ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM --------------------    -------------------- LÊ THỊ THANH NHÀN

Tên đề tài:

"MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, VAI TRÒ CỦA GIUN ĐŨA

NEOASCARIS VITULORUM TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY

BÊ, NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI Ở TỈNH TUYÊN QUANG VÀ

BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ"

Chuyên ngành: Thú y Mã số: 60.62.50 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan

Thái Nguyên, 2008

2

Lời cảm ơn

Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể khoa sau Đại học - Trường Đại học

nông lâm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học

tập và thực hiện luận văn Thạc sỹ nông nghiệp.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS. Nguyễn Thị

Kim Lan - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã tận

tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn

thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị em, các bạn bè đồng

nghiệp Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều

kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.

Cuối cùng xin được dành lời cảm ơn tới gia đình, những người thân đã

động viên, chia sẻ với tôi trong suốt khoá học và thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008

Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Nhàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.

Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn và các

thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Thái nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008

Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Nhàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

ĐẶT VẤN ĐỀ

Những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã được Nhà nước và nhân dân

đầu tư phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về sản lượng và chất lượng

thực phẩm cao. Một số địa phương đã tập trung phát triển đàn bò sữa, đặc biệt

là đàn trâu bò thịt để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, góp phần nâng cao đời

sống xã hội.

Trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi trâu bò nói riêng và chăn nuôi gia

súc nhai lại nói chung có một ưu thế đáng chú ý là thức ăn chăn nuôi chủ yếu

là cỏ và phế phụ phẩm nông nghiệp, song lại có khả năng cung cấp một lượng

lớn thực phẩm có giá trị cho người tiêu dùng. Ngoài ra, chăn nuôi trâu bò đã

góp phần cơ bản giải quyết sức cày kéo cũng như bổ sung một lượng phân

bón hữu cơ đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi.

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc còn rất khó khăn về điều kiện

kinh tế, điều kiện địa hình phức tạp không thể áp dụng cơ giới hoá ở nhiều địa

phương, vì vậy, con trâu vẫn được coi là “đầu cơ nghiệp”.

Tuy nhiên, vấn đề dịch bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy vẫn xẩy

ra phổ biến, gây trở ngại lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu

bò nói riêng. Tiêu chảy thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng ra nhiều nhất vẫn là ở bê

nghé từ sơ sinh đến ba tháng tuổi. Theo Lê Minh Trí (1995), ở bê nghé có đến

70-80% tổn thất nằm trong thời kỳ bú sữa mẹ và 80-90% trong số đó là hậu quả

của bệnh tiêu chảy gây ra.

Tiêu chảy có thể do nhiều nguyên nhân gây ra: do khí hậu thời tiết thay

đổi đột ngột, do thức ăn kém phẩm chất, do điều kiện vệ sinh chuồng trại

kém, do các bệnh nội khoa, do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng

vv...Nhiều kết quả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy cho thấy: dù bất kỳ

nguyên nhân nào gây ra viêm nhiễm, tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá

cũng dẫn đến rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy (Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây tiêu chảy cho

bê nghé, phần lớn các tác giả tập trung vào tìm hiểu nguyên nhân gây tiêu

chảy ở giai đoạn bú sữa mẹ. Trong các nguyên nhân trên, ký sinh trùng đường

tiêu hoá, đặc biệt là giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò quan trọng đối

với bê nghé dưới 3 tháng tuổi, bởi vì ngoài việc gây tiêu chảy, ký sinh trùng

này còn là nguyên nhân mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập.

Bệnh ký sinh trùng không gây thành dịch ổ dịch lớn như các bệnh do vi

khuẩn và vi rút khác, nhưng thường kéo dài âm ỉ, làm giảm năng xuất chăn

nuôi, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gia súc.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [38], tiêu chảy xảy ra quanh năm, trong

đó tiêu chảy do giun đũa Neoascaris vitulorum chiếm tỷ lệ cao trong tổng số

bê nghé sinh ra và tỷ lệ chết tới 38,97% trong tổng số bê nghé bị bệnh.

Là một cán bộ của Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp theo dõi

tình hình dịch bệnh trên đàn bê nghé, chúng tôi thấy hội chứng tiêu chảy khá

phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi, đặc biệt đối với bê nghé

giai đoạn dưới 3 tháng tuổi.

Xuất phát từ thực tiễn chăn nuôi trâu bò sinh sản ở tỉnh Tuyên Quang,

chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun

đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3

tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị”.

Với mục đích:

- Xác định một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới

3 tháng tuổi tại Tuyên Quang.

- Xác định vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng

tiêu chảy ở bê nghé.

- Đề xuất biện pháp điều trị tiêu chảy ở bê nghé có hiệu quả cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé

1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy.

Tiêu chảy ở bê nghé là một hiện tượng bệnh lý phức tạp gây ra bởi sự

tác động của nhiều yếu tố như: sự tác động bất lợi của điều kiện ngoại cảnh

gây ra các stress cho cơ thể, chăm sóc, quản lý và vệ sinh kém, thức ăn nước

uống không đảm bảo... tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh xâm nhập vào

cơ thể, đặc biệt là các loại vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu hoá,

dẫn tới nhiễm khuẩn và làm rối loạn quá trình tiêu hoá, gây ra hiện tượng tiêu

chảy ở bê nghé non. Đây cũng là những nguyên nhân đóng vai trò quan trọng

trong hội chứng tiêu chảy ở bê nghé. Bệnh lý xuất hiện thường là ở thể cấp

tính hoặc mãn tính, tuỳ thuộc tính chất và nguyên nhân gây bệnh tác động.

Đặc điểm của sự rối loạn tiêu hóa là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, trong

phân có nhiều nước so với bình thường do tăng tiết dịch ruột (Blackwell T.E,

1989 [42]; Fairbrother, 1992 [44]).

1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé.

Hội chứng tiêu chảy thường gặp ở gia súc, đặc biệt là gia súc non, gây

thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Sự tổn thất ở bê nghé sơ sinh chiếm tỷ lệ

rất cao, mà chủ yếu là do bệnh tiêu chảy (Lê Minh Chí, 1995 [5]).

Nguyên nhân gây tiêu chảy rất đa dạng. Nhiều tác giả đã dày công tìm

hiểu nguyên nhân gây tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có

liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố

là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, để phân biệt rõ ràng nguyên nhân gây tiêu

chảy là vấn đề không đơn giản. Sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, chỉ

nêu được yếu tố nào chính xuất hiện đầu tiên, yếu tố nào phụ xuất hiện sau, để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

từ đó đưa ra phác đồ điều trị bệnh có hiệu quả. Tiêu chảy được coi là một hội

chứng do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể điểm qua các nguyên nhân sau đây:

1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh.

Điều kiện ngoại cảnh, một trong những yếu tố thường xuyên tác động

lên cơ thể gia súc chính là điều kiện thời tiết, khí hậu. Với sự tác động liên tục

của bức xạ mặt trời cũng như những biến đổi bất thường về nhiệt độ, ẩm độ,

gây ra các stress cho cơ thể. Chính sự tác động này, làm cho cơ thể động vật

luôn có các đáp ứng điều chỉnh với điều kiện ngoại cảnh thay đổi, làm sức đề

kháng giảm sút, khả năng mắc bệnh tăng (Rosenberg N.J, 1974 [56]).

Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân chia làm 4 mùa rõ rệt, trong

mỗi mùa lại có đặc điểm riêng biệt đặc trưng, khác nhau rõ rệt. Nhiều đợt thời

tiết thay đổi đột ngột từ nắng sang mưa, từ nóng sang lạnh, tác động xấu đến

vật nuôi và cây trồng. Vụ đông xuân nhiệt độ tăng cao dần, các đợt mưa đầu

mùa làm độ ẩm không khí tăng cường, đây là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn

có hại phát triển và gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm xảy ra mạnh, gây chết

nhiều gia súc, trong đó bệnh phổ biến thường gặp ở gia súc non là các bệnh về

đường tiêu hoá (Nguyễn Vĩnh Phước, 1974 [28]; Sử An Ninh, 1993 [26]; Đào

Trọng Đạt và cs, 1996 [8]; Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]). Theo Trịnh Văn

Thịnh (1962,1982) [36], [38], thời tiết ấm và ẩm là điều kiện thuận lợi cho

trứng và ấu trùng giun sán tồn tại và phát triển ở ngoại cảnh, từ đó gây bệnh

cho gia súc, gia cầm.

1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dưỡng.

Thức ăn là một trong những nguyên nhân gây ra tiêu chảy cho bê nghé.

Như ta đã biết, mầm bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể gia súc bằng nhiều

đường khác nhau như: qua da, niêm mạc, các vết thương, qua đường hô hấp,

qua đường tiêu hoá. Song trong hội chứng tiêu chảy, sự xâm nhập của các yếu

tố gây bệnh qua đường tiêu hoá có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

hình thành bệnh. Mầm bệnh nhiễm vào thức ăn, nước uống và trực tiếp vào cơ

thể gia súc, khi gặp điều kiện thuận lợi dễ tăng sinh số lượng và gây bệnh.

Purvis G.M và cs 1985 [52]). Trứng hoặc ấu trùng giun sán, noãn nang cầu

trùng có sức gây bệnh cũng xâm nhập vào cơ thể ký chủ qua đường tiêu hoá,

do nhiễm vào thức ăn, nước uống (Phạm Văn Khuê, 1996 [12]; Nguyễn Thị

Kim Lan và cs, 1999 [13]).

Trong một số trường hợp bê nghé bị tiêu chảy do dinh dưỡng không

hợp lý, có thể do bê nghé bú quá nhiều sữa, thức ăn nhiễm nấm mốc, giàu

protein, nhiều nước, thức ăn non tươi, khẩu phần ăn thay đổi đột ngột, thành

phần dinh dưỡng không cân đối... Bệnh biểu hiện ở mức độ bình thường,

nhanh hồi phục khi thay đổi khẩu phần ăn hợp lý.

Trong thức ăn thiếu một số nguyên tố đa, vi lượng như sắt, đồng hoặc

thừa molipden... cũng gây ra những rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy ở thể cấp

tính hoặc mãn tính, kèm theo sự thay đổi màu sắc lông da và thiếu máu.

(Daniels G và cs, 1990 [43]).

1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và virus.

Ở những điều kiện nhất định, vi khuẩn được xem như là tác nhân thứ

phát sau những nguyên nhân về thức ăn, chăm sóc quản lý. Trong đường tiêu

hoá của động vật, ngoài các vi khuẩn có lợi có tác dụng lên men, phân giải

các chất trong đường tiêu hoá, giúp cho sinh lý tiêu hoá của gia súc diễn ra

bình thường, còn có một số loài vi khuẩn có hại như E. coli, Salmonella, họ vi

khuẩn yếm khí Clostridium, họ cầu khuẩn Streptococcus... là những vi khuẩn

quan trọng gây ra rối loạn tiêu hoá, viêm ruột hoại tử và tiêu chảy ở người và

nhiều loài động vật khi có điều kiện thuận lợi (Vũ Văn Ngũ và cs, 1997 [27]).

Rối loạn tiêu hoá dẫn tới tiêu chảy ở động vật do các vi sinh vật gây ra

thường có những đặc điểm đặc trưng về biểu hiện bệnh lý riêng của từng loài.

E.coli thường là nguyên nhân gây bệnh nguyên phát ở bê nghé 1-2 ngày tuổi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

gây tiêu chảy, phân sống ở bê nghé lớn hơn và từ đó tạo ra những phản ứng

stress hoặc nhiễm trùng kế phát các bệnh khác. Triệu chứng chủ yếu của bệnh

tiêu chảy bê nghé do E.coli cũng như triệu chứng tiêu chảy do các nguyên

nhân khác, đó là hiện tượng tiêu chảy cấp tính, mất nước và rối loạn điện giải;

phân thường từ nhão đến toàn nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang

màu trắng, phân có lẫn vết máu, có mùi hôi thối. Đặc điểm gây bệnh của

E.coli là vi khuẩn chỉ tác động chủ yếu ở đường tiêu hoá cho nên khi bê nghé

chết thường xác gầy, bẩn, lông xù, bê bết phân, hông lõm, xương cánh hông

nhô cao, niêm mạc ruột non bị xuất huyết, có chỗ tụ máu. (Phạm Sỹ Lăng và

Lê Văn Tạo, 2002 [18]). Vi khuẩn Salmonella xâm nhập vào cơ thể qua

đường tiêu hoá, chúng bám vào các tế bào nhung mao ruột, xâm nhập vào lớp

tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá huỷ niêm mạc ruột gây tiêu

chảy.

Có rất nhiều virus gây bệnh ở hệ tiêu hoá Coronavirus 1 và

Coronavirus 2, Rotavirus vv... làm tổn thương các niêm mạc ruột, phá huỷ

quá trình hấp thu và điều tiết dịch, dẫn đến tiêu chảy nặng ở gia súc. Bệnh lý

xuất hiện chủ yếu là viêm ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc

mãn tính, phân lỏng màu vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ mắc bệnh và chết

trong đàn cao. Nguyên nhân rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy do Coronavirus 2

gây ra bệnh TGE (Transmissble Gastroenteritis), với triệu trứng nôn mửa kèm

theo tiêu chảy có nhiều nước, phân màu vàng hoặc hơi xanh, mùi hôi thối.

(Radostits O.M và cs, 1994 [53]).

1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột:

Trong đường tiêu hoá của cơ thể gia súc, khu hệ vi sinh vật bình

thường đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hấp thu dinh dưỡng của cơ thể, đó

là sự hấp thu các axit amin, gluxít, các axit béo...Sự có mặt của các vi khuẩn

đường tiêu hoá như vi khuẩn lactobacillus, Bacillus subitilis, vi khuẩn thuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

giống Bacteroides...là những vi khuẩn có lợi cho gia súc. Khi có tác động của

yếu tố khí hậu thời tiết, một số bệnh truyền nhiễm, trạng thái stress, thức ăn

chất lượng kém làm rối loạn quá trình trao đổi chất, một số vi khuẩn có khả

năng cạnh tranh cao sẽ ức chế các vi khuẩn khác tạo ra hiện tượng loạn

khuẩn. Đặc biệt, một số vi khuẩn đường ruột như Salmonella, E.coli tăng sinh

quá nhiều, lan tràn lên phía trên của ống tiêu hoá, chúng sản sinh một lượng

độc tố đường ruột (Enterotoxin) rất lớn gây tiêu chảy ở gia súc.

1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng.

Các ký sinh trùng trong đường tiêu hoá, ngoài tác động chiếm đoạt chất

dinh dưỡng của vật chủ, còn có một tác hại lớn khác là gây tổn thương niêm

mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây bệnh, làm rối loạn quá

trình phân tiết, gây viêm ruột và tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính. Độc tố của

nhiều loài ký sinh trùng gây ngộ độc cho vật chủ, thể hiện bằng những biến

loạn thần kinh.

Gia súc thường nhiễm ký sinh trùng và bị bệnh ở thể mãn tính. Vì vậy,

triệu chứng tiêu chảy cũng ở thể mãn tính, hầu hết bị tiêu chảy song không liên

tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da và niêm

mạc nhợt nhạt, kém ăn, thể trạng sa sút.

Các loại ký sinh trùng đường ruột hay gây tiêu chảy cho bê nghé

thường gặp là: Cầu trùng; Giun đũa; Sán dây và các loại giun sán khác.

Ký sinh trùng là những sinh vật sống nhờ vào vật chủ khác đang sống,

chiếm đoạt chất dinh dưỡng của sinh vật đó để sống và phát triển. Ký sinh

trùng đường tiêu hoá ở bê nghé cũng không nằm ngoài cách sống này, chúng

ký sinh ở đường tiêu hoá của bê nghé và gây bệnh. Bệnh ký sinh trùng đường

tiêu hoá gây ra cho bê nghé không thành ổ dịch nguy hiểm, không làm cho bê

nghé chết nhiều (trừ những trường hợp bị bệnh nặng), song chúng gây tác hại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

nghiêm trọng, làm giảm sinh trưởng và phát triển của bê nghé, làm bê nghé

gầy còm, thiếu máu, khả năng sinh trưởng chậm.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19], bệnh cầu trùng gây

ra ở bê nghé mắc với tỷ lệ từ 20 - 50%, có 7 loài cầu trùng phổ biến gây hại

cho bê nghé. Trong quá trình ký sinh và phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng

gây tổn thương lớp nhung mao ruột và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm

tróc niêm mạc ruột và xuất huyết. Cầu trùng tiết ra enzym và độc tố, phá hoại

mô ruột, những tổn thương ở ruột tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh có sẵn

trong ruột xâm nhập và gây viêm ruột kế phát.

Tiêu chảy ở bê, nghé do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra là nguyên

nhân đáng lưu ý. Theo các tác giả bê, nghé mắc sớm nhất là 14 ngày (tỷ lệ

23%), phổ biến ở 23 - 35 ngày tuổi (64%). Khi ký sinh trong đường tiêu hoá,

giun đũa còn tiết chất độc làm bê nghé trúng độc, gây ỉa chảy và gầy sút nhanh.

Sán dây Moniezia expensa và Moniezia benedeni ký sinh ở ruột non

của bê nghé cũng thường gây viêm ruột thứ phát, có thể làm chết đến 80% gia

súc non bị bệnh. Mổ khám bê, nghé chết thấy nhiều sán cuộn lại thành từng

búi ở ruột non, có những ca bệnh nặng có thể tới 200 - 300 gam sán dây ở

ruột non.

1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.

1.1.3.1. Bệnh lý.

Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường

tiêu hoá. Như đã đề cập ở trên, nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất đa

dạng, do đó quá trình bệnh lý do chúng gây ra cũng rất phức tạp. Mỗi nguyên

nhân khi tác động lên đường tiêu hoá đều theo một cơ chế nhất định, đồng

thời vị trí tác động không giống nhau, vì vậy mà cơ quan tiêu hoá tổn thương

khác nhau và mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

Theo Phạm Sỹ lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20], vi sinh vật và ký sinh

trùng xâm nhập vào đường tiêu hoá của súc vật non do ăn uống, chúng gây

tác hại khi số lượng nhiều, sức đề kháng của con vật giảm thấp hoặc khi ruột

bị tổn thương.

Vi khuẩn đóng vai trò quan trọng gây tác hại trong hệ thống tiêu hoá

của súc vật. Chúng xâm nhập vào những chỗ tổn thương của niêm mạc dạ dày

và nhung mao ruột, phát triển rất nhanh và tiết độc tố hoặc các men (enzym)

phá huỷ tổ chức nhung mao, làm tróc ra từng mảng và làm mất dần khả năng

hấp thụ chất dinh dưỡng.

Vi khuẩn còn làm vỡ các mao mạch trong lớp cơ tiếp với nhung mao

của ruột gây xuất huyết ruột.

Các loài nấm độc, đặc biệt là nấm Candida albicans có trong thức ăn

thối mốc, xâm nhập vào ruột cũng gây tác hại tương tự như các vi khuẩn gây

bệnh. Ngoài tác hại phá hoại tổ chức dạ dày, ruột gây ỉa chảy, nấm còn tiết

độc tố gây nhiễm độc toàn thân cho gia súc.

Sokol A và cs (1991) [57] cho biết; E.coli xâm nhập vào cơ thể động

vật từ rất sớm, thậm chí khi vừa được sinh ra. Sau khi phát triển và tăng

nhanh ở tế bào thành ruột, vi khuẩn xâm nhập vào hệ lâm ba, hệ tuần hoàn

gây nhiễm trùng và dung huyết. Vi khuẩn theo máu đi đến các cơ quan tổ

chức, phá huỷ các tổ chức tế bào, gây viêm ruột, tiêu chảy và ngộ độc cấp,

làm cho gia súc chết nhanh.

Các kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi được sinh ra một thời gian

ngắn, trong đường tiêu hoá, hô hấp của gia súc non đã xuất hiện một số loài vi

sinh vật, trong đó có các vi sinh vật gây bệnh. Những trường hợp tiêu chảy

nặng hoặc chết do bội nhiễm, vi khuẩn còn được tìm thấy ở nhiều cơ quan, bộ

phận khác trong cơ thể như: gan, lách, thận, phổi, dạ dày, ruột non...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

Radostits O.M (1994) [53], nghiên cứu cho thấy, 20 - 30% động vật

chết ở giai đoạn sơ sinh là do nguyên nhân tiêu chảy. Tiêu chảy ở động vật do

E.coli có sự liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh thay đổi đột ngột,

cùng với sự chăm sóc nuôi dưỡng kém, làm giảm sức đề kháng, đó là nguyên

nhân cơ bản dẫn tới rối loạn tiêu hoá, gây hiện tượng loạn khuẩn và tiêu chảy

ở gia súc (Đào Trọng Đạt và cs, 1996 [8])

Đối với những vi khuẩn gây bệnh đường ruột, độc tố do chúng tiết ra

hoặc các sản phẩm độc sinh ra trong quá trình huỷ hoại tế bào sẽ tác động lên

cơ chế hấp thu ở ruột và gây ra tiêu chảy.

Đã có nhiều tài liệu đề cập những biến đổi bệnh lý ở đường tiêu hoá

của bê nghé do ký sinh trùng gây ra.

