Bệnh viện Trung ương Huế
Y học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế - Tập 16, số 6 - năm 2024 11
Ngày nhận bài: 28/6/2024. Ngày chỉnh sửa: 24/7/2024. Chấp thuận đăng: 12/8/2024
Tác giả liên hệ: Vương Diệu Linh. Email: linhvuong88@gmail.com. ĐT: 0915927988
DOI: 10.38103/jcmhch.16.6.2 Nghiên cứu
XÁC ĐỊNH ĐẶC ĐIỂM ĐỘT BIẾN KITPDGFRA Ở BỆNH NHÂN U
MÔ ĐỆM DẠ DÀY RUỘT TẠI BỆNH VIỆN K GIAI ĐOẠN 2017 - 2022
Vương Diệu Linh1, Nguyễn Ngọc Quang1
1Trung tâm Giải phẫu bệnh và Sinh học phân tử, Bệnh viện K, Hà Nội
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: U mô đệm dạ dày ruột (GIST) là bệnh lý ác tính phổ biến xảy ra ở các cơ quan thuộc đường tiêu hóa.
Nhiều nghiên cứu về đột biến KIT/PDGFRA đã được thực hiện trên thế giới; nhưng thiếu đánh giá và bằng chứng về
vai trò của nó ở bệnh nhân GIST người Việt Nam, cũng như vai trò tiên lượng đáp ứng điều trị của các đột biến gen
gây ung thư còn chưa thống nhất. Do đó, nghiên cứu được thực hiện nhằm: Xác định tỷ lệ đột biến KIT và PDFGRA;
và mối liên quan giữa biến đổi các gen này với một số đặc điểm bệnh học lâm sàng của bệnh nhân người Việt Nam
mắc u mô đệm dạ dày ruột.
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 177 mô GIST, thu thập tại Bệnh viện K trong giai đoạn
2017-2022. Kỹ thuật Real-time PCR hoặc giải trình tự Sanger và phần mềm SPSS 20.0 được sử dụng để xác định tỷ
lệ và đánh giá tương quan đột biến gen và một số đặc điểm bệnh nhân.
Kết quả: Tỷ lệ đột biến KIT và PDGFRA trong nghiên cứu lần lượt 60.5% và 13.6%. Đột biến KIT phổ biến
khối u kích thước nhỏ hơn (p < 0,0001). Ngoài ra, khối u dạ dày có tỷ lệ đột biến KIT cao hơn đáng kể so với các vị
trí khác, trong khi đó biến đổi PDGFRA thường xuất hiện ở nhóm bệnh nhân nguy cơ thấp (p < 0,05). Đột biến KIT
PDGFRA loại trừ lẫn nhau ở bệnh nhân GIST (p < 0,0001).
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin về dấu ấn phân tử là các gen gây ung thư có vai trò trong phát
sinh, tiến triển cũng như điều trị bệnh nhân GIST ở Việt Nam.
Từ khóa: KIT, PDGFRA, u mô đệm dạ dày ruột (GIST), đặc điểm bệnh học lâm sàng.
ABSTRACT
DETECTION OF KIT/PDGFRA MUTATIONS IN GASTROINTESTINAL STROMAL TUMORS OF VIETNAMESE
PATIENTS AT K HOSPITAL FROM 2017 TO 2022
Vương Diệu Linh1, Nguyễn Ngọc Quang1
Background: A gastrointestinal stromal tumor (GIST) is a type of cancer that begins in the digestive system.
Many studies on KIT/PDGFRA alterations have been performed in many laboratories worldwide, but there is a lack of
assessment of its role in Vietnamese GIST patients, as well as the role of cancer-related gene mutations in predicting
treatment response. This study identified the prevalence of KIT and PDGFRA molecular modifications; and clarified their
correlation with clinicopathological parameters of Vietnamese GIST patients.
