ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG BỆNH

QUAI BỊ CÓ BIỂU HIỆN VIÊM TINH HOÀN

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu các đặc điểm dịch

tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của 33 trường hợp bệnh quai bị có biểu hiện

viêm tinh hoàn ở trẻ em tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 05 năm

2002 – 2006.

Phương pháp: Hồi cứu cắt ngang mô tả.

Kết quả: Nghiên cứu cho thấy rằng: tuổi 11 - 15 chiếm 91%, biểu

hiện sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, đau góc hàm 18,2%, viêm tinh

hoàn 1 bên 78,8%, 2 bên: 21,2%. Amylase máu tăng là: 78%.

Kết luận: Các trường hợp viêm tinh hoàn được điều trị thích hợp ở

các cơ sở y yế, nghỉ ngơi, chườm mát tinh hoàn, sử dụng thuốc kháng viêm,

giảm đau. Các trường hợp này cần được theo dõi để phát hiện sớm tình trạng

viêm teo tinh hoàn, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau này. Tốt nhất là

phòng ngừa quai bị bằng vaccin cho mọi lứa tuổi > 1 tuổi.

ABSTRACT

Objective: The purpose of this study was to evaluate the manifestations

of epidemology, clinic, laboratory of 33 cases of munps with orchitis in children

at Tien Giang General Hospital in 5 years (2002 – 2006).

Methods: a descriptive retropective.

Results: the patients at age from 11 to 15 occurred: 91%, fever: 100%,

sialadenitis: 100%, pain corner of jaw: 18,2%, one lateral orchitis: 78,8%, both

lateral orchitis: 21,2%, elevation of serum amylase: over 78%.

Conclusion: Mumps with orchitis should be treated appropriately at

health organs. Treatment included: bed rest, relieve pain, anti-inflammation.

This cases needed to follow to early find out atrophy of testes which affected

the ability of fertility in the future. The best was to prevent by mumps

vaccine for children over one age.

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Bệnh quai bị là một bệnh lý toàn thân, cấp tính do siêu vi gây ra và dễ

lây lan. Bệnh đặc trưng bởi sưng, đau tuyến nước bọt, đôi khi kèm theo viêm

tuyến sinh dục, viêm tụy tạng và một số cơ quan khác. Bệnh thường diễn

tiến nhẹ và tự khỏi. Ngoài viêm tuyến nước bọt điển hình,viêm tinh hoàn là

biểu hiện thường gặp của quai bị ở nam giới, lứa tuổi thanh thiếu niên từ dậy

thì, hiếm gặp ở những trẻ em chưa dậy thì và trên 50 tuổi. Tỷ lệ quai bị có

biểu hiện viêm tinh hoàn có thể từ 20 – 35%. Viêm tinh hoàn thường xảy ra

sau khi viêm tuyến mang tai khoảng vài ngày. Khi bị viêm, tinh hoàn đau và

sưng to, thường kèm với sốt. Viêm tinh hoàn chẳng những gây đau đớn, kéo

dài thời gian điều trị mà còn gây ra những vấn đề sau đây: Thiểu năng sinh

dục hoặc có thể gây vô sinh ở những bệnh nhân bị viêm teo cả hai tinh hoàn.

Đã có một vài nghiên cứu khác nhau về bệnh quai bị song đến nay còn

rất ít tài liệu nói về bệnh quai bị có viêm tinh hoàn ở trẻ em vị thành niên.

Chúng tôi tiến hành đề tài nầy nhằm rút ra một số nhận xét về bệnh quai bị

có viêm tinh hoàn ở trẻ đã điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang từ năm

2002 – 2006 và đề xuất hướng theo dõi lâu dài đời sống tình dục của những

bệnh nhân bị bệnh quai bị có viêm tinh hoàn.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Bao gồm các bệnh nhân dưới 16 tuổi nhập viện Bệnh viện Đa khoa

Tiền Giang từ tháng 01/2002 đến 12/2006 được chẩn đoán là quai bị có viêm

tinh hoàn.

Cỡ mẫu: Toàn bộ các bệnh nhân.

Phương pháp nghiên cứu

Hồi cứu cắt ngang mô tả

Thu thập số liệu qua bệnh án.

Xử lý số liệu: Bằng phương pháp thống kê y học.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm dịch tễ học

Bảng 1: Phân bố theo năm

Nă 200 200 200 200 200 Tổn

m 2 3 4 5 6 g số

n 4 2 9 9 9 33

% 13 6 27 27 27 100

Nhận xét: Có 33 trường hợp quai bị có viêm tinh hoàn từ năm 2002

đến tháng 12/2006.