Trong thời kỳ ấu trùng, giun đũa di hành và làm tổn thương một số khí

quan như phổi, gan. Giun trưởng thành ở ruột non nhiều, cuộn thành búi gây

tắc ruột, có khi làm thủng ruột. Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé trúng

độc. Tác động cơ học và tác động do độc tố dẫn đến ruột non viêm cata, ruột

tăng nhu động, gây cho bê, nghé ỉa chảy, gầy sút nhanh. Bệnh tích chủ yếu ở

đường tiêu hoá, có trường hợp có từ 200 - 300 giun xếp thành 5-6 hàng ở tá

tràng, vít chặt ruột, có trường hợp còn thấy giun đũa ở các bộ phận khác như

dạ cỏ, dạ múi khế, ống dẫn mật. (Phạm Sỹ lăng và cs, 2005 [21]).

Ngoài ra, các tác giả còn cho biết; sán dây Moniezia expensa ký sinh ở

ruột non bê nghé cũng gây tổn thương thành ruột non, làm cho gia súc bị viêm

ruột cata và tiêu chảy.

Trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hoá bê nghé, cầu trùng là một

loại ký sinh trùng đơn bào cũng gây tiêu chảy. Trong quá trình ký sinh và

phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng đã gây tổn thương lớp nhung mao ruột

và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm tróc niêm mạc ruột và xuất huyết

ruột. Ở thể cấp tính, bê nghé bị nhiễm cầu trùng nếu không được điều trị kịp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

thời sẽ chết sau 7 - 10 ngày; mỗi ngày bê nghé ỉa 5-10 lần, mỗi lần ỉa phải

cong lưng rặn, nhưng phân rất ít và lẫn máu, vì vậy người ta gọi là bệnh lỵ đỏ

ở gia súc non.

Như vậy, bệnh lý của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé tập trung chủ yếu

ở đường tiêu hoá, từ tổn thương dẫn đến viêm ở ruột non hoặc ruột già. Nhìn

chung khi bê nghé bị tiêu chảy nặng đều dẫn đến mất nước, mất chất điện

giải, rối loạn hoạt động của enzim, từ đó làm rối loạn chức năng tiêu hoá hấp

thu, rối loạn cân bằng dịch thể ở ruột. Mất nước có thể làm giảm lưu lượng

tuần hoàn, dẫn đến truỵ tim mạch, gây tử vong.

1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng tiêu chảy nói chung, dễ thấy và điển

hình nhất là hiện tượng ỉa chảy. Phân lúc đầu có thể táo hoặc không, sau đó ỉa

chảy, có thể sền sệt hoặc lỏng do các bệnh ký sinh trùng, trong khi các bệnh

phó thương hàn, dịch tả ở giai đoạn cuối phân lỏng hoặc vọt cần câu. Đồng

thời màu sắc phân cũng có sự khác nhau: bê nghé bị phó thương hàn phân có

màu vàng xám, bệnh do vi khuẩn E. coli phân chuyển từ vàng nhạt sang màu

trắng. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [18], bê nghé bị tiêu chảy phân có lẫn

máu tươi hoặc màu nâu do tổ chức niêm mạc và mao mạch ở ruột bị phá hoại

có thể là biểu hiện lâm sàng của bệnh cầu trùng...

Bê nghé bị tiêu chảy thường có các biểu hiện như: thân nhiệt thường

tăng nhẹ, con vật uống nhiều nước, ăn ít hoặc bỏ ăn, đầu tiên phân sền sệt, vài

ngày sau ỉa chảy nặng, phân chỉ là dịch màu xám xanh, xám vàng và có mùi

tanh, phân dính ở hậu môn và đuôi. Bê nghé ỉa chảy nặng có thể 10-15

lần/ngày, mất nước nhanh làm cho con vật trũng mắt, da nhăn nheo và chết

trong tình trạng mất nước, mất chất điện giải.

Bê nghé non bị tiêu chảy nặng thường chết sau 3-4 ngày, tỷ lệ chết cao

(30-40%), trong số số bê nghé bệnh nếu không điều trị kịp thời. Tuy nhiên, tỷ lệ

chết rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ trầm trọng của bệnh. Theo Đỗ Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], tỷ lệ nghé ốm do giun đũa chiếm tới 38-

44% so với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25-50% số nghé ốm.

Như vậy, mỗi năm số nghé chết do giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ ra.

Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [18] cho biết, những bê nghé mắc

bệnh tiêu chảy do E.coli ở thể nhẹ có thể qua khỏi sau một vài ngày mà không

cần điều trị, nhưng khoảng 15 - 20% số bê nghé bị bệnh ngày một nặng hơn,

suy sụp hoàn toàn, nhiễm độc huyết dẫn đến chết nếu không điều trị tích cực.

Ngoài những triệu chứng chung của bê nghé mắc hội chứng tiêu chảy,

các triệu chứng điển hình cho từng loại bệnh cũng biểu hiện rất rõ. Những

triệu chứng đặc trưng cho mỗi bệnh cho phép chẩn đoán phân lập hội chứng

tiêu chảy với các bệnh truyền nhiễm:

- Bệnh thương hàn ở bê nghé: là bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra,

vi khuẩn xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá

huỷ niêm mạc ruột gây tiêu chảy. Ở thể viêm ruột cấp thân nhiệt tăng 40- 41oC, ỉa chảy hoặc có trường hợp kiết lỵ, phân hôi thối chứa màng nhầy.

- Bệnh tiêu chảy bê nghé do vi khuẩn E.coli gây ra: phân thường từ

nhão đến hoàn toàn là nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang màu

trắng, trong phân có lẫn những vết máu, có mùi hôi thối. Thân nhiệt bình

thường hoặc tăng hơn một chút, vào giai đoạn cuối thân nhiệt thường hạ

xuống dưới mức bình thường.

- Bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum thường gây ỉa chảy, phân

chuyển từ xanh đen sang vàng dần, rồi chuyển thành trắng. Bệnh thường thấy

ở bê nghé non từ 1-3 tháng tuổi, phân mùi thối khắm, con vật ỉa vọt cần câu,

phân dính ở khuỷu chân, xung quanh hậu môn, thân nhiệt có thể tăng tới 40- 41oC, khi sắp chết thân nhiệt hạ xuống dưới mức bình thường. Bê nghé từ 3

tháng tuổi trở lên thường không mắc bệnh giun đũa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

- Các bệnh do vi rút như: Coronavirut, Rotavirut... thường gây viêm

ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc mãn tính, phân lỏng màu

vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ bệnh và chết trong đàn cao, điều trị bằng kháng

sinh không có hiệu quả.

1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.

Để việc điều trị đạt hiệu quả cao thì việc chẩn đoán tìm ra nguyên nhân

gây tiêu chảy rất quan trọng. Chẩn đoán một bệnh chính xác là rất khó khăn,

song để chẩn đoán chính xác được nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy

càng khó khăn hơn. Do vậy, khi chẩn đoán hội chứng tiêu chảy cần phải chú ý

xem xét rất nhiều yếu tố: đặc điểm dịch tễ, biểu hiện lâm sàng và phi lâm

sàng, kết quả mổ khám, các phương pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.

Đối với những bệnh nghi do ký sinh trùng, người ta thường dùng phương pháp

chẩn đoán xét nghiệm phân để tìm trứng giun sán; đối với bệnh do vi khuẩn

phải nuôi cấy trên các môi trường để phân lập và giám định vi khuẩn...

Ở thể cấp tính, con vật chết rất nhanh, chẩn đoán bệnh cần căn cứ các

yếu tố liên quan như: thức ăn, nước uống, phương thức chăn nuôi, chế độ

chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết khí hậu, tuổi bê nghé... Ví dụ bệnh ký sinh

trùng thường phát triển trong những tháng nóng ẩm, mưa nhiều. Bệnh cầu

trùng bê nghé, khi thời tiết nóng ẩm, cho noãn nang cầu trùng dễ phát triển

đến giai đoạn cảm nhiễm ngay trên nền chuồng và bãi chăn thả. Người ta

cũng quan sát thấy bê nghé thường phát bệnh khi thời tiết thay đổi từ ấm áp

sang lạnh ẩm. Thiếu thức ăn cũng làm cho bê nghé giảm sức đề kháng. Đối

với bệnh giun đũa, thường mắc ở bê nghé sơ sinh đến 3 tháng tuổi (23 - 64%),

đến 4 tháng tuổi thì không bị nhiễm. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, 2002

[20]).

Nhiều tác giả lưu ý rằng, khi chẩn đoán bê nghé mắc tiêu chảy dựa vào

đặc điểm dịch tễ thì tuỳ từng điều kiện cụ thể mà loại trừ bớt khả năng gây

bệnh, để có kết luận ban đầu về nguyên nhân gây bệnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

Biện pháp thường dùng nữa là căn cứ vào biểu hiện lâm sàng để chẩn

đoán, nhưng cần phải chẩn đoán phân biệt giữa các bệnh có triệu chứng tiêu

chảy để loại trừ nguyên nhân nghi ngờ và tìm ra nguyên nhân chính. Dù là

nguyên nhân gì dẫn đến tiêu chảy thì bê nghé đều biểu hiện bằng triệu chứng

ỉa chảy, phân lỏng hoặc toàn nước. Do tiêu chảy mất nước nên bê nghé gầy

còm, ốm yếu, da nhăn, lông xù, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu ỉa chảy kéo dài, con

vật suy nhược hoàn toàn, run rẩy, đứng không vững. Tiêu chảy nặng có thể

dẫn đến truỵ tim mạch và chết. Nếu nguyên phát là do vi khuẩn, độc chất hoặc vi rút, rồi kế phát nhiễm khuẩn sẽ làm thân nhiệt tăng từ 0,5 - 1,5oC tuỳ theo

mức độ nhiễm khuẩn. Tiêu chảy do độc tố, chất độc, thời tiết, thay đổi thức ăn

thì nhiệt độ cơ thể không tăng. Màu phân có thể thay đổi tuỳ thuộc nguyên

nhân gây bệnh. Ví dụ, bê nghé sơ sinh bị nhiễm giun đũa thường phân có màu

trắng, nếu bị nhiễm Salmonella thì phân có màu vàng, bê nghé nhiễm cầu

trùng có thể triệu chứng lâm sàng điển hình là ỉa lỏng, phân nhày, có máu tươi

(lỵ đỏ). Bê nghé sơ sinh bị tiêu chảy nếu không điều trị kịp thời có thể bị chết

trong vòng 12 - 96 giờ, tỷ lệ chết có thể chiếm tới 90% trong số mắc bệnh.

Biện pháp mổ khám xác chết để tìm bệnh tích điển hình là phương

pháp chẩn đoán có hiệu quả, nhất là trong bệnh giun sán. Mổ khám tìm thấy

giun sán ký sinh với số lượng nhiều và gây bệnh tích nặng ở đường tiêu hoá

thì có thể kết luận là bê nghé chết do bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá.

Tuy nhiên, một biện pháp hữu hiệu cần thực hiện là chẩn đoán trong

phòng thí nghiệm. Thu thập mẫu phân bê nghé mới thải ra về phòng thí

nghiệm để xét nghiệm trứng giun sán hoặc cầu trùng bằng phương pháp lắng

cặn Benedek (1943), các phương pháp phù nổi (Fulleborn, Darling...).

Từ các bệnh phẩm của bê nghé tiêu chảy (phân, ruột non, ruột già...) có

thể nuôi cấy, phân lập vi khuẩn, giám định các đặc tính sinh hoá, tiêm truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

động vật thí nghiệm... là phương pháp vi sinh vật vẫn thường được áp dụng

trong chẩn đoán bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy.

1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé.

Nguyên lý chung của điều trị tiêu chảy ở bê nghé cũng giống như các

gia súc khác là loại bỏ nguyên nhân gây bệnh. Nếu nguyên nhân do thức ăn

thì phải thay đổi thức ăn, nếu nguyên nhân là vi khuẩn phải sử dụng các loại

kháng sinh, hoá dược để tiêu diệt mầm bệnh. Nếu nguyên nhân là do ký sinh

trùng thì dùng các thuốc trị ký sinh trùng. Đồng thời với điều trị nguyên nhân

phải kết hợp với điều trị triệu chứng. Trước hết, kịp thời bổ sung nước và chất

điện giải, các yếu tố vi lượng bị mất bằng cách cho uống hoặc truyền tĩnh

mạch các dung dịch nước muối sinh lý 0,9%, dung dịch đường ưu trương

20%, uống orezol. Ngoài ra, phải dùng các chất chống viêm như

Dexamethazon kết hợp với các loại vitamin C, B1, K để chống xuất huyết

đường tiêu hoá và nâng cao sức đề kháng của cơ thể cho bê nghé. Bê nghé

tiêu chảy nếu được điều trị kịp thời, tích cực, đúng nguyên nhân thì tỷ lệ chết

thấp, bê nghé chóng hồi phục, ít ảnh hưởng đến sự phát triển sau này.

Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã đưa ra phương pháp điều trị chung

đối với hội chứng tiêu chảy như sau:

+ Điều trị bằng huyễn dịch.

+ Điều trị bằng chế phẩm sinh học.

- Điều trị bằng huyễn dịch:

Theo tác giả, hiện tượng tiêu chảy bao giờ cũng dẫn tới sự mất nước và

rối loạn điện giải ở con vật bệnh. Mất nước làm rối loạn các hoạt động sinh lý

bình thường của cơ thể, làm mất đi một số chất điện giải quan trọng như: -, K+, Cl-, Na+..., từ đó làm cho quá trình bệnh lý càng trở nên trầm trọng HCO3

hơn. Mất nước nhiều thường là nguyên nhân chính làm cho súc vật bệnh tử

vong. Vì vậy, việc điều trị bổ sung nước, chất điện giải cho gia súc bị tiêu chảy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

là rất cần thiết và có hiệu quả. Các dung dịch truyền được Đào Trọng Đạt và cs

khuyến cáo dùng là: dung dịch Dextrose 5% hoặc Dextrose 20-50%, dung dịch

Sodium clorit sinh lý (NaCl 0,9%), dung dịch ưu trương (NaCl 7,5%)...

Đề cập đến vấn đề này, Phạm Khắc Hiếu và cs (1997) [9], Phạm Khuê

(1998) [10] cho biết: bổ sung chất điện giải cho cơ thể tuỳ thuộc mức độ mất

nước và chất điện giải. Nếu mất nước ở độ I hoặc độ II là sự mất nước ở thể

nhẹ và trung bình, có thể cho uống dung dịch Oresol hoặc nước muối sinh lý

đẳng trương. Khi mất nước cấp tính (mất nước cấp tính là tình trạng mất nước

ở độ III hoặc độ IV, là sự mất nước phức tạp và nguy hiểm), thì ngoài các

biện pháp trên, cần phải truyền tĩnh mạch bằng dung dịch Ringer lactat.

Trong hội chứng viêm ruột tiêu chảy, sự mất nước cùng với các chất

điện giải là nguyên nhân chính gây ra những rối loạn hoạt động chức năng của

các cơ quan trong cơ thể, gây tỷ lệ tử vong cao. Do vậy, cần phải thực hiện 3

vấn đề cơ bản, đó là: thực hiện tốt chế độ ăn uống, chống nhiễm khuẩn và

điều trị hiện tượng mất nước và chất điện giải (Vũ Triệu An, 1978 [1]).

- Điều trị bằng các chế phẩm sinh học:

Trong đường ruột của động vật, hệ vi sinh vật luôn ổn định, đảm bảo

trạng thái thăng bằng cho hoạt động của đường ruột. Khi hệ vi sinh vật đường

ruột cân bằng thì những vi sinh vật có lợi (90% là vi khuẩn lactic) sẽ có hoạt

động hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ thì những vi

khuẩn có hại cạnh tranh phát triển, làm rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy.

Xuất phát từ cơ sở trên, các nhà nghiên cứu đã chế nhiều chế phẩm khác

nhau từ vi khuẩn hữu ích, chủ yếu là vi khuẩn Lacto bacillus để đưa vào đường

ruột, tạo sự cân bằng cho hệ vi sinh vật đường ruột. Những chế phẩm này được

gọi là chế phẩm trợ sinh học. Ở nước ta có chế phẩm B. subtilis, Yoaurt, Menth,

Biolactin...các chế phẩm này đều là dạng thuốc nước cho gia súc uống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

Năm 1981, Vũ Văn Ngữ và Lê Kim Thao đã sử dụng chế phẩm vi sinh

vật Subcolac đưa vào đường ruột, là một hỗn hợp của loại vi khuẩn sống

Bacillus subtilis, Coli bacterium và Lacto bacillus. Chế phẩm này một mặt cung

cấp một số men cần thiết, một mặt lặp lại sự cân bằng của hệ vi sinh vật đường

ruột, góp phần khắc phục rối loạn tiêu hoá ở ruột (Chu Đức Thắng, 1997 [33]).

Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã khẳng định kết quả phòng trị bệnh

đường ruột và tác dụng điều tiết kích thích sinh trưởng của chế phẩm

Biolactyl là rất tốt.

Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20] đề xuất một số phác đồ điều

trị tiêu chảy cho bê nghé như sau:

Cách 1: Điều trị tiêu chảy do nhiễm khuẩn:

- Điều trị nguyên nhân: phối hợp kháng sinh và sulfamid.

Kanamycin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.

Tetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.

Bisepton hoặc Sulfaguanidin: 30-50mg/kg thể trọng/ngày.

Thuốc kháng sinh có thể cho uống hoặc tiêm. Sulfamid cho uống. Ba

loại thuốc phối hợp dùng liên tục 3-5 ngày. Mỗi liều thuốc chia làm 2 liều nhỏ

cho gia súc uống ngày 2 lần.

- Điều trị triệu chứng:

Chống mất nước: truyền huyết thanh mặn ngọt vào tĩnh mạch, cứ

1000ml/100kg thể trọng/ngày. Nếu không có huyết thanh mặn ngọt thì cho

uống dung dịch Oresol

Chống chảy máu ruột: tiêm vitamin K, C.

Thuốc trợ tim mạch: Tiêm vitamin B1, long não nước hoặc cafein.

Cách 2: Điều trị tiêu chảy do giun tròn, cầu trùng và nhiễm khuẩn:

- Thuốc điều trị: phối hợp thuốc tẩy giun và kháng sinh.

+ Tẩy giun dùng một trong hai loại thuốc sau:

Mebendazol: 10 - 15mg/kg thể trọng/ngày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

Tetramisol: 7-10mg/kg thể trọng/ngày.

Thuốc tẩy giun chỉ dùng một lần. Chỉ dùng thuốc tẩy khi phát hiện

trong phân gia súc có các loại trứng giun và có dấu hiệu lâm sàng nhiễm giun.

+ Thuốc điều trị cầu trùng: Sulfamerazin hoặc Sulfadimerazin, liều

0,10 - 0,12g/kg thể trọng, dùng liên tục 5-6 ngày liền.

Dùng thuốc trợ sức, chống chảy máu và bổ sung nước: vitamin C, B1,

K, cafein, long não nước, truyền huyết thanh mặn ngọt 1000ml/100kg thể

trọng/ngày.

+ Chống nhiễm khuẩn: phối hợp kháng sinh và sulfamid:

Oxytetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.

Bisepton: 40-50mg/kg thể trọng/ngày.

Phối hợp hai loại thuốc dùng liên tục trong 3-4 ngày.

Theo Fairbrother J.M (1992) [44], một trong những nguyên nhân gây

hội chứng tiêu chảy của gia súc là do một số loài vi khuẩn gây bệnh đường

ruột bao gồm cả những vi khuẩn hiếu khí, vi khuẩn yếm khí tuỳ tiện và những

vi khuẩn yếm khí bắt buộc. Những loài thường gặp là: E.coli, Salmonella spp,

Proteus, Streptococcus...

Gia súc bị tiêu chảy do E.coli, khi điều trị, ngoài việc dùng kháng sinh

sớm từ đầu nên dùng kết hợp một số thuốc hay hoá dược có tác dụng ức chế

sự sản sinh và ảnh hưởng của độc tố đường ruột Entrotoxin do vi khuẩn

phóng thích ra. Một số hoá dược thường dùng như: Chlopromazin hoặc

Berberin sulphate, kết hợp sử dụng dung dịch các chất điện giải như dung

dịch đường glucose, dung dịch muối natri, kali. Các dung dịch này có vai trò

quan trọng trong việc cung cấp, bổ sung lượng nước và chất điện giải bị mất

trong khi tiêu chảy (Nagy và cs, 1985 [49]).

Trong điều trị tiêu chảy cho bê nghé do vi khuẩn Salmonella gây ra

Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [31] cho biết: ở các cơ sở chăn nuôi không có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

điều kiện làm kháng sinh đồ, có thể tiến hành điều trị qua việc dùng các

kháng sinh và sulfamid như: Neomycin và Sulfamethyphenazol, kết hợp với

một số loại hoá dược có tác dụng cung cấp nước, chất điện giải và thuốc làm

se, dịu niêm mạc ruột.

Trong điều trị tiêu chảy, các nhà chuyên môn đã sử dụng thuốc có tác

dụng làm se niêm mạc ruột. Các cây thảo dược trong tự nhiên có chứa hoạt

chất, có tác dụng hữu hiệu trong việc phòng và trị nhiều bệnh khác nhau,

trong đó, có bệnh đường tiêu hoá ở người và động vật.

Cây, quả dược liệu có vị chát hoặc đắng như: cây sim, búp ổi, quả hồng

xiêm, chuối, ổi, lựu và nhiều loại cây quả khác có tác dụng làm se niêm mạc

ruột rất tốt, nhất là các quả này còn ở trạng thái xanh non (lượng axit tanic cao

hơn nhiều khi quả chín)

Để đề phòng tiêu chảy, trước hết khi mới đẻ ra bê nghé phải được uống

đầy đủ sữa đầu, chuồng nuôi bê nghé phải được dọn sạch sẽ hàng ngày, không

để bê nghé uống nước bẩn, nước uống cho bê nghé phải đảm bảo vệ sinh, bổ

sung các loại vitamin A, D để nâng cao sức đề kháng. Một số nước áp dụng

phương pháp sau: 1-3 ngày đầu sau khi sinh cho bê nghé uống hỗn hợp gồm

250mg Oxytetracyclin + 62.000 UI vitamin A + 6.250 UI vitamin D (2

lần/ngày), có tác dụng phòng bệnh tiêu chảy tốt. Cũng có thể dùng các loại  -

globulin miễn dịch cho bê nghé uống để chống tiêu chảy do vi khuẩn, vi rút

gây ra. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, (2002) [20]).