Methods: The mutational rate of KIT and PDGFRA were analyzed by Real-time PCR or Sanger sequencing
in 177 specimens of GIST. SPSS 20.0 software was used to the correlation between genetic abnormalities and
clinicopathological characteristics.
Results: The rate of KIT and PDGFRA mutations were 60,5% and 13,6%, respectively. KIT changes were more usual
in smaller tumor sizes (p < 0,0001). A significant association between KIT mutations together with stomach origin of tumor
Xác định đặc điểm đột biến KIT và PDGFRA ở bệnh nhân...
Bệnh viện Trung ương Huế
12 Y học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế - Tập 16, số 6 - năm 2024
position was determined, while PDGFRA alterations tend to be common in low-risk classification (p = 0,032). In addition,
KIT mutation was mutually exclusive against that of PDGFRA mutations in GIST.
Conclusions: Our results indicate the information of molecular markers that contribute to self-sufficient oncogenic
mechanisms in the carcinogenesis and treatment of Vietnamese GISTs.
Keywords: KIT, PDGFRA, gastrointestinal stromal tumors (GIST), clinicopathological characteristics.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U mô đệm dạ dày ruột (GIST) là bệnh lý ác tính
phổ biến xảy ra ở các quan thuộc đường tiêu hóa,
trong đó dạ dày chiếm ưu thế (60-70%), ruột và các
phần bên ngoài đường tiêu hóa tỷ lệ thấp hơn
[1-3]. Hiện nay, đánh giá bộc lộ các dấu ấn CD117
(Cluster of Differentiation 117), CD34 (Cluster
of Differentiation 34), S100 phẫu thuật thường
được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị GIST, mặc
dù tỷ lệ tái phát bệnh vẫn cao [4]. Do đó, sinh y học
hiện đại đặc biệt quan tâm đến các dấu ấn sinh học
khả năng dự đoán tái phát bệnh nhân GIST,
chẳng hạn như Ki67, kháng nguyên biệt hóa nhân tế
bào hay dòng chảy tế bào [1].
Đối với bệnh nhân GIST, mất đoạn exon 11
gen KIT (KIT Proto-Oncogene, Receptor Tyrosine
Kinase) chiếm ưu thế (75-80%), tiếp đến các đột
biến thêm đoạn, đột biến thay thế hay đột biến kép
[1-3]. Ngoài ra, một số đột biến hiếm được quan sát
thấy, chẳng hạn như đột biến KIT exon 8, 9, 13,
17 đột biến PDGFRA (platelet derived growth
factor receptor alpha - thụ thể yếu tố tăng trưởng
nguồn gốc từ tiểu cầu) [2]. Những trường hợp
GIST không mang biến đổi KIT và/hoặc PDGFRA
(10-15%) không thể hoạt hóa đường truyền tín hiệu
MAPK (mitogen-activated protein kinase) PI3K
(phosphoinositide-3-kinase) [2,3]. vậy, xác định
biến đổi trên những gen này vai trò quan trọng
trong điều trị cho bệnh nhân GIST.
