia phả còn ghi chép về các sự kiện liên quan
đến Cù Lao Ré như sự kiện đo đạc đất đai, phân chia địa giới giữa hai phường
vào năm 1618, tên tuổi những vị tiền hiền khai khẩn – tức lớp cư dân Việt đầu
tiên tiến lên Cù Lao Ré khai cơ lập nghiệp. Ngoài ra, các gia phả còn cho biết
thân thế cụ thể của một số cá nhân được sử sách, châu bản triều Nguyễn đề cập
khi họ tham gia vào hoạt động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa mà các tư
liệu khác không phản ánh. Nguồn tư liệu này là một trong những chất liệu quan
trọng hoàn thành luận án vì nó giải đáp được nhiều vấn đề đặt ra mà các tư liệu
khác không đề cập đến một cách cụ thể.
13
Nguồn tư liệu địa bạ, văn khế mua bán ruộng đất, các tờ kê trình thuế lệ
hiện còn lưu giữ cẩn thận tại các dòng họ trên Cù Lao Ré, đặc biệt là địa bạ và
một số văn khế mua bán ruộng đất lưu tại nhà anh Nguyễn Chí Thanh (37 tuổi,
xã An Hải) còn khá nguyên vẹn. Nguồn tư liệu này cung cấp cho luận án những
số liệu quan trọng trong việc tìm hiểu về tình hình khai khẩn đất đai, phát triển kinh
tế và một phần của việc quản lý xã hội trên hòn đảo này qua các thời kỳ. Cũng từ
nguồn tư liệu này còn hé lộ những thông tin quý giá về đóng góp của cư dân Cù Lao
Ré đối với hoạt động của đội Hoàng Sa, đặc biệt đối với công tác huy động sức
người, sức của làm kinh phí cho những người con của Cù Lao Ré đi thực hiện
nhiệm vụ trong đội Thủy quân ra Hoàng Sa dưới triều Nguyễn. Điều này cho thấy
những sự kiện lịch sử chép về Cù Lao Ré cũng như đóng góp của cư dân hòn đảo
này trong hoạt động thực thi nhiệm vụ khai thác và bảo vệ chủ quyền quốc gia đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong các công trình lịch sử, địa lý quốc
gia và cá nhân thời phong kiến là hoàn toàn khoa học và chính xác.
Ngoài các gia phả, văn khế mua bán ruộng đất, địa bạ,… các dòng họ trên Cù
Lao Ré còn lưu giữ các tư liệu khác đặc biệt quan trọng như “tờ kê trình của Phú
Nhuận hầu năm Gia Long thứ 2” (1803) lưu tại nhà thờ họ Võ thuộc xã An Vĩnh
hay “tờ đơn của phường An Vĩnh của Cù Lao Ré xin tách khỏi xã An Vĩnh năm Gia
Long thứ 3” (1804) lưu tại dòng họ Phạm Quang ở xã An Vĩnh hiện nay. Những tư
liệu này cung cấp cho luận án thông tin về quá trình Cù Lao Ré chia tách khỏi các
xã gốc trong đất liền thành đơn vị hành chính cấp cơ sở. Không những vậy, nguồn
tư liệu này còn cung cấp những thông tin về lịch sử của Cù Lao Ré trước đó với mối
quan hệ của nó đối với các xã gốc trong đất liền cũng như đóng góp trực tiếp của cư
dân Cù Lao Ré đối với tổ chức và hoạt động của đội Hoàng Sa.
Trên Cù Lao Ré có trên 40 cơ sở tín ngưỡng và tôn giáo. Các tư liệu lưu
giữ ở đình làng và các cơ sở tín ngưỡng khác trên Cù Lao Ré như sắc phong, văn
tế hoặc hồ sơ lý lịch do các nhân viên Bảo tàng và Sở Văn hóa tỉnh Quảng Ngãi
lập cho thấy lịch sử các công trình kiến trúc phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng của
cộng đồng cũng như đời sống văn hóa tín ngưỡng của cư dân trên đảo. Điểm đặc
biệt là, các công trình văn hóa tín ngưỡng của Cù Lao Ré cũng như nguồn tư liệu
14
còn lưu giữ ở các cơ sở này đều gắn liền với biển, đặc biệt liên quan đến hoạt
động của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn hoặc các cá nhân tham gia đội
Thủy quân trực tiếp ra Hoàng Sa dưới triều Nguyễn. Đây là một trong những
chất liệu quan trọng để nghiên cứu về đời sống văn hóa của cư dân Cù Lao Ré
cũng như cống hiến của cư dân Cù Lao Ré đối với hoạt động bảo vệ chủ quyền
quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa. Nguồn tư liệu này được tác giả sử dụng khá
triệt để trong quá trình hoàn thành luận án.
Bên cạnh đó còn có các truyền thuyết dân gian, ca dao, hò vè và tục lệ của
cư dân Cù Lao Ré được lưu truyền trong dân gian. Trong đó, những truyền
thuyết về quá trình khai phá định cư của lớp cư dân Việt đầu tiên lên đảo, về Cá
Ông và những người con đi lính Hoàng Sa được nhân dân ghi nhớ nhiều nhất.
Mặc dù nguồn tư liệu này không đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu luận
án song cung cấp cho tác giả một cách tiếp cận lịch đại và góp phần giám định
nguồn tư liệu chữ viết mà tác giả sưu tầm được.
Cũng không thể không kể đến các phát hiện, khai quật khảo cổ trên Cù
Lao Ré. Năm 1977, Diệp Đình Hoa đã khảo sát và nghiên cứu sưu tầm được 10
công cụ rìu bôn của cư dân cổ trên đảo Lý Sơn. Đây được xem là những báo cáo
đầu tiên về dấu tích cư dân cổ cư trú trên Cù Lao Ré. Từ đó cho đến nay, đặc
biệt trong các năm 1997 đến 2002, các cuộc thám sát, khai quật khảo cổ đã diễn
ra trên Cù Lao Ré lên đến 9 lần4 và các di chỉ Xóm Ốc, Suối Chình được xác lập
một cách rõ ràng trong mối quan hệ chặt chẽ với không gian văn hóa Tiền Sa
Huỳnh – Sa Huỳnh và Chămpa.
Các nguồn tư liệu kể trên, đặc biệt là nguồn tư liệu khai thác được tại
huyện đảo Lý Sơn – Cù Lao Ré xưa có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu
4 Theo thống kê của Đoàn Ngọc Khôi, các lần đó là: năm 1977 do Diệp Đình Hoa tiến hành; năm 1996 do Đoàn Ngọc Khôi tiến hành; năm 1997 tiến hành 3 lần do cán bộ Viện Khảo cổ và cán bộ Bảo tàng, Sở văn hóa Thông tin của tỉnh Quảng Ngãi phối hợp tổ chức; năm 1999 do cán bộ Viện Khảo cổ và Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi tiến hành; năm 2000 do Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Viện Khảo cổ khai quật; năm 2001 do cán bộ Viện Khảo cổ tiến hành; năm 2002 do lực lượng đồn Biên phòng Lý Sơn phát hiện. Xem thêm Đoàn Ngọc Khôi (2003), Di tích xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh vùng duyên hải Nam Trung bộ. LATS Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Viện Khảo cổ học, Trung Tâm KHXH và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, tr. 32 – 35.
hoàn thành luận án của tác giả.
15
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đầu tiên cần kể đến là công trình “Địa dư tỉnh Quảng Ngãi” (1940) của
Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn. Cuốn sách mỏng này cung cấp những thông tin
cơ bản về Quảng Ngãi, Cù Lao Ré cũng được nhắc đến với những thông tin về vị trí
và phương tiện giao thông của hòn đảo này với đất liền.
Tiếp đến là chùm bài viết “Vài nét về văn hóa dân gian Lý Sơn” của Đặng
Vũ và “Di sản văn hóa Lý Sơn, sự định hướng bảo tồn và phát huy các giá trị” của
Nguyễn Thanh Tùng, “Nguồn gốc văn minh cổ xưa trên đảo Lý Sơn” của Đoàn
Ngọc Khôi, “Sơ lược về lễ hội truyền thống Lý Sơn” của Phan Đình Hộ trên tạp chí
Cẩm Thành (Quảng Ngãi) số 9 năm 1996. Đây là loạt bài nghiên cứu đầu tiên về Cù
Lao Ré ở khía cạnh văn hóa kể từ sau khi đất nước thống nhất. Trong nghiên cứu
của Đặng Vũ và Phan Đình Hộ, các di tích văn hóa lịch sử của Cù Lao Ré trong đó
có đình làng An Vĩnh xưa với lễ khao lề thế lính được đề cập đến như một nét văn
hóa truyền thống độc đáo của cư dân trên đảo.
Năm 1998, trên Tạp chí Khoa học – Khoa học Xã hội tXIV (N03) của Đại
học Quốc gia Hà Nội đã đăng tải các nghiên cứu của các học giả như: “Tư liệu về
nguồn gốc và chức năng hoạt động của đội Hoàng Sa” của Nguyễn Quang Ngọc và
Vũ Văn Quân, “Đỗ Bá Công Đạo với bản đồ Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa)” của Trần
Bá Chí và bài “Tư liệu về đội Hoàng Sa sưu tầm tại Lý Sơn” của tác giả Nguyễn
Quang Ngọc. Trong bài nghiên cứu, Nguyễn Quang Ngọc đã công bố một số những
tư liệu mới mà ông đã sưu tầm được tại Cù Lao Ré – tức huyện đảo Lý Sơn cho
thấy một nguồn tư liệu mới cần được quan tâm khai thác, đó là những tư liệu địa
phương liên quan đến Cù Lao Ré và đội Hoàng Sa. Những nghiên cứu và công bố
của tác giả góp phần định hướng công tác sưu tầm tư liệu để hoàn thành nội dung
nghiên cứu của luận án.
Bước sang năm 1999, những thông tin cơ bản về châu bản được Tạp chí Xưa
và Nay số 63B giới thiệu sơ lược trong “Địa danh Hoàng Sa trong châu bản triều
Nguyễn” của Hải Đường. Mặc dù chưa phải là nội dung của tất cả các châu bản
16
nhưng bài báo đã mở ra một hướng nghiên cứu, tiếp cận tư liệu mới của luận án.
Tác giả Nguyễn Quang Ngọc tiếp tục công bố “Bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông:
một hoạt động nổi bật của vương triều Tây Sơn” trên tạp chí Lịch sử Quân sự số 1
(1999). Thông qua nguồn châu bản, cổ sử và tư liệu sưu tầm được ở Cù Lao Ré, tác
giả đã cho thấy vị trí, tầm quan trọng của đội Hoàng Sa cùng mối quan hệ của nó
đối với Cù Lao Ré. Nghiên cứu này tiếp nối các nghiên cứu trước của tác giả về vấn
đề lịch sử chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 2001, Nguyễn Quang Ngọc tiếp tục công bố “Hoạt động của đội Hoàng
Sa” trên Tạp chí Xưa và Nay số 102. Trong nghiên cứu này, tác giả ngoài việc đề
cập đến sự ra đời của đội Hoàng Sa thì nội dung chính nghiên cứu là về hoạt động
của đội Hoàng Sa trong các thế kỷ XVII, XVIII thông qua các nguồn tư liệu đã
công bố và tư liệu cá nhân sưu tầm được tại Cù Lao Ré. Từ đó, tác giả kết luận hoạt
động của đội Hoàng Sa là một nét độc đáo trong việc khẳng định và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong các luận văn, luận án nghiên cứu về Cù Lao Ré và đội Hoàng Sa, luận
văn Thạc sĩ “Cù Lao Ré (Đảo Lý Sơn) từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX”
(2001) của Nguyễn Công Chất là luận văn đầu tiên lấy Cù Lao Ré làm đối tượng
nghiên cứu. Mặc dù vậy, nội dung luận văn thiên về văn hóa nên các vấn đề khác
như lịch sử Cù Lao Ré trước khi người Việt ra khai canh và định cư, làm chủ hòn
đảo này không được đề cập, đời sống kinh tế và xã hội trên đảo chưa được chưa
được làm rõ. Vấn đề đội Hoàng Sa quan hệ đặc biệt với Cù Lao Ré không được tác
giả coi là một nội dung nghiên cứu của luận văn.
Kế đến là luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử “Quá trình xác lập chủ
quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của Nguyễn Nhã bảo vệ
năm 2002. Tác giả tập trung làm rõ lịch sử chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo này thông nguồn tư liệu của Việt Nam và ngoài nước. Trong luận án này,
Cù Lao Ré được tác giả giới thiệu ngắn gọn như là một địa bàn quan trọng – nơi
liên quan chặt chẽ với tổ chức và hoạt động của đội Hoàng Sa. Tuy nhiên, những
vấn đề lịch sử, kinh tế và văn hóa của Cù Lao Ré cùng sự thành lập và hoạt động
của đội Hoàng Sa chưa được luận án giải quyết.
17
Trong năm 2003, Nguyễn Đăng Vũ có bài “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”
trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (số 10). Từ một số tư liệu sưu tầm được
từ nhân dân trên đảo Lý Sơn và cổ sử, Nguyễn Đăng Vũ đã nghiên cứu về việc
hình thành lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, một lễ hội lớn ở Cù Lao Ré tưởng nhớ
các binh lính trong đội Hoàng Sa thời phong kiến. Mặc dù không có gì mới so
với các nghiên cứu công bố trước đó nhưng cũng góp phần tư liệu cho tác giả khi
nghiên cứu vấn đề này.
Năm 2003, Đoàn Ngọc Khôi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ chuyên
ngành Khảo cổ học “Di tích xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh vùng duyên hải
Nam Trung bộ”. Nội dung của luận án khẳng định thời cổ đại đã có cư dân cổ sinh
sống thuộc về nền văn hóa tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh và Chămpa định cư lâu dài
liên tục trên Cù Lao Ré. Việc nghiên cứu về lịch sử Cù Lao Ré thời cổ đại khi xuất
hiện người Việt trên hòn đảo này thực sự khó khăn vì khoảng trống không thể bù
đắp về nguồn tư liệu. Chính vì vậy, thành tựu của luận án này đã phần nào đó khỏa
lấp đi khoảng trống đó.
Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi xuất bản công
trình “Văn hóa truyền thống huyện đảo Lý Sơn” (2003). Có thể nói đây là công
đầu tiên về Lý Sơn (tức Cù Lao Ré) được nghiên cứu một cách khá hệ thống từ
sau đất nước được thống nhất. Công trình này trình bày khái quát lịch sử hình
thành huyện Lý Sơn cùng đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân trên
đảo. Mặc dù vậy, nhiều vấn đề chưa được đề cập làm sáng rõ như tổ chức xã hội
và đời sống kinh tế, đặc biệt là sự xuất hiện cư dân Việt, hoạt động của đội
Hoàng Sa gắn với Cù Lao Ré.
Tiếp đến là “Sự hình thành cộng đồng cư dân Việt ở Quảng Ngãi” của
Nguyễn Đăng Vũ in trong “Văn hiến Quảng Ngãi – Truyền thống và hiện đại”
(2006) do Hoàng Chương chủ biên. Từ khảo cứu và phân tích các nguồn sử liệu, tác
giả cho thấy từ thời nhà Hồ, đặc biệt thời Trịnh – Nguyễn, người Việt đã liên tục di
cư và hình thành cộng đồng cư dân Việt đông đảo ở Quảng Ngãi cũng như ở các
vùng phía Nam. Dù không đề cập đến sự có mặt của cộng đồng người Việt trên đảo
Cù Lao Ré nhưng cũng là tham khảo tốt cho tác giả nghiên cứu về Cù Lao Ré.
18
Năm 2008, hàng loạt các bài nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đối tượng
nghiên cứu của luận án. Trên Tạp chí Xưa và Nay có “Một Lễ hội thấm đẫm tình
cảm yêu nước” số 306 (2008) của tác giả Lê Hồng Khánh. Tác giả đã nghiên cứu về
nguồn gốc hình thành lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở Cù Lao Ré (tức Lý Sơn) cùng
những người con tiêu biểu của Cù Lao Ré trong việc thực hiện nhiệm vụ ở quần đảo
Hoàng Sa trong lịch sử.
Còn trên Tạp chí Lịch sử Quân Sự có “Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng
Sa và Trường Sa qua các nguồn tư liệu lịch sử” đăng tải ở số 196 (4 – 2008) và
số 197 (5 – 2008) của Nguyễn Nhã. Từ các tư liệu lịch sử và một số châu bản
triều Nguyễn, Nguyễn Nhã một mặt nghiên cứu về sự quản lý của các triều đại
phong kiến đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặt khác đề cập đến
hoạt động của đội Hoàng Sa về mặt tổ chức và hoạt động từ thời các chúa
Nguyễn cho đến triều Nguyễn. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa
đội Hoàng Sa và Cù Lao Ré.
Đến năm 2009, Nguyễn Quang Ngọc công bố “Đội Hoàng Sa – Hình thức
tổ chức độc đáo để khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần
đảo giữa Biển Đông” trên Tạp chí Lịch sử Quân sự số 207 (3 – 2009). Trong
nghiên cứu này, tác giả đã khảo cứu lại tư liệu đồng thời sử dụng một số tư liệu
mới phát hiện về đội Hoàng Sa. Từ đó, tác giả đã đi đến khẳng định đội Hoàng
Sa ra đời vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635). Hay nói cách khác,
chúa Nguyễn Phúc Nguyên là người đầu tiên đặt ra đội Hoàng Sa, một hình thức
độc đáo của quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên các vùng quần đảo
giữa Biển Đông. Tác giả đã chỉ ra quê hương của đội Hoàng Sa chính là xã An
Vĩnh bên cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré.
Luận văn “Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi” (2011) của Mai Trọng Anh đã nghiên cứu và hệ thống hóa và phân loại các di
tích lịch sử và văn hóa của huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi. Đề tài trình đưa ra các kiến
nghị về bảo vệ và khai thác các di tích văn hóa lịch sử vào việc xây dựng đời sống
mới trên đảo Lý Sơn. Mặc dù luận văn này không nghiên cứu về lịch sử Cù Lao Ré
19
và hoạt động của đội Hoàng Sa thời trung đại nhưng cũng được luận án kế thừa khi
nghiên cứu về đời sống văn hóa của cư dân đảo Cù Lao Ré.
Kế đến là nghiên cứu “Hoàng Sa, Trường Sa: Những trang sử được viết
bằng máu” trên bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội số 245 (2011) của Nguyễn Quang
Ngọc. Ở nghiên cứu này, tác giả tiếp tục sử dụng nguồn châu bản quý là văn bản
trực tiếp của Nhà nước để làm rõ sự quản lý của Nhà nước đối với Hoàng Sa và
Trường Sa thông qua đội Hoàng Sa nhưng vẫn chưa làm rõ vị trí vai trò của Cù Lao
Ré đối với đội Hoàng Sa cũng như trong việc thi chủ quyền quốc gia đối với hai
quần đảo này.
Trong những nghiên cứu công bố năm 2012, đặc biệt cần nhấn mạnh đến
“Đội Hoàng Sa: Cách thức thực thi chủ quyền độc đáo của Việt Nam trên các vùng
quần đảo giữa Biển Đông trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX” trên tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam Á dành trọn số 143 (2 – 2012) của Nguyễn Quang Ngọc
khi ông trực tiếp lấy đội Hoàng Sa làm đối tượng nghiên cứu. Mặc dù không sử
dụng nguồn tư liệu châu bản nhưng những tư liệu được Nguyễn Quang Ngọc sử
dụng nghiên cứu đã tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề như thời gian ra đời, tổ chức và
hoạt động của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn. Cù Lao Ré cũng được tác giả đề
cập đến với tư cách là một phần của không gian quê hương đội Hoàng Sa.
Tiếp đến là bài nghiên cứu “Từ nghi lễ của dòng họ đến lễ hội của cộng
đồng: nghiên cứu nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi”
in trong “Những thành tựu nghiên cứu bước đầu của khoa Nhân học” (2012) của
Cao Nguyễn Ngọc Anh đã mô tả lại cụ thể lễ tưởng niệm những người lính –
đồng thời là những người con của Cù Lao Ré thực hiện nhiệm vụ trong đội
Hoàng Sa bị mất cùng cơ sở thực hiện nghi lễ này. Mặc dù vậy, bài nghiên cứu
này không gì mới so với nghiên cứu trước đó về lễ “Khao lề thế lính Hoàng Sa”
của tác giả Nguyễn Đăng Vũ.
Trong năm này, Trần Công Trục xuất bản công trình “Dấu ấn Việt Nam trên
Biển Đông” (2012) và cuốn “Kỷ yếu Hoàng Sa” (2012) của UBND huyện Hoàng
Sa, thành phố Đà Nẵng. Trong phần phụ lục của “Kỷ yếu Hoàng Sa” cung cấp các
20
văn bản cổ khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Những tư liệu này đều lấy ra từ các sách sử của Nhà nước phong kiến và một số tư
liệu mới phát hiện và công bố trong những năm trước đó như “Chỉ thị của Thái phó
Tổng lý quản binh dân chư vụ Thượng Tướng công nhà Tây Sơn” lưu giữ tại nhà
thờ họ Võ (An Vĩnh, Lý Sơn); “Đơn của phường An Vĩnh xin tách rời khỏi xã An
Vĩnh ngày 11 tháng 2 năm Gia Long thứ 3 (1804)” lưu tại nhà thờ họ Phạm Quang
(An Vĩnh, Lý Sơn), hay “Tờ lệnh của quan tỉnh Quảng Ngãi ngày 15 tháng 4 năm
Minh Mạng thứ 15 (1834)” do họ Đặng (An Vĩnh, Lý Sơn) lưu giữ cùng một số
châu bản triều Nguyễn thời Minh Mạng và Thiệu Trị đã công bố trước đó.
Năm 2013, Ủy ban (UB) Biên giới Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam
công bố “Tuyển tập các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” gồm 19 châu bản dưới triều
Nguyễn đồng thời dịch toàn bộ nội dung các châu bản này ra 4 thứ tiếng là tiếng
Việt, Anh, Pháp và Trung Quốc. Trong các châu bản này có một số châu bản đề
cập đến sự đóng góp của cư dân Cù Lao Ré ở những chức vụ, nhiệm vụ cụ thể
trong việc thực thi hoạt động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Đối với luận án thì những châu bản trên có một vị trí đặc biệt không chỉ vì
chúng cho biết sự quản lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn cho thấy vị trí vai trò của cư dân Cù Lao Ré
trong lịch sử mà châu bản đề cập đến.
Công trình “Biển đảo Quảng Ngãi lịch sử - kinh tế - văn hóa” do Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi xuất bản (2013) tập hợp các nghiên cứu
chuyên khảo về lịch sử, kinh tế và văn hóa Quảng Ngãi. Nhìn tổng thể, các bài
nghiên cứu này liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của
luận án ở từng khía cạnh như lịch sử dân cư thời tiền sử hoặc lễ “khao lề thế
lính” của Cù Lao Ré.
Đặc biệt năm 2014, Tạp chí Xưa và Nay số 449 (7 – 2014) đặc khảo về
Hoàng Sa và Trường Sa tập trung nhiều bài nghiên cứu của các nhà khoa học Việt
Nam. Trong số những bài nghiên cứu đó có thể kể đến “Châu bản triều Nguyễn và
21
những chứng cứ lịch sử - pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa –
Trường Sa” của Phan Huy Lê. Ở nghiên cứu này, tác giả cho thấy hoạt động của đội
Hoàng Sa và sau này là đội Thủy quân trong việc đi khảo sát, đo đạc vẽ bản đồ hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một số cá nhân của đội Hoàng Sa là người Cù
Lao Ré cũng được tác giả phản ánh khá rõ.
Nhìn chung, các công trình này trực tiếp nghiên cứu về Cù Lao Ré hoặc về
đội Hoàng Sa ở từng khía cạnh trong đó tập trung chủ yếu ở mảng văn hóa với các
di tích lịch sử văn hóa và lễ hội liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa. Trong
các công trình trên đáng lưu ý nhất là chùm nghiên cứu của Nguyễn Quang Ngọc
khi ông đặt Cù Lao Ré vào trong không gian quê hương của đội Hoàng Sa và cho
thấy mối quan hệ hữu cơ giữa hòn đảo này với lực lượng thực thi nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển đảo thời các chúa Nguyễn. Bên cạnh đó, các nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Đăng Vũ, Nguyễn Thừa Hỷ, luận án Tiến sĩ của Đoàn Ngọc Khôi, luận văn
Thạc sĩ của Nguyễn Công Chất và Mai Trọng Anh, … cũng đáng được quan tâm.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.2.1. Tiếng Anh
Đầu tiên phải kể đến cuốn “A new account of the East Indies, being the
observation and remarks, vol II” (1727) (Thông tin mới của Đông Ấn, quan sát và
đánh giá, tập 2) của Alexander Hamilton. Trong công trình này, Hamilton đề cập
đến lãnh thổ Đàng Trong dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn từ đầu thế kỷ XVIII
đã làm chủ vùng đồng bằng sông Cửu Long với một đường bờ biển dài phía Đông
nhiều vũng vịnh. Ông cũng chỉ ra và mô tả các đảo ven bờ Đàng Trong tính từ Nam
ra Bắc trong đó có Cù Lao Ré và mối quan hệ của nó với quần đảo Paracels cùng
mức độ nguy hiểm của những “chuỗi bãi đá” của hai quần đảo này đối với tàu
thuyền qua lại thường dẫn đến đắm tàu.
Đáng kể nhất là công trình “An Abridged account of the embassy to the
emperor of China” (1797) (Báo cáo ngắn gọn của sứ thần với Hoàng đế Trung Hoa)
của Macartney và George. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã đề cập trực
tiếp đến vị trí địa lý của Cù Lao Ré và chú thích “Pulo Canton, hay còn gọi là Pulo
22
Ratan”. Công trình cũng đề cập đến các đội thuyền của Đàng Trong được cử ra khai
thác quần đảo Paracels vào một mùa nhất định trong năm và mức độ nguy hiểm của
vùng biển này trong tuyến hải thương quốc tế lúc bấy giờ. Mặc dù không nghiên
cứu cụ thể về Cù Lao Ré và đội Hoàng Sa nhưng thông tin trong cuốn sách này cho
thấy mối quan hệ của Cù Lao Ré trong bảo vệ và thực thi chủ quyền của Nhà nước
phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ.
Đến năm 1813, James Playfair cho xuất bản cuốn sách “A System of
Geography, Ancient and Modern, Vol V” (Hệ thống địa lý cổ đại và hiện đại, tập 5)
tại London, ở mục Cochinchina, tác giả đã đề cập rất chi tiết về tình hình địa giới
gồm 12 tỉnh với những trung tâm kinh tế, chính trị của Đàng Trong cùng các vũng
vịnh như cảng vịnh Hội An, Huế, Đà Nẵng… Cũng như các công trình trước, Cù
Lao Ré được mô tả sơ lược là một trong những hòn đảo gần bờ quan trọng trên
tuyến hải thương quốc tế Biển Đông.
Đặc biệt, trong các nghiên cứu về Cù Lao Ré phải kể đến các nghiên cứu của
Edyta Roszko người Ba Lan. Trong bài nghiên cứu “Commemoration and the State:
Memory and Legitimacy in Vietnam” (Lễ tưởng niệm và nhà nước: ký ức và tính
hợp lý ở Việt Nam) đăng trên Tạp chí Journal of Social Issues in Southeast Asia,
Volume 25, number 1, April 2010 từ trang 1 đến trang 28, tác giả đã dựa trên các tài
liệu địa phương cùng hệ thống di tích lịch sử liên quan đến đội Hoàng Sa để đi đến
khẳng định cư dân Cù Lao Ré có những cống hiến đặc biệt đối với hoạt động bảo vệ
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Những di
tích văn hóa vật chất cũng như lễ hội, tín ngưỡng của cư dân Cù Lao Ré gắn chặt
với hoạt động kinh tế biển, với đội Hoàng Sa.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh từ thời Trung đại cho
đến nay đều chỉ đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ
của Việt Nam, còn Cù Lao Ré thì được các tác giả điểm nhắc như một trong những hòn
đảo trên tuyến hàng hải quốc tế từ Tây sang Đông. Duy có tác giả Edyta Roszko với
những nghiên cứu trực tiếp của mình về Cù Lao Ré ở khía cạnh tín ngưỡng và lễ hội
liên quan đến đội Hoàng Sa là nghiên cứu đáng được lưu ý nhiều nhất.
23
1.2.2.2. Tiếng Pháp
Các công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp đề cập đến Việt Nam có thể nói
là khá sớm, ngay ở thế kỷ XVIII đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu có giá
trị cung cấp những thông tin về lịch sử, văn hóa cũng như những đặc trưng địa lý
của Việt Nam. Đầu tiên cần kể đến đó là công trình “Histoire universelle, depuis
le commencement du monde, tome dix-neuvieme” (1762) (Lịch sử thế giới từ khi
hình thành, tập 19) được xuất bản ở Amsterdam (Hà Lan) và Leipzig (Đức) ngoài
việc đề cập đến quần đảo Hoàng Sa thì còn kể đến các hòn đảo ven bờ Đàng
Trong Việt Nam trong đó đề cập đến Pullo Canton (Cù Lao Ré) là đối tượng
nghiên cứu của luận án.
Bước sang thế kỷ XIX, công trình của John Barrow, Malte Brun “Voyage à
la Cochinchine, Tome Second” (1807) (Chuyến đi đến Đàng Trong, tập 2) ngoài
việc mô tả lại chuyến đi của John Barrow đến Conchichina đã cung cấp thêm
nhiều thông tin về việc Việt Nam làm chủ và khai thác quần đảo Paracels cũng
như mô tả lại các loại tàu thuyền mà ngư dân Việt Nam dùng để đánh bắt ở Hoàng
Sa và Trường Sa.
Sau năm 1954, theo hiệp định Genève, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về chính
quyền Sài gòn kiểm soát. Năm 1956, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đảo Phú
Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba)
thuộc quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 khi Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm
quần đảo Hoàng Sa, tác giả Võ Long Tê đã công bố công trình “Les Archipels de
Hoàng Sa et de Trường Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens D’histoire et de
géographie” (Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Việt Nam lịch sử
và địa lý). Có thể nói, công trình sưu tầm khảo cứu và dịch sang tiếng Pháp các thư
tịch, cổ sử Việt Nam ghi chép về hoạt động chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Võ Long Tê đã góp phần cung cấp thông tin đến
thế giới về lịch sử chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam về hai quần đảo này. Trong đó,
các ghi chép về Cù Lao Ré và hoạt động của đội Hoàng Sa cũng được công bố.
Từ đó cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp nghiên cứu
về lịch sử chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa song hầu hết
24
đều đề cập ở khía cạnh tranh chấp chủ quyền và sự áp dụng luật pháp quốc tế vào
giải quyết vấn đề này. Lịch sử Cù Lao Ré thời trung đại cũng như hoạt động của đội
Hoàng Sa hầu như không được đề cập nghiên cứu và công bố bằng ngôn ngữ này.
1.2.2.3. Tiếng Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với
Việt Nam ở cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó, trong các nghiên cứu về
lịch sử chủ quyền của các học giả Trung Quốc đề cập khá trực diện đến vấn đề này
thông qua các nguồn sử liệu của chính Trung Quốc, Việt Nam và phương Tây.
Cuốn sách “西沙群岛和南沙群岛古以来就是中国的领土” (Quần đảo Tây
Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời cổ đại đến nay) do Nxb Nhân dân
Trung Quốc ấn hành năm 1980 tập hợp bài viết của các học giả Trung Hoa về vấn
đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Điểm chung là, tất cả các bài
viết này đều cố gắng chứng minh hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc và biện
minh cho hành động xâm lược Hoàng Sa (năm 1974) của Trung Quốc mà không hề
đề cập đến quá trình xác lập và sự làm chủ thực sự của Việt Nam đối với hai quần
đảo này. Không những vậy, trong bài viết “Bác bỏ về cái mà chính quyền Việt Nam
gọi là quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tức Tây Sa và Nam Sa của nước ta”, Hàn
Chấn Hoa và Ngô Phượng Bân còn đi xa hơn khi cố ý xuyên tạc trắng trợn các
nguồn sử liệu của Việt Nam để đưa ra những nhận xét gượng gạo vô lý “Bãi Hoàng
sa, Cù Lao Lý trong sử liệu của Việt Nam là chỉ cùng một nơi – đảo Lý” [190, tr.
89] và “Quần đảo Hoàng sa tức là đảo Lý Sơn và đảo Chiêm Bà (Cù lao Chàm)
ngày nay” [190, tr. 90].
Bước sang thế kỷ XXI, các học giả Trung Quốc tiếp tục có những công trình
nghiên cứu về Biển Đông. Đầu tiên phải kể đến đó là công trình “中国南海研究:
历史与现状” (Nghiên cứu về biển Nan Hải ở Trung Quốc: Lịch sử và hiện trạng)
của tác giả Lý Quốc Cường (2003); “纵论南沙争端” (Tổng thuật những tranh luận
về Nam Sa) của Ngô Sĩ Tồn (2005); “聚焦南海——地缘政治。资源。航道”
(Tiêu điểm Nam Hải: địa chính trị, tài nguyên, hàng hải) của Ngô Sĩ Tồn, Chu Hoa
25
Sinh (Cb – 2009) Nxb Kinh Tế, Trung Quốc; “古代越南的海洋意识” (Tri thức
biển của Việt Nam thời cổ đại) LATS Lịch sử của Vu Hướng Đông (2008). Trong
luận án, Vu Hướng Đông kế thừa quan điểm các học giả Trung Quốc trước đặc biệt
là của Hàn Chấn Hoa để biện minh cho Tây Sa và Nam Sa - tức Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam thuộc về Trung Quốc từ lâu. Đi xa hơn, học giả này xuyên tạc các
tư liệu lịch sử nhằm cố chứng minh Cù Lao Ré chính là Hoàng Sa của Việt Nam còn
Trường Sa của Việt Nam chính là dải bãi cát ở tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của học giả Trung Quốc đều đưa
ra những trích dẫn sử liệu mơ hồ để gán ghép cho cái họ gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Các học giả Trung Quốc cố tình xuyên tạc các sử liệu, bằng chứng lịch sử của Việt
Nam khi đề cập đến Cù Lao Ré và đưa ra các nhận định gượng ép khi cho rằng Cù
Lao Ré chính là Hoàng Sa của Việt Nam. Họ bỏ qua hàng loạt các bản đồ, nhật ký
hải trình của các nhà hàng hải cũng như các ghi chép, nghiên cứu của phương Tây
ghi nhận về Cù Lao Ré là đảo gần bờ, quần đảo Paracels (tức Hoàng Sa) cách xa Cù
Lao Ré nằm giữa Biển Đông.
1.2.2.4. Một số ngôn ngữ khác
Ngoài những ngôn ngữ như tiếng Anh, Pháp và Trung Quốc như đã đề cập
ở trên, các tư liệu thuộc các ngôn ngữ khác do người Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha cũng đề cập đến Cù Lao Ré và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến đó là cuốn sách “Reise um die Welt in den Jahren 1803,
1804, 1805 un 1806” (Du lịch vòng quanh thế giới trong những năm 1803, 1804,
1805 và 1806) của Ivan Fredorovich Kruzenshtern xuất bản tại Berlin (Đức) năm
1812. Trong cuốn sách này, tác giả ngoài việc mô tả tình hình Việt Nam còn nhắc
đến quần đảo Paracels thuộc về Cochinchina. Bên cạnh đó, công trình “Diccionario
geográfico Universal que contiene la descripción de todos los paises de las cinco
partes del mundo” (Từ điển địa lý phổ thông mô tả tất cả các quốc gia trong 5 châu
trên thế giới) của tác giả Malte Brun xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha tại Madrid
năm 1832 cũng nhắc đến quần đảo Paracels là chuỗi đảo đá nằm ngoài bở biển của
26
Cochinchina. Cuốn “Corso di geografia commercial” (Khóa học về địa lý thương
mại) xuất bản tại Genova (Italia) năm 1857 cũng đề cập đến quần đảo Paracels là
nhóm đảo đá nguy hiểm nằm ở ngoài bở biển thuộc Cochinchina. Cuốn sách này là
cuốn sách địa lý dùng để giảng dạy tại Italia lúc bấy giờ và vì vậy sự phổ cập thông
tin về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mặc nhiên được thừa nhận như một bộ
phận của lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài các công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí hoặc xuất bản
thành sách, hàng loạt các bản đồ cổ của các nhà hàng hải, địa lý và các nhà khoa
học phương Tây vẽ về Cù Lao Ré cũng như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam trong thời kỳ này.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước và nước ngoài
liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án cho thấy:
Thứ nhất, các bài viết đề cập trực tiếp đến Cù Lao Ré ở nhiều góc độ khác
nhau ở những bài nghiên cứu riêng rẽ trong đó tập trung vào phần văn hóa truyền
thống ở Cù Lao Ré, đặc biệt lễ “Khao lề thế lính Hoàng Sa”. Điển hình cho
hướng nghiên cứu này là Nguyễn Đăng Vũ, Đoàn Ngọc Khôi và Mai Trọng
Anh,… Những nghiên cứu cụ thể về Cù Lao Ré không nhiều và thiếu vắng các
nghiên cứu về lịch sử khai phá, tổ chức quản lý xã hội cũng như vai trò của Cù
Lao Ré đối với sự ra đời đội Hoàng Sa trong lịch sử. Các cá nhân lịch sử trong
đội Hoàng Sa của Cù Lao Ré được đề cập đến trong chính sử và châu bản đều
không được nghiên cứu;
Thứ hai, vấn đề lịch sử hình thành và thực thi nhiệm vụ của đội Hoàng Sa
được các học giả đặt vấn đề nghiên cứu và đề cập đến nhiều nhất, điển hình là các
nghiên cứu của Nguyễn Quang Ngọc Nguyễn Nhã, Trần Công Trục và Nguyễn
Đình Đầu, ... Các nghiên cứu tập trung đề cập đến tổ chức và hoạt động của đội
Hoàng Sa nhưng thời gian thành lập đội Hoàng Sa còn có những ý kiến khác nhau.
Các nghiên cứu chỉ mới đề cập mà chưa làm rõ về sự kiện đội Hoàng Sa được nhập
vào đội Thủy dưới quân triều Nguyễn. Những vấn đề trên được luận án kế thừa và
tiếp tục làm rõ;
Thứ ba, các nghiên cứu khác đặt hoạt động đội Hoàng Sa trong tổng thể
27
chính sách và hành động của Nhà nước phong kiến. Chính vì vậy, những nghiên
cứu này dù đề cập đến đội Hoàng Sa nhưng đồng thời cũng bỏ qua vị trí, vai trò
và đóng góp của cư dân Cù Lao Ré đối với hoạt động của đội Hoàng Sa cũng
như đội Thủy quân nhà Nguyễn sau này trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển
đảo quốc gia;
Thứ tư, đa phần các công trình nước ngoài đề cập đến vị trí của Cù Lao Ré
(Pulo Canton) nằm sát đất liền và phía ngoài nó là quần đảo Paracels đầy nguy hiểm
trên tuyến hải thương quốc tế Âu – Á. Đáng chú ý nhất là tác giả Edyta Roszko với
các nghiên cứu trực tiếp về Cù Lao Ré ở khía cạnh tôn giáo tín ngưỡng cũng như
hoạt động kinh tế của hòn đảo này có liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa đối
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
Riêng nghiên cứu của các học giả Trung Quốc thì cố biện minh rằng Trung
Quốc đã làm chủ quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa). Bỏ qua tất
cả các cứ liệu của Việt Nam, các công trình nghiên cứu, bản đồ phương Tây đương
thời, đi xa hơn, họ cho rằng Cù Lao Ré – hòn đảo gần bờ thuộc tỉnh Quảng Ngãi là
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà lịch sử Việt Nam đề cập. Đại diện cho quan
điểm này là Hàn Chấn Hoa, Ngô Phượng Bân, Quách Vĩnh Phương, Đới Khả Lai và
Chang Quốc Thổ và Vu Hướng Đông.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu giải
quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án làm rõ vị trí địa lý trên tuyến hải thương quốc tế Biển
Đông cùng mối tương quan với đất liền. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của Cù
Lao Ré trong chiến lược biển cũng như hành động khẳng định và bảo vệ chủ quyền
quốc gia đối với các quần đảo trên Biển Đông của Nhà nước phong kiến Việt Nam;
Thứ hai, luận án dựng lại lịch sử Cù Lao Ré trước khi người Việt xuất hiện
để từ đó làm cơ sở tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ khoảng thời gian lớp người
Việt đầu tiên ra khai canh và định cư trên đảo: về số lượng, quê quán, dòng họ cùng
những đóng góp đặc biệt của họ khi ra khai canh Cù Lao Ré thuở ban đầu trong quá
trình tụ cư lập phường (tức làng);
Thứ ba, luận án nghiên cứu mọi mặt của Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến
28
giữa thế kỷ XIX, đặc biệt vấn đề kinh tế, tổ chức xã hội của Cù Lao Ré trước và
sau khi tách ra thành đơn vị hành chính cấp cơ sở và mối quan hệ của nó với đối
với đất liền;
Thứ tư, luận án phục dựng lại đời sống văn hóa của nhân dân trên Cù Lao Ré
để từ đó có cái nhìn tổng quát về đời sống văn hóa, đặc biệt hệ thống các di tích văn
hóa lịch sử, nghi lễ và hội hè liên quan đến hoạt động kinh tế truyền thống của của
cư dân Cù Lao Ré – nghề đi biển cũng như những cống hiến của họ đối với hoạt
động bảo vệ chủ quyền biển đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
Thứ năm, luận án làm rõ sự cống hiến của cư dân Cù Lao Ré với tư cách là
quê hương của đội Hoàng Sa từ thời các chúa Nguyễn cho đến đầu thế kỷ XIX;
đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền trên
quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XIX.
29
Chương 2
CÙ LAO RÉ: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ TỤ CƯ
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Tên gọi, vị trí địa lý, địa hình và khí hậu
2.1.1.1. Tên gọi
Từ rất sớm trên Cù Lao Ré đã có con người sinh sống là cư dân Xóm Ốc và
cư dân Suối Chình5 thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân Chămpa nói hệ ngôn ngữ
Malayo – Polisesien và trong ngôn ngữ này từ “pulao” hoặc “pulau” dùng để gọi
những hòn đảo ven bờ nổi lên trên mặt biển. Tương truyền, cư dân Chămpa gọi hòn
đảo này là “pulau” Ré và được giải thích là vì trên đảo mọc nhiều cây “Ré”. Trong
quá trình Nam tiến, người Việt cộng cư tiếp biến văn hóa Chămpa và đã Việt hóa
tên gọi hòn đảo này thành Cù Lao Ré cũng như Việt hóa tên gọi các hòn đảo khác
thành “cù lao” ở ven bờ biển miền Nam Trung bộ Việt Nam. Từ đó, Cù Lao Ré
được người Việt sử dụng phổ biến, quen thuộc cho đến tận ngày nay.
Từ thế kỷ XVI – XVII, hàng loạt ghi chép, các tấm bản đồ vẽ về Việt Nam
được in ấn và phổ biến bằng nhiều thứ tiếng trong đó có Cù Lao Ré. Đầu tiên phải
kể đến là “Doanh Nhai Thắng Lãm” do Mã Hoan viết ở thời nhà Minh nói về cuộc
đi sứ của Trịnh Hòa xuống vùng Đông Nam Á có đoạn “đến Chiêm Thành nghỉ ở
đó cho tới ngày 17 tháng 6 năm 1433 lại lên đường và đến ngày 19 tháng 6 năm
1433 đã đến Wai Lo Shan (tức Ngoại La Sơn)” [102, tr. 24 - 25]. Còn trong các
công trình nghiên cứu phương Tây khi viết về Cù Lao Ré tương đối ngắn gọn như
“Pullo Canton, nằm gần bờ biển, cũng giống như các đảo của Champello (Cù Lao
Chàm) nhưng không có nguy hiểm” [143, tr. 209], hoặc “Pulo Canton, còn được gọi
là Pulo Ratan” [149, tr. 100 -101] và “Pulo Canton, còn được người bản địa gọi là
Cu Lao Ray” [144, tr. 319]. Trong bản đồ “Insulae Indiae Orientalis” (Những hòn
đảo phía đông Ấn Độ) [202] và tấm bản đồ châu Á “Asiae Nova Descriptio” (Bản
5 Tên gọi hai địa chỉ khảo cổ phát hiện và khai quật trên đảo Lý Sơn. Theo kết quả của các đợt khai quật từ năm 1977, đặc biệt từ năm 1996 đến 2002, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khẳng định cư dân Xóm Ốc và Suối Chình là lớp cư dân của nền văn Hóa Sa Huỳnh nói hệ ngôn ngữ Malayo - Polinesien. Xem thêm Đoàn Ngọc Khôi (2003), Di tích Xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ, LATS Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Viện Khảo cổ học, Trung Tâm KHXH và Nhân văn Quốc gia.
đồ châu Á mới) [204], Cù Lao Ré được vẽ sát vào bờ biển miền Trung gọi là Pulo
30
Contan. Còn tấm bản đồ của Nicolas Sanson [208] vẽ về đảo Cù Lao Ré và ký hiệu
là P. Canton. Tuy nhiên, trong tấm bản đồ của Giovanni Giacomo Rossi, Cù Lao Ré
được gọi là Pulo Cantan với chú thích ở dưới là Colaure [206], [207].
Ngoài ra còn hàng loạt các bản đồ khác như tấm bản đồ của Nicolas de Fer
[200]; bản đồ của G. de L’isle [203]; bản đồ của G. B. Albrizzi [194], [195]; bản đồ
của Emanuel Bowen [196]; bản đồ của G.R. Vaugondy và D.R. Vaugondy [212]
đều vẽ Cù Lao Ré với tên gọi P. Canton. Đến năm 1773 tiếp tục xuất hiện tấm bản
đồ của E. van Harrevelt và D.J. Changuion [201]. Đây là một trong những bản đồ
đẹp và chi tiết về khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Bản đồ này thể hiện
rất rõ các đảo ven bờ và Cù Lao Ré được ký hiệu là P. Canton. Trong hàng loạt các
bản đồ khác, Cù Lao Ré đều được thể hiện một cách rõ ràng với tên Pulo Canton
hoặc ký hiệu là P. Canton. Trong công trình “Etude sur un Portulan annamite du
XVe siècle” (Nghiên cứu về bản đồ Annam thế kỷ XV), tác giả G. Dumoutier vẽ Cù
Lao Ré và gọi là Hải Du Trường sơn [102, tr. 25]. Trong tấm bản đồ “Partie de la
Cochinchine” (Một phần của Cochinchine) số 106 của Phillippe Vandermaelen thể
hiện đường bờ biển miền Trung Việt Nam từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 16, Cù Lao
Ré được ký hiệu là “P. Canton ou Cacitam” [211]. Đến năm 1838, trong “An Nam
Đại quốc họa đồ” của giáo sĩ Jean Louis Taberd, Cù Lao Ré được chú thích là “Cù
Lao Ré seu Poulo Canton” [210], tức Cù Lao Ré hay là Poulo Canton.
Còn trong “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, Đỗ Bá gọi Cù Lao Ré là “Du
Trường” [4, tr. 26] đồng thời cho biết ở Cù Lao Ré đã có sự quản lý của chính
quyền phong kiến Việt Nam. Lê Quý Đôn cũng cho biết “ở ngoài cửa biển xã Vĩnh
An huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré” [17, tr. 150]. Hàng loạt các công trình
của các sử gia thời Lê – Trịnh và các công trình sử học, địa lý thời Nguyễn sau này
đều gọi hòn đảo này là Cù Lao Ré hoặc tên chữ là Lý Sơn, Cù lao Lý, xứ Lý Sơn.
Điều này cho thấy chí ít thì từ đầu thế kỷ XVII, Cù Lao Ré đã thực sự trở thành tên
gọi của hòn đảo này. Địa danh Cù Lao Ré hoặc Lý Sơn được sử dụng trong các văn
bản, sử sách của nhà nước phong kiến Việt Nam khi đề cập đến các sự kiện diễn ra
hoặc liên quan đến đảo. Đến năm 1804, theo đơn đề nghị của phường An Vĩnh,
triều Nguyễn đã tách Cù Lao Ré ra khỏi xã cũ trong đất liền [35, tr. 31]. Đến đây,
Cù Lao Ré chính thức trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống hành
31
chính quốc gia dưới triều Nguyễn. Năm 1898 dưới đời vua Thành Thái, triều
Nguyễn mới đổi xứ Lý Sơn thành tổng Lý Sơn6.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Cù Lao Ré giữ nguyên tên gọi là
tổng Lý Sơn như dưới triều Nguyễn gồm hai xã: xã An Hải đổi thành Hải Yến và xã
An Vĩnh thì đổi thành Vĩnh Long, thuộc phủ Quảng Nghĩa. Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, Lý Sơn đổi thành tổng Trần Thành, xã Vĩnh Long giữ nguyên tên
như trước còn xã Hải Yến thì đổi tên thành Dương Xạ. Nhưng đến năm 1946, Ủy
ban hành chính của tỉnh Quảng Ngãi thành lập đã đổi tổng Trần Thành lại thành xã
Lý Sơn, đổi tên xã Dương Xạ thành thôn Hải Yến, xã Vĩnh Long thành thôn Vĩnh
Long thuộc huyện Bình Sơn. Năm 1951, thực dân Pháp chiếm đóng đảo Lý Sơn và
tiến hành sát nhập Lý Sơn vào địa giới của thị xã Đà Nẵng.
Từ năm 1954 đến 1975, chính quyền Sài Gòn đặt Lý Sơn làm hai xã: xã An Vĩnh
đổi thành Bình Vĩnh và xã An Hải đổi thành tên Bình Yến. Sau năm 1975, Lý Sơn vẫn
giữ nguyên hai xã Bình Vĩnh và Bình Yến thuộc huyện Bình Sơn như trước. Đến ngày 1
tháng 1 năm 1993, theo Quyết định số 337 của Thủ tướng Chính phủ, Lý Sơn được tách
khỏi huyện Bình Sơn và nâng lên thành huyện gồm hai xã: xã Bình Vĩnh gọi là Lý Vĩnh
và xã Bình Yến gọi là Lý Hải. Đến năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 145
đổi tên gọi của hai xã Lý Vĩnh và Lý Hải về tên gọi như thời các chúa Nguyễn và thành
lập thêm một xã ở huyện đảo Lý Sơn trên Cù lao Bờ Bãi gọi là An Bình. Theo đó, xã Lý
Vĩnh quay trở lại với tên gọi An Vĩnh và xã Lý Hải đổi lại thành An Hải.
Như vậy trong lịch sử, Cù Lao Ré có nhiều cách gọi khác nhau như “Pulau”
Ré (tiếng Chămpa), Ngoại La Sơn (tiếng Trung), Pullo Canton, Pulo Cantan, Pulo
Canton, Colauray hoặc được ký hiệu là P. Canton (phương Tây). Còn trong tiếng
Việt thì Cù Lao Ré và Lý Sơn được sử dụng trong tất cả các văn bản Nhà nước
phong kiến cũng như các công trình sử học, địa lý và bản đồ quốc gia đương thời.
Từ thế kỷ XVII cho đến năm 1993, Cù Lao Ré với hai phường An Vĩnh và An Hải
đã trở thành đơn vị hành chính cấp huyện với tên gọi là Lý Sơn. Từ năm 2003 đến
nay, địa giới hành chính của huyện đảo Lý Sơn ổn định gồm 3 xã trên Cù Lao Ré và
Cù lao Bờ Bãi. Ngoài tên gọi là Lý Sơn thì Cù Lao Ré vẫn được dân gian sử dụng
6 Các tác giả của “Địa chí tỉnh Quảng Ngãi” Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội năm 2008, trang 947 chép nhầm là “năm 1808 Lý Sơn đã được triều Nguyễn nâng lên cấp tổng gồm hai phường An Vĩnh và An Hải”.
rộng rãi để chỉ hòn đảo này.
32
2.1.1.2. Vị trí địa lý
Với vị trí địa lý đặc biệt án ngữ trên tuyến thương mại biển Đông, Cù Lao Ré
cũng như một số hòn đảo ven bờ khác của Việt Nam sớm đã được các nhà hàng hải
đề cập đến và được các nhà bản đồ học thế giới ghi nhận từ rất sớm.
Đầu tiên có thể kể đến đó là bản đồ “Insulae Indiae Orientalis” (Những hòn
đảo phía đông Ấn Độ) [202] (xem phụ lục 1.1) của nhà bản đồ học lừng danh người
Hà Lan Jodocus Hondius, Cù Lao Ré được thể hiện rõ một hòn đảo gần bờ với chú
thích tên gọi là Pulo Contan, phía ngoài là quần đảo Pracel hình đuôi nheo. Trong
tấm bản đồ châu Á “Asiae Nova Descriptio” (Bản đồ châu Á mới) [204] của G.
Mercator và J. Hondius, Cù Lao Ré được vẽ sát bờ biển, quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam được vẽ hình đuôi nheo cách biệt rõ ràng với Cù Lao Ré.
Bản đồ “Cartes generals de Toutes les bên du Monde” (Bản đồ chung tất cả thế
giới) [208] của Nicolas Sanson vẽ toàn bộ Ấn Độ và một phần khu vực Đông Nam
Á. Điều đặc biệt ở bản đồ này là Cù Lao Ré được vẽ rất rõ ràng nằm phía dưới vịnh
Turon (Đà Nẵng) với tên gọi là Polo Canton.
Còn nhà bản đồ học người Ý Giovanni Giacomo Rossi có hai tấm bản đồ:
bản đồ “Isole dell' India cioe la molucche Le Filippine” (Quần đảo Ấn Độ, tức là
Moluccas và Philippine) [206] vẽ bao quát toàn bộ khu vực Đông Nam Á hải đảo và
một phần lãnh thổ Việt Nam. Riêng bản đồ “Penisola della India” (Bán đảo Ấn Độ)
[207] (xem phụ lục 1.2) thể hiện toàn bộ khu vực Đông Nam Á lục địa và bờ biển
Việt Nam, Cù Lao Ré được tác giả thể hiện với tên gọi Pulo Cantan cùng chú thích
ở dưới là Colaure.
Bước sang thế kỷ XVIII, hàng loạt các bản đồ vẽ về bờ biển Việt Nam được
xuất bản như bản đồ của Nicolas de Fer (Pháp) (xem phụ lục 1.3), G. de L’isle
(Pháp). Trong công trình đồ sộ “Atlas Universel of Gilles and Didier Robert de
Vaugondy”7 của hai cha con nhà Vaugondy có bản đồ “Les Indes Orientales, ou
sont distingues les Empires et Royaumes” (Đông Ấn, hoặc phân biệt giữa đế quốc
7 Đến năm 1757, Gilles và con trai ông Didier Robert de Vaugondy tiếp tục công bố công trình bản đồ “The Atlas Universel”. Công trình này được coi là một trong những tập bản đồ quan trọng nhất của thế kỷ XVIII nên được tái bản nhiều lần sau đó. Các tấm bản đồ có sự hiện diện lãnh thổ Việt Nam vẫn được thể hiện như trước.
và các quốc gia) [212]. Giống các bản đồ trước, bản đồ này vẽ về Ấn Độ và bao
33
gồm cả Đông Dương tuy nhiên đối với các đảo ven bờ của Việt Nam thì tác giả lại
chỉ vẽ đảo P. Canton (Cù Lao Ré) và P.Champella (tức Cù lao Chàm). Còn bản đồ
“Carte Des Royaumes de Siam, de Tunquin, Pegu. Aracan &c” (Bản đồ các quốc
gia Siam, Tunquin, Pegu, Aracan &c) [201] (xem phụ lục 1.7) của E. van Harrevelt
và D.J. Changuion vẽ về Đông Nam Á có thể nói là một trong những bản đồ đẹp và
chi tiết, Cù Lao Ré được vẽ sát với bờ biển Quảng Ngãi và chú thích là P. Canton.
Trong bản đồ “A chart of the China Sea inscribed to Monsr” (Một biểu đồ
Biển Đông để ghi nhớ Monsr) [198] (xem phụ lục 1.8), Jean-Baptiste D'Apres de
Mannevillette và Alexander Dalrymple lấy biển Đông làm không gian chính, bờ
biển Việt Nam được thể hiện cùng với các đảo, vũng vịnh ven bờ. Giống các bản đồ
trước đó, Cù Lao Ré (P. Canton) được thể hiện nổi bật và tách biệt với hòn đảo này
ngoài biển Đông là quần đảo Pracel (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) như lưỡi
mác song song với bờ biển miền Trung. Bên cạnh đó, các tấm bản đồ khác như “Les
Indes Orienta les tirées du Neptune Oriental” (Tuyến hàng hải thuộc phía đông Ấn
Độ) [209] của P. Santini và M. Remondini. Bộ bản đồ “The Universal Traveller”
với tấm bản đồ “An Accurate Map of India” (Bản đồ chính xác về Ấn Độ) (xem phụ
lục 1.9) của Rollos và George đều ghi nhận về Cù Lao Ré.
Đến đầu thế kỷ XIX, nhà Bản đồ học Thomas Brown đã xuất bản công trình
bản đồ “Thomas Brown's General Atlas” (Atlas tổng hợp của Thomas Brown). Trong
tập bản đồ này, “A New and Accurate Map of the Islands and Channels between
China and New Holland” (Bản đồ mới và chính xác về các đảo và eo biển giữa Trung
Quốc và New Holland) là tấm bản đồ trọn vẹn về khu vực Đông Nam Á. Bản đồ này
vẽ đảo Cù Lao Ré (P.Canton) nằm sát bờ biển Quảng Ngãi cách biệt rõ ràng với quần
đảo Paracels. Đặc biệt trong bộ “Atlas Universel De Géographie (Physique, Politique,
Statistique et Minéralogique)” (Bộ Atlas Địa lý (Vật lý, Chính trị, Thống kê và Khai
mỏ))của Phillippe Vandermaelen có tấm bản đồ số 106 mang tên “Partie de la
Cochinchine” (Một phần của Cochinchine) [211] (xem phụ lục 1.10) thể hiện đường bờ
biển miền Trung Việt Nam từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 16. Với phương pháp vẽ bản đồ
khoa học hiện đại, Phillippe Vandermaelen đã đánh dấu chính xác Cù Lao Ré (P.
Canton ou Cacitam) và phân biệt hết sức rõ ràng với quần đảo Hoàng Sa ở giữa Biển
Đông. Có thể nói, trong hàng loạt các bản đồ vẽ về lãnh thổ Việt Nam của các nhà
34
khoa học phương Tây thì hệ thống bản đồ của nhà Bản đồ học người Bỉ Phillippe
Vandermaelen được các nhà khoa học đánh giá là bản đồ chính xác, rõ ràng nhất.
Trong các bản đồ Việt Nam thời phong kiến, đề cập sớm nhất về vị trí địa lý
của Cù Lao Ré là tập bản đồ “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá. Trong bản đồ
vẽ vùng phủ Tư Nghĩa và phủ Thăng Hoa, Cù Lao Ré nằm ở phía ngoài cửa biển Sa
Kỳ với chú giải “Ngoài cửa Sa Kỳ có một núi. Trên núi có nhiều sản mộc, tên là núi
Du Trường, có tuần.” [4, tr. 26]. Còn Lê Quý Đôn thì phản ánh “ở ngoài cửa biển xã
Vĩnh An huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường
Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển 4 canh thì đến” [17, tr. 150]. Các công trình sử
học và địa lý Việt Nam dưới thời phong kiến khi chép về vị trí địa lý của Cù Lao Ré
cũng không khác nhiều so với Lê Quý Đôn đã đề cập. Từ sự thống nhất của các tài
liệu cho biết vị trí của Cù Lao Ré khá chính xác so với sự đo đạc ngày nay.
Cù Lao Ré không chỉ là “nhịp cầu” nối đất liền với quần đảo Paracels và nằm
trên tuyến hàng hải quốc tế lúc bấy giờ mà ở đây còn có đầy đủ nước ngọt, lương thực,
thực phẩm có thể đáp ứng của thuyền bè qua lại. Vì lẽ đó, hàng loạt tài liệu phương
Tây đương thời đều lưu ý đề cập đến “Pulo Canton, còn được gọi là Pulo Ratan, có
các điểm cực khá cao và vị trí thấp trung bình của nó làm cho nó có sự xuất hiện của
hai hòn đảo, được miêu tả vào ngày 22 tháng 5” [148, tr. 152]. Đồng thời cho biết từ
rất sớm, các ngư dân trên Cù Lao Ré và ngư dân ven biển Việt Nam đã làm chủ ngư
trường Biển Đông. Bên cạnh đó, vị trí địa lý cùng đặc điểm của Cù Lao Ré còn được
miêu tả kỹ lưỡng hơn như sau: “Pulo Canton, còn được người bản địa gọi là Cu Lao
Ray, nằm ở vĩ tuyến 15,23 độ Bắc, kinh tuyến 109,6 độ đông hoặc 4,38 độ Tây từ
Grand Ladrone khi đo bằng máy đo hằng hải, nằm ở khoảng cách 4 hải lý từ mũi đất
Batantan8, và bờ biển đối diện với nó nằm chếch về phía Bắc của mũi đất” [144, tr.
319]. Tác giả cũng chỉ rõ “ở phía Tây có người sinh sống, trồng trọt tốt, và ở đây còn
có nước ngọt. Một bãi đá ngầm nhô ra từ phía đầu Đông Nam của hòn đảo9, và về
phía Bắc, có những xoáy nước phía dưới là đá, trải dài khoảng một hải lý tính từ vị trí
8 Mũi đất Batantan tức là mũi đất Ba làng An thuộc huyện Bình Châu của Quảng Ngãi ngày nay, nơi vươn ra Biển Đông gần với quần đảo Hoàng Sa nhất của Việt Nam tính từ trong đất liền. 9 Bãi đá Mù Cu của Cù Lao Ré. 10 Tức Cù lao Bờ Bãi, nay là xã An Bình của huyện đảo Lý Sơn.
của nó tới Low Island10 nằm ở phía Tây Bắc của Pulo Canton” [144, tr. 319].
35
Cù Lao Ré tức huyện đảo Lý Sơn ngày nay ở vị trí phía Đông Bắc của tỉnh
Quảng Ngãi, cách bờ đất liền khoảng 18 hải lý, gồm đảo lớn Cù Lao Ré và một đảo
nhỏ gọi là Cù lao Bờ Bãi. Khoảng cách giữa hai hòn đảo này là 1,67 hải lý. Tọa độ
địa lý của Cù Lao Ré nằm trong khoảng 1500 32’ 14’’ đến 1500 38’ 14’’ vĩ độ Bắc
và 1090 05’ 04’’ đến 1090 14’ 12’’ kinh độ Đông. Huyện đảo Lý Sơn gồm có 3 xã là
An Vĩnh, An Hải nằm trên Cù Lao Ré và xã An Bình nằm trên Cù lao Bờ Bãi. Diện
tích toàn đảo Cù Lao Ré là 9,97 km2, trong đó xã An Hải có diện tích là 5,09 km2 và
xã An Vĩnh có diện tích là 4,88 km2. Toàn huyện đảo Lý Sơn hiện nay có dân số lên
đến 21.118 người, mật độ dân số đạt mức 2.045 người [11, tr. 8].
Vị trí địa lý Cù Lao Ré mang tính chiến lược đối với Việt Nam trong việc
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời
phong kiến. Không những vậy, Cù Lao Ré còn có vị trí đặc biệt quan trọng đối với
nền hải thương quốc tế, đặc biệt đối với nền thương mại biển Đông, là điểm dừng
chân an toàn có thể được tiếp tế lương thực, nước ngọt cho tàu thuyền qua lại.
2.1.1.3. Cấu tạo địa chất và diện mạo địa hình
Theo các nhà khoa học địa chất, Cù Lao Ré thuộc vào địa khối Indosinia và
chịu sự chi phối về hoạt động địa chất của địa hình khối này. Phần phía nam của Cù
Lao Ré có mối quan hệ mật thiết với địa khối nhỏ Kontum cùng các đá có tuổi tiền
Cambri khoảng trên 520 triệu năm trước phổ biến rộng rãi. Ở phần phía nam này
của đảo, vào cuối Neogen đầu Đệ Tứ đã xuất hiện những hoạt động phun trào bazan
rộng khắp để hình thành các vùng đất đỏ phì nhiêu. Chính vì quá trình thành tạo địa
chất như vậy, đất đá trên Cù Lao Ré có cấu tạo có đặc điểm cùng loại với các đồi
núi ven biển trong vùng duyên hải của đất liền, bởi lẽ thực tế đó chỉ là phần rìa của
lục địa bị nước biển tràn ngập từ giữa Pleistocene đến nay. Về địa hình nó có dạng
khối với các đỉnh nhô cao tạo thành núi, có sườn dốc và ở chân sườn đổ xuống biển
có một sườn đá vụn có bề mặt ngang hoặc rất thoải bao bọc.
Về diện mạo, Cù Lao Ré nhìn từ vệ tinh trong giống như con hải mã đầu
hướng biển chân đạp sóng nước mà bơi tới. Địa hình trên đảo khác nhau theo từng
khu vực. Nơi cao nhất của Cù Lao Ré là vùng phía bắc của đảo với núi Thới Lới và
thoải dần về phía nam của khu vực dân cư sinh sống, canh tác. Mặc dù vậy thì vùng
phía nam cũng có độ cao lên đến 20 – 30m so với mặt biển, bề mặt địa hình có độ
36
dốc dưới 80. Bậc thềm chân núi có độ dốc từ 80 đến 150 được dân chúng khai thác
trồng hành, tỏi và các loại cây ăn quả. Hệ thống núi trên đảo do hoạt động núi lửa
hình thành gồm 5 ngọn là Thới Lới, Giếng Tiền, Hòn Vung, Hòn Sỏi, Hòn Tai,
trong đó cao nhất là núi Thới Lới với 167m [102, tr. 17 - 18]. Một số núi có đỉnh
hình nón và một số núi lại có miệng hình lòng chảo. Hoạt động phun trào nham
thạch và mắc ma của các núi lửa tạo thành lớp đất bazan màu mỡ tươi tốt đồng thời
còn tạo nên những rạng đá ngầm cùng một số cảnh quan thiên nhiên khá đẹp.
2.1.1.4. Khí hậu
Cù Lao Ré chịu tác động chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên có hai mùa rõ
rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, chiếm
khoảng 71% lượng mưa của năm. Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8 ảnh hưởng của gió
Tây Nam nóng và khô. Tuy nhiên ở Cù Lao Ré số lượng giờ nắng cao, trung bình từ 2.300 giờ đến 2.600 giờ. Nhiệt độ trung bình ở mùa này là 26,40C. Sự chênh lệch nhiệt độ trong năm là khá cao, tháng 8 nhiệt độ lên cao nhất, đạt trung bình 29,90C, nhưng ở tháng 12 nền nhiệt độ xuống thấp nhất trong năm thì chỉ có 22,20C. Tổng lượng bức xạ
trên 2000 cal/năm. Độ ẩm không khí trung bình là 85% [102, tr. 18].