1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé

Theo nhiều tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng gây tiêu

chảy ở bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi là giun tròn Neoascaris vitulorum.

1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum.

1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [12]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs,

1999 [13], thì giun tròn Neoascaris vitulorum có ba môi, rìa của những môi

này có răng cưa.

Giun đực không có cánh đuôi, dài 13 - 15cm, rộng nhất 0,35cm.

Giun cái dài 19 - 23cm, chỗ rộng nhất là 0,5 cm. Trứng có vỏ với nhiều

chỗ lõm nhỏ, dài 0,080-0,090 mm, rộng 0,070-0,075mm.

Prokopic,-J; Sterba,-J (1989) [51] đã quan sát giun đũa Neoascaris vitulorum

trên kính hiển vi điện tử thấy cấu trúc bề mặt của giun gồm môi, răng, gai nhỏ và

phần đuôi; ở giun non răng hình nón và nhọn chúng cao lên khi tuổi tăng lên.

Theo Taira-N; Fujita-J (1991) [60]. Từ năm 1982-1988 giun tròn đã

được tìm thấy và nghiên cứu ở hai huyện Kyushu và Okinawa, Nhật bản. Có 7

giun đực và 21 giun cái được nghiên cứu về hình thái học, cho thấy độ dài

trung bình của giun đực 15,64 cm (14,0-18,0 cm), giun cái 25,75 cm (16,5-

34,0). Thân trắng đục và mềm. Trứng giun 81,6ỡm và 71,8ỡm đường kính

rộng nhất và nhỏ nhất, bề mặt vỏ trứng trơn nhẵn, không nhăn nheo.

Ở Việt Nam, Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32],

Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [21], giun đũa Neoascaris vitulorum (Goeze

1782), ký sinh ở bê nghé có kích thước: Giun đực ở nghé dài 13-15cm, đường

kính 0,3; ở bê dài 14-16 cm. Giun cái ở nghé dài 19-23 cm, đường kính 0,5

cm, trứng 70-75 x 80-90 ỡm, ở bê dài 20-26 cm, trứng (75-85 x 90-100 ỡm).

Vị trí âm hộ của giun cái là 1/8 phần trước thân, phù hợp với tài liệu mô tả

của Orlov (1970), Euzeby (1981), Khổng Phôn Giao (1957), khác với tài liệu

mô tả của Skrjabin (1950), Neveu-Lemaire (1952), Soulsby (1965), Drozdz

(1967) âm hộ ở 1/6 trước thân.

1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum.

Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun thải

ra môi trường ở thời kỳ tiền phân là trứng không cảm nhiễm. Skjabin &

Schulz (1973) cho biết, sự phát triển của trứng đến giai đoạn cảm nhiễm (theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

tài liệu của Davtian) kéo dài 12 - 13 ngày ở nhiệt độ 28-30oC và 17-19 ngày ở nhiệt độ 25oC.

Chẩn đoán bằng cách xét nghiệm phân tìm trứng giun Neoascaris

vitulorum hoặc trên cơ sở phát hiện thấy giun tự thải ra ở trong phân.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [36], trứng giun đũa ra ngoài thiên nhiên

gặp nhiệt độ nóng ẩm thích hợp thì phát triển thành phôi thai: ở nhiệt độ 15- 17oC thì phải 38 ngày, ở nhiệt độ 19-22oC thì phải sau 20 ngày. Nếu để phân

khô đi hoặc ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học thì trứng sẽ ngừng phát

dục. Dưới ánh nắng trực tiếp mùa hè thì một tuần, nếu ở sâu trong đất thì 12-15

ngày phôi chết, mùa đông phân khô thì sau một tháng phôi bị diệt.

Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun

trưởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.

Chu kỳ phát triển trực tiếp không qua ký chủ trung gian. Giun trưởng

thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng; trứng theo phân ra ngoài,

phát triển thành phôi thai trong trứng, sau đó lại vào cơ thể con vật

Khi mới theo phân ra ngoài trứng không phân chia. Tuỳ theo điều kiện

nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm

có khác nhau.

Theo Soulsby (1965), ở nhiệt độ tối ưu 28-30oC, thời gian là 7 ngày; ở 25oC cần 10-11 ngày, ở 15-18oC cần trên 28 ngày. Trứng giai đoạn cảm nhiễm

có chứa ấu trùng giai đoạn II, có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.

Irfan M và Sarwar M.M (1954) nghiên cứu ở Pakistan, trứng phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm sau 11 ngày ở 26oC; trứng sẽ bị thoái hoá nếu để ở nhiệt độ 30oC; ở 10oC trứng ngừng phát triển.

Euzeby (1981) theo dõi ở Malaixia cho biết, với nhiệt độ 15-17oC, cần 38 ngày. Theo Orlov (1970) ở nhiệt độ 30oC, cần hai tuần; ở nhiệt độ 25oC, cần

ba tuần. Refuerzo P.G & Jemenez A (1954), quan sát sự phát triển của trứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

giun ở Philippin cho biết, ở nhiệt độ 17oC phôi bắt đầu hình thành ngày thứ

sáu, hoàn thành vào ngày thứ chín và có khả năng gây bệnh ở ngày thứ 13-15.

Trứng giun cảm nhiễm có sức đề kháng cao với một số hoá chất cũng

như yếu tố vật lý. Khi trứng ở trong phân thì trứng có sức đề kháng cao đối

với một số chất sát trùng.

Refuerzo P.G & Jemenez A (1954) đã làm thí nghiệm về sức đề kháng

của trứng giun đũa ở Philippin, thấy trứng có sức đề kháng kém dưới ảnh

hưởng trực tiếp của ánh nắng mặt trời; Trứng trong phân thì tồn tại lâu hơn và

còn phụ thuộc vào khối lượng cục phân. Nước nóng có tác dụng diệt phôi thai rất nhanh, nếu ở trong phân thì tác dụng hạn chế; Với nước nóng 90-100oC

trứng đã phân lập ra bị hỏng sau 2 giây, phôi bị huỷ, nhưng nếu ở trong phân

thì chỉ ở lượt ngoài trứng bị hỏng.

Đối với một số chất sát trùng thông thường như Lysol 2%, Zyphen 4-

5%, sau 17-20 giây phôi bị huỷ hoàn toàn, nhưng ở trong phân thì phôi không

bị diệt. Phạm Chức (1986) [4] cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng giun đũa

trong một giờ; Axit phêníc 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút đến một giờ.

Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun đũa phát dục thành phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19-22oC, nhưng phải cần 38 ngày ở nhiệt độ 15-17oC.

Dương Công Thuận đã lấy phân của bê nghé bị nhiễm giun đũa có

trứng nhiều, trộn với nước để giữ ẩm, cho vào đĩa Pettri, để ở nhiệt độ trong phòng khoảng 15-22oC (tháng 10-11), thì trứng phát triển thành phôi thai sau 20 ngày, ở nhiệt độ 15-17oC phôi hình thành sau 38 ngày.

Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19] cho biết, con cái đẻ trứng ở ruột non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15-17oC cần 38 ngày, 19-22oC cần 20 ngày, 25oC cần 10-12 ngày, 28-30oC cần 65 ngày, nhưng khi nhiệt độ đến 34- 35oC thì trứng không phát triển). Khi bê nuốt trứng giun đũa có khả năng gây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

bệnh thì sau 43 ngày thấy giun đũa trưởng thành trong cơ thể bê, nếu cho mẹ nuốt trứng trước khi đẻ 124-192 ngày thì bê đẻ ra 20-31 ngày trong phân có trứng giun đũa. Ở trâu mẹ thời kỳ chửa đầu nuốt trứng giun cảm nhiễm thì tất cả nghé đẻ ra đều bị nhiễm giun qua nhau thai.

Sau khi trứng giun cảm nhiễm vào cơ thể trâu bò mẹ, dưới tác dụng của

dịch vị và dịch ruột non, ấu trùng nở ra và từ ruột non theo mạch máu vào

gan, qua tim lên phổi, ấu trùng đến tim trái và từ đó vào đại tuần hoàn. Phần

lớn ấu trùng đều theo mạch máu đến các mô và phủ tạng, ở đó nó đóng kén và

có thể sống từ năm đến sáu tháng hay hơn. Trường hợp trâu bò cái nhiễm phải

trứng giun trong thời gian chửa thì ấu trùng có thể qua hệ tuần hoàn của nhau

đến bào thai, hoặc có thể trâu bò cái nhiễm trong thời gian không chửa, ấu

trùng đóng kén ở mô và phủ tạng, khi trâu bò chửa ấu trùng có thể thoát ra

khỏi kén theo mạch máu đến nhau thai và bào thai.

Kén của ấu trùng có thể thấy ở nhiều mô và phủ tạng như: Bắp cơ,

thận, não, gan, phổi. Ấu trùng có thể sống ở đó sáu tháng; ở con vật không

chửa quá thời gian ấu trùng chết. Ở con vật chửa trong vòng sáu tháng ấu

trùng chui ra khỏi kén đi vào nhau thai.

Ở bào thai nó sống trong gan, theo Augustine (1972) và Noda R (1954)

ấu trùng sống không biến đổi trong suốt thời kỳ ở tử cung. Theo Spent (1958)

thời kỳ cuối trước khi đẻ ấu trùng có thể từ gan vào bào thai và lên phổi biến

thái một lần. Nhưng nói chung ở mọi trường hợp chỉ sau khi đẻ ấu trùng mới

tiếp tục biến thái sau khi hoàn thành một đợt di hành qua phổi, khí quản, ruột

giống như di hành của giun đũa lợn, xuống ruột, giun lớn lên nhanh chóng và

phát triển thành giun trưởng thành đẻ trứng.

Trong điều kiện tự nhiên ở bê, nghé từ 17 ngày tuổi trở lên đã có thể

tìm thấy trứng giun đũa trong phân. Thường tuổi bê, nghé mắc bệnh là 15-42

ngày (Boulerger, 1922; Spent, 1946; Vaidyanathan, 1949; Keith, 1951; Irfan

và Sarwar, 1954; Spirestava và Mehre, 1955...) đối với một số giun đũa khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

như Ascaris của lợn, người, Parascaris của ngựa thời gian từ khi vật bắt đầu

cảm nhiễm trứng giun đũa đến khi trưởng thành có khả năng đẻ trứng phải tối

thiểu trên một tháng. Tuổi mắc bệnh quá sớm của bê nghé làm người ta nghĩ

đến bê nghé có thể mắc bệnh từ khi còn trong bào thai. Mặt khác, nhiều thí

nghiệm gây bệnh cho bê, nghé một ngày tuổi trở lên nuốt trứng giun đũa có

phôi đều không thành công (Brampt 1922, Schmidt 1933). Năm 1935,

Davtyan đã gây bệnh được bằng cách cho một bê nuốt trứng giun 2 giờ sau

khi đẻ, sau đó 30 ngày xuất hiện trứng trong phân. Mổ khám sau khi chết,

ngày thứ 43 thấy một giun trưởng thành và 8 giun con.

1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra ở bê

nghé.

1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh.

Khi bê nghé nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, sau 43 ngày có

thể thấy giun đũa trưởng thành ở ruột non bê nghé. Trong thời kỳ ấu trùng

giun đũa di hành đến một số khí quan như phổi, gan. Khi giun trưởng thành ở

ruột non số lượng nhiều, vít chặt làm tắc ruột non, có khi làm thủng ruột hoặc

chui vào ống dẫn mật, gan.

Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé bị trúng độc, gây ỉa chảy, gầy

sút nhanh. Giun lấy chất dinh dưỡng làm bê nghé gầy yếu (Phạm Văn Khuê,

Phan Lục, 1996 [12])

Giun đũa Neoascaris vitulorum cũng như các loài giun sán khác, ngoài

tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, còn gây tổn thương niêm

mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá (E.coli,

Salmonella, Proteus...) xâm nhập gây rối loạn quá trình phân tiết, viêm ruột và

tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

Ngoài ra, giun đũa còn gây viêm ruột cata, một số ít bị biến đổi hoại

tử ở gan. Giun ở trong ống dẫn mật gây viêm có mủ, viêm do tổn thương

ở phổi cũng được phát hiện.

Gia súc non mắc bệnh giun đũa bị viêm ruột thứ phát có thể chết đến

80% (Dẫn theo Drozdz 1967; Kaufmann, 1996).

Đặc điểm chủ yếu của bệnh là gây tiêu chảy song không liên tục, có sự

xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, bê nghé

có biểu hiện nôn từng cơn, kém ăn, thể trạng sa sút. Nếu không phát hiện sớm

và điều trị kịp thời bê nghé chết rất nhanh.

1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé.

Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris vitulorum thường hay sảy ra hầu

khắp các nơi trên thế giới.

Ở Braxin, Travassos Lvà Lacombe D (1959) điều tra cho biết,

Neoascaris vitulorum là loại phổ biến ở nghé, ít thấy hơn ở bê.

Ranatunga P (1960) điều tra ở Srilanca, tại nông trại Ridiyagana, thấy

nhiều nghé có trứng giun trong phân ở lứa tuổi 10-26 ngày sau khi đẻ. Theo

tác giả, tỷ lệ nghé chết về bệnh này còn cao hơn do Coccidiosis.

Srivastava S.C (1963) cho biết, đã kiểm tra 12 nghé ở Ấn Độ thấy 4 con có Neoascaris vitulorum, có con có tới 400 giun trong ruột. Tripathi J.C (1967) cũng cho biết, bê nghé ở Ấn Độ thường bị giun đũa ký sinh.

Theo Vichitr-Sukhapesna (1990) [61], bê nghé nhiễm giun đũa

Neoascaris vitulorum chủ yếu qua bào thai và sữa.

Muangyai. M (1989) [48] thông báo rằng, giun đũa bê nghé Neoascaris vitulorum là một trong những ký sinh trùng chủ yếu gây bệnh cho bê nghé, bệnh đã được nghiên cứu biện pháp phòng trị.

Theo Pandey, VS; Hill, -FWG; Hensman, DG; Baragwanath, LC

(1990) [50], có 20 bê độ tuổi 13±5 ngày được kiểm tra phân trong giai đoạn

15-20 ngày tuổi ở đồng cỏ Zimbabuwe, trứng giun có từ ngày 24, số trứng

đếm được từ 257-19.821 trứng/gam phân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

Akyol-CV (1993) [40] thấy, bê bị nhiễm Neoascaris vitulorum phổ biến ở quanh Barsa (Thổ nhĩ kỳ) qua việc kiểm tra trứng trong phân. Ấu trùng cũng được tìm thấy trong một mẫu sữa. Đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun nên làm nhiễm bệnh nhanh. Tỷ lệ nhiễm bệnh giữa các vùng sinh thái khác nhau.

Một thông báo khác cho biết, ở Braxin nghé bị nhiễm với tỷ lệ 58% ở

tuần tuổi thứ nhất; 87,5% tuần thứ 2; 96% tuần thứ 3 và 100% tuần thứ 4. Hầu

hết bị nhiễm qua bào thai và một số ít trường hợp nhiễm qua sữa. Chúng phát

bệnh trong độ tuổi 3-17 tuần tuổi (Barbosa,-MA; Correa,-FMA, 1989 [41]).

Starke-WA; Machado-RZ; Becchara-GH; Zocoller-MC (1996) [58] đã

kiểm tra 75 mẫu phân bê nghé từ 9-115 ngày tuổi, thấy có 86,7% bị mắc giun

đũa. Số lượng trứng cao nhất khi 45 ngày tuổi.

Wen-YL, Zhuang; Lin; BM; Pan;-YD; Gao;-Wang,-TJ (1986) [63] đã

phát hiện 99 con nghé trong số 245 nghé ở 7 làng của tỉnh Phúc Kiến, Trung

Quốc. Sự nhiễm giun đũa của nghé đực (43,02%), cao hơn nghé cái (38,03%).

Theo Horchner, F; Srikitijikarn, L (1987) [46], tỷ lệ chết của nghé trong

6 tháng đầu sau khi sinh ở vùng Đông Nam Á Thái Lan tới 30% do giun

Neoascaris vitulorum và S.papillosus.

Gupta;-RP; Yadav;-CL; Ghosh; JD (1985) [45] cho biết, trong 1626 bê

ở bang Haryana (Ấn Độ) có 55,8% bị nhiễm ký sinh trùng, bao gồm: Giun

móc 44,2%; Neoascaris vitulorum 15,2%; Giun đầu gai 6,2%. Tỷ lệ nhiễm

trong mùa thu (62,8%) cao hơn trong mùa xuân (54,2%), mùa hè (52,4%) và

mùa đông (52,2%). Trong 2411 nghé ở Bang Haryana có 62,9% nhiễm ký

sinh trùng, trong đó Neoascaris vitulorum 29,1%; giun móc 20,7%; giun đầu

gai 9,2% và Coccidia 5,2%. Tỷ lệ nhiễm trong mùa thu (69,8%) và mùa hè

(67,8%), cao hơn mùa xuân (51,9%) và mùa đông (56,3%).

Iskander, AR, Tawjeek, AFarid; AF (1987) [47] đã điều tra 87 nghé

ở 60 ngày tuổi bị ỉa chảy từ các tỉnh Sharkia, Dakahlia, Kaliobia và Assiut (Ai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

Cập) có 18 con (21%) đã bị nhiễm giun đũa và cầu trùng, có 4 con đã bị chết.

Noãn nang Eimeria và trứng giun đũa theo tỷ lệ 5:1.

Swain, GD; Misra, SC; Panda, DN (1987) [59] cho biết, ở Ấn Độ

trứng giun đũa đã được tìm thấy trong mẫu phân của 170 nghé dưới 6 tháng

tuổi giữa thời gian kiểm tra tháng 3-8/1985. Tỷ lệ nhiễm cao nhất ở nghé 1 - 2

tháng tuổi, giảm dần sau 3 tháng tuổi.

Kết quả điều tra cho thấy, có trường hợp bê mắc bệnh sớm nhất là 15

ngày (Lee-Nigeria 1959), nghé là 10 ngày (Ranatuga 1960). Theo Orlov

(1970), sau 3 tháng tuổi bê có hiện tượng tự thải giun đũa.

Ở Việt Nam, bệnh giun đũa bê nghé là một bệnh rất phổ biến. Nghé có

triệu chứng đặc trưng là phân có màu trắng nên nhân dân thường gọi là bệnh

"Nghé ỉa cứt trắng". Năm 1923, Phạm Văn Long đã thông báo về một ca bệnh

trên nghé. Nhưng đến đầu năm 50, bệnh này mới thực sự được chú ý vì nó

gây thiệt hại lớn cho đàn trâu sinh sản ở miền núi.

Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32] cho biết, do ảnh

hưởng của khí hậu thời tiết nên mầm bệnh lưu truyền từ mùa này sang mùa

khác, trứng giun đũa có phôi thai có thể tồn tại từ mùa đông này qua mùa

đông năm sau, gặp đợt nghé đẻ ra chúng sẽ nhiễm vào nghé, gây bệnh tạo

thành vùng "nghé ỉa cứt trắng".

Do tập tính sinh sản của trâu bò miền núi phía bắc nước ta là đẻ vào

mùa đông khô lạnh, thiếu cỏ, thiếu nước nên bệnh giun đũa bê nghé gây tác

hại nhiều đối với nghé sơ sinh.

Bệnh giun đũa bê nghé thường thấy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở

các vùng chăn nuôi trâu bò thuộc miền núi, trung du, đồng bằng và ở các

cơ sở chăn nuôi trâu bò sữa (Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng, 1999 [21]).

Qua điều tra liên tục sáu vụ đông xuân (từ 1954-1960) trên hàng nghìn

nghé tại xã Hoà Phú, Phúc Thịnh (Chiêm Hoá - Tuyên Quang), xã Minh Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

(Ngọc Lặc - Thanh Hoá), xã Phượng Tiến (Định Hoá - Thái Nguyên), Đỗ

Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32] thấy, tỷ lệ nghé ốm do giun đũa

chiếm tới 38-44% so với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25-50%

số nghé ốm. Như vậy, mỗi năm số nghé chết về giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [36], qua điều tra trên 32 xã thuộc nhiều

tỉnh miền núi và trung du miền bắc nước ta, nghé ốm do bệnh giun đũa chiếm

39,1%, nghé chết chiếm 38,7% so với số nghé ốm. Đặc biệt bệnh chỉ phổ biến

trên đàn trâu sinh sản ở miền núi và trung du còn ở vùng đồng bằng bệnh

giảm rõ rệt.

Tô Ngọc Đại (1953) [6] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé gây ra tình

trạng bê nghé ỉa cứt trắng là khá phổ biến và trầm trọng ở miền núi, nơi có

chăn nuôi trâu bò sinh sản với số lượng lớn.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1966) [37], ở Sơn Tây, Phia Đén (Cao Bằng)

Ngọc Thanh (Vĩnh Phú), đàn bê mắc bệnh giun đũa chiếm 20% so với số bê

đẻ ra và bê chết do giun đũa chiếm 5% so với số bê ốm.