Imatinib, thuốc ức chế KIT/PDGFRA, được
chứng minh hiệu quả trong điều trị GIST di căn
[4,5]. Đột biến KIT/PDGFRA vai trò nhất định
trong quá trình sinh bệnh học kháng thuốc ở bệnh
nhân GIST. Theo dữ liệu y văn, các loại đột biến
KIT PDGFRA thể ảnh hưởng khác nhau đến
độ nhạy với Imatinib, trong đó đặc điểm nổi bật của
liệu pháp nhắm trúng đích GISTs giảm nguy
tái phát cải thiện thời gian cũng như chất lượng
cuộc sống cho người bệnh [4]. Bên cạnh kích thích
sự hình thành khối u, những đột biến gen này không
chỉ dự đoán đáp ứng với liệu pháp nhắm mục tiêu
còn cung cấp thông tin tiên lượng. Sự thay đổi
thụ thể Tyrosine Rinase (RTK) dẫn đến tình trạng
kháng thuốc thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong
quá trình điều trị [5]. Tuy nhiên, vai trò tiên lượng
đáp ứng điều trị của các đột biến gen gây ung thư
còn chưa thống nhất. Nhiều nghiên cứu về đột biến
KIT/PDGFRA đã được thực hiện trên thế giới;
nhưng thiếu đánh giá và bằng chứng về vai trò của
bệnh nhân GIST người Việt Nam. Do đó, nhóm
nghiên cứu thực hiện đề tài với mục tiêu: (1) Xác
định tỷ lệ đột biến KIT PDFGRA; (2) Đánh giá
mối liên quan giữa biến đổi các gen này với một số
đặc điểm bệnh học lâm sàng của bệnh nhân người
Việt Nam mắc u mô đệm dạ dày ruột (GIST).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng
Mẫu đúc paraffin của 177 bệnh nhân GIST
được chẩn đoán thu thập tại Bệnh viện K trong
giai đoạn 2017 - 2022. Tiêu chuẩn chọn mẫu: Bệnh
phẩm đủ chất lượng (chứa ít nhất 30% tế bào u); còn
đủ khối nến và tiêu bản Hematoxylin & Eosin (H&E)
bộc lộ CD117. Những bệnh phẩm không đáp
ứng tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ loại khỏi nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang với cỡ mẫu tiện lợi
được tiến hành tại Bệnh viện K từ năm 2017 đến hết
năm 2022.
- Tách chiết DNA: DNA tổng số được tách chiết
từ bệnh phẩm GIST bằng Cobas® DNA Sample
Preparation Kit (Roche, Branchburg, NJ 08876,
USA). Chất lượng nồng độ DNA sau tách chiết
được đánh giá thông qua phương pháp điện di trên
Agarose 0,5% và Qubit dsDNA BR Assay Kits.
- Xác định đột biến KIT PDGFRA: Đột biến
gen được xác định bằng Real-time PCR sử dụng
GIST Mutation Detection Kit v1.7 (EntroGen, CA
91367, USA) hoặc giải trình tự Sanger. Các bước
thực hiện theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
Xác định đặc điểm đột biến KIT và PDGFRA ở bệnh nhân...
Bệnh viện Trung ương Huế
Y học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế - Tập 16, số 6 - năm 2024 13
2.3. Xử lý số liệu
Phân tích thống được thực hiện trên phần
mềm SPSS 20.0 nhằm xác định tỷ lệ đột biến KIT
PDGFRA trên mẫu GIST; đồng thời đánh giá tương
quan giữa đột biến các gen này với một số đặc điểm
bệnh học lâm sàng của bệnh nhân thông qua kiểm
định Chi-square và Fisher.
2.4. Vấn đề y đức
Đề tài được thực hiện tại Bệnh viện K tuân theo
các vấn đề y đức.
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm bệnh nhân GIST
Các đặc điểm bệnh học lâm sàng của 177 bệnh
nhân GIST được trình bày trong Bảng 1. Độ tuổi
trung bình khi được chẩn đoán 55,8 tuổi (từ 16
đến 85 tuổi). Tỷ lệ bệnh nhân nam giới nữ giới
xấp xỉ bằng nhau. Khối u kích thước nhỏ hơn 5
cm lớn hơn 10 cm chiếm phần lớn (70%). Bệnh
nhân khối u định vị dạ dày, ruột ngoài đường
tiêu hóa (thực quản, mạc treo, phúc mạc…) lần lượt
103 (58,2%), 53 (29,9%) 21 (11,9%) trường
hợp. Dựa trên phân loại nguy cơ, 75 bệnh nhân
(42,4%) nguy thấp, 19 bệnh nhân (10,7%)
nguy trung bình 83 bệnh nhân (46,9%) nguy
cao. Ngoài ra, về chỉ số phân bào, trường hợp
GIST chỉ số < 5/50 high-power fields (HPF)
chiếm ưu thế (66,7%) so với 6-10/50 HPF (15,2%)
và > 10/50 HPF (18,1%).