2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
2.1.2.1. Tài nguyên đất
Đất đai của Cù Lao Ré chủ yếu có hai loại: đất cát biển có diện tích 110 ha, chiếm
10% diện tích tự nhiên, phần lớn tập trung ở phía tây của đảo; đất nâu đỏ trên nền đá
bazan chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của Cù Lao Ré với 877 ha, chiếm 83% diện tích tự nhiên. Có khoảng 680 ha đất nâu đỏ dày trên 1m và độ dốc dưới 800. Loại đất này
màu mỡ, hàm lượng các chất dinh dưỡng cho cây trồng đảm bảo từ trung bình trở lên,
thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp và các loại cây trồng lưu niên khác. Tổng diện
tích đất đai sản xuất của Cù Lao Ré là 800 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 400 ha,
đất lâm nghiệp chiếm 182 ha, đất chưa sử dụng là 218 ha. Đất nông nghiệp trên đảo được
sử dụng canh tác theo hai dạng: trồng cây hoa màu hàng năm là 383 ha bao gồm các loại
hành, tỏi, đỗ đậu, rau, ngô; còn đất trồng cây ăn quả lưu niên 17 ha.
Bãi cát ven biển có diện tích khoảng 42 ha, chiếm 4% diện tích đất tự nhiên,
phân bố viền quanh đảo và tiếp giáp với biển. Tuy nhiên hiện nay, diện tích đất cát
tự nhiên đã bị thu hẹp và biến mất do nhu cầu trồng hành, tỏi người dân đã khai thác
gần đến cạn kiệt [102, tr. 18 – 19].
37
2.1.2.2. Tài nguyên rừng
Rừng tự nhiên trên Cù Lao Ré có diện tích khá lớn, phân bố ở các núi và
thềm chân núi như rừng Cây Minh, rừng Truông, rừng Nhợ, rừng Cây Gạo, rừng Bà
Bút, rừng Phật. Thời phong kiến, rừng tự nhiên được bảo vệ khá nghiêm ngặt. Theo
như trong quy ước của làng An Vĩnh và An Hải cho tác giả thấy các điều quy định
phạt vạ bằng tiền đối với những người tự ý chặt phá rừng cây ở các hòn núi trên
đảo. Do đó trước đây, rừng tự nhiên ở Cù Lao Ré được bảo vệ rất tốt.
Trong rừng của Cù Lao Ré ở thời tiền và sơ sử đã có nhiều loài thú rừng vì
trong các cuộc khai quật tại di chỉ Xóm Ốc thuộc xã An Vĩnh, các nhà khảo cổ đã
tìm thấy khá nhiều răng nanh, xương của loài lợn rừng, nai và một số xương của các
loài thú khác. Điều này chứng tỏ xưa kia trên Cù Lao Ré tồn tại các vùng rừng rậm,
các suối nước ngọt có nhiều loại thú sinh sống. Từ năm 1945 trở về đây, Cù Lao Ré
hầu như không còn rừng tự nhiên nữa. Hiện nay, huyện đảo Lý Sơn đang phát triển
diện tích rừng trồng để phủ xanh đất trống đồi trọc với kết quả tương đối khả quan.
2.1.2.3. Tài nguyên nước
Trên Cù Lao Ré có hai dòng suối tự nhiên đó là suối Chình ở xã An Hải và
suối Ốc ở xã An Vĩnh. Suối Chình bắt nguồn từ thềm chân núi Thới Lới, chảy về
phía nam và phía bắc của đảo. Suối Ốc bắt nguồn từ chân núi Hòn Sỏi và Giếng
Tiền chảy về phía nam của đảo. Thời tiền sử, con người đã dựa vào hai dòng suối
này để sinh sống. Dọc theo hai con suối này ngày nay phát hiện được nhiều hiện vật
và các dấu tích văn hóa của họ.
Đặc biệt, Cù Lao Ré còn có một trữ lượng nước ngọt lớn ngầm dưới lòng đất.
Ngày nay, đây là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho cư dân Lý Sơn sinh hoạt và phát
triển kinh tế. Nguyên nhân giúp cho Cù Lao Ré có trữ lượng nước ngọt ngầm lớn là
do kết cấu địa chất đặc thù. Tầng đất phía trên là loại đất bazan thấm nước lại giữ ẩm
tốt và nền đất nguyên thủy chính là tầng đất cát trắng có khả năng lọc nước tốt.
2.1.2.4. Tài nguyên biển
Cù Lao Ré được bao bọc xung quanh là biển cả mênh mông cùng kiến tạo
địa chất bậc thềm chân đảo chìm sâu trong lòng biển tạo nên các rạng đá ngầm phân
bố từ dìa mép đảo ra ngoài khơi. Đây là điều kiện tốt cho các loài hải sản sinh sống.
Hệ cá của vùng biển miền Trung Việt Nam có thành phần vô cùng đa dạng với
khoảng trên 600 loài, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao và có trữ lượng
38
lớn như: cá thu, cá ngừ, cá mực, cá trích, các loại ốc biển, víc, hải sâm, rong biển,…
Theo dân gian, khoảng đầu thế kỷ XX trở về trước, vùng biển của Cù Lao Ré có
nguồn cá trích vô cùng phong phú. Hàng năm vào tháng 7 đến tháng 11, đàn cá trích
tập trung ở vùng phía nam Cù Lao Ré với số lượng lớn. Ven bờ biển còn có các loại
ốc như ốc đụn, ốc hoa, ốc cừ, ốc nhảy, ốc cay, ốc tai tượng, ốc bàn tay,… đây chính
là nguồn đánh bắt thường xuyên của cư dân trên đảo.
Với vị trí địa lý không quá cách xa đất liền, lại án ngữ trên tuyến hàng hải ven
bờ từ Nam ra Bắc, môi trường tự nhiên của Cù Lao Ré đặc biệt thuận lợi cho sự quần
cư sinh sống của con người. Không những vậy, Cù Lao Ré lại được sở hữu một môi
trường biển rộng lớn bao la giàu tài nguyên hải sản. Đây chính là một trong những yếu
tố giúp cho cư dân trên Cù Lao Ré yên tâm sinh sống định cư. Và sau này, người Việt
ra khai chiếm đảo đã nhanh chóng hình thành làng xóm đồng thời lấy Cù Lao Ré làm
cơ sở để tiến ra Biển Đông khai thác nguồn lợi bao la của biển cả.
2.2. Lịch sử tụ cư trên Cù Lao Ré
2.2.1. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa
2.2.1.1. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh
Theo các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới, Cù Lao Ré từ rất sớm đã có
con người cư trú, sinh cơ lập nghiệp. Thông qua kết quả các cuộc khai quật khảo cổ
học ở Xóm Ốc và Suối Chình cho thấy trên Cù Lao Ré cách đây khoảng từ 3000
năm đến 2500 năm đã có cư dân cổ thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh sinh sống.
Cư dân Xóm Ốc11
Di tích xóm Ốc thuộc thôn Đông xã An Vĩnh phân bố trên diện tích 10.000
m2, nằm dọc theo dòng suối cổ đã bị bồi lấp và gần bờ biển. Các lần khai quật xóm
Ốc cho thấy đặc điểm cấu tạo tầng văn hóa phát triển liên tục từ sớm đến muộn, gồm
3 lớp: lớp đất canh tác trên bề mặt dày từ 20cm đến 40cm; kế đến là lớp văn hóa dày
khoảng 130cm đến 150cm đất màu xám nâu chứa khá nhiều di vật mà cư dân cổ Xóm
11 Dân gian trên Cù Lao Ré gọi là xóm Ốc bởi dưới lòng đất khu vực này xuất hiện nhiều vỏ ốc. Đặc biệt, trong khi đào đất thuộc khu vực này, người ta còn phát hiện được nhiều mảnh gốm, nồi, bình và bát bồng là những di vật của nền văn hóa Sa Huỳnh.
Ốc để lại; lớp đất cuối cùng là lớp sinh thổ có màu cát trắng mịn.
39
Trong di chỉ Xóm Ốc thu được các hiện vật bằng đá như cuốc, rìu, bôn đá12.
Ngoài ra còn có chày nghiền, bàn nghiền, bàn mài, hòn kê,... bằng đá với tổng số 59
hiện vật được tìm thấy ở nơi cư trú. Hiện vật bằng xương ở di chỉ Xóm Ốc lên đến
225 mũi nhọn, trong đó: 115 mũi nhọn được chế tác từ xương thú và 110 mũi nhọn
được chế tác từ xương cá. Theo đánh giá của các nhà khảo cổ, những mũi nhọn này
dùng làm kim khâu vá và để móc lưới. Trong hố khai quật, các nhà khảo cổ còn thu
được nhiều hiện vật như công cụ và đồ trang sức được chế tác từ vỏ các loài ốc biển
nổi tiếng ở Cù Lao Ré như ốc tai tượng, ốc cừ, ốc đụn, ốc cối, ốc xéo, ... [102, tr. 34].
Về đồ gốm, các nhà khảo cổ tìm thấy 32.320 mảnh gốm Tiền Sa Huỳnh và
Sa Huỳnh được phân loại theo màu sắc, chất liệu, loại hình và hoa văn. Ngoài ra
trong hố khai quật còn thu được 2.770 mảnh gốm Sa Huỳnh – Chămpa từ giai đoạn
đầu đến giai đoạn muộn. Loại hình gốm Xóm Ốc khá phong phú và phổ biến nhất là
các loại nồi, bình, bát bồng, con tiện... với các kiểu dáng khác nhau nhưng tập trung
ở ba loại hình là miệng loe, miệng đứng và miệng cúp. Trong đó, loại gốm miệng
loe đáy tròn chiếm đa số so với loại gốm có đế chân.
Đồ gốm Xóm Ốc được nặn bằng tay kết hợp với phối hợp bàn xoay chậm,
chất liệu gồm đất sét pha cát thô trộn lẫn vỏ nhuyễn thể và đem nung ở nhiệt độ từ 6000C đến 9000C. Hoa văn trang trí trên gốm gồm khắc vạch và in chấm và văn in
tạo nên những mô tuýp như khuông nhạc, sóng nước, nửa đường cong, hình ngọn
lửa, những băng hình tam giác... với màu đỏ, màu đen ánh chỉ trang trí và làm nền
cho các họa tiết. Sự hiện diện xuyên suốt của yếu tố Bình Châu nổi trội ở di chỉ
Xóm Ốc cũng xuất hiện phổ biến ở nhiều di tích ven biển Nam Trung bộ. Giai đoạn
muộn của di chỉ Xóm Ốc, bên cạnh gốm Sa Huỳnh muộn đã xuất hiện gốm Chămpa
sớm, gốm in văn ô vuông [102, tr. 36 - 37].
Tục táng của cư dân Xóm Ốc khá đa dạng với các kiểu mộ nồi vò và mộ
huyệt đất. Loại mộ nồi bụng tròn, miệng đứng, thân phủ hoa văn vặn thừng cao
trung bình 20cm và đường kính bụng trung bình 35cm chôn ở độ sau 1,15m đến
1,60m. Các mộ nồi tìm thấy ở di chỉ Xóm Ốc đều chứa di cốt trẻ em đã cải táng.
Điều này cho thấy mộ nồi chỉ dùng để làm quan tài cho trẻ em. Còn người lớn khi
chết được chôn trong các huyệt đất theo hình thức đơn táng hoặc song táng như 12 Trong hố khai quật năm 1996, các nhà khảo cổ đã tìm thấy các hiện vật gồm: 2 cuốc đá, 1 bôn đá và 1 hạch đá. Sang năm 1997, các nhà khảo cổ tiếp tục tìm thấy 8 chiếc cuốc đá và 2 chiếc rìu đá, nâng tổng số hiện vật được phát hiện lên con số 14.
40
trong các di tích Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh. Những hiện vật chôn theo trong mộ
cũng rất phong phú như nồi gốm to, bát bồng, bình và nồi gốm nhỏ có phong cách
gốm Bình Châu là màu đỏ và màu đen ánh chì kết hợp hoa văn khắc vạch khá tinh
xảo. Bên cạnh đó, mộ táng này còn có mũi tên đồng và vỏ ốc biển to có vân đẹp dân
gian gọi là ốc đụn [84, tr. 248].
Căn cứ vào phương pháp xác định phóng xạ C14 và đặc điểm của di vật di chỉ
Xóm Ốc có thể xác định niên đại lớp sớm tiền Sa Huỳnh của di chỉ Xóm Ốc khoảng
3000 năm cách ngày nay [29, tr. 105]. Cư dân Xóm Ốc đã biết đến việc xe sợi dệt vải và
tự làm đẹp. Tuy nhiên đa số đồ trang sức của cư dân Xóm Ốc vẫn là các loại vỏ sò và vỏ
các loại nhuyễn thể khác mà cư dân Xóm Ốc sử dụng kỹ thuật khoan, cưa, mài để tạo
nên. Thống kê trong lớp đất dày 20cm ở độ sâu 60cm – 60cm của hố khai quật đã có đến
483 đốt xương sống của các loài cá và 101 hàm răng cá cùng với gần 2 triệu vỏ ốc, vỏ sò
cho thấy đời sống vật chất của cư dân Xóm Ốc đã phát triển khá cao [84, tr. 250]. Từ
nghiên cứu các hiện vật của Xóm Ốc, cho thấy người cổ Xóm Ốc đã biết định hướng
phương thức sống là khai thác ven bờ và đã biết đi khơi xa đánh bắt cá bằng lưới. Di chỉ
Xóm Ốc là một di chỉ thuộc loại hình văn hóa biển của văn hóa Sa Huỳnh.
Nhìn chung, cư dân Xóm Ốc sống và ứng xử thích hợp trong điều kiện không
gian môi trường biển đảo, tiếp biến nhuần nhị các yếu tố văn minh từ bên ngoài để phát
triển mạnh mẽ các yếu tố nội sinh. Kinh nghiệm về biển đảo đã giúp cư dân văn hóa Sa
Huỳnh ở Xóm Ốc tồn tại và phát triển lâu dài từ trước công nguyên cho đến sau này
trên đảo Cù Lao Ré. Cư dân cổ Xóm Ốc đã tạo lập nên một đặc trưng văn hóa mang
sắc thái riêng của loại hình văn hóa biển của nền văn hóa Sa Huỳnh.
Cư dân Suối Chình
Di tích Suối Chình nằm ở phía đông của Cù Lao Ré, cách di tích Xóm Ốc khoảng 3km, thuộc thôn Đông xã An Hải với diện tích khoảng 10.000m2 phân bố
trên thềm đất phía nam ven chân núi Thới Lới. Trong tầng văn hóa Suối Chình có
sự tích tụ lớp vỏ nhuyễn thể, đá nguyên liệu, đá tự nhiên. Vỏ nhuyễn thể tụ trong
tầng văn hóa gồm các loại vỏ nhuyễn thể như vỏ ốc cừ, ốc hoa, ốc nhảy, ốc xéo, ốc
tai tượng, ốc đụn, ốc chìa vôi, ốc bàn tay, sò trơn, sò gai [102, tr. 41]. Sự tích tụ vỏ
nhuyễn thể trong tầng văn hóa Suối Chình có đặc điểm giống như ở Xóm Ốc.
Trong tầng văn hóa Suối Chình xuất hiện 6 ngôi mộ nồi với tục chôn đứng,
hai nồi úp lên nhau, bên trong cải táng di cốt trẻ em, một số mộ có cả đồ tùy táng.
41
Tục táng mộ nồi của cư dân Suối Chình là sự kế thừa truyền thống mộ nồi Xóm Ốc
bên trong cải táng di cốt trẻ em hoặc không có dấu vết di cốt. Tuy nhiên dạng mộ
nồi Suối Chình mang tính chất muộn hơn thể hiện ở kiểu dáng, hoa văn, xương gốm
với đặc điểm hai nồi chôn úp nhau kế thừa dạng mộ phong cách Xóm Ốc. Mộ nồi
Suối Chình đều là những quan tài cải táng di cốt trẻ em cùng các đồ tùy táng là
trang sức bằng vỏ nhuyễn thể, đồ gốm, hạt cườm hoặc hạt chuỗi bằng gốm. Điểm
đặc biệt, di tích Suối Chình chỉ thuần túy là mội nồi gồm một nồi nhỏ được coi như
nắp đậy úp lên một nồi lớn được coi như là quan tài cùng chôn đứng [102, tr. 46].
Bên cạnh đó, các nhà khoa học còn phát hiện được 67 hiện vật đá, 34 hiện vật
bằng vỏ nhuyễn thể, xương cá và xương sừng thú rừng, 15 hiện vật bằng đồng, sắt,
thủy tinh, 14 hiện vật bằng đất nung và 15.630 mảnh gốm vỡ từ những đồ đựng của
cư dân Suối Chình. Các hiện vật bằng đá, kim loại, vỏ nhuyễn thể này có nét riêng
chưa thấy ở Xóm Ốc đó là loại cuốc có vai, mai đá, đục. Các loại công cụ chế tác và
công cụ sinh hoạt bằng đá ở Suối Chình đều xuất hiện trước đó ở Xóm Ốc.
Trong tầng văn hóa Suối Chình tìm thấy loại hình đồ gốm đặc biệt bao gồm
các hiện vật đất nung Sa Huỳnh như dọi xe chỉ có 3 tiêu bản, thân trang trí hoa văn,
mặt cắt dọc hình thoi, có lỗ xuyên dây ở giữa. Gốm ghè tròn, có một tiêu bản được
ghè và mài tròn, bề mặt trang trí văn thừng có khả năng là đồ chơi của trẻ em. Đồ
gốm Chămpa trong tầng văn hóa Suối Chình xuất hiện các loại đồ gốm như bình
hình trứng có 2 tiêu bản, một chiếc còn nguyên, chiếc kia còn lại 2/3, chúng giống
hệt với những chiếc bình hình trứng ở Trà Kiệu, tuy nhiên xương gốm có phần mịn
và đỏ hơn. Bình có dáng hình trứng, phần thân và đáy thường mỏng, phần vai và
miệng cổ dầy, miệng thẳng đứng, thân hoa văn đập thô và miệng được nặn vuốt
bằng tay, có màu sắc đỏ gạch non [102, tr. 42 - 43]. Ngoài ra, các di vật Chămpa có
phần muộn hơn xuất hiện trong tầng văn hóa Suối Chình như vòi ấm được nặn rời
rồi gắn vào sau đó. Kết quả khai quật cho thấy ở lớp sớm của Suối Chình đồ gốm
Sa Huỳnh chiếm vị trí chủ đạo, lớp muộn hơn là gốm Chămpa.
Từ hai địa điểm khảo cổ Xóm Ốc và Suối Chình cho thấy, cách đây khoảng
3000 năm đã có những nhóm cư dân cổ sinh sống lâu dài hàng ngàn năm trên đảo
Cù Lao Ré. Họ để lại những di tích văn hóa với các dạng văn hóa khác nhau song
đều mang sắc thái văn hóa biển rất rõ nét [102, tr. 48].
42
Như vậy có thể thấy Suối Chình là di tích muộn của Xóm Ốc, liên kết với
Xóm Ốc thành cụm di tích Xóm Ốc phản ánh quá trình phát triển của văn hóa Sa
Huỳnh trên Cù Lao Ré từ Tiền Sa Huỳnh đến Sa Huỳnh và từ Sa Huỳnh đến văn
hóa Chămpa. Lớp cư dân đầu tiên xuất hiện trên Cù Lao Ré – cư dân văn hóa Sa
Huỳnh đã sinh sống lâu đời, bám trụ lâu dài với biển và tận dụng biển khơi như một
phương tiện qua lại trong mối giao lưu văn hóa rộng rãi của họ. Sự phát triển của
Cù Lao Ré nằm trong không gian phát triển của nền văn hóa Sa Huỳnh cũng như
gắn liền với văn hóa Chămpa trong quá trình hình phát triển của dân tộc này.
2.2.1.2. Cư dân văn hóa Chămpa
Từ nền văn hóa Sa Huỳnh, cư dân Xóm Ốc và Suối Chình trên Cù Lao Ré tiếp
tục phát triển trong dòng chảy của nền văn hóa Chămpa. Vết tích của nền văn hóa
Chămpa để lại rất rõ nét trong tầng văn hóa lớp trên của di chỉ Xóm Ốc và Suối Chình
đã được các nhà Khảo cổ khai quật. Đó là những hạt trang sức bằng thủy tinh hình bầu
dục dẹt, những đồ trang sức bằng đồng, bình gốm hình trứng đáy nhọn. Tại di chỉ Suối
Chình ở độ sâu 1m, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hai chiếc bình gốm dạng hình
trứng đặt nằm nghiêng, một cái còn nguyên và một cái đã bị vỡ. Các mảnh bình hình
trứng xuất hiện ở lớp muộn của văn hóa Xóm Ốc và lớp trên của Suối Chình.
Bên cạnh các hiện vật khảo cổ, Cù Lao Ré còn lưu giữ các di tích thuộc về
nền văn hóa Chămpa như là miếu Bà Lồi, chùa Hang, dinh Bà Trời, Giếng Vuông.
Trong sinh hoạt tín ngưỡng, người Chămpa trên đảo theo Hindu giáo mà những di
tích còn lại như miếu Bà Lồi có con bò đá cổ đeo lục lạc nằm trên bệ đá (nay đã
mất) [102, tr. 51] chứng minh điều đó. Bò thần Nandin vật cưỡi của thần Vishnu
nên ngôi đền này thờ thần Vishnu. Ngôi đền này hiện nay nằm trong xóm Trung
Yên thuộc xã An Hải. Đặc biệt, ở Cù Lao Ré – tức Lý Sơn hiện nay còn tồn tại hai
địa điểm thờ Thiên Y A Na mà nhân dân gọi là “dinh”: một dinh ở thôn Đông thuộc
xã An Vĩnh và một dinh ở thôn Trung Yên xã An Hải. Tên gọi nữ thần “Thiên Y A
Na” là được Việt hóa từ tiếng Chămpa “Por Inưnaga” dùng để gọi vị thần xứ sở của
dân tộc này. Việc người Việt thờ cúng Thiên Y A Na cho thấy sự giao lưu văn hóa
Việt – Chămpa trong quá trình sinh sống của cư dân Cù Lao Ré.
Người Chămpa quần tụ thành các làng xóm nhỏ ở phía đông và tây đảo, sinh
sống chủ yếu bằng nghề biển, thu lượm các loại nhuyễn thể ven đảo đi đôi với trồng
43
các loại cây rau củ, quả. Dấu ấn còn lại của những làng cổ người Chămpa chính là
các giếng nước gọi là “giếng bộng”. Đó là giếng xóm Trung Yên nằm ngay trước
dinh thờ Thiên Y A Na và cách miếu Con Bò khoảng 100m. Giếng Xó La nằm ở
thôn Đông thuộc xã An Vĩnh, phía chân thềm của núi Hòn Vung. Theo dân gian,
giếng này là do vua Gia Long cho đào nhưng các nhà Khảo cổ khẳng định đây
chính là giếng Chămpa cổ và căn cứ vào tên “Xó La” không hề có nghĩa trong tiếng
Việt mà là phiên âm từ tiếng Malayopolynesiens [102, tr. 50]. Điều này cho phép lý
giải rằng, đây vốn là giếng cổ của người Chămpa trên Cù Lao Ré và cư dân Việt đã
sử dụng loại giếng này phục vụ cho đời sống của họ. Đặc trưng của các giếng
Chămpa là được xây bằng đá, có dạng hình vuông và đều được lát gỗ ở đáy giếng.
Theo khảo sát của các nhà khảo cổ, ở mỗi làng trên đảo Lý Sơn từng có từ 1 đến 2
giếng kiểu Chămpa. Từ đó cho thấy, trước khi có sự xuất hiện của người Việt thì
trên Cù Lao Ré đã có sự quy tụ xóm làng của cư dân Chămpa.
Sự tồn tại tàn tích sinh hoạt của lớp cư dân vương quốc Chămpa ở cả dạng
hiện vật trong đời sống vật chất cho đến các cơ sở văn hóa tín ngưỡng trên Cù Lao
Ré cho phép tác giả đoán định về sự gắn bó mật thiết giữa cư dân trên đảo với đất
liền. Do yếu tố vị trí địa lý đặc thù, sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt của Cù
Lao Ré có lẽ chỉ bắt đầu khi có sự hiện diện của lớp cư dân tiếp theo tiến lên khai
phá cộng cư cùng cư dân sở tại, đó là người Việt.
2.2.2. Quá trình khai phá định cư của cư dân Việt
2.2.2.1. Khái quát quá trình di cư của cư dân Việt đến vùng đất Quảng Ngãi
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, đến năm 905, Khúc Thừa Dụ đã tiến hành khởi
nghĩa giành độc lập thắng lợi, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ, tự cường xây dựng chế
độ phong kiến Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XIV, nhân khi triều Trần suy yếu, Chiêm
Thành liên tục quấy phá biên giới phía nam của Đại Việt, thậm chí còn tiến quân ra bắc
đánh phá kinh thành Thăng Long. Sau khi nhà Hồ lên thay nhà Trần, vào tháng 7 năm
Nhâm Ngọ (1402), Hồ Hán Thương đem đại quân đi đánh quân Chiêm Thành đang
quấy phá biên giới phía Nam buộc “Chúa Chiêm Ba Đích Lại sợ, sai cậu là Bố Điền
13 Chiêm Động được chia thành hai châu Thăng và Hoa, là đất của các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn và Duy Xuyên của tỉnh Quảng Nam ngày nay.
dâng một con voi trắng, một con voi đen và các sản vật địa phương, lại dâng đất Chiêm Động13 để xin rút quân. Bồ Điền tới, Quý Ly bắt ép phải sửa tờ biểu là dâng
44
nộp cả động Cổ Lũy14. Rồi chia đất ấy thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt An
phủ sứ và An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị” [39, tr. 202 - 203]. Sau khi sáp nhập
hai vùng đất Chiêm Động và Cổ Lũy, Hồ Hán Thương đã “đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa15, biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ,
phủ, châu, huyện chia đất cho họ ở. Người ở châu nào thì thích hai chữ tên châu ấy
vào hai canh tay để làm dấu hiệu” [39, tr. 204]. Đến đây, toàn bộ vùng đất của các tỉnh
Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay trong đó có Cù Lao Ré đã thuộc về lãnh thổ của
Đại Việt. Đồng thời, Hồ Hán Thương đã tiến hành các đợt đưa vợ con của binh lính
người Việt cùng dân nghèo di cư vào khai phá đất đai xây dựng làng xóm và “phải chịu
thích chữ “châu” hiện ở như châu Tư, châu Nghĩa vào cánh tay” [73, tr. 175]. Những
đợt di cư này không chỉ giải quyết nhu cầu đất đai cho dân mà còn tạo cơ sở kinh tế,
chính trị và quân sự cho sự quản lý của nhà Hồ ở vùng đất mới. Đây là đợt di cư người
Việt đầu tiên có tổ chức của nhà nước đến Quảng Ngãi. Khi nhà Minh xâm lược và cai
trị nước ta, Chiêm Động và Cổ Lũy vẫn được đặt làm 4 châu như thời nhà Hồ và “cho 4
người đầu hàng là Nguyễn Nghiêu, Dương Mộng Tùng, Phạm Công Nghị, Nguyễn Kiệm
làm tri châu, người cũ là Hồ Giao, Trương Nguyên Đức, Vũ Trinh, Phan Long làm đồng
tri. Lại làm thư bảo cho vua Chiêm Thành biết cái cớ đặt lại 4 châu ấy” [83, tr. 71].
Năm 1427, cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo giành lại độc lập, đất nước
dần ổn định về kinh tế, chính trị văn hóa xã hội. Đến thời Lê Thánh Tông, Chiêm
Thành nhiều lần tiến hành quấy phá biên giới phía nam xâm phạm bờ cõi làm cho
nhân dân không ổn định. Năm Hồng Đức thứ 1 (1470), vua Lê Thánh Tông xuống
chiếu và cầm 26 vạn quân đi đánh dẹp Chiêm Thành. Trong chiếu kể tội vua Chiêm
“trong lòng vẫn dòm ngó trẫm, ngoài mặt cống hiến giả vờ” [39, tr. 443] xúi giục
nhà Minh đánh Đại Việt, trong khi đó “đàn ông, đàn bà của ta nó bắt làm nô lệ, tù
tội trốn tránh của ta nó hết thảy bao dung. Dân lưu vong16 phải chụm chân mà chịu
oan” [39, tr. 443]. Cuộc chinh phạt Chiêm Thành của vua Lê Thánh Tông kéo dài
trong hai năm 1470 – 1471, thành Trà Bàn bị hạ và vua Chiêm bị bắt sống. Tháng 6
14 Cổ Lũy được chia thành hai châu Tư và Nghĩa, là đất của các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức và Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. 15 Thăng Hoa tức là lộ Thăng Hoa, bao gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa vốn là đất động Chiêm Động và Cổ Lũy mà Chiêm Thành cắt dâng vào năm 1402. 16 Nguyên văn là “lưu dân”, ở đây chỉ người Việt ở vùng đất mới châu Thuận, châu Hóa để khai phá, sinh sống.
năm 1471, Lê Thánh Tông quyết định “lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa tuyên
45
Quảng Nam và vệ Thăng Hoa” [39, tr. 452]. Vùng đất được sáp nhập vào quốc gia
Đại Việt là “từ Hoài Nhơn đến Đèo Cù Mông” [2, tr. 233]. Từ đó, đạo Quảng Nam
trở thành đạo thừa tuyên thứ 13 của Đại Việt và “quy vào bản đồ. Đất đai đã mở
mang, phong thổ mỗi ngày một phồn thịnh” [9, tr. 195]. Đạo thừa tuyên Quảng Nam
gồm 3 phủ là Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn với 9 huyện, và phủ Tư Nghĩa có
“3 huyện là: huyện Nghĩa Giang 12 tổng 93 xã; huyện Bình Sơn 6 tổng 70 xã;
huyện Mộ Đức 6 tổng 53 xã” [17, tr. 54]. Cù Lao Ré nằm trong sự quản lý của
huyện Bình Sơn phủ Tư Nghĩa thuộc lãnh thổ Đại Việt. Nhiều cuộc di dân của
người Việt đã được nhà nước tổ chức nhằm phục vụ cho sự ổn định chính trị, tạo cơ
sở kinh tế xã hội vững chắc cho sự cai trị lâu dài. Đến đây, người Việt trở thành
cộng đồng vững chắc sinh sống cùng người Chămpa ở đạo Quảng Nam. Cuộc di
dân dưới thời vua Lê Thánh Tông có thể xem là quan trọng nhất, vì đây là cuộc di
dân vĩnh viễn, bền vững. Phan Khoang có lý khi cho rằng “Trái với trước kia người
Chiêm bỏ Chiêm Động, Cổ Lũy động mà đi khi dân ta đến. Lần này người Chiêm
không đi” [27, tr. 11]. Từ đó, người Việt tiếp tục di cư tiến về phương Nam.
Năm 1545, dưới ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”, Bùi Tá Hán được Nguyễn Kim
cử làm Bắc quân đô đốc đem quân lấy lại vùng đất Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài
Nhơn vốn bị nhà Mạc cai trị từ năm 1527 và được cử làm luôn Trấn thủ của vùng
này. Trong suốt 25 năm cầm quyền, Bùi Tá Hán đã kêu gọi nhân dân, bính lính
khẩn hoang, lập làng xóm, cho phép binh lính mang theo vợ con đến cư trú lâu dài,
thu hút nhiều nông dân nghèo thiếu ruộng đất vùng Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh ngày nay vào lập nghiệp.
Năm 1558, khi Bùi Tá Hán làm trấn thủ Quảng Nam, Trịnh Kiểm phái
Nguyễn Hoàng đi trấn thủ Thuận Hóa và “cùng với trấn thủ Quảng Nam Trấn Quốc
công (Bùi Tá Hán) cứu giúp lẫn nhau, việc địa phương không cứ lớn nhỏ, quân dân,
thuế khóa đều giao cả.” [17, tr. 57]. Năm 1568, Bùi Tá Hán mất, Nguyễn Bá Quýnh
vào thay làm trấn thủ Quảng Nam nhưng chỉ hai năm sau được chuyển ra Nghệ An.
Đến đây, Nguyễn Hoàng thực sự làm trấn thủ Thuận Hóa kiêm quản Quảng Nam.
Năm 1571, Nguyễn Hoàng cử Mai Đình Dũng là một viên tướng thân cận của ông
vào trấn thủ xứ này. Trong suốt 30 năm từ 1571 – 1602, Mai Đình Dũng ra sức đôn
đốc nhân dân khai hoang vỡ hóa, ổn định vùng đất này.
46
Với chủ đích xây dựng một vùng đất “vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng
quyết tâm xây dựng Đàng Trong thành một nơi vững chắc về quân sự và giàu có về
của cải nên đã ra sức chiêu mộ nhân dân vào nam tiếp tục dựng làng, lập ấp. Năm
1602, phủ Tư Nghĩa được đổi thành phủ Quảng Nghĩa. Với chính sách kinh tế cởi
mở, dưới thời Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn sau này, công cuộc di cư của cư
dân Việt từ Đàng Ngoài, đặc biệt vùng Thanh – Nghệ tiếp tục tiến vào Đàng Trong,
không chỉ đến Quảng Ngãi mà còn tiến xa về phía Nam. Ngoài những cuộc di dân
tự nguyện còn có những cuộc di dân cưỡng bức như trong cuộc chiến tranh Trịnh –
Nguyễn năm 1648, chúa Nguyễn “bắt được 30 nghìn quân Trịnh đem về (…) cho
lập cửa nhà liền kế nhau, cấp cho lương ăn nửa năm” [92, tr. 31].
Sự biến động về chính trị cùng những bất ổn về kinh tế, xã hội ở Đàng Ngoài
dưới sự trị vì của vua Lê – chúa Trịnh cũng góp phần tạo nên những cuộc di cư liên
tục của người Việt vào Đàng Trong. Trải qua các đời chúa Nguyễn, phủ Quảng
Ngãi đã ổn định hệ thống hành chính ở địa phương cho đến cấp phủ, huyện, xã,
phường, thôn, ấp. Dân cư và đất đai đều đã được ghi vào sổ bộ của địa phương, thu
hút cả người Hoa đến buôn bán sinh sống.
Xét về nguồn gốc dân cư Việt ở Quảng Ngãi, theo Nguyễn Đăng Vũ gồm có
các nguồn “Binh lính ở lại khai hoang, lập nghiệp lẫn binh lính bị đưa về an ấp; nông
dân các vùng Thanh Nghệ Tĩnh đi tìm cơ hội sinh nhai mới lẫn những nông dân bị ép
buộc phải di cư; những quan chức dưới các triều đại chiêu mộ dân chúng đủ thành
phần và đưa theo vợ con, dòng tộc; những người có của cải mà không có đất; những
người bị xử tội lưu ngoại châu; bộ phận người Chiêm đã bị Việt hóa” [105, tr. 97].
Như vậy có thể nói, vào những năm đầu của thế kỷ XV với việc bình Chiêm
của nhà Hồ, người Việt đã đến vùng đất Quảng Ngãi sinh cư lập nghiệp. Đến thời
nhà Lê, sự kiện đặt đạo thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa thì vùng đất
Quảng Ngãi đã thực sự trở thành một bộ phận lãnh thổ của Đại Việt. Các cuộc di
dân lớn của người Việt đến vùng đất Quảng Ngãi diễn ra liên tục từ thế kỷ XVI về
sau là cơ sở đặc biệt quan trọng để cư dân Việt tiếp tục tiến ra biển làm chủ các đảo
và quần đảo, trong đó có hòn đảo ven bờ - Cù Lao Ré.
2.2.2.2. Quá trình khai phá định cư của cư dân Việt trên Cù Lao Ré
Về nguồn gốc lớp cư dân Việt đầu tiên xuất hiện trên Cù Lao Ré, theo thần
tích hiện lưu ở tại đình An Vĩnh và đình An Hải cùng gia phả của các dòng họ thuộc
47
hai xã An Vĩnh và An Hải trên đảo hiện nay chứa đựng nhiều thông tin có thể giúp
xác định được khoảng thời gian khi các ngư dân ra đảo lập nghiệp. Theo như gia
phả của họ Nguyễn (thôn Đông, xã An Hải) thì “Vào đời vua Lê Kính Tông, các tiền
hiền ở hai xã An Hải và An Vĩnh đã dùng thuyền ra thăm dò Cù Lao Ré, 15 ông
thấy nơi đây cây cối tốt tươi, đất đai màu mỡ, mới cắm đất, đốt cây sau đưa gia đình, anh em ra lập nghiệp. Tám ông đi ra từ An Hải17 đã chiếm đất phía đông lập nên An Hải phường; Bẩy ông ra đi từ An Vĩnh18 chiếm phần đất phía tây lập nên An
Vĩnh phường” [110]. Trong bài văn tế lưu tại đình An Hải có đoạn “thuở vua Lê
Kính Tông, các vị tư chất thông minh, biết nhìn xa trông rộng (…) hội tụ với nhau
dốc lòng ra đảo, chăm lo mở mang bờ cõi” [137]. Còn theo như “Tờ đồng thuận
ngày 2 tháng 3 năm Minh Mạng thứ 9” (1828) hiện lưu tại nhà thờ tiền hiền xã An
Hải cũng cho biết “8 vị tiền hiền được cúng tế tại cổ miếu” [28, tr. 4].
Từ ghi chép của gia phả các dòng họ còn lưu lại cho thấy, lớp cư dân đầu
tiên từ trong đất liền gồm 15 người dùng thuyền mà nhân dân gọi là ghe bầu tiến ra
Cù Lao Ré vào đời vua Lê Kính Tông đầu thế kỷ XVII. Các tư liệu cũng cho biết cư
dân đầu tiên có công đầu trong việc khai hoang vỡ hóa để từ đó đưa thân nhân và bà
con ra lập nên phường An Hải gồm có 8 người19. Những cư dân này đến khai phá
vùng đất đai có thể nói là khá phì nhiêu và rộng lớn ở chân núi Thới Lới ở phía
đông Cù Lao Ré lập ra phường An Hải phường.
Gia phả họ Nguyễn (thôn Đông, xã An Hải) cho biết về số lượng người xã
An Vĩnh trong đất liền là 7 người. Tính chính xác về số lượng người xuất phát từ xã
An Vĩnh trong đất liền được đề cập trong tư liệu này còn được tờ “Đơn của phường
An Vĩnh xin tách khỏi xã An Vĩnh” viết vào năm 1804 có đoạn “nguyên do là đời
trước ông cha Thất tộc tác giả ở phường này cũng đều là người xã An Vĩnh đã
chiếm dụng được xứ Cù Lao Ré ngoài biển: phía đông giáp địa phận xã An Hải,
phía tây liền biển, phía nam liền biển, phía bắc gần một cù lao nhỏ” [35, tr. 30].
Còn theo gia phả họ Phạm Văn (thôn Tây, xã An Vĩnh) lại cho biết “các vị tiền hiền
ra đảo lập nghiệp vào năm Hoàng Định thứ 9” [113], tức là năm 1609. Từ những tư
17 Tức xã An Hải trong đất liền. 18 Tức xã An Vĩnh trong đất liền. 19 Những người này thuộc các họ Nguyễn, Dương, Trương, Trần, Võ, Nguyễn Đình, Nguyễn Văn và họ Lê.
liệu này cho thấy sự thống nhất về số lượng cư dân của xã An Vĩnh trong đất liền
48
gồm có 7 người thuộc các họ Phạm Quang20, Phạm Văn, Võ Xuân, Võ Văn, Lê,
Nguyễn, Đặng di cư ra khai chiếm vùng đất phía tây của Cù Lao Ré để từ đó lập
nên An Vĩnh phường.
Không chỉ các tư liệu trên Cù Lao Ré ghi nhận sự kiện cư dân Việt của xã An
Vĩnh từ trong đất liền tiến ra đảo sinh cư lập nghiệp mà tư liệu có được từ quê gốc của
những cư dân này cũng khẳng định điều đó. Theo ông Vũ Huy Cận ở xã An Vĩnh,
huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) cho biết, họ Vũ ở xã An Vĩnh (Sơn Tịnh) nhiều đời làm
Lý trưởng và có nhiều người ra đảo Lý Sơn làm ăn đến đời thân sinh của ông Vũ Huy
Cận là đời thứ 13. Trong gia phả của dòng họ Vũ này có ghi “dân An Vĩnh ra đảo từ
thời chúa Tiên21. Tuy ra đảo nhưng nhân dân vẫn lệ vào xã An Vĩnh22” [117].
Mặc dù vậy, trước khi những cư dân Việt đặt chân lên đảo thì ở Cù Lao Ré
vốn đã có người sinh sống. Họ là cư dân Chămpa bản địa vốn là chủ nhân của hòn
đảo này mà người Việt gọi họ là “người Hời”. Chính vì lẽ đó mà ở hàng loạt các gia
phả, thần tích, truyền thuyết cho đến các bản văn khế mua bán ruộng đất trên Cù
Lao Ré đều đề cập đến lớp cư dân này như “đất Hời”, “đất của người Hời”. Cụ thể
như “Thần tích đình An Hải” ghi “Xưa kia Cù Lao Ré là đất của người Hời, nơi có
nhiều cây Ré che phủ. Từ đời vua Lê Kính Tông, tiền hiền đã dùng ghe vượt biển ra
đây khai khẩn đất đai lập nên làng xóm” [119].
Theo truyền thuyết, cũng có hiện tượng tranh chấp đất đai giữa người Việt và
người Chămpa23 và sau đó, người Chămpa rời đảo vào vùng đất Phan Rang, Phan Rí.
20 Trong cuốn “Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn” xuất bản năm 2002 tại Quảng Ngãi trang 32 lại ghi là họ Phạm Khắc. Nguyễn Nhã với luận án tiến sĩ “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (2002) và luận văn thạc sĩ “Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX” (2001) đều không nhắc đến 15 người đầu tiên ra Cù Lao Ré và được phong làm “tiền hiền” này. Đây là một nhầm lẫn đáng tiếc vì trong quá trình điều tra điền dã tại Lý Sơn, tiếp xúc với tộc trưởng họ Phạm tiền hiền và gia phả cho thấy họ này là họ Phạm Quang. Họ Phạm Quang sau này có Phạm Quang Ảnh được vua Gia Long sai chịu trách nhiệm dẫn đường cho đội Hoàng Sa đi thuyền ra quần đảo Hoàng Sa đo đạc thủy trình. 21 Tức Nguyễn Hoàng (1558 – 1613). 22 Tức xã An Vĩnh gốc trong đất liền. 23 Theo truyền thuyết trên Cù Lao Ré, người Việt và người Chămpa quyết định trong thời gian 3 ngày bên nào xây được lũy đá nơi gianh giới tranh chấp thì phần đất đó thuộc về bên thắng cuộc. Người Chămpa tin rằng họ sẽ là người thắng cuộc vì họ có số người đông hơn và khỏe hơn. Nhưng đến rạng sáng ngày thứ 3, một lũy đá của người Việt đã sừng sững dựng lên cao hơn lũy đá của người Chămpa. Người Chămpa chấp nhận mất phần đất đang tranh chấp. Sở dĩ người Việt thắng được người Chămpa trong cuộc thi đọ trí và đọ sức này là vì 15 ông tiền hiền biết bên mình ít người, sức yếu nên họ đã dùng mẹo chặt các cây tre đan thành khối rồi lấy cây Ré đốt thành than, giã ra và hòa trộn với nước đem sơn phết lên các khối hình đan bằng tre. Trong đêm tối nhập nhoạng, bóng các khối hình đó trông y như một lũy đá thật.
Theo giao ước, người Việt ở lại có quyền khai khẩn đất đai nhưng phải thờ phụng thần
49
Thiên Y A Na và chúa đất Ngu Man Nương của người Chămpa. Tuy nhiên hoàn toàn
không có tư liệu nào ở Lý Sơn ghi chép lại các cuộc tranh chấp đất đai này.
Sự hiện diện của người Chămpa trên Cù Lao Ré không chỉ thể hiện trong các
tài liệu gia phả, văn khế mua bán ruộng đất, địa danh hay trong truyền thuyết của
cộng đồng cư dân Việt trên đảo mà còn ở các cơ sở tín ngưỡng của người Chămpa
như chùa Hang, đền thờ Thiên Y A Na (An Hải), dinh thờ Thiên Y A Na (ở An
Vĩnh)… Điều này cho phép đi đến kết luận rằng Cù Lao Ré vốn không phải hòn đảo
vô chủ mà ngược lại, cư dân Chămpa chính là chủ nhân lâu đời sinh sống trên đảo
trước khi người Việt ra khai khẩn định cư.
Từ các tư liệu trên cho thấy các cư dân Việt khi tiến ra Cù Lao Ré lúc đầu chỉ
là những người đàn ông của các họ đã kể trên. Mục đích của họ vốn là thăm dò tình
hình của hòn đảo. Sau một thời gian thăm dò đảo, chia nhau cắm đất, chặt cây khai
hoang, họ mới quay trở về để đưa vợ con ra sinh cư lập nghiệp. Nhiều khả năng
trong công cuộc tiến ra Cù Lao Ré, đoàn người của xã An Vĩnh cập vào đảo ở phía
đông nam và đoàn người thuộc xã An Hải lại cập đảo ở phía bắc và vì vậy sau này,
họ lấy dốc Tranh ở giữa đảo để phân chia ranh giới hai phường.
Chính vì công lao của các bậc “khai canh phá địa” đầu tiên trên Cù Lao Ré mà
sau này họ mất đi, nhân dân của cả hai phường đã lập nhà thờ chung gọi là “nhà thờ
Tiền hiền” khai phá ra đất đai lập nên phường của mình để ghi công. Nhân dân trên Cù
Lao Ré có câu nói cửa miệng mà ai cũng thuộc đó là “Tiền hiền khai khẩn; Hậu hiền
khai cư”. Ở nhà thờ Tiền hiền của xã An Hải có đôi câu đối nói về các vị tiền hiền như
sau: “Tiền công thọ lộc thiên thu tại/ Hiền nghiệp quy mô vạn cổ truyền”.
Liên quan đến lớp cư dân gồm 15 người đầu tiên ra Cù Lao Ré còn có sự
kiện “cắt trưởng”. Đó là sau này trong 15 vị Tiền hiền đầu tiên có công khai chiếm
Cù Lao Ré lại có 2 vị không được gọi là tiền hiền. Đồng thời 2 người này đều
không được phối thờ chung với 13 vị còn lại ở nhà thờ Tiền hiền cũng như không
được dự họp bàn việc của phường ở đình. Theo dân gian, việc truất quyền “Tiền
hiền” đều diễn ra trong một năm và ở cả hai phường An Vĩnh và An Hải vào năm
24 Lý do truất họ ông tiền hiền họ Đặng cũng liên quan đến việc thờ phụng các vị tiền hiền. Theo dân gian thì lệ của 7 họ ở phường An Vĩnh là các họ luân phiên thay nhau làm cỗ cúng các vị tiền hiền. Vào năm 1621,
1621. Phường An Vĩnh truất ông tiền hiền họ Đặng24 và phường An Hải phế ông
50
tiền hiền họ Lê25 do không thành kính các bậc Tiền hiền. Hiện nay, ở nhà thờ Tiền
hiền của xã An Hải còn lưu lại “Tờ đồng thuận lập ngày mồng 2 tháng 3 năm Minh
Mạng thứ 9” phản ánh việc họ Lê lén đưa bài vị tiền hiền dòng họ mình vào nhà thờ
Tiền hiền dẫn đến kiện cáo của 7 họ còn lại [28, tr. 4]. Từ đó, phường An Vĩnh chỉ
còn 6 vị tiền hiền được nhân dân phụng thờ ở đình sau đó đưa về Âm Linh tự26 rồi
lại đưa về đình. Việc truất ngôi tiền hiền của họ Đặng ngoài lý do trên còn là vì “họ
Đặng liên quan đến giặc biển” [35, tr. 3].
Sau khi phế truất, các dòng họ đã nhóm họp và quyết định không cho hai họ
này được tham dự vào các ngày cúng tế, hội hè ở đình làng và tên tuổi các ông cũng
bị xóa bỏ trong sổ công đức của hai xã An Hải và An Vĩnh trong đất liền. Các ngày
tết lễ trong năm được tổ chức ở đình làng An Vĩnh, An Hải, con cháu của các bậc
tiền hiền vẫn tụ họp về các địa điểm trên để cúng tế các vị tiền hiền khai khẩn – hậu
hiền khai canh. Từ sự kiện phế truất 2 ông họ Đặng ở phường An Vĩnh và họ Lê ở
phường An Hải nên khi nhắc đến các vị tiền hiền khai chiếm Cù Lao Ré, người dân
trên đảo thường chỉ nhắc đến 13 ông “Thất tổ; Lục tộc” mà thôi27.
Như vậy với các tư liệu cho thấy, lớp cư dân Việt đặt những bước chân đầu
tiên lên Cù Lao Ré chính là những người dân của hai xã nằm liền kề bên bờ biển là
An Vĩnh và An Hải của hai huyện Sơn Tịnh và Bình Sơn trong đất liền của tỉnh
Quảng Ngãi ngày nay. Với công lao của lớp cư dân đầu tiên mà trong các tư liệu nói
nhà họ Đặng làm cơm cúng và đãi đằng các họ tộc nhưng lại cúng đồ ôi thiu làm từ hôm trước. Khi các họ phát hiện ra, vợ chồng tộc trưởng họ Đặng đã “lộng ngôn” không chỉ xúc phạm đến các tộc họ mà còn xúc phạm đến các vị Tiền hiền. Chính vì điều này, 6 tộc họ còn lại cùng đại diện dân phường đã làm đơn xin truất họ Đặng ra khỏi danh sách các vị tiền hiền. 25 Nhân ngày giỗ kỵ tổ chung của phường An Hải, họ Lê đứng ra tổ chức cỗ cúng và khoản đãi các tộc. Bà vợ của ông tộc trưởng họ Lê là người Huế đã nói bánh ít làm cúng các vị Tiền hiền giống phân trâu làm cho dân làng và đại diện các tộc họ phẫn nộ cho là phỉ báng các bậc thủy tổ nên không thể tha thứ. Đại diện dân làng và các tộc họ Tiền hiền đã họp và phát đơn kiện về tận Lục bộ xin truất quyền làm Tiền hiền của họ Lê. Phường An Hải kiện đi kiện lại đến 3 lần, Lục bộ mới ra giấy cho phép xóa tên họ Lê ra khỏi danh sách Tiền hiền và đưa bài vị thủy tổ họ Lê ra khỏi nhà thờ Tiền hiền cũng như ở đình. Mặc dù vậy, một thời gian sau, nhân dân lại thấy xuất hiện bài vị của họ Lê ở trong nhà thờ Tiền hiền lại đem bỏ ra đến lần thứ 3 mới được. 26 Do chiến tranh hỏa hoạn, linh vị 6 ông tiền hiền liên tục được di chuyển đến các nơi để thờ phụng hiện nay được đưa vào Âm Linh tự thờ chung cùng các chiến sĩ trận vong và đi lính Hoàng Sa bị mất ngoài biển. Trước mặt của Âm Linh tự còn có những ngôi mộ gió là những ngôi mộ đất được đắp lên để gọi hồn những người lính Hoàng Sa tử nạn mất xác. 27 Có lẽ vì điều này mà trong LATS “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” năm 2002 của Nguyễn Nhã trang 64 và nhiều công trình khác chỉ đề cập đến “Lục tộc” của An Vĩnh và “Thất tổ” của An Hải và đi đến khẳng định chỉ có 13 người này là lớp người Việt đầu tiên ra khai khẩn Cù Lao Ré.
đến là 15 người của hai xã An Vĩnh và An Hải từ đất liền ra khai chiếm Cù Lao Ré
51
mà nhân dân sau này suy tôn họ là “Tiền hiền” và 13 dòng họ được gọi là “dòng họ
Tiền hiền” được toàn thể nhân dân trên đảo ngưỡng vọng. Những người thuộc các
dòng họ khác nhau từ đất liền ra Cù Lao Ré sinh cư lập nghiệp sau này dù công lao
đến mức độ nào, thậm chí sau này khi hai phường là An Vĩnh và An Hải được tách ra
khỏi sự phụ thuộc vào hai xã trong đất liền thành hai xã độc lập mà được làm chức
tước quản lý cũng không được phong “Tiền hiền” mà chỉ được gọi là “Hậu hiền”.
Vấn đề đặt ra là hai tốp người xuất phát hai xã An Vĩnh và An Hải từ đất liền
ra Cù Lao Ré vào khoảng thời gian nào? Đó là những vấn đề đặt ra một cách
nghiêm túc khi nghiên cứu về lịch sử của Cù Lao Ré với sự hiện diện của cộng
đồng cư dân Việt. Khi giải đáp được những câu hỏi này sẽ giúp cho việc làm sáng
tỏ lịch sử khai phá đất đai, định cư sinh sống lâu dài lập phường (làng) của người
Việt trên Cù Lao Ré. Đồng thời cũng cho thấy vị trí vai trò của Cù Lao Ré cũng như
nhân dân trên đảo đối với hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc khai thác và bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Liên quan đến vấn đề này, Võ Văn Hồng trong “Lý Sơn truyền thống và cách
mạng” cho rằng “Tháng 6 năm Ất Tỵ (1545) niên hiệu Nguyên Hà thứ 13, Bắc quân
đô đốc Bùi Tá Hán theo cờ cần vương phù Lê diệt Mạc, (…). Cù Lao Ré trở thành
căn cứ xuất quân của Bùi đô đốc tiến vào đất liền bắt quân nhà Mạc phải đầu hàng.
Những người Việt ở lại đã lập một am thờ riêng cho Bùi Tá Hán, di tích ấy vẫn còn
được tế lễ hàng năm” [22, tr. 13]. Quan điểm cho rằng từ năm Ất Tỵ (1545) người Việt
đã ra sinh sống trên Cù Lao Ré chưa chính xác vì nguồn thư tịch cổ mà tác giả viện dẫn
lại không có tư liệu nào phản ánh sự kiện người Việt sinh sống trên đảo ở thời điểm đó.
Mặc dù vậy, trong khu vực đình làng An Hải có một am thờ Bùi Tá Hán được nhân
dân tế lễ hàng năm. Có thể giải thích hiện tượng này vì “Đến lúc Thái tổ Gia Dụ hoàng
đế vào trấn Thuận Hóa, Tá Hán đem binh sĩ dinh Quảng Nam theo giúp, được tặng
Thái bảo và cho thụy là Thành cảm địch nghị uy vọng huân đức chiêu tá mậu tích
tuyên uy tôn thần. Sau thường tỏ anh linh. Các triều trước khen là sống trung nghĩa,
chết anh linh, sai lập miếu thờ và ban cho đồ thờ. Năm Minh Mệnh thứ 13 gia phong
Khuông quốc tỉnh biên thụ đức thượng đẳng thần” [80, tr. 516 – 517].
Thông qua quá trình điền dã tại huyện đảo Lý Sơn, khi đề cập đến việc người
Việt định cư trên đảo cũng không có một manh mối nào cho biết có người Việt định cư
trên Cù Lao Ré trước lớp cư dân từ xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền ra đảo. Đồng
52
thời cũng không phát hiện ra dấu tích về sự tập trận của quân lính do Bùi Tá Hán lãnh
đạo ở Cù Lao Ré dù là ở dạng tục truyền dân gian. Các công trình lịch sử, địa lý quốc gia
và các tác phẩm cá nhân thời phong kiến đều không đề cập đến lịch sử khai phá Cù Lao
Ré cũng như thời điểm xuất hiện cư dân Việt trên hòn đảo này mà đa phần đều phản ánh
về Cù Lao Ré khi đã xuất hiện hai phường (cách gọi làng của cư dân Cù Lao Ré) là
phường An Vĩnh và phường An Hải. Trong khi đó, nguồn tư liệu sưu tầm được tại Cù
Lao Ré có đề cập những khoảng thời gian tương đối khác nhau về sự hiện diện của người
Việt, mà cụ thể là cư dân của hai xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền trên hòn đảo này.
Theo như gia phả của họ Nguyễn (thôn Đông, xã An Hải) đã đề cập thì “Vào
đời vua Lê Kính Tông, các tiền hiền ở hai xã An Hải và An Vĩnh đã dùng thuyền ra
thăm dò Cù Lao Ré” [110]. Mặc dù vậy, theo hồi cố của cụ trưởng tộc họ Võ An
Hải là Võ Tốt (71 tuổi, An Hải) thì dòng họ này ra Cù Lao Ré vào năm 1597 và đến
năm 1613 mới chính thức định cư tại đảo. Các bậc tiền hiền có các cụ họ Dương
(Dương Công Lương), họ Nguyễn (Nguyễn Nhất Lang) và họ Trương (Trương Đình Cát) đưa về đất liền chôn cất28.
Như vậy, theo các tư liệu thu thập được tại xã An Hải (huyện Lý Sơn ngày
nay) cho thấy một khung thời gian tương đối thống nhất đó là vào thời vua Lê Kính
Tông trị vì, tức là từ năm 1599 đến 1619 thì lớp cư dân đầu tiên của xã An Vĩnh và
An Hải từ trong đất liền ra Cù Lao Ré khai khẩn đất đai và đưa vợ con ra sinh cơ
lập nghiệp. Bên cạnh đó còn có một mốc thời gian là 1597 và 1613 theo hồi cố của
trưởng tộc họ Võ xã An Hải cung cấp.
Trong khi các tài liệu phát hiện được từ xã An Hải đều thống nhất về thời điểm
các bậc tiền nhân ra Cù Lao Ré thì các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh lại đưa ra
những thông tin khác về khoảng thời gian các vị tiền hiền của họ ra khai khẩn và định
cư ở Cù Lao Ré. Theo như gia phả họ Phạm Văn (thôn Tây, xã An Vĩnh) lại cho biết
“các vị tiền hiền ra đảo lập nghiệp vào năm Hoàng Định thứ 9” [113]. Dựa vào thông
tin “năm Hoàng Định thứ 9” do gia phả họ Phạm Văn cung cấp, Nguyễn Nhã lấy đây
là mốc thời gian cư dân Việt xuất hiện trên Cù Lao Ré [63, tr. 64]. Tuy nhiên bên cạnh
đó, gia phả của dòng họ Vũ xã Anh Vĩnh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi lại cho
biết một thông tin khác hơn như sau: “dân An Vĩnh ra đảo từ thời chúa Tiên (tức 28 Sau khi mất, ba cụ tổ họ Dương, họ Nguyễn và họ Trương đều được đưa về đất liền an táng cạnh nhau ở khu vực gần sân vận động và đồn Biên phòng của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay nhưng sau đó đã được di dời đi để Tỉnh lấy mặt bằng phục vụ dân sinh.
53
Nguyễn Hoàng). Tuy ra đảo nhưng nhân dân vẫn lệ vào xã An Vĩnh” [117]. Chúa Tiên
tức Nguyễn Hoàng chính thức làm trấn thủ vùng Thuận Quảng là từ năm 1558 đến
1613 thì mất, truyền ngôi cho con là Nguyễn Phúc Nguyên. Theo như gia phả của dòng
họ Vũ, thì chỉ có khả năng 7 cư dân của An Vĩnh tiến ra Cù Lao Ré vào thời Nguyễn
Hoàng trấn thủ vùng Thuận Quảng, tức là từ năm 1558 đến 1613. Tư liệu này cũng
không đề cập cụ thể năm nào và không cho biết họ đã định cư hay chưa hoặc vừa hoạt
động kinh tế ở Cù Lao Ré và trong đất liền.
Còn theo ghi chép điền dã từ sự hồi cố của cụ trưởng tộc họ Phạm Quang thì,
dòng họ này vốn ở tỉnh Thanh Hóa ngày nay theo Nguyễn Hoàng vào vùng Quảng
Ngãi, định cư ở xã An Vĩnh từ năm 1592. Đến năm 1604, họ Phạm Quang cùng các
họ khác ra Cù Lao Ré khai hoang và đến năm 1612 mới chính thức ra Cù Lao Ré
định cư. Mốc thời gian này cũng trùng lặp với lời kể của cụ Nguyễn Ghe (62 tuổi,
thôn Tây, An Vĩnh) thuộc dòng họ Nguyễn. Từ đó cho thấy một phông thời gian
khác là từ 1604 cư dân An Vĩnh ra Cù Lao Ré và thực sự định cư vào 1612, tức là
hoàn toàn không còn nhận đất đai trong đất liền để làm kinh tế. Theo hồi cố của cụ
Phạm Đa (82 tuổi) thuộc dòng họ Phạm Văn (An Vĩnh), dòng họ này có Phạm Hữu
Nhật là lính Hoàng Sa, thì họ này ra Cù Lao Ré vào thời vua Lê Kính Tông, ông tổ
là Phạm Văn Sỏi đưa hai người con là Phạm Đình Triệu và Phạm Văn Linh ra Cù
Lao Ré, tức là khoảng thời gian từ năm 1599 đến năm 1619.
Từ các sự kiện mà các nguồn tư liệu cung cấp về thời gian lớp cư dân Việt đầu
tiên tiến ra khai phá và định cư ở Cù Lao Ré, tác giả có thể tổng hợp thành bảng sau:
Bảng 2.1: Tổng hợp các mốc thời gian lớp cư dân Việt đầu tiên ra Cù Lao Ré
Stt Thời gian Chú thích
An Hải
1599 - 1619 Gia phả họ Nguyễn và thần tích, văn tế đình An Hải 1
1597 - 1613 Cụ Võ Tốt 71 tuổi, trưởng tộc họ Võ An Hải 2
An Vĩnh
1609 Gia phả họ Phạm Văn 3
1558 - 1613 Gia phả họ Vũ (An Vĩnh, Sơn Tịnh) 4
1604 - 1612 Cụ Nguyễn Ghe 62 tuổi người họ Nguyễn 5
1599 - 1619 Cụ Phạm Đa 82 tuổi họ Phạm Văn 6
Nguồn: [110], [113], [114], [117] và [119].
54
Từ những số liệu mà các gia phả các dòng họ, thần tích, văn tế đình làng cũng
như sự hồi cố của các bậc cao niên trên Cù Lao Ré cho tác giả thấy sự khác biệt về thời
điểm tiến ra khai phá định cư trên hòn đảo này. Mặc dù vậy, nếu lấy mốc xa nhất là vào
năm 1619, tức là năm vua Lê Kính Tông mất, cư dân Việt mới xuất hiện trên Cù Lao
Ré như trong các tài liệu đã cho biết thì hoàn toàn không có cơ sở. Bởi vì trước đó một
năm, tức là vào năm 1618, hai phường trên Cù Lao Ré đã tiến hành đo đạc ruộng đất để
từ đó phân chia nộp thuế cho chính quyền chúa Nguyễn. Điều này được ghi rõ trong
gia phả họ Nguyễn hậu hiền (thôn Đông, xã An Hải, huyện Lý Sơn) như sau “năm
1618, quan phủ sai người ra (Cù Lao Ré) khám đo đạc ruộng đất, cho phép xứ dưới
quyền quản lý của Cai cơ thủ ngự cửa biển Sa Kỳ” [111]. Không những vậy, ông
Nguyễn Giữ là trưởng họ của dòng tộc này còn cung cấp thêm, chính cụ tổ Nguyễn Tú
Thể được cử ra đo đạc để báo cáo với chính quyền. Sau khi đo đạc ruộng đất xong, ông
ở lại Cù Lao Ré lấy vợ lập nghiệp. Sự kiện đo đạc ruộng đất trên Cù Lao Ré năm 1618
còn được gia phả họ Lê (thôn Tây, xã An Vĩnh) xác nhận.
Trong khi đó, các tư liệu còn lại đều đưa ra khoảng thời gian Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ vùng Thuận Quảng, tức là từ 1558 đến 1613 là khoảng thời gian các
bậc tiền hiền của An Vĩnh và An Hải ra đất liền sinh cư lập nghiệp. Nhìn vào những
mốc thời gian trên tác giả thấy, cư dân Việt không thể xuất hiện trên Cù Lao Ré từ
năm 1545 như Võ Văn Hồng đã khẳng định vì không có cơ sở tư liệu nào đảm bảo
cho sự hiện diện của người Việt trên đảo. Đồng thời, các cư dân Việt cũng không
thể xuất hiện quá muộn vào năm 1619, tức là năm vua Lê Kính Tông mất trong khi
đó năm 1618 ở Cù Lao Ré đã tiến hành đo đạc ruộng đất.
Sự kiện năm 1618 tiến hành đo đạc ruộng đất trên Cù Lao Ré cho thấy vào thời
điểm này, cư dân Việt trên đảo đã hình thành hai phường là An Vĩnh và An Hải. Điều
này cho thấy, chỉ khi nào lớp người Việt đầu tiên này có khả năng “ly hương” xin
không nhận đất đai ở An Vĩnh và An Hải trong đất liền thì sau đó mới dẫn đến sự kiện
đo đất trên Cù Lao Ré để bổ thuế, đảm bảo nguồn thu của nhà nước. Trong khi đó, quá
trình tiến ra sinh cư lập nghiệp trên Cù Lao Ré không thể diễn ra trong vòng vài năm
mà phải diễn ra trong một khoảng thời gian dài nhất định, thậm chí có thể trên dưới 20
năm, đó là chưa kể khoảng thời gian đầu người Việt đặt chân lên đảo.
Từ việc nghiên cứu nội dung các tư liệu, tác giả đi đến nhận định, các bậc tiền
hiền của Cù Lao Ré – lớp cư dân Việt đầu tiên đã khám phá ra hòn đảo từ những thập
55
niên cuối của thế kỷ XVI. Giai đoạn đầu tiến ra Cù Lao Ré, họ vẫn chưa có khả năng
thoát ly về kinh tế với đất liền. Sau này, khi đất đai đã được khai chiếm đảm bảo cho
việc định cư lâu dài, đặc biệt là giải quyết vấn đề đất đai với cư dân Chămpa bản địa
trên đảo thì họ đưa cả gia đình ra định cư. Những năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ
XVII, người Việt trên Cù Lao Ré đã hình thành hai phường là An Vĩnh ở phía tây và
An Hải ở phía đông. Đến năm 1618, chính quyền chúa Nguyễn đã cử người ra đo đạc
đất đai trên Cù Lao Ré để phân chia địa giới đồng thời định mức đất đai để bổ thuế.
Tiểu kết chương 2
Với vị trí địa lý án ngữ trên tuyến hải thương quốc tế từ châu Âu sang châu
Á quan trọng bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, Cù Lao Ré sớm được các nước phương
Tây đề cập đến trong các công trình nghiên cứu và trong các bản đồ hàng hải dưới
các tên gọi Pullo Canton, Pulo Cantan, Colauray hoặc được ký hiệu là P. Canton.
Điều kiện tự nhiên của Cù Lao Ré có đầy đủ các yếu tố đảm bảo cho con người sinh
sống nên đã sớm trở thành sinh sống của cư dân văn hóa Sa Huỳnh và sau này là cư
dân văn hóa Chămpa. Người Chămpa gọi hòn đảo này là “Pulau” Ré và được người
Việt đọc chệch ra thành Cù Lao Ré.
Cùng với quá trình di cư lập nghiệp mở rộng lãnh thổ, người Việt đã chinh phục
các hòn đảo ven bờ. Từ các nguồn tư liệu cho thấy, vào những thập niên cuối của thế
của thế kỷ XVI, đã diễn ra quá trình khai phá đất đai của cư dân của hai xã An Vĩnh và
An Hải trong đất liền trên Cù Lao Ré. Lớp người Việt đầu tiên này đã đưa gia đình, anh
em ra định cư trên đảo. Đến năm 1618, chính quyền đã cho người ra Cù Lao Ré đo đạc
đất đai cắm mốc địa giới cho hai phường là phường An Vĩnh và phường An Hải.