Dương Công Thuận (1972) đã điều tra trên đàn bê của nông trường

Tam Đảo (Vĩnh Phú), nông trường Hà Trung (Thanh Hoá), thấy có 30-40%

mắc giun đũa, nhưng triệu chứng lâm sàng không rõ như ở nghé, số chết rất ít.

Phạm Văn Khuê và cs (1981) [11] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé khá

phổ biến ở các tỉnh miền núi phía bắc. Theo Nguyễn Bá Phụ (1992) [29], cho

ở Việt Bắc bê nghé thường mắc bệnh giun đũa từ 30-50%.

Trịnh Văn Thịnh (1959) [35] cho biết, nghé nhiễm bệnh từ trong bào

thai và đến tuổi ngoài hai tháng rưỡi không phát bệnh nữa, có trường hợp khi

đến tuổi ấy nghé tự tống giun ra ngoài.

Theo Thanh Cưu (1970), đàn bê của nông trường Ba Vì (Hà Tây)

nhiễm giun đũa 14,6%, thường từ lứa tuổi sơ sinh đến sáu tháng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

Dương Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc (1986) [39] đã điều tra tình

hình nhiễm giun đũa ở nghé Murah ở nước ta: 3 tuần tuổi nhiễm 58,1%, 4

tuần tuổi nhiễm 67,2%, 6 tuần tuổi nhiễm 25,2%, 7 tuần tuổi nhiễm 28%, 9

tuần tuổi nhiễm 25%, 10 tuần tuổi nhiễm 23%.

Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [34], bê nghé từ 15-60 ngày tuổi

hay mắc bệnh ỉa cứt trắng, bệnh thường hay gặp nhất ở miền núi.

Phan Địch Lân (1986) [16] đã kiểm tra 30 bê Hà Lan nhập nội ở nông trường Sao Đỏ, cho kết quả tỷ lệ nhiễm giun đũa 25%. Ở Mộc Châu, kiểm tra 50 bê Hà Lan dưới sáu tháng cho kết quả tỷ lệ nhiễm 30%.

Nghé Murah dưới 3 tháng tuổi nuôi ở HTX Trực Chính - Khánh Phù -

Phù Thượng - Hà Nam Ninh nhiễm tới 71% , nghé 1 tháng tuổi nhiễm 67%.

Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [22] cho biết, bệnh giun đũa

bê nghé có tỷ lệ nhiễm từ 23%-64% ở nghé trong độ tuổi 1-3 tháng, bê trong

độ tuổi 17 ngày đến 3 tháng tuổi cũng bị nhiễm bệnh.

Phan Lục (1993) [24] đã điều tra bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá

vùng đồng bằng sông Hồng cho kết quả, trâu bò bị nhiễm nhiều loại ký sinh

trùng, trong đó nghé nhiễm 15,1%, bê 5,4%.

Vương Đức Chất (1995) [3] cũng thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa trên đàn bê

ở Hà Nội qua mổ khám là 15,6%.

Theo Cao Tuyết Lan (1996) [14], Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 35,3%, cao

nhất lúc 31-45 ngày tuổi (71,4%).

1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích.

Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [34], bê nghé ốm dáng đi lù đù,

đầu cúi, lưng cong đuôi cụp, bụng ỏng, có khi con vật nằm một chỗ không

theo mẹ.

Bệnh nặng bê nghé gầy rạc, xù lông, mắt lờ đờ, chảy nước mắt có nhử, mũi khô, thân nhiệt khoảng 40-41oC. Con vật mệt mỏi, đứng lên nằm xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

ỉa phân lúc đầu táo hoặc lổn nhổn, màu đen, dần dần biến thành màu trắng,

lỏng.

Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], con vật không

bình thường khi ăn, ỉa chảy, đôi khi táo bón, chướng hơi, đi lại không yên,

đau bụng, ho, co giật. Trường hợp tự thải giun hay được điều trị thì các triệu

chứng sẽ mất đi, ở thể mãn tính kéo dài 2-3 tháng.

Phạm Xuân Dụ (1971) cho biết, bệnh ỉa chảy ở bê một phần do giun

đũa và bệnh viêm phổi, một phần do giun phổi.

Phan Địch Lân (1986) đã thông báo bê Zê bu mắc bệnh giun đũa ở

Nông trường Phú Mẫn (Hà Sơn Bình) có triệu chứng ỉa chảy, ủ rũ, nằm liệt tại

chỗ và có con chết.

Phạm Sỹ Lăng (1973), Dương Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc

(1986) cho biết, bê nghé Murah mắc bệnh thường lù đù, chậm chập, đầu cúi,

lưng cong, bụng to, lông xù lên, khoeo và đuôi dính phân bẩn, phân có mùi

tanh khắm, màu trắng ngà.

Theo Usanakorkul S (1987), khoảng 10-30% nghé ở Thái Lan bị chết

trước khi chúng được cai sữa. Hầu hết chúng bị chết bởi nguyên nhân là ký

sinh trùng. Nghé nhiễm bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum và giun lươn qua

đường sữa. Trứng của giun đũa có từ 21-131 ngày tuổi. Cường độ nhiễm cao

nhất trong khoảng 21-35 ngày, khi có số lượng giun lớn bê nghé bệnh có triệu

chứng kém ăn, ỉa chảy và thiếu máu.

Hossain, MI; Baki, MA; Hossain, MM (1988) thông báo, Neoascaris

vitulorum đã được tìm thấy ở 296/350 nghé (84,57%) với triệu chứng chậm

phát triển, còi cọc, thiếu máu, ỉa chảy và mất nước.

Theo Lau, HD,-HD, Sigh;-NP (1985), nghé mắc bệnh giun đũa có số

lượng hồng cầu giảm thấp, giảm Hb và tăng bạch cầu, bạch cầu Eosin tăng cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

Aumont-G; Gauthier; Coulau-G; Gruner-L (1991) cho biết, giun đũa Neoascaris vitulorum là ký sinh trùng chính của bê trong 2 tháng tuổi và làm giảm khối lượng lượng 10,5kg từ sơ sinh đến giai đoạn cai sữa.

Theo Srivastava,-AK; Sharma,-DN (1981), ở Muthura - Ấn Độ, 16

trong 90 nghé 1 tháng tuổi đã có 500-700 trứng giun đũa trong 1 gam phân,

có những triệu chứng biếng ăn, gày còm, xù lông, táo bón, ỉa chảy, phân hôi

thối, lưng cong, đau bụng và dáng đi cứng nhắc. Mổ khám thấy viêm ruột

cata, biến đổi hoại tử ở gan, thấy giun ở trong ống dẫn mật, viêm có mủ ở vỏ

thận và viêm do tổn thương ở phổi.

1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé.

Để chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé dựa vào

triệu chứng lâm sàng, các dẫn liệu về dịch tễ học, xét nghiệm mẫu phân bê

nghé bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa. Kết hợp với kiểm

tra bệnh tích ở ruột non cho phép chúng ta chẩn đoán bệnh chính xác hơn.

* Đối với bê nghé sống:

Theo nhiều tác giả nghiên cứu cho biết, việc chẩn đoán bệnh giun đũa

Neoascaris vitulorum ở bê nghé có thể căn cứ vào những đặc điểm dịch tễ

học: vùng và mùa phát bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh, tuổi mắc bệnh...

Phạm Văn Khuê và cs (1996) [12], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)

[13] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé thường mắc nhiều nhất ở miền núi, bệnh

thường phát nhiều vào tháng 12, 1, 2. Tuổi mắc bệnh sớm nhất là 14 ngày,

tuổi càng cao thì tỷ lệ nhiễm càng giảm, tới 3 - 4 tháng tuổi thì không bị

nhiễm. Trâu bò không mắc bệnh này. Đây chính là những điều tra cơ bản để

sơ bộ chẩn đoán bệnh. Triệu chứng lâm sàng đáng chú ý như: phân màu trắng

rất thối, nếu bệnh nặng bê nghé ỉa vọt cần câu, phân dính ở xung quang hậu

môn và khuỷu chân...là những dấu hiệu hết sức quan trọng để chẩn đoán bệnh

giun đũa bê nghé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, đặc điểm dịch tễ học

của bệnh thì chưa chẩn đoán chính xác được bệnh gì, vì có rất nhiều bệnh ký

sinh trùng có biểu hiện giống nhau. Chính vì vậy, xét nghiệm phân tìm trứng

trứng giun đũa Neoascaris vitulorum là căn cứ quyết định kết quả chẩn đoán

bệnh. Các phương pháp thường dùng là phương pháp Fullerborn, Darling, có

thể dùng phương pháp đếm trứng giun trong 1 gam phân bằng buồng đếm

Mc. Master để xác định mức độ nhiễm giun đũa nặng hay nhẹ.

* Đối với bê nghé chết: Mổ khám quan sát những biến đổi về bệnh tích

trên hệ thống tiêu hoá của bê, nghé, tìm giun đũa trưởng thành ở ruột non.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [12], áp dụng phương pháp

mổ khám toàn diện của Viện sỹ Skriabin K.I (1982). Đây là phương pháp mổ

khám kinh điển nhưng cho phép phát hiện tấy cả các loài giun sán ký sinh

trong cơ thể bê nghé và được sử dụng rộng dãi trong điều tra hiện nay.

Phương pháp này không những cho biết tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, mà đặc

biệt còn cho phép quan sát những tổn thương ở đường tiêu hoá do ký sinh

trùng gây ra.

1.2.4. Biện pháp phòng trị bệnh.

Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32] cho biết, trong bệnh

giun đũa Neoascaris vitulorum của bê, người ta dùng Santonin với liều 0,02g

cho 1kg thể trọng và cho uống thuốc tẩy kèm theo.

Balabakian X.P (1956) đã ứng dụng có kết quả dung dịch Natri sunfat

10% với liều 4,0g cho 1kg thể trọng để tẩy giun đũa cho. Cho bê uống qua

ống cao su và phễu.

Theo Robert,-JA (1989) [54], hiệu quả tẩy giun đũa bê nghé của

Pyrantel là 100%; Febentel là 100%; Levamisol (7,5mg/kgTT cho uống) là

83%, Levamisol tiêm (0,1ml/kgTT) là 73%, Piperazine là 57%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [34] đã dùng: 8 hạt cau tươi giã nhỏ,

trộn với 20 gram bột diêm sinh, hoà với 1/3 lít nước hơi ấm, cho uống vào

buổi sáng trong 3 ngày liền; hoặc một nắm vỏ xoan (50 gram) giã nhỏ, trộn

với 2 gam muối, hoà với 1/3 lít nước ấm, để lắng, gạn lấy nước cho uống vào

buổi sáng, 3 ngày liền hoặc 2 đến 3 lá đu đủ non giã nhỏ, hoà với 1/3 lít nước,

cho uống vào buổi sáng ba ngày liền. Có thể cho uống 3ml tinh dầu giun trộn

với 60ml dầu đu đủ, cho uống một lần vào buổi sáng. Cũng có thể cho uống

Phenothiazine 1,5-2,0gam/ngày trong ba ngày hoặc Piperazin 0,2-0,3

gam/kgTT.

Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [38]: Piperazin 0,3-0,5 gam/kgTT,

Silicofluorat natri liều 0,035g/kgTT chia hai lần trong ngày, tinh dầu giun 30-

60ml, cho uống. Kết hợp giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, ủ phân, bồi dưỡng cho trâu

bò mẹ. Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [12] cũng sử dụng những hoá

dược như trên tẩy giun đũa bê nghé cho kết quả tốt.

Vương Đức Chất (1995) [3] tẩy giun đũa cho bê nghé bằng thuốc

Piperazin 0,25g/kgTT lúc 15-20 ngày tuổi, Mebendazole 10mg/kgTT đạt kết

quả tốt.

Phan Lục (1996) [23] đã thử nghiệm ở Mê Linh, Phong Châu (Vĩnh

Phú), Kim Bảng (Nam Hà), Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Sóc Sơn (Hà

Nội) dùng Benzimidazole liều 7,6 - 9mg/kgTT, tẩy cho 73 bê nhiễm

Neoascaris vitulorum, kết quả đạt 100%.

Theo Cao Tuyết Lan (1996) [14], dùng Mebenvet liều 120mg/kgTT tẩy

cho nghé nhiễm giun đũa thị xã Lai Châu có hiệu quả tốt.

Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [22] cho biết, dùng các loại

hoá dược như Piperazin 0,3-0,5 g/kgTT, Tetramizole 10mg/kgTT, Mebenvet

0,5g/kgTT và một số hoá dược khác để tẩy trừ Neoascaris vitulorum cho kết

quả rất tốt, bê nghé khỏi tiêu chảy phân trắng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

Chương 2

ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Bê nghé dưới 3 tháng tuổi nuôi tại các hộ gia đình và trại chăn nuôi của

3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang (thị xã Tuyên Quang, huyện Yên Sơn và

huyện Hàm Yên).

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

- Địa bàn nghiên cứu: thị xã Tuyên Quang, huyện Yên Sơn, huyện

Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang.

Chúng tôi lựa chọn 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang để thực hiện đề

tài nghiên cứu dựa trên các cơ sở sau:

+ Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc có tổng đàn trâu bò

tương đối lớn (gần 500 nghìn con), 3 huyện, thị trên mang đặc điểm đặc trưng

cho sự phân bố địa hình khác nhau của tỉnh Tuyên Quang.

+ Ba huyện, thị trên có phương thức chăn nuôi đa dạng, vừa chăn nuôi

theo quy mô tập trung, vừa có hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ ở các hộ gia đình.

+ Bê nghé ở các huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang, trong đó có 3 huyện,

thị trên mắc tiêu chảy tương đối nhiều, ảnh hưởng đến sự phát triển của đàn

trâu bò trong tỉnh.

- Địa điểm xét nghiệm: Phòng thí nghiệm - Chi cục Thú y tỉnh Tuyên

Quang.

2.1.3. Thời gian nghiên cứu: tháng 3/2007 đến 3/2008.

2.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU

- Mẫu phân bê nghé dưới 3 tháng tuổi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

- Mẫu đất bề mặt nền chuồng, khu vực xung quanh chuồng, bãi chăn

thả trâu bò, bê nghé.

- Dung dịch nước muối NaCl bão hoà, dung dịch Glyxerin 5%.

- Kính hiển vi quang học, dụng cụ xét nghiệm trứng giun sán, các

dụng cụ thí nghiệm khác.

2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dƣới 3

tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các địa phương.

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo tuổi.

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo tính biệt.

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ trong năm.

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo địa hình.

- Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé).

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ.

2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của

bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi

3.2.2.1. Xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé

bình thường.

3.2.2.2. Xác định cường độ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê

nghé bình thường.

2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum ở

ngoại cảnh

2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở chuồng

trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu bò, bê nghé.

2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển

thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris vitulorum

trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh.

2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có sức gây

bệnh khi bú mẹ.

2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé

2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé

* Trực tiếp điều tra qua quan sát thực nghiệm và chẩn đoán lâm sàng:

Phương pháp điều tra là ngẫu nhiên trên bê nghé nuôi tại các cơ sở chăn nuôi

và các hộ nông dân tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang. Trong quá trình

điều tra, những bê nghé phân lỏng được coi là tiêu chảy.

* Xác định tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo lứa tuổi: Từ sơ sinh - 15

ngày; 16 - 30 ngày; 31- 45 ngày; 46 - 60 ngày; 61- 75 ngày; 76 - 90 ngày tuổi.

* Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc: bê, nghé.

* Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo mùa vụ trong năm (Xuân, Hè, Thu,

Đông)

* Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo 2 loại địa hình: Bằng phẳng và đồi núi

xen kẽ ruộng nước.

* Xác định tỷ lệ tiêu chảy của bê, nghé đực và bê, nghé cái.

* Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo 2 phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ:

chăn thả hoàn toàn dựa vào tự nhiên và nuôi bán chăn thả có bổ sung thức ăn.

2.4.2. Phƣơng pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

* Phương pháp lấy mẫu: lấy mẫu phân của bê nghé dưới 3 tháng tuổi

vừa thải ra hoặc lấy trực tiếp từ trực tràng. Để riêng mỗi mẫu vào một túi ni

lon nhỏ sạch, mỗi túi đều có nhãn ghi rõ: tuổi, tính biệt, địa điểm, phương

thức chăn nuôi và thời gian lấy mẫu. Mẫu phân được bảo quản và xét nghiệm

theo quy trình thường quy trong nghiên cứu ký sinh trùng.

* Phương pháp xét nghiệm mẫu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

Sử dụng phương pháp Fulleborn: lấy khoảng 5 - 10g phân cho vào cốc

nhỏ, dùng đũa thuỷ tinh nghiền nát, cho 80 - 100ml dung dịch nước muối bão

hoà vào khuấy đều và lọc qua lưới thép bỏ cặn. Nước lọc được để yên trong

20 - 30 phút, trứng giun đũa sẽ nổi lên bề mặt. Dùng vòng thép có đường

kính 2mm vớt lớp màng nổi trên bề mặt, cho lên phiến kính, đậy lá kính, soi

dưới kính hiển vi quang học với độ phóng đại 100 lần để tìm trứng giun đũa

Neoascaris vitulorum.

* Cường độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum được đánh giá bằng

số lượng trứng/gam phân theo quy định của Roberts, J.A (1990) [55]:

< 700 trứng/gam phân: nhiễm nhẹ (+)

700 - 1000 trứng/gam phân: nhiễm trung bình (++)

> 1.000 trứng/gam phân: nhiễm nặng (+++)

- Số trứng/gam phân được đếm bằng phương pháp Mc. Master: phương

pháp này dùng để xác định số lượng trứng giun tròn, trứng sán dây và Oocyst

cầu trùng trong một gam phân bằng buồng đếm Mc. Master. Cân 4 gam phân

cho vào cốc thuỷ tinh, thêm 56 ml dung dịch nước muối bão hoà, khuấy đều

cho tan phân. Lọc qua lưới thép vào một cốc khác và khuấy đều. Trong khi

đang khuấy, lấy công tơ hút dung dịch phân nhỏ đầy cả hai buồng đếm Mc.

Master (mỗi buồng đếm có dung tích 0,5 ml) để yên 5 phút rồi kiểm tra dưới

kính hiển vi quang học (độ phóng đại 10 x 10). Đếm toàn bộ số trứng trong

những ô của 2 buồng đếm.

Số trứng/1 gam phân =  số trứng ở hai buồng đếm x 60 4

(Tổng số trứng ở hai buồng đếm là số trứng có trong 1,0 ml dung dịch phân)

2.4.3. Phƣơng pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành

trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

Sử dụng những mẫu phân bê nghé nhiễm giun đũa nặng (có trên 1000

trứng/gam phân) để bố trí thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí thành 3 đợt, vào

3 thời điểm nhiệt độ và ẩm độ không khí khác nhau. Các mẫu phân của mỗi lô

thí nghiệm được cho vào đĩa Petri, để ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không

khí bình thường. Hàng ngày lấy từ mỗi đĩa Petri 2 -3 gam phân, xét nghiệm

bằng phương pháp Fulleborn để kiểm tra sự phát triển của trứng Neoascaris

vitulorum. Theo dõi đến khi trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Ghi

thời gian phát triển và mô tả sự thay đổi cấu tạo của trứng giun.

2.3.4. Phƣơng pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun

Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh.

Sau khi theo dõi sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

đến giai đoạn cảm nhiễm, chúng tôi tiếp tục theo dõi thời gian tồn tại của

trứng ở các lô thí nghiệm, trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ không khí bình

thường ở ngoại cảnh. Cứ 5 ngày lấy từ mỗi đĩa Petri 2-3 gam phân. xét

nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để kiểm tra, xác định thời gian tồn tại

của trứng giun Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh. Ghi lại thời gian và

theo dõi biến đổi về hình thái, cấu tạo trứng. Làm như vậy cho đến khi trứng

bị chết hoàn toàn (biến dạng, nứt vỡ, ấu trùng trong trứng bị dung giải).

2.4.5. Phƣơng pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở ngoại

cảnh

* Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở

chuồng trại:

Thu thập mẫu cặn nền chuồng nuôi bê nghé ở các vị trí khác nhau (ở 4

góc chuồng và giữa chuồng) mỗi vị trí khoảng 4-5 gam, trộn đều được một

mẫu khoảng 20-25 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm bằng

phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó có

thể đánh giá sự phát tán trứng giun ở trong chuồng nuôi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

* Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở

khu vực xung quanh chuồng nuôi:

Thu thập mẫu đất bề mặt ở 10 vị trí khác nhau xung quanh chuồng nuôi

bê nghé (trong vòng bán kính 10 mét), mỗi vị trí lấy khoảng 2-3 gam, trộn đều

được một mẫu khoảng 20-30 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm

bằng phương pháp Fulleborn tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó

đánh giá được sự phát tán trứng giun ở khu vực xung quanh chuồng nuôi.

* Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở

bãi chăn thả bê nghé và trâu bò mẹ:

Thu thập mẫu đất bề mặt ở bãi chăn bê, nghé và trâu bò mẹ. Cứ khoảng 10-20m2 bãi chăn lấy ở 10 vị trí khác nhau, mỗi vị trí lấy khoảng 2-3 gam đất bề mặt, trộn đều được 1 mẫu khoảng 20-30 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó đánh giá được sự phát tán trứng giun đũa trên bãi chăn thả.

2.4.6. Phƣơng pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt trứng

giun có sức gây bệnh khi bú mẹ

Dùng các mảnh giấy mềm, ướt lau bầu vú và núm vú của trâu bò mẹ,

cho những mảnh giấy này vào các túi nilon sạch đưa về phòng thí nghiệm.

