Cường tập toà Bạch Ốc… Sài Gòn

TRUYỆN KÝ CỦA THANH GIANG

1

NVTPHCM- Vào một đêm trên cánh đồng ven đô đầy những hố đạn bom lỗ chỗ. Mùi cỏ

cháy hãy còn khét nồng nặc. Phía chân trời, Sài Gòn chìm xuống lớp mây đen nặng trịch.

Đèn dù giăng giăng bầu trời như một cái hàng rào ma trơi thoi thóp, chập chờn, phòng

thủ Sài Gòn đang đặc nghẹt giặc Mỹ.

Trong một căn chòi nhỏ lợp rơm, bốn phía cũng dừng bằng vách rơm, trước ngọn đèn

bão, ông Tư Chu - mật danh cho Nguyễn Đức Hùng - Phó tư lệnh kiêm Tham mưu

trưởng Quân khu Sài Gòn - Gia Định đang ngồi trầm tư. Bên ông, Bảy B - Đội trưởng

Đội 5 -vừa kể đêm đêm lặn lội dọc theo các bến tàu trinh sát mục tiêu thường thấy cảnh

những cô gái nhỏ bị bọn giặc Mỹ dùng cần trục móc thả lên tàu... rồi một lúc sau từ trên

tàu, chúng lại dùng cần trục thả những cô gái ấy xuống sông Sài Gòn! Anh đến cứu thì là

những cái xác chết!...

Căn chòi lặng yên; chỉ có tiếng gió rít báo hiệu cho một trận mưa to đầu mùa lọt qua kẻ

vách ù ù. Gây xúc cảm, Tham mưu trưởng kể một người bạn lên thăm, hỏi: “Chừng nào

thắng lợi chú Tư mầy?”. Rồi chẳng đợi trả lời, anh ấy nói luôn một hơi: “Không được

chú ạ! Còn giặc Mỹ ngày nào là con gái tôi sẽ thành gái điếm, con trai tôi sẽ thành cao

bồi mất!”. Mắt ảnh rưng rưng. Người cha thấy bất lực trước một xã hội đã bị Mỹ hóa cao

độ. Cái đó nó tàn phá chết người cũng đâu có thua gì bom đạn; mà có khi còn độc địa

hơn! Nghe câu chuyện tâm trí ông và đồng đội cứ mỗi ngày một chồng chất, đè nặng

những chuyện đau thương và căm giận như vậy. Ông nói với Bảy B giọng nặng xuống,

chắc như hòn đá cuội:

- Đánh Mỹ không chỉ là nhiệm vụ, là lý trí; với chúng ta, đánh Mỹ còn là một yêu cầu

tình cảm...

Quê ông ở Hà Tĩnh, vưà 4, 5 tuổi đã theo người chú (xin do không có con) vào Phan

Thiết, cho ăn học tử tế, sau vì tự trọng, tự lập, cậu học sinh vào Nha Trang rồi vào Sài

Gòn làm thuê rồi lang bạt lên Nam Vang. Cách mạng tháng Tám thành công ông trở về

hoạt động ở Châu Đốc, rồi được điều về Sài Gòn, chỉ huy một đơn vị biệt động 2766, trực

thuộc Bộ chỉ huy quân sự đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, lập nhiều chiến công nổi tiếng. Từ

đánh Pháp sang chống Mỹ, vốn cảm thông cùng cảnh ngộ tha hương, ông cưu mang

những thân phận lang thang cơ nhỡ; vầy đoàn, lập đội, từng kề vai, nắm tay tiễn đưa các

đội viên của mình vào trận. Ông được nghĩa sĩ danh tôn: Tổ sư Biệt Động!

- Chức năng tình báo, nhưng tình cảm đánh Mỹ thôi thúc, - Tham mưu trưởng nói tiếp -

chúng ta đánh trận Cravelle “mở màn” cho đội 5 ra đời - đánh theo kiểu “kịch sĩ hoá

chiến đấu”. Tiếp đánh Brink, ta phát triển theo kiểu đó. Phải nói là nhờ một guồng máy

dây chuyền từ lòng dân rất trung kiên.

Bỗng tiếng cửa sịt mở. Một cô gái trẻ, tóc kẹp quật ngược ào vào như một cơn lốc.

Giọng cô ríu rít vui tai:

- Chú Tư! Có điện ở trên về!

Ông Tư tiếp lấy bức điện. Khuôn mặt hơi thỏn, gầy, trán cao vẻ thông thái, mắt sáng

cương nghị và phúc hậu, mỗi lúc càng rạng rỡ chia sẻ cùng Bảy B:

- Trên lệnh phải đánh gấp một đòn phủ đầu vào bộ máy chiến tranh cao nhất của Mỹ ở

miền Nam. Với ba yêu cầu: 1 - Trừng phạt can thiệp Mỹ ném bom miền Bắc; 2 - Dằn mặt

Tây-lo trước khi về Mỹ thông qua âm mưu thâm độc mới; 3 - Đánh hổ trợ phong trào

đấu tranh chính trị của phật tử và học sinh sinh viên đang lên mạnh. Bảy B chắc đã đoán

ra mục tiêu nào rồi?