Bảng 2: Phân bố theo tuổi:

Tuổi < 11 Tổng

10 – 15

n 3 30 33

% 9 91 100

Nhận xét: Từ 11 – 15 tuổi có 30 trường hợp chiếm tỷ lệ cao nhất

(91%), có 3 trường hợp < 10 tuổi.

Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng

Bảng 3: Thời gian từ khi có triệu chứng đến khi vào viện:

Ngà < 4 - 6 7 8 9 Tổn

y 3 5 g

n 0 10 8 10 3 2 33

% 0 30, 24, 30, 9 6, 100

3 2 3 2 %

Nhận xét: các trường hợp vào viện thường ngày thứ 4 – 8 chiếm

93,8%.

Bảng 4: Các biểu hiện lâm sàng:

Triệu n %

chứng

Sốt 33 100

Rét run 6 18,2

Đau góc 6 18,2

hàm

Hạch góc 3 9,1

hàm

Chán ăn 5 15,2

Đau đầu 5 15,2

Viêm 33 100

tuyến mang tai

Viêm tinh 33 100

hoàn

Nhận xét: Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là sốt 100% và 100%

có viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn.

Bảng 5: Vị trí viêm tinh hoàn:

Vị trí n %

Phải 12 36,4

Trái 14 42,4

2 bên 7 21,2

Nhận xét: Viêm tinh hoàn một bên chiếm 78,8%, viêm tinh hoàn 2

bên chiếm 21,2%.

Bảng 6: Xuất hiện triệu chứng viêm tinh hoàn

3 - >

Ngày 8 9 Tổng 10

(cid:0) 7 10

n 13 12 6 2 0 33

% 39,4 36,4 18,2 6 0 100

Nhận xét: Ngày xuất hiện triệu chứng viêm tinh hoàn thường: ngày 3

– 8 chiếm 75,8%.

Bảng 7: Triệu chứng sau viêm tinh hoàn:

Triệu n %

chứng

Sốt cao 22 66,7

trở lại

Ói 2 6

3 9 Nhức đầu

3 9 Đau bụng

Sưng đau 31 93,9

tinh hoàn

Sưng mào 2 6

tinh hoàn

Bảng 8: Xét nghiệm bạch cầu máu:

CTM n % P

Số (cid:0)10.000/mm3 17 51,5

>

lượng bạch

0,05

>10.000mm3 16 48,5 cầu

(cid:0) 30% 28 84,8 < Tỷ lệ

0,05 % Lympho

> 30% 5 15,2

Nhận xét: Số lượng bạch cầu (cid:0) 10.000/mm3 và > 10.000/mm3 không

khác biệt có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).

Tỷ lệ % lympho (cid:0) 30% chiếm 84,8%, khác biệt có ý nghĩa thống kê

so với nhóm có tỷ lệ % lympho > 30% chiếm 15,2%.

Bảng 9: Xét nghiệm Amylase máu (u/l)

Amylase < 200 > Tổng

máu (u/l) 200 - 2000 2000

n 6 19 2 27

% 22 70,4 7,6 100

Nhận xét: Trong 27 trường hợp có làm xét nghiệm Amylase máu có

22% trường hợp Amylase máu bình thường (< 200u/l) và 78% có Amylase

máu tăng (> 200u/l)

BÀN LUẬN:

Một số đặc điểm dịch tễ học

Trong những năm gần đây, tình hình bệnh quai bị, đặc biệt là bệnh quai bị

viêm tinh hoàn ở trẻ vị thành niên có chiều hướng gia tăng.

Tuổi: Nhóm tuổi 11 – 15 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 91%. Bệnh quai

bị là một loại bệnh nhiễm virut cấp tính, dễ lây lan. Trẻ em là đối tượng dễ

mắc bệnh quai bị. Trẻ dậy thì khi bị quai bị dễ thị viêm tinh hoàn Theo

Daniel Floret, viêm tinh hoàn do quai bị thường gặp ở lứa tuổi 12 – 30 tuổi

và tác giả Cao Văn Viên nghiên cứu 162 trường hợp viêm tinh hoàn do quai

bị, ghi nhận tuổi từ 12 – 15 tuổi chiếm tỷ lệ 22%. Tác giả Trịnh Thị Minh

Liên và cộng sự nghiên cứu 97 trường hợp bệnh quai bị có viêm tinh hoàn,

ghi nhận tuổi dưới 16 chiếm 10,4%. Lứa tuổi dậy thì là lứa tuổi có cơ quan

sinh dục đang phát triển, khi bị bệnh có thể gây thiểu năng sinh dục hay vô

sinh ở những người viêm teo tinh hoàn 2 bên. Quá trình viêm teo tinh hoàn

có thể diễn tiến từ từ ở khoảng 50% những bệnh nhân bệnh quai bị có viêm

tinh hoàn.

