
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.09 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 63
ghi nhận đa số, có thể lên đến 80%, trẻ động kinh sẽ được
kiểm soát tốt bằng đơn trị liệu.
Nhìn chung, các chỉ số sinh trắc của bệnh nhân trong
nghiên cứu phân bố trong giới hạn bình thường so với dân số
chung, với khoảng tứ phân vị hầu hết nằm trong khoảng 95%
bách phân vị. Tuy nhiên, đến 48,2% bệnh nhân trong nghiên
cứu có bất thường thể chất, bao gồm suy dinh dưỡng và/hoặc
thừa cân béo phì. Trẻ động kinh là một trong những đối tượng
có nguy cơ bất thường thể chất và dinh dưỡng. Tỉ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ động kinh thay đổi tùy theo vị trí địa lí, vùng quốc
gia, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở Na Uy là 10,1%, tỉ lệ này thấp hơn
nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi, điều này có thể là khác
biệt trong hệ thống y tế Việt Nam – một quốc gia đang phát
triển, so với vùng quốc gia phát triển như Na Uy [7]. Bất
thường thể chất, đặc biệt là dạng suy dinh dưỡng trong 5 năm
đầu đời có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm thần – vận
động của trẻ. Ngược lại, các bất thường phát triển vận động
và tâm thần có thể gây các khó khăn trong việc tối ưu dinh
dưỡng cho trẻ, từ đó gây nên các bất thường thể chất. Những
chiến lược đánh giá dinh dưỡng và kế hoạch dinh dưỡng cho
trẻ động kinh cũng là một hướng đi cần nhiều sự quan tâm
trong tương lai gần.
Tuy vậy, cả mốc phát triển và “dấu cờ đỏ” đều không phải
là những công cụ tầm soát tiêu chuẩn để tầm soát phát triển
của trẻ. Hiện nay, tại bệnh viện Nhi Đồng 1 (nơi chúng tôi làm
nghiên cứu), việc đánh giá phát triển tâm thần – vận động trẻ
dựa vào các công cụ tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định
rối loạn phát triển (như thang Barley) vẫn còn hạn chế. Chủ
yếu do sự thiếu thốn về nhân lực và thời gian để đánh giá,
trong khi việc phát hiện sớm và can thiệp sớm các rối loạn
phát triển là quan trọng và có giá trị cải thiện dự hậu và cải
thiện chất lượng cuộc sống cho trẻ tốt hơn. Do vậy, hầu hết
các tình huống, khi các công cụ tầm soát gợi ý một kết quả
dương tính và rối loạn phát triển nặng nề, ảnh hưởng đến các
chức năng sinh hoạt, giao tiếp và học tập của trẻ, chẩn đoán
có thể được xác lập và các can thiệp cũng thường tiến hành
ngay. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 44,6% trẻ dương
tính với 2 “dấu cờ đỏ” trở lên, 8,4% trẻ có 1 “dấu cờ đỏ”
dương tính, và 47% trẻ âm tính khi khảo sát bằng “dấu cờ đỏ”.
Tỷ lệ này khá tương đồng với nghiên cứu cộng đồng trẻ động
kinh ở Na Uy, với 42,9% trẻ động kinh có rối loạn phát triển
hoặc tâm lí – tâm thần.
Hiện nay, bước tầm soát trong đánh giá phát triển ở trẻ động
kinh tại bệnh viện Nhi Đồng 1 chưa được sử dụng rộng rãi,
nghiên cứu của chúng tôi lựa chọn bản câu hỏi ASQ-3 là công
cụ tầm soát tiêu chuẩn để khảo sát phát triển cho trẻ động kinh
nhập viện. Tỷ lệ bất thường (vùng đen) khi khảo sát bằng
ASQ-3 trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,2 %. Tỷ lệ
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn khi so sánh với tác giả Eom
S năm 2014 [8], khi tỉ lệ dương tính qua khảo sát bằng ASQ-
3 trong nghiên cứu của ông là 82%, ở những trẻ mới được
chẩn đoán động kinh tỉ lệ này là 65%, và trẻ đã được chẩn
đoán, tỉ lệ này còn cao hơn, đến 85%. Nghiên cứu của tác giả
Barton, khi khảo sát trẻ động kinh bằng ASQ-3, tỉ lệ dương
tính cũng cao hơn, 72%. Như vậy, tỉ lệ trẻ động kinh bất
thường ASQ-3 của chúng tôi có khá thấp so với các nghiên
cứu ngoài nước. Điều này có thể do sự khác biệt tiêu chuẩn
chọn vào, trong khi nghiên cứu của chúng tôi đa phần là các
trẻ chưa từng được chẩn đoán chậm phát triển và chưa can
thiệp, các nghiên cứu của tác giả Eom S chọn bao gồm các trẻ
đang được can thiệp phục hồi chức năng. Tỉ lệ trẻ có chênh
phát triển, tức là có một hoặc một vài lĩnh vực chậm hơn so
với các lĩnh vực khác trong nghiên cứu của chúng tôi là
33,7%. Đây là những trẻ có những rối loạn tinh tế hơn, khó
phát hiện hơn, nhưng là những trẻ có thể đáp ứng tốt với can
thiệp và nhận được nhiều lợi ích nhất khi được phát hiện và
can thiệp sớm. Ngoài ra có 13,3% trẻ có kết quả nằm ở vùng
xám, những trẻ này tiếp tục sẽ được theo dõi sát hơn, hoặc
đánh giá lại sau khoảng thời gian ngắn hơn. Như vậy, bản tầm
soát ASQ-3 cung cấp cho kết quả mang tính bán định lượng,
cùng với kế hoạch tiếp theo để hỗ trợ phụ huynh và nhà lâm
sàng ra quyết định theo dõi và can thiệp cho trẻ tốt hơn, cụ thể
như chuyển trẻ đến trung tâm vật lí trị liệu vận động, âm ngữ,
hoặc phòng khám tâm lí Nhi để tầm soát tự kỉ, tăng động kém
chú ý.
Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên áp dụng
chiến lược theo dõi và sàng lọc phát triển bằng công cụ tiêu
chuẩn theo đúng khuyến cáo của AAP. Mặc dù còn ít bằng
chứng sử dụng công cụ ASQ-3 cho dân số động kinh, tại Việt
Nam, ASQ-3 vẫn là một công cụ được chuẩn hóa tốt và được
nhiều Hiệp hội Nhi khoa lớn trên thế giới khuyến cáo sử dụng.
Nghiên cứu đã bước đầu mô tả các đặc điểm bất thường phát
triển tâm vận ở 5 lĩnh vực ở trẻ động kinh, bao gồm cả tỷ lệ
trẻ chậm phát triển toàn thể nghiêm trọng và tỷ lệ đáng kể trẻ
chỉ bất thường ở một hoặc vài lĩnh vực, cũng như các trẻ có
điểm số ở vùng xám cần theo dõi sát. Những trẻ này sẽ hưởng
lợi nhiều nhất từ việc phát hiện và can thiệp sớm.