Quán triệt ý nghĩa quan trọng, Bảy B giọng chắc nịch:

- Chỉ có Toà đại sứ Mỹ ở Sài Gòn coi như Toà Bạch Ốc Nửu-ước mới là quan trong

nhứt. Nó nằm chình ình ở góc đường Hàm Nghi - Võ Di Nguy. Cứ ngày ngày phải nhìn

cái miếng dẻ 49 ngôi sao trên nóc nhà năm từng ngạo nghễ sao mà tôi ngứa con mắt quá

trời! Tầng 5 là nơi làm việc của Tây-lo và Phó đại sứ Alec-xit Jôn-son.

- Đúng! Nhưng trận nầy không thể đánh theo kiểu “kịch sĩ hoá ” như Caravelle và Brinhk

được! Bởi từ lính canh gác đến phục vụ đều là người Mỹ!... Vậy Bảy B cho giao liên đi

triệu Tư Việt về ta cùng bàn thảo mới xong.

Tư Việt tên thật Lê Văn Việt (mật danh Nguyễn Văn Hai) sinh năm 1937, tuy ít tuổi hơn

Bảy B nhưng điềm đạm, ăn nói có phần chín chắn. Anh quê xã Long Thạnh Mỹ - tức

vùng “Bưng sáu xã” truyền thống của huyện Thủ Đức. Tám tuổi Tư Việt đã mồ côi cha

mẹ được bà con xóm riềng bảo bọc. Thời kỳ đen tối sau hiệp nghị Genève, Việt vào đội

giao liên của Huyện ủy; vài năm sau Việt lãnh nhiệm vụ chui vào hàng ngũ địch xây

dựng cơ sở nội tuyến, làm chúng tin, cho làm đồn phó đồn Phước Lại xã Long Trưng.

Chẳng bao lâu sau, nhân một tiệc rượu, Việt tổ chức diệt đồn, thu toàn bộ vũ khí. Việt

không Thế trở ra hợp pháp, sung vào đội du kích vùng Bưng, lập nhiều chiến công xuất

sắc. Cuối năm 1961, Việt được cử đi học lớp Trinh sát địch tình của Quân khu, năm sau

học tiếp lớp Đạc công, mãn khoá được giao nhiệm vụ trung đội phó đội Đặc công biệt

động 15 Quân khu. Cuối 1964, Việt được chuyển sang Biệt động Quân khu Sài Gòn - Gia

Định như hiện nay.

Tư Việt sau khi nghe phổ biến mục đích yêu cầu nhiệm vụ; hâm hở:

- Bây giờ chỉ có việc là chấp hành mệnh lệnh! Đánh Mỹ, nhứt là đánh được mấy tên đầu

xỏ như là lẽ sống của chúng ta! Đánh vào đó là đánh vào âm mưu đầu não của chiến

tranh xăm lược Mỹ. Muốn đánh nhanh thì phải phá cái kiểu cũ ! …

Bảy B chau đôi mày rậm đen có vẻ hầm hừ, bức tóc. Con người anh thường khiến người

ta mới nhìn vào có thể cho là như Trương Phi, hữu dõng vô mưu. Kỳ thực anh ta cũng

đáo để lắm. Tuy đôi lúc có hơi bốc, anh nói:

- Bây giờ dũng cảm ăn tiền! Táo bạo là thắng!

- Vậy xưa nay có đánh cú nào mà không dũng cảm, táo bạo.

- Nhưng kỳ này phải dũng cảm, táo bạo gắt củ kiệu. Đánh cường tập!

Tham mưu trưởng gật nhưng vẫn chấn chỉnh :

- Quân số mình ít, phương chăm là lấy ít thắng nhiều, vừa đánh vừa bảo tồn và phát triển

lực lượng. Táo bạo nhưng không được liều mạng.

- Đánh cường tập. - Bảy B lập lại - Chỉ đánh cách đó mới mong kịp thời gian!

Tư Việt hai tay ôm lấy đầu. Khuôn mặt anh xương xương, mũi cao, da trắng trẻo. Trông

anh như một công chức sang trọng, nhưng lại xuất thân thợ mộc. Anh cứ lấy ngón tay cào

cào mái tóc chải mướt làm rối tung lên, nói điều băn khoăn:

- Nhưng đánh rồi thì khó bảo vệ mình. Chẳng lẻ đánh xong rồi cụt vốn! Nhiều lần các nơi

Mỹ ở bị đánh, nên nó canh phòng cẩn mật lắm, mà đây là đầu não cao nhất của chúng !