Do đó, việc đề ra những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn bệnh xảy ra

bằng việc cách ly, vắc xin chủng ngừa bệnh quai bị là cần thiết cho mọi lứa tuổi,

nhất là nhóm tuổi dậy thì.

Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng

Biểu hiện lâm sàng

Trong 33 trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, các biểu hiện lâm

sàng thường gặp: Sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, viêm tinh hoàn

100%, đau góc hàm 18,2%, …

Bệnh quai bị là một bệnh lý toàn thân. Virut gây bệnh quai bị thụôc

nhóm Paramyxovirus có ái tính với tuyến nước bọt. Ngoài tuyến nước bọt,

một số cơ quan trong thời kỳ phôi thai có nguồn gốc từ lá thai ngoài như:

Tinh hoàn, buồng trứng, tụy, màng não,…cũng có thể bị viêm.

Vì vậy, ngoài viêm tuyến nước bọt điển hình, viêm tinh hoàn là một

biểu hiện thường gặp nhất của quai bị ở nam giới sau tuổi dậy thì. Bệnh quai

bị trước tuổi dậy thì thường ít có biến chứng viêm tinh hoàn và ít ảnh hưởng

đến khả năng sinh sản. Viêm tinh hoàn thường xuất hiện từ 7 – 9 ngày sau

viêm tuyến nước bọt hoặc cùng lúc. Thường chỉ viêm một bên, ít gặp 2 bên

kết hợp.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, viêm tinh hoàn gặp sau tuyến nước

bọt 3 – 8 ngày là 75,8%. Điều này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả

Trịnh Thị Minh Liên (79,5%), Cao Văn Viên (85,7%).

Theo tác giả D. Floret, viêm tinh hoàn thường một bên nhưng hai bên cũng

gặp ở 15 – 30%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, viêm tinh hoàn một bên là 78,8%,tỷ

lệ viêm tinh hoàn 2 bên là 21,2%.

Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả: Trịnh Thị Minh

Liên, ghi nhận 81,4% viêm tinh hoàn 1 bên và 18,6% viêm tinh hoàn 2

bên;Tác giả Tarahtino, ghi nhận trong 12 trường hợp viêm tinh hoàn do quai

bị có 11 trường hợp viêm tinh 1 bên và 1 trường hợp viêm cả 2 bên tinh

hoàn.

Triệu chứng viêm tinh hoàn được báo hiệu trước bằng sốt cao trở lại

(66,7%); Đau đầu 9%, buồn nôn và đặc biệt là tinh hoàn sưng to và đau cấp

tính (93,9%).Đây là các lý do khiến người bệnh đi khám bệnh và được chỉ

định nhập viện điều trị.

Biểu hiện cận lâm sàng

Trong bệnh quai bị, bạch cầu thường bình thường hoặc giảm nhẹ với

tỷ lệ tế bào lympho tăng trong các thể không có biến chứng. Trong viêm tinh

hoàn do quai bị, bạch cầu đa nhân tăng đa số và công thức bạch cầu chuyển

trái.

Amylase trong máu tăng cả trong viêm tuyến mang tai, viêm tụy,

viêm tinh hoàn,… tăng lên cao điểm khoảng 1 tuần và trở về bình thường

sau 2 tuần kế tiếp.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 48,5% trường hợp bạch cầu tăng

(cid:0) 10.000/mm3, và 51,5% trường hợp bạch cầu < 10.000/mm3

. Sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).

Trong công thức bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu Lympho (cid:0) 30% là 15,2%

khác biệt có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ bạch cầu Lympho < 30% là 84,8%.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của các tác

giả Trịnh Thị Minh Liên, Cao văn Viên, Daniel Floret …

Trong 33 trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, có 27 trường hợp

có thử Amylase trong máu. Kết quả ghi nhận có 22% các trường hợp

Amylase máu bình thường < 200u/l; có 78% Amylase máu tăng trên

200u/l.

Đa số các trường hợp bệnh của chúng tôi vào viện ngày thứ 4 – 8 của

bệnh (93,8%); phù hợp với thời điểm nồng độ Amylase trong máu tăng cao

trong tuần đầu bị bệnh.

Chúng tôi không làm các xét nghiệm virut học và huyết thanh học.

Bệnh quai bị và vô sinh nam

Ngoài viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn do quai bị là biểu hiện

thường gặp nhất ở nam giới sau dậy thì.