Cho những mảnh giấy này vào cốc đựng dung dịch nước muối bão hoà,

khuấy kỹ rồi lọc qua lưới lọc bỏ cặn giấy. Nước lọc được để yên 20-30 phút,

dùng vòng thép đường kính 2mm vớt màng nổi trên bề mặt dung dịch cho lên

phiến kính, đậy lá kính, soi dưới kính hiển vi quang học để tìm trứng giun đũa

Neoascaris vitulorum.

2.4.7. Phƣơng pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé

2.4.7.1. Điều trị tiêu chảy cho những bê nghé nhiễm giun đũa

Neoascaris vitulorum.

Chúng tôi sử dụng 3 phác đồ điều trị cho những bê nghé bị tiêu chảy và

nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

* Phác đồ 1: Levasol 7,5% (do Công ty Hanvet sản xuất): thuốc có phổ tác dụng rộng, tẩy được nhiều loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá gia súc.

Dung môi và chất ổn định vừa đủ: 1ml.

Thành phần của thuốc: Levamisol hydrochlorid: 75 mg. Liều lượng: 1ml/10kg thể trọng (7,5mg/kg thể trọng), tiêm bắp. Liệu trình: dùng một liều duy nhất.

* Phác đồ 2: sử dụng Mebendazol 10% (do Công ty cổ phần Sóng Hồng sản xuất). Thuốc có tác dụng tẩy các loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá gia súc, gia cầm.

Liều lượng: 200mg/kg thể trọng, cho uống lúc đói. Liệu trình: dùng một liều duy nhất, chia làm hai lần sáng và chiều. * Phác đồ 3: sử dụng thuốc Hanmectin-0,25%. (do Công Hanvet sản xuất). Thuốc có tác dụng với các loại nội, ngoại ký sinh trùng, có tác dụng cả ở giai đoạn trưởng thành cũng như giai đoạn ấu trùng đang di hành trong cơ thể. Đây là loại thuốc hiện nay đang được dùng rất phổ biến.

Thành phần của thuốc: trong mỗi ml dung dịch chứa 2,5mg Ivermectin. Liều lượng: 1ml/10kg thể trọng (0,25mg/kg thể trọng), tiêm bắp. Liệu trình: dùng một liều duy nhất. * Thuốc phối hợp điều trị: + Thuốc điện giải: cung cấp nước và các chất điện giải trong trường

hợp ỉa chảy, nôn mửa, tăng cường sức đề kháng, chống stress...

Cách sử dụng: pha thuốc với nước cho uống, 100g pha với 3-5 lít nước,

dùng cho 25-30 kg thể trọng, cho uống 2-4 lần/ngày, trong 5 ngày liên tục.

+ Vitamin C 5%: tác dụng làm tăng sức đề kháng cho con vật; sử dụng thuốc dưới dạng dung dịch tiêm bắp hoặc tiêm dưới da với liều 10ml/25kg thể trọng/ngày (20mg/kg thể trọng/ngày), sử dụng thuốc trong 5 ngày.

Sau khi sử dụng 3 phác đồ để điều trị, kiểm tra trạng thái phân để đánh giá bê nghé đã hết tiêu chảy chưa. Đối với những bê nghé chưa khỏi tiêu chảy, chúng tôi tiếp tục sử dụng thuốc kháng sinh kết hợp với thuốc điện giải và vitamin C để điều trị.

Đồng thời, xét nghiệm lại phân bê, nghé để đánh giá tác dụng của thuốc

tẩy giun đũa Neoascaris vitulorum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

2.4.7.2. Điều trị tiêu chảy cho những bê nghé sau đợt điều trị 1 vẫn còn

tiêu chảy.

* Phác đồ 1: sử dụng Hupha-Colistin 3%, thuốc có tác dụng điều trị

tiêu chảy ở gia súc rất tốt.

Thành phần của thuốc: Colistin sulfate 60.000.000 UI. Dung môi vừa đủ: 100 ml. Liều lượng: 0,5ml/20kg thể trọng (15mg/kg thể trọng/ngày), tiêm bắp. Liệu trình: điều trị 3-5 ngày liên tục. * Phác đồ 2: sử dụng Norfacoli, thuốc có tác dụng đặc trị tiêu chảy rất

tốt đối với gia súc, gia cầm.

Thành phần của thuốc: Norfloxacin HCl 1000 mg. Dung môi vừa đủ 10 ml. Liều lượng: 1ml/20kg thể trọng (5mg/kg thể trọng/ngày), tiêm bắp. Liệu trình: điều trị 3-5 ngày liên tục.

2.4.8. Phƣơng pháp xử lý số liệu

* Các số liệu về tỷ lệ tiêu chảy, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, hiệu lực

tẩy của thuốc được tính bằng công thức sau:

Số bê nghé tiêu chảy - Tỷ lệ tiêu chảy (%) = x 100 Số bê nghé kiểm tra

- Tỷ lệ nhiễm (%) = Số bê nghé nhiễm x 100

Số bê nghé kiểm tra

- Cường độ nhiễm (%) = Số bê nghé nhiễm (+), (++), (+++) x 100 Tổng số bê nghé nhiễm

- Tỷ lệ khỏi tiêu chảy (%) = Số bê nghé khỏi tiêu chảy x 100

Số bê nghé điều trị

- Hiệu lực tẩy giun đũa (%) = x 100

Số bê nghé sạch trứng Số bê nghé tiêu chảy nhiễm giun đũa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

* Số liệu về thời gian phát triển, tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris

vitulorum và số trứng giun tìm thấy trên bầu vú và núm vú trâu bò mẹ, được xử

lý theo phương pháp thống kê sinh học của Nguyễn Văn Thiện (2000).

- Số trung bình cộng:

= xi (với i = 1n) n

Trong đó: xi là tổng các giá trị của x

n là dung lượng mẫu

- Độ lệch tiêu chuẩn: với n

: độ lệch tiêu chuẩn

Trong đó: xi: giá trị của mẫu n: dung lượng mẫu

- Sai số của số trung bình: với n

Trong đó:

: sai số của số trung bình : độ lệch tiêu chuẩn

n: dung lượng mẫu

- So sánh mức độ sai khác:

( mẫu nhỏ và n1= n2)

Trong đó:

là số trung bình cộng của nhóm 1 và nhóm 2.

là sai số của số trung bình cộng nhóm 1 và nhóm 2.

là độ lệnh tiêu chuẩn của nhóm 1 và nhóm 2.

n là dung lượng mẫu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

Tra bảng phân bố t, so sánh tTN với t để xác định mức độ sai khác giữa

hai số trung bình.

+ Nếu ứng với mức xác suất P > 0,05: hai số trung bình khác nhau

không rõ rệt.

+ Nếu ứng với mức xác suất P < 0,05: hai số trung bình khác nhau rõ

rệt, với độ tin cậy 95%.

+ Nếu ứng với mức xác suất P < 0,01: hai số trung bình khác nhau rõ

rệt, với độ tin cậy 99%.

+ Nếu ứng với mức xác suất P < 0,001: hai số trung bình khác nhau rõ

rệt, với độ tin cậy 99,9%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỘI CHỨNG TIÊU

CHẢY Ở BÊ NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI TẠI TUYÊN QUANG

3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc, mang những đặc trưng của

khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự biến động lớn về nhiệt độ và độ ẩm, trong đó

có 2 mùa rõ rệt là mùa đông lạnh - khô hanh, mùa hè - nóng ẩm, mưa nhiều.

Sự biến động về thời tiết, đặc biệt có những đợt gió mùa đông bắc tràn về

kèm theo mưa phùn và rét đậm kéo dài đã làm ảnh hưởng không tốt tới sản

xuất nông nghiệp nói chung, trong đó có ngành chăn nuôi và tình hình dịch

bệnh của đàn gia súc nói riêng. Để đánh giá cụ thể tình hình bê nghé dưới 3

tháng tuổi mắc tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi đã

kiểm tra 906 bê nghé ở 9 xã, phường. Kết quả về tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các

địa phương được trình bày ở bảng 3.1.

Bảng 3.1 cho thấy: trong 906 bê nghé kiểm tra tại 9 xã, phường của 3 huyện, thị, số bê nghé tiêu chảy là 192 con, chiếm tỷ lệ 21,19%. Trong đó, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cụ thể như sau:

- Ở thị xã Tuyên Quang, kiểm tra 297 bê nghé, có 57 bê nghé tiêu chảy,

chiếm tỷ lệ 19,19%.

- Ở huyện Yên Sơn, kiểm tra 316 bê nghé, có 65 bê nghé tiêu chảy, tỷ

lệ tiêu chảy là 20,57%.

- Ở huyện Hàm Yên, kiểm tra 293 bê nghé, số bê nghé tiêu chảy là 70

con, chiếm tỷ lệ 23,89%.

Như vậy, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy giữa các địa phương có khác nhau. Tỷ

lệ bê, nghé tiêu chảy cao nhất ở huyện Hàm Yên (23,89%), thấp nhất ở thị xã

Tuyên Quang (19,19%).

Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các địa phương có sự khác

nhau như vậy, theo kết quả điều tra thực tế của chúng tôi là do: nhiều nông hộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

chăn nuôi trâu bò ở huyện Hàm Yên còn khó khăn về kinh tế, vì vậy việc chăm

sóc nuôi dưỡng và vệ sinh phòng bệnh cho trâu bò, bê nghé chưa tốt. Điều kiện

chăn nuôi kém làm cho trâu bò, bê nghé gầy yếu, chất lượng và số lượng sữa

không đảm bảo. Từ đó ảnh hưởng tới sức khoẻ và sự chống đỡ bệnh tật của bê

nghé, làm cho bê nghé dễ mắc bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy.

Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Sửu (2005) [30] từ năm 1999

đến năm 2004, ở Tuyên Quang, tỷ lệ bê tiêu chảy là 20,67% và nghé là

19,22%, trong đó tỷ lệ chết do tiêu chảy là 7,32% ở bê và 5,79% ở nghé. Như

vậy, người chăn nuôi trâu bò hàng năm đã phải chịu thiệt hại lớn về kinh tế do

hội chứng tiêu chảy ở bê nghé gây ra.

Bảng 3.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở một số địa phƣơng.

phƣơng STT Tỷ lệ (%) Địa (huyện, thị xã) Số bê nghé kiểm tra (con)

1 TX Tuyên Quang 297 Số bê nghé tiêu chảy (con) 57 19,19

- Nông Tiến 142 27 19,01

- Ỷ La 95 19 20,00

- Hưng Thành 60 11 18,33

Yên Sơn 2 316 65 20,57

- An Tường 104 18 17,30

- Phú Lâm 97 21 21,64

- Thái Bình 115 26 22,60

Hàm Yên 3 293 70 23,89

- Đức Ninh 120 31 25,83

- Thái Sơn 101 24 23,76

- Thái Hoà 75 15 20,83

Tính chung 906 192 21,19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

Qua kết quả điều tra về tỷ lệ tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở

Tuyên Quang, chúng tôi thấy bê nghé bị tiêu chảy khá nhiều. Từ đó chúng tôi

thấy rằng: các cơ sở chăn nuôi và các hộ chăn nuôi trâu bò sinh sản cần làm

tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh thú y để hạn chế tỷ lệ bê nghé tiêu

chảy. Đồng thời, khi bê nghé đã bị tiêu chảy cần phải được điều trị kịp thời và

triệt để, để bệnh có thể khỏi và không ảnh hưởng đến sự phát triển sau này

của bê nghé.

Cũng từ thực trạng trên, chúng tôi đã nghiên cứu một số đặc điểm dịch

tễ của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi, làm cơ sở để đề xuất

biện pháp phòng trị có hiệu quả nhất, hạn chế thiệt hại do tiêu chảy gây ra.

3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi

Để xác định tuổi bê nghé có ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc tiêu chảy hay

không, chúng tôi đã kiểm tra lâm sàng 906 bê nghé ở 6 lứa tuổi. Kết quả được

trình bày ở bảng 3.2.

Bảng 3.2: Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi

Tuổi nghé Tỷ lệ (%) (ngày tuổi) Số bê kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con)

SS - 15 92 17 18,47

16 - 30 212 63 29,71

31 - 45 153 32 20,91

46 - 60 129 26 20,15

61 - 75 135 25 18,51

76 - 90 185 29 15,67

Tính chung 906 192 21,19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

Bảng 3.2 cho thấy: bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy

biến động từ 15,67% đến 29,71%. Trung bình bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng

tuổi, mắc tiêu chảy là 21,19%.

Trong đó, ở giai đoạn từ sơ sinh đến 15 ngày tuổi bê nghé mắc tiêu chảy

với tỷ lệ 18,47%. Ở 16-30 ngày tuổi, tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé là 29,71%. Từ 31-

45 ngày tuổi bê nghé mắc tiêu chảy 20,91%. Ở 46-60 ngày tuổi, tỷ lệ mắc là

20,15%. Ở 61-75 ngày tuổi, bê nghé mắc tiêu chảy là 18,51%. Từ 76-90 ngày

tuổi, tỷ lệ tiêu chảy là 15,67%.

Như vậy, bê nghé mắc tiêu chảy cao nhất là giai đoạn từ 16 - 30 ngày

tuổi 29,71%, tỷ lệ tiêu chảy có chiều hướng giảm dần ở các giai đoạn tuổi tiếp

theo, thấp nhất ở 76 - 90 ngày tuổi, chiếm tỷ lệ 15,67%.

Từ kết quả bảng 3.2, chúng tôi nhận thấy, bê nghé dưới 3 tháng tuổi

mắc tiêu chảy giảm dần theo tuổi, tuổi càng cao tỷ lệ tiêu chảy càng giảm và

thấp nhất ở 76-90 ngày tuổi. Theo chúng tôi, do tuổi càng cao các cơ quan, hệ

thống trong cơ thể, đặc biệt hệ thống tiêu hoá được hoàn thiện về mặt cấu tạo,

cũng như chức năng hoạt động, nên thích nghi hơn với điều kiện chăm sóc,

nuôi dưỡng và các tác động bất lợi của ngoại cảnh.

Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cao nhất ở lứa tuổi 16-30 ngày tuổi. Đây cũng

là lứa tuổi bê nghé mắc bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum nhiều. Nhiều

tác giả cho biết, bê nghé nhiễm giun đũa phần lớn qua bào thai, do trâu bò mẹ có

thai nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh. Vì vậy, khi bê nghé sinh ra đã có

giun đũa ký sinh và bị phát bệnh rất sớm (sớm nhất là 14 ngày tuổi), tỷ lệ nhiễm

cao nhất và cường độ nhiễm nặng nhất ở 16-30 ngày tuổi (Trịnh Văn Thịnh,

1962 [36], Phạm Văn Khuê và cs, 1996 [12], Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999

[13], Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Đoàn Văn Phúc 2005 [18]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

Kết quả về tỷ lệ tiêu chảy cao nhất ở giai đoạn bê nghé 16-30 ngày tuổi

phải chăng có liên quan đến vai trò gây bệnh của giun đũa Neoascaris

vitulorum.

Theo nhận xét của Lê Minh Chí (1995) [5], sự tổn thất ở bê nghé non

chiếm tỷ lệ rất cao (70-80%), trong đó 80-90% là do hậu quả của tiêu chảy

gây ra.

Kết quả nghiên cứu trên cho phép chúng tôi có nhận xét chung rằng:

phải đặc biệt quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trâu bò mẹ và bê nghé ở giai

đoạn 16-30 ngày tuổi, ở giai đoạn này khả năng đáp ứng miễn dịch của bê

nghé với yếu tố bất lợi môi trường, các yếu tố gây bệnh là rất kém, bê nghé rất

dễ bị nhiễm bệnh đặc biệt là các bệnh về đường tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá và

gây tiêu chảy.

3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt

Kết quả xác định tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo tính biệt được chúng

tôi trình bày ở bảng 3.3.

Bảng 3.3: Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt

phƣơng lệ Tính biệt Địa (huyện, thị xã) Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con) Tỷ (%)

- Đực 153 29 18,95 Tuyên - Cái 144 28 19,44 TX Quang ∑ 297 57 19,19

- Đực 154 30 19,48

Yên Sơn - Cái 162 35 21,60

∑ 316 65 20,57

- Đực 137 36 26,27

Hàm Yên - Cái 156 34 21,79

∑ 293 70 23,89

- Đực 444 99 21,39 Tính chung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

- Cái 462 93 20,99

∑ 906 192 21,19

Bảng 3.3 cho thấy: kết quả theo dõi được lặp lại 3 lần ở 3 huyện, thị đều

không theo một quy luật nhất định nào: ở Thị xã Tuyên Quang, bê nghé cái tiêu

chảy nhiều hơn bê nghé đực (19,44% và 18,95%), huyện Yên Sơn tỷ lệ bê nghé

cái tiêu chảy là 21,60%, bê nghé đực là 19,48%, song ở huyện Hàm Yên thì bê

nghé đực lại tiêu chảy nhiều hơn bê nghé cái (tỷ lệ là 26,27% và 21,79%).

Tính chung cả 3 huyện, thị tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé đực và cái tương

đương nhau, (bê nghé đực tiêu chảy là 21,39%, bê nghé cái là 20,99%). Như

vậy, tỷ lệ bê nghé đực và cái tiêu chảy có sự khác nhau không rõ ràng.

Chúng tôi cho rằng, tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có liên quan đến

nhiều yếu tố, có thể do sự tác động của yếu tố khí hậu, thời tiết thay đổi đột

ngột, thức ăn kém phẩm chất, kéo theo sự xuất hiện và phát triển của các vi

khuẩn gây bệnh, làm rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, gây hiện tượng loạn

khuẩn và gây tiêu chảy; đặc biệt là tác động của các loại ký sinh trùng gây

bệnh đường tiêu hoá, trong đó giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò rất

quan trọng trong hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi (Phan Địch

Lân và cs, 2005) [18].

3.1.4. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ

Chúng tôi đã kiểm tra 906 bê nghé ở 4 mùa: xuân, hè, thu, đông để xác

định tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở mỗi mùa trong năm 2007. Kết quả được trình

bày ở bảng 3.4.

Bảng 3.4: Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo mùa vụ

Mùa vụ Tỷ lệ (%) Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con)

Xuân 261 61 23,37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

41 22,40 Hè 183

32 17,76 Thu 197

58 21,89 Đông 265

Tính chung 192 21,19 906

Bảng 3.4 cho thấy:

- Kiểm tra 261 bê nghé ở mùa xuân, số bê nghé tiêu chảy là 61 con, tỷ

lệ tiêu chảy là 23,37%.

- Ở mùa hè, kiểm tra 183 bê nghé dưới 3 tháng tuổi, có 41 bê nghé tiêu

chảy, chiếm tỷ lệ 22,4%.

- Trong mùa thu, kiểm tra 197 bê nghé, có 32 bê nghé tiêu chảy, chiếm

tỷ lệ 17,76%.

- Trong mùa đông, kiểm tra 265 bê nghé, có 58 bê nghé tiêu chảy,

chiếm tỷ lệ 21,89%.

* Tính chung, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy trong năm là 21,19%.

Như vậy, tỷ lệ bê nghé dưới 3 tháng tuổi bị tiêu chảy ở các mùa trong

năm khác nhau. Tỷ lệ tiêu chảy cao nhất là ở mùa xuân (23,37%) và mùa hè

(22,4%), thấp nhất là ở mùa thu (17,76%). Sở dĩ trong mùa xuân và mùa hè bê

nghé bị tiêu chảy nhiều hơn là do những nguyên nhân sau đây:

- Mùa xuân, mùa hè thời tiết ấm, ẩm, mưa nhiều. Thời tiết và khí hậu

như vậy thích hợp cho sự phát triển của cây trồng, nhưng không thuận lợi cho

sức khoẻ của con người và vật nuôi.

- Cũng do ấm, nóng, ẩm và mưa nhiều mà các vi sinh vật và ký sinh

trùng gây bệnh có điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển ở ngoại cảnh. Từ

đó xâm nhập vào cơ thể vật nuôi nói chung và bê nghé nói riêng để gây bệnh,

trong đó có các vi sinh vật và ký sinh trùng đường tiêu hoá gây tiêu chảy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

Ngược lại, vào mùa thu khí hậu ôn hoà, thời tiết hơi khô hanh. Điều

kiện khí hậu, thời tiết của mùa thu thích hợp hơn cho sức khoẻ của vật nuôi,

đồng thời cũng là điều kiện bất lợi hơn cho sự tồn tại và phát triển của các

loại mầm bệnh ở ngoại cảnh. Vì vậy, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở mùa thu là thấp

nhất trong năm.

Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn

Sửu (2005) [30], tỷ lệ tiêu chảy cao nhất trong mùa xuân ở bê là 23,61%, ở

nghé là 21,38%; mùa hè, tỷ lệ tiêu chảy ở bê là 21,99%, ở nghé là 19,07% và

tỷ lệ tiêu chảy thấp nhất là mùa thu, ở bê 15,48%, ở nghé 17,19%.

3.1.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình

Ba huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang có những khu vực bằng phẳng, có

những khu vực đồi núi nhiều và có ruộng nước xen kẽ. Địa hình cũng là yếu

tố liên quan đến đặc điểm dịch tễ của bệnh. Vì vậy, chúng tôi đã điều tra tình

hình tiêu chảy của bê nghé theo kiểu địa hình khác nhau. Kết quả về tỷ lệ bê

nghé tiêu chảy theo địa hình được trình bày ở bảng 3.5.