Đêm càng về khuya, tiếng lốc cốc của đoàn xe trâu rùng rùng chuyển tới một cách lẵm

liệt. Đâu đây tiếng trực thăng bành bạch soi đèn bắn đại liên rền rỉ. Hồi lâu Tư Việt nói:

- Nhưng tôi thấy cũng chỉ có nước đánh cường tập như ý Bảy B. Ngặt lực lượng cũng chỉ

có vài ba người thì...? Sợ chưa đánh được mà người hy sinh, thuốc nổ mất!

Bàn thảo một lúc Tham mưu trưởng bảo:

- Bây giờ ngồi đây bàn suông tới sáng cũng bí rì rị! Thôi Bảy B và Tư Việt trở vô Sài

Gòn trinh sát, điều nghiên kỹ mục tiêu, mộ thêm đội viên và có thể sơ bộ lên phương án,

trở về đây ta bàn tiếp. Nên nhớ là thời gian không cho phép ta rề rà đâu!

2

Hơn tuần sau. Phó tư lệnh Tư Chu hệ thống tình hình và phương án tấn công mục tiêu

Toà đại sứ Mỹ qua Bảy B và Tư Việt trình bày:

1 - Về bố phòng: Cả một đại đội quân cảnh Mỹ chia nhau canh phòng cẩn mật, kiểm soát

hai phía cưả ra vào và bên trong. Ngoài ra còn có tốp công an chìm ngày đêm túc trực la

cà trong các quán nước, tiệm ăn quanh đó để bí mật theo dõi người qua lại, ngăn cản

người đến gần….Đường Hàm Nghi chỉ được chạy một chiều cho tới cầu quây. Chúng

cho rằng nơi đây bất khả xâm phạm, bảo đảm an toàn hơn tất cả những căn cứ của Mỹ ở

nước ngoài.

2 - Nhận định, đánh giá: Toà nhà nầy nằm giữa khu giao thông, sát đường vận chuyển

cách lề đường 3 mét, dễ tiếp cận. Xe chạy một chiều, chỉ ngăn cấm đậu lại, không ngăn

cản chạy gần, đây là một sơ hở, hành động chớp nhoáng chúng dù đông cũng không trở

tay kịp. Thoát khỏi vùng đó là ra khu vực đông đúc.

3 - Quyết tâm: Dùng tổ ba người tiếp cận đường Võ Di Nguy (nay là đường Hồ Tùng

Mậu). Điểm đánh cách đại lộ Hàm Nghi 20-25 mét. Thuốc nổ có sức công phá tương

đương 150 kg TNT, cấu tạo theo hình lõm; nổ chậm 40 giây. Gây nổ vào lúc 10 giờ 45,

tức lúc chúng có mặt đông đủ nhất trước giờ sắp nghỉ. Điểm tiếp nhận và thiết bị trái nổ,

đường vận chuyển, bến tập kết xuất phát và người hộ tống và bảo vệ đã bố trí chu đáo.

4 - Phương án tác chiến 1: Dùng xe xúc có cần trục cẩu khối thuốc nổ gài kíp hẹn giờ,

canh đúng thời gian ấn định xe cần cẩu chạy ngang gây nổ. Lái xe nhanh chóng rời vị trí.

Cơ sở lái xe cần cẩu là công nhân làm việc ở bến cảng Sài Gòn, bảo đảm tốt. Phương án

2: Đóng vai chính khách cỡ Bộ trưởng nguỵ đến làm việc với một đại tá Mỹ đã biết tên,

đậu xe bên ngoài, sát tường ngay phía dưới chỗ làm việc của Taylor, trong xe cấu trúc

trái nổ hình lõm gài kíp hẹn giờ nổ chậm, ra về để xe lại. Phương án nầy phải chờ phương

tiện mua xe và thực tập đóng vai chính khách…

Tham mưu trưởng ngẫm nghĩ một lúc, nói:

- Hai phương án nầy muốn né cường tập. Cũng phải! Để thắng màvẫn bảo toàn lực

lượng. Tuy chưa đủ yếu tố cường tập, song dùng xe cần trục cẩu khối thuốc nổ 150 kg đi

lừng lững vào vùng cấm cũng gần như cường tập, liệu có phiêu lưu mạo hiểm ?

Ai nấy im lặng. Ông Tư nói sang vấn đề khác :

- Quân khu bảo đảm việc tổ chức vận chuyển khối thuốc nổ tới điểm thiết bị. Người áp

tải là ông Tư Sao, tham chiến không cầm súng cũng bằng như ôm bom nổ chậm. Cho

nên khối thuốc nổ phải nguỵ trang thật khéo. Điều lo ngại là quân số ít khó bảo đảm thực

hành chiến đấu. Tiếng là đại đội, Bảy B đội trưởng, nhưng cũng chỉ có mấy đồng chí. Có

đồng chí có việc về chiến khu rồi.Vậy Bảy B rà soát lại các cơ sở để tìm thêm người.