Đến năm 1804, theo đề nghị của Phú Nhuận hầu và đơn của phường An
Vĩnh, vua Gia Long đã cho phép Cù Lao Ré tách ra khỏi sự phụ thuộc về hành
chính ở xã gốc trong đất liền với hai phường là An Hải và An Vĩnh có cơ cấu bộ
máy quản lý xã hội cấp xã. Đến đây, Cù Lao Ré thực sự trở thành đơn vị hành chính
cấp cơ sở trong hệ thống tổ chức hành chính quốc gia. Điều này đã khẳng định vị
trí, địa thế cùng đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
quốc gia với xứ Hoàng Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) giữa biển Đông
từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
56
Chương 3
ĐỜI SỐNG KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
3.1. Đời sống kinh tế của cư dân Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
3.1.1. Nông nghiệp
3.1.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất
Quá trình khai phá đất đai của người Việt kéo dài hàng thập kỷ cho đến năm
1618, chính quyền mới cho người ra đảo đo đạc đất đai cho hai phường An Vĩnh và
An Hải lập sổ địa bạ và thu thuế. Theo điều tra các tư liệu cho thấy, các lần đo đạc
đất đai tiếp theo trên Cù Lao Ré diễn ra vào năm 1669, 1794 và 1821. Dựa vào các
nguồn tư liệu khác nhau, đặc biệt là đinh bạ lập vào năm 1821 cùng các gia phả, văn
khế mua bán ruộng đất cho thấy sự biến động của tình hình sở hữu ruộng đất trên Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XIX29.
Ruộng đất công do nhà nước quản lý
Ruộng đất công làng xã vốn được hình thành từ quá trình chung sức khẩn hoang
của cộng đồng. Trên cơ sở đó, nhà nước đo đạc đất đai và định ra mức thuế cho làng
xã. Đất đai của hai phường An Vĩnh và An Hải đa phần do nhân dân khai phá từ đất
hoang hóa trên Cù Lao Ré cùng sự lấn chiếm đất đai sẵn có của người Chămpa. Đến
năm Mậu Ngọ (1618), chính quyền phủ Bình Sơn mới cử người ra đo đạc ruộng đất tại
Cù Lao Ré nhưng sổ địa bạ năm 1618 hiện nay không còn. Thông qua nguồn tư liệu
gia phả của các dòng họ tiền hiền trên Cù Lao Ré chép về sự kiện này cho phép biết
được tình hình sở hữu ruộng đất trên Cù Lao Ré tương đối đầy đủ. Cụ thể, gia phả họ Nguyễn30 ở thôn Đông (xã An Hải) chép: “Năm Mậu Ngọ (1618), quan trên cử người
ra đo đạc và chia ruộng đất của phường. Đất đai của phường có 53 mẫu, 6 sào và 7
thước. Phường An Vĩnh đất xấu và ít hơn phường của ta gần 15 mẫu (...) quy định:
Thưởng công cho các ông tiền hiền mỗi ông 8 sào (6 mẫu 4 sào); Ruộng đất xây cất
đình 4 sào; Ruộng đất chung của bản xã 4 mẫu 2 sào ở xứ con Bò, bản xã giao cho bản
phường khai thác thu hoa lợi hàng năm nộp về cho bản xã; Ruộng đất còn lại chia đều 29 Mặc dù các nguồn tư liệu cho biết về các lần đo đạc ruộng đất lập địa bạ trên Cù Lao Ré nhưng đối với lần thứ 2 (1669) và lần thứ 3 (1794) không còn lưu lại địa bạ và cũng không thấy ghi chép cụ thể số lượng đất trong các gia phả. Bản địa bạ duy nhất chúng tôi phát hiện được và có trong tay là bản địa bạ năm 1821 lưu tại nhà anh Nguyễn Chí Thanh thuộc dòng họ Nguyễn tiền hiền ở xã An Hải. 30 Gia phả họ Nguyễn tiền hiền hiện lưu tại nhà ông Nguyễn Ấn ở thôn Đông, xã An Hải, huyện Lý Sơn ngày nay. Gia phả này có 165 tờ, trong đó tờ thứ 21 chép về tình hình ruộng đất Cù Lao Ré năm 1618.
57
cho mọi người khai thác và nộp thuế (gồm 42 mẫu 6 sào 7 thước)” [110]. Cũng đề cập
đến ruộng đất, gia phả họ Lê (xã An Vĩnh) cho biết: “Năm Hoàng Định thứ 8 (1618),
bản xã cử người ra đảo đo đạc. Ruộng đất thực canh có 38 mẫu 7 sào 2 thước; bản xã
lấy ra 3 mẫu 1 sào làm ruộng chung của bản xã; cấp cho đất dựng đình 4 sào; thưởng
cho tiền hiền mỗi ông 5 sào; số còn lại chia đều cho mỗi người” [109]. Từ hai gia phả
này, cho thấy ruộng đất trên Cù Lao Ré gồm có 4 loại chính là: ruộng chung của
phường; ruộng đất dựng đình; ruộng đất thưởng cho các vị tiền hiền; đất đai chia cho
dân bản phường cày cấy và đóng thuế.
Bảng 3.1: Tình hình ruộng đất ở Cù Lao Ré năm Mậu Ngọ (1618)
Stt Loại đất An Vĩnh An Hải Tổng số
1 Ruộng chung 31 sào 42 sào 73 sào
2 Đất dựng đình 4 sào 4 sào 8 sào
3 Tiền hiền 35 sào 64 sào 99 sào
4 Đất chia cho dân 311 sào 426 sào 7 thước 737 sào 7 thước
Nguồn: [109], [110].
Tổng diện tích 381 sào 536 sào 7 thước 917 sào 7 thước
Từ hai nguồn tư liệu trên cho thấy ruộng đất thưởng cho tiền hiền chiếm
11%; đất dùng xây cất đình làng chiếm 0,9%; ruộng đất dùng việc công là 6,6%;
ruộng đất công chia cho dân canh tác lên đến 83,5%.
Năm Giáp Dần (1794), Cù Lao Ré tiến hành đo đạc đất đai trên toàn đảo với 181
phần chia làm ba hạng đất và quy định về lệ nộp dầu hương và quan thuế. Mặc dù
vậy, việc phân chia ruộng đất của Cù Lao Ré có sự chênh lệch về diện tích giữa các
đối tượng, hoặc cũng có thể là sự chênh lệch nhiều về diện tích đất xấu và đất tốt
giữa các cá nhân trong phường. Đến năm 1821, Cù Lao Ré tiến hành đo đạc lại
ruộng đất của cả xã An Vĩnh và An Hải phân chia lại cho các cá nhân sử dụng và
đóng thuế. Theo kết quả đo đạc, Cù Lao Ré có tổng số 4.181 sào gồm 4 loại là: đất
hương hỏa tộc họ, đất tộc tổ, đất nhập tộc và đất chia cho các thành viên canh tác
[108]. Sau 203 năm khẩn hoang (1618 – 1821), tổng số đất đai khai phá của Cù Lao
Ré từ 917 sào 7 thước đã tăng thêm 3.263 sào, gấp hơn 4 lần so tổng diện tích đất
đai khi còn là phường. Mặc dù vậy, địa bạ năm 1821 không cho thấy thống kê về
đất dùng chung cho xã và đất dùng để xây cất đình. Diện tích đất đai của Cù Lao Ré
theo kết quả của địa bạ gồm có 4 loại cụ thể như sau:
58
Bảng 3.2: Tình hình ruộng đất ở Cù Lao Ré qua địa bạ năm 1821
Stt Loại đất Tỉ lệ phần trăm (%)
1 Hương hỏa tộc họ 2 Tộc tổ 3 Nhập tộc 4 Đất canh tác
Tổng diện tích Tổng diện tích (Đvt: sào) 199 123 111 3747 4181 5,0 3,0 3,0 89,0 100,00
Nguồn: [108].
Từ bảng số liệu cho thấy tổng diện tích ruộng đất công làng xã của Cù Lao
Ré đã lên đến 3747 sào trên tổng số 4.181 sào, chiếm 89% tổng diện tích đất đai
(năm 1618 chiếm 83%). Từ đó cho thấy đến đầu thế kỷ XIX, đất công làng xã ở Cù
Lao Ré vẫn chiếm tuyệt đại bộ phận đất đai của cả hai xã. Cá nhân được phân chia
ruộng đất để canh tác và có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước (cụ thể xem phụ lục,
bảng 4.6). Trong đó, cá nhân được chia dưới 20 sào đất là 23 người, số người được
chia từ 20 sào đến 29 sào đất là 131 người và chỉ có 4 người có trên 30 sào đất
[108] (xem phụ lục, bảng 4.2). Việc phân chia ruộng đất này cho thấy người có
nhiều đất nhất là 56 sào và người nhiều thứ hai là 34 sào đất. Trong khi đó, người
được hưởng ít ruộng đất nhất chỉ có 13 – 14 sào đất [108], chênh lệch giữa người
nhiều đất nhất với ít đất nhất lên đến 43 sào, gấp 4,3 lần. Những trường hợp còn lại
có số đất cũng chỉ từ 30 sào đến 34 sào. Nếu so sánh người được ít ruộng đất nhất
với số người được từ 20 đến 29 sào đất thì sự chênh lệch cũng chỉ từ 6 đến 7 sào đất
(xem phụ lục, bảng 4.2).
Sự chênh lệch về ruộng đất thường dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế và địa
vị xã hội. Tuy nhiên điều này có thể chưa chính xác vì ở cả An Hải và An Vĩnh còn
có một bộ phận đông đảo cư dân làm nghề đi biển. Xã An Vĩnh tập trung nhiều cư
dân đi biển ra quần đảo Hoàng Sa và ít đất canh tác hơn rất nhiều so với xã An Hải.
Vì vậy, việc phân chia ruộng đất có thể đối với những người chuyên nghề đi biển
này có khả năng ít hơn những người khác. Từ đó cho thấy nhiều khả năng số người
được chia ruộng đất dưới 20 sào thuộc về xã An Vĩnh.
Đất dựng đình, dinh, miếu
Theo như hầu hết các gia phả cho biết ở thế kỷ XVII, cư dân trên Cù Lao Ré
mặc dù đã không còn nhận ruộng đất từ hai xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền
59
nhưng vẫn phải đem thuế nộp về cho xã và phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đối
với các xã gốc. Gia phả các họ cho biết, hai phường trên Cù Lao Ré khi đó hàng
năm vẫn phải nộp thuế cho đất liền được đặt ra từ năm Hoàng Định thứ 8 (1618)
cho đến tận năm Cảnh Trị thứ 7 (1669), cụ thể: “Cảnh Trị thứ 7 (1669) quan trên ra
khám đạc, cho phép hai phường được trích phần ruộng đất công để sử dụng vào
việc chung xây cất lăng đình” [112]. Trong tờ đơn xin tách phường An Vĩnh ra khỏi
xã An Vĩnh trong đất liền năm 1804 cũng đề cập đến vấn đề này như sau “Từ năm
Quý Tị (1773) lại nay, phường tác giả (…) không thờ cúng riêng ở chùa, ở đình, ở
miếu với dân xã An Vĩnh đã trọn nhiều năm” [35, tr. 30].
Tổng hợp các ghi chép trên cho thấy trước năm 1773, phường An Vĩnh vẫn
phụ thuộc vào xã gốc trong đất liền ở nhiều mặt nhưng không còn thực hiện nhiệm
vụ tế lễ hàng năm ở đình, miếu trong xã gốc. Tiếp đến sau năm 1773, phường An
Vĩnh được phép có chấp bằng riêng về sưu thuế. Theo số liệu từ năm 1618, tổng
diện tích đất dùng để dựng đình ở cả An Vĩnh và An Hải đều quy định là 4 sào.
Phần đất dựng đình của hai phường An Vĩnh và An Hải trên thực tế được sử dụng
cho dân cày cấy và thu một phần hoa màu sử dụng vào việc xây cất, tu sửa, sắm
lễ… thực hiện nghi lễ trên đảo.
Như vậy, bắt đầu những năm 70 của thế kỷ XVIII, phường An Vĩnh đã được
phép xây cất lăng, đình trên Cù Lao Ré. Mặc dù vậy phải thực sự sau năm 1773,
dân phường An Vĩnh mới dựng đình ngoài Cù Lao Ré và không thực hiện nhiệm vụ
lễ tết đình chùa ở đất liền nữa. Còn phường An Hải đến tận thập kỷ đầu của thế kỷ
XIX, đình làng An Hải được 8 tộc họ tiền hiền cùng nhân dân xây dựng [28, tr. 2]
và chấm dứt việc đóng góp ở đất liền.
Đất thưởng cho tiền hiền
Quá trình khai phá Cù Lao Ré được tiến hành bởi lớp cư dân Việt đầu tiên
gồm 15 người. Để nhớ ơn, hai phường trên đảo Cù Lao Ré đều sử dụng ruộng đất
công để chia cho các tiền hiền và sau này là dòng họ của các tiền hiền. Việc chia
ruộng đất cho dòng họ tiền hiền được cả hai phường thực hiện liên tục cho đến giữa
thế kỷ XIX. Tổng diện tích đất đai được chia lên đến 99 sào (trong tổng số 917 sào
7 thước), chiếm 11% tổng diện tích đất canh tác của cả hai phường [110].
Đến đầu thế kỷ XIX, diện tích đất đai cho các tộc họ tiền hiền đã lên đến 11%
bao gồm các loại đất hương hỏa tiền hiền 5%; tộc tổ 3% và nhập tộc 3% (xem phụ
60
lục, các bảng 4.3; 4.4; 4.5). So với năm 1618, đất đai dùng vào việc thờ phụng các
dòng họ tiền hiền, xây cất nhà cửa thờ các tộc họ của hai xã tăng khá nhiều. Điều này
cho thấy, hai phường đặc biệt quan tâm đến công lao của lớp cha ông đi trước khai
khẩn đất đai dựng làng xóm trên Cù Lao Ré. Đây là một trong những “đặc quyền”
của các dòng họ tiền hiền về vật chất mà nhân dân Cù Lao Ré trao cho họ.
Sự biến động về diện tích đất đai chia cho các tộc họ tiền hiền từ đầu thế kỷ
XVI cho đến giữa thế kỷ XIX cho thấy việc khẩn hoang mở rộng địa vực sinh sống
cũng như diện tích canh tác của cư dân trên Cù Lao Ré diễn ra liên tục, bền bỉ lâu
dài. Qua thời gian, diện tích đất phân cho các tộc tiền hiền không có xu hướng giảm
mà ngược lại, ngày càng tăng. Điều này cho thấy vị trí vai trò chủ chốt của các tộc
họ tiền trong đời sống xã hội ở Cù Lao Ré.
Ruộng đất thuộc sở hữu chung của phường
Theo điều tra khảo sát tại Cù Lao Ré, tác giả xác định được 17 khu đất mang
tên “ruộng chung” trong đó xã An Hải có 5 khu vực và xã An Vĩnh là 12 khu vực.
Ruộng chung phân bố lẻ tẻ ở nhiều khu vực cằn cỗi khó canh tác ở khu vực Lưỡi
Cày (thôn Tây, xã An Vĩnh) hay cũng có nơi đất đai màu mỡ như ở xứ Con Bò,
xóm Xó La (xã An Hải). Từ các số liệu mà gia phả cung cấp cho thấy, diện tích đất
đai hai phường đều trích ra một phần đất đai làm nguồn kinh phí dùng vào việc
chung của từng phường là 73 sào.
Về nguồn gốc ruộng chung, gia phả của họ Trần (thôn Đông, xã An Vĩnh)
cung cấp cho biết “trên đất nghịch của người Hời, bản phường xã tấu trình lên trên
cho phép sử dụng làm ruộng đất công của bản xã phường mà không phải nộp thuế”
[115]. Còn trong gia phả họ Phạm Quang có ghi lại gia đình ông Phạm Quang Hải
về đất liền nên “ruộng đất của bản phường đã chi cho được khoanh lại nhập vào
ruộng chung” [114]. Điều này cho thấy đất chung có từ nhiều nguồn gốc khác nhau
như đất hoang hóa, đất phân cho cá nhân bỏ hoang và đất công làng xã.
Việc sử dụng đất chung của hai phường trên Cù Lao Ré hoàn toàn do
phường quyết định. Phường cho dân sở tại thuê cày cấy và chia cho những người có
chức quyền trong bộ máy quản lý phường “sử dụng ruộng đất công mà không phải
nộp thuế; hết kỳ hạn hoặc vì một lý do nào đó bị bãi chức, thì phải trao lại trả
ruộng đất cho người đương chức hưởng hoa lợi” [8, tr. 34]. Phường cũng có thể
đem ruộng đất chung bán đứt, bán đoạn, cầm cố trong những trường hợp nhất định
61
năm 1846, An Vĩnh phải bán đất để lấy tiền làm phí tổn cho những người trong xã
tham gia đội Hoàng Sa của Thủy quân về kinh thành Huế làm công vụ. Sự kiện này
được văn khế ghi rõ “theo lệnh trên quy tập dân vào đội Hoàng Sa tới kinh ứng sai
đi làm công vụ, (…). Do thiếu phí tổn bản xã cùng nhau tập trung tại đình đồng
thuận bán đứt 1 phần đất gò này” [135].
Từ đó cho thấy, ruộng chung hay còn gọi “công điển bản thổ” trên Cù Lao
Ré là tài sản của cả cộng đồng dân cư lập nên từ năm 1618. Loại ruộng đất này
thuộc về sở hữu riêng của từng phường và sử dụng vào mục đích chung không phải
đóng bất kỳ loại thuế nào. Đất dùng chung cho phường công tuyệt đối không ai
được phép lấn chiếm. Ngoài việc cho dân thuê và chia cho chức tước cày cấy, trong
những trường hợp khẩn cấp nhất định thì phường (sau là xã) có quyền quyết định
bán đoạn hoặc bán đứt cho các cá nhân để lấy kinh phí hoạt động.
Bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân
Trên đảo còn có đất đai cằn cỗi khó khai phá trên các ngọn đồi hoặc khu vực
có nhiều đá. Loại đất đai này thường bị bỏ hoang hóa. Chính vì vậy, ruộng đất tư
ngoài phần ruộng đất của các tiền hiền khai khẩn từ trước thì còn do các cá nhân tập
trung khai phá ở loại đất đai này. Điều này xuất phát từ “năm Cảnh Trị thứ 7
(1669), quan ra khám đạc ruộng đất, cho phép lưu dân ai khai phá được bao nhiêu
thì hưởng bấy nhiêu” [111].
Sự kiện cho phép dân khai hoang làm ruộng đất tư không phải đóng thuế này
là chính sách chung của chúa Nguyễn chứ không phải chỉ áp dụng riêng cho Cù Lao
Ré vì “Năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) (…) những chỗ rừng rú bỏ hoang, thành ruộng
khai ra, thì cho làm ruộng tư, nhà nước thu thóc tô, xã ấy không được tranh chia
lấy để làm lệ vĩnh hằng” [17, tr. 161 – 162]. Việc cho phép dân sở tại trên Cù Lao
Ré được phép khẩn hoang làm ruộng đất tư đã dẫn đến sự tranh giành đất đai giữa
nhân dân hai phường An Vĩnh và An Hải. Gia phả họ Lê chép “năm Kỷ Dậu (1669),
dân Cù Lao Ré được tự do khai thác ruộng đất mà không phải nộp thuế ... dẫn đến
tình trạng đánh nhau giữa hai phường” [109].
Ngoài ra, ruộng đất tư còn hình thành từ các nguồn mua bán ruộng đất giữa
các cá nhân trên Cù Lao Ré. Theo như thống kê văn khế của phường An Vĩnh trước
năm 1789 [107] có được cho thấy ở thế kỷ XVII, hoạt động mua bán ruộng đất của
phường An Vĩnh diễn ra gồm 24 vụ (xem phụ lục, bảng 4.7). Đất đai phường An
62
Vĩnh đem ra mua bán gồm nhiều loại như đất rừng cấm, đất nương, đất phù sa, đất
dùng chung của phường. Bản kê khai văn khế của An Vĩnh đều không đề cập đến
diện tích mà gọi chung là “khoảnh” cùng số tiền mua bán. Khoảnh đất bán ít nhất là 5
quan tiền và nhiều nhất là 200 quan tiền [107] (xem phụ lục, bảng 4.7). Từ đó cho
thấy sự mua bán ruộng đất trong thế kỷ XVIII trên Cù Lao Ré chủ yếu dựa trên
“thuận mua vừa bán” chứ chưa có giá cả chung.
Ngoài ruộng đất khai phá làm của tư, ruộng đất tiền hiền do con cháu trong
dòng tộc còn có ruộng đất công của phường được bán đoạn hoặc bán đứt cho các cá
nhân. Thông qua các văn khế mua bán ruộng đất trên Cù Lao Ré thế kỷ XVII –
XVIII có thể thấy ruộng đất tư bắt đầu có dấu hiệu phát triển song cũng chưa tác
động mạnh đến sự tồn tại của ruộng đất công. Bước sang thế kỷ XIX, tình hình mua
bán ruộng đất trên Cù Lao Ré diễn ra khá nhiều như: dưới thời Gia Long có 5 vụ,
dưới thời Minh Mạng là 17 vụ, dưới thời Thiệu Trị là 17 vụ và dưới thời Tự Đức
đến năm 1858 lên đến 40 vụ [136]. Chỉ trong vòng trên 50 năm từ 1804 đến 1858, ở
xã An Hải diễn ra tổng số 79 vụ mua bán ruộng đất. Con số này gấp nhiều lần nếu
như so với 24 vụ mua bán ruộng đất ở phường An Vĩnh trong suốt thế kỷ XVIII.
Nhìn vào các vụ mua bán ruộng đất diễn ra rầm rộ ở Cù Lao Ré nửa đầu thế kỷ XIX
cho thấy sự phát triển của ruộng đất tư hữu. Sự phát triển loại hình sở hữu ruộng đất
này thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu dưới triều vua Minh Mạng và lên đến đỉnh
điểm vào thời vua Tự Đức.
Như vậy, bên cạnh sự tồn tại của loại hình ruộng đất công, ruộng đất tư hữu
trên Cù Lao Ré cũng phát triển làm cho cơ cấu sở hữu ruộng đất ở đây khá phong
phú. Mặc dù ruộng đất tư hữu vốn đã có từ khi lập phường song chỉ đặc biệt phát
triển dưới triều Nguyễn.
3.1.1.2. Hoạt động kinh tế nông nghiệp
Nghề làm vườn
Vườn thổ cư là loại vườn nằm xung quanh nhà trên vùng đất cát biển nơi có
khu dân cư sinh sống. Đa số diện tích vườn trồng các loại cây ăn quả như đu đủ,
mãng cầu xiêm, dừa…Mặc dù không đem lại lợi ích kinh tế cao nhưng lại là nguồn
cung cấp cho cư dân Cù Lao Ré các loại rau quả trong sinh hoạt thường ngày.
Bên cạnh đó còn có nghề làm vườn ruộng. Vườn ruộng là loại hình canh tác
kết hợp giữa làm ruộng với làm nương rẫy. Do điều kiện đất đai của Cù Lao Ré
63
không thuận tiện cho sản suất nông nghiệp lúa nước lại xa nơi cư trú, địa bàn canh
tác gặp nhiều khó khăn vì các vạt đồi ở xa các nguồn nước. Ở Cù Lao Ré, một gia
đình thường có từ một đến ba bốn vườn ruộng ở các xứ khác nhau. Hoạt động kinh
tế của vườn ruộng hết sức đa dạng. Cư dân trồng đủ các loại cây, từ cây lương thực
như ngô (bắp), khoai mì, lạc (đậu phụng) cho đến các loại cây ăn trái và các loại rau
như bí, bầu, ớt,… Loại vườn ruộng này đa phần thuộc về đất tự canh của từng gia
đình do khai chiếm đất đai hoang hóa và phần nào được xem như là nguồn kinh tế
chính vừa đảm bảo lương thực, thực phẩm hàng ngày, vừa là nguồn cung cấp sản
vật phục vụ cho nhu cầu trao đổi buôn bán.
Nghề làm ruộng
Ruộng ở Cù Lao Ré chiếm tỉ lệ khá ít trong tổng số diện tích canh tác. Điều
đáng chú ý là loại ruộng khô này thường ở gần nguồn nước hoặc ở sát mép biển và
nằm trong khu vực cư trú. Loại ruộng này là ruộng công, chủ yếu trồng các loại cây
loại cây lương thực khác như ngô, lạc… Trong quá trình khai phá, những vùng đất
bằng phẳng gần mép biển, gần các nguồn nước được người Việt lấy làm địa bàn
sinh sống, làm ruộng đất công hay ruộng đất chung thuộc sở hữu riêng của phường.
Do vậy, người Việt phải gieo trồng và canh tác trên những vùng đất cao, biến độ
dốc của đồi núi thành mặt phẳng của mô hình vườn ruộng để sản xuất lương thực.
Canh tác ruộng khô ven bờ biển trên nền đất cát và canh tác vườn ruộng là sự kết
hợp khá nhuần nhuyễn giữa hai loại hình canh tác ruộng và nương rẫy.
Trong lao động sản xuất, cư dân Cù Lao Ré hầu như không sử dụng cày,
bừa với sức kéo của trâu bò mà chủ yếu sử dụng dao, cuốc. Với những thửa
ruộng khô đất pha cát, người ta dùng cuốc xới đất, lên luống, tra hạt. Vườn ruộng
do địa hình dốc sườn núi, sườn đồi sỏi đá nên hình thành các thửa vườn ruộng
nhỏ hẹp. Ở loại hình ruộng đất này, người Việt phải thu dọn đá, cỏ rồi chọc lỗ tra
hạt. Việc kết hợp loại hình canh tác ruộng – vườn ruộng thể hiện sự sáng tạo của
người Việt ở Cù Lao Ré trong chinh phục, cải tạo tự nhiên và hình thành phương
thức canh tác riêng, độc đáo.
Nhìn chung, kinh tế nông nghiệp trên Cù Lao Ré là nông nghiệp đất khô,
trồng trọt các loại cây như ngô, khoai lang, đậu phụng và các loại cây hoa màu khác
mà hầu như không làm ruộng trồng lúa nước. Trên Cù Lao Ré từng tồn tại nghề ép
dầu phụng nổi tiếng và triều Nguyễn từng thu loại dầu này thay cho thuế.
64
3.1.2. Ngư nghiệp
3.1.2.1. Phương tiện hoạt động
Người dân trên Cù Lao Ré dùng hai loại phương tiện là ghe bầu và xuồng,
thuyền thúng. Ghe bầu đánh bắt cá là loại ghe nhỏ có chiều dài khoảng 25 thước mộc,
rộng khoảng 5 thước mộc. Loại ghe bầu này được đóng tại Cù Lao Ré được dùng chủ
yếu để đánh bắt cá chuồn. Thuyền thúng được làm bằng tre, tuy nhiên rất ít khi làm ở
trên đảo mà hầu hết được mua từ đất liền. Thuyền thúng dùng làm phương tiện cho một
người lặn dùng chỉa đâm cá ở ven biển hoặc vùng biển cận khơi. Lưới được đan bằng
sợi gai, chiều dài của lưới khoảng 300 đến 450m, rộng khoảng 2,5 đến 3m được nối kết
với nhau do nhiều tay lưới kết lại. Phao lưới làm bằng gỗ cây gòn, dưới cột đà hoặc là
những cục đồng, chì, thầm chí bằng gỗ sao, cẩm lai,… Đối với mỗi loại cá, cư dân Cù
Lao Ré dùng loại lưới khác nhau để đánh bắt cá: lưới 8 dùng để bắt cá thu, cá nhồng, cá
ngừ; lưới 4 dùng để bắt cá nháy; lưới 3 dùng để bắt cá chuồn; lưới 2 dùng để bắt cá sơn
ở những bãi ngầm, lưới nhỏ dùng để bắt cá cơm.
3.1.2.2. Hoạt động ngư nghiệp của cư dân Cù Lao Ré
Nghề bủa lưới: Đây là một trong những nghề truyền thống của Cù Lao Ré
tồn tại cho đến ngày nay. Nghề bủa lưới không đòi hỏi phải sử dụng thuyền lớn, mà
ngư dân thường dùng ghe là một ngư chủ. Khi thấy đàn cá xuất hiện, ngư chủ cho
một người cầm một dây đầu lưới đi thuyền thúng vào bờ đứng giữ chặt rồi cột vào
cây. Số người còn lại chèo thuyền vào bờ vây đàn cá theo hình bán nguyệt. Khi gần
tiến vào bờ, người trên ghe cầm đầu dây còn lại nhảy xuống biển bơi vào bờ và bắt
đầu kéo lưới khiến cho đàn cá mắc lưới hoặc nằm trong đụt (nơi giữa vòng lưới có
mắt lưới đan dày). Mẻ lưới cuối cùng của lần đánh bắt cá được gọi là mẻ “hôi cá”.
Ở mẻ lưới cuối cùng không có người hôi cá thì ngư dân coi đó là điều không may
mắn và họ sẽ nghỉ không ra biển ngày kế tiếp nữa. Vì vậy mà đến mẻ lưới cuối
cùng, ngư chủ thường cho người thông báo đến bà con trên bờ biết, hoặc cố tình báo
trước cho người không thuộc gia đình trong đội đánh bắt cá biết để họ đến hôi cá.
Nghề bủa lưới thường hoạt động theo dòng họ và chia theo tỉ lệ 4/6, trong đó ngư
chủ nhận 4 phần và phần còn lại chia cho các thành viên tham gia. Cách phân chia
này cũng tồn tại trong nghề câu mực ở Cù Lao Ré.
Nghề lưới chuồn: Nghề lưới chuồn còn gọi là nghề lưới cồ. Ngư trường cá
chuồn của ngư dân Cù Lao Ré ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa mà dân gian gọi
65
là “Đèo Đông”. Khi ra khơi đánh bắt cá, mỗi ghe bầu có 8 người, mỗi ghe đều đem
theo thuyền thúng và muối để ướp cá cùng lương thực, nước uống cho thời gian từ 4
đến 8 ngày. Nghề lưới cá chuồn được coi là nghề “độc quyền” của ngư dân phường
An Vĩnh vì đây là nghề truyền thống và họ cũng nổi tiếng về kinh nghiệm đi biển.
Kỹ thuật đánh bắt cá chuồn cũng khá đơn giản. Lưới được thả xuống biển theo hình
bán nguyệt cắt ngang dòng chảy (tức hải lưu) và được định vị ở hai đầu bằng ghe
bầu lớn để đón đầu đàn cá chuồn bơi xuôi theo dòng nước. Khi lưới thả xong, ngư
dân chốt hai đầu lưới lại bằng phao lớn rồi kéo lưới thu hẹp khoảng cách hai ghe
bầu lại để đóng cá. Mùa đánh bắt cá chuồn trên Cù Lao Ré thường diễn ra từ tháng
3 cho đến hết tháng 7 âm lịch. Nguồn cá đánh bắt được ngư dân đem về đất liền bán
ở cửa biển Sa Kỳ, Sa Cần, Cửa Đại…
Nghề lưới cá trích: Do đặc điểm cấu tạo địa hình của Cù Lao Ré phức tạp
gồm nhiều vũng vịnh cùng các dãy đá ngầm, san hô nằm dưới mặt biển cho nên tới
mùa biển động từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch hàng năm, cá trích kéo về khu vực
biển quanh đảo thành từng đàn lớn để trú tránh biển động. Chính vì vậy mà ở Cù
Lao Ré có quy định các bến chài cá trích ở những nơi các đàn cá trích xuất hiện và
cho người trông coi gọi là Trùm xeo. Trùm xeo có nhiệm vụ phát hiện ra các dấu
hiệu của các đàn cá trích để thông báo cho phường để dân tổ chức bắt cá. Cá trích
được bắt cũng chia theo tỉ lệ 4/6: ngư dân bắt cá được hưởng 4 phần và 6 phần còn
lại nộp cho phường. Sáu phần này, những ngư dân có thể nộp bằng sản phẩm đánh
bắt được hoặc có thể nộp tiền thay.
Nghề câu thúng: Còn gọi là nghề câu lộng ở chỗ nước nông gần bờ. Công cụ
dùng để câu lộng là một vòng câu. Mỗi vòng câu có 10 lọn, mỗi lọn có từ 15 đến 20
sợi dây gai, một đầu thắt lưỡi câu một đầu cột vào sợi dây cái bằng ống gỗ hoặc ống
cây lồ ô. Khi ra ngư trường, người đi câu dò hướng nước chảy để đón đàn cá bơi
theo dòng hải lưu và thả các vòng câu xuống biển. Sau vài tiếng, họ kéo dây cái để
thu gom cá mắc câu. Ngư dân có thể hoạt động nghề câu lộng quanh năm quanh
đảo. Lực lượng tham gia chủ yếu là phụ nữ, trẻ em vì nó đơn giản và không có nguy
hiểm nhưng hiệu quả đem lại không cao như các hoạt động đánh bắt cá khác.
Nghề câu mực: Nghề câu mực còn gọi là nghề câu khơi vì hành nghề ở vùng
biển khơi cách xa đảo. Phương tiện dùng để câu mực là loại ghe bầu lớn có thể chứa
4 đến 6 ngư dân. Bên cạnh đó, thuyền thúng cũng được ngư dân Cù Lao Ré sử dụng
66
vào trong nghề câu mực và hoạt động đơn lẻ một người một thuyền thúng. Công cụ
dùng để câu mực gồm có cần câu và ông câu. Đầu dây buộc 4 đến 5 lưỡi câu. Phía
trên lưỡi câu cứ khoảng 30cm buộc mồi câu là lòng gà hoặc cá, tôm. Khi mực cắn
câu thì giật mạnh cần, mực sẽ bị mắc vào một trong các lưỡi câu đó. Mùa câu mực
thường diễn ra trùng với mùa bắt cá chuồn từ tháng 3 cho đến hết tháng 8 âm lịch
và cao điểm là tháng 5, tháng 6 hàng năm khi có gió nồm nam. Ngoài ra, ngư dân
Cù Lao Ré còn khai thác các sản vật biển khác như sải sâm, víc, rùa và các loại ốc
biển ở vùng biển xung quanh đảo vào ở quần đảo Hoàng Sa.
Nghề bắt đồn đột: Đồn đột là một trong loại hải sâm rất quý hiếm và vì vậy
được ngư dân Cù Lao Ré đặc biệt coi trọng trong hoạt động nghề biển. Đồn đột có
hình dạng giống như con giun đất khổng lồ nhiều màu sắc. Khi ở dưới nước sâu,
đồn đột nhiều con dài tới 40cm rộng 20cm và nặng từ 1kg đến 3kg thân mềm lạnh.
Loài đồn đột thường sống ở các hang đá, khe cát hoặc ở các dãy san hô có độ sâu từ
10m đến 30m. Theo dân gian truyền kể, đồn đột sinh sống ở vùng biển Cù Lao Ré
với mật độ đông đảo nên chỉ cần dùng thuyền bơi ra cách khoảng một vài hải lý là
có thể bắt được khá nhiều. Vì giá trị của đồn đột mà nó sớm cùng các loại vỏ ốc quý
trở thành vật phẩm cống nạp cho chính quyền phong kiến.
3.1.3. Thủ công nghiệp
3.1.3.1. Nghề đan lưới
Ở Cù Lao Ré nghề đan lưới gai là một trong những nghề truyền thống phục vụ
cho nghề đánh bắt cá của ngư dân trên đảo. Vỏ cây gai khi còn tươi dùng dao cạo sạch
lớp bao phía ngoài sau đó đem phơi nắng cho khô, tiếp đến chẻ nhỏ tạo thành sợi. Các
sợi ngắn được nối kết để kéo dài, quy trình này được gọi là chắp bã. Công việc chắp bã
khá đơn giản, người ta đóng một cái móc vào cột gắn với xỏ sợi vào lỗ kéo xuống chắp
gập xe qua tay, sợi sau khi xe xong dính vào nhau kéo dài, người thợ quấn sợi thành
trái bã. Trái bã được ngâm trong nước để kết dính các mối sợi sau đó đưa qua xa kéo
thành lọn nhợ. Sau khi các gai được kéo thành lọn nhợ, người ta mới sử dụng để đan
thành lưới. Khi đan lưới, nhân dân dùng một miếng tre để làm chuẩn để lấy cỡ cho các
mắt lưới khác nhau. Miếng tre này gọi là “giếng”. Ngoài ra còn có một miếng tre khác
gọi là ghim có cấu tạo đẹp, có lỗ nhỏ ở giữa thân, một đầu nhọn một đầu bằng móc
võm. Nhợ đưa vào lỗ nhỏ vòng qua đầu võm. Khi đan thành lưới, người ta dùng ghim
vòng nhợ qua giếng sau đó thắt gút lại. Giếng có nhiều cỡ khác nhau: giếng kích cỡ dài
67
4 phân dùng để đan lưới bắt cá cơm; giếng cỡ 12cm dùng đan lưới đánh bắt cá chuồn
và các loại cá to. Lưới sau khi đan xong được nấu chung với mủ cây chai mắm cho lưới
có màu đỏ và tăng độ bền của lưới.
3.1.3.2. Nghề đóng ghe bầu
Nghề đóng ghe bầu ở Cù Lao Ré vốn hình thành để phục vụ cho ngư dân
trên đảo và từng khá phát triển từ thế kỷ XIX trở về trước. Làng nghề ghe bầu duy
nhất trên đảo là ở khu vực bến Đá thuộc An Vĩnh. Nguồn gốc và sự hình thành nghề
ghe bầu không còn tư liệu thành văn nào lưu lại, song theo các cụ cao niên, ông tổ
của nghề đóng ghe bầu trên đảo là người Huế ra đảo sống lập nên. Hiện nay tại nhà
ông Võ Đềm vẫn còn bàn thờ ông tổ nghề với mô hình chiếc ghe bầu bằng gỗ.
Nguyên liệu để đóng ghe bầu là gỗ chò mua từ trong đất liền ở vùng Cầu
Ván của Quảng Nam. Riêng ván đóng ghe được mua ở tận Nam Ô của Đà Nẵng.
Ghe bầu loại lớn có chiều dài khoảng 16m và chiều ngang 4m. Đây là loại ghe bầu
khá lớn dùng để vận chuyển hàng hóa, trao đổi buôn bán giữa đảo và đất liền. Loại
ghe trung bình có chiếc dài khoảng 11m, loại ghe này thường dùng trong đánh bắt
cá trên biển. Ghe bầu có cấu tạo thường là ba khoang: khoang đốc, khoang lòng và
khoang mui. Mỗi ghe có một cột ở giữa gọi là cột lòng cao khoảng 9m dùng để cột
buồm và một cột mũi cao khoảng 7m cũng dùng để cột buồm. Ngoài ra còn có 1
chèo lái và 4 chèo ngang, 1 bánh lái để chèo lái ghe, 1 bánh mũi để đỡ ghe cho khỏi
tạt nghiêng một bên. Ghe đóng xong, người thợ lấy dầu rái cùng mủ cây chai mắn
quét lên nghe để chống rỉ nước. Riêng mủ cây chái mắm còn ốp vào các chốt nêm
bằng gỗ để chốt chặt không rỉ nước. 3.1.3.3. Nghề ép dầu phụng31 và dầu hương32
Theo các nguồn tài liệu cho thấy, cư dân Cù Lao Ré dưới thời phong kiến tồn
tại nghề ép dầu phụng và dầu hương nhưng nay đã thất truyền. Loại dầu này vừa để
buôn bán trao đổi với đất liền và vừa dùng để nộp trực tiếp cho triều đình phong kiến
31 Phụng là từ địa phương dùng để chỉ cây lạc. Hiện nay, nghề ép dầu lạc trên đảo Lý Sơn đã thất truyền. Cư dân trên đảo chủ yếu tận dụng đất đai để trồng hành tỏi vốn mới chỉ xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ XX. 32 Các tờ đơn từ kê trình của hai phường trên Cù Lao Ré cho biết nhân dân trên đảo phải đóng thuế bằng dầu hương. Tuy vậy khi tra các loại tài liệu cùng quá trình điều tra điền dã tại huyện Lý Sơn đều không cho biết cây hương ra sao. Duy nhất trong bản kiểm kê cây dầu hương ngày 24 tháng 3 năm Gia Long thứ 17 (1818) mà tác giả sưu tầm được cho biết “đo cây dầu hương này từ gốc đến ngọn có cây 6 thước, có cây 5 thước 5 tấc, có cây 4 thước 5 tấc, lại đo phần thân có cây 6 tấc, có cây 5 tấc 5 phân, có cây 4 tấc 5 phân, có cây 4 tấc. Kiểm tra cây dầu hương gẫy nát như 10 phần đã sinh chồi non được 2 phần”.
thay cho các loại thuế ruộng đất trên Cù Lao Ré (xem phụ lục 5.5; 5.6; 5.7; 5.8; 5.9).
68
Đất đai trên Cù Lao Ré chủ yếu là đất pha cát lại khan hiếm về nguồn nước
làm cho sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước không thể phát triển. Trong nông
nghiệp, cư dân Cù Lao Ré sử dụng loại đất này để trồng ngô và lạc. Trong đó, lạc tỏ
ra phù hợp hơn với chất đất pha cát trên đảo nên trở thành cây trồng chính của cư
dân Cù Lao Ré dưới thời phong kiến. Đây là cơ sở dẫn đến sự ra đời nghề thủ công
truyền thống ép dầu lạc hay còn gọi là ép dầu phụng theo cách gọi của dân gian. Lạc
sau khi thu hoạch về, lạc được phơi thật khô. Sau đó tách lấy hạt rồi đưa vào cối xay
thành bột hoặc giã thành bột đem hấp lên. Công đoạn hấp bột lạc là công đoạn quan
trọng nhất đòi hỏi kinh nghiệm để làm sao lạc không quá chín thành nhão hoặc chưa
chín sẽ cho dầu ít và chất lượng dầu không đảm bảo. Sau khi hấp xong lạc, người ta
ép thành dầu. Dụng cụ dùng để ép dầu lạc khá đơn giản. Họ dùng các miếng gỗ
đóng thành máng và đổ bột dầu vào dùng ván ép cho dầu lạc chảy ra. Từ đó đưa vào
các lu đựng dầu dùng để bán vào trong đất liền và đóng thuế cho nhà nước.
3.1.4. Thương nghiệp
Cư dân Cù Lao Ré có truyền thống đi biển, họ có thể đóng mới các loại ghe
bầu kích thước lớn từ 35 thước mộc trở lên để dùng đi lại phục vụ buôn bán trên
biển. Đây là điểm dừng thường xuyên của các thuyền bè đi lại trên biển của con
đường mậu dịch biển Đông. Sự giao lưu buôn bán này còn để lại bằng chứng là đồ
gốm sứ các nước còn lưu lại rất nhiều trong lòng đất trên đảo, cùng các giếng nước
ngọt cung cấp cho thuyền bè đi lại. Trên Cù Lao Ré còn có nghề đóng thuyền nên
đã hình thành đội ghe bầu sớm ở miền Trung chuyên chở hàng hóa buôn bán từ đảo
đến các vùng trong đất liền và ngược lại. Có thể nhờ những ghe bầu này mà cư dân
có thể vượt biển ra quần đảo Hoàng Sa và các nơi trong vùng. Có thể chính vì bản
thân người dân Cù Lao Ré rất giỏi nghề đi biển nên chúa Nguyễn đã lập đội Hoàng
Sa để khai thác hàng hóa, sản vật trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3.1.5. Tô thuế
Đất đai trên Cù Lao Ré cằn cỗi không phù hợp với việc trồng được lúa, bên
cạnh đó hoạt động ngư nghiệp khá phát triển cho nên việc đánh thuế đối với Cù Lao
Ré thời phong kiến có sự khác biệt so với các địa phương khác trong đất liền. Theo
ghi chép của Lê Quý Đôn thì “ở ba huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa phủ
Quảng Ngãi, ruộng thực trưng 52.639 mẫu 2 sào 3 thước 3 tấc 6 phân, thóc thuế
1.221.882 thưng 4 cáp, tiền nộp thay về tô ruộng xã Thanh Hiếu và phường Cù Lao
69
Ré không tính vào” [17, tr. 178]. Đồng thời lại cho biết thêm vào năm 1769 “Xã An Vĩnh33 nộp đồi mồi 10 bộ (mỗi bộ 13 phiến), mắm 4 vò, dầu vừng 20 chĩnh, cá quý 1
sọt (nặng 100 cân), nước mắm 705 vò” [17, tr. 227]. Từ đó cho thấy, tiền tô thuế
đánh vào ruộng đất không tính cho Cù Lao Ré. Dựa vào việc quản lý ruộng đất và
hoạt động đánh bắt hải sản, các chúa Nguyễn đã áp dụng một chính sách thuế khá
độc đáo đối với cư dân hai phường trên Cù Lao Ré, đó là thuế bằng hiện vật như đồi
mồi, mắm, dầu vừng, cá quý, nước mắm. Đây đều là các loại sản phẩm từ hoạt động
nông nghiệp và đánh bắt hải sản của cư dân Cù Lao Ré.
Bước sang thế kỷ XIX, chế độ thuế khóa nhà Nguyễn áp dụng cho Cù Lao Ré đã
có những thay đổi so với trước. Điều này thể hiện trong hàng loạt các tờ kê trình của hai
phường An Vĩnh và An Hải trong giai đoạn từ 1807 đến tận năm 1840, tức là dưới thời
vua Gia Long và Minh Mạng. Theo tờ kê trình xã An Hải trên Cù Lao Ré cho biết “chịu
thuế dầu hương 20 hũ, mỗi hũ 3 đồng, tiền tô tỉnh điền, thường tân nộp 2 quan 7 mạch
và tiền thuế càn ngư, chinh ngư là 4 quan 6 mạch” [120] (xem thêm phụ lục 5.1). Hoặc
trong kê trình năm 1809 ghi “Từ trước đến nay phường tôi nhập vào nội phủ biệt nạp
dầu phụng và các loại tiền thuế thân dung về kinh phụng nộp” [122] (xem thêm phụ lục
5.3). Từ đó cho thấy ngoài việc đánh thuế bằng sản phẩm thì Cù Lao Ré còn được phép
về thẳng kinh thành Huế nộp chứ không phải vào nộp cho phủ trấn Quảng Ngãi.
Việc đánh thuế Cù Lao Ré bằng dầu hương, dầu phụng không chỉ cho thấy hoạt
động nông nghiệp và nghề thủ công truyền thống của hòn đảo này mà còn cho thấy
việc cung cấp dầu hương, dầu phụng cho chính quyền trở nên khá quan trọng. Theo các
bản trình báo của Cai hợp và các Xã trưởng trên Cù Lao Ré và bản kê khai đo đạc kiểm tra của Bộ Hộ vào năm 1818 cho biết “Vào tháng 9 năm Nhâm Thân34 bị gió to làm
gãy cây dầu hương, phường ấy đã có đơn xin đường quan Bộ Hộ văn phê cho thay nộp
dầu phụng theo số ấy” [124] (xem thêm phụ lục 5.5). Sự kiện này được Quốc sử quán
chép “Từ năm Gia Long thứ 11, bão làm gãy cây, thay bằng dầu lạc (dầu phụng). Đến
nay cây ấy lại mọc nhiều, dân xin nộp thuế dầu hương như cũ. Vua y cho” [76, tr. 340].
Từ những dữ kiện trên cho thấy dầu hương là loại sản phẩm đặc biệt của Cù Lao Ré.
Đến năm 1826, trong đơn kê trình của phường An Hải cho biết “sản vật trên
núi thì nộp dầu hương, hải sản cung nộp đàm chích còn toàn nhân đinh chịu biệt 33 Đây là xã An Vĩnh trong đất liền. Lúc này, phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré vẫn còn phụ thuộc vào xã An Vĩnh về các mặt sưu thuế, lao dịch và các nghĩa vụ khác. 34 Tư liệu này được viết vào năm 1818, vậy năm Nhâm Thân được đề cập trong văn bản này phải là năm 1812.
70
nạp dầu phụng và tiền thuế thân dung.” [129]. Trong một số tờ đơn kê trình sau đó
của Cù Lao Ré đều phản ánh nội dung tương tự. Từ đó cho thấy dưới thời vua Gia
Long và Minh Mạng, Cù Lao Ré chịu thuế là những sản vật sản xuất được trên đảo
và từ hoạt động đánh bắt hải sản ngoài biển Đông và thuế thân dung. Đến thời vua
Thiệu Trị, việc đánh thuế đối với Cù Lao Ré đã có những thay đổi nhất định, nhà
nước đã chuyển sang đánh thuế bằng tiền. Tờ đơn kê trình về thuế vụ của Cù Lao
Ré năm 1843 ghi “Năm Thiệu Trị thứ nhất dân phường cùng nhau khai phá rừng
cấm dầu hương, đất gò nay đã thành thục xin được trưng đất gò này là 20 mẫu, mỗi
mẫu chịu nộp thay bằng tiền là 1 quan 1 mạch, tổng số tiền là 22 quan” [131].
Tổng hợp thông tin từ các nguồn tư liệu trên cho thấy tình hình nộp thuế của Cù
Lao Ré từ năm 1618 đến giữa thế kỷ XIX có những thay đổi nhất định. Ở thế kỷ XVI –
XVII, sưu thuế áp dụng cho Cù Lao Ré chủ yếu là hiện vật, đặc biệt là sản vật có nguồn
gốc từ biển. Đến triều Nguyễn, nhà nước đánh thuế đối với Cù Lao Ré gồm các loại như
thuế sản vật, thuế ruộng đất, thuế hải sản thuế thân. Trong đó duy nhất thuế thân (hay còn
gọi là dung thân) là thu trực tiếp bằng tiền còn các loại thuế khác được thu bằng hiện vật.
Đối với thuế ruộng đất (điền thổ) và sản vật trên Cù Lao Ré thì được thu bằng dầu hương
và dầu phụng còn thuế ngư nghiệp (còn gọi thuế càn ngư, chinh ngư) được thu bằng các
loại cá và các sản phẩm khác như mắm, nước mắm… (xem phụ lục, bảng 4.8). Đến cuối
triều Nguyễn, chính sách tô thuế đối với Cù Lao Ré có sự thay đổi đó là thuế điền thổ
được thu bằng tiền mặt chứ không còn bằng dầu phụng như trước.
Như vậy, cùng với quá trình khai phá lập làng xóm trên Cù Lao Ré, người Việt
đã ứng xử rất thành thạo với môi trường biển, từng bước tạo dựng cuộc sống ổn định
và phát triển đa dạng nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế của cư dân hai phường An Vĩnh
và An Hải giúp cho Cù Lao Ré dần khẳng định sự độc lập của nó đối với hai xã cùng
tên trong đất liền trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở độc lập dưới triều Nguyễn thời
vua Gia Long vào năm 1804. Mặc khác, Cù Lao Ré - quê hương của đội Hoàng Sa, trở
thành tiền đồn trọng yếu trên biển trong chiến lược hướng biển, khẳng định và bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3.2. Tổ chức xã hội Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
3.2.1. Từ thế kỷ XVII đến trước năm 1804
Với vị trí là nơi đi ra quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa gần nhất, Cù Lao Ré
dần trở thành hậu cứ quan trọng trong việc kiểm tra, kiểm soát, bảo vệ và khai thác
71
biển Đông trong chính sách hướng biển của các chúa Nguyễn. Cù Lao Ré được sử
dụng như một căn cứ đặc biệt đặt dưới sự quản lý trực tiếp theo chế độ “Nội phủ”.
Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là
Hoàng Đế, đặt niên hiệu Thái Đức và lấy thành Đồ Bàn (Bình Định) làm kinh đô.
Giống như các chúa Nguyễn trước đây, nhà Tây Sơn vẫn tổ chức các đội Hoàng Sa
và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các quần đảo xa ở khu vực
biển Đông. Cù Lao Ré được đặt trong chế độ quân quản do một quan viên cao cấp
là Phó tổng quản binh dân chủ vụ thượng tướng công trực tiếp phụ trách.
Sau sự kiện đo đạc ruộng đất phân chia địa giới năm 1618 cho đến trước năm
1804, Cù Lao Ré đã hình thành cộng đồng dân cư đông đảo với hai phường là An
Hải và An Vĩnh với các xóm và chòm. Mặc dù vậy về mặt hành chính, Cù Lao Ré
vẫn phụ thuộc vào sự quản lý của hai xã gốc trong đất liền. Chính vì vậy mà sự
quản lý xã hội ở Cù Lao Ré có đặc điểm riêng biệt so với các địa phương khác đó là
sự hiện diện hai hình thức tổ chức xã hội: đại diện chính quyền cấp xã và tổ chức tự
quản của cư dân trên đảo.
3.2.1.1. Đại diện chính quyền hai xã An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré
Bộ phận đại diện cho xã An Vĩnh, An Hải trong đất liền ra quản lý dân hai
phường chúng ta tạm gọi là bộ phận lý dịch, gồm có ba người giữ các chức Cai hợp,
Phiên ty, Thủ hợp. Đây là bộ phận quản lý chung của cả Cù Lao Ré.
Cai hợp:
Theo quy định, người làm Cai hợp có thể là người của xã An Vĩnh hoặc An
Hải trong đất liền hoặc của Cù Lao Ré. Khi được bầu, Cai hợp phải sống tại phường
An Vĩnh hoặc phường An Hải trên Cù Lao Ré để quản lý hai phường này. Người
bầu làm Cai hợp phải được sự nhất trí của bộ máy lý dịch quản lý của xã An Vĩnh
và An Hải. Về tiêu chuẩn, họ phải là người can trường, có kinh nghiệm giải quyết
các mâu thuẫn cộng đồng. Cai hợp được lựa chọn còn phải được hai xã đề cử lên
Cai cơ thủ ngự đồn trú ở cửa biển Sa Kỳ. Chỉ khi nào Cai cơ thủ ngự Sa Kỳ thông
qua thì người được bầu mới chính thức trở thành Cai hợp đại diện cho chính quyền
xã ra quản lý Cù Lao Ré.
Cai hợp là người ăn lương nhà nước nhưng không được giữ triện (tức con
dấu). Họ thay mặt các xã trong đất liền để quản lý Cù Lao Ré về thuế má, sưu dịch,
binh dịch và các vấn đề khác liên quan đến mặt hành chính trong hai phường An
72
Vĩnh và An Hải. Đồng thời, Cai hợp cũng là người đại diện cho hai phường để tiếp
xúc, giao thiệp với chính quyền trong đất liền.
Phiên ty:
Về mặt tiêu chuẩn và hình thức tuyển chọn cũng giống như trường hợp bầu
Cai hợp, tức là phải được hội đồng quản lý xã An Vĩnh và An Hải thống nhất đề cử.
Chức Phiên ty không phải thông qua Cai cơ ngự phủ Sa Kỳ nhưng lại phải được Cai
hợp thông qua. Người làm Phiên ty có nghĩa vụ trợ giúp cho Cai hợp về vấn đề trật tự
trị an và cùng các phường đảm trách công việc tổ chức dân binh trong mỗi phường.
Thủ hợp:
Theo quy định, mỗi phường trên Cù Lao Ré được phép có hai Thủ hợp. Người
làm Thủ hợp phải do Hội đồng quản lý của hai xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền
đề cử và được sự đồng ý của Cai hợp. Trong hai thủ hợp có sự phân chia công việc
đảm nhận khác nhau. Người phụ trách theo dõi trật tự an ninh và quân sự để tổng hợp
trình báo cho Cai hợp nắm bắt đưa ra biện pháp giải quyết. Người phụ trách về vấn đề
tài chính, nắm số nhân đinh và văn hóa tín ngưỡng trong phường. Thủ hợp không có
quyền tự đứng ra giải quyết các công việc của các phường mà họ chỉ có chức năng
giám sát và trợ giúp cho Cai hợp quản lý mọi công việc của Cù Lao Ré.
Nhìn chung, Cai hợp là chức vụ có thực quyền cao nhất đại diện hai xã An
Vĩnh và An Hải trong đất liền và là người duy nhất được hưởng lương. Những
người giữ chức Phiên ty và Thủ hợp đều không được nhận lương bổng của chính
quyền. Để đảm bảo cuộc sống của những người giữ chức Phiên ty và Thủ hợp, hai
phường An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré phải trích ra một phần công quỹ chung
của bản phường để trả công cho họ. Cai hợp, Phiên ty và Thủ hợp đều được chính
quyền miễn cho phần sưu thuế, tạp dịch cũng như binh dịch. Chế độ quản lý cấp xã
trên Cù Lao Ré chấm dứt vào năm 1804, khi Cù Lao Ré tách ra khỏi sự phụ thuộc
vào các làng xã gốc trong đất liền.
3.2.1.2. Chức năng tự quản của phường
Trước năm 1804, ngoài đại diện chính quyền hai xã trong đất liền, hai phường
An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré đã hình thành tổ chức tự quản do dân bầu ra để trực
tiếp giải quyết các vấn đề mâu thuẫn xã hội, bảo vệ quyền lợi và đưa ra các kiến nghị
với chính quyền thông qua bộ phận đại diện cấp xã. Tổ chức phường gồm có Cả
phường (còn gọi là cả làng), chủ xóm, chủ lân (tức đại diện các chòm dân cư theo tiếng
73
địa phương), đại diện các dòng tộc, chủ vạn. Bên cạnh đội ngũ này còn có các chức
khác do dân bầu ra đảm nhận các công việc về nghi lễ, trông coi đình miếu,…
Cả làng (còn gọi là Cả phường):
Cả làng là người đứng đầu trong hệ thống tự quản, đóng vai trò chính
trong việc tế tự đồng thời là người đứng ra phân xử các tranh chấp, hòa giải
trong làng. Vì lẽ đó, Cả làng được nhân dân kính trọng và gọi là “Ông Cả”. Theo
truyền thống, Cả làng là do đại diện của các dòng họ tiền hiền bầu lên với nhiệm
kỳ 3 năm. Trong thời gian đương chức nếu Cả làng có điều gì sai trái hay không
cáng đáng được nhiệm vụ của mình thì Cai hợp sẽ triệu tập đại diện các dòng họ
tiến hành bầu cử lại. Việc lựa chọn Cả làng là do người dân tự tiến cử thông qua
sự thống nhất của các dòng họ có sự chứng giám của Cai hợp. Quyết định bổ
nhiệm chức vị Cả làng là do quan trên (quan phủ sau này là quan đầu tỉnh) sau
khi đã tham khảo ý kiến của Cai hợp.
Người được chọn làm đề cử vào vị trí Cả làng, theo dân gian trên đảo thì
phải “gia tư sở hữu, bút toán sở thông”, tức là phải đảm bảo có nhà cửa tài sản, có
học thức. Nhà của Cả làng sẽ phải bảo quản các đạo sắc phong nên phải kiên cố
tránh được hỏa hoạn; Các ngày tế lễ, Lý trưởng và Ngũ hương đến nhà Cả làng để
lạy sắc thần, do vậy ông Cả làng phải có tiệc rượu để tiếp đãi. Cả làng còn phải thạo
chữ nho, giàu kinh nghiệm để giải quyết tốt các công việc tế tự và các công việc
chung khác của làng. Từ sự hồi cố của các lão niên trên đảo Lý Sơn thuộc hai xã An
Vĩnh và An Hải tiến hành vào năm 2013 còn cho biết thêm, người có tuổivà trải qua
binh dịch là tiêu chuẩn được ưu tiên hàng đầu trong việc xét cử làm Cả làng. Sau đó
mới đến những người có phẩm tước cao nhất trong số các hưu quan, chức sắc và
khoa mục. Cả làng phải minh mẫn, hoạt bát, đức độ, am hiểu về tình hình trong làng
và trên toàn đảo hoặc có công với đảo, với làng. Về sau, hai phường còn bắt buộc
người giữ chức Cả làng phải là hậu duệ của các dòng họ tiền hiền khai phá đảo. Lễ
khao vọng đãi làng không bắt buộc đối với những người nhận chức Cả làng.
Cả làng đảm trách khá nhiều công việc như: theo dõi kiểm tra tình hình sở
hữu ruộng đất công; phân xử và hòa giải các mâu thuẫn trong làng; tham gia quyết
định những công việc liên quan đến trật tự an ninh của đảo.Cả làng cũng là người
đại diện thực thi trách nhiệm được giao phó. Bên cạnh đó, Cả làng còn phải đứng ra
chủ trì các nghi lễ cúng tế và hội hè của cộng đồng.
74
Trách nhiệm của Cả làng bao quát những vấn đề quan trọng nhưng quyền lợi
không nhiều. Làng trả công bằng các lễ vật của làng trong các kỳ tế lễ, tết nhất hay
việc chung của làng xã và dĩ nhiên là có khoản phần “biếu xén” của từng cá nhân.
Cả làng ngoài việc được nhân dân kính trọng thì đến khi ông mất được dân làng
đông đủ đưa ma với tiếng trống chầu. Việc cử hành trống chầu trong đám ma chỉ
giành cho các chức vị Cả làng, Cả xóm và Chủ lân mà không được dùng vào trong
việc tang ma của bất kỳ cá nhân nào khác.
Chủ xóm:
Đứng đầu mỗi xóm là một Chủ xóm do dân bầu lên. Chủ xóm phải là người
biết chữ, đức độ và giàu kinh nghiệm để đảm đương các việc liên quan đến tế tự ở
dinh (miếu), viết các văn tế đồng thời giúp dân chúng trong xóm viết đơn từ, khế ước
và các loại giấy tờ khác. Bên cạnh đó, Chủ xóm còn có trọng trách trông coi dinh
miếu, tổ chức huấn luyện đội thuyền đua của xóm mình và thực thi những công việc
điều động dân đinh trong xóm canh tuần bảo vệ trị an, thực hiện những nghĩa vụ gánh
vác công việc chung của làng như làm đường, xây dựng các công trình công cộng...
Chủ lân (chủ chòm): Lân là từ địa phương dùng để chỉ các “chòm” cư dân
với khoảng 20 cho đến 40 gia đình. Chủ lân được dân trong chòm đề cử ra đại diện
cho chòm mình. Người được bầu làm chủ lân phải đảm bảo có hiểu biết và uy tín
trước cộng đồng.
Bộ phận giúp việc cho phường
Bên cạnh những người đại diện cho phường, xóm, chòm dân cư thì còn có
các lực lượng đại diện khác tham gia vào bộ máy tổ chức tự quản của phường như
thầy thông giảng, thủ bộ, thủ khoán. Những chức vụ này đóng vai trò giúp việc cho
Cả làng, tức người đứng đầu phường.
Thầy thông giảng: là người có tri thức, có trách nhiệm giải thích các văn
bằng, chỉ thị từ các cấp chính quyền đưa xuống.
Thủ bộ: là người lưu giữ mọi giấy tờ liên quan đến việc của làng.
Thủ khoán: là người trông coi tài sản chung của làng, đồng thời theo dõi việc
chi tiêu những công việc chung của làng xã như là trông coi gìn giữ bảo vệ rừng, bắt
giữ những người xâm phạm.
Bộ phận giúp việc này do Cả làng chỉ định ra và được các dòng tộc nhất trí.
Họ được cộng đồng trả công bằng việc trích một phần đất đai cho canh tác.
75
Tổ chức tộc họ: Các dòng họ trên Cù Lao Ré được gọi bằng tên chung là “gia tộc chi thứ”35,
nghĩa là các gia tộc trên Cù Lao Ré có mối quan hệ huyết thống là con cháu của 13
ông tiền hiền ra khai phá đảo vào đầu thế kỷ XVII. Đứng đầu mỗi dòng họ (gia tộc)
là ông tộc trưởng. Ngoài việc lo thờ cúng ở nhà thờ họ, tộc trưởng có trách nhiệm
quán xuyến những công việc lớn trong mỗi gia đình thuộc tộc mình. Các tộc trưởng
phải luân phiên nhau lo việc cúng tế ở đình làng (nơi thờ chung các vị tiền hiền);
Tộc trưởng phải trình Cả làng và Cai hợp những biến động nhân khẩu trong gia tộc;
Chịu trách nhiệm liên đới khi trong gia tộc của mình có những thành viên phạm tội;
Tộc trưởng chịu trách nhiệm hòa giải mâu thuẫn trong gia tộc và cùng với Cả làng
giải quyết mâu thuẫn phát sinh.
Trong mỗi kỳ bầu cử Cả làng, tộc trưởng có quyền biểu quyết và phải chịu
trách nhiệm về ý kiến biểu quyết của mình. Mỗi khi bầu bán chức Cả làng, tộc
trưởng thường phải mời đại diện các gia đình trong gia tộc đến để bàn bạc và xin ý
kiến của họ trước khi ra đình để biểu quyết. Tại Cù Lao Ré, các gia tộc không phân
chia thứ bậc sang hèn bởi vì họ đều là con cháu của những vị tiền hiền đã có công
khai phá đảo. Do vậy, trưởng họ có vai trò khá lớn trong đời sống sinh hoạt của
cộng đồng nhằm liên kết mối quan hệ họ hàng trong dòng họ và đại diện cho thân
tộc gánh vác các công việc chung của làng xã.
Binh xứ:
Binh xứ là tổ chức riêng của những người lính. Tổ chức này bao gồm hai
hạng người: hạng thứ nhất là những người dân trên đảo đã thực hiện nghĩa vụ đối
với nhà nước như đi lính Hoàng Sa, hoặc tham gia vào tổ chức dân binh trên đảo;
hạng thứ hai là những người lính ở nơi khác đến nhận nhiệm vụ trấn giữ đảo
nhưng với điều kiện những người này có vợ con là người trên đảo hoặc là vợ con
35 Về thuật ngữ “gia tộc chi thứ” được các cụ già ở đây kiến giải khác nhau. Người thì cho rằng khi chúa Nguyễn Hoàng (gọi là chúa Tiên) vào trấn thủ Thuận Quảng có nhiều người đi theo vào dinh trấn Quảng Nam lập nghiệp, sau đó do cuộc chiến binh đao Trịnh – Nguyễn, do bị hỏa hoạn cháy hết sự nghiệp hoặc do khó khăn về kinh tế, họ dùng thuyền vượt biển ra Cù Lao Ré. Các ông tiền hiền nghĩ đến tổ tiên ở nơi xứ xa nên khi xây dựng nhà thờ các ông thống nhất tên gọi chung là “Phụng tổ đường chi thứ” và khi xưng danh đều nói đến chi thứ, ví dụ như Nguyễn Xuân Cảnh được xưng gia tộc chi thứ Nguyễn Xuân Cảnh. Có ý kiến lại cho rằng, khi khai phá đảo, các vị tiền hiền hàng năm đến ngày giỗ tổ đều trở về nguyên quán thuộc hai làng An Vĩnh và An Hải trong đất liền. Sau này thấy bất lợi, các vị đã xin chân nhang của nhà thờ tổ để đưa ra Cù Lao Ré lập nhà thờ họ cho con cháu tiện việc cúng tế nên gọi là “Gia tộc chi thứ”.
sinh sống tại đảo.
76
Đứng đầu tổ chức Binh xứ thường là một viên quan võ có phẩm hàm cao
nhất trên đảo đã nghỉ hưu. Tổ chức này không định vị trong một xóm, một thôn mà
bao trùm lên toàn đảo. Tổ chức Binh xứ được làng dành cho một phần ruộng đất
chung làm cơ sở kinh tế lo cho hoạt động. Binh xứ có nhiệm vụ tham mưu cho Cả
làng trên bình diện đảm bảo an ninh trật tự của đảo. Đồng thời, Binh xứ là tổ chức
được giao nhiệm vụ cùng với các trưởng tộc, Cả làng để tổ chức tế lễ lính Hoàng
Sa. Mặt khác nó còn coi như một lực lượng dự bị khi cần có thể điều động trong
việc bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển.