Bảng 3.5: Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình

Số bê nghé Số bê nghé kiểm Địa hình Tỷ lệ (%) tra (con) tiêu chảy (con)

Bằng phẳng 401 75 18,70

Đồi núi xen 505 117 23,17 ruộng nước

Tính chung 906 192 21,19

Bảng 3.5 cho thấy:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

Trong 401 bê nghé chăn thả ở những vùng có địa hình bằng phẳng, có

75 bê nghé tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 18,70%. Trong 505 bê nghé điều tra ở

những khu vực đồi núi xen ruộng nước, số bê nghé tiêu chảy là 117 con,

chiếm tỷ lệ 23,17%. Tính chung, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở cả 2 loại địa hình

là 21,19%.

So sánh tỷ lệ tiêu chảy giữa hai kiểu địa hình chúng tôi thấy tỷ lệ bê

nghé ở vùng đồi núi xen ruộng nước mắc tiêu chảy cao hơn rõ rệt so với vùng

bằng phẳng (P < 0,001). Chúng tôi cho rằng, ở những vùng đồi núi có xen kẽ

ruộng nước, bê nghé thường được thả rông theo mẹ đi ăn, nơi chăn thả trâu bò

mẹ có nhiều khu vực trũng ẩm thấp. Đây là môi trường ngoại cảnh thuận lợi

cho sự tồn tại và phát triển của vi sinh vật gây bệnh, trứng và ấu trùng giun

sán. Các loại mầm bệnh này có thể bám vào vú trâu, bò mẹ, khi bê nghé bú dễ

nuốt vào đường tiêu hoá, gây bệnh loạn khuẩn hoặc bệnh ký sinh trùng, từ đó

gây tiêu chảy cho bê nghé.

3.1.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé)

Ngoài các nội dung nghiên cứu về tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo lứa

tuổi, mùa vụ, địa hình, chúng tôi còn nghiên cứu về tình hình mắc tiêu chảy

theo loại gia súc (bê, nghé), để xác định giữa bê và nghé có sự khác nhau về

tỷ lệ mắc tiêu chảy hay không. Kết quả về tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc

được trình bày ở bảng 3.6.

Bảng 3.6: Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé)

Loại gia súc kiểm tra tiêu chảy Tỷ lệ (%) Số (con) Số (con)

308 Bê 69 22,40

598 Nghé 123 20,56

906 Tính chung 192 21,19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

Bảng 3.6 cho thấy:

Trong 308 bê kiểm tra, có 69 bê mắc tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 22,40%.

Kiểm tra 598 nghé, có 123 nghé tiêu chảy, tỷ lệ tiêu chảy là 20,56%. Như

vậy, tỷ lệ tiêu chảy giữa bê và nghé có sự khác nhau nhưng không rõ rệt (P <

0,05).

Theo chúng tôi, bê nghé theo dõi ở cùng độ tuổi (dưới 3 tháng), cấu tạo

của bộ máy tiêu hoá, sự phát triển của hệ thần kinh và hệ thống miễn dịch

tương tự nhau. Vì vậy khả năng cảm nhiễm bệnh là khác nhau không rõ rệt.

Như chúng tôi đã phân tích, công tác quản lý chăm sóc, dinh dưỡng không hợp

lý của người chăn nuôi, điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột có thể làm cho cơ

thể bê nghé luôn phải có các đáp ứng điều chỉnh với điều kiện ngoại cảnh thay

đổi, làm sức đề kháng giảm sút và tăng khả năng mắc bệnh của bê nghé.

Ngoài ra, vai trò của các vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu

hoá là những nguyên nhân cơ bản gây tiêu chảy cho bê và nghé ở giai đoạn bú

sữa. Đối với bê và nghé, khả năng các loại mầm bệnh xâm nhập, gây hội

chứng tiêu chảy không khác nhau.

Theo Nguyễn Văn Sửu (2005) [30], tỷ lệ tiêu chảy giữa bê và nghé có

sự chênh lệnh không lớn (bê là 20,67%; nghé là 19,22%). Kết quả nghiên cứu

của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Sửu (2005).

3.1.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu, bò mẹ

Hiện nay ở Tuyên Quang, chăn nuôi trâu bò ở nông hộ đang tồn tại chủ

yếu ở 2 hình thức: chăn nuôi hoàn toàn dựa vào thức ăn sẵn có trong tự nhiên

và chăn nuôi bán chăn thả có bổ sung thêm thức ăn. Để xác định phương thức

chăn nuôi có ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé không, chúng tôi đã

điều tra tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ. Kết

quả được trình bày ở bảng 3.7.

Bảng 3.7: Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu bò mẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

Số bê, nghé Tỷ lệ (%) Phƣơng thức nuôi trâu, bò mẹ Số bê, nghé kiểm tra (con) tiêu chảy (con)

Chăn thả hoàn toàn 390 91 23,33 dựa vào tự nhiên

Nuôi bán chăn thả 101 19,57 516 có bổ sung thức ăn

192 21,19 Tính chung 906

Bảng 3.7 cho thấy:

Kiểm tra 390 bê, nghé nuôi theo phương thức chăn thả hoàn toàn dựa

vào tự nhiên, có 91 bê nghé bị tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 23,33%. Trong 516 bê,

nghé nuôi theo phương thức nuôi bán chăn thả có bổ sung thức ăn có 101 bê

nghé tiêu chảy, tỷ lệ tiêu chảy là 19,57%.

Như vậy, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phương thức chăn thả trâu, bò mẹ

hoàn toàn dựa vào tự nhiên cao hơn rõ rệt so với nuôi trâu, bò theo phương

thức bán chăn thả có bổ sung thêm thức ăn.

Chúng tôi đã tìm hiểu và thấy: tập quán chăn nuôi trâu, bò chủ yếu của

nhiều người dân miền núi là chăn thả hoàn toàn dựa vào thức ăn sẵn có trong

tự nhiên, việc chăm sóc quản lý và vệ sinh kém, chất lượng thức ăn nước

uống cho trâu, bò mẹ không đảm bảo. Điều kiện chăn nuôi như vậy làm cho

trâu, bò mẹ nhiều khi không đủ thức ăn, nước uống sạch, từ đó bê nghé không

đủ sữa bú, sức đề kháng giảm và dễ mắc bệnh.

Môi trường bên ngoài là nơi tồn tại rất nhiều mầm bệnh, đặc biệt là các

vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu hoá. Sự xâm nhập của các mầm

bệnh qua đường tiêu hoá có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

thành bệnh. Mầm bệnh nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể và gây bệnh,

làm cho bê nghé bị tiêu chảy.

Có thể cho rằng, đây chính là những nguyên nhân giải thích một cách

tương đối, phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ có ảnh hưởng đến tỷ lệ bê, nghé

tiêu chảy.

Từ kết quả trên chúng tôi thấy, người chăn nuôi trâu bò sinh sản hiện

nay, ngoài việc tận dụng thức ăn sẵn có ở tự nhiên nên bổ sung thêm thức ăn

cho trâu bò mẹ, để có đủ sữa cho bê nghé bú, góp phần tăng cường sức đề

kháng, kết hợp nuôi thả với một phần nuôi nhốt tại chuồng để giảm thời gian

trâu, bò mẹ và bê, nghé tiếp xúc với các loại mầm bệnh ở trên bãi chăn thả, từ

đó hạn chế được bệnh cho bê nghé.

3.2. VAI TRÒ CỦA GIUN ĐŨA NEOASCARIS VITULORUM TRONG

HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY CỦA BÊ NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI

3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu

chảy và bê nghé bình thƣờng

Bằng phương pháp Fulleborn, chúng tôi đã xác định được tỷ lệ nhiễm

giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thường. Kết quả được trình bày

ở bảng 3.8.

Bảng 3.8: Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum

ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng

Số bê nghé Số bê nghé Tỷ lệ Trạng thái phân kiểm tra (con) nhiễm (con) nhiễm (%)

1. TX Tuyên 297 78 26,26

Quang

- Bình thường 240 52 21,67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

- Tiêu chảy 57 26 45,61

2. Yên Sơn 316 108 34,18

- Bình thường 251 76 30,38

- Tiêu chảy 65 32 49,23

3. Hàm Yên 293 112 38,23

- Bình thường 223 71 31,84

- Tiêu chảy 70 41 58,57

Tính chung 906 298 32,89

- Bình thường 714 199 27,87

- Tiêu chảy 192 99 51,56

Bảng 3.8 cho thấy: trong tổng số bê nghé kiểm tra là 906 con, có 298

bê nghé nhiễm giun đũa. Trong 714 bê nghé có trạng thái phân bình thường,

có 199 con nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum, tỷ lệ nhiễm là 27,87%. Xét

nghiệm phân ở trạng thái lỏng của 192 bê nghé, có 99 con nhiễm giun đũa,

chiếm tỷ lệ 51,56%.

Trong đó, thị xã Tuyên Quang kiểm tra phân 240 bê nghé có trạng thái

phân bình thường, có 52 bê nghé nhiễm, chiếm tỷ lệ 21,67%, còn ở trạng thái

phân lỏng có 26/57 bê nghé nhiễm, chiếm tỷ lệ 45,61%. Tính chung, tỷ lệ

nhiễm giun đũa của thị xã Tuyên Quang là 26,26%.

Huyện Yên Sơn: kiểm tra 316 bê nghé, có 108 bê nghé nhiễm giun đũa,

tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa trung bình là 34,18%. Trong đó, kiểm tra 251 bê

nghé có trạng thái phân bình thường, có 76 bê nghé nhiễm, chiếm tỷ lệ

30,38%; trong 65 bê nghé phân lỏng có 32 bê nghé nhiễm giun đũa, tỷ lệ

nhiễm là 49,23%.

Huyện Hàm Yên: kiểm tra 293 bê nghé, có 112 bê nghé nhiễm giun

đũa, tỷ lệ nhiễm bình quân là 38,23%. Số bê nghé có trạng thái phân bình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

thường nhiễm giun đũa là 31,84%; số bê nghé có trạng thái phân lỏng nhiễm

giun đũa là 58,57%.

Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giun đũa của bê nghé có 2 trạng thái phân

khác nhau là rõ rệt. Sự khác nhau này được lặp lại ở cả 3 huyện, thị và có ý

nghĩa thống kê (P < 0,001).

Kết quả trên chứng tỏ rằng, giun đũa Neoascaris vitulorum ký sinh

trong ruột non của bê nghé là một nguyên nhân gây tiêu chảy cho bê nghé ở

Tuyên Quang. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], giun đũa ký sinh

ở trong ruột non của bê nghé, dùng các lá môi bám vào niêm mạc ruột non,

làm tổn thương niêm mạc, dẫn đến viêm cata. Giun còn tiết độc tố làm cho bê

nghé bị trúng độc, nhu động ruột tăng, gây ỉa chảy.

Trong 192 bê nghé tiêu chảy, có tới 99 bê nghé nhiễm giun đũa

Neoascaris vitulorum, chiếm tỷ lệ 51,56%. Điều này cho phép chúng tôi nhận

xét, giun đũa Neoascaris vitulorum là một nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê

nghé dưới 3 tháng tuổi.

Tuy nhiên, giun đũa Neoascaris vitulorum ký sinh chỉ gây tiêu chảy cho

bê nghé khi bê nghé nhiễm nặng. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Nguyễn

Thị Kim Lan và cs (1999), nếu số lượng giun đũa ký sinh ít thì bê nghé chỉ

được gọi là con vật mang giun đũa, không có triệu chứng lâm sàng biểu hiện.

Vì vậy, để xác định rõ hơn vai trò gây tiêu chảy của giun đũa Neoascaris

vitulorum, chúng tôi đã xác định cường độ nhiễm giun đũa ở bê nghé.

3.2.2. Cƣờng độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé

tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng

Để đánh giá cường độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum của bê nghé phân bình thường và tiêu chảy, chúng tôi tiến hành đếm số trứng/gam phân bằng buồng đếm Mc. Master. Kết quả được trình bày ở bảng 3.9.

Bảng 3.9: Cƣờng độ nhiễm giun đũa ở bê nghé

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng

Cƣờng độ nhiễm

Nặng Nhẹ thái Trung bình Trạng phân Số bê nghé nhiễm (con)

n % n % n %

78 47 60,26 19 12

52 1. TX Tuyên Quang - Bình thường 41 78,85 11 0 15,3 8 0,00

26 - Tiêu chảy 6 23,08 8 12

2. Yên Sơn 108 62 57,41 29 17

76 - Bình thường 57 75,00 19 0 46,1 5 15,7 4 0,00

32 - Tiêu chảy 5 15,63 10 17

3. Hàm Yên 112 53 47,32 36 23

71 - Bình thường 50 70,42 21 0 53,1 3 20,5 3 0,00

41 - Tiêu chảy 3 7,32 15 23

Tính chung 298 162 54,36 84 52

- Bình thường 199 148 74,37 51 0 56,1 0 17,4 5 0,00

- Tiêu chảy 99 14 14,14 33 52

24,3 6 21,1 5 30,7 7 26,8 5 25,0 0 31,2 5 32,1 4 29,5 7 36,5 9 28,1 9 25,6 3 33,3 3 52,5 3

Bảng 3.9 cho thấy:

Trong tổng số 906 bê nghé kiểm tra, có 298 bê nghé nhiễm giun đũa,

chiếm tỷ lệ 32,89%, trong đó, tỷ lệ bê nghé nhiễm ở cường độ nhẹ là 54,36%,

bê nghé nhiễm ở cường độ trung bình 28,19% và 17,45% bê nghé nhiễm ở

cường độ nặng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

Chúng tôi thấy, cường độ nhiễm giun đũa ở từng trạng thái phân là

khác nhau: bê nghé phân bình thường chỉ nhiễm ở cường độ nhẹ và trung

bình, không có bê nghé nhiễm ở cường độ nặng; ở những bê nghé tiêu chảy

cường độ nhiễm nặng chiếm ưu thế. Cụ thể như sau:

- Bê nghé có phân bình thường chỉ nhiễm giun đũa cường độ nhẹ và

trung bình, không có bê nghé nào nhiễm ở cường độ nặng (cường độ nhẹ

chiếm tỷ lệ 74,37%, cường độ trung bình chiếm tỷ lệ 25,63%).

- Bê nghé bị tiêu chảy nhiễm giun đũa ở cường độ từ nhẹ đến nặng;

trong đó nhiễm ở cường độ nhẹ là 14,14%, ở cường độ trung bình là 33,33%,

52/99 bê nghé nhiễm ở cường độ nặng, chiếm tỷ lệ 52,53%.

Như vậy, bê nghé bị tiêu chảy có cường độ nhiễm giun đũa nặng hơn

rất nhiều so với bê nghé phân bình thường (P < 0,001).

Mặc dù có nhiều nguyên nhân làm cho bê, nghé tiêu chảy (do vi khuẩn,

do vệ sinh thú y kém, do thời tiết thay đổi đột ngột…), nhưng trong 192 bê

nghé tiêu chảy, có tới 52,53% bị nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở

cường độ nặng (số trứng giun đũa trong 1 gam phân đếm được đều trên 1000

trứng). Điều này cho phép chúng tôi nhận xét, bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở 3

huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang bị tiêu chảy do nguyên nhân chính là giun

đũa chiếm tới trên 50% số bê nghé nhiễm giun đũa. Nếu tính trong tổng số bê

nghé tiêu chảy, tỷ lệ này chiếm 27%. Ngoài ra, còn gần 25% số bê nghé tiêu

chảy do nguyên nhân khác song vẫn có sự kết hợp của giun đũa Neoascaris

vitulorum (đó là những bê nghé tiêu chảy và phân có trứng giun đũa được xác

định là nhiễm nhẹ và trung bình)

Đây là những con số có ý nghĩa, phản ánh vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi, đồng thời là cơ sở để chúng tôi khuyến cáo người chăn nuôi trâu bò sinh sản thực hiện các biện pháp kỹ thuật phòng trị tiêu chảy cho bê nghé, trong đó có các biện pháp phòng trị giun đũa Neoascaris vitulorum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

ảnh 1: Nghé bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân

ảnh 2: Bê bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

Ảnh 3: Lấy mẫu phân nghé tiêu chảy (phân màu trắng, lỏng)

Ảnh 4: Mẫu phân bê nghé tiêu chảy và bình thường thu thập để xét nghiệm

tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

Ảnh 5: Xét nghiệm phân bê nghé tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

3.3. NGHIÊN CỨU SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRỨNG GIUN

ĐŨA NEOASCARIS VITULORUM Ở NGOẠI CẢNH

3.3.1. Xác định sự lƣu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh

Để xác định sự lƣu hành trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở

ngoại cảnh, chúng tôi đã thu thập 921 mẫu cặn nền chuồng trâu bò, bê

nghé, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu đất bề mặt bãi chăn

thả, xét nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Kết quả đƣợc

trình bày bảng 3.10.

Bảng 3.10 cho thấy:

Xét nghiệm ba loại mẫu đều thấy có trứng Neoascaris vitulorum.

Trong đó, tỷ lệ mẫu cặn nền chuồng nhiễm trứng giun đũa là 19,86%,

mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng nuôi nhiễm trứng giun đũa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

18,24% và các mẫu đất bề mặt bãi chăn thả nhiễm 7,81%. Cụ thể nhƣ

sau:

- Thị xã Tuyên Quang, tỷ lệ nhiễm trứng giun ở mẫu cặn nền

chuồng 16,32%, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng là 15,30% và mẫu

đất bề mặt bãi chăn thả là 5,10%.

Bảng 3.10: Sự lưu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở nền chuồng, khu

vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả

Cặn nền chuồng

Đất bề mặt xung quanh chuồng Địa điểm Đất bề mặt bãi chăn thả

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số mẫu kiểm tra Số mẫu nhiễ m Số mẫu kiểm tra Số mẫu nhiễ m Số mẫu nhiễ m Số mẫu kỉể m tra

98 16 98 15 98 5 5,10

TX. T.Quang 16,3 2 15,3 0

Yên Sơn 107 21 107 19 107 8 7,47

19,6 2 17,7 5

Hàm Yên 102 24 102 22 102 11

10,7 8 23,5 2 21,5 8

Tính chung 307 61 307 56 307 24 7,81

19,8 6 18,2 4

- Huyện Yên Sơn, có 19,62% mẫu cặn nền chuồng nhiễm trứng

giun, 17,75% mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng nhiễm và 7,47% mẫu

đất bề mặt bãi chăn thả nhiễm trứng giun đũa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

- Huyện Hàm Yên có tỷ lệ mẫu ở các vị trí nhiễm trứng giun đũa

cao hơn cả (mẫu cặn nền chuồng 23,52%, mẫu đất bề mặt xung quanh

chuồng 21,58% và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả 10,78%).

Trong 3 loại mẫu, tỷ lệ mẫu cặn nền chuồng và mẫu đất bề mặt

xung quanh chuồng có trứng giun đũa Neoascaris vitulorum cao (19,86%

và 18,24%), tỷ lệ mẫu đất bề mặt bãi chăn thả có trứng giun thấp

(7,81%). Tuy nhiên, trứng giun đũa ở bãi chăn thả là nguồn trứng dễ

nhiễm vào trâu bò mẹ. Khi ăn cỏ trâu bò mẹ có thể nuốt trứng giun đũa

vào đƣờng tiêu hoá, trứng giun đũa nở thành ấu trùng tồn tại ở gan của

trâu bò mẹ. Khi trâu bò mẹ có thai, ấu trùng dời khỏi gan, qua nhau thai

vào bào thai, dẫn đến bê nghé sau khi đẻ ra đã bị nhiễm giun đũa.

Theo nhận xét của Akyol (1993) [40], bê nghé dƣới 3 tháng tuổi bị nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum rất phổ biến và đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun và là nguồn gây nhiễm bệnh quan trọng cho bê nghé.

Thực tế cho thấy, trứng giun Neoascaris vitulorum theo phân bê

nghé phát tán nhiều ở ngoại cảnh, trứng giun ở giai đoạn cảm nhiễm có sức

đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt là trong điều kiện ẩm ƣớt,

nhiệt độ không khí thấp, trứng giun có thể tồn tại hàng tháng ở ngoại cảnh.

Từ kết quả nghiên cứu trên chúng tôi cho rằng, trong chăn nuôi

phải thƣờng xuyên chú ý đến khâu vệ sinh chuồng trại, thu gom phân

rác, chất thải để ủ, khử trùng tiêu độc môi trƣờng chăn nuôi và khu vực

xung quanh chuồng. Việc vệ sinh, thu gom phân để ủ phải đƣợc thực hiện

ở cả 3 khu vực: ở nền chuồng, ở xung quanh chuồng và bãi chăn thả.

Công việc này phải thực hiện thƣờng xuyên mới có ý nghĩa, trứng giun

đũa sẽ không có điều kiện phát tán từ chuồng trại ra các khu vực khác

nhau, phát triển và gây bệnh cho bê nghé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

Ảnh 6: Mẫu cặn nền chuồng, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng

và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả thu thập về xét

nghiệm tìm trứng giun Neoascaris vitulorum

3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh.

Để xác định thời gian trứng giun đũa Neoascaris vitulorum phát

triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh, chúng tôi bố trí 3 đợt thí

nghiệm:

- Đợt thí nghiệm I: theo dõi 20 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, nhiệt độ không khí 28-32oC và ẩm độ 72,5-80%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng

giun.

- Đợt thí nghiệm II: theo dõi 20 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, ở nhiệt độ không khí 26-30oC, ẩm độ 55-67%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng

giun.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

- Đợt thí nghiệm III: theo dõi 10 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, ở nhiệt độ không khí 13-20oC, ẩm độ 43-52%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng

giun.

Kết quả theo dõi sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris

vitulorum thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh đƣợc trình bày ở

bảng 3.11.