Bảy B ngẫm nghĩ giây lác giới thiệu một đội viên đủ tiêu chuẩn. Đó là Thế, dân bụi, bán

báo, cha là cán bộ cách mạng bị tù Côn Đảo. Ông Tư nhận ngay Thế là con một của má

Hai. Ý thức tình báo nhạy cảm, ông bảo Bảy B cho Thế về nhờ má Hai đứng tên mua xe;

sau đó lên vùng căn cứ lánh né. Ông nhận xét về hai phương án:

- Binh thư tiền nhân có câu: “Tiên hạ thủ vi cướng”. hai phương án, cái nào cũng có khả

năng bất ngờ; nhưng nguy hiểm vẫn không nhỏ! Còn do tổ chức thực hiện phải thật thông

minh, linh hoạt. Sau đây Bảy B đến hậu cần lãnh tiền. Nên nhớ trách nhiệm Sài Gòn

mình đối với Hà Nội đang kêu gọi trừng phạt Mỹ và phối hợp phong trào đô thị đấu tranh

chính trị thời gian không được chậm trể !

3

Thế đội viên hai mươi tuổi, người đậm chắc, nhanh nhẹn vốn tác phong đánh giày, bán

báo, nhận lời Bảy B, về nói với má:

- Bây giờ má bỏ cái căn phố đang ở trong Sài Gòn nầy đi, ra đứng tên mua cho cách

mạng một chiếc xe hơi.

- Mua xe thì mua, việc gì mà phải bỏ nhà?

- Má không đi thì nó bắt, nó đánh đập, bỏ tù, má chịu nổi không?

- Mua chứ bộ ăn trộm ai sao mà ở tù, ở rạc.

- Mua xe là để đánh Mỹ! Đánh xong rồi nó truy người mua xe tới ổ chớ chơi à!

Bà má tóc đã bạc, nhưng trông dáng dấp hãy còn khỏe khoắn. Má vừa têm trầu, ngẫm

nghĩ : Cách mạng cần không dám làm sao phải. Con một còn dám giao huống gì là nhà

cửa. Nhưng má không khỏi băn khoăn lại hỏi:

- Bỏ nhà rồi đi đâu, ở đâu?”.

– Cái đó má khỏi lo!- Thế nói chắc - Mấy ảnh đã cất nhà cho má ra vùng căn cứ .

Má Hai dừng lại xỉa thuốc, như tâm sự :

– Làm cách mạng mà dễ dàng vậy ai không làm được. Hết nhà cửa miễn được việc cho

bay thì kể số gì. Ba mầy bị đày Côn Đảo hồi thằng Diệm trả thù những người kháng

chiến cũ. Bây giờ hổng biết ổng chết sống ra sao. - Má lại hỏi thêm - Mà tao đứng ra mua

chiếc xe gì?

- Mua xe du lịch. Má chỉ đứng tên mua, còn mọi việc có tụi con lo.

Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn trước năm 1975

4

Tư Việt đi lo quan hệ với cơ sở, tập hợp và thiết bị khối thuốc nổ với cậu Thế. Bảy B làm

nhiệm vụ nhận xe má Hai mua về rồi đưa ngay má về cứ an toàn. Sau đó anh đưa thuốc

nổ vào xe do Tư Việt thiết kế và ngụy trang.

Mọi việc gần xong thì đùng một cái tên chủ công ty bốc giở bến cảng nó đổi đồng chí cơ

sở của mình đi nơi khác. Thế là kế hoạch xe cần cẩu phá sản. Thời gian lại càng cận hơn

mới găng. Bảy B báo cáo khó khăn của phương án 2 là người “kịch sĩ” đóng vai chính

khách chưa thật bảo đảm!

Pháo Đồng Dù bắn canh đêm cho căn cứ Sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới Mỹ” nổ ầm ào.

Không khí căng thẳng. Tham mưu trưởng nói:

- Thời gian không còn chờ đợi nữa! Cũng không thể lánh né cường tập. Phải trở xuống

chiến trường nghiên cứu tổ chức phương án 3…

Ba ngày sau, như thường khi tối cần, Tham mưu trưởng cải trang vào Sài Gòn gặp hai

cán bộ trụ cột, để nghe Tư Việt trình bày mạch lạc phương án 3 - cường tập:

- Đội hình tấn công gồm 3 người: số 1: Tư Việt, số 2: Bảy B, số 3: Thế.