Vạn chài:
Tổ chức vạn chài là tổ chức nghề nghiệp tự quản của những người làm
nghề đi biển. Nếu tổ chức Binh xứ hoạt động bao trùm lên toàn đảo thì tổ chức
Vạn chài lại được tổ chức trên cơ sở địa vực cư trú. Trên Cù Lao Ré có 8 tổ chức
Vạn chài tương ứng với 8 xóm thuộc hai phường An Hải và An Vĩnh. Điều đáng
lưu ý là đứng đầu tổ chức này phải từng trải qua trận mạc thuộc lực lượng thủy
binh của nhà nước.
Các thành viên trong tổ chức này ngoài việc giúp đỡ các bạn thuyền, đóng
góp kinh phí tu sửa lăng cá Ông thì họ còn được trao nhiệm vụ phát hiện những ghe
thuyền lạ, ứng chiến và thực thi nhiệm vụ quân sự khi cần thiết. Vạn trưởng có
nhiệm vụ mỗi tháng phải trình báo với chính quyền sở tại về số lượng ghe thuyền và
báo ngay những vấn đề có liên quan đến an ninh trên vùng biển đảo của quốc gia.
Chủ lăng:
Qua điều tra điền dã hồi cố và khảo sát thực tế, tác giả thấy trên toàn Lý Sơn
có tổng số 5 địa điểm lập miếu thờ cá Ông (cá voi). Đứng đầu mỗi lăng là chủ lăng.
Theo quy ước của nhân dân, chủ lăng không nhất thiết là người cao tuổi. Điều kiện
bắt buộc họ phải là “trưởng tử” của người phát hiện ra cá ông “lụy chết” đầu tiên.
Trong trường hợp có nhiều cá ông chết được nhiều người phát hiện, ví dụ như ở Cồn
Tự thuộc thôn Tây xã An Vĩnh (thờ 5 ông) thì dân xóm sẽ lựa chọn ra một người làm
chủ lăng và thường là người cao tuổi, có đức độ, từng lăn lộn nghề biển. Trong
trường hợp “trưởng tử” không phải là người trên đảo thì người đảm trách công việc
chủ lăng sẽ do chủ xóm lựa chọn và được dân làng đồng ý chấp thuận thông qua.
Chủ lăng là người được dân làng tiến cử chứ không phải là bạn thuyền tiến
cử. Họ là người đại diện nhân dân trong làng, xã để quản lý lăng và có trách nhiệm
77
thu xếp, tổ chức cho người dân cúng lễ trong những ngày thường nhật và tổ chức
các kỳ lễ hội cá Ông trong năm theo thời gian của nghi lễ ấn định.
Cai đình:
Cai đình là người già cao tuổi do dân bầu lên. Họ thường là những hưu quan
có thời gian giúp cho làng trông coi đình làng và giúp cho làng việc tổ chức lễ hội.
Nhìn vào tổng thể bộ máy quản lý của Cù Lao Ré trước khi hòn đảo này
được tách ra khỏi đất liền năm 1804 có thể thấy bộ máy tổ chức Cù Lao Ré được
vận hành như sau:
Về phương diện kết cấu tự quản ở Cù Lao Ré không chỉ có những chức dịch
như Cả làng, Cả lăng, Chủ xóm, Cai đình, Trưởng binh, Trưởng vạn,… mà nó còn
bao gồm những nhân vật khác có vị trí, chức trách riêng ví dụ như những người cao
tuổi, những viên chức hưu quan. Họ là những người tham gia đóng góp ý kiến luận
bàn thể hiện nguyện vọng tập thể của dân làng giúp cho các tổ chức tự quản ở đây
phát huy được khả năng của mình về những công việc chung của cả làng.
Làng trên Cù Lao Ré tồn tại ở hai dạng là làng nông nghiệp và làng vạn (tức
là hành nghề đánh bắt cá, gọi là Vạn chài), gắn liền với hai hoạt động kinh tế nông
nghiệp trồng hoa màu và kinh tế ngư nghiệp đánh bắt hải sản trên biển. Mặc dù Cù
Lao Ré nằm trong không gian biển đảo song hoạt động nông nghiệp vẫn đóng vai
trò lớn trong đời sống của cư dân trên đảo nên vai trò của người đứng đầu làng có vị
trí cao hơn so với người đứng đầu vạn. Trên thực tế, vạn phụ thuộc vào làng và
người đứng đầu vạn đứng dưới người đứng đầu làng (xem sơ đồ phụ lục 3).
3.2.1.3. Các quy ước quản lý Cù Lao Ré
Trật tự xã hội ở Cù Lao Ré vận hành một cách vững chắc nhờ sự thống nhất
cộng đồng và vai trò của tổ chức tự quản cũng như uy tín của những người đứng
đầu các tổ chức do dân cử. Tất cả công việc lớn nhỏ của phường An Vĩnh và An
Hải đều được bàn bạc và làm việc theo tinh thần dân chủ và sự tuân thủ theo hương
ước. Rất tiếc hiện nay, các hương ước tại Cù Lao Ré không còn lưu giữ được. Theo
hồi cố từ các cụ già trên đảo, hương ước ở hai phường chứa đựng rất nhiều các
chuẩn mực xã hội với các khía cạnh cụ thể, từ chế độ sở hữu ruộng đất, quan hệ
giữa các cá nhân trên đảo, vị trí vai trò của người đứng đầu cộng đồng, các quy định
về hôn nhân, lễ nghi hội hè,… Qua điều tra hồi cố tại Lý Sơn (tức Cù Lao Ré xưa),
tác giả thấy nổi lên một số nội dung cơ bản sau:
78
Quy ước liên quan đến tổ chức quản lý xã hội
Theo quy ước, chức năng và lề lối làm việc của các thành viên của hai
phường An Hải và An Vĩnh do cộng đồng thống nhất đặt ra. Cả làng là người chịu
trách nhiệm cao nhất trong Hội đồng tự quản các công việc chung của phường. Quy
ước quy định: các hạng thuế khóa, sưu sai, an ninh trong phường, Phiên ty là người
chịu trách nhiệm trước Cai hợp. Ai bỏ bễ việc quan, bị nhắc nhở thì sẽ bị phạt khi ra
đình phải ngồi ăn chung với những người giúp việc.
Những quy ước về quan hệ xã hội đề cập đến sự phân định ngôi thứ trong
làng theo tuổi tác, dòng tộc, bằng cấp, phẩm hàm và chức tước đặc biệt đề cao các
hưu quan võ và trưởng tộc họ cùng những người đi lính Hoàng Sa. Phường An Vĩnh
quy định khi cúng lễ hoặc khi hội hè đình đám thì cả làng, cai hợp, cả binh được
ngồi bàn trên, tiếp đến mới là các chức dịch và tộc trưởng các dòng tộc khác.
Một khía cạnh khác trong quan hệ xã hội, quy ước đề cao vị thế của người
già và các ứng xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Phường An Hải quy định:
“Ai ngược đãi bố mẹ; ai chửi mắng nhau; ai gây sự với dân An Vĩnh; ai cậy quyền
ức hiếp nhau; ai có hành vi không đứng đắn với người già, thì tùy theo mức độ nặng
nhẹ mà phạt tiền. Mức phạt nặng nhất là lao động không công ở những nơi có ma
Hời”. Quy ước qua định về thẩm quyền phân chia ruộng đất công với chế độ ưu tiên
phân chia ruộng đất công: “Cả làng chịu trách nhiệm chia đều cho mọi người, ưu
tiên với những thành viên trong binh xứ”. Quy ước quy định về tuổi lên lão ở
phường An Hải là 50 tuổi và ở phường An Vĩnh là 49 tuổi.
Quy ước cũng quy định về những vấn đề quan hệ của làng xã trong việc cưới
xin ma chay và những công việc hiếu hỉ khác như “Ai có con lấy chồng lấy vợ đều
được phường giúp đỡ, lấy vợ được 10 quan tiền, lấy chồng được 5 quan (nếu lấy
chồng ở làng khác); ai có con trai được phường giúp đỡ 10 quan…; ai từ 55 tuổi thì
không được ra khơi; 60 tuổi thì được lên lão, lên lão thì đóng vào phường xã 1 quan
tiền để lễ vua, lễ thành hoàng” [87, tr. 242].
Quy ước của Cù Lao Ré còn quy định về việc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống, cụ thể “Ai nghèo khó trong phường phải hết sức giúp đỡ, nếu ông
Lý lờ đi, sẽ bị huyện quan trách phạt, hoặc đầy đi khổ sai ở xứ khác; hàng năm để ra
2 tháng giúp nhau sửa nhà sửa cửa, nếu ai nhà cửa không vững để cho bố mẹ vợ con
ở, sẽ cấm không được ra khơi” [87, tr. 243].
79
Điểm đặc biệt là ở Cù Lao Ré không đề cập đến sự phân biệt giữa dân chính
cư và dân ngụ cư cũng như không có định lệ khao vọng hay dùng tiền để mua ngôi
thứ như hương ước của đa số các làng xã trong đất liền đã quy định.
Những quy ước về an ninh trên đảo
Đối với Cù Lao Ré, việc giữ gìn bảo vệ an ninh trên đảo, ngoài công việc của
nhà nước thuộc lực lượng đồn trú và do viên Cai hợp đứng đầu, thì vấn đề tổ chức
đội dân binh trên đảo được đề cao. Quy ước quy định: “Cả binh nắm số thành viên
trong binh xứ, thường xuyên ứng trực để cùng với Phiên ty huy động dân binh khi
có việc cần thiết; Bất kể lúc nào, nghe thấy tiếng trống liên hồi ở đình làng, thì trai
tráng trong làng phải mang theo vũ khí ra đình chờ lệnh, ai vắng mặt không có lý do
chính đáng thì sẽ bị phạt; Tất cả mọi người đều có trách nhiệm phải trình báo người
lạ, ghe thuyền lạ trên đảo. Nơi trình báo là miếu hội đồng (trị sự của viên quan Cai
hợp)”. Quy ước cũng đặt ra các điều khoản ngăn ngừa nạn trộm cắp, ngăn ngừa
những mâu thuẫn của từng thành viên, lối xóm, gia tộc và cả hai phường trên đảo
với hình thức phạt nặng nhất là đuổi khỏi đảo.
Những quy ước về tín ngưỡng
Nội dung cụ thể được thể hiện một hệ thống lịch tế lễ, vật thờ cúng và tổ
chức lễ vật thờ cúng, rước sắc, chia hiến lễ vật và những kiêng kỵ trong các dịp lễ
tết. Tất cả những vấn đề trên được quy định rõ ràng nghiêm ngặt. Nếu vi phạm có
nghĩa là xúc phạm tới thần linh và bị thần linh giáng họa, không chỉ tới người vi
phạm mà còn tới toàn thể dân làng.
Khi Cù Lao Ré vẫn còn phụ thuộc vào các xã gốc trong đất liền, quy ước quy
định vào dịp lễ chúa Nguyễn Phúc Nguyên “hàng năm cứ đến ngày 10 tháng giêng
thì làm lễ chúa. Lễ vật gồm cá chép 10 con, xôi 10 cân, thịt lợn 100 cân để lễ trời
đất và lễ chúa. Lệ làng quy định: ai ở phường An Vĩnh đều phải đóng góp tiền để
làm lễ” [84, tr. 240]. Không những vậy, dân Lý Sơn khi về dự tế lễ chúa Nguyễn Phúc Chu36 thì “mỗi nhà phải có 2 thuyền (1 thuyền lớn và 1 thuyền nhỏ) để 1
thuyền đi và 1 thuyền ở lại, nếu không ông Lý không cho đi” [87, tr. 240 – 241].
Điểm đáng chú ý ở đây là quy ước của Cù Lao Ré bắt buộc tất cả các lễ tế cộng
đồng (trừ lễ Phật ở chùa Hang và chùa Đục), lễ vật dâng cúng bắt buộc phải có một
36 Chúa Nguyễn Phúc Chu được dân gian xã An Vĩnh và Lý Sơn gọi là Chúa Quốc.
con cá nướng và món gỏi cá từ biển để nhớ tổ tiên đã khai thác Cù Lao Ré. Quy ước
80
còn quy định tất cả những nơi thờ tự mang tính cộng đồng đều phải đặt bài vị của
nữ thần Thiên Y A Na và Ngu Man Nương.
Như vậy, mặc dù còn phụ thuộc vào hai xã trong đất liền về các mặt sưu thuế
và các khoản đóng góp nghĩa vụ khác nhưng cùng với sự phát triển về mặt dân số,
Cù Lao Ré đã dần hoàn thiện về mặt tổ chức quản lý xã hội của mình. Đây là cơ sở
nền tảng quan trọng giúp cho Cù Lao Ré phát triển về mọi mặt trong giai đoạn sau.
3.2.2. Từ năm 1804 đến giữa thế kỷ XIX
3.2.2.1. Sự thay đổi về cơ cấu tổ chức xã hội trên Cù Lao Ré
Tháng 6 năm 1801, lợi dụng sự suy yếu của vương triều Tây Sơn, Nguyễn
Ánh tấn công Phú Xuân, Quang Toản thua bỏ chạy ra Thăng Long, thành Phú Xuân
thất thủ. Năm 1802, sau khi lật đổ vương triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh lập ra vương
triều Nguyễn lấy niên hiệu là Gia Long. Sau khi lên ngôi, Gia Long đã bước đầu thay
đổi tổ chức bộ máy hành chính như chia địa phương thành các cấp độ quản lý tùy
thuộc vào vị trí xa hay gần kinh đô Huế. Các địa phương phía Bắc và phía Nam kinh
thành Huế được gọi là trực doanh và đặt trực tiếp dưới sự cai quản của triều đình.
Các địa phương giáp với trực doanh như Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Nghĩa, Bình
Định, Bình Hòa (Khánh Hòa) và Bình Thuận được gọi là các cơ trấn. Các cơ trấn này
đều đặt dưới sự quản lý gián tiếp của kinh đô. Vua Gia Long đặt ra hai Tổng trấn là
Bắc thành và Gia Định thành do Tổng trấn đại diện cai trị. Như vậy, dưới thời vua
Gia Long, Quảng Nghĩa là cơ trấn và chịu sự quản lý gián tiếp của kinh thành.
Đối với hai phường An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré vốn từ trước vẫn còn
ràng buộc đối với hai xã gốc trong đất liền thì đến năm 1803, nhân khi Võ Văn Phú
của phường An Vĩnh được làm chức Khâm sai Cai thủ cửa biển Sa Kỳ kiêm Cai cơ
Thủ ngự quản đội Hoàng Sa, đã làm tờ đơn với nội dung như sau: “Cúi xin: Bề trên
mở lượng hải hà đoái thương dân nghèo, soi xét cho phường tác giả được lập riêng
chấp bằng đơn bằng trong việc tuyển tập các đội vẫn theo tiền lệ, được tách biệt
khỏi địa phận xã An Vĩnh (trong đất liền) để đội ơn trên một thể; Đồng thời xin
miễn cho các việc như đắp đê ở xã ấy và bắt tác giả đề bù phần sau sưu thuế cho số
dân phường tác giả đã đào tán lâu nay, tốn kém tài vật nhiều” [35, tr.30].
Cù Lao Ré là nơi quan ải trọng yếu trong việc bảo vệ trấn Quảng Nghĩa (một
trong năm trấn thuộc Kinh kỳ) từ phía biển, đặc biệt là trong việc thực thi chủ quyền
quốc gia đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngày 11 tháng 2 năm Gia
81
Long thứ 3 (1804), triều đình nhà Nguyễn phê chuẩn: “Do công cuộc lớn lao hệ
trọng, bản phường phải điểm chỉ. Do có chút thành tích, do có phương án lớn đã
trình bày. Được lập chấp bằng riêng biệt như lời đã xin” [35, tr. 31]. Đến đây, Cù
Lao Ré hoàn toàn tách ra khỏi hai xã gốc là An Hải và An Vĩnh trong đất liền và thuộc chế độ “nội phủ37” do hai viên quan là Phòng thủ úy và Thừa biện chịu trách
nhiệm. Trong hàng loạt các tờ đơn từ, văn khế của Cù Lao Ré từ 1804 cho đến
trước cải cách của Minh Mạng đều ghi “phường Cù Lao Ré xã (nội phủ) An Hải
huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa”. Điều này cho thấy về mặt tổ chức hành chính,
sau năm 1804, Cù Lao Ré gồm hai phường là An Vĩnh và An Hải thuộc huyện Bình
Sơn, phủ Quảng Nghĩa và hoàn toàn tách khỏi hai xã An Vĩnh và An Hải. Các đơn
từ văn khế từ 1807 đến 1826 còn cho thấy trên Cù Lao Ré có các chức vụ như: Cai
hợp, Cai đội, Xã dịch, Xã trưởng, Cai đình, Chấp sự, Thủ bản, Hương mục, Dịch mục,…trong đó có ghi là “các xã trưởng” hoặc 2 xã trưởng38.
Từ những thông tin đó cho phép tác giả khẳng định, mặc dù Cù Lao Ré vẫn
gọi là phường nhưng trên thực tế, bộ máy quản lý của hai phường trên Cù Lao Ré
đã là ở cấp xã. Mỗi một phường có một Xã trưởng. Ngoài đại diện chính quyền dinh
trấn ở Cù Lao Ré còn có tổ chức quản lý cấp xã là hương mục, dịch mục cùng một
bộ phận giúp việc khác. Đến năm 1808, Gia Long đã quy định “số lượng thuộc
quan ở các dinh trấn được chia làm bốn loại, theo đó mà phân bổ số lượng các
quan lại khác nhau ở các dinh trấn” [73, tr. 720 – 721]. Bên cạnh đó, ông còn
chuẩn cứ các xã dân ở 3 huyện ven địa giới Quảng Ngãi dồn làm 27 lân, mỗi lân
đều đặt Cai lân, Phó lân cai quản chia phụ vào đồn bảo các cơ để tiện huy động. Chỉ
dụ này của vua Gia Long cũng áp dụng đối với xứ Cù Lao Ré ngoài cửa biển Sa Kỳ.
Theo chỉ dụ này của Gia Long, trong bộ máy quản lý của Cù Lao Ré, Cai
hợp là chức quan đại diện cho chính quyền cấp phủ giống như tài liệu Cù Lao Ré
đương thời đã đề cập. Mọi việc lớn nhỏ trên Cù Lao Ré phải xin ý kiến của Cai hợp
xử lý. Những vấn đề không thể tự xử lý, Cai hợp tấu trình trực tiếp lên quan phủ
hoặc triều đình xin ý kiến. Cù Lao Ré vẫn thuộc chế độ “nội phủ” chịu sự quản lý
37 Chế độ nội phủ là chế độ đặt dưới sự quản lý trực tiếp của phủ. 38 Các tờ kê trình việc nộp thuế dầu phụng (tức dầu lạc) và dầu hương của xã An Hải và An Vĩnh, phường Cù Lao Ré từ năm 1807 đến 1821, tức là đến năm Cù Lao Ré tiến hành đo đạc đất đai lập địa bạ. Cũng theo nguồn tư liệu này trong các năm từ 1826 về sau, Cù Lao Ré gọi là “phường Lý Sơn”.
trực tiếp của dinh trấn Quảng Nghĩa. Sự khác biệt duy nhất so với trước là trong tổ
82
chức bộ máy quản lý của Cù Lao Ré, bên cạnh tổ chức tự quản cấp xã của hai
phường còn có thêm chức Cai hợp thuộc Tả thừa ty của dinh Quảng Nghĩa ra trấn
thủ Cù Lao Ré.
Như vậy, trong khoảng thời gian trị vì của vua Gia Long39 cho đến trước cải cách của vua Minh Mạng40, tình hình quản lý xã hội trên Cù Lao Ré tương đối ổn
định. Cù Lao Ré tồn tại hai hình thức quản lý về mặt hành chính và quân sự. Về mặt
tổ chức hành chính, Cù Lao Ré độc lập đối với hai xã gốc trong đất liền và thuộc
huyện Bình Sơn của phủ Quảng Nghĩa mặc dù trên đơn từ giấy tờ vẫn ghi là
“phường Cù Lao Ré” hoặc là “phường An Vĩnh”, “phường An Hải” thuộc xứ Cù
Lao Ré nhưng trên thực tế đã là đơn vị hành chính cấp xã do Xã trưởng đứng đầu.
Đây là điểm độc đáo trong tổ chức quản lý của Cù Lao Ré và cho thấy vị trí quan
trọng của Cù Lao Ré trong chính sách cai trị của triều Nguyễn nói chung và đối với
Quảng Ngãi nói riêng.
Sau khi lên ngôi năm 1820, Minh Mạng bắt đầu tiến hành một loạt cải cách
hành chính từ Trung ương cho tới địa phương. Năm 1828, Minh Mạng ban hành một
số thay đổi về bộ máy quản lý cấp xã. Chức Xã trưởng thay thế bằng chức Lý trưởng,
giúp việc cho Lý trưởng có Phó lý và đội ngũ chức năng. Với sự điều chỉnh này, trên
Cù Lao Ré, các chức Xã trưởng đã được thay thế thành Lý trưởng cho đến trước và
sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự hiện diện chức Lý trưởng cũng thể
hiện trong các văn khế mua bán ruộng đất diễn ra trong khoảng thời gian này.
Năm 1831 - 1832, Minh Mạng xóa bỏ chế độ Bắc Thành và Gia Định thành,
chia lại địa giới cả nước thành các tỉnh. Đến đây, trừ khu vực hành chính đặc biệt là
phủ Thừa Thiên, còn lại cả nước đã được phân định địa giới thành 30 tỉnh. Đến năm
1834, trên cơ sở phân chia các tỉnh, Minh Mạng thực hiện phân chia các khu vực
dựa trên sự xa gần về mặt địa lý, lấy kinh thành Huế (phủ Thừa Thiên) làm trung
tâm đặt ra Tả trực và Hữu trực, Tả kỳ và Hữu kỳ, Nam kỳ và Bắc kỳ. Tỉnh Quảng
Ngãi và Quảng Nam được đặt làm Tả trực. Hai cơ quan phụ trách cấp dinh, trấn từ
trước là Tả - Hữu thừa ty được đổi thành Án sát sứ (còn gọi là Ty niết) do viên quan
39 Gia Long lên ngôi trị vì đất nước năm 1802 và mất năm 1820. 40 Vua Minh Mạng trị vì đất nước 20 năm (1820 – 1840). Năm 1831, vua Minh Mạng xóa bỏ chế độ Tổng trấn Bắc Thành và năm 1832 thì xóa bỏ chế độ Tổng trấn Gia Định, chia cả nước ra thành 30 tỉnh và 1 phủ là phủ Thừa Thiên, tất cả đều trực thuộc chính quyền trung ương.
Án sát đứng đầu và Bố Chính sứ do viên quan Bố chính đứng đầu. Bên cạnh hai cơ
83
quan đứng đầu cấp tỉnh này, nhà Nguyễn còn đặt ra chức Lãnh binh để chuyên
trông coi việc quân sự. Ngoài việc thống nhất tên gọi các tỉnh trong cả nước, nhà
Nguyễn còn cải tổ cơ cấu tổ chức quản lý các cấp từ cấp tỉnh trở xuống.
Cù Lao Ré với vị trí địa lý đặc thù nên mọi việc được đặt dưới sự giám sát chặt
chẽ trực tiếp của Tỉnh do Án sát sứ và Bố chính sứ quản lý. Trong số các bản bẩm báo
về việc kê khai thuế sản vật, thuế ruộng tư, đất núi vào các năm 1843, 1845, 1857 cho
thấy ngoài kê trình của Lý trưởng thì các văn bản này đều phải có chữ ký của đại diện
Án sát xứ và Bố chính xứ. Đến đây, chức Cai hợp đại diện cho sự hiện diện của phủ
trong chế độ “nội phủ” được thay thế bởi sự giám sát của hai vị quan cấp tỉnh.
Cù Lao Ré được gọi phổ biến theo tên chữ là hòn Lý Sơn hoặc xứ Lý Sơn
trong tất các công trình sử học, địa lý. Điều này càng thấy rõ hơn “Đinh Dậu, Minh
Mạng năm thứ 18 [1837], (…). Bọn Quản vệ Vũ Viết Tuần ở Kinh phái đi tuần ở
biển bắt được một chiếc thuyền người nhà Thanh ở phận biển Lý Sơn” [79, tr. 28].
Cho đến năm Thành Thái thứ 10 sau này (1898), triều Nguyễn mới đổi xứ Lý Sơn
thành tổng Lý Sơn.
Như vậy ngay từ đầu, Cù Lao Ré đã được triều Nguyễn đặc biệt quan tâm
dưới sự giám sát chặt chẽ của bộ máy hành chính cấp phủ, dinh trấn (thời Gia Long)
sau này là cấp tỉnh (thời Minh Mạng về sau) và trung ương. Điều này làm cho Cù
Lao Ré tồn tại sự quản lý cả về mặt hành chính và quân sự trực tiếp từ cấp dinh trấn
(tỉnh sau này). Đây cũng là đặc điểm riêng biệt nổi bật của Cù Lao Ré so với các địa
phương khác cùng cấp. Còn trong tổ chức bộ máy tự quản trong hai phường An Hải
và An Vĩnh trên Cù Lao Ré từ 1804 đến giữa thế kỷ XIX (1858) hầu như không có
thay đổi nhiều so với giai đoạn trước.
3.2.2.2. Nhiệm vụ của bộ máy quản lý xã hội trên Cù Lao Ré
Những thay đổi trong bộ máy quản lý trên Cù Lao Ré do tác động của các
chính sách điều chỉnh và cải cách về mặt hành chính của triều Nguyễn, song nếu xét
về bản chất so với trước triều Nguyễn thì sự thay đổi đó không lớn. Cù Lao Ré vẫn
tồn tại hai hình thức tổ chức quản lý là hành chính và quân sự, trong đó yếu tố quân
sự có vai trò lớn hơn hành chính.
Nhiệm vụ của đại diện chính quyền cấp dinh trấn
Theo như các ghi chép của chính sử cùng các nguồn tư liệu địa phương cho
thấy đại diện cho chính quyền cấp dinh trấn quản lý Cù Lao Ré là một viên Cai hợp.
84
Viên Cai hợp này thuộc Võ ban do Tả thừa ty chỉ định. Người được tuyển chọn làm
Cai hợp phải là người có năng lực do dinh trấn tuyển lựa đề cử và trình lên Bộ Hộ
phê chuẩn, như trong tờ công văn sai phái Cai hợp Nguyễn Quang Thắng ngày 27
tháng 4 năm 1809 của Bộ Hộ đề cập như sau: “tinh thông luật toán, liêm khiết, có
năng lực, chăm chỉ, mẫn cán phù hợp với việc sai phái.” [121]. Về nhiệm vụ, Cai
hợp là người đại diện cho chính quyền quản lý mọi mặt trên Cù Lao Ré. Cai hợp
phải có nhiệm vụ từ việc kiểm tra tô thuế, trông coi việc tuyển lính và giám sát thực
hiện công việc tổ chức phòng thủ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối nếu có
việc xảy ra ở Cù Lao Ré.
Về nhiệm vụ quản lý sưu thuế, người được tuyển chọn làm cai hợp phải có
trách nhiệm “đốc suất trong phường hàng năm đến kỳ thuế cùng với xã trưởng,
trùm trưởng thúc thu quan thuế ” [125]. Ngoài việc thúc giục các xã trưởng, trùm
trưởng thu thuế, Cai hợp còn là người giám sát và kiểm tra sổ sách thuế má trên Cù
Lao Ré nhằm tránh gian lận trong kê khai.
Về nhiệm vụ quản lý binh ngạch, Cai hợp có quyền trực tiếp can dự vào việc
tuyển lính trên Cù Lao Ré. Từ việc kiểm tra dân đinh, quản lý sổ sách trong thuế vụ,
Cai hợp giám sát các Xã trưởng và hoạt động của các phường trên Cù Lao Ré trong
việc cắt cử người tham gia binh dịch như trong bản trình tấu của cựu Cai hợp
Nguyễn Quang Thắng ngày 20 tháng 3 năm 1826 “tôi tháng 4 hàng năm, binh
ngạch chiếu theo hạn định đến kinh, do bộ cứu xét, kiểm tra phụng nộp, không
thuộc vào trấn hạt. Tháng 2 năm nay tiếp nhận binh phòng trấn hạt thúc giục
phường tôi kê khai thứ tự các hạng dân để tiện chỉnh sửa sổ ngạch…” [128]. Từ đó
cho thấy, vị trí vai trò của Cai hợp trong tổ chức quản lý hành chính trên Cù Lao Ré
rất quan trọng. Ông không chỉ có trách nhiệm đối với chính quyền trong việc thay
mặt quản lý mà còn phải giải quyết các công việc phát sinh như việc bầu bán chức
vụ Xã trưởng ở hai phường.
Bên cạnh đó, Cai hợp còn có nhiệm vụ tổ chức và giám sát việc thực hiện
việc canh phòng trên Cù Lao Ré. Công việc này được thực hiện liên tục, thường
xuyên bởi vì dân cư của Cù Lao Ré “sinh sống ở địa phận hải đảo … ngoài biển
cách bản trấn xa xôi, hành trình trên biển gặp sóng to gió lớn không thuận, vất vả
vô cùng” [125] nên phải tổ chức “dân đinh canh giữ, tuần du ngoài biển để phòng
bọn tàu biển gian ác” [125].
85
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, những công việc hệ trọng vượt
quá chức năng nhiệm vụ hoặc quy định của chính quyền không phù hợp đối với đời
sống thực tế của Cù Lao Ré, Cai hợp phải trình tấu về phủ Quảng Nghĩa hoặc trực
tiếp lên triều đình Trung ương để xin ý kiến giải quyết. Điều này thể hiện ở việc, các
khoản thuế của Cù Lao Ré trước triều Nguyễn vốn đưa về Kinh đô để phụng nộp
nhưng sau khi vua Gia Long lên ngôi, các khoản thuế này được quy định phải đưa về
“nội phủ”. Đến năm 1809, khi Nguyễn Quang Thắng được cử ra Cù Lao Ré làm Cai
hợp đã có điều chỉnh đảm bảo sự thuận lợi cho nhân dân trên đảo. Trong bản tấu của
Cai hợp Nguyễn Quang Thắng và hai xã trưởng là Nguyễn Văn Ngan và Dương Văn
Nhạc cùng ký tên ngày 10 tháng 6 năm 1809 có đoạn “Cúi đợi thánh ân anh minh
xem xét ban ơn cho phường tôi từ nay về sau đến kỳ thuế hàng năm thuận theo hướng
gió mang các loại thuế lệ về kinh phụng nạp (… ) để vỗ yên dân” [125]. Theo tờ đơn
này, triều Nguyễn đã cho phép “từ nay về sau đến kỳ thuế lệ hàng năm mang các loại
tiền thuế, sản vật theo lệ nộp tại kinh đợi lĩnh văn bằng, sổ sách giữ làm bằng trở về
trình cùng quan trấn đối chiếu trừ đi để tiện cho dân” [125].
Tiếp đến, để thực hiện việc về Kinh kỳ nộp các loại thuế, Cai hợp và các Xã
trưởng trên Cù Lao Ré đã làm bản kê trình “Cúi xin tôn ông mở rộng ân sâu phê
bảo quan trấn chuẩn cho thuyền lái Dụ thuộc công sưu tại trấn cho hàng năm vận
chuyển sưu thuế trong phường để theo làm công vụ được thuận tiện.” [123]. Nhờ sự
trực tiếp điều hành của Cai hợp Nguyễn Quang Thắng, Cù Lao Ré vốn trước đã
thành lệ đem các khoản sưu thuế về Kinh đến triều Nguyễn công việc này vẫn được
duy trì đảm bảo sự tiện lợi cho bộ máy quản lý cũng như giảm bớt gánh nặng chi
phí công cán của nhân dân trên đảo.
Từ chức năng nhiệm vụ của Cai hợp cho thấy, Cù Lao Ré mặc dù về mặt
hành chính thuộc huyện Bình Sơn của phủ Quảng Nghĩa nhưng lại không thuộc sự
quản lý của huyện này mà thuộc quản lý trực tiếp từ chính quyền cấp phủ theo chế
độ “nội phủ”. Điều này cho thấy vị trí chiếc lược của Cù Lao Ré không chỉ trong
việc bảo vệ đất liền từ phía biển mà còn trong việc quản lý thực thi nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền trên biển, đặc biệt đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy nhiên khi vua Minh Mạng lên ngôi (1820) đã không cho phép đem sưu
thuế của Cù Lao Ré trực tiếp về kinh thành Huế mà quay trở lại nộp ở Trấn Quảng
Nghĩa. Vì vậy mà Cai hợp và các xã trưởng trên Cù Lao Ré lại tiếp tục làm đơn xin
86
được trở về theo lệ cũ “Phường tôi dân nghèo ở trên hải đảo thúc giục thu chưa kịp,
sóng to gió lớn không thuận khó có thể kịp. Dám xin quan bộ đường văn phê cho
phường tôi từ nay về sau theo tiền lệ thuận theo hướng gió, xuôi theo dòng nước
đưa các thuế lệ về kinh phụng nộp để tránh quan bản trấn thúc giục tùy tiện” [127].
Từ đó cho đến năm 1826, Cù Lao Ré vẫn tiếp tục làm đơn lên về triều đình xin
được nộp các loại thuế về thẳng kinh thành nhưng không được phê chuẩn.
Từ đó cho thấy, dưới thời vua Minh Mạng không còn tồn tại chế độ “nội
phủ” đối với Cù Lao Ré, mặt khác chức Cai vốn đại diện cho chính quyền cấp dinh
trấn quản lý trực tiếp đối với hòn đảo này cũng cắt đi. Điều này hoàn toàn phù hợp đối với quá trình cải cách hành chính của Minh Mạng41. Cù Lao Ré trở thành đơn vị
hành chính chịu sự quản lý gián tiếp của hai cơ quan là Án sát và Bố chính.
Nhiệm vụ của bộ máy tự quản trên Cù Lao Ré
Từ khi triều Nguyễn được thành lập dưới sự cai trị của vua Gia Long (1802 –
1804), Cù Lao Ré vẫn giữ nguyên chế độ tự quản như trước mà hầu như không có
sự thay đổi gì. Sự thay đổi trong tổ chức bộ máy quản lý hai phường trên Cù Lao Ré
chủ yếu diễn ra dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) gắn liền với các cải cách
hành chính của ông. Điều dễ nhận thấy nhất đó là, chức Xã trưởng được thay thế
bằng chức Lý trưởng cùng hội đồng hương dịch giúp việc.
Lý trưởng:
Trên Cù Lao Ré có hai Lý trưởng quản lý hai xã An Vĩnh và An Hải. Chức
vụ Lý trưởng được làng xã bầu lên theo nguyên tắc dân chủ. Tuy nhiên người ứng
cử chức vụ này phải là người có độ tuổi từ 40 trở lên được các hương chức đề cử.
Kết quả bầu cử được trình lên Cai hợp để Cai hợp trình quan đầu tỉnh. Quan tỉnh
cấp văn bằng và mộc triện cho họ thì họ mới chính thức được làm Lý trưởng.
Trách nhiệm của Lý trưởng là thay mặt nhà nước thực hiện quản lý mọi mặt trong
xã thôn từ đất đai, đinh số, thuế khóa, phu phen tạp dịch, các vụ kiện tranh chấp nhỏ, …
trong xã thôn. Nếu xã thôn có những kiến nghị gì thì Lý trưởng phải chịu trách nhiệm đề
đạt lên cấp chính quyền cấp huyện hoặc tỉnh tất cả các kiến nghị của xã thôn. Những văn
41 Năm 1828, Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính cấp cơ sở. Các chức Xã trưởng dưới thời vua Gia Long được đổi thành Lý trưởng, giúp việc cho Lý trưởng có các chức Phó lý trưởng và một số chức vụ khác. Sau cải cách hành chính năm 1831 – 1832, các dinh trấn đổi thành tỉnh thì Cù Lao Ré chịu sự quản lý gián tiếp của chính quyền cấp tỉnh.
bản trình lên quan trên chỉ có giá trị xác thực và chính thức khi có chữ ký và dấu triện của
87
Lý trưởng. Nhiệm kỳ của Lý trưởng thường không có hạn định. Khi nào xã thôn thấy cần
thiết phải thay Lý trưởng và được sự đồng ý của Cai hợp thì mới được làm đơn lên trình
quan phủ xin thay đổi. Khi đó, quan phủ sẽ triệu tập các hương chức để bầu người vào
chức Lý trưởng. Ngoài số phiếu của các hương chức trong xã thì ý kiến của Cai hợp đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Trong trường hợp Cai hợp bỏ phiếu không đồng ý để ai đó làm
Lý trưởng thì phải chuyển lên quan phủ xem xét. Định lệ là như vậy, nhưng thông thường
trong kỳ bầu Lý trưởng, giữa Cai hợp và các hương chức hoặc giữa Cai hợp và người được
hương chức thỏa thuận với nhau để dàn xếp sao cho tránh được những bất đồng làm phức
tạp thêm mối quan hệ xã hội giữa bộ phận quản lý xã hội với bộ máy quân quản trên đảo.
Phiên ty:
Người đặc trách trông coi về trật tự trị an, tuần canh, cắt cả các phiên tuần
coi các khu vực dân cư trong xóm thôn. Là người đứng đầu đứng đầu một xóm,
thực hiện những quyết định của hội đồng hương chức. Phiên ty do Lý trưởng chỉ
định và được sự đồng ý của Cai hợp cũng như của hội đồng hương chức.
Thủ lại: Là người có học thức, có nhiệm vụ làm các chứng từ sổ sách cho xã.
Trùm dịch: Có nhiệm vụ truyền đạt những mệnh lệnh của Hương chức hay
Lý trưởng cũng như của quan trên tới dân làng.
Cai binh (còn gọi cai đội): là người giúp việc cho Cai hợp và cho Lý trưởng
nắm bắt tất cả các vấn đề liên quan đến quân sự như tuyển lính, bố trí người đi lính
thay thế, bắt lính đào ngũ. Ngoài ra, Cai binh còn là người phụ trách các khoản trợ
cấp của xã dành cho binh lính trên Cù Lao Ré.
Những người trong bộ máy hành chính ngoài quyền lợi danh vọng về mặt
tinh thần, uy tín và sự trọng vọng của làng xã thì không có một ai được làng xã cấp
cho khoản tiền phụ cấp mang tính thù lao. Làng xã sẽ lấy đất công của làng xã ra để
cho những người này mượn để canh tác. Hoa lợi thu được trên những mảnh đất này
được tính theo tỉ lệ 1:4, tức là trích lại cho làng 1 phần còn họ được hưởng 3 phần.
Nhìn chung, tổ chức bộ máy quản lý của Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XIX cho
đến trước khi thực dân Pháp xâm lược năm 1858 có một số thay đổi mang tính
bước ngoặt trong sự phát triển của hòn đảo này. Từ sự chịu sự quản lý của hai xã
gốc thuộc huyện Bình Sơn về mặt sưu thuế cho đến tổ chức quản lý và đóng góp
hội hè tết lễ từ thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, đến triều Nguyễn, Cù Lao
Ré đã được tách ra thành đơn vị hành chính độc lập vào năm 1804.
88
Tiểu kết chương 3
Từ khi xuất hiện một cách chính thức trên Cù Lao Ré vào những thập niên
cuối thế kỷ XVI cho đến giữa thế kỷ XIX, cư dân Việt trên đảo đã đồng cam cộng
khổ khẩn hoang và chinh phục biển Đông, hình thành cộng đồng dân cư ngày càng
đông đúc.
Trong kinh tế, ngoài việc chú trọng phát triển nông nghiệp với các loại cây
ngô, đậu phụng (tức cây lạc) và các loại cây ngũ cốc, rau củ quả khác đảm bảo cuộc
sống, cư dân Cù Lao Ré hình thành các nghề thủ công nghiệp truyền thống như ép
dầu phụng, dầu hương và các nghề phục vụ cho hoạt động đánh bắt hải sản trên
vùng biển Đông rộng lớn. Sự phát triển kinh tế khá đa dạng giúp cho Cù Lao Ré
khẳng định vị thế vượt trội của nó trong việc khai thác biển Đông đồng thời góp
phần quan trọng vào hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc bảo vệ chủ quyền quốc
gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự phát triển kinh tế của cư dân Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế
kỷ XIX dẫn đến sự thay đổi trong tổ chức xã hội mang tính bước ngoặt của hòn đảo
này. Từ sự phụ thuộc chịu sự quản lý vào hai xã gốc về sưu thuế, tổ chức quản lý và
đóng góp hội hè tết lễ dưới thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, đến triều
Nguyễn, Cù Lao Ré đã được tách ra thành đơn vị hành chính độc lập vào năm 1804.
Với vị trí địa lý trọng yếu của mình, Cù Lao Ré liên tục thuộc chế độ nội phủ, chịu
sự quản lý trực tiếp của phủ Quảng Nghĩa và mang nặng tính quân sự nhưng đến
thời vua Minh Mạng hòn đảo này đã có sự thay đổi đặc biệt. Việc xóa bỏ chế độ nội
phủ và chức vụ Cai hợp đã làm cho yếu tố hành chính, chính trị của Cù Lao Ré
nâng cao. Mọi hoạt động của Cù Lao Ré đều do chính quyền cấp xã đứng ra điều
hành trong đó chức Lý trưởng đứng đầu hai xã An Vĩnh và An Hải. Đây chính là
điều kiện để cho Cù Lao Ré phát triển về mọi mặt, đồng thời góp sức vào trong hoạt
động của đội Thủy quân dưới thời Minh Mạng khi đội Hoàng Sa được hợp nhất vào
trong lực lượng này.
89
Chương 4
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN
CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
4.1. Đời sống văn hóa vật chất của cư dân Cù Lao Ré
4.1.1. Kiến trúc
4.1.1.1. Nhà ở
Nhà tranh tre là kiểu kiến trúc cổ xưa nhất của cư dân Cù Lao Ré. Kiểu nhà
này xây dựng trên cơ sở những vật liệu dễ tìm, đó là tranh tre. Nhìn tổng thể mặt
bằng ngôi nhà được chia làm ba phần gồm nhà chính, nhà ngang và nhà bếp bố
cục kiểu chữ đinh. Giữa nhà ngang và nhà bếp được làm chung một vách tường có
cửa thông để đi lại nấu nướng ăn uống. Phía góc của nhà bếp được đặt thêm một
chuồng gia súc gia cầm để nuôi heo, gà… Nhà chính được chia làm 3 gian. Gian
giữa đặt bàn thờ tổ tiên, phía trước đặt tấm phản gỗ và bộ ghế gỗ để tiếp khách
nam của gia đình. Gian phía tây là buồng ngủ của chủ gia đình và để đồ đạc. Phía
ngoài được đặt thêm một chiếc phản để dành cho con trai hoặc khách nam ngủ.
Gian phía đông được dành cho đàn bà con gái trong nhà. Tại gian nhà này góc
phía đông cũng được ngăn phên liếp tre thành buồng dùng cho bà chủ gia đình
hoặc cho vợ con trai trưởng sau khi lập gia đình. Trong gian này cũng có phản gỗ
dùng cho con gái trong nhà sinh hoạt và bà chủ gia đình tiếp khách nữ của gia
đình. Trong không gian của ngôi nhà số lượng cột lên đến 32 cái trong đó có 16
cái cột chính. Cột nhà được làm từ loại tre đặc ruột ngâm chín rất bền chắc. Phía
ngoài có hai hàng cột, số lượng cột chi thành 8 hàng ngang để đỡ 8 vì kèo. Loại
hình nhà tranh này tồn tại kiểu vì kèo cánh ác cột trính chuyền, hai kèo cánh ác là
hai thanh tre dài thả xuôi từ nóc đến mái hiên liên kết các đầu cột chính, cột vách
và cột hiên bằng hệ thống chốt sẻ [100, tr. 21 – 22].
Bên cạnh nhà tranh vách đất, cư dân Cù Lao Ré còn dựng kiểu nhà rường vách
đất, mái lợp tranh có bộ khung bằng gỗ, vỏ mái bằng tre nên còn gọi là nhà rường
không đủ gỗ hay là nhà song nga. Nhà rường này có kết cấu 4 hàng cột chính bên
trong và một hàng cột hiên bên ngoài với tổng số 30 cột chia thành 3 gian hai chái và
một hiên trước. Đồng thời hai hàng cộc góc ở phía đông và tây nhà được đóng vách
90
gỗ tạo thành hai gian buồng gọi là đông phòng và tây phòng. Đây là buồng ngủ của
vợ chồng chủ gia đình và con cái. Ba gian chính giữa nhà dùng để thờ phụng, đặt
phản gỗ, bàn tiếp khách. Con trai trong gia đình, khách đàn ông có thể ngủ ở đây.
Mái nhà rường lợp tranh sắp nóc giống như kiểu nhà tranh vách đất. Các đòn tay tre
gác lên kèo gỗ canh ác chạy xuôi qua các đầu cột gác qua hàng cột hiên. Kèo gỗ này
gác trên đầu kèo hàng nhì, liên kết nhau bằng kết cấu khuông lồng. Bộ phận khuông
lồng có một xuyên trường để đỡ tay kèo, một trụ khuông lồng để nâng xuyên trường
gắn với một lá ngửa bên dưới nằm bên lưng kèo [100, tr. 23].
Ở Cù Lao Ré còn loại nhà gọi là “nhà lá mái” hay “nhà đắp”. Nhà đắp thực
chất là kiểu nhà rường, trần nhà lót ván đắp đất, mái đòn tay tre lợp lá. Nhà đắp
khác với kiểu nhà rường là số lượng cột nhiều hơn. Tổng số cột của nhà đắp là 42
cột trong đó có 6 cột hiên phụ và 36 cột chính chia làm 7 dãy42. Tuy nhiên ở Cù
Lao Ré phổ biến là loại hình nhà đắp có số lượng 28 đến 30 cột do người ta bớt đi
hai hàng cột. Không gian ngôi nhà đắp thành ba gian hai chái với các chức năng:
ba gian giữa dùng để thờ tổ tiên, phía trước đặt phản gỗ, bàn ghế tiếp khách; hai
gian chái ngăn vách ván làm thành hai buồng gọi là đông phòng và tây phòng là
chỗ ngủ của vợ chồng con cái trong nhà. Trước đây người ta dựa vào các chân cột
để làm rầm hạ nhằm cất giấu đồ đạc chống lại sự cướp bóc của giặc Tàu Ô [102,
tr.123 – 124].
4.1.1.2. Các cơ sở tín ngưỡng và tôn giáo
So với kiến trúc nhà ở, kiến trúc tôn giáo và tín ngưỡng trên Cù Lao Ré khá
phong phú với các loại hình đình, dinh, lăng, chùa phục vụ đời sống tâm linh của
cộng đồng trên đảo.
Đình làng
Trên đảo Cù Lao Ré có hai ngôi đình của hai phường An Vĩnh và An Hải từ
khi họ tiến ra đảo lập nghiệp. Riêng đình An Vĩnh bị thực dân Pháp tàn phá nên
hiện nay chỉ có đình làng An Hải là tương đối nguyên vẹn.
Mặt tiền đình làng An Hải quay về hướng đông nhìn ra biển khơi. Đình lấy
42 Trên Cù Lao Ré ngày nay, còn lại 3 kiểu nhà này mà điển hình là ngôi nhà thuộc gia đình ông Lê Lý ở xóm Trung Hòa, thôn Đông, xã An Hải.
vũng eo của đảo làm minh đường, phía bắc đình là núi Thới Lới, lấy dòng suối Chình
91
chảy quanh làm tả Thanh Long, lấy Hòn Cò ở phía nam làm hữu Bạch Hổ. Bao quanh
đình làng An Hải là rừng dừa. Kiến trúc đình làng An Hải kết cấu theo hình chữ tam
gồm đình Thượng, đình Trung và đình Hạ tức tiền đường, chính điện và hậu cung.
Đình Hạ gồm 18 cột chia làm ba gian hai chái, các cột cái làm bằng gỗ mít,
kích thước lớn, cột quân nhỏ hơn, chân cột kê đá tảng. Kết cấu gồm bốn vì kèo trụ
chống kiểu cánh dơi, các kèo xuôi qua các đầu cột đỡ hệ thống đòn tay mái và
thượng lương. Đầu kèo dưới chồng lên đuôi kèo trên, gác qua rãnh ở đầu cột, giữ cố
định chốt mộng. Các trính, xuyên liên kết nhau qua đầu cột bằng cách chốt mộng
nhằm để giữ sự cố đình lòng nhà. Trụ chồng gác qua mặt trính tạo tác theo mô tuýp
hình “chày cối”, đầu choãi cánh dơi. Bề mặt của đầu kèo và đuôi kèo được trang trí
bằng các đường gờ, dây leo thực vật tạo nên vẻ đẹp và sự nhẹ nhàng cho tổng thể
công trình. Các kèo mái nối tiếp với kèo giữa, xuyên qua đầu cột vách và gác qua
đầu cột hiên, đỡ phần mái hiên. Phần trên của đỉnh cửa được trang trí các mắt cửa
gồm 6 sái. Mắt cửa có 2 tác dụng là phần bên trong nhà là chốt tra, phía bên ngoài
vách được trang trí theo mô tuýp hoa cúc.
Hàng cột hiên ở mặt tiền đình hạ được xây dựng bằng gạch gồm có 6 cột. Đặc
biệt hai cột ở hai đầu hiên chái kiểu dáng trụ vuông, phần đế cột đặt trên lưng hai con
nghê quay đầu vào nhau. Thân cột ghi hàng chữ nho đã mở nét. Phần mái của nhà
tiền đường lợp ngói đất, đỉnh bờ mái trang trí mặt trời ở giữa và hai rồng chầu theo
kiểu “lưỡng long chầu nhật”. Hai đầu hồi nhà tiền đường đắp nổi mặt long phù. Bờ
mái của đầu hồi trang trí rồng phương theo mô tuýp “long phụng triều quy”. Đầu góc
bờ mái trang trí cá chép hóa rồng. Mặt bằng nhà tiền đường (đình hạ) có chiều ngang
là 9,4m và chiều dài là 12,7m. Trong nội thất của nhà tiền đường thờ thập loại cô hồn
và là nơi đặt long đình, dùng rước thần và các thuyền đua long, lân, qui, phụng dùng
trong ngày hội đua thuyền truyền thống hàng năm của Cù Lao Ré [28, tr. 4 - 5].
Đình Trung còn gọi là chính điện liên kết với đình hạ bằng một máng xối
dài. Về mặt kết cấu, ở đây là hai nhà tách rời không có sự liên kết bằng hệ thống
kèo như ta thường thấy ở các đình chùa có kiến trúc hình chữ tam khác. Mặc
bằng của đình trung gồm có 16 cột làm thành 4 hàng: hai hàng cột lớn (cột
chính) ở giữa để đỡ bộ vì kèo của khung nhà, hai hàng cột phụ ở hai bên mái có
chức năng là cột hiên.
92
Kết cấu kiến trúc của đình trung chia thành một gian hai chái. Khung gỗ gồm
ba bộ vì kèo với kiểu trụ chồng “chày cối đầu choãi cánh dơi” tạo dáng đẹp, cân đối
nhẹ nhàng. Các liên kết trính, xuyên, kèo với đầu cột chính theo phương pháp chốt
chắc chắn. Ở bờ mái đầu hồi của đình trung, hai bên có hai kỳ lân chầu tượng trưng
cho sự bền vững. Đỉnh bờ mái trang trí theo mô tuýp “lưỡng long triều nhật”. Phần
mái trên lợp ngói đất, phần mái dưới vẫn giữ nguyên ngói âm dương. Vách xây
dựng bằng gạch và vôi vữa, ở đầu hàng vách có hai cửa vòm nhỏ được thiết kế để ra
vào. Nội thất của đình trung thờ tam hoàng ngũ đế, ngũ hành tiên nương, Ngu Man
Nương, tiền hiền, hậu hiền.
Đình thượng (hậu cung) liên kết với đình trung (nhà chính điện) bằng một
máng xối. Về kiến trúc thì đình thượng không còn kiến trúc gỗ mà được xây dựng
hoàn toàn bằng hợp chất vôi vữa trộn cát mật. Phần vách của đình thượng được trở
hai cửa hông nhỏ để ra vào. Phần mái cảu đình thượng được nâng thành tám mái
theo kiểu chồng cổ diêm. Mái trên và mái dưới được lợp ngói âm dương. Phần cổ
diêm được chia làm bốn mặt, mỗi mặt được trang trí đắp nổi theo nhiều đề tài khác
nhau. Mặt phía tây trang trí đề tài mai điểu, mặt phái đông trang trí đề tài hoa và
thú, mặt phía bắc trang trí đề tài ngư điểu. Đỉnh bờ mái được trang trí lưỡng long
chầu vào bình hồ lô, theo tích truyện Tôn Tấn – Bàng Quyên, bốn góc mái trên
trang trí phượng hoàng, 4 góc mái dưới trang trí rồng được đắp nổi. Nội thất đình
thượng thờ cốt tượng nữ thần Thiên Y A Na [28, tr. 6 – 7].
Về cơ bản, đình An Hải có kết cấu cũng như phối thờ giống hầu hết các ngôi
đình khác ở miền Trung. Điểm khác biệt so với các đình khác là đình An Hải thờ
các vị thần người Chăm như Thiên Y A Na (Pô Inưngaga) ở hậu cung (đình thượng)
và chúa Ngu Man Nương (Uma) ở đình trung (chính điện). Việc thờ phụng các vị
thần người Chăm trong đình An Hải phần nào đó đã phản ánh lịch sử cộng cư buổi
đầu tiên trong thời gian đầu người Việt ra đảo, chứng tỏ những mảnh vỡ văn hóa
Chăm được dung hòa bao bọc trong lòng văn hóa Việt.
Dinh (đền), miếu
Đây là những cơ sở tín ngưỡng thờ thần linh, thành hoàng và các vị nhân
thần có công với dân trên Cù Lao Ré. Ở Cù Lao Ré có 24 dinh miếu trong đó ở An
Hải có 12 dinh miếu và An Vĩnh cũng có 12 dinh miếu. Đặc điểm chung của dinh
93
miếu trên Cù Lao Ré là chúng được xây dựng trên bố cục thống nhất gồm có tiền
đường, chính điện và hậu cung cùng nằm trên một trục thẳng. Đồng thời về phía
bên tả có nhà bếp để nấu nướng và có nhà soạn để dọn các mâm cỗ cúng tế. Bên
cạnh dinh miếu còn có bể chứa nước ngọt. Trong kết cấu kiến trúc của các dinh
miếu, vách được xây bằng vôi vữa tam hợp rất dày và chắc chắn. Tùy theo quy mô
mà một số dinh miếu còn có làm thành bờ bao bọc bảo vệ.
Hiện nay, hầu hết các dinh miếu đều được tu bổ lại rất kiên cố trên cơ sở kết
cấu vách chịu lực nên hầu như bộ khung gỗ bao gồm cột, kèo, trính, xuyên giảm
hẳn về số lượng, nghèo nàn về các kiểu thức trang trí chạm trổ trên gỗ. Trong các
dinh miếu ở Cù Lao Ré có duy nhất đền thờ thần Thiên Y A Na ở An Hải là có bảng
lồng cổ chính điện trang trí điêu khắc gỗ chạm thủng hình tượng đôi voi đực có ngà.
Mô tuýp lưỡng long tranh châu với kiểu rồng mềm mại mình phủ hoa dây và mây
lửa phản ánh rõ nét về quan niệm âm dương. Ở một số nơi như dinh thờ thần Thiên
Y A Na ở An Vĩnh có cánh dơi được cách điệu bằng hình tượng song ngư (đôi cá
chép quay đầu vào nhau).
* Âm linh tự
Điển hình nhất trong kiến trúc dinh (đền) trên Cù Lao Ré là đền Âm Linh tự
hay còn gọi là dinh Âm Linh tự. Đây là nơi thờ tự lính Hoàng Sa hy sinh khi làm
nhiệm vụ trên biển, thuộc thôn Tây, xã An Vĩnh.
Âm Linh tự được xây dựng vào giữa thế kỉ XVII, phía sau lưng tựa vào núi
Hòn Tai, mặt chính diện nhìn ra biển. Không gian thờ phụng bên trong di tích Âm
Linh tự được bố cục thành 3 gian: gian giữa thờ thần, gian hai bên thờ tả ban và hữu
ban. Di tích Âm Linh tự được tu tạo lần thứ nhất vào đầu triều Gia Long (1802 -
1820), nhân dân đã tạo dựng bộ khung nhà gỗ, mái che lợp bằng tranh và dựng thêm
nhà Tây gọi là Vĩnh Thượng Từ thờ vị thần tên là Thượng Thiên, theo quan niệm
đây là vị thần đem lại sự bình an cho người đi biển. Lần tu sửa thứ 2 năm 1883,
toàn bộ đền chính và nhà Tây được lợp lại bằng ngói âm dương. Bộ khung nhà thay
thế bằng hệ thống kèo cột vững chắc. Mặt bằng đền gồm 2 gian: chính điện và tiền
đường được ngăn cách nhau bởi hệ thống cửa, vách. Năm 1956, tu bổ lại nhà tiền
đường; mặt chính điện làm bằng cửa vòm, bờ nóc mái và bờ dải trang trí nhiều chủ
đề phong phú, đa dạng. Đến năm 1996, di tích Âm Linh tự tu bổ quy mô, làm lại
94
nhà Tây và làm thêm nhà Đông dùng làm bếp núc và bảo quản ghe đua. Phía trước
đền xây dựng cổng ra vào bề thế vững chãi.
Nhà tiền đường có 3 cửa vòm lớn để trống nhằm tạo nên không gian thoáng
đãng. Đây là bàn thờ hương hồn của những lính Hoàng Sa đã tử nạn trên biển, có
liễn đối ca ngợi anh linh hồn phách của những người lính Hoàng Sa: “Anh khí càn
khôn, hồn thoát hóa; siêu thăng trần tục, phách thường lâm/ Phảng phất không
trung hà xứ mịch; vân phi thiên thượng kỷ thời quy”.
Nhà chính điện gồm một gian hai chái. Đỉnh cửa chính điện đắp nổi lưỡng
long tranh châu, giữa có hoành phi 3 chữ Hán “Âm Linh tự” được tạo bởi chất liệu vôi
tam hợp lẫn giấy bổi. Gian giữa là gian chính thờ thần, án thờ viết chữ Thần bằng
chữ Hán, phía trước có tẩm khá dài. Hai gian thờ tả, hữu hai bên thờ tả ban (Tại tế)
và thờ hữu ban (Nghiêm trí) có cấu trúc tẩm tương tự như gian thờ thần. Đặc trưng
chung các án thờ thần, tả ban, hữu ban đều có tạo mái như cái am nhỏ, ở góc mái
trang trí rồng, cuốn thư, ngũ quả. Phía trước, trên mỗi gian thờ đều có gắn các
hoành phi cẩn cừ. Hai bên vách đông và tây của nhà chính điện có án thờ tiền vãng,
hậu vãng. Ở các bàn thờ đều có bộ tam sự, mâm ngũ quả. Hai bên có đặt lũ bộ (thập
bát ban binh khí) cùng với đầu ghe quy. Trong không gian nhà chính điện, ở mỗi
cột đều có gắn liễn đối cẩn cừ rất trang trọng. Các câu đối ở đền chính của Âm Linh
tự đều có nội dung ca ngợi công lao của tiền nhân khai sơn phá thạch lập làng và
tưởng nhớ sự hi sinh của những người lính trong hải đội Hoàng Sa.
Trang trí bên trong và bên ngoài của đền chính Âm Linh tự theo ba dạng: tạo
khối, đắp nổi và vẽ sơn (bích họa), theo các chủ đề: tứ linh, tứ quý, tứ thời, bát bảo,
sơn thủy tùng đình, triền chi, lưỡng long tranh châu… Bờ mái của nhà chính điện
Âm Linh tự ở phía có lưỡng long tranh châu, hai đầu hồi đắp nổi mô típ ngũ phúc và
mâm ngũ quả, mặt sau có tạo dáng mái 3 am thờ: thần, tả ban và hữu ban. Khu vực
sân trước của đền Âm Linh tự là tháp thờ lính Hoàng Sa. Tháp có 4 mặt, giữa có 4
chữ Hán “chiến sĩ trận vong”. Đây là tháp thờ để tưởng nhớ những người lính của
hải đội Hoàng Sa hy sinh trên biển [102, tr. 155 – 156].
* Dinh Tam Tòa
Di tích dinh Tam Tòa nằm ở thôn Tây, xã An Hải, huyện Cù Lao Ré, cách
đường lộ liên xã 20m về hướng Nam. Gọi là Tam Tòa vì nơi đây thờ nữ thần Thủy
Long, Bạch Mã Thái Giám và chư vị Ngũ Đức.
95
Di tích dinh Tam Tòa kết cấu kiến trúc theo hình chữ đinh gồm: nhà tiền tế
và hậu cung. Ngoài ra, bên cạnh có một nhà hội để nấu nướng và tụ họp trong
những dịp lễ hội. Bao quanh di tích có tường xây bảo vệ. Cổng ngõ được xây với
kiến trúc thời Nguyễn kết cấu hai tầng, một cửa chính. Trên bờ mái lợp ngói âm
dương trang trí đắp nổi tứ linh: long, lân, quy, phụng và các đầu đao có hình giao
long. Cửa chính và cửa phụ có dạng vòm cuốn. Nhà tiền tế còn gọi là chánh điện
gồm 3 gian. Gian giữa đặt án thờ, ngai thờ, lũ bộ. Gian bên tả thờ chư vị Ngũ Đức
và thành hoàng bổn cảnh. Gian bên hữu thờ Thủy Long công chúa và chư vị tiền
hiền, hậu hiền. Bờ mái chính điện đắp nổi long phụng tranh châu, hai đầu hồi đắp
nổi dơi. Hậu cung kiến trúc thu hẹp, cửa dạng vòm cuốn, vách đắp tam hợp dày và
mái đắp nổi các chủ đề rồng, phượng, mai, điểu… Bên trong nhà hậu cung có 3 gian
thờ: gian giữa thờ Bạch Mã Thái Giám, gian hữu thờ Thủy Long công chúa, gian tả
thờ chư vị Ngũ Đức [32, tr. 6].
Di tích dinh Tam Tòa là địa điểm trung tâm tổ chức các lễ hội văn hóa dân
gian của cư dân Cù Lao Ré. Nơi đây diễn ra các lễ hội đua thuyền gắn với sinh hoạt
cộng đồng mang đậm sắc thái văn hóa biển. Tín ngưỡng thờ nữ thần Thủy Long
mang đậm dấu ấn văn hóa Việt.
* Đền thờ cá Ông Lân Chánh
Đền thờ cá Ông43 Lân Chánh thuộc thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện Cù Lao
Ré, nằm trong khu dân cư, cách đường lộ liên xã 50m về hướng Bắc, mặt quay về
biển. Đây là di tích tín ngưỡng quan trọng nhất của vạn chài Cù Lao Ré và cũng là
trung tâm tín ngưỡng lâu đời nhất trên Cù Lao Ré. Ngoài thờ cá Ông tước phong
Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân trung đẳng thần, di tích này còn thờ Tam Phủ (Thiên,
Địa, Thủy) và phối thờ chư Ông. Năm 1836, Minh Mạng ban sắc phong thần, khắc
hình tượng cá Ông vào Nhân Đỉnh ở kinh thành Huế. Kể từ triều Minh Mạng trở về
sau, cá Ông được sắc phong Nam Hải Đại Càn Quốc Gia, cho lập đền thờ cúng. Ở
Cù Lao Ré có nhiều đền thờ cá Ông, nhưng di tích Lân Chánh là nơi quan trọng
nhất. Đền cá Ông Lân Chánh vốn nguyên gốc là ngôi miếu thờ bằng tranh, sau bị
mưa bão phá hoại. Năm Thành Thái thứ 15 (1904), chức dịch và dân chúng xuất 43 Theo người Chămpa, cá Ông là hóa thân của vị thần Pôri iăk cứu ghe thuyền bị nạn trên biển. Còn người Việt có truyền thuyết, cá Ông là hóa thân từ mảnh áo cà sa của phật Quan Âm thả xuống biển hóa phép thành cá Ông, lấy bộ xương voi ban cho để cá Ông bơi cứu những ngư dân lâm nạn.
96
tiền mua ngói để lợp. Sau này, cá Ông nào trôi dạt vào bờ chết thì dân làng sẽ đưa
vào cùng phối thờ trong miếu.
Đền thờ xây dựng theo hình chữ tam, gồm: tiền đường, chánh điện và hậu
cung. Ngoài ra, bên cạnh có một nhà hội để nấu nướng và tụ họp trong những dịp lễ
hội. Tiền đường là nơi chuẩn bị hành lễ có 3 cửa vào, khuôn cửa cấu trúc kiểu dạng
khuôn cửa bàn khoa. Không gian nơi tiền đường khá rộng rãi. Chánh điện có 3 gian
với 4 hàng cột gỗ mít trau chuốt đẹp đẽ kiểu thượng thu hạ thách. Các chân cột đều
có kê đá, trên đầu 4 hàng cột đỡ xuyên trính và 4 bộ vì kèo. Bộ vì kèo không trang
trí, chỉ duy nhất con đội có trang trí phần đế và phần đầu đỡ thượng lương được tạo
dáng theo kiểu cánh dơi. Hậu cung không có kiến trúc gỗ, mặt bằng thu hẹp nhưng
chiều cao được nâng lên bởi kiểu cắt cổ diêm tạo thành tám mái [31, tr. 8 – 9] .
Kiến trúc chùa
Trên toàn Cù Lao Ré có hai cơ sở chùa với phong cách kiến trúc khá đặc
biệt, đó là kiểu chùa hang. Một ngôi chùa nằm ở dưới chân núi Thới Lới thuộc xã
An Hải dân gian gọi là chùa Hang, tên chữ là Thiên Khổng Thạch Tự, tức chùa đá
trời xây. Ngôi chùa còn lại nằm trên mé đỉnh núi Giếng Tiền tục gọi là chùa Đục,
tên chữ là Đỉnh Liêm tự. Kiểu chùa tạo dựng trong hang núi không chỉ có ở Cù Lao
Ré mà có ở nhiều nơi ở Việt Nam.
Chùa Hang tương truyền có nguồn gốc là ngôi đền của người Chăm dùng để
thờ tự các vị thần đạo Bà La Môn. Sau này người Việt tiếp thu đã thay thế vào đó
bằng lối thờ Phật. Cấu trúc thờ phụng trong Chùa Hang như sau: Bàn thờ Phật Tam
thế nằm ở giữa vách hang còn hai bên là các bàn đá thờ Đạt ma, Địa tạng, quan thế
âm, Hộp pháp cùng các vị hòa thượng sáng lập và trụ trì chùa cùng các vị Tiền
vãng. Mặt bằng Chùa Hang nằm sâu so với mặt đất nên ngoài hang nên ở cửa hang
có bậc cấp đi xuống. Bên ngoài chùa Hang có nhiều cây phong ba, có một đền thờ
Phật Quan âm bồ tát, nhìn về hướng Bắc mặt biển mênh mông, cảnh vật khá u tịch.
Chùa Đỉnh Liêm (tức chùa Đục) nằm trên vách núi Giếng Tiền. Mặt chùa
quay về hướng bắc nhìn ra biển lưng chùa dựa vào vách núi Giếng Tiền. Diện tích
bên trong chùa hang Đỉnh Liêm khoảng 40m2. Mặt bằng chia làm hai phần là tiền
đường và chính điện. Chính điện có diện tích khoảng 14m2, bên trong có bàn thờ
tượng Phật Thích ca bằng đất nung. Bên ngoài tiền đường có diện tích rộng hơn,
97
cả hai bên tả và hữu vách núi được đục lõm vào để lập án thờ và kho đựng lương
thực. Mặt ngoài của tiền đường có hai cửa ra vào và một cửa sổ, hai bên đặt hai
tượng hộ pháp bằng gạch [102, tr. 116 – 117].