3.2. Tỷ lệ đột biến KIT, PDGFRA và tương quan với một số đặc điểm bệnh học lâm sàng bệnh nhân GIST
Bảng 1: Tỷ lệ đột biến KIT, PDGFRA và tương quan với một số đặc điểm
bệnh học lâm sàng bệnh nhân GIST
Đặc điểm Số lượng Gen KIT Gen PDGFRA
Đột biến (%) Giá trị p Đột biến (%) Giá trị p
177 107 (60,5) 24 (13,6)
Tuổi 0,105 0,101
> 55.8 98 54 (55,1) 17 (17,3)
< 55.8 79 53 (67,1) 7 (8,9)
Giới tính 0,266 0,817
Nam 92 52 (56,5) 13 (14,1)
Nữ 85 55 (64,7) 11 (12,9)
Kích thước u (cm) < 0,0001 0,193
<5 61 48 (78,7) 5 (8,2)
5-10 44 27 (61,4) 9 (20,5)
>10 72 32 (44,4) 10 (13,9)
Vị trí u < 0,0001 0,156
Dạ dày 103 83 (80,6) 10 (9,7)
Ruột 53 20 (37,7) 9 (17,0)
Ngoài đường tiêu hóa 21 4 (19,0) 5 (23,8)
Phân loại nguy cơ 0,096 0,032
Thấp 75 43 (57,3) 16 (21,3)
Trung bình 19 8 (42,1) 2 (10,5)
Cao 83 56 (67,5) 6 (7,2)
Xác định đặc điểm đột biến KIT và PDGFRA ở bệnh nhân...
Bệnh viện Trung ương Huế
14 Y học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế - Tập 16, số 6 - năm 2024
Đặc điểm Số lượng Gen KIT Gen PDGFRA
Đột biến (%) Giá trị p Đột biến (%) Giá trị p
Chỉ số phân bào 0,087 0,066
< 5/50 118 78 (66,1) 11 (9,3)
6 - 10/50 27 14 (51,9) 6 (22,2)
> 10/50 32 15 (46,9) 7 (21,9)
Đột biến KIT được xác định 107/177 trường hợp, đạt 60,5%. Trong đó, 97/107 (90,7%) 10/107
(9,3%) bệnh nhân lần lượt mang đột biến exon 11 và exon 9 gen KIT. Đột biến mất đoạn ở exon 11 gen KIT
chiếm ưu thế với 70,1%; còn lại là các đột biến điểm ở các vị trí axit amin 559, 560 và 576 thuộc exon 11
gen KIT. Đột biến PDGFRA xảy ra ở 13,6% (24/177) trường hợp, thuộc codon 842 của exon 18. Như vậy,
131/177 (74,0%) bệnh nhân GIST trong nghiên cứu mang đột biến KIT hoặc PDGFRA.
Kết quả phân tích tương quan giữa đột biến KIT PDGFRA với đặc điểm bệnh nhân GIST cho thấy
không mối liên hệ giữa biến đổi hai gen này với độ tuổi, giới tính chỉ số phân bào. Đặc biệt, sự
khác biệt ý nghĩa giữa đột biến KIT với kích thước khối u (p < 0,0001). Ngoài ra, đột biến KIT xu
hướng xảy ra ở dạ dày, đột biến PDGFRA có tỷ lệ xuất hiện cao hơn ở các khối u có nguy cơ thấp (p < 0,05)
(Bảng 1).
