
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 476 - THÁNG 3 - SỐ 1&2 - 2019
19
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG BỆNH SỐT MÒ
TẠI KHU VỰC TÂY BẮC
Trần Quang Phục1, Nguyễn Văn Ba2, Nguyễn Văn Chuyên2
Nguyễn Thế Anh2, Nguyễn Trọng Chính2
TÓM TẮT6
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học lâm
sàng bệnh sốt mò tại khu vực Tây Bắc (2016-2017).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên
cứu hồi cứu trên 230 hồ sơ bệnh án của các bệnh
nhân được chẩn đoán xác định bệnh sốt mò tại 4
bệnh viện đa khoa tỉnh khu vực Tây Bắc nhằm mô tả
đặc điểm dịch tễ học lâm sàng và phân tích yếu tố
nguy cơ mắc bệnh sốt mò của khu vực. Kết quả: Cả
4 tỉnh khảo sát đều có bệnh nhân sốt mò. Tỉnh cố số
bệnh nhân sốt mò nhiều nhất là Điện Biên (33,91%),
tiếp đến là Hòa Bình (30,00%), Sơn La (20,87%),
thấp nhất là Lai Châu (15,22%). Sốt mò xuất hiện vào
tất cả các tháng trong năm, bệnh thường tăng từ
tháng 4, đạt đỉnh vào tháng 5 và duy trì ở các tháng
6, 7, 8 và 9. Bệnh thường giảm từ tháng 10 và thấp
vào tháng 2. Bệnh gặp nhiều ở đối tượng nông dân và
tập trung ở lứa tuổi lao động. Kết luận: Bệnh sốt mò
có triệu chứng giống với nhiều bệnh nhiễm trùng khác
nên là bệnh khó chẩn đoán, bệnh gặp ở nhiều địa
phương của khu vực Tây Bắc và có quy luật phát triển
theo mùa.
Từ khóa:
Dịch tễ lâm sàng, sốt mò, Tây Bắc.
SUMMARY
SOME CHARACTERISTICS OF CLINICAL
EPIDEMIOLOGICAL OF SCRUB TYPHUS IN
THE NORTH-WEST REGION
Objective: To describe some characteristics of
clinical epidemiological of the Scrub typhus in the
North-West region of Vietnam (2016-2017). Subject
and study methodology: Retrospective study was
carried out in 230 patient records who was
diagnosed/confirmed as Scrub typhus in 4 provincial
poly-hospitals of the north-west region in order to
describe the clinical epidemiological characteristic and
to analyze the risk of Scrub typhus in the region.
Results: There were Scrub typhus patients in all 4
studied provinces. Dien Bien is the province with the
highest number of the patients (33.91%), following by
Hoa Binh (30.00%), Son La (20.87%), and it is lowest
in Lai Chau (15.22%). The Scrub typhus occurred in
all months of the year. The disease is often high in
April, with high peak in May and maintained in June,
July, August and September. The disease is reduced
from October and low in February. The disease was
found mainly in the farmers and the people at working
age. Conclusion: The Scrub typhus has symptom like
1Viện sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương
2Học viện Quân y
Chịu trách nhiệm chính: tquangphuc@gmail.com
Ngày nhận bài: 4/2/2019
Ngày phản biện khoa học: 1/3/2019
Ngày duyệt bài: 9/3/2019
other infectious diseases, therefore, it is difficult to
diagnose. The disease is available in many localities of
the Nortwest region and it is seasonal transmission.
Keywords:
Clinical epidemiology, Scrub typhus,
North-West.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt Mò (Scrub Typhus) là bệnh truyền nhiễm
cấp tính do
Rickettsia Orientalis
gây nên, bệnh từ
động vật truyền cho người qua côn trùng trung
gian là ấu trùng mò. Bệnh thường lưu hành ở
những vùng rừng núi, trung du và nông thôn,
nơi có nhiều cây cối rậm rạp, cỏ dại, đất mùn ẩm
ướt … có nhiều thú vật mang mầm bệnh, thường
là các loài gặm nhấm và có nhiều trung gian
truyền bệnh là con Mò. Bệnh xảy ra ở mọi lứa
tuổi, nhưng chủ yếu hay gặp ở độ tuổi lao động.
Sốt Mò gặp khá phổ biến ở nhiều nước châu Á và
Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Việt Nam
nằm trong vùng lưu hành của bệnh sốt mò [1].
Do bệnh cảnh lâm sàng của Sốt mò phong
phú, đa dạng, không điển hình, dễ nhầm lẫn với
Thương hàn, Sốt rét hay nhiễm siêu vi như Sốt
xuất huyết Dengue…; cùng với việc thiếu các xét
nghiệm đặc hiệu nên bệnh Sốt Mò thường bị bỏ
sót. Vết loét đặc hiệu ngoài da có giá trị chẩn
đoán bệnh sốt mò nhưng chỉ có ở một số bệnh
nhân [2].
Bệnh Sốt Mò một khi được chẩn đoán thì điều
trị thường khá đơn giản và ít tốn kém vì vi khuẩn
này, cho đến nay, vẫn còn nhạy cảm với nhiều
loại kháng sinh như: Doxycilin, Cloramphenicol….
Tuy nhiên, khi không được phát hiện và điều trị
kịp thời, bệnh có thể gây sốt kéo dài nhiều tuần,
điều trị tốn kém, thậm chí có thể gây tử vong vì
những biến chứng như Sốc nhiễm khuẩn, Viêm
cơ tim, Viêm phổi nặng, Viêm não-màng não …
Miễn dịch sau khi mắc bệnh thường không bền
vững, tái phát có thể xảy ra [2].
Trên thực tế, nhiều bệnh nhân sốt mò vẫn
chưa được nhận biết ở các tuyến y tế cơ sở, việc
điều trị nhiều khi còn chậm trễ dẫn tới những
biến chứng ở bệnh nhân sốt mò. Vì vậy, việc tiến
hành nghiên cứu cụ thể các biểu hiện lâm sàng,
biến đổi cận lâm sàng của sốt mò và đánh giá
hiệu quả phác đồ điều trị bệnh bằng Doxycycline
và Chloramphenicol là rất cần thiết để đề xuất
cách tiếp cận chẩn đoán cũng như điều trị bệnh
sốt mò phù hợp cho y tế tuyến cơ sở [2]. Với