Nhà thờ tiền hiền An Hải
Nhà Tiền hiền được nối với đình làng bằng nhà cầu nhằm tránh mưa nắng
khi qua lại, có mặt bằng dài 6,5m, rộng 5,4m, diện tích 35,1m2. Mặt bằng có 4
hàng cột với tổng số 12 cột, chia làm 1 gian 2 chái. Kiến trúc bộ khung nhà Tiền
hiền với hệ thống cầu, cột, trính, xiên giống như nhà chánh điện (đình Trung)
của đình làng. Vách nhà Tiền hiền xây gạch và đá chẻ, phần mái lợp ngói đất,
đỉnh mái trang trí lưỡng long triều nhật. Nội thất nhà Tiền hiền chia làm 3 gian:
gian chính giữa thờ tiền hiền, hai bên tả ban, hữu ban thờ hậu hiền. Nội thất nhà
thờ Tiền hiền trang trí nhiều bức liễn đối cẩn xà cừ gắn trên các cột, các bức
tranh cẩn cừ, hoành phi được gắn trên vách và trong mặt sau bàn thờ. Gắn liền
với sự tồn tại của đình làng và nhà thờ Tiền hiền xã An Hải là các hình thức sinh
hoạt văn hóa dân gian, lễ hội như nghi lễ tế tự và hội hè do một ban tế tự đảm
trách bao gồm đại diện 7 tộc họ [102, tr. 7 – 8].
Đình làng và nhà thờ Tiền hiền xã An Hải là một công trình kiến trúc nghệ thuật
tôn giáo, mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn được phản ánh qua kỹ
thuật chạm khắc gỗ độc đáo ở án thờ, bề mặt các vì kèo, trụ chồng và ở đỉnh cửa…
Đồng thời, kỹ thuật đắp nổi, kỹ thuật tạc tượng được thể hiện hết sức tinh xảo, sống
động tại các ô trang trí của cổ diêm (đình Thượng) và mô típ mai điểu, ngư điểu, lưỡng
long triều nhật, long phụng triều quy… Có thể nói, đình làng và nhà thờ Tiền hiền xã
An Hải mang giá trị kiến trúc, nghệ thuật và văn hóa của cư dân Cù Lao Ré.
4.1.2. Ẩm thực
4.1.2.1. Các món ăn có nguồn gốc từ biển
Người dân Cù Lao Ré bao đời gắn bó với biển cả nên trong cuộc sống sinh
hoạt ẩm thực của họ hầu như phần lớn là các món hải sản. Khác với đất liền, họ có
cách chế biến các món ăn theo đặc trưng khẩu vị riêng.
Món Hải sâm: còn gọi là con vú, sinh sản ở vùng biển nước sâu, xa đảo, độ
sâu khai thác được hải sâm từ 50 đến 60m. Hải sâm được cư dân Cù Lao Ré chế
98
biến thành các món khác nhau như ăn tươi, phơi khô… Dùng để ăn tươi, người ta
mổ bụng hải sâm lấy ruột bên trong bỏ đi và cạo nhẹ lớp nhờn bên ngoài cũng như
bên trong thành ruột, nhúng vào nước sôi một lúc lại vớt hải sâm ra dùng dao cạo
sạch lớp da sần sùi và nạo sạch phía trong thành ruột cho đến khi thấy lớp thịt cứng
thì rửa sạch thái ra thành từng lát bỏ vào nồi nước lạnh nấu chung với đu đủ hoặc
trái lác cho chín nát mới cho gia vị nêm nếm cho vừa và để nguội mới ăn. Món hải
sâm phơi khô cách chế biến cũng như cách chế biến tươi ở giai đoạn đầu nhưng khi
vớt ra khỏi nước sôi thì cạo lớp da cũng như ruột rồi rửa sạch bằng nước lạnh đem
phơi khô. Khi dùng hải sâm khô để nấu ăn chỉ cần ngâm nước cho mềm ra rồi thái
miếng và nấu như cách nấu hải sâm tươi.
Món vẹm: Con vẹm được nhân dân khai thác ở các chân thềm, rạng đá ngầm bờ
biển chung quanh đảo. Vẹm lấy về ngâm trong nước ngọt ít giờ sau đó dùng dao nhọn
mổ lấy ruột ra và bỏ vỏ. Người dân Cù Lao Ré dùng vẹm để làm mắm và xào. Vẹm
dùng để xào được chà rửa cho sạch chất nhờn, khử dầu xong bỏ vào xào chung với ít
đu đủ thái sợi hoặc xào với bún; Vẹm làm mắm cũng được chà rửa sạch rồi đem trộn
với muối theo tỷ lệ rồi phơi nắng ít ngày, khi thấy vẹm đỏ là chín mới ăn được.
Món Nhum: dùng dao chặt đôi con nhum vét sạch phân phía trong, cầm cả
vỏ nhum rửa sạch rồi lại nạo ruột nhum ra thành từng lát như lát chuối và đổ ra
chậu. Nhum có nhiều cách ăn như ăn sống với chanh, dấm và muối tiêu hoặc dùng
để nấu cháo, xào với bún, giã nhum ra làm chả.
Món hàu: Hàu thường sống bám vào các tảng đá, bãi đá bờ biển Cù Lao Ré
có độ dài từ 4 đến 5cm vảy cứng thân mền mình tròn. Cư dân trên đảo thường lấy
hàu về lắc vảy cứng ở đầu để lấy thân mền rồi sửa sạch đem xào lên dùng hoặc phơi
khô để dùng dần.
Món Ốc: Trong các loài động vật sống ở vùng đá ngầm xung quanh Cù Lao Ré
thì Ốc biển là loại động vật phong phú nhất. Hầu như ở chỗ nào quanh đảo cũng có sự
hiện diện loại động vật này với nhiều loại như ốc đụn, ốc cừ, ốc tai tượng, ốc nhảy, ốc
u, ốc chìa vôi,… Trong cuộc sống của nhân dân trên đảo, ốc hiện diện thường xuyên
trong bữa cơm của họ và được chế biến thành món luộc, xào, nấu cháo,…
99
Các loại rong biển: Các loại rong biển sống ở vùng nước chung quanh Cù
Lao Ré cũng tương đối phong phú trong đó rau đông (tức rau câu) là có giá trị kinh
tế nhất. Loại rau câu thường mọc bám vào các sườn bãi đá, bãi cát dọc bờ biển và
chỉ có thể lấy được chúng khi thủy triều xuống. Để lấy được rau câu, nhân dân dùng
một thanh sắt dẹp đầu nhọn và uốn cong dùng để nạo rau. Rau mọc lẫn với đá và cát
nên rất khó thu hái. Khi nạo xong, người ta rửa sạch lấy nguyên sợi rau đưa lên đất
phơi khô cho rơi ra hết tạp chất. Rau câu sau khi làm sạch đem nấu cùng chút phèn
chua hoặc lá me, lá bứa cho đến khi rau nát hết và nồi nước có độ sệt thì đổ vào các
chậu, các bát đợi cho đông cứng thì đổ nước lạnh lên cho đóng đông cứng rồi mới
dùng làm giải khát.
Ngoài rau câu, dưới biển quanh đảo còn có các loại tảo khác như rau câu
nhỏ, rau chắp xôi, rau bồng bông, rau chân vịt, rễ trê,… cũng được nhân dân chế
biến thành các món ăn hàng ngày khá bổ dưỡng.
4.1.2.2. Các món ăn từ bột ngũ cốc
Do đặc điểm đất đai của Cù Lao Ré không phù hợp với cây lúa và nguồn
nước ngọt trên đảo không dồi dào phong phú như trong đất liền cho nên từ xa xưa
nhân dân trên đảo hầu như không thể hoạt động kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước.
Hoạt động kinh tế nông nghiệp của nhân dân trên đảo chủ yếu là trồng các loại hoa
màu khác như rau củ quả, ngô, đậu phộng, khoai lang và khoai mì còn lúa gạo thì
phải mua từ trong đất liền.
4.1.3. Phương tiện đi lại
Do sinh sống trên đảo với diện tích không phải lớn lắm, cư dân Cù Lao Ré
vốn sinh sống quần tụ ở hai phường An Vĩnh và An Hải nên việc di chuyển trên đảo
chủ yếu là đi bộ. Việc di chuyển từ Cù Lao Ré vào đất liền duy nhất chỉ có phương
tiện là thuyền mà nhân dân gọi là “ghe”. Thuyền có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với cư dân trên đảo không chỉ vì nó là phương tiện vận chuyển duy nhất nối liền Cù
Lao Ré với đất liền mà còn là phương tiện hoạt động kinh tế đánh bắt hải sản chủ
yếu của nhân dân. Chính vì vậy, nghề đóng ghe bầu ở Cù Lao Ré đóng vai trò quan
trọng đặc biệt. Ngoài nghề đóng thuyền phục vụ cho di chuyển mua bán giữa đảo
với đất liền thì nghề đóng thuyền còn phục vụ trực tiếp cho việc đóng mới hoặc sửa
chữa thuyền đánh bắt hải sản của nhân dân.
100
4.2. Đời sống văn hóa tinh thần
4.2.1. Phong tục tập quán
4.2.1.1. Trong sinh hoạt cộng đồng
Phong tục ngày tết:
Cũng như các vùng khác trên đất nước, đối với cư dân Cù Lao Ré, tết
Nguyên đán là tết quan trọng nhất trong một năm. Ở Cù Lao Ré sắp đến ngày tết,
các đình, miếu và nhà tộc họ cũng như mỗi gia đình trên đảo đều được trồng cây
nêu trước sân. Tuy nhiên việc trồng cây nêu cũng quy định theo ngày khác nhau, ở
các đình, miếu và nhà tộc họ thì nhân dân tổ chức trồng cây nêu vào ngày 24 tháng
Chạp còn đối với các gia đình thì việc trồng cây nêu được tiến hành vào đúng ngày
30 tháng Chạp cho đến ngày mồng 7 tháng Giêng thì nhân dân trên đảo mới tổ chức
hạ cây nêu ở nhà còn ở đình, miếu thì kéo dài đến hết rằm tháng Giêng mới hạ. Cây
nêu được làm từ cây tre thẳng chặt ngọn dài chừng 4 đến 5m, trên ngọn nêu gắn
rồng, phượng, cá hoặc là lá cờ, treo giỏ tre đựng trầu cau, bánh khô và một “lá bùa”
được đan bằng nan tre để trừ ma quỷ, giữ gìn sự bình yên cho nhân dân trên đảo
trong cuộc sống. Khi dựng nêu, người ta kiêng không có bất kỳ ai đến ôm hoặc trèo
lên cây nêu vì như vậy thì sau này con trai con gái trong gia đình hoặc trong cộng
đồng sẽ khó dựng vợ gả chồng.
Bắt đầu từ ngày 30 tết, mọi nhà chuẩn bị đầy đủ lễ vật và quét dọn, trang trí
bàn thờ tổ tiên để cúng mời ông bà về ăn Tết cùng con cháu. Khi đón giao thừa con
cháu thường tập trung về nhà thờ tộc để hầu đón ông bà tổ tiên về ăn Tết, sau đó
mới về đón giao thừa tại nhà riêng của mình. Trong suốt 3 ngày Tết, ngày 2 buổi
đều cúng cơm, bánh cho ông bà tổ tiên. Đến chiều ngày mùng ba hoặc sáng mùng 4
Tết thì nhân dân tổ chức “đốt vàng mã” hay còn gọi là hóa vàng để tiễn đưa ông bà.
Trong những ngày tết, tại các lăng của xóm và đình làng liên tục diễn ra các
lễ tế tạ ơn thần linh đã phò trợ cho xóm làng và cầu mong sự thịnh vượng trong năm
mới cho dân làng, đặc biệt là xin ngày giờ xuất hành đầu năm. Trong các lễ tế đầu
năm tại đình, lăng, miếu, người trong làng chỉ được dùng loại trống chiêng nhỏ
(không được dùng trống chầu). Trong dịp tết, các làng tổ chức rước sắc thần. Sắc
thần vốn được bảo quản tại nhà riêng của ông Cả làng nay được đưa ra đình để cúng
tế. Tục rước sắc phong thần diễn ra ngày mồng 3 tết, bốn người khiêng long án
101
đựng sắc thần và hai người cầm cờ đi hai bên cùng dân làng rước ra đình. Ngày
mồng 8 tháng Giêng, nhân dân lại tiến hành rước sắc thần về lại nhà ông Cả làng.
Cũng giống như các vùng quê khác của Việt Nam vào dịp tết Nguyên đán,
các gia đình ở Cù Lao Ré cũng có tục xông đất (còn gọi xông nhà) để cầu mong
may mắn cả năm cho gia đình. Việc xông đất có thể tiến hành vào sau khi giao thừa
hoặc sáng ngày mồng 1, gia đình thường chọn trước một người sao cho tuổi người
đó tương sinh tương hợp với tuổi của gia chủ và nhờ đến xông đất.
Tết còn là dịp để gia đình gặp mặt và bà con họ hàng, chòm xóm gặp gỡ và
tưởng nhớ đến người đã khuất hoặc có công với làng với nước….
Trong tế lễ đình làng:
Lễ hội đình làng trên Cù Lao Ré được tổ chức từ ngày 19 đến ngày 20 tháng
2 và ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm, gồm 2 lễ chính:
Lễ nhập yết: Trước khi vào lễ, người ta dọn dẹp sạch sẽ xung quanh đình. Cờ
ngũ hành được cắm khắp sân đình. Vị chủ tế (trước đây là chủ làng, ngày nay là vị
đứng đầu trong 7 tộc tiền hiền) đứng ra tế lễ mở đầu cho ngày hội lễ chính thức vào
ngày hôm sau.
Lễ nhập yết thường được tổ chức vào đầu giờ đêm ngày 19 tháng 2. Trong lễ
nhập yết có lễ “tỉnh sinh”, nghĩa là xin phép thần linh để được giết heo làm vật tế.
Các vật phẩm tế lễ trong lễ nhập yết chỉ là bàn trầu, rượu và hoa quả. Sau khi các vị
chánh tế và bồi tế đã làm xong việc củ soát lễ vật (kiểm tra các vật phẩm tế lễ) là lễ
dâng hương trong tiếng nhạc âm vang trầm lặng. Lễ nhập yết kết thúc sau 3 tuần
rượu (sơ hiến, á hiến và chung hiến). Cũng trong buổi lễ nhập yết, ngày xưa người
ta thường tổ chức “nói tuồng”. Những người tham gia “nói tuồng” chỉ là những
người có năng khiếu diễn xuất, có giọng ca tốt, nhớ nội dung các tuồng tích. Họ
phân vai ngồi đối diện nhau trong đình để “nói” và diễn lại một vở tuồng, tích nào
đó cho dân làng xem, tạo không khí vui tươi cho ngày lễ của làng. Đến ngày hôm
sau (20/2) là ngày tế lễ chính thức.
Lễ tế chính: Bắt đầu vào buổi sáng, ông cả làng giữ vai trò chủ tế, lý trưởng,
hương bộ giữ vị trí bồi tế, hương dịch, chấp sự lo lễ vật cúng thần, hương bổn lo
việc chi tiêu cho lễ tế. Ông cả làng đứng ở giữa trên trục thần đạo của ngôi đình, hai
bên có 4 học trò lễ, hai người bưng đèn và hai người bưng mịch, trong đựng rượu và
102
trầm hương. Phía sau ông cả làng là lý trưởng và hương bộ làm nhiệm vụ bồi tế,
tiếp sau nữa là hương kiểm và hương mục. Tại gian hữu nhà tiền đường của đình
làng là chỗ đứng của các tộc trưởng họ tiền hiền làm nhiệm vụ đông phối. Tại gian
tả là chỗ đứng của các tộc trưởng họ hậu hiền làm nhiệm vụ tây phối. Tại gian vách
hữu là chỗ đứng của xóm Đông (ghe rồng), xóm Trung Hòa (ghe lân) làm nhiệm vụ
đông giản. Tại gian vách tả là chỗ đứng của xóm Trung Yên (ghe quy), xóm Tây
(ghe phụng) làm nhiệm vụ tây giản. Tại cột hữu là vị trí của điển lễ có nhiệm vụ
xướng lễ, tại cột tả là vị trí của điển nghi có nhiệm vụ xướng văn.
Từ sáng sớm, nhân dân trong xã, các chức sắc địa phương tập trung về đình
để dự lễ tế đông đủ. Trong ngày tế lễ chính thức, đoàn gồm có một vị chủ tế (trưởng
tộc tiền hiền), hai vị bồi tế và từ 10 - 12 phụ tế. Chủ tế và bồi tế ăn mặc chỉnh tề, áo
thụng màu xanh, đầu đội khăn đóng. Bắt đầu vào buổi tế, những hồi trống, chiêng
được gióng lên liên hồi, và trong quá trình tế, dàn nhạc bát âm luôn ngân lên những
bài bản theo từng nghi thức tế lễ. Tiếng chiêng, trống trầm hùng, mùi hương trầm
nghi ngút, ánh đèn mờ ảo dưới mái đình cổ kính tạo không khí uy nghi và trang
nghiêm của buổi lễ. Sau 3 tuần rượu (sơ hiến, á hiến, chung hiến) đến tuần trà và
đọc văn tế (xướng văn). Người đọc là điển nghi, hoặc là chánh tế hay bồi tế hoặc
chọn trong số những người tham gia buổi tế có giọng tốt để đọc.
Sau các nghi thức “chúc vị”, “chuyển chúc” (chuyển chúc văn đến vị trí đọc)
và “đọc chúc”, văn tế có đoạn:
“Thuở trước các vị tư chất thông minh, biết nhìn xa trông rộng, võ nghệ tài
giỏi vô song, văn chương thông thái, tính tình siêng năng cần mẫn, không ngại khó,
ngại khổ, chẳng quản xa xôi cách trở, chẳng sợ nắng mưa, giông tố, dốc lòng chăm
lo mở mang bờ cõi, trăm năm làm nên sự nghiệp, xây dựng cơ đồ có quy mô đường
hoàng nên con cháu và lớp người sau nguyện thành kính phụng, thờ lửa hương để
đền đáp công ơn và nguyện noi gương các vị, kính mong các vị phù hộ cho toàn thể
nhân dân an cư lạc nghiệp” [102, tr. 169 – 171].
Nét nổi bật trong buổi lễ là tiết mục dâng đèn khá sinh động. Đoàn dâng đèn
gồm có 6 người, mặc áo thụng xanh, đầu đội mũ cánh chuồn, chân bó tất. Khi dàn
nhạc bát âm tấu lên điệu nhạc dâng đèn, đoàn dâng đèn theo hàng một tiến vào điện
thờ, tới các bàn thờ theo nhịp bước hình chữ chi, tay khuỳnh trước trán dâng đèn
103
dưới sự điều khiển của vị chánh tế. Đèn được cấu tạo như một đài hoa, bên trong
được thắp sáng bằng nến, có tác dụng thắp sáng dẫn đường cho các vị chủ tế đến
các điện thờ làm các nghi lễ như: châm rượu, châm trà, bái…
Cũng như lễ nhập yết, buổi lễ chính thức cũng tuần tự qua các bước: sơ hiến, á
hiến và chung hiến và kết thúc khi các chức sắc trong làng, đại diện các tộc tiền hiền,
dân làng thay nhau vào bái kiến trước ngai thờ tiền hiền để tỏ lòng thành kính tổ tiên
và cầu mong sự bình an cho cuộc sống của làng xã, gia đình và bản thân mình. Sau
phần nghi lễ là cuộc hội ngộ tâm tình giữa các tộc họ, dân làng và các chức sắc địa
phương để cùng nhau ôn lại truyền thống tốt đẹp mà cha ông truyền lại và còn gìn giữ
đến ngày hôm nay, với mục đích giáo dục lòng tôn kính tổ tiên, tinh thần đoàn kết cộng
đồng và lòng tự hào về quê hương cho con cháu.
Ngoài ra, trong các dịp tế thu (20/8) và lễ hội đầu xuân (từ mùng 4 - 8 tháng
Giêng) các nghi thức của tế lễ vẫn giống như nhau. Chỉ riêng trong lễ hội đầu xuân,
tại đình có thêm phần hội đua thuyền (tứ linh), khá sôi nổi và hấp dẫn, thu hút hầu
hết người dân trong xã về xem.
Nếu cúng đình là một hình thức hội làng truyền thống như các nhà nghiên
cứu thừa nhận thì những kỳ giỗ tiền hiền là những ngày sinh hoạt văn hóa truyền
thống của nhân dân xã An Hải, vừa thể hiện tấm lòng “uống nước nhớ nguồn”,
hướng tâm linh của mình đến các vị “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cư”, vừa
biểu hiện mong muốn về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc và là dịp để thắt chặt lại
sợi dây đoàn kết giữa các dòng họ cũng như các thành viên trong cộng đồng qua
việc thăm hỏi sức khỏe, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất và giải quyết những
mâu thuẫn bất đồng nảy sinh trong cuộc sống [102, tr. 172].
Với ý nghĩa đó, những ngày lễ hội ở đình làng xã An Hải góp phần vào việc
bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của quá khứ, thắt chặt lại sợi
dây đoàn kết giữa các tộc họ, làng xóm, khơi dậy tình yêu quê hương và lòng tự hào
về tổ tiên của mình để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
4.2.1.2. Trong gia đình và tộc họ
Tục thờ cúng tổ tiên: Giống như các địa phương khác, đối với người Việt ở
Cù Lao Ré thì tổ tiên luôn ở trong tâm thức với quan niệm tổ tiên ông bà luôn bên
104
cạnh phù hộ cho mình. Vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên được mọi người coi trọng và tổ
chức cúng tế nhiều lần trong năm.
Mỗi gia đình đều có bàn thờ ông bà tổ tiên. Bàn thờ được đặt ở nơi trang
trọng nhất của ngôi nhà (gian giữa). Trên bàn thờ thường có các bộ tam thờ làm
bằng đồng, lư hương, bình hoa, bình phong và đôi liễn khảm xà cừ (hoặc liễn vải)
ca ngợi công đức tổ tiên. Trên bàn thờ còn có “phủ quý” là chiếc hộp bằng gỗ sơn
đỏ dùng để gia phả nếu gia đình là tộc trưởng của dòng họ. Lễ cúng tổ tiên tùy vào
điều kiện kinh tế của từng gia đình, dòng họ nhưng không thể thiếu đĩa muối, gạo,
nước trắng, trầu cau và rượu.
Sinh đẻ: Khi mang thai người phụ nữ phải kiêng cữ, mục đích để sinh nở dễ
dàng như không ăn cua sợ đẻ ngang, không ăn quả đôi sợ đẻ sinh đôi,… Khi sinh,
người ta nhờ một bà mụ trong làng đỡ đẻ và dùng một miếng sành để cắt nhau đứa
trẻ, chôn nhau ở nơi kín, tránh chôn nơi trũng nước vì sợ đứa trẻ sẽ bị ghẻ trốc.
Người phụ nữ sau khi sinh sẽ được nằm ở phòng kín và phải nằm lửa. Trong
thời gian ở cữ khoảng 7 đến 9 ngày thì người lạ không được vào buồng sản phụ vì
sợ “bà túm” bắt đứa trẻ đi hoặc sợ vía dữ. Sau thời gian ở cữ, người ngoài mới được
vào thăm và sau 1 tháng thì người sản phụ mới được ra ngoài.
Khi đứa trẻ đầy tháng, người nhà làm lễ cúng và đặt tên cho đứa trẻ. Lễ cúng
được tổ chức đơn giản gồm chè, xôi, rượu,… Ngoài tên chữ, đứa bé còn được đặt
bằng một cái tên nôm xấu xí nhằm làm cho quỷ thần không chú ý đến đứa trẻ để cha
mẹ dễ nuôi. Tròn 1 tuổi, cha mẹ đứa bé tổ chức cúng “thôi nôi”. Nếu đứa trẻ khó
nuôi, gia đình thường làm lễ để “bán khoán” cho thần phật đến khi trưởng thành lại
làm lễ chuộc về.
Hôn nhân: Trong hôn nhân truyền thống ở Cù Lao Ré, vai trò của người làm
mối rất quan trọng. Nhà trai chọn người làm mối đến thưa chuyện với nhà gái, nếu
được nhà gái đồng ý, nhà trai tiến hành tổ chức các lễ: lễ thăm nhà (nhà trai đem lễ
vật đến thăm hỏi nhà gái làm quen); lễ sơ vấn (còn gọi là lễ dạm hỏi) và sau đó nhờ
thầy xem tuổi đôi trai gái và chọn ngày, giờ và năm thích hợp để tổ chức đám cưới;
tiếp đến là lễ ăn hỏi. Chàng trai cùng cha mẹ và bà con nội ngoại sẽ đưa lễ đến nhà
gái. Lễ vật bao gồm rượu bán, chè thuốc và trầu cau. Sau lễ ăn hỏi, chàng trai được
phép lui tới giúp đỡ nhà gái cho đến khi tổ chức đám cưới.
105
Trước ngày cưới, cả gia đình cô dâu và chàng rể đều diễn ra buổi họp họ.
Riêng nhà trai trong ngày này còn phải cử người đem lễ vật đến cho nhà gái. Đoàn
sang nhà gái gồm cha chú rể, chú rể và chủ hôn. Tùy điều kiện kinh tế mà lễ vật
khác nhau nhưng thường gồm có trầu cau, rượu và một con lợn.
Ngày tổ chức lễ cưới và đón dâu, nhà trai tiếp tục đem các lễ vật đến nhà gái.
Nhà gái sẽ đem lễ vật của nhà trai đặt lên bàn thờ cho cô dâu và chú rể lạy trước bàn
thờ tổ tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau đó, cô dâu chú rể sẽ được mọi người
tặng quà và chúc phúc. Nhà gái phải dọn cơm mời hai họ đến mừng.
Đến giờ quy định, nhà trai sẽ xin đón dâu và nhà gái sẽ cử đoàn ra để đưa
con về nhà chồng. Đến nhà trai, gia đình cũng tổ chức cúng tế như bên nhà gái và tổ
chức ăn uống chiêu đãi hai họ. Trong ba ngày đầu sau khi cưới, đôi vợ chồng trẻ
phải ở bên nhà vợ để “hầu” bố mẹ vợ. Sau ba ngày, gia đình chú rể gồm mẹ, chị gái
(hoặc em gái), dì đến nhà gái xin rước cô dâu về. Lúc này mới được coi là kết thúc
đám cưới và đôi trai gái mới chính thức là vợ chồng.
Tang ma: Tục tang ma của người dân Cù Lao Ré cũng giống như của người
Việt ở trong đất liền. Người chết được tắm rửa thay quần áo sạch sẽ và đắp giấy
“vàng bạc” lên mặt. Người trong gia đình đi thông báo cho đến cho tộc trưởng và
mọi người. Sau đó, gia đình nhờ thầy chọn đất để chuẩn bị mai táng và tiến hành tổ
chức khâm liệm người chết. Khâm liệm người chết tùy vào gia cảnh từng gia đình
mà có thể dùng tơ lụa hoặc dùng vải trắng. Đồ liệm gồm quần áo, chăn, gối, chiếu
và một số vật dụng mà người chết khi sống thường dùng. Khâm liệm trong, người ta
đặt thi hài vào quan tài để giữa nhà để mọi người tới viếng. Trên quan tài đặt bảy
ngọn nến, lư hương và một bát cơm cùng quả trứng. Trước linh cữu đặt bàn thờ
gồm bài vị, ảnh, cặp đèn cầy và bình hoa. Sau khi làm lễ phát tang, thân quyến của
người chết đến bàn thờ vái tạ và đội khăn, mặc đồ tang túc trực bên linh cữu để cảm
tạ khách đến thăm.
Đến giờ lành, gia đình tổ chức đưa linh cữu đi mai táng và thân quyến họ hàng,
bà con hàng xóm đến đưa tang. Con trai trưởng sẽ cầm linh tọa đi lui trước quan tài và
con trai, con gái cùng bà con thân thuộc đi hai bên linh cữu khóc than để hộ tang.
Linh cữu đưa đến huyệt đợi đúng giờ lành thì hạ huyệt và mỗi người cầm
một nắm đất tiễn đưa. Mai táng xong, gia đình lập bàn thờ và tổ chức cúng cơm
106
hàng ngày. Sau 3 ngày, gia đình tổ chức làm lễ mở cửa mả. Sau đó, gia đình làm lễ
cúng 49 ngày và 100 ngày. Từ đó trở đi, gia đình thờ chung người chết trên bàn thờ
tổ tiên trong gia đình.
Giỗ Tộc họ: Còn gọi là “cúng việc lề” là một tâm thức hướng về cội nguồn tổ
tiên, dòng họ đặc sắc của người dân Cù Lao Ré. Nghi thức cúng việc lề ở Cù Lao
Ré khá phức tạp, nhiều nội dung đan xen vào nhau như quan niệm của họ: “trước là
cúng việc lề, sau là cúng đất, cô hồn, tế lính Hoàng Sa và cầu an cho dòng họ”.
Trước hết, là cúng các vị thủy tổ dòng họ di cư khẩn hoang, lập nên cuộc
sống ở vùng đất mới. Đặc điểm trong nghi thức cúng việc lề là ngoài thức cúng như:
thịt, cá, trầu rượu, người ta còn dùng một con cá nướng để nguyên con như một sự
nhắc nhở con cháu về cuộc sống khó nhọc của tổ tiên trong buổi đầu khẩn hoang.
Các tộc lớn ở Cù Lao Ré như: Nguyễn, Dương, Trương, Trần, Võ, Nguyễn
Đình, Nguyễn Văn ở An Hải; Phạm Văn, Phạm Quang, Võ Xuân, Võ Văn, Lê,
Nguyễn ở An Vĩnh và một số tộc lớn như Đặng, Phan… hằng năm cứ đến “lệ xuân”
(tháng 2 âm lịch) đều tổ chức cúng việc lề.
Đến ngày cúng việc lề, con cháu trong tộc tập trung về nhà thờ tộc để dự lễ
tế cúng. Sau khi sửa soạn xong lễ vật, ông trưởng tộc đứng ra khấn vái tổ tiên trong
nhà thờ. Ngoài sân, ngoài thức cúng: thịt, cá, bánh khô, gạo, muối, nếp nổ… Người
ta còn làm một chiếc thuyền bằng thân cây chuối và các hình nộm đặt lên tàu để
thầy cúng âm hồn, binh phu, dân gọi là “tế lính Hoàng Sa”. Tục này chỉ có đối với
các dòng họ có người đi lính Hoàng Sa thời chúa Nguyễn.
Cúng việc lề là một dạng “giỗ họ”, là ngày “hiệp kỵ” tổ tiên của một dòng
họ. Vì vậy, nó mang tính chất riêng tư của từng dòng họ nên mỗi họ quy ước với
nhau về ngày cúng, thức cúng. Ngoài ý nghĩa chính là thờ cúng tổ tiên, cúng việc lề
còn nhằm cầu an cho dòng họ, khấn vái ông bà tổ tiên phù hộ con cháu tránh mọi
rủi ro, bệnh tật. Do đó, trong dịp cúng việc lề, người ta kết hợp cầu an và đôi khi
còn thực hiện nghi thức “tống ôn”. Trong cúng việc lề, một nghi thức luôn được
thực hiện là khi cúng xong, người ta xếp lên chiếc thuyền (thuyền dùng trong lễ
cúng) các vật phẩm đã cúng mỗi thứ một ít, sau đó đem thuyền ra thả xuống biển.
Cúng việc lề là một tín ngưỡng đặc thù của nhân dân Cù Lao Ré được hình
thành từ thời khẩn hoang, lập làng trên đảo. Hiện nay, tất cả các dòng họ lớn ở Cù Lao
107
Ré đều còn lưu giữ những tín ngưỡng “cúng việc lề” và các nghi thức cúng khá đậm
nét, biểu hiện tính cố kết tình thân tộc, dòng họ và lòng biết ơn của con cháu với tổ tiên.
4.2.2. Tôn giáo và tín ngưỡng
4.2.2.1. Tôn giáo
Ngoài các hoạt động tín ngưỡng gắn liền với đời sống sản xuất nông nghiệp
và đánh bắt hải sản, thờ cúng tổ tiên,… người dân Cù Lao Ré còn sùng kinh đạo
Phật. Hiện nay ở Cù Lao Ré có 5 ngôi chùa thờ Phật, ngoài hai ngôi chùa cũ là chùa
Hang và chùa Đục thì còn có chùa Từ Quang, chùa Vĩnh Ân và Tịnh xá Ngọc Đức
với số lượng tín đồ lên đến 1.170 người [102, tr. 198]. Nhân dân Cù Lao Ré thường
đến chùa dâng lễ vào các ngày mồng 1 và ngày rằm (âm lịch) trong tháng và các
ngày lễ tết khác trong năm mà không thực hiện tu hành tại chùa.
Các tôn giáo khác như đạo Thiên chúa, đạo Cao Đài cũng có mặt ở Cù Lao
Ré nhưng thời gian du nhập khá muộn, khoảng đầu thế kỷ XX. Số lượng tín đổ của
những đạo này chỉ có 806 người [102, tr. 198].
4.2.2.2. Tín ngưỡng
Các tín ngưỡng trong sản xuất nông nghiệp
Lễ động thổ: Trong thời gian từ mùng 1 đến mùng 3 Tết Nguyên đán, chọn
được ngày giờ tốt là tổ chức làm lễ động thổ. Buổi lễ được tổ chức bắt đầu tại đình
làng. Tại đây, người ta tổ chức lễ tế thần linh bằng các nghi thức cúng tế hết sức
long trọng với sự có mặt của tất cả các chức sắc trong làng. Sau buổi tế, ông cả làng
sẽ gióng 3 hồi trống (loại trống chầu) đầu năm. Tiếp đến, các lân, miếu trong xóm
tiếp tục làm lễ động thổ giống như ở đình làng và gióng trống cho dân làng biết.
Sau khi làm lễ động thổ xong, dân làng mới được ra đồng sản xuất hoặc cuốc
xới đất đai. Nếu làng chưa làm lễ động thổ mà người nào trong làng tự ý không tuân
theo quy định sẽ bị làng phạt vì quan niệm sẽ bị thần quở, chuyện làm ăn trong năm
đó của tất cả người dân trong làng gặp khó khăn, mất mùa.
Lễ cúng Thần nông: Ở Cù Lao Ré có hai miếu thờ Thần nông, thường xuyên tổ
chức cúng tế và thực hiện các nghi lễ cầu cho mùa màng tươi tốt. Hiện nay, chỉ còn lại một
ngôi miếu thờ Thần nông ở chân núi Thới Lới thuộc xã An Hải. Hằng năm, nhân dân trong
xã thường tổ chức cúng tế vào tháng 10 âm lịch. Tùy theo năm được hay mất mùa mà họ
có thể cúng trâu, bò, heo (tam sanh thượng) hoặc trầu, trà rượu, hoa quả (tam sanh hạ).
108
Lễ tá thổ (cúng chúa đất Ngu Man nương): Từ Ngu Man nương bắt nguồn từ
từ Uma là một vị thần trong tín ngưỡng Ấn Độ giáo của Chămpa. Nữ thần Uma là
hóa thân của thần Shiva, có quyền lực vô hạn trong cai quản đất đai. Người Việt thờ
để cầu mong sự bình an. Tục thờ cúng chúa đất Ngu Man nương ở Cù Lao Ré là
biểu hiện của sự giao thoa giữa văn hóa Việt và văn hóa Chămpa. Hiện nay, ở vùng
đất miền Trung Việt Nam, tục thờ cúng này đã mất dần. Thần Ngu Man nương
(Uma) ngự trị ở đình làng An Hải và xưa kia các hộ gia đình có thờ Ngu Man
nương ở một góc của gian thờ gia tiên. Hàng năm, vào tháng 3 âm lịch, dân làng
sắm lễ vật gồm một con gà, một con cá nướng và ba chum rượu. Lễ cúng diễn ra ở
đình làng do ông cả làng cúng và ở từng hộ gia đình do thầy phù thủy cúng.
Lễ hạ điền và thượng điền: Diễn ra vào tháng 2 âm lịch ở đình làng, do ông
cả làng đứng ra làm chủ tế. Lễ vật là gà hoặc heo. Trước khi cúng có chọn ngày tốt để
hành lễ nhằm cầu mong sự tốt lành. Lễ thượng điền diễn ra vào tháng 8 âm lịch, sau
khi mùa màng đã thu hoạch xong. Lễ tế diễn ra ở đình làng do ông cả làng làm chủ tế,
lý trưởng và hương bộ làm bồi tế. Lễ vật cúng gồm: heo, xôi, bánh tét để tạ hiến thần
linh. Mỗi gia đình đội một mâm xôi, trên có bánh tét và hoa quả đem đến cúng ở đình
làng. Sau khi ông cả làng cúng xong, người ta phân chia thịt cho mỗi gia đình, đặt
trong mâm lễ và mang về, phần thịt này tuy ít nhưng rất quan trọng đối với mỗi gia
đình. Ý nghĩa của lễ tế này nhằm cầu an sau khi mùa màng đã thu hoạch xong.
Lễ cầu mùa: Lễ cầu mùa thường diễn ra khi mùa màng có sâu bọ phá hoại,
có nguy cơ mất mùa, làng thường tổ chức lễ này với mong muốn mùa màng luôn
được tươi tốt, không bị sâu bọ phá hoại và được mùa. Người ta tổ chức lễ bắt đầu từ
miếu Thần nông và dùng một khóm thờ có bốn người khiêng và một thầy phù thủy
để tiến hành tổ chức buổi lễ. Sau khi tế lễ xong, thầy phù thủy đi đầu, theo sau là
bốn người khiêng khóm thờ và một số người có chức sắc trong làng. Thầy phù thủy
dẫn đoàn người đi khắp đồng núi, vừa đi vừa đọc lời khấn và làm phép để mời tất cả
các loại sâu bọ, côn trùng phá hoại mùa màng vào khóm thờ để rước về miếu Thần
nông. Tại miếu Thần nông, tiếp tục làm lễ để mời Thần trùng rời khỏi đảo bằng
những chiếc thuyền làm bằng thân cây chuối thả ra biển. Đến khi thu hoạch mùa
màng xong, họ lại làm lễ tế bằng bò, heo và tổ chức đua thuyền để tạ ơn.
109
Lễ tẩy trừ dịch bệnh: Còn gọi là “tống ôn dịch” diễn ra khi trong làng xuất
hiện dịch bệnh nhằm cầu mong sự bình an cho dân làng. Lễ tế diễn ra tại đình làng
do ông cả làng đứng tế. Lễ vật ngoài một con gà nấu chín, còn có trầu cau, rượu,
gạo, muối… Người ta còn làm một chiếc ghe lớn bằng thân cây chuối, trên ghe để
các lễ vật gồm: hai ống gạo, hai ống nước, hai ống muối, bánh khô, hoa quả và cắt
dán những hình nộm giả người. Lễ xong, ông cả làng dẫn đầu đoàn người đi “tống
ôn” và tiếp theo là bốn người khiêng chiếc tàu, theo sau là các chức sắc trong làng,
tiếp theo sau là đoàn người cầm cờ ngũ hành, trống, chiêng đi khắp làng để mời các
“ôn thần” dịch bệnh ra khỏi làng. Sau đó, mang ghe cùng lễ vật ra biển thả.
Các tín ngưỡng trong ngư nghiệp
Hoạt động lễ hội và cúng tế tại các đình, miếu, dinh, chùa dày đặc trong năm
cho thấy người dân Cù Lao Ré rất tin tưởng vào thần linh. Họ cầu mong các vị thần
phù hộ cho họ trong cuộc sống bình an. Điều này cũng khẳng định hệ thống các cơ sở
tín ngưỡng, tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống vật chất cũng như
tinh thần của cư dân Cù Lao Ré. Cù Lao Ré là hòn đảo có truyền thống khai thác cá và
các loài nhuyễn thể từ lâu đời. Từ thời tiền sơ sử, cư dân trên đảo sinh sống chủ yếu
bằng hoạt động khai thác biển. Tại các điểm di tích cư trú của người tiền sử, các nhà
khảo cổ tìm thấy rất nhiều xương cá và vỏ ốc. Đồng thời, trên đảo có rất nhiều lân cá
Ông đã phần nào phản ảnh truyền thống khai thác biển của người dân Cù Lao Ré.
Nghề khai thác thủy sản phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, luôn có nhiều
nguy hiểm rình rập, đặc biệt là đánh bắt xa bờ. Ngày nay, các tàu đánh cá của ngư
dân Cù Lao Ré ra đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để khai thác thủy sản. Với
mong muốn chuyến đi biển dài ngày gặp được nhiều cá, bình an và nhanh chóng trở
về, ngư dân Cù Lao Ré đã thờ các vị thần gắn với biển cả như: cá Ông Nam Hải,
Thủy thần, Âm hồn… và cúng tế rất long trọng trước và sau mùa khai thác thủy sản.
Tín ngưỡng thờ cá Ông: Tại Cù Lao Ré có 5 lân chính thờ cá Ông, gồm: 1 lân
của vạn An Phú và 4 lân của vạn Vĩnh Thạnh. Cá Voi bị chết dạt vào bờ biển, ngư
dân ở Cù Lao Ré gọi là “Ông đi tu”, khác với cách gọi của ngư dân vùng duyên hải
Quảng Ngãi gọi là “cá Ông lụy”. Cách mai táng và cúng tế cá Ông theo “Thọ Mai gia
lễ” như cúng tế một con người. Cá được chôn ở bờ biển từ 5 - 7 năm (loại cá lớn), từ
2 - 3 năm (loại cá nhỏ), sau đó cải táng lấy cốt đưa vào quan quách và lập lân thờ.
110
Người phát hiện cá Ông chết đầu tiên gọi là trưởng tử. Trong lễ tế bịt
khăn đỏ, để tang trong 24 tháng. Tuy nhiên, lễ tế cá Ông thuộc nhiệm vụ của
chủ vạn (chủ tế) còn trưởng tử và trùm vạn làm nhiệm vụ bồi tế. Tế cá Ông là
nhiệm vụ chung của hai vạn Vĩnh Thạnh và An Phú, chi phí cho lễ tế do ngư
dân trong vạn đóng góp.
Tín ngưỡng thờ Thủy thần: Các lân thờ Thủy thần được lập ở hòn Bé (nay là
xã An Bình) và thôn Đồng Hộ (xã An Hải) do chủ lân đứng ra tế tự. Vạn cũng tham
gia dự lễ tế và đóng góp. Thực tế ở Cù Lao Ré, tại hai điểm thờ Thủy thần trên, việc
cúng tế đều do ngư dân làm nghề khai thác các sản vật biển ở các bãi gành, vùng
biển hay đánh cá xung quanh đảo bằng các loại thuyền nhỏ đảm nhận.
Lễ tế Âm hồn: Hàng năm, vào ngày 13/3 âm lịch, vào tiết Thanh minh, vạn
làm lễ tế ở lân Âm hồn, nơi thờ các thuyền nhân tử nạn trên biển.
Lễ “ra mắt”: Là nghi lễ liên quan đến nghề đánh bắt hải sản của dân vạn chài
ở Cù Lao Ré. Trong 3 ngày tết, các chủ lái thuyền sắm lễ vật gồm: trầu cau, rượu,
hoa quả và một con gà trống nấu chín mang đến dinh vạn của xóm để nhờ chủ lân tế
thần linh, vừa để tạ ơn vừa cầu mong năm mới đánh bắt được nhiều cá, mực. Đặc
biệt, lễ “ra mắt” còn nhằm để đoán xem sự may mắn hay rủi ro trong mùa đánh bắt
mới thông qua việc xem giò của con gà được làm vật tế. Ngoài ra, trong những ngày
tết, ở các dinh vạn của làng, đặc biệt là các lân thờ cá Ông, dân vạn chài trong làng
(chủ lái) đều phải đến các lân, miếu trong làng để “hầu” lễ và tạ ơn trên phù trợ cho
ghe thuyền năm qua bình an và cầu cho năm mới làm ăn được mùa.
Lễ xuống nghề: Đây là nghi lễ quan trọng nhất trong năm của ngư dân Cù
Lao Ré, bởi lẽ nó là nghi lễ mở đầu cho một năm đánh bắt hải sản và sự may mắn
hay rủi ro của hoạt động khai thác biển của ngư dân trong chu kỳ từ tháng 2 đến
tháng 8, 9 (âm lịch). Các tín ngưỡng nghề cũng diễn ra trong chu kỳ này. Bắt đầu từ
ngày mùng 1 tháng 2 (âm lịch), ông chủ vạn và trùm vạn làm lễ cáo ở từng lân thờ,
sau đó về lân Chánh để làm lễ tế gọi là lễ xuống nghề. Các hộ ngư dân mời thầy phù
thủy làm lễ trấn yểm, tẩy uế cho ghe của mình. Việc cúng tế còn được tổ chức ở
ngoài khơi, nơi ngư dân đánh cá. Tại các lân, ngư dân cáo tế với câu cầu nguyện:
“thuyền con lái bạn vững vàng, tài lợi phân đa, chung hoàn mùa vụ, con cung trần
tạ lễ”. Vạn chài chọn trong số các ghe của làng một chiếc mà trong năm đó đánh bắt
111
được nhiều hải sản và chủ ghe là người lớn tuổi, đức độ, có uy tín trong nghề đi
biển, giong buồm chạy ra biển đầu tiên. Tiếp theo, lần lượt các ghe khác sẽ theo thứ
tự sắp xếp nhổ neo, giong buồm đi theo sau. Đoàn thuyền nối đuôi nhau tiến ra
biển, sau đó, quay trở lại địa điểm xuất phát, từ đó các ghe thuyền trong làng mới
bắt đầu đi đánh bắt hải sản. Theo quan niệm của ngư dân, ghe đánh cá ra khơi phải
chọn ngày chẵn (trừ ngày mùng 8), kiêng kỵ ngày lẻ.
Lễ lên nghề: Khi xong mùa cá, đến ngày 26 tháng 8 (âm lịch), vạn tổ chức lễ
tế lên nghề. Trước khi tiến hành lễ tế, ông chủ vạn và trùm vạn đi cáo lễ ở các lân
rồi quay về lân Chánh làm lễ tế chính thức. Lễ tế được tổ chức rất linh đình, lễ vật
để dâng tạ thần gồm: 7 con gà và 2 con heo. Định kỳ cứ 3 năm 1 lần (vào các năm
Dần, Ngọ, Tuất), sau lễ tế thường tổ chức hát bội với mục đích tạ thần và cầu mùa.
4.2.3. Một số lễ hội tiêu biểu
4.2.3.1. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
Trong hệ thống các di tích trên Cù Lao Ré tồn tại hàng loạt các di tích lịch sử
liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như các cá nhân thuộc đội Hoàng
Sa. Những di tích này chủ yếu tập trung ở phường An Vĩnh xưa (nay là xã An Vĩnh,
huyện Lý Sơn). Từ khảo sát, có thể kể ra các cụm di tích như sau:
- Âm Linh tự: di tích này nằm ở xã An Vĩnh, là nơi thờ chung các viên lính
trong đội Hoàng Sa đi thực hiện nhiệm vụ hi sinh và các vị thần khác. Đây chính là
một trong những địa điểm quan trọng đặc biệt để tiến hành nghi lễ Khao lề Thế lính;
- Mộ chiêu hồn của Cai đội Phạm Quang Ảnh nằm ở thôn Đông (xã An Vĩnh);
- Nhà thờ họ Phạm Quang: Tộc họ này có nhiều người đi lính Hoàng Sa và
đảm nhận các chức vụ quan trọng trong đội Thủy quân dưới triều Nguyễn;
- Miếu ông Thắm: miếu này thờ Võ Văn Khiết. Nhân dân trong xã An Vĩnh
xem ông như là thành Hoàng.
- Nhà thờ họ Võ ở thôn Tây (xã An Vĩnh). Dòng họ này cũng có nhiều người
tham gia đội Hoàng Sa.
- Đình làng An Vĩnh: là nơi những người lính trong đội Hoàng Sa của Cù
Lao Ré đi nhận nhiệm vụ đến tế tự trước khi xuất hành cũng như sau khi trở về [84,
tr. 255 – 256];
112
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa tức là lễ cúng cầu an cho những người lính
Hoàng Sa trước khi họ lên thuyền ra biển. Sau này, khi không còn đội Hoàng Sa, các
tộc họ trên đảo có người đi lính Hoàng Sa không trở về đã gắn lễ cúng với giỗ họ
(cúng việc lề) nên gọi là: Khao lề thế lính Hoàng Sa. Theo ghi chép trong tộc phả của
các dòng họ có người đi lính Hoàng Sa thì rất nhiều người lính ra đi không trở lại. Do
vậy, để cho người lính yên tâm ra đi, triều đình tổ chức lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
trước khi họ lên thuyền ra đảo. Theo truyền thuyết dân gian cho rằng: oan hồn của
những người lính đã chết trên biển hiển linh đòi triều đình phải cúng thế lính. Tộc
trưởng (hay chủ nhà) sẽ là người chủ bái khi hành lễ. Trưởng các chi phái sẽ là bồi tế.
Nhưng cả tộc phải chuẩn bị mọi thứ lễ vật, phân công công việc cho các thành viên
trong từng chi phái, từng gia đình trước đó nhiều ngày. Kinh phí thực hiện lễ tế từ
nguồn đất hương hỏa, hoặc các nguồn lợi từ ghe thuyền của ông bà để lại cho con
cháu sử dụng. Ngày nay, các tộc họ phải quyên góp kinh phí từ các gia đình.
Trong lễ tế phải có sự hiện diện của pháp sư, ông ta đội mũ tam sơn, khăn ấn,
áo dài là người điều hành lễ tế. Pháp sư là người có vai trò quan trọng trong lễ tế;
ông chuẩn bị thuyền lễ cúng, cờ, linh vị và các thuyền nhân bằng bột gạo hoặc bằng
rơm rạ (ngày nay những hình nhân được thay bằng giấy điều). Thuyền lễ là một
chiếc ghe bầu giả, đáy ghe làm bằng bè chuối, thân ghe sử dụng tre để làm khung
sau đó cắt giấy điều dán kín. Về hình thức, đây là chiếc ghe bầu hoàn chỉnh như ghe
thật, cũng có nhiều khoang, buồng lái, cột buồm, dây buồm, mũi và đuôi ghe. Trên
chiếc ghe này, người ta cắm một lá cờ ngũ hành làm bằng giấy điều và 5 lá cờ đuôi
nheo theo 5 màu (ngũ sắc). Ở phần khoang lái, người ta cắt bốn hình nhân bằng
giấy điều (trước kia hình nhân độn rơm) đặt ở bốn góc của chiếc ghe. Linh vị có
danh tánh người trong tộc họ đã bị tử nạn vì đi lính Hoàng Sa, có bao nhiêu người
tử nạn là có bấy nhiêu linh vị. Linh vị được dán lên bìa cứng, có nẹp gỗ hoặc tre
phía sau hoặc được cắm trên đài cây chuối (cắt theo chiều ngang thân chuối). Người
ta đặt các linh vị này trên đàn cúng. Phía trước mỗi linh vị có một cây nến thắp
sáng. Lễ cúng tế đã được bắt đầu từ ngày 17 và diễn ra trong nhà, kèm theo lễ vật có
trầu rượu, hoa quả. Chiều 19, chiêng, trống gióng lên báo hiệu cho bà con tộc họ
đến để làm lễ yết. Sau đó, người ta mổ heo, gà. Đến giờ Tý, vào giờ chuyển ngày, lễ
tế chính phần nhập yết diễn ra và kéo dài hàng vài tiếng đồng hồ sau đó.
113
Ngày 20 là ngày lễ tế chính, người ta thiết bàn ngoài sân. Trên bàn có các lễ
vật như sau: trầu, rượu, giấy vàng, 1 con gà, 1 con cá nướng, 1 con cua, 1 món gỏi
cá nhám và thịt heo, xôi, chè. Ngoài ra, trên đàn còn có muối, gạo, củi, mắm, nồi
niêu… là những thứ mà lính Hoàng Sa phải mang theo trên thuyền (và những thứ
mà người đi làm biển phải mang theo). Trên bàn cúng đặt các linh vị, thuyền lễ và
các hình nhân. Đồ hiến lễ được đặt vào trong thuyền các đồ lễ như: vàng mã, muối,
gạo, nếp nổ, chè xôi, gỏi cá nhám, cua, cá nướng, đầu, chân, tiết, lòng gà là những
thứ được chia ra trên đàn cúng và nhang đèn. Trong lễ tế, chiếc ghe bầu giả được
đặt bên tả cỗ bàn cúng, hai bên có trống, chiêng và hai hàng cờ ngũ hành đuôi nheo.
Tất cả lễ cúng diễn ra ở sân trước nhà.
Diễn trình của lễ như sau: đầu tiên vị trưởng tộc cáo tế tổ tiên ở trong nhà,
sau đó bái lạy cổ bàn cúng ngoài sân. Lễ vật hiến tế trong nhà cho ông bà, tổ tiên và
các thần linh độ mạng (nhà thờ họ) có heo, gà và những thứ xanh tươi khác, tùy
điều kiện và theo các bước từ: sơ hiến, á hiến và chung hiến. Pháp sư không tham
dự lễ này. Lễ hiến ngoài sân do thầy phù thủy cúng tế và làm các nghi thức bùa
phép trước bàn thờ, pháp sư khấn cầu bà Thủy Long cùng các Thủy thần trả các linh
hồn người chết về cho tổ tiên, “gửi tên tuổi và linh hồn” (người sống) vào hình nhân
(thế mạng) nhằm cầu mong sự bình an cho người ra đi.
Trong lễ Khao lề thế lính, pháp sư làm phép, tiếp đó, ông trưởng tộc đọc văn
tế cúng, có nhạc bát âm xướng tấu và có sự hiện diện của các vị chức sắc trong làng.
Kết thúc lễ tế, pháp sư đặt các hình nhân vào ghe bầu và rước ra bến. Tại đây, sau
khi pháp sư vái tạ bốn phương, chiếc ghe được đem thả xuống nước, một người dân
chài dìu ghe ra khơi để ghe trôi về biển Đông [102, tr. 104 – 106]. Như vậy, sinh
mạng và tàu thuyền của những người lính trong đội Hoàng Sa đã được hiến tế cho
các thần linh và họ yên tâm ra đi. Ngày xưa, theo trí nhớ của những người cao tuổi,
người đi lính Hoàng Sa sẽ đứng hầu thần suốt buổi tế lễ.
Sau nhiều thế kỷ, cho dù Nhà nước không còn trực tiếp chủ trì nhưng lễ
Khao lề thế lính Hoàng Sa vẫn được các gia đình, dòng tộc ở Lý Sơn tổ chức hàng
năm và trở thành một lễ hội dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện tấm
lòng tri ân của người dân đất đảo đối với những người lính đã hy sinh vì chủ quyền
của Tổ quốc. Đây cũng là dịp các bậc cao nhân trên đất đảo kể lại cho con cháu
114
nhiều câu chuyện về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, chuyện về những chuyến hải trình
đầy gian khổ, nhưng cũng rất đáng tự hào, chuyện về những gương sáng vì nước
vong thân của các vị Cai đội Hoàng Sa: Võ Văn Khiết, Phạm Quang Ảnh, Phạm
Hữu Nhật,… Những câu chuyện ấy khắc sâu vào tâm khảm các thế hệ người Lý
Sơn, người Việt Nam rằng: Hoàng Sa, Trường Sa mãi mãi là một phần máu thịt
thiêng liêng của Tổ quốc.
4.2.3.2. Hội đua thuyền
Hàng năm đến ngày mùng 4 tết, sau lễ tế đình là hội đua thuyền tại đình làng
để tri ân các vị thần linh phù hộ cho dân làng bình an, mùa màng tươi tốt. Đồng
thời, tưởng nhớ các vị tiền hiền đã có công khai hoang định cư xây dựng làng xóm
trên đảo cho con cháu hôm nay và cũng là dịp rèn luyện, thi thố tài năng điều khiển
thuyền trên biển của các chàng trai trên đảo.
Cù Lao Ré có 2 xã, mỗi xã có 4 thuyền đua, mỗi thuyền đua được mang tên
một con vật trong tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng) và được bàn tay tài hoa của người
thợ trên đảo chạm khắc đầu, đuôi theo biểu tượng của con vật hết sức sinh động làm
cho người xem cảm nhận khi thuyền đang đua giống như những con vật tứ linh đang
lướt nhẹ trên sóng biển bập bềnh. Các thuyền đua được đặt ở lân, miếu để thờ cúng.
Ở xã An Vĩnh, thuyền Long thờ ở lân Hòa Lân, thuyền Phụng thờ tại lân Cồn
(lân Tân Thành), thuyền Lân thờ tại dinh Chăm, thuyền Quy thờ tại lân Nghĩa Tự. Ở
xã An Hải, thuyền Long thờ tại lân Cồn, thuyền Lân ở Trung Hòa, thuyền Quy ở
Trung Yên và thuyền Phụng ở dinh Tam Tòa.
Thuyền đua dài từ 7 - 8m, có dáng thon nhẹ và đã được người thợ đóng
thuyền tính toán rất kĩ lưỡng sao cho khi đua, thuyền lướt được nhanh để giành
chiến thắng, đây cũng là yếu tố quyết định sự thắng bại của cuộc đua. Thuyền đua
được nhân dân góp tiền thuê thợ đóng và bảo quản cẩn thận tại dinh làng, chỉ khi
nào có hội mới làm lễ hạ thủy. Trước khi mở hội đua thuyền, nhân dân các làng đều
có sự chuẩn bị chu đáo và tuyển chọn 15 - 20 chàng trai lực lưỡng, quen nghề sông
nước để thành lập đội đua. Đặc biệt là tuyển chọn người cầm chèo (tổng lái), vì
thuyền đua nhẹ nên dễ bị sóng đánh lật, vì vậy, người cầm chèo phải có kinh
nghiệm điều khiển để khi đua giữ thuyền luôn được thăng bằng, đi thẳng và vượt
qua những khó khăn trên đường đua để đưa thuyền về đích an toàn và chiến thắng.
115
Theo quan niệm của người xưa, sự thắng thua của từng thuyền đua trong
ngày hội thường gắn với thần linh. Họ cho rằng thuyền đua của xóm nào về đích
trước thì thần linh sẽ phù hộ cho xóm đó được nhiều may mắn. Do vậy, trước khi
đua, họ cúng lễ thuyền đua tại dinh làng để vừa xin phép thần linh cho hạ thủy
thuyền và mong thần linh phò trợ cho thuyền đua về đích trước.
Sau lễ tế đình, một hồi trống tựu vang lên báo hiệu cho các thuyền đua về vị trí
xuất phát, chuẩn bị cho cuộc so tài. Trong tiếng trống liên hồi giục giã, tiếng reo hò
của hàng ngàn người xem hội làm vang động cả một vùng sông nước, các thuyền đua
xé nước lao về phía trước và cố tranh về đích trước. Kết thúc cuộc đua (sau 4 vòng
đua) thuyền thắng về đích trước cũng như thuyền thua về đích sau đều được làng ban
thưởng vật phẩm, vui vẻ chia tay và hẹn cuộc đua tài ngày hôm sau. Cứ như thế cuộc
đua thuyền đầu năm kéo dài đến ngày mồng 8 tháng Giêng [100, tr. 83 – 84].
Hội đua thuyền là sinh hoạt văn hóa thể thao truyền thống hết sức sôi nổi của
nhân dân Lý Sơn trong những ngày đầu năm mới, tạo nên không khí phấn khởi vui
tươi cho nhân dân vui Tết và hấp dẫn mọi người dân trên đảo cũng như du khách
đến xem và cổ vũ.
4.2.3.3. Trò chơi Dồi bòng
Theo dân gian, trò chơi dồi bòng thường diễn ra vào ngày mùng 7 tháng
Giêng tại đình làng xã An Hải. Tham gia hội dồi bòng có các chàng trai của 4 xóm
trong xã, được đánh dấu bằng vôi: đen, trắng, xanh, đỏ trên trán của từng thành viên
trong đội để phân biệt đội xóm này với đội xóm khác.
Trò chơi được tổ chức tại sân đình. Sau khi ông cả làng làm lễ cúng xong (lễ
ra trò), đứng trên bục được xây trước đình (nhà trò) cầm quả bòng ném ra, các đội
sẽ tranh nhau quả bòng, nếu đội nào bắt được quả bòng sẽ cố giữ và cố gắng mang
quả bòng chạy nhanh về địa phận xóm mình. Trong lúc ấy, các đội khác sẽ cố chạy
theo và giành lại quả bòng, tạo nên sự tranh giành quyết liệt và không khí hò reo cổ
vũ của những người tham dự hội. Nếu đội nào giữ được quả bòng và mang về được
địa phận của xóm mình coi như thắng cuộc, được làng thưởng tiền. Nhưng quan
trọng hơn là năm mới xóm giành được quả bòng sẽ giành được may mắn theo quan
niệm của họ.
116
Như vậy, sau một thời gian dài từ những thập niên cuối thế kỷ XVI đến giữa
thế kỷ XIX, cư dân Cù Lao Ré một mặt phát triển kinh tế, hình thành tổ chức quản
lý xã hội riêng của mình mặt khác, xây dựng đời sống văn hóa phong phú và đa
dạng. Đời sống văn hóa của cư dân Việt trên Cù Lao Ré mang đậm chất hải đảo, kết
hợp các yếu tố văn hóa Việt truyền thống với văn hóa Chăm trên đảo. Điều này
được thể hiện khá rõ ràng trong việc kết hợp các vị thần của người Chăm như Thiên
Y A Na và Ngu Man Nương vào đình làng của cả hai phường An Hải và An Vĩnh
và các di tích văn hóa Chăm còn tồn tại trên Cù Lao Ré tồn tại cho đến ngày nay.
Tiểu kết chương 4
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, cư dân Cù Lao Ré đã hình thành đời
sống văn hóa phong phú và đa dạng đậm chất hải đảo. Các yếu tố văn hóa Việt hòa
cùng văn hóa Chăm cho thấy sự giao thoa tiếp biến văn hóa của cư dân Việt trong
quá trình Nam tiến mà Cù Lao Ré là một trong những điển hình của quá trình đó.
Trong đời sống của cư dân Cù Lao Ré còn hình thành một hệ thống giá trị
văn hóa gắn bó chặt chẽ với hoạt động nghề biển, đánh bắt hải sản trên Biển Đông.
Các di tích văn hóa lịch sử cũng như hệ thống lễ nghi quan trọng của cư dân Cù Lao
Ré đều liên quan đến biển. Điều này cho thấy, bên cạnh hoạt động kinh tế nông
nghiệp thì nghề đi biển là hoạt động kinh tế chính của hòn đảo này. Đây cũng là một
trong những bằng chứng cho thấy cư dân Cù Lao Ré, đặc biệt ở phường An Vĩnh rất
thạo nghề biển. Vì lẽ đó nhà nước phong kiến luôn áp dụng một chính sách quản lý
xã hội cũng như chế độ thuế khóa đặc biệt đối với hòn đảo này.
Đặc biệt, trong đời sống văn hóa của cư dân Cù Lao Ré cùng hệ thống di tích
văn hóa, lịch sử và lễ tết hội hè đa phần gắn liền với hoạt động của đội Hoàng Sa –
tổ chức thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thời phong kiến. Điều
này càng minh chứng rõ ràng, Cù Lao Ré là một phần quê hương của đội Hoàng Sa
dưới thời các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn. Bước sang triều Nguyễn, Cù Lao Ré
với vị trí trọng yếu của nó đã thự sự trở thành quê hương của những người lính đi
thực hiện nhiệm vụ ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
117
Chương 5
ĐỘI HOÀNG SA VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHỦ QUYỀN VIỆT NAM Ở
HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA – TRƯỜNG SA CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
5.1. Sự ra đời và hoạt động của đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn và Tây Sơn
5.1.1. Thời điểm ra đời và quê hương của đội Hoàng Sa
5.1.1.1. Thời điểm ra đời
Biển đảo từ rất sớm đã trở thành một trong những yếu tố tối quan trọng cấu
thành nên không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam. Cư dân duyên hải miền Trung
Việt Nam đã sớm chinh phục Biển Đông với truyền thống nghề biển truyền đời từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Trong đó, ngư dân Quảng Ngãi, đặc biệt là cư dân Cù
Lao Ré vốn nổi tiếng thành thạo nghề đi biển đã lấy hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa làm ngư trường truyền thống của mình. Ý thức sâu sắc về vị trí đặc biệt
quan trọng của biển, đảo đối với sự tồn vong của dân tộc nên từ rất sớm Nhà nước
phong kiến Việt Nam đã có chiến lược biển đảo nhằm khai chiếm và khẳng định
chủ quyền đối với các quần đảo giữa Biển Đông. Để biến các chủ trương đó thành
hành động thực tế, nhà nước đã lập ra đội Hoàng Sa là lực lượng chuyên trách việc
kiểm tra, kiểm soát bảo vệ và khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cù Lao Ré không chỉ là hòn đảo gần bờ nằm ở vị trí huyết mạch của tuyến
hải thương quốc tế Biển Đông quan trọng. Mà đặc biệt, Cù Lao Ré còn có đầy đủ
điều kiện cho hoạt động nghề biển như lương thực, thực phẩm và nước ngọt, sửa
đóng tàu thuyền thì cũng là địa phương có vị trí gần với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa nhất. Vì lẽ đó, đội Hoàng Sa được thành lập và hoạt động gắn bó chặt
chẽ với cư dân Cù Lao Ré cũng như đối với cư dân vùng cửa biển Sa Kỳ, mà cụ thể
ở đây là xã An Vĩnh – một trong hai xã gốc của cư dân Cù Lao Ré. Điều này giải
thích vì sao các tư liệu cổ của Việt Nam mỗi khi nhắc đến hoạt động của đội Hoàng
Sa đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến Cù Lao Ré hoặc những người con cụ thể
của hòn đảo này như “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình
Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré, (…); phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước
118
kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3
đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải” [17, tr. 150 - 151]. Không dừng ở đó, Lê
Quý Đôn còn cho biết rõ hơn “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người
xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ
ăn 6 tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy.
Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa,
hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ
sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm hột ốc vân rất nhiều”
[17, tr. 155]. Bộ chính sử Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do Quốc sử viện thời
Lê Trịnh tổ chức biên soạn, nối tiếp vào quyển XIX sách Đại Việt sử ký toàn thư,
trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép
của Lê Quý Đôn [72, tr. 234 – 235]. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính
sử của vương triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm
1844, nhân nói đến sự kiện tháng 7 năm 1754 “dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi
thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng
đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa [Nguyễn Phúc Khoát] sai viết thư [cám
ơn]” [75, tr. 164] đã mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải được tổ
chức từ thời “quốc sơ” [75, tr. 164], tức là từ thời các chúa Nguyễn đầu tiên, không
có gì khác với Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.
Trong tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo phần bản đồ
phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi, phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú
rõ “Trong biển có một bãi lưỡng sa gọi là bãi cát vàng, dài khoảng 400 dặm, rộng 30
dặm, đứng trơ giữa biển (…). Họ Nguyễn mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa
Nguyễn] đưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc” [4, tr. 26].
Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc nổi tiếng trụ trì ở chùa Trường
Thọ, tỉnh Quảng Đông là Thích Đại Sán sang Đàng Trong trên đường về nước đã mô tả
khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “Các Quốc vương thời trước [tức
các Chúa Nguyễn trước Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)] hàng năm sai thuyền đánh cá
đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào” [81, tr.
125]. Năm 1701, nghĩa là chỉ 15 năm sau bản đồ Đỗ Bá và 4-5 năm sau Hải ngoại kỷ
119
sự của Thích Đại Sán, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel
là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam” [166, tr. 7].
Theo các tài liệu của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây đều chép
khá cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa vào thời kỳ
đầu của các Chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII. Cùng với các ghi chép về việc thành
lập đội Hoàng Sa, các tư liệu đều đề cập đến Cù Lao Ré như một địa bàn trọng
yếu để tuyển lính tham gia vào hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền quốc gia
đối với quần đảo Hoàng Sa. Đây là nguồn tài liệu xác thực và có giá trị quan
trọng bậc nhất để nghiên cứu về đội Hoàng Sa cũng như về mối quan hệ của đội
Hoàng Sa với Cù Lao Ré.
Dựa vào một số tài liệu ghi chép về đội Hoàng Sa như Hải ngoại ký sự của
Thích Đại Sán, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn và Đại Nam thực lục của nhà
Nguyễn, Nguyễn Nhã đưa ra quan điểm cho rằng khả năng “Đội Hoàng Sa đã hoạt
động kể từ đời chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến hết thời kỳ
chúa Nguyễn” [64, tr. 21] hoặc “chúng ta có đủ cơ sở để kết luận đội Hoàng Sa ra
đời sớm nhất từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648), hay chắc chắn hơn là từ
thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687)” [67, tr. 41 – 42]
Tuy nhiên, tại nhà thờ họ Võ phường An Vĩnh44 còn giữ được tờ đơn đề ngày
15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 dưới vương triều Tây Sơn (1775) do Hà
Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội
Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế
Hương. Vào năm Tân Mùi (1631?), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu, được lập
hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người,
hàng năm thường nạp thuế bằng 10 thạch đồi mồi hải ba, 5 lượng quế hương. Đến
năm Quý Mão vâng lệnh truyền rằng: dân trong thuộc Hà Bạc ai có bằng son, đơn
son thì nạp thuế biệt nạp và mang theo sổ sách, thế là dân số phải bổ sung, dân
binh cũng bắt đầu. Đến đó quân nhân xã chúng tôi còn 23 người, phải bổ sung
người và chi tiền đi đường như trước, nên Cai đội mới đốc suất được công việc từ
44 Nay thuộc thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
đó đến nay. Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ” [91].
120
Nếu như ở thời các chúa Nguyễn, nguồn tư liệu hạn hẹp chỉ cho biết các
chúa Nguyễn lấy người ở xã An Vĩnh (gồm phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré) vào đội
Hoàng Sa ra khai thác Biển Đông và ở quần đảo Hoàng Sa thì thông qua tờ đơn của
phường An Vĩnh (Cù Lao Ré) năm 1775 của Cai hợp phường Cù Lao Ré là Hà Liễu
lại hé lộ cho biết những thông tin quý báu về khoảng thời gian thành lập đội Hoàng
Sa. Nếu tính từ thời điểm 1775 trở về trước, những năm Tân Mùi gần nhất là các
năm 1751, 1691. Ngay sau đó, tờ đơn lại nhắc đến “năm Quý Mão vâng lệnh”, năm
Quý Mão gần nhất là năm 1723. Từ đó có thể suy ra năm Tân Mùi nói ở tờ đơn này
chỉ có thể là năm 1691 hoặc trước đó là 1631. Điều này càng được khẳng định khi
tờ đơn lại nói đến “nguyên xã chúng tôi từ xưa có đội Hoàng Sa và Quế Hương”.
Chữ nguyên ở đây chắc phải là trước 1691 và 1631, có nghĩa là đội Hoàng Sa được
thành lập trong khoảng trước năm 1691 thậm chí có thể là trước năm 1631.
Nhìn vào những dữ kiện trên cho thấy, chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng
nghiệp giữa lúc nhu cầu chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông đặt ra ngày càng
bức thiết. Tuy nhiên cho đến hiện nay, chưa có tư liệu nào khả dĩ cho hay vào thời
kỳ Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) đã có đội Hoàng Sa. Mặc dù vậy, qua phân tích
những mốc lịch sử mà các tài liệu cổ cung cấp, cho thấy công việc thực thi chủ
quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ thật sự bắt đầu khi chúa
Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) lên nắm quyền. Các sự kiện có liên quan đến
hoạt động của đội Hoàng Sa xảy ra vào các năm 1634, 1631 hay trước 1631 một ít
năm, thì cũng đều nằm trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
Nguyễn Quang Ngọc hoàn toàn có lý khi nghiên cứu kỹ càng các tư liệu và
đã đi đến kết luận: “có đủ cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa xuất hiện lần đầu tiên
vào thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là
người đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên
các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa” [60, tr. 23].
Như vậy, sự ra đời của đội Hoàng Sa gắn liền với sự mở rộng lãnh thổ của
các chúa Nguyễn ở đầu thế kỷ XVII. Với ý chí và hành động, các đời chúa Nguyễn
đã quan tâm đến lực lượng quản lý biển đảo quốc gia và đội Hoàng Sa ra đời là
nhằm đáp ứng yêu cầu đất nước lúc bấy giờ.
121
5.1.1.2. Quê hương của đội Hoàng Sa
Đội Hoàng Sa qua ghi chép của Lê Quý Đôn và tất cả các nguồn tư liệu
chính thức và xác thực là được thành lập trên cơ sở tuyển chọn 70 dân đinh xã An
Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. An Vĩnh là một xã ở cửa biển Sa Kỳ (về
phía nam), nay là địa bàn thôn An Vĩnh, xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi. Xã An Vĩnh ở vào thời điểm chúa Nguyễn tuyển chọn dân đinh tổ chức ra đội
Hoàng Sa bao gồm hai khu vực cách xa nhau là làng (thôn) An Vĩnh ở cửa biển Sa
Kỳ trong đất liền và xóm (phường) An Vĩnh ở ngoài Cù Lao Ré.
Căn cứ vào tờ đơn của phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré xin tách ra khỏi xã An
Vĩnh cho biết, từ năm Quý Tỵ (1773) phường đã làm đơn xin được biệt lập với xã
An Vĩnh thành một đơn vị hành chính độc lập. Cũng ngay sau đó dân phường An
Vĩnh không vào thờ cúng tại chùa, đình, miếu của làng An Vĩnh trong đất liền nữa
mà đã lập ra đình, chùa, miếu ở Cù Lao Ré để thờ cúng riêng. Như thế, đến cuối thế
kỷ XVIII, phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré đã tách hẳn ra khỏi làng gốc thành một
làng riêng và đang từng bước tiến tới một đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà
nước, nhưng chưa được nhà nước chấp thuận. Vì chưa được chấp thuận là đơn vị
hành chính riêng cho nên trong lá đơn đề năm 1804 dân phường An Vĩnh vẫn phải
xin cấp trên miễn cho các việc đắp đê trong đất liền và không ít những nghĩa vụ
khác giao chung cho xã An Vĩnh thực hiện. Ngày 17 tháng 2 năm Gia Long thứ 3
(1804) phường An Vĩnh mới chính thức được tách khỏi xã An Vĩnh trở thành một
đơn vị hành chính cấp cơ sở trực thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.
Vào trước thời điểm phường An Vĩnh được tách ra khỏi xã An Vĩnh, những
dân đinh xã An Vĩnh được tuyển vào đội Hoàng Sa mặc nhiên phải bao gồm cả dân
đinh làng An Vĩnh trong đất liền và phường An Vĩnh ngoài hải đảo. Công việc tổ
chức nhân lực, chuẩn bị hậu cần và mọi mặt cho các chuyến đi ra Hoàng Sa, Trường
Sa đều do Xã trưởng và bộ máy chức dịch phân cho thôn An Vĩnh trong đất liền và
phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré cùng thực hiện. Vì đội Hoàng Sa là một tổ chức
thống nhất, hoạt động trong một môi trường cực kỳ khó khăn, nguy hiểm cho nên
sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa hai bộ phận trong đất liền và ngoài hải đảo trở
thành nguyên tắc sống còn. Vì thế, thời kỳ đầu thành lập đội Hoàng Sa gồm 5
122
thuyền, 70 suất thì dường như chưa có sự phân biệt giữa hai bộ phận này. Đến
những thập kỷ cuối thế kỷ XVII, số lượng thuyền của đội Hoàng Sa đã tăng lên đến
18 chiếc thì chắc là đã có sự phân công, nhưng không có tư liệu để đoán định tỷ lệ.
Địa điểm đội Hoàng Sa xuất phát tiến ra biển khơi có thể ở cả Cù Lao Ré và
cửa biển Sa Kỳ, song cửa biển Sa Kỳ là bến chính thức theo quy định của nhà nước.
Phú Nhuận hầu vào đầu đời vua Gia Long vừa là Cai thủ cửa biển Sa Kỳ vừa kiêm
chức Cai cơ Thủ ngự quản đội Hoàng Sa. Tại xã An Vĩnh trong đất liền hiện nay,
ngay bên cửa biển Sa Kỳ ngày nay vẫn còn di tích Vườn Đồn là địa điểm tập kết,
huấn luyện, trang bị tàu thuyền, chuẩn bị hậu cần cho các chuyến đi ra Hoàng Sa,
Trường Sa. Cách Vườn Đồn khoảng 200 mét là miếu Hoàng Sa45 [70, tr. 12].
Như vậy, không thể quan niệm một cách giản đơn như một số tác giả trước
đây rằng 70 suất đinh cung cấp cho đội Hoàng Sa hoàn toàn chỉ là người phường
An Vĩnh ở Cù Lao Ré. Thậm chí có thể nghĩ rằng trong số 70 suất đinh của thời kỳ
đầu thành lập đội Hoàng Sa, do dân số phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré chưa đông,
nên dân làng An Vĩnh trong đất liền phải gánh vác số lượng nhiều hơn. Khi dân
phường An Vĩnh đông lên, trách nhiệm dần được chia đều cho cả hai nơi. Theo
sách Quảng Thuận đạo sử tập của Nguyễn Huy Quýnh được hoàn thành trong
khoảng thời gian ông làm quan ở vùng Thuận Quảng (1775-1785) thì trên Cù Lao
Ré khi đó có đội Hoàng Sa Nhị “hàng năm đi 8 chiếc thuyền ra biển nhặt của quý
về nộp tại Phú Xuân” [59, tr. 7]. Tư liệu này cho phép đoán định là từ sau năm
1773, khi phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré đã trở thành một làng riêng (có đình,
chùa, đền, miếu riêng), thì đội Hoàng Sa cũng được phép tách ra thành hai bộ phận
tương đối độc lập là đội Hoàng Sa Nhất ở cửa biển Sa Kỳ gồm 10 thuyền và đội
Hoàng Sa Nhị ở Cù Lao Ré gồm 8 thuyền. Đến năm 1804, khi phường An Vĩnh đã
được nhà nước công nhận là một đơn vị hành chính cấp cơ sở và không còn phụ
thuộc vào xã An Vĩnh trong cửa biển Sa Kỳ nữa thì phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré
45 Miếu Hoàng Sa do chiến tranh đã bị phá hủy theo thời gian chỉ còn lại phế tích, bộ xương cá voi xưa – thần linh của miếu vẫn được nhân dân địa phương giữ lại và chuyển sang thờ tại Lăng Chánh ngay cạnh Miếu. Miếu Hoàng Sa chính là nơi những người trong đội Hoàng Sa làm lễ tế thần linh, cầu mong Ông Nam Hải phù giúp cho họ vượt qua được khó khăn, hoạn nạn trong những tháng ngày lênh đênh giữa biển khơi.
là nơi cung cấp chính nhân lực cho đội Hoàng Sa.
123
Đến đầu thế kỷ XIX, cửa biển Sa Kỳ vẫn còn là bến chính cho các thuyền bè
ra Hoàng Sa, Trường Sa và làng An Vĩnh vẫn tiếp tục cử người tham gia đội Hoàng
Sa. Qua văn khế bán đoạn một phần đất của xã An Vĩnh lập năm Gia Long thứ 15
(1816) [133] nói việc xã An Vĩnh được lệnh tập hợp đội Hoàng Sa đến Kinh đô Huế
nhận tờ sai để thi hành công vụ thì có thể biết rằng dân xã An Vĩnh vẫn tham gia đội
Hoàng Sa cho đến những ngày cuối cùng của đội này. Mặc dù vậy, thực tế là vai trò
chính đã chuyển sang cho phường An Vĩnh từ những năm đầu thế kỷ XIX.
Điều đáng quan tâm nữa là người tham gia đội Hoàng Sa có bao gồm dân đinh
của xã An Hải (nay là xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, phía bờ bắc cửa biển Sa Kỳ)
và phường An Hải ở Cù Lao Ré hay không?. Các bộ sử quan trọng nhất chép về đội
Hoàng Sa không một lần nhắc đến việc dân đinh của các địa phương trên tham gia
vào công việc này. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Thông cho biết là ở buổi
“quốc sơ” nước ta “thường kén những người đinh tráng của hai hộ An Hải và An
Vĩnh mà đặt đội Hoàng Sa để đi kiếm lượm những vật ngoài biển...” [88, tr. 137].
Thực tế khảo sát ở huyện đảo Lý Sơn cũng như ở các làng An Vĩnh (Tịnh
Kỳ, Sơn Tịnh), An Hải (Bình Châu, Bình Sơn) đã xác nhận ghi chép của Nguyễn
Thông là có cơ sở. Hai làng An Vĩnh, An Hải ở hai bên bờ bắc, bờ nam cửa biển Sa
Kỳ vốn có quan hệ mật thiết với nhau và từ thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XVII đã
cùng nhau tiến ra Cù Lao Ré. Lớp cư dân xã An Vĩnh và An Hải ra khai phá Cù Lao
Ré sau này lập ra phường An Hải và phường An Vĩnh là khu vực xã An Hải và xã
An Vĩnh của huyện Lý Sơn hiện nay.
Gia phả dòng họ Vũ cho biết “Dân ở Lý Sơn ra Hoàng Sa, Trường Sa 4
tháng 1 lần nhưng chuẩn bị lương thực và các thứ nước nôi thuốc men cho trọn 6
tháng. Nếu đi về bị thua thiệt thì ông Lý ở An Vĩnh đất liền kêu miễn dịch với quan
trên” [87, tr. 241]. Từ tư liệu này cho thấy, việc mộ dân đi lính cho đội Hoàng Sa dưới
thời các chúa Nguyễn không chỉ có dân xã An Vĩnh trong đất liền mà còn có dân Cù
Lao Ré. Cũng gia phả này còn cho biết “từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1748) thì
nhà Nguyễn cử người ra chỉ đạo trực tiếp khai thác hai quần đảo” [87, tr. 241] và “từ
năm 1750 chúa Nguyễn đã cho Nguyễn Đức Trường đem quân đóng ở Trường Sa và
Nguyễn Du Vũ đem 50 người đóng ở Hoàng Sa để quản lý đảo và bảo vệ cho dân.
124
Thường thì từ tháng 10 âm lịch, ngoài đảo đem 10 thuyền về Lý Sơn và chuyển về kinh
những sản vật mà công khố nhà nước quản lý” [87, tr. 242]. Từ những tư liệu trên cho
thấy, việc tuyển quân vào đội Hoàng Sa chủ yếu là ở xã An Vĩnh trong đất liền và
phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré. Hay nói cách khác, Cù Lao Ré và xã An Vĩnh trong
đất liền chính là quê hương của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn.
Tuy đã là các phường riêng, nhưng cho đến trước năm 1804, các phường An
Vĩnh, An Hải của Cù Lao Ré vẫn còn phụ thuộc vào đất liền và chịu chung nghĩa vụ
với các làng quê gốc ở vùng cửa biển Sa Kỳ. Tuy trên đảo, ranh giới hai phường An
Vĩnh, An Hải là khá rõ ràng, nhưng trong thực tế dân cư hai phường đều có mối quan
hệ gắn bó với nhau. Họ Phạm Văn ở phường An Hải có cùng nguồn gốc với họ Phạm
Văn ở phường An Vĩnh. Gia phả và tài liệu truyền miệng cho hay, cụ tổ dòng họ là
Phạm Văn Nhiên vốn là người đi lính Hoàng Sa trở về và chuyển sang lập nghiệp ở An
Hải. Con cháu cụ theo truyền thống của dòng họ vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa. Họ Mai ở
An Hải lại không phải từ vùng cửa biển Sa Kỳ ra mà từ vùng Gia Định đến phường An
Hải vào cuối đời Lê Mạt. Khoảng thời vua Gia Long (1802-1820), trong họ có nhiều
người tham gia đội Hoàng Sa như Mai Văn Chang, Mai Văn Lòn...
Tuy thế, trong thực tế, người tham gia đội Hoàng Sa trước sau vẫn chủ yếu
là người xã An Vĩnh trong đất liền và phường An Vĩnh ngoài hải đảo. Và ngay cả
đến lúc đã chia tách thành các đơn vị hành chính độc lập, cư dân An Vĩnh trong đất
liền và trên Cù Lao Ré vẫn gắn bó máu thịt với nhau về quan hệ dòng tộc và trong
sứ mệnh thiêng liêng là bảo vệ chủ quyền biển đảo46.
5.1.2. Cư dân Cù Lao Ré trong đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn
Vào cuối thế kỷ XVII, Đỗ Bá Công Đạo vẽ tập bản đồ “Thiên Nam tứ chí lộ
đồ thư”. Trong tập bản đồ này đã vẽ về cửa biển Sa Kỳ cùng đảo Cù Lao Ré mà ông
46 Dòng họ Phạm Quang là một ví dụ tiêu biểu. Theo gia phả lập ngày 16 tháng 6 năm Gia Long thứ 5 (1806) thì thủy tổ là Phạm Quang Minh cùng hai con là Phạm Quang Nhật và Phạm Quang Nguyệt từ làng An Vĩnh trong cửa biển Sa Kỳ dời ra sinh sống ở phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré. Đến đời Phạm Quang Ảnh, Cai đội Hoàng Sa rất nổi tiếng ở thập kỷ thứ hai thế kỷ XIX, dòng họ Phạm Quang đã là một họ lớn ở Cù Lao Ré. Thế nhưng không chỉ thời kỳ đó, mà còn mãi về sau dòng họ Phạm Quang vẫn tập trung về nhà thờ họ gốc ở làng An Vĩnh, trong khi đó nhà thờ Phạm Quang Ảnh ở Cù Lao Ré chỉ là nhà thờ nhỏ của một chi phái. Trên khám thờ ở nhà thờ chính dòng họ Phạm Quang trong đất liền vẫn thờ bài vị của Phạm Quang ảnh. Tiếc là ngôi nhà thờ này hiện nay không còn nữa, nhưng nó vẫn còn được nhiều người trong dòng họ ghi nhớ, lưu truyền.
gọi là “núi Du Trường” đồng thời mô tả về quần đảo Hoàng Sa như sau “Giữa biển
125
có một bãi lưỡng sa gọi là Bãi Cát Vàng, dài khoảng 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng
trơ giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh, mối khi có gió Tây Nam thì
các thuyền buôn lại trôi dạt vào đây. Khi gió Đông Bắc thì thuyền cũng trôi dạt vào
đây. Tất cả đều chết đói. Của cải, đồ vật để lại nơi này. Họ Nguyễn mỗi năm vào
thàng cuối Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đây lấy của cải, được rất nhiều vàng,
bạc, tiền tệ và súng đạn” [4, tr. 26]. Năm 1701, các giáo sĩ trên tàu L’Amphitrite
sau khi thoát hiểm ở quần đảo Hoàng Sa cũng ghi nhận “Tác giả dong buồm đi với
gió thuận và chẳng bao lâu đến ngang tầm Hoàng Sa. Hoàng Sa là một quần đảo
thuộc vương quốc Đàng Trong. Đó là một khối đá khủng khiếp dài hơn trăm dặm,
là nguyên nhân của những vụ đắm tàu từ trước đến nay” [86, tr. 19].
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữ vị trí chiến lược trọng yếu ở Biển
Đông, là nơi kiểm soát đường hàng hải quốc tế từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương và ngược lại. Đây là nơi có thể chi phối an ninh thềm lục địa và đất liền của
các nước trong khu vực. Trong quá trình mở đất Đàng Trong, các chúa Nguyễn một
mặt đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang mở rộng lãnh thổ một mặt chú trọng phát triển
kinh tế biển và mậu dịch đối ngoại. Trong kinh tế biển, trước hết các chúa Nguyễn
đã đẩy mạnh khai thác nguồn lợi yến sào, hải sản ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Công việc khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được giao cho đội Hoàng
Sa. Lê Quý Đôn đã khảo tả khá cụ thể về hoạt động chính của đội Hoàng Sa như
sau: “cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi
bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy (…). Đến kỳ
tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới
cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về” [17, tr.
155]. Từ đó cho thấy, đội Hoàng Sa được Chúa Nguyễn tổ chức ra không chỉ để thu
lượm các hóa vật và hải vật trên các vùng quần đảo xa xôi ở giữa Biển Đông. Pierre
Poivre, một thương nhân người Pháp trong chuyến đi đến Đàng Trong năm 1749-
1750 cũng cho biết là ông đã từng nghe chuyện nhà vua (Chúa Nguyễn) hàng năm
đưa vài chiếc thuyền ra Hoàng Sa để tìm kiếm các sản vật thiên nhiên cho bộ sưu
tập của mình [158, tr. 7]. Hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền của đội Hoàng
Sa trong 6 tháng ở quần đảo Hoàng Sa đều “lượm được nhiều ít không nhất định,
126
cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của Cai đội cũ là Thuyên Đức hầu biên
rằng: Năm Nhâm Ngọ (1762) lượm được 80 hốt bạc; năm Giáp Thân (1764) được
5.100 cân thiếc; năm ất Dậu (1765) được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu (1769) đến
năm Quý Tỵ (1773), 5 năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có
năm được khối thiếc, bát sứ và 2 khẩu súng đồng mà thôi” [17, tr. 155]. Những con
số trên cho thấy, hiệu quả kinh tế của đội Hoàng Sa đem lại rất thấp và có thể khẳng
định rằng, chúa Nguyễn lập ra đội Hoàng Sa không phải vì mục đích kinh tế. Đội
Hoàng Sa được lập ra chủ yếu là nhằm mục đích khẳng định chủ quyền quốc gia đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Biển Đông.
Những dân binh tham gia đội Hoàng Sa, theo quy định của nhà nước họ là
các “quân nhân” còn dân gian thì gọi là “lính Hoàng Sa”. Nhiệm vụ của họ là thực
hiện các nghĩa vụ nhà nước giao cho một cách chặt chẽ và chuẩn xác: Cứ tháng 2
nhận giấy sai đi và tháng 8 về đất liền phải đưa thuyền thẳng vào cửa Eo đến thành
Phú Xuân trình báo, nộp sản phẩm và lĩnh bằng, tức là được triều đình xác nhận là
đã hoàn thành nhiệm vụ của năm.
Điều này cho thấy, đội Hoàng Sa đã mang tính chất của một đơn vị quân đội
có kỷ luật chặt chẽ. Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa lúc đầu theo nguyên tắc là
vùng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Sau một thời gian, nhận thấy đội Hoàng
Sa dù có cố gắng đến mấy thì cũng không thể nào bao quát hết được toàn bộ các
vùng biển đảo giữa Biển Đông, nên Chúa Nguyễn đã quyết định lập thêm đội Bắc
Hải. Sự kiện này đã được Lê Quý Đôn chép: “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải,
không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã
Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền
tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà
Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai
Cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của
quý ít khi lấy được” [17, tr.155]. Địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải tương đương
với khu vực quần đảo Trường Sa đến tận Côn Đảo. Mặc dù đội Bắc Hải được hoạt
động độc lập nhưng nó vẫn do Cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Sự kiện thành lập thêm
lực lượng quân tuần tra và khai thác ở quần đảo Trường Sa được các sử liệu chép
“đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải” là vì vậy.
127
Từ năm 1773, quân Tây Sơn đánh chiếm được Quy Nhơn rồi tiến lên phía
nam Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn (Quảng Ngãi) nơi có cửa biển Sa Kỳ và
Cù Lao Ré vốn là cái nôi của đội Hoàng Sa từ đầu thế kỷ XVII đã được thành lập để
khai thác Biển Đông. Do chiến tranh, hoạt động của đội Hoàng Sa ở thời điểm này
bị gián đoạn vài năm nhưng ngay sau đó lại được hoạt động trở lại dưới vương triều
Tây Sơn. Tờ đơn xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa của phường An Vĩnh Cù Lao Ré
đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) đã nói rất rõ: “Bây giờ
chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm thêm dân ngoại tịch,
được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các cù lao ngoài biển tìm
nhặt các hạng đồng, thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có
truyền báo xẩy chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm,
xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm nhặt bảo vật cùng thuế quan đem phụng
nạp, xin dốc lòng làm theo sở nguyện chẳng dám kêu ca” [91].
Ngay sau đó, vương triều Tây Sơn đã lập lại đội Hoàng Sa để tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ của nó là khai thác hóa vật ở quần đảo Hoàng Sa và bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên Biển Đông. Ngày 27 tháng 10 năm Thái Đức thứ 8 (1785), Võ
Văn Khiết được triều Tây Sơn chỉ thị “Cù lao Lý xứ, xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn,
phủ Hòa Nghĩa, Cai hợp Võ Văn Khiết47 hầu việc đã lâu. Nay thăng lên Cai hội Đội,
dẫn theo 2 đội Hoàng Sa và Quế Hương, theo lệ thường niên lãnh chỉ thị sai phái
vượt biển đến các cù lao ngoài biển tìm các vật báu như đồng khí, đồi mồi, các vật.
Thu lượm được bao nhiêu phải đem phụng nạp. Nếu công việc không siêng năng cần
mẫn, xử phạt theo quân luật” [35, tr. 27]. Ngay sau đó, vương triều Tây Sơn đã ra chỉ
47 Võ Văn Khiết là Cai đội của đội Hoàng Sa thời Tây Sơn năm 1786 sinh được các người con là Võ Văn Phú, Võ Văn Hùng, Võ Văn Thắm,… Con trai cả của Võ Văn Khiết là Võ Văn Phú được phong là Phú Nhuận hầu giữ chức Cai thủ cửa biển Sa Kỳ đồng thời kiêm Cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa dưới triều Nguyễn Gia Long. Con của Võ Văn Khiết là Võ Văn Hùng làm Trưởng đội dân phu trong lực lượng Thủy quân triều Nguyễn từ 1832 đến 1836. Theo Tông đồ gia phả dòng họ Võ do chính Võ Văn Khiết kê lập vào năm Gia Long thứ 5 (1806) và được sao lưu vào năm Gia Long thứ 11 (1812) hiện nay lưu tại nhà ông Võ Văn Út (thôn Tây xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn) thì cha của Võ Văn Khiết là Võ Văn Linh chứ không phải là Võ Văn Thắm như một số công trình đã dẫn. Đồng thời, Cai đội Võ Văn Khiết cũng không hi sinh ngoài biển Đông trong khi đảm nhận chức vụ Cai đội Hoàng Sa ở thời điểm này như một số công trình đã viết vì đến năm 1803, ông còn được bầu làm Cai đình An Vĩnh. Đồng thời, tên của Võ Văn Khiết cũng xuất hiện trong cả tờ đơn xin tách phường An Vĩnh ra khỏi xã An Vĩnh trong đất liền năm 1804 và đến tận năm 1806 ông còn lập tông đồ gia phả như văn bản chữ hán lưu lại đến ngày nay.
thị cho Thái phó tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng công truyền kế hoạch
128
cho Cai đội Võ Văn Khiết như sau “Thái phó Tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng
tướng công truyền kế hoạch: Sai Hội đức hầu cai đội Hoàng Sa luôn xem xét, đôn
đốc suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển
thẳng đến Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng bạc đồng và
các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, đồn đột đều chở về kinh, tập trung nộp
theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc sinh
sự với dân làm muối, làm cá, đều sẽ có trị tội” [35, tr. 28].
Như vậy đến vương triều Tây Sơn, đội Hoàng Sa được tái lập lại và tiếp tục
hoạt động như dưới thời các chúa Nguyễn. Mặc dù vậy, ở thời Tây Sơn, thông qua
chỉ thị ngày 14 tháng 2 năm Thái Đức thứ 9 (1786) lại cho thấy một điểm khác về tổ
chức hoạt động của đội Hoàng Sa so với thời các chúa Nguyễn. Nếu như ở thời
Nguyễn, đội Hoàng Sa được thành lập và hoạt động như một lực lượng độc lập dưới
sự quản lý của nhà nước mang tính bán dân sự thì sang thời Tây Sơn, đội Hoàng Sa
đã hoạt động dưới danh nghĩa đội “thủy quân” của nhà nước và mọi sản vật thu
được từ quần đảo Hoàng Sa phải trở về kinh nộp theo lệ mà không được gian dối
nếu không sẽ bị trị tội. Điều này cho thấy sự quản lý của vương triều Tây Sơn đối
với đội Hoàng Sa giống như một bộ phận quân đội của nhà nước chứ không còn là
mang tính chất bán dân sự như thời các chúa Nguyễn nữa.
Thông qua tờ đơn của Cai hợp Hà Liễu năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) cho
thấy đóng góp của cư dân Cù Lao Ré ngay từ buổi đầu lập đội Hoàng Sa dưới thời
các chúa Nguyễn cho đến trước khi phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra.
Sau một vài năm chiến tranh làm cho hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián đoạn, đến
vương triều Tây Sơn, đội Hoàng Sa lại được tái lập lại như nội dung của tờ đơn Cai
hợp phường Cù Lao Ré (phường An Vĩnh) phản ánh. Chắc chắn rằng, khi lập lại đội
Hoàng Sa thì sự đóng góp của cư dân phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré mang tính
quyết định với những thành phần chủ chốt giữ vị trí quan trọng. Cù Lao Ré ngoài
cửa biển Sa Kỳ vừa án ngữ trên tuyến hải thương quốc tế Biển Đông, lại là nơi ngư
dân lấy vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa làm ngư trường truyền thống
khai thác hải sản. Có thể nói, họ là những người đi biển thông thạo đường ra hai
quần đảo này nhất lúc bấy giờ. Đồng thời cũng chính họ - những người con của Cù
129
Lao Ré đã góp phần đặc biệt quan trọng trong việc tái lập lại và duy trì hoạt động
của đội Hoàng Sa ở những thập niên cuối thế kỷ XVIII.
Đến năm 1785 và 1786 với hai văn bản của vương triều Nguyễn, lần đầu tiên
trong các tư liệu ghi chép về đội Hoàng Sa nhắc đến tên cá nhân cụ thể tham gia quản
lý đội Hoàng Sa là Cai đội Võ Văn Khiết. Đồng thời, những tư liệu này còn cho biết
trước khi được phong làm Cai đội thì Võ Văn Khiết “hầu việc đã lâu”, tức là trước đó
ông đã hoạt động trong đội Hoàng Sa một thời gian.
Theo gia phả và tông đồ dòng họ Võ tiền hiền ở xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn,
Quảng Ngãi, tổ họ Võ An Vĩnh là ông Võ Văn Lúa cùng con trai trưởng là Võ Văn
Hòa ra Cù Lao Ré lập nghiệp. Ông Võ Văn Hòa lấy vợ sinh ra Võ Văn Đồng là
người con trưởng. Võ Văn Đồng sinh ra Võ Văn Thiết. Ông Võ Văn Thiết lại sinh
ra các người con trong đó có Võ Văn Lỗ. Võ Văn Lỗ sinh được hai người con trai là
Võ Văn Bửu (sau gọi là Võ Nhất Lang) và Võ Văn Tất (gọi là Võ Nhị Lang). Võ
Văn Bửu định cư ở thôn Tây còn Võ Văn Tất định cư ở thôn Đông (phường An
Vĩnh). Đến đời Võ Văn Linh dòng Võ Nhất Lang sinh hạ được ba người con là Võ
Văn Khiết, Võ Thị Du và Võ Thị Kinh [118]. Theo các dòng họ trên Cù Lao Ré cho
biết, cư dân phường An Vĩnh trước đó nhiều người tham gia đội Hoàng Sa làm binh
phu, lính hoặc lái thuyền cho đội Hoàng Sa nhưng Võ Văn Khiết là Cai đội Hoàng
Sa đầu tiên của Cù Lao Ré.
Như vậy, các sự kiện trên cho thấy sự đóng góp của cư dân Cù Lao Ré đối
với sự tái lập lại đội Hoàng Sa dưới vương triều Tây Sơn trong việc thực thi nhiệm
vụ khai thác và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa giữa Biển Đông. Đội Hoàng Sa từ tổ chức mang tính bán dân sự dưới
thời các chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII trong quá trình hoạt động đến thế kỷ XVII
dưới vương triều Tây Sơn đội Hoàng Sa đã trở thành một lực lượng trong đội thủy
quân – quân đội quốc gia chuyên biệt hoạt động trên biển. Sự kiện yêu cầu đội
Hoàng Sa “cắm biển hiệu thủy quân” này cho thấy do yêu cầu bảo vệ chủ quyền
biển đảo quốc gia mà đội Hoàng Sa đã hoạt động dưới danh nghĩa một tổ chức quân
đội của nhà nước lúc bấy giờ.
130
5.2. Cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa dưới triều Nguyễn đến giữa thế kỷ XIX
5.2.1. Dưới thời vua Gia Long (1802 – 1820)
Sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn
(1802), lấy niên hiệu Gia Long, ông một mặt đẩy mạnh việc khôi phục kinh tế, văn
hóa xã hội một mặt quan tâm đến an ninh biên giới quốc gia. Cùng với hàng loạt
điều chỉnh về việc quản lý đất nước thì việc quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng được Gia Long đưa ra hàng loạt các quyết sách.
Tháng 7 năm Quý Hợi (1803) vua Gia Long đã ra quyết định “lấy Cai cơ Võ
Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa”
[75, tr. 566]. Đến đây, đội Hoàng Sa thực sự trở thành một đơn vị quân đội của nhà
Nguyễn dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú là người ở
phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré. Võ Văn Phú tiếp tục sự nghiệp của người cha là
Cai đội Võ Văn Khiết – người đã quản lý đội Hoàng Sa dưới triều Tây Sơn.
Ngay sau khi được phong làm Cai cơ Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ kiêm quản đội
Hoàng Sa, Võ Văn Phú đã đặc biệt quan tâm đến Cù Lao Ré nhằm ổn định tình hình
ở quê hương ông đồng thời vốn cũng là quê hương của đội Hoàng Sa. Chỉ sau vài
tháng nhậm chức, ngày 1 tháng 10 năm Gia Long thứ 2 (1803), theo đề nghị của
phường An Vĩnh, ông đã đưa cha mình là nguyên là Cai đội Hoàng Sa với tước Hội
Đức hầu thời Tây Sơn là Võ Văn Khiết ra làm Cai đình An Vĩnh như tờ kê trình đã
phản ánh “cử ông Thủ hội Võ Văn Khiết là người thẳng thắn, thanh liêm, siêng
năng cần mẫn, việc công cũng am hiểu, đều ưng thuận cho ông làm chức Cai đình
để ông dốc lòng lo lắng coi giữ đình” [35, tr. 29]. Đồng thời, để thuận lợi cho hoạt
động của đội Hoàng Sa cũng như khẳng định vị trí của Cù Lao Ré – quê hương của
ông, Cai cơ Ngự thủ Sa Kỳ kiêm quản đội Hoàng Sa Võ Văn Phú đã tiến thêm một
bước giúp cho Cù Lao Ré tách khỏi sự phụ thuộc về mặt hành chính đối với các xã
gốc trong đất liền. Trong tờ đơn của phường An Vĩnh (Cù Lao Ré) xin tách ra khỏi
xã An Vĩnh (Sơn Tịnh) năm Gia Long thứ 3 (1804) có đoạn “Theo lệ các triều
trước lập đội Hoàng Sa đại mạo hàng năm được nhận sai phái đốc suất người xã
An Vĩnh cùng phường chúng tôi cưỡi thuyền ra các xứ đảo ngoài biển tìm nhặt các
131
vật quý đem về kinh dâng nạp. Nay dân phường chúng tôi thầm lo rằng chúng tôi ở
trên cù lao ngoài biển so với xã An Vĩnh48 thì hải trình ngăn cách xa xôi, sợ khi xảy
ra công vụ việc giúp đỡ lẫn nhau sẽ khó khăn” [35, tr. 30]. Đến ngày 11 tháng 2
năm Gia Long thứ 3 (1804), vua Gia Long đã phê chuẩn: “Nếu quả thật xã ấy,
phường ấy đôi bên xa cách đúng như lời trình bày của các cai lại mà ai cũng biết
thì nên cho họ tách biệt” [35, tr. 31]. Đến đây, Cù Lao Ré đã hoàn toàn được tách ra
khỏi hai xã gốc trong đất liền trên tất cả các mặt. Không những vậy, cư dân trên Cù
Lao Ré còn được lập chấp bằng riêng trong tuyển mộ binh lính vào đội Hoàng Sa.
Nhờ đó, tình hình của Cù Lao Ré đã sớm được ổn định và trở thành địa bàn vững
chắc góp phần giúp cho Võ Văn Phú đưa đội Hoàng Sa tiếp tục đi vào hoạt động
bình thường.
Cư dân Cù Lao Ré nối tiếp truyền thống cha anh thế hệ trước tiếp tục trở
thành trụ cột tham gia đội Hoàng Sa. Hoạt động của đội Hoàng Sa dưới thời Gia
Long liên tục do các Cai đội là người Cù Lao Ré lãnh đạo. Theo Đại Nam thực lục
“Ất Hợi, Gia Long năm thứ 14 [1815] (Thanh – Gia Khánh năm thứ 20), tháng 2,
ngày giáp tuất…. Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm
dò đường biển” [75, tr. 898]. Đến tháng 3 năm 1816, vua Gia Long tiếp tục “sai
Thủy quân và đội Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường biển” [75,
tr. 922]. Đây là lần đầu tiên sử chép về sự phối hợp giữa đội Hoàng Sa và đội Thủy
quân trong một nhiệm vụ chung ở Hoàng Sa. Từ đó cho thấy, vua Gia Long đã rất
quan tâm đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ của quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa giữa Biển Đông. Để thực hiện nhiệm vụ này, chức năng quân sự
của đội Hoàng Sa tiếp tục được nâng cao và hiệp đồng hành động với lực lượng
Thủy quân. Chức năng và nhiệm vụ chính của đội Hoàng Sa là khảo sát, đo đạc, xác
định hải trình ở khu vực giữa Biển Đông. Việc vua Gia Long quan tâm và đưa ra
hàng loạt hành động khảo sát, đo đạc về vị trí và hải trình quần đảo Hoàng Sa trong
những năm có tính chất bản lề này đã thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước phong
kiến Việt Nam trong việc kiểm soát và bảo vệ vùng biển đảo này trong sự toàn vẹn
48 Xã An Vĩnh mà tờ đơn đề cập ở đây là xã An Vĩnh gốc trong đất liền.
lãnh thổ quốc gia.
132
Sự đóng góp của Cù Lao Ré, đặc biệt ở An Vĩnh trong giai đoạn này thể hiện
rõ nét ở những việc làm của Cai cơ Ngự thủ kiêm quản đội Hoàng Sa Võ Văn Phú
trong việc khôi phục hoạt động đội Hoàng Sa. Sau đó một thời gian, Phạm Quang
Ảnh người phường An Vĩnh tiếp tục giữ chức Cai đội của đội Hoàng Sa. Cư dân Cù
Lao Ré ngày càng đóng vai trò của mình đối với đội Hoàng Sa. Cụ thể như năm
1816, để cho những người con em của mình trong đội Hoàng Sa yên tâm về kinh
thành Huế thi hành công vụ, phường An Vĩnh đã phải bán ruộng công của mình để lo
kinh phí. Văn khế bán đoạn một phần đất ở phường An Vĩnh đề ngày 12 tháng 3 năm
Gia Long thứ 15 (1816) cho biết “Nay bản xã thừa lệnh cứ quy tập đội Hoàng Sa tới
Kinh nhận tờ sai để thi hành công vụ cầm đến dùng lễ và xin cho thủy quân quy vào
đội Hoàng Sa, cũng cần đến nhiều sự quyên góp cho binh lính trong xã. Từ lý do đó,
bản xã họp đông đủ tại đình cùng nhất trí bán đoạn một phần khu đất ấy” [133].
Ngoài dòng họ Võ thì dòng họ Phạm Quang cũng là một ví dụ tiêu biểu.
Theo gia phả thì thủy tổ là Phạm Quang Minh cùng hai con là Phạm Quang Nhật và
Phạm Quang Nguyệt từ làng An Vĩnh trong cửa biển Sa Kỳ dời ra sinh sống ở
phường An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. Dòng họ Phạm Quang đã cống hiến cho đội
Hoàng Sa một Cai đội là Phạm Quang Ảnh rất nổi tiếng ở những thập niên đầu thế
kỷ XIX. Mặc dù các tư liệu chỉ đề cập đến Phạm Quang Ảnh mà không đề cập đến
các cá nhân khác tham gia trong sự kiện này nhưng với việc phải bán đất để lo kinh
phí cho thấy ngoài Phạm Quang Ảnh chắc hẳn còn có những người con khác trên
Cù Lao Ré cùng nhận nhiệm vụ ra Hoàng Sa. Việc Phạm Quang Ảnh được nhắc
đến là vì ông với tư cách Cai đội quản lý đội Hoàng Sa lúc bấy giờ. Sau này khi đội
Hoàng Sa không còn hoạt động nữa thì ông vẫn tiếp tục phục vụ ở Hoàng Sa và
Trường Sa với tư cách là người chỉ huy của đội Thủy quân.
Trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, năm 1816
là năm có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Đây là thời điểm mà vua Gia Long đã thi hành
các biện pháp rất quyết liệt để khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia ở Hoàng Sa
và Trường Sa. Cho nên, ông không thể không đưa lực lượng Thủy quân hùng mạnh
của mình trực tiếp quản lý và bảo vệ chủ quyền ở các quần đảo giữa Biển Đông. Sự
kiện chuyển đội Hoàng Sa cũng như chức năng nhiệm vụ của nó sang lực lượng
133
Thủy quân dưới thời Gia Long đã làm cho sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng thêm vững chắc và mang tính
chính danh. Sự sáp nhập đội Hoàng Sa vào lực lượng Thủy quân vốn không phải
đến triều đại Gia Long mới diễn ra mà đã bắt đầu từ thời Tây Sơn vào năm Thái
Đức thứ 9 (1786) khi quan Thái phó tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng
công truyền kế hoạch cho Cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết “luôn xem xét, đôn đốc
suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển thẳng
đến Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển…” [35, tr. 28].
Từ đó cho thấy, việc đưa đội Hoàng Sa vào Thủy quân dưới triều Nguyễn
Gia Long là cả một quá trình nhận thức trước yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới.
Việc tiếp nối và phát huy trên một tầm cao mới truyền thống và kinh nghiệm khai
thác và bảo vệ biển đảo từ thời các Chúa Nguyễn, thời Tây Sơn cho thấy tầm nhìn
của vua Gia Long về an ninh chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đồng thời cũng tạo cơ sở
điều kiện vững chắc để sau này Minh Mạng lên ngôi Hoàng đế vào năm 1820 tiếp
tục sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
lên đỉnh cao nhất so với tất cả các triều đại quân chủ cả trước ông và sau ông.
Tiếp nối truyền thống cha ông, Cù Lao Ré đã có những người con ưu tú tham
gia trực tiếp phục vụ trong đội Hoàng Sa. Họ là những người lính hoặc có thể là
người đưa đường, binh phu, cai đội … tham gia vào đội Hoàng Sa trong quá trình
thực thi nhiệm vụ thiêng liêng khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia đối với
Hoàng Sa và Trường Sa và hi sinh ở ngoài Biển Đông. Trong đó có những nhân vật
được sử sách ghi tên vinh danh như Võ Văn Phú và Phạm Quang Ảnh. Võ Văn Phú
là con trai của Cai đội Võ Văn Khiết với chức Cai cơ Ngự thủ kiêm quản đội Hoàng
Sa thuộc dòng họ Võ tiền hiền còn Cai đội Phạm Quang Ảnh của dòng họ Phạm
Quang tiền hiền của phường An Vĩnh.
5.2.2. Dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1840 – 1847)
Tổ chức và hoạt động của đội Hoàng Sa dưới thời Gia Long một mặt tiếp tục
sự nghiệp quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa ở Biển Đông, đồng thời là cơ sở để người kế vị sau này tiếp tục kiện
134
toàn về tổ chức và phát triển lực lượng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền về
biển đảo. Sau khi Minh Mạng lên ngôi năm 1820, ông đã triển khai hàng loạt biện
pháp và hành động nhằm tiếp tục sự nghiệp của các triều đại trước trong bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia trong đó có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Với vị trí địa
thế quan trọng, Cù Lao Ré được nhà nước quan tâm từ thế kỷ XVII thì đến thời Minh
Mạng càng đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp khẳng định chủ quyền
quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn được các nhà hàng hải thế giới biết
đến từ các thế kỷ trước bởi mức độ đặc biệt nguy hiểm và sự phức tạp của hải lưu
vùng Biển Đông. Việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa của triều Nguyễn thời Minh
Mạng tiếp tục được tiến hành và nâng lên tầm cao mới. Công việc này được tiến
hành khá thường xuyên nhằm thăm dò và đo đạc vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Ngày 22 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Nội các triều Nguyễn
đã tâu lên Minh Mạng: “trước đây căn cứ vào lời kê khai sai của viên được sai phái
đi khảo sát Hoàng Sa là Phạm Văn Sênh, lái thuyền cùng thủy thủ của suất ấy là 19
người để đến nỗi bộ ấy đã làm tờ phiếu nghĩ xin ban thưởng cho viên ấy tiền bạc 10
mai, các viên lái thuyền gồm 19 tên, mỗi tên tiền bạc một mai. Nay viên ấy nghĩ lại
thấy thừa ra 1 tên, không giám làm đơn lĩnh số tiền bạc này.” [46].
Đáng lưu ý ở tờ châu bản này là công việc khảo sát Hoàng Sa do Phạm Văn
Sênh dẫn đầu cùng thủy thủ 19 người và lái thuyền đã diễn ra “trước đây”, tức là
trước năm 1833 và nay “căn cứ vào lời kê khai (…) viên ấy nghĩ lại thấy thừa ra 1
tên” cho thấy sự kiện sai phái người ra khảo sát đo đạc quần đảo Hoàng Sa ở Biển
Đông của triều Nguyễn phải diễn ra trước năm 1833 và thực tế chỉ có 18 thủy thủ.
Điều đáng lưu ý thứ hai ở đây là sự kiện nhầm lẫn về số thành viên này được Phạm
Văn Sênh báo cáo về Bộ Binh chứ không phải các bộ khác. Điều này cho thấy Bộ
Binh đã đứng ra chịu trách nhiệm tuyển “thủy thủ” thuộc bộ mình quản lý để đi làm
việc và chắc chắn họ thuộc về đội Thủy quân vì chỉ có thủy quân mới thông thạo
đường biển.
Phạm Văn Sênh được giao trọng trách đứng đầu đoàn khảo sát đo đạc quần
đảo Hoàng Sa tiếp tục là người của phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré. Mặc dù châu
135
bản không đề cập thông tin cụ thể các cá nhân trong đoàn là những ai và từ đâu tới
nhưng có nhiều khả năng những người “lái thuyền” sẽ được tuyển chọn từ các ngư
dân trên Cù Lao Ré – những con người gắn bó với Biển Đông và quần đảo Hoàng
Sa từ hàng thế kỷ trước. Điều này cho thấy vị trí vai trò của Cù Lao Ré cùng những
đóng góp của cư dân trên đảo trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia.
Cũng trong năm 1833, “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng
Ngãi, có một giải (dải) Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt
được nông hay sâu. Gần đây thuyền buồm thường [mắc cạn] bị hại. Nay nên dự bị
thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều
cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh khỏi
được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời” [77, tr. 743]. Việc triều Nguyễn
quyết định tiếp tục tuyển người và chuẩn bị cho việc ra Hoàng Sa để dựng miếu,
trồng cây và dựng bia sau sự kiện năm 1833, Phạm Văn Sênh đưa đoàn khảo sát ra
đo đạc Hoàng Sa cho thấy hoạt động của đoàn khảo sát đã đạt được kết quả. Và chỉ
có như vậy, vua Minh Mạng mới đưa ra hành động “sang năm sẽ phái người tới đó
dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối”.
Sau một năm chuẩn bị, đến năm 1834, Minh Mạng đã quyết định đưa đoàn
công tác của triều đình và cùng Bộ Binh đưa lực lượng thủy quân ra Hoàng Sa làm
nhiệm vụ. Lần này, nhiệm vụ chính của đoàn được Minh Mạng giao là tiếp tục khảo
sát các xứ của Hoàng Sa. Sự kiện này được đề cập cụ thể như sau: “Theo tờ tư của
bộ Binh nhận được tháng trước có đoạn trình bầy: Vâng theo sắc lệnh [của nhà
vua], bộ đã tư [cho tỉnh] chuẩn bị điều động trước 3 chiếc thuyền lớn, cho tu sửa
chắc chắn đợi tại kinh, Phái viên49 và Biền binh50 thủy quân đến trước để hiệp đồng
nhanh chóng đi khảo sát các xứ của Hoàng Sa. Hãy tuân mệnh.
[Kính vâng theo, tỉnh thần] làm lễ cầu khấn, [sau đó], điều động, thuê 3
chiếc thuyền nhanh, nhẹ ở tỉnh cùng các vật kiện theo thuyền, mỗi loại đều cho tu
bổ [cẩn thận]. Lại phái Vũ Văn Hùng, người được cử đi năm trước và chọn thêm
dân phu miền biển am hiểu đường biển sung làm thủy thủ phục vụ trên thuyền trước 49 Phái viên là người của Triều đình được cử đi công tác. 50 Biền binh là chức quan võ cấp thấp trong quân đội triều Nguyễn. Theo nội dung châu bản đề cập, chức Biền binh ở đây thuộc về lực lượng Thủy quân.
136
sau, mỗi thuyền 8 người cộng 24 người, [đến] mùa từ hạ tuần tháng 3 thuận gió, thì
nhanh chóng cho thuyền ra khơi.
Nay các việc lo liệu xong xuôi, Phái viên đã đi thuyền đến. Nay căn cứ vào
các lý lẽ tuyển lựa của Vũ Văn Hùng [là] phù hợp, [tỉnh thần] thực hiện cấp bằng
cho những thủy dân thạo đường biển là bọn Đặng Văn Xiểm đảm đương công việc
lái thuyền, [bọn Đặng Văn Xiểm] hãy đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo các thủy
thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện
công vụ.” [90].
Từ nội dung của châu bản này biết được đoàn công tác ra đo đạc các xứ
Hoàng Sa (bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa) năm 1834 dưới thời Minh Mạng
gồm có 4 thành phần chính là “phái viên” của triều đình, “biền binh”, “võ quan”
và “thủy quân”. Bên cạnh lực lượng này, triều Nguyễn còn cử Vũ Văn Hùng và
tuyển chọn ngư dân thông thạo vùng Biển Đông, đặc biệt là thông thạo khu vực
quần đảo Hoàng Sa để “làm thủy thủ phục vụ trên thuyền”, tức là lái thuyền cho
đoàn công tác ra Hoàng Sa. Biên chế của đoàn công tác ra Hoàng Sa gồm cả 8
thủy thủ được tuyển chọn từ những ngư dân giàu kinh nghiệm trên biển lên đến
24 người đi trên 3 chiếc thuyền.
Theo châu bản cung cấp, 8 ngư dân được làm thủy thủ lái thuyền đưa đoàn
công tác cụ thể là: “Tên Đề Phạm Vị Thanh người Phường An Hải; Tên Trâm Ao
Văn Trâm, người Lệ Thủy Đông (hai tên); Tên Sơ Trần Văn Kham, người phường
An Vĩnh; Tên Xuyên Nguyễn Văn Mạnh, người phường An Hải; Tên Lê Trần Văn
Lê, người ấp Bàn An; Tên Doanh Nguyễn Văn Doanh, người thôn Thạch Ốc An
Thạch huyện Mộ Cách; Từ đội Kim Thương đưa sang 2 tên: Vũ Văn Nội, Trương
Văn Tài” [90]. Công việc “khảo sát các xứ của Hoàng Sa” là một công việc khó
khăn đầy nguy hiểm vì vừa ở xa đất liền lại nằm ở vùng biển khí hậu thất thường
cùng sự phức tạp của hải lưu. Nhưng vì công việc này như trong châu bản đã nhấn
mạnh “có tầm quan trọng đặc biệt, các người phải dốc lòng thực hiện công việc cho
thực sự thỏa đáng. Nếu sao nhãng, sơ xuất tất bị trọng tội” [90].
Trong số 24 người được cử ra Hoàng Sa thì đã có tới 5 người con của Cù
Lao Ré tham gia ở những cương vị “dẫn đường” đảm bảo cho sự an toàn của đoàn
137
công tác từ đất liền ra đến Hoàng Sa. Theo châu bản đã đề cập, Vũ Văn Hùng và
Đặng Văn Xiểm là người Cù Lao Ré được nhắc đến với một vị trí vai trò quan trọng
“đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo các thủy thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền
binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện công vụ” [90] bởi họ là những người
dày dạn kinh nghiệm nhất trong đoàn, trong đó Vũ Văn Hùng đã từng được cử đi ra
Hoàng Sa từ năm 1833 như các châu bản trước đã đề cập.
Mặc dù châu bản cũng như các nguồn tài liệu khác không cung cấp cho biết
phái viên, biền binh, võ quan và thủy quân là những ai và ở đâu nhưng chỉ tính
riêng con số 8 ngư dân chịu trách đưa đoàn ra Hoàng Sa thì đã có đến 5 người xuất
thân từ Cù Lao Ré thuộc cả hai phường An Vĩnh và An Hải. Điều này càng khẳng
định đóng góp của quê hương đội Hoàng Sa vào công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc
gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa không còn tồn tại
dưới thời vua Minh Mạng nhưng chức năng nhiệm vụ của đội Hoàng Sa đã được
Thủy quân triều Nguyễn kế thừa. Những người con trên quê hương của đội Hoàng
Sa trên Cù Lao Ré tiếp tục khẳng định vị trí vai trò đồng thời phát huy truyền thống
của lớp người đi trước trong điệu kiện hoàn cảnh lịch sử mới.
Có lẽ nhiệm vụ công việc “khảo sát các xứ của Hoàng Sa” không hề dễ dàng
và chưa được đoàn khảo sát hoàn tất trong năm 1834 như theo mong muốn của
Minh Mạng. Hoạt động đo đạc khảo sát Hoàng Sa mới đang tiến hành dở dang thì
đã gặp biển động và vì vậy mà không thể tiếp tục tiến hành như Đại Nam thực lục
chép “Năm ngoái (tức 1834 – chú thích) mưu toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy,
bỗng vì sóng gió không làm được” [78, tr. 673]. Mặc dù vậy, đoàn công tác ra
Hoàng Sa của triều Nguyễn thời Minh Mạng cũng đã đạt được một số kết quả Đại
Nam thực lục chép “Ất Mùi, Minh Mạng năm thứ 16 (1835). Hoàng Sa ở hải phận
Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng,
phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (tức muôn dặm
sóng êm – chú thích) (cồn Bạch Sa [cát trắng] chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi
Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía
bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1
trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch)” [78, tr. 673].
138
Từ những thành quả của lần khảo sát đo đạc trước, năm 1835, Minh Mạng lại
tiếp tục cử đoàn công tác ra làm nhiệm vụ đo đạc quần đảo Hoàng Sa. Sự việc này
cho thấy đây là một công việc đặc biệt hệ trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
quốc gia dưới triều Minh Mạng. Đồng thời cho thấy, Minh Mạng có một tư duy về
biển cũng như toàn vẹn chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở Biển Đông thực sự mạnh mẽ. Cho nên ông không vì sự khó khăn nguy
hiểm của các lần khảo sát trước mà các đoàn công tác gặp phải làm nhụt chí dừng
lại mà tiếp tục “sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám
thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến
dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu
xây bình phong. Mươi ngày rồi về” [78, tr. 673].
Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên mà Đại Nam thực lục đề cập đến
chính là người thuộc dòng họ Phạm Văn tiền hiền của phường An Vĩnh trên Cù Lao
Ré. Sự kiện Minh Mạng sai Phạm Văn Nguyên ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ xây miếu
dựng bia đá năm 1835 còn được phản ánh rõ như sau: “Nội giám Nguyễn Ân chuyển
truyền cật vấn bề tôi [Nội] các về việc lần này các viên binh tượng được sai phái đi
Hoàng Sa trở về quá hạn. Viên cai đội Phạm Văn Nguyên cùng những người nào
có hay không những tư tệ, cần phải nói thực. Nếu có tư tệ gì phải giao cho bộ Hình
nghị tội, nếu không có tư tệ gì thì lập tức tha cho Phạm Văn Nguyên không phạt đòn
80 trượng và khôi phục lại chức cũ cho viên ấy. Viên Giám thành vẽ bản đồ không
rõ ràng bị phạt đòn 80 trượng nhưng đều cho tha. Đích danh các viên dẫn đường
mỗi viên được thưởng tiền bạc loại nhỏ 3 mai, binh đinh mỗi viên được thưởng tiền
1 quan. Dân phu [đi trong đợt này] nếu chưa được miễn trừ lệ thuế cũng được
thưởng mỗi viên tiền một quan…” [47].
Từ việc Nội các tấu trình lên Minh Mạng sự việc này cho thấy nhiệm vụ của
lần ra Hoàng Sa năm 1835 do Cai đội Phạm Văn Nguyên đứng đầu không chỉ đơn
giản dừng ở việc “dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá;
phía trước miếu xây bình phong” [78, tr. 673] như Đại Nam thực lục đã chép mà
còn có một nhiệm vụ khác quan trọng hơn đó là “vẽ bản đồ”. Nhiệm vụ đo vẽ bản
đồ quần đảo Hoàng Sa thuộc về “Giám thành” như châu bản đã đề cập.
139
Tuy nhiên cũng theo châu bản, Cai đội Phạm Văn Nguyên thực hiện nhiệm
vụ ở Hoàng Sa “mươi ngày về rồi” mà đã bị coi là “dềnh dàng quá hạn” và bị Bộ
Hình nghị tội, các thành viên tham gia cũng bị Bộ Hình và Bộ Công điều tra xét hỏi.
Điều này cho thấy sự nghiêm minh của triều Nguyễn trong xử lý những cá nhân đi
thực hiện nhiệm vụ ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặc dù vậy sau quá trình
điều tra xét hỏi, do đoàn công tác ra Hoàng Sa không có biểu hiện sai phạm nên Nội
các đã ra quyết định “Cai đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa, khi trở về
dềnh dàng quá hạn, đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng qua tra xét, chưa thấy có
biểu hiện làm việc riêng tư. Vả lại, lần này được phái đi ra biển thực hiện công vụ
chu đáo, rất đáng được dự thưởng. Duy Quản viên Phạm Văn Nguyên khi trở về, có
sự tự mãn, đi lại rất không hợp cách, trước đã bị cách chức, bị bắt gông. Nay giao
cho Bộ xét phạt đánh đòn 80 trượng nhưng gia ân cho tha, khôi phục lại chức cũ.
Còn các viên có trách nhiệm vẽ bản đồ chưa rõ ràng là Giám thành Trần Văn Vân,
Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều chuẩn cho
tha. Viên dẫn đường là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh thì được ban thưởng tiền phi
long loại nhỏ 3 mai. Các viên lính trong tượng, cục đi đợt này được thưởng tiền 1
quan, cho về đơn vị cũ, cục cũ” [48] như trong châu bản đã đề cập.
Từ hai châu bản thời Minh Mạng thứ 16 (1835) phản ánh cho thấy ngoài Phạm
Văn Nguyên giữ chức Cai đội Thủy quân là người của phường An Vĩnh trên Cù Lao
Ré còn có thêm Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh làm nhiệm vụ dẫn đường. Sự đóng
góp của họ trong Thủy quân triều Nguyễn thời Minh Mạng cũng như trong thực hiện
nhiệm vụ quốc gia ở quần đảo Hoàng Sa tiếp tục được ghi nhận và khẳng định.
Bước sang năm 1836 - 1937, trên cơ sở kết quả của các đoàn ra Hoàng Sa
thực hiện nhiệm vụ từ trước, công cuộc thám sát, khảo sát, đo đạc vẽ bản đồ và cắm
dấu mốc trên các đảo của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam được vua Minh Mạng
tiếp tục đẩy mạnh chỉ đạo tiến hành. Những người con của Cù Lao Ré tiếp tục tham
gia đóng góp vào sự nghiệp cao cả này. Trong đó, dòng họ Phạm của phường An
Vĩnh (Cù Lao Ré) có thêm một người giữ chức Chánh đội trưởng Thủy quân triều
Nguyễn là Phạm Hữu Nhật dẫn đầu các thành viên trong đội ra khảo sát, đo đạc đánh
dấu và vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa. Châu bản ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ
140
17 (1836) ghi rõ “Bộ Công phúc trình: Nay tiếp nhận công văn của Nội các vâng
mệnh giao cho Bộ thần [trong đó] có Châu phê: Các thuyền được phái đi Hoàng Sa,
mỗi thuyền mang 10 mộc bài [cột gỗ, mỗi cột dài 4 đến 5 thước, dầy 1 tấc] khắc sâu
dòng chữ to: Minh Mạng thập thất niên. Năm Bính Thân, các viên Cai đội thủy quân
vâng mệnh đi Hoàng Sa khảo sát, đến đó thì cắm mốc đánh dấu. Hãy tuân mệnh.
Lần này, viên Chánh đội trưởng Thủy quân được cử đến Hoàng Sa là Phạm
Hữu Nhật, giờ Mão hôm trước đã đi thuyền từ cửa Thuận An đến tỉnh [Quảng]
Ngãi. Bộ thần xin chuẩn bị gấp số cột gỗ theo số lượng, gửi tư khẩn cho tỉnh Quảng
Ngãi, chuyển ngay [số cột gỗ ấy] cho viên này, ... Vậy xin phúc trình” [49].
Sự kiện năm 1836, Chánh đội trưởng đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đảm
đương dẫn đoàn ra Hoàng Sa được Đại Nam thực lục chép như sau: “Bộ Công tâu
nói: Cương giới mặt biển nước ta có xứ (nguyên văn chép là Hoàng Sa xứ, thực tế
đáng phải chép là đảo Hoàng Sa – chú thích) Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia,
đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng.
Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay
trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ
Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi,
bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng
xứ Hoàng Sa. (…) Vua y lời tâu. Sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh
thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi
bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mạng thứ
17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng
mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ” [78, tr. 867].
Đoàn khảo sát Hoàng Sa lần này, như Đại Nam thực lục phản ánh gồm hai
bộ phận là “biền binh thủy quân” và “vệ Giám thành” do lực lượng Thủy binh
đứng đầu. Mặc dù vậy, Đại Nam thực lục không đề cập đến đội ngũ dẫn đường
tuyển từ các ngư dân giàu kinh nghiệm đi biển và thông thuộc đường ra Hoàng
Sa như trong các châu bản trước đây đề cập đến nhưng lại cho biết “thuê 4 chiếc
thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa”. Điều này khẳng định lực
lượng dẫn đường là những ngư dân được biên thành “thủy thủ” vẫn tồn tại và
làm nhiệm vụ của mình như trước.
141
Từ những ghi chép trong Đại Nam thực lục cho thấy đến năm 1836, sau hành
động xây miếu dựng, dựng bia đá và đo đạc vẽ bản đồ trên quần đảo Hoàng Sa năm
1835, thì nhiệm vụ chủ yếu của đội Thủy binh và vệ Giám thành chính là đo đạc vẽ
bản đồ của toàn bộ quần đảo Hoàng Sa “Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào,
khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng,
chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay
không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ.
Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ
ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ
bến, đối thẳng vào là tình hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt
nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem
về, dâng trình” [78, tr. 867]. Lần đầu tiên trong lịch sử, đoàn công tác ra Hoàng Sa sử
dụng “Bài gỗ” với chiều rộng và chiều dài cụ thể ghi rõ niên hiệu và năm vị vua
đương trị để làm mốc đánh dấu lần đo đạc ở các đảo trên quần đảo Hoàng Sa. Về mặt
thời gian xuất phát ra thực hiện nhiệm vụ cũng được quy định cụ thể là vào “hạ tuần
tháng Giêng” thì chuẩn bị và “thượng tuần tháng Hai” bắt đầu đi ra Hoàng Sa.
Cùng với Phạm Hữu Nhật giữ chức Chánh đội trưởng Thủy đứng đầu đưa
đội thủy binh và vệ Giám thành ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ còn có đội “thủy thủ”
dẫn đường là các ngư dân. Chắc chắn trong những “thủy thủ” dẫn đường đó không
ít người là ngư dân của Cù Lao Ré kề vai sát cánh cùng thực hiện nhiệm vụ với
Phạm Hữu Nhật cũng là một trong những người con của hòn đảo này. Điều đặc biệt
đối với đội Thủy quân ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa dưới triều Nguyễn liên tục có
người ở Cù Lao Ré lãnh đạo. Nếu như trước đó là Phạm Văn Nguyên giữ chức Cai
đội Thủy quân thì đến đây Phạm Hữu Nhật giữ chức Chánh đội trưởng Thủy quân.
Ngoài ra, người của Cù Lao Ré còn đóng vai trò chủ chốt trong nhiệm vụ “thủy thủ”
dẫn đường cho các đoàn ra khảo sát và đo đạc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Cùng với hoạt động khai thác các nguồn lợi, thu lượm các hóa vật từ các con
tàu đắm ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì nhiệm vụ đo đạc và biên vẽ bản đồ
quốc gia đối với hai quần đảo này vẫn được tiến hành. Năm 1837, để đảm bảo cho
việc thực hiện công vụ ở Hoàng Sa, triều đình Minh Mạng đã bỏ tiền ra thuê dân
142
phu ra Hoàng Sa phục vụ như trong châu bản ngày 11 tháng 7 năm Minh Mạng thứ
18 (1837) đề cập “Lại có sách tâu của tỉnh Quảng Ngãi trình bầy việc vâng mệnh
chi tiền gạo thuê dân phu đến xứ Hoàng Sa thực hiện công vụ, xin cho được quyết
toán. Việc này Bộ thần xin trong 5 ngày để kê cứu, rồi tấu trình lại…” [52]. Những
dân phu ở đây chắc chắn là những ngư dân giỏi đi biển và trong số đó đa phần trong
số họ là các ngư dân lão luyện trên Biển Đông của Cù Lao Ré.