Bảng 2: Mối tương quan giữa đột biến KITPDGFRA ở bệnh nhân GIST
Gen KIT Giá trị p Gen PDGFRA Giá trị p
Đột biến Wildtype Đột biến Wildtype
Số lượng 177 107 70 24 153
Gen KIT < 0.0001
Đột biến 107 0 107
Wildtype 70 24 46
Gen PDGFRA < 0.0001
Đột biến 24 0 24
Wildtype 153 107 46
Đồng thời, khi đánh giá mối tương quan giữa các thay đổi KIT PDGFRA177 bệnh nhân, kết quả
khẳng định hai đột biến gen này loại trừ lẫn nhau ở bệnh nhân GIST người Việt Nam (p < 0,0001) (Bảng 2).
IV. BÀN LUẬN
Đột biến xảy ra exon 9, 11, 13 hoặc 17 của
gen KIT hoặc exon 12, 14 hoặc 18 của PDGFRA
những biến đổi phân tử thường gặp nhất bệnh
nhân GIST [1-3]. Khoảng 10-15% các trường
hợp GIST không mang biến đổi KIT/PDGFRA
thể mang các đột biến gen khác. Mỗi loại đột
biến sẽ chế đáp ứng khác nhau với thuốc
ức chế Tyrosine Kinase (TKI), trong đó đột biến
KIT exon 11 nhạy cảm nhất với Imatinib, ngược
lại biến đổi PDGFRA exon 18 (D842V) kháng
Imatinib [1,2].
Gen tiền ung thư KIT nằm trên nhiễm sắc thể thứ
4 của hệ gen người, bao gồm 21 exon. Đột biến KIT
hoạt hóa một số đường truyền tín hiệu, dẫn đến tăng
sinh không kiểm soát hình thành khối u. Tỷ lệ
biến đổi KIT khác nhau giữa các quần thể (dao động
21 - 92%), thay đổi KIT bệnh nhân GIST người
Việt Nam 60,5%, phù hợp với các công bố khác
[3,4]. Sự khác biệt có thể giải thích do yếu tố chủng
Xác định đặc điểm đột biến KIT và PDGFRA ở bệnh nhân...
Bệnh viện Trung ương Huế
Y học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế - Tập 16, số 6 - năm 2024 15
tộc, phương pháp xét nghiệm cũng như đặc điểm
mẫu nghiên cứu. Bất thường gen KIT và một số yếu
tố như tuổi tác, giới tính, phân loại nguy chỉ
số phân bào ngẫu nhiên; trong khi đó kích thước
và vị trí khối u biểu hiện sự khác biệt có ý nghĩa với
đột biến KIT (p < 0,05). Cho đến nay, nhiều báo cáo
chứng minh các biến đổi KIT exon 11 xu hướng
xuất hiện dạ dày, phù hợp với nghiên cứu trên
bệnh nhân người Việt Nam. Cụ thể, tỷ lệ đột biến
KIT dạ dày cao hơn đáng kể (đạt trên 80%), so
với các vị trí khối u khác, phù hợp với báo cáo của
Baskin Y và cs (2016) [4]. Ngoài ra, 10/107 trường
hợp (9,3%) có đột biến exon 9 của KIT, tương đồng
với tỷ lệ đột biến KIT exon 9 trên dữ liệu y văn (dao
động 7,2 - 10,9%) [3,4]. Nghiên cứu không phát
hiện được trường hợp nào mang bất thường ở exon
13 17 của gen KIT, đây những đột biến hiếm
gặp ở bệnh nhân GIST.
Tương tự gen KIT, gen PDGFRA cũng nằm trên
nhiễm sắc thể thứ tư, chứa 23 exon. Các thay đổi
PDGFRA thể đóng một vai trò nhất định trong
hình thành khối u GIST thường gặp những
bệnh nhân không mang đột biến KIT. Tỷ lệ đột biến
PDGFRA dao động từ 5,4 - 20,0% [4,5]. Bất thường
PDGFRA dấu ấn tiên lượng, những bệnh nhân
GIST mang đột biến PDGFRA exon 18 có nguy cơ
di căn thấp hơn những trường hợp mang đột biến
KIT. Trong nghiên cứu này, gen PDGFRA bị đột
biến với tỉ lệ 13,6% (24/177), đặc biệt biến đổi
gen KIT PDGFRA loại trừ lẫn nhau (p < 0,05).