* Số 1: Tư Việt - trang bị súng ngắn, lựu đạn, đi xe gắn máy, có mặt tại đường Võ Di

Nguy - Nguyễn Công Trứ trước 30 giây thời gian gây nổ, khi xe số 2 xuất hiện, nhanh

chóng diệt ngay lính gác cổng cùng công an trong tiệm nước túa ra và bọn gác đường đối

diện toà Đại sứ, nhiệm vụ quan trọng mở đường cho xe số 2 tiếp cận mục tiêu và bảo vệ

đồng đội rút lui…

* Số 2: Bảy B. lái xe du lịch hiệu Frigate (do má Hai đứng tên mua), chở trái nổ 150 kgs

TNT, lộ trình theo đường Nguyễn Huệ đến đường Phú Kiết dừng lại gài bộ phận nổ

chậm, rồi thẳng ra đường Võ Di Nguy băng qua Hàm Nghi đến đậu sát điểm đánh, gây

nổ rồi dùng súng ngắn lựu đạn phối hợp chiến đấu…

* Số 3: Thế -Trang bị súng ngắn lựu đạn, đi xe gắn máy, có mặt ở ngã tư đường Nguyễn

Công Trứ - Tôn Thất Đạm cùng lúc với số 1, đảm nhiệm bảo vệ đồng đội tiến công và rút

lui. Sau khi số 1 và số 2 qua khỏi, quăng lựu đạn chặn công an cảnh sát đuổi theo, vừa

rút theo số 1 và 2 về hướng chợ cũ Sài Gòn…

Tham mưu trưởng rà lại một lần nữa các kế hoạch thật tỉ mỉ, nhắc lại từng động tác và

giờ giấc hiệp đồng. Ông lo nhất là ít người quá, làm sao bảo vệ an toàn cho từng đồng

chí! Đến giờ chót ông vẫn cố rà rẫm lại các cơ sở, nhưng cũng chẳng tìm ra thêm được

người nào nữa! Biết thủ trưởng còn băn khoăn về việc đó, Tư Việt điềm nhiên nói:

– Có bao nhiêu đánh bấy nhiêu!

Câu nói như dao chém cột! Câu nói làm ông càng vững bụng, càng thêm tin tưởng vào

phương châm quân sự của Đảng: lấy ít thắng nhiều, lấy mưu trí thắng cường bạo. Sâu xa

là phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Bảy B tiếp lời:

– Lần đánh Brink, thủ trưởng cấp trên đến thăm, khen: “Các đồng chí đánh Mỹ bằng búa

“tài xồi” rồi đó! Vậy lần này mình phải đánh nó bằng búa “thiên lôi”.

Chưa gì Bảy B đã nói lên quyết tâm. Cũng nhờ lần đánh Brink , Bảy B được “tiểu tu”

con người, nên bây giờ coi bảnh bao. Tham mưu trưởng xúc động nhìn Bảy B, Tư Việt

nghe lòng dậy lên tình thương hai người đồng chí trung thành. Mặt Tư Việt coi tỉnh bơ vẻ

đầy tự tin. Bảy Bê thì hơi bậm trợn, cái bậm trợn cũng rất dễ thương với câu nói: “Dũng

cảm ăn tiền! Địch dù đông như kiến cỏ, nhưng tôi đi guốc trong bụng nó. Dứt khoát là

tinh thần nó bạc nhược. Nổ cái rần thì mẹ con nó hồn vía lên mây xanh. Anh tin đi! Ăn

tiền thôi!” Bảy Bê đánh giá địch căn bản đúng, nhưng ông thấy cũng cần uốn nắn :

- Cũng chưa ắt chỉ cậy có dũng cảm là ăn tien. Còn phải mưu trí nữa. Hồi đánh Tây, tôi

làm đội trưởng một đội biệt động. Một hôm tôi đóng giả một trung uý “com măng đô”,

dẫn một tiểu đội đột nhập vào khu vực Thị Nghè, đánh một cái bốt cảnh sát. Bỗng giữa

đường gặp một thằng cảnh sát nhận mặt tôi. Nó là một thằng phản bội. Chưa tới mục tiêu,

nổ súng thì lộ tẩy còn gì đánh. Tôi bèn nháy mắt chào nó, rồi xôm lại bắt tay: “Ê! Ra đây

làm cảnh sát quèn vậy à? – Vừa nói tôi vừa chỉ lên cầu vai – Ra mà làm lèm nhèm cũng

mang tiếng. Thôi chào!”. Tên phản bội bị một đòn cân não còn đang bần thần thì tụi tôi

đã kéo đi và “làm ăn” nên chuyện. Đó cũng là xoàng thôi. Cho nên chẳng những đối với

cái nghề của tụi mình mà nhất là đối với thằng Mỹ ngày nay lại càng phải mưu trí, mưu

trí “số dách”. Trong mưu trí còn thông minh và sáng tạo.

Ông lại nhắc đến anh Trỗi, anh Đang. Có ý củng cố thêm khí phách của người anh hùng

cách mạng. Ai cũng thừa nhận, đối với trận này cần phải nâng cao cái khí phách anh

hùng đó thì mới mong thắng nổi. Cậu Thế có vẻ nửa như học sinh, nửa như còn hơi

hướng của dân bán báo lớn lên, nói:

- Anh Trỗi ra pháp trường tay bị trói mà tinh thần vẫn tiến công. Tiến công đến hơi thở

cuối cùng. Mình dù sao cũng là trong tay có súng. Có súng mà tinh thần không bằng nửa

anh Trỗi thì chết sướng hơn. Sài Gòn mình có những người con như anh Trỗi thiệt là nở

mặt, rỡ mày.