Các ngư dân trên Cù Lao Ré đóng vai trò quan trọng trong các chuyến công
cán ra quần đảo Hoàng Sa còn được châu bản khẳng định như sau “Các viên Thủy
sư Phạm Văn Biện do kinh sai phái, viên dẫn đường Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh,
lái thuyền Lưu Đức Trực do tỉnh sai phái đi Hoàng Sa trở về quá hạn, đã có chỉ
trách phạt, đánh đòn (...). Duy có việc Bộ thần đã xem xét công việc năm ngoái, các
viên Quản suất, dẫn đường được sai phái đi Hoàng Sa thực hiện công vụ, khi trở về
không mang theo bản đồ bị trách phạt, còn binh, đinh được thưởng 1 tháng lương
tiền, dân phu được thưởng tiền 2 quan” [51]. Các nhân vật như Thủy sư Phạm Văn
Biện, viên dẫn đường Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh mà châu bản đề cập đều là
những người con của phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré. Tuy nhiên, công việc khảo
sát, đo đạc quần đảo Hoàng Sa là một việc trọng đại cho nên Phạm Văn Biện, Vũ
Văn Hùng và Phạm Văn Sênh “lại được sai phái đi khảo sát Hoàng Sa. Tuy đã đến
khảo sát 11 nơi bãi cát và các đảo, việc đo vẽ bản đồ chưa thật chu đáo nhưng
nhiều lần bị đầy đi làm việc khổ sai và cũng biết hối cải, nên gia ân tha cho” [52].
Từ nội dung của 2 châu bản này cho thấy công việc đo vẽ bản đồ quần đảo
Hoàng Sa được vua Minh Mạng triều Nguyễn coi trọng đặc biệt. Đến năm 1837, lần
đầu tiên trong các châu bản triều Nguyễn thời vua Minh Mạng cho biết cụ thể số
lượng người tham gia thuộc từng bộ phận như sau “vâng mệnh ghi rõ 22 họ tên các
viên binh đinh, 20 viên Thủy sư, 2 viên Giám thành và 31 dân phu đi Hoàng Sa đợt
này, đính kèm phía sau.” [52]. Cùng với sự nỗ lực của đội Thủy binh, Biền binh và
các viên Giám thành cùng dân phu với số lượng lên đến 75 người, công cuộc đo vẽ
bản đồ đối với quần đảo Hoàng Sa dưới triều vua Minh Mạng đã được 11 đảo và bãi
cát. Mặc dù theo như châu bản thì việc đo đạc và vẽ bản đồ chưa thực sự chu đáo
nhưng đã thể hiện sự cố gắng của nhà nước phong kiến Việt Nam dưới thời vua
143
Minh Mạng trong sự nghiệp khẳng định vững chắc chủ quyền quốc gia của Việt
Nam đối với vùng biển đảo này. Đây cũng là thành tựu quan trọng mang tính bước
ngoặt của nền bản đồ học Việt Nam dưới triều Nguyễn. Từ đây, việc đo đạc biên vẽ
bản đồ đối với các hòn đảo, bãi cát và đá ngầm của quần đảo Hoàng Sa tiếp tục
được nhà nước đẩy mạnh trong những năm sau đó.
Thông qua việc trách phạt Thủy sư Phạm Văn Biện cùng các viên dẫn đường
thì việc và xử nặng viên Biền chức Giám thành Trương Viết Soái là vì đi ra Hoàng
Sa khi trở về đã “không mang theo bản đồ để dâng trình” nên bị xử nặng “phạt
trảm giam hậu”. Đóng góp của Cù Lao Ré ngoài những cá nhân giữ trọng trách
trong đội Thủy quân dưới thời Minh Mạng như Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật
cùng các viên dẫn đường như Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh. Bên cạnh đó, với
thông tin trên còn cho thấy đã có người ở Cù Lao Ré giữ chức “Thủy sư”, một chức
quan chuyên trách quản lý về việc đi biển trong chính quyền Minh Mạng.
Ngoài nhiệm vụ tuần tra, khảo sát đo đạc bản đồ ở Hoàng Sa, Thủy quân triều
Nguyễn còn làm nhiệm vụ cứu nạn đối với các tàu thuyền di chuyển bị nạn trên quần
đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền quốc gia lúc bấy giờ. Đây là một trong những chức
năng và cũng là nhiệm vụ của đội Hoàng Sa xưa nay trở thành nhiệm vụ chức năng của
đội Thủy quân. Điều này cho thấy hình ảnh của đội Hoàng Sa vẫn tồn tại trong lực
lượng Thủy quân nhà Nguyễn. Cụ thể vào năm “Bính Thân, Minh Mạng năm thứ
17(1836), mùa đông, tháng 12. Thuyền buôn Anh cát lợi (nước Anh) đi qua Hoàng Sa,
mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định. Vua
được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ
thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu
không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt…” [78, tr. 1058].
Bước sang năm 1838, cư dân Cù Lao Ré tiếp tục đóng góp tài lực vào cùng
với các hoạt động ra Hoàng Sa đo vẽ bản đồ của nhà nước. Trong năm này, vua Minh
Mạng đã ra chiếu chỉ tiếp tục cử người ra khảo sát đo vẽ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa
vốn đang dang dở từ trước. Theo chiếu chỉ này của Minh Mạng, thời gian đoàn đo vẽ
bản đồ Hoàng Sa bắt đầu thực hiện từ tháng 3 cho đến tháng 6 thì trở về. Bộ Công đã
yêu cầu 2 tỉnh “Bình Định, Quảng Ngãi thực hiện và tuyển chọn các viên Thị vệ,
144
Khâm thiên giám thành cùng Thủy sư, binh thuyền phái đi trước” nhưng vì “Việc đi
khảo sát đo đạc ở Hoàng Sa đã có hạn định rõ ràng là hạ tuần tháng 3 thì xuất phát
ra khơi, nhưng vì hướng gió và con nước chưa tiện, kéo dài [hạn định] đến hạ tuần
tháng 4 mà vẫn chưa ra khơi được là quá hạn. [Bộ thần] căn cứ vào sự thực tấu trình
đầy đủ…” [55]. Chính vì thời tiết không thuận lợi mà kế hoạch đi ra quần đảo Hoàng
Sa đo đạc biên vẽ bản đồ đặt ra bắt đầu từ tháng 3 cho đến tháng 6 theo lệnh của vua
Minh Mạng đã bị chậm lại cho đến tháng 4 mới bắt đầu. Sau một thời gian dài hai
tháng trời làm việc cần mẫn trên quần đảo Hoàng Sa, công tác khảo sát và đo vẽ bản
đồ của quần đảo này đã được thực hiện khá thuận lợi “lần này [đoàn khảo sát] đã đến
được 25 đảo thuộc 3 vùng (trong đó hàng năm [các đoàn] lần lượt đến được 12 hòn
đảo, chưa từng đến được hòn đảo thứ 13 ). Nhưng theo viên dẫn đường Vũ Văn Hùng
thì toàn bộ xứ Hoàng Sa có 4 vùng, lần này khảo sát được 3 vùng, còn một vùng ở
phía Nam, nơi này cách nơi kia khá xa, gió Nam lại thổi mạnh, việc khởi hành đến đó
không tiện, phải đợi gió thuận thì muộn, xin đợi đến sang năm [cử thuyền] đến đó.
Lại xem xét 4 bản đồ mang về, (có 3 bức vẽ riêng từng vùng, một bức vẽ chung), cùng
một bản nhật ký cũng chưa được tu sửa hoàn chỉnh, xin cho Bộ thần thẩm tra kỹ và
sức cho họ chỉnh sửa hoàn thiện để dâng trình” [53].
Theo báo cáo của Đỗ Mậu Thưởng và Thị vệ Lê Trọng Bá đối với Bộ Công
trong chuyến trở về đất liền lần này cho thấy đoàn công tác đo đạc bản đồ quần đảo
Hoàng Sa của Triều Nguyễn đã chia quần đảo này ra làm 4 vùng. Trong 4 vùng này,
đoàn công tác đã đo đạc và vẽ được 4 bản đồ, một bản đồ chung và 3 bản đồ riêng
của 3 vùng với tổng số 25 hòn đảo. Châu bản cũng chỉ rõ 12 hòn đảo đã được khám
phá và đo vẽ từ trước (theo châu bản ngày 13 tháng 7 năm 1837 thì 11 hòn đảo và
bãi cát đã được đo vẽ) và 13 hòn đảo được đo vẽ mới mà các đoàn trước đó chưa
từng đến đo khám và biên vẽ. Vùng còn lại nằm ở phía Nam cách xa ba vùng này
lại không thuận lợi về khí hậu nên chưa thể đo đạc biên vẽ thành bản đồ được.
Ngoài các bản đồ và bản nhật ký đem về từ quần đảo Hoàng Sa, Đỗ Mậu Thưởng và
Lê Trọng Bá còn đem về “1 súng đại bác bọc đồng, các loại đá san hô đỏ, các loại
chim, rùa biển” [53]. Sau khi đoàn công vụ đo vẽ bản đồ ở Hoàng Sa trở về, các đối
tượng phục dịch cho đoàn công tác đều được miễn trừ các loại thuế.
145
Cùng với việc khai thác quần đảo Hoàng Sa thì công việc khảo sát, đo đạc
thủy trình và các đảo để biên vẽ bản đồ ở quần đảo này được triều Nguyễn tiến hành
đều đặn cho đến những năm cuối đời của vua Thiệu Trị (1840 – 1847). Năm 1845,
do nhiều yếu tố mà “Vâng sắc giao cho Bộ lưu giữ hồ sơ ghi ngày tháng 6 năm
Thiệu Trị thứ 5 (1845) hoãn việc phái [người] đi thăm dò, khảo sát Hoàng Sa, đến
năm sau phúc trình lại đợi chỉ” [94]. Mặc vậy nhưng công việc khai thác và đo vẽ
thủy trình cùng các đảo trong quần đảo Hoàng Sa vốn “Chiểu theo lệ, xứ Hoàng Sa
là bờ cõi trên biển của nước ta, hàng năm có phái binh thuyền đến thăm dò để
thuộc lộ trình đường biển” [93] nhưng đến “năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), hoãn việc
phái binh thuyền [đi khảo sát], đến năm sau phúc trình lại Hãy tuân mệnh” [93].
Từ khi Tự Đức lên ngôi (1847) cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược
Việt Nam, hoạt động khai thác quần đảo Hoàng Sa cũng như đo đạc thủy trình bị
chững lại không được tiếp tục tiến hành. Điều này thể hiện trong nội dung các công
trình sử học không thấy chép về hoạt động khai thác quần đảo Hoàng Sa nữa.
Tiểu kết chương 5
Đội Hoàng Sa – lực lượng chuyên trách về khai thác và bảo vệ chủ quyền
quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thành lập dưới thời
chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở nửa đầu thế kỷ XVII. Nhìn vào hoạt động khai thác và
thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của đội
Hoàng Sa từ đầu thế kỷ XVII cho đến cuối thế kỷ XVIII cho thấy vai trò của cư dân
Cù Lao Ré cũng như vị trí của hòn đảo này. Cù Lao Ré và xã An Vĩnh trong đất liền
ngay từ đầu đã là cái nôi của đội Hoàng Sa, cung cấp nhân lực và vật lực cho hoạt
động của lực lượng đặc thù này. Cù Lao Ré càng về sau càng thể hiện vị trí vai trò
quan trọng của nó đối với việc duy trì hoạt động của đội Hoàng Sa, đặc biệt trong
việc tái lập lại đội Hoàng Sa dưới thời Tây Sơn.
Bước sang triều Nguyễn, ngay từ thời vua Gia Long và đặc biệt là dưới thời
vua Minh Mạng cho đến giữa thế kỷ XIX cho thấy, triều Nguyễn luôn quan tâm tới
sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đối với vùng biển đảo này. Lực lượng được cử ra
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa gồm nhiều thành phần tiến hành liên tục do đội
Hoàng Sa và sau này là đội Thủy quân dẫn đầu. Nhiệm vụ của họ là đo đạc thủy
146
trình và biên vẽ bản đồ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sự kiện đó chứng
tỏ triều Nguyễn đã tiến thêm một bước dài trong việc khẳng định quyền chủ quyền
và khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đến năm 1838, bản đồ hoàn chỉnh
biên giới lãnh thổ quốc gia Việt Nam do triều Nguyễn biên vẽ hoàn thành gọi là
“Đại Nam nhất thống toàn đồ” thể hiện rất rõ ràng về “Hoàng Sa” (quần đảo Hoàng
Sa) và “Vạn Lý Trường Sa”, tức quần đảo Trường Sa hiện nay. Trong đó, những
cống hiến của cư dân Cù Lao Ré kéo dài từ thời vua Gia Long qua thời Minh Mạng
góp phần không nhỏ cho việc hoàn thiện tấm bản đồ này.
Trong tất cả các hoạt động liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ thời vua Gia Long cho đến giữa thế kỷ XIX đều cho thấy sự đóng góp của cư dân
Cù Lao Ré. Việc khôi phục lại đội Hoàng Sa vào đầu triều Nguyễn với công đầu
của Cai cơ Ngự thủ kiêm quản đội Hoàng Sa Võ Văn Phú là một trong những đóng
góp đặc biệt của người con Cù Lao Ré. Bước sang thời vua Minh Mạng và Thiệu
Trị, tên tuổi của những người con Cù Lao Ré được đề cập với tần suất nhiều nhất
trong các châu bản triều Nguyễn cũng như trong sử sách đương thời, trong đó đặc
biệt là Phạm Văn Sênh, Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật, …
Những người này đều đảm nhận những trọng trách quan trọng trong đội Thủy quân
khi được sai phái đi làm nhiệm vụ tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự đóng góp của cư dân Cù Lao Ré không chỉ ở lực lượng tham gia vào đội
Thủy quân chuyên trách về Hoàng Sa và Trường Sa mà còn của các ngư dân thực
hiện nhiệm vụ dẫn đường và phục dịch cho đoàn công tác của triều Nguyễn ra hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tất cả những đóng góp đó cho thấy, Cù Lao Ré
vốn là quê hương của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn thực sự xứng đáng là cái
nôi, là quê hương của những người lính Hoàng Sa dưới triều Nguyễn, kể cả khi đội
Hoàng Sa hợp nhất vào đội Thủy quân.
147
KẾT LUẬN
Từ một hòn đảo với lớp cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa, cùng quá
trình Nam tiến mở rộng lãnh thổ của người Việt, Cù Lao Ré đã trở thành một
địa phương trọng yếu trong hệ thống đơn vị hành chính của nhà nước phong
kiến Việt Nam. Cù Lao Ré vừa là nơi cung cấp nhân lực vật lực và là tiền đồn
trong sự nghiệp bảo vệ, thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Nhìn lại chặng đường phát triển của Cù Lao Ré trên 250 năm từ thế kỷ XVII
đến giữa thế kỷ XIX gắn liền với hoạt động của đội Hoàng Sa trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ khai thác và bảo vệ chủ quyền quốc gia ở quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Cù Lao Ré có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sớm trở thành nơi xuất
hiện con người sinh sống định cư. Cách ngày nay trên 3000 năm, trên Cù Lao
Ré đã xuất hiện con người định cư sinh sống thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh,
tiếp đến là cư dân văn hóa Chămpa. Lịch sử Cù Lao Ré trước khi người Việt ra
khai phá gắn liền với những biến cố thăng trầm của lịch sử vương quốc
Chămpa, Chiêm Thành, là một bộ phận của không gian của văn Chămpa. Người
Chămpa trên đảo Cù Lao Ré phát triển kinh tế thiên về khai thác biển chứng tỏ
từ rất sớm họ rất giỏi trong các hoạt động trên biển và là cầu nối giữa Cù Lao
Ré với đất liền và biển Đông.
Cù Lao Ré có vị trí đặc biệt trên tuyến hải thương quốc tế biển Đông, là địa
điểm có thể cung cấp nước ngọt, lương thực thực phẩm cho các chuyến tàu buôn
bán từ phương Tây sang phương Đông nên đã sớm trở thành một trong những hòn
đảo xuất hiện trên các tấm bản đồ hàng hải thế giới. Sự ghi nhận Cù Lao Ré trong
các bản đồ phương Tây với các tên gọi khác nhau như Pulo Canton, Pullo Cantan,
Colaure hoặc ký hiệu là P. Canton từ thế kỷ XVI cho đến các thế kỷ sau này cùng
các ghi chép về đặc điểm của Cù Lao Ré đã khẳng định tầm quan trọng của hòn
đảo này đối với hoạt động thương mại trên biển lúc bấy giờ.
148
Trong quá trình Nam tiến, từ những thập niên cuối của thế kỷ XVI, các
cư dân Việt từ hai xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền đã ra khai phá đất đai
trên Cù Lao Ré cộng cư cùng với cư dân văn hóa Chămpa bản địa dần đi đến
làm chủ hoàn toàn hòn đảo này. Sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của
người Việt trên Cù lao trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới người
Chămpa dời hòn đảo này vào những năm đầu thế kỷ XVII vào đất liền và di
chuyển về phương Nam.
2. Cùng quá trình khẩn hoang, định cư và phát triển kinh tế nông nghiệp
và ngư nghiệp, Cù Lao Ré hoàn toàn do cư dân Việt làm chủ với sự hình thành
hai cộng đồng dân cư với tổ chức quản lý xã hội cấp “phường” là An Hải ở
phía đông bắc và An Vĩnh ở tây nam hòn đảo vào năm 1618. Mặc dù vậy về
mặt quản lý, hai phường An Hải và An Vĩnh vẫn phụ thuộc vào hai xã gốc
trong đất liền và chỉ thực sự thoát ra khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn trở thành đơn
vị hành chính cấp cơ sở vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn.
Xuyên suốt lịch sử Cù Lao Ré từ khi thuộc sự cai trị của các chúa Nguyễn cho
đến triều Nguyễn giữa thế kỷ XIX, về mặt quản lý hành chính có giai đoạn Cù
Lao Ré chịu sự quản của hai xã gốc An Hải, An Vĩnh hoặc chịu sự quản lý từ
cấp huyện Bình Sơn song luôn nằm trong sự quản lý trực tiếp của “nội phủ”
cấp dinh trấn hoặc cấp tỉnh sau này dưới triều Nguyễn. Điều này làm cho Cù
Lao Ré luôn được đặt trong chế độ cai trị bán quân sự, tồn tại hai cấp quản lý:
quân sự - hành chính, trong đó yếu tố quân sự luôn chiếm ưu thế nhằm đảm bảo
cho Cù Lao Ré trở thành tiền đồn bảo vệ đất liền từ phía biển và bảo vệ chủ
quyền quốc gia đối với các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa giữa biển Đông.
3. Sự quản lý trực tiếp của chính quyền cấp cao dinh trấn thậm chí từ
triều đình giúp cho Cù Lao Ré có điều kiện thuận lợi trong sự phát triển mạnh
mẽ hoạt động kinh tế nông nghiệp, hình thành các nghề thủ công và phát triển
kinh tế ngư nghiệp khai thác ngư trường biển Đông, đặc biệt là ngư trường
thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có thể nói, các ngư dân trên Cù
Lao Ré là những người thành thạo đường biển ra quần đảo Hoàng Sa và Trường
149
Sa nhất lúc bấy giờ. Do vậy mà dưới thời phong kiến, các loại thuế áp dụng cho
Cù Lao Ré đa phần là thuế hiện vật có nguồn gốc từ biển như các loại cá quý có
nguồn gốc từ Hoàng Sa, các loại mắm, nước mắm cùng sản vật trên đảo như
dầu hương và dầu phụng.
Từ quá trình định cư làm chủ Cù Lao Ré và hoạt động kinh tế đa dạng
đặc biệt là nghề đi biển, cư dân Cù Lao Ré đã hình thành nên đời sống văn
hóa của riêng mình trong quá trình tiếp biến văn hóa Chămpa và mang đậm
yếu tố biển đảo gắn liền với hoạt động kinh tế đặc trưng của hòn đảo này.
Nhìn vào tổng thể các cơ sở thực hành nghi lễ văn hóa, các lễ hội trên đảo cho
thấy ngoài các yếu tố văn hóa Chămpa được lưu giữ thì đa phần các cơ sở văn
hóa và nghi lễ, lễ hội đều liên quan đến hoạt động ngư nghiệp, đặc biệt liên
quan đến lịch sử hoạt động của đội Hoàng Sa. Thông qua tìm hiểu về lịch sử
Cù Lao Ré trên tất cả các mặc kinh tế, văn hóa, xã hội và hoạt động của đội
Hoàng Sa cho thấy thực tế ngay từ khi ra đời đội Hoàng Sa gắn chặt với sự
phát triển của Cù Lao Ré.
4. Theo các nguồn tư liệu, đội Hoàng Sa thành lập dưới thời trị vì của
chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614 – 1635) với các thành viên lấy người xã An
Vĩnh xung vào. Mặc dù các loại tư liệu chỉ phản ánh số lượng người trong đội
Hoàng Sa lúc ban đầu thành lập mà không có nguồn tư liệu nào chép từng cá
nhân với tên tuổi cụ thể tham gia nhưng với sự nghiên cứu tổng thể về Cù Lao
Ré cho thấy giai đoạn này, cư dân phường An Vĩnh thuộc vào sự quản lý của xã
gốc trong đất liền. Cùng với hoạt động kinh tế truyền thống thiên về ngư
nghiệp trên ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa của biển Đông thông thạo
đường biển, chắc chắn các ngư dân phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré đã trở
thành lực lượng chủ yếu trong việc tuyển quân xung vào đội Hoàng Sa. Cù Lao
Ré thực sự là quê hương của đội Hoàng Sa ngay từ buổi đầu thành lập lực
lượng này và đó cũng là cơ sở dẫn tới sự xuất hiện hàng loạt các di tích lịch sử
cùng các nghi lễ, lễ hội văn hóa trên Cù Lao Ré đề cập đến đội Hoàng Sa tồn
tại cho đến ngày nay.
150
5. Cù Lao Ré – quê hương của đội Hoàng Sa ngày càng khẳng định vị trí
vai trò của nó trong hoạt động của đội Hoàng Sa dưới triều Nguyễn khi đội
Hoàng Sa nhập vào đội Thủy quân, lực lượng hoạt động trên biển. Cù Lao Ré
đã trở thành địa bàn trọng yếu trong việc tuyển người và cắt cử người tham gia
cùng đội Thủy quân ra đo đạc hải trình, các đảo và biên vẽ bản đồ hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Các công trình lịch sử, địa lý quốc gia cho đến các châu bản triều
Nguyễn khi đề cập đến hoạt động của đội Hoàng Sa và sau này là đội Thủy
quân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khai thác, đo vẽ hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cũng như nhiệm vụ cứu trợ tàu thuyền gặp nạn trên biển Đông
phần lớn đều liên quan đến Cù Lao Ré. Đặc biệt trong hoạt động của đội Hoàng
Sa cũng như đội Thủy quân xuất hiện nhiều cái tên là những người con của Cù
Lao Ré như cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết, Cai cơ Ngự thủ kiêm quản đội
Hoàng Sa, Cai đội Phạm Quang Ảnh cùng các cá nhân Đặng Văn Xiểm, Phạm
Văn Sênh, Phạm Văn Nguyên, Vũ Văn Hùng, Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Biện
và lực lượng “thủy thủ”, “thủy sư” là những ngư dân giàu kinh nghiệm, thành
thạo việc đi ra Hoàng Sa được lịch sử và châu bản đề cập.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Dương Hà Hiếu (2014), “Biển, đảo Đàng Trong Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XIX (thông qua các tư liệu lịch sử, địa lý tiếng Anh đương thời)”,
Kỷ yếu hội thảo Nhận diện và phát huy các giá trị tài nguyên biển đảo phục
vụ phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, ISBN. 978 – 604 – 73 – 3021 – 8, tr. 47 – 66.
2. Dương Hà Hiếu (2015), “Quá trình khai phá và định cư của người Việt trên
Cù Lao Ré cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã
hội Đà Nẵng (số 66, 2015), ISSN. 1859 – 3427, tr. 33 – 41.
3. Dương Hà Hiếu (2015), “Biển, đảo Việt Nam trong các tư liệu tiếng Anh từ
thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 5 (469),
2015), ISSN. 0866 – 7497, tr. 22 – 38.
4. Dương Hà Hiếu (2015), “Tình hình sở hữu ruộng đất trên Cù Lao Ré từ thế kỷ
XVII đến giữa thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 10 (474), 2015),
ISSN. 0866 – 7497, tr. 10 – 20.
5. Dương Hà Hiếu (2016), “Đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động
thực thi bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới triều vua
Gia Long và Minh Mạng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (số 2 (191),
2016), ISSN. 0868 – 2739, tr. 42 – 50.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt
1. Cao Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Từ nghi lễ của dòng họ đến lễ hội của cộng
đồng: nghiên cứu nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi”
in trong Những thành tựu nghiên cứu bước đầu của khoa Nhân học, Nxb Đại
học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, Huế.
3. Mai Trọng Anh (2012), Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa huyện đảo Lý Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam.
4. Đỗ Bá (1686), “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, in trong Hồng Đức bản đồ
(1490), Bản dịch lưu tại UB Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao CHXHCN
Việt Nam.
5. Đỗ Bang (2011), “Quá trình khai thác và thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa dưới thời chúa Nguyễn và Tây Sơn”, Lịch sử Quân sự số 235
(7 – 2011), tr. 13 – 19.
6. Đoàn Bích (2009), Đề cương trưng bày “Nhà trưng bày lưu niệm đội Hoàng Sa
kiêm quản Bắc Hải” (xã Vĩnh An, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Bảo tàng
Tổng hợp, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
7. Đinh Phan Cư (1972), Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Luận văn
tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn, hiện lưu tại Thư viện Đại
học Luật, Tp. Hồ Chí Minh, mã số LV 706.
8. Nguyễn Công Chất (2001), Cù Lao Ré (Đảo Lý Sơn) từ đầu thế kỷ XVII đến
giữa thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, Trường Đại học Đà Lạt.
9. Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Phan Huy Chú (2012), “Hoàng Việt dư địa chí”, in trong Tổng tập Dư địa chí
Việt Nam, tập 1, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
11. Cục Thống kê – Phòng Thống kê huyện Lý Sơn (2011), Niên giám thống kê
năm 2010, Tài liệu lưu trữ tại Phòng Thống kê huyện Lý Sơn.
12. Nguyễn Bá Diến (2012), “Nhà nước Việt Nam đã từ lâu và liên tục thực hiện
chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa”,
Nghiên cứu Đông Nam Á số 2 (143), tr. 16 – 32.
153
13. Trương Minh Dục (2014), Chủ quyền quốc gia Việt Nam tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước ngoài, Nxb Thông tin
và Truyền thông, Hà Nội.
14. Nguyễn Đình Đầu (2014), Việt Nam Quốc hiệu và cương vực Hoàng Sa –
Trường Sa, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
15. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa và
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
16. Nguyễn Đóa – Nguyễn Đạt Nhơn (1940), Địa dư tỉnh Quảng Ngãi,
Imprimerie Mirador (Vien – De), 11 – 13 Quai de la Susse, Hue, lưu tại Thư
viện Quốc gia Việt Nam.
17. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
18. Hải Đường (1999), “Địa danh Hoàng Sa trong châu bản triều Nguyễn”, Xưa
và Nay số 63B, tr. 20 – 21.
19. Hoàng Xuân Hãn (1975), “Quần đảo Hoàng Sa”, Sử - Địa số 29, tr. 7 – 18.
20. Lãng Hồ (1975), “Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Sử - Địa số
29, tr. 54 – 114.
21. Lê Huỳnh Hoa (2011), “Châu bản triều Nguyễn – Cơ sở lịch sử về chủ
quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa”, Nghiên cứu Lịch sử số 12
(428), tr. 45 – 51.
22. Võ Văn Hồng (1996), “Lý Sơn truyền thống và cách mạng”, Cẩm Thành, số 9,
Quảng Ngãi, tr. 13 – 15.
23. Phạm Kim Hùng (2002), “Đi tìm sự thật về lịch sử hai quần đảo ở Biển Đông”,
Biên giới và Lãnh thổ số 12, tr. 17 – 18.
24. Phạm Kim Hùng (2002), “Đi tìm sự thật về lịch sử hai quần đảo ở Biển Đông
(tiếp theo và hết)”, Biên giới và Lãnh thổ số 13, tr. 18 – 20.
25. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), “Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa (Paracels) trong
những thế kỷ XVII – XVIII – XIX qua nguồn tư liệu phương Tây”, Nghiên
cứu Lịch sử số 9 (425), tr. 21 – 40.
26. Nguyễn Thừa Hỷ (1999), “Quần đảo Hoàng Sa trong thế kỷ XVII – XIII: Nhìn
154
từ phương tây” in trong Tuyển tập các báo cáo toàn văn Hội nghị khoa học về
lịch sử, địa lý, pháp lý chủ quyền của nước CHXHCN Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa – Trường Sa (Đề tài BĐ-HĐ-01), Đại học Quốc gia Hà Nội –
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, tr. 13 – 17.
27. Phan Khoang (1970), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Khai trí, Sài Gòn.
28. Đoàn Ngọc Khôi (1996), Hồ sơ khoa học di tích đình làng và nhà thờ tiền hiền
xã Lý Hải, Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao tỉnh Quảng Ngãi, Bảo tàng Tổng
hợp tỉnh Quảng Ngãi.
29. Đoàn Ngọc Khôi (2003), Di tích xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh vùng
duyên hải Nam Trung bộ, LATS Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Viện
Khảo cổ học, Trung Tâm KHXH và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
30. Đoàn Ngọc Khôi (2004), Lý lịch di tích đền thờ Thiên Yana (Thôn Đông, xã
An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao,
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
31. Đoàn Ngọc Khôi (2004), Lý lịch di tích đền thờ Cá Ông Lân Chánh (Xã An
Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao tỉnh
Quảng Ngãi, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
32. Đoàn Ngọc Khôi (2005), Lý lịch di tích dinh Tam Tòa (Thôn Tây, xã An Hải,
huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao tỉnh Quảng
Ngãi, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
33. Đoàn Ngọc Khôi (2006), Lý lịch di tích mộ và đền thờ Võ Văn Khiết (Thôn
Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin –
Thể thao tỉnh Quảng Ngãi, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
34. Đoàn Ngọc Khôi (2006), Lý lịch di tích nhà thờ Phạm Quang Ảnh (Thôn
Đông, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin –
Thể thao tỉnh Quảng Ngãi, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
35. Đoàn Ngọc Khôi (2013), Lý lịch di tích đình An Vĩnh (Thôn Đông, xã An Vĩnh,
huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Quảng
Ngãi, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
36. Nguyễn Văn Kim (2011), “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển
155
nhận thức về biển, đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, Nghiên cứu
Lịch sử, số 9 (425), tr. 3 – 20.
37. Nguyễn Văn Kim (Cb – 2011), Người Việt với biển, Nxb Thế giới, Hà Nội.
38. Hoàng Trọng Lập (1996), Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa và
luật pháp quốc tế, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Luật học, chuyên ngành Luật
Quốc tế, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện
lưu tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội, mã số LA96.1063.
39. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Việt Long (2014), Hoàng Sa – Trường Sa các sự kiện, tư liệu lịch sử -
pháp lý chính, tập 1 (thế kỷ XV – 2000), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
41. Lê Nguyễn Lưu (2009), “Chiếc ghe của đội Hoàng Sa”, Nghiên cứu và phát
triển, số 4 (75), Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, tr. 88.
42. Minh Mạng (1830), Châu bản triều Nguyễn ngày 27 tháng 6 năm Minh Mạng
thứ 11,Tập Châu bản Minh Mạng số 43, tờ 58, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
43. Minh Mạng (1830), Châu bản triều Nguyễn ngày 27 tháng 6 năm Minh Mạng
thứ 11, Tập Châu bản Minh Mạng số 43, tờ 59, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
44. Minh Mạng (1830), Châu bản triều Nguyễn ngày 27 tháng 6 năm Minh Mạng
thứ 11, Tập Châu bản Minh Mạng số 43, tờ 60, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
45. Minh Mạng (1830), Châu bản triều Nguyễn ngày 27 tháng 6 năm Minh Mạng
thứ 11, Tập Châu bản Minh Mạng số 43, tờ 61, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
46. Minh Mạng (1833), Châu bản triều Nguyễn ngày 22 tháng 11 năm Minh
Mạng thứ 14, Tập Châu bản Minh Mạng số 49, tờ 230 - 231, lưu tại Trung tâm
lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.
47. Minh Mạng (1835), Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng
156
thứ 16, Tập Châu bản Minh Mạng số 54, tờ 92, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
48. Minh Mạng (1835), Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 16, Tập Châu bản Minh Mạng số 54, tờ 94, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
49. Minh Mạng (1836), Châu bản triều Nguyễn ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng
thứ 17, lưu tại UB Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam.
50. Minh Mạng (1837), Châu bản triều Nguyễn ngày 11 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 18, Tập Châu bản Minh Mạng số 57, tờ 210, lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I, Hà Nội.
51. Minh Mạng (1837), Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 18, Tập Châu bản Minh Mạng số 57, tờ 244, lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I, Hà Nội.
52. Minh Mạng (1837), Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 18, Tập Châu bản Minh Mạng số 57, tờ 245, lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I, Hà Nội.
53. Minh Mạng (1838), Châu bản triều Nguyễn ngày 21 tháng 6 năm Minh Mạng
thứ 19, Tập Châu bản Minh Mạng số 68, tờ 215, lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I, Hà Nội.
54. Minh Mạng (1838), Châu bản triều Nguyễn ngày 19 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 19, Tập Châu bản Minh Mạng số 64, tờ 146 - 147, lưu tại Trung tâm lưu
trữ Quốc gia I, Hà Nội.
55. Minh Mạng (1938), Châu bản triều Nguyễn ngày 2 tháng 4 nhuận năm Minh
Mạng thứ 19, Tập Châu bản Minh Mạng số 68, tờ 21, lưu tại Trung tâm lưu
trữ Quốc gia I, Hà Nội.
56. Minh Mạng (1838), Châu bản triều Nguyễn ngày 6 tháng 4 nhuận năm Minh
Mạng thứ 19, Tập Châu bản Minh Mạng số 68, tờ 40, lưu tại Trung tâm lưu
trữ Quốc gia I, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Mạnh (1999), Văn hóa làng và làng văn hóa ở Quảng Ngãi, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
58. Ngô Văn Minh (2009), “Biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
157
dân tộc Việt Nam”, Lịch sử Quân sự số 207 (3-2009), tr. 14 – 18.
59. Nguyễn Quang Ngọc (2012), “Đội Hoàng Sa: Cách thức thực thi chủ quyền độc
đáo của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông trong các thế kỷ XVII,
XVIII và đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu Đông Nam Á số 2 (143), tr. 3 – 15.
60. Nguyễn Quang Ngọc (2009), “Đội Hoàng Sa – Hình thức tổ chức độc đáo để
khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa biển
Đông”, Lịch sử Quân sự số 207 (3 – 2009), tr. 21 – 23.
61. Nguyễn Quang Ngọc (2011),“Hoàng Sa, Trường Sa: Những trang sử được viết
bằng máu”, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội số 245 (2011), tr. 30 – 36.
62. Nguyễn Nhã (1975), “Hoàng Sa qua vài tài liệu văn khố của Hội truyền giáo
Ba Lê”, Sử - Địa số 29, tr. 258 – 273.
63. Nguyễn Nhã (2002), Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, LATS Lịch sử, Trường Đại học KHXH và Nhân văn,
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
64. Nguyễn Nhã (2008), “Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa qua
các nguồn tư liệu lịch sử”, Lịch sử Quân sự số 196 (4 – 2008), tr. 19 – 23.
65. Nguyễn Nhã (2008), “Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa
qua các nguồn tư liệu lịch sử”, Lịch sử Quân sự số 197 (5 – 2008), tr. 1 – 6.
66. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Thu Minh, Vũ
Quang Việt (2008), Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (sưu tập những báo
cáo khoa học, bài báo và tư liệu mới về chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
67. Nhiều tác giả (2012), Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý: Hoàng Sa, Trường
Sa là của Việt Nam (Tái bản lần thứ 1), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
68. Nhiều tác giả (2013), Hoàng Sa, Trường Sa là máu thịt của Việt Nam, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
69. Lương Ninh (2004), Vương quốc Chăm Pa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
70. Vũ Văn Quân (1999), “Nhìn lại thành tựu nghiên cứu lịch sử chủ quyền Việt
Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa” in trong Tuyển tập các báo cáo toàn văn Hội
nghị khoa học về lịch sử, địa lý, pháp lý chủ quyền của nước CHXHCN Việt
158
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa (Đề tài BĐ-HĐ-01), Đại học
Quốc gia Hà Nội – Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, tr. 1 – 12.
71. (1982), Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa – bộ phận lãnh thổ của
Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
72. Quốc sử viện triều Lê – Trịnh (2012), Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789),
Nxb Hồng Bàng và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
73. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
78. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
81. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự (Sử liệu nước Đại Việt thế kỷ XVII),
UB phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế.
82. Ngô Thì Sĩ (2011), Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
83. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
84. Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi (2013), Biển đảo Quảng Ngãi
lịch sử - kinh tế - văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội.
85. Nguyễn Trí Sơn (1994), Hồ sơ di tích Chùa Hang (xã Lý Hải, huyện Lý Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi), Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh
Quảng Ngãi.
86. Nguyễn Q. Thắng (2009), Hoàng Sa Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ
công pháp quốc tế, Nxb Tri thức, Hà Nội.
87. Hồ Đức Thọ (1999), Lệ làng Việt Nam. Nxb Hà Nội, Hà Nội.
88. Nguyễn Thông (2009), Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Nxb Văn
159
hóa Thông tin, Hà Nội.
89. Trần Nam Tiến (2011), “Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt
Nam trên quần đảo Trường Sa qua các thời kỳ lịch sử”, Lịch sử Quân sự số
238 (10 – 2011), tr. 18 – 25.
90. Tờ lệnh ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834) của quan Bố chánh,
Án sát tỉnh Quảng Ngãi, UB Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao CHXHCN
Việt Nam lưu giữ và cung cấp.
91. Tờ đơn ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) của Cai hợp Hà
Liễu phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh lập, hiện lưu tại nhà thờ tộc họ Võ thuộc
thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, Tư liệu do Nguyễn Quang Ngọc dịch và
cung cấp.
92. Nguyễn Bá Trác (1933), “Quảng Ngãi tỉnh chí” trong Nam phong tạp chí, bản
đánh máy lưu tại Thư viện Tổng hợp Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
93. Thiệu Trị (1847), Châu bản triều Nguyễn ngày 28 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ
7, Tập Châu bản triều Nguyễn số 51, tờ 235, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
94. Thiệu Trị (1847), Châu bản triều Nguyễn ngày 26 tháng giêng năm Thiệu Trị
thứ 7, Tập châu bản triều Nguyễn số 41, tờ 42, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia I, Hà Nội.
95. Triều Lê (1490), Hồng Đức bản đồ (1490), Bản dịch lưu tại UB Biên giới
quốc gia, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam.
96. Văn Trọng (1979), Hoàng Sa quần đảo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
97. Trần Công Trục (2012), “Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt
Nam tại Hoàng Sa”, Lịch sử Quân sự số 242 (2 – 2012), tr. 13 – 17.
98. Trần Công Trục (2012), “Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt
Nam tại Hoàng Sa”, Lịch sử Quân sự số 243 (3 – 2012), tr. 20 – 25.
99. Trần Công Trục (2013), Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông, Nxb Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
100. Nguyễn Thanh Tùng (1999), Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu bảo tồn và
160
định hướng phát triển văn hóa vật thể và phi vật thể ở huyện đảo Lý Sơn”,
UBND huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi.
101. UBND thành phố Đà Nẵng và UBND huyện Hoàng Sa (2012), Kỷ yếu Hoàng
Sa, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
102. UBND tỉnh Quảng Ngãi – Sở Khoa học, Công Nghệ và Môi trường tỉnh
Quảng Ngãi (2002), Văn hóa truyền thống huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi.
103. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2008), Địa chí Quảng Ngãi, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
104. UB Biên giới Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam (2013), Tuyển tập các châu
bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
105. Nguyễn Đăng Vũ (2006), “Sự hình thành cộng đồng cư dân Việt ở Quảng
Ngãi”, in trong Văn hiến Quảng Ngãi truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
106. Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao (1979), Chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại
giao CHXHCN Việt nam, Hà Nội.
2. Tài liệu điền dã
107. Bản kê văn khế của phường An Vĩnh trước năm 1789, sao chép lại ngày 1
tháng 11 năm Gia Long thứ 4 (1805).
108. Địa bạ Cù Lao Ré năm 1821 lưu tại nhà anh Nguyễn Chí Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
109. Gia phả họ Lê, thôn Đông, xã An Vĩnh.
110. Gia phả họ Nguyễn tiền hiền hiện lưu tại nhà ông Nguyễn Ấn, thôn Đông, xã
An Hải.
111. Gia phả họ Nguyễn hậu hiền, thôn Đông, xã An Hải, huyện Lý Sơn.
112. Gia phả họ Nguyễn Văn lưu tại nhà ông Nguyễn Văn Tự, xóm Trung Yên, xã
An Hải.
113. Gia phả họ Phạm Văn lưu tại nhà ông Phạm Văn Tuất, thôn Tây xã An Vĩnh.
114. Gia phả họ Phạm Quang lưu tại nhà ông Phạm Quang Kế, thôn Tây, xã An Vĩnh.
115. Gia phả họ Trần lưu tại nhà ông Trần Tờ, thôn Đông, xã An Vĩnh.
161
116. Gia phả họ Trương lưu tại nhà ông Trương Đạt, thôn Đông, xã An Hải.
117. Gia phả họ Vũ lưu tại nhà ông Vũ Huy Cận, xã An Vĩnh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi.
118. Tông đồ gia phả dòng họ Võ Văn (Võ Văn Khiết), lưu tại nhà thờ họ Võ Văn
do ông Văn Út huyện Lý Sơn cung cấp.
119. Thần tích đình An Hải do ông Nguyễn Xuân Cảnh làm nghề thầy cúng 70 tuổi
tại xóm Trung Yên, xã An Hải cung cấp.
120. Tờ kê trình tháng 6 năm Gia Long thứ 6 (1807) lưu tại nhà Nguyễn Chí Thanh
37 tuổi, xã An Hải.
121. Tờ trình ngày 27 tháng 4 năm Gia Long thứ 8 (1809) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
122. Tờ trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 8 (1809) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
123. Tờ trình ngày 15 tháng 11 năm Gia Long 8 (1809) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
124. Tờ kê trình ngày 24 tháng 3 năm Gia Long thứ 17 (1818) lưu tại nhà Nguyễn
Chí Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
125. Tờ trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 17 (1818) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
126. Tờ kê trình ngày 25 tháng 7 năm Gia Long thứ 17 (1818) lưu tại nhà Nguyễn
Chí Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
127. Tờ kê trình tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
128. Tờ trình ngày 20 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 7 (1826) lưu tại nhà Nguyễn
Chí Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
129. Tờ kê trình ngày 7 tháng 8 năm Minh Mệnh 7 (1826) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
130. Tờ trình ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 6 (1827) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
131. Tờ kê trình ngày 12 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) lưu tại nhà Nguyễn
162
Chí Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
132. Tờ kê trình ngày 19 tháng 8 năm Tự Đức thứ 3 (1850) lưu tại nhà Nguyễn Chí
Thanh 37 tuổi, xã An Hải.
133. Văn khế bán đoạn một phần đất ở phường An Vĩnh lưu tại nhà ông Nguyễn
Quang Kế, thôn Tây, xã An Vĩnh.
134. Văn khế mua bán ruộng đất của phường An Hải ngày 21 tháng 12 năm Cảnh
Hưng thứ 1 (1740).
135. Văn Khế mua bán ruộng đất của xã An Vĩnh ngày 12 tháng 3 năm Gia Long
thứ 15 (1816).
136. Văn khế mua bán ruộng đất xã An Hải lưu tại nhà Nguyễn Chí Thanh 37 tuổi,
xã An Hải.
137. Văn tế lưu tại đình làng xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Tiếng nước ngoài
3.1. Tiếng Anh
138. A Member of the Royal Geographical Society (1856), Gazetteer of The World,
or Dictionary of Geographical Knowledge, compiled from the most recent
authorities, Vol V (Từ điển địa dư thế giới, hay từ điển kiến thức địa lý sưu
tầm từ những tác giả mới đây nhất, tập 5), A Fullarton and Co. Stead’s place,
edinburgh, 106 Newgate stress, London and 22 Eustace street, Dublin.
139. John Barrow (1806), A Voyage to Cochin China in the years 1792 and 1793:
Containing a general view of the valuable productions and the political
importance of this flourishing kingdom, and also of such european settlements
as were visited on the voyage (Một chuyến du hành tới Cochinchina trong
những năm 1792 và 1793: gồm cái nhìn tổng quan về những sản phẩm có giá
trị và tầm quan trọng mang tính chính trị của vương quốc này cùng sự lui tới
của người châu Âu đến đây trên những chuyến hải trình), Printed for T. Cadell
and W. Davies in the Strand, London, England.
140. David Brewster (1832), The Edinburgh Encyclopaedia: Science and the Arts,
163
in eighteen volumes, Vol VI (Bách khoa toàn thư Edinburgh: Khoa học và
nghệ thuật, quyển 18, tập 6), Published by Joseph, Edward Parker, William
Brown, Printer, Philadelphia, USA.
141. M. Malte Brun, James G. Percival (1834), A System of Universal Geography,
or a description of all the parts of the World, on a new plan according to the
great natural, divisions of the globe, accompanied with analytical, synoptical
and elementary tables, Vol I (Hệ thống địa lý toàn cầu hay là sự miêu tả tất cả
các phần của thế giới trên một kế hoạch mới dựa trên tự nhiên, sự phân chia
của thế giới đi kèm với phân tích các khái niệm cơ bản), Printed and published
by Samuel Walker, Boston, USA.
142. Daniel J. Dzurek (1996), The Spartly Islands Dispute: Who’s on first? (Tranh
chấp quần đảo Trường Sa: Ai là người đầu tiên?), Maritime Briefing Volume
2 number 1. International Boundaries Research Unit Suite 3P, Mountjoy
Research Centre, University of Durham, Durham DH1 3UR, UK.
143. Alexander Hamilton (1727), A new account of the East Indies, being the
observation and remarks, vol II (Thông tin mới của Đông Ấn, quan sát và
đánh giá, tập 2), Printed by John Mosman One of his Majesty’s Printer, and
fold at the King’s Printing-house in Craig’s Clofs, Edinburgh, Scotland, UK.
144. James Horsburgh (1836), India Dirctory, or Directions for sailing to and from
the East Indies, China, Australia, Cape of Good Hope, Brazil and the
Interjacent ports, Volume Second (Từ điển Ấn Độ, hay chỉ dẫn hàng hải đến
vùng Tây Ấn, Trung Hoa, Autralia, mũi Hảo Vọng, Brazil và các cảng trung
tâm), London, W.H. Allen and Co., Booksellers to the honouradle East India
company, No7, Leadenhall street.
145. Christopher C. Joyner (1998), “Tranh chấp quần đảo Trường Sa: Suy nghĩa lại
tác động qua lại giữa luật, ngoại giao và địa chính trị trong biển Nam Trung
Hoa”. Tạp chí Quốc tế về Luật biển và ven biển (The International Journal of
Marine and Coastal Law), số 2, tập 13, tháng 5, 1998, Bản dịch tiếng Việt lưu
tại Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam.
146. Thomas Keith (1826), A System of Geography for the use of school on an
164
entirely new plan (Hệ thống địa lý sử dụng trong nhà trường theo một kế
hoạch mới), Printed for Longman, Rees, Orme, Brown, and Green; R.
Scholey; Sherwood and Co.; G.B. Whittaker and Hamilton, Adams and Co.,
London, England.
147. Charles Knight (1866), Geography or First Division of “The English
Encyclopedia, Volume II” (Địa lý hay sự phân chia đầu tiên của Bách khoa
toàn tư Anh, tập 2), Bradbury, evans, and Co, 11, Bouverie St., Fleet St., E.C.
Scribner, Welford, and Co., 654, Broadway, New York, London, England.
148. Macartney, George (1797), An Historical account of the embssy to the
emperor of China (Một báo cáo lịch sử của sứ thần với Hoàng đế Trung Hoa),
Printed for John Stockdale, Piccadilly, London, England.
149. Macartney, George (1797), An Abridged account of the embssy to the emperor
of China (Báo cáo ngắn gọn của sứ thần với Hoàng đế Trung Hoa), Printed for
John Stockdale, Piccadilly, London, England.
150. Ministry of Foreign Affairs National boundary Commission (2012), Vietnam’s
sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa archipelagos (Chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), National Political
publishing house, Hanoi, Vietnam.
151. Napier (1842), The Encyclopaedia Britannica, or Dictionary of Arts, Sciences,
and miscellaneous literature, Seventh edition, Volume VII, part I (Bách khoa
toàn thư Anh hay từ điển về nghệ thuật, khoa học và văn chương, tái bản lần
thứ 7, tập 7, phần 1), Printed for Adam and Charles Black, Edinburgh
(Scotland); Simpkin and Marshall, Whittaker, treacher, and Co, and Hamilton,
Adams and Co, London (England); John Cumming, Dublin (Ireland).
152. Thomas Pennant (1800), The view of the India extra Gangem, China and
Japan, Vol III (Quan điểm của Ấn Độ về Gangem, Trung Quốc và Nhật Bản,
tập 3), Printed by Luke Hanfard, Great Turnstile, Lincoln’s Inn Fields; and
sold by John White, Horace’s head, fleet street, London, England.
153. John Pinkerton, S. Vince (1806). Modern Geography: A Description of the
165
empires, kingdoms, states, and colonies with the oceans, seas, and Isles in all
parts of the world: including the most recent discoveries, and political,
alterations, digested on a new plan (Địa lý hiện đại: Sự miêu tả các triều đại,
các vương quốc, các bang và các thuộc địa có đại dương, biển và đảo ở tất cả
các nơi trên thế giới: bao gồm những phát hiện gần đây nhất và những thay đổi
chính trị dựa trên một kế hoạch mới), Printed for T. Cadell and W. Davies,
Strand; and Longman, press, Paternoster Row, London, England.
154. James Playfair (1813), A System of Geography, Ancient and Modern, Vol V
(Hệ thống địa lý cổ đại và hiện đại, tập 5), Printed for Petter hill, Edinburgh
and J. Murray, Fleet street, London, England.
155. Roderik Ptak (2000), “Các đảo san hô trong biển Nam Trung Hoa theo các tài
liệu của Trung Quốc (từ đời Tống đến đời Minh)”, Bài tham luận tại Hội nghị
“An ninh con người và khu vực xung quanh biển Nam Trung Hoa” ngày 02
tháng 04 năm 2000 tại Đại học Tổng hợp Oslo do Ban Biên giới Bộ Ngoại
giao CHXHCN Việt Nam dịch và cung cấp.
156. Edyta Roszko (2010), “Commemoration and the State: Memory and
Legitimacy in Vietnam” (Lễ tưởng niệm và nhà nước: ký ức và tính hợp lý ở
Việt Nam), Journal of Social Issues in Southest Asia Vol. 25, No 1, pp. 1 – 28.
157. Marwyn S. Samuels (1982), Contest for the South China Sea (Tranh chấp Biển
Đông). Methuen, NewYork and London, 1982, Bản dịch của Ban Biên giới Bộ
Ngoại giao CHXHCN Việt Nam.
158. Southern Vietnam under the Nguyễn (Documents on the Economic History of
Cochinchina) Miền Nam Việt Nam dưới triều Nguyễn (Tài liệu về lịch sử kinh
tế Đàng Trong), 1602-1777 (Edited by Li Tana, Anthony Reid), ANU,
Australia and ISEAS, Singapore, 1993.
159. Leni Stenseth (2003), Chủ nghĩa dân tộc và chính sách đối ngoại – cách nói
khoa trương của Trung Quốc về trường hợp quần đảo Nam Sa (Luận văn về
chính trị tháng 12 năm 1998, Khoa Chính Trị, Trường Đại học Oslo), Ban
Biên giới Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam xuất bản.
3.2. Tiếng Pháp
166
160. (1838), Abrégé de géographie universelle (Địa lý phổ thông tóm tắt),
Deuxième éditionConrad Malte-Brun, Larenaudière, Adriano Balbi, J.J.N.
Huot, Funrne et C1e, libraires, quai des augustins, 39; AiméAndré, libraire
esditeur, rue cusustine, 1, Paris.
161. (1867), Annales des voyages de la Géographie, de L'histoire et de
L'archéologie (Biên niên sử về du lịch địa lý, lịch sử và khảo cổ), Challamel
ainé, libraire éditeur, Commissionnaire pour la marine, les colonies et
L’orient, Rue des Boulangers, 30, et rue de Bellechasse, 27,Paris.
162. F.D. Aynès (1816), Nouveau dictionnaire universel de géographie moderne,
Nouvelle Édition, Seconde partie (L-Z) (Từ điển phổ thông về địa lý hiện đại, bản
mới, phần thứ 2), Paris, Chez L.Saintmichel, Libraire quai des Augustins, N0 49.
163. John Barrow, Malte Brun (1807), Voyage à la Cochinchine, Tome Second
(Chuyến đi đến Đàng Trong, tập 2), Paris Chez Francois Buisson, Libraire, rue
Git-le-Coeur, N0 10.
164. Malte Brun (1853), Géographie universelle: ou description de toutes les
parties du monde, Tome Cinquième (Địa lý phổ thông: Mô tả tất cả các nơi
trên thế giới, quyển thứ 5), Sixième édition par J.J.N Huot. Paris, Garnier
Frères, Libraires Esditeurs, 6, rue des Saints-Péres et 215 dis, Palais-Royal.
165. Malte Brun (1835), Précis de la géographie universelle ou Description de toutes
les parties du monde, Nouvelle Édition, Tome Cinquième (Mô tả tóm tắt địa lý
phổ thông các nơi trên thế giới, bản mới, quyển 5), Bruxelles et La Haye,
th.Lejeune, Imprimeur-Lithographe, Libraire-Éditeur, fomdeur en caractères.
166. Jean.YvesClayes (1941), Journal de Voyage aux Paracels (Tạp chí về những
chuyến đi tới Hoàng Sa), Indochine No 45.
167. Cortambert (1826), Géographie universelle, ou description générale de la
terre, considérée sous les rapports astronomique, physique, politique et
historique (Địa lý phổ thông: Mô tả chung về trái đất trên cơ sở các báo cáo
thiên văn, vật lý, chính trị và lịch sử), Paris, Chez Les Éditeurs: A.J Kilian,
Libraire, rue de Choiseul, N0 3; Ch, Picquet, Géographe ordinaire du Roi et de
167
S.A.R. Mgr le duc d’Orléans, quai Conti, N0 17.
168. Dumont D’Urville (1848), Voyage autour du monde, Tome Premier (Du lịch
vòng quanh thế giới, quyển 1), Paris Furne et C1e, Éditeurs.
169. Diamant (1839), Géographie universelle, ou Description générale de la terre,
considérée sous les rapports Astronomique, Physique, Politique et Historique Địa
lý phổ thông: Mô tả chung về trái đất trên cơ sở các báo cáo thiên văn, vật lý,
chính trị và lịch sử), Bruxelles, Société Belge de Librairie, Hauman et compe.
170. (1839), Dictionnaire géographique universel, contenant la description de tous
les lieux du globe, Tome Premier (Từ điển địa lý phổ thông, mô tả về tất cả
các nơi trên thế giới, quyển 1), Bruxelles, A. Lacrosse, Libraire Éditeur, Rue
de la Montagne, N0 26.
171. (1841) Dictionnaire usuel et scientifique de géographie (Từ điển phổ thông về
khoa học địa lý), Paris, Langlois et Leclercq, Libraires editeurs, Successeurs
de Pitols Levrault et C1e, Rue de la Harpe, 81, pp. 87.
172. (1847) Encyclopédie catholique répertoire universel et raisonné des
sciences, des lettres, des arts et des métiers, Tome Quinzième, O, PNYX
(Bách khoa toàn thư tổng hợp về khoa học, thư từ và thủ công mỹ nghệ,
quyển 15, O, PNYX), Paris Parent Desbarres, Esditeur, Rue cassette, 28,
Près Saint-Sulpice.
173. Monique Chemillier – Gendreau (2011), Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa (Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
174. William Guthrie (1839), Géographie Universelle Physique, Politique et Historique,
Tome III (Địa lý phổ thông, chính trị và lịch sử, quyển 3), Paris, Edme et Alexandre
Picard, Libraires, rue Hautefeuille, 14, quart, de L’Éc. De Méd.
175. (1854), Histoire Moderne Des Chinois, Des Japonais, Des Indiens, Des
Persans, des Turcs, des Russien, &c, Tome Premier (Lịch sử hiện đại Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ba Tư, Thổ Nhĩ kỳ và một số nước khác, quyển
168
1), Paris, Chez Desaint & Saillant, Libraires, rue S.Jean de Beauvais vis à
vis le Collége.
176. M.A Dubois de Jancigny (1850), L'Univers Pittoresque. Histoire et
Description De Tous Les Peuples. Japon, Indo-Chine, Empire Birman (Ou
Ava), Siam, Annam (Ou Cochinchine), Peninsule Malaise, Etc (Mô tả lịch
sử các dân tộc Nhật Bản, Ấn Độ, Đông Dương, Birman (hoặc Ava), Xiêm,
An Nam (hoặc Cochinchine, bán đảo Mã Lai, vv…), Ceylan, Paris éd,
Firmin Didot Freres.
177. Ch.B.Maybon (1916), Les marchands europe’ens are Cochinchine et au
Tonkin (1660-1775) (Thương nhân châu Âu với Đàng Trong và Đàng Ngoài
(1660 – 1775)), Revue Indochinoise.
178. Võ Long Tê (1974), Les Archipels de Hoàng Sa et de Trường Sa selon les
anciens ouvrages Vietnamiens D’histoire et de géographie (Quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Việt Nam lịch sử và địa lý), Publications
en langues étrangères de la commission de traduction. Saigon Ministère de la
culture, de L’esducation et de la jeunesse.
179. (1835), Voyage autour du monde par les mers de l’inde et de Chine, sur la corvette
La Favorite pendant les Années 1830, 1831 et 1832, Tome IV (Du lịch vòng quanh
thế giới qua các vùng biển Ấn Độ và Trung Quốc trên con tàu La Favorite trong
những năm 1830, 1831 và 1832, quyển 4), Paris, Imprimerie Royale.
180. Jean Yanosky, Jules David (1848), L'Univers histoire et description de tous
les peuples, syrie Ancienne et Modrerne (Lịch sử thế giới và sự mô tả các dân
tộc, từ cổ đại đến hiện đại), Paris, Firmin didot Frères, Éditeurs; Impprimeurs
Libraires de l’tnstitut de France.
3.3. Tiếng Trung
181. 陈克勤《中国南海诸岛》海口:海南国际新闻出版中心,1996 年 8 月.
Trần Khắc Cần (1996), “Quần đảo Nam Hải Trung Quốc”, Nxb Tin tức Quốc
tế Hải Nam, Hải Khẩu.
182. 李国强著《中国南海研究:历史与现状》黑龙江:黑龙江教育出版社,
2003 年. Lý Quốc Cường (2003), “Nghiên cứu về biển Nam Hải Trung Quốc:
169
Lịch sử và hiện trạng”, Nxb Giáo dục Hắc Long Giang.
183. 陈鸿瑜著《南海诸岛主权与国际冲突》台北:幼狮文化事业公司出版,
1987 年 11 月. Trần Hồng Du (1987), “Chủ quyền quần đảo Nam Hải và xung
đột quốc tế”, Công ty Sự nghiệp Văn hóa Ưu Sư xuất bản, Đài Bắc.
184. 于向东《古代越南的海洋意识》,2008年5月,厦门大学,博士学位论. Vu
Hướng Đông (2008), “Tri thức biển của Việt Nam thời cổ đại”, LATS Lịch sử,
Trường Đại học Hạ Môn, Luận án do GS.TS Nguyễn Quang Ngọc cung cấp.
185. 理海《从国际法看我国对南海诸岛拥有无可争辩的主权》当代国际法问
题, 中国法制出版社, 1993 年. Lý Hải (1993), “Chủ quyền không thể tranh
cãi của nước ta đối với các đảo trong khu vực Nam Hải nhìn từ góc độ luật
pháp quốc tế”, Nxb Pháp chế Trung Quốc, Bắc Kinh.
186. 韩晨华主编《南海诸岛史地考证论集》北京:中华书局出版社,1981 年
7 月. Hàn Chấn Hoa (Cb – 1981), “Tuyển tập những chứng cứ lịch sử địa lý
của quần đảo Nam Hải”, Nxb Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh.
187. 韩晨华《我国南海诸岛史料汇编》上海:东方出版社,1988 年. Hàn
Chấn Hoa (1988), “Hợp biên sử liệu về quần đảo Nam Hải của nước ta”, Nxb
Đông Phương, Thượng Hải.
188. 韩晨华主编《南海诸岛史地研究》北京:社会科学文献出版社,1996 年
4 月. Hàn Chấn Hoa (Cb – 1996), “Nghiên cứu về lịch sử địa lý quần đảo Nam
Hải”, Nxb Văn hiến Khoa học xã hội, Bắc Kinh.
189. 吕一燃主编《南海诸岛:地理.历史.主权》哈尔滨:黑龙江教育出版社,
1992 年 10 月. Lã Nhất Nhiên (Cb-1992), “Quần đảo Nam Hải: Địa lý – Lịch
sử - Chủ quyền”, Nxb Giáo dục Hắc Long Giang, Cáp Nhĩ Tân.
190. 一些作者《西沙群岛和南沙群岛古以来就是中国的领土》,1980年12月
,人民出版社. Nhiều tác giả (1980), “Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh
thổ của Trung Quốc từ thời cổ đại đến nay”, Nxb Nhân Dân, Trung Quốc,
tháng 12 năm 1980.
191. 吴士存,朱华友《聚焦南海——地缘政治。资源。航道》,2009年, 中
国经济出版社. Ngô Sĩ Tồn, Chu Hoa Sinh (Cb – 2009), “Tiêu điểm Nam Hải:
170
địa chính trị, tài nguyên, hàng hải”. Nxb Kinh Tế, Trung Quốc.
192. 吴士存《纵论南沙争端》,2005年9月,海南出版社. Ngô Sĩ Tồn (2005),
“Tổng thuật những tranh luận về Nam Sa”, Nxb Hải Nam, Trung Quốc.
193. 中华人民共和国外交部文件《中国对西沙群岛和南沙群岛的主权无可争》
1980 年 1 月 30 日. Văn kiện Bộ ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa (1980), “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc với quần đảo
Tây Sa và quần đảo Nam Sa”.
4. Bản đồ
194. G. B. Albrizzi (1740), “India di là del Fiume Ganges ovvero di Malacca Siam
Cambodia Chiampa KoChinkina Laos Pegu ava &c” (Ấn Độ bên kia sông
Hằng cụ thể là Malacca Siam Cambodia Chiampa KoChinkina Laos Pegu ava
&c ), Venice, Italy.
195. G. B. Albrizzi (1740), “Isole Filippine, Ladrones, e Moluccos o Isole della
Speziarie come anco Celebes &c” (Quần đảo Philippine, Ladrones và quần
đảo Moluccas cũng như Celebes &c), Venice, Italy.
196. Emanuel Bowen (1747), “A New and Accurate Map of the Empire of the
Great Mogul” (Bản đồ đế chế Mogul mới và chính xác) trong “A Complete
System of Geography” (Hệ thống địa lý hoàn chỉnh), London, England.
197. Thomas. Brown (1808), “A New and Accurate Map of the Islands and
Channels between China and New Holland” (Bản đồ mới và chính xác về các
đảo và eo biển giữa Trung Quốc và New Holland) trong Thomas Brown's
General Atlas (Atlas tổng hợp của Thomas Brown), Edinburgh, Scoland, UK.
198. Alexander Dalrymple, Jean-Baptiste D'Apres de Mannevillette (1775), “A
chart of the China Sea inscribed to Monsr” (Một biểu đồ Biển Đông để ghi
nhớ Monsr) trong bộ “Atlas Le Neptune Oriental” (Atlas hàng hải phương
Đông), Paris, France.
199. Guillaume Danet (1721), “Les Indes Orientales sous le Nom de que les est compris
L'Empire du Grand Mogol, Les Deux Presqu'Isles Deca et de la Le Gange, Les
Maldives, et L'Isle de Ceylan” (Đông Ấn Đông dưới thời đế chế của Mogul, bán
đảo Deca và các sông Hằng, Maldives và đảo Ceylon) trong “Atlas ou Receuil de
Cartes Geographiques” (Atlas hay Sê - ri bản đồ địa lý), Paris, France.
171
200. Nicolas de Fer (1709), “Les Indes orientales sous le nom desqueles est
compris l'empire du Grand Mogol, les deux presqu'isles deça et dela le Gange,
les Maldives et l'isle de Ceylan à quoi quelque uns joignent encore les Grandes
isles de la Sonde qui sont Sumatra, Java, et Borneo, les Philippines et les
Moluques” (Đông Ấn thuộc đế chế Mogol, hai bên bờ sông Hằng và bán đảo
Deca Maldives và đảo Ceylan cho tới đảo Greater Sunda, Sumatra, Java, và
Borneo, Philippines và Moluccas) trong tập “Atlas ou recueil de cartes
géographiques dressées sur les nouvelles observations de Mrs de l'Académie
Royale des Sciences” (Atlas hay bộ sưu tập các bản đồ địa lý được vẽ mới của
bà Royal Academy of Sciences), Paris, France.
201. E. van Harrevelt và D.J. Changuion (1773), “Carte Des Royaumes de Siam, de
Tunquin, Pegu. Aracan &c” (Bản đồ các quốc gia Siam, Tunquin, Pegu,
Aracan &c) trong bộ “Atlas Portatif pour servir a l'intelligence de l'Histoire
Philosophique et Politique des etablissements et du commerce des Européens
dans les deux Indes” (Atlas phục vụ trong sự thông minh của lịch sử triết học
và chính trị của các tổ chức và thương mại châu Âu), Amsterdam, Holand and
Paris, France.
202. Jodocus Hondius (1606), “Insulae Indiae Orientalis” (Những hòn đảo phía
đông Ấn Độ) trong bộ “Atlas Mercator Hondius”. Amsterdam, Holand, tái bản
năm 1613 và 1628.
203. G. de L’isle (1731), “Carte des Indes et de la Chine” trong “Carte des Indes,
dea la Chine and des Iles de Sumatra, Java and c. Dresseesur les Memoires
les pulus nouveaux and sur les meilleures Observations, tirees des Relations
les plus fideles”, Paris, France.
204. G. Mercator và J. Hondius (1630), “Asiae Nova Descriptio” (Bản đồ châu Á
mới), Amsterdam, Holand.
205. Quốc sử quán triều Nguyễn (1838), “Đại Nam nhất thống toàn đồ” (大南ー統全).
206. Giovanni Giacomo Rossi (1683), “Isole dell' India cioe la molucche Le
Filippine” (Quần đảo Ấn Độ, tức là Moluccas và Philippine) trong bộ “Il
172
Mercurio geografico” (Địa lý hàng hải), Rome, Italy.
207. Giovanni Giacomo Rossi (1683), “Penisola della India” (Bán đảo Ấn Độ)
trong bộ “Il Mercurio geografico” (Địa lý hàng hải), Rome, Italy.
208. Nicolas Sanson (1658, 1670), “Cartes generales de Toutes les bên du Monde”
(Bản đồ chung tất cả thế giới), Paris, France.
209. P. Santini và M. Remondini (1779, 1784), “Les Indes Orientales tirées du
Neptune Oriental” (Tuyến hàng hải thuộc phía đông Ấn Độ) trong bộ “Atlas
Universel” (Atlas Thế giới), Venice, Italy.
210. Jean Louis Taberd (1838), “An Nam đại quốc họa đồ” trong “Tabula
Geographica Imperii Anamitici”.