Bảng 3.11: Thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển

thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

thí ( Đợt nghiệm Nhiệt độ (oC) và độ ẩm không khí (%) Số mẫu theo dõi Số lần xét nghiệm (lần) Thời gian phát triển thành trứng có sức ) gây bệnh (ngày)

I 20 258 12,93 ± 0,31 (10 ÷ 15 ngày)

20 420 II 21,03 ± 0,57 (18 ÷ 25 ngày)

III 10 369 36,90 ± 0,79 (33 ÷ 40 ngày)

- to không khí = 28-32oC - Ao không khí = 72,5- 80% - to không khí = 26- 30oC - Ao không khí = 55- 67% - to không khí = 13- 20oC - Ao không khí = 43 - 52%

Kết quả bảng 3.11 cho thấy:

- Đợt thí nghiệm I: theo dõi 20 mẫu phân có nhiều trứng giun đũa hàng ngày, qua 258 lần xét nghiệm, thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum đã phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh sớm nhất là 10 ngày, muộn nhất là 15 ngày và bình quân là 12,93 ± 0,31 ngày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

- Đợt thí nghiệm II: theo dõi 20 mẫu phân có nhiều trứng giun đũa hàng ngày, với 420 lần xét nghiệm, trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển hoàn toàn thành trứng có khả năng gây bệnh sau 21,03 ± 0,57 ngày (thời gian phát triển sớm nhất là sau 18 ngày và muộn nhất là 25 ngày).

- Đợt thí nghiệm III: theo dõi 10 mẫu có nhiều trứng giun đũa, chúng tôi đã xét nghiệm 369 lần, trứng giun đũa Neoascaris vitulorum phát triển hoàn toàn thành trứng có khả năng gây bệnh thời gian sớm nhất là 33 ngày, muộn nhất là 40 ngày và bình quân sau 36,90 ± 0,79 ngày.

Trong quá trình theo dõi thí nghiệm, chúng tôi thấy sự thay đổi rõ rệt về cấu tạo của trứng giun Neoascaris vitulorum: khi mới theo phân ra ngoài trứng giun hình hơi tròn, màu vàng nâu, phôi bào xếp kín bên trong vỏ. Sau vài ngày phôi bào bắt đầu phân chia, các khối nguyên sinh chất dần co nhỏ lại. Cuối cùng ấu trùng đƣợc hình thành đầy đủ trong trứng với thời gian nhƣ đã trình bày ở trên. Quá trình phân chia và phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm đƣợc hoàn thành ở thời gian khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhƣ: điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí. Điều kiện tự nhiên (nhiệt độ và ẩm độ không khí) khác nhau ảnh hƣởng rõ rệt đến sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh.

Như vậy, khi theo phân ra ngoài, trứng giun Neoascaris vitulorum có

khả năng phát triển thành trứng có sức gây bệnh trong điều kiện tự nhiên khác nhau. Phân để tự nhiên, ở nhiệt độ 28-32oC trứng phát triển thành trứng có

sức gây bệnh nhanh hơn (12,93 ngày); còn trong điều kiện nhiệt độ không khí thấp (13-20oC), độ ẩm từ 43-52% không làm ngừng sự phát triển mà ngược

lại trứng vẫn phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh sau 36,9 ngày theo

dõi.

Kết quả theo dõi về sự phát triển trứng giun Neoascaris vitulorum thành trứng có khả năng gây bệnh ở ngoại cảnh của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Dƣơng Công Thuận (1978): ở điều kiện nhiệt độ trong phòng khoảng 15-22oC trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

sau 20 ngày. Ở nhiệt độ 15-17oC thì phải sau 38 ngày mới phát triển thành trứng có sức gây bệnh.

Ảnh 7: Trứng giun đũa Neoascaris vitulorum mới thải ra ngoài (x 200)

Ảnh 8: Phôi bào phân chia ngày thứ 8 (x 200)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

Ảnh 9: Phôi bào phân chia và co lại ở ngày thứ 10 (x 200)

Ảnh 10: Ấu trùng hình thành trong trứng ở ngày thứ 12 (x 300)

3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở

ngoại cảnh

Sau khi theo dõi sự phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum đến

giai đoạn cảm nhiễm, chúng tôi tiếp tục theo dõi khả năng tồn tại trứng giun

đũa có sức gây bệnh ở ngoại cảnh của 3 đợt thí nghiệm. Cứ 5 ngày một lần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

chúng tôi lấy mẫu xét nghiệm, kiểm tra khả năng tồn tại của trứng. Kết quả

theo dõi được trình bày ở bảng 3.12.

Bảng 3.12. Thời gian tồn tại của trứng Neoascaris vitulorum

có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

Đợt thí nghiệm Nhiệt độ (oC) và độ ẩm không khí (%) Số mẫu theo dõi Số lần xét nghiệm (lần) Thời gian tồn ) ( tại (ngày)

I 13,75 ± 0,51 20 56 (10 ÷ 15 ngày) - to không khí = 29 - 35oC - Ao không khí = 73,5- 78,8%

II 19,75 ± 0,95 20 79 (17 ÷ 25 ngày) - to không khí = 25 - 30oC - Ao không khí = 56 - 65%

30,50 ± 1,23 III 10 61 (27 ÷ 34 ngày) - to không khí = 14,5 - 21oC - Ao không khí = 45 - 63%

Bảng 3.12 cho thấy:

- Đợt thí nghiệm I: trứng giun có khả năng gây bệnh trong 20 mẫu phân để tự nhiên trong phòng thí nghiệm, ở nhiệt độ 29-35oC, ẩm độ 73,5-78,8%,

qua 56 lần xét nghiệm, trứng giun có khả năng gây bệnh bị vỡ, ấu trùng trong

trứng bị phân huỷ hoàn toàn sau thời gian 13,75 ± 0,51 ngày (thời gian trứng

bị phân huỷ sớm nhất là sau 10 ngày và muộn nhất là 15 ngày).

- Đợt thí nghiệm II: so với trứng giun có khả năng gây bệnh trong 20 mẫu phân ở đợt thí nghiệm I, trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn (25-30oC), ẩm

độ 56-65%, thời gian sống của trứng ở đợt thí nghiệm II trung bình 19,75 ±

0,95 ngày (sớm nhất sau 17 ngày và muộn nhất là 25 ngày) mới bị huỷ hoàn

toàn, với 79 lần xét nghiệm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

- Đợt thí nghiệm III: Trứng có ấu trùng bên trong tồn tại khá lâu, trong điều kiện nhiệt độ từ 14,5-21oC và ẩm độ từ 45-63%, sau 61 lần xét nghiệm,

đến ngày thứ 30,5 ± 1,23 ngày, sớm nhất là sau 27 ngày và muộn nhất sau 34

ngày, trứng mới bị nứt vỡ và hỏng hoàn toàn.

Chúng tôi đã quan sát thấy sự biến đổi bên trong của trứng giun

Neoascaris vitulorum như sau: lớp vỏ trứng mỏng dần, méo mó, biến dạng,

nứt vỡ, ấu trùng bị phân huỷ.

Kết quả thí nghiệm trên cho thấy: nhiệt độ và ẩm độ không khí có ảnh

hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của trứng giun đũa có sức gây bệnh. Trong cả 3

đợt thí nghiệm, các mẫu phân đều để ở điều kiện tự nhiên trong phòng, trứng

giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh chỉ sống được 13,75 ngày ở nhiệt độ 29-35oC (tương ứng với điều kiện nóng bức của mùa hè), còn ở nhiệt độ từ 14,5-21oC (tương ứng với điều kiện giá lạnh của mùa đông) trứng giun

sống hàng tháng mới bị chết hoàn toàn.

Mùa Đông là thời gian nhiệt độ và ẩm độ không khí tương ứng với đợt

thí nghiệm 3. Đây cũng là thời gian bê nghé được sinh ra nhiều nhất trong

năm. Nếu trong thời gian này trứng giun đũa có sức gây bệnh tồn tại hàng

tháng trên đồng cỏ, bãi chăn thả thì sẽ có nguy cơ nhiễm vào trâu bò, mẹ rồi

truyền sang bào thai hoặc bê nghé sơ sinh trực tiếp nuốt phải trứng giun đũa

có sức gây bệnh, do đó bê nghé bị nhiễm giun đũa nhiều.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Đỗ Dương

Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978) [32]: trứng ở giai đoạn cảm nhiễm chứa ấu

trùng có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh, tuy nhiên sự khô hạn và

sức nóng làm cho trứng không phát triển được và bị phân huỷ hoàn toàn; dưới

ánh nắng trực tiếp của mùa hè sau một tuần trứng bị huỷ; vào vụ đông xuân

nếu để khô, trứng vẫn sống bình thường sau một tháng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 3.10 và 3.11, chúng tôi thấy rằng, việc

đảm bảo chuồng nuôi luôn khô ráo, sạch sẽ là rất quan trọng, định kỳ vệ sinh

chuồng trại xung quanh và bãi chăn thả, thu gom phân rác ủ để tiêu diệt mầm

bệnh, hạn chế tối đa sự lây nhiễm trứng giun ở ngoại cảnh cho trâu, bò mẹ và

bê nghé. Từ đó hạn chế những thiệt hại do bệnh giun đũa gây ra cho bê nghé

dưới 3 tháng tuổi.

Ảnh 11: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngày thứ

27 (một số trứng đã bị hƣ hỏng) (x 300)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

Ảnh 12: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh đang chuyển

sang hƣ hỏng ở ngày thứ 30 (x 300)

Ảnh 13: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh

ở ngoại cảnh bị hỏng hoàn toàn ở ngày thứ 34 (x 300)

3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm trực tiếp do nuốt trứng giun đũa

có sức gây bệnh khi bú mẹ

Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun đũa có sức

gây bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa được thể hiện

qua bảng 3.13.

Bảng 3.13 cho thấy: trong 906 trâu, bò mẹ kiểm tra có 39 con mang

trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú,

chiếm tỷ lệ 4,30%. Số trứng giun chúng tôi tìm thấy được trên bầu vú và núm

vú trâu, bò mẹ bình quân là 1,85 ± 0,11 trứng/vi trường kính hiển vi.

Trong đó: thị xã Tuyên Quang có tỷ lệ trâu bò mẹ mang trứng giun có

sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú là 2,35%. Huyện Yên Sơn tỷ lệ này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

chiếm 4,11% và huyện Hàm Yên có tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun là

6,48%.

Bảng 3.13: Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng Neoascaris vitulorum có sức

gây bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa

Địa phƣơng Số trứng giun/ vi trƣờng ( Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) ) Số bê nghé nhiễm (con) Số bê nghé kiểm tra (con) Số trâu bò mẹ kiểm tra (con) Số trâu bò mẹ mang trứng giun (con)

2,35 1,86±0,28 297 78 26,26 297 7

Thị xã Tuyên Quang - Nông Tiến 142 4 2,96 142 38 26,76

- Ỷ La - Hưng Thành Yên Sơn - An Tường - Phú Lâm - Thái Bình Hàm Yên - Đức Ninh - Thái Sơn - Thái Hoà Tính chung 95 60 316 104 97 115 293 120 101 72 906 1 2 13 6 4 3 19 9 4 6 39 1,05 3,33 4,11 5,76 4,12 2,60 6,48 7,50 3,96 8,33 4,30 2,00 ±0,47 2,00 95 1,50±0,70 60 2,00±0,20 316 2,17±0,34 104 2,00±0,47 97 1,67±0,40 115 1,74±0,15 293 1,89±0,28 120 1,50±0,33 101 1,67±0,23 72 1,85±0,11 906 24 16 108 36 29 43 112 48 35 29 298 25,26 26,67 34,18 34,61 29,89 37,39 38,23 40,00 34,65 40,27 32,89

Như vậy, huyện Hàm Yên là địa phương có tỷ lệ trâu bò mẹ mang

trứng giun có sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú cao nhất 6,48% và số trứng

tìm thấy bình quân là 1,74 trứng/vi trường kính hiển vi.

Qua điều tra thực trạng chăn nuôi trâu bò sinh sản, chúng tôi thấy:

những trâu, bò mẹ mang trứng trên bầu vú và núm vú này đều là những trâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

bò được chăn nuôi ở các hộ gia đình thực hiện công tác vệ sinh kém, chuồng

trại ẩm thấp, lầy lội. Đồng thời, lại được chăn dắt ở những bãi chăn ô nhiễm

trứng giun đũa Neoascaris vitulorum.

Ngoài con đường lây nhiễm qua bào thai, thì bê nghé non còn bị

nhiễm giun đũa trong khi bú sữa mẹ, do trong khi chăn dắt hoặc khi nằm

xuống nền chuồng hoặc trên đất, trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có

sức gây bệnh bám vào bầu vú, núm vú của trâu bò mẹ. Vì vậy, khi bê nghé sơ

sinh bú sữa mẹ dễ nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh và bị bệnh.

Kết quả ở bảng 3.13 còn cho thấy: tỷ lệ bê nghé ở thị xã Tuyên Quang

nhiễm giun đũa là 26,26%, ở huyện Yên Sơn là 34,18%, ở huyện Hàm Yên là

38,23%. Như vậy, tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum tỷ lệ

thuận với tỷ lệ trâu bò mẹ mang trứng giun đũa trên bầu vú và núm vú. Điều

này bước đầu cho phép chúng tôi có nhận xét rằng, tình trạng trâu bò mẹ có

bầu vú và núm vú bẩn dễ nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức

gây bệnh, điều này là một trong những nguy cơ làm cho bê nghé nhiễm giun

đũa và mắc bệnh.

Vì vậy, trong chăn nuôi trâu bò sinh sản, ngoài vấn đề vệ sinh thú y đối

với chuồng trại, bãi chăn, thì vấn đề rửa và lau sạch bầu vú, núm vú cho trâu

bò mẹ hàng ngày là cần thiết, nhằm loại bỏ trứng giun đũa để tránh trứng giun

đũa nhiễm vào cơ thể bê nghé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

Ảnh 14: Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu,

bò mẹ để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

3.4. SỬ DỤNG MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ TIÊU CHẢY CHO BÊ,

NGHÉ

Để điều trị tiêu chảy đạt hiệu quả cao, một trong những yêu cầu quan

trọng là xác định được nguyên nhân gây tiêu chảy. Trên cơ sở nghiên cứu tìm

ra các nguyên nhân gây tiêu chảy cho bê nghé, từ đó lựa chọn những loại

thuốc điều trị cho phù hợp.

Chúng tôi sử dụng 3 phác đồ để điều trị cho 99 bê nghé tiêu chảy và

nhiễm giun đũa. Trong các phác đồ điều trị tiêu chảy, chúng tôi sử dụng các

loại thuốc tẩy giun đũa, kết hợp với thuốc điện giải và vitamin C để cung cấp

chất điện giải, tăng cường sức đề kháng cho con vật. Kết quả điều trị tiêu chảy

cho bê nghé được trình bày ở bảng 3.14.

Bảng 3.14: Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé

Loại thuốc điều trị tiêu chảy Cách dùng và liều lƣợng Thời gian điều trị Tỷ lệ khỏi (%) Phác đồ điều trị Số con điều trị (con) Số khỏi tiêu chảy (con)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

bắp

Levasol 7,5% 1 lần thể

Tiêm 1ml/10kgTT (7,5mg/kg trọng)

Thuốc điện giải 39 27 69,23 Pha với nước cho uống Phác đồ 1 2-4 lần/ngày Trong 5 ngày

bắp

Vitamin C 5% 5 thể 1 lần/ngày trong ngày

uống 1 lần Mebendazol 10% Tiêm 10ml/25kg TT (20mg/kg trọng) Cho 200mg/kg TT

Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 32 17 53,12 Phác đồ 2

bắp

Vitamin C 5% 5 thể 2-4 lần/ngày Trong 5 ngày 1 lần/ngày trong ngày

bắp

1 lần Hanmectin 0,25% thể

Tiêm 10ml/25kg TT (20mg/kg trọng) Tiêm 1ml/10kg TT (0,25mg/kg trọng)

28 18 64,28 Pha với nước cho Thuốc điện giải uống 5 Phác đồ 3

bắp

Vitamin C 5% thể 5

Tiêm 10ml/25kg TT (20mg/kg trọng) 2-4 lần/ngày trong ngày 1 lần/ngày trong ngày

3 phác đồ 99 62 62,63

Bảng 3.14 cho thấy:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

Ở trong phác đồ điều trị 1, có 27/39 bê nghé khỏi tiêu chảy, chiếm tỷ lệ

69,23%. Ở phác đồ 2, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 17/32 con, đạt tỷ lệ

53,12%. Phác đồ 3, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 18/28%, đạt tỷ lệ 64,28%.

Ba phác đồ điều trị cho kết quả bê nghé khỏi tiêu chảy khác nhau. Tỷ lệ

khỏi tiêu chảy ở phác đồ 1 cao nhất (69,23%), ở phác đồ 2 là 53,12% và ở

phác đồ 3 là 64,28%, tỷ lệ khỏi tiêu chảy chung là 62,63%.

- Trong 99 bê nghé được điều trị là những bê nghé vừa tiêu chảy, vừa

nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum với cường độ từ nhẹ đến nặng (trong đó

14,14% nhiễm nhẹ; 33,33% nhiễm ở cường độ trung bình và 52,53% nhiễm ở

cường độ nặng).

- Số bê nghé nhiễm nhẹ và nhiễm ở mức độ trung bình, ngoài tác động

của giun đũa, còn có thể do các nguyên nhân khác (không nằm trong phạm vi

xác định của đề tài).

Như vậy, có thể thấy rằng, trong 99 bê nghé tiêu chảy này, chỉ có

62,63% bị tiêu chảy do nguyên nhân chính là giun đũa Neoascaris vitulorum.

Vì vậy, sau khi điều trị, trong 99 con vẫn còn 37 con chưa khỏi tiêu

chảy. Để đánh giá hiệu lực tẩy giun đũa cho bê nghé của 3 phác đồ điều trị

trên, chúng tôi đã kiểm tra phân của những bê nghé được dùng thuốc. Kết quả

được trình bày ở bảng 3.15.

Bảng 3.15 cho thấy:

Ở phác đồ 1, điều trị cho 39 bê nghé nhiễm giun đũa ở cường độ từ +

 +++, sau khi dùng thuốc 10 ngày, chúng tôi kiểm tra phân thấy cả 39/39 bê

nghé điều trị đều sạch trứng giun đũa (đạt tỷ lệ 100%). Ở phác đồ 2, sau khi

dùng thuốc 10 ngày kiểm tra phân thấy có 28/32 bê nghé sạch trứng (chiếm tỷ

lệ 87,5%), còn 4 bê nghé nhiễm vẫn ở cường độ nhẹ (+). Phác đồ 3 cho thấy,

tỷ lệ sạch trứng của bê nghé là 96,42%, chỉ có 1 nghé còn trứng giun trong

phân ở cường độ nhiễm nhẹ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

Bảng 3.15: Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy

trong các phác đồ điều trị tiêu chảy

bê lệ

Phác đồ điều trị

Số bê nghé điều trị (con) Cƣờng độ nhiễm Tỷ sạch trứng (%) Trƣớc khi dùng thuốc Số Cƣờng nghé độ nhiễm nhiễm giun đũa (con) Sau khi dùng thuốc 10 ngày Số bê nghé còn nhiễm giun đũa (con) Hiệu lực tẩy đối với giun đũa Số bê nghé sạch trứng (con)

1 39 39 0 _ 39 100

2 32 32 4 + 28 87,50

3 28 28 1 + 27 96,42

99 99 5 + 94 94,95 3 phác đồ +  +++ +  +++ +  +++ +  +++

Từ kết quả trên, có thể đánh giá được hiệu lực tẩy giun đũa của phác đồ

1 và phác đồ 3 là rất tốt, do vậy có thể khuyến cáo cho người chăn nuôi trâu

bò sinh sản sử dụng điều trị cho những bê nghé mắc tiêu chảy khi xác định

được nguyên nhân là do giun đũa Neoascaris vitulorum.

Qua 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho 99 bê nghé tiêu chảy và nhiễm

giun đũa, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 62 con, còn lại 37 bê nghé vẫn tiêu

chảy có thể do các nguyên nhân khác, trong đó có nguyên nhân do vi khuẩn.

Vì vậy chúng tôi tiếp tục điều trị cho những bê nghé còn tiêu chảy bằng các

loại thuốc kháng sinh, kết hợp với chất điện giải và vitamin C. Kết quả được

trình bày ở bảng 3.16.

Bảng 3.16: Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

Số Số Phác Tỷ con khỏi Loại thuốc đồ lệ Cách dùng và liều Thời gian điều tiêu điều trị điều khỏi lƣợng điều trị trị chảy tiêu chảy trị (%) (con) (con)

Tiêm bắp 2 lần/ngày

Colistin 0,5ml/20kg TT trong 3-5

(15mg/kg thể trọng) ngày

2-4

Pha với nước cho lần/ngày 90,4 Phác 21 19 Thuốc điện giải uống 7 trong 5 đồ 1

ngày

1 lần/ngày bắp Vitamin C trong 5 5% Tiêm 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) ngày

Tiêm bắp 1ml/20kg 2 lần/ngày

Norfacoli TT trong 3-5

(5mg/kg thể trọng) ngày

2-4

Pha với nước cho lần/ngày Phác 16 16 100 trong 5 Thuốc điện giải uống đồ 2

ngày

1 lần/ngày bắp Vitamin C trong 5 5% Tiêm 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) ngày

94,5 3 phác đồ 37 35 9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

Kết quả bảng 3.16 cho thấy:

Ở phác đồ điều trị tiêu chảy 1, chúng tôi dùng Colistin để điều trị cho

21 bê nghé còn tiêu chảy, kết quả có 19 bê nghé khỏi tiêu chảy hoàn toàn

chiếm tỷ lệ 90,47%.