Nghe Thế nói, mặt Tư Việt hiện dần lên một vẻ trang nghiêm như chợt xúc động đến một

tình cảm thiêng liêng, anh nói:

– Sao mà tôi mong gặp Bác Hồ quá! Mong sao mình đánh cho mau mau độc lập để được

đón Bác vào thăm chính cái thành phố mang tên Bác đây! - Tư Việt chợt nhìn qua cửa sổ.

Bầu trời thành phố nhấp nhánh đầy những ngôi sao xanh; giọng anh trầm xuống: Mình

được là những đứa con của thành phố Hồ Chí Minh, hỏi có vinh hạnh và sung sướng nào

bằng. Đánh mà không xứng đáng thì ân hận lắm đó.

Tham mưu trưởng với giọng đầy xúc động, trang nghiêm:

– Kể từ hôm nhận lệnh đến ngày mai xuất phát tấn công là tròn một tháng. Một tháng lên

ba phương án cho một trận đánh thật kỳ công. Có kỳ công, có thắng lợi! Chúng ta nguyện

trả lời một cách dỏng dạc với miền Bắc và cấp trên: quyết trừng phạt giặc Mỹ một đòn đích

đáng! Tôi nhắc anh em một lần nữa: Số 1 và số 3 bằng mọi giá yểm trợ cho số 2 tiếp cận

mục tiêu. Nổ xong phải rời khỏi điểm nhanh, chớ nên khinh suất. Địch đông như kiến cỏ.

Phản ứng nhanh lẹ. Thôi chúng ta chia tay. Hẹn ăn mừng chiến thắng và trở về đủ mặt!

Mọi người bắt tay nhau rất chặt dưới một mái hiên của căn phố nhỏ, chia các ngả lao vào

một trận táo bạo ngày mai. Đường phố lúc bấy giờ vắng lặng. Thỉnh thoảng một tiếng rao

khuya cất lên như một tiếng kêu than não nề xoáy vào gan ruột. Phải chăng đó là tiếng

lòng ông thức đậy trong những ngày tha phương cầu thực cùng lớp người nghèo khổ lang

thang ... Và thêm xốn xang giữa thành phố đang bị Mỹ hoá cao độ; ồn ào phồn vinh giả

tạo, mà đầy những bất công, những thân phận khổ hạnh đau thương!

5

Theo giờ Sài Gòn, 10 giờ 43 phút, Tư Việt và Thế chạy xe gắn máy tới ngã ba đường Võ

Di Nguy - Nguyễn Công Trứ, vào đúng vị trí hiệp đồng. Liếc qua đường vẫn chưa thấy

xe du lịch chở vũ khí của Bảy Bê, Tư Việt bèn rà xe lại chỗ bán thuốc lá mua một bao và

đánh diêm châm lửa hút. Chiếc xe vẫn nổ máy nhỏ rì rì. Một tên công an chìm trong quán

nước xăm xăm đi ra. Bổng hắn dừng lại nhìn Tư Việt lom lom rồi hỏi mồi thuốc lá. Tư

Việt vẫn thản nhiên chìa điếu thuốc lá cho hắn và sửa soạn tay ga. Trông cái vó Tư Việt

với trang phục có vẻ là một nhà trí thức sang trọng, hắn bỏ lảng đi. Bảy Bê do đường bị

nghẽn, trật hiệp đồng một phút rồi! Đường cấm, không thể dừng chờ. Để không chết bộ,

Tư Việt chạy đi một quãng và đánh rơi bao diêm quày xe lại lượm. Chênh chếch về phía

cửa toà đại sứ Mỹ, có ba tên cảnh sát mang “víc-xông” đứng gác. Một tên dợm chạy qua

định phạt chiếc xe đi ngược chiều. Nhưng Tư Việt đã lượm xong bao diêm và quày xe

đi...

Cùng lúc, Thế cũng có mặt ở góc đường gần đó. Vẫn chưa thấy xe của Bảy Bê tới! Con

đường này dừng lại đứng lớ ngớ là cũng sinh chuyện ngay. Thế lo quá. Nhưng nhanh trí

đến bất ngờ, cậu ta dừng lại vờ cột dây giày...

Từ trên đường Võ Di Nguy, chiếc xe du lịch Frigate của Bảy Bê cũng đang lướt tới.

Thoáng thấy chiếc xe du lịch đen của Bảy Bê, Tư Việt vừa phóng xe qua ba tên cảnh sát,

nổ liền hai phát, hạ hai tên, dọn đường tiến cho xe Bảy Bê. Tên còn lại bỏ chạy trối chết.