Tất cả các đột biến PDGFRA phát hiện được đều là
đột biến D842V (thay thế axit amin axit Aspartic
thành Valine), khác biệt so với báo cáo của Rizzo
A cs (2021) Debiec-Rychter M cs (2004)
[5,6]. Thay đổi PDGFRA liên quan đáng kể với
mức độ nguy thấp (p = 0,032), không tương
đồng với các công bố trước đây cho rằng đột biến
PDGFRAxu hướng xảy ra ngẫu nhiên với yếu tố
phân loại nguy bệnh nhân GIST [4]. Kết quả
này gợi ý rằng đột biến PDGFRA thể dấu ấn
sinh học tiềm năng để dự đoán mức độ nguy cơ của
bệnh nhân GIST người Việt Nam, tuy nhiên cần mở
rộng nghiên cứu để thể đánh giá toàn diện trên
nhóm bệnh nhân Việt Nam.
Hiện nay, FDA (Food and Drug Administration)
đã phê duyệt Imatinib (chất ức chế chọn lọc
PDGFRA KIT) sử dụng trên lâm sàng [4,5].
Theo đó, đột biến KIT exon 11 đáp ứng tốt nhất
với TKIs này, đột biến KIT exon 9 ít nhạy cảm hơn
đột biến D842V exon 18 gen PDGFRA kháng
với Imatinib trong điều trị bệnh nhân GIST [3,5,7].
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các đột biến
khác trên exon 18 gen PDGFRA thể đáp ứng
tốt với liệu pháp nhắm đích này [8]. Đột biến KIT
PDGFRA đã được sử dụng rộng rãi trong tiên
lượng, điều trị, dự đoán tái phát theo dõi tình
trạng kháng thuốc của bệnh nhân GIST trên toàn
thế giới. Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về dấu ấn
KIT/PDGFRA đã được tiến hành; tuy nhiên, còn
thiếu dữ liệu, chưa thống nhất về vai trò đáp ứng
khi điều trị với KIT trên bệnh nhân GIST. Nghiên
cứu toàn diện về đột biến KITPDGFRA ở bệnh
nhân GIST người Việt Nam sẽ đặt nền tảng cho
việc điều trị nhắm đích ung thư theo hướng cá thể
hóa, mang lại hiệu quả về chất lượng cũng như thời
gian sống cho bệnh nhân.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ đột biến KIT PDGFRA trong nghiên
cứu lần lượt là 60,5% và 13,6%. Biến đổi KIT có xu
hướng xảy ra khối u kích thước nhỏ hơn (p <
0,05). Hơn nữa, đột biến KIT chủ yếu xảy ra ở khối
u vị trí dạ dày, đột biến PDGFRA thường xuất
hiện bệnh nhân GIST mức độ nguy thấp.
Đặc biệt, biến đổi KIT PDGFRA loại trừ nhau.
Nghiên cứu trạng thái phân tử gen KIT PDGFRA
cung cấp định hướng điều trị nhắm đích cho bệnh
nhân u mô đệm dạ dày ruột ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Corless CL, Barnett CM, Heinrich MC. Gastrointestinal
stromal tumours: origin and molecular oncology. Nat Rev
Cancer. 2011; 11(12): 865-78.
2. Cassier PA, Fumagalli E, Rutkowski P, Schöffski P, Van
Glabbeke M, Debiec-Rychter M, et al. Outcome of Patients
with Platelet-Derived Growth Factor Receptor Alpha–
Mutated Gastrointestinal Stromal Tumors in the Tyrosine
Kinase Inhibitor Era. Clinical Cancer Research. 2012;
18(16): 4458-64.
Xác định đặc điểm đột biến KIT và PDGFRA ở bệnh nhân...