211. Phillippe Vandermaelen (1827), Bản đồ số 106 “Partie de la Cochinchine”
Một phần của Cochinchine) trong tập “Atlas Universel de Géographie
(Physique, politique, statisque et minnéralogique)” (Bộ Atlas Địa lý (Vật lý,
Chính trị, Thống kê và Khai mỏ)), Bruxelles, Belgium.
212. Gilles Robert de Vaugondy, Didier Robert de Vaugondy (1751, 1755), “Les
Indes Orientales, ou sont distingues les Empires et Royaumes” (Đông Ấn,
hoặc phân biệt giữa đế quốc và các quốc gia) trong tập “Atlas Universel of
Gilles and Didier Robert de Vaugondy”, Paris, France.
173
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Một số bản đồ liên quan đến Cù Lao Ré
1.1. Bản đồ “Những hòn đảo phía đông Ấn Độ” của Jodocus Hondius năm 1606
1.2. Bản đồ “Bán đảo Ấn Độ” của Giovanni Giacomo Rossi năm 1683
1.3. Bản đồ “Đông Ấn thuộc đế chế Mogol, hai bên bờ sông Hằng và bán
đảo Deca Maldives và đảo Ceylan cho tới đảo Greater Sunda, Sumatra,
Java, và Borneo, Philippines và Moluccas” của Nicolas de Fer năm 1709
1.4. Bản đồ “Đông Ấn Đông dưới thời đế chế của Mogul, bán đảo Deca và
các sông Hằng, Maldives và đảo Ceylon” của Guillaume Danet năm 1721
1.5. Bản đồ “Ấn Độ bên kia sông Hằng cụ thể là Malacca Siam Cambodia
Chiampa KoChinkina Laos Pegu ava &c” của G. B. Albrizzi năm 1740
1.6. Bản đồ “Bản đồ đế chế Mogul mới và chính xác” của Emanuel Bowen
vẽ năm 1747
1.7. Bản đồ “Bản đồ các quốc gia Siam, Tunquin, Pegu, Aracan &c” của E.
van Harrevelt và D.J. Changuion năm 1773
1.8. Bản đồ “Một biểu đồ Biển Đông để ghi nhớ Monsr” của Alexander
Dalrymple và Jean – Baptiste D'Apres de Mannevillette năm 1775
1.9. Bản đồ “Bản đồ chính xác về Ấn Độ” do Rollos và George năm 1779
1.10. Bản đồ số 106 “Một phần của Cochinchine” của Phillippe
Vandermaelen năm 1827
1.11. Bản đồ An Nam Đại quốc họa đồ của L. Taberd năm 1838
1.12. Cù Lao Ré trong Quảng Thuận sử đạo tập
1.13. Bản đồ “Đại Nam nhất thống toàn đồ” thời Minh Mạng vẽ năm 1838
1.14. Bản đồ Quảng Ngãi trong Đại Nam nhất thống chí
1.15. Bản đồ Cù Lao Ré thời Pháp do Nha Thủy văn Bộ Hải quân Pháp vẽ
năm 1912
1.16. Bản đồ phân bố đa dạng sinh học biển ven bờ Lý Sơn
1.17. Bản đồ Quy hoạch chi tiết khu bảo tồn biển ven bờ Lý Sơn
1.18. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ngãi
1.19. Bản đồ du lịch tỉnh Quảng Ngãi
1.20. Bản đồ hành chính huyện Lý Sơn
174
Phụ lục 2. Nội dung một số châu bản tiêu biểu
2.1. Châu bản triều Nguyễn ngày 22 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 14 (1833)
2.2. Tờ lệnh Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) của quan Bố
chánh, Án sát tỉnh Quảng Ngãi
2.3. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835)
2.4. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835)
2.5. Châu bản triều Nguyễn ngày Ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837)
2.6. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837)
2.7. Châu bản triều Nguyễn ngày 2 tháng 4 nhuận năm Minh Mạng thứ 19 (1838)
2.8. Châu bản triều Nguyễn ngày 21 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 19 (1838)
Phụ lục 3. Sơ đồ tổ chức quản lý xã hội trên Cù Lao Ré trước năm 1804
Phụ lục 4. Các bảng thống kê và tổng hợp số liệu
4.1. Bảng thống kê họ tên và quê quán của các vị tiền hiền
4.2. Bảng phân loại diện tích ruộng đất sau đo đạc lập sổ địa bạ năm 1821
4.3. Bảng thống kê diện tích đất hương hỏa tộc họ từ đinh bạ Cù Lao Ré
năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
4.4. Bảng thống kê phần đất tộc tổ từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
4.5. Bảng thống kê phần nhập tộc từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
4.6. Bảng số liệu thống kê ruộng đất từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
4.7. Bản kê khai văn khế của phường An Vĩnh trước năm 1789, sao chép lại
ngày 1 tháng 11 năm Gia Long thứ 4 (1805)
4.8. Bảng thống kê các loại thuế từ nguồn văn bản kê trình của Cù Lao Ré
Phụ lục 5. Một số văn bản kê trình tô thuế của Cù Lao Ré
5.1. Bản kê trình tháng 6 năm Gia Long thứ 6 (1807)
5.2. Bản kê trình ngày 27 tháng 4 năm Gia Long thứ 8 (1809)
5.3. Bản kê trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 8 (1809)
5.4. Bản kê trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 17 (1818)
5.5. Bản kê trình ngày 25 tháng 7 năm Gia Long thứ 17 (1818)
5.6. Bản kê trình tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821)
5.7. Bản kê trình ngày 20 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 7 (1826)
5.8. Bản kê trình ngày 7 tháng 8 năm Minh Mệnh 7 (1826)
175
5.9. Bản kê trình ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 8 (1827)
5.10. Bản kê trình ngày 12 tháng 7 năm Tự Đức thứ 6 (1853)
Phụ lục 6. Một số văn bản của phường An Vĩnh (nguồn: Phụ lục 2.4. Một số
văn bản mới phát hiện được ở Cù Lao Ré, Đề tài BĐ HĐ 01 – 01 của tác giả
Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân, Khoa Sử - Đại học Quốc gia Hà Nội)
6.1. Tờ đơn ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) của Cai
hợp Hà Liễu phường Cù Lao Ré xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa
6.2. Tờ kê trình của Khâm sai Cai thủ cửa biển Sa Kỳ kiêm Cai cơ thủ ngự
quản đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú năm Gia Long thứ 2 (1803)
6.3. Đơn của phường An Vĩnh xin tách khỏi xã An Vĩnh năm Gia Long thứ
3 (1804)
6.4. Văn khế bán đoạn một phần đất ở phường An Vĩnh năm Gia Long thứ
15 (1816)
Phụ lục 7. Một số hình ảnh về huyện Lý Sơn (Nguồn: tư liệu tác giả)
7.1. Toàn cảnh Lăng thờ cá Ông của xã An Vĩnh trong đất liền
7.2. Bàn thờ cá Ông
7.3. Toàn cảnh phế tích đình làng An Vĩnh trong đất liền
7.4. Toàn cảnh nhà thờ tộc họ Trương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
7.5. Ban thờ họ Trương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
7.6. Ban thờ tộc họ Dương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
7.7. Nhà thờ tộc họ Phạm Quang xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.8. Ban thờ Phạm Quang Nhật
7.9. Ban thờ tộc họ Phạm Quang tiền hiền xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.10. Ban thờ tộc họ Võ Văn tiền hiền xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.11. Tượng đài đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải tại Lý Sơn
7.12. Nhà trưng bày lưu niệm đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải ở Lý Sơn
7.13. Không gian chính Đình làng xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.14. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa năm 2013
7.14. Toàn cảnh chùa Hang
7.15. Gian chính điện của chùa Hang
7.16. Đền thờ cá Ông Lân Chánh
7.17. Dinh Tam Tòa
176
Phụ lục 1
Một số bản đồ liên quan đến Cù Lao Ré
1.1. Bản đồ “Insulae Indiae Orientalis” (Những hòn đảo phía đông Ấn Độ) trong bộ
“Atlas Mercator Hondius” do Jodocus Hondius vẽ năm 1606, Amsterdam, Holland
(in lại vào năm 1613 và 1628)
177
1.2. Bản đồ “Penisola della India” (Bán đảo Ấn Độ) trong “Il Mercurio geografico”
(Địa lý hàng hải) do Giovanni Giacomo Rossi vẽ năm 1683, Rome, Italy
178
1.3. Bản đồ “Les Indes orientales sous le nom desqueles est compris l'empire du Grand
Mogol, les deux presqu'isles deça et dela le Gange, les Maldives et l'isle de Ceylan à
quoi quelque uns joignent encore les Grandes isles de la Sonde qui sont Sumatra, Java,
et Borneo, les Philippines et les Moluques” (Đông Ấn thuộc đế chế Mogol, hai bên bờ
sông Hằng và bán đảo Deca Maldives và đảo Ceylan cho tới đảo Greater Sunda,
Sumatra, Java, và Borneo, Philippines và Moluccas) trong tập “Atlas ou recueil de
cartes géographiques dressées sur les nouvelles observations de Mrs de l'Académie
Royale des Sciences” (Atlas hay bộ sưu tập các bản đồ địa lý được vẽ mới của bà Royal
Academy of Sciences) do Nicolas de Fer vẽ năm 1709, Paris, France
179
1.4. Bản đồ “Les Indes Orientales sous le Nom de que les est compris L'Empire du
Grand Mogol, Les Deux Presqu'Isles Deca et de la Le Gange, Les Maldives, et L'Isle
de Ceylan” (Đông Ấn Đông dưới thời đế chế của Mogul, bán đảo Deca và các sông
Hằng, Maldives và đảo Ceylon) trong “Atlas ouReceuil de Cartes Geographiques”
(Atlas hay Sê - ri bản đồ địa lý) do Guillaume Danet vẽ năm 1721, Paris, France
180
1.5. Bản đồ “India di là del Fiume Ganges ovvero di Malacca Siam Cambodia
Chiampa KoChinkina Laos Pegu ava &c” (Ấn Độ bên kia sông Hằng cụ thể là
Malacca Siam Cambodia Chiampa KoChinkina Laos Pegu ava &c ) do G. B.
Albrizzi thể hiện năm 1740, Venice, Italy
181
1.6. Bản đồ “A New and Accurate Map of the Empire of the Great Mogul” (Bản đồ
đế chế Mogul mới và chính xác) trong “A Complete System of Geography” (Hệ
thống địa lý hoàn chỉnh) do Emanuel Bowen vẽ năm 1747, London, England
182
1.7. Bản đồ “Carte Des Royaumes de Siam, de Tunquin, Pegu. Aracan &c” (Bản đồ
các quốc gia Siam, Tunquin, Pegu, Aracan &c) trong bộ “Atlas Portatif pour servir
a l'intelligence de l'Histoire Philosophique et Politique des etablissements et du
commerce des Européens dans les deux Indes” (Atlas phục vụ trong sự thông minh
của lịch sử triết học và chính trị của các tổ chức và thương mại châu Âu) do E. van
Harrevelt và D.J. Changuion vẽ năm 1773 Amsterdam, Holland and Paris, France
183
1.8. Bản đồ “A chart of the China Sea inscribed to Monsr” (Một biểu đồ Biển Đông
để ghi nhớ Monsr) trong “Atlas Le Neptune Oriental” (Atlas hàng hải phương
Đông) do Alexander Dalrymple và Jean-Baptiste D'Apres de Mannevillette vẽ năm
1775, Paris, France
184
1.9. Bản đồ “An Accurate Map of India” (Bản đồ chính xác về Ấn Độ) do Rollos và
George vẽ năm 1779, London, England
185
1.10. Bản đồ số 106 tên “Partie de la Cochinchine” (Một phần của Cochinchine)
của Phillippe Vandermaelen xuất bản năm 1827, Bruxelles, Belgium
186
1.11. Bản đồ An Nam Đại quốc họa đồ của L. Tabord xuất bản năm 1838
187
1.12. Cù Lao Ré trong Quảng Thuận sử đạo tập
188
1.13. Bản đồ “Đại Nam nhất thống toàn đồ” thời Minh Mạng vẽ năm 1838
189
1.14. Bản đồ Quảng Ngãi trong Đại Nam nhất thống chí
190
, a S g n ờ ư r T – a S g n à o H à v g n ô Đ n ể i B n ê r t
. 7 6 1 . r t , h n i M
m a N
í h C ồ H p t
t ệ i V n ề y u q ủ h C
G Q H Đ b x N
2 1 9 1 m ă n ẽ v p á h P n â u q i ả H ộ B n ă v y ủ h T a h N o d p á h P i ờ h t é R o a L ù C ồ đ n ả B
, ) 4 1 0 2 ( u ầ Đ h n ì Đ n ễ y u g N
. 5 1 . 1
: n ồ u g N
191
1.16. Bản đồ phân bố đa dạng sinh học biển ven bờ Lý Sơn
Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi
1.17. Bản đồ Quy hoạch chi tiết khu bảo tồn biển ven bờ Lý Sơn
Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi
192
1.18. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ngãi
Nguồn: Sở Thông tin, Thể thao và Văn hóa tỉnh Quảng Ngãi
193
1.19. Bản đồ du lịch tỉnh Quảng Ngãi
Nguồn: Website của UBND tỉnh Quảng Ngãi http://www.quangngai.gov.vn/Pages/qnp-bandodulich-qnpstatic-434-qnpdyn-0- qnpsite-5.html
194
1.20. Bản đồ hành chính huyện Lý Sơn
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Lý Sơn
195
Phụ lục 2
Nội dung một số châu bản tiêu biểu
2.1. Châu bản triều Nguyễn ngày 22 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 14 (1833)
Xuất xứ: Nội các
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu: quyển số 49, tờ 230-231
196
197
198
199
Dịch nghĩa:
Nội các tâu:
Hoàng tử Vĩnh Tường dâng sớ xin đặt tên. Bề tôi Nội các vậng mệnh xem
xét các mỹ tự thế hệ nhà vua, kính xin chỉ (1) ban chữ Hồng ( 洪 ).
- Lại tập tâu của bộ Binh trình bầy: Đội 3 cơ Bình Thuận đã chia làm 2 đội,
nhưng bộ ấy vẫn đề nghị bổ chức Cai đội đội 3 của cơ ấy cho Phan Văn Bình. Nay
xét thấy sai xót, xin đem viên chuyên biện ty Lại giao nghị xử phạt...
- Lại tờ phiến (2) của bộ ấy (bộ Binh) trình bầy: trước đây căn cứ vào lời kê
khai sai của viên được sai phái đi khảo sát Hoàng Sa là Phạm Văn Sênh, lái thuyền
cùng thủy thủ của suất ấy là 19 người để đến nỗi bộ ấy đã làm tờ phiếu nghĩ (3) xin
ban thưởng cho viên ấy tiền bạc 10 mai, các viên lái thuyền gồm 19 tên, mỗi tên
tiền bạc một mai. Nay viên ấy nghĩ lại thấy thừa ra 1 tên, không giám làm đơn lĩnh
số tiền bạc này. Bộ đó đã gửi tư cho Nội vụ chiếu phát theo thực số, còn viên quan
bộ ấy không kiểm tra, phát hiện ra chỗ sai, [bộ ấy] đã gửi tờ trình đính kèm xin phạt
tội [viên đó].
Kính xin ban (4) chỉ: Phạm Văn Sênh khai báo hàm hồ, bộ ấy cũng không
kiểm tra lại cho rõ ràng, để sơ suất làm phiếu nghĩ, đến nỗi việc ban thưởng thừa ra
một số, thực là không hợp. Nhưng xét nghĩ số tiền bạc này chưa lĩnh, mà lại quá ít,
xin gia ân cho miễn xét tội, ngoài ra chuẩn theo tờ tấu. Hãy tuân mệnh.
Thần Nguyễn Đức Hoạt vâng mệnh soạn thảo
Thần Hà Tông Quyền vâng mệnh đọc duyệt
Vâng mệnh duyệt lại thần Thân Văn Quyền ký
Đương trực đối chiếu thần Trương Đăng Quế ký.
Chú thích:
1+ 4 - Nguyên văn: cung nghĩ phụng chỉ (恭 擬 奉 旨 ). Chúng tôi dịch
thoát cụm từ này.
2- Phiến: Một loại hình văn bản trong châu bản.
3- Phiếu nghĩ: một loại văn bản hành chính trong châu bản.
200
2.2. Tờ lệnh Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) của quan Bố chánh,
Án sát tỉnh Quảng Ngãi
Xuất xứ: quan Bố chính, Án sát tỉnh Quảng Ngãi
Nơi lưu trữ: Ủy ban biên giới Quốc gia
201
202
203
204
Dịch nghĩa:
Quan Bố chính, Án sát tỉnh [Quảng] Ngãi căn cứ vào công việc cấp bằng.
Theo tờ tư (1) của bộ Binh nhận được tháng trước có đoạn trình bầy: Vâng
theo sắc lệnh (2) [của nhà vua], bộ đã tư [cho tỉnh] chuẩn bị điều động trước 3 chiếc
thuyền lớn (3), cho tu sửa chắc chắn đợi tại kinh, Phái viên (4) và Biền binh (5)
thủy quân đến trước để hiệp đồng nhanh chóng đi khảo sát các xứ của Hoàng Sa.
Hãy tuân mệnh.
[Kính vâng theo, tỉnh thần (5)] làm lễ cầu khấn (7), [sau đó], điều động, thuê
3 chiếc thuyền nhanh, nhẹ ở tỉnh cùng các vật kiện theo thuyền, mỗi loại đều cho tu
bổ [cẩn thận]. Lại phái Vũ Văn Hùng, người được cử đi năm trước và chọn thêm
dân phu miền biển am hiểu đường biển sung làm thủy thủ phục vụ trên thuyền trước
sau, mỗi thuyền 8 người cộng 24 người, [đến] mùa từ hạ tuần tháng 3 thuận gió, thì
nhanh chóng cho thuyền ra khơi.
Nay các việc lo liệu xong xuôi, Phái viên đã đi thuyền đến. Nay căn cứ vào
các lý lẽ tuyển lựa của Vũ Văn Hùng [là] phù hợp, [tỉnh thần] thực hiện cấp bằng
cho những thủy dân thạo đường biển là bọn Đặng Văn Xiểm đảm đương công việc
lái thuyền, [bọn Đặng Văn Xiểm] hãy đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo các thủy
thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện
công vụ.
Chuyến đi này có tầm quan trọng đặc biệt, các người phải dốc lòng thực hiện
công việc cho thực sự thỏa đáng. Nếu sao nhãng, sơ xuất tất bị trọng tội.
Tất cả số người bao nhiêu đều liệt kê dưới đây. Các người lái thuyền là bọn
Đặng Văn Xiểm, người phường An Hải huyện Bình Sơn, Dương Văn Định người
thôn Hoa Diêm được cấp bằng trên đây chiểu theo thi hành.
Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (1834)
Thủy thủ:
Tên Đề Phạm Vị Thanh người Phường An Hải.
Tên Trâm Ao Văn Trâm, người Lệ Thủy Đông (hai tên).
Tên Sơ Trần Văn Kham, người phường An Vĩnh.
Tên Xuyên Nguyễn Văn Mạnh, người phường An Hải.
205
Tên Lê Trần Văn Lê, người ấp Bàn An.
Tên Doanh Nguyễn Văn Doanh, người thôn Thạch Ốc An Thạch huyện Mộ Cách.
Từ đội Kim Thương đưa sang 2 tên:
Vũ Văn Nội.
Trương Văn Tài.
Chú thích:
1- Tư 咨: thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính dành cho các quan.
Các quan sử dụng loại văn bản này để truyền đạt công việc như dạng công văn
ngày nay.
2 - Sắc 敕: thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính chuyên dành cho
nhà vua. Nhà vua sử dụng loại văn bản này để ban mệnh lệnh yêu cầu quần thần
phải thực hiện một công việc nào đó.
3 - Chinh thuyền: một loại thuyền lớn chuyên dùng cho việc đi tuần nơi biển
khơi xa xôi.
4- Phái viên: người của triều đình được cử đi thực hiện công vụ.
5- Biền binh: chức quan võ cấp thấp trong quân đội thời phong kiến
6- Tỉnh thần: tên gọi chung cho các quan làm việc ở tỉnh. Ở đây chỉ quan Bố
chính và Án sát.
7- Kỳ祈: thuật ngữ trong tế lễ. Xét ở góc độ từ loại, kỳ (祈) là động từ thì
mang nét nghĩa cầu mong, kỳ (祈) là danh từ thì mang nét nghĩa là một loại hình
thức tế lễ cầu khấn. Từ kỳ (祈) xuất hiện trong văn bản hành chính, mang nét nghĩa
tế lễ cầu khấn, điều này phù hợp với tập tục của người dân vùng biển trước khi đi
biển bao giờ họ cũng làm lễ cầu khấn, mong sự bình yên trước khi ra khơi.
206
2.3. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835)
Xuất xứ: Nội các
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu : quyển số 54, tờ 94
207
208
209
210
Dịch nghĩa:
Nội các tâu:
Bộ Hộ dâng một tập (1) trình bầy về sự thiệt hại lúa vụ hè và xét nghĩ bàn
miễn giảm một phần cho 2 tỉnh Hải Dương Thái Nguyên. Bộ thần vâng mệnh chiếu
xét theo lệ là phù hợp. Kính xin chỉ ban cho chuẩn y lời tâu.
- Lại 3 bản sách (2) thẩm tra của Gia Định, Quảng Nam. Kính xin ban chỉ
giao cho tam pháp ty cùng nhau xem xét, rồi tấu trình lại đầy đủ.
- ...
- Lại hôm trước, Nội giám Nguyễn Ân chuyển truyền cật vấn bề tôi [Nội] các
về việc lần này các viên binh tượng được sai phái đi Hoàng Sa trở về quá hạn. Viên
cai đội Phạm Văn Nguyên cùng những người nào có hay không những tư tệ, cần phải
nói thực. Nếu có tư tệ gì phải giao cho bộ Hình nghị tội, nếu không có tư tệ gì thì lập
tức tha cho Phạm Văn Nguyên không phạt đòn 80 trượng và khôi phục lại chức cũ.
cho viên ấy. Viên Giám thành vẽ bản đồ không rõ ràng bị phạt đòn 80 trượng nhưng
đều cho tha. Đích danh các viên dẫn đường mỗi viên được thưởng tiền bạc loại nhỏ 3
mai, binh đinh mỗi viên được thưởng tiền 1 quan. Dân phu [đi trong đợt này] nếu
chưa được miễn trừ lệ thuế cũng được thưởng mỗi viên tiền một quan.
Bề tôi [Nội] các vâng mệnh chiếu xét: Trước đây đã có khoản vâng theo
mệnh lệnh của nhà vua, bộ Công cùng bộ Hình đã vặn hỏi các viên binh đinh đi
công cán Hoàng Sa. Nhưng hỏi 2 bộ này, hai bộ đã trả lời rằng bộ đã tra hỏi nhưng
họ không có tư tệ gì. Bề tôi [Nội] các lại sai thuộc viên Đỗ Bá Hồng cùng bộ Hình
lại vặn hỏi đi, hỏi lại các viên binh tượng này, thì vẫn khai thực như trước, [họ] lại
đưa ra cam kết đầy đủ, không có người nào có tư tệ gì. Vậy bề tôi [Nội] các cứ thực
phúc trình đầy đủ, xin theo lời nghị bàn.
[Bề tôi Nội các] vâng mệnh truyền dụ:
Cai đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa, khi trở về dềnh dàng quá
hạn, đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng qua tra xét, chưa thấy có biểu hiện tư tệ.
Vả lại, lần này được phái đi ra biển thực hiện công vụ chu đáo, rất đáng được dự
thưởng. Duy Quản viên Phạm Văn Nguyên khi trở về, có sự tự mãn, đi lại rất không
hợp cách, trước đã bị cách chức, bị bắt gông. Nay giao cho Bộ xét phạt đánh đòn 80
211
trượng nhưng gia ân tha, cho khôi phục lại chức cũ. Các viên có trách nhiệm vẽ bản
đồ nhưng chưa rõ ràng là Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn
Văn Hoằng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều chuẩn cho tha. Viên dẫn đường là Vũ
Văn Hùng, Phạm Văn Sênh thì được ban thưởng tiền phi long loại nhỏ 3 mai. Các
viên binh, tượng đi đợt này được thưởng tiền 1 quan, cho về đơn vị cũ, cục cũ. Các
dân phu do tỉnh phái đi, trừ 2 viên đã được thưởng tiền, số còn lại đều được thưởng
tiền mỗi người 1 quan để tỏ rõ sự ưu ái.
-Lại chiếu xét, các dân phu đi trong đợt này chưa được miễn trừ thuế thân, lại
tra xét năm trước, những dân phu này được phái đi, khi trở về, cũng được thưởng
tiền một quan. Vậy xin tấu trình.
(mặt trước của trang trước, dòng thứ 8 tấy 8 chữ; trang sau dòng thứ 3 tẩy 2
chữ, dòng thứ 4 tẩy 2 chữ; dòng thứ 8 tẩy 1 chữ. Mặt trước của trang sau dòng thứ 2
tẩy 1 chữ; dòng thứ 3 tẩy 4 chữ; trang sau dòng thứ nhất tẩy 3 chữ; gồm 21 chữ.
Thần Nguyễn Đức Hoạt vâng mệnh soạn thảo
Thần Hà Tông Quyền vâng mệnh đọc duyệt.
Vâng mệnh duyệt Nguyễn Văn ký
Đương trực đối chiếu Hà Duy Phiên ký.
212
2.4. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835)
Xuất xứ: Hà Tông Quyền, Hoàng Quýnh
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu: quyển số: 54, tờ 92
213
214
Dịch nghĩa:
Bề tôi Nội các là Hà Tông Quyền, Hoàng Quýnh vâng mệnh truyền dụ:
Cai đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa, khi trở về dềnh dàng quá
hạn, đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng qua tra xét, chưa thấy có biểu hiện làm
việc riêng tư. Vả lại, lần này được phái đi ra biển thực hiện công vụ chu đáo, rất
đáng được dự thưởng. Duy Quản viên Phạm Văn Nguyên khi trở về, có sự tự mãn,
đi lại rất không hợp cách, trước đã bị cách chức, bị bắt gông. Nay giao cho Bộ xét
phạt đánh đòn 80 trượng nhưng gia ân cho tha, khôi phục lại chức cũ. Còn các viên
có trách nhiệm vẽ bản đồ chưa rõ ràng là Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn
Tiện, Nguyễn Văn Hoằng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều chuẩn cho tha. Viên
dẫn đường là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh thì được ban thưởng tiền phi long loại
nhỏ 3 mai. Các viên lính trong tượng, cục đi đợt này được thưởng tiền 1 quan, cho
về đơn vị cũ, cục cũ. Các dân phu do tỉnh phái đi, trừ 2 viên đã được thưởng tiền, số
còn lại đều được thưởng tiền mỗi người 1 quan để tỏ rõ sự ưu ái..
Hãy tuân mệnh
Bộ Hình giữ bản giấy đỏ và sao chép gửi Nội các để chểu theo thi hành.
215
2.5. Châu bản triều Nguyễn ngày Ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837)
Xuất xứ: bộ Công
Nơi lưu trữ: Trung tâm lưu trữ quốc gia
Ký hiệu: quyển số 57, tờ 244
216
217
Dịch nghĩa:
Bộ Công tâu:
Các viên Thủy sư Phạm Văn Biện do kinh sai phái, viên dẫn đường Vũ Văn
Hùng, Phạm Văn Sênh, lái thuyền Lưu Đức Trực do tỉnh sai phái đi Hoàng Sa trở
về quá hạn, đã có chỉ trách phạt, đánh đòn. Tất cả binh, dân thuyền được sai phái đi
(Quảng Ngãi 2 thuyền, Bình Định 2 thuyền) đều cho về đơn vị cũ, nơi chốn cũ. Duy
có việc Bộ thần đã xem xét công việc năm ngoái, các viên Quản suất, dẫn đường
được sai phái đi Hoàng Sa thực hiện công vụ, khi trở về không mang theo bản đồ bị
trách phạt, còn binh, đinh được thưởng 1 tháng lương tiền, dân phu được thưởng
tiền 2 quan.
Lần này trở về, trừ 4 viên là bọn Phạm Văn Biện đã bị trách phạt không cần
nghị bàn thêm, còn các viên binh dân chiếu theo lệ ban thưởng gia ân, nhưng việc
bàn thưởng do bề trên quyết định, bộ thần không giám nghĩ bàn, duy có viên Giám
thành Trương Viết Soái mắc tội quân, đã được sai đi hiệu lực, năm ngoái lại được
sai phái đi hiệu lực ở Hoàng Sa, khi trở về không mang theo bản đồ để dâng trình,
vâng theo chỉ chuẩn cho giữ nguyên án phạt trảm giam hậu (chém đầu nhưng giam
đợi đến mùa thu thì xét xử), lần này xét xử viên đó thế nào, xin tâu trình đợi chỉ
Châu phê:
Vi binh tái sĩ sai phái. (cho về làm lính, đợi sai phái tiếp) (1).
Thần Nguyễn Văn Hựu vâng mệnh soạn thảo.
Thần Hà Duy Phiên, thần Lý Văn Phức vâng mệnh đọc duyệt.
Chú thích:
1- Dòng châu phê được viết cạnh tên Trương Viết Soái.
218
2.6. Châu bản triều Nguyễn ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837)
Xuất xứ: Nội các
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu:quyển số: 57, tờ 245
219
220
Dịch nghĩa:
Thần Hà Duy Phiên, thần Lý Văn Phức vâng mệnh truyền dụ:
Trước đây đã phái Thủy sư, Giám thành cùng binh dân thuyền 2 tỉnh Bình
Định, Quảng Ngãi đến khảo sát Hoàng Sa. Nay [đoàn] đã trở về. Trừ viên Thủy sư
Suất đội Phạm Văn Biện do Kinh phái đi về quá hạn, viên dẫn đường do tỉnh phái
đi là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh, lái thuyền Lưu Đức Trực tất cả gồm 4 người
đã có chỉ trách phạt, đánh đòn ra, còn binh dân cùng đoàn lênh đênh trên biển khơi
cũng rất vất vả, nên xét ban ân binh đinh mỗi viên thưởng cho 1 tháng lương tiền,
dân phu mỗi viên thưởng tiền 2 quan, trong đó các viên phu thuyền do tỉnh sai
phái đi cho về quê làm ăn, riêng viên Biền chức Giám thành phạm lỗi là Trương
Viết Soái trước là Đốc biện trông coi việc luyện thuốc súng đã có sơ suất mắc lỗi
bị xử phạt trảm giam hậu (chém đầu nhưng giam đợi đến mùa thu mới xét xử),
năm ngoái được sai phái đi Hoàng Sa và đi hiệu lực xây dựng thành Gia Định để
chuộc tội. Nay lại được sai phái đi khảo sát Hoàng Sa. Tuy đã đến khảo sát 11 nơi
bãi cát và các đảo, việc đo vẽ bản đồ chưa thật chu đáo nhưng nhiều lần bị đầy đi
làm việc khổ sai và cũng biết hối cải, nên gia ân tha cho viên Trương Viết Soái,
cho về làm lính ở vệ Giám thành, đợi sau tùy việc sai phái để cho viên đó chuộc
lỗi cũ. Hãy tuân mệnh.
Lại vâng mệnh ghi rõ 22 họ tên các viên binh đinh, 20 viên Thủy sư, 2 viên
Giám thành và 31 dân phu đi Hoàng Sa đợt này, đính kèm phía sau.
Thần Nguyễn Văn Hựu vâng mệnh soạn thảo.
Thần Hà Duy Phiên, thần Lý Văn Phức vâng mệnh đọc duyệt.
221
2.7. Châu bản triều Nguyễn ngày 2 tháng 4 nhuận năm Minh Mạng thứ 19 (1838)
Xuất xứ: Bộ Công
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu:quyển số 68, tờ 21
222
223
Dịch nghĩa:
Bộ Công tâu:
Vậng mệnh chiếu xét khoản cử người đến Hoàng Sa, Bộ thần đã bàn xin đến
hạ tuần tháng 3 ra khơi đến [Hoàng Sa để] đo vẽ khảo sát toàn bộ xứ đó, đến hạ
tuần tháng 6 thì trở về. Vâng theo sự phê chuẩn của nhà vua, [Bộ thần] đã sao gửi
cho 2 tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi thực hiện và tuyển chọn các viên Thị vệ, Khâm
thiên giám thành cùng Thủy sư, binh thuyền phái đi trước. Nay tiếp nhận được tờ tư
của tỉnh Quảng Ngãi trình bầy cụ thể từng mục rằng binh thuyền ở kinh được phái
đi, ngày 21 tháng 3 đã đến. Dân thuyền tỉnh Bình Định ngày 3 tháng 4 cũng đã đến.
Viên dẫn đường Phạm Văn Sênh ngày 9 tháng đó cũng đã đến. Theo sự trình bầy
chi tiết của Phái viên thì từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 4, gió Đông liên tục thổi,
không tiện cho việc ra khơi. Viên Cai tỉnh quan sát cũng thấy như vậy và khẩn thiết
xin đợi đến khi có gió Nam thổi thì thuận tiện cho việc đưa thuyền ra khơi ngay và
tiếp tục báo về.
Bộ thần vâng mệnh chiếu xét: Việc đi khảo sát đo đạc ở Hoàng Sa đã có hạn
định rõ ràng là hạ tuần tháng 3 thì xuất phát ra khơi, nhưng vì hướng gió và con
nước chưa tiện, kéo dài [hạn định] đến hạ tuần tháng 4 mà vẫn chưa ra khơi được là
quá hạn. [Bộ thần] căn cứ vào sự thực tấu trình đầy đủ.
Thần Lê Văn Côn vâng mệnh soạn thảo.
Thần Hà Duy Phiên, thần Phạm Thế Trung vâng mệnh đọc duyệt.
224
2.8. Châu bản triều Nguyễn ngày 21 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 19 (1838)
Xuất xứ: Bộ Công
Nơi lưu trữ: Kho lưu trữ Trung ương
Ký hiệu:quyển số 68, tờ 215
225
226
Dịch nghĩa:
Bộ Công tâu:
Nay tiếp nhận các viên Đỗ Mậu Thưởng, Thị vệ Lê Trọng Bá thuộc ty của bộ
thần [đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa] đã trở về. Bộ thần đã hỏi qua, các viên đó
trình bầy lần này [đoàn khảo sát] đã đến được 25 đảo thuộc 3 vùng (trong đó hàng
năm [các đoàn] lần lượt đến được 12 hòn đảo, chưa từng đến được hòn đảo thứ 13)
(1). Nhưng theo viên dẫn đường Vũ Văn Hùng thì toàn bộ xứ Hoàng Sa có 4 vùng,
lần này khảo sát được 3 vùng, còn một vùng ở phía Nam, nơi này cách nơi kia khá
xa, gió Nam lại thổi mạnh, việc khởi hành đến đó không tiện, phải đợi gió thuận thì
muộn, xin đợi đến sang năm [cử thuyền] đến đó. Lại xem xét 4 bản đồ mang về, (có
3 bức vẽ riêng từng vùng, một bức vẽ chung), cùng một bản nhật ký cũng chưa
được tu sửa hoàn chỉnh, xin cho Bộ thần thẩm tra kỹ và sức cho họ chỉnh sửa hoàn
thiện để dâng trình.
- Lại theo những người này tường trình thì trong chuyến đi này họ đã thu
được 1 súng đại bác bọc đồng, các loại đá san hô đỏ, các loại chim, rùa biển. Nay đã
mang về.
[Chúng thần] dám xin làm tờ tâu trình đại thể.
Thần Thang Huy Thận vâng mệnh soạn thảo.
Thần Hà Duy Phiên, thần Lý Văn Phức vâng mệnh đọc duyệt.
Chú thích:
1- Theo dòng chú thích này thì hàng năm các đoàn đi khảo sát các xứ ở
Hoàng Sa, mỗi năm đoàn khảo sát được 12 hòn đảo. Nếu cuộc khảo sát bắt đầu từ
năm 1833 thì đên năm 1838, các đoàn đã khảo sát được 75 hòn đảo.
227
Phụ lục 3
Sơ đồ tổ chức quản lý xã hội trên Cù Lao Ré trước năm 1804
Cai hợp
Thủ hợp
Phiên ty
q u y ề n c ấ p x ã
Đ ạ i d i ệ n c h í n h
Cả phường (Cả làng)
Cả xóm
Bộ phận giúp việc (Thầy thông giảng, Thủ bộ, Thủ khoán)
l a o R é
Chủ chòm
(Chủ lân)
C ơ c ấ u t ổ c h ứ c t ự q u ả n c ủ a C ù
Bộ phận lễ nghi (Các chức giữ đình, đền, miếu)
Chủ vạn
Tộc họ
Binh xứ
228
Phụ lục 4
Các bảng thống kê và tổng hợp số liệu
4.1. Bảng thống kê họ tên và quê quán của các vị tiền hiền
Stt Họ
Tên Tiền hiền
Nguyên quán Cù Lao Ré
1
Phạm Quang
Phạm Quang Minh
Xã An Vĩnh
Phường An Vĩnh
2
Lê
Lê Quang Trí
Xã An Vĩnh
Phường An Vĩnh
3 Nguyễn
Nguyễn Văn Toán
Xã An Vĩnh
Phường An Vĩnh
4
Phạm Văn
Phạm Văn Sỏi
Xã An Vĩnh
Phường An Vĩnh
5 Võ
Võ Văn Lúa
Xã An Vĩnh
Phường An Vĩnh
6 Dương
Dương Công Lương
Xã An Hải
Phường An Hải
7 Võ
Võ Nước
Xã An Hải
Phường An Hải
8
Trương
Trương Đình Cát
Xã An Hải
Phường An Hải
9 Nguyễn
Nguyễn Nhất Lang
Xã An Hải
Phường An Hải
Nguồn: [109], [110], [112], [113], [114], [116], [118]
4.2. Bảng phân loại diện tích ruộng đất sau đo đạc lập sổ địa bạ năm 1821
Stt
Diện tích
Số người
1 Dưới 20 sào
23
2 Từ 20 sào đến 29 sào
131
3 Từ 30 sào trở lên
4
Số người được chia đất
157
Nguồn: [108]
4.3. Bảng thống kê diện tích đất hương hỏa tộc họ từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh
Mạng thứ 2 (1821)
Stt
Người sở hữu
Đất hương hỏa
1
Tộc lão Kỷ
34 sào
2
Tộc lão Khiêm
22 sào
3
Tộc lão Phu
28 sào
4
Tộc lão Hợi
37 sào
5
Tộc lão Đại
19
6
Tộc lão Giám
28
7
Tộc lão Thiện
31
Tổng diện tích
199
Nguồn: [108]
229
4.4. Bảng thống kê phần đất tộc tổ từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
Stt Người sở hữu Diện tích đất Tộc tổ
Tộc tổ lão Kỷ 1 24
Tộc tổ lão Khiêm 2 24
Tộc tổ lão Nghị 3 26
Tộc tổ lão Đại 4 25
Tộc tổ lão Hợi 5 24
Tổng diện tích 123
Nguồn: [108]
4.5. Bảng thống kê phần nhập tộc từ đinh bạ Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
Stt Người sở hữu Diện tích đất Tộc tổ
Phần nhập tộc lão Hựu 1 23
Phần nhập tộc lão Nghị 2 15
Phần nhập tộc lão Đại 3 26
Phần nhập tộc lão Hợi 4 23
Phần nhập tộc lão Thiện 5 24
Tổng diện tích 111
Nguồn: [108]
4.6. Bảng số liệu thống kê ruộng đất Cù Lao Ré năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
Tổng Tổng Stt Chủ hộ Stt Chủ hộ diện tích diện tích
1 Lão Kỷ 17 80 Cha Thuyền 13
2 Lão Đại 26 81 Thầy Thảo 23
3 Lão Đầu 24 82 Cha Điển 25
4 Lão Điều 20 83 Lão Quỳnh 23
5 Lão Sự 27 84 Cha Tầm 28
6 Lão Túy 26 85 Mụ Đao 26
7 Lão Vân 25 86 Cha Trà 25
230
8 Lão Cảnh 20 87 Mụ Thuần 22
9 Lão Hựu 14 88 Lão Diễn 24
10 Lão Đạt 17 89 Mụ Vu 20
11 Lão Đãi 24 Lão Dụng 90 27
12 Lão Uy 24 Lão Nhâm 91 25
13 Lão Nhuận 17 Lão Diễm 92 28
14 Lão Dạng 28 Lão Thuần, Diễn 93 22
15 Lão Điều 25 94 Mụ Lộn 18
16 Mụ Đồ 26 95 Lão Khai 26
17 Lão Thông 25 96 Lão Do 18
18 Thầy Tương 25 97 ??? 28
19 Lão Kỉ 25 98 Cha Khôi 30
20 Lão Đạt 23 99 Lão Lãng 31
21 Lão Ái 24 100 Lão Lư 23
18 22 Tham Triệm 101 Cha Thanh 24
23 Lão Khâm 25 102 Lão Viện 22
24 Lão Sơn 29 103 Thầy Uy 24
25 Lão Chim 23 104 Mụ Nhổn 24
26 Lão Kỳ 28 105 Lão Tuế 27
27 Lái Địch 20 106 Lão Quỳnh 25
28 Lão Giám 24 107 Cha Viên 24
29 Lão Huề 21 108 Mụ Thị 26
30 Lão Thiện 25 109 Cha Tầm 25
31 Lão Do 29 110 Cha Mậu 27
32 Văn Duệ 26 111 Lão Diễn 27
33 Lão Uy 15 112 Mụ Tân 24
34 Lão Khoa 20 113 Chú Lộc 20
35 Mụ Chòm 22 114 Mụ Gươm 29
231
36 Từ Hoành 26 115 Mụ Doanh 29
37 Văn Khoa 22 116 Cha Quất 56
38 Thầy Uy 24 117 Lão Búa 23
39 Thầy Trinh 18 118 Cha Hướng 25
40 Mụ Túy 24 119 Lão Hữu 34
41 Mụ Nhưng 23 120 Cha Thị 26
42 Lão Mỹ 23 121 Lão Tú 18
43 Lão Hựu 17 122 Mụ Lãng 24
44 Lão Uẩn 25 123 Lão Kỳ 14
45 Lão Khiển 25 124 Lão Xuân 22
46 Lão Kí 25 125 Cha Thoan 27
47 Cha Quất 21 126 Lão Khai 25
48 Thầy Tương 28 127 Lão Lư 28
49 Thầy Doanh 20 128 Lái Thanh 25
50 Trùm Gồm 25 129 Trùm Biện 27
51 Lão Gương 29 130 Mụ Nhỏ 28
52 Lão Sơn 20 131 Lão Xuân 24
53 Lão Sơn, Diễn 25 132 Thầy Phù 28
54 Trùm Vọng ??? 133 Trùm Biện 25
55 Trùm Thuyên 19 134 Cha Tôm 17
56 Lão Ron 28 135 Mụ Thị 23
57 Lão Đăng 19 136 Cha Chiến 24
58 Lão Tồn 27 137 Lão Lược 25
59 Mụ Đầu 24 138 Mụ Nghĩa 29
60 Lão Thuần 24 139 Cha Lỗ 22
61 Cha Diễm 27 140 Mẹ Sơn 24
62 Cha Ngoạn 29 141 Mụ Ứng 25
63 Cha Bò 22 142 Trùm Dịch 25
232
64 Lão Hoành 143 Cha Khuê 25 25
65 Lão Thuật 144 Lão Nghĩa 17 24
66 Lão Hoằng 145 Cai Văn 25 25
67 Lão Lãng 146 Cha Chiêu 25 27
68 Lão Lục 147 Lão Tiếng 27 24
69 Lão Ái 148 Lão Phụng 27 22
70 Mụ Lậu 149 Lão Dụ 21 24
71 Cha Bằng 150 Vặn Luận 25 26
72 Cha Đao 151 Thầy Phù 15 20
73 Lão Diễn 152 Cha Khoản 16 23
74 Cha Luật 153 Cha Lái 21 21
75 Cha Viết 154 Cha Chiến 26 15
23 76 Mụ Ái, Đao 155 Cô Hao 26
77 Lão Tiềm 156 Lính Đông 19 24
78 Văn Đức 157 Lão Yên 23 18
79 Lão Phục 158 Lão Phan 22 25
Nguồn: [108]
4.7. Bản kê khai văn khế của phường An Vĩnh trước năm 1789, sao chép lại ngày 1
tháng 11 năm Gia Long thứ 4 (1805)
Stt Năm Người bán Quy định Loại ruộng đất
23 ? Mụ Công Khoảnh đất Số lượng 1 Đvt: quan 5 Bán đứt
7 1776 Vợ chồng Cương Ruộng nương 1 10 Bán đứt
11 1780 Trùm Chu, cai Trà Lạc Đất xâm chiếm 1 10 Bán đứt
12 1780 Trùm Chu, cai Trà Lạc Đất xâm chiếm 1 10 Bán đứt
3 1745 Vợ chồng trùm Quản Thửa đất 2 14 Bán đứt
1 1727 Vợ chồng lệnh Việt Đất nương 1 23 Bán đứt
6 1775 Vợ chồng Truyền Thửa đất 1 25 Bán đứt
15 1783 Hai ông Lộc, Thịnh Đất ruộng 1 25 Bán đứt
233
1781 Vợ chồng An (An Hải) Thửa đất 1 30 Cầm nợ 14
? Vợ chồng Kham Khoảnh đất 1 30 Bán đứt 22
1733 Vợ chồng Lánh Khoản Đất phù sa 1 33 Bán đứt 2
1775 Bà Phụ Ban Thửa đất 1 38 Bán đứt 5
1779 Vợ chồng Tú Đất phù sa 1 45 Bán đứt 8
1780 Vợ chồng Hương Đất phù sa 1 50 Bán lại 9
19 ? Trùm Căn, trùm Chu, Đất rừng cấm 1 50 Bán đứt
cai Trà Lạc
? Vợ chồng Dậu Khoảnh đất 1 50 Bán đứt 20
? Vợ chồng Uy Khoảnh đất 1 50 Bán đứt 21
1781 Trùm Chu, cai Trà Lạc Thửa đất 1 100 Bán đứt 13
1783 Ông Tú (An Hải) Thửa đất 1 100 Bán đứt 16
1783 Vợ chồng Uy Ruộng nương 1 100 Bán đứt 17
? Mụ Thước Lương Khoảnh đất 1 100 Bán đứt 24
1784 Vợ chồng trùm Tín Thửa đất 1 150 Bán đứt 18
1762 Các viên chức phường Thửa đất 1 200 Bán đứt 4
10 1780 Trùm Chu Đất cấm 1 200 Bán đứt
Nguồn: [107]
4.8. Bảng thống kê các loại thuế từ nguồn văn bản kê trình của Cù Lao Ré
Năm Loại thuế trong các văn bản kê khai
1807 Dầu hương, Tô tỉnh điền, thường tân, càn ngư, chinh ngư
1818 Dầu hương, dầu phụng
1826 Dầu hương, dầu phụng, hải sản, đàm chích, dung thân
1826 Dầu phụng, dầu hương, thuế dung mân, đàm chích
1847 Tô thuế, sản vật, thường tân và các loại thuế lệ thổ lạp
Nguồn: [120], [124], [125], [126], [128], [129], [132]
234
Phụ lục 5
Một số văn bản kê trình tô thuế của Cù Lao Ré
5.1. Bản kê trình tháng 6 năm Gia Long thứ 6 (1807)
Trùm cả Nguyễn Văn Lý, cai đội Nguyễn Văn Chi, cai hợp Nguyễn Quang
Thắng, xã dịch Nguyễn Văn Lân, lão bạn Trương Văn Củng phường Cù Lao Ré xã
(nội phủ) An Hải huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa kê trình.
Trước đây tiên tổ 7 họ phường tôi phiêu bạt đến xứ Cù Lao Ré sinh sống làm
ăn có đơn xin trưng nửa phần hướng đông rừng rậm, phù sa, núi đá và sơn điền
riêng 1 mẫu 5 sào. Đông giáp biển, tây giáp phường An Vĩnh, nam giáp biển, bắc
giáp biển, chịu thuế dầu hương 20 hũ, mỗi hũ 3 đồng, tiền tô tỉnh điền, thường tân
nộp 2 quan 7 mạch và tiền thuế càn ngư, chinh ngư là 4 quan 6 mạch, hàng năm
nộp vào nội phủ theo như trước đây, đến nay đã thành lệ. Đến năm Tân Dậu
phường tôi theo lệ cũ trình đơn xin cho được y theo thuế lệ trước kia phụng nộp.
Phụ lũy xã An Hải ở địa phận xứ Trà Long đã có dân kết cư sinh ống làm ăn. Xứ Cù
Lao Ré địa phận phường tôi còn hoang phế hơn 10 mẫu bèn đơn xin trưng thu canh
tác thành ruộng hạng 3 để nộp thuế lệ. Việc ấy cho trở về trình công đường quan
sai người đo khám cho trưng canh. Vả lại xứ này đông tây tứ cận vẫn còn có chỗ
đất khô, rừng rậm, phù sa, đất gò. Các xứ đất đó nay đã khai phá tạm trồng khoai
đậu cho đo đạc chịu sưu thuế. (mất chữ)
Trùm cả Nguyễn Văn Lý điểm chỉ
Cai đội Nguyễn Văn Chi điểm chỉ
Cai hợp Nguyễn Quang Thắng
Xã dịch Nguyễn Văn Lân điểm chỉ
Lão bạn Trương Văn Củng điểm chỉ
Tháng 6 năm Gia Long thứ 6 (1807).
235
5.2. Bản kê trình ngày 27 tháng 4 năm Gia Long thứ 8 (1809)
Đường quan Bộ Hộ trình việc sai phái cai hợp Thắng Nguyễn Quang Thắng
đội biệt nạp dầu phụng phường (nội phủ) Cù Lao Ré, An Hải huyện Bình Sơn phủ
Quảng Nghĩa. Viên ấy rất tinh thông luật toán, liêm khiết, có năng lực, chăm chỉ,
mẫn cán phù hợp với việc sai phái. Sai viên đó đến kỳ thuế lệ hàng năm đốc suất
các xã trưởng, trùm trưởng chiếu xét thu nạp các hạng dầu hương, đàm chích và
tiền thuế dầu phụng trong phường cho đầy đủ mang về kinh phụng nạp. Quan thuế
ấy hệ trọng nên người đương trách cần cẩn thận nếu nhận việc bừa bãi, đầu mối
không bền chặt sẽ có phép công. Nay sai phái.
Ngày 27 tháng 4 năm Gia Long thứ 8 (1809).
5.3. Bản kê trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 8 (1809)
Cựu cai hợp Nguyễn Quang Thắng, xã trưởng Nguyễn Văn Ngan, Dương
Văn Nhạc đội biệt nạp dầu phụng phường (nội phủ) Cù Lao Ré, An Hải huyện Bình
Sơn phủ Quảng Nghĩa cúi đầu, rập đầu trăm lạy cẩn tấu. Phường tôi sinh sống ở
địa phận hải đảo, thổ sản nhận nộp dầu hương, hải sản nhận nộp đàm chích còn
dân đinh canh giữ, tuần du ngoài biển để phòng bọn tàu biển gian ác. Từ trước
đến nay phường tôi nhập vào nội phủ biệt nạp dầu phụng và các loại tiền thuế
thân dung về kinh phụng nộp, hoàn tất xong giữ lại văn bằng, sổ sách tâu chuẩn
cho miễn sưu, dân huyện đã thành ngạch. Đến năm Giáp Tý vâng tờ truyền của
quan Công đồng cho đường quan trấn Quảng Nghĩa truyền xuống các thôn,
phường, xã, tổng đều biệt nạp tiền thuế và các sản vật tại bản trấn chiếu thu.
Đường quan căn cứ tờ truyền thôi thúc phường tôi thu nộp thuế lệ tại bản trấn.
Dân phường tôi sống ngoài biển cách bản trấn xa xôi, hành trình trên biển gặp
sóng to gió lớn không thuận, vất vả vô cùng. Vậy cúi đợi thánh ân anh minh xem
xét ban ơn cho phường tôi từ nay về sau đến kỳ thuế hàng năm thuận theo hướng
gió mang các loại thuế lệ về kinh phụng nạp vào nội phủ đủ số rồi giữ lại văn
bằng, sổ sách tấu lên theo như lệ cũ, lại trình đường quan trừ đi để vỗ yên dân.
Phường tôi kính cẩn sợ hãi cẩn tấu.
236
Trên truyền cho bản phường từ nay về sau đến kỳ thuế lệ hàng năm mang
các loại tiền thuế, sản vật theo lệ nộp tại kinh đợi lĩnh văn bằng, sổ sách giữ làm
bằng trở về trình cùng quan trấn đối chiếu trừ đi để tiện cho dân.
Ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 8 (1809).
5.4. Bản kê trình ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 17 (1818)
Đốc suất đội biệt nạp dầu phụng cai hợp Thắng Nguyễn Quang Thắng
phường nội phủ Cù Lao Ré, An Hải huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa kê trình.
Tôi nay 57 tuổi, vào năm Kỷ Mùi đầu quân có chút siêng cần, đến năm Kỷ Tị
vâng theo đường quan Bộ Hộ văn sai văn truyền tôi làm cai hợp đốc suất trong
phường hàng năm đến kỳ thuế cùng với xã trưởng, trùm trưởng thúc thu quan thuế
đưa về kinh phụng nộp, từ đó đến nay các hạng tiền thuế dầu phụng hiện có văn
bằng, sổ sách, việc đã trải qua nhiều năm, từng chịu vất vả. vả trong phường đã
ứng bầu được 2 xã trưởng thúc giục sưu thuế. Tôi tuổi cao sức yếu, lại có mẹ già
gần 80 tuổi, chưa biết sớm tối thế nào, khó mà báo đáp. Tôi có đơn trình lên đường
quan Bộ Hộ sự ấy, vâng cho trở về trình quan bản trấn. Nay xin tôn ông thương xót
đã chịu nhiều vất vả mà cấp cho văn bằng cho phép trở về phụng dưỡng. Còn các
hạng tiền thuế sưu dầu của trên 100 người trong phường, giao lại cho xã trưởng,
trùm trưởng trong phường cứ hàng năm chiếu sổ mang về kinh phụng nộp y theo lệ
cũ. Tôi nay tuổi cao sức yếu khó có thể kham được. Bái lạy trình.
Cai hợp Thắng tự kí
Ngày 10 tháng 6 năm Gia Long thứ 17 (1818).
5.5. Bản kê trình ngày 25 tháng 7 năm Gia Long thứ 17 (1818)
Bộ Hộ vâng trình việc quan ký lục ở trấn báo Phường Cù Lao Ré, An Hải
huyện Bình Sơn trấn hạt hàng năm lệ nộp thổ sản trên núi thuế dầu hương là 1 đản
4 yến 1 cân 12 lạng (141 cân 12 lạng). Tháng 9 năm Nhâm Thân, do bị bão gió
quật gẫy cây dầu hương. Bốn năm Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính(Tý) đã cho
phép thay nộp bằng dầu phụng, còn từ năm Đinh Sửu đến nay không cho thay nộp
dầu phụng nữa. Nay phường đó có đơn trình lên trấn báo việc cây dầu hương cành
237
lá bắt đầu lên, chưa có hoa quả, lại xin thay nộp bằng dầu phụng. Quan ký lục ở
trấn hiện đã đích thân về kiểm tra kết quả và đã tấu sự việc lên. Vâng theo chỉ, quan
trấn nên hỏi rõ giá hương dầu ở các chợ trong trấn hạt xem mỗi cân giá bao nhiêu
tiền rồi ghi chép đầy đủ tấu lên. Vâng theo lệnh đã cho hỏi rõ, ngày 10 đã cho ghi
chép đệ trình hiện đã đến kinh giao bộ đề đạt. Nếu mông lung, lẫn lộn lấy giá cao
làm giá thấp thì trấn quan ắt có tội và can dự đến cả người đưa lên. Đưa quan trấn
trấn Quảng Nghĩa chiếu hội.
Ngày 25 tháng 7 năm Gia Long thứ 17 (1818).
5.6. Bản kê trình tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821)
Cựu đốc suất đội dầu phụng cai hợp Nguyễn Quang Thắng, xã trưởng Tuyên
Vũ Văn Đính phường (nội phủ) Cù Lao Ré, An Hải huyện Bình Sơn phủ Quảng
Nghĩa kê trình.
Năm trước phường tôi qui tập đội biệt nạp dầu phụng. Năm Tân Mùi vâng
quan bộ đường văn truyền căn cứ theo lệ nạp hàng năm đến thượng tuần tháng 4
đến kỳ trưng thu để thượng tuần tháng 5 mang nộp đủ đợi lĩnh đơn bằng trở về
trình quan bản trấn. Đến ngày mồng 7 tháng 2 năm nay vâng có phiếu tùy tróc thúc
giục phường tôi thu các loại tiền thuế dầu phụng kịp kỳ mang đi. Phường tôi hoa
vừa mới rụng chưa thành quả dầu, phường tôi tới trấn xin được theo lệ trước, quan
bản trấn cho hạn trong 10 ngày. Phường tôi dân nghèo ở trên hải đảo thúc giục thu
chưa kịp, sóng to gió lớn không thuận khó có thể kịp. Dám xin quan bộ đường văn
phê cho phường tôi từ nay về sau theo tiền lệ thuận theo hướng gió, xuôi theo dòng
nước đưa các thuế lệ về kinh phụng nộp để tránh quan bản trấn thúc giục tùy tiện,
không theo thường kỳ, vả lại sóng gió bất trác, khó khăn vô cùng, không dám tùy
tiện. Vạn lạy bái.
Cai hợp Nguyễn Quang Thắng kí
Xã trưởng Tuyên, Vũ Văn Đính điểm chỉ
Tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 2 (1821).
238
5.7. Bản kê trình ngày 20 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 7 (1826)
Cựu cai hợp Nguyễn Quang Thắng, Phạm Văn Thiết, Trương Văn Liễu,
Nguyễn Văn Vững, Nguyễn Văn Chiến, Vũ Văn Đính, Dương Văn Quyền 7 họ
phường (nội phủ) Lý Sơn, An Hải huyện Bình Sơn phủ Quảng Nghĩa xin sửa lại
như lệ cũ.
Phường tôi nguyên là dân ở trên hải đảo, hàng năm chịu nộp các hạng dầu
phụng, dầu hương và lệ thuế dung mân. Vào những năm Gia Long, phường tôi có
đủ sổ đủ đơn tấu xin được tới kinh phụng nộp để tiện cho dân. Đã so sánh lệ cũ cho
phường tôi tháng 4 hàng năm, binh ngạch chiếu theo hạn định đến kinh, do bộ cứu
xét, kiểm tra phụng nộp, không thuộc vào trấn hạt. Tháng 2 năm nay tiếp nhận binh
phòng trấn hạt thúc giục phường tôi kê khai thứ tự các hạng dân để tiện chỉnh sửa
sổ ngạch. Thiết nghĩ phường tôi là dân nghèo khó nơi hải đảo, một thì chạy về kinh
phụng nạp thuế lệ, một thì chạy về trấn ứng theo tu ngạch, hai phần công dịch thật
khổ cho dân vô cùng, xin cho binh tịch và thuế lệ gộp làm 1 đưa về kinh phụng nộp.
Vậy dám xin đường quan Bộ Binh phê văn bằng xác nhận cho phường tôi theo
ngạch cũ hàng năm về kinh phụng nạp để tiện 1 mối. Vạn lạy bái.
Nguyễn Quang Thắng điểm chỉ
Nguyễn Văn Thiết điểm chỉ
Trương Văn Liễu điểm chỉ
Nguyễn Văn Vững điểm chỉ
Nguyễn Văn Chiến điểm chỉ
Vũ Văn Đính điểm chỉ
Dương Văn Quyền điểm chỉ
Ngày 20 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 7 (1826).
239
5.8. Bản kê trình ngày 7 tháng 8 năm Minh Mệnh 7 (1826)
Cựu cai hợp Nguyễn Quang Thắng, hương mục Nguyễn Văn Thiết, Trương
Văn Liễu, Nguyễn Văn Vững, Nguyễn Văn Chiến, thất tộc phường Lý Sơn, An Hải,
tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn trấn Quảng Nghĩa xin được theo nguyên lệ nộp thuế
tại kinh.
Phường tôi sinh sống ở vùng hải đảo, sản vật trên núi thì nộp dầu hương, hải
sản cung nộp đàm chích còn toàn nhân đinh chịu biệt nạp dầu phụng và tiền thuế
thân dung. Năm Gia Long thứ 3 vâng theo công đồng truyền các loại thuế lệ đệ nạp
tại trấn. Phường tôi hàng năm đến kỳ thuế lệ đệ nạp tại trấn, gặp khi gió bão vận
chuyển khó khăn. Năm Gia Long thứ 8, Nguyễn Quang Thắng bản phường nêu rõ
sự tình đề đơn tấu xin, đã được đường quan Bộ Hộ tiền nhiệm đồng ý cho phường
hàng năm đến kỳ thuế lệ đưa về kinh phụng nạp để tiện cho dân. Tháng 7 năm trước
phường tôi căn cứ theo lệ tới trấn xin được đệ nộp các hạng tiền thuế, dầu hương,
dầu phụng về kinh, tiếp đó bản trấn cho phép thông hành, giao kê khai các hạng
thuế còn thiếu năm nay. Phường tôi vâng theo đã cho kê khai đầy đủ thuế lệ năm
nay đợi nhận giấy đi đệ nộp đầy đủ các khoản. Lại ngày 20 tháng 7 đã tư đến trấn,
sau này hàng năm đến kỳ thuế lệ thì ở trấn kiểm tra, giao nhận đơn sổ, bằng cứ để
thành chính sổ rồi thị thực cấp văn bằng cho phường lĩnh nhận về kinh phụng nộp.
Nay phường tôi xin y theo lệ này, hàng năm đưa đơn sổ tới trấn đợi kiểm tra đích
thực rồi lĩnh cấp văn bằng đệ nạp. Nay xin đường quan văn phê cho phường tôi
tuân theo đơn tấu xin năm trước hàng năm biệt sai nộp thuế theo lệ, đến kỳ thuế tới
quan trấn kê trình đầy đủ đợi trấn cấp văn bằng, kiểm tra số mục, thuế lệ, xác nhận
biệt sai phụng nộp cho được thuận tiện.
Nguyễn Quang Thắng điểm chỉ
Nguyễn Văn Thiết điểm chỉ
Trương Văn Liễu điểm chỉ
Nguyễn Văn Vững điểm chỉ
Nguyễn Văn Chiến điểm chỉ
Ngày 7 tháng 8 năm Minh Mệnh 7 (1826).
240
5.9. Bản kê trình ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 8 (1827)
Cựu suất biệt nạp cai hợp Thắng Nguyễn Quang Thắng, xã trưởng Trương
Văn Liễu, xã trưởng Nguyễn Văn Vững, cai đình Nguyễn Văn Sắt, chấp sự Dương
Văn Nhạc, thủ bản Nguyễn Văn Chiến phường (nội phủ) Lý Sơn, An Hải huyện Bình
Sơn phủ Quảng Nghĩa kê trình: tháng 8 năm Tân Dậu phường tôi có đơn bẩm tại
điện Tây Kỳ theo nhập đội biệt nạp dầu phụng vào nội phủ, hàng năm phụng nạp
thuế lệ, hiện đã có sổ sách. Năm Bính Dần được chỉ chuẩn cho binh dân cùng vào 1
sổ phụng nộp thuế tại kinh. Năm Kỷ Tị phường tôi tấu xin cho hàng năm sửa binh
ngạch và các loại thuế lệ đưa về kinh đệ nộp rồi đợi lĩnh sổ sách quay về trình đã
thành lệ. Từ đó đến tháng 9 năm Giáp Dần nhận được tờ chiếu hội của đường quan
Bộ Hộ về bản trấn cho phường tôi nộp thuế lệ tại bản trấn. Phường tôi thiết nghĩ từ
trước đến nay thuận theo hướng gió đưa các loại thuế lệ về kinh phụng nộp đã
thành nguyên lệ. Phường tôi dân cư sinh sống ngoài biển, cách xa bản trấn, hải
trình thì sóng to gió lớn, gian nan vô cùng. Vậy xin đường quan bản trấn xót thương
dân phường tôi sinh sống ngoài hải đảo mà thu nộp tại trấn thì hải trình gặp sóng
to gió mạnh, khó khăn vô cùng, xin cho phường tôi được mang nộp về kinh theo lệ
trước để dân được tiện lợi.
Ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 8 (1827).
241
5.10. Bản kê trình ngày 12 tháng 7 năm Tự Đức thứ 6 (1853)
Hương trưởng, lý trưởng, các chức dịch phường Lý Sơn, An Hải, tổng Bình
Hà huyện Bình Sơn phủ Tư Nghĩa làm tờ trí định. Do năm nay lý trưởng Văn, lý
trưởng Điều thúc thu quan thuế, việc xong lý trưởng Văn, lý trưởng Điều trình cùng
bản phường lý trưởng Chính biết chút việc quan nên để cho lý trưởng Chính cùng 2
lý trưởng về kinh phụng nộp quan thuế. Bản phường đồng thuận ứng cử lý trưởng
Chính hợp cùng lý trưởng Văn, lý trưởng Điều cùng đưa tiền thuế sưu dầu về kinh
phụng nộp. Việc xong đợi lĩnh văn bằng trở về tỉnh trình nộp. Xong việc làm tờ trí
định này.
Bản phường cùng kí
Lý trưởng Văn thủ kí
Lý trưởng Điều thủ kí
Cai đình Định thủ kí
Dịch mục Thạch thủ kí
Dịch mục Ân thủ kí
Dịch mục Bình thủ kí
Dịch mục Thuật thủ kí
Viết từ văn thủ bản Thuộc tự kí
Ngày 12 tháng 7 năm Tự Đức thứ 6 (1853).
242
Phụ lục 6
Một số văn bản của phường An Vĩnh
(nguồn: Phụ lục 2.4. Một số văn bản mới phát hiện được ở Cù Lao Ré, Đề tài
BĐ HĐ 01 – 01 của tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân, Khoa Sử - Đại
học Quốc gia Hà Nội)
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
Phụ lục 7
Một số hình ảnh về huyện Lý Sơn
(Nguồn: tư liệu tác giả)
7.1. Toàn cảnh Lăng thờ Cá Ông của xã An Vĩnh trong đất liền
7.2. Bàn thờ cá Ông
256
7.3. Toàn cảnh phế tích đình làng An Vĩnh trong đất liền
257
7.4. Toàn cảnh nhà thờ tộc họ Trương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
7.5. Ban thờ họ Trương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
258
7.6. Ban thờ tộc họ Dương tiền hiền xã An Hải, huyện Lý Sơn
259
7.7. Nhà thờ tộc họ Phạm Quang xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.8. Ban thờ Phạm Quang Nhật
260
7.9. Ban thờ tộc họ Phạm Quang tiền hiền xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
7.10. Ban thờ tộc họ Võ Văn tiền hiền xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
261
7.11. Tượng đài đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải tại Lý Sơn
262
7.12. Nhà trưng bày lưu niệm đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải ở Lý Sơn
7.13. Không gian chính Đình làng xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn
263
7.14. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa năm 2013
264
7.14. Toàn cảnh chùa Hang
265
7.15. Gian chính điện của chùa Hang
7.16. Đền thờ cá Ông Lân Chánh
266
7.17. Dinh Tam Tòa