Mấy tên công an chìm trong các tiệm nước nghe nổ túa ra bao vây lấy Tư Việt. Tư Việt

như con hổ giữa bầy sói, hai tay hai súng ngắn chống cự kịch liệt. Đầu kia Thế cũng nổ

súng chặn một toán quân cảnh Mỹ. Cậu ta mới học bắn súng ngắn mà bắn rất ngon. Nổ

hai phát là hai thằng Mỹ ngã gục xuống đường. Những thằng còn lại chạy quýnh quáng.

Thế định bồi theo trái lựu đạn, nhưng thấy gần đó có đồng bào đi đường, nên thôi.

Vừa lúc, xe chở khối thuốc nổ của Bảy Bê lao tới, tăng ga vọt nhanh vào cửa chính toà

nhà, thắng gấp cho bể hộp số, xe nằm tại chỗ. Bảy Bê một tay bung cửa một tay giật nụ

xoè, thoắt rời khỏi xe . Anh còn kịp nhìn thấy xẹt ra mot tia khói lam. Tên Mỹ gác cổng

bất thần luống cuống bị Bảy B nổ liền một phát K54, kịp hạ ngay tên cảnh sát vừa chạy

tới. Bấy giờ anh hỗ trợ Tư Việt, quay súng lại bắn mấy phát vào bọn công an chìm rồi

băng qua đường dưới sự yểm trợ của Thế, chạy về phía nhà thuốc Dương Thị Liểu, bắt

một chiếc taxi, thót lên giành lấy tay lái vọt sâu vào lòng thành phố. Thấy Bảy Bê an toàn

rồi, Thế vẫn còn nổ máy xe, lao qua một ngã ba, hạ gục tên quân cảnh Mỹ và nổ súng vào

toán công an từ tiệm nước đổ ra, hổ trợ Tư Việt, rồi băng ra đại lộ Hàm Nghi rút lui về

phía chợ cũ, quẹo qua một ngã ba khác... Khi thấy không có một bóng thằng địch nào

đuổi theo, Thế phóng thẳng về nhà. Lập tức thím Hai cũng được thu xếp theo kế hoạch,

bỏ nhà ra mật khu ngay hôm ấy...

Thời cơ Thế giải vây, Tư Việt hai tay hai súng nổ tứ phía vào bọn quân cảnh khiến chúng

chạy tản núp vào các gốc cây. Trách nhiệm yểm trợ ồng đội rút lui, thấy Bảy B và Thế đã

ra thoát, Tư Việt phóng xe vọt nhanh về phía đường Nguyễn Công Trứ …

Đúng 10 giờ 55 phút (giờ Sài Gòn) khối thuốc 150 kg TNT phát nổ, lúc mà bọn chúng

tập trung đông nhất. Đại sứ quán Mỹ bị xoá sổ trong khói bụi. Toà nhà 5 tầng sụp đổ

ruổng nát, gục xuống, chết mất tư thế ngạo nghễ hằng ngày. Lá cờ 49 ngôi sao trắng bay

cuống cuồng lả tả rơi xuống rủ trên cái quốc huy hình con ó vành bán nguyệt có dòng

chữ: “United States of American” đang nằm phủ phục dưới chân tường đổ nát. Bọn tướng

tá Mỹ và nhân viên trong toà đại sứ lúc đầu nghe súng nổ dưới đường còn nghểnh đầu ra

cửa sổ nhìn xem. Chừng phát giác chiếc xe chất nổ, chúng hô hoán, tranh nhau chạy lại

các thang máy, đạp bừa lên nhau la chỏi trời. Nhưng thang máy cũng chỉ xuống tới lầu ba

thì khói khối thuốc nổ trùm lên kinh khủng. Sức mạnh của cả một khối thuốc nổ thổi qua

cánh cửa sắt, thổi rạp một bức tường, đến bức tường cuối cùng là chỗ cứng, hơi bị dồn ứ

lại, thổi thốc lên chỗ yếu là trần nhà, làm ruỗng tuốt lên đến tầng bốn, sát với tầng năm là

nơi làm việc của Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson. Ba tầng lầu đổ sập ào ào. Vôi

gạch, kính vụn, cùng với xác giặc Mỹ bay tung toé, trộn lẫn trong khói đen bốc mù mịt.

Ở cái nơi mà chúng huênh hoang cho là bất khả xâm phạm thì bất thần bị đánh một vố tá

hả tam tinh; đúng là hồn vía lên mây xanh. Từ phút đầu bọn tại chỗ bị tê liệt. Bọn khác

tới tiếp ứng cũng không dám xáp vào, chỉ nấp góc tường, gốc cây, hoặc ôm trụ đèn bắn

vãi tứ tung. Khu vực “bộ mặt thủ đô” của chúng bây giờ trở nên hỗn loạn. Đồng bào đi

trên đường có người bị trúng đạn của chúng. Lớp thì trên nóc tầng năm toà đại sứ, bọn

Mỹ quay đại liên phòng không bắn xả tưới xuống. Những người dân thường ngã gục

trước cửa toà đại sứ Mỹ.

Tư Việt lao xe trên đường Nguyễn Công Trứ. Bọn cảnh sát truy theo. Mấy tên công an ở

xa nơi nổ trông thấy liền xả súng bắn; nhưng quýnh quáng chúng bắn không trúng. Có

một tên cảnh sát chạy “Ac-lây” đuổi theo. Tư Việt quay lại nổ một phát. Chiếc xe Tư

Việt hơi lảo đảo nên viên đạn bay trượt. Một cuộc đấu súng ngắn diễn ra trên đường phố.

Người đi đường đứng dậm chân lo lắng nhìn theo. Xe Tư Việt vẫn lao vun vút. Những xe

cộ khác vội tránh rạt nhường đường cho anh. Chiếc “Ac-lây” của tên công an dù có tốc

độ nhanh hơn, nhưng hắn tụt dần lại, không dám theo nà. Thình lình Tư Việt bị trúng một

viên đạn bắn lén từ sau lưng xuyên qua bụng. Anh bình tĩnh nhét ruột vào, quay lại kịp

trông thấy một tên cảnh sát trong ngõ hẻm nhảy ra. Tư Việt vẫn chưa ngả xe, bắn chết

liền tên cảnh sát. Tên công an chạy Ac-lây thấy chiếc xe Tư Việt chạy loạng choạng nhấn

ga lao tới. Tư Việt chĩa súng vào hắn bóp cò. Nhưng súng đã hết đạn! Tư Việt bất thần xô

mạnh tên công an té nhào ôm nó vật lộn mặc cho vết thương ở bụng anh máu chảy ròng

ròng. Thêm mấy tên công an nữa chạy tới. Tư Việt bị bắt, tòa kêu án tử hình! Song một

cuộc trao đổi tù binh lý thú diễn ra…

Các hãng thông tấn phương Tây và báo Paris Match đưa tin cùng đăng ảnh. Phó đại sứ

Alexis Johnson mặt mày lấm lem bê bết máu, bàn tay đè lên trán bị thương lủi thủi từ

trong đống gạch vụn bò ra. Tướng chỉ huy lục quân Thái Bình Dương Wesmoreland cũng

bị thương. Có một trung tướng Mỹ chết tại bàn làm việc. Taylor chút nữa bay hồn. Tin từ

nội bộ Tòa Bạch-Ốc thú nhận: 190 nhân viên Mỹ chết và bị thương…

Người ta bàn tán, chắc là lúc lên máy bay về Mỹ, Taylor hãy còn ớn xương sống. Cả

thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn xôn xao về vụ này, thối động rất nhanh đến Toà Nhà

Trắng. Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson phải bỏ dở bữa tiệc tiếp đãi phái đoàn của

nước Thượng Volta để về nghe báo cáo, ngậm bồ hòn buông một câu khen đối phương:

“Việt cộng đánh thần tình! Còn chúng ta thì thiệt hại nghiêm trọng!”

***

Tám hôm sau ngày bị bắt, vết thương chưa lành, Tư Việt bị khiêng ra xử ở toà án quân sự

Việt Nam cộng hoà với thân hình bị tra tấn đến bầm mình, mặt mày sưng húp. Dân Sài

Gòn đi coi phiên toà hôm đó trông anh, nhiều người phải quay mặt lấy khăn lau nước

mắt. Tư Việt khẳng khái, vẫn không khai; trước toà nói lời đanh thép: “Cơ sở của tao,

người chỉ huy của tao là ở trong trái tim của tao đây!” Bị bẻ mặt, đế quốc Mỹ và tay sai

tức lồng lộn, kết án tử hình Nguyễn Văn Hai. Được tin, ông Tư Chu bàng hoàng đau đớn,

đang đêm khuya, ông đến gặp Bộ tư lệnh Quân khu đề đạt nguyện vọng tìm phương cứu

Tư Việt. Hôm sau trên làn sóng đài phát thanh của mình, Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam ra tuyên bố: “Sẽ xử bắn trung tá Gustav Herzt tình báo Mỹ (bị bắt ở Thủ Đức,

là em vợ của cố tổng thống Kennedy), nếu phía Mỹ xử bắn Nguyễn Văn Hai”. Thế là án tử

hình Tư Việt đình lại chờ dàn xếp cuộc trao đổi. Nhưng không may Gustav Herzt bị sốt ác

tính qua đời. Tư Việt bị đày Côn Đảo. Ở nhà lao, Tư Việt cùng Lê Hồng Tư và Phạm Văn

Đẩu tổ chức vượt ngục. Nhưng do một đồng chí bị bệnh, nên việc trở về đất liền chậm trể,

bị quân lính đảo lùng bắt được. Tư Việt bị tra đánh vô cùng dã man đến đứt ruột trở lại và

đã hy sinh ngày 31 tháng 12 năm 1966 trong nhà lao Côn Đảo, mới 26 tuổi đời. Sau hoà

bình (1994), Liệt sĩ Lê Văn Việt được Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

Chiến khu 1969 - Sài Gòn 2008