Quá trình viêm teo tinh hoàn có thể diễn ra từ từ ở khoảng 50% những

bệnh nhân viêm tinh hoàn do quai bị, diễn tiến trong vòng 1 – 6 tháng sau

đợt viêm cấp tính. Quá trình sinh tinh sẽ giảm dần và có thể mất hẳn. Teo

mô tinh hoàn có thể do tác động trực tiếp của virut hoặc thứ phát do thiếu

máu cục bộ trong quá trình mô bị viêm. Việc suy giảm quá trình sinh tinh do

di chứng viêm tinh hoàn có thể phát hiện bằng các chỉ số trong tinh dịch đồ

giảm dần. Nếu bị viêm ở 2 bên tinh hoàn (khoảng 15%) có thể dẫn đến vô

sinh hoàn toàn. Một số trường hợp tinh hoàn teo, giảm sinh tinh nhưng vẫn

còn 1 số ổ sinh tinh sót lại trong tinh hoàn.

Khảo sát trên 400 cặp vợ chồng đến khám vô sinh tại bệnh viện Phụ

sản Từ Dũ cho thấy: trong 52 trường hợp kích thước tinh hoàn nhỏ hơn bình

thường đã có hơn phân nửa có bệnh quai bị sau dậy thì, có 28 trường hợp teo

tinh hoàn 2 bên.

Do đó, nếu nam giới sau tuổi trưởng thành bị quai bị và có viêm tinh

hoàn, để giảm thiểu tác hại của di chứng trên tinh hoàn, có thể áp dụng các

biện pháp điều trị như: Nghỉ ngơi tại chỗ, chườm mát tinh hoàn, sử dụng

thuốc kháng viêm, 1 số nghiên cứu sử dụng interferon trong giai đoạn viêm

tinh hoàn có thể làm giảm tổn thương tinh hoàn và giảm tỷ lệ teo tinh hoàn.

Các trường hợp viêm tinh hoàn cần đến cơ sở y tế để có biện pháp

điều trị thích hợp và có kế hoạch theo dõi lâu dài. Trong nghiên cứu của

chúng tôi, cả 33 trường hợp đều được điều trị tại bệnh viện, nghỉ ngơi tại

chỗ, mặc quần lót nâng dịch tinh hoàn, giảm căng và đỡ đau nhức, 100% các

trường hợp đều được chỉ định dùng thuốc giảm đau, hạ nhiệt và kháng viêm

Corticoides. Chúng tôi chưa có kế hoạch để theo dõi lâu dài về đời sống tình

dục và sức khỏe sinh sản của các bệnh nhân bị quai bị có biến chứng viêm

tinh hoàn sau này.

Các trường hợp theo dõi, nếu nhận thấy viêm tinh hoàn cả 2 bên ở

những người chưa lập gia đình hoặc chưa có con cần có hình thức khuyến

khích lưu trữ tinh trùng dự phòng các trung tâm điều trị vô sinh khi chất

lượng tinh trùng chưa giảm nhiều, giúp duy trì khả năng sinh sản, mang lại

hạnh phúc gia đình cho bệnh nhân.

KẾT LUẬN.

Qua nghiên cứu 33 trường hợp quai bị có viêm tinh hoàn ở trẻ em,

chúng tôi có một số kết luận như sau:

Đặc điểm dịch tễ:

Tuổi 11 –15: chiếm tỷ lệ 91%, ngày nhập viện: Từ ngày 4 – 8 của

bệnh chiếm tỉ lệ 93,8%.

Lâm sàng và cận lâm sàng:

Sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, viêm tinh hoàn 100%, đau góc

hàm 18,2%.

Viêm tinh hoàn 1 bên: 78,8%, 2 bên 21,2%. Ngày xuất hiện triệu

chứng viêm tinh hoàn chủ yếu là 3 - 8 chiếm 75,7%, triệu chứng khi viêm

tinh hoàn: Sốt cao trở lại 66,7%, sưng đau tinh hoàn 93,9%.

Bạch cầu máu (cid:0) 10000/mm3 là 51,5% và (cid:0) 10.000/mm3 là 48,5%;

công thức bạch cầu với tỷ lệ lympho < 30% là 84,8%.

Amylase máu tăng > 200u/l là 78%.

Các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị cần được điều trị thích hợp

ở các cơ sở y tế, nghỉ ngơi tại chỗ, chườm mát tinh hoàn, sử dụng thuốc

kháng viêm, giảm đau, hạ nhiệt, cần được theo dõi liên tục sau này để phát

hiện sớm tình trạng viêm teo tinh hoàn ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và

hỗ trợ kịp thời. Trường hợp quai bị có viêm tinh hoàn 2 bên nhưng chưa lập

gia đình hoặc chưa có con cần khuyến cáo bệnh nhân đến các trung tâm điều

trị vô sinh để dự trữ lạnh tinh trùng giúp duy trì khả năng sinh sản.

Điều tốt nhất là phòng ngừa bệnh quai bị bằng vắc xin tạo miễn dịch

chủ động ở mọi lứa tuổi (> 1 tuổi); đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên sau

dậy thì chưa mắc bệnh quai bị hoặc chưa được chủng ngừa quai bị trước đó.