Ở phác đồ 2, chúng tôi sử dụng Norfacoli điều trị cho 16 bê nghé tiêu

chảy, kết quả 100% bê nghé khỏi tiêu chảy. Như vậy, phác đồ 1 điều trị tiêu chảy cho bê nghé đạt hiệu quả 90,47%, còn 2 nghé vẫn tiêu chảy sau 5 ngày điều trị. Chúng tôi tiếp tục dùng nước sắc búp ổi cho uống với mục đích để làm se niêm mạc ruột. Sau 2 ngày kiểm tra lại thấy 2 nghé đã khỏi tiêu chảy hoàn toàn.

Từ kết quả điều trị tiêu chảy trên, chúng tôi thấy, muốn điều trị tiêu chảy hiệu quả, việc xác định đƣợc nguyên nhân chính gây tiêu chảy để điều trị là rất quan trọng, kết hợp điều trị theo sinh bệnh và triệu chứng. Trong thực tế ở những nơi vùng sâu, vùng xa, miền núi bà con không có điều kiện để chẩn đoán nguyên nhân gây tiêu chảy, thì trƣớc hết phải chú ý đến chế độ ăn uống của trâu, bò mẹ, vệ sinh chuồng trại, sử dụng thuốc kháng sinh có tác dụng đặc trị tiêu chảy nhƣ thuốc Norfacoli hoặc Colistin để điều trị. Sau vài ngày có thể dùng thuốc tẩy giun đũa cho bê nghé dƣới 3 tháng tuổi với mục đích điều trị cho những nghé bị bệnh và tẩy phòng cho những nghé mang giun đũa. Trong quá trình điều trị phải bổ sung chất điện giải và vitamin C để tăng cƣờng sức đề kháng cho con vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

ảnh 15: Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé

Ảnh 16: Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

Ảnh 17: Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. KẾT LUẬN:

1.1. Về một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3

tháng tuổi tại Tuyên Quang.

- Tỷ lệ bê nghé dưới 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh

Tuyên Quang là 21,19%, biến động từ 17,30% đến 25,83%.

- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cao nhất ở 16 - 30 ngày tuổi, sau đó giảm dần.

- Tỷ lệ tiêu chảy không có sự sai khác giữa bê nghé cái và bê nghé đực

(bê nghé cái 20,99% và bê nghé đực 21,39%).

- Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé cao nhất là mùa Xuân (23,37%), thấp nhất

là mùa Thu (17,76%).

- Tỷ lệ tiêu chảy của bê nghé theo địa hình bằng phẳng là 18,70% và

địa hình đồi núi có xen kẽ ruộng nước là 23,17%.

- Tỷ lệ tiêu chảy ở bê là 22,40% và ở nghé là 20,56%.

- Chăn nuôi trâu, bò mẹ theo phương thức chăn thả hoàn toàn thì tỷ lệ

bê nghé tiêu chảy là 26,53%, phương thức chăn nuôi trâu, bò mẹ bán chăn thả

có bổ sung thức ăn thì tỷ lệ bê nghé tiêu chảy thấp hơn (14,46%).

1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò trong hội chứng tiêu

chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi

- Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy là 51,56%, ở bê nghé bình

thường là 27,87%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

- Ở bê nghé tiêu chảy cường độ nhiễm giun đũa nặng hơn nhiều so với

bê nghé phân bình thường, (33,3% nhiễm trung bình và 52,53% bê nghé

nhiễm ở cường độ nặng), bê nghé phân bình thường không nhiễm giun đũa ở

cường độ nặng.

1.3. Ngoại cảnh bị ô nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum.

- Có 19,86% số mẫu cặn nền chuồng; 18,24% mẫu xung quanh chuồng

và 7,81% mẫu đất bề mặt bãi chăn nhiễm trứng giun đũa Neoascaris

vitulorum.

- Thời gian trứng giun phát triển ở ngoại cảnh thành trứng có sức gây

bệnh là 12,93 - 36,90 ngày, phụ thuộc vào nhiệt độ và ẩm độ không khí.

- Thời gian tồn tại của trứng giun đũa có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

cũng là 13,75 - 30,50 ngày ở trong các điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí

khác nhau.

1.4. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun đũa trên bầu vú, núm vú là

4,30%, số trứng giun đũa là 1,85 ± 0,11 trứng/vi trường, tỷ lệ thuận với tỷ lệ

bê nghé nhiễm giun đũa.

1.5. Kết quả điều trị tiêu chảy cho bê nghé.

- Sử dụng phác đồ điều trị cho bê nghé vừa tiêu chảy vừa nhiễm giun

đũa, gồm thuốc tẩy giun đũa kết hợp thuốc điện giải, vitamin C, đạt hiệu quả

khỏi là 62,6%, tỷ lệ bê nghé sạch trứng giun đũa là 94,9%.

- Điều trị tiêu chảy đợt 2 bằng kháng sinh kết hợp thuốc điện giải và

vitamin C cho những bê nghé sau đợt 1 vẫn còn tiêu chảy, cho kết quả điều trị

khỏi 94,5%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

2. ĐỀ NGHỊ:

Để hạn chế tiêu chảy cho bê nghé từ sơ sinh đến dưới 3 tháng tuổi cần

chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý tốt đàn gia súc mẹ và con, thường xuyên vệ

sinh sạch sẽ khu vực chuồng nuôi, luôn giữ khô, sạch ấm cho bê nghé, nhất là

trong những ngày đầu mới sinh và trong những ngày thời tiết thay đổi.

Khi có điều kiện cần xác định chính xác nguyên nhân gây tiêu chảy để

đưa ra phác đồ điều trị có hiệu quả và đỡ tốn kém. Việc điều trị tiêu chảy

ngoài sử dụng các loại thuốc điều trị nguyên nhân cần bổ sung thêm chất điện

giải, vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho con vật.

Tiếp tục xác định những nguyên nhân khác gây tiêu chảy cho bê nghé,

từ đó có cơ sở khoa học đầy đủ hơn để hoàn thiện quy trình phòng, trị tiêu

chảy cho bê nghé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT:

1. Vũ Triệu An (1978), Đại cương sinh lý bệnh học, Nxb Y học, Hà Nội, tr.

171-353.

2. Vương Đức Chất (1995), Khảo sát giun tròn ký sinh đường tiêu hoá của đàn bò

sữa Hà Nội, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y , Tập 2, số 1, tr. 95.

3. Vương Đức Chất (1995), “Kết quả sử dụng Benzimidazole tẩy giun sán

trâu bò vùng ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập1, (số

5).

4. Phạm Chức (1980), “Sức đề kháng của trứng các loài giun đũa đối với các

chất hoá học”, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật Thú y 1968-1978, Nxb

Nông nghiệp, tr. 339-406.

5. Lê Minh Chí (1995), Bệnh tiêu chảy ở gia súc, Bộ Nông nghiệp và công

nghiệp thực phẩm. tr. 22.

6. Tô Ngọc Đại (1953), “Những nhận định về bệnh trạng bê nghé ỉa cứt

trắng”, Tập san kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, (số 11-12).

7. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường

tiêu hoá ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 221-293.

8. Đào trọng Đạt (1996), Bệnh lợn con ỉa phân trắng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Phạm Khắc Hiếu (1997) "Một số vấn đề dược lý học đối với gia súc non",

Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tr. 71-74.

10. Phạm Khuê (1998), "Điều chỉnh nước và điện giải", Cẩm nang điều trị

nội khoa, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 73-90.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

11. Phạm Văn Khuê, Phan Trịnh Chức (1981), “Khái quát về tình hình và kết

quả điều tra giun sán trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1976 - 1980”, Tạp chí

khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp IV, (số 4), tr.195-201.

12. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội, tr. 124-127.

13. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên

(1999), Giáo trình ký sinh trùng thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 94-97.

14. Cao Thị Tuyết Lan (1996), “Bệnh giun đũa bê nghé ở thị xã Lai Châu và

biện pháp phòng trừ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số 3), tr. 66-67.

15. Phan Văn Lan, Phùng Mạnh Tường (1965), “Kết quả điều tra và chữa

bệnh bê nghé ỉa cứt trắng ở Tuyên Quang”, Tạp chí khoa học và kỹ thuật nông

nghiệp, (số 7), tr.433.

16. Phan Địch Lân, (1986), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng ở đàn bò nhập

nội", Kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nông nghiệp (1979-1984), Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 119-121.

17. Phan Địch Lân, (1993), "Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thú y

vào sản xuất, phục vụ chương trình lương thực, thực phẩm", Công trình

nghiên cứu khoa học năm 1990-1991, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

18. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng, Đoàn Văn Phúc (2005), Bệnh giun tròn

của động vật nuôi ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 84-91.

19. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1999), Bệnh ở trâu bò và biện pháp

phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 176-177.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

20. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Bệnh truyền nhiễm ở bò sữa và biện

pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 108-113.

21. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Hướng dẫn phòng trị bệnh ký sinh

trùng, bệnh nội khoa và nhiễm độc ở bò sữa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 5-

10; tr.125-131.

22. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1996), Bệnh thường thấy ở đàn bò sữa

Việt Nam và kỹ thuật phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78-85.

23. Phan Lục (1996), “Thí nghiệm phòng trị ký sinh trùng đường tiêu hoá trâu

bò bằng Dertil và Benzimidazole”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số

2), tr. 72-75.

24. Phan Lục (1993), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hoá của trâu

bò vùng đồng bằng sông Hồng và thuốc phòng trị". Kết quả nghiên cứu khoa

học, khoa chăn nuôi thú y Trường Đại học nông nghiệp I (1991-1993), Nxb

nông nghiệp, tr. 92-93.

25. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo

trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 200-210.

26. Sử An Ninh (1993), "Kết quả bước đầu tìm hiểu nhiệt độ, độ ẩm thích hợp

phòng bệnh lợn con phân trắng", Kết quả nghiên cứu khoa học, khoa chăn nuôi

thú y, Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.43-48.

27. Vũ Văn Ngũ và cs (1997), Loạn khuẩn đường ruột và tác dụng điều trị

của Colistin, Nxb Y học, Hà Nội.

28. Nguyễn Vĩnh Phước (1974), Vi sinh vật học Thú y, Nxb khoa học kỹ

thuật, tr. 57-61; 75-79.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

29. Nguyễn Bá Phụ (1992), Khoa học kỹ thuật thế giới, Tuần báo Nông

nghiệp, số 27.

30. Nguyễn Văn Sửu (2005), Nghiên cứu tình hình tiêu chảy của bê, nghé

dưới 6 tháng tuổi tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc và xác định một số yếu tố gây

bệnh của vi khuẩn Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfrigens.

Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 56.

31. Đoàn Thị Băng Tâm (1987), Bệnh động vật nuôi, Tập 1, Nxb KHKT,

tr.119-134.

32. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh

trùng ở Việt Nam, Tập 2: Giun sán ở động vật nuôi, Nxb khoa học kỹ thuật,

Hà Nội, tr. 91, 259-275.

33. Chu Đức Thắng (1997), Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá, lâm sàng trong

bệnh viêm ruột lợn con sau cai sữa, Luận án PTS khoa học Nông nghiệp, Hà

Nội, tr.10.

34. Nguyễn Văn Thiện, Vũ Ngọc Tý, Phan Văn Lan, Nguyễn Danh Kỹ

(1977), Sổ tay chăn nuôi trâu bò - Tập 1, Nxb Nông nghiệp, tr. 94-95.

35. Trịnh Văn Thịnh (1959), “Nắm vững quy luật, tích cực phòng trị bệnh

giun đũa nghé”, Tạp chí Nông lâm, (số 10).

36. Trịnh Văn Thịnh (1962), “Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris

vitulorum”, Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Hà Nội, (số 2), tr. 35.

37. Trịnh Văn Thịnh (1966), Ký sinh trùng của gia súc nuôi Việt Nam, Nxb

khoa học, Hà Nội, tr. 66-69.

38. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982),

Giáo trình ký sinh trùng Thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 137-141, 279.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

39. Dương Công Thuận, Nguyễn Văn Lốc (1986), "Tình hình nhiễm giun đũa

ở nghé Murrah và kết quả thí nghiệm phòng trị", Kết quả nghiên cứu khoa

học và kỹ thuật nông nghiệp 1979-1984, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 123-

125.

2. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

40. Akyol C.V. (1993), Epidemiological of Neoascaris vitulorum in around

Barsa, Turkey, J-Helminthol, pp. 73-77.

41. Barbosa M.A; Correa F.M.A. (1989), Natural parasitism of buffaloes in

Botucatu, Sao Paulo, Brazil. I. Observations on Toxocara vitulorum (Goeze

1782), Arquivo-Brasileiro-de-Medicina-Veterinaria-e-Zootecnia, pp.511-525.

42. Blackwell T.E. (1989), Enteritidis and diarrhoea, Veterinary climate

North American large animal pract, pp. 547-575.

43. Daniels G. (1990), Nutritional factors in the Pathogenesis of proliferative enteritis and swine dysentery, 11th IPVS congress, pp. 119-125.

44. Fairbrother J.M., Betschinger H.U., Nielsen O.N., Pohlenz J.F. (1992),

"Escherichia coli infections Diseases of Swine", Seventh edition - Wolfe

Publishing Ltd - Austrailian, pp. 489-497.

45. Gupta R.P., Yadav C.l., Ghosh J.D. (1985), Epidemiology of helminth

infection in calves of Haryana State, Agricultural-Science-Digest,-India, pp.

53-56.

46. Horchner F., Srikitijikarn L. (1987), Efficacy of a metaphylactic worming

program of buffalo calves in Thailand, Mitteilungen-der-Osterreichischen-

Gesellschaft-fur-Tropenmedizin-und-Parasitilogie, pp.173-177.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

47. Iskander A.R., Tawjeek AFarid A.F. (1987), Cryptosporidial infection among

buffalo calves in Egyp, Indian-Journal-of-Animal-Science, pp. 1057-1059.

48. Muangyai M. (1989), Parasitic diseases of buffalo calves and the control

in Thailand, Buffalo-Journal, pp. 109-120.

49. Nagy B., Fekete P.Z.S. (1985), Veterinary research Special issue, Inra

FNV, Touluose France, pp. 259-284.

50. Panday V.S., Hill F.W.G., Hensman D.G., Baragwanth L.C. (1990),

Toxocara vitulorum in beef, calves kept on effluent-irrigated pastures in

Zimbabwe, Veterinary-Parasitology, pp. 349-355.

51. Prokopic J., Sterba J. Neoascaris vitulorum a scanning electronic

microsope study (Goeze 1782), Folia-Parasitologica (1989), pp 67-69.

52. Purvis G.M., Tremblay R.R. (1985), "Diseases of the newborn",

Veterinary Mcrobiology, pp. 192-206.

53. Radostits O.M., Blood D.C., and Gay C.C. (1994), "Veterinary medicine,

the texbook of Disease the cattles, sheeps, pigs, goatls and horses" Disease

caused by Escherichia coli, disease caused by Salmonella spp, London,

Philadelphia, Sydney, Tokyo, Toronto, pp. 703-730.

54. Roberts J.A. (1989), Neoascaris vitulorum: treatment based on the

duration of the infectivity of buffalo cows (Bubalus bubalis) for their calves,

Journal-of veterinary-Pharmacolory-and-Therapeutics, pp. 5-13.

55. Roberts J.A. (1990), The life cycle of Toxocara vitulorum in Asian buffalo

(Bubalus bubalis), International-Journal-for-Parasitology, pp.833-840.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

56. Rosenberg N.J. (1974), Micromate the biological environment, New

York. pp. 125-150.

57. Sokol A., Mikula I., Sova C. (1991), "Neonatal Coli Infencie",

Laboratorina diagnostic and preventional U/OLV-Kosice.

58. Starke Wa., Machado R.Z., Bechara G.H., Zocoller M.C. (1996), Skin

hypersensitivity tests in buffaloes parasitized vith Neoascarit vitulorum, Vet-

Parasitol, Brazil, pp. 283-290.

59. Swain G.D; Misra S.C., Panda D.N. (1987), Incidence and chemotherapy

of Neoascaris vitulorum infection in Murrah buffalo calves at Bhubanneswar,

Indian-Veterinary-Journal, pp. 198-202.

60. Taira N., Fujita J. (1991), Morphological observaition of Toxocara

vitulorum found in Japanese calves, J-Vet-Med-Sci, pp. 409-413.

61. Vichitr Sukhapesna. (1982), Study of natural nematode infection in

buffalo calves, Kasetsart - Veterinary (Thailand), pp. 157-164.

62. Weinstein D.L., Casiotis M., Lissner C.H.R., Osrien A.D. (1984),

"Flagella help S.typhimurium survive within murine macrophages", Infection

and Immuniti, pp. 819-825.

63. Wen Y.L., Zhuang Z.L., Lin M.B., Pan Y.D., Gao B.Z., Wang T.J.

(1986), An epiemiologic survey of neoascaris in calves, Chinese-Journal-of-

Science-and-Technology, pp. 18-20.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

1. Đặt vấn đề. 1

2. Mục đích của đề tài. 2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 3

1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy 3

1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé 3

1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh 4

1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dƣỡng 4

1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và vi rút 5

1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đƣờng 6 ruột

1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng 7

1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 8

1.1.3.1. Bệnh lý 8

1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 10

1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 12

1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé 14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé 19

1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum 19

1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum 19

1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum 20

1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây 23 ra ở bê nghé

1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh 23

1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé 24

1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích 29

30 1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé

1.2.4. Biện pháp phòng trị bệnh 31

33

Chương 2. ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 33

2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu 33

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 33

2.1.3. Thời gian nghiên cứu 33

2.2. Vật liệu nghiên cứu 33

2.3. Nội dung nghiên cứu 34

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy 34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên

Quang

2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội 34 chứng tiêu chảy của bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi

2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun 34 Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh

2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum

34 ở chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu

bò, bê nghé

2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát

34 triển thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ở

ngoại cảnh

2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris 34 vitulorum trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh.

2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có 35 sức gây bệnh khi bú mẹ.

2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy do giun 35 đũa gây ra ở bê nghé

35 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê 35 nghé

2.4.2. Phƣơng pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris 35 vitulorum

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

100

2.4.3. Phƣơng pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorum 36 phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

2.3.4. Phƣơng pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun 37 đũa bê, nghé ở ngoại cảnh

2.4.5. Phƣơng pháp xác định sự ô nhiễm trứng Neoascaris 37 vitulorum ở ngoại cảnh

2.4.6. Phƣơng pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa 38 do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ

2.4.7. Phƣơng pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 38

2.4.8. Phƣơng pháp xử lý số liệu 40

42 Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy 42 ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang

3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên 42 Quang

3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44

3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46

3.1.4. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ 47

3.1.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49

3.1.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé) 40

3.1.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

101

bò mẹ

3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng 53 tiêu chảy của bê nghé dƣới 3 tháng tuổi

3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu 53 chảy và bê nghé bình thƣờng

3.2.2. Cƣờng độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê 55 nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng

3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun đũa 59 Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh

59 3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh

62 3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

65 3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh

3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt 68 trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ

3.4. Sử dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 72

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78

1. Kết luận 78

2. Tồn tại và đề nghị 79

2.1. Tồn tại 79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

102

2.2. Đề nghị 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

1. Tài liệu tham khảo tiếng việt 81

2. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

103

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng Trang

3.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở một số địa phƣơng 43

3.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44

3.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46

3.4. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo mùa vụ 47

3.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49

3.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê hoặc nghé) 50

3.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu bò mẹ 51

3.8. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 53

3.9. Cƣờng độ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình 55 thƣờng

3.10. Sự lƣu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở nền chuồng, 60 khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả

3.11. Thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành 62 trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh

3.12. Thời gian tồn tại của trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở

66 ngoại cảnh

3.13. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng Neoascaris vitulorum có sức gây 70 bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

104

3.14. Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé

3.15. Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy trong các phác đồ điều trị tiêu 74 chảy

3.16. Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

105

DANH MỤC CÁC ẢNH MINH HOẠ

Ảnh Trang

1. Nghé bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong 57 phân

2. Bê bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân 57

58 3. Lấy mẫu phân nghé tiêu chảy (phân màu trắng, lỏng)

4. Mẫu phân bê nghé tiêu chảy và bình thƣờng thu thập về xét 58 nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

5. Xét nghiệm phân bê nghé tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 59

6. Mẫu cặn nền chuồng, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu

đất bề mặt bãi chăn thả thu thập về xét nghiệm tìm trứng giun 61

Neoascaris vitulorum

7. Trứng giun đũa Neoascaris vitulorum mới thải ra ngoài (x 200) 64

8. Phôi bào phân chia ngày thứ 8 (x 200) 64

9. Phôi bào phân chia và co lại ở ngày thứ 10 (x 200) 65

10. Ấu trùng hình thành trong trứng ngày thứ 12 (x 300) 65

11. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngày thứ 27 (một số 68 trứng đã bị hƣ hỏng) (x 300)

12. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh đang chuyển sang hƣ 68 hỏng ở ngày thứ 30 (x 300)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

106

13. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh hỏng 68 hoàn toàn ở ngày thứ 34 (x 300)

14. Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu, bò mẹ để tìm 71 trứng giun đũa Neoascaris vitulorum

15. Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé 76

16. Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé 77

17. Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày 77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn